Transcript

0

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

MÔN NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG

Chủ đề thảo luận:

Các vấn đề liên quan đến thương vụ „Ngân hàng Nhà nước mua lại

Ngân hàng TMCP Xây dựng với giá 0 đồng‟.

Giảng viên: Phan Đại Thích

Nhóm SV thực hiện: Nhóm 9- Lớp Ca3_thứ3

Hà Nội- 2015

1 Dương Thị Hương Giang

2 Phạm Thanh Tùng

3 Hoàng Hữu Chính

4 Nguyễn Thị Ngọc Anh

5 Lương Thị Uyên

6 Hoàng Văn Khánh

7 Trần Nhật Minh

1

LỜI MỞ ĐẦU

Hệ thống Ngân hàng được ví như mạch máu của nền kinh tế. Từ năm 2011, do nền

kinh tế gặp khó khăn, hệ thống Ngân hàng kéo theo đó cũng bị ảnh hưởng lớn, mhiều ngân

hàng hoạt động đứng trước nguy cơ đổ vỡ. Vì vậy, Chính phủ đã phê duyệt phương án tái cơ

cấu hệ thống Tổ chức tín dụng nhằm đảm bảo sự ổn định để phát triển, giao cho Ngân hàng

Nhà nước là cơ quan giám sát thực hiện. Trong giai đoạn 2011-2014, đề án đã mở ra đợt

thay máu lớn trong hệ thống và trải qua 3 năm thực hiện tái cơ cấu lần thứ ba theo đề án

254 này, đến thời điểm hiện tại, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã đạt được nhiều thành

công. Thanh khoản của các ngân hàng thương mại được củng cố, tạo lòng tin đối với người

gửi tiền. Việc xử lý nợ xấu, xử lý sở hữu chéo, lung đoạn đã có dấu hiệu tích cực. Năm

2015 là năm cuối cùng của giai đoạn tái cấu trúc Ngân hàng theo đề án 254. Việc tái cơ cấu

được triển khai quyết liệt, đúng lộ trình. Và sự kiện lớn nhất đầu năm 2015, mở ra một năm

về đích quyết liệt của đề án tái cơ cấu đó là: Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành

quyết định số 249/QĐ-NHNN mua bắt buộc toàn bộ 100% cổ phần của Ngân hàng TMCP

xây dựng Việt Nam với giá 0 đồng/cổ phiếu, chấm dứt toàn bộ quyền, lợi ích và tư cách cổ

đông của các cổ đông hiện hữu của Ngân hàng Thương mại CP xây dựng Việt Nam.

Để đi sâu hơn và tìm hiểu kỹ về sự kiện thương vụ trên, chúng em xin phép nghiên

cứu về đề tài thảo luận : Các vấn đề liên quan đến thương vụ „Ngân hàng Nhà nước mua lại

Ngân hàng TMCP Xây dựng với giá 0 đồng”.

Do kiến thức và nguồn số liệu còn hạn hẹp nên trong quá trình thảo luận nghiên cứu

của chúng em còn gặp nhiều sai sót, hạn chế. Chúng em mong có được nhiều sự góp ý của

thầy cùng toàn thể các bạn để hoàn thiện đề tài hơn !

2

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................................................... 1

1. Bối cảnh chung .......................................................................................................................................... 2

2. Sơ lược về Ngân hàng Xây dựng (VNCB) .............................................................................................. 3

3. Thương vụ mua lại VNCB của NHNN với giá 0 đồng ........................................................................... 5

3.1 Diễn biến và kết quả ........................................................................................................................... 5

3.2 Nguyên nhân dẫn đến việc VNCB bị mua lại bởi NHNN ................................................................... 7

3.3 Lý do NHNN thực hiện mua lại ........................................................................................................ 10

a) Cơ sở ................................................................................................................................................. 10

b) Thực tiễn các nước khác ................................................................................................................... 11

4. Tác động từ thương vụ mua ngân hàng VNCB với giá 0 đồng........................................................... 12

4.1 Đối với VNCB ................................................................................................................................... 12

4.2 Đối với NHNN .................................................................................................................................. 14

4.3 Đối với hệ thống Ngân hàng ............................................................................................................. 15

KẾT LUẬN ...................................................................................................................................................... 15

1. Bối cảnh chung

Cách đây 3 năm, ngày 1-3-2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số

254/QĐ-TTg phê duyệt đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015

(gọi tắt là Đề án 254). Tuy nhiên, đây không phải là lần đầu chúng ta tiến hành tái cơ cấu

ngân hàng mà trong 15 năm qua, hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam đã 3 lần tái cơ cấu,

lần nào cũng thành công nhưng đều phải chịu những mất mát, hy sinh nhất định. Lần thứ

nhất sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (1998-2003). Lần thứ hai (từ 2005 đến 2008)

gắn với giai đoạn Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Thực hiện Đề

án 254 là lần tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thứ ba của Việt Nam.

Bối cảnh của tái cơ cấu lần thứ ba là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, suy

thoái kinh tế toàn cầu năm 2008-2009 lan rộng. Nhiều ngân hàng Mỹ có lịch sử hàng trăm

năm hoạt động cũng sụp đổ. Trong nước, hậu quả của một thời kỳ phát triển “bong bóng”

bất động sản, chứng khoán và tín dụng những năm 2005-2007 để lại, đã dồn tích lên vai các

ngân hàng thương mại mà biểu hiện rõ nét là rủi ro tín dụng tiềm ẩn cao, nợ xấu liên quan

3

đến bất động sản tăng nhanh. Tình trạng sở hữu chéo, đầu tư chéo, thành lập công ty “sân

sau”, cho vay vượt quá khả năng nguồn vốn cả về khối lượng và cơ cấu thời hạn đã tới mức

báo động. Trước tình hình đó, ngay từ cuối năm 2011, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước

Nguyễn Văn Bình, sau khi nhậm chức đã đặt ngay nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách xuyên suốt

của toàn ngành phải tập trung tái cơ cấu toàn diện lại hệ thống các ngân hàng thương mại,

kể cả các tổ chức tín dụng nhỏ, đồng thời thiết lập một trật tự kỷ cương trong quản lý và

điều hành thị trường tiền tệ.

Trong giai đoạn 2011-2015, Chính phủ phê duyệt đề án thì có danh sách 9 ngân hàng

phải tái cơ cấu gồm Habubank, SCB, TinNghiaBank, Ficombank, TPBank, TrustBank,

Navibank, Western Bank và GP.Bank. Tính đến hiện tại, Ngân hàng Sài Gòn (SCB), Ngân

hàng Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank) và Ngân hàng Đệ Nhất (Ficombank) đã hợp nhất

thành SCB và kết quả hoạt động của năm 2014 được cho là khá khả quan. Ngân hàng Nam

Việt (Navibank), sau khi tự cơ cấu lại đã đổi tên thành Ngân hàng Quốc dân (NCB). Tương

tự Nam Việt, Ngân hàng Tiên Phong (TienPhongBank) và Đại Tín (TrustBank) cũng chọn

cách tự tái cơ cấu thông qua việc tăng mạnh vốn điều lệ từ các cổ đông. Ngoài ra, Ngân

hàng Nhà Hà Nội (Habubank) đã sáp nhập vào Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHB). Bên

cạnh đó, Ngân hàng Phương Tây (Western Bank) cũng đã tiến hành hợp nhất với Tổng công

ty Tài chính Cổ phần Dầu khí (PVFC).

Có thể thấy, trong những năm trước, 2 con đường tái cơ cấu của các ngân hàng đó là

(1) tiến hành hợp nhất, sáp nhập (2) tăng vốn điều lệ từ các cổ đông. Thế nhưng đầu năm

2015, lần đầu tiên NHNN tham gia tái cơ cấu một ngân hàng thương mại bằng cách tham

gia góp vốn mua cổ phần. Với việc bị quốc hữu hóa, VNCB là ngân hàng thương mại thứ

hai trên thị trường được Nhà nước sở hữu 100% vốn, sau Agribank.

2. Sơ lược về Ngân hàng Xây dựng (VNCB)

Năm 1989, VNCB được thành lập với tên gọi khai sinh là Ngân hàng TMCP nông

thôn Rạch Kiến theo Quyết định số 1114/UB.QÐ ngày 21-7-1989 của UBND tỉnh Long An

và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1 tháng 9 năm 1989. Thời điểm thành lập, Ngân

hàng đối mặt với nhiều khó khăn trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi từ kinh tế

4

hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Chính phủ. Bằng sự nỗ lực,

Ngân hàng đã vượt qua giai đọan khủng hoảng hệ thống tín dụng vào đầu những năm 1990.

Ngày 29 tháng 12 năm 1993, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp giấy phép số

0047/NH-GP về việc chấp thuận cho Ngân hàng TMCP nông thôn Rạch Kiến thành lập và

hoạt động.

Giai đoạn từ năm 1990 đến 1999, Ngân hàng ổn định hoạt động, bước đầu có sự tăng

trưởng qua từng năm.

Giai đoạn từ năm 1999 đến 2005: Ngân hàng giữ vững các chỉ tiêu tăng trưởng đều

đặn qua từng năm.

Ngày 17/08/2007, theo quyết định số 1931/QĐ-NHNN, VNCB được Thống

đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc chuyển đổi mô hình hoạt động thành Ngân hàng

thương mại cổ phần đô thị với tên gọi là Ngân hàng TMCP Đại Tín (TrustBank). Năm 2007

cũng đánh giá giai đoạn phát triển chóng mặt của ngân hàng này. So với khi mới thành lập,

tổng tài sản của TrustBank khi đó tăng gấp năm lần, từ hơn 243 tỷ đồng lên hơn 1.142 tỷ

đồng; vốn điều lệ tăng gấp bảy lần, từ 70 tỷ đồng lên hơn 504 tỷ đồng; lợi nhuận tăng gấp

bảy lần, từ hơn 4,5 tỷ đồng lên hơn 32 tỷ đồng...

Giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2010: Giai đoạn Ngân hàng TMCP Đại Tín tăng

trưởng với tốc độ nhanh và ổn định. Đến 31/12/2010 vốn điều lệ Ngân hàng đạt 3.000 tỷ

đồng, tổng tài sản đạt 19.762 tỷ đồng; tăng hơn 300% so với năm 2009; mạng lưới hoạt

động tăng thêm 42 điểm so với năm 2009, đạt 103 điểm trên cả nước. Cũng trong năm 2010,

TrustBank lọt vào Top 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam và đứng thứ 30 trong

Top 500 doanh nghiệp tăng trưởng nhanh nhất Việt Nam.

Tính đến cuối năm 2011, tổng tài sản của TrustBank đạt 28.000 tỷ đồng, tăng 3.111

lần so với ngày đầu thành lập. Lợi nhuận trước thuế của TrustBank đến cuối năm 2011 đạt

550 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm là 152%. Từ năm 2011, do ảnh hưởng

bởi suy thoái kinh tế, ngân hàng rơi vào khó khăn, phải tái cơ cấu theo yêu cầu của Chính

5

phủ, là 1 trong 9 ngân hàng trong đề án 254, và đã tái cơ cấu thành công với sự xuất hiện

của nhóm cổ đông mới vào cuối năm 2012.

Tháng 05/2013, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành quyết định số

1161/QĐ-NHNN về việc thay đổi tên gọi của Ngân hàng TMCP Đại Tín, theo đó, tên gọi

mới chính thức là Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam (Tên viết tắt tiếng Việt và tiếng

Anh là Ngân hàng xây dựng Việt Nam và Vietnam Construction Bank- VNCB) với chiến

lược phát triển đáp ứng nhu cầu thiết thực của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của ngành

xây dựng nói riêng. Theo đó, Ngân hàng Xây dựng Việt Nam là ngân hàng đa năng, tập

trung hoạt động theo hướng cung cấp các dịch vụ ngân hàng đặc thù đến các khách hàng

doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng, xây dựng

nhà ở xã hội, nhà trả chậm... Đồng thời, ngân hàng cũng triển khai thực hiện theo các chủ

trương của Chính phủ tại các nghị quyết 01/NQ-CP và 02/NQ-CP trong việc đồng hành

cùng các doanh nghiệp bất động sản, xây dựng, tháo gỡ khó khăn, giải phóng hàng hóa tồn

đọng, hỗ trợ sự phát triển của thị trường...Qua đó, ông Phan Thành Mai, Tổng thư ký Hiệp

hội bất động sản Việt Nam được giới thiệu với vai trò là phó tổng giám đốc thường trực

Ngân hàng, tuy nhiên những thành viên HĐQT của Ngân hàng Xây dựng không được công

bố công khai trên website ngân hàng này như những nhà băng khác vẫn làm. VNCB ra đời

đứng đằng sau là một tập đoàn xây dựng và một nhóm cổ đông bất động sản và từ đầu tháng

2-2013 tập đoàn Thiên Thanh - cổ đông mới - đã chính thức tiếp quản VNCB. Đồng thời,

ngày 26/12/2013, VNCB có bố cáo chính thức nâng vốn điều lệ thành công từ 3000 tỷ lên

7.500 tỷ đồng.

Trong năm 2014, VNCB đã có nhiều bước đi táo bạo trong kinh doanh dẫn đến sự

âm vốn và vụ bê bối về các nhân sự cấp cao bị truy tố đã khiến ngân hàng này nhanh chóng

rơi vào diện kiểm soát đặc biệt của NHNN. Cho đến đầu tháng 3/2015, ngân hàng này đã

chính thức bị NHNN mua lại với giá 0 đồng/ 1 cổ phần.

3. Thương vụ mua lại VNCB của NHNN với giá 0 đồng

3.1 Diễn biến và kết quả

6

Ngày 2/2/2015, Ngân hàng Nhà nước phát đi thông báo về việc xử lý đặc biệt đối với

Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xây dựng Việt Nam (VNCB). Thông cáo cho biết, ngày

31/1/2015, đại hội đồng cổ đông bất thường VNCB đã được tổ chức tại Long An để thông

báo công khai về kết quả kiểm toán độc lập về thực trạng tài chính, giá trị thực và vốn điều

lệ của ngân hàng, và thông qua phương án bổ sung vốn điều lệ theo quy định của pháp luật.

Đại hội đồng cổ đông quyết nghị không thông qua phương án bổ sung vốn điều lệ để đảm

bảo giá trị thực vốn điều lệ tối thiểu của ngân hàng bằng mức vốn pháp định. Với tổn thất tài

chính nặng nề, trong khi VNCB không có các giải pháp tái cơ cấu khả thi theo yêu cầu của

Ngân hàng Nhà nước, do vậy mà căn cứ Luật Các tổ chức tín dụng, Quyết định số

48/2013/QĐ-TTg ngày 1/8/2013 về việc góp vốn, mua cổ phần bắt buộc của tổ chức tín

dụng được kiểm soát đặc biệt và nghị quyết của đại hội đồng cổ đông VNCB, Ngân hàng

Nhà nước đã tuyên bố quyết định sẽ mua lại bắt buộc toàn bộ vốn cổ phần của VNCB với

giá bằng 0 đồng/cổ phần. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước trở thành chủ sở hữu (100% vốn

điều lệ) của VNCB, chấm dứt toàn bộ quyền, lợi ích và tư cách cổ đông đối với các cổ đông

hiện hữu của ngân hàng này.

Ngày 5/3/2015, Ngân hàng Nhà nước công bố quyết định chuyển đổi Ngân hàng cổ

phần Xây dựng (VNCB) sang mô hình mới, ngân hàng trách nhiệm hữu hạn một thành viên

do Nhà nước làm chủ sở hữu. Đây là bước tiếp theo sau khi Ngân hàng Nhà nước mua lại

với giá 0 đồng và trở thành chủ sở hữu (100% vốn điều lệ) của nhà băng, chấm dứt toàn bộ

quyền, lợi ích và tư cách cổ đông đối với các cổ đông hiện hữu. Vốn điều lệ của VNCB

được Ngân hàng Nhà nước công bố là 3.000 tỷ đồng - mức tối thiểu theo quy định hiện hành.

Thực tế là, mức vốn điều lệ 7.500 tỷ đồng mà VNCB tăng lên từ 3.000 tỷ đồng từ ngày

26/12/2013 đã không còn tồn tại và mức 3.000 tỷ đồng vừa công bố là mức vốn điều lệ mới,

sau khi Ngân hàng Nhà nước trở thành chủ sở hữu và “bơm” vốn vào.

Bên cạnh công bố quyết định chuyển đổi mô hình VNCB, NHNN cũng bổ nhiệm cơ

cấu nhân sự quản trị điều hành ngân hàng này, cụ thể là: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

(Vietcombank) tiếp tục được chỉ định tham gia quản trị, điều hành VNCB. Ông Nguyễn Văn

Tuân, Phó tổng giám đốc Vietcombank, được bổ nhiệm giữ chức Chủ tịch Hội đồng Thành

viên VNCB; ông Đàm Minh Đức được bổ nhiệm làm thành viên Hội đồng Thành viên, kiêm

7

Tổng giám đốc VNCB. Ngoài ra, một số nhân sự của Vietcombank cũng được bổ nhiệm các

chức vụ trong Hội đồng Thành viên, Ban Tổng giám đốc, Ban Kiểm soát ngân hàng vừa

chuyển đổi này.

Sau khi tiếp quản VNCB, Ngân hàng Nhà nước sẽ phối hợp với các cơ quan liên

quan triển khai phương án tái cơ cấu xử lý những tồn tại, yếu kém đã được Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt, đồng thời triển khai các giải pháp phát triển Ngân hàng Thương mại TNHH

MTV Xây dựng Việt Nam hoạt động an toàn, đúng pháp luật, cũng theo định hướng nêu

trong thông cáo. Và Phó thống đốc Nguyễn Phước Thanh cho biết, Ngân hàng Nhà nước có

kế hoạch hỗ trợ vốn cho VNCB, dự tính cần 40.000 tỷ đồng cho quá trình trở lại hoạt động

bình thường. Một phần nhu cầu vốn trên được Ngân hàng Nhà nước “bơm” qua tái cấp vốn,

một phần VNCB sẽ bán nợ cho VAMC.

3.2 Nguyên nhân dẫn đến việc VNCB bị mua lại bởi NHNN

Trong thông cáo của NHNN về việc mua lại VNCB có nêu rằng : hoạt động của

VNCB bộc lộ nhiều yếu kém, việc quản trị, điều hành ngân hàng vi phạm nghiêm trọng quy

định của pháp luật. Vậy thực tế thì hoạt động của VNCB như thế nào trong thời gian qua để

dẫn tới tình trạng thất thoát vốn?

Đầu năm 2013, Tập đoàn Thiên Thanh chính thức tham gia tái cơ cấu ngân hàng

TMCP Đại Tín (tên cũ của Ngân hàng Xây dựng), với việc doanh nghiệp này sở hữu 9,67%

vốn của VNCB đồng thời chủ tịch Thiên Thanh là chủ tịch của VNCB. Sau khi tăng vốn

điều lệ từ 3000 tỷ lên 7500 tỷ thành công ở cuối năm 2013, đến năm 2014 thì VNCB đã đưa

ra các chiến lược kinh doanh mới chuyển mình hướng đến mục tiêu ưu tiên phát triển hệ

thống sản phẩm, dịch vụ, phục vụ nhóm ngành nghề đặc thù là ngành xây dựng. Tháng

3/2014, VNCB chủ trì xây dựng chương trình liên kết 4 nhà trị giá 50.000 tỷ đồng nhằm hỗ

trợ thị trường bất động sản. Gói 50.000 tỷ mà (VNCB) cùng công ty Thiên thanh đưa ra vấp

phải nhiều sự hoài nghi, khi Thiên Thanh và VNCB do cùng một người là ông Phạm Công

Danh là chủ tịch. Khi mà trong 2 năm vừa qua Trust Bank ngân hàng trong diện yếu kém

được chuyễn đổi thành VNCB không báo cáo doanh thu của ngân hàng là dấy lên dư luận về

chuyện không được minh bạch và có gì ẩn khuất trong gói 50000 tỷ đồng? Ngoài ra, trên thị

8

trường những năm trước đó cũng có những thông tin rằng ngân hàng VNCB bị âm vốn chủ

sở hữu tức là khoản nợ của VNCB lớn hơn rất nhiều so với vốn chủ. Cho đến ngày

29/7/2014, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã công bố quyết định khởi tố vụ án, khởi

tố bị can và bắt tạm giam bị can đối với: ông Phạm Công Danh, Chủ tịch Hội đồng thành

viên Công ty trách nhiệm hữu hạn Tập đoàn Thiên Thanh, ông Phan Thành Mai, nguyên

thành viên Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc Thiên Thanh, ông Mai Hữu Khương, nguyên

thành viên Hội đồng quản trị, phụ trách Tài chính Tập đoàn Thiên Thanh. Những nhân vật

này đều tham gia Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam (VNCB), trong đó, ông Phạm

Công Danh là Chủ tịch Ngân hàng VNCB còn ông Phan Thành Mai là Tổng Giám đốc ngân

hàng này. Đây là vụ án cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả

nghiêm trọng theo điều 165 Bộ luật Hình sự, xảy ra tại Công ty TNHH Tập đoàn Thiên

Thanh. Hoạt động sai phạm của họ lại không diễn ra tại VNCB, mà đi vay mượn sai trái tại

các tổ chức tín dụng khác.

Ngày 5/12/2014, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Bộ Công an khởi tố bị can thêm 6 đối

tượng bị xác định là đồng phạm của ông Phạm Công Danh, trong đó có Hoàng Đình Quyết

nguyên Phó giám đốc phụ trách VNCB Chi nhánh Sài Gòn, kiêm Giám đốc VNCB Chi

nhánh Lam Giang và Nguyễn Quốc Viễn nguyên Trưởng Ban kiểm soát VNCB. Ngoài tội

“cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, 2 bị

can này còn bị khởi tố về tội “vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức

tín dụng”. Do đó, ngân hàng này lại rơi vào diện kiểm soát đặc biệt của NHNN và phải nhờ

tới sự “trợ giúp” từ Vietcombank. Tuy không có thông tin chính xác là VNCB bị âm vốn

bao nhiêu song tình trạng bị âm vốn này chắc chắn và VNCB có nguy cơ phá sản nếu

không được bổ sung vốn. Để giải quyết vấn đề này, VNCB đã tổ chức họp ĐHCĐ bất

thường song quyết định không thông qua phương án bổ sung vốn điều lệ tại ĐHCĐ của

Ngân hàng đã khiến NHNN phải can thiệp.

Giải thích về nguyên nhân VNCB âm vốn dẫn tới nguy cơ phá sản dựa trên lý

thuyết ( Tham khảo bài viết về VNCB của tác giả: Lê Hồng Giang –

Nguồn: kinhtetaichinh.blogspot.com)

9

Để giải thích về vụ của VNCB cũng như hoạt động của 1 ngân hàng thương mại thì

có thể xem xét một ví dụ đơn giản về bảng cân đối của ngân hàng. Giả sử rằng, khi bắt đầu

hoạt động, Ngân hàng X có vốn tự có là 10 tỷ, huy động thêm được 90 tỷ từ khách hàng gửi

tiền thì tổng số bên Nguồn vốn của X là 100 tỷ. Cũng giả sử rằng NHNN không yêu cầu

mức dự trữ bắt buộc nên X cho vay hết 100 tỷ. Lúc này, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu = VTC/

Tổng TS có rủi ro = 10/100 = 10% > 9 % đảm bảo tuân thủ theo yêu cầu của NHNN ( Điều

9 Thông tư 36)

Song, vì một lý do nào đó mà một khoản cho vay trị giá 1 tỷ trở thành nợ xấu ( không

nhất thiết bị mất hoàn toàn mà chỉ cần khả năng thu hồi nợ là khó) thì NH X phải công bố số

nợ xấu đó và trích lập dự phòng ghi âm bên cột Tài sản. Nghĩa là Tài sản lúc này chỉ còn 99

tỷ, do đó Nguồn vốn giảm tương ứng 1 tỷ và giảm vào phần Vốn tự có ( tức chỉ còn 9 tỷ).

Khi đó tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu = 9/99 = 9.09% vẫn lớn hơn tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu

theo quy định. Do đó, NH vẫn được phép hoạt động nhưng tất nhiên giá trị cổ phiếu của

ngân hàng nếu được giao dịch trên thị trường sẽ giảm. Tất cả các cổ đông đều phải chịu

chung số lỗ 1 tỷ đó.

Nhưng, bây giờ khoản nợ xấu lên tới 5 tỷ, tính giống như trên ta sẽ có tỷ lệ an toàn

vốn = 5/95 = 5% không đáp ứng theo quy định. Trường hợp này, NHNN sẽ yêu cầu ngân

hàng X nâng tỷ lệ an toàn vốn lên tối thiểu bằng 9% tức là (i) huy động thêm 3,55 tỷ vốn

điều lệ, (2) giảm bớt tài sản có rủi ro xuống 62,5 tỷ. Với cách (i) thì sẽ làm giảm cổ phần

của các cổ đông hiện hữu trừ khi họ bỏ thêm tiền của họ, do vậy có thể giảm/mất quyền

kiểm soát ngân hàng và phải chia sẻ lợi nhuận trong tương lai còn cách (ii) khó thực hiện

trên thực tế.

Ở trường hợp của VNCB có thể thấy rằng VNCB có nợ xấu tệ hơn rất nhiều và cách

bán hết tài sản cũng không đủ để trả lại 90 tỷ tiền gửi của khách hàng ( như trong ví dụ) và

cách (i) cũng không khả thi bởi các nhà đầu tư chẳng dại gì bỏ ra một số tiền hơn 10 tỷ để

mua một ngân hàng có giá trị thấp hơn con số đó, mà đó là tính theo giá trị sổ sách, giá thị

trường còn thấp hơn nữa. Có thể hiểu tại sao các cổ đông hiện hữu của VNCB không chịu

bỏ thêm tiền vào ngân hàng để tăng vốn tự có lên đủ yêu cầu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu và

dẫn tới phương án phá sản, đồng thời NHNN phải can thiệp.

10

3.3 Lý do NHNN thực hiện mua lại

a) Cơ sở

Việc NHNN mua cổ phần của VNCB bắt buộc với giá 0 đồng có thể ngầm rằng Ngân

hàng xây dựng không còn vốn điều lệ, thậm chí vốn điều lệ âm mặc dù chưa có báo cáo

chính xác nào được công bố. Nguyên nhân vốn điều lệ không còn do kinh doanh kém nợ

xấu lớn hơn vốn điều lệ, nếu đúng quy luật thị trường ngân hàng phải giải thể, phá sản, tuy

nhiên nếu như vậy quyền lợi của khách hàng những người ký gửi tiền tại VNCB sẽ ảnh

hưởng nghiêm trọng. Do vậy, Ngân hàng nhà nước quyết định mua lại cổ phần VNCB để

tránh tình huống xấu nhất đó là sự tác động dây chuyền của ngành và khủng hoảng từ phía

người gửi tiền.

“Thà mất tiền (Nhà nước chi trả) để có sự bình ổn trong xã hội sẽ tốt hơn nếu tuyên

bố ngân hàng phá sản, người dân mất tiền sẽ dẫn đến mất niềm tin mất, rồi gây bất ổn xã hội

và nhiều hệ lụy khác. Do đó, NHNN đang và sẽ tiếp tục chọn phương án trên đối với ngân

hàng thương mại”- Phó thống đốc khẳng định. Cũng theo một số suy đoán của các chuyên

gia kinh tế việc NHNN dự tính đến phương án mua lại các ngân hàng yếu kém nói trên với

mức giá 0 đồng là do các cơ quan chủ quản sợ rằng nếu để cho 2 ngân hàng này phá sản thì

sẽ châm ngòi nổ cho một làn sóng hoảng loạn rút tiền của khách hàng và gây ra sự đổ vỡ

cho các ngân hàng lành mạnh khác. Cũng có cùng quan điểm trên, chuyên gia kinh tế

Nguyễn Trí Hiếu nhìn nhận việc Ngân hàng Nhà nước đứng ra mua cổ phần ngân hàng với

giá 0 đồng sẽ giúp lòng tin của người dân đối với hệ thống ngân hàng được củng cố khi mà

những ngân hàng yếu kém bị xử lý quyết liệt.

Không chỉ có T.S Hiếu, nhiều chuyên gia ngân hàng cho biết, trên thực tế, với tình

trạng mất hết vốn chủ sở hữu như VNCB, có thể nói ngân hàng này đã ở trong trạng thái phá

sản về mặt kỹ thật. Do đó quyết định “quốc hữu hóa” VNCB của NHNN là hoàn toàn sáng

suốt nhằm đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền, không gây bất ổn tới hệ thống.

Bên cạnh đó, tại sao giá mua bắt buộc cổ phần của VNCB lại là 0 đồng mà

không phải là một con số nào khác? Tuy Quyết định 48 không có điều khoản nào đề cập

đến chuyện xác định giá mua bắt buộc cổ phần mà NHNN phải trả cho các cổ đông hiện

11

hữu của ngân hàng bị kiểm soát đặc biệt, nhưng Điều 5 của Quyết định này trao quyền cho

Thống đốc NHNN quyết định giá trị thực của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ của ngân hàng

đó. Trường hợp sau khi có kết quả kiểm toán độc lập và Thống đốc NHNN quyết định rằng

giá trị thực của vốn điều lệ của VNCB đã tụt giảm xuống 0 (không còn giá trị), kết hợp với

tính chất mua bắt buộc thì việc NHNN mua cổ phần của VNCB với giá 0 đồng/cổ phần là

hoàn toàn đúng luật và không có gì là bất công cho cổ đông hiện hữu của VNCB. Còn nếu

có ai đó sẵn sàng mua cổ phần VNCB với giá cao hơn thì, với quyết định mua bắt buộc của

NHNN căn cứ Quyết định 48, các cổ đông VNCB cũng không được quyền bán cho họ, và

chỉ có NHNN được mua với giá mà NHNN xác định là hợp lý. Đồng thời, trước khi chính

thức bị mua lại cũng như tổ chức ĐHĐCĐ, VNCB đã bị đặt vào diện kiểm soát đặc biệt nên

nhất cử nhất động của ngân hàng đều phải được sự giám sát và đồng ý của NHNN.

b) Thực tiễn các nước khác

Việc quốc hữu hóa một ngân hàng cũng không còn xa lạ trên bản đồ tài chính thế

giới. Indonesia và Trung Quốc, nền kinh tế khá tương đồng với Việt Nam, cũng gặp phải

vấn đề nợ xấu thập kỷ 1990s, và đã khá thành công bằng việc mạnh tay đóng cửa các tổ

chức tài chính vừa và nhỏ mất khả năng thanh toán; tái cấp vốn trực tiếp cho các NHTM

Nhà nước bên cạnh việc thành lập các công ty quản lý tài sản, phát hành trái phiếu Chính

phủ đặc biệt. Việc NHTM bị mất khả năng thanh toán đã bị đóng cửa, đây là yếu tố thay đổi

quan điểm “tổ chức tài chính sẽ không bao giờ đổ vỡ” ở Trung Quốc.

Nhật Bản, một nền tài chính phát triển cao, cũng phải thực hiện quốc hữu hóa và

buộc sáp nhập một loạt các ngân hàng cho tới tận năm 1998. Cuối năm 1998, Nhật đã tiến

hành quốc hữu hóa 2 ngân hàng lớn là Long-Term Credit và Nippon Credit. Trong khoảng

từ 2001 tới 2003, một số ngân hàng đã được hợp nhất với nhau thành 5 ngân hàng lớn hơn

gồm: Mizuho Financial Group, Sumitomo Mitsui Financial Group, Mitsubishi Tokyo

Financial Group, UFJ Holdings, Resona Holdings. Ngoài ra chi phí cho cả quá trình tái cơ

cấu và xử lý nợ xấu của Nhật lên tới 101,96 nghìn tỷ yên, chiếm 19,87% GDP năm 2007

của Nhật. Tuy nhiên, tỷ lệ này thấp nếu so với các quá trình tái cơ cấu ở các nước châu Âu

(khoảng 40%).

12

Trường hợp mua lại một tổ chức tài chính nổi tiếng nhất có lẽ là vụ Chính phủ Mỹ

mua lại Fannie Mae và Freddie Mac, những định chế nắm giữ gần một nửa các khoản tín

dụng thế chấp bằng bất động sản của nước này. Ngày 7/9/2008, Chính phủ chấp thuận bỏ ra

200 tỷ đô la để cứu nợ bằng cách mua lại cổ phần của Fannie Mae và Freddie Mac. Mặc dù

đó mới chỉ là bước khởi đầu của cuộc khủng hoảng tài chính toàn diện, dẫn tới sự sụp đổ

của ngân hàng đầu tư Lehmans Brother một tuần sau đó. Quyết định đặt Fannie Mae và

Freddie Mac dưới quyền quản trị của Chính phủ đảm bảo thu chi cân bằng và an toàn cho

hoạt động tín dụng. Nhờ đó mà thị trường địa ốc của Mỹ, nơi Fannie Mae và Freddie Mac là

hai người khổng lồ, không bị sụp đổ với hậu quả không ai lường trước.

4. Tác động từ thương vụ mua ngân hàng VNCB với giá 0 đồng

4.1 Đối với VNCB

- Đối với các cổ đông của VNCB:

Thống đốc NHNN quyết định mua bắt buộc toàn bộ cổ phần của Ngân hàng TMCP

Xây dựng Việt Nam với giá 0 đồng/1 cổ phần.Đồng thời, trong quyết định này nêu rõ toàn

bộ quyền, lợi ích và tư cách cổ đông của các cổ đông hiện hữu của VNCB bị chấm dứt từ

ngày 5/3/2015. Theo đó, trước khi NHNN mua lại toàn bộ cổ phần, ngân hàng Xây dựng

hiện đang có 551 cổ đông, trong đó 6 cổ đông pháp nhân và 545 cổ đông thể nhân. Các cổ

đông pháp nhân gồm 3 cổ đông thuộc Khối văn phòng Nhà nước; 1 cổ đông là TCTD đó là

13

Ngân hàng Agribank và 1 cổ đông là doanh nghiệp nhà nước là Công ty lương thực Long

An thì nay chủ sở hữu duy nhất của VNCB là NHNN.

Có những ý kiến trái chiều cho rằng việc làm này không giữ được quyền lợi cho các

cổ đông. Tuy nhiên thực tế rõ ràng các cổ đông không phải ở thế bị động cho đến lúc áp

dụng biện pháp hành chính. Đại hội cổ đông cũng đã chủ động quyết định việc không tiếp

tục duy trì quyền và nghĩa vụ của cổ đông ở ngân hàng này bằng nghị quyết không góp vốn

bổ sung. Ngoài ra, cổ đông của VNCB bỗng chốc trắng tay cũng là một câu hỏi tại sao. Giải

thích điều này có một số ý kiến cho rằng thực tế thì số tiền đầu tư của cổ đông vào VNCB

đã mất toàn bộ, thậm chí còn phải gánh chịu một khoản nợ; việc NHNN bắt buộc chấm dứt

tư cách cổ đông với 551 cổ đông này là chịu thay nợ và cổ đông vẫn còn được hưởng lợi do

không phải gánh chịu khoản nợ còn lại nữa.

Mặt khác, thực tế một số nguyên tắc xử lý tổ chức tài chính trên thế giới còn cho rằng,

những trái chủ cũng buộc phải chia sẻ thiệt hại chứ không riêng cổ đông vì chính họ đã lựa

chọn đầu tư vào tổ chức yếu kém. Chính cơ chế và tổ chức quản trị yếu kém tại VNCB đã

dẫn đến tình trạng hiện tại của Ngân hàng và các cổ đông là những người chịu trách nhiệm

cuối cùng.

- Đối với khách hàng gửi tiền tại VNCB:

Thay vì để phá sản, các khách hàng gửi tiền tại VNCB sẽ được hưởng bảo hiểm tiền

gửi tối đa là 50 triệu thì việc NHNN mua lại VNCB giá 0 đồng giúp cho các khoản tiền gửi

của khách hàng tại VNCB vẫn được đảm bảo số lượng, ổn định tâm lý người gửi tiền và

lòng tin vào hệ thống ngân hàng.

- Tổ chức, hoạt động của VNCB sau khi NHNN mua lại

VNCB được chuyển đổi từ hình thức CTCP thành công ty TNHH MTV do Nhà nước

làm chủ sở hữu với vốn điều lệ của Ngân hàng này là 3.000 tỷ đồng. Do chỉ đổi chủ nên các

hoạt động của VNCB vẫn diễn ra bình thường, người lao động vẫn được tiếp tục làm việc,

các điểm, chi nhánh vẫn tiếp tục hoạt động. NHNN cũng đã có những bước đi đầu tiên trong

quá trình vực dậy ngân hàng này khi đưa Vietcombank tham gia quản trị, điều hành VNCB

14

nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai phương án tái cơ cấu ngân hàng này. Ngoài

ra, chắc chắn điều lệ hoạt động của ngân hàng cũng sẽ được sửa đổi, bổ sung phù hợp với

quy định của pháp luật.

4.2 Đối với NHNN

Kể từ khi tuyên bố mua lại ngân hàng này với giá 0 đồng, NHNN chịu toàn bộ trách

nhiệm với người gửi tiền, đồng thời phải khắc phục các tồn tại, lấp đầy các khoản lỗ cũng

như bổ sung đầy đủ số vốn điều lệ theo quy định. Để thực hiện mua lại VNCB, mặc dù gọi

là mua với giá “0 đồng”, nhưng NHNN phải bỏ ra khoản tiền rất lớn 40 000 tỷ đồng để hỗ

trợ, đưa ngân hàng này hoạt động trở lại bình thường.

Khi tiếp nhận VNCB nói riêng và các NH yếu kém khác đồng nghĩa với việc NHNN

phải ôm một khoản nợ xấu lớn, rất khó xử lý và nguy cơ mất vốn là cực cao. Theo các

chuyên gia, không hề dễ dàng để phục hồi một ngân hàng mà vốn chủ sở hữu âm, tức đã phá

sản về mặt kỹ thuật, phát triển đến một giai đoạn hưng thịnh, bắt đầu có lãi nhằm trả lại

những chi phí cũng như vốn điều lệ cho Nhà nước. Do đó việc tái cấu trúc VNCB sẽ mất

một thời gian khá dài

Đây chỉ là biện pháp tạm thời, do tính hiệu quả của nó chưa thực sự rõ ràng nên Ngân

hàng Nhà nước cần cân nhắc. Vấn đề của ngân hàng yếu kém là họ cho vay quá nhiều, nợ

xấu quá cao. Một khi Ngân hàng Nhà nước đứng ra mua lại cũng không giải quyết tận gốc

được những vấn đề này trừ khi Chính phủ gom tất cả tài sản xấu về và xóa khỏi sổ sách

Trách nhiệm của NHNN: Sau khi tiếp quản Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam,

NHNN sẽ phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai phương án tái cơ cấu xử lý những

tồn tại, yếu kém đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đồng thời triển khai các giải pháp

phát triển Ngân hàng TM TNHH MTV Xây dựng Việt Nam hoạt động an toàn, đúng pháp

luật.

Việc ngân hàng nhà nước mua lại ngân hàng xây dựng cho thấy NHNN bắt đầu có ý

thức vận hành theo quy luật kinh tế thị trường. Việt Nam chưa có tiền lệ nhưng một số nền

kinh tế cũng từng xảy ra chuyện mua lại một ngân hàng cổ phần.Điều này cũng cho thấy sự

15

hội nhập, tiến gần hơn đến cách làm của thế giới. Sau khi mua lại VNCB, NHNN đã chỉ đạo

Ngân hàng TMCP Ngoại thương tham gia quản trị, điều hành giúp ngân hàng này hoạt động

an toàn, hiệu quả hơn.

4.3 Đối với hệ thống Ngân hàng

Giải pháp NHNN mua lại VNCB với giá 0 đồng/cổ phiếu đem lại lợi ích to lớn nhất

đó là sự ổn định cho hệ thống ngân hàng và đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền ở

VNCB. Thương vụ là một bước ngoặt lớn phù hợp và cần thiết trong công cuộc tái cấu trúc

hệ thống ngân hàng.Trong giai đoạn 2012- 2014, NHNN đã để cho các ngân hàng tự tái cấu

trúc, tự tìm đối tác cho mua bán sáp nhập. Tuy nhiên năm 2015 là năm đầu tiên NHNN mua

lại toàn bộ ngân hàng VNCB đang trong tình trạng dẫn tới phá sản và giao cho Ngân hàng

TMCP ngoại thương tham gia quản trị.

NHNN sẽ có thể mua lại các ngân hàng như đã mua lại VNCB với giá cổ phiếu là 0

đồng. Không chỉ VNCB mà còn một số ngân hàng khác được xử lý như vậy thời gian tới. Sẽ

có nhiều ngân hàng hợp nhất, sáp nhập. Các ngân hàng đang “khỏe mạnh” cũng có thể sáp

nhập để tạo ra ngân hàng có quy mô hơn, hoạt động tốt hơn.

KẾT LUẬN

Đối chiếu tiền lệ xử lý khủng hoảng và tái cơ cấu hệ thống tài chính trên thế giới với

hoàn cảnh thực tiễn tại Việt Nam, việc mua lại VNCB của NHNN được coi là một bước đi

đúng đắn và tự tin. Tuy nhiên cũng cần phải nói thêm rằng, theo Quyết định 48 của Thủ

tướng, NHNN không chỉ có quyền lợi mà còn phải có trách nhiệm khi xử lý các TCTD kiểm

soát đặc biệt. Điều 9 quyết định này chỉ rằng: “Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm:

a) Thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước;

b) Chỉ đạo việc xây dựng, phê duyệt và giám sát việc triển khai Phương án cơ cấu lại tổ

chức tín dụng được tham gia góp vốn, mua cổ phần”.

Như vậy công việc sắp tới của NHNN vẫn còn nhiều, trong đó có việc khả năng chỉ

định một Ngân hàng tiếp quản VNCB, thực hiện đúng quyền của NHNN là chỉ định tổ chức

tín dụng khác góp vốn, mua cổ phần bắt buộc tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt.

16

Thương vụ NHNN mua lại ngân hàng VNCB với giá 0 đồng thực sự là bước đầu tiên

báo hiệu một cuộc tái cấu trức hệ thống ngân hàng đồng bộ hơn, toàn diện, quyết liệt và

mạnh mẽ hơn. Mặc dù NHNN phải kế thừa trách nhiệm đối với người gửi tiền đồng nghĩa

với việc ôm một khoản nợ xấu, rất khó xử lý và nguy cơ mất vốn là cực cao và cần một

khoản chi phí rất lớn và thời gian rất dài cho việc tái cấu trúc nhà băng, nhưng bù lại thì có

thể đem lại sự ổn định cho hệ thống ngân hàng, tạo thêm lòng tin đối với người dân, khách

hàng gửi tiền, hạn chế gây ảnh hưởng đến chính trị và xã hội.

Và có thể thấy rằng xung quanh thương vụ này vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều nên-

hay không nên mua lại, song không thể phủ nhận rằng bước đi của NHNN đã giúp thị

trường tránh một cú sốc lớn có thể dẫn tới những hệ quả khó có thể kiểm soát.

Một số tài liệu tham khảo:

http://www.bvsc.com.vn/News/2015214/338038/7-khuc-mac-quanh-viec-quoc-huu-

hoa-vncb.aspx

http://www.thesaigontimes.vn/126640/So-0-khong-tron-trinh-o-VNCB.html

http://vneconomy.vn/tai-chinh/bat-dau-bom-von-va-hua-gui-tien-cho-vncb-

20150306093748947.htm

http://vneconomy.vn/tai-chinh/xu-ly-vncb-la-tien-le-the-nao-

20150209021542618.htm


Top Related