HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG
ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO
HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
TỈNH TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2015
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
HÀ NỘI - 2018
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG
ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO
HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
TỈNH TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2015
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Mã số: 62 22 03 15
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. NGUYỄN DANH TIÊN
2. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Thu Hương
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI 8
1.1. Những công trình khoa học liên quan đến đề tài luận án 8
1.2. Nội dung những công trình khoa học liên quan đến luận án đã
giải quyết và những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu 23
Chương 2: QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO
HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH TỪ NĂM 1997
ĐẾN NĂM 2005 26
2.1. Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên
đối với hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh 26
2.2. Chủ trương và quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên chỉ đạo hoạt động
của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh 41
Chương 3: ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2015 61
3.1. Chủ trương của Đảng và Đảng bộ tỉnh Hưng Yên về công tác phụ nữ
và hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ 61
3.2. Đảng bộ tỉnh Hưng Yên chỉ đạo hoạt động của Hội Liên hiệp
Phụ nữ tỉnh 81
Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 110
4.1. Một số nhận xét 110
4.2. Một số kinh nghiệm 134
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 171
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCH : Ban Chấp hành
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
LHPN : Liên hiệp Phụ nữ
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi ra đời đến nay, Đảng đã lớn mạnh không ngừng về chính trị,
tư tưởng và tổ chức để có thể đảm đương xuất sắc sứ mệnh lãnh đạo cách
mạng và lãnh đạo các tổ chức, đoàn thể quần chúng trong hệ thống chính trị
của đất nước.
Bước vào thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH, HĐH) và hội nhập quốc tế, việc nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với các tổ chức chính trị xã hội nói chung, Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) nói
riêng, trở thành vấn đề quan trọng, là một trong những trọng tâm của công tác
lãnh đạo của Đảng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hội LHPN Việt Nam đã trưởng thành và lớn
mạnh, tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ Việt Nam, đại diện, bảo vệ quyền
bình đẳng, dân chủ, hợp pháp, chính đáng của phụ nữ; tham gia quản lý nhà
nước, xây dựng Đảng; đoàn kết, vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ thực
hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hội LHPN Việt Nam thực sự trở thành cầu nối giữa
Đảng với các tầng lớp phụ nữ, góp phần đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho Đảng,
Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, tích cực tham gia các hoạt động của phụ
nữ quốc tế và tranh thủ sự ủng hộ to lớn của phụ nữ Quốc tế đối với phụ nữ
Việt Nam...
Hưng Yên là một tỉnh ở vị trí trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, là tỉnh giàu
truyền thống văn hiến cách mạng, trên mảnh đất ‘‘địa linh nhân kiệt’’ này, đã
sản sinh ra nhiều danh nhân nổi tiếng. Chính nơi đây là quê hương của phong
trào ‘‘Nữ du kích Hoàng Ngân’’ trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Năm
1997, sau ngày tái lập tỉnh, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, cùng sự nỗ lực
của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và toàn thể nhân dân trong tỉnh,
2
Hưng Yên đã phát huy tối đa mọi nguồn lực để tạo thành sức mạnh tổng hợp
vượt qua mọi khó khăn, giành được những thành tựu quan trọng trong phát
triển kinh tế - xã hội. Nguồn vốn đầu tư trong nước, nước ngoài và hoạt động
sản xuất công nghiệp tăng vượt bậc. Kinh tế nông nghiệp từng bước chuyển
dịch theo hướng sản xuất hàng hóa và xuất khẩu; đời sống nhân dân không
ngừng được nâng lên. Hoạt động thương mại, dịch vụ ngày càng khởi sắc, tiềm
năng du lịch được chú trọng đầu tư và khai thác có hiệu quả... Góp phần vào sự
phát triển chung của tỉnh, không thể không nói đến vai trò của Hội Liên hiệp
Phụ nữ tỉnh Hưng Yên và các tầng lớp phụ nữ trong Tỉnh.
Từ sau ngày tái lập Tỉnh, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên luôn coi trọng quán
triệt, vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo các
đoàn thể quần chúng, trong đó có Hội LHPN Tỉnh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
bộ Tỉnh và Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, hoạt động của Hội
LHPN tỉnh Hưng Yên luôn được chú trọng và đã đạt được những kết quả đáng
khích lệ. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của Hội
LHPN tỉnh vẫn còn một số hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và truyền
thống của Tỉnh. Những tồn tại, hạn chế, cần được nghiên cứu, tổng kết để rút
kinh nghiệm cho hoạt động của Hội trong thời gian tiếp theo.
Nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo hoạt động
của Hội LHPN tỉnh từ năm 1997 (là năm tái lập tỉnh) đến năm 2015 (năm
kết thúc nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII), nhằm làm rõ vai trò
to lớn của các tầng lớp phụ nữ trong xây dựng quê hương xứ nhãn, góp
phần giúp Đảng bộ Tỉnh tổng kết công tác vận động quần chúng trong tình
hình mới; từng bước đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ đối với hệ
thống chính trị trong Tỉnh nói chung, các đoàn thể chính trị xã hội và Hội
LHPN nói riêng. Qua đó, góp phần đánh giá thực trạng tổ chức, bộ máy
Hội LHPN và hoạt động của phụ nữ tỉnh Hưng Yên dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ Tỉnh từ sau khi tái lập Tỉnh (1997), trải qua các kỳ Đại hội (Đại hội
3
XIV, nhiệm kỳ 1997 - 2000; Đại hội XV, nhiệm kỳ 2000 - 2005; Đại hội XVI,
nhiệm kỳ 2005 - 2010; Đại hội XVII, nhiệm kỳ 2010 - 2015); đúc kết một số
kinh nghiệm, góp phần đưa phong trào phụ nữ tỉnh Hưng Yên phát triển vững
mạnh, ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước và hội nhập quốc tế.
Với ý nghĩa đó, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề: “Đảng bộ tỉnh
Hưng Yên lãnh đạo hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh từ năm 1997
đến năm 2015” làm đề tài Luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo hoạt động của
Hội LHPN tỉnh từ năm 1997 đến năm 2015. Trên cơ sở đó, đúc kết một số kinh
nghiệm từ thực tiễn quá trình lãnh đạo Hội LHPN tỉnh của Đảng bộ tỉnh Hưng
Yên, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Hội LHPN tỉnh
trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành mục đích đề ra, Luận án tập trung nghiên cứu những
vấn đề:
- Làm rõ những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng
Yên đối với hoạt động của Hội LHPN tỉnh.
- Trình bày có hệ thống các quan điểm của Đảng và chủ trương của Đảng
bộ tỉnh Hưng Yên về công tác phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN tỉnh.
- Phân tích, làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên, chỉ đạo hoạt động
của Hội LHPN tỉnh từ năm 1997 đến năm 2015.
- Đưa ra những nhận xét, đánh giá khách quan về ưu điểm, hạn chế và
bước đầu đúc kết một số kinh nghiệm qua thực tiễn quá trình Đảng bộ tỉnh
Hưng Yên lãnh đạo hoạt động của Hội LHPN tỉnh, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
4
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu chủ trương và quá trình Đảng bộ tỉnh
Hưng Yên lãnh đạo hoạt động của Hội LHPN tỉnh từ năm 1997 đến năm 2015.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận án nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh
đạo hoạt động của Hội LHPN trên các phương diện:
- Phân tích quan điểm của Đảng và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hưng
Yên về công tác phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN.
- Quá trình Đảng bộ Hưng Yên chỉ đạo hoạt động của Hội LHPN tỉnh
trên các mặt:
+ Nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính
quyền đối với Hội LHPN.
+ Xây dựng, phát triển tổ chức Hội: Xây dựng bộ máy, đội ngũ cán bộ
Hội và phát triển hội viên.
+ Chỉ đạo Hội LHPN tỉnh, trực tiếp là hội viên phụ nữ tham gia phát
triển kinh tế - xã hội.
+ Nâng cao chất lượng tuyên truyền, kiểm tra, giám sát và sơ kết, tổng
kết việc thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ Tỉnh về xây dựng tổ chức Hội.
+ Đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước
Về thời gian: Luận án nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên
lãnh đạo hoạt động Hội LHPN tỉnh từ năm 1997 (là năm tái lập tỉnh) đến
năm 2015 (năm kết thúc nhiệm kỳ XVII). Tuy nhiên, để đảm bảo tính logic,
khoa học, luận án mở rộng thời gian nghiên cứu trước năm 1997 và sau
năm 2015.
Về không gian: Luận án nghiên cứu trong phạm vi tỉnh Hưng Yên, gồm
thành phố Hưng Yên và các huyện: Văn Lâm, Mỹ Hào, Yên Mỹ, Khoái Châu,
Văn Giang, Phù Cừ, Tiên Lữ, Ân Thi, Kim Động.
5
4. Cơ sở lí luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng về vai trò của phụ nữ và
công tác vận động phụ nữ.
4.2. Nguồn tài liệu
Nguồn tài liệu chủ yếu sử dụng cho Luận án gồm:
Các văn kiện của Đảng, Nhà nước, Chính phủ về phụ nữ và công tác
phụ nữ; những văn kiện của Trung ương Hội LHPN Việt Nam; nghị quyết, chỉ
thị, chương trình, kế hoạch của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
tỉnh Hưng Yên; nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, báo cáo của Hội LHPN tỉnh
Hưng Yên.
Các công trình khoa học liên quan đến đề tài luận án.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic là chủ yếu.
Bên cạnh đó là các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê; so sánh; điều
tra, phỏng vấn các nhân chứng lịch sử để hoàn thành mục tiêu mà luận án đề ra.
+ Phương pháp lịch sử được sử dụng chủ yếu trong chương 2 và
chương 3 để phân kỳ thời gian; làm rõ hoàn cảnh lịch sử; trình bày có hệ
thống chủ trương, quan điểm của Đảng và Đảng bộ tỉnh cũng như quá trình
Đảng bộ tỉnh Hưng Yên chỉ hoạt động của Hội LHPN tỉnh.
+ Phương pháp logic được sử dụng trong chương 2 và chương 3 để xâu
chuỗi các sự kiện lịch sử, liên kết các nội dung đó để làm rõ sự phát triển về
nhận thức và quá trình hoàn thiện chủ trương của Đảng và Đảng bộ tỉnh Hưng
Yên về hoạt động của Hội LHPN tỉnh. Trong chương 4, phương pháp logic
được sử dụng chủ yếu để khái quát những ưu điểm, hạn chế và rút ra những
kinh nghiệm qua thực tiễn quá trình Đảng bộ lãnh đạo Hội LHPN tỉnh từ 1997
đến 2015.
6
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này dùng để phân
tích, tổng hợp những quan điểm, chủ trương của Đảng và Đảng bộ tỉnh
Hưng Yên về công tác phụ nữ; đồng thời phân tích, tổng hợp những hoạt
động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh đối với những hoạt động của Hội
LHPN tỉnh.
+ Phương pháp thống kê được dùng để thống kê những số liệu về các
hoạt động cụ thể của Hội LHPN tỉnh.
+ Phương pháp đối chiếu để làm rõ sự phát triển về chủ trương cũng như
sự phát triển trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đối
với các hoạt động của Hội LHPN tỉnh.
+ Phương pháp điều tra phỏng vấn được dùng để đánh giá tác động của
hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh đối với hoạt động của Hội LHPN
và phong trào phụ nữ Tỉnh trong giai đoạn 1997 - 2015.
5. Đóng góp mới của Luận án
Một là, tổng quan những nội dung cơ bản của những công trình nghiên
cứu liên quan đến đề tài luận án, trên cơ sở đó, khái quát những kết quả đạt
được, chỉ rõ những vấn đề mà luận án tiếp tục nghiên cứu.
Hai là, làm rõ những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
Hưng Yên đối với hoạt động của Hội LHPN tỉnh trong những năm 1997-2015
trên các khía cạnh: quan điểm, chủ trương của Đảng; điều kiện tự nhiên, kinh
tế - xã hội, thực trạng hoạt động Hội LHPN tỉnh trước năm 1997.
Ba là, phân tích những quan điểm, chủ trương của Đảng và Đảng bộ
tỉnh Hưng Yên về công tác vận động phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN.
Bốn là, góp phần làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên chỉ đạo
Hội LHPN tỉnh từ năm 1997 đến năm 2015 qua 2 giai đoạn 1997-2005 và
2005-2015 trên phương diện: Xây dựng tổ chức, bộ máy cán bộ và hoạt động
của Hội LHPN tỉnh.
7
Năm là, luận án đưa ra một số nhận xét về những ưu điểm, hạn chế và
phân tích nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế; đúc kết một số kinh nghiệm
lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đối với hoạt động của Hội LHPN tỉnh.
Sáu là, luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng
dạy lịch sử địa phương.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình đã công bố của tác
giả liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án gồm 4 chương, 8 tiết.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Phụ nữ và công tác phụ nữ là một trong những vấn đề nhận được sự quan
tâm của nhiều nhà khoa học. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu
liên quan đến vấn đề phụ nữ được công bố dưới các hình thức như: sách, bài
viết trên tạp chí, kỷ yếu hội thảo khoa học, đề tài nghiên cứu khoa học, luận án
tiến sỹ… Có thể khái quát thành những nhóm công trình chủ yếu:
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu chung về phụ nữ và vai trò của
phụ nữ
Công trình khoa học: Tiếp tục tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong
đời sống chính trị của đất nước của Nguyễn Thị Thanh Hòa [56]; Phát huy hơn
nữa vai trò của phụ nữ trong tham gia quản lý Nhà nước của Nguyễn Thị Bình
[26]; Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong phát triển kinh tế - xã hội, tham gia
quản lý Nhà nước và định hướng phát triển đến năm 2000 của Trương Mỹ Hoa
[49]; Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng Phụ nữ và xây dựng đội ngũ cán bộ
nữ của Nguyễn Thị Mão [126]...
Những công trình trên đã khẳng định vị trí của phụ nữ Việt Nam đối với
sự nghiệp cách mạng của dân tộc, đặc biệt là vị trí, vai trò, tầm quan trọng của
phụ nữ trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cuốn sách Hai mươi năm một chặng đường phát triển của phụ nữ Việt
Nam 1975 - 1995 của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam [58]. Cuốn sách nêu bật
hoạt động của Hội LHPN Việt Nam từ sau ngày giải phóng miền Nam thống
nhất đất nước, đến những năm tiến hành sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã
hội chủ nghĩa (XHCN). Qua đó, khẳng định những đóng góp của phụ nữ Việt
Nam trong tiến trình phát triển của đất nước, dự báo những bước đi tiếp theo để
phụ nữ Việt Nam hòa nhập, tiến vào thế kỷ XXI.
Cuốn Những chặng đường đã qua của Lê Chân Phương [146]. Tác phẩm
tái hiện lại những kỷ niệm sâu sắc nhất về những chặng đường hoạt động cách
9
mạng gắn bó với đồng chí, đồng bào trong những năm kháng chiến gian khổ
với mong muốn góp phần nhỏ bé vào kho tàng đấu tranh cách mạng của phụ nữ
và nhân dân ta trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng một nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, gắn với sự nghiệp
giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng nam nữ dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ kính yêu.
Công trình: Phụ nữ Việt Nam bước vào thế kỷ XXI của Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam [60]. Thông qua việc nghiên cứu có hệ thống và toàn diện vai trò
của người phụ nữ Việt Nam trong tiến trình lịch sử phát triển đất nước, từ khi
có Đảng đến những năm đầu thế kỷ XXI, công trình đã đánh giá đầy đủ, sâu
sắc hơn vai trò của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, đặc biệt là trong 15 năm đổi mới (1986-2001). Khẳng định bước trưởng
thành của phụ nữ Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, gia đình,
xã hội, góp phần nâng cao vị trí, vai trò của phụ nữ Việt Nam trong thiên niên
kỷ mới.
Gắn liền vấn đề phụ nữ với nghiên cứu về giới, cuốn sách: Phụ nữ, giới
và phát triển của Trần Thị Vân Anh, Lê Ngọc Hùng [1] đã cung cấp hệ thống
những quan điểm, phạm trù, khái niệm, phương pháp và các vấn đề cơ bản
dưới góc độ phụ nữ học. Đồng thời, các tác giả cũng phân tích các chính sách
xã hội đối với phụ nữ, làm luận cứ khoa học cho việc thực hiện nguyên tắc
công bằng xã hội và bình đẳng giới, trong điều kiện kinh tế thị trường, định
hướng XHCN ở Việt Nam.
Cuốn sách Tham gia xây dựng chính sách, pháp luật về bình đẳng giới
của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam [69]. Cuốn sách đã trang bị những kiến
thức, kỹ năng, nghiệp vụ công tác hội cho cán bộ Hội các cấp sử dụng, trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ tham gia xây dựng chính sách, pháp luật về bình
đẳng giới.
Cuốn sách: Sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất
nước của Dương Thị Xuân [185], đã trình bày quan điểm của Đảng và Nhà
nước vì sự tiến bộ của phụ nữ; đồng thời, nêu lên những kết quả hoạt động của
10
phụ nữ trên nhiều lĩnh vực, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Tác giả khẳng
định, phụ nữ Việt Nam không chỉ có vị trí, vai trò trong nước, mà còn có vị thế
quan trọng trên trường quốc tế.
Bài viết: Công tác tuyên truyền của Đảng nhằm nâng cao vai trò của
phụ nữ trong phát triển kinh tế tri thức của Lê Lục [125], đã phân tích vai trò
đặc biệt quan trọng của phụ nữ trong nền kinh tế tri thức. Tác giả nhấn mạnh
việc nâng cao nhận thức và vai trò của các cấp ủy Đảng, chính quyền về vai trò
của phụ nữ trong xã hội là một trong những giải pháp then chốt để thực hiện
mục tiêu bình đẳng giới trong thời kỳ đổi mới đất nước.
Cuốn sách Gia đình, phụ nữ Việt Nam với dân số, văn hóa và sự phát
triển bền vững của Lê Thi [151], tác giả đưa ra những chuẩn mực người phụ nữ
Việt Nam thời hiện đại và nêu ra những suy nghĩ về công, dung, ngôn, hạnh từ
xưa đến nay. Những phẩm chất đó được coi như cẩm nang để phụ nữ thời kỳ
mới dựa trên tiêu trí đó để phấn đấu, rèn luyện.
Cuốn sách Gia đình Việt Nam và vai trò của phụ nữ trong giai đoạn hiện
nay của Dương Thị Minh [131], đã phân tích, làm rõ những nhân tố cơ bản tác
động đến sự biến đổi của gia đình; đặc điểm cơ bản của gia đình Việt Nam và
xu hướng biến đổi vai trò của phụ nữ; đồng thời, đưa ra các giải pháp để xây
dựng gia đình ấm no, hạnh phúc nhằm phát huy vai trò của người phụ nữ Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
Ban Tổ chức Trung ương, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài:
Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong hệ thống chính trị [21]. Kết
quả nghiên cứu đề tài đã góp phần làm sáng tỏ những luận cứ khoa học về việc
nâng cao vị trí, vai trò, năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ; đồng thời, đề xuất giải
pháp tăng cường sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ trong hệ thống bộ
máy Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể nhân dân trong tình hình mới.
Cuốn sách Phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và công
cuộc đổi mới đất nước của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam [66], làm rõ vai trò
của người phụ nữ Việt Nam trong tiến trình lịch sử cách mạng dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam gần 80 năm (1930-2007). Đồng thời, nêu bật
11
những quan điểm thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với phụ nữ và phong trào phụ nữ; đề cao và khẳng định vai trò, vị trí
và sức mạnh to lớn của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng. Qua việc
nghiên cứu những đóng góp của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc và 20 năm đổi mới đất nước, công trình khẳng định sự đúng đắn trong
chủ trương và quá trình lãnh đạo của Đảng đối với công tác phụ nữ; đồng thời,
nêu bật sự nỗ lực, những đóng góp to lớn của các tầng lớp phụ nữ, phong trào
phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Phan Thanh Khôi, Đỗ Thị Thạch, Những vấn đề giới từ lịch sử đến hiện
đại [121], đã nghiên cứu vấn đề giới từ nhiều cách tiếp cận, trong các tác phẩm
kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh đến vấn đề giới
trong đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; vấn đề giới
trong một số thông tin phương tiện đại chúng và trong sách giáo khoa. Đây là
một công trình nghiên cứu tương đối đầy đủ đến vấn đề giới. Đó cũng chính là
căn cứ lý luận và thực tiễn về thực trạng về giới ở nước ta hiện nay.
Bài viết: Hoạt động và đóng góp của phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Nguyễn Thị Thanh Hòa [51]. Bài viết
đã nêu bật vai trò của phụ nữ trong thời kỳ đổi mới, gắn mọi hoạt động của phụ
nữ với thi đua yêu nước, không ngừng phát huy sức mạnh, sự chủ động, sáng
tạo trên mọi lĩnh vực.
Công trình nghiên cứu: Nghiên cứu gia đình, thế giới thời kỳ đổi mới của
Nguyễn Hữu Minh, Trần Thị Vân Anh [132], tập trung nghiên cứu về gia đình
trong bối cảnh mới, đặc biệt đề cập đến vấn đề phụ nữ Việt Nam và việc tham
gia vào công tác chính trị, việc làm và lao động nữ thời kỳ đổi mới.
Bài viết của Nguyễn Thị Thanh Hòa, Nâng cao vị thế của phụ nữ Việt
Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa [52]. Xuất phát từ
quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về vai trò của phụ
nữ Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, tác giả khẳng định vai trò
của phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và trách nhiệm của Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam. Tác giả đề nghị Bộ chính trị và Ban Bí thư tiếp tục quan
12
tâm chỉ đạo hoạt động của Hội LHPN các cấp, các ngành các đoàn thể, tạo cơ
hội cho phụ nữ phát huy khả năng của mình trong hệ thống chính trị.
Bài viết: Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay của
Phạm Hạnh Sâm [149]. Tác giả khẳng định được tham gia lãnh đạo, quản lý,
được trao quyền, cùng với việc trau dồi về phẩm chất, năng lực thực sự, người
phụ nữ sẽ thực hiện tốt vai trò đại diện cho ý trí, nguyện vọng của chính bản
thân phụ nữ. Đồng thời, phụ nữ có điều kiện thuận lợi để phát triển tiềm năng,
sức lực và trí tuệ, đóng góp nhiều hơn cho sự nghiệp đổi mới đất nước và cho
sự nghiệp bình đẳng giới.
Cuốn sách: Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước
và hội nhập quốc tế của Hoàng Thị Ái Nhiên [144]. Tác giả đề cập đến quan
điểm của Đảng và nhà nước về vai trò của phụ nữ; đưa ra con số thống kê cụ
thể về việc phụ nữ tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội;
khẳng định vai trò của phụ nữ trong thời kỳ đổi mới đất nước và hội nhập
quốc tế.
Bài viết: Phụ nữ Việt Nam đoàn kết, sáng tạo, bình đẳng và phát triển,
xây dựng tổ chức Hội vững mạnh của Nguyễn Thị Thanh Hòa [54]. Bài viết
khẳng định, với trên 48% lực lượng lao động xã hội, có mặt trong các ngành
nghề, lĩnh vực, các tầng lớp phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp quan
trọng vào thành tựu phát triển chung của đất nước. Xây dựng tổ chức hội vững
mạnh, phát huy đầy đủ vai trò nòng cốt trong công tác phụ nữ và thực hiện bình
đẳng giới là mục tiêu, chương trình hành động của Hội LHPN.
Bài viết: Năm năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị
khóa X về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước của Nguyễn Thị Thu Hồng [120]. Bài viết đã hệ thống kết quả 5 năm thực
hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa -
xã hội.
Ngoài ra, dưới những góc độ nghiên cứu khác nhau của nhiều chuyên
ngành khoa học như: Triết học, Xã hội học, Hồ Chí Minh học..., các công trình
khoa học trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh, cả trên phương diện lý luận và
13
thực tiễn về vai trò to lớn của người phụ nữ Việt Nam xưa và nay trong quá
trình đấu tranh bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Những công trình khoa học nghiên cứu chung về phụ nữ và vai trò của
phụ nữ Việt Nam đã khẳng định vị trí, vai trò của phụ nữ đối với sự nghiệp
cách mạng của dân tộc; làm rõ về chủ trương, đường lối công tác phụ nữ nói
chung, lãnh đạo tổ chức Hội LHPN và phong trào phụ nữ nói riêng của Đảng;
nêu rõ thực trạng hoạt động của Hội LHPN Việt Nam trong thời kỳ cách mạng
dân tộc dân chủ và cách mạng XHCN, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu
quả lãnh đạo của Đảng và hoạt động của Hội phụ nữ các cấp.
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về tổ chức Hội phụ nữ và
phong trào phụ nữ Việt Nam
Hội LHPN Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội, một thành viên
của hệ thống chính trị Việt Nam, đại diện cho các tầng lớp phụ nữ Việt Nam
(chiếm trên 50% dân số và lực lượng lao động xã hội). Trong công cuộc đổi
mới đất nước, việc đổi mới hệ thống chính trị nói chung, đổi mới hoạt động của
hệ thống chính trị nói riêng là một yêu cầu mang tính khách quan. Đây là lĩnh
vực nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học.
Trong nhóm công trình nghiên cứu về tổ chức Hội phụ nữ và phong trào
phụ nữ Việt Nam, có các công trình nghiên cứu về đổi mới hoạt động của hệ
thống chính trị nói chung. Tiêu biểu là:
Các công trình nghiên cứu về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân gồm: Đổi mới
mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp phường trong
điều kiện kinh tế thị trường của Dương Xuân Ngọc [133]; Đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội của Nguyễn Khánh Ngọc,
Phạm Ngọc Quang [134]; Về giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc
trong giai đoạn hiện nay của Đặng Đình Tân [150]; Đổi mới nội dung, phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các Đoàn thể nhân dân
hiện nay của Ngô Huy Tiếp [157].
14
Các công trình nêu trên cung cấp những tri thức tổng thể, toàn diện về
đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nói chung,
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân nói riêng. Đây là những kiến
thức quý, làm cơ sở để tác giả có thể nghiên cứu sâu hơn về sự lãnh đạo của
Đảng đối với hệ thống chính trị, trong đó có Hội LHPN.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu về tổ chức Hội phụ nữ và phong trào
phụ nữ Việt Nam, còn có các công trình nghiên cứu về công tác vận động phụ
nữ, đáng chú ý là:
Lịch sử Hội Liên Hiệp Phụ nữ Việt Nam (1930-1976), tập I [72]; Lịch sử
Hội Liên Hiệp Phụ nữ Việt Nam (1930-1976) (1976-1912), tập II của Hội Liên
Hiệp Phụ nữ Việt Nam [73]. Cuốn sách đã tổng kết, đánh giá một cách hệ
thống quá trình ra đời, trưởng thành và phát triển về tổ chức, hoạt động của Hội
LHPN Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; nêu rõ
vai trò chỉ đạo tích cực, chủ động, sự sáng tạo trong vận dụng, cụ thể hóa
đường lối chủ trương của Đảng vào nhiệm vụ công tác Hội; đoàn kết, tập hợp
và vận động hội viên, phụ nữ thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ của Hội trong các giai đoạn cách
mạng. Đồng thời, góp phần tôn vinh những cán bộ, hội viên, phụ nữ có nhiều
đóng góp cho đất nước, cho sự phát triển của Hội LHPN Việt Nam trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cuốn sách Biên niên lịch sử Hội Liên Hiệp Phụ nữ Việt Nam của Hội Liên
Hiệp Phụ nữ Việt Nam [74], tập hợp các sự kiện cơ bản được chọn lọc, đối
chiếu, xác minh và hệ thống hóa nhằm qua đó thể hiện một cách toàn diện quá
trình hình thành tổ chức và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; hệ thống các quan điểm, đường lối,
cảu Đảng với công tác phụ vận trong đó có Hội LHPN Việt Nam; giới thiệu
một cách sinh động hoạt động của Hội LHPN Việt Nam trong các giai đoạn
cách mạng.
15
Bài viết: Làm tốt công tác vận động, quy tụ sức mạnh của các tầng lớp
phụ nữ Việt Nam của Nguyễn Thị Thanh Hòa [55]. Tác giả nêu bật những kết
quả của công tác Hội và phong trào phụ nữ Việt Nam những năm 2007 - 2012,
góp phần to lớn vào thành tựu chung, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của đất nước. Đồng thời, qua thực tiễn
phong trào phụ nữ và nhu cầu của hội viên, bài viết nêu rõ những dự báo về
thuận lợi, khó khăn, thách thức đối với công tác vận động phụ nữ trong giai
đoạn mới, đồng thời đề ra những định hướng lớn và giải pháp có tính đột phá
của Hội, nhằm phát huy hơn nữa vai trò của Hội LHPN Việt Nam trong công
tác vận động nhằm quy tụ sức mạnh của các tầng lớp phụ nữ, góp phần vào sự
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Những công trình nghiên cứu trên, từng bước làm rõ sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phụ vận; khẳng định vị trí, vai trò to lớn của phụ nữ
trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; đề cập đến thực
trạng và những vấn đề cấp bách đặt ra trong công tác vận động phụ nữ thời kỳ
đổi mới; đồng thời, đề ra một số giải pháp, định hướng chỉ đạo để thực hiện tốt
hơn công tác phụ vận của Đảng trong tình hình mới.
Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam với tư
cách là một tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị của đất nước,
đóng vai trò nòng cốt trong thực hiện công tác phụ nữ của Đảng đã và đang thu
hút được sự quan tâm của một số nhà nghiên cứu, trước hết là của chính tổ
chức Hội LHPN Việt Nam, có thể kể đến một số công trình:
Bài viết: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam với việc xây dựng các mô hình
hoạt động của Trương Thị Khuê [122]. Bài viết đề cập đến mô hình tuyên
truyền, giáo dục, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, nhằm nâng cao kiến thức và
năng lực của phụ nữ.
Cuốn sách: Các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam [61], đã dày
công tra cứu, sưu tầm những quy định từ Hiến pháp và pháp luật hiện hành về
16
nhiệm vụ, quyền hạn của Hội LHPN Việt Nam, coi đó là những căn cứ pháp lý
để Hội LHPN tổ chức, hoạt động trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài khoa học: Cơ cấu cán bộ và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt
của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hệ thống chính trị đổi mới của Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam [63], và công trình khoa học: Vị trí, vai trò, chức
năng và mô hình tổ chức của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hệ thống
chính trị của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam [65], đã làm rõ những cơ sở khoa
học và thực tiễn của những vấn đề xoay quanh công tác tổ chức, cán bộ của
Hội LHPN trong hệ thống chính trị. Trên cơ sở nghiên cứu những quan điểm,
chủ trương của Đảng về công tác phụ nữ thời kỳ đổi mới; xác định rõ vị trí, vai
trò, chức năng và mô hình tổ chức của Hội LHPN Việt Nam trong hệ thống
chính trị hiện nay, các công trình khoa học trên đề xuất cơ cấu cán bộ và tiêu
chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Hội LHPN Việt Nam. Đây là những yếu tố
quan trọng để Hội LHPN Việt Nam thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong công
tác phụ nữ của Đảng nói chung, việc đổi mới hoạt động của Hội nói riêng trong
thời kỳ mới.
Bài viết: Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam - Thực trạng và những giải pháp đổi mới của Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam [64], chỉ rõ những cơ sở khoa học, thực tiễn của mối quan hệ giữa
Hội LHPN với Đảng - tổ chức sáng lập và lãnh đạo Hội cũng như các tổ chức
đoàn thể nhân dân trong suốt quá trình cách mạng; quan hệ phối hợp hành động
với Nhà nước - cơ quan quản lý xã hội. Đồng thời, phân tích thực trạng và đề ra
những giải pháp để Hội phát huy tính độc lập, tự chủ của tổ chức, tích cực cùng
với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội khác thực hiện
tốt nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội, làm cơ sở chính trị vững chắc cho
Đảng và Nhà nước.
Cuốn sách: Nâng cao vị trí chính trị và năng lực hoạt động của Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam của Trịnh Xuân Giới [47], khẳng định vị trí của phụ nữ
17
trong hệ thống chính trị, đồng thời đề cập đến những chủ trương của Đảng đối
với hoạt động của Hội LHPN trong giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh đó, là các đề tài khoa học, tiêu biểu là: Đề tài khoa học cấp Bộ:
Thực trạng lao động nữ khu vực công nghiệp tham gia sinh hoạt Hội trên địa
bàn dân cư của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam [67], đã phản ánh thực trạng
lao động nữ trong khu vực công nghiệp tham gia sinh hoạt Hội; phân tích
những khó khăn và giải pháp giúp họ tham gia tích cực vào tổ chức Hội; Khảo
sát, đánh giá mô hình thu hút hội viên phụ nữ tham gia hoạt động Hội Liên
hiệp Phụ nữ và đề xuất giải pháp của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam [71]. Đề
tài tập trung nghiên cứu, chỉ ra những thách thức đối với tổ chức Hội; đồng
thời, đề ra phương hướng, giải pháp đổi mới hoạt động nhằm tập hợp, thu hút
các tầng lớp phụ nữ, nhất là lao động nữ khu vực công nghiệp. Thông qua kết
quả nghiên cứu của đề tài, những mô hình hoạt động hiệu quả trong việc thu
hút hội viên như các mô hình nhóm nhỏ theo sở thích, lứa tuổi, ngành nghề...
đã được ghi nhận và có định hướng nhân rộng; Thực trạng và đề xuất phương
hướng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và phát triển tổ chức Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới của Nguyễn Thị Kim
Thúy [156]. Đề tài mô tả thực trạng, nhu cầu của phụ nữ, từ đó, đề xuất biện
pháp thu hút phát triển hội viên tham gia sinh hoạt Hội; xác định thực trạng bộ
máy tổ chức và trình độ, năng lực của cán bộ Hội các cấp; đề xuất phương
hướng đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy và dự báo yêu cầu, nhiệm vụ đối với cán
bộ Hội trong giai đoạn sắp tới, từ đó đề xuất tiêu chuẩn, tiêu chí cán bộ Hội đáp
ứng yêu cầu của giai đoạn mới. Bên cạnh đó, đề tài làm rõ vị trí của Hội LHPN
Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước; đồng thời, đánh giá việc triển
khai các chương trình, phong trào hoạt động của Hội LHPN Việt Nam hiện
nay; dự báo xu hướng phát triển Hội đến năm 2020, tầm nhìn 2030 và đề xuất
mục tiêu, quan điểm, định hướng và giải pháp phát triển tổ chức Hội đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ mới.
18
Bài viết: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam với việc triển khai Nghị quyết
Đại hội Đảng lần thứ XI về vấn đề phụ nữ của tác giả Nguyễn Thị Thanh Hòa
[53]. Bài viết khẳng định quyết tâm của Hội LHPN Việt Nam cùng với toàn
Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Đồng
thời, xây dựng kế hoạch cụ thể, triển khai những vấn đề trực tiếp, cơ bản về
bình đẳng giới và công tác phụ nữ. Bài viết là tài liệu tuyên truyền, quán triệt
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đến các cấp Hội; xây dựng Báo cáo Đại
hội bảo đảm quán triệt và thực hiện các nhiệm vụ đề ra trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH).
Bài viết: Nhiệm vụ trọng tâm, then chốt của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam các cấp trong thời kỳ mới của Nguyễn Thị Thanh Hòa [50], khẳng định:
Xây dựng, củng cố và phát triển tổ chức Hội LHPN Việt Nam là biện pháp
quan trọng thúc đẩy sự lớn mạnh của Hội cả về lượng và chất nhằm nâng cao
vị trí, vai trò của phụ nữ trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đồng thời đảm bảo
yêu cầu phát triển bền vững hài hòa của xã hội.
Bài viết: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam với công tác tuyên truyền, giáo
dục phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
của Hoàng Thị Ái Nhiên [145]. Bài viết đề cập đến sự cần thiết của công tác
tuyên truyền, giáo dục phẩm chất đạo đức phụ nữ thời kỳ mới, nêu lên những
kết quả và yêu cầu đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục phẩm chất đạo đức
phụ nữ Việt Nam trong bối cảnh mới.
Bài viết: Chính sách đối với phụ nữ nông thôn trong thời kỳ công nghiệp
hóa của Hoàng Bá Thịnh [152], khẳng định vai trò của phụ nữ nông thôn đối với
sự phát triển nông nghiệp và quá trình đô thị hóa; những thách thức, trở ngại của
nguồn nhân lực nữ trong nông nghiệp, nông thôn. Tác giả đưa ra những giải
pháp về chính sách đối với phụ nữ nông thôn trong quá trình CNH, HĐH.
Cuốn sách: Điều lệ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam của Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam [70]. Cuốn sách cung cấp đầy đủ những Điều lệ Hội LHPN
Việt Nam và những hướng dẫn cụ thể để thực hiện Điều lệ của Hội.
19
Ngoài ra, còn có một số luận án tiến sĩ, tiêu biểu là: Đảng bộ tỉnh Hải
Dương lãnh đạo Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động từ năm 1997 đến năm 2012 của Nguyễn Thị Nhật Thu [153]. Luận
án làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo Hội LHPN tỉnh trong đổi
mới nội dung, phương thức hoạt động từ năm 1997 đến năm 2012; khẳng định
những thành công, chỉ ra những hạn chế; đúc kết một số kinh nghiệm để lãnh
đạo Hội LHPN tỉnh Hải Dương đổi mới nội dung, phương thức hoạt động trong
thời kỳ mới đạt hiệu quả hơn, góp phần khẳng định và nâng cao năng lực lãnh
đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương đối với công tác phụ nữ nói chung, hoạt động
của Hội phụ nữ nói riêng.
Các công trình khoa học trên ở phạm vi, góc độ khác nhau đã đề cập đến
vai trò của phụ nữ Việt Nam; nêu rõ mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với Hội
LHPN Việt Nam; về mô hình tổ chức Hội LHPN các cấp trong hệ thống chính
trị; đồng thời, đề cập đến vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác phụ vận
trong thời kỳ đổi mới, cũng như việc phát huy vai trò, trách nhiệm của các đoàn
thể quần chúng, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế thực hiện công tác vận
động phụ nữ. Các công trình khoa học cũng xác định tầm quan trọng của các
cấp ủy Đảng trong lãnh đạo nhằm nâng cao năng lực của phụ nữ trên nhiều
phương diện, trong xây dựng tổ chức và đội ngũ cán bộ Hội LHPN là nhân tố
quan trọng để đổi mới công tác Hội và nâng cao chất lượng phong trào phụ nữ
trong tình hình mới.
Những nghiên cứu trên cho thấy vai trò của tổ chức Hội LHPN Việt Nam
trong việc tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ, đại diện, bảo vệ quyền bình
đẳng, dân chủ, hợp pháp, chính đáng của phụ nữ; tham gia quản lý nhà nước,
tham gia xây dựng Đảng; đoàn kết, vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ thực
hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, góp phần xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Đó chính là những cơ sở và nguyên tắc cơ
bản để tổ chức Hội LHPN Việt Nam thực hiện ngày càng tốt hơn những chức
năng, nhiệm vụ của tổ chức Hội.
20
1.1.3. Nhóm công trình nghiên cứu về Hưng Yên và hoạt động của
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh
Hưng Yên là mảnh đất giàu giá trị truyền thống lịch sử, văn hóa, được
nhiều học giả nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau:
Những công trình nghiên cứu chung về mảnh đất, con người Hưng
Yên, gồm:
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hưng Yên, tập I (1929 -1954) [2]; tập II (1954 -
1975) [3]; tập III (1975 -2000) của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên [4].
Đây là công trình nghiên cứu công phu về quá trình hình thành, xây dựng và
phát triển của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên từ khi còn là những tổ chức tiền thân
đến khi chính thức thành lập tháng 7 năm 1941 và quá trình lãnh đạo phong
trào cách mạng ở địa phương đến năm 2000. Suốt chặng đường dài lãnh đạo sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên luôn coi trọng
vai trò, vị trí của phụ nữ và luôn quan tâm lãnh đạo tổ chức Hội LHPN và các
phong trào phụ nữ tỉnh. Qua đó, huy động được sự đóng góp to lớn, của mọi
tầng lớp phụ nữ tỉnh Hưng Yên vào sự nghiệp cách mạng chung, nhất là thời kỳ
đổi mới.
Cuốn sách Hưng Yên vùng phù sa văn hóa của Nguyễn Phúc Lai [123],
giới thiệu khái quát những đặc điểm nổi bật văn hóa địa phương, bao gồm: Văn
hóa nghệ thuật dân gian, di tích lịch sử, lễ hội, danh nhân tiêu biểu, nghề truyền
thống, làng cổ, đặc sản văn hóa ẩm thực...giúp người đọc có góc nhìn sâu sắc
hơn về đặc trưng văn hóa của vùng đất văn hiến Hưng Yên.
Cuốn sách Di tích lịch sử - văn hóa Hưng Yên của Bảo tàng Hưng Yên
[25]. Nội dung cuốn sách tập trung giới thiệu về vùng đất thứ nhất kinh kỳ,
thứ nhì Phố Hiến. Đó là những truyền thuyết đã đi vào huyền thoại với 158 đi
tích và cụm di tích lịch sử - văn hóa được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận
ở 10 huyện, thị trong tỉnh, kèm theo một số hình ảnh tiêu biểu của các di tích
để minh họa, giúp cho độc giả hiểu biết sâu sắc hơn về mảnh đất con người
xứ nhãn.
21
Cuốn sách Phố Hiến của Nguyễn Khắc Hào, Nguyễn Đình Nhã [48], đã
tái hiện một cách hệ thống diện mạo lịch sử vùng đất và con người, điều kiện
tự nhiên và dân cư, từ quá trình phát triển nội, ngoại thương xưa đến kho tàng
di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của Phố Hiến còn lại đến ngày nay.
Cuốn sách Thành tựu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hưng Yên sau 14
năm tái lập (1997-2010) của Cục Thống kê tỉnh Hưng Yên [29]; và cuốn Kinh
tế - xã hội tỉnh Hưng Yên sau 15 năm tái lập (1997-2011) của Cục Thống kê
tỉnh Hưng Yên [30], đã đi sâu phân tích, đánh giá, nêu bật kết quả đạt được và
phân tích của những kết quả về phát triển kinh tế Hưng Yên; cung cấp những
số liệu thống kê về kinh tế - xã hội của tỉnh Hưng Yên trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH.
Đặc biệt, kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Nguyễn Văn Linh, người
học trò suất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người con ưu tú của quê hương
Hưng Yên, Ban Tuyên giáo Trung ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Tỉnh ủy Hưng Yên trang trọng tổ chức Hội thảo cấp Quốc gia với chủ
đề: Đồng chí Nguyễn Văn Linh với Cách mạng Việt Nam và quê hương Hưng
Yên của Ban Tuyên giáo Trung ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Tỉnh ủy Hưng Yên [23]. Kỷ yếu Hội thảo khoa học đã ôn lại cuộc đời,
sự nghiệp và những cống hiến to lớn của đống chí Nguyễn Văn Linh đối với
cách mạng Việt Nam; những tình cảm sâu nặng của đồng chí với quê hương
Hưng Yên; đồng thời, tuyên truyền truyền thống yêu nước và phẩm chất chính
trị, đạo đức cách mạng của người cộng sản cho cán bộ, đảng viên, và thế hệ trẻ;
cổ vũ động viên, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục thực hiện thắng lợi
công cuộc đổi mới CNH, HĐH đất nước.
Dưới các góc độ khác nhau, những công trình khoa học trên đã nêu bật
truyền thống lịch sử, văn hóa và quá trình Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hưng Yên
đấu tranh chống đế quốc, phong kiến và xây dựng CNXH. Qua đó, làm rõ vai
trò lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh.
22
Những công trình khoa học nghiên cứu về công tác vận động phụ nữ và
hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Hưng Yên
Tiêu biểu là công trình khoa học Lịch sử phong trào phụ nữ tỉnh Hưng
Yên (1930 - 2000) do Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên [87]. Công trình đã
phản ánh được những sự kiện quan trọng, những phong trào phụ nữ điển hình
và những đóng góp to lớn của phụ nữ Tỉnh đối với quê hương Hưng Yên; đồng
thời, khẳng định sự trưởng thành, lớn mạnh của tổ chức Hội và phong trào phụ
nữ tỉnh Hưng Yên, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược và 25 năm xây dựng CNXH.
Cuốn Nữ du kích Hoàng Ngân của Kinh Lịch [124] và cuốn sách
Chuyện kể về phong trào nữ du kích Hoàng Ngân của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh
Hưng Yên [27], đã giới thiệu những tấm gương nữ du kích trong kháng chiến
chống Pháp anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang, góp phần tô đậm thêm
truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam nói chung, phụ nữ tỉnh Hưng Yên
nói riêng. Bên cạnh đó, công trình khoa học trên cũng nêu bật tấm gương của
các nữ anh hùng, đã chiến đấu, hy sinh anh dũng như: chị Bùi Thị Cúc, Trần
Thị Khang, Trần Thị Tý, Vũ Thị Xoang...
Cuốn Hoa xứ nhãn của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên, Hội văn
học nghệ thuật tỉnh Hưng Yên [116]. Cuốn sách tuyển chọn những tác phẩm có
nội dung khích lệ những cán bộ, hội viên và các tầng lớp phụ nữ trong Tỉnh
tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp của các thế hệ phụ nữ Hưng Yên nói
riêng, và phụ nữ Việt Nam nói chung; rèn luyện phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt
Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước để xây dựng gia đình ấm no, tiến
bộ, hạnh phúc, bền vững.
Những công trình khoa học trên tập trung phân tích vai trò của Hội
LHPN tỉnh và các tầng lớp phụ nữ qua các thời kỳ lịch sử, bước đầu chỉ ra
phương thức lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh đối với phong trào phụ nữ; cung cấp
tư liệu và cách tiếp cận trong nghiên cứu tổ chức Hội và phong trào phụ nữ tỉnh
Hưng Yên những năm đổi mới.
23
1.2. NỘI DUNG NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN ĐÃ GIẢI QUYẾT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG
NGHIÊN CỨU
1.2.1. Nội dung các công trình nghiên cứu đã giải quyết
Nhóm công trình nghiên cứu về phụ nữ, vai trò của phụ nữ Việt Nam và
nhóm công trình nghiên cứu về tổ chức Hội và phong trào phụ nữ Việt Nam cho
thấy, mảng đề tài nghiên cứu liên quan đến phụ nữ, công tác phụ nữ, hoạt động
của Hội LHPN Việt Nam và phong trào phụ nữ khá phong phú, bao quát nhiều
lĩnh vực, có giá trị khoa học, thực tiễn cao. Dưới những góc độ tiếp cận khác
nhau, các công trình khoa học đã phản ánh, nêu bật vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với tổ chức Hội LHPN Việt Nam; đồng thời, làm rõ hơn vị trí, vai trò, đóng
góp của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của
Đảng cũng như vai trò của phụ nữ Việt Nam trong xã hội. Đặc biệt, trong thời kỳ
đổi mới, vai trò của phụ nữ và Hội LHPN ngày càng quan trọng trong hệ thống
chính trị. Các công trình đã khái quát lên truyền thống quý báu của phụ nữ Việt
Nam là những chất liệu tạo niềm tin, khát vọng, thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữa
trong thế kỷ XXI, là sức mạnh để Hội LHPN tham gia hoạt động tích cực trong
hệ thống trị, góp phần thực hiện thành công CNH, HĐH đất nước.
Nhóm công trình về nghiên cứu về Hưng Yên và hoạt động của Hội
LHPN tỉnh đã tái hiện lại những truyền thống tốt đẹp, vai trò của phụ nữ Hưng
Yên trong lịch sử phát triển của tỉnh, là niềm tự hào và kinh nghiệm quý để Hội
LHPN tỉnh tiếp tục phát huy trong điều kiện mới. Tuy nhiên, bước vào thời kỳ
đổi mới, công tác phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam nói chung,
Hội LHPN tỉnh Hưng Yên nói riêng có cả thời cơ, vận hội và khó khăn, thách
thức, đòi hỏi phải những định hướng, giải pháp mới về tổ chức và hoạt động để
hoàn thành nhiệm vụ chính trị trong điều kiện mới.
Những kết quả nghiên cứu trên cung cấp nguồn tư liệu có giá trị phục vụ
nghiên cứu, tham khảo và phương pháp tiếp cận; đồng thời, gợi mở những yêu
cầu mới đối với quá trình nghiên cứu luận án. Tuy nhiên, do mục đích và phạm
24
vi nghiên cứu đặt ra, 3 nhóm công trình khoa học nêu trên chỉ đề cập đến
những vấn đề chung về tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động Hội LHPN,
công tác vận động phụ nữ...; chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu đầy đủ,
có hệ thống về quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo hoạt động của Hội
Liên hiệp phụ nữ tỉnh từ năm 1997 đến năm 2015. Vì vậy, việc thực hiện đề tài
này là cần thiết xét trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
1.2.2. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
Trên cơ sở tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án,
có thể khẳng định, đó là những công trình khoa học có giá trị mà nghiên cứu
sinh tham khảo để kế thừa trong quá trình thực hiện luận án. Tuy nhiên, đa số
những nghiên cứu chung về phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN
mới chỉ tiếp cận nghiên cứu dưới dạng bài viết, chưa có nhiều công trình
nghiên cứu có tính hệ thống, toàn diện, sâu sắc về Đảng lãnh đạo hoạt động của
Hội LHPN Việt Nam, giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2015. Cho đến nay, cũng
chưa có công trình nào nghiên cứu về hoạt động của Hội LHPN tỉnh nói chung
và Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo hoạt động của Hội LHPN tỉnh nói riêng,
đặc biệt là trong giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2015.
Từ thực tiễn đó, nghiên cứu sinh định hướng và xác định những nội dung
nghiên cứu:
Về tư liệu:
Sưu tầm nguồn tư liệu về quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà
nước, sự lãnh đạo của Hội LHPN Việt Nam đối với công tác phụ nữ, phong
trào phụ nữ; sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đối với hoạt động của Hội
LHPN tỉnh. Qua đó, xây dựng hệ thống tư liệu toàn diện về chủ trương và quá
trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo hoạt động của Hội LHPN tỉnh cũng như
thực trạng hoạt động của Hội LHPN tỉnh thời kỳ 1997-2015.
Về nội dung:
Một là, phân tích những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh Hưng Yên đối với hoạt động của Hội LHPN tỉnh như: Quan điểm, chủ
25
trương của Đảng về công tác phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN; đặc điểm
tự nhiên, kinh tế - xã hội; thực trạng hoạt động của Hội LHPN tỉnh trước
năm 1997.
Hai là, phân tích chủ trương của Đảng và Đảng bộ tỉnh Hưng Yên về
công tác công tác phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN tỉnh. Trên cơ sở các
quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước, làm rõ quá trình phát triển về
nhận thức và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên về công tác phụ nữ và
hoạt động của Hội LHPN tỉnh từ năm 1997 đến năm 2015.
Ba là, phân tích, làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên chỉ đạo hoạt
động của Hội LHPN tỉnh qua hai giai đoạn: 1997 - 2005 và 2005 - 2015 trên
các mặt: Nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng,
chính quyền đối với Hội LHPN tỉnh; xây dựng và phát triển tổ chức Hội về bộ
máy đội ngũ cán bộ Hội, phát triển hội viên; phát triển kinh tế - xã hội; công
tác tuyên truyền và sơ kết, tổng kết nhân rộng điển hình tiên tiến, về đẩy
mạnh các phong trào thi đua yêu nước. Đây là nội hàm cơ bản trong hoạt
động của Hội LHPN dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh.
Bốn là, đánh giá những thành công và hạn chế, bước đầu đúc kết những
kinh nghiệm qua thực tiễn quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo hoạt
động của Hội LHPN tỉnh, nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng tỉnh Hưng Yên
ngày càng giàu mạnh, văn minh.
26
Chương 2
QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005
2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH HƯNG YÊN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH
2.1.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác phụ nữ và xây
dựng Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Xuất phát từ thực tiễn lịch sử dân tộc, được trang bị lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, với những quan điểm tiến bộ về vai trò của phụ nữ, ngay từ
khi mới thành lập và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến sự nghiệp giải
phóng phụ nữ, gắn sự nghiệp đó với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp. Chủ tịch Hồ Chí Minh có những luận điểm thể hiện tầm
nhìn chiến lược khi đặt vấn đề giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng
nam, nữ trong tương quan phát triển của xã hội mới, của CNXH. Người khẳng
định “Nói phụ nữ là nói phần nửa của xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì
không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây
dựng Chủ nghĩa xã hội chỉ có một nửa” [130, tr.523]. “Lực lượng cách mạng
của phụ nữ là lực lượng rất trọng yếu. Nếu quảng đại quần chúng phụ nữ không
tham gia vào những cuộc đấu tranh cách mạng thì cách mạng không thắng lợi
được”, “Phụ nữ là một lực lượng xã hội rộng lớn, đóng vai trò rất quan trọng
trong sự nghiệp cách mạng. Xem trong lịch sử cách mệnh chẳng có lần nào là
không có đàn bà con gái tham gia” và “An Nam cách mệnh cũng phải có nữ
giới tham gia mới thành công” [127, tr.219]. Vì vậy, “Muốn thâu phục cho
được hết các phần tử phụ nữ thì ngoài sự cộng tác trong phụ nữ công nông ra,
Đảng lại cần phải tổ chức ra các đoàn thể phụ nữ “phụ nữ hiệp hội”, mục đích
chính là mưu quyền lợi cho phụ nữ, làm cho phụ nữ được triệt để giải phóng”
[142, tr.21], và Người khẳng định “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta,
trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ” [129, tr.432].
27
Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện và lãnh
đạo luôn vận dụng tư tưởng của Người về vấn đề giải phóng phụ nữ, nam nữ
bình quyền trong từng thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Có thể khẳng định,
chính những quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh về vai trò, vị trí của phụ nữ trong lịch sử là yếu tố cơ bản để một đoàn thể
cách mạng của phụ nữ Việt Nam sớm được thành lập.
Theo đó, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành (BCH) Trung ương Đảng
tháng 10-1930 đã thông qua một nội dung riêng trong Nghị quyết về công tác
vận động phụ nữ và chủ trương thành lập Phụ nữ Hiệp hội [40, tr.188-191].
Ngày 20-10-1930, Phụ nữ Hiệp hội - tổ chức tiền thân của Hội LHPN Việt
Nam được thành lập với mục đích tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ, đấu
tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng phụ nữ theo đường
lối của Đảng. Ngày 20-10-1946, Hội LHPN Việt Nam chính thức được thành
lập. Từ khi thành lập, qua các thời kỳ cách mạng dan tộc dân chủ, Hội LHPN
Việt Nam luôn thể hiện vai trò nòng cốt trong công tác vận động các tầng lớp
phụ nữ tham gia và đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách mạng của Đảng. Trong
nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng, đều chỉ rõ vai trò đại diện của Hội LHPN
Việt Nam: “...là một tổ chức quần chúng cách mạng của Đảng, có truyền thống
đoàn kết và giác ngộ chính trị cho các tầng lớp phụ nữ tích cực tham gia cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, đồng thời đấu
tranh để thực hiện nam nữ bình đẳng, giải phóng phụ nữ” [36, tr.5].
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng đặc biệt chú trọng công tác vận động,
tập hợp các tổ chức quần chúng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986)
của Đảng Cộng sản Việt Nam, đánh dấu một bước đổi mới quan trọng về sự
lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực. Đề cập vị trí, vai trò của phụ nữ, Đại hội
khẳng định:
Phụ nữ nói chung và lao động nữ nói riêng có những đặc điểm cần
chú ý. Để phát huy vai trò to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp cách
mạng, cần làm cho đường lối vận động phụ nữ của Đảng được thấu
28
suốt trong cả hệ thống chuyên chính vô sản, được cụ thể hóa thành
chính sách, luật pháp... Tạo điều kiện cho phụ nữ kết hợp được
nghĩa vụ công dân với chức năng làm mẹ, xây dựng gia đình hạnh
phúc [41, tr.450].
Đại hội chỉ rõ: Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các tổ
chức quần chúng, hướng mạnh về cơ sở, thu hút đông đảo nhân dân vào các
phong trào cách mạng… Thực hiện dân chủ XHCN, tôn trọng và đảm bảo
quyền công dân; chống tệ quan liêu cửa quyền, ức hiếp quần chúng trong bộ
máy lãnh đạo quản lý các cấp. Thực hiện có nền nếp khẩu hiệu dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra; tất cả vì dân và do dân. Động viên và tổ chức
quần chúng tham gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội, tham gia vào các hoạt
động cải cách.
Quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, Hội nghị lần thứ
tám BCH Trung ương Đảng, khóa VI ra Nghị quyết số 8B-NQ/TW Về đổi mới
công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân
dân, trong đó nhấn mạnh: Các đoàn thể ở cơ sở: ... Coi trọng việc tập hợp quần
chúng bằng những hình thức linh hoạt, hoạt động theo những nội dung thích
hợp. Đảng cần hướng dẫn sự đổi mới nội dung hoạt động của các đoàn thể và
tổ chức quần chúng vào việc đoàn kết đoàn viên, hội viên cùng chăm lo lợi ích
thiết thực của mình và góp phần vào sự nghiệp chung của đất nước, xây dựng,
bảo vệ chính quyền cách mạng.
Nhằm thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 8B/NQ-TW (1990), Ban Bí thư
ra Chỉ thị số 62/CT-TW (1990) yêu cầu: các đoàn thể quần chúng ở cơ sở định
rõ chức năng, cải tiến phương thức hoạt động, đề ra nhiệm vụ của tổ chức mình
để đem lại lợi ích thiết thực cho đoàn viên, hội viên.
Ngày 12-7-1993, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 04-NQ/TW Về đổi mới
và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới nêu rõ: Hội
LHPN là tổ chức đại diện cho lợi ích của phụ nữ, là trung tâm tập hợp đoàn kết
phụ nữ Việt Nam, hướng dẫn và vận động chị em phấn đấu vì sự nghiệp giải
phóng phụ nữ, bình đẳng nam nữ, vì sự nghiệp phát triển và hạnh phúc của phụ
29
nữ, vì sự nghiệp đổi mới, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh [142, tr.189].
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TW(1993) của Bộ Chính trị,
ngày 16-5-1994, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 37-CT/TW(1994)
Về một số vấn đề cấp bách về công tác cán bộ nữ trong tình hình mới. Chỉ thị
một lần nữa thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước đối với sự
phát triển của phụ nữ Việt Nam, trong đó, công tác cán bộ là khâu then chốt.
Sau 10 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện, đất nước đã thoát
khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Với những nền tảng tạo được, Đại
hội VIII (1996) quyết định chuyển đất nước sang một thời kỳ mới - thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH.
Trước yêu cầu của tình hình mới, Đảng tiếp tục nhấn mạnh một số
nhiệm vụ chủ yếu trong công tác vận động phụ nữ:
Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ
đến năm 2000; đặc biệt coi trọng việc đào tạo nghề, tạo việc làm,
phát triển kinh tế gia đình, cải thiện đời sống, bảo vệ sức khỏe phụ
nữ, trẻ em; quan tâm phát triển Đảng và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
nữ, tăng tỷ lệ cán bộ nữ trong cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước ở các cấp, các ngành [37, tr.112].
Những năm cuối thế kỷ XX, tình hình thế giới có những diễn biến phức
tạp. Những mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn còn tồn tại và phát triển, có
nhiều nét mới: Cách mạng Khoa học - công nghệ tiếp tục phát triển với tốc độ
cao, làm tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội.
Ở trong nước, công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước đạt được những
thành quan trọng: Tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối nhanh và ổn định; văn
hóa - xã hội chuyển biến tích cực; quốc phòng an ninh được củng cố; quan hệ
đối ngoại từng bước mở rộng. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu tiên của
thời kỳ quá độ lên CNXH là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã căn bản
30
hoàn thành. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa ra khỏi tình trạng một nước nghèo,
kém phát triển; tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực, nhiều vấn đề xã hội chưa
được giải quyết, trong đó có những vấn đề liên quan trực tiếp và ảnh hưởng
tiêu cực tới phụ nữ, trẻ em và cuộc sống gia đình.
Trước tình hình đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của
Đảng tiếp tục đổi mới tư duy về công tác vận động phụ nữ, với các quan điểm,
chủ trương phù hợp với tình hình mới, nhất là việc thực hiện chính sách bình
đẳng giới:
Đối với phụ nữ, thực hiện tốt luật pháp, chính sách bình đẳng giới,
bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp, nâng cao học vấn, có cơ chế, chính
sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo
và quản lý ở các cấp, các ngành; chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em;
tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt thiên chức người mẹ; xây dựng
gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc [42, tr.120].
Như vậy, bước vào thời kỳ đổi mới, trên cơ sở tình hình thực tiễn của đất
nước, nhằm khơi dậy truyền thống, bản chất tốt đẹp và tiềm năng của phụ nữ
Việt Nam, khích lệ các tầng lớp phụ nữ các địa phương trong cả nước tích cực
đóng góp nhiều hơn nữa, trí tuệ, sức lực vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước,
Đảng đã kịp thời đề ra những chủ trương về công tác phụ nữ và xây dựng Hội
LHPN, góp phần định hướng cho các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban,
ngành, địa phương để xây dựng tổ chức Hội và đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động của Hội LHPN các cấp, từng bước thúc đẩy phong trào phụ nữ cả
nước phát triển, góp phần xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
2.1.2. Điền kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và truyền thống lịch sử -
văn hóa
* Điều kiện tự nhiên
Hưng Yên là tỉnh nằm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc châu thổ đồng bằng
Bắc Bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và tam giác tăng trưởng
Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Hưng Yên nằm trong tọa độ 20°36’ và 21 vĩ
31
độ Bắc,105°53’ và 106°15’ kinh độ Đông. Phía Bắc liền kề với Thủ đô Hà Nội
và tỉnh Bắc Ninh, phía Nam giáp tỉnh Thái Bình, phía Đông giáp tỉnh Hải
Dương, phía Tây gíap tỉnh Hà Tây và Hà Nam. Đây là một vùng đất phù sa
màu mỡ, đậm nét truyền thống văn hoá và lịch sử lâu đời. Hưng Yên là một
tỉnh nông nghiệp, một miền quê mang những nét đặc trưng của nông thôn Việt
Nam vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Với: “Tổng diện tích đất tự nhiên là 923,093km2, trong đó diện tích
đất nông nghiệp chiếm 68,74%, đất chuyên dùng chiếm 16,67%, đất ở
chiếm 7,91%, đất chưa sử dụng và sông suối chiếm 6,68%” [164, tr.40].
Bên cạnh đó, Hưng Yên còn có mỏ than nâu (thuộc bể than vùng đồng
bằng sông Hồng) trữ lượng lớn nhất (hơn 30 tỷ tấn) chưa được khai thác, là
tiềm năng lớn cho ngành công nghiệp than, phục vụ cho sản xuất, tiêu dùng
và xuất khẩu.
Cũng như các tỉnh khác thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, Hưng Yên
chịu ảnh hưởng sâu sắc của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, nhiều nắng và
có mùa Đông lạnh, hàng năm có hai mùa rõ rệt. Hưng Yên cũng là tỉnh có
mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, với ba hệ thống sông lớn chảy qua: Sông
Đuống, sông Hồng, sông Luộc - những đường sông chính của Hưng Yên.
Ngoài ra, còn có hệ thống sông nội địa như: sông Cửu An, sông Kẻ Sặt, sông
Hoan Ái, sông Nghĩa Trụ, sông Điện Biên, sông Kim Sơn... thuận lợi không
chỉ cho sản xuất nông nghiệp mà còn cho sự phát triển công nghiệp, sinh
hoạt và giao thông đường thuỷ.
Những yếu tố tự nhiên thuận lợi của tỉnh Hưng Yên, là tiềm năng quan
trọng để phát huy vai trò của Hội LHPN tỉnh trong việc phát triển kinh tế - xã
hội, cải thiện đời sống nhân dân trong tỉnh, trong đó có các tầng lớp phụ nữ.
* Điều kiện kinh tế - xã hội
Để đáp ứng với tình hình và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong
giai đoạn mới, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Quốc
hội, tháng 1 năm 1997, tỉnh Hưng Yên chính thức được tái lập sau 29 năm hợp
32
nhất với tỉnh Hải Dương. Khi tái lập tỉnh, Hưng Yên vẫn là tỉnh thuần nông,
công nghiệp hầu như không có gì đáng kể, kết cấu hạ tầng yếu kém, thiết bị
công nghệ lạc hậu, nhận thức của người dân về phát triển kinh tế còn hạn chế.
Năm 1997, nguồn nhân lực của tỉnh Hưng Yên khá dồi dào “dân số
1.075.517 người” [69, tr.296], trong đó, số người trong độ tuổi lao động chiếm
hơn 50%. Tỷ lệ lao động có trình độ của Hưng Yên thấp, bởi sau khi tái lập
tỉnh, đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ ở lại tỉnh công tác ít. Hiện nay, số
lao động chưa có việc làm còn nhiều đã trở thành sức ép lớn đối với Hưng
Yên trong vấn đề giải quyết việc làm. Ngoài nghề chính là trồng trọt, người
dân còn nuôi trồng thuỷ sản trồng dâu, nuôi tằm, làm các nghề thủ công và
nghề truyền thống khác. Về thành phần dân tộc, ở Hưng Yên hầu hết là người
Kinh, số đông theo đạo Phật, một số ít theo đạo Thiên Chúa, phân bố rải rác
không tập trung.
Sau khi tái lập, Hưng Yên cùng cả nước tập trung xây dựng phát triển
kinh tế. Với sự nỗ lực của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh cùng với chính sách
cởi mở thông thoáng, tranh thủ sự hỗ trợ đầu tư nước ngoài, tình hình kinh tế -
xã hội Hưng Yên sau những năm đầu tái lập đã có nhiều khởi sắc, đổi thay từng
ngày, được đánh giá là một trong những tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế tương
đối nhanh. Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH.
Nông nghiệp nông thôn có nhiều chuyển biến tích cực, tỷ trọng giữa chăn nuôi
và trồng trọt ngày càng cân đối. Người nông dân bước đầu quan tâm đến sản
xuất hàng hoá, đảm bảo an ninh lương thực. Công nghiệp dịch vụ có bước phát
triển khá. Công nghiệp địa phương tuy phải đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng
vẫn đạt được những thành tích đáng khích lệ. Một số ngành hàng tiếp tục được
củng cố phát triển, lựa chọn mặt hàng ưu tiên và có lợi thế để đầu tư chiều sâu,
đổi mới công nghệ tạo ra những sản phẩm chất lượng cao. Khối công nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh, do số dự án đi vào hoạt động tăng lên, sản
phẩm được thị trường chấp nhận và có xu thế phát triển tốt. Từ điểm xuất phát
33
thấp với nhiều khó khăn, thử thách khi mới tái lập, Hưng Yên đã nỗ lực vươn
lên, hoàn thành tương đối toàn diện những nhiệm vụ mục tiêu chủ yếu đề ra.
Về kinh tế: Năm đầu tái lập tỉnh (1997), một số chỉ tiêu chủ yếu về phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh đều đạt và vượt so với kế hoạch đề ra. “Tổng sản
phẩm trong tỉnh (GDP) tăng 14,4% so với năm 1996 (kế hoạch đề ra trên 10%).
Cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp - Công nghiệp - Dịch vụ: 52% - 20% - 28%, thu
nhập bình quân đầu người 205USD” [159, tr.4].
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh và tinh thần quyết tâm của nhân dân
trong tỉnh, đến năm 2005, “nền kinh tế tiếp tục phát triển nhanh, khá toàn diện
và vững trắc, GDP năm sau cao hơn năm trước, bình quân tăng 12,28%/năm.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh, đến năm 2005: Nông nghiệp 30,5%; Công
nghiệp, xây dựng 38%; Dịch vụ 31,5%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 550
USD” [4, tr.373].
Về văn hóa - xã hội: Năm 1997, cơ sở vật chất của ngành giáo dục vẫn
còn nghèo nàn, mạng lưới giáo dục đào tạo không đồng bộ, đội ngũ giáo viên
còn thiếu, mất cân đối, chưa đồng bộ. Phần lớn các bệnh viện xây dựng từ
những năm trước tuy được sửa chữa, nâng cấp, xây dựng nhưng chưa đáp ứng
được nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ,
thể dục, thể thao tuy được đẩy mạnh dưới nhiều hình thức song cơ sở vật chất
còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân trong tỉnh.
Đến năm 2005, công tác giáo dục - đào tạo, xây dựng nền tảng cho mọi
công dân phát triển toàn diện nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài cho sự nghiệp CNH, HĐH. Coi trọng cả quy mô, chất lượng và
hiệu quả ở mọi cấp học, ngành học. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
thu hút đầu tư của cả cộng đồng, các chương trình quốc gia, ngoài nước cho
giáo dục đào tạo. Cơ sở y tế các tuyến được đầu tư cải tạo và tăng cường trang
thiết bị phục vụ khám chữa bệnh, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay
nghề và y đức của đội ngũ thầy thuốc.
34
Những điều kiện kinh tế - xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
đời sống của nhân dân trong tỉnh, đồng thời cũng là nhân tố quan trọng tác
động đến hoạt động của Hội LHPN tỉnh.
* Truyền thống lịch sử, văn hóa
Hưng Yên mảnh đất có truyền thống văn hiến, nhất là về cử nghiệp và
thi thư, đã sản sinh ra nhiều anh hùng hào kiệt, các nhà văn hoá lớn. Trong 845
năm nho học, “Hưng Yên có 214 vị đỗ đại khoa còn lưu danh ở bia Văn Miếu
(thôn Xích Đằng, phường Nam Sơn thị xã Hưng Yên). Hưng Yên là tỉnh đứng
thứ 4 trong cả nước về cử nghiệp” [164, tr.58]. Trong suốt quá trình đấu tranh
lâu dài dựng nước và giữ nước, vùng đất Hưng Yên thời nào, lĩnh vực nào cũng
có những nhân tài mà sử sách còn ghi như. Từ thủa bình minh lịch sử của dân
tộc, bước phát triển của thời đại Hùng Vương từ Chử Đồng Tử - Tiên Dung -
Một thiên tình sử đẹp nhất trong kho tàng văn học Việt Nam, nói lên tiếng nói
tự do yêu đương và bình đẳng nam nữ. Trong lịch sử đấu tranh lâu dài dựng
nước và giữ nước, đất Hưng Yên đã sản sinh ra những nhân vật tài ba, lỗi lạc
trên các lĩnh vực mà sử sách còn ghi, dân ta ca tụng: Tài năng về Quân sự có
Triệu Quang Phục, Phạm Ngũ Lão, Hoàng Hoa Thám… Văn tài lỗi lạc có
Nguyễn Trung Ngạn, Đoàn Thị Điểm… Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng
Phụng… Về Y học có danh Y Lê Hữu Trác. Khoa học có Nguyễn Công Tiễu,
Phạm Huy Thông… Sân khấu Chèo có Nguyễn Đình Nghị, Hoa Tâm… Mỹ
thuật có Tô Ngọc Vân, Dương Bích Liên, Âm nhạc có Mai Văm Chung… Thế
kỷ XX, trên lĩnh vực hoạt động chính trị chống đế quốc, phong kiến, giành độc
lập dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hưng Yên cũng là
quê hương của nhiều cán bộ cách mạng tiền bối, nhiều nhà chính trị có tên tuổi
như Tô Hiệu, Nguyễn Bình…cùng bao tấm gương chiến đấu hi sinh khác đã
góp phần tô đẹp cho truyền thống quê hương, làm rạng danh Tổ quốc. Đặc biệt,
người con ưu tú của quê hương - đồng chí Nguyễn Văn Linh, một trong những
người góp phần kiến tạo đường lối đổi mới; Tổng Bí thư nhiệm kỳ đầu của thời
kỳ đổi mới đất nước (1986-1991).
35
Là quê hương có nhiều di tích lịch sử, đặc biệt là đền chùa, đồng thời,
Hưng Yên cũng là một trong những địa danh lưu giữ, bảo tồn một số di tích, di
vật được đánh giá là quý hiếm, với vẻ đẹp của thời gian và giá trị nghệ thuật
kiến trúc, điêu khắc...Tất cả cho chúng ta cái nhìn tinh tế trước vẻ đẹp của sự
kết hợp kiến trúc truyền thống và hiện đại. “Là tỉnh có mật độ di tích dầy đặc
của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng với 1.210 di tích văn hoá, lịch sử, tín
ngưỡng. Trong đó 172 di tích được nhà nước xếp hạng và 32.574 cổ vật trong
các di tích. Đặc biệt là di tích Phố Hiến - trung tâm thương mại, đối ngoại sầm
uất phồn hoa bậc nhất vào thế kỷ XVI, XVII” [164, tr.49].
Trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, có nhiều đền, chùa nổi tiếng như đền thờ
Đức Tống Trân, đền thờ Đức Ngô Vương, đền Phạm Bạch Hổ, đền Đinh Điền,
đền Trần, đền Phạm Ngũ Lão, đền Chử Đồng Tử… Mỗi đền, chùa là một kho
tàng mỹ thuật sống động, với rất nhiều cổ vật quý hiếm. Đó là những không
gian văn hoá truyền thống, hiện hữu nét đẹp văn hoá vật thể, phi vật thể hấp
dẫn du khách bởi sự hài hoà cảnh trí thiên nhiên và hình khối kiến trúc, nghệ
thuật chạm khắc tinh vi.
Những điều kiện lịnh sử, văn hóa của Tỉnh đã làm giàu cho đời sống tinh
thần của nhân dân, trong đó có phụ nữ Hưng Yên. Là một Tỉnh thuần nông, đời
sống nhân dân chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp. Phụ nữ vốn là người lao
động. Trải qua bao thế hệ, chị em cùng với chồng con “Một nắng hai sương”, ý
thức lao động, sự kiên trì, phẩm chất của người phụ nữ trở thành lẽ sống của
họ, vì chồng, vì con, vì gia đình, đất nước. Thế kỷ thứ nhất có các nữ tướng
Nguyệt Thai, Nguyệt Độ...; thế kỷ XI có Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan (1044 - 1117)
quê ở Như Quỳnh - Văn Lâm hiện nay, Bà đã hai lần thay thay chồng là Lý
Thánh Tông nhiếp chính. Bà cùng Lý Thường Kiệt, Lý Đạo Thành lãnh đạo
nhân dân ta chiến thắng quân Tống xâm lược, bà là tấm gương tiêu biểu của
truyền thống “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Thời Lê Lợi chống giặc Minh thế
kỷ XV, Hưng Yên có bà Đào Thị Huệ quê Đào Đặng - Tiên Nữ học thông, biết
rộng, hát hay múa giỏi, dung nhan, tài hoa, có công giết giặc.
36
Dưới chế độ cũ, phụ nữ Hưng Yên khổ cực trăm bề, luôn phải đối phó
với thiên tai, địch họa... quanh năm lao động vất vả mà vẫn đói rách. Chế độ
phong kiến thống trị lâu đời, lễ giáo khắc nghiệt, cùng sự đàn áp, bóc lột, của
bọn đế quốc xâm lược đã trói buộc họ trong tăm tối, dốt nát. Chính vì lẽ đó, khi
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo, giải phóng dân tộc, giải phóng phụ
nữ thoát khỏi cuộc đời nô lệ, lầm than. Chị em đã quyết tâm đi theo Đảng, cùng
chồng con tham gia đấu tranh đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành độc lập, tự
do cho tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân.
Sau năm 1997, với điều kiện mới của Tỉnh đã tác động trực tiếp đến
đời sống phụ nữ Hưng Yên. Phát huy truyền thống, cần cù, bước vào thời kỳ
mới, các tầng lớp phụ nữ trong Tỉnh đảm đang làm kinh tế gia đình, tích cực
học tập nâng cao hiểu biết, áp dụng khoa học - kỹ thuật trong sản xuất, tích
cực tham gia công tác xã hội, nuôi con khỏe, dạy con ngoan, xây dựng gia
đình hạnh phúc.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và truyền thống lịch sử - văn hóa
đem lại một số thuận lợi, đồng thời cũng hàm chứa những khó khăn, thách
thức, ảnh hưởng đến phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN tỉnh
Hưng Yên.
* Về thuận lợi
Một là: Là tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng châu thổ sông Hồng, tiếp
giáp với Thủ đô Hà Nội, có hệ thống giao thông thuận lợi đến các trung tâm
lớn của đất nước là Hà Nội, Hải Phòng, tỉnh Hưng Yên có điều kiện mở rộng
giao lưu kinh tế, văn hóa - xã hội, đặc biệt là phát triển các ngành thương mại,
dịch vụ và tiếp thu các thành tựu khoa học - kỹ thuật, nét văn hóa của các thành
phố lớn... Những điều kiện đó, tạo điều kiện cho nhân dân trong Tỉnh, trong đó
có tầng lớp phụ nữ, mở mang phát triển các ngành kinh tế nhất là các nông sản
hàng hóa và các sản phẩm của nghề thủ công nghiệp để cung cấp cho thị
trường rộng lớn.
Hai là: Là địa phương có điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi, với diện
tích đất nông nghiệp dồi dào, hệ thống sông ngòi phong phú, tạo kiều kiện để
37
tăng gia sản xuất, đặc biệt là trồng lúa, các cây ăn quả và chăn nuôi gia súc, gia
cầm. Với đất đai trù phú, thổ nhưỡng tương đối thuận lợi, cho phép các tầng
lớp nhân dân tăng cường thâm canh, tăng năng xuất cây trồng, vật nuôi, đảm
bảo phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, góp phần
đảm bảo đời sống vật chất cho các tầng lớp nhân dân, trong đó có phụ nữ.
Ba là: Với truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời, đặc biệt là tinh thần yêu
quê hương, đất nước và truyền thống cần cù trong lao động sản xuất. Bước vào
thời kỳ đổi mới, với đường lối và chủ trương đúng đúng đắn của Trung ương
Đảng và Đảng bộ Tỉnh, các tầng lớp nhân dân, nhất là phụ nữ, hăng hái sản
xuất, tiếp thu các thành tựu khoa học - kỹ thuật, để phát triển kinh tế nông
nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ để từng bước
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, góp phần xây dựng quê hương ngày
càng giàu mạnh.
* Khó khăn
Thứ nhất, là tỉnh có diện tích đất nông nghiệp tương đối rộng, song nhiều
vùng thuộc vùng chiêm trũng, chua, phèn, gây ảnh hưởng đến canh tác nông
nghiệp, đặc biệt là trồng lúa. Vì thế, so với nhiều địa phương thuộc vùng châu
thổ sông Hồng năng suất lúa và cây trồng ở Hưng Yên chưa cao. Bên cạnh đó,
nhiều địa phương, kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, nhất là hệ thống
đường giao thông còn lạc hậu, gây khó khăn cho các ngành công nghiệp, đặc
biệt là hình thành các khu công nghiệp tập trung. Vì thế, gây cản trở cho việc
chuyển đổi nghề nghiệp của nhân dân, trong đó có các tầng lớp phụ nữ.
Thứ hai, do điều kiện kinh tế - xã hội còn hạn chế, nên đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân, đặc biệt là các tầng lớp phụ nữ nông thôn còn khó
khăn, vì thế họ phải tập trung lao động, sản xuất để từng bước nâng cao đời
sống vật chất cho gia đình, ít có điều kiện tham gia các hoạt động xã hội. Điều
đó ảnh hưởng đến công tác vận động các tầng lớp phụ nữ tham gia công tác
Hội và các phong trào phụ nữ.
38
Thứ ba, đại đa số phụ nữ Hưng Yên là nông dân sống ở các vùng nông
thôn, trình độ dân trí còn thấp nên khả năng tiếp thu khoa học - kỹ thuật, công
nghệ còn hạn chế. Điều đó ảnh hưởng đến việc nâng cao năng suất lao động,
tiền lương và thu nhập cho phụ nữ. Bên cạnh đó, việc dạy nghề, đối với
những ngành nghề đòi hỏi kỹ năng, chuyên môn cao đối với phụ nữ còn hạn
chế nên phụ nữ ít có cơ hội tiếp cận với các công việc có thu nhập cao. Vì thế,
đại bộ phận phụ nữ ở Hưng Yên có thu nhập thấp, do vậy, họ phải thường
xuyên bươn trải để kiếm sống. Đó là cản trở lớn trong việc tập hợp cán bộ,
hội viên phụ nữ tham gia các phong trào phụ nữ và các hoạt động của Hội
LHPN tỉnh.
Thứ tư, với đặc thù của một tỉnh mới tái lập, công tác Hội LPHN của
tỉnh cũng còn nhiều bất cập như: số Hội viên chưa ổn định “245.870 hội viên
năm 1997” [77, tr.11], so với dân số Hưng Yên năm 1997 là 1.075.517 người,
thì số hội viên chưa đông đảo. Xã hội chuyển từ tập trung quan liêu bao cấp
sang cơ chế thị trường làm nhiều chị em mải làm kinh tế không quan tâm nhiều
đến tổ chức Hội. Trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ Hội vẫn còn nhiều hạn
chế (nhất là ở cấp cơ sở), chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ công tác Hội
“Cán bộ tỉnh Hội, huyện Hội thường xuyên xuống cơ sở để trực tiếp làm công
tác vận động phụ nữ, đặc biệt quan tâm giúp đỡ những cơ sở khó khăn” [87,
tr.298]; việc tham mưu, chỉ đạo, điều hành tổ chức hoạt động của Hội còn
nhiều lúng túng. Hoạt động của Hội chưa đáp ứng kịp thời những vấn đề đặt ra
với một số đối tượng phụ nữ như lao động nữ trong khu công nghiệp, khu chế
xuất; nữ thanh niên; phụ nữ cao tuổi; nữ doanh nhân. Việc giám sát thực hiện
luật pháp chính sách, công tác phản biện xã hội ở nhiều địa phương còn chưa
hiệu quả...
Thực tế đó, đòi hỏi Đảng bộ tỉnh phải đề ra những chủ trương, giải pháp
cụ thể, phù hợp, khoa học trong lãnh đạo công tác phụ nữ của Tỉnh nói chung
và lãnh đạo xây dựng, phát triển tổ chức hội và phong trào thi đua của Hội
39
LHPN tỉnh nói riêng đạt hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của tỉnh trong điều kiện
mới, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH.
2.1.3. Hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên trước
năm 1997
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), đề ra đường lối đổi mới toàn
diện, trước hết là đổi mới về kinh tế, nhằm phát huy tinh thần tự lực tự cường,
đưa đất nước thoát khỏi khó khăn, đi lên CNXH. Trước yêu cầu của công cuộc
đổi mới, nhiệm vụ chung của phong trào phụ nữ được Trung ương Hội LHPN
Việt Nam chỉ rõ: “Đoàn kết, tập hợp các tầng lớp phụ nữ, giáo dục, động viên
chị em tích cực tham gia phong trào người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ tổ
quốc” [87, tr.266].
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Hải Hưng (Hải Dương sáp nhập
cùng tỉnh Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng từ năm 1968) và sự chỉ đạo của
Trung ương Hội LHPN Việt Nam, trước năm 1997, phong trào phụ nữ và công
tác Hội Phụ nữ trên địa bàn tỉnh Hưng Yên đã có nhiều khởi sắc.
Thực hiện cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”, Hội
vận động chị em có điều kiện giúp chị em khó khăn về giống vốn, công lao
động, kinh nghiệm sản xuất, hướng dẫn chị em nâng cao nhận thức về làm kinh
tế gia đình, sử dụng vốn có hiệu quả. Kết quả của phong trào, tăng thêm một
khối lượng đáng kể về lương thực, thực phẩm, góp phần vào thắng lợi các
chương trình, mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh, “năm 1989 sản lượng lương
thực đạt 98,5 vạn tấn, chăn nuôi tăng 15,7%, đời sống nhân dân nói chung và
phụ nữ nói riêng được cải thiện và ổn định hơn, trình độ dân trí và đời sống
tinh thần được nâng lên” [87, tr.274].
Cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”, phù hợp với
tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp phụ nữ, nhất là phụ nữ nghèo. Từ việc
tương trợ giúp nhau làm kinh tế gia đình, đã nêu cao truyền thống “lá lành đùm
lá rách”, tăng thêm tình đoàn kết, thương yêu đùm bọc, sống với nhau trong
“nghĩa xóm tình làng”, trên cơ sở đó tổ chức Hội được củng cố. Qua việc thực
40
hiện đổi mới nội dung, phương thức hoạt động đem lại hiệu quả thiết thực, đã
động viên thu hút được đông đảo chị em tham gia, góp phần xây dựng phong
trào phụ nữ ngày càng vững mạnh.
Cuộc vận động “Nuôi dạy con tốt, góp phần hạn chế trẻ em suy dinh
dưỡng, trẻ em bỏ học”. Các cấp Hội đã nhận thức sâu sắc ý nghĩa tầm quan
trọng của 2 cuộc vận động liên quan, gắn bó mật thiết với nhau, đáp ứng
nguyện vọng của phụ nữ, trẻ em, góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội
và thực hiện chiến lược “con người” của Đảng và Nhà nước. Nhờ hoạt động
tích cực của các cấp Hội, “toàn tỉnh có 21.990 trẻ em bị suy dinh dưỡng, đã có
2.374 cháu trở lại sức khỏe bình thường. Vận động giúp đỡ vật chất được
2.419 cháu trở lại trường học trong tổng số 8.081 cháu học sinh cấp I bỏ học”
[87, tr.278].
Thực hiện công tác hậu phương quân đội, và các hoạt động văn hóa - xã
hội, hội vận động chị em tích cực tham gia thực hiện công tác hậu phương quân
đội, vận động phụ nữ chăm sóc bố mẹ liệt sĩ không nơi lương tựa, đỡ đầu con
liệt sĩ, nuôi dưỡng thương binh nặng…Vận động chị em có đủ điều kiện tham
gia dân quân tự vệ, động viên chồng, con thực hiện Luật nghĩa vụ quân sự. Để
thực hiện bảo vệ quyền lợi cho cho phụ nữ bằng pháp luật, Hội phụ nữ tích cực
can thiệp, đề xuất với các ngành tư pháp, tuyên truyền luật pháp giúp chị em
thực hiện tốt…
Trong điều kiện chuyển đổi cơ chế, tình hình xã hội có nhiều biến động,
phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội phụ nữ trên địa bàn Hưng Yên còn
những khó khăn và hạn chế nhiều mặt, chưa theo kịp với yêu cầu của thời kỳ
mới. Một số cấp Hội tuy có chuyển biến về nhận thức nhưng hoạt động còn
lúng túng, dàn trải. Năng lực, trình độ của cán bộ Hội còn chưa đáp ứng được
yêu cầu, một bộ phận cán bộ Hội nhận thức chưa đầy đủ về yêu cầu công tác
vận động phụ nữ trong tình hình mới, thiếu kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi
mới, làm việc theo lối hành chính, chưa thực sự nhiệt tình, tâm huyết với công
tác Hội, sự nghiệp bình đẳng giới; nội dung sinh hoạt chưa phù hợp với tâm tư,
nguyện vọng của quần chúng phụ nữ.
41
Điều đó thể hiện qua một số điểm hạn chế trong kết quả hoạt động của
Hội Phụ nữ thuộc địa bàn Hưng Yên từ 1992 - 1996: Tỷ lệ tập hợp thu hút hội
viên tham gia sinh hoạt mới đạt 65.08%, chưa tập hợp được đông đảo đối
tượng nữ thanh niên, phụ nữ cao tuổi, phụ nữ làm việc trong các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh, nữ doanh nhân, phụ nữ tiểu thương. Trong chỉ đạo chưa
quan tâm đúng mức đến tổng kết, kiểm tra đánh giá rút kinh nghiệm. Một số
cơ sở Hội chậm đổi mới, thiếu chủ động, nội dung hoạt động chưa thiết thực,
chưa đáp ứng được nhu cầu nguyện vọng của đông đảo phụ nữ. Đội ngũ cán
bộ nữ chủ chốt các cấp giảm, trình độ năng lực đội ngũ cán bộ Hội, cán bộ nữ
công cơ sở nhìn chung thấp so với yêu cầu trong thời kỳ CNH, HĐH. Trình độ
học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, chính trị, xã hội của phụ nữ còn thấp
so với nam giới; diện lao động nông nghiệp hầu như không được đào tạo.
Điều kiện làm việc, đời sống sức khoẻ của lao động nữ chưa được cải thiện,
thu nhập không ổn định. Trong công tác phối hợp liên ngành, mặc dù Hội có
nhiều cố gắng, song ở một số việc, một số cơ sở sự phối hợp chưa đồng bộ,
hiệu quả chưa cao. Còn một bộ phận phụ nữ tự ti, thụ động, thiếu nghị lực và
ý chí phấn đấu vươn lên.
2.2. CHỦ TRƯƠNG VÀ QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN CHỈ
ĐẠO HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH
2.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên
Sau khi tái lập Tỉnh (1997), Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đã chỉ đạo các cấp
ủy Đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị nhanh chóng bắt tay vào sắp
xếp, kiện toàn lại tổ chức, ổn định tình hình tư tưởng, đẩy mạnh mọi hoạt động,
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới. Việc Đảng bộ Tỉnh quan tâm thích đáng đến
công tác kiện toàn tổ chức, cán bộ của các cơ quan, đoàn thể trong tỉnh nói
chung, Hội LHPN tỉnh nói riêng là một điều kiện cần thiết và quan trọng, tạo
đà cho quá trình ổn định và từng bước phát triển của tổ chức Hội và phong trào
phụ nữ của một tỉnh mới được tái lập.
42
Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XIV (11-1997), trên cơ sở xác định rõ
những hạn chế của tỉnh mới tái lập và những yếu kém trong hoạt động của hệ
thống chính trị nói chung và Mặt trận Tổ quốc cùng các đoàn thể nói riêng, Đại
hội chỉ rõ: “Hiệu lực quản lý Nhà nước của chính quyền các cấp có nơi, có lúc
còn bộc lộ nhiều yếu kém. Thủ tục hành chính rườm rà, một bộ phận công chức
còn sách nhiễu, phiền hà dân, bệnh quan liêu cửa quyền...” [158, tr.14], “… Sự
lãnh đạo của cấp ủy, hoạt động của các đoàn thể chưa ngang tầm với sự tin cậy
và đòi hỏi của cán bộ đảng viên và nhân dân của tỉnh giàu truyền thống vừa
được tái lập, một số cấp ủy viên chưa sát dân và hiểu cơ sở…” [158, tr.15],
Trên cơ sở phân tích sâu sắc thực trạng hoạt động của hệ thống chính trị của
tỉnh, Đại hội xác định:
… Tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Các đoàn thể cần tập hợp rộng rãi
đối tượng hội viên dưới nhiều hình thức tổ chức đa dạng, thực hiện
tốt chức năng giáo dục, vận động quần chúng thực hiện thắng lợi
những nhiệm vụ cụ thể, chăm lo lợi ích thiết thực cho hội viên. Mỗi
đoàn thể cần có phong trào đặc trưng phù hợp, đại diện cho tầng lớp
mình tham gia công việc của Nhà nước. Hướng mạnh về cơ sở để
phát triển tổ chức, củng cố sinh hoạt, đào tạo cán bộ, khắc phục bệnh
quan liêu hành chính trong hoạt động của các đoàn thể [158, tr.33].
Để thực hiện Nghị quyết Đại hội, ngay trong năm 1997, Tỉnh ủy Hưng
Yên ban hành Chương trình hành động, trong đó nêu rõ “…Đổi mới phương
thức hoạt động của các đoàn thể quần chúng để gắn hoạt động thực tiễn cơ sở”
[159, tr.4].
Nhằm cụ thể hóa những quan điểm trên, tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Trung ương 8B (khóa VI) năm 1990, Nghị quyết 04-NQ/TW (1993) và Chỉ thị
số 37-CT/TW (khóa VII) năm 1994, Đảng bộ Tỉnh ban hành một số văn bản
chỉ đạo công tác vận động phụ nữ. Sau khi Ban vì sự tiến bộ của Phụ nữ tỉnh
Hưng Yên được kiện toàn (1998), Tỉnh ủy Hưng Yên tổ chức Hội nghị Ban
Chấp hành mở rộng triển khai thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW (1998) của Bộ
43
Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động
của các hội quần chúng”. Ban Thường vụ Tỉnh ủy cho ý kiến chỉ đạo hoạt động
của các hội quần chúng, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên,
hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương.
Nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị,
Đại hội đại biểu Đảng bộ Tỉnh lần thứ XV (2000), nêu rõ giải pháp nhằm phát
huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân: Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội, tiếp tục phát triển tổ
chức, kết nạp thêm hội viên, đoàn viên, không ngừng đổi mới nội dung phương
thức hoạt động, công tác hướng về cơ sở, gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội và lợi ích thiết thực của hội viên, đoàn viên, đẩy mạnh các phong trào thi
đua yêu nước nước: “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân
cư”; “Thanh niên lập nghiệp, tuổi trẻ giữ nước”; “Giữ gìn phát huy bản chất
tryền thống bộ đội cụ Hồ”; “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần
kiệm xây dựng đất nước”; “Ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo”; “công nhân viên
chức lao động thực hiện chương trình phục vụ nông nghiệp, lao động sáng tạo,
thi đua 2 giỏi”... Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các thành viên đã tích cực tham gia
vào hoạt động chính trị xã hội. Bầu cử đại biểu Quốc hội khóa X, bầu cử Hội
đồng nhân dân các cấp, xây dựng thực hiện quy chế dân chủ, giải quyết những
vấn đề nổi cộm ở cơ sở, cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng
củng cố chính quyền [160, tr.19].
Nghị quyết Đại hội chỉ rõ, phải quan tâm đến phụ nữ nghèo, cổ động phụ
nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, để đời sống chị em được đảm bảo. Để
thực hiện được chủ trương đó, Hội LHPN tỉnh đã giải quyết tốt nguồn vốn vay
và xây dựng các mô hình phát triển kinh tế ở các địa phương. Đồng thời, “…
Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân, khắc phục tình trạng hành chính hóa, quan liêu; hướng về cơ sở,
nâng cao chất lượng hiệu quả công tác vận động quần chúng...” [160, tr.51-52].
44
Như vậy, trong 2 nhiệm kỳ, Đảng bộ Tỉnh đã quan tâm chỉ đạo sát sao Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị, trong đó có Hội LHPN tỉnh.
Quan điểm đó tiếp tục được Tỉnh ủy khẳng định trong Báo cáo tổng kết
việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 8B (khóa VI) năm 1990; Về đổi mới
công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân
dân và các nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị về công tác dân vận, mặt
trận, dân tộc và tôn giáo trong thời kỳ đổi mới.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, tổ chức xã hội cần tiếp tục nắm
chắc vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của mình để xây dựng nội
dung chương trình công tác nhằm phục vụ đắc lực nhiệm vụ chính trị
của tỉnh, của từng địa phương, đơn vị. Thông qua hoạt động thực tiễn
củng cố tổ chức, xây dựng con người mới, coi trọng chất lượng hiệu
quả, khắc phục tệ phô trương, hình thức, không ngừng phát triển
nâng cao chất lượng đoàn viên, hội viên và tổ chức cơ sở của đoàn
của hội [161, tr.22].
Thực hiện Chỉ thị thị số 42-CT/TW (1998) của Bộ Chính trị về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của các hội quần
chúng”, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI (2005) nhấn mạnh:
... Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong việc
tổ chức, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước... tiếp tục đổi mới phương
thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể theo phương
châm hướng về cơ sở, vì cơ sở, bảo đảm thiết thực, hiệu quả, chống
quan liêu hình thức. Từng đoàn thể cần phát động và duy trì tốt các
phong trào quần chúng mang sắc thái riêng của mình vừa thiết thực
với đoàn viên, hội viên, có tác dụng xây dựng tổ chức đoàn thể vững
mạnh phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ... [162, tr.52].
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
(khóa X) Về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động
45
của hệ thống chính trị, Tỉnh ủy Hưng Yên ban hành Kế hoạch số 43 và Kế
hoạch số 51 KH/TU, chỉ rõ: “Ban Thường vụ cấp ủy cho ý kiến định hướng
công tác lớn trong từng thời gian về chương trình, nội dung hoạt động hàng
năm của Mặt trận Tổ quốc và cá đoàn thể chính trị - xã hội, phát huy tính chủ
động, sáng tạo, các hình thức tổ chức hoạt động, sự gắn bó với nhân dân, tăng
cường công tác dân vận khắc phục tình trạng hành chính hóa hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội” [167, tr.3]. Từ thực tiễn
thực hiện chủ trương của Đảng bộ Tỉnh, Về tiếp tục đổi mới phương thứclãnh
đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị, “...Các cấp ủy chính
quyền, đoàn thể cán bộ, đảng viên đã nắm được mục tiêu, quan điểm chỉ đạo,
nhiệm vụ và giải pháp, để nâng cao chất lượng hoạt động của Hội phụ nữ các
cấp” [168, tr.3]. Tỉnh ủy chủ trương: “...Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo
của cấp ủy đối với hệ thống chính trị của địa phương, nhằm giữ vững và tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của chính quyền, hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội” [168, tr.3]
Trên cơ sở đó, Báo cáo Kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh, khóa XV và kết quả thực hiện cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng
trình Đại hội XVI (2005), Đảng bộ tỉnh nhấn mạnh: “... Tăng cường sự lãnh đạo
đối với công tác cựu chiến binh, phụ nữ, thanh niên...” [162, tr.76].
Như vậy, trong những những năm (1997-2005), Đảng bộ tỉnh Hưng Yên
đã đề ra những chủ trương về công tác phụ nữ và lãnh đạo hoạt động của Hội
LHPN, được thể hiện tập trung ở một số nội dung cơ bản sau:
Một là, khắc phục những hạn chế của các cấp ủy đảng, chính quyền đối
với việc lãnh đạo hoạt động của Hội LHPN và phong trào phụ nữ, trên cơ sở đó
tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đối với tổ chức hội các cấp.
Hai là, từng bước đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các cấp
Hội nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội phụ nữ các cấp và
phong trào phụ nữ trong toàn tỉnh, góp phần huy động năng lực, trí lực của các
tầng lớp phụ nữ vào sự nghiệp đổi mới.
46
Ba là, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ phụ nữ làm nòng cốt để vận
động các tầng lớp phụ nữ vào sinh hoạt trong Hội phụ nữ các cấp. Bên cạnh đó,
chú trọng phát triển hội viên tại các địa phương và các ngành nghề, thành phần
kinh tế, theo hướng hướng về cơ sở.
2.2.2. Đảng bộ tỉnh chỉ đạo hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh
2.2.2.1. Chỉ đạo nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của các
cấp ủy Đảng, chính quyền đối với hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh
Các cấp ủy Đảng từ tỉnh đến cơ sở nhận thức rõ vấn đề thực hiện quyền
bình đẳng cho phụ nữ, tạo điều kiện cho phụ nữ tiến bộ là mục tiêu quan trọng
của cách mạng, có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến sự phát triển của đất
nước. Do đó, việc quan tâm, chăm sóc, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ
và Hội LHPN tỉnh là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục của các cấp ủy Đảng,
chính quyền và toàn thể nhân dân.
Được sự quan tâm của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo sát với
tình hình thực tiễn. Căn cứ Chỉ thị số 646/TTg, ngày 7-1-1994 của Thủ tướng
Chính phủ về tổ chức hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ ở các Bộ, ngành, địa
phương, ngày 15-11- 2001, Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên ra Quyết định số
2609/QĐ-UB về việc kiện toàn Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ Hưng Yên. Ngày
03-12-2002, Thường trực Tỉnh ủy Hưng Yên ra Thông báo số 261/TB-TU Về
Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ Hưng Yên đến năm 2005. Tiếp
đó, ngày 20-10-2003, Uỷ ban nhân dân tỉnh ra Quyết định số 58/2003/QĐ - UB
v/v ban hành Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ Hưng Yên đến năm
2005. Quyết định chỉ rõ bốn mục tiêu:
Một là, thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực giáo dục.
Hai là, thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực chăm
sóc sức khỏe.
Ba là, nâng cao vai trò, vị trí và tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong
bộ máy lãnh đạo.
Bốn là, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy vì sự tiến
bộ của phụ nữ.
47
Để Hội LHPN tỉnh hoạt động hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của giai
đoạn mới, ngoài sự lãnh đạo sát sao, trực tiếp của Tỉnh ủy, sự phối hợp giữa các
cấp ủy Đảng, chính quyền cũng đóng vai trò quan trọng. Đảng bộ Tỉnh chỉ đạo
nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền
đối với Hội LHPN, yêu cầu các cấp ủy Đảng, chính quyền và các ban, ngành,
đoàn thể trong tỉnh quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện, phối hợp cùng với các cấp
Hội hoàn thiện bộ máy tổ chức Hội và đổi mới hoạt động. Để nâng cao hiệu
quả chỉ đạo, Đảng bộ tỉnh vận dụng linh hoạt các phương thức lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Thứ nhất, thông qua biện pháp tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục
Năm đầu mới tái lập Tỉnh (1997), công tác tuyên truyền, giáo dục tư
tưởng, pháp luật, cho phụ nữ ở một số cơ sở Hội chưa được đầu tư và quan tâm
đúng mức; đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên chưa đáp ứng yêu cầu; chất
lượng tuyên tuyền chưa cao, năng lực của một số cán bộ Hội còn hạn chế, chưa
sáng tạo, nhạy bén trong tổ chức các hoạt động ở cơ sở; một số cơ sở Hội còn
lúng túng trong việc xây dựng kế hoạch hoạt động, thiếu những giải pháp cụ
thể. Hiệu quả công tác giám sát thực hiện luật pháp, chính sách chưa cao; chất
lượng công tác kiểm tra thực hiện nghị quyết của một số cơ sở Hội còn thấp.
Để nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, Đảng bộ Tỉnh chú trọng
chỉ đạo các cơ quan tham mưu giúp việc của Tỉnh ủy như: Ban Tuyên giáo,
Ban Dân vận vận dụng nhiều biện pháp tuyên truyền sâu rộng những chỉ thị,
nghị quyết, chương trình, kế hoạch về công tác vận động phụ nữ mà Đảng bộ
tỉnh đã đề ra trong những năm từ năm 1997 đến năm 2005 đến đông đảo cán
bộ, đảng viên, quần chúng trong tỉnh. “trong việc tổ chức chỉ đạo thực hiện, hội
phụ nữ coi trọng công tác kết hợp với các ngành chức năng, đặc biệt quan tâm
đến đội ngũ báo cáo viên” [77, tr.8], “Các cấp hội chủ động thực hiện Nghị
quyết của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), tăng cường phối hợp với các
cấp chính quyền, các Ban, ngành đoàn thể giám sát việc thực thi chính sách,
Pháp luật liên quan trực tiếp đến phụ nữ và trẻ em” [83, tr.12]; từ đó, “Chủ
động thúc đẩy sự phối hợp giữa các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ với chính quyền,
48
nhằm thực hiện có hiệu quả việc tham gia quản lý Nhà nước theo tinh thần
Nghị định 19/2003/NĐ-CP của Chính phủ” [94, tr.18].
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ chỉ đạo Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ giữ vai trò
nòng cốt trong việc chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan, hướng dẫn, đôn
đốc việc quán triệt, tuyên truyền nội dung các nghị quyết, chỉ thị của Trung
ương và Tỉnh ủy liên quan đến công tác vận động quần chúng, vận động phụ
nữ; đồng thời, tăng cường chỉ đạo tuyên truyền trên các phương tiện thông tin
đại chúng về những đóng góp, cống hiến của Hội Phụ nữ vào thành tích chung
của tỉnh.
Trên cơ sở chỉ đạo của Đảng bộ Tỉnh, công tác tuyên tuyền của Hội
LHPN đã có những kết quả rõ rệt:
Hội phụ nữ các cấp trong tỉnh đã coi công tác tuyên truyền, giáo
dục là nhiệm vụ hàng đầu… Các cấp đã đa dạng hình thức tuyên
truyền như: tổ chức mít tinh, học tập, tọa đàm, gặp mặt, sinh hoạt
câu lạc bộ, tuyên truyền trên Đài, báo, truyền hình. Năm 1998 tỉnh
hội phụ nữ đã ký hợp đồng với Đài truyền hình tỉnh mở chuyên
mục phụ nữ vào tối thứ 5 tuần đầu của tháng để tuyên truyền kịp
thời những hoạt động của Hội [79, tr.2].
Trong công tác tuyên truyền giáo dục, Hội LHPN tỉnh rất chú trọng triển
khai nghị quyết của Trung ương, của tỉnh. Đến năm 2001 “Hội thường xuyên
bám sát sự định hướng, chỉ đạo công tác tuyên truyền của Ban Tuyên giáo Tỉnh
ủy, những chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, của tỉnh
đều được tuyên truyền đến cán bộ, hội viên phụ nữ” [84, tr.2].
Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh Hưng Yên lần thứ XIII (2006) nhấn mạnh
“Công tác tuyên truyền giáo dục cần được tiếp tục đẩy mạnh, đa dạng hóa các
hình thức tuyên truyền. Tăng cường thông tin, tọa đàm, hội thảo. Nâng cao chất
lượng sinh hoạt câu lạc bộ nữ, câu lạc bộ chuyên đề” [94, tr.18].
Để thực hiện được những mục tiêu trên, Tỉnh ủy yêu cầu các cấp ủy
đảng, các ngành, đoàn thể tập trung tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cán
49
bộ đảng viên về công tác nữ, xây dựng cán bộ Hội và tạo cơ chế hoạt động cho
Hội LHPN.
Nhờ vậy, công tác tuyên truyền của Hội ngày càng phong phú, giúp cho
việc phối hợp hợp với các cơ quan liên ngành tuyên truyền một cách thuyết
phục, góp phần xây dựng tổ chức Hội ngày càng vững mạnh.
Thứ hai, thông qua công tác kiểm tra, giám sát
Trong quá trình chỉ đạo, triển khai tổ chức thực hiện, Đảng bộ tỉnh chú
trọng đến công tác kiểm tra, giám sát nhằm phát hiện những mô hình tốt,
những kinh nghiệm hay; đồng thời, kịp thời uốn nắn, điều chỉnh, chỉ đạo khắc
phục những vấn đề còn hạn chế, thiếu sót trong tổ chức thực hiện.
Từ năm 1997 đến năm 2005, nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng,
mỗi cấp ủy Đảng trong tỉnh đều xây dựng quy chế, quy định về mối quan hệ, lề
lối làm việc giữa Ban Thường vụ, cấp ủy đối với Đảng Đoàn, Ban Thường vụ,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội nói chung, Hội
LHPN nói riêng. Qua các cuộc giao ban định kỳ hàng quý, 6 tháng, năm, cấp
ủy kịp thời nắm bắt và định hướng chỉ đạo đối với hoạt động của tổ chức Hội
LHPN trong xây dựng phát triển tổ chức và đổi mới hoạt động của Hội.
Ngay sau khi tái lập Tỉnh (1997), Chương trình hành động thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lần thứ XIV(11-1997) chỉ rõ “tiếp
tục kiện toàn bộ máy các cấp, tăng cường công tác kiểm tra, đảm bảo chấp
hành nghiêm chỉnh các cơ chế quản lý, chính sách Pháp luật của Nhà nước
trong các ngành, các cấp, trong các đơn vị kinh tế, trong nhân dân” [159, tr.4].
Trên cơ sở chỉ đạo của Đảng bộ Tỉnh, Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh Hưng
Yên lần thứ XI (1997) khẳng định: “So với những nhiệm kỳ trước, công tác
nghiên cứu, kiểm tra bước đầu đã có chuyển biến” [77, tr.13]. Từ đó, Đại hội
đại biểu phụ nữ tỉnh Hưng Yên lần thứ XII (2001) rút ra bài học kinh nghiệm:
“Trong từng thời gian, xác định việc trọng tâm để tập trung chỉ đạo, tăng cường
công tác kiểm tra, đánh giá rút kinh nghiệm kịp thời” [83, tr.18].
50
Thông qua sự chỉ đạo của Đảng bộ Tỉnh, Hội LHPN tỉnh Hưng Yên đã
thực hiện nghiêm túc công tác kiểm tra giám sát. Chương trình công tác năm
1999 của Hội LHPN tỉnh Hưng Yên tập trung vào những nội dung:
Phối hợp với Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ tiến hành kiểm tra định
kỳ việc thực hiện chương trình hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Phối hợp với Liên đoàn Lao động cùng cấp kiểm tra, giám sát việc
thực hiện chính sách đối với lao động nữ trong các khu vực kinh tế,
chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em. Tổ chức thực hiện kế
hoạch kiểm tra định kỳ việc thực hiện Nghị quyết và điều lệ ở các
cấp hội [80, tr.7].
Đặc biệt, năm 2004, Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ đã tiến hành các cuộc
kiểm tra:
Kết quả kiểm tra cho thấy, các sở, ngành, đơn vị huyện, thị, đã
tích cực triển khai Kế hoạch hành động, hoạt động vì sự tiến bộ
của phụ nữ đã có bước chuyển biến tích cực: Nhận thức của các
cấp lãnh đạo về vai trò của Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ đã rõ rệt
hơn, đã có sự quan tâm đầu tư về nguồn lực cho việc thực hiện
Kế hoạch hành động, ở một số ngành thực hiện tốt lồng ghép các
chỉ tiêu của Kế hoạch hành động vào chương trình hoạt động của
đơn vị [24, tr.5].
Như vậy, trong chỉ đạo thực tiễn, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên rất chú trọng
công tác kiểm tra, giám sát, nhờ đó, trong quá trình thực hiện của các cấp hội
đã đạt được những kết quả đáng khích lệ; từ đó, có cơ sở thực tiễn đưa ra
những chủ trương mới phù hợp, cho giai đoạn tiếp theo.
Thứ ba, chỉ đạo tổng kết quá trình thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng
về công tác phụ nữ và công tác Hội
Thông qua Báo cáo từ các đoàn kiểm tra, đã cung cấp cho Đảng bộ
Tỉnh những cơ sở để đánh giá kết quả quá trình quán triệt, triển khai thực hiện
51
nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác vận động phụ nữ và công tác cán bộ
nữ trên địa bàn Tỉnh. Đó cũng là dữ liệu để Đảng bộ nghiên cứu, kịp thời điều
chỉnh, xây dựng những nội dung chỉ đạo thực hiện nghị quyết và chỉ thị hiệu
quả và sát hợp hơn nữa.
Thực hiện “Chương trình nghiên cứu và kiểm tra, giám sát”, công tác
của Hội phụ nữ được đưa vào nội dung chỉ đạo của cấp ủy; đề xuất kịp thời
những chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước đối với phụ nữ, trẻ em. Hội
phụ nữ thường xuyên theo dõi việc thực hiện nghị quyết của Đảng về những
vấn đề có liên quan đến công tác phụ nữ, phát hiện và đề xuất kịp thời với lãnh
đạo và các ngành chức năng, giải quyết, bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ
nữ và trẻ em [87, tr.294].
Việc tổng kết quá trình thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, về công
tác phụ nữ và công tác Hội được tiến hành thường xuyên:
Do có sự chăm lo của Đảng đối với phong trào phụ nữ, hoạt động
của các cấp Hội phụ nữ, đội ngũ cán bộ Hội, cán bộ nữ: Trung ương
Đảng có nhiều Chỉ thị, Nghị quyết về công tác phụ nữ như: Nghị
quyết số 8B Về công tác vận động quần chúng; Nghị quyết số 04 của
Bộ Chính trị về Đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ
trong tình hình mới, Chỉ thị số 37 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
về Một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới, Trong quá
trình chỉ đạo, tổ chức, triển khai thực hiện Tỉnh ủy tăng cường kiểm
tra, giám sát, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm trong việc tổ chức,
tập hợp lực lượng to lớn của phụ nữ tham gia các phong trào hành
động cách mạng. Chỉ đạo các cấp ủy quan tâm, tạo điều kiện thuận
lợi cho các cấp Hội và phong trào phụ nữ hoạt động có hiệu quả tốt
hơn [87, tr.299].
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh, Ủy ban nhân dân Tỉnh chỉ đạo
các cấp chính quyền, các sở, ban, ngành quán triệt, triển khai thực hiện tốt
52
bình đẳng giới, phấn đấu vì sự tiến bộ của phụ nữ; đảm bảo quyền lợi chính
đáng của phụ nữ; cấp ủy, chính quyền các cấp chú trọng xây dựng đội ngũ
cán bộ nữ có trình độ, nữ cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp, đáp ứng yêu cầu
đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH; tạo điều kiện để phụ nữ phát huy vai trò
nòng cốt xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, tham gia
phát triển kinh tế - xã hội ở đơn vị, địa phương, cơ sở; xây dựng người phụ
nữ Việt Nam có sức khỏe, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, tự tin, tự trọng,
trung hậu, đảm đang; xây dựng, củng cố tổ chức Hội LHPN các cấp trong
tỉnh thực sự vững mạnh, phát huy vai trò nòng cốt trong công tác vận động
phụ nữ.
2.2.2.2. Chỉ đạo xây dựng tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ Hội Liên
hiệp Phụ nữ và phát triển hội viên
Từ năm 1997 đến năm 2005, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên chỉ đạo Đảng
đoàn Hội LHPN tỉnh tích cực ổn định tình hình tư tưởng cán bộ, từng bước bổ
sung đội ngũ cán bộ Hội cấp cơ sở. Việc Đảng bộ tỉnh quan tâm thích đáng
đến công tác kiện toàn tổ chức, cán bộ của các cơ quan, đoàn thể trong tỉnh
nói chung, Hội LHPN tỉnh nói riêng trong thời gian đầu tách tỉnh là một điều
kiện cần thiết và quan trọng, tạo đà cho quá trình ổn định và từng bước kiện
toàn, xây dựng tổ chức Hội và lãnh đạo hoạt động của Hội LHPN tỉnh trong
những năm 1997-2005.
Ngay sau khi tái lập Hội LHPN tỉnh Hưng Yên, Đảng bộ tỉnh chỉ đạo
Hội LHPN tỉnh nhanh chóng ổn định tình hình, chuẩn bị nhân sự cho Đại
hội phụ nữ - là đoàn thể chính trị đầu tiên của tỉnh tổ chức Đại hội ngay sau
khi tái lập tỉnh. Tháng 4-1997, Đại hội đại biểu Phụ nữ tỉnh Hưng Yên lần
thứ XI được khai mạc trọng thể tại Thị xã Hưng Yên. “Đại hội kiểm điểm 5
năm thực hiện Nghị quyết Đại hội phụ nữ nhiệm kỳ 1992-1997; đề ra
phương hướng, nhiệm vụ của phong trào phụ nữ và công tác Hội nhiệm kỳ
1997-2001 và bầu Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh gồm 25 ủy
53
viên, đồng chí Doãn Thị Thanh Hoa được bầu làm Chủ tịch Hội” [87, tr.282-
283]. Như vậy, ngoài việc đề ra những nhiệm vụ, phương hướng của phong
trào phụ nữ và công tác Hội, Đại hội cũng kiện toàn bộ máy tổ chức Hội,
bầu ra BCH mới lãnh đạo Hội LHPN tỉnh.
Cùng với sự kiện toàn về tổ chức, Hội LHPN tỉnh cũng chú trọng công tác
phát triển hội viên, Đại hội nêu rõ: “5 năm qua đã phát triển 23.352 hội viên, đưa
tổng số hội viên trong toàn tỉnh từ 222.518 hội viên năm 1992 lên 245.870 hội
viên năm 1997” [77, tr.11];
Công tác tổ chức và cán bộ của Hội phụ nữ đã có những chuyển biến tích
cực, tổ chức Hội được củng cố và phát triển, đội ngũ cán bộ Hội trưởng thành.
Song công tác tổ chức cán bộ còn nhiều hạn chế so với yêu cầu đổi mới nội
dung phương thức hoạt động của Hội trong giai đoạn mới.
Đề cập đến kết quả công tác Hội, Đại hội chỉ rõ:
Về vấn đề quy hoạch cán bộ: Thực hiện chỉ đạo chung của Tỉnh ủy về
công tác quy hoach các cấp các ngành, các cấp huyện thị, cơ sở đã thực
hiện xong, Ban tổ chức đã tổ chức Hội nghị nghiên cứu tiêu chuẩn cán
bộ cấp tỉnh, bỏ phiếu thăm dò Ban Chấp hành phụ nữ tỉnh… Hội phối
hợp với trường Chính trị tỉnh mở lớp bồi dưỡng cho 120 cán bộ cơ
sở… toàn tỉnh đã kết nạp được 479 đảng viên [78, tr.8].
Chương trình công tác năm 1999 của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng
Yên được nêu cụ thể: “Các cấp hội tham gia tích cực, có hiệu quả trong việc
giới thiệu nhân sự, hiệp thương, bầu cử nhằm đạt chỉ tiêu nữ Đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp từ 25% trở lên. Tích cực bồi dưỡng, đề xuất giới thiệu đảng
viên trẻ” [80, tr.6].
Trong nhiệm kỳ (2001-2006), chất lượng BCH các cấp được nâng lên rõ
rệt, tuổi bình quân của Ủy viên BCH trẻ hơn nhiệm kỳ trước, trình độ chuyên
môn lý luận chính trị cao hơn.
54
Về độ tuổi:
- Cấp cơ sở tuổi BCH bình quân là 42,2 (trẻ hơn nhiệm kỳ trước 3,8 tuổi)
- Cấp huyện, thị có độ tuổi bình quân BCH là 41,8 (trẻ hơn nhiệm kỳ
trước 1 tuổi)
- Cấp tỉnh, độ tuổi bình quân BCH là 43,4 (trẻ hơn nhiệm kỳ trước 1,1 tuổi)
Về trình độ chuyên môn, lý luận chính trị
Trong công tác cán bộ, các cấp Hội tích cực tham mưu với Thường trực
tỉnh ủy tổng kết và chỉ đạo các cấp ủy Đảng đánh giá tổng kết Chỉ thị 37-
CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Công tác cán bộ nữ trong tình
hình mới”. Xây dựng, kiểm tra, giám sát, thực hiện kế hoạch hành động Vì sự
tiến bộ của phụ nữ tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2001 - 2005. Xây dựng trình tỉnh
ủy phê duyệt, phối hợp với Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh và Trường Cán
bộ phụ nữ Trung ương thực hiện đề án mở lớp “Trung cấp lý luận chính trị và
nghiệp vụ phụ vận” thời gian 2,5 năm cho cán bộ Hội và cán bộ nguồn góp
phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Hội. Trên cơ sở đó các cấp Hội đặc
biệt quan tâm chăm lo, xây dựng dội ngũ cán bộ Hội, đặc biệt là cán bộ Hội cơ
sở, coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng bằng nhiều hình thức: Trong 5 năm đã
có 58.948 lượt cán bộ chuyên trách các huyện - thị, Chủ tịch, Phó chủ tịch, ủy
viên BCH phụ nữ cơ sở, tổ trưởng phụ nữ, chủ nhiệm câu lạc bộ được bồi
dưỡng nghiệp cụ, kỹ năng công tác Hội tại Trường, Trung tâm chính trị của
Tỉnh và các huyện - thị. 100% cán bộ phong trào cấp tỉnh và 84,4% cán bộ
chuyên trách cấp huyện - thị có trình độ đại học, cao đẳng trở lên, 60% ủy viên
BCH cơ sở có trình độ văn hóa phổ thông trung học, trong đó 35% có trình độ
chuyên môn, lý luận chính trị từ trung cấp trở lên, 45,6% Chủ tịch Hội LHPN
cơ sở đạt chuẩn cán bộ công chức cơ sở [94, tr.11]
Những số liệu trên đã phản ánh rõ số lượng và chất lượng Ban Chấp
hành các cấp ngày càng phát triển, đáp ững yêu cầu của công tác Hội trong
những thời gian tiếp theo.
55
Các cấp Hội phụ nữ đã tích cực, chủ động giới thiệu những cán bộ nữ,
cán bộ Hội tiêu biểu tham gia cấp ủy Đảng, Hội đồng Nhân dân các cấp góp
phần tăng tỷ lệ nữ về số lượng và chất lượng so với nhiệm kỳ trước:
Tỷ lên nữ đại biểu Quốc hội là 28,6%, tỷ lệ nữ cấp ủy nhiệm kỳ (2005 -
2010) bình quân ba cấp đạt 14,5%, tỷ lệ nữ Hội đồng Nhân dân ba cấp nhiệm
kỳ (2004 - 2009) bình quân đạt 25,2%, đảng viên kết nạp hàng năm nữ chiếm tỉ
lệ trên 50% [94, tr.5]. Như vậy chứng tỏ sự lỗ lực vươn lên của phụ nữ vai trò
và vị thế của họ ngày càng được nâng lên trong gia đình và xã hội.
Với đội ngũ cán bộ Hội vững về chuyên môn nghiệp vụ và trình độ lý
luận chính trị, nhờ các mô hình hoạt động sáng tạo tích cực được xây dựng ở
cơ sở, giúp cho việc tập hợp hội viên ngày càng đa dạng, hiệu quả “Tổng số hội
viên đến nay thu hút trên 70% số phu nữ từ 18 tuổi trở lên, trong đó phát triển
mới được 15.843 hội viên” [83, tr.14]; tổng số hội viên là 201.758, đạt 75,6%,
tăng lên đáng kể so với năm 2001 [94, tr.27].
Như vậy, số lượng hội viên có sự phát triển rõ rệt, chất lượng đội ngũ cán
bộ Hội ngày càng được nâng lên. Không chỉ ở cấp tỉnh, Đảng bộ một số huyện,
thành phố trong tỉnh cũng quan tâm đến công tác xây dựng tổ chức và đội ngũ
cán bộ của các cấp Hội Phụ nữ. Đội ngũ cán bộ Hội phụ nữ 3 cấp đã được
Đảng bộ tỉnh quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, rèn luyện. Đây là điều kiện
tiên quyết để Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh phát triển cơ sở Hội và thúc đẩy hoạt
động Hội LHPN trong giai đoạn tiếp theo.
Trong những những năm 1997-2005, phong trào phụ nữ và công tác Hội
LHPN tỉnh Hưng Yên tuy đã đạt được một số kết quả quan trọng, bước đầu đổi
mới nội dung và phương thức hoạt động theo tinh thần nghị quyết của Trung
ương Hội LHPN Việt Nam và sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên, nhưng
kết quả đạt được chưa rõ nét, chưa theo kịp với yêu cầu của thời kỳ mới, thậm
chí còn những hạn chế trong xây dựng phát triển tổ chức Hội và vận động phụ
56
nữ. Tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo quản lý trong các cơ quan, doanh nghiệp còn
thấp, chưa tương xứng với tiềm năng lực lượng phụ nữ. Phong trào phụ nữ
chưa đồng đều ở các cơ sở Hội trong Tỉnh.
2.2.2.3. Chỉ đạo các phong trào thi đua yêu nước, chăm lo, bảo vệ lợi
ích hợp pháp, chính đáng của hội viên
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, sự quan tâm sâu
sắc của Trung ương Hội LHPN Việt Nam, thực hiện phong trào thi đua “Phụ nữ
tích cực học tập, lao động sáng tạo xây dựng gia đình hạnh phúc” do Đại hội
phụ nữ toàn quốc lần thứ VIII (1997) phát động, Ban Thường vụ Hội LHPN
tỉnh Hưng Yên đã xây dựng kế hoạch hướng dẫn và chỉ đạo các huyện thị, đơn
vị, ban nữ công liên đoàn lao động căn cứ vào tình hình thực tế của đơn vị xây
dựng kế hoạch gắn nội dung phong trào thi đua của Hội với những phong trào
cụ thể.
Sau một năm tái lập tỉnh, năm 1998, căn cứ Kế hoạch hướng dẫn công
tác thi đua của Trung ương hội, BCH tỉnh Hội phụ nữ Hưng Yên đã cụ thể hóa
bằng kế hoạch hướng dẫn thi đua của tỉnh triển khai đến các đơn vị. Kết quả,
đến năm 2000 “Các cấp Hội, ban nữ công, đơn vị trực thuộc tiếp tục đẩy mạnh
hai phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình
hạnh phúc” và “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm xây
dựng đất nước”, quán triệt 5 tiêu chuẩn thi đua của hai phong trào, vận động
chị em đăng ký thực hiện, toàn Tỉnh có 125.936 hội viên nữ được phổ biến,
bằng 80%; số Hội viên đăng ký thực hiện là 75.562, bằng 60%; số Hội viên đạt
xuất sắc là 15.112, bằng 19%” [82, tr.1].
Nhằm nâng cao hiệu quả các phong trào phụ nữ, Hội LHPN tỉnh tổ chức
các hội thi: “Cán bộ Hội phụ nữ cơ sở giỏi - tiếng hát ru” ở ba cấp; Hội thi
“Truyền thống cuốn sách cần cho sự sống”; “Tuyên truyền về sữa mẹ”; “Tìm
hiểu kiến thức pháp luật, kiến thức gia đình”. Bên cạnh đó, hoạt động Câu lạc
bộ phụ nữ cũng là hoạt động nổi bật. Đến năm 2001, toàn tỉnh đã có trên 700
57
câu lạc bộ, trong đó hơn 400 câu lạc bộ của các cơ sở nữ công và hơn 300 câu
lạc bộ ở các tổ, chi Hội phụ nữ. Những đơn vị tiêu biểu là Hội Phụ nữ các
huyện: Phù Cừ, Văn Lâm, xã Phùng Hưng (Khoái Châu) và phường Hồng
Châu (Thị xã Hưng Yên) [83, tr.8].
Tiếp đó, năm 2002, Hội LHPN tỉnh tiếp tục triển khai thực hiện phong
trào thi đua“Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh
phúc”cấp tỉnh. Trong đó, 100% cơ sở Hội tổ chức, học tập, quán triệt nội dung,
tiêu chuẩn phong trào thi đua tới cán bộ, hội viên và tổ chức cho chị em đăng
ký thực hiện 3 tiêu chuẩn thi đua của phong trào. Kết quả, có 267.059 lượt cán
bộ, hội viên phụ nữ được phổ biến nội dung 3 tiêu chuẩn của phong trào trong
đó số người đăng ký thực hiện là 188.257, số người đạt 3 tiêu chuẩn là 57.793,
số gia đình đạt 4 chuẩn mực “Gia đình no ấm, bình đẳng tiến bộ, hạnh phúc” là
57.793. Các bộ, hội viên phụ nữ trong Tỉnh tích cực tham gia vào các hoạt
động: học tập chủ trương của Đảng, pháp luật chính sách của Nhà nước, học
tập Nghị quyết Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ IX, học tập Nghị quyết Hội
nghị BCH các cấp Hội, giáo dục truyền thống, phẩm chất của người phụ nữ
Việt Nam, đã có 93.710 lượt cán bộ hội, 2.470.905 lượt hội viên và 1.484.164
lượt phụ nữ tham gia [86, tr.2].
Phong trào,“Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm xây
dựng đất nước” được chú trọng. Các cấp Hội đã phát động phong trào thi đua
sâu rộng trong các tầng lớp phụ nữ, lấy chương trình “Hỗ trợ tạo việc làm, tăng
thu nhập” làm cốt lõi, chủ trương này được đông đảo các tầng lớp phụ nữ trong
tỉnh hưởng ứng tích cực và đạt được những kết quả tích cực. Hội Phụ nữ đã
khơi dậy tiềm năng to lớn, sức sáng tạo và truyền thống nhân ái “lá lành đùm lá
rách” của dân tộc, tạo nên phong trào sâu rộng trong các tầng lớp phụ nữ, tự
nguyện giúp nhau giống, vốn, ngày công” [85, tr.4].
Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội LHPN tỉnh đã tổng kết các cuộc
vận động:“Phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc,
58
phong trào thi đua phong trào “Giúp phụ nữ nghèo có địa chỉ, xóa nhà tranh
cho phụ nữ nghèo”. “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giảm hộ nghèo, tăng thu
nhập”... Căn cứ vào quy chế phối hợp, trong chỉ đạo thực hiện các hoạt động
của Hội và triển khai thực hiện phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao
động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, Hội LHPN tỉnh đã quan tâm chỉ
đạo các cấp Hội trong tỉnh chú ý lồng ghép chặt chẽ với việc tham gia thực
hiện các phong trào, các cuộc vận động do Mặt trận Tổ quốc và các ngành phát
động như cuộc vận động:“Xây dựng gia đình văn hóa”,“Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa”, xây dựng “Quỹ vì người nghèo”, xây dựng “Nhà đại
đoàn kết”…
Từ năm 2005, rất nhiều các nội dung hoạt động của Hội có liên quan và
tác động đến các phong trào “Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” với phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao
động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, “Xây dựng gia đình 5 không, 3
sạch", “Phụ nữ rèn luyện 4 phẩm chất: Tự tin - Tự trọng - Trung hậu - Đảm
đang”. Các hoạt động tuyên truyền, giáo dục nâng cao năng lực, trình độ, hỗ trợ
phụ nữ xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, tham gia xây dựng và giám sát
thực hiện luật pháp, chính sách về bình đẳng giới và pháp luật hôn nhân gia
đình, chăm sóc sức khỏe phụ nữ, phòng chống tệ nạn xã hội, dân số, vệ sinh
môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm… được tổ chức thực hiện với nhiều
hình thức, phương pháp phong phú.
Nhờ kết hợp linh hoạt các phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo, gắn các chủ
trương, nghị quyết với triển khai chỉ đạo những việc làm thực tế để đôn đốc,
hướng dẫn, hỗ trợ, tạo điều kiện kiểm tra, giám sát chặt chẽ của Đảng bộ tỉnh
Hưng Yên mà việc triển khai, thực hiện các nghị quyết, chương trình, kế hoạch
trong lãnh đạo Hội LHPN tỉnh những năm 1997 - 2005 ngày càng sát hợp và
hiệu quả.
59
Tiểu kết chương 2
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Bộ Chính trị ra Nghị
quyết số 04-NQ/TW(1993) Về đổi mới và tăng cường công tác vận động Phụ
nữ trong tình hình mới; Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 37-CT/TW
(1994) Về một số vấn đề cấp bách về công tác cán bộ nữ trong tình hình mới...
Đó là những định hướng quan trọng để Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đề ra những
chủ trương phù hợp đã lãnh đạo hoạt động Hội LHPN tỉnh.
Từ năm 1997 đến năm 2005, trên cơ sở những quan điểm của Đảng và
Trung ương Hội LHPN Việt Nam về xây dựng Hội và phong trào phụ nữ, Đảng
bộ tỉnh Hưng Yên đã nghiên cứu, vận dụng sáng tạo vào tình hình thực tiễn của
một tỉnh mới tái lập; kịp thời ban hành nhiều chủ trương lãnh đạo công tác Hội
nói chung, xây dựng phát triển tổ chức Hội và hoạt động của Hội LHPN tỉnh
Hưng Yên nói riêng.
Trong chỉ đạo tổ chức thực hiện, Đảng bộ tỉnh đã căn cứ vào điều kiện
thực tiễn của Tỉnh để có nhiều biện pháp tích cực để phát huy trách nhiệm, huy
động sự tham gia của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể,
mà nòng cốt là tổ chức Hội phụ nữ trong lãnh đạo hoạt động của Hội LHPN
tỉnh. Các cấp Hội LHPN tỉnh đã nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của
các cấp ủy Đảng, chính quyền đối với Hội LHPN; đồng thời, xây dựng bộ máy
đội ngũ cán bộ Hội vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, không ngừng tu
dưỡng, rèn luyện, bản lĩnh chính trị và phát huy những phẩm chất tốt đẹp của
người phụ nữ Việt Nam trong công tác Hội và trong đời sống hàng ngày, đáp
ứng yêu cầu của công tác cán bộ thời kỳ mới. Phát huy cao độ kết quả đạt được
trong phát triển tổ chức Hội và đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, chăm lo,
bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của của hội viên phụ nữ, để Hội LHPN
thực sự trở thành tổ chức chính trị xã hội vững mạnh, là địa chỉ tin cậy của chị
em phụ nữ trong Tỉnh.
60
Những đóng góp của Hội LHPN tỉnh trong xây dựng và phát triển kinh
tế - xã hội, thông qua phong trào thi đua yêu nước của các cấp Hội đã khơi
dậy mọi tiềm năng, thế mạnh của các tầng lớp phụ nữ, đóng góp thiết thực
vào sự nghiệp đổi mới CNH, HĐH đất nước, xây dựng tỉnh Hưng Yên ngày
càng giàu mạnh.
Tuy nhiên, trong chỉ đạo thực hiện, một số cấp ủy, chính quyền từ tỉnh
đến cơ sở chưa nhận thức đầy đủ vai trò, vị trí của phụ nữ, chưa có sự chỉ đạo
sát sao hoạt động của các đoàn thể quần chúng. Do vậy, chưa huy động, tập
hợp đông đảo phụ nữ tham gia hoạt động của phụ nữ, đẫn đến nhiều nơi hoạt
động phụ nữ mang tính hình thức.
Mặc dù vẫn còn một số hạn chế, song những kết quả bước đầu của
Đảng bộ Tỉnh trong lãnh đạo Hội LHPN, đã góp phần tăng cường, phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển
kinh tế, tạo nền tảng để Hưng Yên có sự phát triển mạnh mẽ hơn trong giai
đoạn tiếp theo.
61
Chương 3
ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI
LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2015
3.1. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VÀ ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN VỀ
CÔNG TÁC PHỤ NỮ VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
3.1.1. Tình hình và nhiệm vụ mới của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
và Hội phụ nữ tỉnh Hưng Yên
* Tình hình, nhiệm vụ mới đối với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Sau gần 30 năm đổi mới đất nước, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng
khoa học và công nghệ, xu hướng toàn cầu hóa, dân chủ hóa đời sống chính trị-
xã hội; tác động của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đang là những
nhân tố tác động mạnh mẽ đến hoạt động của Hội LHPN Việt Nam. Trước sự
phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ, sự cạnh tranh trong
nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN, đòi hỏi phụ nữ phải nâng cao tay
nghề, nếu không họ sẽ là đối tượng dễ có nguy cơ bị mất việc; ngoài ra phụ nữ
còn phải hoàn thành tốt thiên chức người mẹ, người vợ trong gia đình. Bên cạnh
đó, định kiến giới và hạn chế trong nhận thức về bình đẳng giới, ảnh hưởng nhận
thức của các tầng lớp nhân dân về vai trò, vị trí của phụ nữ ngày càng gia tăng.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, xuất hiện xu hướng hội viên
tham gia tổ chức Hội chỉ mang tính hình thức và nếu tổ chức Hội không được
xây dựng vững mạnh, có phương thức vận động Hội viên phù hợp thì với nhu
cầu cuộc sống ngày càng cao, điều kiện sống thay đổi, rất khó tập họ tham gia tổ
chức Hội... Đó chính là những thách thức lớn, đòi hỏi tổ chức và hoạt động Hội
LHPN phải đáp ứng những yêu cầu mới, phù hợp với sự phát triển của kinh tế
thị trường, giải quyết hài hòa sự khác biệt về lợi ích giữa các nhóm phụ nữ trong
cộng đồng dân cư, đem lại lợi ích cho phụ nữ thuộc nhiều đối tượng khác nhau.
Qua đó, tập hợp, thu hút họ vào tổ chức, làm tốt chức năng đại diện và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên, góp phần, tuyên truyền, giáo
dục, vận động phụ nữ thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
62
sách, pháp luật của Nhà nước, huy động sức mạnh, tiềm năng to lớn của các tầng
lớp phụ nữ, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước. Để xây dựng, phát triển tổ chức Hội vững mạnh, thực sự là tổ chức
quần chúng của phụ nữ và thu hút ngày càng đông đảo phụ nữ tham gia các
phong trào thi đua, Đảng cần tăng cường lãnh đạo, định hướng đối với việc xây
dựng, phát triển tổ chức hội vững mạnh và đổi mới hoạt động của Hội
LHPNViệt Nam.
Trong bối cảnh mới, Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ VIII
(nhiệm kỳ 1997-2002) được tổ chức. Đại hội đề ra 5 chương trình trọng tâm:
Giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, trình độ và năng lực cho phụ nữ; Vận
động phụ nữ nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, hỗ trợ phụ nữ tạo việc
làm, tăng thu nhập; Chăm sóc sức khoẻ phụ nữ, trẻ em, thực hiện kế hoạch hoá
gia đình, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ hạnh
phúc; Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh; Nghiên cứu và kiểm tra giám sát.
Chương trình trọng tâm mà Đại hội triển khai đáp ứng kịp thời với yêu cầu của
thời kỳ mới của đất nước. Trên cơ sở đó, Đại hội phát động hai phong trào thi
đua yêu nước: “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, nuôi dạy con tốt, xây
dựng gia đình hạnh phúc”, và “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần
kiệm xây dựng đất nước”.
Tiếp đó, Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ IX (nhiệm kỳ 2002-
2007) được diễn ra với chủ đề "Phụ nữ Việt Nam đoàn kết, bình đẳng, năng
động, sáng tạo vì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". “Phụ nữ
Việt Nam Năng động - Sáng tạo - Trung hậu - Đảm đang”. Đại hội đề ra nhiệm
vụ xây dựng, phát triển tổ chức Hội với mục tiêu: Xây dựng, phát triển tổ chức
Hội vững mạnh, phát huy đầy đủ vai trò nòng cốt trong công tác vận động phụ
nữ và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ. Đại hội đề ra
phương hướng cụ thể: Coi trọng công tác xây dựng phương hướng và kế hoạch
hoạt động của từng cấp Hội. Xác định nhiệm vụ trọng tâm và lựa chọn vấn đề ưu
tiên hợp lý trong từng thời kỳ theo các cấp độ: Toàn quốc, vùng miền, đối tượng
để tập trung chỉ đạo thống nhất và đầu tư nguồn lực thực hiện bảo đảm tính hiệu
63
quả. Tăng quyền chủ động, phát huy tính sáng tạo của các cấp hội địa phương,
trong việc cụ thể hóa nhiệm vụ công tác Hội.
Năm 2012, Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XI (nhiệm kỳ 2012-
2017) đã đề ra mục tiêu: Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, phát huy đầy đủ vai
trò nòng cốt trong công tác phụ nữ và thực hiện bình đẳng giới. Xác định nhiệm
vụ cụ thể trong xây dựng và phát triển tổ chức Hội vững mạnh: Kiện toàn bộ
máy, cán bộ cấp Trung ương và tiếp tục kiện toàn bộ máy Hội LHPN cấp tỉnh,
thành theo mô hình văn phòng và 5 ban. Trung ương Hội và tỉnh, thành Hội thí
điểm mô hình và từng bước phát triển các đơn vị sự nghiệp, phù hợp với điều
kiện của mỗi cấp. Tập trung củng cố, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của tổ chức Hội cơ sở, đặc biệt là chi Hội, tổ Phụ nữ; chú trọng chất lượng sinh
hoạt Hội, phát huy vai trò hội viên nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ Hội; kiên
trì thực hiện phương châm “Ở đâu có phụ nữ, ở đó có tổ chức Hội”. Thực hiện
tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở để phát huy quyền dân chủ trực tiếp của hội viên
trong xây dựng tổ chức Hội và tham gia xây dựng Đảng, chính quyền vững
mạnh. Về phong trào thi đua, tiếp tục thực hiện phong trào thi đua “Phụ nữ tích
cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” gắn với đẩy mạnh
việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; triển khai sâu rộng
hai cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” và phấn đấu, rèn luyện
các phẩm chất đạo đức “Tự tin - Tự trọng - Trung hậu - Đảm đang”.
Đây là những định hướng, yêu cầu quan trọng, kịp thời của Hội LHPN
Việt Nam đối với hoạt động của các cấp Hội phụ nữ cả nước nói chung, trong đó
có Hội LHPN Hưng Yên trong giai đoạn mới.
* Yếu tố mới của tỉnh Hưng Yên tác động đến hoạt động của Hội Liên
hiệp phụ nữ tỉnh
Về kinh tế:
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên, cùng với sự đồng thuận
của quần chúng nhân dân quyết tâm xây dựng quê hương xứ nhãn trở thành tỉnh
công nghiệp trước năm 2020; đồng thời, với chính sách thông thoáng, tạo bước
64
đột phá trong kêu gọi đầu tư, xây dựng hình ảnh “Hưng Yên trải thảm đỏ mời
gọi các nhà đầu tư”, kinh tế Hưng Yên đã có những chuyển biến rõ rệt.
Năm 2005: kinh tế tỉnh tiếp tục phát triển nhanh, khá toàn diện và vững
chắc, GDP năm sau cao hơn năm trước, bình quân tăng 12,28%, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch nhanh; Nông nghiệp đạt 30,5% - Công nghiệp, Xây dựng 38% -
Dịch vụ 31,5%, thu nhập bình quân đầu người đạt 550 USD [162, tr.12].
Đến năm 2015, kinh tế của Tỉnh đã có bước đột phá: tốc độ tăng trưởng
kinh tế (GDP) đạt 7,8% và cao hơn mức bình quân cả nước. Công nghiệp, xây
dựng tăng mạnh, chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu kinh tế: Công nghiệp - xây
dựng 49%; Nông nghiệp 13%: Thương mại - Dịch vụ 38%. Năm 2015, (GDP)
bình quân đầu người 40 triệu đồng/ năm [172, tr.17].
Công nghiệp, tăng trưởng bình quân 9,87%; cơ cấu công nghiệp chuyển
dịch tích cực; các ngành, lĩnh vực, sản phẩm có thương hiệu, giá trị ra tăng, chất
lượng và sức cạnh tranh trên thị trường giữ vững và phát triển; có thêm nhiều sản
phẩm công nghiệp phụ trợ, công nghệ, giá trị tăng cao: như phụ tùng ô tô, xe
máy, dệt may, điện tử, thúc đẩy kinh nghạch xuất khẩu [172, tr.20]. Các khu
công nghệp hoạt động hiệu quả, tỉ lệ lấp đầy đạt khá, đóng góp nhiều vào nguồn
thu ngoại tệ hoạt động xuất khẩu hàng hóa (như khu công nghiệp Thăng Long II,
khu công nghiệp Phố nối A).
Tiểu thủ công nghiệp, tuy gặp khó khăn nhưng vẫn duy trì, đến năm
2015 toàn Tỉnh có 59 làng nghề hoạt động đóng góp vào phát triển kinh tế - xã
hội, nhất là giải quyết việc làm ở khu vực nông thôn, góp phần xây dựng nông
thôn mới.
Nông nghiệp, phát triển toàn diện, chuyển mạnh sang hướng sản xuất
hàng hóa chất lượng cao. Thực hiện bước đầu có hiệu quả Đề án tái cơ cấu
ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững,
các vùng chuyên canh tiếp tục được mở rộng, hiệu quả kinh tế ngày một tăng;
“đặc biệt đã chuyển đổi trên 6000 ha từ trồng lúa kém hiệu quả sang trồng cây ăn
quả, trồng cây hàng năm, kết hợp với chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản cho hiệu
quả cao gấp từ 3 đến 5 lần trồng lúa” [172, tr.18]. Trong điều kiện mới, Đảng bộ
65
Tỉnh đã chỉ đạo kịp thời, bắt nhịp với xu thế tạo sự chuyển biến mạnh trong
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi; xây dựng nhãn hiệu sản phẩm hàng hóa
tập thể, nhiều sản phẩm tăng mạnh về sản lượng và được thị trường ưa chuộng:
Nhãn lồng, vải lai, chuối tiêu hồng, quýt đường canh, quất cảnh, gà Đông Tảo,
tương Bần....
Các ngành nghề thống và dịch vụ ở nông thôn phát triển khá. “Kinh tế
hợp tác phát triển, đa dạng về hình thức, quy mô, với trên 3.000 mô hình kinh tế,
tổ hợp tác, hợp tác xã hoạt động, trong đó 168 hợp tác xã nông nghiệp - dịch vụ,
635 trang trại, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo việc làm, tăng thu
nhập cho nhân dân” [172, tr.19].
Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đạt
kết quả tích cực: “Sau 4 năm thực hiện, tổng nguồn vốn đã huy động đạt gần
40.000 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn nhân dân đóng là 16.000 tỷ; vốn vay tín
dụng là 15.000 tỷ đồng” [172, tr.19]. Hết năm 2015, diện mạo nông thôn có
nhiều khởi sắc, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt,
điều đó chứng tỏ Đảng bộ Hưng Yên đã phát huy tinh thần đoàn kết trong nhân
dân có hiệu quả, thực hiện chủ trương Nhà nước và nhân dân cùng làm.
Hoạt động thương mại - dịch vụ tiếp tục tăng trưởng, đa dạng các loại
hình. Tốc độ tăng trưởng bình quân 8,5%/ năm; tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch
vụ bình quân tăng 21,13%/ năm.
Về văn hóa - xã hội: Giáo dục đào tạo có những bước đổi mới căn bản,
toàn diện. Toàn tỉnh có 263 trường đạt chuẩn quốc gia, tăng 105 trường so với
năm 2010, giáo viên đạt chuẩn ở tất cả các cấp học; tỉ lệ trên chuẩn cao ở bậc
giáo dục mầm non cho 5 tuổi, hoàn thành việc chuyển đổi 159/159 trường mầm
non bán công sang công lập; là tỉnh thứ 7 đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học
mức độ II. Học sinh tốt nghiệp các cấp đạt tỉ lệ thi đỗ đại học đạt 51%, thuộc
nhóm các tỉnh có tỉ lệ cao trong cả nước. Đội Robocon của Trường Đại học Sư
phạm Kỹ thuật Hưng yên đạt vô địch cuộc thi Robocon trong nước và Châu Á -
Thái Bình Dương năm 2015 [172, tr.28]. Các trung tâm hướng nghiệp tổng hợp
đáp ứng được nhu cầu, quy mô mạng lưới các trung tâm giáo dục thường xuyên,
66
trung tâm học tập cộng đồng được duy trì, phát triển. “Có 6 trường cao đẳng,
nâng cấp và thu hút 5 trường đại học về tỉnh. Mỗi năm đào tạo trên 1 vạn sinh
viên, đào tạo nghề cho hàng vạn lao động, góp phần tạo nguồn lực có chất lượng
cho tỉnh và khu vực” [172, tr.29].
Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân được tăng cường: Y tế dự
phòng phát triển tích cực, hạn chế và dập tắt kịp thời các dịch bệnh, mua sắm
nhiều trang thiết bị y tế hiện đại; chất lượng khám, chữa bệnh được nâng lên;
một số dịch vụ y tế chuyên sâu, kỹ thuật cao được triển khai có hiệu quả. “Tỷ lệ
xã đạt chuẩn quốc gia về y tế trên 60%, tỷ lệ xã có bác sỹ biên chế tại trạm đạt
65%” [172, tr.30].
Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục tiếp tục phát triển, tăng cường đầu
tư thiết chế văn hóa, hạ tầng kỹ thuật truyền thông: Phong trào Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa từng bước đi vào chiều sâu. Tuyên truyền, giáo
dục, định hướng dư luận, cổ vũ các phong trào thi đua yêu nước, các gương
người tốt, việc tốt; tỷ lệ làng, khu phố, cơ quan văn hóa, gia đình văn hóa đạt và
vượt chỉ tiêu. Công tác bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể
được chú trọng. Khu di tích Phố Hiến được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt,
đẩy mạnh quảng bá, phát triển du lịch; phong trào thể dục, thể thao quần chúng
được duy trì phát triển...
Chính sách xã hội được quan tâm, chăm lo, thực hiện đầy đủ kịp thời:
Tuyệt đại đa số gia đình chính sách, người có công có mức sống bằng hoặc cao
hơn mức sống trung bình; các quỹ “Đến ơn đáp nghĩa”, “Vì người nghèo”, “Bảo
trợ trẻ trẻ em”, “Cơ bản hoàn thành tổng rà soát việc thực hiện chính sách ưu đãi
người có công với cách mạng; đề nghị tổ chức truy tặng và tawngj danh hiệu
vinh dự của Nhà nước “Bà mẹ Việt nam anh hùng” cho 1.688 Mẹ và 5 tập thể, 5
cá nhân anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” [172, tr.32].
Với những thành quả phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, chất lượng cuộc
của sống nhân dân trong tỉnh, trong đó có phụ nữ ngày càng được cải thiện, trình
độ văn hóa được nâng lên. Tuy nhiên, việc phát triển các khu công nghiệp thu
hút đông đảo lao động nữ tham gia, ảnh hưởng lớn đến việc phát triển hội viên,
67
tập hợp, phát động các phong trào thi đua của các cấp Hội Phụ nữ trong tỉnh; do
đó công tác phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN tỉnh Hưng Yên cũng đặt ra
nhiều vấn đề cần gải quyết.
Như vậy, những yếu tố mới đặt ra với tổ chức Hội LHPN Việt Nam nói
chung, Hội LHPN tỉnh Hưng Yên nói riêng, đòi hỏi sự lãnh đạo sát sao của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ tỉnh Hưng Yên bằng những chủ trương cụ
thể để tiếp tục lãnh đạo công tác phụ nữ và lãnh đạo hoạt động của tổ chức Hội
LHPN, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
3.1.2. Quan điểm, chủ trương của Đảng
Sau 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, cùng với những thành tựu đạt
được trong thực tiễn, lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
ngày càng sáng tỏ; những luận điểm về công cuộc đổi mới đã được định hình
trên những nét cơ bản. Với phụ nữ và công tác phụ nữ, Đảng đặc biệt quan tâm,
nhằm nâng cao trình độ mọi mặt về vật chất và tinh thần, thực hiện bình đẳng
giới, tạo điều kiện tốt cho phụ nữ thực hiện chức năng kép “người công dân,
người mẹ, người thầy đầu tiên của con người”. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
X (2006) khẳng định:
Đối với phụ nữ, nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh
thần, thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt
vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên
của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng
nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo, quản lý ở các
cấp [42, tr.120].
Để đạt được mục tiêu đó, Đại hội yêu cầu: Đổi mới, nâng cao chất lượng
của Mặt trận của đoàn thể nhân và các hội quần chúng, khắc phục tình trạng
hành chính hóa, phô trương, hình thức, làm tốt công tác dân vận theo phong cách
trọng dân, gần dân và có trách nhiệm với dân.
Nhằm đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới, ngày 27-4-2007, Bộ
Chính trị (khóa X) ra Nghị quyết số 11-NQ/TW về Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự ra đời của Nghị quyết thể hiện
68
sự quan tâm sâu sắc của Đảng đối với công tác phụ nữ. Nội dung của Nghị quyết
kế thừa và phát triển những quan điểm,chủ trương của Đảng được xác định trong
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và các Nghị quyết của Đảng trước
đó về công tác phụ nữ.
Qua các nhiệm kỳ trước, từ năm 1997 đến năm 2006, Đảng đã chú trọng
đến vị trí, vai trò của phụ nữ, công tác phụ nữ. Đến Nghị quyết số 11NQ/TW
(2007) của Bộ Chính trị, Đảng đã đặc biệt chú trọng đến xây dựng tổ chức Hội
LHPN. Trên cơ sở phân tích sâu sắc tình hình phụ nữ và công tác phụ nữ, Nghị
quyết đề ra 4 quan điểm cơ bản về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước:
Một là, phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp
CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ; thực hiện
bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội là một
trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong
thời kỳ mới.
Hai là, công tác phụ nữ phải sát hợp với từng đối tượng, vùng, miền, phát
huy được tinh thần làm chủ, tiềm năng, sức sáng tạo và khả năng đóng góp cao
nhất của các tầng lớp phụ nữ, góp phần tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc để phát triển đất nước, đồng thời phải chăm lo cho phụ nữ tiến bộ về mọi
mặt, quan tâm đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng để phụ nữ có điều
kiện thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy
đầu tiên của con người.
Ba là, xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với
vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong
chiến lược công tác cán bộ của Đảng.
Bốn là, công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn
xã hội và từng gia đình. Trong đó, hạt nhân lãnh đạo là các cấp uỷ Đảng, trách
nhiệm trực tiếp và chủ yếu là cơ quan quản lý nhà nước các cấp, vai trò chủ thể
là phụ nữ mà nòng cốt là các cấp Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam [43, tr.3].
69
Trên cơ sở bốn quan điểm nêu trên, để thực hiện tốt công tác phụ nữ trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Nghị quyết yêu cầu các cấp, các ngành
tập trung thực hiện đồng bộ 5 nhiệm vụ và giải pháp:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về công tác phụ nữ và bình đẳng giới.
Quán triệt sâu sắc quan điểm, mục tiêu công tác phụ nữ trong tình hình
mới nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền,
các tổ chức chính trị - xã hội, tạo bước chuyển biến rõ rệt trong công tác phụ nữ
ở từng ngành, địa phương, đơn vị. Các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể, tổ chức xã hội, cơ quan thông tin đại chúng tăng cường tuyên
truyền giáo dục, nâng cao nhận thức về bình đẳng đẳng giới. Hội LHPN Việt
Nam, Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam phấn đấu làm tốt vai
trò nòng cốt tham mưu và thực hiện các giải pháp nâng cao nhận thức về bình
đẳng giới.
Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện và thực hiện tốt hệ thống luật pháp, chính
sách về bình đẳng giới, tạo điều kiện cho sự phát triển của phụ nữ.
Triển khai thực hiện tốt Luật Bình đẳng giới: Xây dựng, sửa đổi, bổ sung
hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách, đảm bảo tốt hơn quyền lợi chính đáng
của phụ nữ trên mọi lĩnh vực. Chính phủ và các ngành chức năng, nghiên cứu,
ban hành một số chính sách đặc thù, nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển của
phụ nữ. Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật và kiểm tra, giám sát việc thực
hiện luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới.
Thứ ba, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng tiến bộ hạnh phúc, xây dựng
người phụ nữ Việt Nam có sức khoẻ, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp năng động,
sáng tạo, có lối sống văn hoá, có lòng nhân hậu.
Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống lành mạnh, có trách nhiệm với gia
đình và xã hội, xóa bỏ hủ tục, chống có hiệu quả tệ nạn mại dâm, buôn bán phụ
nữ, trẻ em, bạo lực gia đình… Thực hiện nếp sống văn minh, coi trọng hòa giải
về hôn nhân gia đình; xây dựng chính sách cơ bản nhằm phát triển gia đình Việt
Nam thời kỳ CNH, HĐH. Nghiên cứu, thực hiện việc giáo dục, xây dựng gia
70
đình “no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” và giáo dục phẩm chất, đạo đức
người phụ nữ Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH.
Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học nữ trình độ cao, cán bộ lãnh
đạo quản lý nữ đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH.
Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng cán bộ nữ, đòi hỏi các
cấp ủy đảng có trách nhiệm xây dựng, quy hoạch cán bộ nữ trong quy hoạch
tổng thể về cán bộ của Đảng ở từng cấp, từng ngành, từng địa phương, chương
trình đào tạo cán bộ nữ theo từng lĩnh vực, gắn vơi quy hoạch; chính sách phát
triển đội ngũ cán bộ nữ, xây dựng, sửa đổi, bổ sung và tổ chức thực hiện tốt các
chính sách nhằm phát triển cán bộ nữ, có chính sách đặc thù đối với cán bộ nữ
công tác trong các ngành đặc biệt, công tác tạo nguồn cán bộ nữ nằm trong chiến
lược phát triển nguồn nhân lực Quốc gia.
Thứ năm, xây dựng, củng cố tổ chức Hội LHPN Việt Nam thực sự
vững mạnh, phát huy đầy đủ vai trò nòng cốt trong công tác vận động phụ
nữ [43, tr.4-7].
Các cấp ủy đảng tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện việc xây dựng,
củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cấp Hội
LHPN Việt Nam, các cấp Hội LHPN Việt Nam đẩy mạnh đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động, hướng mạnh về cơ sở, chăm lo quyền lợi chính đáng
cho hội viên; tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ
phẩm chất chính trị, phương pháp vận động quần chúng cho đội ngũ cán bộ Hội
các cấp.
Những nhiệm vụ và giải pháp đối với tổ chức Hội LHPN Việt Nam, đặc
biệt giải pháp thứ năm: Về xây dựng, củng cố tổ chức Hội LHPN Việt Nam, cho
thấy, Nghị quyết một lần nữa khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của Hội LHPN
Việt Nam trong công tác phụ nữ và sự nghiệp bình đẳng giới. Để xây dựng Hội
vững mạnh, Nghị quyết yêu cầu:
Các cấp Hội LHPN Việt Nam cần đẩy mạnh đổi mới nội dung và phương
thức hoạt động, khắc phục tình trạng “hành chính hóa”, hướng mạnh hoạt động
về cơ sở, khu dân cư, chăm lo thiết thực quyền lợi chính đáng, hợp pháp cho hội
71
viên, không phô trương, hình thức, không chạy theo thành tích; phát huy vai trò
chủ động tham mưu đề xuất với Đảng, Nhà nước về chủ trương, chính sách có
liên quan đến phụ nữ, thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội;
tham gia đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Hội cần mở
rộng tính liên hiệp, tập hợp rộng rãi các đối tượng phụ nữ trên nguyên tắc dân
chủ, tự nguyện; đa dạng hóa các hình thức tập hợp để phát triển hội viên trong
các lĩnh vực... Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình
độ, phẩm chất chính trị, phương pháp vận động quần chúng cho đội ngũ cán bộ
Hội các cấp [43, tr.7].
Nghị quyết số 11-NQ/TW(2007) của Bộ Chính trị về Công tác phụ nữ
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là văn kiện thể hiện
một cách đầy đủ những quan điểm sâu sắc, đúng đắn của Đảng đối với công tác
phụ nữ trong thời kỳ mới; xác định những nhiệm vụ, giải pháp, yêu cầu cụ thể,
bức thiết đối với các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể và cả
xã hội trong thực hiện công tác phụ nữ. Đối với tổ chức Hội LHPN, sự quan
tâm sâu sắc của Đảng được để thể hiện thông qua những yêu cầu, nhiệm vụ
được Nghị quyết đề cập đậm nét thành một mục riêng... Đó là động lực và định
hướng quan trọng, giúp các cấp Hội Phụ nữ thực hiện tốt hơn nữa vai trò nòng
cốt trong công tác phụ nữ.
Đề cập đến phương hướng, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể quần chúng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI chỉ rõ: Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, tiếp tục tăng cường tổ chức, đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động, tập hợp, đoàn kết nhân dân, thực hiện dân chủ,
tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng
cường quốc phòng, an ninh, giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây dựng
Đảng, xây dựng Nhà nước.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), quan điểm của Đảng về công tác
phụ nữ được thể hiện ngắn gọn nhưng đầy đủ và nâng lên làm cho mới so với
72
trước đó là: "…Thực hiện bình đẳng giới và hành động vì sự tiến bộ của phụ
nữ…" [45, tr.80].
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục nêu
rõ yêu cầu: Nâng cao trình độ mọi mặt về đời sống vật chất, tinh thần của phụ
nữ, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của mình... Kiên quyết đấu tranh
chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại và xúc phạm
nhân phẩm phụ nữ [45, tr.243].
Như vậy, trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội
nhập quốc tế, những chủ trương xuyên suốt, nhất quán của Đảng về công tác phụ
nữ và xây dựng Hội LHPN đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, trở thành những
định hướng quan trọng cho các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, địa
phương và tổ chức Hội trong quá trình tổ chức thực hiện. Đồng thời, những quan
điểm của Đảng về vị trí, vai trò của phụ nữ và nhiệm vụ xây dựng tổ chức Hội đã
trở thành cơ sở lý luận, nguồn động viên to lớn, khơi dậy truyền thống, bản chất
tốt đẹp và tiềm năng của phụ nữ Việt Nam, khích lệ các tầng lớp phụ nữ các tỉnh
địa phương trong cả nước, tích cực đóng góp nhiều hơn nữa trí tuệ, sức lực vào
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế.
3.1.3. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh
Thực hiện Chỉ thị 46-CT/TW, ngày 06-12-2004 của Bộ Chính trị về Đại
hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Đại
hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI tháng 12 năm 2005 diễn ra. Đại hội khẳng
định: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, huy động mọi
nguồn lực, tiếp tục đổi mới toàn diện mạnh mẽ và đồng bộ, đẩy mạnh CNH,
HĐH chủ động hội nhập, xây dựng tỉnh Hưng Yên thành tỉnh khá trong cả nước.
Điều này đặt ra trọng trách lớn đối với phụ nữ tỉnh. Xuất phát từ thực trạng hoạt
động của Hội LHPN tỉnh, vấn đề tăng cường xây dựng, phát triển tổ chức Hội và
đổi mới hoạt động của phụ nữ trở thành yêu cầu bức thiết của các cấp Hội Phụ
nữ tỉnh Hưng Yên, là mong muốn của đông đảo hội viên phụ nữ, đồng thời cũng
là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng bộ Tỉnh.
73
Đại hội chỉ rõ: Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể thực sự vững
mạnh, có sức thu hút được đông đảo đối tượng tham gia, trên cơ sở tăng số
lượng thành viên, hội viên, đoàn viên, tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng hoạt
động [162, tr.59].
Quán triệt Nghị quyết số 11-NQ/TW (2007) của Bộ Chính trị và quan
điểm của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI (2005), Tỉnh ủy Hưng Yên ra Kế
hoạch số 44-KH/TU về Nghiên cứu, quán triệt thực Nghị quyết số 11-NQ/TW
của Bộ Chính trị Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Kế hoạch chỉ rõ mục đích của việc nghiên cứu, quán triệt Nghị
quyết số 11-NQ/TW của Bộ chính trị là: “Làm cho các cấp ủy, tổ chức đảng,
đảng viên nhận thức sâu sắc hơn về bình đẳng giới, về vai trò, tiềm năng to lớn
của phụ nữ và công tác phụ nữ trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Nắm vững
chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp của Đảng về công tác phụ nữ trong giai đoạn
mới. Thống nhất nhận thức và hành động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân,
tạo bước chuyển biến rõ nét về công tác phụ nữ và phong trào phụ nữ ở từng địa
phương, ngành, đơn vị” [166, tr.1]. Kế hoạch nêu rõ một số yêu cầu:
Cấp ủy cấp huyện và cơ sở xây dựng kế hoạch nghiên cứu, quán triệt
Nghị quyết Trung ương 5 gắn với nghiên cứu, quán triệt thực hiện
Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị. Xây dựng chương trình
hành động hoặc kế hoạch thực hiện Nghị quyết sát hợp với tình hình
địa phương, cơ sở; chú trọng công tác kiểm tra, đánh giá kết quả thực
hiện… Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội
tỉnh xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết; tổ chức
tốt việc phổ biến Nghị quyết trong đoàn viên, hội viên và các tầng lớp
nhân dân [166, tr.1].
Tiếp đó, Tỉnh ủy Hưng Yên ban hành Chương trình hành động số 11-
CTr/TU (2007): Về thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa
X) về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đánh giá về công tác phụ nữ và phong trào phụ nữ tỉnh Hưng Yên những năm
đầu thế kỷ XX, Chương trình khẳng định một số kết quả như: Thực hiện chủ
74
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phát huy truyền thống phụ nữ Hưng
Yên, công tác phụ nữ và phong trào phụ nữ tỉnh có tiến bộ, đạt được nhiều thành
tích trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng,
xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng tiến bộ, hạnh phúc, góp phần quan trọng
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị của Tỉnh. Nhận
thức xã hội về bình đẳng giới được nâng lên, phụ nữ được tôn trọng và bình
đẳng hơn, địa vị của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội được khẳng
định các cấp hội phụ nữ có nhiều sáng tạo trong đổi mới nội dumg, phương thức
hoạt động, góp phần thực hiện có hiệu quả chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước về công tác phụ nữ [165, tr.1].
Cùng với việc khẳng định những kết quả đạt được, Chương trình cũng chỉ
ra một số hạn chế trong công tác phụ nữ và phong trào phụ nữ tỉnh Hưng Yên:
Một là, một bộ phận phụ nữ trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp
còn thấp, nên hạn chế về cơ hội có việc làm và thu nhập. Tình trạng phụ nữ nông
dân thiếu việc làm, nhất là địa phương dành đất cho xây dựng khu công nghiệp
và đô thị chưa được giải quyết tốt, số phụ nữ đi làm ăn xa ngày càng tăng.
Hai là, tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý còn thấp, chưa tương xứng
với tiềm năng và sự phát triển của lực lượng lao động nữ. Một số ngành, lĩnh vực
đông nữ nhưng chưa có cán bộ nữ giữ cương vị lãnh đạo chủ chốt.
Ba là, công tác vận động phụ nữ ở nhiều nơi còn thiếu sát hợp với từng
đối tượng, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu mới, chưa khắc phục tình trạng hành
chính hóa trong tổ chức, vận động, tập hợp hội viên [165, tr.1-2].
Trên cơ sở phân tích sâu sắc những thành tựu và hạn chế trong công tác
phụ nữ và phong trào phụ nữ của tỉnh, Chương trình nêu rõ một số nhiệm vụ
trọng tâm đối với công tác phụ nữ tỉnh Hưng Yên trong thời gian tiếp theo:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về công tác phụ nữ và bình đẳng giới: Tổ
chức nghiên cứu, quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ công tác
phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong cả hệ thống chính trị, tới
các tầng lớp nhân dân, nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy
Đảng, chính quyền, các đoàn thể và toàn xã hội, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ
75
về công tác phụ nữ ở các cấp, các ngành, địa phương, đơn vị. Tăng cường công
tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về giới và ý thức trách nhiệm thực
hiện bình đẳng giới cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân; đấu tranh với
các hành vi phân biệt, đối xử, xâm hại, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Hội Liên
hiệp phụ nữ và Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh phấn đấu làm tốt vai trò nòng
cốt tham mưu và thực hiện các giải pháp nâng cao nhận thức cho phụ nữ về bình
đẳng giới, khắc phục tư tưởng tự ty, an phận, nêu cao tinh thần tự chủ, đoàn kết,
vượt khó vươn lên để không ngừng tiến bộ, đóng góp ngày càng nhiều cho gia
đình và xã hội [162, tr.2].
Thứ hai, thực hiện tốt chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật về bình
đẳng giới, tạo điều kiện cho sự phát triển của phụ nữ:…Thực hiện tốt luật pháp,
chính sách, quy định của Nhà nước về những vấn đề liên quan đến phụ nữ - trẻ
em và tổ chức hội phụ nữ, bảo đảm tốt hơn quyền lợi hợp pháp, chính đáng của
phụ nữ, đặc biệt trong các lĩnh vực: lao động, việc làm, giáo dục - đào tạo, dạy
nghề, doanh nghiệp, quan hệ dân sự, đất đai, môi trường, bảo hiểm xã hội, hôn
nhân - gia đình, chăm sóc sức khỏe, bảo vệ bà mẹ - trẻ em. Triển khai thực hiện
tốt các chính sách đặc thù của Nhà nước và ban hành chính sách địa phương
nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển của phụ nữ, nhất là các lĩnh vực: đào tạo,
bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; khuyến khích đào tạo nghề cho lao
động nữ; khuyến khích, hỗ trợ phụ nữ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; hỗ trợ
phụ nữ nghèo, phụ nữ cao tuổi, phụ nữ đơn than, phụ nữ tàn tật có hoàn cảnh
khó khăn; nhà ở cho lao động nữ…[162, tr.3].
Thứ ba, xây dựng người phụ nữ Hưng Yên có sức khỏe, có tri thức, kỹ
năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, nếp sống văn hóa, xây dựng gia đình no
ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc: Tăng cường tuyên truyền, giáo dục đạo đức,
lối sống lành mạnh, nâng cao nhận thức và trách nhiệm trong cán bộ, đảng viên,
các tầng lớp nhân dân xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc;
giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của gia đình Việt Nam, phòng
chống hiệu quả các loại tội phạm và tệ nạn xã hội tư gia đình, phòng chống buôn
bán phụ nữ - trẻ em, bạo lực gia đình; ngăn ngừa tình trạng lấy chồng nước ngoài
76
bất hợp pháp; xây dựng ý thức chấp hành luật pháp, chính sách về hôn nhân và
gia đình và trách nhiệm thực hiện bình dẳng giới từ trong gia đình. Thực hiện
chính sách về phát triển gia đình Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo tiêu chí “No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”... [162, tr.3-4].
Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ nữ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Các cấp ủy đảng lãnh đạo, động viên phụ nữ rèn
luyện phẩm chất, phấn đấu học tập, nâng cao trình độ và quan tâm xây dựng quy
hoạch cán bộ nữ trong quy hoạch tổng thể về cán bộ. Chủ động chuẩn bị nguồn
và giới thiệu nhân sự là nữ tham gia cấp ủy, các cơ quan dân cử và bộ máy chính
quyền các cấp; bổ nhiệm và giới thiệu nhân sự lãnh đạo nữ đối với các ngành, cơ
quan có tỷ lệ nữ lao động nữ từ trên 30% trở lên chưa có lãnh đạo nữ. Phấn đấu
cán bộ nữ tham gia cấp ủy, chính quyền các cấp đạt tỷ lệ 15% vào năm 2010,
20% vào năm 2015 và 25% vào năm 2020. Nữ đại biểu Quốc hội và hội đồng
nhân dân các cấp từ 35% đến 40%. Có chính sách cụ thể về quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, bổ nhiệm, luân chuyển đối với cán bộ nữ; đặc biệt quan tâm đến cán
bộ nữ trí thức, công nhân, tôn giáo. Ưu tiên tuyển dụng cán bộ nữ, lao động nữ
có trình độ cao đẳng, đại học, trên đại học. Chăm lo, bồi dưỡng, phát triển tài
năng nữ. Cần coi trọng, quan tâm công tác bồi dưỡng phát triển đảng viên nữ,
chú trọng việc bố trí, phân công công tác để đảng viên nữ có điều kiện phấn đấu,
rèn luyện và trưởng thành. Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp, cán bộ, đảng viên nữ
cần chủ động, tích cực tham mưu, giới thiệu, tạo nguồn cán bộ nữ và giới thiệu
quần chúng là phụ nữ ưu tú cho Đảng [162, tr.4-5].
Thứ năm, xây dựng, củng cố hệ thống Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp thực
sự vững mạnh, phát huy đầy đủ vai trò nòng cốt trong công tác vận động phụ nữ:
Các cấp ủy đảng cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện việc xây dựng, củng
cố tổ chức, nâng cao chất lượng và hiệu quả của các cấp hội phụ nữ. Các cấp hội
đẩy mạnh việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, kiện toàn tổ chức, bộ
máy nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cấp hội; khắc phục
tình trạng “hành chính hóa”, hướng mạnh các hoạt động về cơ sở, khu dân cư,
chăm lo, bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng cho hội viên, phát huy vai trò chủ
77
động tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước về chính sách liên quan đến phụ
nữ, thực hiện tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội; tham gia phòng, chống
quan liêu, tham nhũng, lãnh phí. Tiếp tục đẩy mạnh công tác củng cố tổ chức
Hội, mở rộng tính liên hiệp, đa dạng hóa các hình thức hoạt động để tập hợp
rộng rãi các đối tượng là phụ nữ tham gia tổ chức Hội trên nguyên tắc dân chủ,
tự nguyện. Chú trọng phát triển và nâng cao chất lượng hội viên; tập hợp nữ
thanh niên, phụ nữ cao tuổi, nữ trí thức, nữ doanh nhân, lao động nữ trong các
doanh nghiệp… tham gia tổ chức Hội. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao năng lực, trình độ, phẩm chất chính trị, phương pháp vận động quần
chúng cho đội ngũ cán bộ hội nhằm đáp ứng tiêu chuẩn chức danh và yêu cầu
công tác [165, tr.5].
Trong 5 nhiệm vụ trên, Đại hội nhấn mạnh đến 2 nhiệm vụ: “Xây dựng,
củng cố hệ thống Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp thực sự vững mạnh, phát huy
đầy đủ vai trò nòng cốt trong công tác vận động phụ nữ” [165, tr.5].
Ngày 01-11-2007, Tỉnh ủy ban hành Kế hoạch số 51-KH/TU, nhằm thực
hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) Về tiếp
tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống
chính trị, trong đó nêu rõ:
... Ban Thường vụ Tỉnh ủy, huyện, thị ủy lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể chính trị - xã hội cụ thể hóa, tổ chức thực hiện các nghị
quyết, chỉ thị và chủ trương của Đảng với công tác dân vận, Mặt trận
và các đoàn thể phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, tình hình thực tiễn ở
địa phương… Ban Thường vụ cấp ủy cho ý kiến về định hướng công
tác lớn trong từng thời gian, về chương trình, nội dung hoạt động hàng
năm của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính tri - xã hội; phát huy
tính chủ động, sáng tạo, các hình thức tổ chức và hoạt động, sự gắn bó
với nhân dân… [167, tr.3].
Kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) Về
tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ
thống chính trị”, Tỉnh ủy Hưng Yên khẳng định: “Nhìn chung việc học tập,
78
quán triệt triển khai Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa X)… và Kế hoạch số 43-KH/TU, Kế hoạch 51-KH/TU của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy được triển khai, thực hiện khá nghiêm túc. Các cấp ủy,
chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên đã nắm được mục tiêu, quan điểm chỉ
đạo, nhiệm vụ và giải pháp về phương thức lãnh đạo của cấp ủy đối với hệ
thống chính trị của địa phương nhằm giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng, hiệu lực quản lý của chính quyền, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội. Xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể trong
sạch vững mạnh, lãnh đạo chỉ đạo tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đổi
mới của Đảng… [169, tr.3].
Trên cơ sở chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công tác vận
động quần chúng nói chung, công tác đổi mới hoạt động của Hội LHPN nói
riêng, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo Hội LHPN tăng cường xây dựng tổ chức
Hội; đồng thời, nắm chắc tình hình phụ nữ, những vấn đề đặt ra đối với công tác
phụ nữ tại địa phương đã xây dựng tổ chức Hội và đẩy mạnh các phong trào thi
đua. Tại Đại hội lần thứ XVII (2010), Đảng bộ Tỉnh đã xác định chủ trương tiếp
tục lãnh đạo Hội LHPN tỉnh tăng cường xây dựng tổ chức Hội và đẩy mạnh
phong trào thi đua đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Theo đó,
Đảng bộ tỉnh đã xây dựng các chương trình lớn nhằm thực hiện những công tác
trọng tâm, trong đó có chương trình Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW (2007) của Bộ
chính trị (khóa X) Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Tỉnh ủy Hưng Yên khẳng định: “Các cấp ủy Đảng, chính
quyền từ tỉnh đến cơ sở đã tích cực quan tâm đến công tác phụ nữ. Các quan
điểm chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác phụ nữ đã tạo
điều kiện để phụ nữ phát huy khả năng vươn lên, đóng góp tích cực cho sự phát
triển xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của tỉnh, xây dựng
Hưng Yên ngày càng văn minh, hiện đại” [171, tr.7-8].
Cùng với việc khẳng định những thành tựu đạt được, Tỉnh ủy Hưng Yên
cũng chỉ ra những hạn chế trong quá trình thực hiện Nghị quyết: Việc triển khai
79
thực hiện Nghị quyết ở một số địa phương còn chậm. Chính quyền, ban, ngành
một số cơ sở chưa cụ thể hóa các chỉ thị, nghị quyết của các cấp ủy về công tác
phụ nữ thành mục tiêu, nhiệm vụ, chương trình hành động cụ thể; nhiều cơ sở
chưa xây dựng được quy chế phối hợp với Hội phụ nữ. Việc phối hợp hoạt động
giữa chính quyền, các đoàn thể với Hội phụ nữ có nơi nội dung còn đơn giản.
Công tác tham mưu cho cấp ủy và vai trò nòng cốt trong công tác phụ nữ của tổ
chức Hội một số nơi còn hạn chế. Một số tổ chức Hội phụ nữ chưa đủ mạnh để
lãnh đạo phong trào phụ nữ và tổ chức Hội đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước.
Trên cơ sở phân tích sâu sắc kết quả thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW
(2007) của Bộ chính trị, Tỉnh ủy Hưng Yên đề ra nhiệm vụ và giải pháp nhằm
thực hiện tốt công tác phụ nữ và phong trào phụ nữ tỉnh trong thời gian tới:
Một là, nắm vững và quán triệt sâu sắc những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo
của Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị; tổng kết việc thực hiện chỉ thị,
nghị quyết có liên quan đến phong trào phụ nữ và tổ chức Liên hiệp phụ nữ, gắn
với việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW vào chương
trình công tác của các cấp ủy để có những biện pháp cụ thể đưa chủ trương, quan
điểm của đảng vào cuộc sống.
Hai là, tiếp tục tổ chức và nâng cao chất lượng các phong trào thi đua, các
cuộc vận động để phát huy tiềm năng, sức sáng tạo của phụ nữ, lôi cuốn đông
đảo phụ nữ tham gia xây dựng cuộc sống mới, góp phần tham gia xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, chủ động giải quyết vấn đề của chính phụ nữ. Phát động rộng
khắp và thiết thực các phong trào: “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo,
xây dựng gia đình hạnh phúc” gắn với tiếp tục đẩy mạnh việc “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đúc Hồ Chí Minh”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng gia đình
văn hóa ở khu dân cư ”, cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, ba sạch”
phong trào thi đua “Cả nước chung tay xây dựng nông thôn mới”; phong trào
“Vì người nghèo”, “Xây dựng mái ấm tình thương”…
Ba là, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các cấp Hội theo nội
dung Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ chính trị (khóa X) Về công tác phụ nữ
80
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, và Kết luận số 62 -
KL/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội để xây dựng, củng cố tổ chức Hội
thực sự vững mạnh, phát huy đầy đủ vai trò nòng cốt trong công tác phụ nữ. Đa
dạng hóa nội dung hoạt động nhằm đáp ứng một cách thiết thực, hiệu quả nhu
cầu của các tầng lớp phụ nữ. Đa dạng hóa nội dung hoạt động nhằm đáp ứng
một cách thiết thực hiệu quả, nhu cầu của các tầng lớp phụ nữ; hướng mạnh các
họat động về cơ sở. Đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, xác định cụ
thể nhiệm vụ chính của từng thời kỳ để tập trung chỉ đạo đạt kết quả rõ rệt.
Bốn là, thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ Hội các cấp để đáp ứng yêu cầu của công tác Hội trong giai đoạn mới, góp
phần tạo nguồn cán bộ cho các cấp, các ngành. Xây dựng đội ngũ cán bộ Hội có
bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, có tư duy sáng tạo, nhiệt
tình với công tác Hội, có trình độ chuyên môn, năng lực, nghiệp vụ, phương
pháp vận động phụ nữ.
Năm là, thường xuyên quan tâm đến vấn đề xây dựng gia đình, gia đình
văn hóa, no ấm, hạnh phúc, bình đẳng; chăm sóc giáo dục trẻ em. Thực hiện
nghĩa vụ công dân; trách nhiệm lớn trong gia đình, thiên chức người mẹ…
Sáu là, các cấp Hội từ tỉnh đến cơ sở cần tổ chức nghiêm túc việc quán
triệt, học tập, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay” tới cán bộ, hội viên tham gia góp ý kiến xây dựng Đảng, xây dựng nhà
nước ngày càng vững mạnh; tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với
nhân dân. Củng cố niềm tin của nhân dân đối với hệ thống chính trị.
Bảy là, công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Các cấp
ủy Đảng, chính quyền, các ngành cần quán triệt sâu sắc quan điểm, mục tiêu
công tác phụ nữ trong tình hình mới, tổ chức lãnh đạo xây dựng các chương
trình, kế hoạch hoạt động cụ thể để tạo bước chuyển biến rõ rệt về hiệu quả công
tác phụ nữ ở từng ngành, địa phương, đơn vị [171, tr.11,12].
81
Đến Đại hội lần thứ XVII (9-2010), Đảng bộ Tỉnh chủ trương tiếp tục
lãnh đạo Hội LHPN tỉnh tăng cường xây dựng tổ chức Hội và đẩy mạnh phong
trào thi đua đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Theo đó, Đảng bộ
Tỉnh đã xây dựng các chương trình lớn nhằm thực hiện những công tác trọng
tâm, trong đó có chương trình Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Tiếp đó, tháng 12-2015, Tỉnh ủy ra Chương trình hành động số 01-
CTr/TU, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII nhiệm kỳ
2015-2020, Chương trình nêu rõ:
Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của cấp ủy đối với Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể và các tổ chức chính trị - xã hội; tôn trọng
nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc các cấp. Phát huy vai trò, tích cực, chủ động trong tư
vấn, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội [184, tr.6].
Như vậy, từ năm 2005 đến năm 2015, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đã ban
hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, chương trình, kế hoạch chỉ đạo các cấp ủy, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội nói chung,
Hội LHPN nói riêng, thực hiện tốt các chủ trương của Đảng về công tác phụ nữ
và xây dựng Hội Liên hiệp phụ nữ nhằm xây dựng tổ chức Hội và đẩy mạnh
phong trào phụ nữ, góp phần tập hợp các tầng lớp phụ nữ xây dựng Hưng Yên
trở thành một tỉnh công nghiệp vào năm 2020.
3.2. ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN CHỈ ĐẠO HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LIÊN
HIỆP PHỤ NỮ TỈNH
3.2.1. Chỉ đạo xây dựng tổ chức Hội, đội ngũ cán bộ và phát triển
hội viên
3.2.1.1. Công tác xây dựng tổ chức Hội và phát triển hội viên
Để nâng cao chất lượng tổ chức Hội, Ban Thường vụ Hội LHPN tỉnh,
phối hợp với Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ban Tổ chức huyện, thành ủy nắm tình
hình đội ngũ nữ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh, huyện. Hàng năm, các cấp Hội
thực hiện việc quy hoạch cán bộ Hội theo sự chỉ đạo của cấp ủy cùng cấp,
82
trình Ban Thường vụ cấp ủy cùng cấp phê duyệt, cán bộ trong diện quy hoạch
được cấp ủy các cấp quan tâm chọn, cử tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị và chú trọng công tác phát
triển hội viên.
Nhằm nâng cao chất lượng tổ chức Hội, Đại hội đại biểu phụ nữ Tỉnh lần
thứ XIV (2011) khẳng định:
Công tác củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội được xác
định là nhiệm vụ trọng tâm và được chỉ đạo theo hướng tập trung đầu
tư cho cơ sở, nhất là những cơ sở khó khăn, xa trung tâm, chăm lo lợi
ích thiết thực của phụ nữ; đa dạng hóa các hình thức thu hút các đối
tượng phụ nữ vào tổ chức Hội [107, tr.10].
Với chủ trương đó, đội ngũ cán bộ Hội chuyên trách được đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao năng lực, đáp ứng yêu cầu công tác “Trong 5 năm (2006-211),
các cấp Hội đã phối hợp với Trường Nguyễn Văn Linh, Trung tâm bồi dưỡng
chính trị các huyện, thành phố tổ chức 114 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác
Hội cho 7.862 lượt cán bộ cơ sở”; số lượng hội viên tăng lên đáng kể “Trong
nhiệm kỳ, toàn Tỉnh đã kết nạp mới 25.407 hội viên, nâng tỷ lệ hội viên tham
gia sinh hoạt Hội lên 83,4% (tăng 7,8% so với đầu nhiệm kỳ (75,6% năm
2006), chỉ tiêu Đại hội là tăng 2,8%”), trong đó có 89,2% hội viên thường
xuyên sinh hoạt” [107, tr.11].
Kết quả, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 11/TW (2007), chất lượng
hoạt động của tổ chức cơ sở được nâng lên, 100% cơ sở xây dựng được hội viên
nòng cốt. Đến năm 2012, tổng số hội viên toàn Tỉnh là 247.528, đạt trên 83,5%,
tăng 4,2% so với năm 2007; 161/161 cơ sở Hội xã, phường, thị trấn có tổ chức
Hội; có 3.297 chi tổ hội tăng 82% so với năm 2007 [171, tr.6].
Thực hiện Đề án "Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ Hội
Liên hiệp phụ nữ cơ sở giai đoạn 2013-2017", Ban Thường vụ Hội Liên hiệp
Phụ nữ tỉnh tổ chức 22 lớp tập huấn nghiệp vụ công tác Hội cho 1.760 Ủy viên
83
Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ cơ sở, chi hội trưởng chi hội phụ nữ, tổ
trưởng tổ phụ nữ; phối hợp tổ chức 01 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Hội 1
tháng cho 100 chị là Chủ tịch, Phó Chủ tịch, cán bộ trong quy hoạch chức danh
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội LHPN cơ sở. Bên cạnh đó, các cấp Hội đã phối hợp
với Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh, Trung tâm bồi dưỡng chính trị các
huyện, thành phố tổ chức được chức 127 lớp nghiệp vụ công tác Hội cho 11.087
lượt cán bộ Hội cấp huyện, thành phố và chủ chốt cơ sở [119, tr.9].
Công tác củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội được xác
định là nhiệm vụ trọng tâm và tiếp tục chỉ đạo hướng mạnh các hoạt động về chi,
tổ phụ nữ, quan tâm đến triển khai có hiệu quả các hoạt động chăm lo lợi ích
thiết thực của hội viên, phụ nữ, giải quyết những vấn đề đặt ra đối với phụ nữ.
Chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở được nâng lên, 100% cơ sở xây
dựng được hội viên nòng cốt; đến năm 2015, tổng số hội viên là 260.253 tăng
34.818 so với năm 2007, tăng 12.724 so với năm 2012.
Trên cơ sở chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công tác vận
động quần chúng nói chung, công tác lãnh đạo hoạt động của Hội LHPN nói
riêng, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên luôn chú trọng xây dựng tổ chức Hội; phát triển
hội viên; đồng thời, nắm chắc tình hình phụ nữ, những vấn đề đặt ra đối với công
tác phụ nữ tại địa phương, tiếp tục xây dựng tổ chức Hội ngày càng vững mạnh,
đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
3.2.1.2. Công tác xây dựng bộ máy, đội ngũ cán bộ Hội
Với mục tiêu xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ
Hội thực sự có năng lực để hướng dẫn, tổ chức phong trào phụ nữ trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội
LHPN Việt Nam, Tỉnh ủy luôn tạo mọi điều kiện để các cấp Hội Phụ nữ trong
tỉnh củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức bộ máy,
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Hội có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới.
84
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VIII), Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Nghị quyết số 42-NQ/TW(2004) của Bộ Chính trị Về công tác
quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, Ban Thường vụ Tỉnh ủy (khóa XV) đã xây dựng và ban hành Nghị
quyết số 24-NQ/TU (2005) Về công tác quy hoạch cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết chủ trương:
Những đồng chí dưới 45 tuổi đưa vào quy hoạch phải tốt nghiệp đại
học chuyên ngành hệ chính quy và cao cấp lý luận chính trị hệ tập
trung. Quy hoạch cần có ba độ tuổi để đảm bảo trẻ hóa đội ngũ, với
yêu cầu về độ tuổi trung bình khóa sau phải thấp hơn khóa trước, cơ
cấu cấp ủy tỉnh 35 tuổi trở xuống 5-10%, 36-50 tuổi đạt 60%; cấp ủy
huyện, thành phố dưới 35 tuổi từ 10-15%, 36-45 tuổi đạt 70%; cấp cơ
sở, tuổi bình quân trẻ hơn cấp huyện, cơ cấu nữ ở cả ba cấp đạt từ
15% trở lên [163, tr.3].
Thực hiện chủ trương đó, đến tháng 7 năm 2006, đội ngũ cán bộ nữ, cán
bộ Hội có sự phát triển: Trong cơ quan dân cử: Nữ đại biểu Quốc hội 2/7; Hội
đồng Nhân dân cấp tỉnh 13/52, trong đó, cấp huyện - thị 90/327; cấp cơ sở
931/4024. Nữ tham gia cấp ủy: cấp tỉnh 6/49, cấp huyện - thị 60/389; cấp cơ sở
608/3.831. Nữ lãnh đạo các sở ban ngành, đoàn thể cấp tỉnh: cấp trưởng có 8,
cấp phó có 13. Nữ lãnh đạo chủ chốt các huyện - thị: 2 Phó Bí thư Huyện ủy, 1
Chủ tịch, 2 phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân, 1 phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân.
Cấp cơ sở: 8 Bí thư, 12 phó Bí thư, 2 Chủ tịch Ủy ban Nhân dân, 6 phó Chủ
tịch Ủy ban Nhân dân, 8 Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, 11 phó Chủ tịch Hội
đồng Nhân dân. Để chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, Hội LHPN tỉnh phối hợp mở các
lớp nghiệp vụ phụ vận cho 62.432 lượt cán bộ Hội từ chi, tổ trưởng trở lên, Ban
chủ nhiệm Câu lạc bộ được bồi dưỡng nghiệp vụ, có 95 cán bộ chủ chốt và cán
bộ nguồn của Hội phụ nữ cơ sở được học lớp trung cấp phụ vận lý luận 2,5
năm [11, tr.5].
85
Để chủ động nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảm bảo cơ cấu cán bộ
nữ, cán bộ trẻ được đào tạo chính quy, sau đại học, đáp ứng yêu cầu phát triển của
tỉnh; căn cứ vào Nghị quyết số 11-NQ/TW(2007) của Bộ Chính trị Về công tác
phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Ban Thường vụ
tỉnh ủy (khóa XVI), đã xây dựng Kế hoạch số 44-KH/TU (2007) và Chương trình
hành động số 11-CTr/TU (2007) Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước. Đồng thời, ban hành Đề án số 01-ĐA/TU (2009) Về công tác quy
hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý trẻ, chỉ đạo các cấp ủy đảng có trách nhiệm lãnh
đạo, xây dựng, quy hoạch cán bộ nữ, cán bộ trẻ trong quy hoạch tổng thể ở từng
địa phương, đơn vị. Định kỳ, hàng năm, Tỉnh ủy chỉ đạo Ban tổ chức Tỉnh ủy và
các cấp ủy tiến hành rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch cho phù hợp với tình
hình thực tiễn. Do vậy, công tác quy hoạch cán bộ trẻ, cán bộ nữ của Tỉnh đã cơ
bản đảm bảo sự chuyển biến liên tục giữa các thế hệ; cơ cấu; độ tuổi cán bộ được
trẻ hóa. Tỉ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ được quy hoạch vào các chức danh lãnh đạo,
quản lý từ tỉnh đến cơ sở ngày càng được nâng lên.
Đánh giá về kết quả xây dựng đội ngũ cán bộ nữ, Nghị quyết Đại hội phụ
nữ Tỉnh lần thứ XIII, nhiệm kỳ (2006 - 2011) khẳng định:
Công tác quy hoạch, đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Hội
các cấp được nâng lên một bước mới. Đảng, đoàn Ban Thường vụ Hội
Liên hiệp phụ nữ tỉnh đã tập trung lãnh đạo, đổi mới công tác cán bộ;
cấp tỉnh và huyện, thành phố, xây dựng quy hoạch cán bộ theo hướng
dẫn của cấp ủy cùng cấp đảm bảo dân chủ, đúng quy trình và đạy chất
lượng. Đặc biệt coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ với nhiều
giải pháp: Chủ động xây dựng kế hoạch, khai thác nguồn kinh phí,
phối hợp với Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh, Trung tâm bồi
dưỡng chính trị các huyện - thành phố tổ chức bồi dưỡng, đào tạo kiến
thức lý luận chính trị, quản lý Nhà nước cho cán bộ Hội [102, tr.8].
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh, các ban, ngành chức năng đã tham
mưu về kiện toàn bộ máy, tổ chức, đội ngũ cán bộ của Hội. Ban tổ chức Tỉnh ủy,
Sở Nội vụ đã tích cực phối hợp với các cấp Hội Phụ nữ trong tỉnh xây dựng tổ
86
chức, bộ máy và cán bộ của Hội LHPN 3 cấp trong Tỉnh theo hướng tinh gọn,
chuyên sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, khắc phục tình trạng
chồng chéo về nhiệm vụ, giảm bớt cán bộ hành chính, tăng cường cán bộ phong
trào, giảm thiểu hiện tượng hành chính hóa. Ban Tổ chức Tỉnh ủy đã phối hợp
với Hội LHPN tỉnh xây dựng, trình và bảo vệ thành công trước Ban Thường vụ
Tỉnh ủy về mô hình tổ chức bộ máy mới của Hội theo sự chỉ đạo của Trung ương
Hội LHPN Việt Nam: Bộ máy tổ chức hoàn chỉnh gồm văn phòng, 5 ban chuyên
môn và 2 trung tâm (Thành lập mới Ban Chính sách - Luật pháp và Trung tâm
Tư vấn, hỗ trợ hôn nhân). Bộ máy được kiện toàn theo hướng hoàn thiện đầy đủ,
có tính chuyên môn hóa cao đã trở thành công cụ hữu ích giúp Ban Thường vụ,
Hội LHPN tỉnh trong công tác tham mưu và tổ chức thực hiện có hiệu quả công
tác phát triển tổ chức Hội và đẩy mạnh phong trào thi đua. Với bộ máy của cấp
huyện và cơ sở, Ban Tổ chức Tỉnh ủy và Sở Nội vụ phối hợp với Hội LHPN tỉnh
trình Đề án về biên chế của Hội LHPN cấp huyện là 5; cấp xã có 1 cán bộ
chuyên trách (đồng chí chủ tịch). Đồng chí Phó chủ tịch Hội phụ nữ cơ sở và đội
ngũ Chi hội trưởng hoạt động bán chuyên trách.
Trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ của các cấp Hội Phụ nữ, Đảng
bộ tỉnh quan tâm lãnh đạo trên nhiều khía cạnh. Từ quy hoạch, đào tạo, bố trí,
sắp xếp, giới thiệu cán bộ có đủ năng lực đảm nhiệm các chức danh lãnh đạo chủ
chốt của Hội đến việc tạo cơ chế, chính sách riêng cho cán bộ nữ, cán bộ Hội
trong đào tạo, luân chuyển... Qua hai kỳ Đại hội, Hội LHPN tỉnh Hưng Yên lần
thứ XIII, nhiệm kỳ (2006-2011); lần thứ XIV nhiệm kỳ (2011-2016), Ban Chấp
hành, Ban Thường vụ, lãnh đạo chủ chốt và cán bộ Hội Phụ nữ chuyên trách 3
cấp đều đạt và vượt chuẩn cả về trình độ văn hóa, chuyên môn và trình độ lý
luận chính trị ở từng vị trí chức danh công tác theo quy định của Trung ương Hội
LHPN Việt Nam. Đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ Hội
cấp huyện và cơ sở, Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Ban Tuyên giáo và Trường
Chính trị tỉnh chủ trì, phối hợp với Hội LHPN xây dựng kế hoạch và tổ chức đào
tạo theo từng năm. Việc bồi dưỡng, tham mưu giới thiệu cán bộ, hội viên tiêu
biểu để Đảng bồi dưỡng, kết nạp được các cấp Hội luôn quan tâm chú trọng. Các
87
cấp Hội chủ động chuẩn bị nguồn, tham mưu, giới thiệu nhân sự là nữ tham gia
cấp ủy, các cơ quan dân cử và bộ máy chính quyền các cấp. Kết quả:
- Tỷ lệ nữ tham gia cấp uỷ các cấp:
+ Nhiệm kỳ 2010-2015 (tăng ở cả 3 cấp so với nhiệm kỳ 2005 - 2010):
Cấp tỉnh 7/55=12,7% (tăng 0,5%); Cấp huyện, thành phố và đơn vị 71/444=16%
(tăng 0,6%), cấp cơ sở 793/4.450 = 17,8% (tăng 2%) [119, tr.9].
+ Nữ đại biểu Quốc hội khoá XIII: 3/7 đạt 42,86% (tăng so với khoá XII là
14,26%). Khóa XIV là 3/7 đại biểu đạt 42,86% bằng nhiệm kỳ trước [119, tr.10].
- Đại biểu nữ trúng cử đại biểu HĐND cấp tỉnh
Nhiệm kỳ 2011-2016: 12/53 = 22,6%
- Nữ đại biểu HĐND cấp huyện thành phố
Nhiệm kỳ 2011-2016: 101/332 = 30,4%
- Nữ đại biểu HĐND cấp xã, phường, thị trấn:
Nhiệm kỳ 2011-2016: 973/4.112 = 23,66
So với chỉ tiêu Nghị quyết 11-NQ/TW, tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cả 3 cấp
đều không đạt (dưới 35%) [119, tr.10].
- Công tác bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ Hội các cấp:
+ Cấp tỉnh: Có 15 cán bộ Hội được bổ nhiệm giữ chức vụ cao hơn, 3 cán
bộ luân chuyển sang cơ quan khác.
+ Cấp huyện, thành phố: Có 46 cán bộ Hội được bổ nhiệm giữ chức vụ
cao hơn, 18 cán bộ Hội luân chuyển sang cơ quan khác, trong đó có 8 chị được
giữ chức cao hơn.
Việc bồi dưỡng, tham mưu giới thiệu cán bộ, hội viên tiêu biểu để Đảng
bồi dưỡng, kết nạp được các cấp Hội luôn quan tâm chú trọng. Trong 10 năm đã
có 9.186 phụ nữ/16.407 người được kết nạp Đảng [119, tr.10].
Qua hai nhiệm kỳ, công tác bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ Hội được
quan tâm đúng mức, số lượng hội viên tăng vượt chỉ tiêu Đại hội đề ra, điều đó
chứng tỏ công tác Hội ngày càng phát triển, thu hút được nhiều hội viên tin
tưởng vào tổ chức và tích cực tham gia hoạt động Hội; đội ngũ cán bộ Hội
nghiệp vụ ngày càng được nâng lên.
88
Để đáp ứng nhu cầu thời kỳ mới, Hội LHPN tỉnh xây dựng Đề án “Đề án
đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ cơ sở giai
đoạn 2013 - 2017”, trình Thường trực Tỉnh ủy phê duyệt. Kết quả: “Năm 2013
đã tổ chức 18 lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Hội cho 1.440 cán bộ
Hội Liên hiệp phụ nữ cơ sở gồm Phó chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ cơ sở và chi
tô phụ nữ, kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước. Phối hợp tổ chức 12 lớp bồi
dưỡng lý luận chính trị và nghiệp vụ công tác Hội cho 1.406 cán bộ Hội Liên
hiệp phụ nữ cơ sở” [110, tr.8].
Sau khi Đề án được phê duyệt, thực hiện Thông báo số 1043-TB/TU,
ngày 25-12-2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
năng lực cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ cơ sở giai đoạn 2013 - 2017”, với mục
tiêu xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ Hội thật sự có
năng lực để hướng dẫn tổ chức phong trào phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH, Tỉnh ủy đã tạo điều kiện để các cấp Hội trong tỉnh củng cố, kiện
toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức bộ máy; đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ Hội có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong
thời kì mới.
Trên cơ sở đó, Hội LHPN tỉnh Hưng Yên không ngừng kiện toàn tổ chức,
bộ máy và đội ngũ cán bộ Hội, tuyển dụng những cán bộ thực sự tâm huyết, có
tinh thần trách nhiệm cao đảm bảo những phẩm chất, năng lực công tác của
người cán bộ Hội trong thời kỳ mới. Nhờ vậy, Hội LHPN tỉnh Hưng Yên đã có
những điều kiện cơ bản, quan trọng để tăng cường xây dựng tổ chức Hội và nâng
cao chất lượng hoạt động những năm 2005-2015.
3.2.2. Chỉ đạo Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh tham gia phát triển kinh tế -
xã hội
Nghị quyết số 11-NQ/TW (2007), của Bộ Chính trị nêu rõ:
Phải chăm lo cho phụ nữ tiến bộ về mọi mặt, quan tâm đầy đủ quyền
và lợi ích hợp pháp, chính đáng để phụ nữ có điều kiện thực hiện tốt
vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên
89
của con người; phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội là một trong những nhiệm vụ và mục
tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới [43, tr.11].
Để phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học vấn,
chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc
tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần;
tham gia ngày càng nhiều hơn công việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực;
đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và gia đình [43, tr.12].
Đặc biệt, Đảng luôn đánh giá cao vai trò của phụ nữ trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội và gia đình, với vai trò người công dân và người mẹ của phụ
nữ có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đối với nguồn nhân lực tương lai của đất
nước, là nguồn lực quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội.
Quán triệt và vận dụng sáng tạo quan điểm của Đảng, từ năm 2005 đến
năm 2015, trên cơ sở các văn bản của Trung ương, được sự quan tâm của Đảng
bộ tỉnh, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội nói
chung, chỉ đạo Hội LHPN tham gia phát triển kinh tế - xã hội nói riêng, sát hợp
với tình hình thực tiễn của địa phương.
Thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW (2007), Ủy ban nhân dân tỉnh ban
hành Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ Hưng Yên đến năm 2010. Kế
hoạch nêu những mục tiêu cụ thể:
Chỉ tiêu 1: Phấn đấu đạt tỉ lệ 50% lao động nữ trong tổng số lao động bình
quân 2,2 vạn lao động/ năm đào tạo việc làm mới.
Chỉ tiêu 2: Phấn đấu giảm tỉ lệ thất nghiệp của lao động nữ ở khu vực
thành thị xuống dưới 3%.
Chỉ tiêu 3: phấn đấu đảm bảo ít nhât 80% hộ nghèo do phụ nữ làm chủ
thiếu vốn sản xuất được vay vốn với lãi xuất ưu đãi và giảm tỉ lệ hộ nghèo do
phụ nữ làm chủ còn dưới 3%.
90
Chỉ tiêu 4: Tăng tỉ lệ lao động nữ được đào tạo lên 4% [180, tr.1].
Kế hoạch nêu các giải pháp thực hiện:
Một là, đảm bảo việc làm, đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo cho phụ nữ
Thực hiện chủ trương đó, Sở Kế hoạch & Đầu tư phối hợp với sở Lao
động Thương binh & xã hội trình Ủy ban nhân dân tỉnh giao chỉ tiêu lao động,
có việc làm mới, dạy nghề và số hộ được xóa đói giảm nghèo, trong đó, xác định
rõ tiêu chí nữ cho tất cả các ngành, địa phương. Các đoàn thể, nhất là Hội phụ nữ
tiếp cận vốn vay, việc chuyển giao công nghệ chăn nuôi, trồng trọt, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, tăng vụ trong sản xuất nông nghiệp, phát triển thủ công nghiệp và
dịch vụ cho lao động nữ ở nông thôn. Các sở: Nông nghiệp & Phát triển nông
thôn, Công nghiệp, Thương mại & Du lịch, Xây dựng thực hiện các chương
trình, dự án về chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, phát triển
thủ công nghiệp và dịch vụ, tăng cường thông tin thị trường định hướng sản xuất
để giải quyết tình trạng thiếu việc làm và tiêu thụ sản phẩm của phụ nữ nông
thôn. Tạo điều kiện để phụ nữ được tham gia nhiều hơn vào các ngành nghề
tương đối ổn định, có nhiều ưu thế về thu nhập. Thực hiện trợ giúp phát triển
ngành nghề ở nông thôn, gắn với loại hình đào tạo nghề thích hợp để phụ nữ
cũng tham gia học nghề và có việc làm.
Hai là, thực hiện chính sách xã hội đối với lao động nữ
Sở Lao động Thương binh & Xã hội và Liên đoàn Lao động tỉnh tăng
cường công tác thanh tra lao động ở những đơn vị, doanh nghiệp đông lao động
nữ về công tác an toàn lao động đối với phụ nữ. Phối hợp với Cục thống kê xây
dựng cơ sở dữ liệu về lao động nữ và duy trì thường xuyên chế độ thông tin thị
trường lao động - việc làm đối với các số liệu tách biệt theo giới tính. Liên đoàn
Lao động tỉnh có biện pháp chỉ đạo cụ thể nhằm tăng cường trách nhiệm, nâng
cao năng lực của tổ chức công đoàn, nữ công cơ sở trong bảo vệ quyền và lợi ích
của lao động nữ tại các loại hình doanh nghiệp. Sở Khoa học & Công nghệ chủ
trì phối hợp với Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn đề xuất các chính sách
hỗ trợ, bảo vệ lao động nữ trong khu vực nông nghiệp & nông thôn.
91
Ba là, tăng cường đào tạo nghề và khả năng tiếp cận các nguồn lực kinh
tế cho phụ nữ
Đầu tư công tác dạy nghề cho lao động nữ, đặc biệt cho nữ thanh niên
nông thôn, quy định tỷ lệ nữ tối thiểu khi tuyển sinh đối với một số ngành nghề
và các cơ sở đào tạo nghề, giới thiệu việc làm. Triển khai các biện pháp tích cực
nhằm tăng cường các cơ hội tiếp cận thị trường cho phụ nữ, phát triển doanh
nghiệp nữ. Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn chỉ đạo, tạo điều kiện cho
phụ nữ tham gia các loại hình khuyến nông. Hội Phụ nữ tỉnh phối hợp với Sở
Nội vụ, Sở Lao động Thương binh & Xã hội trình cấp có thẩm quyền thành lập
Trung tâm dạy nghề giới thiệu việc làm cho phụ nữ [180, tr.1].
Trong chỉ đạo hoạt động, đặc biệt, từ khi có Chương trình mục tiêu Quốc
gia về xây dựng nông thôn mới, Ủy ban nhân dân tỉnh đã phê duyệt đề án “hỗ trợ
phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn 2010 - 2015” trên địa bàn tỉnh Hưng Yên
với mục tiêu: Đa dạng hóa các hình thức dạy nghề gắn với giải quyết việc làm phù
hợp với điều kiện của lao động nữ. Nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy nghề, tạo
việc làm, tăng thu nhập, nâng cao năng lực sản xuất, góp phần chuyển dịch cơ cấu
lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế của Tỉnh, nhằm giải quyết việc làm cho phụ
nữ, góp phần phát triển kinh kế - xã hội, xóa đói giảm nghèo.
Từ những chủ trương của Đảng bộ Tỉnh và sự chỉ đạo thực hiện của Uỷ ban
Nhân dân Tỉnh, Hội LHPN tỉnh Hưng Yên đã triển khai những hoạt động cụ thể,
hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế:
* Hoạt động chuyển giao khoa học - kỹ thuật
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh Hưng Yên,
Hội LHPN tỉnh đẩy mạnh các hoạt động tập huấn chuyển giao khoa học công nghệ.
Hội LHPN tỉnh phối hợp với Sở Khoa học & Công nghệ xây dựng, triển khai thực
hiện đề án Chuyển giao khoa học, công nghệ mới cho phụ nữ. “Các cấp Hội phối
hợp tổ chức 3.517 lớp tập huấn chuyển giao khoa học - công nghệ, khuyến nông,
khuyến ngư, xây dựng mô hình trình diễn, tổ chức tham quan học tập kinh nghiệm”
[107, tr.8]; khuyến khích các cơ sở Hội đăng ký xây dựng mô hình thực hiện đề án
phát triển kinh tế của địa phương. Tiêu biểu như: Mô hình nuôi gà an toàn sinh học,
92
trồng cây vụ Đông, sản xuất lúa giống tại một số xã của Hội LHPN huyện Phù Cừ;
mô hình trồng cây cảnh, cây ăn quả ở các xã huyện Văn Giang, Yên Mỹ, Kim
Động, Khoái Châu; mô hình trông rau an toàn, nuôi gia cầm trong hàng rào của
huyện Mỹ Hào, Văn Lâm, Tiên Lữ, Thành phố Hưng Yên...
Hoạt động chuyển giao khoa học - kỹ thuật tiếp tục được đẩy mạnh. Ban
Thường vụ Hội LHPN tỉnh phối hợp với Sở khoa học & Công nghệ xây dựng đề
án “Chuyển giao Khoa học kỹ thuật mới cho phụ nữ” và tổ chức thực hiện tại
các cơ sở, bằng việc xây dựng các mô hình kinh tế, các lớp tập huấn kiến thức,
kỹ năng chăn nuôi, trồng trọt cho cán bộ, hội viên phụ nữ. Trước sự phát triển
vượt bậc của khoa học - công nghệ, việc đưa khoa học - kỹ thuật ứng dụng vào
thực tiến sẽ đem lại hiệu quả phát kiển kinh tế cao.
* Hoạt động khai thác nguồn vốn
Nhận thức rõ nguồn vốn đóng vai trò quan trọng cho việc phát triển kinh
tế, các cấp Hội đã đẩy mạnh hoạt động, nhằm khai thác nguồn vốn trong nước và
quốc tế cho phụ nữ nghèo vay vốn: “Hội Phụ nữ đã quản lý 17.904.909 đồng
vốn vay, thực hiện nộp lãi, góp tiết kiệm theo quy định, đúng thời hạn. Hầu hết
các thành viên được vay vốn đều sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả.
Thông qua đó, trình độ quản lý điều hành vốn vay, nhất là quản lý tín dụng của
cán bộ được nâng lên, 1.219 nhóm phụ nữ “tín dụng tiết kiệm hình thành” [77,
tr.7]. Điển hình là các huyện, thị: Châu Giang, Kim Động, Ân Thi, Thị xã Hưng
Yên... Hội Phụ nữ đã trở thành bạn hàng đáng tin cậy của ngân hàng, đây là
điểm mới mà nhiệm kỳ trước chưa có.
Các cấp Hội đã chủ động, tích cực khai thác nguồn vốn hỗ trợ phụ nữ vay
đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Trong 5 năm (2006 - 2011), “các cấp hội
quản lý và tín chấp cho vay số tiền trên 95 tỷ đồng, nâng số vốn dư mà Hội quản
lý trên 175 tỷ đồng cho trên 43 ngàn phụ nữ vay phát triển kinh tế gia đình, duy
trì 1.769 tổ phụ nữ vay vốn gắn với tiết kiệm” [94, tr.8]. Công tác kiểm tra, giám
sát diễn ra thường xuyên, kịp thời, chặt chẽ nên nguồn vốn Hội cho vay đảm bảo
quy trình, đúng đối tượng, sử dụng đúng mục đích, hoàn trả đúng và đủ cho ngân
hàng sau mỗi kỳ vay; định kỳ đều có sơ kết, đánh giá hiệu quả vốn vay.
93
Hoạt động khai thác nguồn vốn hỗ trợ phụ nữ vay và phát triển kinh tế
được mở rộng về quy mô và nâng cao chất lượng, hiệu quả trong giai đoạn 2011
- 2016. Thông qua việc thực hiện chương trình ủy thác với ngân hàng Chính
sách xã hội, ký kết chương trình phối hợp với ngân hàng Nông nghiệp & Phát
triển Nông thôn, khai thác từ các chương trình dự án, huy động sự đóng góp của
chị em... “các cấp Hội trong Tỉnh đã tham gia quản lý 662,981 tỷ đồng, cho
42.981 hộ vay và được Hội hướng dẫn sử dụng vốn đúng mục đích, nâng cao
hiệu quả và bảo toàn nguồn vốn, tỷ lệ hoàn trả đạt trên 99,98%” [107, tr.8].
Đến cuối năm 2015, hoạt động khai thác các nguồn vốn cho hội viên phụ
nữ vay phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống tiếp tục được mở rộng.
Các cấp Hội quản lý tốt các nguồn vốn vay. Đến hết năm 2015, tổng dư nợ các
nguồn vốn các cấp Hội Phụ nữ trong tỉnh tham gia, quản lý từ thực hiện chương
trình ủy thác với Ngân hàng Chính sách Xã hội, chương trình phối hợp với Ngân
hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, Ngân hàng Đông Á tăng lên nhanh
chóng, khai thác từ các chương trình dự án 1.546 tỷ đồng cho trên 50.000 hộ
vay; tỷ lệ hoàn trả đạt trên 99,94%, đặc biệt là nguồn vốn ủy thác từ Ngân hàng
Chính sách Xã hội được triển khai thực hiện hiệu quả với dư nợ trên 1000 tỷ
đồng. Quỹ tài chính vi mô được triển khai tại ba huyện (Kim Động, Khoái Châu,
Ân Thi) và thành phố Hưng Yên, với số dư vốn 50,2 tỷ cho trên 5000 phụ nữ
tham gia vay vốn và tiếc kiệm, thực hiện chương trình Quỹ quay vòng vốn vệ
sinh hộ gia đình với doanh số cho vay đạt trên 4,1 tỷ đồng cho 838 phụ nữ nghèo
và cận nghèo tại ba xã, thị trấn (Thị trấn Yên Mỹ, Thị trấn Ân Thi, xã Toàn
Thắng) [117, tr.11].
Đánh giá cao vai trò của công tác tín dụng trong việc phát triển kinh tế,
Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hưng Yên ra Chỉ thị số 36-CT/TU (2015) Về công tác
tín dụng chính sách xã hội, chỉ rõ:
Các đoàn thể chính trị - xã hội nhận ủy thác của Ngân hàng chính sách
xã hội có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các nội dung được ủy thác;
phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Chính sách xã hội và chính quyền
địa phương trong việc củng cố nâng cao chất lượng hoạt động tín
94
dụng chính sách xã hội; hướng dẫn bình xét đối tượng vay vốn; tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc thu hồi nợ đến hạn, hướng
dẫn người vay sử dụng vốn có hiệu quả; làm tốt công tác tư vấn,
hướng dẫn xây dựng và nhân rộng các mô hình sản xuất, kinh doanh
điển hình, giúp nhau vươn lên thoát nghèo và làm giàu [173, tr.2].
Như vậy, từ năm 2005 đến năm 2015, Hội LHPN Hưng Yên luôn quan
tâm đến việc giúp phụ nữ phát triển kinh tế, tận dụng quản lý và sử dụng nguồn
vốn vay có hiệu quả, giúp chị em đặt nền tảng cho việc phát triển kinh tế hộ gia
đình, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.
* Phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế
Kinh tế hộ gia đình có vị trí quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của
Tỉnh nói riêng và đất nước nói chung. Quán triệt sâu sắc sự chỉ đạo của Trung
ương, kiên trì chủ trương huy động nội lực của tầng lớp phụ nữ để phát triển
kinh tế gia đình, những năm 2005 - 2015, các cấp Hội Phụ nữ Hưng Yên đã phát
động sâu rộng, liên tục phong trào “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình, cần
kiệm xây dựng đất nước” và “Ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo”, lấy chương trình
“Hỗ trợ phụ nữ tạo việc làm, tăng thu nhập” làm cốt lõi. Chủ trương này được
đông đảo các tầng lớp phụ nữ trong tỉnh hưởng ứng tích cực và đã đạt được
những kết quả sâu sắc; đã khơi dậy tiềm năng to lớn, sức sáng tạo và truyền
thống nhân ái “Lá lành đùm lá rách” của dân tộc, tạo phong trào sâu trọng trong
các tầng lớp phụ nữ giúp nhau giống, vốn, ngày công, kinh nghiệm sản xuất,
kinh doanh. Trung bình hàng năm, có 20.000 phụ nữ được sự giúp đỡ trực tiếp từ
chị em cùng chi, tổ, Hội. Hội Phụ nữ tỉnh coi đây là nguồn nội lực quan trọng,
mang lại nhiều ý nghĩa xã hội sâu sắc, tính nhân văn cao cả thắm đượm tình
làng, nghĩa xóm.
Cùng với sự phát triển chung của cả nước, các cấp Hội trong Tỉnh đã xác
định hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình, giảm nghèo, vươn lên
làm giàu, cải thiện điều kiện sống có ý nghĩa quan trọng đối với vai trò, vị thế
của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Trong 5 năm (2006-2011), các
cấp Hội Phụ nữ tỉnh Hưng Yên đã chỉ đạo nhiều hoạt động thiết thực, hiệu quả.
95
Quan tâm đến hộ nghèo do nữ làm chủ, gia đình chính sách khó khăn, phụ nữ
đơn thân, tàn tật, giúp chị em thoát nghèo, vươn lên làm giàu thông qua các
họat động.
Trong nhiệm kỳ (2006-2011), toàn tỉnh có 113.249 lượt phụ nữ nhận được
sự giúp đỡ trực tiếp từ các chị em cùng chi, tổ, Hội, về vật tư, con giống, vốn,
với trị giá trên 70 tỷ đồng, không lấy lãi trên 23 ngày công lao động. Qua phong
trào, xuất hiện nhiều tấm gương tấm lòng vàng, giúp nhau hàng trục triệu đồng
không lãi. Nhiều hộ có điều kiện đầu tư phát triển sản xuất, khắc phục khó khăn,
ổn định cuộc sống. Một số huyện làm tốt công tác này là: Khoái Châu, Văn Lâm,
Kim Động, Tiên Lữ..
Đối với hoạt động giúp phụ nữ nghèo có địa chỉ, các cấp Hội đã tập trung
chỉ đạo từ khảo sát, phân loại đến phân công trách nhiệm, tìm biện pháp giúp đỡ.
Do vậy, toàn tỉnh, “có 5.821 hộ nghèo do phụ nữ làm chủ được Hội giúp đỡ (đạt
94,4%), cuối 2011 đã có 2.940 chị thoát nghèo (đạt gần 50%)” [94, tr.7].
Mô hình hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình, giảm nghèo
bền vững được các cấp Hội triển khai rộng khắp, và được đông đảo hội viên phụ
nữ hưởng ứng. Phong trào phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình, giúp phụ nữ
nghèo có địa chỉ đem lại hiệu quả thiết thực “từ năm 2007 đến năm 2012 đã có
75.663 chị được giúp với tổng giá trị 73.173.043.000 đồng. Có 10.747 hộ nghèo
do phụ nữ làm chủ được giúp giảm nghèo, trong đó có 6.448 hộ thoát nghèo”
[171, tr.5]. Đến cuối năm 2016, “hàng vạn lượt phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn
được Hội giúp đỡ về tiền, cây và con giống, ngày công lao động, phương tiện
sản xuất... với trị giá 136,591 tỷ đồng; giúp 12.197 hộ phụ nữ thoát nghèo” [117,
tr.11]. Các cấp Hội phụ nữ trong tỉnh đã tham gia quản lý hiệu quả từ nguồn vốn
thực hiện chương trình uỷ thác với các ngân hàng hỗ trợ cho hội viên vay vốn,
“năm 2012 các cấp Hội trong tỉnh tham gia quản lý trên 752 tỷ đồng cho 44.284
hộ vay” [171, tr.5].
Từ năm 2011 đến năm 2015, phong trào Phụ nữ giúp nhau phát triển
kinh tế gia đình, Giúp phụ nữ nghèo có địa chỉ tiếp tục được duy trì; “có
10.747/10.747 hộ nghèo do phụ nữ làm chủ được Hội giúp giảm nghèo, trong
96
đó có 6.448 hộ thoát nghèo” [107, tr.7]. Như vậy, trong vòng 5 năm, số hộ
thoát nghèo giảm đi một nửa. Con số đó là minh chứng thuyết phục cho quá
trình Hội LHPN Hưng Yên giúp các tầng lớp phụ nữ phát triển kinh tế, xóa
đói giảm nghèo.
* Hoạt động dạy nghề
Hoạt động cho vay vốn, hỗ trợ kỹ thuật là một trong những điều kiện, yếu
tố quan trọng, giúp chị em thoát nghèo, nhưng để thoát nghèo bền vững thì
không thể không nói đến công tác dạy nghề. Trong những năm 2006-2011, với
phương châm tạo việc làm cho phụ nữ tại các địa phương, vừa tăng thu nhập lại
có điều kiện nuôi dạy con và chăm lo cuộc sống gia đình, các cấp Hội động viên
chị em tiếp tục tham gia chương trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đầu tư phát
triển cây, con có giá trị kinh tế cao, khôi phục nghề truyền thống và phát triển
nghề mới. “Hội đã phối hợp cùng các sở, ngành tổ chức 166 lớp dạy nghề cho
7.960 phụ nữ, giới thiệu cho các chị việc làm, thu nhập ổn định” [94, tr.8].
Đến giai đoạn 2011-2015, hoạt động dạy nghề cho lao động nữ nông thôn,
địa phương giành đất cho khu công nghiệp được chú trọng. Hội Phụ nữ các cấp
chủ động phối hợp với các ngành liên quan tổ chức dạy nghề phù hợp với nhu
cầu thị trường và khả năng lao động nữ (nghề may công nghiệp, thêu ren, làm
hương xuất khẩu, thủ công mỹ nghệ, chế biến hạt sen, long nhãn.); gắn dạy nghề
với tư vấn giới thiệu việc làm, tạo việc làm tại chỗ... “Trong 5 năm, tổ chức 111
lớp học dạy nghề cho 2.259 người, tạo việc làm tại chỗ cho gần 5000 lao động
có thu nhập từ 1,5 đến 3,5 triệu đồng/tháng/người. Tiêu biểu như Phù Cừ, Văn
Lâm, Ân Thi, thành phố Hưng Yên” [107, tr.8]... Các hoạt động thiết thực đó đã
giúp nhiều chị em có việc làm, thu nhập ổn định, giảm bớt khó khăn trong cuộc
sống, góp phần thực hiện Đề án dạy nghề và giải quyết việc làm của Tỉnh.
Để tạo việc làm ổn định cho phụ nữ, trong điều kiện diện tích đất nông
nghiệp ngày càng thu hẹp do chuyển đổi mục đích sử dụng, đến cuối năm 2016,
Hội LHPN tỉnh đã phối hợp với các ban, ngành “tổ chức 160 lớp dạy nghề cho
4.750 chị tập trung vào các nghề: Trồng trọt, chăn nuôi, may công nghiệp, mây
tre đan, thêu ren... sau lớp học các học viên được cấp chứng chỉ nghề, hỗ trợ tạo
97
việc làm tại chỗ” [117, tr.11], do vậy, số lượng phụ nữ được giới thiệu việc làm
và có việc làm ổn định ngày càng nhiều.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên, Hội LHPN tỉnh, phụ nữ
Hưng Yên đã tham gia tích cực trong việc phát triển kinh tế - xã hội, đem lại
những kết quả đáng khích lệ, đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển
kinh tế - xã hội của Tỉnh.
Trong sản xuất nông nghiệp, lĩnh vực phụ nữ chiếm tỷ lệ lớn, với 62,3%
lực lượng lao động. Với bản chất cần cù, chịu khó, nữ nông dân Hưng Yên đã
vượt qua khó khăn, tích cực lao động sản xuất, vươn lên làm giàu chính đáng,
chủ động học tập, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học khoa học vào sản xuất;
mạnh dạn tham gia chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỉ trọng giá trị
cây lương thực, tăng nhanh gía trị cây công nghiệp, rau quả và chăn nuôi. Nhiều
chị em đã năng động chuyển hướng sản xuất, khôi phục nghề truyền thống và
phát triển ngành nghề mới, hình thành trang trại theo hướng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp nông thôn, đóng góp quan trọng trong kinh tế nông nghiệp
và góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn Hưng Yên. Kết quả: “Toàn tỉnh có 635
trang trại trong đó có gần 30% trang trại do phụ nữ làm chủ, nhiều trang trại có
thu nhập trên 200 triệu đồng/ năm” [117, tr.6].
Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, các tầng lớp phụ nữ
tham gia tích cực bằng những hoạt động thiết thực: đóng góp tiền, ngày công xây
dựng cơ sở hạ tầng, tham gia giải phóng mặt bằng, hiến đất để mở rộng đường
giao thông, xây dựng các công trình phúc lợi, “Trong 5 năm 2011- 2016, cán bộ
hội viên phụ nữ trong tỉnh cùng với nhân dân tham gia đóng góp, ủng hộ xây
dựng nông thôn mới được 90,678 tỷ đồng, 30.490 ngày công và hiến
3.280.760m2 đất” [117, tr.8]. Phụ nữ cùng nhân dân trong tỉnh tích cực thực hiện
Chỉ thị số 21-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về dồn điền đổi thửa, đổi
ruộng đất nông nghiệp, tham gia xây dựng cánh đồng mẫu lớn, sản xuất nông
nghiệp theo hướng hàng hóa, cho năng suất, giá trị kinh tế cao...
Trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, lực lượng lao động nữ có mặt ở
hầu hết các ngành, lĩnh vực then chốt, đặc biệt trong các ngành công nghiệp may
98
mặc, giầy da, sản xuất hàng tiêu dùng, xuất khẩu, trong các khu công nghiệp...
Mặc dù làm việc trong những ngành nghề khác nhau, công việc nặng nhọc, vất
vả nhưng phụ nữ vẫn là lực lượng cần mẫn và giành nhiều thành tích trong các
cuộc thi thợ giỏi, nâng cao tay nghề, cải tiến công nghệ.
Trong ngành dịch vụ, thương mại, tài chính, ngân hàng, kho bạc, bưu chính
viễn thông... Với tỉ lệ 50% là nữ, đã góp phần mở rộng mạng lưới dịch vụ phục vụ
đến tận cơ sở, đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Với phẩm chất năng động, sáng tạo,
dám nghĩ, dám làm, chị em đã khẳng định được vai trò của mình, góp phần tích
cực vào sự phát triển nhanh của ngành, làm tăng giá trị sản xuất ngành dịch vụ,
đưa nền kinh tế của Tỉnh phát triển nhanh, toàn diện và vững chắc.
Trong sản xuất tiểu thủ công nghiệp, phụ nữ là lực lượng lao động chính.
Với đức tính cần cù, tỉ mỉ và bàn tay khéo léo vốn có, được sự hỗ trợ, động viên
của các cấp hội, chị em đã tích cực khôi phục và phát triển ngành nghề truyền
thống, tìm kiếm thị trường, cải tiến mẫu mã, tạo ra sản phẩm ngày càng đa dạng,
góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập kinh tế gia đình và đóng góp quan
trọng vào nền kinh tế chung của Tỉnh.
Nữ chủ doanh nghiệp của tỉnh ngày càng phát triển về số lượng và chất
lượng. Chị em đã sản xuất kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác
nhau, tạo ra hàng chục ngàn việc làm cho người lao động. Nhiều chị đã năng
động, sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh được vinh danh là nữ doanh nhân, chủ
doanh nghiệp tiêu biểu, tạo ra việc làm cho nhiều lao động.
Với những kết quả thuyết phục thể hiện sự chỉ đạo sát sao, đúng hướng
của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đối với hoạt động của Hội LHPN tỉnh trong tham
gia phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đưa kinh tế của tỉnh Hưng Yên ngày
càng phát triển phù hợp với điều kiện mới.
3.2.3. Chỉ đạo công tác tuyên truyền và sơ kết, tổng kết, nhân rộng
điển hình tiên tiến
* Công tác tuyên truyền
Trong quá trình lãnh đạo Hội LHPN tỉnh tăng cường công tác xây dựng tổ
chức Hội và hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ, từ năm 2005 đến năm 2015,
99
cùng với việc đề ra nhiều chủ trương, định hướng đúng đắn, Đảng bộ tỉnh Hưng
Yên đã chỉ đạo hệ thống chính trị trong tỉnh tổ chức thực hiện nhiều hoạt động
nhằm hiện thực hóa chủ trương, định hướng về công tác phụ nữ. Căn cứ vào nội
dung các yêu cầu đã được nêu trong từng đề án, chương trình, nhất là trong phần
nhiệm vụ, giải pháp và tổ chức thực hiện, Đảng bộ tỉnh sử dụng nhiều phương
pháp, hình thức phù hợp, tác động mạnh mẽ tới các cấp ủy Đảng, chính quyền,
các ban ngành, đoàn thể của tỉnh trong việc lãnh đạo và phối hợp, tạo điều kiện
cho Hội LHPN tỉnh tăng cường công tác xây dựng tổ chức và đổi mới hoạt động.
Các cấp Hội chủ động tham mưu với cấp ủy Đảng, chính quyền các ban,
ngành, đoàn thể làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến các chỉ thị, nghị quyết
của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghị quyết của Hội, các chương
trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và từng địa phương. Giáo dục truyền
thống yêu nước, phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam, phụ nữ Hưng
Yên, tuyên truyền kiến thức và kỹ năng tổ chức cuộc sống gia đình, đặc biệt
quan tâm đến thanh niên, tuyên truyền kiến thức về giới và bình đẳng giới, trọng
tâm là Luật Bình đẳng giới.
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ chỉ đạo Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ là nòng cốt chủ
trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn, đôn đốc việc quán triệt, tuyên
truyền nội dung các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương và Tỉnh ủy liên quan đến
công tác vận động quần chúng, vận động phụ nữ; đồng thời, tăng cường chỉ đạo
tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về những đóng góp, cống
hiến của Hội phụ nữ vào thành tích chung của Tỉnh.
Để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, Đảng đoàn Hội LHPN tỉnh
phối hợp với Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh tổ chức hội nghị tọa đàm: Về công
tác cán bộ nữ; Phụ nữ Hưng Yên tham gia công tác lãnh đạo, quản lý và xây dựng
gia đình hạnh phúc; Phụ nữ Hưng Yên với gia đình và xã hội: “Các cấp Hội tổ
chức và phối hợp tổ chức được 965 lớp tuyên truyền Luật bình đẳng Giới, phòng
chống bạo lực gia đình cho 73.228 người; 49 cuộc toạ đàm các chuyên đề: Giới,
Luật bình đẳng Giới, phòng chống bạo lực gia đình...” [175, tr.4].
100
Hoạt động phối hợp giữa các cấp Hội với các cơ quan thông tin, tuyên
truyền được triển khai thường xuyên, đảm bảo chất lượng. Hằng quí, Hội LHPN
tỉnh đã phối hợp với Đài Phát thanh Truyền hình Tỉnh, xây dựng chuyên mục
phụ nữ, tuyên truyền về các nội dung hoạt động của Hội, gương các tập thể, cá
nhân tiêu biểu trong các hoạt động; đồng thời, tăng thời lượng phát sóng nhân
các dịp kỷ niệm, hoạt động lớn của Hội; phối hợp với Báo Hưng Yên xây dựng
chuyên mục theo tháng; các huyện, thành phố, đơn vị và cơ sở Hội phối hợp với
đài truyền thanh hằng tuần có tin bài phụ nữ và hoạt động của Hội, chú trọng
nâng cao chất lượng tuyên truyền. Trong nhiệm kỳ (2006 - 2011) “Các cấp hội tổ
chức và phối hợp với các ngành chức năng tổ chức 8.202 lớp tập huấn, buổi
truyền thông kiến thức các chuyên đề thiết thực, phù hợp cho 738.522 lượt hội
viên phụ nữ” [107, tr.5].
Ban Thường vụ Hội LHPN tỉnh chỉ đạo xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ báo
cáo viên từ tỉnh đến cơ sở về kiến thức, kỹ năng tuyên truyền; tiếp tục quan tâm
chỉ đạo phong trào xây dựng tủ sách và phát động cán bộ, hội viên phụ nữ học
tập qua sách báo, “Toàn tỉnh có 160/161 cơ sở và trên 600 chi Hội xây dựng
được tủ sách với nhiều đầu sách, báo của chị em và nhân dân, góp phần tuyên
truyền có hiệu quả cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
ở khu dân cư” [172, tr.10].
Đặc biệt, năm 2013, Ban Thường vụ, Hội LHPN tỉnh ban hành Kế hoạch,
tổ chức chiến dịch truyền thông về “Phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam trong
thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; trong đó nêu rõ:
Tuyên truyền sâu rộng trong các tầng lớp phụ nữ về những phẩm chất
đạo đức cần tu dưỡng, rèn luyện đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước, thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW ngày 14-05-
2011 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục đẩy mạnh việc học tập làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh [113, tr.1].
Từ năm 2005 đến năm 2015, công tác tuyên truyền, giáo dục của các cấp
Hội trong tỉnh có nhiều đổi mới, đa dạng về nội dung, phong phú về hình thức,
bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, phù hợp với từng đối tượng nữ, từng
101
bước đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của Hội viên phụ nữ, góp
phần nâng cao trình độ nhận thức mọi mặt của cán bộ hội viên nữ, góp phần xây
dựng người phụ nữ Hưng Yên có sức khỏe, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng
động, sáng tạo, động viên chị em tích cực tham gia thực hiện các nhiệm vụ công
tác Hội và các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
* Công tác sơ kết, tổng kết, biểu dương, nhân điển hình tiên tiến
Các hoạt động thực hiện đề án, nghị quyết về công tác phụ nữ xây dựng
tổ chức Hội và hoạt động của Hội LHPN đối với các cấp được Tỉnh ủy thực hiện
khá nghiêm túc.
Quán triệt tinh thần Chỉ thị số 39/CT-TW của Bộ Chính trị về việc “Tiếp
tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng
kết và nhân điển hình”, Kế hoạch 44-KH/TU, Tỉnh ủy và các cấp ủy trong Tỉnh
xây dựng Báo cáo tổng kết các chuyên đề về: Kết quả công tác xây dựng Đảng,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, công tác dân vận của
hệ thống chính trị. Báo cáo tổng kết đã đánh giá, phân tích những kết quả đạt
được trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện, biểu dương, ghi nhận những nỗ lực của
hệ thống chính trị, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội
trong công tác vận động quần chúng nói chung, xây dựng tổ chức Hội nói riêng;
đồng thời, đề ra những phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp của năm tiếp theo.
Các báo cáo còn là cơ sở để đánh giá công tác thi đua đối với Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội; đánh giá, xếp loại cấp ủy đảng trong
sạch, vững mạnh; là tiêu chí khen thưởng về xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội. Ngoài ra, trong nhiều văn
bản chỉ đạo khác, Đảng bộ Tỉnh đều đưa công tác vận động phụ nữ và cán bộ nữ
trở thành một nhiệm vụ, tiêu chí trong kế hoạch chỉ đạo hoạt động cũng như
đánh giá thi đua, khen thưởng về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội.
Năm 2006, Ban Thường vụ Hôi LHPN tỉnh ban hành Kế hoạch tổ chức
hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập,
lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” do Đại hội phụ nữ toàn quốc
102
lần thứ IX phát động: Tổng kết, đánh giá phong trào thi đua Phụ nữ tích cực
hoạc tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc nhằm đánh giá công
tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức phong trào thi đua 5 năm qua, rút ra những bài
học kinh nghiệm trong chỉ đạo, triển khai phong trào thi đua thời gian tới của các
cấp hội trong tỉnh. Đồng thời cũng biểu dương “33 tập thể, cá nhân tiêu biểu xuất
sắc trong thực hiện phong trào thi đua” [92, tr.2].
Qua tổng kết 5 năm thực hiện phong trào thi đua, toàn tỉnh đã có
70.570 chị đạt danh hiệu “phụ nữ tiêu biểu xuất sắc 5 năm”, trong đó
có 20.144 chị phụ nữ tiêu biểu xuất sắc cấp huyện - thị, có 1.662 chị
phụ nữ tiêu biểu xuất sắc cấp tỉnh, có 822 chị phụ nữ tiêu biểu cấp
Trung ương. Kết quả từ các phong trào thi đua đã đóng góp quan
trọng vào thành tựu kinh tế - văn hóa - xã hội của tỉnh [92, tr.3].
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “100 bài diễn văn hay,
không bằng một tấm gương sống”, việc biểu dương các điển hình tiên tiến có giá
trị to lớn trong việc khuyến khích, động viên các tập thể, các nhân hội viên tích
cực tham gia hoạt động Hội. Quán triệt tinh thần đó, việc tổng kết 5 năm, 10
năm thực hiện Nghị quyết số 11/TW (2007) của Bộ chính trị Về công tác nữ thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, được Đảng bộ tỉnh chú
trọng. Tỉnh ủy yêu cầu, các cấp ủy Đảng, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở quan
tâm đến công tác phụ nữ.
Đảng bộ Tỉnh chủ trương “Thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, công
tác, sơ, tổng kết, đánh giá việc triển khai Nghị quyết; trên cơ sở đó, rà soát, bổ
sung vào chương trình thực hiện nghị quyết các cấp phù hợp với từng địa
phương” [175, tr.12].
Thông qua việc sơ kết, tổng kết Nghị quyết, giúp Hội LHPN tỉnh đánh giá
cụ thể kết quả thực hiện chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, Đảng bộ tỉnh đề ra
phương hướng phù hợp và chỉ đạo thực hiện hiệu quả cho giai đoạn tiếp theo.
Định kỳ 6 tháng yêu cầu Hội LHPN tỉnh đăng ký nội dung cần báo cáo, xin
ý kiến lãnh đạo của Thường trực, Ban Thường vụ tỉnh ủy để bố trí nghe và có ý
kiến lãnh đạo bằng văn bản gửi Đảng bộ các huyện, thành phố, đảnh bộ khối
103
Doanh nghiệp để tổ chức thực hiện. Các chủ trương, văn bản chỉ đạo của Trung
ương về công tác phụ nữ & hoạt động của Hội LHPN đã được Ban Thường vụ
tỉnh ủy cụ thể hóa bằng các chỉ thị, chương trình hành động, các kế hoạch triển
khai, tổ chức thực hiện và chỉ đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh phối
hợp với Hội LHPN tỉnh triển khai thực hiện, tạo điều kiện để Hội LHPN tỉnh hoạt
động, ban hành văn bản quy định rõ kinh phí tổ chức đại hội phụ nữ các cấp, kinh
phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở (phó chủ tịch Hội LHPN xã, phường, thị trấn,
chi hội trưởng phụ nữ), và các mức kinh phí cho hoạt động của các đoàn thể thôn.
Giao cho Ban Dân vận Tỉnh ủy giúp Ban Thường vụ tỉnh ủy theo dõi nắm tình
hình thực tế các chỉ thị, nghị quyết của Đảng liên quan đến công tác phụ nữ và
tình hình hoạt động của Hội LHPN tỉnh để đánh giá trong các kỳ họp giao ban
giữa Thường trực tỉnh ủy với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể (6 tháng/kỳ) để
Ban Thường vụ cho ý kiến lãnh đạo [phụ lục 5].
Giai đoạn 2005-2015, Tỉnh ủy duy trì thường xuyên quy chế làm việc với
Đảng đoàn, Hội phụ nữ, cho ý kiến chỉ đạo, nghe báo cáo, định kỳ 6 tháng, 1
năm đối với hoạt động của Hội. Các cấp ủy huyện và cơ sở duy trì nề nếp quy
chế này. Bên cạnh đó, Đảng bộ tỉnh luôn quan tâm chỉ đạo Ủy ban tỉnh và các
ban, ngành liên quan cụ thể hóa chủ trương của Đảng bộ thành cơ chế phối hợp,
tạo điều kiện, hỗ trợ Hội LHPN tỉnh hoạt động ngày càng hiệu quả.
3.2.4. Chỉ đạo đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước
Cùng với việc chỉ đạo các cấp Hội đẩy mạnh đến công tác tuyên truyền,
giáo dục, vận động phụ nữ thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên chú trọng chỉ đạo, đồng
thời phát động và tổ chức cho phụ nữ tham gia các phong trào thi đua yêu nước,
các cuộc vận động do Đảng, Mặt trận Tổ quốc và Hội LHPN Việt Nam phát
động. Tuy nhiên, trong bối cảnh có nhiều phong trào, cuộc vận động cùng thời
điểm được phát động, đặt ra vấn đề, mỗi tổ chức cần chú ý nâng cao chất lượng,
đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước; tránh hiện tượng chồng chéo, hình
thức, kém hiệu quả giữa các cuộc vận động, các phong trào thi đua.
104
Trong những năm 2005-2015, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của
Hội LHPN, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên luôn quan tâm lãnh đạo Hội LHPN tỉnh đẩy
mạnh các phong trào thi đua, bằng việc hưởng ứng các phong trào thi đua yêu
nước và các cuộc vận động do Hội LHPN Việt Nam phát động. Đại hội đại biểu
Phụ nữ tỉnh Hưng Yên lần thứ XIII (2006) chỉ đạo: “Thực hiện phong trào thi
đua “phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”
do Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ IX phát động. Theo đó, Ban Thường vụ Hội
LHPN tỉnh đã xây dựng kế hoạch, hướng dẫn chỉ đạo các huyện, thị, đơn vị, Ban
nữ công Liên đoàn lao động căn cứ tình hình thực tế của đơn vị xây dựng kế
hoạch, gắn phong trào thi đua của Hội với nội dung các phong trào “Giỏi việc
nước, đảm việc nhà”, “Chiến sĩ giỏi”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư”, “Đợt thi đua đặc biệt do Chính phủ phát động”; chương trình
xây dựng gia đình “no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” của Hội LHPN Việt
Nam… Phong trào thi đua được cụ thể hóa bằng chương trình, chuyên đề, các
chỉ tiêu để chỉ đạo triển khai thực hiện ở 100% cơ sở Hội, thu hút trên 90% cán
bộ, hội viên phụ nữ tham gia” [94, tr.2]. Việc gắn các phong trào thi đua với các
chương trình cùng với sự hướng dẫn, chỉ đạo của Ban Thường vụ Hội LHPN
tỉnh làm rõ các tiêu chí của phong trào, tập hợp đông đảo hội viên tham gia với
kết quả đáng khích lệ: Qua 5 năm thực hiện phong trào thi đua “phụ nữ tích cực
học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” và phong trào “Hai
giỏi”, có 23.583 nữ công nhân viên chức đạt danh hiệu “Hai giỏi” các cấp [94,
tr.2]. Kết quả đó đã góp phần thích cực vào sự phát triển chung của Tỉnh.
Thực hiện Chỉ thị số 06/ 2006-CT/UBND tỉnh Hưng Yên, về việc phát
động đợt thi đua đặc biệt lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X; kỷ niệm 175 năm ngày thành lập tỉnh Hưng Yên và 10 năm tái lập tỉnh,
Đảng bộ tỉnh Hưng Yên chỉ đạo Đại hội Phụ nữ tỉnh lần thứ XIV (2011), xác
định rõ nhiệm vụ và giải pháp: Tiếp tục triển khai sâu rộng, nâng cao chất lượng,
hiệu quả phong trào thi đua: “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây
105
dựng gia đình hạnh phúc”; tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5
không 3 sạch”. Vận động cán bộ, hội viên và các tầng lớp phụ nữ trong tỉnh tích
cực hưởng ứng phong trào thi đua “cả nước chung sức xây dựng nông thôn
mới”. Tích cực cải tiến công tác chỉ đạo, theo dõi, đánh giá thi đua, phát huy tính
chủ động, sáng tạo của từng cấp Hội trong việc xác định nội dung, tiêu chuẩn thi
đua theo hướng thiết thực, hiệu quả, sát với nhiệm vụ Hội và nhiệm vụ chính trị
của địa phương. Đảm bảo nguyên tắc dân chủ, công khai, kịp thời trong thi đua,
khen thưởng [107, tr.15].
Qua nghiên cứu các văn bản chỉ đạo của Đảng bộ và Trung ương Hội,
xuất phát từ thực tiễn chỉ đạo phong trào phụ nữ tại các cơ sở, từ năm 2010 đến
năm 2015, Ban Thường vụ Hội LHPN tỉnh đã đề xuất với Ban Thường vụ Tỉnh
ủy cho phép Hội LHPN tỉnh đẩy mạnh và nâng cao chất lượng phong trào thi
đua“Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”
gắn liền với tổ chức thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”(2010-2015). Việc lồng ghép phong trào thi đua yêu nước
với đợt thi đua đặc biệt chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X; kỷ niệm
175 năm ngày thành lập tỉnh Hưng Yên và 10 năm tái lập tỉnh (1997-2007) và
tiếp tục hưởng ứng phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”, là cách làm mới mẻ, sáng tạo, giúp cho phong trào thi đua đến với hội
viên một cách tự nhiên, làm cho cuộc vận động có sức lan tỏa mạnh mẽ trong
các tầng lớp phụ nữ. Nhờ vậy, trên địa bàn Tỉnh đã xuất hiện nhiều mô hình,
cách làm sáng tạo, hiệu quả, góp phần động viên chị em tu dưỡng phẩm chất đạo
đức, ý thức trách nhiệm, đổi mới phương pháp, trong học tập và công tác. Đặc
biệt, tại nhiều huyện, thị đã xuất hiện nhiều mô hình làm theo tấm gương Chủ
tịch Hồ Chí Minh gắn với cuộc vận động xây dựng “Mái ấm tình thương” cho
phụ nữ nghèo, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; hỗ trợ học bổng cho học sinh
nghèo và các hoạt động từ thiện khác.
106
Cán bộ, hội viên phụ nữ trong tỉnh tích cực làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm. Trong năm (2011) toàn tỉnh
tiết kiệm được 696.336.000 đồng, giúp đỡ 252 gia đình hội viên có
hoàn cảnh khó khăn tại địa phương. Tiêu biểu như: Hội Liên hiệp phụ
nữ huyện Kim Động tiết kiệm được 360.130.000 đồng, huyện Văn
Lâm tiết kiệm được 216.000.000 đồng, huyện Khoái Châu tiết kiệm
được 87.206.000 đồng… [106, tr.2].
Tiếp đó, Hội Phụ nữ tỉnh đã phát động các phong trào thi đua "Xây dựng
gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc” và "Xây dựng gia đình 5 không 3 sạch";
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Ủng
hộ xây dựng sửa chữa mái ấm tình thương”, “Phụ nữ cả nước thực hiện vệ sinh
an toàn thực phẩm vì sức khỏe gia đình và cộng đồng”, phong trào "Phụ nữ giúp
nhau phát triển kinh tế gia đình”; các hoạt động tín chấp với ngân hàng cho phụ
nữ vay vốn để phát triển sản xuất, Dự án “Tiếp cận tín dụng liên kết và các dịch
vụ hỗ trợ kinh doanh” do Vương quốc Bỉ tài trợ. Dự án “Nâng cao thu nhập cho
phụ nữ nghèo thông qua đào tạo hỗ trợ vốn để trồng nấm” do tổ chức Marie
Schlei (Đức) tài trợ, dự án Cúm gia cầm do tổ chức Care (Mỹ) tài trợ… góp
phần nâng cao đời sống các hộ gia đình, xóa đói giảm nghèo cho nhiều chị em
phụ nữ.
Thực hiện Đề án: “Tuyên truyền, giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ
Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn
2010 - 2015”, Hội LHPN tỉnh đã triển khai các hoạt động thiết thực như: Tổ
chức tập huấn, tọa đàm, hội thi, giao lưu câu lạc bộ, biên soạn tài liệu tuyên
truyền; thi viết về những tấm gương phụ nữ Hưng Yên tự tin, tự trọng, trung hậu,
đảm đang; thành lập và duy trì hoạt động của 45 câu lạc bộ phụ nữ “Tự tin, tự
trọng, trung hậu, đảm đang”; tổ chức giao lưu, liên hoan hát ru, hát dân ca từ cấp
cơ sở đến cấp tỉnh; tham gia Liên hoan hát ru và hát dân ca cổ truyền năm 2014
và đạt giải Nhì khu vực phía Bắc. Toàn tỉnh, có 90,5% cán bộ, hội viên phụ nữ
107
được tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện các phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Ban Thường vụ Hội LHPN tỉnh phối hợp với Hội Văn học nghệ thuật tỉnh
tổ chức phát động cuộc thi: “Sáng tác thơ, văn xuôi về đề tài phụ nữ” và “Phụ nữ
Hưng Yên với gia đình và xã hội”chào mừng 81 năm ngày thành lập Hội LHPN
Việt Nam, chào mừng Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh Hưng Yên lần thứ XIV và
chào mừng kỷ niệm 185 năm thành lập tỉnh, 75 năm thành lập Đảng bộ tỉnh, 20
năm tái lập tỉnh và chào mừng Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh lần thứ XV. Hai cuộc
thi đã thu hút đông đảo các cây bút chuyên nghiệp và không chuyên viết về các
tấm gương phụ nữ Hưng Yên trong lao động, sản xuất, công tác... Các tác phẩm
đạt giải và vào vòng chung khảo đã được giới thiệu qua 2 cuốn sách Nguồn nước
ngọt ngào và Hoa xứ nhãn, phát hành rộng rãi đến cơ sở để làm tài liệu tuyên
truyền trong sinh hoạt hội viên.
Các cấp Hội tích cực tham gia các hội thi do Trung ương, tỉnh, các sở,
ngành phát động như: Tuyên truyền“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”; tuyên truyền viên giỏi phòng chống tệ nạn xã hội; phòng chống
HIV/AIDS; tìm hiểu kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm và trình diễn nấu
ăn; gia đình điểm 10; phòng chống thiếu máu dinh dưỡng; tìm hiểu về an toàn
giao thông; thi viết với chủ đề nuôi con khoẻ; tìm hiểu thân thế, sự nghiệp Tổng
Bí thư Nguyễn Văn Linh... thu hút đông đảo cán bộ, hội viên phụ nữ Tỉnh tham
gia và đạt nhiều giải cao.
Hội LHPN thành phố Hưng Yên tổ chức hội thi “Tìm hiểu Nghị quyết số
11 của Bộ Chính trị và Luật bình đẳng Giới”. Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Phù
Cừ, Mỹ Hào tổ chức thi viết bài tìm hiểu Luật bình đẳng giới và phòng chống
bạo lực gia đình, có 13.185 cán bộ, hội viên tham gia viết bài dự thi. Hội Liên
hiệp Phụ nữ huyện Tiên Lữ tổ chức 4 hội thi cấp huyện và cấp cụm “Tìm hiểu
Luật phòng chống bạo lực gia đình”, tổ chức đêm truyền thông tuyên truyền về
bình đẳng giới, phòng chống bạo lực gia đình, phòng chống bạo lực học đường
108
dưới hình thức sân khấu hoá thu hút đông đảo cán bộ, hội viên và nhân dân tham
dự” [119, tr.4].
Qua các phong trào thi đua và các cuộc vận động, với các mô hình phù
hợp đã chứng tỏ các phong trào thi đua và các cuộc vận động lớn mà Hội LHPN
tỉnh phát động, chỉ đạo đã thu hút được đông đảo phụ nữ tỉnh Hưng Yên tham
gia, điều đó, khẳng định sự phát triển của tổ chức và vai trò của phụ nữ trong gia
đình và xã hội.
Tiểu kết chương 3
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, và hội nhập quốc tế, hững thành tựu
cùng những thách thức mới đặt ra sau gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới
đất nước đã tạo đà, đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu mới đối với sự lãnh đạo
của Đảng trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Đối với công tác nữ, Đảng Cộng sản
Việt Nam ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW (khóa X). Đây chính là định
hướng hướng quan trọng để Đảng bộ tỉnh Hưng Yên có những chủ trương mới
trong lãnh đạo công tác phụ nữ nói chung, lãnh đạo hoạt động của Hội LHPN
tỉnh nói riêng.
Thực hiện các nghị quyết của Trung ương Đảng về đổi mới hoạt động của
hệ thống chính trị và công tác phụ nữ trong bối cảnh mới, từ năm 2005 đến năm
2015, Đảng bộ tỉnh đã ban hành và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, đề án cụ
thể như: Kế hoạch số 44-KH/TU (2007) của Tỉnh ủy: Nghiên cứu, quán triệt
thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ chính trị về Công tác phụ nữ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Chương trình hành động số
11-CTr/TU (2007) của Tỉnh ủy, thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ
Chính trị về Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước; Quyết định số 2357/QĐ-UBND ngày 11-12-2013, về việc ban hành
Quy chế về mối quan hệ công tác giữa Ủy ban nhân dân tỉnh với Hội Liên hiệp
109
Phụ nữ tỉnh đảm bảo cho Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh tham gia quản lý nhà nước;
Thông báo số 1043 - TB/TU ngày 25-12-2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về
Đề án đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ cơ sở
giai đoạn 2013 -2017.
Cùng với việc đề ra những chủ trương, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đã tập
trung chỉ đạo các cấp Hội phụ nữ xây dựng tổ chức Hội và đội ngũ cán bộ đáp
ứng yêu cầu của giai đoạn mới về cả chất lượng và số lượng; đẩy mạnh phong
trào phụ nữ tham gia phát triển kinh tế - xã hội; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu
nước do Hội LHPN Việt Nam phát động;
Những chỉ đạo sát sao, kịp thời của Đảng bộ tỉnh với Hội LHPN, đã xây
dựng Hội LHPN tỉnh ngày càng vững mạnh; khơi dậy và phát huy mọi tiềm
năng, thế mạnh của các tầng lớp phụ nữ, đưa phong trào phụ nữ tỉnh Hưng Yên
ngày càng phát triển vững chắc, từng bước đáp ứng yêu cầu của công tác vận
động phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập quốc tế.
110
Chương 4
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1. MỘT SỐ NHẬN XÉT
4.1.1. Một số ưu điểm và nguyên nhân
4.1.1.1. Ưu điểm
Một là, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo quan
điểm của Đảng trong lãnh đạo hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, phù
hợp với đặc điểm, tình hình của địa phương.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thông qua các chỉ thị, nghị quyết và sự
chỉ đạo của Hội LHPN Việt Nam; căn cứ đặc vào điểm, tình hình cụ thể của
địa phương, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo quan
điểm chủ, trương của Đảng về công tác phụ nữ và triển khai các chủ trương,
nhiệm vụ hoạt động của Hội LHPN Việt Nam.
Mỗi khi có nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác phụ nữ được ban
hành, Đảng bộ tỉnh giao cho Ban Tuyên giáo chủ trì, phối hợp với Ban Dân vận
và Văn phòng Tỉnh ủy tổ chức quán triệt đến các cấp uỷ và cán bộ lãnh đạo chủ
chốt các ban, ngành, đoàn thể, đội ngũ báo cáo viên, giảng viên từ trường
Chính trị Nguyễn Văn Linh, các Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị cấp huyện.
Bên cạnh đó, để nghị quyết, chỉ thị được quán triệt sâu rộng đến đông đảo đảng
viên, nhân dân trong tỉnh, Đảng bộ tỉnh đã chỉ đạo thực hiện triệt để các hình
thức: Tuyên truyền miệng; sử dụng Bản tin nội bộ phát hành xuống từng chi
bộ; sử dụng hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng như Báo Hưng Yên,
Đài phát thanh Truyền hình tỉnh...
Việc quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, của Trung ương Đảng không đơn
thuần dừng lại ở những buổi học tập, thảo luận, mà còn được thể hiện trong
những chỉ đạo thực tế và đã đem lại hiệu quả cao. Để triển khai nghị quyết của
cấp ủy, chính quyền các cấp, xây dựng các văn bản chỉ đạo, các chương trình
hành động thực hiện nghị quyết; kiểm tra, giám sát thường xuyên việc thực
hiện; kịp thời sơ, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm quá trình quán triệt, chỉ
111
đạo thực hiện; đồng thời, đề ra những phương hướng trong giai đoạn mới.
Đảng bộ đã nghiên cứu, quán triệt, vận dụng sâu sắc nghị quyết, chỉ thị của
Trung ương Đảng về công tác phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN như: Chỉ thị
thị số 42-CT/TW (1998) của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ
Chính trị (2007), Kết luận số 62-KL/TW của Bộ Chính trị (2009), Kết luận số
55-KL/TW của Trung ương Đảng. Các cấp ủy đảng, chính quyền, ban, ngành,
đoàn thể trong tỉnh, đặc biệt là các cấp Hội phụ nữ về công tác phụ nữ ngày
càng sâu sắc và đạt hiệu quả cao trong thực tiễn.
Ngay sau khi tái lập Tỉnh, nhận định về sự lãnh đạo của các cấp ủy đối
với Hội LHPN, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lần thứ XIV (1997),
chỉ rõ: “Sự lãnh đạo của cấp ủy, hoạt động của các đoàn thể chưa ngang tầm
với sự tin cậy và đòi hỏi cao của cán bộ, đảng viên và nhân dân của tỉnh giàu
truyền thống” [158, tr.15]. Trên cơ sở phân tích sâu sắc những hạn chế trong
hoạt động của các đoàn thể, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lần thứ
XV(2000) đã chỉ đạo những phong trào cụ thể, thiết thực. Đối với Hội Liên
hiệp Phụ nữ, Đảng bộ chỉ đạo: đẩy mạnh phong trào thi đua “Phụ nữ giúp nhau
phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm xây dựng đất nước”; “Ngày tiết kiệm vì
phụ nữ nghèo” [160, tr.19].
Tiếp đó, bước sang thiên niên kỷ mới, trước yêu cầu thực tiễn, Đại hội
đại biểu Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lần thứ XVI (2005), chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới
nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể theo
phương châm hướng về cơ sở, đảm bảo thiết thực, hiệu quả, chống quan liêu
hình thức” [162, tr.52].
Trước tình hình đó, việc vận động các đoàn thể nhân dân tham gia thực
hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương là điều rất cần thiết. Tháng 12-2009,
Bộ Chính trị ban hành Kết luận 62-KL/TW về Tiếp tục đổi mới nội dung
phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính
trị, xã hội. Quán triệt Kết luận của Bộ Chính trị, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
XVII (2010) nêu rõ, phải tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể hướng về cơ sở, gắn với cơ sở, bảo đảm
112
thiết thực, hiệu quả, khắc phục bệnh quan liêu. Từng đoàn thể cần duy trì tốt
các phong trào quần chúng mang sắc thái riêng của mình vừa thiết thực với
đoàn viên, hội viên, vừa có tác dụng xây dựng tổ chức vững mạnh.
Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đối với hệ thống chính trị,
đặc biệt là Hội LHPN, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lần thứ XVIII
(2015), khẳng định: phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của
cấp ủy đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, phát
huy vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc với các đoàn thể chính trị
- xã hội đồng thời tranh thủ sự đồng thuận của nhân dân.
So với Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII (2010), Đại hội Đảng bộ tỉnh
Hưng Yên lần thứ XVIII (2015), đã nêu lên vai trò giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc. Đây là phương pháp mới, đáp ứng với yêu cầu của điều
kiện thực tiễn của Tỉnh.
Như vậy, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đã quán triệt sâu sắc những chủ
trương, nghị quyết, chỉ thị, chính sách của Đảng, Nhà nước và Hội LHPN Việt
Nam về công phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN; đồng thời, thường xuyên
chủ động nghiên cứu, ban hành những chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo
đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với thực tế địa phương cũng như tình
hình công tác Hội và phong trào phụ nữ của tỉnh từ năm 1997 đến năm 2015,
nhằm bảo đảm cho Hội LHPN tỉnh vừa có định hướng đúng đắn, sát hợp, vừa
tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động có hiệu quả. Sự quyết tâm lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh thể hiện qua các chủ trương, nghị quyết chuyên đề để lãnh đạo
công tác phụ nữ. Thông qua các chủ trương và sự chỉ đạo kiên quyết của các
cấp ủy đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể đã tạo cơ chế hoạt động,
phối hợp, hỗ trợ các cấp Hội xây dựng, phát triển tổ chức và đẩy mạnh các hoạt
động của Hội LHPN tỉnh.
Hai là, Đảng bộ tỉnh chỉ đạo kịp thời, thường xuyên, xây dựng, phát
triển tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh phù hợp với yêu cầu thực tiễn
Mặc dù là tỉnh mới tái lập, song trước yêu cầu, đòi hỏi của công tác phụ
nữ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên luôn quan
113
tâm sát sao, chỉ đạo kịp thời công tác phụ nữ và công tác xây dựng, phát triển
tổ chức Hội, phù hợp với nhu cầu và thực tiễn của địa phương trong tình hình
mới. Trên sơ sở xác định đúng đắn và nhất quán về chủ trương, Đảng bộ tỉnh
quan tâm đến quá trình chỉ đạo thực hiện đối với việc phát triển tổ chức Hội
phụ nữ các cấp.
Quán triệt chủ trương của Đảng bộ tỉnh, các cấp bộ đảng và chính
quyền trong tỉnh đã xây dựng kế hoạch, chương trình hành động cụ thể của
địa phương, đơn vị và từng bước triển khai thực hiện. Duy trì nghiêm quy chế
làm việc của cấp ủy Đảng cùng cấp với Đảng đoàn Hội LHPN tỉnh, Ban
Thường vụ Hội Phụ nữ các cấp theo định kỳ một năm 2 lần và đột xuất khi
cần thiết; việc kiểm tra, giám sát, sơ tổng kết nghị quyết, chỉ thị của Đảng và
Đảng bộ về công tác phụ nữ, đổi mới nội dung hoạt động của Hội; công tác
đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở Đảng hằng năm, trong đó, kết quả việc lãnh
đạo phát triển tổ chức Hội đã trở thành một tiêu chí bắt buộc. Sự chỉ đạo
thường xuyên, liên tục của Đảng bộ đối với Hội LHPN còn thể hiện rõ nét
trong tinh thần và ý thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính
trị từ tỉnh tới cơ sở.
Những chủ trương của Đảng bộ đối với Hội LHPN tỉnh không chỉ dừng
ở Nghị quyết Đại hội mà còn được Tỉnh ủy xây dựng thành các kế hoạch,
chương trình hành động, các đề án, mang tính khả thi cao; trong đó, có sự phân
công nhiệm vụ rõ ràng cho các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể có liên quan;
đồng thời, được cụ thể hóa bằng các kế hoạch, lộ trình và nguồn lực đảm bảo
để tổ chức thực hiện thành công. Cùng với đó là việc chỉ đạo tích cực, chủ
động trong công tác tuyên truyền, quán triệt; kiểm tra, giám sát; sơ kết, tổng kết
kịp thời các chỉ thị, nghị quyết, đề án về đổi mới hoạt động của Hội Phụ nữ.
Đảng bộ tỉnh Hưng Yên có sự vận dụng sáng tạo, cụ thể trong chỉ đạo
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ Hội, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới.
Các tổ chức đảng trong Đảng bộ tỉnh đã từng bước cải tiến việc phân công,
phân cấp quản lý cán bộ, đổi mới trong chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng,
đãi ngộ cán bộ Hội. Đồng thời, Đảng bộ các cấp từ tỉnh đến cơ sở đã cử cán bộ
114
lãnh đạo chủ chốt trong cấp ủy phụ trách công tác dân vận, cử đồng chí cấp ủy
viên phụ trách công tác phụ nữ. Phương thức lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh về
công tác tổ chức, cán bộ của Hội đã có những đổi mới theo hướng vừa đảm bảo
nguyên tắc, quy định của Đảng, vừa tôn trọng Điều lệ của tổ chức Hội. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, tổ chức, bộ máy của Hội LHPN các cấp trong tỉnh
đã từng bước đổi mới theo hướng gọn nhẹ, rõ chức năng, nhiệm vụ; cán bộ
từng bước được chuẩn hóa, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Đảng bộ tỉnh nghiêm túc quán triệt chủ trương của Đảng, thường xuyên chủ
động nghiên cứu, ban hành các chủ trương, linh hoạt, sáng tạo, vận dụng những
phương thức lãnh đạo và tổ chức thực hiện cụ thể, phù hợp, hiệu quả; với quyết
tâm, sự đồng thuận của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân,
các cơ quan, tổ chức trong cả hệ thống chính trị, nòng cốt là tổ chức Hội phụ
nữ các cấp mà các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác phụ nữ được
thực hiện nghiêm túc. Hoạt động của Hội LHPN tỉnh đã đạt được những kết
quả tích cực, thúc đẩy công tác Hội và phong trào phụ nữ, góp phần xây dựng
quê hương Hưng Yên ngày càng giàu mạnh, văn minh, đáp ứng nhu cầu thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Ba là, sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của Đảng bộ tỉnh đã tạo ra sự chuyển
biến tích cực trong công tác xây dựng tổ chức Hội và hoạt động của Hội Liên
hiệp Phụ nữ tỉnh
Đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Hội
Thực hiện chủ trương và sự chỉ đạo của Hội LHPN Việt Nam, được sự
quan tâm lãnh đạo thường xuyên của Đảng bộ tỉnh, từ khi tái lập tỉnh 1997 đến
năm 2015, những nội dung hoạt động của Hội LHPN tỉnh luôn gắn bó chặt chẽ
với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, luôn quan tâm tới nhu cầu,
nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp phụ nữ; hướng hoạt động về cơ sở,
cũng như hướng tới thực hiện ngày càng tốt hơn những chức năng, của tổ chức
Hội đã được xác định trong Điều 1, Điều lệ Hội LHPN Việt Nam... Trên cơ sở
đó, những hoạt động của các cấp Hội trong tỉnh đã góp phần giải quyết nhiều
vấn đề thiết thực của hội viên phụ nữ, góp phần thực hiện thắng lợi các mục
115
tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đồng thời khẳng định vị thế của
tổ chức Hội trong hệ thống chính trị tỉnh Hưng Yên.
Cùng với phụ nữ cả nước, phụ nữ Hưng Yên đẩy mạnh phong trào
‘‘Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc’’và
6 nhiệm vụ trọng tâm. Để phù hợp với mỗi giai đoạn, Hội LHPN tỉnh đã bổ
sung các cuộc vận động, các phong trào, đề án hoạt động mới để thực hiện tốt
nhất các nhiệm vụ trọng tâm. Đi đôi với việc nghiêm túc quán triệt sự chỉ đạo
trong thực hiện những nội dung hoạt động cơ bản này của Trung ương Hội
LHPN Việt Nam, Hội LHPN tỉnh Hưng Yên đã chủ động nghiên cứu, gắn kết
hoạt động của Hội vào thực hiện những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương. Đặc biệt, Hội LHPN tỉnh xác định những trọng điểm, những
khâu đột phá mang lại lợi ích thiết thực với hội viên phụ nữ trong Tỉnh.
Hội LHPN tỉnh đã tập hợp, lãnh đạo các tầng lớp phụ nữ đẩy mạnh các
phong trào thi đua ‘Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia
đình hạnh phúc’’, gắn với việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”, chủ động nghiên cứu, gắn kết phong trào thi đua với thực hiện
những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; tập trung hỗ trợ phụ nữ phát
triển kinh tế, xây dựng gia đình No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, cụ thể
hơn là xây dựng gia đình với 8 tiêu chí: 5 không, 3 sạch gắn với thực hiện
Chương trình Mục tiêu Quốc gia Xây dựng nông thôn mới.
Những phong trào “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”, “giúp phụ
nữ nghèo có địa chỉ”; các hoạt động tín chấp với ngân hàng cho phụ nữ vay
vốn để phát triển sản xuất, xây dựng các công trình nước sạch - vệ sinh môi
trường, hỗ trợ sinh viên… của Hội Phụ nữ Hưng Yên nhiều năm liên tục là
những hoạt động nổi bật, đóng góp tích cực vào phong trào xoá đói giảm
nghèo, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; đồng thời, đóng góp quan
trọng vào thực hiện cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá, xây dựng gia đình văn hoá của tỉnh, góp phần thiết thực xây dựng nông
thôn mới…, được các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các ban, ngành, đoàn thể
ghi nhận. Kể từ khi tái lập tỉnh, thực hiện chủ trương lãnh đạo đổi mới nội dung
116
và phương thức hoạt động, các cấp Hội trong Tỉnh đã dần chuyển sang những
hoạt động mới, hướng tới việc chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng, thiết thực cho
phụ nữ; quan tâm tới quyền làm chủ và khả năng tự nâng cao trình độ mọi mặt
đối với phụ nữ để bản thân người phụ nữ được phát triển, coi đó là động lực
trực tiếp thúc đẩy phong trào phụ nữ.
Đặc biệt, Ban Thường vụ Hội LHPN tỉnh đã xây dựng và triển khai Đề
án “Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho cán bộ Hội LHPN cơ sở giai
đoạn 2013-2017”. Hằng năm, phối hợp với Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh
tổ chức bồi dưỡng lý luận chính trị và nghiệp vụ công tác Hội cho các Hội
LHPN cơ sở. Các cấp Hội chọn, cử, giới thiệu và tạo điều kiện để cán bộ
chuyên trách các cấp tham gia lớp đào tạo về chuyên môn, lý luận chính trị.
Đến cuối năm 2015, trình độ đội ngũ cán bộ Hội chủ chốt các cấp cơ bản đạt
chuẩn chức danh về trình độ chuyên môn và lý luận chính trị: “Cấp tỉnh 04/04
= 100% trình độ chuyên môn từ đại học, lý luận chính trị từ cao cấp trở lên;
Cấp huyện, thành phố: 28/28 = 100% trình độ chuyên môn từ đại học, lý luận
chính trị từ trung cấp trở lên; Chủ tịch Hội cấp cơ sở dưới 45 tuổi có trình độ
trung cấp chuyên môn hoặc trung cấp lý luận chính trị trở lên: 80/81 = 98,8%;
160/161 = 99,3% có trình độ chuyên môn hoặc lý luận chính trị trung cấp trở
lên. Công tác tập hợp, thu hút, quản lý cán bộ hội viên được tăng cường theo
hướng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, chăm lo đời sống vật chất,
tinh thần cho hội viên... tổng số hội viên toàn Tỉnh hiện nay là 259.816 hội viên
đạt tỉ lệ 81,74%. Công tác vận động phụ nữ tôn giáo tiếp tục được đẩy mạnh đi
vào chiều sâu, tổ chức được nhiều hoạt động giúp chị em sống tốt đời, đẹp đạo”
[117, tr.16].
Trong những năm 1997 - 2015, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng
Yên, Hội LHPN tỉnh đã triển khai nhiều nội dung hoạt động thiết thực, sáng
tạo. Hiệu quả của những hoạt động này một mặt khẳng định những chủ trương,
định hướng chỉ đạo đúng đắn của Đảng bộ tỉnh, mặt khác, cũng chứng tỏ nỗ lực
của Hội LHPN tỉnh trong việc lựa chọn và tập trung chỉ đạo những nội dung
hoạt động sát thực, từng bước đáp ứng tâm tư, nguyện vọng của đông đảo cán
117
bộ, hội viên phụ nữ trong giai đoạn mới, thông qua việc thực hiện tốt các phong
trào thi đua, 6 nhiệm vụ trọng tâm, các cuộc vận động, các đề án trong hoạt
động Hội, đặc biệt là khâu đột phá về hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế và xây
dựng gia đình, các cấp Hội. Thực hiện tốt việc phối hợp với các ban, ngành,
đoàn thể, tạo nguồn lực cho phát triển của Hội
Phương pháp hoạt động của Hội phong phú, sáng tạo, đem lại hiệu quả
thiết thực
Ngay từ khi tái lập Tỉnh, được sự quan tâm, tạo điều kiện của Đảng bộ
tỉnh, các cấp Hội đã tích cực, chủ động nghiên cứu, tổng kết thực tiễn và tham
mưu, đề xuất những vấn đề có liên quan mật thiết tới quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của cán bộ, hội viên phụ nữ, liên quan đến việc đổi mới hoạt động
của Hội. Công tác nghiên cứu, thực hiện các đề tài khoa học, các đề án liên
quan đến công tác phụ nữ, phụ nữ phát triển kinh tế, vai trò của phụ nữ trong
gia đình.... được khuyến khích phát triển. Hội LHPN tỉnh chủ động xác định
vấn đề cấp thiết trong thực tiễn công tác Hội và phong trào phụ nữ. Trong
những năm 1997-2015 đã đề xuất, nghiên cứu, bảo vệ thành công các đề tài,
đề án trước Hội đồng khoa học tỉnh như: “Thực trạng và giải pháp nâng cao
hiệu quả, phương pháp nuôi con khoa học và giáo dục con từ sớm (0 - 6
tuổi)”; “Chuyển giao khoa học kỹ thuật mới cho phụ nữ”; “Tăng cường tuyên
truyền nâng cao nhận thức và trách nhiệm giữ gìn vệ sinh môi trường”; “Đổi
mới nội dung, phương thức tuyên truyền giáo dục phẩm chất đạo đức, nâng
cao năng lực và trình độ mọi mặt của phụ nữ”; “Đổi mới nội dung phương
thức hoạt động nhằm xây dựng, phát triển tổ chức Hội vững mạnh”; “Tuyên
truyền, giáo dục phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”;“Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực
cho cán bộ Hội LHPN cơ sở giai đoạn 2013 - 2017”; “Giáo dục 5 triệu bà mẹ
nuôi dạy con tốt”; “Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm”; Dự án “Hỗ trợ xây
dựng gia đình hạnh phúc, bền vững”; “Phân loại và xử lý rác thải hữu cơ tại
hộ gia đình”; Dự án “Thúc đẩy trách nhiệm xã hội phòng chống bạo lực giới”.
Những Đề án này được Thường trực Tỉnh ủy nhất trí, chỉ đạo Uỷ ban nhân
118
dân tỉnh và các sở, ngành cấp kinh phí, tạo cơ chế, phối hợp, hỗ trợ Hội tổ
chức thực hiện thành công.
Trong lĩnh vực chính trị, các tầng lớp phụ nữ ngày càng tích cực, chủ
động thực hiện quyền công dân, thực hiện dân chủ cơ sở, tham gia xây dựng hệ
thống chính trị vững mạnh. Thông qua hoạt động tham gia xây dựng luật pháp,
chính sách, các hoạt động tư vấn giám sát và bước đầu thực hiện phản biện xã
hội, cán bộ, hội viên phụ nữ trong tỉnh đã đóng góp hàng ngàn ý kiến liên quan
tới quyền lợi phụ nữ, trẻ em để xây dựng, bổ sung chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế - văn hóa - xã hội của địa phương.
Các cấp Hội tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền
củng cố khối đại đoàn kết toàn dân
Để góp phần tích cực tham gia xây dựng Đảng bộ các cấp trong tỉnh
trong sạch, vững mạnh, Hội LHPN các cấp đã nỗ lực đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động để ngày càng thực hiện tốt hơn vai trò nòng cốt trong công tác
phụ nữ của Đảng; quan tâm giới thiệu hội viên ưu tú cho Đảng bồi dưỡng, kết
nạp; đào tạo, bồi dưỡng, giới thiệu, tạo nguồn cán bộ nữ cho Đảng; tích cực
tham mưu trong quán triệt, tuyên truyền, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát,
sơ, tổng kết các nghị quyết của Đảng về công tác phụ nữ... Tổ chức Hội ở từng
cấp đã chủ động tham mưu giúp cấp uỷ tổng kết 9 năm thực hiện Nghị quyết
04-NQ/TW (1993); 7 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/ TU (2010), sơ kết 5
năm thực hiện Nghị quyết số11-NQ/TW (2012). Đối với nhiệm vụ tham gia
xây dựng chính quyền, Hội cũng từng bước đẩy mạnh việc thực hiện vai trò
tham gia quản lý Nhà nước theo tinh thần Nghị định số 19/CP (2003), Nghị
định số 56/CP (2011); tham gia tổ chức triển khai hoạt động của Ban Vì sự tiến
bộ của phụ nữ; phối hợp với chính quyền các cấp tổng kết 10 năm thực hiện
Nghị định 19/CP(2003). Đồng thời, phối hợp triển khai thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở.
Trong đổi mới phương pháp lãnh đạo, để tăng cường tính chủ động và kế
hoạch hóa, Đảng đoàn, Ban Thường vụ Hội LHPN tỉnh luôn chú ý đến việc
xây dựng kế hoạch hoạt động thực hiện nghị quyết các kỳ Đại hội Phụ nữ theo
119
toàn khóa, hằng năm, theo chuyên đề; kịp thời sơ, tổng kết, rút kinh nghiệm;
từng bước đổi mới phương pháp chỉ đạo của Hội cấp trên với Hội cấp dưới
theo hướng khắc phục phong cách làm việc hành chính, biểu hiện quan liêu, xa
cách với hội viên phụ nữ, hướng mạnh các phong trào hoạt động tới cơ sở, tới
khu dân cư, giảm sự chỉ đạo bằng giấy tờ, giành thời gian đi sát cơ sở, gắn bó
với hội viên; phát hiện, tổng kết điển hình tốt, sáng kiến hay từ trong phong
trào hoạt động của cơ sở. Hội LHPN tỉnh coi trọng chỉ đạo điểm, xây dựng các
mô hình điểm, rút kinh nghiệm chỉ đạo trước khi nhân rộng. Vì vậy, từ năm
2006 đến năm 2015, trong phong trào phụ nữ Hưng Yên xuất hiện nhiều mô
hình mới, huy động được sự tham gia của đông đảo hội viên, góp phần tích cực
vào phong trào phụ nữ và sự phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương. Điển hình
là các mô hình: “Làm theo Bác, thực hành tiết kiệm giúp nhau giảm nghèo bền
vững”;” “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”; “Tổ Phụ nữ tiết kiệm - vay
vốn”; “xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; “Phân loại và xử lý rác thải
tại hộ gia đình”; “Phụ nữ hạn chế sử dụng túi nilon”; “Gia đình Phụ nữ 5
không, 3 sạch; “Chăn nuôi lợn sinh sản hướng nạc”;” Hố rác gia đình”, “Thu
gom và xử lý rác thải”; “Sử dụng nước sạch”; “Nâng cao năng lực cho nữ
doanh nhân”; “Tín dụng liên kết với ngân hàng chính sách xã hội”; “Chăm sóc
sức khỏe phụ nữ, trẻ em”; “Phụ nữ với pháp luật”...
Trong phương pháp lãnh đạo của Hội LHPN tỉnh những năm 1997 -
2015, việc phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, Đảng đoàn, Ban
Thường vụ, đảng viên là cán bộ Hội các cấp rất được coi trọng, nhất là từ khi
thực hiện Nghị quyết Trung ương IV (khóa XI) về công tác xây dựng Đảng.
Các đồng chí cán bộ, đảng viên trong tổ chức Hội Phụ nữ các cấp dưới sự lãnh
đạo của cấp ủy cùng cấp, Đảng đoàn, Ban Thường vụ... luôn phát huy tính tiền
phong, gương mẫu, sự nhiệt tình, trách nhiệm và cả tính chịu thương chịu khó
của người cán bộ Hội trong công tác. Để định hướng phấn đấu, cụ thể hóa quy
định trách nhiệm cho chị em, Hội LHPN tỉnh đã nghiên cứu, ban hành Quy
định về chuẩn mực đạo đức của người cán bộ Hội Phụ nữ Hưng Yên học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đồng thời, tổ chức cuộc thi “Chủ
120
tịch Hội phụ nữ cơ sở giỏi” cấp huyện và cấp tỉnh nhằm tạo điều kiện cho đội
ngũ Chủ tịch Hội phụ nữ cơ sở, thể hiện trí tuệ, tài năng, giao lưu, học hỏi, chia
sẻ kiến thức kỹ năng và kinh nghiệm công tác Hội. Nhiều chị được bầu, bổ
nhiệm vào các cương vị chủ chốt, được điều động, luân chuyển một số vị trí
trong bộ máy lãnh dạo của Đảng, chính quyền, đoàn thể.
Hình thức hoạt động ngày càng đa dạng, phong phú, chuyển tải hiệu quả
nội dung hoạt động của Hội, thu hút đông đảo hội viên tham gia sinh hoạt
Quán triệt Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh các nhiệm kỳ, trong
những năm 1997-2015, Đảng đoàn, Ban Thường vụ Hội LHPN tỉnh đã tập
trung chỉ đạo đa dạng hóa các hình thức tập hợp, thu hút hội viên phụ nữ vào tổ
chức Hội, mở rộng mối liên kết, phối hợp hoạt động với Mặt trận Tổ quốc và
các ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh, với các doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế,
tăng cường xã hội hóa hoạt động của Hội... Trong 18 năm (1997-2015), hoạt
động liên kết, phối hợp của các cấp Hội được mở rộng nhanh chóng và đem
lại nhiều lợi ích cho công tác Hội và hội viên phụ nữ. Riêng năm 2000, Hội
LHPN tỉnh phối hợp với Ủy ban Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, đã thực hiện
tốt công tác dân số và sức khỏe sinh sản cho phụ nữ; Thực hiện Quy chế phối
hợp hoạt động giữa Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Từ năm
2002, Hội LHPN tỉnh đã ký chương trình phối hợp hoạt động với Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc về việc thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư”; “Ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo” gắn với tham
gia vận động ủng hộ xây dựng “quỹ vì người nghèo”. Cuộc vận động xây
dựng “Mái ấm tình thương” của Hội gắn với chương trình “Xóa nhà tạm, nhà
tranh tre”, Xây nhà tình nghĩa, nhà Đại đoàn kết của Mặt trận Tổ quốc; năm
2015 chương trình thực hiện Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, xây
dựng đô thị văn minh.
Căn cứ vào Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Hội
LHPN ký với Sở Tư pháp Chương trình phối hợp Phổ biến giáo dục pháp luật,
trợ giúp pháp lý cho phụ nữ. Đặc biệt, năm 2003, Uỷ ban nhân dân tỉnh ban
hành Chương trình hành động số 01, phối hợp hoạt động giữa Ban An toàn giao
121
thông - Liên đoàn lao động - Hội Cựu chiến binh - Hội Phụ nữ - Hội Nông dân
hưởng ứng cuộc vận động Phụ nữ cả nước tích cực tham gia giữ gìn Trật tự an
toàn giao thông và trật tự đô thị. Năm 2005, chương trình phối hợp giữa Hội
LHPN tỉnh với Liên minh Hợp tác xã của tỉnh “Vận động và phát huy vai trò
của phụ nữ trong việc xây dựng và phát triển kinh tế tập thể, giai đoạn 2005-
2011”. Hội LHPN tỉnh phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường ban hành
chương trình “Hành động bảo vệ môi trường phục vụ phát triển bền vững”.
Năm 2006, Hội LHPN tỉnh và Ủy ban Dân số và Kế hoạch hóa gia đình phối
hợp xây dựng mô hình “Giới - phòng chống bạo lực gia đình”. Thực hiện Nghị
quyết liên tịch số 01, Hội LHPN tỉnh ký kết chương trình phối hợp với Công an
tỉnh về Quản lý và giáo dục con em trong gia đình không phạm tội và mắc tệ
nạn xã hội. Bên cạnh đó, Hội phụ nữ tỉnh cũng ký chương trình phối hợp hoạt
động với Đoàn Thanh niên Tổ chức các hoạt động nữ trong thanh niên giai
đoạn 2014 - 2017, ký Chương trình phối hợp với Ban Tôn giáo Sở nội vụ về:
Vận động phụ nữ các tôn giáo thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước giai đoạn 2013 - 2017. Năm 2012, Hội LHPN tỉnh ký
với Liên đoàn Lao động tỉnh Chương trình phối hợp: Tổ chức các hoạt động
trong nữ cán bộ, công chức, viên chức, và công nhân lao động giai đoạn 2012 -
2017. Các chương trình phối hợp nhằm thực hiện vận động các đối tượng hội
viên phụ nữ là thanh niên, nông dân, công nhân cùng cộng đồng có trách
nhiệm, hỗ trợ lẫn nhau trong từng nội dung công việc, thực hiện mục tiêu
chung là mang lại lợi ích cao nhất cho hội viên, đoàn viên; đồng thời, vận động
họ đoàn kết, chung sức thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Trong những năm 2013 - 2015, thực hiện Nghị định số 56/2012/NĐ-CP
của Chính phủ quy định trách nhiệm của các bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các
cấp đảm bảo cho Hội LHPN Việt Nam tham gia quản lý Nhà nước, Hội LHPN
tỉnh phối hợp với sở Nội vụ tham mưu với Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành
Quyết định số 2357/QĐ-UBND ban hành quy chế về mối liên hệ công tác giữa
Uỷ ban nhân dân tỉnh với Hội LHPN tỉnh. Hội LHPN các cấp tích cực tham gia
ý kiến vào quá trình xây dựng văn bản, tổ chức hoạt động phù hợp với nhu cầu,
122
nguyện vọng, quyền lợi, của phụ nữ và trẻ em đề xuất Uỷ ban nhân dân tạo
điều kiện cơ sở vật chất, môi trường để các cấp Hội tham gia quản lý Nhà nước
và hoạt động theo chức năng.
Cùng với liên kết, phối hợp trong nội khối, để huy động nhiều hơn nữa
các nguồn lực hỗ trợ, Đảng đoàn, Ban Thường vụ Hội phụ nữ tỉnh chỉ đạo các
cấp Hội tăng cường các hình thức đa dạng hóa, xã hội hóa các hoạt động của
Hội. Tại cấp tỉnh, Ban Thường vụ đã chủ động ký Chương trình liên tịch với
nhiều cơ quan quản lý nhà nước để phối hợp thực hiện nhiều chương trình mục
tiêu quốc gia trên địa bàn về giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, dân số, nước
sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, phòng chống HIV/AIDS; chương trình
quốc gia về việc làm, chương trình bảo vệ và chăm sóc trẻ em... Chính việc
lồng ghép những chương trình này, một mặt, góp phần cải thiện tình trạng
thiếu nguồn lực tổ chức hoạt động cho Hội, mang lại lợi ích cho hội viên
trong bồi dưỡng, giáo dục nâng cao kiến thức và về tiếp cận các dịch vụ xã
hội cơ bản, hưởng thụ dịch vụ công và phúc lợi xã hội, nâng cao thu nhập và
đời sống... Mặt khác, đóng góp tích cực hỗ trợ các ngành, các đơn vị thực
hiện nhiệm vụ chuyên môn, thực hiện tốt nhiều chương trình mục tiêu quốc
gia trên địa bàn Tỉnh.
Sự nghiệp CNH, HĐH đòi hỏi ngày càng nhiều nguồn lao động chất
lượng cao, có trí tuệ, tay nghề cao, sức khoẻ và phẩm chất tốt, nhưng những
hạn chế về trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ là những khó khăn, thách
thức lớn đối với phụ nữ. Yêu cầu mới của đất nước đòi hỏi Hội LHPN Việt
Nam nói chung và Hội LHPN tỉnh Hưng Yên nói riêng, phải tiếp tục vận dụng
sáng tạo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, bám sát các
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quan tâm nhiều hơn nữa đến nhu cầu,
nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp phụ nữ, hướng hoạt động về cơ sở,
không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, mở rộng sự hợp tác
với các ngành, đoàn thể, với các tổ chức quốc tế, khai thác triệt để nguồn lực
quốc tế, từ các tổ chức phi chính phủ thông qua các dự án, chương trình hỗ trợ
y tế, giáo dục, hỗ trợ phụ nữ, trẻ em nghèo, người khuyết tật...:
123
Dự án Tiếp cận tín dụng liên kết và các dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh
doanh do Vương quốc Bỉ tải trợ, dự án Truyền thông thay đổi hành
vi rửa tay với xà phòng do Ngân hàng Thế giới tài trợ, dự án Nâng
cao thu nhập cho phụ nữ nghèo thông qua đào tạo và hỗ trợ vốn để
trồng nấm do tổ chức Marie Schlei (Đức) tài trợ... [107, tr.11].
Cùng với việc đa dạng những hình thức hoạt động nêu trên, các cấp
Hội trong tỉnh cũng mạnh dạn áp dụng những hình thức mới mang lại hiệu
quả cho từng nội dung hoạt động cụ thể. Trong điều kiện công nghệ thông
tin và truyền thông phát triển, Hội phụ nữ cũng cập nhật thêm nhiều hình
thức truyền thông mới thông qua đài phát thanh truyền hình,bản tin Phụ nữ,
tổ chức cuộc thi viết thơ, văn xuôi “Phụ nữ Hưng Yên với gia đình và xã
hội”, “Cán bộ Hội giỏi - Tiếng hát ru” năm 2013; “Tìm hiểu kiến thức Pháp
luật, kiến thức gia đình”.... Thông tin hai chiều qua điện thoại, hòm thư điện
tử đã trở nên phổ biến. Đến năm 2015, 100% số cơ sở Hội được trang bị
máy tính, 100% có báo Phụ nữ Việt Nam, Báo Hưng Yên; 100% máy tính
của Hội Phụ nữ huyện và tỉnh được kết nối internet; 100% có Bản tin Phụ nữ
Hưng Yên đến tổ, hội.
Chính nhờ nỗ lực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo tinh
thần chỉ đạo của Trung ương Hội và Đảng bộ tỉnh: hướng mạnh hoạt động về
cơ sở, tích cực chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên phụ
nữ bằng những việc làm thiết thực, đến cuối năm 2015, Hội Phụ nữ tỉnh đã thu
hút được trên 259.816 phụ nữ vào tổ chức hội, đạt 81.74%, tăng 19,54% so với
đầu năm 1997. Đươc sự chỉ đạo của tổ chức Hội, phong trào phụ nữ ngày càng
vững mạnh, các hoạt động của Hội đã góp phần nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho phụ nữ, vì sự bình đẳng và phát triển của phụ nữ, góp phần thực
hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, ổn định chính trị, an ninh trật tự, góp
phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương, đồng thời khẳng định vị thế của Hội trong hệ thống chính trị tỉnh.
124
4.1.1.2. Nguyên nhân của ưu điểm
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam có những chủ trương đúng đắn, kịp
thời trong lãnh đạo công tác phụ nữ nói chung và xây dựng tổ chức Hội, phát
triển phong trào phụ nữ nói riêng
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhận thức rõ vai trò, vị trí quan trọng
của phụ nữ Việt Nam và Hội LHPN Việt Nam trong tiến trình lịch sử dân tộc.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã ban hành hai Nghị quyết về công tác phụ nữ
(Nghị quyết số 04-NQ/TW năm 1993; Nghị quyết số 11-NQ/TW năm 2007).
Lần đầu tiên, Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Bình đẳng giới năm 2006.
Chính phủ xây dựng Chiến lược quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam
giai đoạn 2000- 2010 và Chiến lược Bình đẳng giới giai đoạn 2010-2020... Đó
là những cơ sở, điều kiện quan trọng giúp Đảng bộ tỉnh Hưng Yên hoạch định
chủ trương đúng đắn, chỉ đạo thực tiễn hiệu quả hoạt động của Hội LHPN từ
năm 1997 đến năm 2015.
Trong quá trình lãnh đạo hoạt động của Hội LHPN, sự phát triển trong
nhận thức lý luận và chỉ đạo thực tiễn của Trung ương Hội LHPN Việt Nam,
cũng là cơ sở quan trọng, tác động tích cực đến quá trình lãnh đạo hoạt động
Hội LHPN tỉnh của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên.
Thứ hai, yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước đòi hỏi đổi mới hoạt
động của Hội phụ nữ nhằm thực hiện tốt chức năng đại diện, tập hợp, tuyên
truyền, vận động các tầng lớp phụ nữ Việt Nam phát huy cao độ vai trò to lớn
của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế
Khi tỉnh Hưng Yên được tái lập, bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH,
HĐH, các cấp Hội LHPN trong tỉnh nhận thức rõ vai trò công tác Hội và phong
trào phụ nữ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, sự định hướng của Trung
ương Hội, Hội LHPN tỉnh Hưng Yên đã phát huy triệt để tính chủ động, sáng
tạo, đề ra chương trình mục tiêu, nội dung, phương thức hoạt động phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ của Hội,phù hợp với xu thế của thời đại, đáp ứng nhu cầu
chính đáng của các tầng lớp phụ nữ; đồng thời, tích cực tìm tòi, thí điểm, nhân
125
rộng các mô hình, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Hội trong
phong trào phụ nữ. Nhờ đó, hoạt động của Hội ngày càng hiệu quả, mang đến
những quyền lợi thiết thực cho hội viên; đồng thời, vận động phụ nữ thực hiện
tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây
dựng quê hương giàu mạnh. Sự nỗ lực đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động của Hội LHPN tỉnh đã nhận được sự đồng tình của xã hội, đặc biệt, được
cán bộ, hội viên hưởng ứng tích cực. Cán bộ Hội trong toàn hệ thống luôn đoàn
kết, thống nhất, tạo nên sự đồng thuận trong chỉ đạo cũng như tổ chức thực
hiện chủ trương đổi mới nội dung, phương thức hoạt động. Mỗi cán bộ Hội đều
nhận thức và thực sự nỗ lực nâng cao năng lực, phẩm chất, lòng nhiệt tình, tinh
thần trách nhiệm; rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật, kinh nghiệm, kỹ năng vận
động quần chúng. Mỗi người phụ nữ Hưng Yên trong giai đoạn cách mạng
mới, trên từng vị trí công tác, từng lĩnh vực lao động, sản xuất, học tập, trong
gia đình, xã hội đều luôn chủ động nỗ lực phấn đấu để khẳng định vai trò, vị
thế của bản thân, hăng hái tham gia thực hiện các phong trào, hoạt động do tổ
chức Hội Phụ nữ phát động. Thông qua đó, tổ chức Hội LHPN tỉnh ngày càng
thực hiện tốt chức năng đại diện và chăm lo cho các tầng lớp phụ nữ; đồng
thời, tuyên truyền, vận động phụ nữ tỉnh Hưng Yên phát huy cao độ vai trò, khả
năng to lớn, đóng góp vào sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng
quê hương, đất nước mạnh giàu.
Thứ ba, Đảng bộ tỉnh kịp thời đề ra chủ trương và tổ chức thực hiện đối
với công tác phụ nữ nói chung và hoạt động của Hội phụ nữ nói riêng, tạo nên
sự quyết tâm, đồng thuận của hệ thống chính trị
Việc Đảng bộ tỉnh Hưng Yên luôn sát sao lãnh đạo hoạt động của Hội
LHPN tỉnh, thể hiện ở tính kịp thời đề ra các chủ trương, nghị quyết, thông qua
các chủ trương, nghị quyết, chỉ đạo các cấp chính quyền, các ban, ngành, đoàn
thể trong tỉnh chú trọng phối hợp chặt chẽ, ủng hộ tích cực hoạt động của Hội
LHPN tỉnh. Chính sự đồng thuận và phối hợp đồng bộ của cả hệ thống chính trị
từ cấp tỉnh tới cấp cơ sở. Các cấp chính quyền đã có những chính sách cụ thể,
tạo điều kiện cho hoạt động của Hội và sự tiến bộ của phụ nữ; các ngành, các
126
đoàn thể trong tỉnh chú ý phối hợp chặt chẽ, ủng hộ tích cực; sự hỗ trợ từ nhiều
tổ chức quốc tế, các tổ chức, cá nhân hảo tâm trong nước quan tâm đến sự bình
đẳng, tiến bộ của phụ nữ Hưng Yên... đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, thúc đẩy
phong trào phụ nữ tỉnh Hưng Yên phát triển, tạo điều kiện thuận lợi xây dựng
tổ chức Hội ngày càng vững mạnh, hoạt động đạt hiệu quả.
Do nghiêm túc quán triệt chủ trương của Đảng nên Đảng bộ tỉnh đã
thường xuyên, chủ động nghiên cứu, kịp thời ban hành các chủ trương để tổ
chức thực hiện phù hợp, hiệu quả, tạo ra sự quyết tâm, đồng thuận của các cấp
ủy. Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân, các cơ quan, tổ chức trong cả hệ
thống chính trị mà nòng cốt là tổ chức Hội phụ nữ.
Thứ tư, Hội LHPN các cấp trong tỉnh đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động, bám sát chức năng, nhiệm vụ của Hội, nhiệm vụ chính trị của
tỉnh, cụ thể hóa thành các chương trình hành động, kế hoạch, đề án thiết
thực, hiệu quả
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên, sự định hướng của Trung
ương Hội, Hội LHPN tỉnh Hưng Yên đã phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề ra
chương trình hành động, mục tiêu cụ thể, và phương thức hoạt động phù hợp
với chức năng, nhiệm vụ của Hội, xu thế của thời đại, đáp ứng nhu cầu chính
đáng của các tầng lớp phụ nữ. Đặc biệt, Hội LHPN tỉnh đã lựa chọn các trọng
tâm, ưu tiên chỉ đạo từng năm; cải tiến lề lối làm việc; thường xuyên sâu sát cơ
sở, nhất là chi, tổ Hội; thực hiện tốt công tác phối hợp, vận động nguồn lực để
tổ chức tốt các hoạt động của Hội; hướng hoạt động của Hội với những phong
trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động lớn gắn với Học tập làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh
Sự phối hợp chặt chẽ của Hội LHPN tỉnh với Trung ương Hội, chính
quyền, các ban, ngành, đoàn thể của địa phương đã động viên, cổ vũ các tầng
lớp phụ nữ trong tỉnh, phát huy truyền thống, phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ
Hưng Yên đoàn kết, sáng tạo nỗ lực phấn đấu, lao động, công tác, học tập
nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, từng bước khẳng định
127
được vai trò, vị thế trong gia đình và xã hội; xây dựng tổ chức Hội ngang tầm
với nhiệm vụ của thời kỳ mới.
4.1.2. Hạn chế và nguyên nhân
4.1.2.1. Một số hạn chế
Một là, một số cấp ủy Đảng, chính quyền và các ban, ngành chưa thực
sự quan tâm đến công tác lãnh đạo, tạo điều kiện, phối hợp, hỗ trợ hoạt động
của Hội Liên hiệp phụ nữ nói chung và công tác xây dựng tổ chức Hội, đổi mới
hoạt động của Hội Phụ nữ nói riêng
Trong thực tiễn, “Đảng bộ tỉnh Hưng Yên trong việc lãnh đạo hoạt động
của Hội LHPN tỉnh là chưa có văn bản riêng lãnh đao Hội LHPN tỉnh, mà chỉ
có văn bản triển khai thực hiện các văn bản chỉ đạo của Trung ương Đảng,
Chính phủ” [phụ lục.5]. Một số cấp ủy Đảng, chính quyền và các ban, ngành
chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò quan trọng của phụ nữ trong gia đình và
xã hội, vị trí, vai trò nòng cốt của Hội LHPN trong công tác phụ nữ của Đảng.
Vì vậy, chưa quan tâm đúng mức đến công tác lãnh đạo, tạo điều kiện, hỗ trợ
hoạt động của Hội.
Một số nơi, cấp ủy chưa quan tâm lãnh đạo thường xuyên đối với Mặt
trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, vẫn còn tình trạng không duy trì Quy chế
làm việc giữa Ban Thường vụ cấp ủy với lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức đoàn thể chính trị - xã hội, thiếu nắm bắt tình hình, ít chú ý, quan tâm giải
quyết những đề xuất, kiến nghị, "khoán trắng" cho những cấp ủy viên được
phân công phụ trách về hoạt động của các tổ chức này. Do đó, hiệu quả thực
hiện các mục tiêu hoạt động, nhất là việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động chưa cao. Một số cấp ủy Đảng, đảng viên, nhất là đảng viên làm công tác
chính quyền nhận thức chưa đầy đủ, chưa đúng tầm về vai trò, vị trí của phụ
nữ, công tác cán bộ nữ và công tác vận động phụ nữ. Một số cán bộ của Đảng,
chính quyền ở cấp cơ sở còn nhận thức rằng, công tác vận động phụ nữ là việc
riêng của Hội LHPN. Có nơi, cấp ủy, chính quyền còn nặng về huy động sự
đóng góp của phụ nữ hơn là sự chăm lo, bồi dưỡng lợi ích chính đáng cho phụ
nữ... Việc chỉ đạo triển khai Nghị định số 19/NĐ-CP, Nghị định số 56-NĐ/CP
128
về việc các cấp chính quyền tạo điều kiện để Hội LHPN các cấp tham gia quản
lý nhà nước còn mang tính hình thức, chậm triển khai trong Uỷ ban nhân dân
các cấp và các cơ quan hành chính Nhà nước.
Hai là, công tác chỉ đạo thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng bộ về
công tác phụ nữ, xây dựng tổ chức Hội và đổi mới hoạt động của Hội Liên hiệp
Phụ nữ ở một số cấp ủy chưa đạt hiệu quả
Trong quá trình triển khai tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của
Đảng bộ tỉnh về lãnh đạo Hội LHPN đổi mới nội dung, phương thức hoạt động,
một số cấp ủy, chính quyền trong tỉnh làm thiếu nghiêm túc, kém hiệu quả:
chưa chỉ ra những việc cụ thể cần làm, chưa quy định được trách nhiệm thực
hiện các mục tiêu, chỉ tiêu của nghị quyết cho các tập thể và cá nhân trong cấp
ủy. Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền chưa chủ động nghiên cứu, dự báo và giải
quyết kịp thời các vấn đề xã hội phát sinh liên quan đến phụ nữ tại địa phương;
thiếu quan tâm chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, uốn nắn cấp ủy, chính quyền, các tổ
chức liên quan cấp dưới; đồng thời, chưa chủ động điều chỉnh sự chỉ đạo của
cấp mình trong việc thực hiện các chủ trương của Đảng bộ về công tác vận
động phụ nữ, đổi mới hoạt động của Hội. Thậm chí, có nơi chỉ quan tâm khi
triển khai, sau đó buông lỏng, thiếu đầu mối theo dõi việc tổ chức thực hiện,
càng ở cấp dưới càng chưa được chú trọng. Vai trò giám sát, kiểm tra của Ban
Dân vận ở một số cấp ủy cũng chưa phát huy tích cực; khi cần thiết thì phối
hợp từng việc, thiếu tính chủ động và cơ chế phối hợp thường xuyên. Một số
cấp ủy chưa quan tâm thích đáng đến công tác sơ kết, tổng kết chỉ thị, nghị
quyết của Đảng về công tác phụ nữ, hoặc khi sơ, tổng kết không chú ý khen
thưởng, biểu dương những điển hình tập thể, cá nhân tiên tiến. Còn không ít
cấp ủy giao phó cho Hội và Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ, những vấn đề liên
quan tới phụ nữ, kể cả việc triển khai, sơ kết, tổng kết chỉ thị, nghị quyết của
Đảng về công tác phụ nữ, cán bộ nữ. “Công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực
hiện Nghị quyết sooa 11 của Bộ Chính trị chưa thuường xuyên, nên ở một số
địa phương, cơ sở, ngành, hằng năm chưa cụ thể hóa (thể chế hóa chỉ thị, nghị
129
quyết của cấp ủy về công tác phụ nữ thành mục tiêu nhiệm vụ cụ thể để thực
hiện)” [phụ lục 5].
Ba là, một số cấp ủy Đảng chưa nhận thức đầy đủ quan điểm công tác
cán bộ nữ là một bộ phận quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng
Trong thực tế các cấp ủy chưa nhận thức rõ yêu cầu khách quan của
việc tăng cường số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ nữ đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương; thiếu quan tâm chỉ đạo, thiếu kiểm tra
đôn đốc việc bố trí cán bộ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý theo tinh thần Nghị
quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) Về công tác phụ nữ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và Nghị quyết số 24-
NQ/TU của Tỉnh ủy Hưng Yên, về công tác quy hoạch cán bộ thời kỳ CNH,
HĐH đất nước. Được sự nhất trí của Ban Thường vụ tỉnh ủy, Ban Thường vụ
Hội LHPN triển khai đề án;“Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán
bộ Hội Liên hiệp phụ nữ cơ sở giai đoạn 2013 - 2017”. Tuy nhiên, vẫn còn
tồn tại tư tưởng thiên kiến, hẹp hòi, thiếu tin tưởng vào khả năng của phụ nữ,
cán bộ nữ, cán bộ Hội Phụ nữ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng
cán bộ nữ, cán bộ Hội Phụ nữ chủ chốt chưa thực sự gắn với quy hoạch;
chưa tổ chức được các khóa đào tạo phù hợp với đặc điểm cán bộ nữ, nhất là
cán bộ nữ đang độ tuổi sinh đẻ và nuôi con nhỏ, cán bộ nữ cơ sở. Tỷ lệ cán
bộ nữ được đào tạo theo tiêu chuẩn hóa cán bộ còn thấp so với cán bộ nam;
tỷ lệ nữ càng thấp hơn trong các khóa đào tạo theo quy hoạch và yêu cầu bổ
nhiệm. Tại các khóa đào tạo trình độ lý luận chính trị (Cử nhân, Cao cấp,
Trung cấp) được tổ chức tại Trường Chính trị tỉnh, số học viên nữ chỉ chiếm
trên, dưới 10% so với tổng số học viên. Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý
trong Tỉnh có tỷ lệ thấp, thường tập trung trong khối Đảng, đoàn thể và một
số ngành đông nhân viên nữ như y tế, giáo dục... Số cán bộ nữ, cán bộ chủ
chốt của Hội LHPN các cấp ít được bố trí luân chuyển sang khối quản lý nhà
nước và xuống cơ sở để được rèn luyện và tăng thêm kinh nghiệm chỉ đạo
thực tiễn...
130
Bốn là, cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho Hội LHPN hoạt động của
Đảng bộ và các cấp chính quyền trong tỉnh còn thiếu cụ thể, chưa sát hợp,
chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu mới.
Cơ chế, chính sách là một trong những yếu tố quan trọng, là cơ sở cho
hoạt động của tổ chức Hội. Hội LHPN tỉnh Hưng Yên cần có những chính sách
của tỉnh để tạo cơ sở cho hoạt động của các cấp hội hiệu quả hơn. Nhiều nội
dung trong chủ trương, nghị quyết của Đảng bộ về công tác phụ nữ, hỗ trợ hoạt
động của Hội Phụ nữ chưa được cấp ủy chỉ đạo các cơ quan chức năng cụ thể
hóa thành cơ chế, chính sách hoặc lại chung chung, thiếu chính sách quy định
cụ thể thống nhất trong tỉnh, do vậy các địa phương vận dụng rất khác nhau.
Một số chính sách đối với lao động nữ, cán bộ nữ còn nhiều bất hợp lý, đã lỗi
thời nhưng ít được quan tâm, chậm bổ sung, sửa đổi “chưa chú trọng công tác
luân chuyển lãnh đạo nữ từ khối Đẩng, đoàn thể sang chính quyền và ngược
lại. Công tác phát triển đảng viên nữ ở nông thôn và khu vực doanh nghiệp còn
hạn chế” [phụ lục 5].
4.1.2.2. Nguyên nhân của hạn chế
* Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, Đảng bộ tỉnh còn thiếu kiên quyết chỉ đạo các cấp chính
quyền, các ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh thể chế hóa các quan điểm, chủ
trương, chính sách của Đảng bộ trong một số vấn đề cụ thể về công tác phụ
nữ, dẫn đến tình trạng hiệu quả thực hiện hạn chế (công tác cán bộ nữ).
Bên cạnh đó một số cấp ủy chưa nhận thức đầy đủ về vai trò, vị trí của phụ
nữ, công tác cán bộ nữ và công tác vận động phụ nữ trong giai đoạn cách
mạng mới.
Một số cấp ủy Đảng, đảng viên, nhất là đảng viên làm công tác chính
quyền nhận thức chưa đầy đủ, chưa đúng tầm về vai trò, vị trí của phụ nữ, công
tác cán bộ nữ và công tác vận động phụ nữ. Mặt khác, một số cấp ủy, đảng viên
xuất hiện tư tưởng thỏa mãn về thành quả bình đẳng giới theo một vài chỉ tiêu
trong lĩnh vực chính trị (đạt 14,7% nữ cấp ủy viên - 25,3% nữ đại biểu Hội
đồng nhân dân)... nên có sự cầm chừng trong chỉ đạo, thiếu những biện pháp
131
toàn diện, tích cực để hỗ trợ hoạt động của Hội LHPN, mang lại những quyền
lợi khác về kinh tế, văn hóa, tinh thần, nâng cao vai trò, vị thế cho phụ nữ trong
gia đình và xã hội.
Thứ hai, công tác phối hợp liên ngành, phối hợp các tổ chức có liên
quan để giải quyết vấn đề công tác phụ nữ, nhất là việc tham gia xây dựng,
kiểm tra giám sát, việc thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi chính đáng cho
phụ nữ, chưa có cơ chế rõ ràng, còn hạn chế về biện pháp, thiếu đồng bộ, hiệu
quả chưa cao.
Trong công tác phối hợp giữa các sở, ngành, các tổ chức có liên quan
trong tỉnh với tổ chức Hội để giải quyết các vấn đề của phụ nữ, chưa thường
xuyên, thiếu chủ động, tích cực, kém hiệu quả. Điển hình như trong việc xây
dựng Quy chế phối hợp hoạt động giữa Uỷ ban nhân dân các cấp với Hội
LHPN để thực hiện Nghị định số19-NĐ/CP (2003) về việc các cấp chính quyền
tạo điều kiện để Hội LHPN các cấp tham gia quản lý nhà nước, Uỷ ban Nhân
dân tỉnh Hưng Yên ra quyết định số 2357 - QĐ/UBND về việc Ban hành quy
chế Về mối quan hệ công tác giữa Ủy ban Nhân dân tỉnh với Hội Liên hiệp Phụ
nữ tỉnh, đảm bảo cho Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh tham gia quản lý nhà nước,
nhưng chưa có cơ chế rõ ràng, đồng bộ trong việc tạo điều kiện để Hội LHPN
tham gia xây dựng, đề xuất, kiểm tra, giám sát việc thực hiện luật pháp, chính
sách đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho phụ nữ...
Thứ ba, một số tổ chức Hội trong Tỉnh còn thiếu tích cực, chủ động,
sáng tạo trong thực hiện chủ trương, chỉ đạo của các cấp bộ Đảng; chưa xác
định được những vấn đề trọng tâm, trọng điểm phù hợp với tình hình phụ nữ ở
địa phương nên hoạt động còn ôm đồm, dàn trải và thiếu các giải pháp cụ thể,
quyết liệt để giải quyết. Một số hoạt động của Hội chưa được chỉ đạo tập trung,
có chủ trương đề ra nhưng thiếu sự chỉ đạo sát sao, thiếu nguồn lực nên hiệu
quả thấp như: Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho cán bộ Hội 3 cấp theo
tiêu chuẩn chức danh; Đề án tuyên truyền, giáo dục phẩm chất đạo đức phụ
nữ... Trong công tác chỉ đạo, điều hành, có lúc, có việc chưa kịp thời chưa đưa
132
ra được giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giới
thiệu, nhân rộng điển hình.
Nhận thức, năng lực trình độ của một bộ phận cán bộ Hội còn hạn chế,
thiếu tư duy đổi mới, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao trong quá
trình đổi mới hoạt động của Hội và yêu cầu công tác vận động phụ nữ trong
tình hình mới; làm việc theo lối hành chính, chưa thực sự sâu sát cơ sở, chưa
thấu hiểu hết những khó khăn, bức xúc của phụ nữ, chưa có biện pháp thiết
thực để giúp đỡ chị em. Một số phụ nữ còn thụ động, đễ bị lôi kéo, kích động,
mặc cảm tự ti, chưa có ý thức rèn luyện học tập, công tác, vượt khó, vươn lên
trong cuộc sống.
* Nguyên nhân khách quan
Một là, trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, hội nhập quốc tế,
kinh tế tri thức... đã và đang đặt ra nhiều thách thức đối với công tác vận động
phụ nữ của Đảng bộ tỉnh, hoạt động của Hội LHPN và phong trào phụ nữ tỉnh
Hưng Yên. Không những vậy, trong điều kiện riêng của tỉnh, những thách thức,
khó khăn đó có những nét riêng và không ngừng biến đổi, tác động trực tiếp
đến việc hoạch định chủ trương, cũng như quá trình chỉ đạo, tổ chức thực hiện
đổi mới hoạt động của Hội LHPN tỉnh Hưng Yên.
Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã hai lần ban hành Nghị quyết
về công tác phụ nữ nhưng nội dung đổi mới hoạt động của tổ chức Hội LHPN
mới được đề cập một phần nhỏ, chưa tương xứng với vai trò nòng cốt của Hội
LHPN trong công tác phụ nữ, chưa trở thành những định hướng cụ thể, sâu
sắc đối với các cấp bộ Đảng trong quá trình lãnh đạo đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động của các cấp Hội LHPN. Có những nội dung hoạt động
mới đã được Đảng hoạch định chủ trương, giao nhiệm vụ cho Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện, từ Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X (2006), như nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội,
nhưng đến Đại hội XI (2011), Đảng vẫn chưa tạo ra cơ chế, điều kiện cụ thể
để các tổ chức này thực hiện.
133
Hai là, sự tham mưu, đề xuất chính sách của Trung ương Hội LHPN Việt
Nam về công tác phụ nữ và đổi mới hoạt động của Hội mới được chú ý và có
một số thành quả cụ thể trong những năm gần đây. Những Đề án hoạt động
được Chính phủ phê duyệt, có tác dụng hỗ trợ các cấp Hội chủ động trong thực
hiện các nhiệm vụ trọng tâm của Hội như Đề án: Tuyên truyền giáo dục phẩm
chất đạo đức cho phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước; Giáo dục 5 triệu bà mẹ nuôi dạy con tốt; Hỗ trợ học nghề, tạo việc làm
cho phụ nữ..., đều mới được thực hiện trong giai đoạn 2010-2015.
Ba là, nguồn lực đầu tư cho hoạt động của Hội còn hạn chế, một số cơ
chế, chính sách, điều kiện bảo đảm cho hoạt động của các cấp Hội Phụ nữ
trong Tỉnh tuy đã có còn chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ và hạn chế, bất cập như:
kinh phí hoạt động của các cấp Hội, nhất là cấp cơ sở quá khó khăn, chủ yếu
lấy từ nguồn ngân sách địa phương tự cân đối theo cơ chế xin cho; chưa có
chính sách, cơ chế của tỉnh trong tạo điều kiện cho các cấp Hội thu hút và huy
động các nguồn lực từ xã hội và cộng đồng; chế độ chính sách đối với cán bộ
Hội, đặc biệt là cán bộ Hội cấp cơ sở còn thiếu và chưa hợp lý (mới có phụ cấp
cho chức danh Phó Chủ tịch và Chi hội trưởng; mức phụ cấp là con số tuyệt
đối, không theo hệ số lương nên dễ bị lạc hậu so với thời giá...).
Bốn là, trong những năm 2001 đến năm 2015, sự phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh Hưng Yên theo hướng CNH, HĐH có sự không đồng đều
giữa các địa phương trong tỉnh, dẫn đến tình trạng phụ nữ thiếu việc làm, thu
nhập không ổn định, phụ nữ đi làm ăn xa, tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường,
vệ sinh an toàn thực phẩm... tác động trực tiếp đến đời sống của phụ nữ, ảnh
hưởng đến công tác vận động phụ nữ, phong trào phụ nữ và hoạt động của
Hội LHPN tỉnh. Xu thế toàn cầu hóa cùng với những biến động kinh tế - xã
hội dẫn đến quan niệm về hôn nhân, gia đình có sự chuyển biến; việc kết
hôn có yếu tố nước ngoài trở thành trào lưu ở một số địa phương, đặt ra
thách thức đối với việc thực hiện bình đẳng giới, bạo hành gia đình, buôn
bán phụ nữ, trẻ em, chăm sóc sức khỏe sinh sản của bà mẹ trẻ em…tạo ra
134
những thách thức đối với phong trào phụ nữ nói chung và phong trào phụ nữ
tỉnh Hưng Yên nói riêng.
4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM
Từ thực tiễn quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo Hội LHPN tỉnh
từ năm 1997 đến năm 2015, có thể đúc kết một số kinh nghiệm sau đây.
4.2.1. Chủ động bám sát, vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước, trong việc hoạch định chủ trương và chỉ đạo hoạt động
của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng chỉ rõ: “Lực lượng cách
mạng của phụ nữ là một cái lực lượng rất trọng yếu. Nếu quảng đại quần chúng
phụ nữ không tham gia vào cuộc đấu tranh thì cách mạng không thắng lợi
được” [142, tr.5].
Là một bộ phận của phụ nữ Việt Nam, phụ nữ Hưng Yên tiếp thu truyền
thống của quê hương, đất nước, tích cực xây dựng tổ chức Hội vững mạnh.
Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của phụ nữ, trong quá trình lãnh đạo công
tác phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN tỉnh, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên luôn
quán triệt sâu sắc, sự cần thiết vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước để hoạch định các chủ trương và có biện pháp chỉ đạo kịp thời
các hoạt động của Hội LHPN tỉnh, nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị
của tỉnh trong giai đoạn mới - giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Từ sau ngày tái lập Tỉnh, thực hiện vai trò lãnh đạo toàn diện đối với xã
hội và hệ thống chính trị, Đảng bộ tỉnh đã nhận thức rõ những biến chuyển về
điều kiện, hoàn cảnh mới của Hưng Yên trong bối cảnh trong nước và quốc tế
đang có những thay đổi lớn. Từ đó, nhận thức rõ hơn những nhiệm vụ, yêu cầu
đặt ra với cả hệ thống chính trị, với từng cơ quan, đơn vị, tổ chức trong tỉnh.
Riêng với tổ chức Hội LHPN tỉnh Hưng Yên, Đảng bộ tỉnh cũng nhận thức rõ
những nét riêng của một tổ chức có đặc thù về giới với vai trò đại diện cho mọi
tầng lớp phụ nữ trong tỉnh, một lực lượng to lớn chiếm trên 50% dân số và lao
135
động xã hội, là tổ chức đoàn thể nhân dân có số lượng hội viên đông đảo nhất.
Chính vì vậy, trong giai đoạn mới, những khó khăn, thách thức đối với tổ chức
Hội LHPN cũng nhiều và phức tạp không kém bất kỳ một tổ chức, đoàn thể
nào khác. Nếu Đảng bộ tỉnh không tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của
Hội LHPN tỉnh thì tổ chức Hội khó có thể đáp ứng được tâm tư, tình cảm,
quyền lợi thiết thực của Hội viên phụ nữ, vươn lên khẳng định được vai trò, vị
thế của tổ chức, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và có đóng góp vào việc thực hiện
những mục tiêu kinh tế - xã hội của Tỉnh.
Xuất phát từ nhận thức đó, từ khi tái lập Tỉnh (năm 1997) đến năm
2015, từ chủ trương, kế hoạch đến quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện công
tác phụ nữ, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đã luôn quán triệt sâu sắc đường lối,
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là Nghị quyết số 04-
NQ/TW (1993) của Bộ Chính trị về “Đổi mới công tác vận động phụ nữ trong
tình hình mới”, và Nghị quyết số 11-TW (2007) của Bộ Chính trị (khóa X), về
“Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”,
cùng với những chính sách của Nhà nước và chủ trương của Trung ương Hội
LHPN Việt Nam; trên cơ sở đó, Tỉnh ủy kịp thời đề ra chủ trương để lãnh đạo
Hội LHPN tỉnh thực hiện có hiệu quả các hoạt động và nhiệm vụ trọng tâm
của Hội.
Điều đó được thể hiện rõ nét trong quá trình lãnh đạo của Đảng bộ,
trước hết từ khâu ban hành các nghị quyết, đề án, kế hoạch, chương trình về
lãnh đạo, tổ chức hoạt động; nội dung các văn bản đều được nghiên cứu xây
dựng cụ thể, chi tiết với mục tiêu rõ ràng, giải pháp phù hợp, sát thực, chú ý
phân công nhiệm vụ, gắn trách nhiệm, thậm chí chỉ rõ nguồn lực, lộ trình
thực hiện. Trong quá trình chỉ đạo thực hiện, Đảng bộ tỉnh đã vận dụng đồng
bộ nhiều phương thức lãnh đạo, trong đó, đặc biệt coi trọng phương thức
tuyên truyền, quán triệt nghị quyết nhằm nâng cao nhận thức, đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng, sự phối hợp của chính quyền đối với Hội LHPN, từ đó
136
triển khai có hiệu quả các hoạt động của Hội, dáp ứng được mục tiêu của
từng giai đoạn cụ thể.
4.2.2. Trong quá trình lãnh đạo hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ
tỉnh, Đảng bộ tỉnh đã chỉ đạo các sở, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội tạo mọi điều kiện để Hội Liên hiệp Phụ
nữ tỉnh hoạt động
Hội LHPN tỉnh Hưng Yên cũng như các tổ chức đoàn thể chính trị - xã
hội khác cùng là tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc tỉnh, tuy chức năng,
nhiệm vụ của mỗi tổ chức được quy định cụ thể khác nhau; sự chỉ đạo cụ thể
của ngành dọc cấp trên khác nhau, song dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội trong Tỉnh đều thực
hiện chung một nhiệm vụ là tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân, tuyên
truyền, vận động, hỗ trợ họ thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, giữ
vững an ninh, trật tự của địa phương; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, vì
mục tiêu xây dựng quê hương Hưng Yên giàu mạnh, góp phần thực hiện thành
công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Từ khi tái lập năm 1997 đến năm 2015, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên luôn
đánh giá cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội,
bao gồm Hội LHPN trong việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trong các kỳ
Đại hội đại biểu của tỉnh: Đại hội XIV, nhiệm kỳ 1997-2000; Đại hội XV,
nhiệm kỳ 2000-2005; Đại hội XVI, nhiệm kỳ 2005-2010; Đại hội XVII, nhiệm
kỳ 2010-2015, Đảng bộ tỉnh đều chỉ đạo phải có sự phối hợp hoạt động giữa
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội một cách hiệu quả, để thực
hiện tốt mục tiêu của Tỉnh trong từng giai đoạn.
Với truyền thống đoàn kết dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh,
việc phối hợp hoạt động giữa Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính
trị - xã hội được diễn ra nhịp nhàng, trên tinh thần chia sẻ trách nhiệm, phối
hợp hỗ trợ nhau hoàn thành nhiệm vụ. Hơn nữa, hội viên, đoàn viên của các tổ
137
chức đoàn thể chính trị - xã hội thường có sự đan xen, đặc biệt đối với tổ chức
Hội phụ nữ, là tổ chức đại diện cho nữ giới, đối tượng tập trung là nữ tuổi từ 18
trở lên, vì vậy họ cũng có thể là đoàn viên của Đoàn thanh niên, Hội Nông
dân... Đội ngũ cán bộ thường có sự luân chuyển chéo. Vì vậy việc phối hợp
hoạt động sẽ đem lại hiệu quả tích cực.
Năm 2002, Hội LHPN tỉnh đã ký chương trình phối hợp hoạt động với
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc về việc thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; “Ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo” gắn
với tham gia vận động ủng hộ xây dựng “quỹ vì người nghèo”. Cuộc vận động
xây dựng “Mái ấm tình thương” của Hội gắn với chương trình “Xóa nhà tạm,
nhà tranh tre”, Xây nhà tình nghĩa, nhà Đại đoàn kết của Mặt trận Tổ quốc.
Ngoài ra, còn phối hợp với Đoàn Thanh niên, Liên đoàn lao động, Hội Cựu
chiến binh, Hội Nông dân, Sở Tài nguyên & Môi trường, Ban Tôn giáo Sở nội
vụ, Liên đoàn Lao động, Sở Nông nghiệp & phát triển nông thôn...
Cùng với liên kết, phối hợp trong nội khối, để huy động nhiều hơn nữa
các nguồn lực hỗ trợ, Đảng đoàn, Ban Thường vụ Hội LHPN tỉnh chỉ đạo các
cấp Hội tăng cường các hình thức đa dạng hóa, xã hội hóa các hoạt động của
Hội. Tại cấp tỉnh, Ban Thường vụ đã chủ động ký chương trình liên tịch với
nhiều cơ quan quản lý nhà nước để phối hợp thực hiện nhiều chương trình mục
tiêu quốc gia trên địa bàn về giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, dân số, nước
sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, phòng chống HIV/AIDS...; chương
trình quốc gia về việc làm, chương trình bảo vệ và chăm sóc trẻ em... Chính
việc lồng ghép những chương trình này một mặt góp phần cải thiện tình trạng
thiếu nguồn lực tổ chức hoạt động cho Hội, mang lại lợi ích cho hội viên
trong bồi dưỡng, giáo dục nâng cao kiến thức và về tiếp cận các dịch vụ xã
hội cơ bản, hưởng thụ dịch vụ công và phúc lợi xã hội, nâng cao thu nhập và
đời sống... Mặt khác, đóng góp tích cực hỗ trợ các ngành, các đơn vị thực
hiện nhiệm vụ chuyên môn, thực hiện tốt nhiều chương trình mục tiêu quốc
gia trên địa bàn Tỉnh.
138
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, các cấp ủy Đảng, chính quyền, các
ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh đã thực sự nâng cao nhận thức, tình cảm, luôn
quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc đúng đắn việc lãnh đạo, tạo điều kiện,
phối hợp với Hội LHPN tăng cường hoạt động, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới
đáp ứng nhiệm vụ chính trị của địa phương trong từng thời kỳ. Chính vì vậy,
những chủ trương, định hướng đó đã sớm được hiện thực hóa thành hoạt động
thực tiễn của tổ chức Hội và phong trào phụ nữ; từng bước thực hiện mục tiêu
lãnh đạo Hội LHPN tỉnh hoạt động thật hiệu quả, mang lại lợi ích hợp pháp,
chính đáng, thiết thực cho hội viên phụ nữ, xây dựng và phát triển tổ chức Hội
vững mạnh, trở thành cầu nối gần gũi nhất giữa hội viên phụ nữ với các cấp ủy
Đảng, chung sức cùng toàn Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh xây dựng và phát
triển kinh tế - xã hội mạnh giàu, tiến bộ.
4.2.3. Thường xuyên chỉ đạo đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới và
phù hợp với tình hình thực tế của địa phương
Sự vận động tích cực của chính bản thân chủ thể và sự quan tâm của tất cả
các thành tố có liên quan, là vấn đề then chốt cho sự thành công của bất kỳ
nhiệm vụ công tác nào; việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Hội
LHPN cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Đối với Đảng bộ tỉnh Hưng Yên, tuy việc lãnh đạo đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động hoạt động của Hội LHPN không tách rời việc lãnh đạo
đổi mới cả hệ thống chính trị nói chung, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn
thể chính trị - xã hội nói riêng, nhưng với đặc điểm riêng của Hội LHPN - tổ
chức đặc thù mang yếu tố giới - với đối tượng tập hợp, đại diện và bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp, chính đáng là những người mang nặng cả hai chức năng lao
động xã hội và người lao động trong gia đình, nên trong thực tế, Hội luôn nhận
được sự quan tâm thường xuyên của Đảng bộ trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo
nói chung, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động hoạt động nói riêng. Hơn
nữa, trong điều kiện hiện nay, nhiều vấn đề của phụ nữ như: ít được đào tạo, ít cơ
139
hội việc làm, thu nhập thấp; thường là nạn nhân của bạo lực gia đình, xâm hại
tình dục, buôn bán người... đặc biệt là những bất bình đẳng đối với phụ nữ trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội vẫn đang hiện hữu và là mối quan tâm
không chỉ của các tổ chức nhân quyền quốc tế mà còn trở thành trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước và toàn xã hội trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài. Để
hiểu sâu sắc những vấn đề của phụ nữ, đề xuất những giải pháp phù hợp và tham
gia tích cực, hiệu quả nhằm giải quyết thấu đáo những vấn đề đó chắc chắn
không tổ chức nào có thể làm tốt hơn Hội LHPN. Vì vậy, các cấp Hội tích cực
nghiên cứu đổi mới nội dung, phương thức hoạt động phù hợp với tình hình mới
và đặc điểm của địa phương, xây dựng tổ chức Hội thực sự vững mạnh, là chỗ
dựa tin cậy của hội viên phụ nữ trong Tỉnh; qua đó, giúp các cấp Hội thực hiện
ngày càng tốt hơn chức năng đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng cho các tầng lớp phụ nữ.
Trong nhiều văn bản chỉ đạo, Đảng bộ luôn yêu cầu tổ chức Hội phải
bám sát vào chức năng, nhiệm vụ đã được quy định trong Điều lệ Hội và sự
chỉ đạo của Hội LHPN Việt Nam; đồng thời, căn cứ vào đặc điểm tình hình
của tỉnh và tình hình các tầng lớp phụ nữ để chủ động, tích cực nghiên cứu,
tìm tòi những nội dung, phương thức mới nhằm thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ của tổ chức Hội, coi đó là việc làm cần thiết có tính sống còn của tổ
chức Hội trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Yêu cầu các cấp
Hội phải chủ động đề xuất với cấp ủy Đảng những vấn đề nảy sinh trong thực
tiễn đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, từ đó, Đảng bộ mới có cơ sở
kịp thời định hướng, tạo cơ chế, chính sách đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động của Hội.
Thực tế của tỉnh Hưng Yên những năm 1997-2015 cho thấy, để các cấp
Hội Phụ nữ trong tỉnh tích cực nghiên cứu đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động phù hợp với tình hình mới và đặc điểm của địa phương, xây dựng tổ chức
Hội thực sự vững mạnh, Đảng bộ tỉnh đã ban hành nhiều chủ trương, nghị
quyết về đổi mới nội dung, phương tức hoạt động của Hội, trong đó, nêu bật
140
những yêu cầu đổi mới về nội dung, về phương thức hoạt động của Hội, đồng
thời, luôn quan tâm, tạo những cơ chế, chính sách kịp thời, phù hợp, đáp ứng
những kiến nghị, đề xuất của Hội. Thực hiện giám sát và phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; về công tác cán bộ nữ; xây
dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ
Chính trị về "Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước". Đảng bộ cấp huyện và cơ sở trong tỉnh nghiêm túc thực hiện sự chỉ
đạo, xây dựng đầy đủ, kịp thời và tổ chức triển khai hiệu quả các chương trình
hành động của cấp mình để thực hiện Nghị quyết; đồng thời, tiến hành tổng kết
5 năm, 7 năm, 10 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW, để đánh giá cụ thể
những kết quả đạt được.
Bên cạnh đó, những tham mưu, kiến nghị, đề xuất của Đảng đoàn, Ban
thường vụ Hội LHPN các cấp luôn được các cấp bộ Đảng trong tỉnh quan tâm
nghiên cứu, cân nhắc, xem xét trên cơ sở nguyên tắc: nếu mang lại quyền, lợi
ích thiết thực cho đông đảo cán bộ, hội viên phụ nữ, góp phần đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động của Hội, đóng góp xứng đáng vào sự ổn định,
phát triển của địa phương thì cơ bản đều được đồng tình, ủng hộ và tạo điều
kiện thực hiện thành công.
Căn cứ vào thực tiễn của Tỉnh, quá trình đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động của Hội Phụ nữ tỉnh Hưng Yên cho thấy, xuất phát từ truyền thống
lịch sử của địa phương và sự phát triển của tổ chức Hội qua các thời kỳ, các
cấp bộ Đảng trong tỉnh đã quan tâm, xem xét và thống nhất chủ trương chỉ đạo,
hỗ trợ để Hội thực hiện tốt các công tác của Hội như: tạo điều kiện cho Hội
LHPN tỉnh được thành lập và xây dựng Nhà lưu niệm Lực lượng vũ trang du
kích Hoàng Ngân Hưng Yên; qua đó, động viên phụ nữ Hưng Yên phát huy
truyền thống của quê hương và noi gương các anh hùng xây dựng quê hương
trong điều kiện mới. Cho phép các cấp Hội được tín chấp nguồn vốn lớn từ
Ngân hàng Chính sách xã hội cho hội viên nghèo được vay để phát triển kinh
tế, tạo việc làm; đồng ý để Hội được xây dựng các mô hình quản lý điều hành
141
Quỹ tài chính vi mô, Quỹ vay vốn quay vòng về nước sạch vệ sinh môi trường
để hỗ trợ hội viên phụ nữ phát triển kinh tế và xây dựng gia đình; nhất trí và chỉ
đạo Uỷ ban nhân dân tỉnh cùng các cơ quan có thẩm quyền tạo điều kiện, dành
ngân sách để Hội Phụ nữ được thực hiện các đề án về đào tạo cán bộ, dạy nghề
cho phụ nữ, giáo dục phẩm chất đạo đức, triển khai các cuộc vận động lớn của
Hội, liên kết mở các lớp đào tạo cán bộ Hội, cán bộ nữ cơ sở cả về chuyên môn
nghiệp vụ và lý luận chính trị; có chính sách hỗ trợ kinh phí hoạt động cho cấp
Hội Phụ nữ và cán bộ Hội Phụ nữ cơ sở...
Những thành quả tích cực của phong trào phụ nữ, là điều kiện tiên quyết
giúp cho các cấp Hội Phụ nữ đổi mới nội dung, phương thức hoạt động ngày
càng hiệu quả, mạnh mẽ, góp phần thực hiện tốt những nhiệm vụ chính trị đặt
ra trong mỗi thời kỳ. Hội có điều kiện tổ chức nhiều hoạt động hướng về cơ sở,
gắn bó với các tầng lớp phụ nữ; có nhiều phương thức đa dạng, phong phú để
tuyên truyền, vận động, tập hợp, đoàn kết các tầng lớp phụ nữ; phát động và có
thể tổ chức thực hiện tốt các cuộc vận động, phong trào thi đua, chương trình
hành động, động viên khuyến khích hội viên phụ nữ tham gia đông đảo góp
phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ và nhân dân
trong tỉnh; tích cực xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, tham
gia tích cực vào việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; góp phần
quan trọng vào công cuộc đổi mới đất nước, đổi mới hệ thống chính trị. Thông
qua đó, vai trò, vị trí của tổ chức Hội LHPN trong hệ thống chính trị của tỉnh
ngày càng được khẳng định; vai trò, vị thế của mỗi người phụ nữ tỉnh Hưng
Yên trong gia đình, xã hội cũng được nâng cao, từng bước đẩy nhanh hơn sự
nghiệp giải phóng phụ nữ, vì sự phát triển và tiến bộ của phụ nữ.
Như vậy, các cấp Hội tích cực nghiên cứu đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động phù hợp với tình hình mới và đặc điểm của địa phương, xây
dựng tổ chức Hội thực sự vững mạnh, là chỗ dựa tin cậy của hội viên phụ
nữ trong tỉnh, là cơ sở để Đảng bộ tỉnh Hưng Yên có thể vận dụng lãnh đạo
142
Hội LHPN tỉnh đổi mới nội dung, phương thức hoạt động trong những năm
tiếp theo.
4.2.4. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh
các cấp, có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng
giai đoạn
Sinh thời Bác Hồ từng căn dặn: “Cán bộ là gốc của mọi công việc...
công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém... vì vậy phải chú
trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi người có ích cho công việc chung của
chúng ta” [128, tr.269, 273]. Từ khi thành lập, đặc biệt là trong giai đoạn hiện
nay, Đảng luôn xác định công tác cán bộ có tầm quan trọng đặc biệt, là khâu
then chốt trong công tác xây dựng Đảng, quyết định sức mạnh của Đảng, của
hệ thống chính trị, quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước. Quán
triệt quan điểm của Đảng và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kể từ khi ra
đời và đặc biệt từ khi tái lập tỉnh, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên luôn coi trọng công
tác cán bộ nói chung, công tác cán bộ nữ, cán bộ Hội LHPN nói riêng nhằm
đáp ứng yêu hoạt động của cả hệ thống chính trị trong tỉnh cũng như quá trình
hoạt động của Hội.
Nhằm xây dựng đội ngũ lãnh đạo quản lý đủ về số lượng và đảm bảo về
chất lượng đáp ứng được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị, hàng năm công
tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động cán bộ
luôn được quan tâm thực hiện, đảm bảo khách quan, dân chủ. Việc đánh giá,
quy hoạch và sử dụng cán bộ nữ được căn vào tiêu chuẩn, hiệu quả công việc,
xem xét khả năng và triển vọng của cán bộ.
Trước năm 1997, đội ngũ cán bộ chủ chốt và cán bộ chuyên trách của
Hội LHPN các cấp trong tỉnh chủ yếu trưởng thành từ phong trào phụ nữ, có
lòng nhiệt tình và kinh nghiệm công tác nhưng còn hạn chế trong trình độ
chuyên môn và lý luận chính trị. Đến khi tái lập Tỉnh, bên cạnh hạn chế về chất
lượng còn rất thiếu về số lượng. Những năm gần đây, mặc dù đội ngũ cán bộ
được bổ sung, trẻ hóa và đào tạo cơ bản, có bản lĩnh chính trị vững vàng, chịu
khó học hỏi, nghiên cứu... nhưng kinh nghiệm thực tiễn trong lãnh đạo, chỉ đạo
143
công tác Hội và phong trào phụ nữ còn hạn chế. Xuất phát từ điều kiện, yêu cầu
đó, từ năm 1997 đến năm 2015, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đã chủ trương lãnh
đạo công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của Hội LHPN trên một số vấn đề cơ
bản sau:
Thứ nhất, quan tâm giáo dục chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối
sống cho đội ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ chuyên trách cấp tỉnh và huyện, đội
ngũ Ban Chấp hành cấp cơ sở.
Đối với cán bộ Hội các cấp, trong nhiều thời kỳ cách mạng, vấn đề chính
trị, tư tưởng, nhất là phẩm chất đạo đức, lối sống thường không phải là vấn đề
đặt ra bức thiết vì chị em đa số đều được rèn luyện, tu dưỡng, trưởng thành
trong môi trường lành mạnh của tổ chức Hội và phong trào phụ nữ. Tuy nhiên,
trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, những vấn đề khó khăn của
đời sống, các vấn đề xã hội tiêu cực, nhiều vấn đề của phụ nữ, nhất là những
bất bình đẳng đối với phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội... đã
và đang có nhiều tác động đến tâm tư, tình cảm, lối sống của một bộ phận phụ
nữ nói chung, cán bộ Hội nói riêng. Đặc biệt là đội ngũ cán bộ Hội cơ sở (nơi
chỉ có đồng chí chủ tịch là công chức chuyên trách, còn lại cả Ban Chấp hành
là cán bộ không chuyên trách, không có lương, không được đóng bảo hiểm xã
hội), chị em tham gia công tác Hội chủ yếu bằng lòng nhiệt tình, tinh thần trách
nhiệm, hầu như chưa có hoặc chỉ nhận được số phụ cấp vô cùng nhỏ bé. Vì
vậy, Đảng bộ tỉnh đã chỉ đạo các tổ chức Đảng cơ sở, các cấp Hội phối hợp với
Ban Tuyên giáo cấp ủy cùng cấp thường xuyên quan tâm đến công tác tuyên
truyền, giáo dục phẩm chất đạo đức lối sống cho chị em, tiếp tục khơi dậy và
phát huy những truyền thống quý báu của người phụ nữ Việt Nam, phụ nữ tỉnh
Hưng Yên trong thời kỳ mới. Để tạo điều kiện cho Hội thực hiện công tác này,
từ năm 1997 đến năm 2015, Đảng bộ tỉnh liên tục chỉ đạo các ban ngành liên
quan tạo điều kiện hỗ trợ Hội LHPN tỉnh biên soạn, xuất bản và tổ chức phát
hành, giới thiệu cuốn Lịch sử phong trào Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (1930 - 2000);
xây dựng Nhà Lưu niệm lực lượng du kích Hoàng Ngân Hưng Yên và anh
hùng Lực lượng vũ trang Trần Thị Khang; triển khai thực hiện Đề án “Tuyên
144
truyền, giáo dục phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai đoạn 2010-2015” trên địa bàn Tỉnh.
Đặc biệt, gắn việc thực hiện Đề án này với việc đẩy mạnh Cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, vận động cán bộ, hội viên
phụ nữ rèn luyện 4 phẩm chất: Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang.
Thứ hai, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận và
chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chủ chốt và chuyên trách của Hội
với nhiều hình thức thích hợp, đáp ứng yêu cầu hoạt động của Hội trong điều
kiện mới.
Căn cứ chủ trương đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và cán bộ nữ của
Hệ thống Chính trị toàn tỉnh; căn cứ trên những kiến nghị, đề xuất của Hội
LHPN, Tỉnh ủy Hưng Yên đã thường xuyên chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, nâng
cao trình độ lý luận và chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chủ chốt và
chuyên trách của Hội với nhiều hình thức thích hợp. Ngay sau khi tái lập tỉnh,
để kịp thời bù đắp những thiếu hụt về trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ
trong tỉnh, Đảng bộ đã thống nhất chủ trương chỉ đạo ngành giáo dục thực hiện
liên kết với nhiều trường Đại học để mở các lớp đào tạo ngay tại tỉnh, dưới
hình thức học tại chức để tạo điều kiện cho nhiều đồng chí cán bộ chủ chốt của
tỉnh, nhất là cán bộ nữ có thể tham gia học tập nâng cao trình độ.
Đánh giá về kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ
Chính trị (khóa X) về “công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện hóa đất nước” Ban Thường vụ Tỉnh ủy khẳng định: “Cấp ủy, chính quyền
các cấp luôn quan tâm đến công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân
chuyển, đề bạt, sử dụng cán bộ nữ. Vì vậy, trong những năm qua, tỷ lệ cán bộ
nữ quy hoạch, cử đi đào tạo, bồi dưỡng, tham gia cấp ủy, chính quyền và lãnh
đạo các ban ngành, đoàn thể, ngày càng tăng; có 66 đồng chí là lãnh đạo ở các
sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh, đơn vị tỉnh ủy quản lý; trong đó cấp trưởng: 14
đồng chí; cấp Phó trưởng ngành: 52 đồng chí” [175, tr.6].
Đối với cơ quan Hội LHPN tỉnh, đến Đại hội đại biểu Phụ nữ tỉnh lần
thứ XII, “cán bộ cấp tỉnh 86,6% có trình độ chuyên môn cao đẳng, đại học;
145
20% có trình độ chính trị cao cấp, cử nhân; 6,3% có trình độ trung cấp lý luận.
Cán bộ cấp huyện 45% trình độ cao đẳng, đại học; 39% cán bộ tỉnh - huyện đã
học nghiệp vụ công tác Hội theo chương trình tại trường cán bộ Phụ nữ Trung
ương” [83, tr.14]; Nhờ chủ trương của Đảng bộ và nỗ lực của cán bộ tỉnh, chất
lượng cán bộ tham gia BCH của Hội Phụ nữ các cấp trong tỉnh đã được nâng
lên đáng kể.
Riêng đối với cán bộ Hội cấp cơ sở, Đảng bộ tỉnh giao cho các Trung tâm
bồi dưỡng Chính trị huyện và Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh hàng năm
đều đặn mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác và lý luận chính trị cho hàng
ngàn chị em.
Thứ ba, luôn coi công tác cán bộ Hội Phụ nữ là một bộ phận quan trọng
của công tác cán bộ nữ.
Tỉnh ủy đã quán triệt sâu sắc các chủ trương, quan điểm của Đảng về
công tác cán bộ nới chung và công tác cán bộ nữ nói riêng theo tinh thần Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung Đảng (khóa VIII) Về chiến
lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nghị
quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nghị quyết sô số 42-NQ/TW của Bộ
Chính trị Về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Đảng bộ tỉnh xác định: nâng cao tỉ lệ
nữ tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội là một yêu cầu quan
trọng để thực hiện bình đẳng, dân chủ của phụ nữ, là điều kiện phát huy tài
năng, trí tuệ và nâng cao địa vị người phụ nữ.
Nhận thức được vấn đề đó, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đã luôn quan tâm
đến công tác cán bộ nữ nói chung, đồng thời luôn coi công tác cán bộ của Hội
LHPN là một bộ phận quan trọng trong công tác cán bộ nữ của tỉnh. Trong số
học viên nữ của các khóa đào tạo trình độ lý luận chính trị (cử nhân, cao cấp,
trung cấp) được tổ chức tại trường Chính trị tỉnh, có đa số là cán bộ chủ chốt
của Hội LHPN cấp huyện, cán bộ trong diện quy hoạch các chức danh lãnh đạo
chủ chốt của Hội LHPN tỉnh. Trong các kỳ Đại hội Đảng, bầu cử Hội đồng
146
nhân dân các cấp, Hội LHPN là địa chỉ tin cậy giới thiệu với Đảng đội ngũ ứng
cử viên nữ có chất lượng cao. Từ năm 1997 đến năm 2015, đội ngũ cán bộ chủ
chốt và chuyên trách trong các cấp Hội Phụ nữ Hưng Yên đã được xây dựng,
kiện toàn cơ bản đủ về số lượng, vững vàng về phẩm chất và chuyên môn,
nghiệp vụ, nhất là kỹ năng trong công tác vận động phụ nữ, trở thành vốn quý,
đáp ứng yêu cầu hoạt động của Hội.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu ngày càng cao của giai đoạn mới đối với
công tác Hội và tăng cường hoạt động của Hội, đòi hỏi Đảng bộ tỉnh Hưng Yên
trong thời gian tới cần tiếp tục chú trọng vận dụng có hiệu quả hơn nữa kinh
nghiệm về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ Hội LHPN đủ phẩm chất, năng
lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Tiểu kết chương 4
Trong quá trình lãnh đạo hoạt động của Hội LHPN tỉnh, với chủ trương,
đường lối đúng đắn và qua trình chỉ đạo thực hiện sát sao, thường xuyên, kịp
thời, với biện pháp rõ ràng cùng cơ chế, chính sách cụ thể, phù hợp...các cấp bộ
Đảng bộ, chính quyền, các ban ngành, tổ chức đoàn thể trong tỉnh đã tạo điều
kiện để Hội LHPN hoạt động, đem lại những kết quả tích cực, góp phần thiết
thực hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Tỉnh.
Trong 18 năm (1997-2015), trải qua 5 kỳ đại hội, Đảng bộ tỉnh Hưng
Yên lãnh đạo hoạt động Hội LHPN tỉnh đạt được kết quả quan trọng: Vận dụng
linh hoạt, sáng tạo quan điểm của Đảng trong lãnh đạo hoạt động của Hội
LHPN tỉnh, phù hợp với đặc điểm, tình hình của địa phương; kịp thời chỉ đạo
thường xuyên xây dựng, phát triển tổ chức Hội LHPN tỉnh phù hợp với yêu cầu
thực tiễn; tạo ra sự chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng tổ chức Hội
và hoạt động của Hội LHPN tỉnh.
Bên cạnh những ưu điểm, quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo
hoạt động của Hội LHPN tỉnh vẫn còn một số hạn chế: Một số cấp ủy Đảng,
chính quyền và các ban, ngành chưa thực sự quan tâm đến công tác lãnh đạo,
147
tạo điều kiện, phối hợp, hỗ trợ hoạt động của Hội LHPN nói chung và công tác
xây dựng tổ chức Hội, đổi mới hoạt động của Hội Phụ nữ nói riêng; công tác
chỉ đạo thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng bộ về công tác phụ nữ, xây
dựng tổ chức Hội và đổi mới hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ ở một số cấp
ủy chưa đạt hiệu quả; một số cấp ủy Đảng chưa nhận thức đầy đủ quan điểm
công tác cán bộ nữ là một bộ phận quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng;
cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho Hội LHPN hoạt động của Đảng bộ và các
cấp chính quyền trong tỉnh còn thiếu cụ thể, chưa sát hợp, chưa đáp ứng kịp
thời yêu cầu mới.
Thực tiễn lãnh đạo hoạt động của Hội LHPN tỉnh đã để lại cho Đảng bộ
tỉnh những kinh nghiệm thiết thực: Chủ động bám sát, vận dụng sáng tạo
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, trong việc hoạch định chủ trương
và chỉ đạo Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Hưng Yên; đã chỉ đạo các sở, ban, ngành,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội tạo điều kiện để các
cấp Hội hoạt động; thường xuyên chỉ đạo đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới và phù
hợp với tình hình thực tế của địa phương; chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh các cấp, có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong từng giai đoạn.
Những kết quả đạt được cũng như những hạn chế và kinh nghiệm qua
hoạt động của Hội LHPN tỉnh trong những năm 1997-2015, tạo tiền đề để nâng
cao chất lượng lãnh đạo hoạt động của Hội LHPN tỉnh nói riêng, Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội nói chung của Đảng bộ tỉnh
Hưng Yên, góp phần xây dựng Hội LHPN tỉnh trở thành tổ chức chính trị - xã
hội ngày càng vững mạnh.
148
KẾT LUẬN
Hưng Yên là tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, một vùng đất có
truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời. Trong thời kỳ đổi mới, với lợi thế gần
Thủ đô Hà Nội và các trung tâm công nghiệp lớn, có kết cấu hạ tầng, điều kiện
tự nhiên thuận lợi, cùng lực lượng lao động dồi dào, thông minh, sáng tạo,
Hưng Yên có điều kiện thuận lợi để phát triển nhanh chóng, trở thành một
trong những tỉnh có tốc độ phát triển cao trong vùng.
Sau 28 năm sáp nhập với tỉnh Hải Dương thành tỉnh Hải Hưng, năm
1997, tỉnh Hưng Yên được tái lập. Trong thời kỳ đổi mới, cùng với việc tập
trung lãnh đạo triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ tỉnh đã vận dụng sáng tạo chủ
trương của Trung ương Đảng về công tác phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN
vào tình hình thực tế của địa phương để lãnh đạo Hội LHPN tỉnh vượt qua
nhiều khó khăn, thử thách, từng bước kiện toàn, xây dựng tổ chức Hội và đổi
mới các hoạt động của Hội LHPN, góp phần xứng đáng vào công cuộc đổi mới
của địa phương nói riêng, cả nước nói chung.
Từ năm 1997 đến năm 2015, căn cứ vào Nghị quyết số 11-NQ/TU của
Bộ Chính trị về Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; thực hiện Kết luận số 55-KL/TW, ngày 18-01-2013 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng (khóa XI) Về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số
11-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X về Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đã ban hành
các chủ trương để lãnh đạo Hội LHPN tỉnh như: Kế hoạch số 44-KH/TU
Nghiên cứu, quán triệt thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về
Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chương trình hành động số 11-CTr/TU, thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW
của Bộ Chính trị về Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước; Thông báo số 1043-TB/TU ngày 25-12-2014 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy, về Đề án đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cán bộ
Hội Liên hiệp Phụ nữ cơ sở giai đoạn 2013 -2017.
149
Cùng với việc hoạch định những chủ trương đúng đắn, kịp thời, Đảng
bộ tỉnh Hưng Yên luôn chú trọng chỉ đạo mọi mặt hoạt động của Hội LHPN
tỉnh: Nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của các ủy Đảng, chính quyền
đối với hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh; xây dựng tổ chức, bộ máy,
đội ngũ cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ và phát triển hội viên; chỉ đạo các phong
trào thi đua yêu nước, chăm lo, bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội
viên; xây dựng tổ chức Hội đội ngũ cán bộ và phát triển hội viên; chỉ đạo Hội
Liên hiệp phụ nữ tỉnh tham gia phát triển kinh tế - xã hội; chỉ đạo công tác
tuyên truyền và sơ kết, tổng kết, nhân rộng điển hình tiên tiến; đẩy mạnh các
phong trào thi đua yêu nước.
Sự chỉ đạo sát sao của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đối với công tác phụ nữ
nói chung và hoạt động của tổ chức Hội phụ nữ nói riêng, đã phát huy truyền
thống tốt đẹp của quê hương, từng bước xây dựng, phát triển tổ chức Hội, đẩy
mạnh hoạt động của Hội trong điều kiện mới, đưa phong trào phụ nữ Hưng
Yên phát triển vững chắc, xứng đáng là một tổ chức chính trị - xã hội vững
mạnh trong hệ thống chính trị của tỉnh. Những thành công của công tác Hội và
phong trào phụ nữ Hưng Yên sau 18 năm (1997 - 2015), đã khẳng định vai trò,
vị thế của phụ nữ Hưng Yên trong thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và
hội nhập quốc tế.
Quá trình lãnh đạo hoạt động của Hội LHPN của Đảng bộ tỉnh Hưng
Yên từ năm 1997 đến năm 2015 đã có những ưu điểm cơ bản sau: Vận dụng
linh hoạt, sáng tạo quan điểm của Đảng trong lãnh đạo hoạt động của Hội Liên
hiệp phụ nữ tỉnh, phù hợp với đặc điểm, tình hình của địa phương; kịp thời chỉ
đạo thường xuyên xây dựng, phát triển tổ chức Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh phù
hợp với yêu cầu thực tiễn; sự lãnh đạo sát sao của Đảng bộ tỉnh đã tạo ra sự
chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng tổ chức Hội và hoạt động của
Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh.
Bên cạnh những ưu điểm, sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh đối với hoạt
động của Hội LHPN vẫn còn một số hạn chế: Một số cấp ủy Đảng, chính
quyền chưa nhận thức đúng vị trí, vai trò của phụ nữ và hoạt động của Hội
LHPN; ở một số nơi, cấp ủy chưa quan tâm lãnh đạo thường xuyên đến công
150
tác phụ nữ và hoạt động của Hội phụ nữ; có nơi, cấp ủy, chính quyền còn nặng
về huy động sự đóng góp của phụ nữ hơn là sự chăm lo, bồi dưỡng lợi ích
chính đáng cho phụ nữ; nghị quyết của Đảng bộ về công tác phụ nữ, hỗ trợ
hoạt động của Hội phụ nữ có khi chưa được cấp ủy chú ý lãnh đạo các cơ quan
chức năng cụ thể hóa thành cơ chế, chính sách hoặc còn chung chung, thiếu
chính sách quy định cụ thể thống nhất trong toàn tỉnh.
Quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo Hội LHPN tỉnh từ năm 1997
đến năm 2015, đã để lại cho Đảng bộ tỉnh những kinh nghiệm quý: Chủ động
bám sát, vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, trong
việc hoạch định chủ trương và chỉ đạo Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Hưng Yên; đã
chỉ đạo các sở, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị -
xã hội tạo điều kiện để các cấp Hội hoạt động; thường xuyên chỉ đạo đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, đáp ứng yêu
cầu của tình hình mới và phù hợp với tình hình thực tế của địa phương; chú
trọng xây dựng đội ngũ cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh các cấp, có đủ phẩm
chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn.
Trong bối cảnh hiện nay, công tác phụ nữ vẫn là nhiệm vụ chung của
Đảng và toàn hệ thống chính trị, trong đó, Hội LHPN đóng vai trò nòng cốt. Vì
vậy, muốn thực hiện tốt công tác này cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính
trị, trong đó, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết; sự chủ động, tích
cực của tổ chức Hội phụ nữ có vai trò quyết định sự phát triển và hoạt động
hiệu quả của tổ chức Hội. Muốn cho Hội phụ nữ phát huy tốt vai trò nòng cốt
trong công tác phụ nữ và thực hiện tốt mọi nhiệm vụ chính trị, tất yếu Đảng
phải quan tâm lãnh đạo Hội tích cực xây dựng, phát triển tổ chức Hội và đẩy
mạnh các phong trào thi đua. Đó là cách thực hiện thắng lợi chủ trương về công
tác phụ nữ của Đảng, phát huy cao độ vai trò của phụ nữ trong thời kì CNH,
HĐH đất nước và hội nhập quốc tế.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Thu Hương (2014), "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công
tác vận động phụ nữ, đối với cán bộ nữ trường Đại học Sư phạm Kỹ
thuật Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Khoa học công
nghệ, (1), tr.126-129.
2. Nguyễn Thị Thu Hương (2017), "Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo phong
trào nữ du kích Hoàng Ngân", Tạp chí Khoa học công nghệ, (13),
tr.110-113.
3. Nguyễn Thị Thu Hương (2017), "Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo công
tác phụ nữ (2007-2016)”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (318), tr.103-106.
4. Nguyễn Thị Thu Hương (2017), "Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo công tác
phụ nữ thời kỳ đổi mới", Tạp chí Giáo dục lý luận, (263), tr.37-77.
5. Nguyễn Thị Thu Hương (2017), " Phụ nữ tỉnh Hưng Yên tham gia phát triển
kinh tế - xã hội và xây dựng tổ chức Hội vững mạnh", Tạp chí Lịch sử
Đảng, (325), tr.101-104.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị Vân Anh, Lê Ngọc Hùng (1996), Phụ nữ, giới và phát triển, Nxb
Phụ nữ, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên (2004), Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Hưng Yên (1929-1954), tập I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên (2008), Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Hưng Yên (1954 -1975), tập II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên (2009), Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Hưng Yên (1975 -2000), tập III, Nxb Chính trị Hành chính quốc gia,
Hà Nội.
5. Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2004), Kế hoạch
số 18/KH-HPN ngày 14/5/2004 kế hoạch phát động đợt thi đua "giúp
phụ nữ nghèo có địa chỉ, xóa nhà tranh cho phụ nữ nghèo" lập thành
tích chào mừng Đại hội XII Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Hưng
Yên và Đại hội VI Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hưng Yên.
6. Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2004), Báo cáo số
23/BC-HPN ngày 26/5/2004 báo cáo kết quả chỉ đạo tổ chức hội thi
cán bộ hội phụ nữ cơ sở giỏi tỉnh Hưng Yên lần thứ III, Hưng Yên.
7. Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2004), Báo cáo số
01/BC-HLH ngày 8/11/2004 báo cáo kết quả hoạt động năm 2004
của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên, Hưng Yên.
8. Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2006), Kế hoạch
số 05/KH-HPN ngày 13/2/2006 tổ chức các hoạt động tuyên truyền
Đại hội phụ nữ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu phụ nữ lần thứ X,
Hưng Yên.
9. Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2006), Kế hoạch
số 17/KH-HPN ngày 04/4/2006 kế hoạch hướng dẫn tổng kết phong
trào thi đua "phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng
gia đình hạnh phúc" do Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ IX phát
động, Hưng Yên.
153
10. Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2006), Báo cáo số
22/BC-HPN ngày 19/6/2006 báo cáo kết quả công tác vận động phụ
nữ các tôn giáo 6 tháng đầu năm 2006, Hưng Yên.
11. Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2006), Báo cáo số
31/BC-HPN ngày 12/7/2006 báo cáo tổng kết 5 năm phong trào thi
đua "phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình
hạnh phúc" do Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ IX phát động,
Hưng Yên.
12. Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2006), Kế hoạch
số 32/KH-HPN ngày 13/7/2006 tổ chức Hội nghị tổng kết 5 năm
phong trào thi đua "phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây
dựng gia đình hạnh phúc" do Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ IX
phát động, Hưng Yên.
13. Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2006), Kế hoạch
số 34/KH-HPN ngày 14/7/2006 tổ chức Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh
Hưng Yên lần thứ XIII nhiệm kỳ 2006-2011, Hưng Yên.
14. Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2006), Báo cáo số
39/BC-HPN ngày 28/9/2006 báo cáo kết quả bước đầu thực hiện Đề
án chuyển giao khoa học công nghệ mới cho phụ nữ năm 2006,
Hưng Yên.
15. Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2006), Kế hoạch
số 39/KH-HPN ngày 12/11/2006 kế hoạch tuyên truyền Đại hội phụ
nữ tỉnh Hưng yên lần thứ XIII, 175 năm thành lập tỉnh Hưng Yên và
10 năm tái lập tỉnh, Hưng Yên.
16. Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2012), Quyết định
số 41/QĐ-BTV ngày 28/12/2012 quyết định về việc kiện toàn tổ chức
bộ máy cơ quan Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Hưng Yên.
17. Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2013), Kế hoạch
số 58/KH-BTV ngày 27/2/2013 thực hiện khâu đột phá "tạo chuyển
biến mới về chất lượng, hiệu quả vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển
sản xuất, thực hành tiết kiệm, giảm nghèo bền vững", Hưng Yên.
154
18. Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2013), Kế hoạch
số 100/KH-BTV ngày 23/8/2013 tổ chức chiến dịch truyền thông về
phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước năm 2013, Hưng Yên.
19. Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2013), Báo cáo số
215/BC-BTV ngày 10/12/2013 báo cáo kết quả thực hiện chương trình
mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới năm 2013, Hưng Yên.
20. Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2015), Kế hoạch
số 198/KH-BTV ngày 27/7/2015 kế hoạch triển khai thực hiện công
trình thi đua chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII và kỷ
niệm 85 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
(20/10/1930 - 20/10/2015), Hưng Yên.
21. Ban Tổ chức Trung ương (2006), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề
tài Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong hệ thống chính
trị, Hà Nội.
22. Ban Tuyên giáo Trung ương (2008), Tài liệu nghiên cứu quán triệt Nghị
Quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị Khóa X về công tác phụ nữ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị
quốc gia Hà Nội.
23. Ban Tuyên giáo Trung ương, Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
Tỉnh ủy Hưng Yên (2015), "Đồng chí Nguyễn Văn Linh với cách mạng
Việt Nam và quê hương Hưng Yên", Hội thảo cấp Quốc gia, Hà Nội.
24. Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ Hưng Yên (2004), Báo cáo kết quả hoạt động
của Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ 6 tháng đầu năm 2004, Hưng Yên.
25. Bảo tàng Hưng Yên (Chủ biên) (2008), Di tích lịch sử - văn hóa Hưng
Yên, Hưng Yên.
26. Nguyễn Thị Bình (1993), "Phát huy hơn nữa vai trò của phụ nữ trong
tham gia quản lý Nhà nước", Bài tham luận tại Hội thảo: Vai trò của
phụ nữ trong tham gia quản lý Nhà nước, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Hà Nội
155
27. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Hưng Yên (2003), Chuyện kể về phong trào nữ
du kích Hoàng Ngân. Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
28. Bộ Chính trị (1993), Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 về Đổi mới
công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới, Hà Nội.
29. Cục Thống kê tỉnh Hưng Yên (2011), Thành tựu phát triển kinh tế - xã
hội tỉnh Hưng Yên sau 14 năm tái lập (1997 - 2010), Nxb Thống
kê, Hà Nội.
30. Cục Thống kê tỉnh Hưng Yên (2011), Kinh tế - xã hội tỉnh Hưng Yên sau
15 năm tái lập (1997 - 2011), Nxb Thống kê, Hà Nội.
31. Lê Duẩn (1974), Vai trò và nhiệm vụ của Phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn
mới của cách mạng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
32. Dương Thị Duyên (1996), "Phụ nữ và chính quyền", Tạp chí Khoa học về
Phụ nữ, (2).
33. Đảng bộ tỉnh Hưng Yên (2006), Chỉ thị số 07/CT-BTV về lãnh đạo Đại
hội Phụ nữ 3 cấp nhiệm kỳ 2006 - 2011, Hưng Yên.
34. Đảng bộ tỉnh Hưng Yên (2011), Chỉ thị số 06/CT-BTV về lãnh đạo Đại
hội đại biểu phụ nữ các cấp tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2011 - 2016,
Hưng Yên.
35. Đảng bộ tỉnh Hưng Yên (2015), Chỉ thị 01/CT-BTV về lãnh đạo Đại hội đại
biểu phụ nữ các cấp tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2016 - 2021, Hưng Yên.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1967), Nghị quyết 152-NQ/TW ngày 10/1/1967
về Một số vấn đề tổ chức, lãnh đạo công tác phụ vận, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Nghị quyết 05-NQ/TW (Khóa IX) về đổi
mới hệ thống chính trị các cấp, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Nghị quyết 23-NQ/TW ngày 12/03/2003
về Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Hà Nội.
156
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày
27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Kết luận số 62-KL/TW ngày 08/12/2009
về Tiếp tục đổi mới nội dung phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội, Hà Nội.
45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Đảng Lao động Việt Nam (1968), Quan điểm cơ bản về vấn đề giải phóng
phụ nữ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
47. Trịnh Xuân Giới (2005), “Nâng cao vị trí chính trị và năng lực hoạt động
của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam”, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
48. Nguyễn Khắc Hào, Nguyễn Đình Nhã (Đồng chủ biên) (2014), Phố Hiến,
Nxb Khoa học và xã hội, Hà Nội.
49. Trương Mỹ Hoa (1995), "Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong phát triển
kinh tế, xã hội, tham gia quản lý Nhà nước và định hướng phát triển
đến năm 2000", Tạp chí Cộng sản, (14).
50. Nguyễn Thị Thanh Hòa (2008), "Nhiệm vụ trọng tâm, then chốt của Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp trong thời kỳ mới", Tạp chí Cộng
sản, (785).
51. Nguyễn Thị Thanh Hòa (2009), "Hoạt động và đóng góp của phụ nữ Việt
Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa" Tạp chí
Cộng sản, (797).
157
52. Nguyễn Thị Thanh Hòa (2009), "Nâng cao vị thế của phụ nữ Việt Nam
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp
chí Cộng sản, (816).
53. Nguyễn Thị Thanh Hòa (2011), "Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam với việc
triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI về vấn đề phụ nữ", Tạp
chí Cộng sản, (821).
54. Nguyễn Thị Thanh Hòa (2012), "Phụ nữ Việt Nam đoàn kết, sáng tạo,
bình đẳng và phát triển, xây dựng tổ chức Hội vững mạnh", Tạp chí
Cộng sản, (833).
55. Nguyễn Thị Thanh Hòa (2012), “Làm tốt công tác vận động, quy tụ sức
mạnh của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam”, Tạp chí Dân vận, (3).
56. Nguyễn Thị Thanh Hòa (2015), "Tiếp tục tăng cường sự tham gia của phụ
nữ trong đời sống chính trị của đất nước", Tạp chí Cộng sản, (872).
57. Hội đồng Bộ trưởng (1988), Quyết định 163-QĐ/HĐBT quy định trách
nhiệm của các cấp chính quyền trong việc bảo đảm cho các cấp Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước, Hà Nội.
58. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (1996), Hai mươi năm một chặng đường
phát triển của phụ nữ Việt Nam 1975 - 1995, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
59. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (1997), Điều lệ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Hà Nội.
60. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2002), Phụ nữ Việt Nam bước vào thế kỷ
XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2002), Các quy định của pháp luật về
nhiệm vụ, quyền hạn của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Nxb Thế
giới, Hà Nội.
62. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2002), Điều lệ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Hà Nội.
63. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2004), Cơ cấu cán bộ và tiêu chuẩn cán
bộ lãnh đạo chủ chốt của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hệ
thống chính trị đổi mới, Đề tài KX.05.11.04.
158
64. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2004), Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam - Thực trạng và những giải
pháp đổi mới, Chuyên đề số VI, tháng 12.
65. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2005), Vị trí, vai trò, chức năng và mô
hình tổ chức của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hệ thống chính
trị, Đề tài KX.05.10.05.
66. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2007), Phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
67. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2007), Thực trạng lao động nữ khu vực
công nghiệp tham gia sinh hoạt Hội trên địa bàn dân cư, Đề tài cấp
Bộ, Hà Nội.
68. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2007), Điều lệ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Hà Nội.
69. Hội Liên hiệp phụ Việt Nam (2009), Tham gia xây dựng chính sách, pháp
luật về bình đẳng giới, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
70. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2012), Điều lệ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Hà Nội.
71. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2012), Khảo sát, đánh giá mô hình thu
hút hội viên phụ nữ tham gia hoạt động Hội Liên hiệp Phụ nữ và đề
xuất giải pháp, Đề tài cấp Bộ, Hà Nội.
72. Hội Liên Hiệp Phụ nữ Việt Nam (2016), Lịch sử Hội Liên Hiệp Phụ nữ
Việt Nam (1930-1976), tập I, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
73. Hội Liên Hiệp Phụ nữ Việt Nam (2016), Lịch sử Hội Liên Hiệp Phụ nữ
Việt Nam (1976-1912), tập II, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
74. Hội Liên Hiệp Phụ nữ Việt Nam (2016), Biên niên lịch sử Hội Liên Hiệp
Phụ nữ Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
159
75. Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Phù Cừ (2015), Báo cáo số 81/BC-HPN
ngày 26/10/2015 báo cáo kết quả thực hiện Điều lệ Hội, phong trào
thi đua các nhiệm vụ công tác hội và hoạt động ủy thác với ngân
hàng chính sách xã hội năm 2015, Hưng Yên.
76. Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Văn Lâm (2015), Báo cáo số 45/BC-BTV
ngày 22/10/2015 báo cáo kết quả Điều lệ Hội và phong trào thi đua,
các nhiệm vụ công tác hội năm 2015 của Hội Liên hiệp Phụ nữ
huyện Văm Lâm, Hưng Yên.
77. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (1997), Báo cáo của Ban Chấp hành
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên tại Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh
lần thứ XI, Hưng Yên.
78. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (1998), Báo cáo số 171/BC-TH, Báo
cáo“kết quả hoạt động phong trào phụ nữ năm 1998, Hưng Yên.
79. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (1998), Báo cáo số 181/BC-TH,
Công tác tuyên truyền giáo dục năm 1998 của Hội Liên hiệp Phụ nữ
tỉnh Hưng Yên, Hưng Yên.
80. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (1999), Báo cáo số 28/BC-TH,
Chương trình công tác năm 1999 của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh
Hưng Yên, Hưng Yên.
81. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (1999), Báo cáo số 201/BC-TH
ngày 22/11/1999 báo cáo đánh giá thực hiện Nghị quyết Đại hội phụ
nữ toàn quốc giữa nhiệm kỳ (6/1997 - 12/1999), Hưng Yên.
82. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2000), Báo cáo số 01/BC-TH, Báo
cáo Tổng kết năm 2000 của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên,
Hưng Yên.
83. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2001), Báo cáo của Ban Chấp hành
Hội Liên hiệp Phụ nữ Tỉnh Hưng Yên tại Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh
lần thứ XII, Hưng Yên.
160
84. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2001), Báo cáo số 01/BC-TH ngày
19/12/2001 báo cáo kết quả hoạt động và phong trào năm 2001 của
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên, Hưng Yên.
85. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2002), Báo cáo số 38/BC-TH, Báo
cáo Tổng kết 5 năm thực hiện phong trào thi đua do Đại hội đại biểu
Phụ nữ toàn quốc lần thứ VIII phát động, Hưng Yên.
86. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2002), Báo cáo số 50/BC-TH ngày
19/11/2002 báo cáo kết quả thực hiện phong trào thi đua "phụ nữ
tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc",
Hưng Yên.
87. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2002), Lịch sử phong trào phụ nữ
tỉnh Hưng Yên (1930 - 2000), Hội Liên hiệp Phụ nữ Tỉnh Hưng Yên.
88. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2004), Kế hoạch số 18/KH-HPN kế
hoạch phát động đợt thi đua giúp phụ nữ nghèo có địa chỉ xóa nhà
tranh cho phụ nữ nghèo lập thành tích chào mừng Đại hội VII Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Hưng Yên và Đại hội VI Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, Hưng Yên.
89. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2004), Kế hoạch số 27/KH-HPN về
việc phát động phong trào thi đua đặc biệt từ nay đến hết năm 2005
Hưởng ứng và thực hiện chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên, Hưng Yên.
90. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2005), Kế hoạch số 31/KH-HPN
ngày 7/9/2005 tổ chức Hội nghị tọa đàm "tập hợp thu hút phụ nữ
tham gia vào tổ chức hội", Hưng Yên.
91. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2006), Báo cáo số 60/BC-HPN,
Công tác gia đình xã hội năm 2006 của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh
Hưng Yên, Hưng Yên.
92. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2006), Báo cáo số 64/BC-HPN,
báo cáo đánh giá công tác thi đua khen thưởng năm 2006 của Hội
Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên, Hưng Yên.
161
93. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2006), Kế hoạch hướng dẫn số
17/KH-HPN, Tổng kết phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập,
lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, do Đại hội đại biểu
phụ nữ toàn quốc lần thứ XI phát động, Hưng Yên.
94. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2006), Báo cáo của Ban Chấp hành
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên tại Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh
lần thứ XIII nhiệm kỳ 2006-2011, Hưng Yên.
95. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2006), Kế hoạch số 38/KH-HPN
phát động phong trào thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội đại
biểu phụ nữ tỉnh lần thứ VIII kỷ niệm 175 năm thành lập tỉnh Hưng
Yên và 10 năm tái nhập tỉnh, Hưng Yên.
96. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2006), Kế hoạch số 39/KH-HPN kế
hoạch tuyên truyền Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh lần thứ VIII kỷ niệm
175 năm thành lập tỉnh Hưng Yên và 10 năm tái nhập tỉnh, Hưng Yên.
97. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2007), Báo cáo số 01/BC-HPN báo
cáo kết quả công tác hội và phong trào phụ nữ 9 tháng đầu năm, một
số nhiệm vụ trọng tâm quý IV năm 2007, Hưng Yên.
98. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2008), Báo cáo số 02/BC-HPN kết
quả hoạt động 6 tháng đầu năm, phương hướng, nhiệm vụ 6 tháng
cuối năm 20008, Hưng Yên.
99. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2008), Báo cáo số 140/BC-HPN
ngày 15/12/2008 báo cáo đánh giá kết quả thực hiện chương trình
giảm nghèo tham gia phát triển kinh tế 5 năm (2003-2008) và
phương hướng nhiệm vụ những năm tới, Hưng Yên.
100. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2009), Báo cáo số 228/BC-HPN sơ
kết 3 năm triển khai thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, Hưng Yên.
101. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2010), Kế hoạch số 22/KH-ĐCT kế
hoạch triển khai thực hiện đợt thi đua đặc biệt lập thành tích chào
mừng các ngày lễ lớn của đất nước, Hưng Yên.
162
102. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2010), Báo cáo số 230/BC-HPN
Báo cáo kiểm điểm, đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại
hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ X, Nghị quyết Đại hội phụ nữ
tỉnh lần thứ XIII, nhiệm kỳ (2006 - 2011), Hưng Yên.
103. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2010), Báo cáo số 232/BC-HPN
ngày 1/3/2010 báo cáo tổng kết phong trào thi đua yêu nước 5 năm
(2005-2010); phương hướng, nhiệm vụ phong trào thi đua giai đoạn
2010-2015, Hưng Yên.
104. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2010), Báo cáo số 295/BC-HPN
ngày 24/11/2010 báo cáo kết quả thực hiện công tác thi đua khen
thưởng năm 2010, Hưng Yên.
105. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2010), Kế hoạch số 141/KH-HPN
ngày 15/3/2010 kế hoạch hướng dẫn triển khai thực hiện đợt thi đua
đặc biệt lập thành tích chào mừng các ngày lễ lớn của đất nước, của
Hội năm 2010, Hưng Yên.
106. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2011), Báo cáo số 05/BC-HPN,
báo cáo kết quả hoạt động Hội, phong trào phụ nữ năm 2011, phương
hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2012, Hưng Yên.
107. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2011), Báo cáo của Ban Chấp hành
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên tại Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh
lần thứ XIV nhiệm kỳ 2011 - 2016, Hưng Yên.
108. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2012), Báo cáo số 08/BC-HPN
Đánh giá phong trào thi đua và nhiệm vụ công tác Hội năm 2012,
Hưng Yên.
109. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2012), Báo cáo số 30/BC-HPN Kết
quả công tác hỗ trợ xây dựng gia đình hạnh phúc theo tiêu chí “Ít
con, no ấm, bình đẳng tiến bộ, hạnh phúc, Hưng Yên.
163
110. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2013), Báo cáo thành tích số
06/BC-BTV Đề nghị Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen giai đoạn
2011-2013, Hưng Yên.
111. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2013), Kế hoạch số 58/KH-BTV kế
hoạch thực hiện khâu đột phá tạo chuyển biến mới về chất lượng, hiệu
quả hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm
giảm nghèo bền vững, Hưng Yên.
112. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2013), Kế hoạch số 100/KH-HPN,
Tổ chức chiến dịch truyền thông về Phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt
Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước năm
2013, Hưng Yên.
113. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2013), Kế hoạch tổ chức truyền
thông về Phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hưng Yên.
114. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2014), Cẩm nang kiến thức pháp
luật và công tác Hội, Hưng Yên.
115. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2015), Kế hoạch số 198/KH-HPN
Triển khai thực hiện công trình thi đua chào mừng Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ XVIII và kỷ niệm 85 năm ngày thành lập Hôi Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam (20/10/1930 - 20/10/2015), Hưng Yên.
116. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Hưng
Yên (2016), Hoa xứ nhãn, Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội.
117. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2016), Báo cáo của Ban Chấp hành
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên tại Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh
lần thứ XV, Hưng Yên.
118. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2016), Bản tin phụ nữ Hưng Yên
số 2 Chào mừng kỷ niệm 185 năm thành lập tỉnh 75 thành lập đảng
bộ tỉnh, 20 năm tái lập tỉnh Hưng Yên và Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh
Hưng Yên lần thứ XV nhiệm kỳ (2016 - 2021), Hưng Yên.
164
119. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2017), Báo cáo số 36/BC-BTV:
Tổng kết 10 thực hiện Nghị quyết 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ
chính trị (khóa X) về “công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”, Hưng Yên.
120. Nguyễn Thị Thu Hồng (2013), “Năm năm thực hiện Nghị quyết số 11-
NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X, về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Cộng sản, (845).
121. Phan Thanh Khôi, Nguyễn Thị Thạch (đồng chủ biên) (2007), Những vấn
đề giới từ lịch sử đến hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
122. Trương Thị Khuê (2002), "Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam với việc xây
dựng các mô hình hoạt động", Tạp chí Cộng sản, (30).
123. Nguyễn Phúc Lai (2007), Hưng Yên vùng phù sa văn hóa, Nxb Trẻ,
Hà Nội.
124. Kinh Lịch (1965), Nữ du kích Hoàng Ngân, Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội.
125. Lê Lục (2003), "Công tác tuyên truyền của Đảng nhằm nâng cao vai trò
của phụ nữ trong phát triển kinh tế tri thức", Tap chí Tuyên giáo, (8).
126. Nguyễn Thị Mão (1996), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng Phụ nữ
và xây dựng đội ngũ cán bộ nữ", Tạp chí Xây dựng Đảng, (10).
127. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quóc gia, Hà Nội.
128. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
129. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
130. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
131. Dương Thị Minh (2004), Gia đình Việt nam và vai trò của phụ nữ trong
giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
132. Nguyễn Hữa Minh, Trần Thị vân Anh (2009), Nghiên cứu gia đình, thế
giới thời kỳ đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
133. Dương Xuân Ngọc (Chủ biên) (1995), Đổi mới mối quan hệ giữa Đảng,
chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp phường trong điều kiện kinh tế
thị trường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
165
134. Nguyễn Khánh Ngọc, Phạm Ngọc Quang (2004), “Đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội”, Tạp chí Cộng sản, (9).
135. Nhà xuất bản Phụ nữ (1968), Quan điểm cơ bản về vấn đề giải phóng Phụ
nữ của Đảng Lao động Việt Nam, Hà Nội.
136. Nhà xuất bản Phụ nữ (1970), Lênin với vấn đề giải phóng phụ nữ, Hà Nội.
137. Nhà xuất bản Phụ nữ (1977), Chủ nghĩa Mác và vấn đề giải phóng phụ
nữ, Hà Nội.
138. Nhà xuất bản Phụ nữ (2002), Chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của Phụ
nữ Việt Nam tới năm 2010, Hà Nội.
139. Nhà xuất bản Thông tấn (2005), Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải
phóng phụ nữ, Hà Nội.
140. Nhà xuất bản Phụ nữ (2007), Bác Hồ trong trái tim phụ nữ Việt Nam,
Hà Nội.
141. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2011), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam
hiện nay, Hà Nội.
142. Nhà xuất bản Phụ nữ (2012), Quan điểm của Đảng, nhà nước và chủ tịch
Hồ Chí Minh về phụ nữ và công tác phụ nữ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
143. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2012), Thực hiện chức năng giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện, Hà Nội.
144. Hoàng Thị Ái Nhiên (2011), Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới đất nước và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội.
145. Hoàng Thị Ái Nhiên (2012), "Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam với công
tác tuyên truyền, giáo dục phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Tạp chí Cộng sản, (840).
146. Lê Chân Phương (1996), Hồi ký Những chặng đường đã qua, Nxb Phụ
nữ, Hà Nội.
147. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1994), Bộ luật Lao
động, Hà Nội.
166
148. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Bộ luật Lao
động, Hà Nội.
149. Phạm Hạnh Sâm (2011), "Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở nước ta
hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (828).
150. Đặng Đình Tân (2008), “Về giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ Quốc
trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Mặt trận, (5).
151. Lê Thi (2004), Gia đình, phụ nữ Việt Nam với dân số, văn hóa và sự phát
triển bền vững, Nxb Khoa hoc xã hội, Hà Nội.
152. Hoàng Bá Thịnh (2010), "Chính sách đối với phụ nữ nông thôn trong thời
kỳ công nghiệp hóa", Tạp chí Cộng sản, (816).
153. Nguyễn Thị Nhật Thu (2015), Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo Hội
Liên hiệp Phụ nữ tỉnh đổi mới nội dung, phương thức hoạt động từ
năm 1997 đến năm 2012, Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
154. Thủ tướng Chính phủ (1994), Chỉ thị 646-CT/TTg, ngày 7-11-1994, về
việc thành lập tổ chức "Vì sự tiến bộ của Phụ nữ" ở các bộ ngành và
địa phương, Hà Nội.
155. Thủ tướng Chính phủ (2002), Quyết định số 19-QĐ/TTg, tháng 1 năm
2002, về việc phê duyệt Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ
đến năm 2010, Hà Nội.
156. Nguyễn Thị Kim Thúy (2011), Thực trạng và đề xuất phương hướng đổi
mới nội dung, phương thức hoạt động và phát triển tổ chức Hôị Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới, Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
157. Ngô Huy Tiếp (2013), Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Mặt trận Tổ quốc và các Đoàn thể nhân dân hiện nay, tại trang
www.tapchicongsan.org.vn, [truy cập ngày 22/2/2018].
167
158. Tỉnh ủy lâm thời Hưng Yên (1997), Báo cáo Chính trị trình Đại hội đại
biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, Hưng Yên.
159. Tỉnh ủy Hưng Yên (1997), Chương trình hành động thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lần thứ XIV ngày 12/11/1997,
Hưng Yên.
160. Tỉnh ủy Hưng Yên (2000), Báo cáo Chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng
bộ tỉnh lần thứ XV, Hưng Yên.
161. Tỉnh ủy Hưng Yên (2002), Báo cáo số 41-BC/TU, tổng kết việc thực hiện
Nghị quyết Trung ương 8B (khóa VI) về Đổi mới công tác quần chúng
của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân và các
nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị về công tác dân vận, mặt
trận, dân tộc và tôn giáo trong thời kỳ đổi mới, Hưng Yên.
162. Tỉnh ủy Hưng Yên (2005), Báo cáo Chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng
bộ tỉnh lần thứ XVI, Hưng Yên.
163. Tỉnh ủy Hưng Yên (2005), Nghị quyết số 24-NQ/TU Về công tác quy
hoạch cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Hưng Yên.
164. Tỉnh ủy Hưng Yên (2005), Hưng Yên thế và lực mới trong thế kỷ XXI,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
165. Tỉnh ủy Hưng Yên (2007), Chương trình hành động số 11-CTr/TU thực
hiện nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ chính trị về công tác nữ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, Hưng Yên.
166. Tỉnh ủy Hưng Yên (2007), Kế hoạch số 44-KH/TU về việc nghiên cứu,
quán triệt thực hiện nghị quyết số 11-NQ/TU của Bộ Chính trị về công
tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước,
Hưng Yên.
167. Tỉnh ủy Hưng Yên (2007), Kế hoạch số 51-KH/TU, nhằm thực hiện nghị
quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) Về
tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động
của hệ thống chính trị, Hưng Yên.
168
168. Tỉnh ủy Hưng Yên (2007), Báo cáo số 126-BC/TU về Kết quả kiểm tra
việc lãnh đạo chỉ đạo thực hiện nghị quyết Trung ương V (Khóa X) Về
tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động
của hệ thống chính trị, Hưng Yên.
169. Tỉnh ủy Hưng Yên (2009), Báo cáo số 126-BC/TU về tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính
trị, Hưng Yên.
170. Tỉnh ủy Hưng Yên (2010), Báo cáo Chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng
bộ tỉnh lần thứ XVII, Hưng Yên.
171. Tỉnh ủy Hưng Yên (2012), Báo cáo số 59-BC/TU: Sơ kết 5 năm thực
hiện nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị (Khóa X) về Công tác
phụ nữ thời kỳ đẩy mạng công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước,
Hưng Yên.
172. Tỉnh ủy Hưng Yên (2015), Báo cáo Chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng
bộ tỉnh lần thứ XVIII, Hưng Yên.
173. Tỉnh ủy Hưng Yên (2015), Chỉ thị số 36-CT/TU về công tác tín dụng
chính sách xã hội, Hưng Yên.
174. Tỉnh ủy Hưng Yên (2015), Thông báo số 1317-TB/TU ngày 10/2/2015 ý
kiến của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc phát động ủng hộ công trình
chào mừng kỷ niệm 85 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam (20/10/1930 - 20/10/2015), Hưng Yên.
175. Tỉnh ủy Hưng Yên (2017), Báo cáo số 150-BC/TU Tổng kết 10 năm thực
hiện Nghị quyết 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ chính trị (khóa X)
về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, Hưng Yên.
176. Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên (2001), Quyết định số 2609 QĐ-UB ngày
15/11/2001, Quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên về việc
kiện toàn Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ Hưng Yên, Hưng Yên.
169
177. Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên (2004), Quyết định số 1795 QĐ-UB ngày
26/7/2004, Quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên về việc
kiện toàn Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ Hưng Yên, Hưng Yên.
178. Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên (2006), Chỉ thị số 06/2006/CT-UBND
ngày 14/4/2006 về việc phát động đợt thi đua đặc biệt lập thành tích
chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X; kỷ niệm 175 năm ngày
thành lập tỉnh Hưng Yên và 10 năm ngày tái lập tỉnh, Hưng Yên.
179. Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên (2006), Quyết định số 188 QĐ-UBND
ngày 11/9/2006 về việc kiện toàn Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ Hưng
Yên, Hưng Yên.
180. Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên (2007), Quyết định số 1784 QĐ-UBND
ngày 5/10/2007 về việc phê duyệt Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ
của phụ nữ Hưng Yên đến năm 2010, Hưng Yên.
181. Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên (2009), Báo cáo số 98/UBND-NV ngày
9/9/2009 về việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 03/2005/CT-TTg ngày
25/2/2005 của Thủ tướng Chính phủ và Chương trình hành động
phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004-2010,
Hưng Yên.
182. Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên (2013), Quyết định số 2357 QĐ-UBND
ngày 11/12/2013, về việc ban hàn quy chế Về mối quan hệ công tác
giữa Ủy ban nhân dân tỉnh với Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh bảo đảm cho
Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh tham gia quản lý nhà nước, Hưng Yên.
183. Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên (2014), Kế hoạch số 118 KH-BCĐ, ngày
14/1/2014 về việc thực hiện Đề án Giáo dục 5 triệu bà mẹ nuôi, dạy
con tốt năm 2014, Hưng Yên.
184. Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên (2015), Chương trình hành động số 01-
CTr/TU ngày 15/12/2015, về thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015-2020, Hưng Yên.
170
185. Văn phòng Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (1997), Ảnh tư liệu của
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Hưng Yên.
186. Văn phòng Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2001), Ảnh tư liệu của
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Hưng Yên.
187. Văn phòng Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2006), Ảnh tư liệu của
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Hưng Yên.
188. Văn phòng Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hưng Yên (2015), Ảnh tư liệu của
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Hưng Yên.
189. Dương Thị Xuân (2002), Sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc
đổi mới đất nước, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
171
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH HƯNG YÊN
Phụ lục 3
MỘT SỐ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG TRONG CÔNG TÁC HỘI VÀ
PHONG TRÀO PHỤ NỮ TỈNH HƯNG YÊN TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2015
3.1. So sánh kết quả thực hiện phong trào thi đua”Phụ nữ tích cực học
tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” qua 3 kỳ Đại hội đại
biểu Phụ nữ tỉnh Hưng Yên lần thứ XII;XIII, XIV.
TT Nội dung 2001 - 2006 2006 - 2011 2011-2016
1 - Hội viên, phụ nữ đăng ký - Tỷ lệ/Tổng số hội viên, phụ nữ(%)
292.786
99.8%
165.547
82.0%
233.627
96.9%
2
- Hội viên phụ nữ đạt 3 tiêu chuẩn của phong trào - Tỷ lệ/Tổng số hội viên, phụ nữ(%)
206.323
71.3%
126.643
76.5%
202.395
86.6%
Nguồn: [83]; [94]; [107]
3.2. So sánh kết quả phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế của
Hội LHPN tỉnh Hưng Yên qua 3 kỳ Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh Hưng
Yên lần thứ XIII, XIV, XV (1997 - 2016)
TT Nội dung 1997- 2001 2001 - 2006 2006- 2011 2011-2016
1 Số phụ nữ giúp (giúp vốn, cây trồng, con giống, vật tư, ngày công…)
66.817 64.824 47.491 54.95
2 Số lượt phụ nữ được giúp 136.797 113.249 93.755 61.061
3 Tổng giá trị giúp quy đổi bằng tiền (triệu đồng)
8.739.815.000 70.151.748 86.226.3700 136.591.000.000
Nguồn: [77]; [83]; [94]; [107]
3.3. So sánh kết quả hoạt động tín chấp cho Hội viên; phụ nữ vay vốn của
Hội LHPN tỉnh Hưng Yên qua 3 kỳ Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh Hưng
Yên lần thứ: XII, XIII, XIV, XV (1997 - 2016)
TT Nội dung 1997-2001 2001-2006 2006-2011 2011-2016
1 Tổng số vốn huy động (triệu đồng)
79.877.648 757.484.000 662.981.000 938.865.000
2 Số lượt hộ phụ nữ vay vốn
8248.95 303.148 43.515 42.437
Nguồn: [77]; [83]; [94]; [107]
Phục lục 4
BỘ MÁY TỔ CHỨC CÁN BỘ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH HƯNG YÊN
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2016
4.1. So sánh trình độ đội ngũ cán bộ của Hội LHPN các cấp tỉnh Hưng
Yên qua các năm 1997, 2006, 2011, 2016
4.1.1. Trình độ đội ngũ cán bộ Hội LHPN cấp tỉnh
TT Nội dung 1997 2006 2011 2016
Tổng số cán bộ Hội chuyên trách 6 16 23 24
NCS 0 0 1 0
Th.S 0 0 5 6
ĐH 4 10 18 14
CĐ 3 3 3 2
TC 2 3 1 2
1 Chuyên môn
SC 3 0 0 0
CC, CN 1 2 6 8
TC 3 2 2 2 2 Lý luận chính trị
SC 2 12 15 16
Nguồn: [77]; [83]; [94]; [107]
4.1.2. Trình độ đội ngũ cán bộ Hội LHPN cấp huyện
TT Nội dung 1997 2006 2011 2016
Tổng số cán bộ Hội chuyên trách 27 46 46 47
NCS 0 0 0 0
Th.S 0 1 5 11
ĐH 7 38 41 36
CĐ 4 3 0 0
TC 6 5 0 0
1 Chuyên môn
SC 6 3 0 0
CC, CN 0 4 7 13
TC 12 17 26 25 2 Lý luận chính trị
SC 5 25 13 9
Nguồn: [77]; [83]; [94]; [107]
4.1.3. Trình độ đội ngũ cán bộ Hội LHPN cấp cơ sở
TT Nội dung 1997 2006 2011 2016
Tổng số cán bộ Hội chuyên trách 160 104 161 161
NCS 0 0 0 0
TS 0 0 0 0
ĐH 0 15 22 61
CĐ 2 23 1 7
TC 56 77 94 87
1 Chuyên môn
SC 67 19 5 0
CC, CN 0 0 0 3
TC 0 33 118 123 2 Lý luận chính trị
SC 109 96 42 34
Nguồn: [77]; [83]; [94]; [107]
4.2. So sánh tỷ lệ thu hút tập hợp hội viên của Hội LHPN tỉnh Hưng Yên
qua các nhiệm kỳ: 1997 - 2001, 2001 - 2006, 2006 - 2011,2011-2016.
TT Nội dung 1997-2001 2001- 2006 2006-2011 2011-2016
1 Tổng số phụ nữ từ 18 tuổi
trở lên
241.846 266.788 294.500 317.870
2 Tổng số phụ nữ tham gia tổ
chức Hội (hội viên)
172.561 201.758 245.627 259.816
3 Tỷ lệ 71,3% 75,6% 83,4% 81,74%
Nguồn: [77]; [83]; [94]; [107]
4.3. So sánh kết quả bình xét, xếp loại tổ chức Hội cấp cơ sở qua các năm
1997, 2006, 2011, 2016.
Năm Tổng số cơ sở Số cơ sở vững mạnh Số cơ sở khá Số cơ sở
trung bình
1997 160 68/41,8% 76/47,5% 17/10,6%
2006 161 134/83,2% 27/16,8% 0
2011 161 136/84,5% 23/143% 2/1,3%
2016 161 146/90,7% 15/9,3% 0
Nguồn: [77]; [83]; [94]; [107]
Phụ lục 5
PHỤ LỤC VỀ NHỮNG BÀI PHỎNG VẤN CÁC ĐỒNG CHÍ
NGUYÊN CHỦ TỊCH HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH HƯNG YÊN
QUA CÁC NHIỆM KỲ XI, XII, XIII, XIV GIAI ĐOẠN (1997-2015)
MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
TỈNH HƯNG YÊN DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH
GIAI ĐOẠN (1997-2006)
Doãn Thị Thanh Hoa
Nguyên Chủ tịch Hội LHPN tỉnh Hưng Yên
giai đoạn (1997-2006)
Năm 1997 tỉnh Hưng Yên được tái lập, Hội LHPN tỉnh Hưng Yên là tổ
chức chính trị đầu tiên của tỉnh tiến hành đại hội. Ban Thường vụ Hội LHPN
tỉnh khóa XI (1997-2001), khóa XII (2001-2006), đã bám sát sự chỉ đạo của
Bộ Chính trị BCH Trung ương Đảng, tham mưu với Ban Thường vụ Tỉnh ủy
và đoàn Chủ tịch Trung ương Hội LHPN Việt Nam, thể hiện ở các nghị quyết,
chỉ thị quan trọng của Trung ương, của Tỉnh ủy, đảng đoàn, đoàn Chủ tịch
Trung ương Hội LHPN Việt Nam trên lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội,
trước tình hình thế giới, khu vực, nhất là những thời cơ, thách thức ảnh hưởng
trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta, trong đó có Hưng Yên.
Trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, nhất là sau 20 năm đổi mới, tuy
những năm đầu tái lập tỉnh còn có những khó khăn về đội ngũ cán bộ Hội
nhất là cấp tỉnh chỉ có 6 đồng chí, cơ sở vật chất phục vụ công tác còn thiếu
thốn. Song với tinh thần yêu quê hương, gắn bó với tổ chức Hội, BCH Hội
LHPN tỉnh Hưng Yên, đoàn kết, thống nhất khắc phục mọi khó khăn, tập
trung chỉ đạo, hướng dẫn, vận động, hội viên và các tầng lớp phụ nữ trong
tỉnh thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, không
ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đa dạng hóa các loại hình
tập hợp các hội viên vào tổ chức Hội; đồng thời tập trung chỉ đạo những nội
dung liên quan trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ của Hội LHPN; chăm lo
quyền, nghiã vụ, lợi ích hợp pháp của hội viên. Từ đó, tính thiết thực và hiệu
quả của công tác phụ nữ nhiệm kỳ XI, XII ngày càng rõ nét. Hội còn làm tốt
chức năng phản biện xã hội, giám sát việc thực hiện đường lối chủ trương của
Đảng, Nhà nước đến quyền lợi người dân trong đó có phụ nữ.
Kết quả công tác Hội và phong trào phụ nữ Hưng Yên giai đoạn (1997-
2006), được đoàn Chủ tịch Trung ương Hội LHPN Việt Nam và BTV Tỉnh ủy
đánh giá cao, được nhận cờ, bằng khen và nhiều phần thưởng cao quý khác.
Với những thành quả trên Hội LHPN tỉnh Hưng Yên, đã góp phần tích cực
cùng Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh tham gia phát triển kinh tế - xã hội,
tham gia giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, góp phần xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền làm chủ của nhân dân.
Trong hai nhiệm kỳ Đại hội Phụ nữ tỉnh (1997-2001), (2001-2006), với
cương vị là chủ tịch Hội, tôi rất tâm đắc với một số hoạt động của Hội LHPN
Hưng Yên dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, với đặc điểm riêng của địa phương
đã có những kết quả đáng khích lệ.
Một là, thực hiện sự chỉ đạo của Bộ chính trị, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng về công tác cán bộ nữ trong tình hình mới (Chỉ thị 14, Chỉ thị 37,
Nghị quyết 04…); Đảng đoàn, BTV Hội LHPN tỉnh tham mưu với BTV tỉnh
ủy và đoàn chủ tịch Trung ương Hội LHPN Việt Nam, Đề án số 01- ĐA/DĐ
ngày 15- 9-2003 Về “Đào tạo bồi dưỡng cán bộ Hội LHPN các cấp từ nay
đến 2006”, BTV Tỉnh ủy nhất trí, ra thông báo số 405-TB/TU ngày 30-9-2003
về ý kiến của Thường trực Tỉnh ủy về việc thực hiện Đề án 01“Đào tạo bồi
dưỡng cán bộ Hội LHPN các cấp từ nay đến 2006”; Căn cứ vào thực trạng
cán bộ Hội phụ nữ các cấp hầu hết là chắp vá, không được bồi dưỡng kiến
thức lý luận chính trị và chuyên môn phụ vận, hầu hết cán bộ cơ sở không có
quy hoạch cán bộ Hội dẫn đến mỗi lần Đại hội thiếu cán bộ, ảnh hưởng trực
tiếp đến tổ chức Hội và phong trào phụ nữ. Đảng đoàn Hội LHPN tỉnh đã
phối hợp với BTV Tỉnh ủy thực hiện Đề án 01 trong vòng 18 tháng; giảng
viên Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh và Học viện Phụ nữ trực tiếp truyền
đạt, khóa đào tạo được 90 học viên tốt nghiệp ra trường có 2 bằng, trung cấp
Chính trị và trung cấp Phụ vận, giúp cấp ủy cơ sở có căn cứ xấp sếp bố trí đội
ngũ cán bộ Hội đáp ứng yêu cầu công tác.
Hai là, tổng kết 40 năm phong trào 3 đảm đang chống Mỹ cứu nước,
khẳng định vai trò của phụ nữ ngoài việc chăm lo cuộc sống gia đình, nếu
được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức họ sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ xã hội giao.
BTV Hội LHPN tỉnh đoàn Chủ tịch Trung ương Hội LHPN Việt Nam, thực
hiện các chương trình, đề án do các tổ chức quốc tế tài trợ, với mục tiêu nâng
cao vị thế của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội như dự an Opal của
Newzeland; những điều cần cho sự sống của Unicef; dự án tín dụng Việt - Bỉ;
dự án cây thuốc nam Việt Nam - Úc; dự án kế hoạch hóa gia đình Việt Nam -
Trung Quốc…
Thông qua các dự án các tổ chức quốc tế đầu tư cho ta vốn vay, tập
huấn cách quản lý vốn vay, biết cách chi tiêu hoạt hoạt động tín dụng, biết
hoạch toán vươn lên thoát nghèo. Có thời điểm Hội LHPN tỉnh quản lý hàng
trăm tỷ đồng, nhưng thất thoát ít nhất và rủi ro không đáng kể. Hội viên phụ
nữ được vay là phụ nữ nghèo có hoàn cảnh khó khăn, thiếu vốn sản xuất, từ
đó có nhiều bộ phận phụ nữ trưởng thành từ hội viên thoát nghèo thành cán
bộ Hội cấp cơ sở.
Từ việc phụ nữ làm chủ được kinh tế, và biết cách làm giàu, sẽ giữ
được hạnh phúc gia đình trong cơ chế thị trường, nghệ thuật làm vợ, làm mẹ
được trao đổi, giúp gia đình ngày càng ấm no, hạnh phúc.
Hưng Yên, ngày 5 tháng 6 năm 2017
Doãn Thị Thanh Hoa
MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH HƯNG YÊN VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH
GIAI ĐOẠN (2006-2010)
Nguyễn Thi Thảnh
Nguyên Chủ tịch Hội LHPN tỉnh Hưng Yên
giai đoạn (2006-2010)
Với vai trò là Chủ tịch Hội LHPN tỉnh Hưng Yên giai đoạn (2006-2010)
tôi có một số nhận xét như sau:
Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Hưng Yên là một tổ chức chính trị đại diện
cho quyền lợi của phụ nữ tỉnh, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên và
Hội Liên Hiệp Phụ nữ Việt Nam giai đoạn (2006-2010), Hội LHPN tỉnh đã có
những nội dung hoạt động cơ bản sau:
-Trên cơ sở những chỉ đạo của Trung ương, Tỉnh ủy đã ban hành những
chỉ thị, nghị quyết để lãnh đạo Hội LHPN tỉnh và công tác nữ: BCH Trung
ương Hội LHPN Việt Nam đã bám sát các nhiệm vụ đề ra trong Nghị quyết
Đại hội X, để chỉ đạo các tỉnh. Nhằm đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách
mạng mới, ngày 27-4-2007 Bộ Chính trị (khóa X) ra Nghị quyết số 11-
NQ/TW về Công tác Phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, đây là văn kiện thể hiện đầy đủ những quan điểm sâu sắc, đúng đắn
của Đảng đối với công tác phụ nữ trong thời kỳ mới; xác định những nhiệm
vụ, giải pháp, yêu cầu cụ thể, bức thiết đối với các cấp ủy Đảng, chính
quyền, các ban, ngành, đoàn thể và cả xã hội trong thực hiện công tác phụ
nữ. Đối với tổ chức Hội LHPN, sự quan tâm sâu sắc của Đảng được để thể
hiện thông qua những yêu cầu, nhiệm vụ được Nghị quyết đề cập riêng... Đó
là động lực và định hướng quan trọng, giúp các cấp Hội Phụ nữ cả nước thực
hiện tốt hơn nữa vai trò nòng cốt trong công tác phụ nữ.
Quán triệt Nghị quyết số 11-NQ/TW (2007) của Bộ Chính trị, và quan
điểm của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI (2005), Tỉnh ủy ra Kế hoạch số
44-KH/TU về Nghiên cứu, quán triệt thực Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ
Chính trị Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Tiếp đó, Tỉnh ủy Hưng Yên ban hành Chương trình hành động số 11-
CTr/TU (2007): Về thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa
X) về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Đánh giá về công tác phụ nữ và phong trào phụ nữ tỉnh Hưng Yên những
năm đầu thế kỷ XX, Chương trình khẳng định:Thực hiện chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, phát huy truyền thống phụ nữ Hưng Yên, công tác
phụ nữ và phong trào phụ nữ tỉnh có tiến bộ, đạt được nhiều thành tích trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng gia
đình no ấm, bình đẳng tiến bộ, hạnh phúc, góp phần quan trọng phát triển kinh
tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị của tỉnh. Nhận thức xã hội về
bình đẳng giới được nâng lên, phụ nữ được tôn trọng và bình đẳng hơn, địa vị
của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội được khẳng định các cấp hội
phụ nữ có nhiều sáng tạo trong đổi mới nội dumg, phương thức hoạt động, góp
phần thực hiện có hiệu quả chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về
công tác phụ nữ.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ chính trị (khóa
X) Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Tỉnh ủy đã tổng kết 5 năm thục hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW đánh giá
một cách khách quan nhất kết quả hoạt động của Hội LHPN tỉnh Hưng Yên
trong quá trình thực hiện Nghị quyết sô 11, và Chương trình hành động của
Tỉnh Ủy.
-Thành tích nổi bật trong hoạt động của Hội LHPN tỉnh: Sau khi tái lập
tỉnh, Hội LHPN tỉnh là đoàn thể chính trị - xã hội đầu tiên hoàn thành đại hội
nhiệm kỳ, với nhiều khó khăn nhất là về con người. Dưới sự lãnh đạo sát sao
của tỉnh ủy, sự cố gắng của lãnh đạo Hội, mỗi năm, mỗi đại hội, phong trào phụ
nữ và hoạt động của Hội LHPN tỉnh có bước phát triển rõ nét:
Công tác tổ chức cấn bộ từng bước vững trắc, tổ chức Hội được kiện
toàn đến chi, tổ phụ nữ, hội viên tiếp tục phát triển, hoạt động ở cơ sở nề nếp
thuận lợi. Cán bộ Hội các cấp đạt chuẩn trở lên về chuyên môn và trình độ
chính trị. Cơ quan tỉnh Hội 90% cán bộ có trình độ đại học, trong đó có 4
thạc sĩ.
Phong trào thi đua “ phụ nữ tích cực hộc tâp, lao động sáng tạo xây dựng
gia đình hạnh phúc” lan tỏa, gắn kết với các phong trào thi đua yêu nước trên
mọi lĩnh vực, phụ nữ đã phấn đấu vươn lênđóng góp xứng đáng vào sự phat
triển của ngành, nghề và sự phát triển của kinh tế - xã hội từng địa phương và
của tỉnh.
Các hoạt động của hội phụ nữ đã tham gia có hiệu quả trong thực hiện
các nhiệm vụ chính trị của tỉnh như: dồn điền đổi ruộng, thay đổi cơ cấu cây
trồng vật nuôi, phát triển công nghiệp… đồng thời các hoạt động Hội ngày
càng sâu sát, thiết thực đáp ứng nhu cầu tiến bộ, phát triển của phụ nữ. Hỗ
trwoj phụ nũ tham gia phát triển kinh tế và xây dựng gia đình no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, đã nâng cao vị thế của phụ nữ trong gia đình và ngoài
xã hội tạo nên sự gắn bó cộng đồng ớ cơ sở.
-Những hoạt động của Hội LHPN tỉnh mà tôi tâm đắc nhất trong nhiệm
kỳ là chủ tịch Hội: “ phụ nữ tích cực hộc tâp, lao động sáng tạo xây dựng gia
đình hạnh phúc”, là mục tiêu phấn đấu và cũng chỉ ra những nhiệm vụ của các
cấp Hội trong tỉnh và mỗi phụ nữ Hưng Yên. Nghị quyết Đại hội Phụ nữ toàn
quốc lần thứ X đề ra 6 nhiệm vụ trọng tâm trong công tác Hội. Chỉ đạo ở địa
phương Hưng Yên tôi tâm đắc nhất 2 nhiệm vụ: hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh
tế, tạo việc làm tăng thu nhập và hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, tuy hai mà một đồng hành, thúc đẩy nhau như kinh tế
và xã hội. Hỗ chợ phụ nữ phát triển kinh tế, trước hết bằng cung cấp cho chị
em kiến thức phù hợp, khoa học - kỹ thuật trong chăn nuôi, trồng trọt, kinh
doanh. Những năm ấy phụ nữ đã tiếp cận kiến thức khởi sự doanh nghiệp: cách
đầu tư, quản lý doanh nghiệp, tín chấp với ngân hàng tạo điều kiện vay vốn, có
những chương trình tín dụng vi mô có hiệu quả - Đề án tín dụng Việt _Bỉ, quỹ
tình thương. Đi đến xã nào cũng có những tâm gương phụ nữ làm kinh tế giỏi.
Phụ nữ biết làm kinh tế, làm kinh tế giỏi là điều kiện cần để xây dựng gai đình
no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Phần nhiều phụ nữ còn thiếu kiến thức
xã hội, gia đình, kỹ năng sống. Nghị quyết Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ X
đã đề cập vấn đề “ Kỹ năng sông cho phụ nữ và trẻ em gái” tôi thấy rất kịp
thời. Nhiệm vụ này rất quan trọng, nội dung phong phú, thiết thực.
-Những hạn chế về sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên trong việc
lãnh đạo hoạt động của Hội LHPN tỉnh là chưa có văn bản riêng lãnh đạo Hội
LHPN tỉnh, mà chỉ có văn bản triển khai thực hiện các văn bản chỉ đạo của
Trung ương Đảng, chính phủ.
Hưng Yên, ngày 6 tháng 8 năm 2017
Nguyễn Thị Thảnh
MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH HƯNG YÊN ĐỐI VỚI CÔNG TÁC PHỤ NỮ VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH GIAI ĐOẠN (2010-2015)
Hoàng Thị Minh Nga
Nguyên Chủ tịch Hội LHPN tỉnh Hưng Yên
giai đoạn (2010-2015)
Trong quá trình lãnh đạo Hội LHPN tỉnh Hưng Yên giai đoạn (2010-
2015), tôi có một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, Về những văn bản của Trung ương lãnh đạo công tác phụ nữ.
- Quyết định 290-QĐ/TW ngày 25/02/2010 của Bộ Chính trị (khóa X),
Về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, trong đó
quy định trách nhiệm lãnh đạo của Đảng, các cơ qun, tổ chức Đảng - Điều 7;
trách nhiệm của chính quyền các cấp (điều 16) đối với Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể nhân dân trong đó có Hội LHPN.
- Kết luận số 80 - KL/TW ngày 29/7/2010 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện Chỉ thị 07-CT/TW ngày 23/11/1996 của Bộ Chính trị (khóa
VIII) về “ Tăng cường công tác xây dựng Đảng, các đoàn thể nhân dân trong
các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần tư nhân”
- Kết luận số 153-KL/BDVTW ngày 11/4/2012 của Ban Dân vận Trung
Ương v/v Sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị
(khóa X) về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
- Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 22/12/2010 về lãnh đạo Đại hội đại biểu
phụ nữ các cấp.
- Kết luận số 55-KL/TW ngày 18/01/2013 của ban Bí thư về tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về công
tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị ban hành
“ Quy chế giám sát phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam & các
đoàn thể chính trị - xã hội”
- Quy định số 218 - QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị, ban hành
Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và
nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
- Thông báo số 196- TB/TW ngày 16/3/2015 vế kết luận của Ban bí thư
về Đề án “ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bình đẳng giới&
vì sự tiến bộ của phụ nữ trong tình hình mới”.
- Quyết định 228- QĐ/TW ngày 01/01/2015 của Ban Bí thư quy định về
chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế của các cơ quan chuyên trách
tham mưu, giúp việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội
cấp tỉnh, cấp huyện.
- Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 9/9/2015 của Ban Bí thư về lãnh đạo Đại hội
đại biểu phụ nữ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XII.
Thứ hai, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo công tác phụ nữ & hoạt động
của Hội LHPN tỉnh.
Căn cứ các văn bản của Trung ương và tham mưu của hội LHPN tỉnh;
căn cứ tình hình kinh tế - xã hội và công tác Hội, phong trào phụ nữ tỉnh Hưng
Yên. Ban Thường vụ tỉnh ủy đã ban hành các văn bản lãnh đạo công tác phụ nữ
& hoạt động của Hội LHPN tỉnh.
-Quyết định số 1115-QĐ/TU của Ban Thường vụ tỉnh ủy về ban hành
quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị tỉnh Hưng Yên.
- Chỉ thị số 06-CT/TU ngày 25 tháng 02 năm 2011 của Ban Thường vụ tỉnh
ủy V/v lãnh đạo, tổ chức Đại hội đại biểu phụ nữ các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2015.
- Kế hoạch tổ chức sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của
Bộ Chính trị (khóa X) về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước của Ban Thường vụ tỉnh ủy.
- Đề án về tăng cường xây dựng Đảng và đoàn thể trong doanh nghiệp
(thực hiện Kết luận số 80 ngày 29/7/2010 của Ban Bí thư Trung ương)
- Kế hoạch số 88 KH/TU ngày 21/4/2014 của Ban Thường vụ tỉnh ủy về
tổ chức, quán triệt, triển khai, thực hiện quyết định số 217, số 218 ngày
12/12/2013 của Bộ Chính trị.
- Thông báo ý kiến số 1043 ngày 24/01/2013 của Ban Thường vụ tỉnh ủy
về “Thực hiện đề án đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cán bộ Hội LHPN
cơ sở giai đoạn 2013-2017”
- Ủy ban nhân tỉnh ban hành kế hoạch thực hiện đề án kiểm tra thực hiện
Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ (năm 2008, 2012, 2014).
Kế hoạch triển khai thực hiện Kết luận 55 của Ban Thường vụ.
- Chỉ thị số 01 ngày 11/12/2015 của Ban Thường vụ tỉnh ủy về lãnh đạo
Đại hội phụ nữ các cấp tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2016- 2021.
- Thông báo của Ban Thường vụ tỉnh ủy phê duyệt Đề án kiện toàn tổ
chức bộ máy cán bộ của cơ quan Hội phụ nữ tỉnh.
Ủy ban nhân tỉnh ra quy chế phối hợp giữa UBND tỉnh & Hội LHPN tỉnh.
Thứ ba, Những hoạt động của Hội LHPN tỉnh HƯng Yên giai đoạn
(2010-2015) mà tôi tâm đắc nhất:
Một là, Hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ phụ nữ nâng cao trình độ nhận thức.
- Công tác tuyên truyền giáo dục, hỗ trợ phụ nữ nâng cao trình đọ, nhận
thức luôn bám sát nhiệm vụ chính trị của tỉnh, địa phương, hướng vào những vấn
đề phụ nữ quan tâm như truyền thống lịch sử, kiến thức pháp luật, nhất là những
vấn đề liên quan đến phụ nữ trẻ em, đất đai, hôn nhân gia đình, kiến thức về gia
đình (nuôi dạy con, chăm sóc sức khỏe, phòng chống tệ nạn xã hội); những
phẩm chất đạo đức người phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước.
- Hình thức tuyên truyền giáo dục ngày càng đổi mới, đa dạng (tuyên
truyền miệng, sân khấu hóa, hội thi hội diễn, sáng tác, tọa đàm, sinh hoạt câu
lạc bộ…) thu hút sự tham gia của các đối tượng phụ nữ, khi triển khi đề an 343
“Tuyên truyền giáo dục phẩm chất đạo đức phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ”
- Giúp phụ nữ thêm tự tin, năng động, khẳng định vai trò, vị thế của
mình trước xã hội, trong gia đình, biết xử lý tình huống một cách chủ động.
Hai là, Hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, gia đình hạnh phúc.
- Giúp phụ nữ thêm kiến thức về phát triển kinh tế gia đình, nâng cao thu
nhập để có điều kiện cải thiện, nâng cao chất lượng của các thành viên trong
gia đình; chăm lo việc học hành của con cái; thiết thực tham gia chương trình
kinh tế - xã hội của địa phương.
- Giúp phụ nữ nghèo, thoát nghèo, tham gia xây dựng nông thôn mới, đô
thị văn minh.
- Hỗ trợ phụ nữ kiến thức, kỹ năng tổ chức cuộc sống gia đình, chăm sóc
sức khỏe sinh sản, phòng chống tệ nạn xã hội.
(Các hoạt động trên được thực hiện: hàng năm các cấp Hội phối hợp các
ngành chuyên môn (Khoa học công nghệ, Nông nghiệp phát triển nông thôn),
tổ chức các lớp tập huấn chuyển giao khoa học công nghệ thông qua đề án “
Chuyển giao khoa học công nghệ cho phụ nữ” và các chương trình phối hợp
giữa Hội phụ nữ, sở Khoa học công nghệ, sở Nông nghiệp…
-Phát động các đợt thi đua “Hướng về phụ nữ và trẻ em nghèo”; làm theo
bác thực hành tiết kiệm, giúp nhau giảm nghèo bền vững (Phụ nữ toàn tỉnh góp
được gần 3 tỷ đồng, hỗ trợ xây mới, sửa chữa 87 gian nhà “mái ấm tình
thương”; tăng 110 con bê sinh sản cho phụ nữ hoàn cảnh khó khăn, 130 suất
học bổng cho trẻ em nghèo vượt khó; bảo hộ hàng tháng từ 50.000đ - 2000.000
một tháng cho 254 phụ nữ và trẻ em nghèo)
- Thực hiện đề án “giáo dục 5 triệu bà mẹ nuôi dạy con tốt”, tổ chức 33
lớp tập huấn cho 2592 báo cáo viên, tuyên truyền viên của Hội để tuyên truyền,
hướng dẫn hội viên phụ nữ, cung cấp tờ rơi, đĩa CD kiến thức nuôi dạy con,
giáo dục trẻ vị thành viên (trên 20 ngàn ông bố,57 ngàn bà mẹ con dưới 16
tuổi, gần 40 ngàn trẻ vị thành niên)
- Thực hiện đề án “Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình hạnh phúc” cuộc
vận động xây dựng gia đình “5 không 3 sạch”; tổ chức các lớp tập huấn chuyên
đề, các cuộc tọa đàm, hội thi “ngày hội gia đình hạnh phúc”
- Khai thác các nguồn vốn cho hội viên vay đẻ phát triển kinh tế (Tổng
dư nợ các cấp Hội tham gia quản lý 1546 tỷ đồng; trên 50.000 hộ vay; vận
động phụ nữ giúp nhau vốn, giống, cây con, ngày công lao động, phương tiện
sản xuất giá trị 100 tỷ động, giúp hơn 12 ngàn hộ phụ nữ thoát nghèo)
- Hỗ trợ phụ nữ sản xuất, kinh doanh, khởi nghiệp (các hoạt động quảng
bá, giới thiệu sản phẩm, gặp mặt nữ chủ doanh nghiệp, thành lập Câu lạc bộ nữ
chủ doanh nghiệp ở các địa phương)
- Xây dựng 98 mô hình tọa việc làm cho phụ nữ sau đào tạo nghề (Hội
LHPN tỉnh & các huyện thành phố), 4 mô hình kinh doanh tập thể (1 hợp tác, 3
tổ hợp tác).
- Ba là, Hoạt động nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Hội LHPN cơ sở.
Đội ngũ cán bộ Hội LHPN cơ sở (xã, phường, thị trấn, chi, tổ, Hội), là
những người trực tiếp triển khai, để tổ chức thực hiện các nghị quyết, chương
trình, kế hoạch hoạt động của hội cấp trên; là nhân tố quyết định chất lượng tổ
chức cơ sở Hội, hiệu quả các hoạt động Hội.
(Được thực hiện qua các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ hàng năm do Hội
LHPN tỉnh, huyện, thành phố tổ chức các lớp bồi dưỡng do Hội LPHN tỉnh
phối hợp với trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tổ chức hàng năm)
Thực hiện đề án “Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho cán bộ Hội
viên cơ sở”
Cử cán bộ Hội tỉnh, huyện trực tiếp hướng dẫn cán bộ cơ sở theo phương
thức “cầm tay chỉ việc”, nội dung theo yêu cầu cần giúp; xây dựng mô hình
“chi hội phụ nữ tiêu biểu” (133 chi hội); giới thiệu, đề xuất với cấp ủy cử cán
bộ Hội đi học các lớp nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị..
Thứ tư, đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong quá trình công tác phụ
nữ & hoạt động của Hội LHPN tỉnh Hưng Yên giai đoạn (2010-2015) của
Đảng bộ tỉnh Hưng Yên.
* Ưu điểm:
- Đã có sự quan tâm lãnh đạo công tác đoàn thể trong đó có Hội LHPN,
cụ thể:
+ Định kỳ 6 tháng yêu cầu Hội LHPN tỉnh đăng ký nội dung cần báo
cáo, xin ý kiến lãnh đạo của Thường trực, Ban Thường vụ tỉnh ủy để bố trí
nghe và có ý kiến lãnh đạo bằng văn bản gửi Đảng bộ các huyện, thành phố,
đảnh bộ khối Doanh nghiệp để tổ chức thực hiện.
+ Các chủ trương, văn bản chỉ đạo của Trung ương về công tác phụ nữ &
hoạt động của Hội LHPN đã được Ban Thường vụ tỉnh ủy cụ thể hóa bằng các
chỉ thị, chương trình hành động, các kế hoạch triển khai, tổ chức thực hiện và
chỉ đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh phối hợp với Hội LHPN tỉnh
triển khai thực hiện, tạo điều kiện để Hội LHPN tỉnh hoạt động, ban hành văn
bản quy định rõ kinh phí tổ chức đại hội phụ nữ các cấp, kinh phí đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ cơ sở (phó chủ tịch Hội LHPN xã, phường, thị trấn, chi hội
trưởng phụ nữ), và các mức kinh phí cho hoạt động của các đoàn thể thôn…
+ Giao cho Ban Dân vận Tỉnh ủy giúp Ban Thường vụ tỉnh ủy theo dõi
nắm tình hình thực tế các chỉ thị, nghị quyết của Đảng liên quan đến công tác
phụ nữ và tình hình hoạt động của Hội LHPN tỉnh để đánh giá trong các kỳ họp
giao ban giữa Thường trực tỉnh ủy với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể (6
tháng/kỳ) để Ban Thường vụ cho ý kiến lãnh đạo.
+ Đã từng bước quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ
nữ vào các chức danh lãnh đạo đảng, chính quyền. Mặc dù tỷ lệ nữ tham gia
cấp ủy nhiệm kỳ 2010-2015 chưa đạt so với yêu cầu của Nghị quyết 17 (cấp
Trung ương và hầu hết các tỉnh, thành phố chưa đạt), song cũng đã tăng so với
nhiệm kỳ 2005-2010.
Nữ cấp ủy: Cấp tỉnh: 7/55=12,7% tăng 0,5%;
Cấp huyện, Tp: 7/444=16% tăng 0,6%
Cấp cơ sở: 793/4450=17,8% tăng 17,8%
Nữ đại biể quốc hôi khóa XIII: 3/7=42,86 tăng 14,26%
Nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp:
Cấp tỉnh: 12/53=22,64% giảm 2,36%
Cấp huyện, Tp: 99/332=29,82& tăng 2,92%
Cấp cơ sở: 1072/4112=26,07% tăng 0,52%
Có 3/10 huyện, tp chủ tịch UBND huyện là nữ Cấp tỉnh trong nhiệm kỳ
luân chuyển công tác đối với 2 đ/c nữ ủy viên và BCH Đảng bộ tỉnh, sau luân
chuyển nay 2 đ/c là ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy.
+ Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã tổ chức các hội nghị triển khai, quán triệt
tổ chức sơ kết, tổng kết các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác phụ nữ, về
công tác dân vận trong đó có nội dung liên quan đến công tác phụ nữ, hoạt
động của Hội LHPN.
+ Tỉnh ủy đã tiến hành một số cuộc kiểm tra cấp ủy, địa phương, sở,
ngành trong thực hiện Nghị quyết số 11 của bộ Chính trị về công tác phụ nữ, và
một số chỉ thị, nghị quyết khác.
+ Hội đồng nhân dân tỉnh đã có nhiều cuộc giám sát việc thực hiện chính
sách liên quan đến lao động nữ, kinh phí hoạt động của các đoàn thể cơ sở
trong đó có hội HLPN tỉnh, cán bộ Hội.
+ Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo Ban Vì sự tiến bộ cảu phụ nữ ban hành
Chương trình hành động Vì sự tiến bộ của phụ nữ hưng Yên.
* Hạn chế:
- Công tác kiểm tra đôn đốc việc thực hiện Nghị quyết số 11 của Bộ
chính trị chưa thường xuyên, nên ở một số địa phương, cơ sở, ngành, hàng năm
chưa cụ thể hóa (thể chế hóa chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy về công tác phụ nữ
thành mục tiêu nhiệm vụ để thực hiện).
- Chưa chú trọng công tác luân chuyển lãnh đạo nữ từ khối Đảng, đoàn
thể sang khối chính quyền, và ngược lại.
- Công tác phát triển đảng viên nữ ở nông thôn và khu vực doanh nghiệp
còn hạn chế.
Hưng Yên, ngày 8 tháng 5 năm 2018
Hoàng Thị Minh Nga
Phục lục 6
CÁC PHẦN THƯỞNG CAO QUÝ
CỦA NHÀ NƯỚC KHEN THƯỞNG HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
TỈNH HƯNG YÊN TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2015
TT Danh hiệu Năm khen
1 Huân chương độc lập hạng Ba 2006
2 Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ 2011
3 Cờ thi đua của Thủ tướng Chính phủ 2014
Nguồn: [119]
Phục lục 7
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH HƯNG YÊN TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2015
Nguồn: [185]
Nguồn: [186]
Nguồn: [187]
Nguồn: [188]