CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
CHIA SẺ PHẬT PHÁP (VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?)
Phật Lịch 2561- Dương Lịch 2017
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
2
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
3
MỤC LỤC
KHAI THỊ CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG ........................................ 9
LỜI NÓI ĐẦU ..................................................................................... 11
PHẦN THỨ I: NHẬN BIẾT MỘT SỐ NGUYÊN TẮC TU HỌC CƠ
BẢN PHẬT DẬY ................................................................................ 14
I. VỚI BẢN THÂN ........................................................................... 15
1. Điều kiện với người tu hành ...................................................... 15
2. Phải thừa nhận thành kiến của mình là sai lầm .......................... 15
3. Phải phát tâm đại thừa ................................................................ 16
II. VỚI DUYÊN (VỚI NGƯỜI) ....................................................... 16
1. Thân cận thiện hữu, thiện tri thức .............................................. 16
1.1. Nhận biết thiện tri thức? ....................................................... 17
1- Thiện tri thức là gì? .............................................................. 17
2- Nói đúng chánh pháp của Như Lai ...................................... 17
* Nhận biết chánh pháp tà pháp ............................................. 18
3- Tuyệt đối không thể hiện thần thông .................................... 21
* Có kẻ vì lợi danh mà thể hiện thần thông ........................... 22
* Hoặc có kẻ vì lợi dưỡng mà tự nói công đức. .................... 24
* Hoặc có kẻ xem tướng, cát hung ........................................ 25
4- Thiện tri thức nói chuyện thường rất khó nghe .................... 25
1.2. Tìm “thiện tri thức” thế nào? ................................................ 25
1- Nên chọn người mà mình kính phục nhất ............................ 25
2- Chỉ có một thầy .................................................................... 26
3- Tại sao đời nay khó gặp thiện tri thức? ................................ 27
4- Không tìm được lão sư tốt thì phải làm sao? ....................... 27
1.3. Thái độ đối với “thiện tri thức” thế nào? ............................. 29
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
4
1- Phải có tâm cung kính .......................................................... 29
2- Phải thật sự cầu học .............................................................. 29
3- Phải y giáo phụng hành ........................................................ 30
4- Gần không khinh lờn, xa không hờn giận ............................ 30
1- Bất luận thế nào cũng giữ niềm tôn kính ............................ 30
6- Thấy Thiện tri thức có vi phạm gì, trọn chẳng nêu bầy ....... 31
2. Phải lìa xa ác tri thức ................................................................. 31
2.1. Nhận biết ác tri thức khi tiếp xúc ......................................... 32
1- Có những người là bạn chán ghét; ....................................... 32
2- Có một số là bạn ưa thích ..................................................... 32
3- Có người ngày ngày nịnh bợ bạn ......................................... 32
2.2. Nhận biết ác tri thức qua hành vi ......................................... 32
1- Những kẻ tu hành những pháp chẳng nên tu ....................... 32
2- Những kẻ giải đãi, biếng nhác, chớ nên thân cận ................ 33
3. Mạt học chọn thiện tri thức cho mình ........................................ 35
1.1. Mạt học gặp được những thiện tri thức nào? ....................... 35
1.2. Tại sao Mạt học chọn Pháp sư Tịnh Không là Thiện tri thức?36
III. VỚI CẢNH (HOÀN CẢNH TU HỌC) ..................................... 37
1. Rời bỏ hết thảy các chúng ồn náo .............................................. 37
2. Phải nên lìa bỏ những nơi ồn náo .............................................. 38
3. Ở riêng chốn thanh vắng, thường xuyên tinh tấn ...................... 39
4. Ở chỗ tịch tĩnh, trong rừng vắng lặng ........................................ 40
5. Ưa thích lặng lẽ .......................................................................... 41
IV. VỚI PHÁP MÔN TU: TỊNH ĐỘ .............................................. 41
1. Khái quát về các pháp môn ........................................................ 41
1.1. Có ba cửa “Giác”, “Chánh”, “Tịnh” .................................... 41
1.2. Vì sao có 3 cửa “Giác, Chánh, Tịnh”? ................................. 42
1.3. Nói về 3 pháp môn ............................................................... 42
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
5
1- Cửa giác ................................................................................ 43
2- Cửa chánh ............................................................................. 44
3- Cửa Tịnh ............................................................................... 45
2. Vì sao tôi chọn pháp môn tu là Tịnh độ? ................................... 46
2.1. Hợp thời ................................................................................ 46
2.2. Hợp căn cơ ............................................................................ 47
2.3. Điều kiện để vãng sanh ........................................................ 47
1- Tâm phải thanh tịnh ............................................................. 47
2- Vì sao lại phải cần tâm thanh tịnh? ..................................... 48
3- Muốn thanh tịnh tâm cần làm gì? ........................................ 49
4- Không cần “đoạn” mà chỉ cần “phục phiền não” ................ 50
5- Cách niệm Phật để hàng phục phiền não ............................. 51
* Cách niệm Phật - Một lòng chuyên niệm ........................... 51
V. PHƯƠNG PHÁP TU ................................................................... 53
1. Phải chuyên nhất ........................................................................ 53
1.1. Một vị thiện tri thức .............................................................. 53
1.2. Một pháp môn tu .................................................................. 53
1.3. Một bộ kinh .......................................................................... 54
2. Huân tu dài lâu, kiên trì nhẫn nại ............................................... 56
VI. THỨ TỰ TU ............................................................................... 57
1. Về nguyên tắc ............................................................................. 57
1.1. Từ tiểu thừa lên đại thừa ...................................................... 57
1- Năm thời kỳ phật nói kinh .................................................... 58
2- Học vị trong nhà Phật ........................................................... 59
1.2. Dùng “Nho gia”, “Đạo gia” có thể thay thế “Tiểu thừa” ..... 60
1.3. So sánh giáo dục của Nho gia, Đạo gia & Phật giáo: .......... 60
1- Giáo dục của Nho gia, Đạo gia ............................................ 60
2- Giáo dục của nhà Phật: ......................................................... 61
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
6
3. Thứ tự tu học .............................................................................. 62
3.1. Học làm người ...................................................................... 63
3.2. Học làm A La Hán: .............................................................. 63
3.3. Học làm Bồ tát: .................................................................... 64
3.4. Học làm Phật: ....................................................................... 64
VII. KHOA MỤC TU: Ngũ khoa tịnh độ ........................................ 64
1. Khóa thứ nhất: Tịnh nghiệp tam phước ..................................... 66
1.1. Phước thứ nhất: .................................................................... 66
1- “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng” ....................... 67
2- “Từ tâm bất sát” ................................................................... 68
3- “Tu Thập thiện nghiệp” ........................................................ 68
2. Từ Khóa mục 2: ......................................................................... 69
VIII. GIÁO TRÌNH TU HỌC .......................................................... 69
Bước 1: Giáo dục nhân quả ......................................................... 69
Bước 2: Tiểu thừa:....................................................................... 70
Bước 3: Đại thừa: ........................................................................ 71
PHẦN THỨ II: VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU? .. 73
1. Về duyên (với người) ................................................................. 73
1.1. Quá nhiều “thiện tri thức” nên loạn tu ................................. 73
1.2. Thường thân cận ác tri thức ................................................. 73
1.3. Dù có tìm được thiện tri thức cũng không thể “Y giáo phụng
hành” (đây là phước đức); ........................................................... 73
1- Hiểu sai nên hành sai ........................................................... 73
* Nói về Tâm Bồ đề: .............................................................. 75
Khi bị người khác lừa dối, hiếp đáp thì thế nào? .............. 75
Buông bỏ thị, phi, nhân, ngã, tham sân, si, mạn ............... 75
Đối với chúng sanh nhân từ, hiếu thiện hiếu đức .............. 76
Niệm niệm vì lợi ích chúng sanh ....................................... 76
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
7
2- Vì giải đãi, biếng nhác mà không thể thực hành; ................ 78
3- Do hoàn cảnh khách quan xoay chuyển: ............................. 78
2. Về cảnh (hoàn cảnh) ................................................................... 78
2.1. Thường thích những nơi xô bồ ồn náo; ................................ 78
2.2. Giải đãi tu định, huệ ............................................................. 78
1- Thích đi làm từ thiện ............................................................ 78
2- Thích đi du lịch các nơi di tích phật giáo, danh lam thắng
cảnh chùa chiền; ........................................................................ 82
3- Thích đến những nơi pháp hội ồn náo ................................. 82
3. Về pháp môn tu .......................................................................... 82
3.1. Chọn pháp môn không hợp thời, hợp cơ; ............................. 82
3.2. Không chuyên nhất một môn, tạp tu: ................................... 82
3.3. Không nhẫn nại trường thời huân tu: ................................... 82
1- Phải an nhẫn với chướng duyên ........................................... 82
2- Phải nhẫn nại với pháp môn tu ............................................. 83
* “…Bốn loại người gặp được pháp môn Tịnh độ ................ 84
4. Thứ tự tu học .............................................................................. 86
4.1. Có người vì vô tình mà không biết thứ tự tu học ................. 87
4.2. Có người cố tình vượt cấp, không tuân theo thứ tự ............. 87
4.3. Kết quả không tuân theo thứ tự tu học ................................. 88
5. Kết luận: Về nguyên nhân & cách giải quyết ............................ 90
5.1. Nguyên nhân sự tu học không thành tựu ............................. 90
5.2. Cách giải quyết: .................................................................... 91
1-Tăng trưởng thiện căn ........................................................... 91
* Làm sao để tăng trưởng lòng tin? ....................................... 91
*Thế nào là tin Phật? .............................................................. 92
2- Phải tích lũy công đức .......................................................... 93
* Để lâm chung thần thức tỉnh táo ......................................... 93
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
8
* Có thiện tri thức nhắc nhở đúng lúc ................................... 95
* Nghe xong có thể thật sự làm theo. .................................... 95
3- Nhân duyên .......................................................................... 95
* Với cảnh (hoàn cảnh): ......................................................... 96
* Với duyên (với người) ........................................................ 97
6. Bí quyết tu hành ......................................................................... 97
6.1. Chính là công phu buông bỏ ................................................ 97
1- Không khống chế người vật việc ......................................... 97
2- Mọi thứ đều nên tan nhạt dần............................................... 98
6.2. Buông bỏ sẽ giúp nhìn thấu.................................................. 98
* Nhìn thấu là trí tuệ .............................................................. 99
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
9
KHAI THỊ CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
“..Chúng ta tu học, bất luận là kinh, luật, luận hoặc
ngữ lụci của tổ sư, người biết học sẽ gạn lấy những khai
thị trọng yếu. Giống như Hoằng Nhất đại sư trích lục
[kinh điển tạo thành] bộ Vãn Tình Tập, Ngài sao chép
lại những giáo huấn trong kinh, luận, ngữ lục đối trị căn
bệnh, tập khí của chính mình.
Mỗi một người sao lục cũng hầu như không giống
nhau vì mỗi người tập khí bất đồng. Tập khí nào nặng
nhất, nếu câu nói này nói đến căn bệnh của ta thì ta bèn
ghi lại, tự mình thường xem, thường dùng nó để phản
tỉnh, kiểm điểm, sửa lỗi đổi mới, đó gọi là “chân chánh
tu hành”.
(trích SADI LUẬT NGHI YẾU LƯỢC – Chủ giảng
Pháp sư Tịnh Không)
***
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
10
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
11
LỜI NÓI ĐẦU
Mạt học bắt đầu học Phật từ những năm đầu của
thập kỷ 80, nhưng thường giải đãi và phóng dật. Cũng
có nghiên cứu kinh điển của Phật và những lời giảng dạy
quý báu của các bậc tổ sư đại đức và cao tăng đương
đại; cũng có nỗ lực hành theo, tuy rằng kết quả chẳng
được là bao.
Khoảng gần 10 năm trở lại đây, Mạt học may mắn
có cơ duyên gặp được giáo pháp của Đại lão Hòa thượng
Thượng Tịnh Hạ Không, cho dù mạt học chưa một lần
đảnh lễ Ngài. Mạt học thấy mình như người đang trong
cơn mê bỗng chợt tỉnh.
Tuy công phu tu tập còn kém cỏi, nhưng con đường
tu học đi qua cũng cảm thấy được lợi ích, trí tuệ dần
được mở mang hơn trước. Có rất nhiều khải thị trọng
yếu của các ngài đã chỉ ra tâm bệnh cho chính mình. Lúc
đó Mạt học mới chợt nhận ra rằng trước đây “Mạt học
không biết rằng mình không biết” mà Mạt học cứ tưởng
Mạt học đã biết hết, đúng hết. May mắn thay Mạt học đã
gặp được “thiện tri thức” cho mình.
Mạt học những muốn ghi lại cuốn sách nhỏ này với
hai mục đích: Ghi lòng tạc dạ lời dậy của Phật, Bồ Tát,
Tổ sư đại đức để tu sửa các tập khí xấu của chính mình
và mục đích thứ hai là muốn chia sẻ cùng các bạn đồng
tu học Phật. Sau đây là những điều mà Mạt học cảm
nhận và ghi lại những giáo pháp trong thời gian học Phật
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
12
với mong muốn để chia sẻ cùng các bạn đồng tu.
Bố cục gồm 2 phần:
- Phần thứ I: Một số nguyên tắc tu học cơ bản Phật
dậy
Khi đã tin vào Phật Bồ Tát thì bất cứ điều gì các
ngài dậy ta đều phải làm theo, có thể những điều ta chưa
hiểu, hoặc theo trí phàm phu của mình ta tưởng là sai,
(hoặc ngược lại), nhưng các ngài bảo đúng thì ta phải tin
và hành theo các Ngài.
- Phần thứ II: Vì sao thời nay tu học ít thành tựu?
Phần này quan trọng nhất, xin chư vị kiên nhẫn đọc
qua, vì đây là những lời giáo pháp vàng ngọc của Hòa
Thượng Tịnh Không mà Mạt học đã trích lục.
Nếu những lời Mạt học chia sẻ trong cuốn sách nhỏ
này có điều gì hữu ích với quy vị đồng tu thì đây chính
là nguyện vọng mà Mạt học hằng trông.
Nếu còn có những điều gì chưa đúng xin quý vị
rộng lòng lượng thứ vì sự kém cỏi của mạt học và
ngưỡng mong quý vị rủ lòng từ mà đóng góp ý kiến để
Mạt học có cơ hội tiếp tục tu sửa mình. Với mong muốn
một ngày nào đó chúng ta sẽ có thể sánh vai các Ngài
Quán âm, Thế chí, Văn Thù, Phổ Hiền Bồ Tát ở Tây
phương Cực lạc thế giới.
Viết xong tập sách nhỏ này Mạt học cảm thấy vô
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
13
cùng xấu hổ vì kiến thức nông cạn của mình, đành rằng
chẳng dám ngước lên nhìn Chư Phật, Bồ tát cùng với
các vị tổ sư đại đức, Hòa thượng Thích Thiện Hoa, Hòa
thượng Thích Thiền Tâm, Hòa thượng Thượng Tịnh Hạ
Không đã từ bi đến cùng tột, khô hơi khản lời khổ công
dạy bảo, mà cũng chẳng dám nhìn lên các bậc lão sư
như Thầy Như Hòa, Thầy Diệu Âm Minh Trị, Thầy
Vọng Tây, đạo hạnh và học vấn thật thâm sâu khó lường
đã khổ công chuyển ngữ vì chúng sanh. Vậy mà học
cũng không xong, trích lục ra cũng không nên hồn.
Ngưỡng mong quý đạo hữu xa gần từ bi lượng thứ.
Nếu có chút công đức nào xin nguyện hồi cho các
chúng sanh tận hư không biến pháp giới để cùng nhau tu
tập đồng thành Phật đạo.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Hà Nội ngày 3/4/2017
Mạt học cúi đầu đảnh lễ
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
14
PHẦN THỨ I
NHẬN BIẾT MỘT SỐ NGUYÊN TẮC TU HỌC CƠ BẢN
PHẬT DẬY
ĐỀ MỤC
1. Với bản thân:
- Phải thừa nhận mình sai.
- Phải phát đại tâm vì chúng sanh.
2. Với duyên (với người)
- Thân cận thiện tri thức.
- Lìa xa ác tri thức.
3. Với cảnh (môi trường, hoàn cảnh)
- Môi trường hoàn cảnh tu phải xa lìa ồn náo
- Ở riêng chốn thanh vắng, thường tinh tấn
4. Pháp môn tu: Tịnh độ
5. Phương pháp tu: Một môn thâm nhập trường kỳ huân
tu (một thiện tri thức, một pháp môn, một bộ kinh, huân
tu dài lâu)
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
15
6. Thứ tự tu: từ thấp đến cao; từ Tiểu thừa đến Đại thừa
7. Khóa mục tu: Ngũ khoa tịnh độ (năm khóa mục tu
tịnh độ).
8. Giáo trình tu: Nhân quả, Tiểu thừa (thay bằng Nho
giáo và đạo giáo), Đại thừa.
I. VỚI BẢN THÂN
1. Điều kiện với người tu hành
Người tu hành phải đủ hai điều kiện:
- Bên trong phải phát tâm Ðại thừa làm chánh
nhơn.
- Bên ngoài, phải nhờ các thiện hữu tri thức,
hướng dẫn đường lối tu hành làm chánh duyên.
Nếu có nội nhơn mà thiếu ngoại duyên, hay có
ngoại duyên mà thiếu nội nhơn đều không thành tựu.
2. Phải thừa nhận thành kiến của mình là sai lầm
- Nhất định phải buông xả đi thành kiến của chính
mình.
- Học tập buông bỏ: Tất cả tri kiến sai lầm, tư tưởng
sai lầm, hành vi sai lầm phải được buông bỏ.
- Phải mau hồi đầu, y theo giáo huấn của Phật Bồ
Tát tu học.
- Phải học tập yêu thương (nhà Phật gọi là từ bi),
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
16
phải học tập khoan dung, khiêm tốn, nhường nhịn.
3. Phải phát tâm đại thừa
- Nguyện suốt đời hy sinh phụng hiến vì chúng sanh
tận hư không pháp giới.
- Nguyện độ tất cả chúng sanh tận hư không pháp
giới đều thành Phật đạo.
II. VỚI DUYÊN (VỚI NGƯỜI)
1. Thân cận thiện hữu, thiện tri thức
“Trong Kinh A Nan vấn Phật Sự Kiết Hung [A Nan
hỏi Phật về họa và phước], câu đầu tiên trên kinh này là
Phật dạy bảo chúng ta phải “thân cận minh sư”. Thân
cận minh sư chính là thân cận thiện hữu, thiện tri thức
mà trên Đại Thừa kinh đã nói.
Kinh Địa Tạng nói, phàm phu trong Lục đạo tánh
thức bất định, cũng giống như trong ngạn ngữ thường
nói “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Câu này ý nói,
chúng ta nhất định bị ảnh hưởng của hoàn cảnh, bị ảnh
hưởng bởi thế giới bên ngoài. Chúng ta làm không được
“Cảnh tùy tâm chuyển”. Thực tế mà nói, chúng ta là
“Tâm tùy cảnh chuyển”. Vì vậy, hoàn cảnh đối với
chúng ta rất quan trọng.
Từ xưa đến nay, các tổ sư đại đức, những người
chân chính có tu hành, có công phu của định huệ, họ có
thể chuyển cảnh giới, họ không bị cảnh giới chuyển. Thế
nhưng họ dạy học sinh, dạy đồ đệ vẫn cứ phải lựa chọn
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
17
hoàn cảnh. Tại sao vậy? Vì những người này là phàm
phu, không thể chuyển được cảnh, nhất định sẽ bị ngoại
cảnh ảnh hưởng, cho nên không thể không chọn lựa
hoàn cảnh. Trong hoàn cảnh tu học, thiện hữu là điều
kiện thứ nhất. Bạn có thể thường xuyên thân cận thiện
tri thức, thân cận lão sư tốt, thân cận đồng tham đạo
hữu tốt, điều này nhất định có sự giúp đỡ cho đạo
nghiệp của bạn”.
1.1. Nhận biết thiện tri thức?
1- Thiện tri thức là gì?
Thiện tri thức, cũng gọi là Thiện hữu, Đạo hữu, là
danh từ chỉ một người bạn đạo. Trong thời Phật giáo
nguyên thuỷ, danh từ này được dùng để chỉ một vị tăng
đầy đủ những đạo hạnh như nắm vững lí thuyết Phật
pháp và tinh thông thiền định, có thể giúp đỡ những vị
khác trên con đường tu học.
Người ta thường phân Thiện tri thức thành ba hạng:
- Giáo thụ thiện tri thức: Là những người có khả
năng hướng dẫn, dạy dỗ trên con đường tu hành, là bậc
thầy.
- Đồng hành thiện tri thức: Là những người đồng
chí, đồng hạnh, tức là người bạn tốt, trung thành.
- Ngoại hộ thiện tri thức: Là những người giúp cho
những tiện nghi, tạo điều kiện tốt cho người tu hành.
2- Nói đúng chánh pháp của Như Lai
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
18
Chỉ y theo pháp Phật, không y vào người (“Y pháp
bất y nhân”): Là một trong “Tứ y pháp” mà Phật dạy.
Pháp là lời Phật nói. Nếu không phải do Phật nói,
mà do người bình thường nói thì lời của người bình
thường nếu nói khác với lời Phật nói thì không được
nương theo, còn như hoàn toàn tương đồng với lời Phật
nói thì có thể nương theo.
Cho nên thiện tri thức phải:
- Nói đúng với chánh pháp của Như Lai, và
- Có thể giải thích các nghĩa lý sâu xa của Phật, và
- Dẫn dắt bạn tu theo chánh Ðạo, và
- Bạn được lợi ích.
* Nhận biết chánh pháp tà pháp
- Chánh pháp: Những điều thiện tri thức dạy bạn
làm cho bạn phiền não ngày càng giảm, trì tuệ ngày
càng tăng trưởng. Chúng ta tiếp xúc tất cả người, sự,
vật, khiến cho chúng ta cảm nhận được tâm địa thanh
tịnh, bình đẳng, giác ngộ, đó là chánh pháp, vậy thì
không sai.
- Tà pháp: Họ cũng nói những điều gần giống như
Phật nói, có khi giống đến 99%, chỉ có 1% là sai khác.
Nhưng họ nói có pháp tốt hơn, nhưng nếu như pháp này
phá hoại tâm thanh tịnh của chúng ta, phá hoại tâm
bình đẳng, làm cho chúng ta mê hoặc điên đảo, cái pháp
này quyết định là tà pháp không phải chánh pháp.
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
19
Sau đây xin trích 2 đoạn mà Pháp sư Tịnh Không
giảng, xin tùy ý hiểu của từng người, và nếu bạn muốn
xem toàn văn lời giảng của ngài trong bối cảnh nào thì
hãy truy cập vào bài đầy đủ mà tôi có trích dẫn ở phần
«footnote»
« …Tôi ở trong một đời này, có người tặng đạo
tràng cho tôi, nhưng tôi không tiếp nhận. Năm ấy, Giản
Phong Văn tặng đạo tràng ở đường Nam Hàng Châu
cho tôi, tôi hỏi ông:
- Có phải anh muốn hại tôi không?
Ông nghe xong, ngớ người ra, nói:
- Pháp sư, sao con có thể hại thầy?
Tôi bảo:
- Anh tặng đạo tràng cho tôi chính là hại tôi.
Tôi hỏi:
- Đạo tràng có cần quản lý, có cần thu chi hay
không?
Ông noi:
- Đương nhiên là phải quản lý, phải thu chi.
- Vậy mà bảo là anh không hại tôi à?
Cuối cùng tôi đưa ra điều kiện với ông:
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
20
- Anh tặng đạo tràng cho tôi thì được, nhưng anh
phải quản lý đạo tràng, anh phải phụ trách thu chi.
Ông gật đầu đồng ý
- Thế thì được.
Tôi vẫn là không quản việc. Việc này giống như nói
là phủ lên cái hư danh mà thôi, cho nên quyết định
không quản việc thì tâm của chúng ta mới có thể chuyên
nhất…”1
« …Hiện tại chúng ta xây đạo tràng có hình thức,
xây được hoa lệ trang nghiêm, xây dựng hình thức cung
điện, cực kỳ hào hoa xa xỉ. Từ trước lão cư sĩ Lý Bỉnh
Nam nói:
- Khi chưa xây xong, mỗi người đều là Bồ Tát, ra
tiền ra sức đến khắp nơi hóa duyên, sau khi xây rồi, mỗi
người đều là La sát, tranh quyền đoạt lợi.
Thế Tôn biết được, cho nên không xây đạo tràng có
hình thức, để mọi người đều làm Bồ Tát. Nếu như Thích
Ca Mâu Ni Phật cũng xây dựng hình thức giống hoàng
cung, e rằng những Bồ Tát ở dưới Ngài cũng đều biến
thành La Sát rồi.
Cho nên bạn nghĩ xem, hành trì của Phật Đà rất có
đạo lý, không xây đạo tràng có hình thức, chân thật
1 Trích Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Giảng Giải – Tập 48 – Chủ
giảng: Tịnh Không Pháp sư - Cẩn dịch Vọng Tây Cư sĩ.
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
21
muốn giảng kinh nói pháp, giáo hóa chúng sanh, nơi
chốn cũng rất nhiều»2.
3- Tuyệt đối không thể hiện thần thông
“…Trong nhà Phật có một qui củ như sau: Phật, Bồ
Tát hóa thân tái lai tuyệt đối không bộc lộ thân phận,
còn như thân phận vừa bị lộ thì nhất định đi ngay, nếu
như thân phận bị lộ mà vẫn chưa đi thì đó là giả không
phải là thật.
Hiện tại chúng ta nghe ở rất nhiều nơi nói vị pháp
sư nào đó là Phật gì đó tái lai, vị cư sĩ nào đó là Bồ Tát
gì đó tái lai. Nói rồi lại không chịu đi, việc này không
đáng tin, nói rồi thì phải đi thì là thật không phải là giả,
còn nói rồi mà không đi là giả, tuyệt đối không phải là
thật…”3.
“Trong kinh Kim Cương Phật có nói “Phật, Bồ tát
thỉnh thoảng thị hiện ra đời để hóa độ chúng sanh, như
đức Di Lặc hay ngài Quán Thế Âm v.v…Nhưng khi các
Ngài hiện ra không ai biết được, chỉ trừ đến khi tịch diệt,
các Ngài mới để lại một vài di tích. Chừng đó người đời
mới biết Phật hay Bồ tát thị hiện; khi biết thì không còn
2 Trích: Phật thuyết đại thừa Vô Lượng thọ - Trang nghiêm – Thanh
tịnh – Bình đẳng – Giác Kinh: Tịnh Không pháp sư chủ giảng – VCD
88- Cẩn dịch Vọng Tây Cư sĩ. 3 Trích: Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh
Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh – Chủ giảng: Pháp sư Tịnh Không (tập 4)
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
22
thấy các Ngài nữa”4.
* Có kẻ vì lợi danh mà thể hiện thần thông
“…Hiện thời, chẳng ít kẻ làm bộ làm tịch, hoặc là
trên thân tỏa ánh sáng, hoặc là rời khỏi mặt đất ba
thước, hiện dáng vẻ rất lạ lùng! [Tỏ lộ] có thần thông
phi phàm, nhằm mục đích nào? Khiến cho mọi người
đến cúng dường kẻ ấy, cho nên làm những trò ảo thuật
đó! Nếu quý vị hỏi: “Thân kẻ ấy có phóng quang hay
không? Có phải là thân có thể rời khỏi mặt đất ba thước
hay không?” Tôi nói cho quý vị biết, có thật đấy! Những
chuyện ấy tuyệt đối chẳng phải là giả! Có một chút tà
thuật thì xác thực là có thể làm được. Tà thuật có thể có
loại thần thông ấy, [người luyện] Khí Công cao minh
cũng có thể làm được, chẳng phải là chuyện khó!
Hiện thời, trong ngoài nước rất phổ biến, hễ gặp
người xuất gia liền hỏi:
- Quý vị có thần thông hay không?
Tôi giảng kinh ở Cựu Kim Sơn, gặp một người đến
từ Đại Lục, ông ta dạy Khí Công tại Mỹ, cũng dùng Khí
Công để chữa bệnh cho người khác. Tôi giảng kinh bên
đó, ông ta đến nghe vài lần, ngồi ở dưới nói với các
đồng tu:
- Vị pháp sư này công phu bậc nhất, thuộc loại cao.
4 Lược giảng Kinh Lăng Nghiêm – Hòa thượng Thích Thiện Hoa
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
23
Tôi giảng xong, [các đồng tu bên ấy hỏi]:
- Pháp sư! Ông đó nói thầy có công phu, có võ
công.
Tôi đáp:
- Tôi luyện công phu là niệm A Di Đà Phật.
Ông ta nhìn vào khí sắc và tinh thần, nhìn từ chỗ
ấy. Người luyện các công phu ấy, đại khái đối với khí
trên thân người (khí cũng là quang), đích xác là có thể
nhìn ra, chẳng phải là gạt người! Kẻ ấy dùng chuyện
này nhằm mục đích cầu tiếng tăm, lợi dưỡng, dùng thủ
đoạn ấy chính là tà mạng!
Từ xưa tới nay, rất nhiều vị cao tăng đại đức có
thần thông hay không? Có. Quý vị đọc Thần Tăng
Truyện trong Đại Tạng Kinh, Huyền Trang đại sư đã thị
hiện thần thông gì? Khi Ngài sang Ấn Độ, trên đường
gặp một cụ già, khoảng một, hai trăm tuổi đang nhập
định ở đấy. Vị lão nhân ấy râu tóc rất dài, công phu
Thiền Định rất sâu, chim làm tổ trên thân. Quý vị ngẫm
xem, cụ đã ngồi ở đó rất lâu, chạm đến vẫn bất động.
Ngài dùng dẫn khánh gõ bên tai cụ, cụ xuất Định. Sau
khi xuất định, Ngài bảo cụ:
- Tôi với ông có duyên, nay tôi sang Ấn Độ thỉnh
kinh, cầu học. Ông hãy nhanh chóng đến đầu thai tại
Trung Quốc, chờ khi tôi trở về, sẽ nhận ông làm đồ đệ,
chúng ta cùng nhau hoằng dương Đại Thừa Phật pháp.
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
24
Huyền Trang đại sư có thần thông nhưng chẳng để
lộ, đích xác là chẳng tỏ lộ tại Trung Quốc, nhưng ở Tây
Vực có chuyện như thế. Trọn chẳng dùng phương pháp
ấy để cầu tiếng tăm, lợi dưỡng, chẳng thể. Nhất là trong
thời kỳ Mạt Pháp, trong thời kỳ Mạt Pháp mà chẳng có
thần thông thì phải làm gì? Phải bày vẽ! Lần trước, họ
mời tôi đến giảng kinh tại sân vận động, muốn phô
trương rầm rộ, tôi đều chẳng cần! Đó là những trò phụ
họa trong diễn tuồng, đích xác là chẳng có ý nghĩa gì!
Chẳng cần làm chuyện phô trương, vì đó cũng là chuyện
thị hiện tướng đặc biệt, lạ lùng…”.
* Hoặc có kẻ vì lợi dưỡng mà tự nói công đức.
[Đây thuộc về khẩu nghiệp]
“…Tuy chẳng hủy báng kẻ khác, nhưng ca ngợi
chính mình: “Ta có bao nhiêu công đức? Ta có thần
thông”, thậm chí còn nói họ là Phật, Bồ Tát nào đó tái
lai. Nói xong, vẫn chẳng tịch. Kỳ quái! Từ xưa tới nay,
hễ có ai nói ra [thân phận thật sự], sau khi nói xong liền
tịch, đó là thật. Nói rồi vẫn sống nhăn, rất kỳ quái, tôi
chưa hề thấy một gương như vậy! Như Di Lặc Bồ Tát thị
hiện thân phận Bố Đại hòa thượng, Ngài tự nói ra. Sau
khi nói xong, bèn tọa hóa, như vậy thì được. Hễ bộc lộ
thân phận, tuyệt đối chẳng còn có thể trụ trong nhân
gian nữa, đó là thật. Tự mình nói ta là Bồ Tát nào đó tái
lai, mà vẫn không đi; đó là một trong các loại tà mạng,
chẳng phải là Chánh Mạng, do vì lợi dưỡng, nên tự khoe
công đức.
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
25
* Hoặc có kẻ xem tướng, cát hung
[Đây cũng thuộc về khẩu nghiệp]. Làm thầy bói,
xem tướng cho tín đồ, xem Phong Thủy, tiên đoán cát,
hung, họa, phước cho họ, nhằm mục đích cầu tiếng tăm,
lợi dưỡng. Đó là loại tà mạng thứ ba…”5
4- Thiện tri thức nói chuyện thường rất khó nghe
Thiện tri thức chân thật, bạn ở chung với họ, họ nói
chuyện rất khó nghe, tại vì sao vậy? Ngày ngày họ nói
lỗi của bạn, đó mới là thiện tri thức chân thật. Chính
mình không biết được lỗi lầm của chính mình, người ta
đến nhắc nhở chúng ta, đây là việc tốt, chúng ta phải
nên cảm kích. Thế nhưng hiện tại có rất nhiều người,
gặp được người thường hay nói lỗi lầm của bạn, bạn
liền hận họ thấu xương, ngày ngày tìm người ta gây
phiền phức, viễn ly thiện tri thức;
1.2. Tìm “thiện tri thức” thế nào?
1- Nên chọn người mà mình kính phục nhất
“Một phần thành kính, được một phần lợi ích, mười
phần thành kính, được mười phần lợi ích”.
Cho nên, người bạn nghe lời 100% chính là người
bạn cung kính 100%; Người mà ngay trong tâm mình
kính phục nói lời đó ra, thì sẽ giống như là được ban
thánh chỉ, bạn liền lập tức y giáo phụng hành. Bạn sẽ
5 Trích: “A DI ĐÀ Kinh sớ sao diễn nghĩa” tập 126 – Chủ giảng Tịnh
Không Pháp sư
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
26
thành tựu.
Còn người mà mình xem thường thì khi họ nói ra thì
mình không thể tin tưởng, không thể tiếp nhận, hơn nữa
còn muốn mắng họ; Nên kết quả không như nhau;
Do đó, bạn muốn biết chính mình tương lai có thể
có được thành tựu hay không rất đơn giản, bạn phải
chính mình trở về nhà cố gắng xét nghĩ lại, xem là vị
thiện tri thức nào mà bạn kính phục, sau đó một lòng
một dạ theo học với ông ấy, như vậy mới không sai lầm
và bạn mới có thể thành công.
2- Chỉ có một thầy
“..Nếu như thiện tri thức mà bạn thích quá nhiều,
vậy thì tâm cung kính đó của bạn không phải là thật, đó
là giả, tâm của bạn là rất loạn, thay đổi không chừng.
Không những Phật pháp bạn không cách gì tu học, thế
gian pháp bạn cũng học không được tốt.
Muốn chân thật có thể học được tốt thì chỉ một vị
thầy. Một vị thầy thì cả đời này của bạn đi một con
đường, con đường này sẽ dễ đi. Nếu hai vị thầy là hai
con đường, hai ngã thì làm sao bạn đi? Ba vị thầy là
ngã ba đường, bốn vị thầy là ngã tư đường, như vậy thì
bạn làm sao mà thành tựu!
Ngày nay người trẻ tuổi ham học rất nhiều, nhưng
vì sao không thể có thành tựu? Đều đang ở ngã tư
đường, không nơi quyết định, lỗi lầm phát sanh ở ngay
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
27
chỗ này...”6
3- Tại sao đời nay khó gặp thiện tri thức?
Thầy tốt có thể gặp, không thể cầu. Nếu chúng ta
muốn hỏi, vì sao cả đời này của chúng ta không gặp
được một thầy tốt? Lời hỏi này cũng có đạo lý.
Thứ nhất: Thầy tốt không dễ gì gặp được;
Thứ hai: Nhưng sau khi gặp rồi, bạn có chịu theo
ông ấy học không? Không chịu theo ông ấy học thì vẫn
là uổng phí;
Cho nên đời này tại sao cả đời này không gặp được
thiện tri thức;
4- Không tìm được lão sư tốt thì phải làm sao?
Vào thời hiện tại người chân thực chứng đắc hầu
như không có, chúng ta không tìm được lão sư tốt thì
phải làm sao?
- Chúng ta tìm trong người xưa, có thể nương theo
người xưa để tu học.
- Những người thành tựu nương theo người xưa
Thứ nhất: Mạnh Tử (372-289 TCN). Tôn Khổng tử
(551-479 TCN) làm thầy Mạnh Tử lúc đó Khổng Lão
Phu Tử đã qua đời rồi. Ông học qua nhưng trước tác
6 Trích: “Khai thị một số vấn đề cơ bản của phật pháp” – Chủ giảng:
Tịnh Không Pháp sư
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
28
của Khổng Tử, ông đọc sách của Khổng tử, có chỗ nào
không hiểu thì thưa hỏi với học trò của Khổng Tử, ông
thành công người Trung Quốc gọi Khổng tử là “Chí
Thánh Tiên Sư”, gọi Mạnh tử là “Á thánh»
Thứ 2: Tư Mã Thiên (145-86 TCN) của nhà Hán.
Thầy của Tư Mã Thiên là Tả Khưu Minh, Tả Khưu Minh
(cùng một thời đại với Khổng Lão Phu Tử), Tư Mã
Thiên đã qua trước tác của Tả Khưu Minh là “Xuân Thu
Tả Truyện”, ông cũng thành tựu một bộ trước tác vĩ đại
“Sử ký Tư Mã thiên”. Lịch sử Trung Quốc bộ đầu tiên
là do ông viết.
Thứ 3: Hàn Dũ (768-824), ông là một trong 8 nhà
đại văn học thời đường Tống. Thầy của Hàn Dũ làTư
Mã Thiên (145-86 TCN). Hàn Dũ đọc “Lễ Ký”, học “Lễ
Ký”, học được rất giống, trở thành đại văn hào.
Những thí dụ trên đều là nói với chúng ta, học một
bộ sách, học với một thầy, bạn mới có thể có thành tựu,
không được học tạp, không được học lộn xộn.
Thứ tư: Ở trong nhà Phật, rõ ràng nhất là đại sư
Ngẫu Ích của Tịnh Độ tông chúng ta. Đại sư Ngẫu Ích
là tổ sư đời thứ 9 tông Tịnh Độ, thầy của ông là Đại sư
Liên Trì, thế nhưng vào thời của Ngẫu Ích Đại sư thì
Đại sư Liên Trì đã vãng sanh rồi. Ông đọc trước tác của
đại sư Liên Trì, ông học được rất giống, học thành công.
Liên Trì là tổ thứ 8 Tịnh Độ, ông là tổ thứ 9 Tịnh Độ.
Tôi cũng giới thiệu cho các vị một vị thầy tốt, còn
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
29
thù thắng hơn pháp sư Ấn Quang. Vị nào vậy? Vô
Lượng Thọ Phật, A Di Đà Phật là thầy giáo tốt của
chúng ta. A Di Đà Phật ở đâu vậy? Kinh Vô Lượng Thọ.
Hiện tại Kinh Vô Lượng Thọ bày ra ngay trước mắt của
các vị, bạn có thể cả đời y theo một bộ kinh này mà tu
học thì bạn chính là học trò của A Di Đà Phật» 7
1.3. Thái độ đối với “thiện tri thức” thế nào?
1- Phải có tâm cung kính
Vì đời mạt pháp “Pháp nhược ma cường”8, nếu
không có minh sư chỉ dẫn, thì hành giả không sao khỏi
bị lạc vào đường tà. Bởi thế nên hành giả phải suốt đời
cung kính phụng sự Thầy.
2- Phải thật sự cầu học
- “Chỉ văn lai học, vị văn vãng giáo” (Chỉ nghe có
chuyện học trò tới chỗ thầy xin học, chưa nghe có
chuyện thầy phải đến chỗ học trò để dạy): Phật pháp là
đạo thầy trò, Phật pháp là sư đạo. Sư đạo là chỉ là đến
cầu học, không phải đến cầu để dạy học. Tức là bạn đến
cầu học, không có thầy giáo chạy đến nhà của bạn để
dạy cho bạn. Đây là đạo lý gì vậy? Thầy giáo đến nhà
của bạn dạy cho bạn thì bạn sẽ không tôn trọng, không
7 Trích: Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh
Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh – Chủ giảng: Tịnh Không Pháp sư
(tập 4)
8 Thế lực của Ma vương mỗi ngày một lớn mạnh, trong khi thế lực của
chánh đạo thì mỗi ngày một thu nhỏ.
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
30
tôn kính đối với thầy giáo, như vậy thì cho dù thầy giáo
có tốt đi chăng nữa, bạn cũng không học được thứ gì;
- Ngoài ra khi bạn đến đạo tràng nghe kinh, niệm
Phật quyết không giống như ở nhà. Vì sao? Từ trường
không như nhau. Đậy là tự lợi;
- Khi bạn đến cầu học, đến đạo tràng nghe pháp thì
bạn chính là đang “Thủ hộ chánh pháp”9, đây là lợi tha.
Trong nhà Phật có câu “Một Phật xuất thế vạn Phật ủng
hộ”;
3- Phải y giáo phụng hành
4- Gần không khinh lờn, xa không hờn giận
Khi thiện hữu tri thức ở gần gũi, chớ nên khinh lờn;
Khi thiện hữu tri thức đi xa, chớ nên hờn giận.
1- Bất luận thế nào cũng giữ niềm tôn kính
Dù cho thiện tri thức làm những điều thuận ý hay
nghịch lòng, cũng phải giữ một niềm tôn kính, tâm như
hư không chớ nên thay đổi.
Trong luận Trí Ðộ nói: “Nếu vị thiện tri thức kia, có
thể giải thích các nghĩa lý sâu xa của Phật, dẫn dắt hành
giả tu theo chánh Ðạo, được lợi ích, thì hànhg giả phải
hết lòng cung kính, như tôn kính Phật, chẳng nên nghĩ
những việc lỗi lầm của thiện hữu tri thức.
Thí như cái đãy xấu đựng ngọc, chớ nên vì đãy xấu 9 “Giữ gìn chánh pháp”
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
31
mà bỏ vật báu. Người có ghẻ lát cầm đuốc đưa hành giả
qua con đường nguy hiểm trong lúc ban đêm, chớ nên
chê người lát mà không dùng đuốc sáng.
Người cầu đạo cũng thế: Khi tìm được thiện hữu tri
thức có thể dẫn dắt hành giả đi trên đường tu hành, thì
hành giả phải trước sau một lòng tôn kính. Khi thiện tri
thức giữ giới thanh tịnh, hành giả cung kính đã đành, mà
khi Ngài vì chúng sanh thực hành theo hạnh “đồng sự
nhiếp” của bồ tát, người cầu đạo không nên thấy thế mà
sanh tâm chấp nhứt và khinh thường.
6- Thấy Thiện tri thức có vi phạm gì, trọn chẳng nêu bầy
“Kiến chư Bồ Tát hữu sở vi phạm, chung bất cử lộ”
(Thấy các Bồ Tát có vi phạm gì, trọn chẳng nêu bày):
“Bồ Tát” ở đây là người hoằng dương chánh pháp. Bất
luận là tại gia Bồ Tát hay xuất gia Bồ Tát, cũng chẳng
cần biết người ấy là Bồ Tát thật hay Bồ Tát giả, miễn
sao những điều người ấy giảng là chánh pháp, chẳng
phải là tà pháp, dẫu cho người ấy có lầm lỗi đi nữa,
cũng chẳng nghe, chẳng hỏi đến, vẫn cứ sanh tín tâm
thanh tịnh, sanh tâm cung kính đối với người ấy. Điều
này rất trọng yếu…”10
2. Phải lìa xa ác tri thức
“…Xã hội hiện tại đối với người học Phật của
10 Trích “Phát khởi Bồ tát chí nhạo thù thắng kinh” Giảng giải – Chủ
giảng Tịnh Không Pháp sư
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
32
chúng ta mà nói, mỗi bước đều là vực thẳm, mỗi bước
đều là hầm lửa, bạn nhất định phải có mắt trí tuệ mới
thấy được rõ ràng tường tận, không đến nỗi đọa lạc,
không đến nỗi bị hãm hại. Bạn phải tỉ mỉ cẩn thận, vì
thiện tri thức ít, ác tri thức nhiều”.
2.1. Nhận biết ác tri thức khi tiếp xúc
1- Có những người là bạn chán ghét;
2- Có một số là bạn ưa thích
“Bạn phải ghi nhớ, bạn ưa thích đó cũng là ác tri
thức, họ đến cung kính bạn, cúng dường bạn, làm cho
bạn bị mê hoặc điên đảo, khiến bạn rơi vào trong tình
thức, hoàn toàn không có trí tuệ;
3- Có người ngày ngày nịnh bợ bạn
Có người ngày ngày đến nịnh bợ bạn, nghe theo
bạn, ở bên tai bạn nói lời dễ nghe, thì bạn ây daz! Đó là
người tốt, kỳ thật người đó mới là chân thật hãm hại
bạn, bạn hoàn toàn không biết.
Họ nói, hành đều không đúng chánh pháp của Như
Lai, cái họ tu, họ dạy bạn “tham, sân, si, mạn”, làm hại
cho bạn, do đó phải xa lìa ác tri thức…”.
Thân cận ác tri thức, viễn ly thiện tri thức, bạn làm
thế nào có được thành tựu?”
2.2. Nhận biết ác tri thức qua hành vi
1- Những kẻ tu hành những pháp chẳng nên tu
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
33
“Ư bất ưng tu, nhi tu hành giả, cập chư lãn nọa,
giải đãi chi thuộc, giai đương viễn ly” [Với những kẻ tu
hành những pháp chẳng nên tu, và những hạng lười
nhác, biếng trễ, đều nên xa lìa]: Hạng người ấy gây trở
ngại cho sự tu học của chúng ta, ta cần phải xa lìa. “Ư
bất ưng tu, nhi tu hành giả” (với những kẻ tu hành
những pháp chẳng nên tu).
Những gì là “Bất ưng tu” (chẳng nên tu)? Bọn họ
hằng ngày tu những gì? Tu tham, sân, si đấy! Tu tham,
sân, si thì quả báo là tam ác đạo. Chúng ta tu hành
mong thành Phật, bọn họ tu hành mong thành ngạ quỷ,
súc sanh, địa ngục, đấy là những điều chẳng nên tu.
Người thế gian tu tam ác đạo rất nhiều, trong số đó
có cả chúng ta nữa! Bởi vậy, chúng ta phải tự phản tỉnh,
phải tự kiểm điểm xem chính mình có tham, sân, si hay
không? Tập khí tham, sân, si của chúng ta có nghiêm
trọng hay không? Nếu đã có mà lại nghiêm trọng nữa
thì phải dùng phương cách đối trị. Dùng phương cách
nào? Đức Phật dạy chúng ta dùng Giới, Định, Huệ để
phá Tham, Sân, Si “và những hạng lười nhác, biếng
trễ”...
2- Những kẻ giải đãi, biếng nhác, chớ nên thân cận
Những kẻ giải đãi, biếng nhác, chớ nên thân cận
(“Bất ưng thân cận giải đãi chi nhân”): Chúng ta thường
thân cận hàng người ấy, họ sẽ ảnh hưởng đến sự tu học
của chúng ta. Chúng ta là phàm phu sơ học, chẳng có
định lực, chẳng có trí tuệ, vì thế giao du phải chọn lựa
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
34
người. Có khá nhiều bạn đồng tu đối với điều này chẳng
hề để tâm cảnh giác, bị hoàn cảnh xoay chuyển, đáng
tiếc vô cùng. Đấy chính là điều ta thường gọi là “nhân
tình, phật sự” nó có ảnh hưởng rất lớn đối với phàm
phu sơ học;
Phạm vi của sự “giải đãi” ấy rộng phi thường, quý
vị có nhận ra chưa? Giải đãi lười biếng có thể là mỗi
ngày ngủ dậy thật trễ hay chăng? Đối với hạng người ấy
đương nhiên quý vị chẳng thể thân cận, họ còn bận ngủ,
họ cũng chẳng kề cận quý vị được. Vậy thì ai mới là kẻ
giải đãi?
Ấn Quang đại sư từng giảng “Kẻ nào ưa đến đạo
tràng, ngày ngày la cà đạo tràng, ngày ngày tìm náo
nhiệt”. Vì sao họ là giải đãi? Họ giải đãi đối với việc tu
đạo, biếng nhác tu định. Kẻ chẳng tu định, tu huệ cứ
ngày ngày đuổi theo náo nhiệt thì gọi là kẻ giải đãi”.
Quý vị xem trong Văn Sao, trong Vĩnh Tư Lục, sẽ
thấy mỗi khi lão đại hòa thượng vừa thấy đệ tử quy y
đến thăm, ngài liền quở mắng:
- Ngươi đến đây làm chi?
- Con đến gặp sư phụ?
- Trước kia ngươi gặp sư phụ rồi, còn đến đây làm
chi nữa?
Ngài quát quay về:
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
35
- Đến chỗ bon chen tâm cũng loạn động theo, bảo
ngươi ở nhà chắc thật niệm phật, ngươi chẳng chịu
niệm, ngươi con muốn đến chùa miếu gặp sư phụ, có gì
hay mà xem?
Đó gọi là giải đãi đãi. Sở dĩ Ấn Quang đại sư nói ra
điều gì ai nấy đều rất tôn kính là vì pháp giáo hóa của
ngài chưa ai đề xướng cả.
Hiện thời các đạo tràng đều mong mỏi tín đồ đông
đảo, tín đồ không đến làm sao duy trì được đạo tràng.
Bởi thế con người hiện tại đều chuộng náo nhiệt, náo
nhiệt chính là giải đãi, đối với tu định, tu huệ, tu tâm
thanh tịnh mà giải đãi. Nên Phật dạy chúng ta chớ nên
thân cận những kẻ như thế, đừng ngày ngày bắt chước
họ khiến cho tâm bị loạn động”11.
3. Mạt học chọn thiện tri thức cho mình
1.1. Mạt học gặp được những thiện tri thức nào?
Mạt học bắt đầu học Phật từ đầu những năm của
thập kỷ 80, nhưng thường giải đãi, phóng dật. Trong quá
trình học Phật của mình, thường tự nhận thấy mình cũng
may mắn có được ba lão sư tốt:
- Vị thứ nhất: Phụ thân của mạt học. Cụ đã dạy cho
Mạt học biết “Ai cũng có thể thành Phật” và cả Mạt
học cũng vậy. Điều này kể như “sấm nổ” bên tai mạt
học. 11 Trích “Phát khởi Bồ tát chí nhạo thù thắng kinh” Giảng giải – Chủ
giảng Tịnh Không Pháp sư
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
36
- Vị thứ hai: Cư sĩ Diệu Âm Minh Trị - Úc Châu:
Mạt học chưa hề có duyên một lần được đảnh lễ Cư sĩ.
Thông qua tác phẩm “Khuyên người niệm Phật” đã cho
Mạt học biết đời này muốn thành Phật thì phải niệm
thánh hiệu A DI ĐÀ Phật.
- Vị thứ ba: Chính là Đại lão Hòa Thượng Thượng
Tịnh Hạ Không. Mạt học cũng chưa từng có dịp đảnh lễ
Ngài, nhưng qua giáo pháp của Ngài12, Mạt học nhận ra
rằng muốn niệm Phật thành tựu thì tâm phải thanh
tịnh. Từ nay đến hết cuộc đời mình, Mạt học chỉ còn
Ngài là thiện tri thức của mình.
1.2. Tại sao Mạt học chọn Pháp sư Tịnh Không là Thiện tri thức?
Thứ nhất: Mạt học nhận thấy giáo hóa của Ngài
theo đúng Luật nhân quả, không hề mê tín.
Thứ hai: Thực sự Ngài là nhà giáo dục, không phải
tôn giáo, thần quyền gì cả.
Thứ ba: Những gì Mạt học biết về phật pháp dù là
nhỏ nhoi, nhưng Mạt học thấy Ngài đều nói y pháp phật
nói (“Y pháp bất y nhân”).
Thứ tư: Chưa bao giờ trong quá trình giảng pháp
của Ngài mà Mạt học được nghe, chưa bao giờ Ngài thể
hiện thần thông hoặc nói mình là này là nọ.
12 Các tác phẩm do Thầy Vọng Tây Cư sĩ cẩn dịch & tiếp đó là các tác
phẩm do Thầy Bửu Quang Tự Đệ tử Như Hòa chuyển ngữ.
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
37
Thứ năm: Hành theo giáo hóa của Ngài tu hành,
Mạt học nhận thấy phiền não ngày một giảm, trí tuệ
được ngày càng mở mang.
Và cuối cùng: Chắc là Mạt học có duyên với Ngài.
“Thiện duyên nan ngộ” vậy mà Mạt học đã có rồi. Việc
thành tựu chỉ còn phụ thuộc vào chính bản thân mình có
chịu tinh tấn y theo giáo huấn của Ngài mà tu hành hay
không?
III. VỚI CẢNH (HOÀN CẢNH TU HỌC)
1. Rời bỏ hết thảy các chúng ồn náo13
“..Không nên ưa thích náo nhiệt, không chỉ có
nghĩa là không ưa thích những nơi ăn chơi vui vẻ trong
thế gian mà đối ngay cả những chỗ hoan hỉ náo nhiệt
nơi cửa Phật cũng chẳng nên ham mê. Nói chung điều gì
trái nghịch với giới, định, huệ, trái nghịch với giác,
chánh, thanh tịnh đều là giải đãi, ồn náo. Bởi thế đoạn
văn này dung hàm ý nghĩa rất sâu rất rộng. Mục đích
chúng ta là cầu giải thoát, cho nên phải hiểu rõ 2 chữ
giải thoát này. “Giải” là cởi mở, cởi mở là gì, cởi bỏ
phiền não, “Thoát” là thoát ly lục đạo luân hồi, mục
đích của việc học Phật là đây. Nếu quí vị chẳng nghĩ
đến giải thoát thì chẳng sao, cứ việc ngày ngày lăn vào
nơi náo nhiệt, còn ai là kẻ mong liễu sanh tử, thật sự
niệm Phật cầu vãng sinh Cực Lạc thế giới thì nhất định
phải tuân thủ lời dạy này.
13 “Xả ly nhất thiết hội náo chi chúng”
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
38
Trước đây trong thời kỳ Phật thất Đàm Hư đại sư
đã từng kể cho chúng tôi nghe đôi ba chuyện cũ, đều là
chuyện thật: Ngài kể một đồ đệ niệm Phật của lão Pháp
Sư Đế Nhàn, xuất thân là thợ đóng đai thùng, niệm Phật
3 năm bèn đứng mà vãng sinh. Người ấy chưa từng đọc
sách, chưa hề biết chữ, chỉ là một người rất chân thật.
Sau khi xuất gia lão hòa thượng chỉ dạy ông ta 6 chữ
“Nam mô A Di Đà Phật” chứ chẳng dạy điều gì khác,
chỉ dặn dò “ngươi cứ niệm một câu Phật hiệu này, niệm
mệt thì nghỉ, nghỉ ngơi xong lại niệm tiếp”. Quả nhiên
người ấy ở trong một tòa miếu hư nát, không ra ngoài
khỏi cửa, niệm một câu Phật hiệu này suốt ba năm,
chẳng bệnh tật gì, biết trước lúc mất, bèn đứng vãng
sinh, vãng sinh rồi vẫn cứ đứng suốt ba ngày để đợi lão
Hòa thượng Đế Nhàn thay mình lo việc hậu sự. Ông ta
dựa vào đâu để thành tựu? Chính là chẳng thân cận kẻ
giải đãi, rời bỏ hết thảy các chúng ồn náo. Bởi thế nói
giải thoát chẳng thoát. Nhưng sao ngày nay chúng ta
học Phật khó khăn đến thế? Đó là vì chúng ta phạm
phải lỗi lầm sau đây: hàng ngày đua theo náo nhiệt, coi
chuyện đua chen nhiệt náo là Phật sự, quý vị nói coi đó
có phải là vớ vẩn hay chăng, quan niệm sai lầm rồi…”
2. Phải nên lìa bỏ những nơi ồn náo14
“…Chúng ta là phàm phu, chẳng phải bồ tát tái lai.
Các vị bồ tát tu hành chẳng giống chúng ta, mà là trong
pháp đại thừa ở trong chỗ náo nhiệt mà lìa náo nhiệt,
chẳng phải là điều người bình thường làm được. Nếu ta 14 “Ưng đương xả ly hội náo chi xứ”
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
39
học đòi các ngài xa lìa ồn náo trong chỗ ồn náo, ta nhất
định đọa địa ngục A Tỳ, bởi thế chắc chắn là chẳng học
được.
“Sơ nghiệp Bồ tát” chẳng giống như “Huệ hạnh bồ
tát”, Huệ hạnh bồ tát phá một phần vô minh chứng một
phần pháp thân. Hạnh của các vị pháp thân đại sĩ nói ở
trong kinh Hoa nghiêm đích thực là “Phiền não chính là
bồ đề, sanh tử chính là niết bàn”.
Chúng ta là sơ học Bồ tát, sanh tử là sanh tử, phiền
não là phiền não, tuyệt đối chẳng thể phiền não chính là
bồ đề, chúng ta làm không được, chúng ta nhất định
phải hiểu rõ thân phận mình như thế nào, trình độ mình
ra sao, phải nên tu học những gì, hoàn cảnh nhất định
ảnh hưởng đến tâm tình chúng ta. Bất cứ hoàn cảnh bất
hảo nào cũng sẽ khiến cho thân tâm ta chẳng đạt được
hoàn cảnh thanh tịnh, nên nhất định phải xa lìa.
Vì thế đức phật mới dạy chúng ta xa lìa những nơi
náo nhiệt xô bồ. [Đây là xa lìa những chốn hội hè, tụ
tập]”…
3. Ở riêng chốn thanh vắng, thường xuyên tinh tấn15
Ấy là thật sự mong liễu sanh tử xuất tam giới, thật
sự mong giải quyết xong vấn đề ngay trong một đời. Quý
vị có nhận biết niềm vui chợt tỉnh, hoàn cảnh thanh tịnh
chính là sự hưởng thọ tối cao của nhân sanh, trong đấy
có niềm vui chân thật. [Đây là chọn nơi tu hành]
15 “Độc xứ nhàn tịnh, thường cần tinh tấn”
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
40
4. Ở chỗ tịch tĩnh, trong rừng vắng lặng16
“…Tuy câu này tựa hồ để nói với người xuất gia,
nhưng người tại gia mà muốn thành tựu thì cũng chẳng
thể tránh khỏi. Bây giờ ta phải hiểu câu kinh này như
thế nào đây? Chính là dạy quý vị phải chọn lựa địa
phương để cư ngụ. Chúng ta ở chỗ nào mới là tốt? Ở
chỗ nào an tịnh thì mới tốt! Người Trung Quốc đặc biệt
những ai sống ở Đài Loan, náo nhiệt đã biến thành thói
quen, đột nhiên thanh tịnh thì tựa hồ chẳng thể chịu
đựng nổi. Chúng tôi ở ngoại quốc thấy người quen sống
ở Đài Loan, đến Mỹ quốc sẽ chẳng thể chịu đựng nổi.
Nước Mỹ rất thanh tịnh, hoàn cảnh cư trú rất êm
đềm. Họ quy hoạch từng khu vực rất phân minh, trong
khu vực buôn bán nhất định không thể ở được, trong khu
vực gia cư nhất định không thể buôn bán được. Họ
mong cầu hoàn cảnh yên vắng, tuy khoảng cách giữa
các nhà lân cận chẳng xa, nhưng nhất định quý vị chẳng
nghe thấy âm thanh nhà hàng xóm. Đấy là hoàn cảnh cư
trú hiện tại của Mỹ quốc, yêu cầu của họ rất phù hợp
với điều được dạy trong kinh này đây. Có những người
Trung Quốc già cả, về hưu, sang Mỹ, sống trong hoàn
cảnh ấy cảm thấy rất tịch mịch, rất quạnh quẽ nên
chẳng sống lâu ở đấy được. Đó đều là vì đã quen ưa chỗ
náo nhiệt, đột nhiên an tịnh bèn chẳng thể chịu được!
Thế nhưng đức Phật dạy chúng ta: người tu hành
16 “Trụ A-lan-nhã, tịch tĩnh lâm trung”
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
41
nhất định phải sống nơi thanh tịnh. “A-lan-nhã”
(Aranya) là tiếng Phạn, có nghĩa là chỗ tịch tĩnh. Thời
cổ, tiêu chuẩn an tịnh là chẳng nghe thấy tiếng trâu
rống. Do người tu hành quá nửa là sống trong vùng núi
hoang, trong thôn quê có nông phu nuôi gia súc. Tiếng
trâu rống vang xa nhất. Chỗ nào chẳng nghe thấy tiếng
trâu rống, chỗ đấy gọi là A Lan Nhã. Chúng ta phải
thấu hiểu ý nghĩa, cảnh giới ấy. “Tịch tĩnh lâm trung”
là chọn lựa chỗ tu học, chọn lựa chỗ cư trú.
5. Ưa thích lặng lẽ17
Phải an trụ tịnh tu, phải biết thân tâm tịch tĩnh
chính là chân lạc...”18
IV. VỚI PHÁP MÔN TU: TỊNH ĐỘ
1. Khái quát về các pháp môn
1.1. Có ba cửa “Giác”, “Chánh”, “Tịnh”
“…Pháp môn vô lượng vô biên, nhưng tựu chung
lại để đi đến cuối cùng đạt được mục đích chỉ có “ba
cửa”, ba cửa này là “Giác, Chánh, Tịnh”.
Cũng giống như bạn muốn đến Hiệp Hội Giáo Dục
Phật Đà Hồng Kông chúng ta, ở trên cái địa cầu này,
bạn là từ 4 phương 8 hướng để đến, lối đi rất nhiều,
nhưng đến được Hiệp hội rồi, bạn có thể vào cửa, nhưng
17 “Nhạo ư điềm mặc” 18 Trích: “Phát khởi Bồ Tát Chí Nhạo Thù Thắng Kinh” – Chủ giảng:
Tịnh Không pháp sư.
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
42
chỉ có 3 để cửa bước vào mà thôi, ba cửa này là cửa
“Giác”, cửa “Chánh”, cửa “Tịnh”…”19
Dù phương pháp, cách thức mà bạn dùng không
giống nhau, nhưng mục tiêu, phương hướng của bạn là
một, thành tựu hoàn toàn như nhau. Nhưng phương
pháp, cách thức khác nhau là bởi vì căn tánh mỗi người
không như nhau, tập nhiễm khác nhau. Thuận theo căn
tánh của mình tu học thì dễ dàng thành tựu, không thuận
căn tánh của mình thì tu học sẽ khó khăn.
1.2. Vì sao có 3 cửa “Giác, Chánh, Tịnh”?
“…Chúng ta đích thực là “Mê” mà không “Giác”,
khởi tâm động niệm là “Tà” mà không “Chánh”, là
“Nhiễm” mà không “Tịnh”. Phật dạy chúng ta từ “Mê”
quay lại nương vào “Tự tánh giác”, từ “Tà tri, tà
kiến”20 quay đầu lại nương vào “Chánh tri, chánh
kiến”, từ tất cả “Ô nhiễm” quay đầu lại nương vào tâm
“Thanh tịnh”, thế là Phật giáo liền có ba pháp môn…”
1.3. Nói về 3 pháp môn
“…Ba cái cửa này, bạn xem thử trình độ của chính
mình, căn tánh của chính mình, xem cửa nào tương đối
dễ vào thì bạn đi vào cửa đó, không nên miễn cưỡng,
miễn cưỡng thì khó. Chúng ta nhất định phải hiểu rõ,
19 Trích: Tịnh Độ Đại Kinh Khoa chú; Phật Thuyết đại thừa Vô lượng
Thọ, Trang nghiêm, Thanh tịnh, Bình Đẳng, Giác Kinh – Chủ giảng:
Tịnh Không Pháp sư.
20 Thấy biết không chánh (không đúng)
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
43
Phật pháp mãi mãi là thuận theo căn tánh chúng sanh
mà chỉ dạy. Loại phương thức này là thuận theo tự
nhiên, không thêm vào mảy may miễn cưỡng, chúng ta
hiện nay nói “miễn cưỡng”, ở trong Kinh Phật nói “ý”,
không thêm mảy may ý nào.
Cho nên nói, Phật không độ chúng sanh, Phật đối
với tất cả chúng sanh, không có mảy may miễn cưỡng,
không có mảy may ý nào. Bạn nói, điều này tự tại biết
bao!...”
1- Cửa giác
“…Trong Phật giáo, các vị nên biết có “Thiền
tông”, Tánh tông là vào từ “Cửa Giác”, cho nên gọi là
“Đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh”. Đó là người
căn tánh lanh lợi nhất thông minh nhất thế gian này mới
có năng lực tu pháp môn này.
Đại sư Huệ Năng Ngài giảng, những đối tượng mà
Ngài tiếp dẫn là thế nào? Người thượng thượng thừa.
Nếu không phải là người thượng thượng thừa thì cửa
này không thể vào được.
Ngày trước khi tôi mới học, lão sư nói với tôi, Ngài
nói: “Thiền thì giống như là gì? Một bước lên trời”.
Nếu bạn có bản lĩnh này thì đương nhiên rất tốt, một
bước thì lên trời. Giống như chúng ta lên lầu cao vậy,
lầu cao mười tầng, nếu bạn có được cái công phu này
(người Trung Quốc gọi là công phu), bạn từ dưới đất
nhảy một cái thì lên đến lầu mười. Vậy thì còn lời gì để
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
44
nói nữa không? Việc này không phải người thông
thường có thể làm được. Thế nhưng nếu bạn chẳng may
không nhảy lên được, rớt trở xuống thì tan xương nát
thịt, tiêu rồi.
Đây không phải là người thông thường có thể làm
được, vì thông thường người trung hạ không có loại căn
tánh này. Vậy thì phải làm sao? Không cần lo có cầu
thang, bạn leo cầu thang từng cấp từng cấp đi lên, chậm
một chút không hề gì…”
2- Cửa chánh
“Giáo hạ”21 là vào từ “Cửa Chánh”, chánh tri
chánh kiến, là nương theo kinh giáo tu hành, dần dần
nâng cao lên, buông xả cõi uế, thì đây là sanh về Tịnh
độ rồi, là người đi cửa chánh, là giáo hạ. Tuyệt đại đa
số người căn tánh trung hạ nên là đi vào cửa chánh.
Cho nên đường đi của Phật rất nhiều, nhưng Giáo
Hạ leo cầu thang thời gian dài, phải ba A Tăng Kỳ kiếp
(ba đại A tăng kỳ kiếp là nói với Sơ tín vị Bồ tát22, còn 21 Ngoài “Thiền tông” ra tất cả các tông phái khác đều là “Giáo hạ” 22 Bồ Tát Sơ Tín Vị, công phu đoạn phiền não của họ bằng với Tu Đà
Hoàn của Tiểu Thừa, sơ quả Tiểu Thừa. Cho nên, nếu bạn chứng được
Bồ Tát Sơ Tín Vị thì bạn vị bất thoái, bạn nhất định sẽ không còn thoái
chuyển trở lại phàm phu. Thế nhưng, vị thứ này trên Kinh nói được rất
rõ ràng, kiến tư phiền não 88 phẩm kiến hoặc đoạn tận, bạn mới có thể
chứng được. Bồ Tát Viên Sơ Tín Vị so với Tu Đà Hoàn sơ quả Tiểu
Thừa thì trí tuệ rất cao, trí tuệ của Tu Đà Hoàn không thể so được với
họ, thần thông đạo lực đều không thể sánh được với họ, chỉ là đoạn
phiền não thì bằng nhau, đoạn phiền não thì bình đẳng. Bồ Tát Sơ Tín
Vị cũng là đoạn 88 phẩm kiến hoặc, Tu Đà Hoàn cũng đoạn 88 phẩm
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
45
đối với địa vị phàm phu chúng ta để lên được Sơ tín vị
Bồ tát là vô lượng kiếp, vì tiến thì ít mà thoái thì nhiều),
đó là nói học giáo.
3- Cửa Tịnh
“…Cửa Tịnh là cửa Mật tông và Tịnh độ, cửa đó đi
là cửa tịnh, tâm thanh tịnh, thanh tịnh, bình đẳng là có
thể vào được là có thể vào được. Phật ở trên kinh Vô
Lượng thọ này nói cho chúng ta mọi phương diện rất
chu đáo, nói rất viên mãn, pháp môn niệm Phật thảy đều
dựa vào “tha lực” (là hoàn toàn phải dựa vào sự gia trì
của Phật Bồ-tát, thần hộ pháp, là môn tha lưc), đều là
nói tâm thanh tịnh, giống như Mật pháp, Mật tông23
cũng là như vậy.
Hai cửa phía trước là hoàn toàn nhờ vào “Tự lực”
thành tựu, khác với cái cửa tịnh này là tha lực gia trì,
hoàn toàn dựa vào Phật lực gia trì.
Niệm A Di Đà Phật, A Di Đà Phật là vào từ “Cửa
Tịnh”, tu tâm thanh tịnh, vậy thì tốt. Chỗ này thực tế mà
nói, bạn là người có công phu cũng được, người không
có công phu cũng được, bạn chỉ cần dùng một câu A Di
Đà Phật tịnh hoá ô nhiễm của bạn.
kiến hoặc, chỗ này thì bình đẳng, những cái khác thì không bình đẳng.
Thánh giả Tiểu Thừa không thể so được với trí tuệ của Bồ Tát.
23 Tuy nhiên, cửa Mật khác cửa Tịnh độ Niệm A DI ĐÀ PHẬT ở chỗ,
niệm hồng danh A DI ĐÀ PHẬT thì tha lực là cả mười phương chư
Phật đồng sở hộ niệm, cửa Mật không như vậy.
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
46
Sau đó chúng ta nương công đức bổn nguyện của A
Di Đà Phật, cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ.
Sanh đến thế giới Cực Lạc, thành tựu của chúng ta,
thọ dụng của chúng ta, so với người căn tánh thượng
thượng căn của thiền tông, cao hơn không biết là gấp
bao nhiều lần. Cho nên pháp môn này là thù thắng
không gì bằng...”24
Nhưng quí vị đồng tu cần phải nhớ kỹ, tuyệt đối
không phải nói chỉ có Thiền tông là tu thiền định, những
pháp môn khác không phải tu thiền định. Chúng ta niệm
Phật “Nhất tâm bất loạn”, chẳng phải là thiền định
sao? Giáo hạ đề xướng “chỉ quán”, chỉ quán chính là
thiền định. “Tam mật tương ưng” của Mật tông, tương
ưng chính là thiền định. Cho nên chúng ta phải biết, tám
vạn bốn ngàn pháp môn là dùng tám vạn bốn ngàn
phương pháp khác nhau, thảy đều tu thiền định…”.
Duy chỉ có khác là Tịnh độ hoàn toàn dựa vào “tha
lực”, còn các môn khác là “tự lực” mà thôi
2. Vì sao tôi chọn pháp môn tu là Tịnh độ?
2.1. Hợp thời
Trong Kinh Đại tập, Phật dạy “Thời kỳ chánh pháp
giới luật thành Phật; Thời kỳ tượng pháp thiền định
thành Phật, thời kỳ mạt pháp tịnh độ thành Phật”;
24 Trích: Phật thuyết Đại thừa Vô Lượng Thọ - Trang nghiêm – Thanh
Tịnh – Bình đẳng – Giác Kinh – Chủ giảng: Tịnh Không pháp sư
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
47
Theo Phật Lịch thì năm dương lịch 2017 là 2561
của Phật lịch: Thời kỳ chánh pháp 1.000 năm, tượng
pháp 1.000 năm, mạt pháp 10.000. Hiện tại đang ở thời
kỳ Mạt pháp 561 năm, do vậy trong thời kỳ Mạt Pháp
này chỉ có Tịnh Độ là thành tựu. Cho nên tôi nghe lời
Phật dậy chọn pháp môn Tịnh độ cho sự tu học của
mình.
2.2. Hợp căn cơ
Pháp môn Tịnh độ phổ độ tất cả chúng sanh trên từ
đẳng giác Bồ Tát, dưới là chúng sanh ở A Tỳ địa ngục.
Không cần thượng căn thượng trí gì cả (“Tam căn phổ
bị, phàm thánh tề thâu”);
Đặc biệt thời kỳ Mạt pháp căn cơ chúng sanh “Hạ
liệt” (thấp kém), “Phước huệ thiển bạc” (phước cạn, huệ
mỏng), “Cấu trọng, chướng thâm” (ô nhiễm nặng,
nghiệp chướng sau dày) chỉ có trung hạ căn, pháp môn
tịnh độ có thể giúp thành tựu đạo quả nhờ vào “Tha lực”
của A DI ĐÀ PHẬT và chư phật, bồ tát hiền thánh tăng
mười phương. Do đó biết mình thuộc loại căn cơ “hạ
liệt” nên tôi chọn pháp môn Tịnh độ.
2.3. Điều kiện để vãng sanh
1- Tâm phải thanh tịnh
« …Tuy nhiên, dù Cực Lạc thế giới của A Di Đà
Phật hoan nghênh mọi người di dân đến bên đó định cư,
rất là hoan nghênh. Thế nhưng điều kiện để di dân là
“Tâm thanh tịnh”, tự bản thân mình thì phải dùng tâm
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
48
thanh tịnh.
Cho nên phải có “tâm tịnh thì cõi Phật tịnh”, còn
nếu tâm không thanh tịnh thì Phật không thể gia trì
được.
«Bạn dùng phương pháp gì đạt đến tâm thanh tịnh
đều được cả, niệm Phật cũng được, tham thiền cũng
được, học giáo cũng được25, trì chú cũng được. Bạn xem
trong kinh văn phần ba bậc vãng sanh của chúng ta:
Thượng, Trung, Hạ là nói cho người niệm Phật, phía
sau còn có một đoạn nói về người tu học các pháp môn
Đại thừa khác, chỉ cần tu đến tâm địa thanh tịnh phát
nguyện vãng sanh thì tất cả đều có thể đi đến thế giới
của A Di Đà Phật..».
2- Vì sao lại phải cần tâm thanh tịnh?
« …Vì Cực lạc thế giới 100% thanh tịnh. Mười
phương cõi Phật đương nhiên rất là trang nghiêm, rất là
thanh tịnh nhưng trong đó ít nhiều vẫn còn có mấy
người khởi vọng tưởng, nhưng chiếm số ít thôi.
Còn thế giới Ta Bà này của chúng ta, chúng sanh
phiền não chiếm đa số, có thể nói là ngay trong một vạn
người chúng ta thì có đến chín ngàn chín trăm chín
mươi chín người đều đang khởi vọng tưởng. Sai biệt lớn
đến như vậy nên cõi Ta Bà là uế độ.
25 Nhưng nên nhớ Tham thiền và học giáo là pháp môn “tự lực” nên
phải đoạn được 88 phẩm “Kiến hoặc”
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
49
Cũng có những thế giới những chúng sanh ở đó có
được phân nửa tâm địa thanh tịnh, còn một nửa là
không thanh tịnh. Như vậy chúng ta xem ra chính là
Tịnh Độ vẫn có thế giới có số ít tâm địa không thanh
tịnh, nhưng chỉ chiếm 10 – 20%, còn tâm địa thanh tịnh
chiếm 80% - 90%.
Không thể giống thế giới Tây Phương Cực Lạc
không có người nào là không thanh tịnh, 100% thanh
tịnh. Cho nên Tâm không thanh tịnh không thể sanh
Tịnh Độ.
Việc này các vị đồng tu phải ghi nhớ, chứ không thể
nói “Tôi niệm Phật thì quyết định sanh Tịnh Độ”.
Không thể có việc đó, bạn một ngày niệm mười vạn
danh Phật hiệu, nhưng trong lòng vọng tưởng không
ngừng thì như người xưa nói “Đau mồm rát họng chỉ
uổng công”. Quả nhiên nếu tâm địa thanh tịnh thì một
ngày chỉ cần niệm mười danh hiệu, hai mươi danh hiệu
cũng được… »26
3- Muốn thanh tịnh tâm cần làm gì?
Muốn vậy bạn chỉ cần buông bỏ chấp trước27 sẽ
được tâm thanh tịnh, sau đó phát nguyện vãng sanh là
được;
“Chính vì vậy mà người niệm Phật thì nhiều mà 26 Trích: “Phật thuyết Đại thừa - Vô lượng thọ - Trang nghiêm - Thanh
tịnh - Bình đẳng - Giác Kinh” – Chủ giảng: Tịnh Không pháp sư. 27 Vì như phần trên đã nói bỏ chấp trước được tâm thanh tịnh, bỏ phân
biết được tâm bình đẳng, bỏ vọng tưởng được «giác».
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
50
người vãng sanh thì ít. Nguyên nhân là gì vậy? Tâm
không thanh tịnh. Đây chính là điểm mấu chốt quyết
định bạn có vãng sanh được hay không.
Cho nên buông xả là quá quan trọng rồi. Niệm Phật
cần phải buông xả tất cả, vì bạn muốn vãng sanh về thế
giới Cực-lạc, bạn phải hiểu cái gì cũng không thể mang
đi được...
Điều này cho thấy tại sao có người vãng sanh, có
người không thể vãng sanh vì cái pháp môn này đến
cuối cùng là buông xả thôi. Buông xả triệt để, không
triệt để thì không được…”
4- Không cần “đoạn” mà chỉ cần “phục phiền não”
« …Trong vô lượng pháp môn khác thì tiêu chuẩn
của họ đều là đoạn phiền não, chỉ có pháp môn niệm
Phật này không cần đoạn phiền não mà chỉ cần yêu cầu
bạn phục phiền não.
Phục phiền não dễ hơn nhiều so với đoạn. Thành
thật mà nói phục phiền não thì mỗi một vị đồng tu đều
có thể làm được, nhưng vấn đề là nếu bạn không chịu
làm thì không cách gì, còn nếu bạn phải chịu làm thì
thảy đều làm đến được. Còn nói đoạn phiền não, đó
không phải là người thông thường dễ dàng làm được.
Vì sao? Vì Kiến Hoặc và Tư Hoặc chẳng dễ diệt trừ.
Cho nên bước đầu tiên chỉ là “phục đoạn” (khuất phục,
chế ngự). Đoạn được Kiến Hoặc và Tư Hoặc liền chứng
quả A La Hán, sanh vào cõi Phương Tiện Hữu Dư.
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
51
Phục làm được, chỉ cần nhớ Phật, niệm Phật công
phu sâu liền có thể phục. Hễ có ý niệm thì là phiền não,
bất luận ý niệm nào, thiện hay ác đều chẳng màng, ý
niệm thứ nhất vừa khởi lên thì ngay lập tức dùng một
câu A Di Đà Phật để đè nó xuống. Cổ nhân ví von:
“Dùng đá đè cỏ”, chỉ cần đè xuống được thì niệm Phật
dễ thành phiến.
5- Cách niệm Phật để hàng phục phiền não
* Cách niệm Phật - Một lòng chuyên niệm
« …Câu Phật hiệu này, Bồ Tát Đại Thế Chí dạy
chúng ta niệm như thế nào vậy? Bồ Tát nói với chúng ta
phương pháp niệm Phật: “Thâu nhiếp lục căn, tịnh niệm
tương tục” (Đóng hết sáu căn, tịnh niệm tiếp nối).
Chúng ta biết chưa? Vậy phải đi làm, bạn niệm câu Phật
hiệu như thế này thì công phu liền tiến bộ, liền có thể
“Hàng phục được nghiệp chướng” của bạn.
Hàng phục được nghiệp chướng thì “Đới nghiệp”
(mang nghiệp) vãng sanh. Đạo lý chính ngay chỗ này.
Nếu như không thể “Hàng phục được nghiệp chướng”
của bạn, bạn niệm câu Phật hiệu này không thể vãng
sanh, người xưa gọi là: “Bạn một ngày niệm mười vạn
câu Phật hiệu, đau mồm rát họng cũng chỉ uổng công”
không thể vãng sanh.
…Công phu Phật hiệu của bạn, nếu có thể hàng
phục được phiền não, ở trong pháp môn niệm Phật của
chúng ta nói: “Công Phu thành khối”. Công phu thành
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
52
khối chính là đem câu Phật hiệu này có thể hàng phục
được phiền não. Phiền não có thể chưa đoạn nhưng làm
cho nó không khởi tác dụng, không khởi hiện hành, đó
là thật dụng công, thật niệm Phật.
Mọi người nên biết, khi trong lòng bạn phiền não
vừa khởi lên, vì sao khởi lên, vừa xem thấy việc vừa
lòng liền khởi lên tham ái, tâm tham khởi lên, liền “A Di
Đà Phật!”, làm cho tâm tham bị đè xuống, “A Di Đà
Phật”, tâm tham lại bị đè xuống, nó không khởi được tác
dụng, đó gọi là công phu; Gặp phải những việc không
vừa mắt, phiền não liền khởi lên, tâm sân hận khởi lên,
“A Di Đà Phật!!!”, lại đè tâm sân hận xuống, lại “A Di
Đà Phật! A Di Đà Phật!”, luôn luôn đè nó xuống, quyết
không để nó khởi tác dụng, đây gọi là niệm Phật.
Niệm Phật không phải là xướng ca, hát để cho A Di
Đà Phật nghe, không phải vậy đâu. Do đây có thể biết
ngay khi trong tâm bạn một niệm không sanh, thì có thể
không cần niệm Phật, vì tâm của bạn thanh tịnh. Còn
như tâm vừa mới động, vội vàng niệm “A Di Đà
Phật!!!”, làm cho phiền não tập khí của bạn “Hỉ, Nộ, Ai,
Lạc, Ái, Ố, Dục”ii thảy đều bị đè xuống, không để nó
khởi tác dụng, con người này gọi là người niệm Phật.
Đây chính là phương pháp “Sám trừ nghiệp chướng
hàng phục phiền não”, không thể để nó khởi tác dụng.
Tịnh Tông chúng ta như vậy, pháp môn nào không
là như vậy. Trong nhà Phật thường nói “Không sợ niệm
khởi, chỉ sợ giác chậm”. “Niệm” ở đây chính là phiền
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
53
não khởi hiện hành, còn nếu bạn không khởi hiện hành,
vậy thì bạn chính là Phật Bồ Tát tái lai, thì bạn làm gì là
phàm phu, là phàm phu nhất định sẽ khởi hiện hành;
Vấn đề là bạn phải giác được nhanh. Giác rồi, giác
thì đối trị mê, cái giác này chính là đại biểu pháp môn
công phu tiến bộ, công phu niệm Phật của chúng ta.
Giác chính là câu Phật hiệu có thể đề khởi ở ngay nơi
cửa ải quan trọng, Phật hiệu đề khởi lên làm cho phiền
não bị chế phục. Rất quan trọng, mọi người phải biết
niệm như vậy. Cái công phu này dùng lâu rồi thì sanh ra
sức mạnh thì liền được Nhất Tâm Bất Loạn.
Công phu thành khối mỗi một người chúng ta cũng
sẽ cạn sâu không đồng nhau, cho nên trong cõi Phàm
Thánh Đồng Cư mới có ba bậc chín phẩm, nếu bạn
không làm đến được trình độ như vậy, thì bạn không thể
vãng sanh. Đó là việc chúng ta không thể không
biết… ».
V. PHƯƠNG PHÁP TU
“Một môn thâm nhập, trường kỳ huân tu”
1. Phải chuyên nhất
1.1. Một vị thiện tri thức
Học Phật sau khi đã tìm được “Thiện tri thức”, chỉ
thân cận với một “Thiện tri thức”.
1.2. Một pháp môn tu
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
54
Mà còn phải chuyên tu một pháp môn thì bạn mới
có thể có thành tựu. “Một môn thâm nhập, trường kỳ
huân tu”;.
1.3. Một bộ kinh
“..Kinh Vô lượng thọ này là có cả Nhân và Quả,
không gì bằng. Kinh có Nhân có Quả có mấy loại vậy?
Ngoài bộ kinh Vô Lượng Thọ này của chúng ta ra còn
Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa có Nhân có Quả, còn
trong các kinh khác đều không có. Cho nên từ xưa đến
nay các tổ sư đại đức dường như đều công nhận “Hoa
Nghiêm” “Pháp Hoa” là Nhất Thừa giáo. Pháp Nhất
Thừa trên cả Đại Thừa. Ngoài ra còn có một bộ kinh
“Kinh Phạm Võng” cũng là thuộc về kinh Nhất Thừa.
Cho nên các tổ sư đại đức thời xưa công nhận kinh Nhất
Thừa ở Trung Quốc chỉ có ba loại trên.
Tuy nhiên, riêng quyển “Kinh Vô Lượng Thọ” này
lại là Nhất Thừa ngay trong Nhất Thừa. Vì sao vậy?
“Hoa Nghiêm” đến sau cùng “Mười đại nguyện vương
cầu về Cực Lạc” mới viên mãn thành Phật. Còn quyển
kinh này mỗi câu, mỗi chữ đều là nói Phật quả cứu cánh
nên “Hoa Nghiêm” cũng quy về “Vô Lượng Thọ” cho
nên Ngài mới nói bộ kinh này là Nhất Thừa ngay trong
Nhất Thừa, Vô Thượng Thừa.
Ngày nay chúng ta có may mắn gặp được Kinh này,
cũng có thể nói thiện căn phước đức nhân duyên trong
vô lượng kiếp đã chín muồi. Tuy nhiên, có một số người
gặp được kinh này vẫn không tin tưởng. Đúng! Họ
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
55
không tin tưởng là phải. Vì sao là phải vậy? Pháp khó
tin đó mà. Nếu họ vừa tiếp xúc thì liền tin tưởng, vậy
Thích Ca Mâu Ni Phật nói là pháp khó tin thì lời nói
không thông rồi vì thông thường mọi người đều tin
tưởng mà, vậy có cái gì là khó tin đâu. Nhưng trên thực
tế người thông thường khó tin. Người thông thường sau
khi học rồi thì thoái tâm.
Nay chúng ta y theo một bộ kinh Vô lượng Thọ này
thì đủ rồi. Nếu như bạn nói bộ kinh này quá ít, e rằng
không đủ, thì trong bộ kinh này mỗi câu, mỗi chữ đều là
pháp luân viên mãn, không những là tất cả pháp mà Thế
Tôn đã nói trong 49 năm đều nằm ở ngay trong mỗi câu,
mỗi chữ của bộ kinh này, mỗi chữ là viên mãn, cho dù là
mười phương ba đời, tất cả chư Phật Như Lai nói ra
pháp tạng vô tận cũng không vượt ra khỏi “Kinh Vô
Lượng Thọ”. Cái đạo lý này, chân tướng sự thật này,
chúng ta phải tường tận phải thông đạt, sau đó bạn mới
có thể hết lòng hết dạ một môn thâm nhập, chúng ta mới
có thành tựu, thật gọi là “Một kinh thông, tất cả kinh
thông”.
Có thể nói ngay chỗ này, hiển thị rõ ràng bộ kinh
này là độ đồng tu tại gia. Đồng tu tại gia ở trong một
hoàn cảnh rất phức tạp mà đều có thể một đời viên mãn
thành Phật, huống hồ là người xuất gia? Xuất gia thì
chẳng phải càng dễ dàng hơn sao? Đây gọi là “phổ
độ”, có nghĩa là không một chúng sanh nào là không
được độ. Cái điển tích này thực tế ra mà nói vi diệu đến
cùng tột, thù thắng đến cùng tột, cứu cánh viên mãn đến
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
56
cùng tột.
Thành tựu gì vậy? Được tâm thanh tịnh. Các vị nên
biết thành tựu là bạn được tâm thanh tịnh. Hiện tượng
của tâm thanh tịnh là phiền não giảm, trí tuệ tăng
trưởng, vậy thì có được thọ dụng. Vì tất cả vấn đề của
thế xuất thế gian, chỉ có trí tuệ mới có thể giải quyết,
ngoài trí tuệ ra không có phương pháp thứ hai có thể
giải quyết vấn đề; Cho nên Phật pháp giảng về trí,
giảng về giác, không thể thiếu thứ này, phải chánh giác.
Ngày nay người thông minh rất nhiều, đặc biệt là
nhà chính trị, mỗi người đều cho rằng mình rất thông
minh, nhưng họ lại làm cho xã hội càng ngày càng thêm
loạn, lão bá tánh càng ngày càng thêm khổ. Nguyên
nhân gì vậy? Trong trí tuệ xen tạp cả phiền não, vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, những thứ này chưa dứt,
cho nên khởi tâm động niệm thì họ liền nghĩ đến lợi ích
của ta, ngã chấp của họ đang tồn tại.”28
2. Huân tu dài lâu, kiên trì nhẫn nại
“…Cách tu, tu hành thời gian phải rất dài, pháp
môn bất cứ một pháp môn nào, đều có độ sâu của nó,
đều có độ rộng của nó, không phải thời gian ngắn mà có
thể tu tập thành tựu, phải tu tập thời gian dài, còn phải
thân cận thiện tri thức.
Nhất định phải hiểu được “Một môn thâm nhập,
28 Trích Phật thuyết Đại thừa Vô Lượng Thọ, Trang nghiêm, Thanh
tịnh, Bình đẳng giác Kinh – Chủ giảng: Tịnh Không Pháp sư
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
57
huân tu dài lâu” chúng ta mới có thành tựu chân thật.
Cũng giống như chúng ta đào giếng lấy nước, bạn ở
ngay một chỗ này cứ đào thẳng xuống, cái giếng của
bạn đào được càng sâu, thì nguồn nước sẽ càng phong
phú, nước trong bốn biển lớn bạn cũng đều có được.
Xem độ sâu của bạn thôi, viên dung tất cả pháp, bạn
đào cạn thì không được, mùi vị của giếng cạn sẽ không
giống như mùi vị của cái giếng sâu, cứ hướng xuống sâu
mà đào, nếu mỗi miệng giếng đều đào được sâu đến như
vậy thì mùi vị sẽ hoàn toàn khác. “Phật Phật đạo đồng”,
chỉ sợ là bạn “đào” không đủ sâu…”
VI. THỨ TỰ TU
Từ thấp đến cao: Tu học nhất định từ nơi cạn đến
sâu, từ thấp đến cao, không thể vượt bậc. Vượt bậc nhất
định tu không thành tựu được.
1. Về nguyên tắc
1.1. Từ tiểu thừa lên đại thừa
“…Phật dạy: “Bất tiên học Tiểu Thừa, hậu học
Đại Thừa giả, phi Phật đệ tử” (Nếu trước hết không
học Tiểu Thừa rồi mới học Đại Thừa thì không phải là
đệ tử Phật). Trước hết học Tiểu Thừa, sau đó học Đại
Thừa, tức là chiếu theo thứ tự thuận, tu học theo lớp
lang, như thế là đệ tử Phật.
Cho nên Phật nói kinh cũng chia thành 5 thời từ
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
58
Tiểu thừa lên Đại thừa…”29
1- Năm thời kỳ phật nói kinh
1) Thời thứ nhất: Phật nói Kinh Hoa-Nghiêm: 21
ngày – Đại thừa; “Hàng Nhị thừa như đui như
điếc”.
2) Thời thứ hai: Phật nói Kinh A-Hàm: 12 năm -
Quay về Tiểu thừa.
3) Thời thứ ba: Phật nói Kinh Phương Ðẳng: 8 năm
– Dẫn từ Tiểu thừa lên Đại Thừa.
4) Thời thứ tư: Phật nói Kinh Bát Nhã: 22 năm - Đại
thừa.
5) Thời thứ năm: Phật nói Kinh Pháp Hoa và Niết
Bàn: 8 năm: Sự hóa độ một đời của Ðức Phật gần
viên mãn, Ngài nói rõ bản hoài của Ngài thị hiện
ra đời là vì một nguyên nhân lớn: “Khai thị chúng
sanh ngộ nhập Phật tri kiến”.
Nếu dùng lời hiện tại mà nói, là Ngài có kế hoạch,
có giáo học khoa hệ, trước lập tiểu học, tiếp theo lập
trung học, lại lập đại học, lập Sở nghiên cứu, Ngài là
như vậy mà mở lớp.
- Tiểu học: Giảng “Kinh A Hàm” 12 năm, 12 năm
này chính là tiểu học.
- Trung học: Phương Đẳng 8 năm, Phương Đẳng
giống như trung học, phía trước thông tiểu thừa, phía sau
29 Trích: Sa Di Luật nghi yếu lược – Chủ giảng: Tịnh không pháp sư
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
59
thông đại thừa, cũng chính là lớp trù bị của đại thừa (đại
thừa giống như là đại học), đây là trung học, đây đều
thuộc về giáo dục nền tảng. Tiểu học, Trung học tổng
cộng là 20 năm, tiểu học 12 năm, trung học 8 năm.
- Đại học: Giảng Bát Nhã, đại học 22 năm.
- Sở Nghiên cứu: Giảng Pháp Hoa, Niết bàn – 8
năm. Đó giống như là Sở nghiên cứu, đem phía trước
thảy đều quy về nhất thừa. Phía trước bạn thấy, tiểu
thừa, đại thừa, đến sau cùng Pháp Hoa quy nhất, gọi là
nhất thừa.
Nhất thừa là cái gì? Mục tiêu sau cùng đều là hy
vọng mọi người mỗi mỗi đều chứng được Bát Niết Bàn.
Đây là lấy được bằng tốt nghiệp. Bát Niết Bàn là tiếng
Ấn Độ, dịch thành ý nghĩa Trung văn là “Viên tịch diệt
độ”. Diệt cái gì? Phiền não, sanh tử thảy đều diệt hết rồi.
Không sanh không diệt, đó là Niết Bàn, cũng chính là
siêu việt sáu cõi, siêu việt mười pháp giới. Cho nên nó
đích thực là giáo dục.
2- Học vị trong nhà Phật
Trong Phật pháp xưng là Phật đà, xưng là Bồ tát,
xưng là A la hán, cách xưng hô đó là gì? Đó là một sự
thành tựu của họ cũng giống như hiện nay chúng ta học
ở trường trong đại học thì có Học sỹ, có Thạc sỹ, có
Tiến sỹ danh xưng của học vị.
Trong Phật giáo dục học vị cao nhất là Phật Đà, học
vị thứ hai là Bồ Tát, thứ ba là A La Hán. A La Hán chỗ
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
60
thành tựu là Chánh giác, Bồ Tát chỗ thành tựu đó là
Chánh Đẳng Chánh Giác. Tối cao đó là Vô thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác không còn cao hơn nữa. Vô
thượng chánh đẳng Chánh giác xưng là Phật đà. Chánh
đẳng Chánh Giác xưng là Bồ Tát chánh đẳng chánh giác
xưng là A La Hán cũng xưng là Bích Chi Phật là danh
xưng của học vị.
1.2. Dùng “Nho gia”, “Đạo gia” có thể thay thế “Tiểu thừa”
“..- Phật dạy trước học Tiểu Thừa, sau đó học Đại
Thừa, tức là chiếu theo thứ tự thuận, tu học theo lớp
lang, như thế là đệ tử Phật.
- Tuy nhiên, Tiểu Thừa ngày nay ở Trung Quốc đã
không còn. Nguyên nhân ấy chính là vì người xưa đọc
những sách vở của Nho Gia, Đạo Gia Trung Quốc,
Khổng Tử, Lão, Trang. Những điều Khổng Tử, Lão,
Trang nói quả thật không kém Tiểu Thừa. Nói cách
khác, “Tiểu thừa” đã bị Nho Gia, Đạo Gia Trung Quốc
thay thế.
Do vậy, nếu từ Nho, Đạo mà vào Phật pháp, chẳng
cần phải học pháp Tiểu Thừa, trực tiếp tiến vào Đại
Thừa, đạo lý là như vậy…30”.
1.3. So sánh giáo dục của Nho gia, Đạo gia & Phật giáo:
1- Giáo dục của Nho gia, Đạo gia
“…Trung Quốc từ Hạ, Thương, Chu ba đời, mãi
30 Trích: Sa di luật nghi yếu lược – Tịnh Không pháp sư chủ giảng
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
61
đến cuối đời nhà Thanh (Từ thế kỷ 21 TCN đến thế kỷ
16), tông chỉ giáo dục không hề cải biến, chỉ là ba việc:
- Điều thứ nhất: Dạy bạn hiểu rõ quan hệ giữa
người và người, bạn phải nên làm người như thế nào.
- Điều thứ hai: Dạy bạn quan hệ giữa con người
với hoàn cảnh tự nhiên.
- Điều thứ ba: Dạy bạn hiểu rõ quan hệ giữa con
người và thiên địa quỷ thần.
Bạn có thể thông đạt tường tận thì bạn chính là
thánh nhân.
2- Giáo dục của nhà Phật:
Cũng là ba sự việc này [nhưng đã nâng cao, cho
nên đích thực Nho gia và Đạo gia là tiểu thừa]. Nhà
Phật cho dù là Tiểu thừa hay Đại thừa, cho dù là tông
phái nào, tông chỉ của giáo dục cũng là ba điều:
- Giai đoạn thứ nhất: “Chuyển ác làm thiện”:
Trong “Ngũ thừa”31 Phật pháp là “Nhân, Thiên thừa”,
bạn không thể đọa vào ba đường ác.
- Giai đoạn thứ hai: “Chuyển mê thành ngộ”: Bạn
liền có thể siêu việt sáu cõi luân hồi, siêu việt ngoài ba
cõi, làm A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Phật (Phật ở
trong thập pháp giới).
31 Thừa là cỗ xe giúp đỡ bạn thành tựu đạt đến một giai đoạn nào đó:
Thiên thừa, Nhân thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ tát thừa
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
62
- Giai đoạn thứ ba: “Chuyển phàm thành Thánh”:
Đó chính là siêu việt mười pháp giới, trên kinh Hoa
Nghiêm đã nói là Pháp Thân Đại Sĩ (Viên giáo sơ trụ Bồ
Tát)32.
3. Thứ tự tu học
“Tiến sĩ Nguy tư – Hoa kỳ ông nói: “Con người đến
thế gian này vốn dĩ nhằm mục đích học tập.
Học tập cái gì?
- Học tập buông bỏ. Tất cả tri kiến sai lầm, tư tưởng
sai lầm, hành vi sai lầm phải được buông bỏ33.
- Phải học tập yêu thương, nhà Phật gọi là từ bi;
phải học tập khoan dung, khiêm tốn, nhường nhịn”34. Và
muốn học tập những thứ này trước hết hãy học Đệ Tử
Qui, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp. Đó là những
bài khóa nhân gian cần thiết.
- Khi học tốt, bạn liền tốt nghiệp lên lớp, sẽ không ở
lại cõi người nữa mà đi đến cõi trời. Cõi trời có bài
khoá của cõi trời, từng bước từng bước hướng lên trên.
- Đến khi bạn học tốt tất cả bài khoá trong vũ trụ
này, bạn được tốt nghiệp. Lúc đó, bạn còn phải đến
nhân gian này làm việc gì? Giáo hoá chúng sanh, dạy 32 Trích: Thái thượng cảm ứng thiên Giảng giải – Tịnh Không pháp sư
chủ giảng
33 Đây chính là buông bỏ ngã mạn
34 Đây chính là buông bỏ tham
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
63
bảo những người này, giúp đỡ những người kia. Sau khi
bạn tốt nghiệp, thừa nguyện tái lai, phổ độ chúng sanh.
- Còn chưa tốt nghiệp, bạn phải trở lại nhân gian
này, tôi thường hay gọi đó là hiện tượng bị lưu ban. Vì
chưa học tốt nên bạn vẫn phải tiếp tục học.
Nếu học không tốt, phạm phải lỗi lầm nghiêm trọng,
bị giáng cấp, bạn sẽ bị giáng xuống súc sanh, ngạ quỷ,
địa ngục…”
3.1. Học làm người
Bước thứ nhất nhà Phật nói “Đoạn ác tu thiện, bạn
được thân trời người”.
Nhưng vấn đề là ở chỗ bạn chẳng biết thế nào là
Thiện, là Ác, bạn toàn dùng trí phàm phu của mình để
đánh giá thiện và ác. Tâm bạn là xao động (không phải
thanh tịnh như Phật Bồ tát, cổ thánh tiên hiền) cho nên
kiến giải của bạn thường sai lầm, vậy thì làm gì mà
không tạo nghiệp.
Cho nên bạn phải Học Đệ tử quy, Thái Thượng
Cảm Ứng Thiên. Đây là khoá trình cơ bản. Khóa học
nhân gian cần thiết. Không học tốt khóa trình cơ bản này
thì khi lên trên sẽ không cách gì học.
Do đó, hiện tại Đệ Tử Qui, Thái Thượng Cảm ứng
Thiên là bài khóa của cõi người.
3.2. Học làm A La Hán:
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
64
Buông bỏ chấp trước - Học “Thập thiện nghiệp
đạo”
3.3. Học làm Bồ tát:
Buông bỏ phân biệt – Bạn phải dạy học để phá bỏ
Sở Tri chướng.
3.4. Học làm Phật:
Từ Bồ tát phẩm vị 11 (Viên giáo sơ trụ Bồ tát) lên
quả vị Phật phải buông bỏ nốt tập khí vọng tưởng -
Không có cách đoạn, để lâu tự hết gọi là “Nhậm vận”
(Tùy ý)
VII. KHOA MỤC TU: Ngũ khoa tịnh độ
ĐỀ MỤC
1. Khóa thứ nhất: “Tịnh nghiệp tam phước”
1) Phước thứ nhất (Phước trời người): Hiếu
dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm
bất sát, tu thập thiện nghiệp.
2) Phước thứ hai (Thanh văn, duyên giác): Thọ
trì tam quy, giữ gìn giới cấm, bất phạm oai
nghi.
3) Phước thứ 3 (Phước Bồ tát đại thừa): Phát
tâm bồ đề, thâm tín nhân quả, đọc tụng đại
thừa, Khuyến tấn hành giả.
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
65
2. Khóa thứ 2: Lục hòa
1) Kiến hòa đồng giải
2) Giới hòa đồng tu
3) Thân hòa đồng trụ
4) Khẩu hòa vô tranh
5) Ý hòa đồng giải
6) Lợi hòa đồng huân
3. Khóa thứ 3: “Tam học Giới-Định-Tuệ”
4. Khóa thứ 4: “Lục độ”
1) Bố thí
2) Trì giới
3) Nhẫn nhục
4) Tinh tấn
5) Thiền định
6) Trí tuệ
5. Khóa thứ 5: Mười đại nguyện vương của
Phổ hiền Bồ tát
1) Lễ kính chư phật
2) Xưng Tán như lai
3) Quảng tu cúng dường
4) Sám hối nghiệp chướng
5) Tùy hỉ công đức
6) Thỉnh chuyển pháp luân
7) Thỉnh phật trụ thế
8) Thường tùy học phật
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
66
9) Hằng thuận chúng sanh
10) Phổ giai hồi hướng
1. Khóa thứ nhất: Tịnh nghiệp tam phước
“…Đây là nguyên tắc chỉ đạo cao nhất của học
Phật, là tịnh nghiệp chánh nhân của chư Phật mười
phương ba đời. Tất cả Bồ-tát thành Phật đều phải tuân
thủ ba điều này, cái này là gốc của giới luật”;
Vô lương vô biên phap môn đêu có thể viên thanh
Phật đao, nhưng tất cả đêu la xây dưng ơ trên cơ sơ cua
“Tam phươc”. Nếu xa lia “Tam phươc” thì bât kê tu
hoc phap môn nao cũng đêu không thê thanh tưu.
Cho nên, tu hanh băt đâu la chư hiêu, đên viên man
vân la đao hiêu. Phật phap không co noi gi khac, tư đâu
đên cuôi chi la hanh hiêu, tân hiêu ma thôi.
Co mây ngươi hiêu đươc đao ly nay? Tai sao không
hiêu vây? Vì tư chung đê tư chúng ta chưa lam tron
trach nhiêm, đăc biêt la đê tư xuât gia chưa noi ro rang,
ban thân cung chưa lam đươc, ngay ca khai niêm của
chữ “Hiêu” con không co…”
1.1. Phước thứ nhất:
“Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ
tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp” (Đây là giai đoạn
“Đoạn ác Tu thiện” – Được thân trời người)
“..Ở trong đây chữ cần đặc biệt chú ý chính là chữ
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
67
“thiện”. Tiêu chuẩn của chữ thiện này là gì? Chính là
phước thứ nhất trong tịnh nghiệp tam phước “Hiếu
dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu
thập thiện nghiệp”; Còn ta tự mình cho rằng mình thiện,
cái này không được, vì đây là dùng tiêu chuẩn của mình,
cần phải dùng tiêu chuẩn của Phật, tiêu chuẩn tuyệt đối
của Phật chính là thập thiện nghiệp đạo.
Cho nên trước tiên phải nắm được chữ “thiện”.
Đây chính là điều chúng tôi gần đây nhất (cũng gần 20
năm) đề xướng 3 cái gốc của Nho Thích Đạo35.
Đây là thiện pháp thế gian, chúng ta thực tiễn vào
ba cái gốc của “Nho, Thích, đạo”:
1- “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng”
Học ở đâu? Ở “Đệ Tử Quy”, thì hai câu đầu này
làm được rồi. Đệ Tử Quy chính là học lễ:
Từ trên tướng mà nói không có phân biệt, người
thiện người ác đều phải cung kính, từ người cung kính
ta, yêu thương ta, đến người hiểu lầm, phỉ báng, hãm
hại ta đều phải cung kính. Vì bổn tánh của họ là Phật,
họ làm ác là tập tánh của họ, tập tánh thiện có thể biến
thành ác, ác có thể biến thành thiện, thiên biến vạn hóa.
Bạn phải học từ trên Phật tánh, bạn mới có thể
thành được Phật. Bạn dùng tập tánh đi học Phật thì
35 Trích: Tịnh độ Đại kinh khoa chú – tập 11- Tịnh Không pháp sư chủ
giảng
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
68
không học được, học cả đời cũng không học được.
Đây là tiêu chuẩn thấp nhất, là để tất cả chúng sanh
người người đều có thể phải làm đến được tiêu chuẩn.
Không có cái tiêu chuẩn này thì ngay Khổng Tử, Mạnh
Tử đến giảng văn hoá truyền thống cho bạn, bạn cũng
không học được, thậm chí Thích Ca Mâu Ni Phật, A Di
Đà Phật đến dạy bạn, bạn vẫn là phàm phu...”36
2- “Từ tâm bất sát”
Thực hiện ở “Thái thượng Cảm ứng Thiên”, là giáo
dục nhân quả.
3- “Tu Thập thiện nghiệp”
Thập thiện nghiệp đạo không dễ dàng làm được.
Nếu bạn không có nền tảng bên trên. Tại sao chúng ta
không dễ, mà cổ nhân làm rất dễ dàng vậy? Vì nền tảng
của cổ nhân sâu dày vững vàng, cho nên thập thiện
nghiệp rất dễ dàng làm được37.
Nhưng khi có cái nền tảng này thì tất thảy đều
không thành vấn đề, bạn có thể làm được rất dễ dàng
rồi, không khó. Còn không có cái nền tảng phía trước
36 Tịnh độ Đại kinh khoa chú – tập 7- Tịnh Không pháp sư chủ giảng
37 Cổ nhân xưa thọ tam quy ngũ giới rồi, họ thật sự làm được, thật sự
là đệ tử Phật. Chúng ta hiện nay thọ “Tam quy ngũ giới, Bồ-tát giới,
đều là hữu danh vô thực, không phải thật. Vì sao vậy? Vì chưa làm
được. Lời của đại sư Thiên Thai là “trong quả vị danh tự, hữu danh vô
thực”.
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
69
này thì “Thập thiện nghiệp” bao gồm không sát sanh,
không trộm cắp, không dâm dục, không vọng ngữ, không
hai lời, không thêu dệt, không ác khẩu, không tham,
không sân, không si, tất thảy đều không thành vấn đề,
bạn có thể làm được rất dễ dàng rồi, không khó. Còn
không có cái nền tảng phía trước này thì “thập thiện
nghiệp” không thể làm được, hữu danh vô thực.
Đây là khóa thứ nhất ở trong pháp hành, Ba cái gốc
của “Nho-Thích-Đạo”, không có ba cái gốc này không
phải thật học Phật mà là giả học Phật…”
Người tu Tịnh Tông sở dĩ niệm Phật không đạt
được nhất tâm, hay tối thiểu không thể “Niệm Phật
thành phiến” là vì thiếu một cơ sở vững chắc là Tịnh
nghiệp Tam Phước.
Để thực hiện viên mãn Tịnh nghiệp Tam Phước, các
đồng tu Tịnh Tông phải học và hành được những gì Đệ
Tử Quy & Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh đã dạy.
2. Từ Khóa mục 2:
Học ở Kinh Vô Lượng thọ - Chủ giảng Tịnh Không
Pháp sư.
VIII. GIÁO TRÌNH TU HỌC
Bước 1: Giáo dục nhân quả
Ấn Quang – Tổ thứ 13 Tịnh Độ cực lực đề xướng:
1- “An Sĩ Toàn Thư” (Tác giả: Chu An Sĩ): Nhân
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
70
duyên quả báo không sót mảy trần
2- “Cảm Ứng Thiên vựng biên”: Minh chứng làm
lành được lành, làm ác bị ác
“Cảm Ứng Thiên Hội Biên là sự hội tập rất nhiều sự
tích của cảm ứng, hiển lộ công tích rất lớn. Cổ nhân
khuyên dạy chúng ta, tâm địa con người phải thuần hậu.
Trung Quốc từ xưa đến nay, phần đông đại chúng
trong xã hội đều rất coi trọng Thái Thượng Cảm Ứng
Thiên, người y theo phương pháp này tu học rất nhiều,
cảm ứng đạt được cũng bất khả tư nghì.
3- “Liễu Phàm Tứ Huấn” (Chủ giảng: Tịnh
Không Pháp sư): Có thể cải tạo vận mệnh
Ba loại sách này rất phổ thông trong dân chúng, chỉ
rõ đạo lý nhân quả, chỉ rõ cách hóa giải tai nạn, chuyển
họa thành phúc, đích thực có thể cứu độ tai nạn trước
mắt; và cũng là nền tảng vãng sanh Tịnh độ.
Bước 2: Tiểu thừa:
Thay bằng Nho gia và Đạo Gia: “…Nho thì chọn
“Đệ Tử Quy”, chúng ta chọn bộ sách này. Đạo thì chọn
“Thái Thượng Cảm ứng Thiên”, Phật thì chọn “Kinh
Thập Thiện Nghiệp Đạo”. Ba loại sách này là nền tảng
của học Phật, giống như cái cây vậy, nó là gốc cây,
giống như các tòa nhà vậy, nó là nền móng. Nếu như
không có cái nền móng này, thì Phật pháp không thể
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
71
thiết lập, không có Phật pháp”38.
4- “Đệ Tử Quy” - Giảng giải (Chủ giảng: Tiến sỹ
Thái Lễ Húc; Giám định Pháp sư Tịnh Không)
5- “Thái thượng cảm ứng thiên” - Giảng giải (Chủ
giảng: Pháp sư Tịnh Không)
6- “Thập Thiện Nghiệp đạo” - Giảng giải (Chủ
giảng: Pháp sư Tịnh Không)
Đọc thêm:
7- Kinh Phật thuyết phụ mẫu ân trọng kinh (Về
hiếu dưỡng phụ mẫu)
8- A Nan vấn phật sự kiết hung (Về phụng sự sư
trưởng)
Bước 3: Đại thừa:
9- Phật thuyết đại thừa Vô Lượng thọ, Trang
nghiêm, Thanh Tịnh, Bình Đẳng Giác Kinh (Chủ
giảng: Pháp sư Tịnh Không)
10- Kim cang giảng ký (Chủ giảng: Pháp sư Tịnh
Không)
11- Phát khởi Bồ tát chí nhạo thù thắng kinh (Chủ giảng: Pháp sư Tịnh Không)
38 Trích: “Tịnh độ Đại Kinh Khoa Chú” – tập 11- Tịnh Không pháp sư
chủ giảng
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
72
***
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
73
PHẦN THỨ II
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
1. Về duyên (với người)
1.1. Quá nhiều “thiện tri thức” nên loạn tu 1.2. Thường thân cận ác tri thức
- Thích nghe lời nói nịnh bợ, ngọt ngào
- Thích thần thông
- Thích tu phước nên bảo cúng bái ở đâu để tiêu
nghiệp được phước liền theo ngay…
1.3. Dù có tìm được thiện tri thức cũng không thể “Y giáo phụng hành” (đây là phước đức);
Không thể y giáo phụng hành có hai nguyên nhân:
1- Hiểu sai nên hành sai
Ví dụ: Không phát tâm bồ đề mà chỉ một lòng
chuyên niệm nên không thể thành tựu.
“…Làm thế nào để cầu sanh Tịnh Độ? Trong kinh
Vô Lượng Thọ nói rất rõ: Phát Bồ Đề Tâm, Nhất
Hướng Niệm Phật. Nếu quý vị không phát Bồ Đề tâm,
chỉ nương vào nhất hướng chuyên niệm, kết quả không
thể vãng sanh, xin quý vị nên thận trọng.
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
74
“…Ở niệm Phật đường của chúng ta hiện nay là
niệm Phật 24 giờ không gián đoạn, quanh năm suốt
tháng không gián đoạn, đã làm được “nhất hướng
chuyên niệm”, nhưng có thể vãng sanh hay không thì
còn phải xem chúng ta có phát tâm Bồ Đề hay không.
Nếu như không phát tâm Bồ Đề thì vẫn không thể vãng
sanh, một ngày 24 giờ niệm Phật cũng không thể vãng
sanh. Đây là điều chúng ta nhất định phải biết. Bởi vì
bạn chỉ làm được nhất hướng chuyên niệm, bạn chưa có
phát tâm Bồ Đề. Cho nên phát tâm Bồ Đề là vô cùng vô
cùng quan trọng.
“Phát tâm Bồ Đề” là chanh nhân của vãng sanh
Thế giới Tây Phương Cực Lạc. “Nhất hướng chuyên
niệm” là duyên. Nhân duyên đầy đủ thì bạn chắc chắn
được sanh Tịnh Độ. Đạo lý, chân tướng sự thật này
chúng ta đều phải làm cho rõ ràng, làm cho minh bạch,
không được hiểu sai ý của Phật…”39
Cho nên quan trọng nhất chính là tám chữ “Phát
tâm Bồ Đề, một lòng chuyên niệm”, đây là cương
lĩnh tu hành của bổn kinh, tám chữ này hợp lại là viên
tu viên chứng, thiên về một phía thì không được, nếu
như bạn thiên ở phát tâm Bồ Đề, thì không có một
lòng chuyên niệm, vậy không đúng. Một lòng chuyên
niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh,
cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm
phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
39 Trích: Thái thượng cảm ứng thiên – VCD 31 – Chủ giảng: Tịnh Không Pháp
sư
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
75
* Nói về Tâm Bồ đề:
Nếu chúng ta muốn ngay trong một kiếp nầy thật
sư thành tựu được công phu niệm Phật. Lúc xử thế, tiếp
xúc với người, với vật, cái tâm duy nhất mà chúng ta cần
phải có đó là chân tâm.
✓ Khi bị người khác lừa dối, hiếp đáp thì thế nào?
Chúng ta phải nghĩ như vầy: “Đó là chuyện của họ,
không dính dáng gì với tôi cả. Việc của tôi là phải
dùng tâm chân thật đối xử lại. Vì sao? Bởi vì tôi quyết
định trong một kiếp nầy phải cầu vãng sanh Tịnh Độ”.
✓ Buông bỏ thị, phi, nhân, ngã, tham sân, si, mạn
Ngài Lý Bỉnh Nam nói: “Một vạn (10 ngàn)
người niệm Phật, thật sự có thể vãng sanh chỉ vài ba
người. Vì sao số người vãng sanh quá ít như thế? Vì
không phát tâm Bồ Đề nên tâm không thanh tịnh.
Bởi tâm không thanh tịnh nên còn thị phi nhân ngã,
tham, sân, si, mạn, nghi. Những thứ này không tương
ứng với thế giới Cực Lạc một chút nào”.
Tây Phương Cực Lạc là nơi câu hội của chư
thượng thiện nhân (chỗ ở của những người thiện lành
bậc nhất). Cho dù quý vị niệm Phật siêng năng đến đâu
hoặc một ngày có thể niệm đến trăm ngàn lần, nhưng
tâm của quý vị không thiện, làm sao có thể lên Tây
Phương ở cùng chỗ của bậc thượng thiện nhân? Do
đó “Phát Bồ Đề Tâm” quan trọng hơn cả việc “Nhất
hướng chuyên niệm” là như vậy.
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
76
Người thật sự phát Bồ Đề tâm, khi lâm chung, một
niệm hoặc mười niệm quyết định sẽ vãng sanh. Vì sao?
Vì họ đã là người thượng thiện nhân rồi, đầy đủ phước
đức rồi. Chỉ cần chợt khởi tâm muốn vãng sanh là được
ngay. Cho nên những lời nói trong kinh điển, chúng
ta cần phải lưu ý, suy ngẫm kỹ lưỡng, tuyệt đối không
nên tụng niệm một cách hàm hồ.
Đoạn văn trên chúng ta nói đến chân tâm. Chân
tâm là Thể của Bồ Đề tâm, kế tiếp nói Thâm Tín là dụng
của Bồ Đề tâm.
✓ Đối với chúng sanh nhân từ, hiếu thiện hiếu đức
Tự dụng đối với chính mình là luôn giữ tâm hiếu
thiện hiếu đức (thích làm điều thiện, đức). Đối
với chúng sanh thì đại từ bi. Nhân từ, hiếu thiện hiếu
đức là việc làm không thể miễn cưỡng hoặc làm cho
có hình thức bên ngoài. Nó phải lưu xuất một cách tự
nhiên từ bên trong ra.
✓ Niệm niệm vì lợi ích chúng sanh
Cho nên người phát tâm Bồ Đề, mỗi khi khởi
tâm động niệm đều nghĩ đến việc làm lợi ích cho chúng
sanh phá mê khai ngộ, thoát khỏi cảnh khổ được an vui.
Không hề có một niệm nghĩ đến lợi ích cho cá
nhân mình. Nếu còn một niệm ích kỷ tự lợi, là còn ngã
chấp nặng nề, ngã chấp là gốc rễ của lục đạo luân hồi!
Không bứng sạch gốc rễ này thì không có cách nào ra
khỏi lục đạo.
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
77
Không vì ta nữa mà vì chúng sanh, thì ngã chấp dần
dần sẽ tan nhạt. Không còn chấp trước cái thân này là
ta, hân hoan vui vẻ, an vui tự tại, vì chúng sanh, vì xã
hội. Không luận chúng ta ở một nơi nghề nghiệp nào,
đều là vì xã hội, vì chúng sanh phục vụ, đều là chân thật
làm đến được hy sinh phụng hiến. Trong hy sinh phụng
hiến nếu còn có ngã chấp cho rằng ta hy sinh, ta phụng
hiến, còn chưa quên được cái “ta” thì hy sinh, phụng
hiến đều không có. Pháp vốn như vậy, trong tự nhiên
chính là ta có cách làm như vậy. Cho nên phải đem cái
ta quên mất đi mới được, vì chúng sanh.
Cho nên ngay từ bây giờ, quý vị cần phải buông xả,
phải nghĩ đến người khác, nghĩ đến chúng sanh, đến
những người đang đau khổ, đang gặp nạn trên thế
giới, tuyệt đối không nên nghĩ chuyện lợi ích cho
riêng cá nhân mình nữa.
Trong suốt thời gian thuyết pháp đã qua, tôi nhiều
lần nhắc nhở quý vị phải phát Bồ Đề tâm.
Trong kinh điển, đức Thế Tôn cũng từng lặp đi lặp
lại không biết bao nhiêu ngàn lần. Vì sao Thế Tôn không
ngừng lặp lại như vậy? Bởi vì chúng sanh vẫn còn
chưa tỉnh thức, vẫn còn u mê. Thế Tôn vẫn phải lặp đi
lặp lại một cách không mệt mỏi để kêu gọi chúng ta. Một
khi quý vị phát khởi Bồ Đề tâm, liền được chư Phật
hộ trì.
Vì tâm của chư Phật là tâm Bồ Đề. Như vậy
tâm của quý vị sẽ cùng với tâm của chư Phật không hề
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
78
khác nhau…”40
“…Trong kinh DIĐÀ Phật nói với chúng ta: “Bất
khả dĩ thiếu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sanh
bỉ quốc” (Chẳng thể dùng chút ít thiện căn phước đức
nhân duyên mà được sinh về cõi kia). Nếu chúng ta
trong một đời, trong đời sống sinh hoạt hàng ngày từ
sáng tới tối ngày ngày đều chánh trợ song tu như vậy thì
thiện căn phước đức nhân duyên đã viên mãn, đã đầy
đủ…”
2- Vì giải đãi, biếng nhác mà không thể thực hành 3- Do hoàn cảnh khách quan xoay chuyển:
Bệnh tật, tan nạn, họa hại ập đến với bản thân hoặc
những người thân yêu nhất.
Đây đều là do phước đức kém nên phật dậy chúng
ta thường xuyên phải tích lũy công đức. (Đây chính là
mục Phát tâm Bồ đề mà Phật dậy)
2. Về cảnh (hoàn cảnh)
2.1. Thường thích những nơi xô bồ ồn náo 2.2. Giải đãi tu định, huệ
1- Thích đi làm từ thiện
“…Chúng ta xem thấy Phật p háp trong xã hội hiện
đại đúng là pháp sắp diệt như Đức Phật đã nói. Đừng
tưởng Phật pháp tại Đài Loan hưng thịnh phi thường,
tướng hưng thịnh ấy là gì? Giả chẳng thật đâu, có thể 40 Tịnh Không Pháp sư khai thị Pháp Môn Tịnh Độ
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
79
nói Phật pháp tại Đài Loan náo nhiệt mà thôi, xưa kia
Lão cư sỹ Hoàng Niệm Tổ cụ chưa từng đến Đài Loan
giảng kinh thuyết pháp. Ở Đài Bắc đã công khai bảo
mọi người Phật pháp tại Đài Loan là giả chẳng phải
thật, Phật pháp chân chính nằm ở Hoa Lục.
Tôi đến Bắc Kinh thính chúng đem câu ấy hỏi tôi
Phật pháp tại Đài Loan có phải giả hay không? Chư vị
hãy để tâm quan sát một phen Phật pháp ở Đài Loan rút
cuộc là thật hay chỉ là giả? Phật pháp chân chính dạy
người liễu sanh tử thoát tam giới. Còn Phật pháp giả
dạy người tiếp tục gây tạo lục đạo luân hồi. Người Đài
Loan tu phước rất nhiều, người tu đạo rất ít.
Người tu phước nhiều thì phước báo tu được ấy sẽ
hưởng cách nào? Vấn đề này lớn lắm nghe, đời sau có
lại được làm người nữa hay không? Là một vấn đề lớn.
Đời sau nếu chẳng được làm thân người thì vẫn có
phước báo. Trong đường súc sanh có rất nhiều phước
báo đó chứ, chúng ta chẳng cần phải tự hào mình
phước báo rất lớn. Thật ra nghĩ lại bọn ta phước báo
không bằng súc sanh đó nha. Quý vị có thấy người
ngoại quốc nuôi con thú cưng chưa? Không ít người
phục vụ chăn sóc chúng, chúng ta đến những chỗ đó có
ai chiếu cố mình chăng, nghĩ ra mình phước báo chẳng
bằng chúng. Quý vị thấy những con mèo nhỏ, con chó
nhỏ đó được chăm sóc chu đáo thì phước báo của chúng
đó do đâu mà có? Do đời trước tu đấy, quan sát nhiều
sẽ hiểu rõ quý vị phải nên thức tỉnh….”
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
80
“Tại sao có người làm phước thiện lại đọa tam ác
đạo?41
Người thông thường cho rằng mình đã làm được rất
nhiều việc tốt, cho rằng mình đã tu được rất nhiều công
đức, tôi thấy không phải vậy. Có rất nhiều người đang
rất nỗ lực tu công đức, làm việc tốt nhưng tương lai đều
phải đọa ba đường ác, do nguyên nhân gì vậy? Việc làm
đó của họ, họ cho là việc tốt nhưng thực sự không phải
là việc tốt, không những tương lai không được tốt mà
ngay trước mắt cũng không tốt, xem thấy dường như là
một việc tốt, kỳ thật đang làm sai.
Thí dụ đạo tràng Phật giáo chúng ta làm những
việc từ thiện, bạn nói xem có tốt hay không? Xã hội khen
ngợi, quốc gia còn tặng bạn một tấm biển lớn để bạn
treo lên, bạn đối với xã hội có cống hiến rất lớn, đó có
phải là việc tốt hay không? Xem thấy thì là việc tốt,
nhưng thực tế là việc sai. Sai ở chỗ nào vậy? Đạo tràng
của Phật giáo là làm những việc gì vậy? Là giáo dục
của Phật Đà, đây là bổn phận công việc của bạn, giống
như bạn thành lập một trường học, trường học làm
những việc gì? Thầy giáo và học trò ngày ngày phải lên
lớp, đây là việc chính. Hiện tại thầy giáo không dạy học,
học trò cũng không lên lớp, mỗi ngày đi làm những việc
từ thiện, vậy là việc tốt hay sao? Sai mục tiêu rồi, cách
làm như vậy thì vị hiệu trưởng đó sẽ bị cách chức, học
sinh sẽ bị khai trừ. 41 Trích “Nhận thức phật giáo”- Chủ giảng: Tịnh Không Pháp sư –Tại Boston Úc Châu - Cẩn dịch: Vọng Tây Cư Sĩ
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
81
Cho nên nhất định phải phân biệt chân vọng, tà
chánh, phải rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo”.
Ấn tống kinh sách là tu phước thù thắng nhất
“..Những việc từ thiện cứu tế, chúng ta có thể làm
tương đối ít, vì in kinh bố thí đã bao gồm từ thiện cứu tế
trong đó, thậm chí còn thù thắng hơn vì giúp người giác
ngộ.
Phật Thích Ca Mâu Ni Phật cả đời giảng kinh nói
pháp, sự nghiệp từ thiện cứu tế thông thường thế gian,
Phật không có dù chỉ một xu.
Người xuất gia không nắm tiền trong tay, đời sống
mỗi ngày đi khất thực, chỉ một bình bát. Ấn Độ thuộc về
vùng nhiệt đới, ba y một bát là đủ. Dưới mỗi gốc cây chỉ
ngủ một đêm, mỗi ngày ăn một buổi, đời sống giản đơn.
Cho nên Phật không bố thí tài, Phật chỉ bố thí pháp.
Nếu nói bố thí tài thì nội tài bố thì có công đức thù
thắng hơn ngoại tài. Nội tài là thân thể, trí tuệ, mỗi ngày
giảng kinh nói pháp với mọi người, mỗi ngày cùng mọi
người giải đáp nghi nan, đó là bố thí nội tài. Ba loại bố
thí, Phật thảy đều đầy đủ.
Đối với vô uý bố thí, Thế Tôn thị hiện ra tướng hảo,
người Trung Quốc gọi là hào khí, người nước ngoài gọi
là từ trường. Từ trường của Phật Bồ tát thù thắng không
gì bằng, sau khi tiếp xúc từ trường của ngài, lòng bạn
liền cảm thấy bình lặng, đó là bố thí vô uý. Từ bi trí tuệ
của ngài lan tỏa, oai lực mạnh mẽ có thể khiến cho tất
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
82
cả chúng sanh sanh tâm hoan hỉ, dừng hẳn phiền não.
Ngày nay chúng ta gọi hiện tượng này là chiêu cảm của
đức hạnh…”42
2- Thích đi du lịch các nơi di tích phật giáo, danh lam thắng cảnh chùa chiền
3- Thích đến những nơi pháp hội ồn náo
3. Về pháp môn tu
3.1. Chọn pháp môn không hợp thời, hợp cơ
3.2. Không chuyên nhất một môn, tạp tu:
- Thiền, tịnh song tu
- Thiền, tịnh, mật tam tu
- Bất niệm tự niệm
- Bổn nguyện niệm phật…
3.3. Không nhẫn nại trường thời huân tu:
- Không an nhẫn với chướng duyên
- Không nhẫn nại với pháp môn tu…
1- Phải an nhẫn với chướng duyên
“Chúng ta thấy ở trong “Văn sao” của Đại sư Ấn
Quang, xem thấy lão pháp sư có một đoạn văn tự, một
bức thư viết rất dài gởi cho cư sĩ Vệ Miên Châu. Vị cư sĩ
42 Trích: “Tất cả chúng sanh vốn dĩ là Phật” – Chủ giảng: Tịnh Không
pháp sư
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
83
này cũng là học dưới hội của lão pháp sư, tiếp nhận
truyền thụ Tam qui y, ông ấy gặp phải tai nạn, nhà bên
cạnh phát hoả, làm cho phòng ốc của nhà ông cháy rụi,
tài sản trở thành một đống tro, người vợ bởi vì việc này
mà qua đời. Nhà tan người mất, chính ông một ngày từ
sớm đến tối như ngây như dại, suốt ngày cứ ngu ngu khờ
khờ. Có đồng tu đem việc này nói với Đại sư Ấn Quang,
Đại sư Ấn Quang đã viết một bức thư rất dài để khai thị
chỉ bảo cho ông: “Nếu như người chân thật học Phật,
gặp phải tai nạn này, phải nên nghĩ được thông, tất cả
huyễn hoá vô thường thế gian. Ngày trước có nhà có
tích lũy thì còn có bận tâm, hiện tại một đám lửa cháy
sạch rồi, không phải càng tốt hay sao? Không còn bất
cứ việc gì, thì một lòng niệm Phật, quyết định vãng sanh.
Ý niệm vừa chuyển thì đám lửa này là tăng thượng
duyên tốt”.
Có mấy người ở trong tai nạn có thể chuyển tâm
được? Việc này nhất định phải tu nhẫn nhục Ba La Mật,
trí tuệ cao độ, ở trong tai nạn lớn là “Nghịch tăng
thượng duyên” không những đối với đạo nghiệp của
chính mình, trái lại xúc tiến, nâng cao, vậy thì chuẩn
xác.”43
2- Phải nhẫn nại với pháp môn tu
«…Chúng ta ở ngay trong quá trình học tập thường
43 Trích: Phật thuyết Đại thừa Vô Lượng thọ - Trang nghiêm – Thanh
Tịnh – Bình đẳng – Giác Kinh - VCD 78 – Chủ giảng: Tịnh Không
pháp sư
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
84
hay gặp một số đồng tu đến nói với tôi rằng, họ có nghe
một người nào đó nói, một vị pháp sư nào đó nói, phương
pháp niệm Phật của chúng ta đây vẫn chưa phải là tốt
nhất, phương pháp của họ còn thù thắng hơn chúng ta,
thế là tâm liền dao động. Đó là gì vậy? Bạn không có sức
định, người bên cạnh dùng quạt phẩy nhè nhẹ, thì bạn
liền dao động, thì bạn làm sao có thành tựu? Bạn nói
pháp môn này của họ tốt hơn chúng ta thì theo học với
họ, vừa qua được mấy ngày lại gặp một người khác,
người này lại nói phương pháp còn tốt hơn so với người
kia, vậy là bạn liền lại chạy qua bên đó.
Đứng núi này nhìn núi nọ, ngay trong một đời này
của bạn ngày ngày chuyển đổi pháp môn đến sau cùng
một môn cũng không thể thành tựu. Nói pháp môn này
cao, pháp môn kia thấp, vậy thì trên Kinh Kim Cang lời
Phật nói “Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp”, phải
mau sửa đổi lại là “Pháp môn không bình đẳng, có cao
có thấp”, chính là cái ý này mà. Đây là bạn ngu si. Yêu
ma quỷ quái chỉ có thể dao động tâm người ngu si, vì sao
vậy? Vì họ không có chủ tể, họ không có sức định. Không
có chủ tể rất dễ bị thiệt thòi, rất dễ bị lừa gạt. Người tâm
có chủ tể, người có sức định, không thể bị dao động »44.
* “…Bốn loại người gặp được pháp môn Tịnh độ
- Loại thứ nhất: Là người thượng căn:
44 Trích: Phật thuyết đại thừa Vô Lượng thọ - Trang nghiêm – Thanh
Tịnh – Bình đẳng – Giác Kinh - VCD 78 – Chủ giảng: Tịnh Không
pháp sư
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
85
Nghe rồi liền tin tưởng, tin rồi họ liền phát nguyện,
họ liền chăm chỉ nỗ lực tu học, y giáo phụng hành, ngay
trong đời này quyết định được sanh, đó là người thượng
thượng căn.
- Loại thứ hai: Là người kế một bậc không thể tự
động tự phát:
Rất dễ dàng lười biếng giải đãi, nên họ cần phải có
người khích lệ, cần phải có thiện tri thức đề cử, thì họ
làm được. Những người này họ chỉ cần được người
khích lệ thì họ cũng có thể phấn chấn đoạn ác tu thiện,
niệm Phật cầu sanh, vậy thì không vấn đề gì, cũng có
thể vãng sanh.
- Loại thứ ba: Loại người căn tánh thứ ba thì kém
một chút.
Phải có thiện tri thức, cần lao khẩn thiết khuyên
bảo hết lời, họ mới hồi đầu, tương đối không dễ. Cho
nên chúng sanh Diêm Phù Đề “Cang cường nan hóa” ,
thế nhưng Phật Bồ Tát thị hiện ở thế gian này, có khó
hơn các Ngài cũng không sợ, các Ngài có trí tuệ, có
phương tiện khéo léo, hết lời khuyên can để dạy bảo
chúng ta. Thời gian lâu dần, bạn ở trong xã hội bị nhiều
thiệt thòi, chịu nhiều lỗ lã, gặp rất nhiều chướng ngại,
thì mới chịu quay đầu lại, thì họ cũng có thể thành tựu.
- Loại thứ tư: Là người gặp được tri kiến bất chánh.
Chư Phật Bồ Tát đến khuyên bảo, họ cũng không thể
quay đầu. Loại này chúng ta xem thấy rất nhiều, ở trong
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
86
Phật pháp sau khi học được vài năm thì đi học ngoại
đạo, Phật Bồ Tát đến giáo hoá họ, họ cũng không thể
quay đầu. Đó là do tập khí phiền não nghiệp chướng
của chính họ quá nặng, cùng với bên ngoài gặp phải ác
duyên, bên trong ác duyên cũng không ngoài danh vọng
lợi dưỡng, bên ngoài bị mê hoặc của danh vọng lợi
dưỡng, bên trong có Tham-Sân-Si-Mạn. Nội ngoại vừa
kết hợp thì bỏ đạo mà đi, thì liền đi mất, đó là việc vô
cùng đáng tiếc. Nhưng Phật không bỏ rơi họ, Phật vẫn
là đợi họ quay đầu, ngay đời này họ cũng không thể
quay đầu, thì chờ đời sau vậy, đời sau không quay đầu,
thì đợi đời sau nữa.
Thành thật mà nói, chúng ta không nên cười ngạo
người khác, mà chính bản thân chúng ta, bản thân mình
chính là loại người đó. Chúng ta không phải ngày nay
mới niệm A Di Đà Phật, không phải đời này mới tu Tịnh
Độ, ngay trong đời quá khứ đời đời kiếp kiếp, không biết
có bao nhiêu lần gặp được pháp môn này rồi nhưng vẫn
không thể thành tựu. Người ta vừa mê hoặc thì chúng ta
liền chạy đi, rồi rơi mãi cho đến hiện tại đây, rồi lại vẫn
ở nơi đây mà từ từ tu tập. Hy vọng rằng ngay đời này
thông minh một chút, không còn chạy rong nữa thì ngay
trong đời này chúng ta liền thành tựu”45.
4. Thứ tự tu học
Không tuân theo quy củ từ tiểu thừa lên đại thừa 45 Trích Thuyết giảng “Phật thuyết Đại thừa Vô Lượng Thọ - Trang
Nghiêm - Thanh tịnh - Bình đẳng - Giác kinh” – Tịnh Không pháp sư
chủ giảng lần thứ 10 – VCD 29
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
87
4.1. Có người vì vô tình mà không biết thứ tự tu học
“…Nhiều người phát tâm gần như tốt đẹp mọi lẽ,
nhưng chẳng hiểu đạo lý xử thế, không hiểu lễ tiết, cử
chỉ, lời lẽ, hành vi thường gây mất lòng người khác, làm
sao có thể hoằng pháp cho được. Dẫu quý vị thông hiểu
Phật pháp cách mấy cũng chẳng được, không biết cách
xử sự!
Có rất nhiều người thật sự tu hành khá lắm, nhưng
đối với pháp thế gian là một tờ giấy trắng tinh, điều gì
cũng không biết. Vì thế, đối xử với kẻ khác đúng là dở
khóc dở cười. Người ấy có cố ý hay không? Chắc chắn
là vô ý! Do chưa từng học, nên chẳng hiểu đạo lý đãi
người xử thế. Vì vậy, pháp thế gian và xuất thế gian đều
phải thông đạt.
Chẳng thông đạt pháp thế gian, chắc chắn chẳng
thể độ chúng sanh. Lời nói, việc làm, cử chỉ của chính
mình khiến chúng sanh cảm thấy ngán ngẩm, dẫu đức
hạnh cao tới đâu đi nữa, ngay cả chuyện làm người mà
quý vị quá tệ thì còn nói gì được nữa? Do vậy, chúng ta
phải lưu ý điều này…”46.
4.2. Có người cố tình vượt cấp, không tuân theo thứ tự
“…Người hiện tại học Phật không có phương pháp,
tất cả đều không thực tế, chính là gì? Là vượt cấp,
không nương theo quy củ của Phật.
46 Trích: A DI ĐÀ Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa – Tập 47
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
88
Sách Nho gia cũng không đọc, sách Đạo gia chúng
ta cũng không xem, lại coi thường Tiểu Thừa, vừa học
Phật bèn vào thẳng ngay Đại Thừa, là điều không thể
được. Lăn lộn với Đại Thừa suốt đời mà có thành tựu gì
hay chăng?
Kinh Vô Lượng Thọ giảng vào lúc nào? Giảng vào
thời Phương đẳng. Phía trước Phương đẳng có 12 năm
cơ sở A hàm. 12 năm này chúng ta lược bớt nó, không
học nữa, vậy có được không?
Cũng giống như nói đi học, chưa học tiểu học bỗng
chốc liền lên trung học, lỗi lầm chúng ta phạm phải là ở
điểm này. Cho nên nhất thiết phải học bù, phải bổ túc
thêm trước đó, không bổ túc sẽ không thành tựu được;
Do vậy nhất định phải từ Đệ tử quy, Cảm ứng thiên,
Thập thiện nghiệp để cắm rễ. Nếu như không phải từ
đây mà cắm rễ, quí vị học thêm 300 năm nữa cũng vô
ích. Quí vị có thể khai ngộ không? Chắc chắn không thể.
Quí vị có thể đắc định không? Không thể được..”47.
4.3. Kết quả không tuân theo thứ tự tu học
“…Không tin tưởng quí vị có thể thử thử xem, đến
tuổi tác quí vị già rồi, một đời chưa được thành tựu, hối
hận thì quá muộn rồi. Vốn có thể thành tựu, bản thân
không nghe lời, chúng ta bỏ qua Tiểu thừa, sơ suất mất.
47 Trích Tịnh độ Đại Kinh Diễn Giải – Tập 540 – Chủ giảng Tịnh
Không pháp sư
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
89
Học vượt cấp bỏ Tiểu thừa, vào ngay đại thừa, có
thành tựu không?
- Đúng như Thanh Lương đại sư đã bảo: “Tăng
trưởng tà kiến”.
- Nay chúng tôi nói cho dễ nghe hơn một chút: Kiến
thức Phật học rất phong phú giúp cho kẻ ấy ăn nói linh
hoạt, giúp kẻ ấy viết lách; Ngoại trừ việc ấy ra, đối với
đức hạnh, tu trì, tâm thanh tịnh, trí huệ, kẻ ấy hoàn toàn
không có gì!
Chúng ta thường thấy người học Phật, bất luận xuất
gia hay tại gia: Khi chưa thông đạt Phật pháp, họ rất
thật thà, rất kiền thành; Nhưng hiểu được chút ít Phật
pháp rồi bèn kiêu căng ngã mạn, coi thường người khác,
vậy là sai mất rồi! Không những học Phật sai mà học
Nho cũng sai luôn!
Nho gia nói rất hay: “Học vấn thâm thời ý khí
bình” (Lúc học vấn sâu xa, tính tình điềm đạm). Học
vấn của một người phải nhìn từ đâu? Tâm bình khí hòa
thì người ấy có học vấn. Viết thì một tay văn chương lỗi
lạc, giảng đến nỗi hoa trời rơi lả tả, nhưng trong tâm
ngạo nghễ, ngã mạn, ghen ghét, nóng giận, người ấy có
học vấn hay chăng? Không có học vấn, đó là kiến thức
nông cạn!
Quý vị muốn tu học pháp thế gian, xuất thế gian vì
sao tu học lại trở thành như vậy? Do đánh mất cơ sở,
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
90
không chiếu theo cơ sở ấy để tu học!”48
Không tuân lời Phật dậy:
“…Họ sẽ phải tự học lấy những bài học trong lầm
lỗi, trong đau khổ. Thí dụ như một người muốn đi từ quê
lên tỉnh. Y có thể đi theo các đường lộ xây cất sẵn sàng,
theo bản đồ chỉ dẫn. Nhưng có người cứ khăng khăng đi
theo ý mình bất tuân theo luật lệ, đường dọn sẵn không
đi, bản đồ có sẵn không thèm nhìn. Y sẽ đi vào rừng,
dẫm lên gai góc, đau đớn, lạc lối lung tung. Sau đó, mới
ý thức được sự ngu xuẩn của mình. Đời là một bài học
vô cùng quý giá mà ai cũng phải học...”49
5. Kết luận: Về nguyên nhân & cách giải quyết
5.1. Nguyên nhân sự tu học không thành tựu
Đây là do “Thiện căn, phước đức, nhân duyên”
không đủ. “Mạt pháp chúng sanh phước huệ thiển bạc”
“Cấu chướng thâm trọng”: Là nói chúng ta phước cạn,
huệ mỏng; “Cấu” là ô nhiễm, “chướng” là nghiệp
chướng, rất sâu, rất nặng.
- Thiện căn: “Cấu chướng thâm trọng”, “Huệ
mỏng” là nghiệp chướng ô nhiễm nặng nên lòng tin
kém, đọc kinh nghe pháp cũng không thể lý giải; Không
phân biệt được đâu là thiện tri thức, ác tri thức .
- Phước đức: Phước bạc nên bị hoàn cảnh xoay
48 Trích Sa Di Luật nghi yếu lược – Chủ giảng Tịnh Không Pháp sư 49 Trích Hành trình về phương đông
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
91
chuyển; Dù có tìm được thiện tri thức cũng không “Y
giáo phụng hành”.
- Nhân duyên: Gặp thiện hữu tri thức đã khó, cho dù
gặp được cũng không y theo phụng hành nên cũng như
không mà thôi.
5.2. Cách giải quyết:
Tăng trưởng “Thiện căn”, “Phước đức”, “Nhân
duyên”?
1-Tăng trưởng thiện căn
* Làm sao để tăng trưởng lòng tin?
Nghe kinh, nghe pháp cho nhiều vào. Khi nào đủ
lòng tin thì kinh, pháp có thể buông. Làm thế nào để biết
đủ lòng tin với Phật Bồ tát? Y Giáo phụng hành;
“…Nghe tịnh độ tam kinh cho nhiều băng catset
chúng tôi nơi đây cả thảy đều có cả. Nghe đi nghe lại
từng biến từng biến nghe, nghe kinh để làm gì? Công
đức nghe kinh là đoạn nghi sanh tín giúp anh sanh khởi
tin sâu nguyện thiết giá như tôi đã thật sự tin rồi thật có
thiết nguyện rồi thì kinh có nghe hay không chẳng quan
hệ cho nên nghe kinh đọc kinh mục đích là đoạn nghi
sanh tín phải biết đạo lý này nếu có nghi thì kinh không
thể nào không nghe, nếu anh không nghe thì cái gốc
nghi không đoạn tương lai sẽ làm trở ngại sự vãng sanh
của anh.
Thật sự tin, thật sự phát nguyện thì kinh có niệm
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
92
hay không niệm cũng chẳng quan hệ lúc đó quan trọng
nhất là một câu danh hiệu danh hiệu là quan trọng nhất.
Danh hiệu là niệm càng nhiều tương lai phẩm vị anh
càng cao đạo lý là ở chỗ này, tu tịnh nghiệp giả bất khả,
bất nghi, giả đấy tức là những người niệm phật cầu vãng
sanh không thể nào không biết đạo lý này”50.
*Thế nào là tin Phật?
« …Tin Phật, việc này khó lắm, rất khó. Tôi học
Phật 7 năm, sau đó phát tâm xuất gia. Sau khi vừa xuất
gia liền bắt đầu giảng kinh dạy ở Phật Học Viện, 2 năm
sau khi giảng kinh tôi mới thọ giới. Sau khi thọ giới
xong, tôi đến Đài Trung thăm Lý lão sư. Vừa mới gặp
mặt chưa nói lời nào Ngài liền chỉ vào tôi nói.
- Ông phải tin Phật.
Tôi ngây người ra một lát. Thầy liền giải thích cho
tôi nghe, nói rõ cho tôi.
- Tin Phật không đơn giản, không phải nói hiện nay
bạn đã xuất gia, đã thọ giới rồi, hơn nữa đã đang làm
công việc hoằng pháp, chưa chắc là thật sự tin Phật. Có
người cả một đời xuất gia, 80-90 năm vẫn không tin
Phật.
Cái tiêu chuẩn của ông tin Phật đó là gì?
Lời Phật nói trong kinh, bạn thảy đều làm được hết
50 Trích: Khai thị 1 - Chủ giảng: Tịnh Không Pháp sư -
niemphatduongtinhnghiem
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
93
mới gọi là tin Phật.
Bạn là người chưa làm được tức là bạn không tin.
Đã tin thì đâu có lí nào mà không làm, không chịu làm
chính là không chịu tin tưởng. Cho nên Ngài nói với tôi
“tin Phật”, hai chữ này khó lắm, rất khó. Thế Tôn trong
“Kinh Hoa Nghiêm” trong “Đại Trí Độ Luận” đều nói
rõ “Tín vi đạo nguyên công đức mẫu”iii. Tín tâm thành
tựu thì không có việc nào mà chẳng thành tựu. Chúng ta
tu hành chứng quả, tín tâm là cội nguồn, là cội gốc. Bạn
không có tín tâm kiên cố, thì sao bạn có thể thành tựu
được?»
2- Phải tích lũy công đức
“…Trong bốn mươi tám nguyện, nguyện thứ mười
tám là “Mười niệm ắt sanh” là nói về mười niệm lúc
lâm chung. Lâm chung mà có thể niệm Phật cũng chẳng
đơn giản, ắt phải hội đủ ba điều kiện:
1. Thần trí tỉnh táo.
2. Có thiện tri thức nhắc nhở đúng lúc.
3. Nghe xong có thể thật sự làm theo.
Chẳng phải ai cũng có đủ ba điều kiện trên đây,
nhất định lúc bình thường phải nỗ lực.
* Để lâm chung thần thức tỉnh táo
Hễ mê hoặc liền đọa vào tam ác đạo. Nếu thần trí
tỉnh táo, sẽ chẳng đọa trong tam đồ. Vì thế, lúc bình
thường phải giữ lòng làm lợi chúng sanh, tu phước
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
94
làm đầu.
Do đó, muốn niệm được một cầu Phật hiệu lúc lâm
chúng khi trút hơi thở cuối cùng thì thần thức phải tỉnh
táo, muốn thần thức tỉnh táo phải có đại phước báu lúc
lâm chung.
- Muốn có đại phước báu lúc lâm chúng phải “Với
người không tranh, với sự không cầu”.
- Muốn với người không tranh với sự không cầu
phải bỏ được ‘Ngã tham”, bỏ được “Ngã mạn”.
- Muốn bỏ tham phải lìa bỏ “Ngũ dục”, “Lục
trần”; Phải bỏ “Ngã kiến”, bỏ thành kiến của mình, bỏ
mạn, tập tôn trọng người.
- Muốn lìa bỏ “Ngũ dục”, “Lục trần” phải bố thí,
vậy là lại quay lại vòng đầu là phục phiền não không
cho tâm tham, tâm sân khởi tác dụng.
- Muốn được vậy lại phải “Y giáo phụng hành” bắt
đầu “Đệ tử quy”, “Thái thượng cảm ứng thiên”, “Công
quá cách”, “Thập thiện nghiệp đạo kinh”...
Đây chính là đoạn ác tu thiện, chân thật làm đến
được, làm được có thành tích, đoạn tất cả ác, tu tất cả
thiện, cả đời tu phước. Cho nên cổ đức thường hay nói
với chúng ta, nhất là các tổ sư đại đức trong nhà Phật,
dạy chúng ta cả đời tu phước, không nên hưởng phước,
để phước báo lưu lại sau cùng khi lâm chung hưởng, khi
lâm chung hưởng cái phước gì vậy? Tâm không điên
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
95
đảo, chánh niệm hiện tiền, đó là đại phước báo lúc lâm
chung.
* Có thiện tri thức nhắc nhở đúng lúc
Có đại phước đức thì có thể có đại nhân duyên, liền
sẽ có tăng thượng duyên, không có đại phước đức, cái
nhân duyên này liền không có, nhân duyên là cái gì?
Khi sắp lâm chung gặp thiện tri thức giúp bạn trợ niệm.
Cho nên trợ niệm, đối với phàm phu học Phật của
chúng ta mà nói là vô cùng quan trọng. Trợ niệm ở vào
lúc nào? Khi người bệnh nặng, vào lúc nguy cấp, thế
nhưng thần chí của họ rất rõ ràng, vào lúc này giúp họ
trợ niệm, sau khi họ dứt hơi rồi, trợ niệm này tốt nhất có
thể kéo dài 12 giờ đồng hồ, chí ít cũng phải giúp họ trợ
niệm 8 giờ đồng hồ, đây là trợ niệm thông thường.
* Nghe xong có thể thật sự làm theo.
Khi thiện hữu ở bên cạnh phải nhắc nhở họ, “A Di
Đà Phật đến thì theo ngài đi, không phải A Di Đà Phật,
cho dù là Phật Bồ Tát nào, đều không nên để ý đến, đều
không nên quan tâm đến họ”, khuyên họ thành thật niệm
Phật, nhất tâm niệm Phật, cầu sah Tịnh Độ.
Lâm chung chỉ khai thị mấy câu nói như vậy. Vào
lúc đó không thể đọc kinh, kinh văn quá dài, càng tụng
đầu óc của họ càng loạn, vậy thì đáng lo. Ý niệm của họ
vừa chuyển, cảnh giới đó của họ liền không còn.
3- Nhân duyên
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
96
“...Người gặp được chánh pháp, chúng ta xem thấy
người thoái tâm quá nhiều, vì sao họ có thể thoái tâm?
Thiện căn, phước đức, nhân duyên không đầy đủ. Ba
điều kiện này, có một điều kiện không đầy đủ, họ liền
thoái tâm, còn như ba điều kiện đều không đầy đủ, thì
nhất định bị thoái chuyển. Cho nên chính chúng ta nếu
muốn ở trên đạo nghiệp giữ được không thoái chuyển thì
bạn phải đặc biệt đề cao cảnh giác. Nếu như thiện căn,
phước đức của chúng ta kém một chút, nhưng bù lại có
duyên thù thắng thì được, vẫn không nên lo.
Cái gì gọi là duyên?
* Với cảnh (hoàn cảnh):
Đọc kinh mỗi ngày không gián đoạn, niệm Phật mỗi
ngày không gián đoạn. Vào đầu năm dân quốc, Trung
Quốc có một đạo tràng niệm Phật tên là Linh Nham Sơn
ở Tô Châu là đạo tràng của Ấn Tổ51. Đạo tràng này làm
Phật thất suốt năm, mỗi ngày đều trì Phật thất, một năm
360 ngày không gián đoạn, đây gọi là duyên. Bạn thấy
một người bước vào niệm Phật đường niệm Phật, một
năm 360 ngày, mỗi ngày đều là Phật thất không gián
đoạn, trong lòng nghĩ đến Phật, trong miệng niệm danh
hiệu Phật, thì sao họ không thành Phật chứ, đương
nhiên thành Phật, đó chính là duyên thù thắng.
Giả như họ sau khi niệm được hai ba năm danh
hiệu Phật, lại rời khỏi Niệm Phật Đường đi đến nơi 51 Tổ thứ 13 của Tịnh Độ Tông Trung Hoa, tương truyền Ngài là Đại
Thế Chí Bồ Tát tái lai
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
97
khác, lại chuyển đổi, thoái tâm rồi, nghe qua người này
có cách nói của người này, người kia có cách nói của
người kia, họ liền thay đổi chủ ý. Bạn thấy như vậy
chẳng phải là duyên không đồng nhau hay sao?…”52
* Với duyên (với người)
Chúng ta đã có nhân duyên gặp được minh sư, đó là
A DI ĐÀ PHẬT, thông qua Kinh Vô Lượng Thọ - Chủ
giảng: Lão Pháp sư Thượng Tịnh Hạ Không. Và bây giờ
nhiệm vụ là “Y giáo phụng hành”: Một thiện tri thức,
một pháp môn tu là Tịnh độ, và một Bộ kinh là Vô
lượng thọ, sau khi đã học xong bài khóa nhân gian cần
thiết như trên;
6. Bí quyết tu hành
6.1. Chính là công phu buông bỏ
“…Tu hành thực chất là công phu buông bỏ: “Con
người đến thế gian này vốn dĩ nhằm mục đích học tập.
Học tập cái gì? Học tập buông bỏ.
1- Không khống chế người vật việc
“…Chúng ta thường hay phạm sai lầm, làm sai, đều
cho rằng chúng ta phải biến đổi người khác thành chúng
ta, muốn đi đồng hóa họ, cái quan niệm này sai lầm. Tôi
ở ngay trong lúc giảng dạy thường hay nhắc nhở các vị,
chúng ta nhất định phải buông bỏ đối với người, với
việc, với vật, tất cả những quan niệm khống chế, phải
52 Giảng giải Kinh VLT - VCD 01 – Chủ giảng: Tịnh Không pháp sư
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
98
buông bỏ ý niệm chiếm hữu đối với tất cả người, tất cả
việc, tất cả vật, bạn mới có thể vào được Hỷ Niên Hoa
Hội của chư Phật Như Lai. Còn như bạn còn có ý niệm
đi khống chế người khác, chiếm hữu tất cả sự vật, bạn
vĩnh viễn là phàm phu sáu cõi, bạn không vào được
cảnh giới của Phật.
2- Mọi thứ đều nên tan nhạt dần
Nhìn thấu buông bỏ, cũng chính là nói ngay trong
một đời này của chúng ta, đối với tất cả mọi người, mọi
việc, mọi vật, phải thấy nhạt đi một chút, không nên quá
chấp trước. Phàm mọi việc phải học lớn hoá nhỏ, nhỏ
hoá không, không nên chấp trước từng ly từng tí, thì
công phu chúng ta mới có lực.
Còn như mọi thứ đều rất chăm chỉ, mọi thứ đều so
đo tính toán, vậy thì rất đáng lo, vì nếu bạn muốn đạt
đến công phu, thì tương đối không dễ dàng. Việc gì cũng
nên qua loa, có cũng tốt, không có cũng tốt, thiệt thòi
cũng tốt, chịu lỗ cũng tốt, bị chiếm tiện nghi cũng tốt,
thứ gì cũng đều tốt. Không nên tính toán, cũng không
cần phải hỏi qua. Chân thật là nhiều một việc không
bằng ít đi một việc, ít đi một việc không bằng không có
việc gì, tất cả tuỳ duyên qua ngày thì tốt”
6.2. Buông bỏ sẽ giúp nhìn thấu
Tôi học Phật, thực tế mà nói gặp được duyên may,
vị thầy thứ nhất của tôi là đại sư Chương Gia, ngày đầu
tiên ngài dạy tôi “nhìn thấu, buông bỏ”.
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
99
Nhìn thấu buông bỏ chính là bí quyết tu hành chứng
quả của tất cả chư Phật. Buông bỏ giúp mình nhìn thấu,
nhìn thấu giúp mình buông bỏ. Buông bỏ vọng tưởng,
buông bỏ phân biệt, buông bỏ chấp trước.
* Nhìn thấu là trí tuệ
Nhìn thấu là trí tuệ, trí tuệ của bạn liền khai, bạn
liền thông đạt tường tận, rõ ràng thông suốt tất cả các
pháp là nhìn thấu.
Vì tất cả vấn đề của thế xuất thế gian, chỉ có trí tuệ
mới có thể giải quyết, ngoài trí tuệ ra không có phương
pháp thứ hai có thể giải quyết vấn đề; Cho nên Phật
pháp giảng về trí, giảng về giác, không thể thiếu thứ
này, phải chánh giác.
Chúng ta nói thiết thực hơn: Để giải quyết vấn đề
bản thân hiện tại của chúng ta, giải quyết vấn đề sinh
hoạt ngay trước mắt ta, làm cho đời sống của ta trải qua
được tự tại, trải qua mỹ mãn, trải qua hạnh phúc; Mở
rộng ra là để giải quyết sự việc gia đình của ta, giải
quyết việc công tác của ta, giải quyết cả những vấn đề
của xã hội, thì phải có trí tuệ chân thật. Do đó, trong trí
tuệ xen tạp phiền não thì không thể giải quyết vấn đề.
Cho nên nhìn thấu và buông bỏ tương trợ lẫn nhau,
nhìn thấu giúp chúng ta buông bỏ, buông bỏ giúp chúng
ta nhìn thấu
Nếu như bạn không thể buông bỏ, thì bạn không
cách gì nhìn thấu, hay nói cách khác, bạn không thể
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
100
khai trí tuệ, bạn học có nhiều thứ hơn, nghiên cứu có
nhiều hơn, trong Phật pháp gọi là Thế Trí Biện
Thông. Thế Trí Biện Thông là sở tri chướng, bạn không
thể buông bỏ là phiền não chướng, hai chướng này nhất
định là chướng ngại trí tuệ Bát Nhã của tự tánh đức
năng của bạn.
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then
chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần
phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì
vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không
ngừng. Vì sao không buông xuống được? Chưa thấy
thấu suốt!..” 53
HẾT
53 Trích “Buông bỏ chấp trước mới thoát khỏi luân hồi” – Tịnh Không
pháp sư chủ giảng
VÌ SAO THỜI NAY TU HỌC ÍT THÀNH TỰU?
101
i Ngữ Lục là bạch thoại đời xưa, thời bấy giờ ghi theo tiếng
nói của chư Tổ, một số chỉ có âm mà không có chữ, những
tiếng này không có trong tự điển ngày nay, nên dịch ngữ
lục khó hơn dịch kinh, vả lại, ý của chư Tổ không phải ở nơi
lời nói.
Cũng như hỏi: “Thế nào là Phật Pháp”, Đáp “3 cân mè”;
“Thế nào là ý của tổ sư từ Tây trúc đến”; Đáp: “Cây bách
trước sân”…..
….Quí vị có lẽ nghe nói trà Triệu Châu trong thiền tông (ý
nghĩa không phải hiểu), hoà thượng Triệu Châu, khi người ta
đến thăm Ngài, “Uống trà đi”, Ngài chỉ có một câu này, đã độ
hoá tất cả chúng sanh. Bạn không nên cho rằng “Uống trà đi”,
được, bạn đi xếp ly trà thật, để uống trà. Câu “Uống trà đi” đó
của Ngài chính là bảo bạn trong cuộc sống thường ngày, trong
việc ăn uống sinh hoạt, không để lại ấn tượng, không phân
biệt, không chấp trước, có thứ nào mà chẳng phải là thiền? Có
thứ nào mà chẳng phải là công phu? Chỉ cần ở trong tất cả
pháp, không phân biệt, không chấp trước, không để lại ấn
tượng, chính là vô trụ. Mới có một chút phân biệt, chấp trước,
thì tâm của bạn liền có trụ, có trụ là hỏng rồi, có trụ thì sinh
phiền não, sẽ khởi chướng ngại, vô trụ mới tương ưng với
pháp tánh. (Giảng giải Phật thuyết đại thừa Vô Lượng Thọ,
Trang nghiêm, Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác Kinh – VCD 01-
Chủ giảng Tịnh Không Pháp sư).
iii Tín vi đạo nguyên công đức mẫu: Lòng tin là bước đầu vào
đạo, là mẹ của của tất cả công đức (Niệm Phật Thập yếu- Hòa
Thượng Thích Thiền Tâm).
CHIA SẺ GIÁO PHÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
102
HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công đức này
Trang nghiêm Phật tịnh độ
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Cùng phát tâm bồ đề
Hết một báo thân này
Đồng sanh Cực lạc quốc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI ĐẠI TỪ
ĐẠI BI A DI ĐÀ PHẬT