ch ng 1: di n bi n cu c kh ng ho ng tÀi chÍnh m nĂm 2007-2009
TRANSCRIPT
CHƯƠNG 1: DIỄN BIẾN CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ NĂM 2007-2009
1.1. Tổng quan nền kinh tế Mỹ trước khủng hoảng
1.1.1 Tình hình sản xuất kinh doanh
Mỹ có nền kinh tế thị trường lớn nhất thế giới - năm
2005, GDP của Mỹ ước tính đạt hơn 12.000 tỉ đô la.
Các ngành không trực tiếp sản xuất ra hàng hóa gồm
thương mại, giao thông vận tải, ngân hàng đã tạo ra đến
70% GDP dệt may tính cạnh tranh không mạnh như trước;
ngành ô tô tuy vẫn là ngành quan trọng nhưng đang có nguy
cơ phá sản vì bị cạnh tranh gay gắt về giá bán ngoại trừ
năm 1991 là GDP âm 0,2%, còn lại đều có chỉ số tăng
dương, trong đó có 11 năm đạt từ 3,5 đến 4,5%. Lạm phát
được kiểm soát trong khoảng 6,4% (1990) - 2,3% (năm tài
chính 2004) so với trên 12% những năm 1970. Năng suất lao
động gần như tăng ổn định, đạt từ 3,4% đến 4% trong bốn
năm từ 2000 đến 2004.
1.1.2 Cán cân thanh toán
Nếu tính theo giá trị tuyệt đối, năm 2006 cán cân
thanh toán của Mỹ thiếu hụt lên tới 721 tỉ USD
Trước năm 1993, tỉ lệ thiếu hụt trên GDP dưới 1%; từ
năm 2000 tỉ lệ này tăng lên trên 3% ở mức mà các nhà
kinh tế thường cho là có vấn đề nghiêm trọng. Nhưng thay
vì được điều chỉnh, tỉ lệ thiếu hụt vào năm 2005 và 2006
vượt lên trên 5%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Mỹ
chiếm khoảng 25% GDP, là mức không phải cao trên thế
giới, nhưng giá trị tuyệt đối là rất lớn
1.1.3 Thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán Mỹ có tổng giá trị lên đến
33,4 ngàn tỉ đô la, tức gấp gần ba lần GDP của một năm.
Riêng giá trị của thị trường chứng khoán New York đã là
20.000 tỉ đô la, với hơn 2.000 công ty niêm yết, giao
dịch có ngày lên đến hơn 2,5 tỉ cổ phiếu. Tính đến tháng
4-2005, các nhà đầu tư ngoại quốc sở hữu 38% trái phiếu
chính phủ Mỹ, 23% trái phiếu của các công ty Mỹ và 11%
trái phiếu của các tổ chức, các quỹ của Mỹ.
Đến hết năm 2004, riêng chính phủ các nước châu Á đã
mua 1,1 ngàn tỉ đô la trái phiếu chính phủ Mỹ, tăng 22%
so với năm trước đó; tính đến tháng 9-2005 Nhật Bản mua
của chính phủ Mỹ 687 tỉ, Trung Quốc mua 252 tỉ và Anh mua
182 tỉ đô la chứng khoán
1.1.4 Thị trường bất động sản
Năm 2005, tại Mỹ, giá nhà đất đã tăng ở mức trung
bình 12,5 %, thậm chí tăng đến 20% tại một số bang như
California, Nevada, Hawaii, Maryland, Washington DC và
tăng ở mức độ khủng khiếp tới 35% tại Palm Beach,
Florida. Trong giai đoạn từ 2000 đến 2005, tại
California, đã có 500 nghìn giấy phép kinh doanh bất động
sản được cấp. Tuy nhiên, đến cuối năm 2006, bức tranh về
tình hình kinh doanh địa ốc ở Mỹ đã xấu đi, các chuyên
gia kinh tế thế giới đã cảnh báo rằng "một vụ nổ bong
bóng lịch sử sẽ đến".
1.2. Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ (Clip)
1.3. Tác động của khủng hoảng Mỹ
Khủng hoảng tín dụng, khủng hoảng cho vay thế chấp,
khủng hoảng nợ dưới chuẩn của các ngân hàng và các tập
đoàn tài chính khổng lồ ở Mỹ đã lan toả nhanh chóng tới
tất cả các quốc gia ở các khu vực, ảnh hưởng tới tất cả
lĩnh vực tài chính, kinh tế, thương mại, đời sống, xã hội
trên phạm vi toàn cầu.Trong bài tiểu luận này, chúng tôi
xin đi sâu vào phân tích tác động của khủng hoảng tài
chính đến nội tại nền kinh tế Mỹ.
1.3.1 Khủng hoảng tài chính toàn cầu
Sự đổ vỡ dây chuyền trong ngành tài chính Mỹ đã lan
qua Đại Tây Dương, tới Châu Âu, sang Châu Á và trở thành
“cơn sóng thần thế kỷ” (Alan Greenspan, cựu Chủ tịch
FED). Thực tế cho thấy tình hình khủng hoảng đã diễn ra
trên phạm vi rộng, tác động lớn và chuyển từ khủng hoảng
cho vay cầm cố dưới chuẩn sang khủng hoảng kinh tế, tài
chính. Trầm trọng hơn, thế giới đang phải đối mặt với các
cuộc khủng hoảng khác, đó là cuộc khủng hoảng năng lượng,
khủng hoảng khí hậu và khủng hoảng lương thực.
Tăng trưởng kinh tế toàn cầu đã sụt giảm nhanh chóng
từ mức 5.2% năm 2007 xuống còn 3.4 % năm 2008. Mức độ suy
thoái kinh tế trong quý IV/2008 và quý I/2009 ở nhiều nền
kinh tế phát triển và đang phát triển xấu hơn dự báo.
Tăng trưởng thương mại thế giới giảm nhanh từ 7.2% năm
2007 xuống 4.1% năm 2008
Hệ thống tài chính thế giới lung lay
Năm 2007 có 3 ngân hàng tại Mỹ sụp đổ đến 2008 con số
này đã là 25 và gần hết nửa đầu năm 2009, hơn 40 ngân
hàng tiếp tục “ra đi”. Đặc biệt sự sụp đổ điêu đứng của
các tên tuổi lớn như Lehman Brothers, Washington Mutual
Inc… hay AIG, Fannie Mae, Freddie Mac, Northern Rock…
khiến cả thể giới chao đảo theo
1.3.2 Tăng trưởng kinh tế
Theo như báo cáo của phòng Thương mại Mỹ, GDP của
nước này đã sụt giảm tới mức 6.1%/năm đặc biệt 3 tháng
cuối năm 2008 mức độ sụt giảm lên cao kỷ lục tới 6.3%
chính điều này đã làm cho cuộc khủng hoảng trở nên tồi tệ
nhất trong vòng 50 năm trở lại đây. Khi cuộc khủng hoảng
diễn ra, các nhà kinh tế dự đoán rằng mức sụt giảm GDP
vào khoảng 4.7% tuy nhiên tỷ lệ thực tế đã vượt xa mức dự
đoán và trong vòng 40 năm trở lại đây lần đầu tiên GDP
sụt giảm nghiêm trọng trong liên tiếp 3 quý.
1.3.3 Thị trường chứng khoán sụt giảm nghiêm trọng
Năm 2008, TTCK Mỹ lập kỷ lục về mức đáy mới, những
lần giảm suy giảm chưa từng có trong lịch sử. Chỉ số công
nghiệp Down Jones mất giá 33.84% và đây là mức giảm tồi
tệ nhất kể từ năm 1931 (khi chỉ số này sụt giảm 52.6%).
Chỉ số tổng hợp Nasdaq cũng giảm tới 40.54% trong năm
2008 (năm tồi tệ nhất kể từ khi chỉ số này ra đời năm
1971). số S&P 500 giảm 38.49% và cũng là giảm mạnh nhất
trong 77 năm qua.
1.3.4 Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao kỷ lục
Nhiều doanh nghiệp không đủ sức chống đỡ lại vòng
xoáy của khủng hoảng nên đã buộc phải cắt giảm nhân sự và
tạo nên làn song thất nghiệp lớn. Theo báo cáo công bố
ngày 4/4/2009 của Chính phủ Mỹ, trong tháng 3/2009,
80.000 việc làm đã bị cắt giảm và đây là mức cắt giảm lớn
nhất trong vòng 5 năm qua. Đến cuối 6/2009, số người thất
nghiệp ở Mỹ đã lên tới 627.000 người. Tháng 2/2010 mức
thất nghiệp là 9.6%. Sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp khiến
cho nhu cầu tìm kiếm công việc khác trong xã hội của
người lao động tăng cao. Những khó khăn về vấn đề việc
làm đã ảnh hưởng đến khu vực tiêu dùng của dân chúng khi
mà hoạt động tiêu dùng chiếm đến 2/3 hoạt động kinh tế Mỹ
.
1.3.5 Cán cân thương mại
Trong một thời gian dài, cán cân thương mại của Mỹ bị
thâm hụt nặng nề, đặc biệt là trong thời kỳ khủng hoảng.
Nguyên nhân là do đồng đô la mạnh trong thời kỳ khủng
hoảng so với hầu hết các đồng tiền trên thế giới làm cho
giá cả hàng hoá của Mỹ tại nước ngoài đắt hơn và xuất
khẩu giảm.
1.3.6 Tỷ giá hối đoái
Nền kinh tế thế giới lâm vào suy thoái với hàng loạt
tin tức xấu về tình hình tăng trưởng kinh tế của hàng hoá
các nước từ Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản Trung Quốc kéo theo sự
sụt giảm nghiêm trọng của thị trường hàng hoá như vàng,
dầu mỏ và chứng khoán. Trong bối cảnh hàng hoá sụt giảm
nghiêm trọng thì việc nắm giữ tiền là lựa chọn an toàn
với các nhà đầu tư, đặc biệt là các đồng tiền mạnh, lãi
suất thấp như USD, JPY, dựa trên nguyên lý “Lợi nhuận
thấp, rủi ro thấp”. Từ đó làm cho đồng đô-la lên giá so
với các đồng tiền khác như Euro, Nhân dân tệ, bảng Anh và
Franc Thuỵ sỹ….
1.3.7 Khủng hoảng niềm tin
Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ gắn liền cùng với cuộc
khủng hoảng về niềm tin. Sự sụp đổ của hàng loạt các định
chế tài chính lớn, các vụ siêu lừa đảo trên thị trường
tài chính khiến niềm tin của các nhà đầu tư bị lung lay.
Hiệu ứng “tâm lý đẩy” lan toả. Thế giới đã chứng kiến
cảnh hàng đoàn người đứng trước cửa Ngân hàng đòi rút
tiền, thị trường chứng khoán tụt dốc thê thảm. ...
CHƯƠNG 2: NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG
2.1. Nguyên nhân trực tiếp
2.1.1 Khủng hoảng nợ dưới chuẩn
Cho vay thế chấp dưới chuẩn là khoản cho vay chất
lượng thấp với mức rủi ro cao. Các khoản vay này không
được xem xét kỹ lưỡng và thường được bảo đảm bởi rất ít
hoặc không có giấy tờ chứng minh khả năng tài chính của
người đi vay.
Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, khi sự bùng nổ của
giá nhà đất trở nên đỉnh điểm, số lượng các giấy tờ được yêu cầu trong
các hồ sơ xin vay đã được giảm thiểu tới mức thấp nhất. Các khoản vay
này còn được gọi là “không giấy tờ” bởi vì chúng hầu như không được
bảo đảm bằng bất kỳ giấy tờ nào
Ðể bù đắp lại rủi ro cao, những khoản vay này là
những khoản vay với lãi suất cao hoặc người đi vay phải vay
theo lãi suất ARM ( Adjustable rate Mortgages) với lãi suất ban
đầu thấp, sau đó được điều chỉnh dần lên những mức cao hơn.
Thị trường dưới chuẩn được hình thành phần lớn từ các
khoản vay này, giúp cho những người có khả năng tài chính
kém dễ dàng hơn trong việc chi trả hàng tháng nhưng chi
phí tiềm ẩn của các khoản chi trả trong tương lai lại cao
hơn rất nhiều.
Việc giảm lãi suất xuống mức thấp kỉ lục của FED và
sự bùng nổ của thị trường nhà đất Mỹ đã kéo theo sự gia
tăng mạnh của hoạt động cho vay cầm cố dưới chuẩn
Như vậy, hoạt động của toàn hệ thống được thúc đẩy
bởi khối lượng tín dụng cao, tiêu chuẩn tín dụng thấp,
lãi suất và phí cao. Hầu hết những người cho vay không
nhận ra cái bẫy họ đang bước vào. Ðồng thời, nhiều người
đi vay đã lợi dụng sự dễ dãi của môi trường cho vay để
đầu cơ. Họ không mua nhà để ở mà chỉ để giữ một thời gian
rồi bán lại cho người khác nhằm kiếm lời. Và khi lãi suất
tăng lên, giá cả bất động sản giảm nhanh chóng đã gây khó
khăn cho hoạt động vay cầm cố dưới chuẩn. Khủng hoảng
trên thị trường cho vay cầm cố dưới chuẩn đã xảy ra khi
một loạt các vụ tịch thu tài sản trên thị trường này gia
tăng ở Mỹ vào năm 2006, và lây lan thành cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu vào tháng 7/2007.
2.1.2 Phát kiến tài chính
Đã có rất nhiều ý kiến cho rằng sự vỡ nợ của các
khoản cho vay dưới chuẩn chính là nguyên nhân của cuộc
khủng hoảng tài chính đang diễn ra nhưng bi kịch nghiêm
trọng nhất chính là sự đánh giá sai các hợp đồng bảo lãnh
nợ khó đòi (Credit default swaps – CDS, credit
derivatives swaps) và các chứng khoán phát hành dựa trên
các hợp đồng cho vay bất động sản dưới chuẩn làm tài sản
đảm bảo MBS (Mortgage Backed Securities ) .
Mortgage-Backed Securities- MBS – Chứng khoán được
đảm bảo bằng các hợp đồng vay thế chấp
Cơ chế tạo ra công cụ tài chính này như sau: Một số
lượng lớn các khoản vay thế chấp được kết hợp lại và
chuyển giao cho một công ty tài chính quản lý. Các ngân
hàng sử dụng các khoản vay thế chấp để bảo đảm cho việc
phát hành MBS. Mỗi cổ phiếu MBS có giá trị phát hành bằng
tổng số tiền mặt được tạo ra bởi các khoản vay thế chấp
hay còn gọi là tổng quỹ chia cho số cổ phiếu MBS được
phát hành. Hầu hết các khoản vay thế chấp như vậy được
xếp vào loại có chất lượng tốt. Và các chứng khoán này
được bán cho các nhà đầu tư toàn cầu.
Mô hình cho vay thế chấp truyền thống bao gồm một bên
là ngân hàng cấp cho người đi vay hay chính là những
người sở hữu nhà một khoản vay và ngân hàng phải gánh
chịu rủi ro tín dụng. Với sự sáng tạo chứng khoán hóa, mô
hình truyền thống đã trở thành mô hình mới từ phát hành
đến phân phối (“originate to distribute” model), mà ở đó
các ngân hàng chủ yếu bán các khoản cho vay thế chấp và
phân bổ rủi ro sang các nhà đầu tư thông qua MBS. Như vậy
chứng khoán hóa cũng đồng nghĩa với việc những nhà cung
cấp các khoản cho vay cầm cố sẽ không còn phải nắm giữ
chúng cho tới khi đáo hạn. Bằng việc bán các hợp đồng vay
nợ cho các nhà đầu tư, ngân hàng phát hành lại được bổ
sung vào quỹ của mình, nhờ đó họ có thể tiếp tục cung cấp
nhiều khoản cho vay hơn nữa đồng thời phát sinh cả phí
giao dịch. Đi đôi với những thuận lợi mang lại cho các
ngân hàng thì việc chứng khoán hóa cũng gây ra rủi ro đạo
đức vô cùng lớn, bởi nó khuyến khích ngày càng nhiều các
hợp đồng vay nợ thế chấp được ký kết trong khi không có
cơ sở nào chắc chắn đảm bảo chất lượng các khoản tín dụng
đó.
Các ngân hàng ngày mạnh tay và mạo hiểm hơn tìm kiếm
các khoản lợi nhuận béo bở từ việc phát hành MBS ra thị
trường tài chính quốc tế. Mặc dù trên thực tế, có rất
nhiều các hợp đồng cho vay dưới chuẩn lâm vào tình trạng
không đòi được nợ nhưng các tổ chức giám định hệ số tín
nhiệm (Credit rating agencies) lại đánh giá cao độ tín
nhiệm của các loại sản phẩm phái sinh này. Và nó khiến
các ngân hàng, công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, quỹ đầu tư
trên toàn thế giới bị cuốn hút mà không hề biết rằng các
hợp đồng cho vay bất động sản này là không đủ tiêu chuẩn.
Khi thị trường bất động sản liên tiếp hạ nhiệt, người đi
vay không có khả năng trả nợ, đồng thời giá trị bất động
sản nếu bán được cũng không còn đủ để trả nợ. Hậu quả là
một số lớn các hợp đồng cho vay bất động sản dùng để làm
tài sản đảm bảo cho MBS là nợ khó đòi, các MBS bị mất giá
trên thị trường thứ cấp, thậm chí là không còn mua bán
được trên thị trường, khiến cho các ngân hàng, các nhà
đầu tư nắm giữ MBS không những bị lỗ nặng mà còn mất khả
năng thanh toán.
Khi mới hình thành, Fannie Mae là một cơ quan của
chính phủ khi đó, hoạt động bảo lãnh của cơ quan này luôn
nhận đựơc sự hỗ trợ của Chính phủ Mỹ. Vào năm 1968,
Fannie Mae được chuyển đổi thành tập đoàn tư nhân, hoàn
toàn gỡ bỏ các khoản nợ của mình ra khỏi bảng cân đối kế
toán của chính quyền liên bang. Tuy nhiên, không có bất
kỳ rủi ro nào đối với các khoản bảo đảm của cơ quan này.
Và khủng hoảng tín dụng đã làm đảo lộn tình trạng của
Fannie Mae. Cả Fannie Mae và Freddie Mac đều nắm giữ một
khối lượng lớn khoản vay Alt-A1 và dưới chuẩn. Khi tình
trạng phá sản của chủ nhà gia tăng đột biến và các tài
sản thế chấp giảm giá trị, hai tổ chức này đều không có
khả năng trả được nợ. Thực tế, khoản thua lỗ của 2 tổ
chức này trong năm 2008 lớn hơn cả tổng số lợi nhuận kiếm
được từ năm 1990 đến năm 2007. Đến ngày 7/09/2008 Chính
phủ phải vào cuộc và tiến hành quốc hữu hoá cả hai tổ
chức này.
Credit Default Swaps – CDS – Hợp đồng bảo lãnh nợ khó
đòi
Là một công cụ đơn giản, trên phương diện lý thuyết
nó chỉ là sự thỏa thuận giữa hai bên, một bên trong hợp
đồng có trách nhiệm trả một khoản phí định kỳ cho bên kia
và được cam kết nhận đủ số tiền cho vay nếu bên thứ ba
không trả được nợ trong một khoảng thời gian cụ thể,
thường là 5 năm. Chúng được xem là chính sách bảo hiểm1
các khoản nợ hiệu quả, hay nói cách khác chúng giúp các
bên trong hợp đồng tránh được các quy định bắt buộc trong
một hợp đồng bảo hiểm. Bởi lẽ luật pháp không yêu cầu bên
cung cấp dịch vụ CDS phải có những khoản dự trữ đồng thời
cũng không có tiêu chuẩn nào trong ngành bảo hiểm này.
Với một hợp đồng bảo hiểm thông thường, bên được bảo hiểm
phải chỉ ra họ phải chịu rủi ro mất mát lớn để có thể bảo
hiểm được và nhận được tiền bồi thường. Tuy nhiên trong
trường hợp CDS, các khoản thiệt hại có thể là có thực
hoặc cũng có thể là suy đoán. Đó là lý do vì sao mà khối
lượng trên danh nghĩa của các CDS chưa được thanh toán
lại lớn hơn rất nhiều so với các khoản cho vay chưa được
hoàn trả.
Các nhà đầu cơ có thể ký hợp đồng bảo hiểm cho các
khoản tín dụng doanh nghiệp với trị giá vượt xa tổng giá
trị của khoản nợ trên thực tế và thậm chí không tồn tại
bất cứ khoản cho vay nào. Họ chắc chắn kiếm được món hời
lớn nếu khả năng thanh khoản của doanh nghiệp giảm xuống.
Khi vỡ nợ xảy ra hay khả năng thanh toán thay đổi, nhà
cung cấp hợp đồng bảo hiểm không có hề có sự chuẩn bị nào
ngoài việc phải đối mặt với nghĩa vụ của mình. Do đó các
quỹ bảo hiểm có thể thất bại nặng nề và đẩy các khách
hàng cũng như các nhà đầu tư lâm vào tình trạng khó khăn.
Với các công ty bảo hiểm lớn như AIG phải bán hàng trăm
tỷ USD các hợp đồng bảo hiểm tín dụng thì sự bảo lãnh và
cứu trợ của chính phủ là hết sức cần thiết để ngăn ngừa
sự sụp đổ của hệ thống tài chính. Theo cách đó, CDS thu
hút những nhà “thiết kế tài ba của các phát kiến tài
chính mới” luôn phải đề phòng sơ suất của thị trường, kết
quả là thị trường tài chính quốc tế trở nên rất dễ đổ vỡ.
Nhìn vào bảng trên ta thấy, thị trường bảo hiểm tín
dụng bắt đầu manh nha từ năm 2002 nhưng chỉ đến năm 2007
đã lên tới một con số khổng lồ 58 nghìn tỷ US $. Trong
nửa đầu và nửa cuối năm 2007, giá trị danh nghĩa CDS chưa
được hoàn trả tương ứng tăng thêm 14 và 15 nghìn tỷ USD.
Nói cách khác, trong năm 2007, CDS tăng lên một lượng cao
hơn cả GDP của Mỹ định kỳ 6 tháng.
CDS thực ra cũng tương tự như việc bán khống các
khoản nợ mà không phải vay mượn các công cụ ghi nợ để
thực hiện giao dịch. Các quỹ, công ty bảo hiểm vì vậy có
thể sẽ bảo hiểm cho rủi ro vỡ nợ của doanh nghiệp mặc dù
họ không hề sở hữu nó, kể cả với những khoản nợ có giá
trị lớn hơn gấp bội so với giá trị của khoản nợ thật sự.
Thủ đoạn đó gây ra hậu quả đối ngược nhau:
Thứ nhất, các hợp đồng bảo hiểm được bán ra là động
cơ khuyến khích quá trình phát sinh, thổi phồng và lan
tỏa những thông tin xấu về doanh nghiệp. Không chỉ những
người bán khống mà cả các quỹ phòng vệ cũng ngay lập tức
tham gia vào quy trình này, bán khống cổ phiếu của doanh
nghiệp và mua bảo hiểm tín dụng dựa trên những khoản vay
nợ của doanh nghiệp.
Thứ hai, bằng việc mua bảo hiểm tín dụng với giá trị
lớn, các quỹ này đã làm tăng chi phí phát sinh từ các
khoản vay nợ, chi phí đó thay cho chi phí tối thiểu để
một doanh nghiệp có thể vay những khoản tiền mới. Vì vậy,
khi chi phí vốn gia tăng đột ngột sẽ gây ra những ảnh
hưởng bất lợi cho khả năng tái tài trợ hay tài trợ cho
các dự án mới.
Nhà cung cấp CDS phải luôn duy trì khả năng thanh
khoản và khả năng đối mặt với các nghĩa vụ khi đáo hạn.
Các ngân hàng đầu tư tại Mỹ đã mạo hiểm phát hành CDs,
mua lại các quỹ phòng về và trở thảnh chủ nợ chính của
các quỹ này. Kết quả là, bảng cân đối tài chính của các
ngân hàng lớn rơi vào rủi ro, họ không thể tuyên bố tình
trạng phá sản của các quỹ phòng vệ mà họ mua lại và chạy
trốn. Các ngân hàng bước vào khủng hoảng. Khi vỡ nợ xảy
ra báo hiệu cuộc khủng hoảng đang đến, các định chế tài
chính sẽ phải đối mặt với các khoản phải trả vô cùng lớn.
Họ thi nhau tuyên bố mất khả năng thanh khoản, gây ra
thiệt hại nặng nề cho hệ thống tài chính Mỹ. Đó chính là
lý do vì sao bất cứ dấu hiệu nào về tình trạng khó khăn
của các định chế tài chính đều gây ra khủng hoảng tâm lý
và sự sợ hãi cho thị trường. Sự buông lỏng trong việc
giám sát sự gia tăng CDS được phát hành, không hề có sự
kiểm tra, yêu cầu kê khai, báo cáo là một trong những lý
do chính gây ra khủng hoảng tài chính Mỹ.
Collateralised Mortgage Obligations-CMO – Trái phiếu
được bảo đảm bằng nợ thế chấp
Các MBS đã gây ra bùng nổ trên thị trường nhà ở
khi các khoản nợ có tính thanh khoản thấp trong bảng cân
đối kế toán ngân hàng được chứng khoán hóa để giao
dịch trên thị trường vốn. Không thể đánh giá thấp tầm
quan trọng lịch sử của phát minh này. Một công cụ tài
chính khác tương tự như trái phiếu “cấp thấp” (junk bonds
- Loại trái phiếu có độ rủi ro cao và tỷ suất lợi tức
cao) của Michael Milken vào những năm 1980 cũng đã xuất
hiện.
Khi số lượng các khoản vay thế chấp được “gói”
lại (packaged) tăng theo hàm số mũ, thì nhiều trong số
các khoản cho vay đó là cho vay dưới chuẩn. Do vậy, tổng
quỹ cho vay bao gồm các cấu phần có chất lượng không đồng
đều. Có những phần an toàn tuyệt đối, vài phần chất lượng
trung bình, còn lại thì đầy rủi ro.
Trong khi đó, các nhà đầu tư trên thị trường lại
có xu hướng chấp nhận mức độ rủi ro không giống nhau. Các
quỹ tương hỗ (mutual funds), quỹ hưu trí (pension funds)
chỉ được phép mua những tài sản có chất lượng cao. Các
nhà đầu tư khác, trong đó chủ yếu là các quỹ đầu cơ
(hedge funds) lại được phép linh hoạt tài chính nhiều
hơn. Do vậy, một quỹ các khoản cho vay thế chấp được cấu
trúc thành các trái phiếu được đảm bảo bằng các khoản nợ
có thế chấp CMO với 03 gói khác nhau:
+ Gói siêu hạng (The super tranche): Loại này
được xếp vào loại AAA và có vị trí cao nhất trong thứ tự
ưu tiên để nhận tiền mặt từ các khoản thanh toán thế
chấp.
+ Gói Cấp trung (The mezzanine tranche): Gói này
có điểm tín dụng thấp hơn, nằm ở vị trí tiếp theo để nhận
các khoản thanh toán.
+ Gói Sở hữu (The equity tranche): Đây là gói có
rủi ro cao nhất và xếp vị trí cuối cùng trong chuỗi thanh
toán, sau hai gói trên.
Do có mức rủi ro khác nhau nên mỗi gói có mức tỷ
suất lợi tức khác nhau. Gói Sở hữu có rủi ro cao nhất nên
tỷ suất lợi tức là lớn nhất và ngược lại, gói Siêu hạng
có mức rủi ro thấp nhất, nên có tỷ suất lợi tức là thấp
nhất.
2.2. Nguyên nhân gián tiếp
2.2.1 Bong bóng bất động sản
a/Chính sách nhà cho người có thu nhập thấp và chính sách tiền tệ nới
lỏng
Sau khi bong bóng Dot-com2 vỡ vào năm 2001 và suy
thoái kinh tế hiện rõ sau sự kiện 11/9, Cục dự trữ Liên Bang2
Hoa Kỳ đã có những biện pháp tiền tệ để cứu nền kinh tế
nước này khỏi suy thoái, đó là hạ lãi suất cho vay qua đêm
liên ngân hàng. Điều này kích thích sự phát triển của khu
vực bất động sản và ngành xây dựng làm động lực cho tăng
trưởng kinh tế
. Đến năm 2002, dù nền kinh tế đã phục hồi, nhưng mối
lo ngại về suy thoái có thể quay lại đã khiến FED giữ
nguyên mức lãi suất chủ đạo ở mức 1% trong suốt hai năm
2003 và 2004. Việc FED thực hiện chính sách tiền tệ nới
lỏng với mức lãi suất thấp đã thúc đẩy việc mở rộng cho
vay mua bất động sản.
Chính sách hỗ trợ nhà ở cho người dân Mỹ đã khuyến
khích và tạo điều kiện cho người dân nghèo và các nhóm dân da màu
được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Điều luật này cũng gia
tăng sức ép lên các ngân hàng tạo điều kiện cho những
người có thu nhập thấp vay tiền mua nhà. Từ đó, cầu về
nhà ở đã tăng cao.
=>Chính sách tiền tệ nới lỏng cùng với chính sách nhà
cho người có thu nhập thấp đã thúc đẩy mở rộng cho vay
bất động sản, kể cả với những khách hàng không có điều
kiện vay vốn, có thu nhập thấp. Vì lãi suất cho vay thấp,
điều kiện cho vay dễ dàng hơn nên nhu cầu mua nhà tăng
lên rất cao, do đó, giá bất động sản cũng được đẩy lên
liên tục.
Điều này còn dẫn đến tình trạng các nhà đầu cơ địa ốc
đổ vốn vào thị trường này để thu lợi do dự đoán giá nhà còn tiếp tục
tăng cao. Với niềm tin giá nhà còn tăng cao, chỉ cần mua
và bán lại để trả nợ ngân hàng mà vẫn có lãi, người ta
sẵn sàng mua nhà với giá cao bất kể giá trị thực và khả
năng trả nợ. Về phía ngân hàng, các ngân hàng cũng đẩy
mạnh cho vay mua nhà đất bởi nếu người vay không trả được
nợ thì có thể bán nhà thế chấp để thu hồi vốn và đồng
thời kiếm lời từ hoạt động cho vay
b/ Bong bóng bất động sản
Lợi nhuận đã tạo động lực khiến các ngân hàng xem nhẹ
khả năng chi trả của khách hàng, đẩy mạnh cho vay cầm cố
bất động sản.
Nhu cầu tăng khiến giá nhà tăng theo. Lãi suất thấp,
cho vay dễ đã khuyến khích người dân mua nhà từ nguồn vay
cầm cố, do đó đã đẩy giá nhà liên tục leo thang,
Bong bong nhà đất kéo dài suốt giai đoạn 2001-2005.
Sự phục hồi nền kinh tế cùng với xu hướng lạm phát gia
tăng đã khiến FED quyết định tăng lãi suất trở lại. FED
tăng lãi suất từ 1% giữa năm 2004 lên 3,75% vào tháng
8/2005 và 5,25% vào giữa năm 2006. Sự tăng lãi suất đã
trở thành áp lực cho lớn cho những người vay mua nhà. Tại
thời điểm này, thị trường bất động sản bắt đầu có dấu
hiệu đóng băng và sụt giảm.
Các chủ nhà đất rơi vào cảnh khó khăn tài chính do
lãi suất tăng làm tăng giá trị hoá đơn thanh toán cho các
khoản vay cầm cố hàng tháng. Bên cạnh đó, giá nhà giảm
làm cho giá trị tài sản cầm cố giảm xuống thấp hơn mức
tiền vay gốc để mua nhà. Tỷ lệ vỡ nợ của người vay tăng
lên, nhất là những người vay dưới chuẩn thường xuyên ở
trong tình trạng khó khăn tài chính. Trong hoàn cảnh đó,
các công ty cho vay lại nhanh chóng đẩy mạnh hoạt động
xiết nợ.
Như vậy, bong bóng bất động sản tại Mỹ đã phình to
trong suốt 3 năm 2002-2005 và bắt đầu vỡ vào năm 2006
2.2.2 Quản lý lỏng lẻo, thông tin thiếu minh bạch
Ngay từ đầu, giới chức trách và ngân hàng Mỹ đã không
những không kiểm soát mà còn khuyến khích các hoạt động
xin vay không đủ tiêu chuẩn của người dân. Việc cho vay
dưới chuẩn một cách ồ ạt và quá dễ dãi khiến cho thị
trường bất động sản Mỹ diễn biến ngày càng một phức tạp,
dẫn đến việc không thể kiểm soát các khoản nợ đó. Thêm
vào đó, Chính phủ Mỹ cũng như giới chức trách tại Mỹ đã
có những phản ứng quá chậm chạp trước những đổi chóng mặt
của thị trường.
Ngoài ra, những nới lỏng của pháp luật đã góp phần khuyến
khích những hoạt động đầu cơ và tạo điều kiện cho xung đột lợi
ích phát triển
Hơn nữa, hoạt động đầu cơ của các quỹ đầu tư một loại hình
quỹ đầu tư nắm giữ tới gần 3000 tỉ đô la giá trị tài sản
nhưng không hề phải cáo bạch tài sản với công chúng và gần như không
chịu sự giám sát của bất kì một cơ quan nhà nước nào.
Bên cạnh đó, giới chức trách cũng đã làm ngơ trước hàng loạt
các phát kiến tài chính của giới ngân hàng thương mại mà tài sản đảm
bảo lại chính là các khoản vay dưới chuẩn.
Các tổ chức điều tiết, trước hết là SEC đã bị chỉ trích
gay gắt vì bỏ qua nhiều dấu hiệu cảnh báo về tình trạng
nguy hiểm của các tổ chức tài chính. Nhiệm vụ của SEC là
giám sát các ngân hàng đầu tư, công ty môi giới và các quỹ đầu cơ .Các
ngân hàng đầu tư đã sử dụng những mô hình toán học để cấu
trúc các sản phẩm tín dụng thành những sản phẩm ngày càng
phức tạp và tinh vi hơn. SEC chỉ tiến hành các đợt kiểm tra định
kỳ mà không giám sát các hoạt động thường nhật của những ngân hàng
này
. Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đáng lẽ ra sẽ là
người quan sát thị trường và đưa ra những cảnh báo kịp
thời nhưng trên thực tế lại chưa có mô hình đánh giá phù
hợp cho mỗi sản phẩm. Đánh giá của các tổ chức đánh giá
mức độ tín nhiệm được xem là biện pháp nhanh chóng nhất
để đánh giá rủi ro tín dụng. Moody, Standard and Poor, và
Fitch là ba tổ chức đánh giá mức độ tín nhiệm chi phối
thị trường. Họ cùng chia sẻ một lợi ích khá mâu thuẫn:
thu về các khoản phí từ các ngân hàng thuê họ đánh giá
mức độ tín nhiệm cho các chứng khoán của chính những ngân
hàng này.
Các tổ chức đánh giá tín nhiệm dễ dãi trong việc trong việc xếp
hạng mực độ tính nhiệm
2.2.3 Đòn bẩy tài chính quá cao
Đòn bẩy tài chính quá cao là một trong những nguyên
nhân chính khiến những đại gia như Bear Stearns, Lehman
Brothers, Merrill Lynch, Fannie Mae và Freddie Mac “ra
đi”.
Đòn bẩy tài chính là việc doanh nghiệp sử dụng các nguồn tài trợ
từ các khoản vay thay cho vốn chủ sở hữu
Tỷ lệ đòn bẩy tài chính đối với các NHTM thường bị
khống chế ở mức độ nhất định, nhưng đối với các ngân hàng
đầu tư thì tỷ lệ này cao hơn rất nhiều .Khác với các
NHTM, các ngân hàng đầu tư không do Ngân hàng trung ương
mà do SEC kiểm soát. Nhờ sự nới lỏng của luật lệ, các ngân
hàng đầu tư đã kinh doanh theo lối “đòn bẩy tài chính” .Trên thực tế,
trong thời gian các ngân hàng đầu tư hoạt động sinh lợi
cao, đòn bẩy tài chính đã được coi là nhân tố kích hoạt
nền kinh tế. Tuy nhiên khi đòn bẩy tài chính bị lạm dụng,
dần dần vượt khỏi tầm kiểm soát thì đòn bẩy tài chính
tăng cao lại trở thành “liều thuốc độc” giết chết các
ngân hàng này
. Không chỉ dừng lại ở các ngân hàng ,chính sách thuế
của Mỹ đã gián tiếp khuyến khích việc sử dụng đòn bẩy tài
chính của khu vực doanh nghiệp cũng như dân cư.
Luật thuế doanh nghiệp của Mỹ đã cho phép khấu trừ
chi phí lãi vay khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Trong khi đó,việc huy động vốn dưới hình thức phát hành
cổ phiếu lại không hề nhận được một sự ưu đãi nào về
thuế. Điều này vô hình chung đã gián tiếp khuyến khích các
doanh nghiệp cũng như các tổ chức tài chính sử dụng vốn vay trong hoạt
động sản xuất kinh doanh hơn là tăng vốn chủ sở hữu.
Đối với khu vực dân cư, luật thuế thu nhập cá nhân
của Mỹ cũng cho phép khấu trừ phần trả lãi vay mua nhà
khỏi phần thu nhập chịu thuế khi tính thuế thu nhập cá
nhân. Chính sách này đã góp phần khuyến khích người dân Mỹ
tăng các khoản vay mua nhà của mình.
2.2.4 Khủng hoảng niềm tin
Có thể nói rằng khủng hoảng tài chính hiện nay một
phần xuất phát từ sự sụp đổ thảm khốc của niềm tin. Các
ngân hàng đánh đố lẫn nhau về mức độ cho vay cũng như tài
sản. Những giao dịch phức tạp được tạo ra để loại bỏ rủi ro và che giấu
những trượt giá giá trị tài sản thực của ngân hàng.
CHƯƠNG 3: BIỆN PHÁP ĐỐI PHÓ VỚI KHỦNG HOẢNG
CỦA HOA KÌ
3.1 Biện pháp của FED
3.1.1 Chính sách tiền tệ:
- Giảm lãi suất cho vay liên ngân hàng
- Giảm lãi suất chiết khấu áp dụng trực tiếp với các
khoản vay từ FED cho các ngân hàng và công ty
chứng khoán
- Giảm mức dự trữ bắt buộc của các ngân hàng thương
mại
Kích thích tiêu dùng, khuyến khích cho vay
3.1.2 Nghiệp vụ thị trường: Mua lại trái phiếu của chính phủ Mỹ, đặc
biệt trái phiếu MBS.
Hỗ trợ cho thị trường thế chấp và nhà ở đồng thời
giúp phục hồi thị trường tài chính.
3.1.3 Chương trình đấu giá cho vay kì hạn:
- Cho phép các tổ chức nhận kí gửi đấu giá để được
vay những khoản vay ngắn hạn đổi bằng tài sản kí
quỹ
- Cho vay thế chấp đối với các tổ chức tài chính
nhằm tăng cường tính thanh khoản của thị trường
tín dụng Mỹ.
3.2 Biện pháp của Chính phủ Mỹ:
3.2.1 Chính quyền Bush và đạo luật kích thích kinh tế (ESA):
-Mua lại các khoản nợ xấu trong các tổ chức tài
chính, số tiền còn lại sẽ được chi dần theo từng giai
đoạn
- thành lập hai ban giám sát thường xuyên báo cáo
định kỳ lên Quốc hội về quá trình thực hiện kế hoạch
và theo dõi tình hình thị trường tài chính, hệ thống
pháp lý, và hoạt động của Bộ Tài chính trong việc sử
dụng quyền lực của mình trong kế hoạch này
- Thành lập một chương trình bảo hiểm dành cho các
tài sản xấu của các doanh nghiệp với mức phí do các
doanh nghiệp trả dựa trên mức độ rủi ro của tài sản
- Gây tác động đối với các tổ chức cho vay để họ giảm
thiểu số vụ tịch biên nhà
- Yêu cầu Tổng thống phải đề xuất một kế hoạch thu
hồi vốn trong trường hợp kế hoạch này thua lỗ trong
vòng 5 năm kể từ ngày có hiệu lực trong trường hợp
chính phủ Mỹ thua lỗ vì trả giá quá cao cho các khoản
nợ xấu.
- Áp dụng hạn chế đối với lương thưởng của lãnh đạo
các doanh nghiệp tham gia chương trình.
3.2.2 Chính quyền Obama và đạo luật tái đầu tư và phục hồi ( ARRA):
- Cắt giảm thuế thu nhập cá nhân và các khoản chi tương
tự
- Cắt giảm thuế liên quan đến việc điều chỉnh Thuế thay
thế tối thiểu (Alternative Minimum Tax - AMT)
- Ưu đãi thuế kinh doanh
- Cứu trợ tài chính của nhà nước
- Trợ cấp cho những khu vực bị ảnh hưởng trực tiếp từ
cuộc suy thoái
- Chi tiêu đầu tư công
=> tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế đã tăng được 12% và tỷ
lệ thất nghiệp giảm mạnh, nền kinh tế bắt đầu có thêm
những việc làm mới vào 2010.
=> Tuy nền kinh tế cũng chưa phục hồi hoàn toàn: tỷ lệ
GDP thực tế vẫn ở dưới mức trung bình và tỷ lệ thất
nghiệp còn ở mức 9,5% nhưng sự chuyển biến của nền kinh
tế trong vòng 18 tháng qua thật thần kỳ.
CHƯƠNG 4: BÀI HỌC CHO VIỆT NAM TỪ KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH MỸ
4.1 Sự cần thiết duy trì hệ thống tài chính ổn định và
minh bạch:
- Việc thực thi các chính sách:
+ Chính sách tiền tệ cần hướng tới mục tiêu chủ
đạo là ổn định mặt bằng giá chung
+ Tập trung ổn định và thực thi chính sách tài
khóa trên hai phương diện cơ bản:ổn định chi tiêu
công của Chính phủ và xây dựng chính sách thuế
minh bạch.
- Củng cố niềm tin:
+ Niềm tin của nhân dân là yếu tố then chốt tạo
ra sự ổn định chính trị
+ công khai những thông tin trên thị trường tài
chính, tăng cường thông tin trên thị trường
chứng khoán tạo thuận lợi cho hoạt động kinh
doanh của các nhà đầu tư, tăng tính thanh khoản
trên thị trường tài chính.
- Nâng cao vai trò quản lý của ngân hàng trung ương:
+ thực hiện chức năng quản lý về mặt nhà nước
trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, ngân hàng
+ thực hiện chức năng là ngân hàng của nhà nước,
ngân hàng của các Ngân hàng
- Giám sát chặt chẽ tỷ lệ vốn của các tổ chức tài
chính:
+ Theo dõi trạng thái thanh khoản và đưa ra các
chiến lược thanh khoản, các diễn biến chính của
thị trường và rủi ro thanh khoản
+ nâng cao hoạt động quản trị rủi ro của mình.
+ Xác định rõ việc mục đích các khoản vay, thực
hiện theo đúng nguyên tắc cho vay, thẩm định
thật kỹ các dự án và làm tốt công tác giảm sát
các khoản vay
4.2 Công khai hoạt động:
- Công khai là điều kiện tiên quyết để luật pháp phát
huy tác dụng, được thực thi nghiêm chỉnh
- Công khai thông tin làm gia tăng mạnh mẽ niềm tin vào
Chính phủ:
+ Tăng cường sự ủng hộ của nhân dân vào những nỗ
lực và biện pháp đúng đắn của Chính phủ
+ Là biện pháp tâm lý, trấn an niềm tin, sự đồng
thuận của nhân dân vượt qua những thời điểm khó
khăn của khủng hoảng
4.3 Xây dựng các gói kích thích kinh tế phù hợp với
điều kiện của quốc gia:
- Hiện tại, Chính phủ Việt Nam đã đang thực hiện hai
gói kích cầu :
+ hỗ trợ lãi suất 4% đối với các tổ chức, cá nhân
thực hiện vay vốn ngân hàng trong thời hạn tối đa là
8 tháng.
+ cung cấp bù lãi suất 4% cho doanh nghiệp, song
hướng vào các nguồn vốn trung và dài hạn trong khoảng
thời gian 24 tháng
- Cả hai gói kích thích kinh tế của Việt Nam đều
hướng tới mục tiêu hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp trong nước và các doanh
nghiệp nhằm về xuất khẩu
CHƯƠNG 5: CÁC CUỘC KHỦNG HOẢNG LIÊN QUAN
5.1 Mô hình khủng hoảng cơ bản:
5.1.1 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất:
Xuất phát từ chính sách vĩ mô không bền vững và tỷ
giá hối đoái cố định.
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất được P. Krugman
(1979) xây dựng và chủ yếu đặc trưng cho các cuộc khủng
hoảng cán cân vãng lai trong điều kiện tỷ giá cố định bị
các hoạt động đầu cơ tấn công [1].
Mô hình này xảy ra ở một số nước có nền tảng kinh tế
vĩ mô quá yếu kém, ngân sách thâm hụt trầmtrọng, cung
tiền tăng quá mức (có thể do Chính phủ in tiền để bù đắp
thâm hụt ngân sách) khiến lạm phát gia tăng; những điều
này dẫn đến cán cân vãng lai thâm hụt trầm trọng. Trước
nguy cơ đồng nội tệ bị giảm giá, Chính phủ buộc phải liên
tục can thiệp bằng cách bán ngoại tệ ra thị trường để duy
trì tỷ giá cố định. Khi lượng dự trữ ngoại hối giảm xuống
một mức thấp nhất định nào đó, các cuộc tấn công mang
tính đầu cơ bắt đầu xảy ra, cùng với các điều kiện nền
tảng kinh tế vĩ mô quá yếu kém và thậm chí là sự gia tăng
căng thẳng về chính trị và xã hội, đến một thời điểm nào
đó, Chính phủ buộc phải chấm dứt chế độ tỷ giá cố định và
chuyển sang thả nổi tỷ giá làm cho đồng nội tệ bị mất giá
liên tục và khủng hoảng tiền tệ xảy ra. Mô hình này được
thể hiện rõ nhất trong các cuộc khủng hoảng ở một số nước
châu Mĩ La Tinh vào cuối những năm 1970, đầu những năm
1980 và trong những năm 1990.
5.1.2 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai
Khủng hoảng không xuất phát từ các yếu tố kinh tế vĩ
mô căn bản mà do kỳ vọng thị trường.
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai được Obstfeld
(1994 và 1995) xây dựng [1]. Khủng hoảng dạng này còn
được gọi là khủng hoảng tự phát sinh (self-fulfilling
crisis), có thể xảy ra ở những nước có mức độ yếu kém về
tài chính và vĩ mô vừa phải, song cam kết duy trì chế độ
tỷ giá cố định của Chính phủ bị suy yếu do các biện pháp
Thâm hụt ngân sách
Tài trợ bằng phát hành thêm tiền
Sức ép lên tỷ giá cố định
NHTW bán dự trữ ngoại tệ để hỗ trợ tỷ
giá
Dự trữ suy giảm
Tấn công đầu cơ
Khủng hoảng tiền tệ
bảo vệ tỷ giá quá tốn kém (chẳng hạn do thắt chặt tiền
tệ, lãi suất bị đẩy lên cao, gây tác động xấu tới tăng
trưởng kinh tế và tạo việc làm). Trước tín hiệu đó, các
nhà đầu cơ có thể bán tháo đồng nội tệ để mua ngoại tệ.
Những sức ép này buộc Chính phủ không có cách nào khác là
phải từ bỏ chế độ tỷ giá cố định để thực thi chính sách
tiền tệ mở rộng trước những cuộc tấn công quy mô của giới
đầu cơ tiền tệ, và hậu quả là khủng hoảng bùng phát. Biến
thể khác của mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai xuất phát
từ tình trạng thông tin không hoàn hảo và mất đối
xứng.Trong điều kiện một hoặc một số ngân hàng có “vấn
đề”, tình trạng này dẫn đến hành vi “bầy đàn”, gây hoảng
loạn tài chính và rốt cuộc dẫn đến khủng hoảng tài chính
- tiền tệ. Mô hình này có thể thấy trong cuộc khủng hoảng
của Hệ thống tiền tệ châu Âu (European Monetary System)
năm 1992-1993.
Kỳ v ọn g th ị tr ường : chí nh ph ủ rờ i bỏ t ỷ gi á cố đ ịnh để thực h iện chín h sách khác Các nh à đầ u cơ tấn cô ng đồng n ội tệ
Tấ n cô ng xảy ra , đ ồng nội tệ có thể ph á gi á và t ăn g lã i suất
Th ấy l ãi su ất t ăn g nên th ả nổi tỷ gi á
5.1.3 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba
Khủng hoảng kép: khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng
tiền tệ.
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba được Yoshitomi và
Ohno (1999) xây dựng, đặc trưng cho các cuộc khủng hoảng
tài khoản vốn trong cán cân thanh toán quốc tế
Khủng hoảng tài khoản vốn thường dẫn đến khủng hoảng
“kép”: khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng ngân hàng. Việc
tự do hoá tài khoản vốn thiếu một trình tự thích hợp đã
dẫn đến hai hệ quả là tiền đề cho cuộc khủng hoảng kép:
(i) Luồng vốn đổ vào ồ ạt vượt quá mức thâm hụt cán cân
vãng lai; và (ii) Vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng quá lớn.
(i) Luồng vốn đổ vào ồ ạt vượt quá mức thâm hụt cán
cân vãng lai đã khiến cán cân thanh toán (BOP) thặng dư
và dự trữ ngoại hối tăng. Điều này dẫn tới sự bành trướng
tín dụng, đầu tư và tiêu dùng trong nước. Điểm mấu chốt ở
đây là việc đầu tư quá mức (dư thừa năng lực sản xuất),
đầu tư kém hiệu quả (vào các lĩnh vực như bất động sản…),
đã dẫn tới hậu quả là thâm hụt cán cân vãng lai tăng,
xuất hiện nền “kinh tế bong bóng” và mức cung dư thừa.
Khi các nhà đầu tư nhận thức được những yếu kém kể trên
và những dấu hiệu bất ổn khác như sự sụt giảm giá bất
động sản và cổ phiếu cũng như các hoạt động tấn công đầu
cơ tiền tệ, họ đồng loạt rút vốn ra khỏi nền kinh tế. Hậu
quả là cán cân thanh toán trở nên thâm hụt trầm trọng và
dự trữ ngoại hối dần cạn kiệt, báo hiệu về một cuộc khủng
hoảng tiền tệ xảy ra.
(ii) Trong điều kiện tự do hoá cán cân vốn, một lượng vốn
ngắn hạn với tỷ trọng quá lớn (lớn hơn nhiều dự trữ ngoại
hối) đã đổ vào nền kinh tế. Trong điều kiện giám sát các
khoản vay nợ kém hiệu quả, một lượng lớn vốn vay ngắn hạn
bằng ngoại tệ đã được cho vay bằng nội tệ để đầu tư dài
hạn vào những dự án kém hiệu quả đã dẫn đến vấn đề “sai
lệch kép” trầm trọng. Bảng cân đối tài sản của các công
ty cũng như của hệ thống ngân hàng - tài chính xấu đi một
cách trầm trọng khi đồng nội tệ mất giá và một lượng vốn
lớn của các nhà đầu tư nước ngoài bị rút ra đột ngột; đến
lượt nó, tài sản ròng của các ngân hàng bị sụt giảm, dẫn
đến tín dụng càng bị thắt chặt và bảng cân đối tài sản
của các ngân hàng càng tồi tệ hơn. Quá trình tác động
vòng xoáy và cộng hưởng này gây nên khủng hoảng bùng phát
trong một thời gian rất ngắn và đẩy các nền kinh tế ngập
sâu vào vòng suy thoái. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền
tệ châu Á 1997-1998 được coi là ví dụ điển hình của mô
hình khủng hoảng thế hệ thứ ba.
KHỦNG HOẢNG
Tình hình tài chínhTỷ lệ nợ khó đòi caoMất cân xứng về kỳ hạn giữa tài sản nợ và tài sản có
Hệ thống tài chính nội địa Tập trung vào ngân hàngGiám sát yếu kémTâm lý ỷ lại
Phân bồ vốn sai lệchĐầu tư quá mứcBong bóng giá tài sảnTham nhũng
Dòng vốn nước ngoài chảy vàoChính sách kinh tế vĩ môTỷ giá hối đoái cố định
Tình hình kinh tế vĩ môTỷ giá hối đoái thực bị nâng giáThâm hụt thương mại gia tăng
Làn sóng toàn cầu hóaTự do thương mạiDòng chảy FDI
Bất ổn về giáHàng rào thề chế
Làn sóng tiết kiệm toàn cầu
Nhân công giá rẻTích lũy tư bảnPhát triển công nghệ
Gia tăng lợi nhuận siêu ngạch của FDIThiếu hụt đầu tư thực
Lãi suất giảm
Bong bóng giá nhà đất
Đầu tư Đầu tư
Các phát kiến tài chính (CDO, CDS, MBS, ABS …)
Khủng hoảng tài chính toàn cầu
Chủ nghĩa thị trường tự do (giải điều tiết)
5.1.4 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ tư
Cảnh báo khủng hoảng tiền tệ ra đời dựa trên cơ sở
kết hợp các yếu tố của thế hệ mô hình thứ 1,2,3.
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
5.2 Các cuộc khủng hoảng liên quan.
5.2.1. Khủng hoảng tài chính Thái Lan năm 1997
1985-1995: kinh tế TL tăng trưởng quá nóng trung bình
9%/ năm và dự báo của IMF nói rằng bong bóng kinh tế có
thể không giữ được lâu.
Cuối 1996: TL có sự điều chỉnh thị trường chứng
khoán. Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị
trường chứng khoán đều giảm đi.
Tháng 5/1997: đồng baht bị tấn công đầu cơ quy mô
lớn.
Tháng 6/1997: Thủ tướng TL tuyên bố không phá giá
đồng baht.
Tháng 7/1997: Nhưng lại thả nổi đồng baht
Đồng baht giảm giá gần 50%.
Tháng 1/1998: 56 baht mới đổi được 1 usd.
GDP: 440usd (1995) - 3012usd (1996) -> yên tâm xem
như con hổ châu á
Doanh nghiệp bị phá sản
Tỷ giá hối đoái cố định -> tạo môi trường hấp dẫn cho
các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư vì không lo ngại rủi
ro tỷ giá.
Lãi suất cao do thu nhập cao. Tại TL (16.3%), Mỹ chỉ
có (7.6%).
Đầu tư trực tiếp chiếm 10.36% (8,844 tỷ usd), gián
tiếp và tín dụng 19.23% (16,404 tỷ usd). Tín dụng, ngắn
hạn lên tới 70.4%.
Chuyện sử dụng gần 90% tổng đầu tư tài chính thuần và
tín dụng ngắn hạn sẽ tạo áp lực tài chính rất lớn lên các
công ty, vì phải trả lãi thường xuyên và bằng ngoại tệ.
Nếu quản lý không tốt thì hiệu suất sản xuất kinh doanh
của các công ty sẽ thấp. Tỷ suất sinh lợi giảm. Trong nền
kinh tế mà lãi suất cho vay là 16.3%/năm còn hiệu quả
kinh doanh chỉ 1%/năm (từ 9% 1995 xuống còn 1% 1996) thì
rõ rang TL đang tích lũy nguy cơ khủng hoảng “phá sản của
doanh nghiệp”.
Ngân hàng bị phá sản
Ngân hàng vì muốn giúp doanh nghiệp trong nước nên đã
vay tiền tệ nước ngoài. Tổng số nợ nước ngoài của hệ
thống ngân hàng Thái Lan so với cung tiền đã tăng từ
2.8%/năm 1991 lên 28.69% năm 1996. Tổng số nợ nước ngoài
mà hệ thống ngân hàng đang có tăng từ 171% 1991 lên 694%
năm 1996. Trong cùng thời gian này, tỷ lệ lợi nhuận trên
tài sản ROA của hệ thống ngân hàng TL đã giảm chỉ còn
0,99%/năm. Rõ rang TL đang tích lũy nguy cơ khủng hoảng
thứ hai “ngân hàng phá sản”.
Quốc gia khủng hoảng
Trong suốt 1991-1996, cán cân thương mại thâm hụt
35,26 tỷ. Thâm hụt tk vãng lai 1996 tới 14,7 tỷ usd do xk
bị kìm hãm, nk đc khuyến khích khi tỷ giá danh nghĩa gần
như cố định 25baht/usd, lạm phát trong nước cao hơn so
với Mỹ(5%-3%) làm cho đồng baht bị lên giá so với usd.
Nhà nước bù đắp bằng cách vay tiền nước ngoài nợ TL
không ngừng tăng cao 35,99 tỷ usd (1991) đến 89 tỷ usd
(1996) khả năng thanh khoản không có nợ nước ngoài
ngắn hạn đã bằng 1,5 lần dự trữ ngoại tệ.
5.2.2 Khủng hoảng Mexico
Ở Mexico, ngày 1 tháng 1 năm 1994, lực lượng vũ trang
Zapatistas đã nổi dậy. Cuối tháng 2, tỷ giá hối đoái giữa
Peso và USD tăng đến kịch trần biên độ giao động. Nhưng
các nhà đầu tư nước ngoài vẫn lạc quan về tình hình
Mexico và vốn nước ngoài vẫn tiếp tục được đổ vào.
Tháng 3, ứng cử viên tổng thống Colosio bị ám sát.
Các nhà đầu tư nước ngoài trở nên bất an và lo lắng cho
tài sản của mình ở Mexico. Hoảng loạn tài chính đã xảy
ra. Các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã giảm nhu cầu về
chứng khoán của Mexico. Peso chịu sức ép mất giá và Chính
phủ đã tung ra khoảng 10 tỷ USD dự trữ ngoại hối nhà nước
ra để bảo vệ tỷ giá danh nghĩa.
Tháng 4, lãi suất trái phiếu chính phủ định danh bằng
đồng Peso có xu hướng tăng. Lo ngại rằng điều này có thể
tác động tới khu vực ngân hàng chưa đủ mạnh của đất nước
và sợ rằng lãi suất cao có thể gây ra suy thoái kinh tế
vào một năm có bầu cử tổng thống, nên chính phủ đã một
mặt dùng dự trữ ngoại hối để chống lại xu hướng tăng lãi
suất, một mặt tiến hành đổi các trái phiếu chính phủ từ
định danh bằng đồng Peso sang định danh bằng USD.
Đã có cảnh báo của một số học giả kinh tế về việc
đồng Peso quá cao so với đồng USD. Nhưng đồng thời cũng
có ý kiến phản đối việc điều chỉnh tỷ giá vì lý do niềm
tin của các nhà đầu tư chưa đủ mạnh để có thể không bị
hoảng loạn khi tỷ giá thay đổi mạnh. Chính phủ Mexico
chọn biện pháp vừa dùng dự trữ ngoại hối để giữ ổn định
giá, vừa từng bước nhỏ điểu chỉnh tỷ giá.
Tháng 8, tổng thống mới nhậm chức. Các chính sách tài
chính tiền tệ vẫn được giữ như cũ.
Cuối tháng 9, José Francisco Ruiz Massieu bị ám sát.
Các nhà đầu tư thêm bất an. Song chính phủ vẫn không điều
chỉnh chính sách. Giữa tháng 10, Cục dự trữ Liên bang Mỹ
(FED) tuyên bố mặc dù lo ngại về mức dự trữ ngoại hối ít
ỏi của Mexico, song Mexico không nên mong đợi chi viện
của nước ngoài. Tâm lý các nhà đầu tư trở nên hoang mang
hơn.
Giữa tháng 10, sau khi một số công ty lớn của Mexico
công khai tình trạng lợi nhuận của mình giảm sút. Thị
trường chứng khoán Mexico chao đảo. Áp lực mất giá đồng
Peso khiến các nhà đầu tư bắt đầu rút khỏi thị trường
Mexico. Cuối tháng 10, thống đốc NHTW Mexico công khai
rằng dữ trữ ngoại hối của Mexico chỉ còn 17,12 tỷ USD.
Ngày 20 tháng 12 năm 1994, đồng Peso bị mất giá mạnh.
Chính phủ đã can thiệp nhằm giảm tốc độ mất giá, song
không có hiệu quả mà lại mất rất nhiều dự trữ ngoại hối
nhà nước. Đến ngày 22, chính phủ tuyên bố thả nổi đồng
Peso. Quyết định này đã làm các nhà đầu tư mất hết lòng
tin vào khả năng trả các khoản nợ ngắn hạn (các khoản nợ
nước ngoài nếu tính theo Peso gấp nhiều lần khi tỷ giá
giữa Peso và USD tăng lên). Vì thế, đồng Peso càng trở
nên mất giá hơn.
Nợ nước ngoài đột nhiên tăng lên đã khiến bảng cân
đối tài sản của các xí nghiệp và ngân hàng của Mexico xấu