Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

65
MỤC LỤC MỞ ĐẦU NỘI DUNG PHẦN I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHU CÔNG NGHIỆP I. Khái quát chung 1. Khái niệm 2.Phân loại 3.Tính tất yếu khách quan về thành lập KCN tại Việt Nam II.Đánh giá tác động đến nền kinh tế nói chung 1. Những tác động tích cực 2. Một số tác động tiêu cực trong phát triển KCN PHẦN II. THỰC TRẠNG phát triển KHU CÔNG NGHIỆP TẠI VIỆT NAM I. Sự hình thành và phát triển các KCN ở nước ta 1. Các KCN hình thành từ những năm 1960 và 1970 theo mô hình công nghiệp của Liên Xô cũ 2. Các KCN theo mô hình mới II.Thực trạng hoạt động các KCN nước ta hiện nay 1. Về giá thuê đất 2. Về tình hình thu hút đầu tư 3. Về tình hình sản xuất kinh doanh III.NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ YẾU KÉM CÒN TỒN TẠI 1.Kết quả đạt được 2.Những tồn tại yếu kém 1

Upload: anh-le

Post on 29-Jul-2015

88 views

Category:

Documents


1 download

TRANSCRIPT

Page 1: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

NỘI DUNG

PHẦN I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHU CÔNG NGHIỆP

I. Khái quát chung

1. Khái niệm

2.Phân loại

3.Tính tất yếu khách quan về thành lập KCN tại Việt Nam

II.Đánh giá tác động đến nền kinh tế nói chung

1. Những tác động tích cực

2. Một số tác động tiêu cực trong phát triển KCN

PHẦN II. THỰC TRẠNG phát triển KHU CÔNG NGHIỆP TẠI VIỆT NAM

I. Sự hình thành và phát triển các KCN ở nước ta

1. Các KCN hình thành từ những năm 1960 và 1970 theo mô hình công nghiệp của Liên

Xô cũ

2. Các KCN theo mô hình mới

II.Thực trạng hoạt động các KCN nước ta hiện nay

1. Về giá thuê đất

2. Về tình hình thu hút đầu tư

3. Về tình hình sản xuất kinh doanh

III.NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ YẾU KÉM CÒN TỒN TẠI

1.Kết quả đạt được

2.Những tồn tại yếu kém

PHẦN III. NHỮNG ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN

CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM

I. Giải pháp

1. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với phát triển KCN

1.1.Nâng cao chất lượng quy hoạch KCN

1

Page 2: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

1.2. Đa dạng hoá mô hình các khu công nghiệp

1.3.Giải pháp về tăng cường hiệu quả công tác quản lý môi trường

1.4.Giải pháp nâng cao tính hấp dẫn của KCN trong thu hút đầu tư

1.5. Hoàn thiện một số chính sách phát triển bền vững KCN

1.5.1.Các yêu cầu trong xây dựng chính sách

1.5.2.Hoàn thiện chính sách thu hồi đất

1.5.3.Chính sách đảm bảo nguồn lao động cho KCN

2. Các giải pháp đối với địa phương

2.1.Đẩy nhanh việc triển khai đền bù, thu hồi đất cho xây dựng KCN

2.2.Tăng cường cung cấp hàng hoá, dịch vụ phục vụ khu công nghiệp

2.3.Tạo nguồn lao động nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động

2.4.Phát triển khu dân cư ở khu vực có khu công nghiệp

II . MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

1. Kiến nghị về tổ chức quản lý KCN

1.1. Kiến nghị mô hình quản lý KCN và KCX ở cấp trung ương

1.2.Kiến nghị phân cấp quản lý KCN và KCX

2.Kiến nghị về tổ chức thực hiện qui hoạch, chính sách và cơ chế đã ban hành

3. Kiến nghị về điều chỉnh các cơ chế, chính sách theo chu kỳ sống của KCN

MỞ ĐẦU

Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta có sự ra đời của mô hình khu công

nghiệp( KCN ). Mô hình này đã không ngừng phát triển về số lượng và chất lượng .Nếu

như vào thời điểm năm 1991 bắt đầu xuất hiện quy chế về KCN và chỉ chứng kiến sự ra

đời của hai khu chế xuất, Tân Thuận và Linh Trung thì cho đến nay số lượng các khu

công nghiệp ở nước ta đã lên tới con số 68và được phân bố rộng khắp từ Bắc –Trung.

Chính sự phát triển mạnh này đã khẳng định hiệu quả kinh tế của một mô hình.Qua hơn

10 năm phát triển vai trò của KCN trong sự phát triển kinh tế đất nước là rất lớn. Nó đã

góp phần nâng cao năng lực xuất khẩu của đất nước, thu hút vốn đầu tư, kỹ thuật và kinh

nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới, tạo điều kiện tăng trưởng GDP nhanh chóng và

2

Page 3: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

vững chắc, tạo việc làm, phát triển KCN theo quy hoạch, bảo vệ môi trường, tiết kiệm và

phát huy hiệu quả sử dụng các nguồn lực khác, hình thành các khu đô thị mới và giảm bớt

khoảng cách giữa các vùng nông thôn và thành thị. KCN là mô hình phù hợp để thực hiện

cơ chế quản lý ” một cửa tại chỗ” và hội nhập quốc tế không chỉ nhằm thu hút đầu tư

nước ngoài , mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước hoạt động .

Bên cạnh những thành tịu đáng trân trọng ấy các KCN tại Việt Nam vẫn tồn đọng những

khó khăn, thách thức mà vấn đề nổi cộm hiện nay chính là việc vóng bóng của các nhà

đấu tư trong các KCN, hầu hết các khu công nghiệp vẫn chưa được lấp đầy. Theo bộ kế

hoạch và đầu tư tính đến đầu năm 2002 trên tổng số 68 KCN chỉ có 25% KCN được lấp

đầy. Nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên có nhiều , nhưng tập trung chủ yếu vào một số

nguyên nhân như: Giá thuê đất còn đắt, cơ sở hạ tầng còn kém, cơ chế chính sách còn

chưa thông thoáng, và một trong những lực cản lớn nhất hiện nay chính là vẫn chưa có

cách nhìn nhận tổng quát và đầy đủ về các KCN như là một bộ phận không thể tách rời

trong nền kinh tế đất nước .

Như vậy việc tìm hiểu một cách toàn diện về KCN, đồng thời đưa ra những giải pháp

để nâng cao việc phát triển KCN là những mục tiêu chính mà đề tài chúng tôi hướng tới .

3

Page 4: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

PHẦN NỘI DUNG

PHẦN I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHU CÔNG NGHIỆP

I. Khái quát chung

1. Khái niệm

Theo nghị định 36/ CP của chính phủ thì KCN được hiểu như sau : “ KCN là khu tập

trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho

sản xuất hàng công nghiệp có ranh giới địa lý xác định , không có dân cư sinh sống do

chính phủ hoặc thủ tướng chính phủ thành lập trong KCN có thể có các doanh nghiệp chế

xuất “ .

2. Phân loại KCN

Theo Viện Kiến trúc Quy hoạch (Bộ Xây dựng), tính đến thời điểm tháng 2/2011, Việt

Nam hiện có 256 khu công nghiệp và 20 khu kinh tế đã được thành lập

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện nay cả nước có 253 khu công nghiệp được thành lập

với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 70.000 ha. Các khu công nghiệp cả nước đã thu hút

gần 4.000 dự án đầu tư nước ngoài và 4.700 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư

đăng ký 52 tỷ USD và 300 nghìn tỷ đồng.

 Các khu công nghiệp đóng góp từ 20-35% kim ngạch xuất khẩu và từ 30-32% giá trị sản

xuất công nghiệp hàng năm của Việt Nam, giải quyết việc làm cho trên 1,5 triệu lao động.

Nhóm 1: Các khu công nghiệp mang tính truyền thống, được thành lập một cách phổ

biến ở Việt Nam. Các khu công nghiệp này có nhưng đặc điểm chung như sau:

+Là khu vực được quy hoạch mang tính liên vùng, liên lãnh thổ và có phạm vi ảnh

hưởng không chỉ ở một khu vực địa phương.

+Là khu vực được kinh doanh bởi công ty cơ sở hạ tầng (công ty phát triển KCN, công

ty dịch vụ KCN...), công ty này có trách nhiệm bảo đảm hạ tầng kỹ thuật và xã hội của cả

khu trong suốt thời gian tồn tại.

Trong khu công nghiệp không có dân cư sinh sống, nhưng ngoài khu công nghiệp phải

có hệ thống dịch vụ phục vụ nguồn nhân lực làm việc ở khu công nghiệp.

4

Page 5: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

+Là khu vực được quy họach riêng để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước để

thực hiện sản xuất và chế biến sản phẩm công nghiệp cũng như hoạt động hỗ trợ cũng như

dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.

Sản phẩm của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp có thể tiêu thụ trong nước hoặc

bán ra nước ngoài.

Nhóm 2: Khu chế xuất (KCX) (ở Việt Nam hiện có 3 khu chế xuất ).

Theo Nghị định 36-CP khu chế xuất là khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp

chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và

hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý được xác định, không có dân cư sinh sống.

Như vậy ngoài những đặc điểm chung giống như các khu công nghiệp truyền thống,

các KCX còn có một số đặc điểm riêng, đó là: Được quy hoạch phân tách khỏi phần nội

địa bằng tường rào kiên cố, việc ra vào khu phải thông qua sự kiểm soát của hải quan và

các cơ quan chức năng; Quan hệ thương mại giữa các doanh nghiệp trong KCX và nội địa

được điều chỉnh bằng hợp đồng ngoại thương, theo các thủ tục xuất, nhập khẩu, các

doanh nghiệp trong khu chế xuất chỉ được bán tối đa 20% giá trị sản phẩm của mình vào

thị trường nội địa; các doanh nghiệp trong khu chế xuất được hưởng những ưu đãi đặc

biệt về các loại thuế như: miễn thuế xuất, nhập khẩu, miễn thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu

thụ đặc biệt, được hưởng thuế thu nhập doanh nghiệp ở mức ưu đãi 10% và không phải

chịu thuế chuyển lợi nhuận về nước.

5

Page 6: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

Nhóm 3: Các khu công nghệ cao (KCNC) (Việt Nam hiện có 2 khu công nghệ cao)

Đây là khu công nghiệp trong đó tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao

và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao, có ranh giới xác định và

do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghệ cao

có thể có doanh nghiệp chế xuất. Ngoài những đặc điểm chung của khu công nghiệp, khu

công nghệ cao có những nét riêng biệt:

Có hoạt động chính của các doanh nghiệp là sản xuất và dịch vụ có hàm lượng công nghệ

và chất xám cao như:nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ, đào tạo và thực hiện các

dịch vụ có liên quan. Bản thân các doanh nghiệp thường có quá trình đổi mới liên tục về

công nghệ và sản phẩm.

Các doanh nghiệp trong khu đều có đầu tư lớn cho nghiên cứu và phát riển, có năng

suất cao và được điều hành bởi các nhà khoa học và công nhân có trình độ và kinh

nghiệm cao.

Công nghệ sử dụng trong khu công nghệ cao mang tính tiên phong đi trước thời đại,

phát triển kinh doanh của doanh nghiệp trong nhiều trường hợp được coi là mạo hiểm và

có khả năng được bù đắp cao.

Trong khu công nghệ cao, còn tiến hành các dịch vụ nghiên cứu và chuyển giao công

nghệ, thực hiện cchức năng đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao.

3. Tính tất yếu khách quan về thành lập KCN tại Việt Nam

Trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước việc hình thành và phát triển

KCN là đòi hỏi tất yếu khách quan , bởi vì đem lại vai trò vô cùng to lớn , điều này nó

được thể hiện :

-Tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn và công nghệ của nước ngoài.Vai trò này xuất

phát từ các ưư đãi và thuận lợi của các nhà đầu tư khi vào sản xuất tại KCN .

+Ưu đãi về tài chính : Thông thường nó bao gồm các ưu đãi về thuế nhập khẩu vật tư ,

thiết bị , nguyên liệu , thuế thu nhập công ty , thuế sở hữu tài sản , thuế thương mại , được

vay vốn với mức lãi suất ưu đãi , một số KCN còn được ưu đãi về điện và nước .

+Thuận lợi về lao động

6

Page 7: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

Chính quyền sở tại tạo mọi điều kiện để tuyển dụng lao động tại chỗ , đôi khi còn đưa

một số điều khoản hạn chế quyền của công nhân làm việc tại các KCN theo hướng có lợi

cho các công ty của KCN .

+KCN tạo khả năng áp dụng một hệ thống luật pháp nhất định nhằm đáp ứng yêu cầu

của các nhà đầu tư nước ngoài , nhưng chỉ trên một địa bàn giới hạn . Thông thường các

quy định pháp ký của các KCN tương đối đơn giản , thông thoáng , dễ thực hiện nên hấp

dẫn các nhà đầu tư . Có thể xây dựng các quy chế này tương đối nhanh chóng , không gây

mâu thuẫn với hệ thống pháp luật hiện có , và giới hạn địa bàn áp dụng là khu vưc nhỏ

với khả năng kiểm soát dễ dàng .

Với đặc tính trên KCN tạo khả năng thuận lợi để đạt được yêu cầu đề ra khi thu hút

vốn đầu tư . Do môi trường đầu tư thuận lợi nên doanh nghiệp nước ngài có thể đưa vốn

đầu tư lớn vào KCN để hoạt động . Họ có thể yên tâm với môi trường đầu tư hội đủ các

điều kiện cần thiết cho việc kinh doanh đạt hiệu quả cao , một địa bàn bảo đảm an ninh ,

an toàn xã hội .

-Chuyển giao công nghệ : Mặc dù tại KCN người ta chủ yếu thực hiện các thao tác lắp

ráp cấu kiện là chính và rất ít hoặc không có hoạt động nghiên cứu song chuyển giao công

nghệ ở đây vẫn diển ra thông qua một số hình thức sau :

+Đào tạo công nhân nước chủ nhà để sử dụng máy móc và công nghệ sản xuất .

+Công nhân được đào tạo về kỷ luật lao động ý thức đúng giờ , và thói quen lao động

công nghiệp .

+Các giám đốc , kỹ sư , kỹ thuật viên có được kỹ năng cần thiết của tác phong làm việc

công nghiệp trong quản lý và kiểm tra chất lượng .

Đồng thời những máy móc thiết bị hiện đại , công nghệ sản xuất hiện đại sẽ được áp

dụng sản xuất tại KCN , như thế sẽ nâng cao được mức độ trang bị và trình độ sử dụng

máy móc thiết bị tại nước sở tại .

-Tạo việc làm , giải quyết thất nghiệp

Việc thành lập KCN sẽ góp phần tích cực trong vấn đề giải quyết việc làm tại địa

phương . Ngoài một lực lượng lớn sẽ vào KCN để sản xuất trực tiếp thì nó còn tạo ra việc

làm cho hàng vạn lao động gián tiếp trong các ngành dịch vụ , xây dựng cơ bản phục vụ

cho quá trình phát triển KCN.

7

Page 8: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

Đối tượng được thu hút chính vào làm việc tại các KCN thường là lao động phụ nữ trẻ

không có tay nghề từ các nông thôn ra . Sở dĩ các công ty này sử dụng các loại lao động

này vì :

+Phụ nữ phù hợp với các thao tác cần sự khéo léo .

+Phụ nữ có khả năng thích ứng với các hoạt động lắp ráp đơn điệu.

Thông thường tỷ lệ thất nghiệp tại các quốc gia đang phát triển thì tỷ lệ lao động nữ

chiếm rất cao . Nhưng với ưu tiên về lao động nữ tại các KCN thì nó đã phần nào giải

quyết được những vấn đề thất nghiệp tại các quốc gia này .

- Nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên liệu

Cùng với việc hình thành và phát triển KCN thì việc hình thành vùng nguyên liệu cho

KCN là cấp bách và cần thiết . Thay cho việc sản xuất lương thực nhân dân xung quanh

KCN sẽ được định hướng thay thế trong các loại nguyên liệu phục vụ cho nhà máy trong

KCN . Từ đó giúp nâng cao giá trị nông sản , mở rộng thị trường , thu hẹp khoảng cách

giữa các vùng , góp phần xoá đói giảm nghèo , và phát triển kinh tế .

-Cho phép khắc phục yếu kém về cơ sở hạ tầng

Cơ sở hạ tầng là vấn đề quan trọng trong quá trình xây dựng KCN. Để có thể thu hút

được nhà đầu tư vào KCN không những cần phải có chính sách ưu đãi tốt , mà cần có cơ

sở hạ tầng tốt để đáp ứng nhu cầu sản xuất .

Cần có việc phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng tại KCN , bên cạnh đó việc đảm bảo hệ

thống nhà máy , các phòng ban , hệ thống dịch vụ trong các KCN cũng phải hoàn thiện

việc phát triển hệ thống các cơ sở hạ tầng ngoài KCN như : Làm đường giao thông , các

công trình nhà ở cho công nhân , các công trình phục vụ cho vui chơi ,giải trí …

Kết quả quá trình xây dựng đó đã góp phần làm thay đổi bộ mặt của vùng , không ít

vùng nông thôn đất đai sinh lầy , hoang hoá , ít có khả năng sinh lợi sau khi xây dựng

KCN đã trở nên sầm uất , đời sống king tế xã hội được lột xác .

- Tạo ra mô hình kinh tế năng động đóng góp lớn vaòi tăng trưởng kinh tế

+KCN sẽ là nơi đào tạo cán bộ kỹ thuật năng động , công nhân lành nghề và cán bộ

quản lý có trình độ cao , đủ sức vươn ra thị trường thế giới .

+KCN sẽ là sợi dây nối liền giữa nền kinh tế thế giới và Việt Nam

8

Page 9: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

+Hình thánh một số ngành công nghiệp mũi nhọn có khả năng cạnh tranh trên thị

trường thế giới ( dệt may , đồ gia dụng , giày dép … )

+Nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng xuất khẩu của nền kinh tế .

+Phát triển các ngành công nghiệp theo đúng hướng , và quy hoạch chung .

+Các KCNgóp phần hình thành các khu kinh tế trọng điểm cho cả nước , đảm bảo

được yêu cầu về quy hoach vùng lãnh thổ .

II. Đánh giá tác động đến nền kinh tế nói chung

1. Những tác động tích cực

1.1. Thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước

Sự ra đời của các KCN là những mảnh đất màu mỡ cho ra đời trên 4400 doanh

nghiệp trong và ngoài nước hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ công nghiệp, với

giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 31,9% (cao gấp đôi so với mức tăng giá trị

công nghiệp cả nước). Các khu công nghiệp Việt Nam đã thúc đẩy nhanh quá trình công

nghiệp hoá Việt Nam.

Theo tính toán, gần 30.000 ha đất nông nghiệp hoặc vùng thị tứ kém phát triển trở

thành các KCN có cơ sở hạ tầng hiện đại và các vùng đô thị khang trang (xung quanh

KCN), thu hút hàng vạn doanh nghiệp trong và ngoài nước. Đây là những hạt nhân quan

trọng thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn.

Đến hết năm 2005, các KCN là nơi đào tạo thực tế 750.000 người nông dân, người

lao động phổ thông ở những nơi thị tứ trở thành người công nhân, và với tốc độ tăng

trưởng này, đến 2010 các KCN Việt Nam sẽ thu hút 2,5 triệu người. Đây là nguồn tài lực

để đưa Việt Nam từ một nước nông nghiệp phát triển ở trình độ thấp trở thành một nước

công nghiệp mới ở thập niên thứ 2 của thế kỷ 21.

Nhiều ngành công nghiệp: sản xuất xe hơi, sản xuất máy móc trang thiết bị, nguyên

vật liệu cao cấp… tại các KCN, đặc biệt công nghiệp hoá dầu tại khu Dung Quất đi vào

hoạt động, sẽ góp phần nâng cao chất lượng phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam.

Việc xây dựng các KCN không những tạo ra động lực thúc đẩy phát triển sản xuất

công nghiệp mà còn kéo theo sự phát triển của các ngành dịch vụ phục vụ trực tiếp cho

hoạt động sản xuất công nghiệp trong KCN và hình thành mạng lưới dịch vụ phục vụ cho

nhu cầu của người lao động. Qua đó có thể thấy việc phát triển các KCN sẽ thúc đẩy quá

9

Page 10: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

trình chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ và

giảm tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế.

1.2. Tác động đến quá trình đô thị hoá

Sự phát triển các khu công nghiệp đã làm cho tiến trình đô thị hoá được diễn ra một

cách nhanh chóng hơn. Cụ thể là:

-Cơ sở hạ tầng của các vùng đất khu công nghiệp và xung quanh khu công nghiệp

được nâng cấp, và từ đó mọc lên những đô thị, nhiều nơi trở thành những thành phố sầm

uất, có đầy đủ điện, nước, đường xá, hệ thống thông tin liên lạc, các đường xá, công trình

phúc lợi hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế.

-Tạo ra sự thay đổi cơ cấu lao động, cơ cấu dân cư theo hướng: nâng cao tỷ lệ công

nhân, và tỷ lệ dân cư thành thị.

1.3. Tác động đến quá trình hoàn thiện cơ chế, chính sách làm cho môi trường đầu tư tại

các KCN nói riêng và cả nước nói chung tốt hơn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các

doanh nghiệp hoạt động.

Các khu công nghiệp, thực tế đã trở thành “vườn ươm “ hay là nơi thử nghiệm các cơ

chế, chính sách mới, tiên tiến như: cơ chế “một cửa tại chỗ”, hay cơ chế “tự bảo đảm tài

chính” cũng như nhiều chính sách khác về hoàn thiện thủ tục kiểm hoá hải quan, phát

triển hoạt động tài chính – ngân hàng trong các khu công nghiệp có sự phối hợp của ban

quản lý khu công nghiệp. Tất cả đều tạo môi trường đầu tư tại các khu công nghiệp hấp

dẫn hơn.

1.4. Tác động thúc đẩy sự phát triển các loại hình dịch vụ

Sự phát triển các khu công nghiệp đã tạo cơ hội cho sự xuất hiện các hoạt động dịch

vụ chủ yếu sau: Dịch vụ cung cấp cơ sở hạ tầng: điện, nước, xử lý chất thải vv; dịch vụ tài

chính – ngân hàng; dịch vụ giao thông vận tải; dịch vụ kho, dịch vụ cun ứng; dịch vụ xây

dựng và cho thuê bất động sản; dịch vụ huấn luyện, đào tạo và cung cấp lao động; dịch vụ

lao động và chuyên gia như dịch vụ chợ, dịch vụ cho thuê nhà, dịch vụ văn hoá xã hội.

Các dịch vụ trên ra đời cùng với sự ra đời và phát triển của các khu công nghiệp, đồng

thời nó góp phần tạo nên sự tiẹn ích của các khu công nghiệp, làm cho môi trường kinh

10

Page 11: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

doanh và môi trường sống tại các khu này được cải thiện theo hướng hiện đại hoá và văn

minh.

1.5 Tác động thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.

Các khía cạnh về hội nhập quốc tế được thúc đẩy nhờ sự phát triển các khu công

nghiệp, đó là: chính khu công nghiệp là nơi thử nghiệm đầu tiên chính sách thông thoáng

với các nhà đầu tư nước ngoài; tạo mũi nhọn cho việc thực hiện mở rộng quan hệ thương

mại quốc tế, kim ngạch xuất nhập đạt được tại các khu công nghiệp Việt Nam đã chiếm

khoảng 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, góp phần tạo uy tín thương mại của

Việt Nam trên thị trường thế giới; tại các khu chế xuất, các doanh nghiệp chế xuất được

hưởng cơ chế hải quan thông thoáng hơn, giúp kích thích khả năng cạnh tranh, đáp ứng

được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

2. Một số tác động tiêu cực trong phát triển KCN

2.1. Hiện tượng xé rào luật trong khuyến khích đầu tư vào KCN ở các địa phương

Hiện tượng 33 tỉnh, thành phố tự ý ban hành những ưu đãi riêng về thuế đất; giảm thuế

thu nhập doanh nghiệp; tăng thêm thời gian ưu đãi cho các nhà đầu tư vào địa phương

mình mà chủ yếu vào các KCN gây ảnh hưởng đến kỷ cương và tính bền vững của môi

trường kinh doanh ở Việt Nam nói chung; tạo ra môi trường pháp lý “gồ ghề”, không nhất

quán, ganh đua không lành mạnh giữa các tỉnh trong việc đưa ra các ưu đãi trong đầu tư,

mà không đưa ra được chứng cứ cụ thể về hiệu quả của việc “xé rào” riêng trong việc xây

dựng cơ chế, chính sách thu hút đầu tư. Trong khi đó, nhiều nhà đầu tư khi được tiếp thị

nhiều chính sách ưu đãi khác nhau của địa phương thì lại hồ nghi tính kỷ cương pháp luật

của môi trường đầu tư.

Trong một đánh giá mới đây của Chương trình phát triển kinh tế tư nhân (MPDF) và

bộ phận tư vấn dịch vụ đầu tư nước ngoài (FIAS) của Ngân hàng Thế giới, hệ thống chính

sách ưu đãi đầu tư của Việt Nam vốn thuộc hành rối rắm, phức tạp và khó hiểu nhất khu

vực . Sự phức tạp đó được nhân lên khi các địa phương ồ ạt xé rào. Họ đua nhau cạnh

tranh thu hút đầu tư bằng các chính sách ưu đãi mà không có những bằng chứng cụ thể về

11

Page 12: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

hiệu quả của các chính sách đó. Nhưng mặt tiêu cực là khiến các nhà đầu tư giảm sự tin

cậy đã thể hiện rõ.

2.2. Phát triển KCN dẫn đến hiện tượng di dân tự do, ảnh hưởng tới an ninh, trật tự xã hội

ở nhiều vùng kinh tế

Trong số 750.000 lao động trong các KCN hiện nay, có đến 80% tập trung vào các tỉnh

vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và trên 70% số lao động vùng này từ miền Trung và

miền Bắc tới. Cá biệt như Bình Dương, số lao động địa phương trong các KCN trong tỉnh

chỉ chiếm chưa đến 10% tổng số lao động. Họ tới vùng kinh tế phía Nam tự do hoặc theo

một số công ty lao động tư nhân thành lập mang tính tự phát. Đa số người lao động có

trình độ thấp, một số tội phạm núp bóng lý lịch người khác đến vùng này lao động, làm

cho tình hình an ninh, trật tự xã hội thêm phức tạp, khó quản lý.

iệc người lao động di cư một cách ồ ạt cũng dẫn đến các nhiều tác động không mong

muốn như sự quá tải về hạ tầng xã hội: Trường học, bệnh viện, đường xá… cũng như các

dịch vụ cho người lao động và gia đình họ tại địa phương nơi có KCN.

2.3. Sự phát triển KCN dẫn tới ô nhiễm môi trường

Như phần trên đã phân tích, việc thiếu vốn cộng với việc tiết kiệm chi phí đầu tư,

thêm vào đó là sự quản lý thiếu chặt chẽ, nên ở nhiều nơi, sự phát triển KCN đã ảnh

hưởng đến môi trường sống trên diện rộng ở mức đáng báo động. Nhiều KCN ở miền

Đông Nam bộ xả nước thải trực tiếp vào hệ thống sông Đồng Nai, làm ô nhiễm nặng, ảnh

hưởng đến nguồn nước sinh hoạt của hàng triệu người. Hay các KCN ở huyện Thuận An

đã xả chất thải làm ô nhiễm nguồn nước ngầm và đất, hậu quả là hàng trăm ha cây ăn trái

ở vùng Lái Thiêu (Bình Dương) có tuổi hàng chục năm bị thối gốc và chết hàng loạt,

nước sông Bình Dương bị ô nhiễm nặng. Nhiều nơi, dân phản đối, khiếu kiện vì môi

trường sống của họ gần KCN bị xuống cấp nặng nề.

2.4 Ảnh hưởng đến chất lượng của tăng trưởng kinh tế

Chất lượng tăng trưởng kinh tế thể hiện ở tính bền vững và tính hiệu quả của quá trình

này. Trong nhiều trường hợp, do sự xuất hiện quá ồ ạt các khu công nghiệp hoặc quy

hoạch phát triển khu công nghiệp thiếu đồng bộ, thiếu tầm nhìn chiến lược đã gây ảnh

hưởng xấu đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Cụ thể là: tạo ra sự phát triển không đồng

bộ giữa trong và ngoài hàng rào khu công nghiệp, tạo ra sự phân hoá rất rõ về mọi mặt

12

Page 13: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

giữa trong và ngoài khu công nghiệp; gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các khu

công nghiệp; thiếu sự liên kết giữa các khu ccông nghiệp trong cùng một vùng, một địa

phương, giữa các doanh nghiệpn trong cùng một khu công nghiệp và kết quả là ảnh

PHẦN II. Thực trạng phát triển khu công nghiệp tai Việt Nam

I. Sự hình thành và phát triển các KCN ở nước ta

1. Các KCN hình thành từ những năm 1960 và 1970 theo mô hình công nghiệp của Liên

Xô cũ

Các KCN theo mô hình này tập trung ở một số thành phố khu vực phía Bắc: Hà Nội,

Hải Phòng, Thái Nguyên, Phú Thọ, vv. nhưng nhiều nhất là ở Hà Nội. Việc hình thành và

phát triển các KCN cũ ở nước ta trong những năm 60 và 70 của thế kỷ trước chưa có sự

định hình, qui hoạch như hiện nay. Có thể nói sự ra đời tự nhiên của một số nhà máy, xí

nghiệp là do sự đòi hỏi cần thiết trong phát triển kinh của đất nước, chưa tính đến các yếu

tố: sự phát triển, đô thị hoá của các thành phố, đặc biệt là vấn đề môi sinh. Do vậy, những

KCN này bộc lộ nhiều thiếu sót mà cho đến nay vẫn chưa hoàn toàn giải quyết được.

Riêng ở khu vực Hà Nội, thực trạng của các KCN này như sau:

Bảng 2: Các KCN theo mô hình cũ trên địa bàn Hà Nội

TT Khu công nghiệp Số doanh

nghiệp

Diện tích đất

(ha)

Nhân công

1 Minh Khai – Vĩnh Tuy – Mai Động 38 81 15.910

2 Giáp Bát – Trương Định 13 32 3.760

3 Văn Điển – Pháp Vân 14 39 59.000

4 Thượng Đình 29 76 17.270

5 Cầu Diễn – Mai Dịch 8 27 1.950

6 Gia Lâm – Yên Viên - Đức Giang 21 38 10.230

7 Đông Anh 22 68 8.280

8 Chèm 5 14 2.310

9 Cầu Bươu 5 4 1.390

Tổng cộng 155 379 120.100

13

Page 14: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

Nguồn: Ban Quản lý các KCN và Chế xuất Hà Nội (2001): Đề xuất một số giải pháp về

quản lý Nhà nước để xây dựng và phát triển các KCN, KCX Hà Nội năm 2000 – 2010.

Với 9 KCN và tổng diện tích lên đến 379 ha, điểm yếu cơ bản của các KCN này là

thiếu quy hoạch, xây dựng thiếu đồng bộ, nhất là các cơ sở hạ tầng. Theo kết quả kiểm tra

gần đây của Thành phố Hà Nội, không một nhà máy, xí nghiệp nào trong các KCN này có

phương án xử lý bảo vệ môi trường. Trong khi đó, do hiện tượng quy hoạch lộn xộn,

trong khu vực nhà máy, xí nghiệp có đủ cả các công trình phục vụ sinh hoạt như: Nhà ở,

nhà trẻ, bệnh xá, cơ sở dịch vụ… gây ảnh hưởng rất lớn đến vệ sinh môi trường và sức

khoẻ của người dân bên trong và xung quan các KCN.

Bên cạnh đó, về tổ chức quản lý, không hề có cơ chế quản lý hành chính nhà nước của

chính quyền trên địa bàn có KCN. Điều này đương nhiên sẽ dẫn đến công tác quản lý lộn

xộn, thiếu trật tự, qui hoạch, gây ảnh hưởng đến tính bền vững KCN. Mặt khác, hầu hết

các KCN cũ được hình thành từ những năm trước do được xây dựng liền kề với các đô thị

cũ nên hiện tại đã, đang và sẽ nằm trong qui hoạch phát triển khu dân sinh của các thành

phố nên chúng gây ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề giải phóng mặt bằng, các vấn đề dân

sinh và giao thông đô thị.

2. Các KCN theo mô hình mới

Ngày 25/1/1991, Thủ tướng Chính phủ cấp giấy phép thành lập KCX Tân Thuận, được

xem là KCN tập trung đầu tiên ở Việt Nam. Từ đó, số lượng các KCN được thành lập

tăng qua các năm thể hiện sự quan tâm của các nhà đầu tư về một lĩnh vực đầu tư hiệu

quả. Trong 3 năm đầu, từ 1991-1993, cả nước chỉ có 2 KCN được thành lập là KCX Tân

Thuận và KCX Linh Trung 1 (thành phố Hồ Chí Minh), 2 năm 1994-1995 có thêm 5

KCN được thành lập. Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992 có quy định về

việc khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài vào các KCN, KCX, việc “thí điểm” thành

lập các KCN từ 1992-1995 có thể nói là đã kết thúc, từ năm 1996 số lượng các KCN được

tăng lên đáng kể, riêng năm 1996 đã có 13 KCN được thành lập, cao gấp đôi so với giai

đoạn trước. Đặc biệt là năm 1997, Quy chế quản lý KCN, KCX và KCNC ban hành kèm

theo Nghị định số 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ ra đời và hướng dẫn hoạt động

của các KCN, KCX, tạo khung pháp lý thống nhất cho việc thành lập và hoạt động của

các KCN, vì thế các KCN đến năm 1997 đã là: 45 KCN, gấp 3,5 lần so với năm 1996.

14

Page 15: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

Những năm sau đó, quy mô các KCN tăng tương đối đều đặn hàng năm với tốc độ khoảng

20%/năm. Các KCN được thành lập tăng dần cùng với sự gia tăng vốn đầu tư xây dựng

và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN. Đến thngs 4 năm 2005, đã có 133 KCN đã ra đời, phân

bố rộng khắp trên 45 tỉnh, thành phố. Trong đó, Đồng Nai là địa phương có nhiều KCN

nhất với 17 KCN, tổng diện tích đất là 4.264 ha (chiếm 16,1% tổng diện tích đất KCN cả

nước).

Bên cạnh đó còn có gần 500 khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ do địa phương tự thành

lập ở các tỉnh, thành phố. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ tâp trung phân

tích các KCN do Chính phủ cấp phép thành lập. Sự phát triển các KCN được thể hiện qua

bảng sau:

Bảng 3: Tình hình phát triển các KCN ở Việt Nam giai đoạn 1991 – 2005

Năm Số KCN được cấp

giấy phép

Tổng số KCN (luỹ

kế)

Diện tích KCN được thành

lập mới và mở rộng

1991 1 1 300

1992 2 3 360

1993 1 4 24

1994 4 8 678

1995 5 13 1201

1996 15 28 340

1997 20 48 3355

1998 13 61 2625

1999 3 64 226

2000 1 65 335

2001 3 68 390

2002 10 78 2836

2003 21 99 3622

2004 15 114 4020

15

Page 16: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

2005 16 130 3.387

Nguồn: Vụ Quản lý KCN và Chế xuất, Bộ KH và ĐT

Qua bảng trên ta thấy 2 giai đoạn 1996 – 1998 và 2000 – 2005 có sự “bùng nổ” về

phát triển KCN trong cả nước cả về số lượng và diện tích:

-Giai đoạn 1996 – 1998: Đây là giai đoạn khủng hoảng tài chính Châu Á, có tác động

tiêu cực đến sự phát triển kinh tế Việt Nam: xuất khẩu, đầu tư nước ngoài,... Tuy nhiên,

cũng trong giai đoạn này nhiều địa phương năng động đã đưa ra các biện pháp nhằm phục

hồi và phát triển kinh tế, trong đó được chú trọng là hình thành các KCN có cơ sở hạ tầng

tốt để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Giai đoạn 2000 – 2005: Đây là giai đoạn Nhà nước có nhiều chính sách ưu đãi, cải

thiện môi trường đầu tư, kinh doanh: Thực hiện Luật Doanh nghiệp; Luật ĐTNN sửa đổi;

ký kết Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ; cải tổ nền hành chính… Đây cũng là giai đoạn

đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Với các yếu tố này giúp cho số doanh

nghiệp trong nước tăng nhanh cùng với sự phục hồi của thu hút ĐTNN sau khủng hoảng

làm cho nhu cầu mặt bằng kinh doanh tăng cao. Do vậy, việc phát triển các KCN trong

giai đoạn này là yêu cầu mang tính tất yếu.

II. Thực trạng hoạt động các KCN nước ta hiện nay

1. Về giá thuê đất

Mức giá thuê đất thường phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: vị trí KCN, chất lượng hạ

tầng KCN, điều kiện thanh toán, các yếu tố môi trường bên ngoài KCN… Hiện nay giá

thuê đất cho sản xuất kinh doanh trong các KCN cả nước là rất khác nhau; giá cao nhất

lên đến 140 USD/ m2 cho 50 năm (hay 2,8 USD/m2/năm); trung bình cả nước là 54

USD/m2 cho 50 năm; giá thuê đất thấp nhất là tại các KCN Bình Định, Điện Ngọc –

Quảng Nam khoảng 15 USD/m2 cho 50 năm, thậm chí để thu hút đầu tư một số KCN ở

Quảng Nam (doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng là doanh nghiệp nhà nước địa phương) còn

không thu tiền thuê đất với nhiều dự án. Kết quả điều tra của Diễn đàn Phát triển Việt

Nam về tính hấp dẫn trong thu hút đầu tư đối với 10 tỉnh, thành phố cho thấy vấn đề này:

Hình 1: Giá thuê đất bình quân của một số tỉnh, thành phố trong cả nước

Đơn vị: USD/m2/năm

16

Page 17: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

Nguồn: Kết quả điều tra của Diễn đàn phát triển Việt Nam, tháng 12 /2005

Theo hình trên chúng ta có thể thấy giá thuê đất bình quân ở TP. Hồ Chí Minh hiện

cao nhất cả nước, với mức giá cho thuê là 1,85 USD/m2/năm; tiếp theo đó là Hà Nội 1,5

USD/m2/năm; Bình Dương 1,0 và thấp nhất hiện là Thái Bình với mức giá cho thuê là

0,13 USD/m2/năm. Tuy nhiên, giá thuê đất rẻ chưa phải là yếu tố quan trọng quyết định

sự lựa chọn KCN của các nhà đầu tư vì nếu cơ sở hạ tầng không hoàn chỉnh, thủ tục hành

chính rườm rà, và đặc biệt là môi trường kinh doanh không hấp dẫn thì các KCN cũng

khó có thể thu hút các nhà đầu tư. Bằng chứng cho thấy các KCN khu vực miền Trung dù

có giá thuê đất rẻ nhưng tỷ lệ lấp đầy các KCN vẫn rất thấp.

Ở những nơi, KCN được xây dựng có vốn ngân sách hỗ trợ, các công ty cơ sở hạ tầng

hoạt động như một đơn vị hành chính có thu, thì tiền thuê đất rẻ, nó như là một nhân tố

xúc tiến đầu tư. Ngoài ra, khi vốn đầu tư được bỏ ra từ ngân sách địa phương để đầu tư

vào hạ tầng, nó tạo điều kiện cho ban quản lý KCN và chế xuất của tỉnh có thể lựa chọn

cấy giấy phép cho những dự án có lợi nhất cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương

(dự án có hàm lượng công nghệ cao, ít ô nhiễm môi trường…) và có điều kiện để phát

triển các đô thị xung quanh KCN.

2. Về tình hình thu hút đầu tư

Các KCN ở Việt Nam đang là địa chỉ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài

nước, đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút đầu tư, tạo nguồn vốn quan trọng cho đầu

tư phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư phát triển kết

cấu hạ tầng. Số lượng các dự án đầu tư và vốn đầu tư trong và ngoài nước vào KCN tăng

17

Page 18: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

qua các năm thể hiện sự quan tâm của các nhà đầu tư về một địa bàn đầu tư có nhiều ưu

đãi và thuận lợi.

Nếu như đến 1995, chỉ có chưa đến 200 doanh nghiệp được cấp phép hoạt động sản

xuất kinh doanh trong KCN với số vốn đầu tư đăng ký chưa đến 1.500 triệu đô và 190 tỷ

đồng thì đến cuối năm 2005 các KCN đã thu hút được 4.516 dự án với tổng vốn đầu tư

đăng ký 17,5 tỷ USD và trên 100.000 tỷ đồng (chưa kể 1.059 triệu USD và 31,3 nghìn tỷ

đồng đầu tư phát triển hạ tầng các KCN), gấp hơn 22 lần về số dự án và 16 lần về số vốn

đầu tư so với năm 1995. Trong số các dự án này, có 2.400 dự án đã đi vào hoạt động và

900 dự án khác đang triển khai xây dựng nhà xưởng.

Trong những năm đầu mới thành lập KCN (1992-1998), các nhà đầu tư nước ngoài

được khuyến khích đầu tư vào các KCN, KCX theo Luật Đầu tư nước ngoài, vì vậy, số dự

án đầu tư nước ngoài cùng với số vốn đầu tư ở giai đoạn này tăng với tốc độ cao và số dự

án có vốn đầu tư nước ngoài lớn hơn nhiều so với số dự án đầu tư trong nước, trong giai

đoạn từ 1995-1998, số dự án đầu tư nước ngoài tăng bình quân hơn 40%/năm, số vốn đầu

tư đăng ký (lũy kế) tăng bình quân 60%/năm, số lượng các dự án có vốn đầu tư nước

ngoài lớn hơn từ 3-4 lần so với số dự án trong nước. Đồng thời, do tác động của khủng

hoảng kinh tế - tài chính tại Châu Á, số dự án và số vốn đầu tư nước ngoài trong những

năm sau tăng với tốc độ chậm hơn, năm 1998-1999 số dự án tăng 20%, số vốn chỉ tăng

8% và năm 1999-2000 số dự án tăng hơn 30% và số vốn tăng 40%.

Từ năm 1998 đến nay, số dự án đầu tư nước ngoài tăng bình quân 25% năm. Đến hết

năm 2005, cả nước có trên 2.202 dự án có vốn đầu tư nước ngoài, cao hơn 17,8% so với

năm 2004.

Năm 1998, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước được ban hành cùng với các Nghị

định quy định chi tiết thi hành có những ưu đãi và khuyến khích đối với các dự án trong

nước đầu tư vào KCN. Do vậy, số dự án trong nước vào KCN từ năm 1998 tăng đáng kể

(tính luỹ kế), năm 1998-1999 tăng 84% từ 132 dự án lên 244 dự án, giai đoạn 1999-2000

tăng 93% từ 244 dự án lên 472 dự án. Các năm sau tăng đều đặn bình quân khoảng 35%.

Cuối năm 2005, số dự án trong nước đạt 2.314 dự án tăng 46% so với năm 2004. Về số

vốn đầu tư, giai đoạn 1995-1998, vốn đầu tư của khu vực trong nước vào KCN tăng bình

quân mỗi năm khoảng 15% (tính luỹ kế), sau năm 1998, vốn đầu tư tăng với tốc độ cao

18

Page 19: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

hơn, đặc biệt các năm 1999 và 2000 vốn đầu tư tăng đột biến, hơn 20 lần so với năm

trước do dự án Nhà máy điện Phú Mỹ I được triển khai tại KCN Phú Mỹ I (Bà Rịa - Vũng

Tàu). Hai năm gần đây, số dự án trong nước có tốc độ tăng khá nhưng vốn đầu tư mỗi dự

án tương đối thấp dẫn đến tốc độ tăng vốn đầu tư khá thấp, chỉ đạt khoảng 2%.

Những năm gần đây, số lượng các dự án trong nước tăng với tốc độ cao hơn so với các

dự án có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp ra đời cùng

với các Nghị định hướng dẫn đã dần đưa các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp của

khu vực trong nước và ngoài nước về cùng một mặt bằng, vì vậy những năm tới dự đoán

số dự án trong nước vào KCN sẽ vượt số dự án có vốn đầu tư nước ngoài, những năm tới

số dự án trong nước dự đoán cao hơn so với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.

3. Về tình hình sản xuất kinh doanh

KCN đã và đang góp phần nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu

và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Giai đoạn 1995-1998, các khu công nghiệp sau khi hoàn tất việc xây dựng cơ bản đã

đi vào hoạt động và thu hút đầu tư, các chỉ tiêu về giá trị sản xuất công nghiệp, xuất khẩu

và nộp ngân sách của các doanh nghiệp trong KCN đều tăng năm sau cao hơn năm trước.

Giai đoạn 1998-2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế - tài chính, tình hình sản

xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có giảm sút, do đó ảnh

hưởng tới tình hình hoạt động chung của các doanh nghiệp KCN, đặc biệt là tình hình

xuất khẩu. Giá trị sản xuất công nghiệp 1998-1999 chỉ tăng 6,9%, xuất khẩu 11,5% và

nộp ngân sách 23%.

Cùng với sự phục hồi của nền kinh tế thế giới và khu vực, tình hình sản xuất kinh

doanh của các doanh nghiệp KCN trở lại với tốc độ tăng trưởng cao, trong thời kỳ 2001 -

2005, tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN, KCX (kể cả trong

nước và nước ngoài) ước đạt khoảng 44 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 32%/năm, giá trị

xuất khẩu đạt trên 21 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 24%/năm - cao hơn tốc độ tăng

trưởng bình quân giá trị xuất khẩu của cả nước (đạt bình quân khoảng 17%/năm), giá trị

nhập khẩu đạt khoảng 27 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 32%/năm. Riêng năm 2005,

tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của các KCN đã đạt 14,4 tỷ USD, bằng 21,5% tổng kim

ngạch xuất nhập khẩu của cả nước.

19

Page 20: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

KCN góp phần giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động và thúc đẩy

chuyển đổi cơ cấu lao động. Các KCN đã tạo ra một số lượng lớn việc làm, nâng cao trình

độ tay nghề và tương ứng với nó là thu nhập của người lao động, góp phần tạo ra sự ổn

định kinh tế và xã hội. Đến nay, các KCN đã tạo việc làm cho trên 0,74 triệu lao động

trực tiếp tăng gấp 3 lần so với năm 2001, 14 lần so với năm 1995 và gần 2 triệu lao động

gián tiếp.

Các doanh nghiệp KCN đã góp phần tạo thêm năng lực sản xuất mới trong nhiều

ngành kinh tế then chốt đối với sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước, như ngành công

nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng, dệt may, công nghiệp thực phẩm (đây là các dự án

thu hút nhiều lao động và có tỷ lệ xuất khẩu cao); các dự án công nghiệp nặng chủ yếu tập

trung trong lĩnh vực lắp ráp các sản phẩm điện, điện tử; sắt thép, cơ khí; các ngành công

nghiệp kỹ thuật cao…

III.NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ YẾU KÉM CÒN TỒN TẠI

1.Kết quả đạt được

Sự phát triến rầm rộ các KCN

Tính đến cuối năm 1997 cả nước có 48 KCN, trong đó Miền Bắc 10 KCN, Miền

Trung 6 KCN , Miền Nam là 32 KCN.

Sau ba năm tới tháng 3/2000 số lượng KCN trên toàn quốc là 65 KCN, được thủ

tướng chính phủ thành lập và cho thuê đất . Các KCN tập trung ở 27 tỉnh thành phố trực

thuộc trung ương , còn 34 tỉnh chưa có KCN. Diện tích đất đã cho công ty xây dựng cơ sở

ghạ tầng là 24.395 ha , diện tích đất KCN theo chi tiết là 5.350 ha . Diện tích đất của các

KCN đã lấp đầy 1.680 bằng 32% diện tích đất công nghiệp theo quy hoạch chi tiết . Và

48% diện tích đất đã tạo mặt bằng công nghiệp có các công trình hạ tầng có thể thu hút

đầu tư 1.680/3.550 và mặt bằng 24%tổng diện tích công nghiệp theo quy hoạch .

Các KCN đã đầu tư theo ba loại hình là KCN do các doanh nghiệp trong nước đầu tư

51 KCN . KCN liên doanh với nước ngoài là 13 KCN. KCN đầu tư 100% vốn nước ngoài

1 KCN .

20

Page 21: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

Các KCN đã đầu tư xong cơ sở hạ tầng là 16 KCN , các KCN đang đầu tư xây dựng

cơ sở hạ tầng là 34 KCN , và KCN chưa đầu tư xây dựng là 15 KCN . Các KCN đã thực

hiện song đền bù giải phóng mặt bằng là 22 KCN , đang thực hiện đền bù là 13 KCN . .

*Thu hút được lượng vốn đầu tư lớn đồng thời tạo việc làm cho hàng vạn lao động .

Việc thu hút vốn đầu tư vào KCN đạt kết quả nhất định , số lượng các dự án được cấp

phép và đi vào sử dụng tăng liên tục qua các năm . Cùng với nó là việc thu hút lao động

rất lớn vào làm việc trong KCN , đó là dấu hiệu đang mừng . Theo số liệu thống kê , đến

cuối năm 1997 các KCN đã thu hút được 543 doanh nghiệp với tổng số vốn thu hút hiện

trên 2 tỷ USD , đã thu hút được 8.8 vạn lao động , không kể số lượng lao động xây dựng

cơ bản và làm việc trong lĩnh vực phục vụ cho KCN .

Cho đến cuối năm 1999 đã có 914 doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt động tổng số

vốn đăng ký là 7.8 tỷ USD , trong đó 569 doanh nghiệp nước ngoài vốn đănh ký 1800tỷ

tương đương 1.4 tỷ USD chiếm 36% số dự án và 17% tổng số vốn đầu tư . Trong tổng số

các doanh nghiệp được cấp phép hoạt động , đã thu hút được 14000 người lao động , tạo

sức mua cho thị trường trong nước 1000 tỷ đồng . Chỉ trong sáu tháng đầu năm 2000 đã

có thêm 68 giấy phép đầu tư nước ngoài đăng ký vào KCN với tổng số vốn đăng ký 186,3

triệu USD tăng 97 % về tổng dự án so với cùng kỳ năm trước. Do kinh doanh có hiệu quả

đã có 18 dự án mở rộng quy mô sản xuất với tổng số vốn đầu tư gần 80 triệu USD , đã thu

hút tới 180.000 lao động trực tiếp , đồng thời tạo việc làm cho hàng vạn lao động gián

tiếp .

Cho đến nay , đầu năm 2002 theo bộ kế hoạch và đầu tư thu hút 795 dự án của các doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài , tổng số vốn đầu tư là 7.555 triệu USD , 674 dự án

trong nước tổng số vốn 30.090 tỷ đồng , tạo việc làm cho 233.000 lao động .

*Các KCN đã đóng góp đáng kể cho tăng trưởng kinh tế . Hoạt động của các KCN đạt

được kết quả nhanh hơn so với nền kinh tế nói chung , ngành công nghiệp và các khu đầu

tư nước ngoài nói riêng và giữ được mức tăng trưởng cao qua mấy năm gần đây .

Năm 1997 : KCN đạt tổng giá trị sản lượng 1.155 triệu USD chiếm 15% giá trị sản xuất

công nghiệp . Đóng góp vào xuất khẩu 848 triệu USD gần bằng 10% giá trị xuất khẩu cả

nước , 47 % giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và tăng gần

hai lần so với năm 1996

21

Page 22: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

Năm 1998 : KCN đạt giá trị sản lượng 1.871 triệu USD, chiếm 20% sản xuất nông nghiệp

, đóng góp xuất khẩu 1300 triệu USD bằng 14% giá trị xuất khẩu của cả nước , 65%giá trị

xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 50% so với năm 1997 .

Trong gần 10 tháng đầu năm 1999 tạo ra giá trị sản lượng 1,7 tỷ USD chiếm 20% giá trị

sản xuất công nghiệp cả nước , trong đó xuất khẩu đạt 1,1 tỷ USD chiếm 15% giá trị xuất

khẩu , tăng 20% so với năm 1998 .

Trong 6 tháng đầu năm 2000 tạo giá trị tổng sản lượng chiếm 25% giá trị tổng sản

lượng công nghiệp và chiếm 16 % giá trị xuất khẩu của cả nước , với doanh số đạt 1,5 tỷ

USD trong đó xuất khẩu đạt 1 tỷ . tăng 25 % so với năm 1999 về cả doanh số lẫn giá trị

xuất khẩu

2. Những tồn tại yếu kém

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của các KCN nói chung vẫn còn gặp phải

không ít những hạn chế, bao gồm:

- Xuất phát từ quan niệm trước đây về khu công nghiệp tập trung (như quy định trong

Nghị định 36/NĐ-CP/1997) là “khu tập trung các doanh nghiệp khu công nghiệp chuyên

sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh

giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ

quyết định thành lập” cho nên các khu công nghiệp thường được lựa chọn bố trí tại những

địa điểm có những thuận lợi chủ yếu về hạ tầng kỹ thuật, xa khu vực dân cư và ít quan

tâm đến việc cung cấp các hạ tầng xã hội. Việc tập trung lao động quá cao ở một số khu

vực trong khi các điều kiện hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội chung của khu vực (đường

giao thông, nhà ở, bệnh viện, trường học, trung tâm thưng mại...) chưa phát triển đồng bộ

để đáp ứng các nhu cầu đó, nên tạo ra tình trạng quá tải cho khu vực, có thể nhận thấy ở

các dấu hiệu như ách tắc giao thông vào các giờ cao điểm, giá cả sinh hoạt tăng cao, điều

kiện ăn ở của người lao động thấp, nguy cơ nảy sinh các hiện tượng xã hội khác như mất

an ninh trật tự,...

- Nhiều khu công nghiệp tập trung ở khu vực phía Nam như ở các tỉnh Bình Dương,

Thành phố Hồ Chí Minh đang gặp phi những vấn đề về cung cấp lao động và cung cấp

các dịch vụ hạ tầng xã hội như các dịch vụ phục vụ cho việc đi lại, ăn ở, y tế chăm sóc

sức khoẻ cho người lao động...

22

Page 23: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

- Cho đến thời điểm giữa năm 2005, tại nhiều địa phương, tỷ lệ cho thuê đất, hạ tầng

khu công nghiệp còn ở mức thấp ngay cả đối với những khu được thành lập trước năm

1995. Trong số 12 khu thành lập trước 1995, chỉ có 6 khu có tỷ lệ lấp đầy trên 50%1, bao

gồm hai khu đã lấp đầy 100%. Cá biệt có khu Đài Tư (Hà Nội) tỷ lệ cho thuê mới đạt

khoảng 1,7%.

- Quá trình hình thành và phát triển các khu công nghiệp trong giai đoạn vừa qua đang

đứng trước một xu hướng không tích cực. Đó là:

+ Các khu công nghiệp thành lập trong giai đoạn sau có tốc độ quá nhanh làm giảm tính

hấp dẫn trong thu hút đầu tư của các khu công nghiệp thành lập trước đó, làm cho các khu

công nghiệp thành lập trong giai đoạn trước có tỷ lệ lấp đầy thấp (bình quân chỉ 57%)

+Tính hấp dẫn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài giảm sút: số khu, diện tích thành

lập tăng gấp 4-5 lần trong khi số dự án chỉ tăng gấp 1,7 lần và lượng vốn chỉ tăng 1,6 lần.

-Thực tế ở nhiều địa phương, một số khu công nghiệp (chưa được thành lập theo quyết

định của Thủ tướng Chính phủ) đã và đang bố trí tập trung các doanh nghiệp sn xuất công

nghiệp theo mô hình khu công nghiệp tập trung. Các địa điểm như vậy đang gặp phải rất

nhiều vấn đề liên quan đến việc đảm bảo hạ tầng khu công nghiệp và sự phát triển bền

vững của khu vực. Tại một số khu công nghiệp này, những hạng mục hạ tầng cơ bản của

khu công nghiệp chưa được xây dựng (hệ thống thoát nước và xử lý chất thi, đường giao

thông nội bộ...) đã làm nảy sinh nhiều vấn đề và hiện nay việc tổ chức xử lý, đầu tư xây

dựng và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp này gặp phải nhiều khó khăn về vốn, về các

giải pháp kỹ thuật và đặc biệt là phương thức kinh doanh hạ tầng...

-Một số địa phương để chuẩn bị cho hình thành các khu công nghiệp đã cấp đất cho

các doanh nghiệp vào đầu tư mặc dù chưa có quy hoạch cụ thể (chi tiết) cho việc xây

dựng. Trong bố trí lựa chọn địa điểm, xuất phát từ tiêu chí thuận lợi về điều kiện hạ tầng

bên ngoài khu, nhiều khu công nghiệp được lựa chọn bố trí gần với các khu dân cư đô thị,

và đặc biệt là quá gần với các trục đường giao thông chính không đảm bảo khoảng cách

cần thiết và do vậy dẫn đến tình trạng bố trí dày đặc dọc hai bên các tuyến đường quốc lộ

chính (ví dụ đường 5), tạo ra sự tập trung quá mức, khó khăn về đảm bảo cung cấp các

điều kiện về hạ tầng.

1

23

Page 24: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

-Cơ cấu đầu tư theo ngành, lĩnh vực công nghiệp, các dự án FDI vào KCN hiện nay

chủ yếu là dự án công nghiệp nhẹ (dệt, sợi, may mặc,...) và công nghiệp thực phẩm là các

dự án thu hút nhiều lao động và có tỷ lệ xuất khẩu cao; các dự án công nghiệp nặng chủ

yếu tập trung trong lĩnh vực lắp ráp các sản phẩm điện, điện tử; các ngành sản xuất công

nghiệp nặng khác như vật liệu xây dựng, hoá chất, điện, cơ khí... còn khá khiêm tốn. Hiện

nay, chưa có được đánh giá đầy đủ về cơ cấu các ngành công nghiệp được đầu tư trong

các khu công nghiệp, nhưng có thể thấy rằng phần lớn các khu công nghiệp có cơ cấu

ngành nghề tương đối giống nhau. Đối với các khu công nghiệp ở các thành phố lớn, nơi

giới hạn về diện tích khu công nghiệp, các ngành có hàm lượng công nghệ cao chưa được

đầu tư phát triển, các dự án chủ yếu vẫn là các ngành sử dụng nhiều lao động.

-Bộ máy quản lý nhà nước về phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất trong thời

gian qua còn chậm được kiện toàn, chưa quy định rõ cơ quan chịu trách nhiệm quản lý

nhà nước về phát triển các khu công nghiệp ở tầm vĩ mô. Ngày 15 tháng 8 năm 2000 Thủ

tướng Chính phủ đã có Quyết định số 100/2000/TTg về việc chuyển các Ban quản lý

KCN cấp tỉnh về trực thuộc Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh (trừ Ban quản lý KCN Dung Quất

và Ban quản lý KCN Việt Nam-Singapore). Tuy nhiên, mô hình tổ chức và chức năng,

nhiệm vụ của các Ban quản lý KCN cấp tỉnh cũng chậm được kiện toàn cần tiếp tục

nghiên cứu để hoàn thiện, phù hợp với tình hình mới.

-Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất chậm được sửa đổi và ban hành. Thực tiễn

quản lý trong những năm vừa qua phát sinh nhiều vấn đề bất cập liên quan đến Nghị định

36/CP (hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các cơ quan liên quan sửa đổi

Quy chế và trình Thủ tướng Chính phủ - Các quy định trong Nghị định, Quy chế sửa đổi

nhìn chung đáp ứng được tình hình thực tiễn quản lý hiện nay).

PHẦN III. NHỮNG ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN

CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM

Trên cơ sở những nhận định về triển vọng phát triển công nghiệp Việt nam trong bối

cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với những phân tích về thực trạng tình hình phát triển

của các khu công nghiệp chúng em đưa ra một số nhóm giải pháp và kiến nghị sau.

24

Page 25: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

I.Giải pháp

1. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với phát triển KCN

1.1.Nâng cao chất lượng quy hoạch KCN

Qui hoạch được coi là yếu tố quan trọng tác động đến khả năng phát triển bền vững

các khu công nghiệp, nó xác định khuôn khổ và phương hướng cho sự phát triển của các

khu này. Tuy nhiên, như trên đã phân tích, thực tế công tác qui hoạch các khu công

nghiệp Việt Nam hiện còn rất nhiều bất cập và yếu kém.

Thứ nhất là qui hoạch các khu công nghiệp mới chỉ mang tính chất hình thức, vì thực

chất có nhiều khu công nghiệp đã được cấp phép mà không dựa vào qui hoạch (trong đó

nhiều khu công nghiệp được cấp phép hoạt động trong giai đoạn chưa có qui hoạch khu

công nghiệp, và những khu công nghiệp này hiện vẫn hoạt động có hiệu quả), nói một

cách khác, công tác qui hoạch còn đi sau so với sự tiến triển của tình hình và so với yêu

cầu thực tiễn phát triển các khu công nghiệp. Tình trạng này còn phổ biến hơn nếu xem

xét đến thực tế phát triển của các cụm công nghiệp địa phương không do Thủ tướng chính

phủ ra quyết định.

Thứ hai, việc xây dựng qui hoạch còn chưa tính toán đầy đủ các yếu tố phát triển,

chẳng hạn như chưa gắn kết qui hoạch khu công nghiệp với qui hoạch tổng thể phát triển

kinh tế xã hội của địa phương, chưa chú trọng đến yêu cầu phát triển bên ngoài hàng rào

khu công nghiệp, đặc biệt chưa chú trọng đến các yêu cầu về bảo vệ môi trường, giải

quyết các vấn đề xã hội do tác động trực tiếp của việc xây dựng các khu công nghiệp, vv.

Thứ ba, qui hoạch khu công nghiệp chưa thực sự tính đến lợi ích tổng thể mà chủ yếu

dựa vào yêu cầu của vùng, địa phương dẫn đến những quyết định duy ý chí (vì lợi ích cục

bộ), gây thiệt hại nhiều về kinh tế.

Thứ tư, tầm nhìn của qui hoạch khu công nghiệp còn hạn chế, thiếu tính phối hợp

đồng bộ giữa các ngành, các địa phương, dẫn đến tính chất manh mún, mất cân đối trong

việc bố trí xây dựng các khu công nghiệp.

Mặc dù hiện nay chúng ta đã có qui hoạch phát triển khu công nghiệp đến năm 2010

và đang trình phê duyệt qui hoạch đến năm 2020, nhưng trên cơ sở nghiên cứu tình hình

thực tế và phân tích kinh nghiệm quốc tế, nhóm nghiên cứu cho rằng cần phải nâng cao

25

Page 26: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

hơn nữa chất lượng công tác qui hoạch để tăng cường tính chất bền vững trong phát triển

các khu công nghiệp

1.2. Đa dạng hoá mô hình các khu công nghiệp.

Mô hình tổ chức các KCN cần phải đi sát với thực tế xu hướng phát triển KCN hiện

đại. Mô hình tổ chức sản xuất công nghiệp ở nước ta (cũng như ở nhiều quốc gia khác)

trong những thập kỷ 1960, 1970 thiên về việc hình thành những tổ hợp công nghiệp có

quan hệ chặt chẽ về công nghệ, đến những năm 1980, 1990 là sự ra đời của các khu công

nghiệp tập trung với một quan niệm mới về phát huy hiệu quả của công nghiệp thông qua

việc sử dụng chung các dịch vụ hạ tầng (bao gồm cả dịch vụ xử lý những tác động môi

trường sinh thái). Hiện nay, xu hướng mới trong phát triển các KCN là hình thành những

cluster công nghiệp trong đó chú trọng hơn đến các mối liên hệ nhiều tầng trong phát triển

công nghiệp. Do vậy, mô hình phát triển các khu công nghiệp phải phù hợp với các giai

đoạn nhất định trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Các khu công nghiệp ở một giai đoạn

mà nền kinh tế còn kém phát triển, dư thừa nhiều lao động, thì không tránh khỏi phải thu

hút nhiều ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động (ngay cả ở các đô thị lớn). Một khi

kinh tế phát triển như hiện nay thì sự tồn tại của khu công nghiệp như vậy trở nên bất hợp

lý và cần có những mô hình phát triển mới. Nhóm nghiên cứu đề xuất một số mô hình

phát triển KCN mới có thể áp dụng vào VN hiện nay như sau :

Mô hình KCN tập trung, trong đó bao gồm các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp,

sản xuất hàng hoá tiêu thụ trong nước và phục vụ xuất khẩu. Sự thành công của một số

khu công nghiệp tập trung thời gian qua đã chứng minh sự phù hợp của mô hình này, và

việc duy trì áp dụng mô hình khu công nghiệp tập trung vẫn nên được coi là một trong

những hướng phát triển cần thiết của các khu công nghiệp. Tuy nhiên, trong mô hình này,

chúng ta có thể kết hợp tổ chức hoạt động của cả các doanh nghiệp chế xuất và các doanh

nghiệp sản xuất công nghiệp phục vụ nhu cầu trong nước.

Mô hình KCN tổng hợp, trong đó bao gồm cả các doanh nghiệp công nghiệp, doanh

nghiệp cung cấp dịch vụ và cả khu dân cư. Một trong những xu hướng mới hiện nay trong

việc tổ chức hoạt động của khu công nghiệp là kết hợp phát triển hoạt động sản xuất công

nghiệp với các hoạt động cung cấp dịch vụ và các đầu vào cần thiết cho các doanh nghiệp

công nghiệp, kết hợp phát triển sản xuất và tổ chức đời sống dân cư trong khu công

26

Page 27: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

nghiệp, theo mô hình tổng hợp. Việc kết hợp phát triển các doanh nghiệp công nghiệp với

các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ (như vận tải, bưu điện, thông tin liên lạc, tài chính,

vv) một mặt sẽ cho phép tạo ra một tổng thể khép kín các hoạt động, đảm bảo sự chủ

động trong việc tổ chức hoạt động của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, mặt

khác, sự kết hợp này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giảm chi phí dịch vụ do sự rút

ngắn khoảng cách trong cung cấp dịch vụ, qua đó tăng cường khả năng cạnh tranh của các

doanh nghiệp tham gia khu công nghiệp. Bên cạnh đó, việc phát triển các khu dân cư

trong khu công nghiệp (với mục đích chủ yếu phục vụ nhu cầu của người lao động làm

việc trong khu công nghiệp) sẽ giúp giải quyết được những vấn đề bức xúc hiện nay về

nhà ở cho người lao động trong khu công nghiệp, qua đó tạo ra sự ổn định về lao động

trong các khu công nghiệp.

Mô hình liên kết khu công nghiệp, theo đó nhiều KCN sẽ được bố trí gần nhau và liên

kết theo dạng cluster công nghiệp. Tổ chức theo dạng cluster tức là việc tập trung theo

ngành và theo khu vực địa lý các đơn vị sản xuất kinh doanh. Mô hình tổ chức này cho

phép tận dụng khả năng tiết kiệm chi phí giao dịch, với sự tập trung của các nhà cung cấp

nguyên vật liệu, linh kiện và máy móc thiết bị cũng như sự tập trung của lực lượng lao

động có tay nghề chuyên môn phù hợp với từng ngành. Sự tập trung này cũng tạo điều

kiện phát triển các loại hình dịch vụ phù hợp với từng ngành như dịch vụ kỹ thuật, tài

chính kế toán, vv. Các lợi thế này là nhân tố đảm bảo sự phát triển bền vững của mô hình

liên kết KCN này. Hiện nay mô hình cluster công nghiệp đã và đang được áp dụng thành

công tại các nước phát triển và các nước đang phát triển có điều kiện tương tự như nước

ta, do vậy, nhóm nghiên cứu cho rằng việc tổ chức các khu công nghiệp theo mô hình

cluster có thể được coi là một mô hình phát triển bền vững hợp lý cho các khu công

nghiệp của Việt nam trong tương lai.

1.3.Giải pháp về tăng cường hiệu quả công tác quản lý môi trường

Một trong những vấn đề bức xúc trong quá trình phát triển các khu công nghiệp hiện

nay là tình trạng ô nhiễm môi trường do hoạt động của các khu công nghiệp gây ra ngày

càng trở nên trầm trọng. Thực tế cho thấy một tình trạng phổ biến là hầu hết các khu công

nghiệp đều chưa tuân thủ đầy đủ các ràng buộc về bảo vệ môi trường (cả môi trường

nước, chất thải, không khí và tiếng ồn), và không ít các khu công nghiệp bị coi là “ổ gây ô

27

Page 28: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

nhiễm” cho khu vực có khu công nghiệp. Do vậy, bảo vệ môi trường trong các khu công

nghiệp phải được coi là một nội dung quan trọng cần thực hiện để đảm bảo phát triển bền

vững khu công nghiệp và địa phương có khu công nghiệp, và cần có những giải pháp thiết

thực và cấp bách. Các giải pháp này phải đồng thời nhắm đến hai mục tiêu là khắc phục

tình trạng ô nhiễm hiện tại và ngăn ngừa ô nhiễm mới.

Trước hết, Nhà nước phải kết hợp với các địa phương, các KCN và các doanh nghiệp

đang hoạt động trong các KCN tìm ra giải pháp thiết thực để khắc phục tình trạng ô

nhiễm môi trường ở các KCN. Cần kết hợp giữa việc rà soát các chế tài xử lý hành vi gây

ô nhiễm môi trường với việc hỗ trợ các đơn vị tổ chức có liên quan để chấm dứt tình trạng

ô nhiễm hiện tại, đặc biệt là tình trạng ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm khí thải.

Hai là, Nhà nước phải có các qui định đầy đủ và hợp lý về bảo vệ môi trường ngay từ

khâu qui hoạch phát triển khu công nghiệp. Những qui định này hiện nay vẫn còn nhiều

bất cập, chưa hợp lý và chưa khoa học dẫn đến sự tuân thủ chưa triệt để của các khu công

nghiệp, đặc biệt là qui định về việc xây dựng khu xử lý nước thải tập trung cho mỗi khu

công nghiệp. Vì vậy, theo nhóm nghiên cứu, cần có qui định cụ thể về sự sẵn sàng của cơ

sở hạ tầng xử lý nước thải và chất thải trước khi cho phép phê duyệt cấp giấy phép đầu tư

vào khu công nghiệp, đồng thời cần có qui định cụ thể về việc thẩm định kỹ càng các nội

dung về môi trường của mỗi dự án trước khi cấp phép đầu tư.

Giải pháp thứ hai là nhà nước cần hoàn thiện hệ thống các qui định chế tài pháp lý

trong việc quản lý môi trường. Hiện nay, mặc dù đã có luật bảo vệ môi trường nhưng việc

xử lý việc vi phạm qui định bảo vệ môi trường còn lỏng lẻo, chưa triệt để dẫn đến việc

các doanh nghiệp xem nhẹ nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Để đảm bảo duy trì một môi

trường bền vững, nhà nước, mà cụ thể là các cơ quan có liên quan (Bộ Tài nguyên môi

trường, Bộ Khoa học công nghệ, Bộ Tài chính, vv) phải hợp tác xây dựng được hệ thống

các qui định chi tiết xử phạt hành vi vi phạm bảo vệ môi trường làm cơ sở cho việc quản

lý môi trường và tăng cường tính chất răn đe trong việc thực thi nghĩa vụ bảo vệ môi

trường của các đơn vị kinh doanh trong khu công nghiệp.

Bên cạnh đó, một giải pháp khác nhằm nâng cao chất lượng công tác bảo vệ môi

trường là nhà nước phải có cơ chế khuyến khích nâng cao tinh thần trách nhiệm của các

đơn vị kinh doanh tham gia bảo vệ môi trường. Cơ chế khuyến khích này có thể bao gồm

28

Page 29: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

các nội dung như không thu tiền thuê đất đối với diện tích xây dựng cơ sở hạ tầng xử lý

chất thải và nước thải bảo vệ môi trường, kể cả khu xử lý tập trung và các khu xử lý cục

bộ trong các doanh nghiệp. Đồng thời, nhà nước cũng nên có cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp

(lãi suất thấp hoặc hỗ trợ lãi suất, thưởng) đối với phần vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ

tầng xử lý môi trường, hoặc hỗ trợ tạo điều kiện ưu tiên cho các doanh nghiệp sử dụng

công nghệ ít gây tổn hại cho môi trường.

Để đảm bảo xử lý vấn đề môi trường được thuận lợi, việc qui hoạch thành lập các khu

công nghiệp chuyên ngành cũng là một giải pháp hiệu quả, bởi vì nếu như trong cùng một

khu công nghiệp mà có nhiều doanh nghiệp thuộc ngành nghề khác nhau thì công nghệ xử

lý môi trường cũng đòi hỏi đa dạng, tốn kém và khó quản lý. Việc tập trung các doanh

nghiệp có cùng ngành nghề trong một khu công nghiệp sẽ tạo điều kiện đầu tư tập trung

vào cơ sở hạ tầng và công nghệ xử lý môi trường, nâng cao hiệu quả trong công tác phòng

ngừa các nguyên nhân gây ô nhiễm, xử lý triệt để và có hiệu quả tình trạng ô nhiễm tại

các khu công nghiệp.

1.4.Giải pháp nâng cao tính hấp dẫn của KCN trong thu hút đầu tư

Tính hấp dẫn trong thu hút đầu tư của khu công nghiệp có ảnh hưởng quyết định hiệu

quả hoạt động của khu công nghiệp cũng như khả năng phát triển một cách bần vững của

chúng. Sức hấp dẫn của khu công nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó trước hết

phải kể đến ưu thế tương đối của môi trường đầu tư vào khu công nghiệp và những nỗ lực

của nhà nước trong việc triển khai các hoạt động xúc tiến đầu tư.

Đối với các khu công nghiệp của Việt nam thời gian qua chưa thể hiện được ưu thế

vượt trội trong việc thu hút đầu tư, nhiều khu công nghiệp vẫn không đạt mục tiêu lấp đầy

sau nhiều năm hoạt động. Nguyên nhân của tình trạng này được lý giải theo nhiều khía

cạnh : môi trường pháp luật chưa thông thoáng, thủ tục hành chính còn nhiều bất cập, cơ

sở hạ tầng trong và ngoài khu công nghiệp chưa đảm bảo thuận tiện, chi phí hoạt động

trong khu công nghiệp còn cao, đặc biệt là tiền thuê đất, nguồn nhân lực còn thiếu và yếu,

phương thức tiếp thị chưa tốt, vv.

Để nâng cao tính hấp dẫn của các khu công nghiệp, những giải pháp cơ bản sau đây là

cần thiết.

29

Page 30: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

Trước hết cần hoàn thiện môi trường pháp lý và đơn giản hoá các thủ tục hành chính,

thông qua việc nhanh chóng xây dựng và thông qua luật về khu công nghiệp, hoàn thiện

cơ chế “một cửa tại chỗ” và coi đây là công cụ quan trọng tạo lập môi trường hành chính

thuận lợi trong khu công nghiệp, đồng thời ổn định các chính sách và cơ chế để tạo điều

kiện cho các nhà đầu tư vào khu công nghiệp có những tính toán chiến lược dài hạn và

bền vững.

Cần tiếp tục xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng quốc gia (giao thông, năng lượng,

thông tin liên lạc, vv), khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia xây dựng cơ sở hạ

tầng ngoài khu công nghiệp, sử dụng nguồn lực của nhà nước để hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ

tầng ở những địa phương chưa có điều kiện, qua đó tạo thuận lợi cho việc triển khai hoạt

động của các nhà đầu tư vào khu công nghiệp.

Giải pháp thứ ba là tạo điều kiện giảm chi phí kinh doanh cho các nhà đầu tư vào khu

công nghiệp, nâng cao tính hấp dẫn trong thu hút đầu tư bằng nhiều chính sách khác nhau,

trong đó : giảm chi phí thu hồi đất, đền bù giải toả để tạo điều kiện giảm tiền thuê đất cho

nhà đầu tư; giảm chi phí sử dụng dịch vụ công cộng và chi phí duy tu bảo dưỡng cơ sở hạ

tầng, nên thu chi phí theo mức độ hoạt động (doanh thu, kim ngạch xuất khẩu, vv) để tạo

điều kiện cho những doanh nghiệp còn khó khăn trong hoạt động có điều kiện phát triển

sản xuất. Bên cạnh đó, cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế (kể cả các nhà đầu tư

nước ngoài) tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng khu công nghiệp sẽ làm tăng tính cạnh tranh và

qua đó có thể giảm đáng kể chi phí sử dụng hạ tầng (điện, nước, liên lạc, vv) cho các nhà

đầu tư trong khu công nghiệp.

Đồng thời với các chính sách tạo thuận lợi về mặt điều kiện kinh doanh cho các nhà

đầu tư vào khu công nghiệp, công tác xúc tiến đầu tư của nhà nước cũng sẽ góp phần

không nhỏ vào việc nâng cao tính hấp dẫn trong thu hút đầu tư vào khu công nghiệp. Hoạt

động xúc tiến đầu tư vào khu công nghiệp của chúng ta hiện nay còn mang tính chất tự

phát và manh mún, mỗi địa phương thực hiện theo một cách và dẫn đến tình trạng cạnh

tranh không lành mạnh ngay giữa các khu công nghiệp trong nước, làm tổn hại đến hình

ảnh về môi trường đầu tư của Việt Nam. Từ thực tế trên, nhóm nghiên cứu đề xuất cần tập

trung hoạt động xúc tiến đầu tư với sự tham gia và hỗ trợ của các cơ quan nhà nước trung

ương, thông qua việc thiết lập các kênh thông tin tập trung (website, các chiến dịch xúc

30

Page 31: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

tiến đầu tư, thiết lập các đoàn vận động đầu tư cùng với việc liên kết chặt chẽ với các tổ

chức các nhà đầu tư quốc tế). Hoạt động này cần có sự chỉ đạo tập trung bởi một cơ quan

chuyên trách với sử dụng ngân sách nhà nước để tién hành hoạt động. Đồng thời, việc

tham gia hiệp hội các khu công nghiệp và khu chế xuất khu vực và thế giới cũng sẽ góp

thêm cơ hội quảng bá cho các khu công nghiệp của Việt Nam.

1.5. Hoàn thiện một số chính sách phát triển bền vững KCN

1.5.1.Các yêu cầu trong xây dựng chính sách

Liên quan đến vấn đề này, cần lưu ý không những là công việc của các nhà lãnh đạo

và quản lý cấp quốc gia mà còn là nhiệm vụ của chính quyền các địa phương trong việc

cụ thể hóa chính sách trong cơ chế vận dụng ở từng địa phương. Quá trình hoàn thiện

chính sách phải được bắt đầu từ sự thay đổi hay chuyển hóa quan niệm về sự phát triển

các khu công nghiệp ở nước ta, tiếp sau đó là sự thay đổi trong hệ thống văn bản pháp quy

và cuối cùng là hoàn thiện hệ thống chính sách liên quan trực tiếp đến phát triển bền vững

khu công nghiệp.

Các chính sách nhằm phát triển bền vững khu công nghiệp cần hướng tới việc: thực

hiện mục tiêu quy hoạch phát triển các khu công nghiệp; đẩy mạnh hoạt động, nâng cao

khả năng cạnh tranh và tăng hiệu quả hoạt động cho các doanh nghiệp; thu hút được các

nhà đầu tư trong nước và nước ngoài vào khu công nghiệp.

1.5.2.Hoàn thiện chính sách thu hồi đất

Thu hồi đất và giải phóng mặt bằng cho khu công nghiệp hiện nay được coi là khâu

mấu chốt quyết định sự thành công của các khu công nghiệp và lại là khâu có nhiều khó

khăn nhất theo những kết quả nhóm nghiên cứu đã ghi nhận được trong thời gian qua.

Những vấn đề liên quan đến việc thu hồi đất và đền bù đất bị thu hồi đã gây tổn hại đến

nhiều phía, cả đối với khu công nghiệp (trong đó là các doanh nghiệp tham gia đầu tư vào

khu công nghiệp), đối với dân cư trong vùng có khu công nghiệp và nhìn chung là đối với

nền kinh tế. Nguyên nhân của những vấn đề này cũng đến từ nhiều phía, từ chính sách

31

Page 32: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

chung của Nhà nước, các cơ chế đặc thù của mỗi địa phương, tinh thần trách nhiệm của

các nhà đầu tư khu công nghiệp cũng như sự hợp tác từ phía người dân.

1.5.3.Chính sách đảm bảo nguồn lao động cho KCN

Tình trạng thiếu hụt nhân công, kể cả lao động quản lý lẫn lao động phổ thông, đang

ngày càng trở thành một vấn đề nghiêm trọng tại các khu công nghiệp cùng với sự gia

tăng về số lượng và qui mô của các khu công nghiệp trong thời gian gần đây, đặc biệt là

tại các vùng có tập trung nhiều khu công nghiệp. Thực tế này đã gây nhiều khó khăn cho

việc mở rộng qui mô của các khu công nghiệp hiện tại cũng như xây dựng các khu công

nghiệp mới. Để giải quyết một cách triệt để và lâu dài vấn đề này, nhóm nghiên cứu đề

xuất một số giải pháp như sau.

Cần có chính sách đồng bộ về đào tạo cán bộ quản lý và đào tạo nghề trên toàn quốc

gắn liền với nhu cầu và qui hoạch phát triển các khu công nghiệp. Cần mở rộng qui mô

đào tạo lao động kỹ thuật tại các địa bàn tập trung nhiều khu công nghiệp để có thể tạo

nguồn lao động tại chỗ đáp ứng nhu cầu phát triển dài hạn của các khu này. Cơ cấu đào

tạo có thể dựa trên dự báo nhu cầu theo qui hoạch phát triển khu công nghiệp và theo đơn

đặt hàng trực tiếp của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp.

Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các doanh

nghiệp trong khu công nghiệp tự đào tạo lao động (tại chỗ hoặc gửi đi đào tạo tại nước

ngoài), góp phần giải quyết tình trạng thiếu hụt lao động đặc biệt là lao động kỹ thuật.

Bên cạnh hoạt động đào tạo, nhà nước cần phối hợp với địa phương có chính sách tạo

môi trường sống lành mạnh và chăm lo đời sống cho lao động làm việc trong khu công

nghiệp. Chính sách này được thể hiện thông qua các chủ trương xây dựng các khu dịch vụ

hỗ trợ quanh khu công nghiệp, trong đó phát triển các loại hình cung cấp dịch vụ lưu trú,

dịch vụ văn hoá thể thao, dịch vụ thương mại cung cấp các sản phẩm cần thiết cho đời

sống của người lao động, có như vậy mới đảm bảo tạo điều kiện cho người lao động an

tâm gắn bó lâu dài với địa bàn và với khu công nghiệp.

2. Các giải pháp đối với địa phương

2.1. Đẩy nhanh việc triển khai đền bù, thu hồi đất cho xây dựng KCN

32

Page 33: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

Như đã nhấn mạnh ở phần trên, vấn đề bức xúc nhất trong việc triển khai các khu

công nghiệp hiện nay là vấn đề đền bù thu hồi đất xây dựng khu công nghiệp. Để giải

quyết những bất cập này không thể chỉ trong chờ vào sự nỗ lực của nhà nước thông qua

các chinh sách mà trước hết đó là nhiệm vụ của các cấp chính quyền địa phương. Thực tế

cho thấy, ở những địa phương nào mà các cấp chính quyền nhận thức tốt vai trò của mình

trong việc thu hồi đất và hợp tác toàn diện trong việc triển khai công tác giải phóng mặt

bằng thì công tác triển hai xây dựng khu công nghiệp rất thuận lợi. Trái lại, tại một số địa

phương, tiến độ xây dựng khu công nghiệp bị đình trệ do chính quyền địa phương đã

không có những giải pháp phù hợp cho công tác thu hồi đất, thậm chí, một số địa phương

lại hầu như giao toàn bộ công việc này cho các nhà đầu tư khu công nghiệp tự lo. Để tạo

điều kiện phát triển thuận lợi các khu công nghiệp, nhóm nghiên cứu đề xuất một số giải

pháp cần tiến hành triệt để đối với chính quyền các địa phương có khu công nghiệp.

Một là phải nhận thức đầy đủ trách nhiệm quan trọng của chính quyền địa phương

trong tổ chức đền bù, giải toả, tránh phó mặc cho các nhà đầu tư cơ sở hạ tầng tự đàm

phán, thoả thuận trực tiếp với dẫn vì như vậy sẽ dễ dẫn đến sự đối xử không công bằng,

gây tâm lý không tin tưởng của người dân. Để hoàn thành trách nhiệm này, chính quyền

địa phương cần có những giải pháp cụ thể như sau :

Công bố công khai và phổ biến sớm qui hoạch đã được phê duyệt bằng nhiều hình

thức đến người dân ở khu vực bị thu hồi đất nhằm chuẩn bị tâm lý cho người dân và giả

bớt những hoạt động lợi dụng sự hiểu biết về thông tin qui hoạch để trục lợi thông qua

mua bán, sang nhượng, xây dựng kiên cố trên vùng đất được qui hoạch dẫn đến gây bất

ổn về tình hình giá đất, gây khó khăn và tốn kém cho việc thu hồi và giải phóng mặt bằng

cho xây dựng khu công nghiệp.

Chuẩn bị kỹ càng kế hoạch thu hồi đất và tái định cư cho người dân mất đất, thông qua

chính quyền địa phương các cấp để phổ biến cho dân. Kế hoạch này phải có nhiều

phương án để cho người dân có thể lựa chọn phương án phù hợp với điều kiện riêng của

họ (giao đất lấy tiền, đổi đất lấy nền nhà, góp đất lấy cổ phần, vv), phải được phổ biến và

lấy ý kiến đóng góp của các cấp (quản lý, hộ dân, vv), và phải do các cán bộ có uy tín

tham gia tổ chức thực hiện kế hoạch.

33

Page 34: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

Hai là chính quyền địa phương phải có phương án và kế hoạch ổn định cuộc sống cho

người dân sau khi bị thu hồi đất. Tình trạng phổ biến ở một số địa phương là những người

dân sau khi bị thu hồi đất phải mất rất nhiều thời gian để tổ chức lại cuộc sống trong khi

lại ít nhận được sự quan tâm của chính quyền địa phương. Thậm chí nhiều nơi, những

người bị thu hồi đất thấy bị thiệt thòi quá nhiều đã quay trở lại gây khó khăn cho hoạt

động của các nhà đầu tư. Để ổn định cuộc sống cho dân mất đất, trước hết chính quyền

địa phương cần đi trước một bước trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng ở khu vực tái định cư

và xây dựng khu nhà ở tái định cư phù hợp. Cần tạo điều kiện cho những hộ dân có liên

quan tham gia giám sát việc xây dựng nhà tái định cư để đảm bảo rằng những gì họ được

hưởng là tương xứng với những lợi ích mà họ đã phải “hy sinh” vì sự phát triển của khu

công nghiệp.

Trong nhiều trường hợp các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình đền bù, giải tỏa đưa

ra ở trên không đem lại kết quả như mong đợi, chính quyền các địa phương có thể đưa

vào thực hiện phương pháp đền bù mới. Theo đó, khi bàn giao đất sản xuất cho công ty

đầu tư phát triển hạ tầng KCN, người nông dân thay vì được đền bù bằng tiền mặt họ sẽ

được nhận cổ phiếu của công ty. Như vậy họ sẽ là cổ đông, tham gia trực tiếp vào hoạt

động kinh doanh của KCN và thay vì được nhận hoa màu từ sản xuất nông nghiệp họ sẽ

được nhận tiền lãi từ hoạt động kinh doanh hạ tầng của KCN. Người dân sẽ sẵn sàng bàn

giao đất để công ty hạ tầng có thể sớm đi vào hoạt động, mang lại lợi nhuận cho chính họ.

Giải pháp này sẽ mang tính hiện thực nhiều hơn vì chắc chắn sẽ nhận được sự đồng tình

của phần lớn người dân mất đất.

2.2.Tăng cường cung cấp hàng hoá, dịch vụ phục vụ khu công nghiệp

Sự hình thành của khu công nghiệp tại địa phương chắc chắn sẽ dẫn đến sự hình thành

các nhu cầu khác nhau phục vụ cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp và cho lực

lượng lao động làm việc trong khu công nghiệp. Điều này đòi hỏi địa phương phải có sự

chuẩn bị để sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu thiết thực này, một mặt góp phần tạo điều

kiện phát triển cho khu công nghiệp, mặt khác tận dụng nhu cầu này để đa dạng hoá các

loại hình sản xuất hàng hoá và cung ứng dịch vụ, tăng thu nhập cho người dân địa

phương.

34

Page 35: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

Phát triển các loại hình sản xuất sản phầm và dịch vụ cung cấp cho khu công nghiệp

phải được tính đến ngay từ khi phê duyệt cấp phép cho khu công nghiệp. Đi đôi với thành

lập khu công nghiệp, chính quyền địa phương cũng cần xây dựng những cơ sở hạ tầng cần

thiết cho việc phát triển các hoạt động vệ tinh cho khu công nghiệp. Điều này cũng sẽ tạo

điều kiện cho quá trình đô thị cùng với sự phát triển của các khu công nghiệp trong tương

lai.

Chính quyền địa phương sẽ phải định hướng và tạo điều kiện cho các hộ dân xung

quanh khu công nghiệp tham gia phát triển các loại hình sản xuất kinh doanh hàng hóa và

dịch vụ chuyên nghiệp phục vụ chủ yếu nhu cầu của lực lượng lao động làm việc trong

khu công nghiệp. Quá trình này có thể bắt đầu từ việc địa phương xây dựng các mô hình

kiểu mẫu hộ gia đình sản xuất hàng hoá, nhân rộng điển hình làm tăng tính đa dạng trong

cung cấp dịch vụ, tiến tới tăng qui mô và tăng dần tính chuyên môn hoá, từng bước đảm

bảo cung cấp đầu vào cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp.

2.3.Tạo nguồn lao động nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động

Đảm bảo đủ nguồn lao động đáp ứng nhu cầu của khu công nghiệp (hiện đang rất

thiếu về số lượng và yếu về chất lượng) hiện nay không thể chỉ trông chờ vào chính sách

của nhà nước mà trước hết địa phương có khu công nghiệp phải đi đầu trong việc cung

ứng nguồn lao động bền vững. Vấn đề nguồn lao động cho khu công nghiệp có thể được

giải quyết thông qua việc huy động và đào tạo nguồn lao động tại chỗ, đồng thời thông

qua việc tạo điều iện thuận lợi cho viêc ổn định cuộc sống cho số lượng lao động nhập cư

từ những địa phương khác. Các giải pháp cụ thể được nhóm nghiên cứu đề xuất là :

Ưu tiên đào tạo và huy động lực lượng lao động là con em những hộ dân bị thu hồi đất

cho khu công nghiệp vào làm việc tại các khu công nghiệp. Cách làm này vừa cho phép

giải quyết vấn đề về lao động vừa cho phép giải quyết những vấn đề xã hội có thể nảy

sinh do mất đất, qua đó vừa tạo thuận lợi hơn cho việc thu hồi đất cho những khu công

nghiệp khác trên địa bàn, vừa là một trong những điều kiện đảm bảo phát triển bền vững

khu công nghiệp.

35

Page 36: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

Khuyến khích các thành phần kinh tế thành lập các cơ sử cung ứng lao động, đảm

nhận nhiệm vụ tuyển dụng lao động tại chỗ và ở các địa phương có nguồn lao động dòi

dào, đào tạo và huấn luyện để cung cấp cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp.

Tổ chức tốt vấn đề nhà ở cho người lao động nhập cư bằng việc hỗ trợ các hộ dân

trong việc xây dựng các khu nhà ở đạt tiêu chuẩn với giá thuê hợp lý tạo điều kiện lưu trú

lâu dài cho người lao động, đồng thời tổ chức tốt công tác đảm bảo an ninh trong khu vực,

tạo tâm lý an tâm cho sự lưu trú lâu dài của người lao động nhập cư, tránh tình trạng luận

chuyển lao động tự do có ảnh hưởng không tốt tới sự phát triển lâu dài của các khu công

nghiệp.

Địa phương kết hợp với các hộ dân quanh khu công nghiệp trong việc cung cấp các

dịch vụ văn hoá xã hội, nâng cao đời sống tinh thần, cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế cho

người lao động.

2.4..Phát triển khu dân cư ở khu vực có khu công nghiệp

Sự phát triển bền vững của các khu công nghiệp phải gắn liền với sự phát triển của các

khu dân cư xung quanh khu công nghiệp, phát triển khu dân cư sẽ tạo sự phát triển cân

đối giữa bên trong và bên ngoài khu công nghiệp, nâng cao mức sống và đẩy nhanh tốc độ

đô thị hoá theo hướng văn minh, hiện đại và an ninh. Những giải pháp chủ yếu cho vấn đề

này có thể là:

Chính quyền sở tại phối hợp với các cơ quan chuyên môn và có sự tham gia của người

dân tổ chức lập qui hoạch đô thị ngoài khu công nghiệp. Điều này sẽ cho phép làm giảm

tính chất hình thức của qui hoạch, nâng cao chất lượng qui hoạch đồng thời đảm bảo thiết

kế khu đô thị phù hợp bền vững với sự phát triển của khu công nghiệp.

Địa phương dành quỹ đất khuyến khích các tổ chức, tập thể và cá nhân đầu tư xây

dựng khu dân cư tập trung, nhà tập thể giá rẻ bán trả dần cho người lao động và cán bộ

làm việc trong khu công nghiệp, khuyến khích họ gắn bó lâu dài với khu công nghiệp.

Việc xây dựng cơ sở hạ tầng khu dân cư xung quanh khu đô thị cần được chính quyền

các cấp tại địa phương quan tâm tạo điều kiện hỗ trợ. Một mặt sử dụng ngân sách đầu tư

cơ sở hạ tầng, mặt khác cho phép và khuyến khích xã hội hoá hoạt động đầu tư hạ tầng

ngoài khu công nghiệp để dần hình thành bộ mặt một đô thị văn minh cùng với tương lai

phát triển của khu công nghiệp.

36

Page 37: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

Địa phương cũng cần có biện pháp vận động tuyên truyền mọi tổ chức các nhân coi

việc tạo môi trường sống cho người lao động làm việc trong khu công nghiệp là vấn đề

của người trong cuộc, tỏ thái độ hiếu khách đối với số lao động nhập cư, tăng sức hấp dẫn

cho việc thu hút đầu tư vào khu công nghiệp.

II . MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

Để đảm bảo thực hiện thành công những giải pháp nêu trên, chúng em đề xuất một số

kiến nghị cơ bản như sau :

1. Kiến nghị về tổ chức quản lý KCN

1.1. Kiến nghị mô hình quản lý KCN và KCX ở cấp trung ương

Từ khi chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý từ Ban quản lý các Khu công nghiệp và

chế xuất Việt Nam trực thuộc Chính phủ thành Vụ quản lý khu công nghiệp và khu chế

xuất thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư với chức năng của đơn vị tham mưu, giúp việc cho Bộ

trưởng không có tư cách pháp nhân; có con dấu và tài khoản riêng. Do vậy, mọi hoạt động

của Vụ đối với công tác quản lý các KCN, KCX trong cả nước nhất thiết đều phải thông

qua lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư để có tư cách pháp nhân, gây ảnh hưởng rất lớn đến

khả năng, thời gian xử lý các công việc trong lĩnh vực mà cơ chế “một cửa, tại chỗ” đã

được thực hiện ở tất cả các KCN và KCX trong cả nước. Nói cách khác, nhiệm vụ và

quyền hạn của Vụ là chưa có sự tương xứng cần thiết giữa Ban quản lý các KCN của từng

địa phương (tỉnh, thành phố) với Vụ quản lý các KCN và KCX thuộc bộ Kế hoạch Đầu tư

ở cấp Trung ương. Điều này gây trở ngại đáng kể cho việc triển khai một cách có hiệu quả

hoạt động quản lý nhà nước của Vụ quản lý các KCN và KCX đối với các Ban quản lý

các KCN ở địa phương. Từ thực tế đó, nhóm nghiên cứu đề xuất với Chính phủ và Bộ Kế

hoạch và Đầu tư chuyển chức năng của Vụ quản lý các KCN và KCX hiện nay thành Cục

quản lý các KCN và KCX trực thuộc Bộ, qua đó cho phép đảm bảo sự thống nhất về

nhiệm vụ và quyền hạn giữa các cơ quan quản lý TW và cơ quan quản lý địa phương đối

với các KCN.

1.2.Kiến nghị phân cấp quản lý KCN và KCX

Để tăng cường tính chủ động và tinh thần trách nhiệm trong quản lý các khu công

nghiệp, việc phân cấp quản lý các KCN cho các ban quản lý KCN tại địa phương là một

37

Page 38: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

điều kiện quan trọng cho phép nâng cao hiệu qủa quản lý KCN. Tuy nhiên, cho đến nay

mới chỉ có Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là có được sự phân cấp đầy đủ các quyền

quyết định về các hoạt động trong các KCN. Do đó, nhóm nghiên cứu kiến nghị trong

thời gian tới, nhà nước sẽ tiến hành việc phân cấp đầy đủ hơn các quyền cho ban quản lý

KCN tại các địa phương còn lại trong cả nước, tránh việc quản lý chồng chéo giữa các cơ

quan quản lý các cấp, các ngành khác nhau đối với một vấn đề thuộc khu công nghiệp,

điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi đáng kể cho các ban quản lý trong việc thực hiện đầy

đủ chức năng quản lý nhà nước theo mô hình “một cửa – tại chỗ” đối với các hoạt động

trong các KCN; và đặc biệt tạo điều kiện cho các nhà đầu tư khi xin phép và triển khai các

dự án đầu tư trong khu công nghiệp được nhanh chóng, thuận lợi.

2.Kiến nghị về tổ chức thực hiện qui hoạch, chính sách và cơ chế đã ban hành.

Một trong những nguyên nhân của các khó khăn trong việc quản lý sự phát triển các

KCN thời gian qua là tình trạng phát triển không có qui hoạch, thực hiện các chính sách

không nhất quán, buông lỏng kiểm soát việc tuân thủ các qui chế, qui định trong quản lý

KCN. Để khắc phục khó khăn này, đồng thời đảm bảo sự thành công trong việc triển khai

đồng bộ các giải pháp nêu trên, nhóm nghiên cứu kiến nghị :

Nhanh chóng phê duyệt qui hoạch phát triển KCN đến năm 2020 và triển khai thực

hiện trên thực tế để đảm bảo sự phát triển cân đối của các KCN trong thời gian tới. Kiên

quyết tôn trọng qui hoạch đã được duyệt và coi đó là căn cứ quan trọng nhất trong việc

xét duyệt cấp phép đầu tư các khu công nghiệp, tránh hiện tượng các địa phương tự cấp

phép xây dựng khu công nghiệp và đặt các cơ quan nhà nước vào tình trạng “sự đã rồi”.

Rà soát lại và hoàn thiện hệ thống chính sách liên quan đến KCN, làm có những điều

chỉnh cần thiết để thích ứng với yêu cầu phát triển bền vững các khu công nghiệp trong

điều kiện hiện nay.

Tổ chức phối hợp một cách chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý trung ương và cơ quan

quản lý địa phương để có sự nhất quán trọng quản lý phát triển các KCN. Đồng thời phải

tổ chức phối hợp giữa các cấp chính quyền và người dân ở khu công nghiệp để đảm bảo

tạo ra một môi trường bền vững và hấp dẫn trong thu hút đầu tư vào khu công nghiệp./.

3. Kiến nghị về điều chỉnh các cơ chế, chính sách theo chu kỳ sống của KCN.

38

Page 39: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

Tiếp thu ý kiến của các chuyên gia nghiên cứu về KCN cho thấy, để đảm bảo sự phát

triển cho các KCN, ngoài sự nhất quán về cơ chế chính sách cho các KCN nói chung, việc

điều chỉnh kịp thời một số cơ chế chính sách theo chu kỳ sống của KCN cũng có ý nghĩa

quan trọng trong việc duy trì và nâng cao khả năng cạnh tranh cũng như tính hấp dẫn của

các KCN. Chẳng hạn một KCN mới thành lập cần có cơ chế đặc biệt để thu hút đầu tư,

nhanh chóng lấp đầy KCN để nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở hạ tầng của KCN, trong

khi đó, một KCN đã được lấp đầy lại cần có cơ chế riêng nhằm tạo điều kiện cho các

doanh nghiệp đang hoạt động trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh, qua đó đảm bảo sự

phát triển bền vững của các doanh nghiệp nói riêng và của chính KCN nói chung.

39

Page 40: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Giáo trình kinh tế phát triển

Sách cơ hội đầu tư vào các KCN ở Việt Na

40

Page 41: Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1