Đánh giá thực trạng phát triển khu công nghiệp thời gian qua-1
TRANSCRIPT
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
PHẦN I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHU CÔNG NGHIỆP
I. Khái quát chung
1. Khái niệm
2.Phân loại
3.Tính tất yếu khách quan về thành lập KCN tại Việt Nam
II.Đánh giá tác động đến nền kinh tế nói chung
1. Những tác động tích cực
2. Một số tác động tiêu cực trong phát triển KCN
PHẦN II. THỰC TRẠNG phát triển KHU CÔNG NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
I. Sự hình thành và phát triển các KCN ở nước ta
1. Các KCN hình thành từ những năm 1960 và 1970 theo mô hình công nghiệp của Liên
Xô cũ
2. Các KCN theo mô hình mới
II.Thực trạng hoạt động các KCN nước ta hiện nay
1. Về giá thuê đất
2. Về tình hình thu hút đầu tư
3. Về tình hình sản xuất kinh doanh
III.NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ YẾU KÉM CÒN TỒN TẠI
1.Kết quả đạt được
2.Những tồn tại yếu kém
PHẦN III. NHỮNG ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
I. Giải pháp
1. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với phát triển KCN
1.1.Nâng cao chất lượng quy hoạch KCN
1
1.2. Đa dạng hoá mô hình các khu công nghiệp
1.3.Giải pháp về tăng cường hiệu quả công tác quản lý môi trường
1.4.Giải pháp nâng cao tính hấp dẫn của KCN trong thu hút đầu tư
1.5. Hoàn thiện một số chính sách phát triển bền vững KCN
1.5.1.Các yêu cầu trong xây dựng chính sách
1.5.2.Hoàn thiện chính sách thu hồi đất
1.5.3.Chính sách đảm bảo nguồn lao động cho KCN
2. Các giải pháp đối với địa phương
2.1.Đẩy nhanh việc triển khai đền bù, thu hồi đất cho xây dựng KCN
2.2.Tăng cường cung cấp hàng hoá, dịch vụ phục vụ khu công nghiệp
2.3.Tạo nguồn lao động nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động
2.4.Phát triển khu dân cư ở khu vực có khu công nghiệp
II . MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
1. Kiến nghị về tổ chức quản lý KCN
1.1. Kiến nghị mô hình quản lý KCN và KCX ở cấp trung ương
1.2.Kiến nghị phân cấp quản lý KCN và KCX
2.Kiến nghị về tổ chức thực hiện qui hoạch, chính sách và cơ chế đã ban hành
3. Kiến nghị về điều chỉnh các cơ chế, chính sách theo chu kỳ sống của KCN
MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta có sự ra đời của mô hình khu công
nghiệp( KCN ). Mô hình này đã không ngừng phát triển về số lượng và chất lượng .Nếu
như vào thời điểm năm 1991 bắt đầu xuất hiện quy chế về KCN và chỉ chứng kiến sự ra
đời của hai khu chế xuất, Tân Thuận và Linh Trung thì cho đến nay số lượng các khu
công nghiệp ở nước ta đã lên tới con số 68và được phân bố rộng khắp từ Bắc –Trung.
Chính sự phát triển mạnh này đã khẳng định hiệu quả kinh tế của một mô hình.Qua hơn
10 năm phát triển vai trò của KCN trong sự phát triển kinh tế đất nước là rất lớn. Nó đã
góp phần nâng cao năng lực xuất khẩu của đất nước, thu hút vốn đầu tư, kỹ thuật và kinh
nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới, tạo điều kiện tăng trưởng GDP nhanh chóng và
2
vững chắc, tạo việc làm, phát triển KCN theo quy hoạch, bảo vệ môi trường, tiết kiệm và
phát huy hiệu quả sử dụng các nguồn lực khác, hình thành các khu đô thị mới và giảm bớt
khoảng cách giữa các vùng nông thôn và thành thị. KCN là mô hình phù hợp để thực hiện
cơ chế quản lý ” một cửa tại chỗ” và hội nhập quốc tế không chỉ nhằm thu hút đầu tư
nước ngoài , mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước hoạt động .
Bên cạnh những thành tịu đáng trân trọng ấy các KCN tại Việt Nam vẫn tồn đọng những
khó khăn, thách thức mà vấn đề nổi cộm hiện nay chính là việc vóng bóng của các nhà
đấu tư trong các KCN, hầu hết các khu công nghiệp vẫn chưa được lấp đầy. Theo bộ kế
hoạch và đầu tư tính đến đầu năm 2002 trên tổng số 68 KCN chỉ có 25% KCN được lấp
đầy. Nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên có nhiều , nhưng tập trung chủ yếu vào một số
nguyên nhân như: Giá thuê đất còn đắt, cơ sở hạ tầng còn kém, cơ chế chính sách còn
chưa thông thoáng, và một trong những lực cản lớn nhất hiện nay chính là vẫn chưa có
cách nhìn nhận tổng quát và đầy đủ về các KCN như là một bộ phận không thể tách rời
trong nền kinh tế đất nước .
Như vậy việc tìm hiểu một cách toàn diện về KCN, đồng thời đưa ra những giải pháp
để nâng cao việc phát triển KCN là những mục tiêu chính mà đề tài chúng tôi hướng tới .
3
PHẦN NỘI DUNG
PHẦN I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHU CÔNG NGHIỆP
I. Khái quát chung
1. Khái niệm
Theo nghị định 36/ CP của chính phủ thì KCN được hiểu như sau : “ KCN là khu tập
trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho
sản xuất hàng công nghiệp có ranh giới địa lý xác định , không có dân cư sinh sống do
chính phủ hoặc thủ tướng chính phủ thành lập trong KCN có thể có các doanh nghiệp chế
xuất “ .
2. Phân loại KCN
Theo Viện Kiến trúc Quy hoạch (Bộ Xây dựng), tính đến thời điểm tháng 2/2011, Việt
Nam hiện có 256 khu công nghiệp và 20 khu kinh tế đã được thành lập
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện nay cả nước có 253 khu công nghiệp được thành lập
với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 70.000 ha. Các khu công nghiệp cả nước đã thu hút
gần 4.000 dự án đầu tư nước ngoài và 4.700 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư
đăng ký 52 tỷ USD và 300 nghìn tỷ đồng.
Các khu công nghiệp đóng góp từ 20-35% kim ngạch xuất khẩu và từ 30-32% giá trị sản
xuất công nghiệp hàng năm của Việt Nam, giải quyết việc làm cho trên 1,5 triệu lao động.
Nhóm 1: Các khu công nghiệp mang tính truyền thống, được thành lập một cách phổ
biến ở Việt Nam. Các khu công nghiệp này có nhưng đặc điểm chung như sau:
+Là khu vực được quy hoạch mang tính liên vùng, liên lãnh thổ và có phạm vi ảnh
hưởng không chỉ ở một khu vực địa phương.
+Là khu vực được kinh doanh bởi công ty cơ sở hạ tầng (công ty phát triển KCN, công
ty dịch vụ KCN...), công ty này có trách nhiệm bảo đảm hạ tầng kỹ thuật và xã hội của cả
khu trong suốt thời gian tồn tại.
Trong khu công nghiệp không có dân cư sinh sống, nhưng ngoài khu công nghiệp phải
có hệ thống dịch vụ phục vụ nguồn nhân lực làm việc ở khu công nghiệp.
4
+Là khu vực được quy họach riêng để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước để
thực hiện sản xuất và chế biến sản phẩm công nghiệp cũng như hoạt động hỗ trợ cũng như
dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.
Sản phẩm của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp có thể tiêu thụ trong nước hoặc
bán ra nước ngoài.
Nhóm 2: Khu chế xuất (KCX) (ở Việt Nam hiện có 3 khu chế xuất ).
Theo Nghị định 36-CP khu chế xuất là khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp
chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và
hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý được xác định, không có dân cư sinh sống.
Như vậy ngoài những đặc điểm chung giống như các khu công nghiệp truyền thống,
các KCX còn có một số đặc điểm riêng, đó là: Được quy hoạch phân tách khỏi phần nội
địa bằng tường rào kiên cố, việc ra vào khu phải thông qua sự kiểm soát của hải quan và
các cơ quan chức năng; Quan hệ thương mại giữa các doanh nghiệp trong KCX và nội địa
được điều chỉnh bằng hợp đồng ngoại thương, theo các thủ tục xuất, nhập khẩu, các
doanh nghiệp trong khu chế xuất chỉ được bán tối đa 20% giá trị sản phẩm của mình vào
thị trường nội địa; các doanh nghiệp trong khu chế xuất được hưởng những ưu đãi đặc
biệt về các loại thuế như: miễn thuế xuất, nhập khẩu, miễn thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu
thụ đặc biệt, được hưởng thuế thu nhập doanh nghiệp ở mức ưu đãi 10% và không phải
chịu thuế chuyển lợi nhuận về nước.
5
Nhóm 3: Các khu công nghệ cao (KCNC) (Việt Nam hiện có 2 khu công nghệ cao)
Đây là khu công nghiệp trong đó tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao
và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao, có ranh giới xác định và
do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghệ cao
có thể có doanh nghiệp chế xuất. Ngoài những đặc điểm chung của khu công nghiệp, khu
công nghệ cao có những nét riêng biệt:
Có hoạt động chính của các doanh nghiệp là sản xuất và dịch vụ có hàm lượng công nghệ
và chất xám cao như:nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ, đào tạo và thực hiện các
dịch vụ có liên quan. Bản thân các doanh nghiệp thường có quá trình đổi mới liên tục về
công nghệ và sản phẩm.
Các doanh nghiệp trong khu đều có đầu tư lớn cho nghiên cứu và phát riển, có năng
suất cao và được điều hành bởi các nhà khoa học và công nhân có trình độ và kinh
nghiệm cao.
Công nghệ sử dụng trong khu công nghệ cao mang tính tiên phong đi trước thời đại,
phát triển kinh doanh của doanh nghiệp trong nhiều trường hợp được coi là mạo hiểm và
có khả năng được bù đắp cao.
Trong khu công nghệ cao, còn tiến hành các dịch vụ nghiên cứu và chuyển giao công
nghệ, thực hiện cchức năng đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao.
3. Tính tất yếu khách quan về thành lập KCN tại Việt Nam
Trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước việc hình thành và phát triển
KCN là đòi hỏi tất yếu khách quan , bởi vì đem lại vai trò vô cùng to lớn , điều này nó
được thể hiện :
-Tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn và công nghệ của nước ngoài.Vai trò này xuất
phát từ các ưư đãi và thuận lợi của các nhà đầu tư khi vào sản xuất tại KCN .
+Ưu đãi về tài chính : Thông thường nó bao gồm các ưu đãi về thuế nhập khẩu vật tư ,
thiết bị , nguyên liệu , thuế thu nhập công ty , thuế sở hữu tài sản , thuế thương mại , được
vay vốn với mức lãi suất ưu đãi , một số KCN còn được ưu đãi về điện và nước .
+Thuận lợi về lao động
6
Chính quyền sở tại tạo mọi điều kiện để tuyển dụng lao động tại chỗ , đôi khi còn đưa
một số điều khoản hạn chế quyền của công nhân làm việc tại các KCN theo hướng có lợi
cho các công ty của KCN .
+KCN tạo khả năng áp dụng một hệ thống luật pháp nhất định nhằm đáp ứng yêu cầu
của các nhà đầu tư nước ngoài , nhưng chỉ trên một địa bàn giới hạn . Thông thường các
quy định pháp ký của các KCN tương đối đơn giản , thông thoáng , dễ thực hiện nên hấp
dẫn các nhà đầu tư . Có thể xây dựng các quy chế này tương đối nhanh chóng , không gây
mâu thuẫn với hệ thống pháp luật hiện có , và giới hạn địa bàn áp dụng là khu vưc nhỏ
với khả năng kiểm soát dễ dàng .
Với đặc tính trên KCN tạo khả năng thuận lợi để đạt được yêu cầu đề ra khi thu hút
vốn đầu tư . Do môi trường đầu tư thuận lợi nên doanh nghiệp nước ngài có thể đưa vốn
đầu tư lớn vào KCN để hoạt động . Họ có thể yên tâm với môi trường đầu tư hội đủ các
điều kiện cần thiết cho việc kinh doanh đạt hiệu quả cao , một địa bàn bảo đảm an ninh ,
an toàn xã hội .
-Chuyển giao công nghệ : Mặc dù tại KCN người ta chủ yếu thực hiện các thao tác lắp
ráp cấu kiện là chính và rất ít hoặc không có hoạt động nghiên cứu song chuyển giao công
nghệ ở đây vẫn diển ra thông qua một số hình thức sau :
+Đào tạo công nhân nước chủ nhà để sử dụng máy móc và công nghệ sản xuất .
+Công nhân được đào tạo về kỷ luật lao động ý thức đúng giờ , và thói quen lao động
công nghiệp .
+Các giám đốc , kỹ sư , kỹ thuật viên có được kỹ năng cần thiết của tác phong làm việc
công nghiệp trong quản lý và kiểm tra chất lượng .
Đồng thời những máy móc thiết bị hiện đại , công nghệ sản xuất hiện đại sẽ được áp
dụng sản xuất tại KCN , như thế sẽ nâng cao được mức độ trang bị và trình độ sử dụng
máy móc thiết bị tại nước sở tại .
-Tạo việc làm , giải quyết thất nghiệp
Việc thành lập KCN sẽ góp phần tích cực trong vấn đề giải quyết việc làm tại địa
phương . Ngoài một lực lượng lớn sẽ vào KCN để sản xuất trực tiếp thì nó còn tạo ra việc
làm cho hàng vạn lao động gián tiếp trong các ngành dịch vụ , xây dựng cơ bản phục vụ
cho quá trình phát triển KCN.
7
Đối tượng được thu hút chính vào làm việc tại các KCN thường là lao động phụ nữ trẻ
không có tay nghề từ các nông thôn ra . Sở dĩ các công ty này sử dụng các loại lao động
này vì :
+Phụ nữ phù hợp với các thao tác cần sự khéo léo .
+Phụ nữ có khả năng thích ứng với các hoạt động lắp ráp đơn điệu.
Thông thường tỷ lệ thất nghiệp tại các quốc gia đang phát triển thì tỷ lệ lao động nữ
chiếm rất cao . Nhưng với ưu tiên về lao động nữ tại các KCN thì nó đã phần nào giải
quyết được những vấn đề thất nghiệp tại các quốc gia này .
- Nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên liệu
Cùng với việc hình thành và phát triển KCN thì việc hình thành vùng nguyên liệu cho
KCN là cấp bách và cần thiết . Thay cho việc sản xuất lương thực nhân dân xung quanh
KCN sẽ được định hướng thay thế trong các loại nguyên liệu phục vụ cho nhà máy trong
KCN . Từ đó giúp nâng cao giá trị nông sản , mở rộng thị trường , thu hẹp khoảng cách
giữa các vùng , góp phần xoá đói giảm nghèo , và phát triển kinh tế .
-Cho phép khắc phục yếu kém về cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là vấn đề quan trọng trong quá trình xây dựng KCN. Để có thể thu hút
được nhà đầu tư vào KCN không những cần phải có chính sách ưu đãi tốt , mà cần có cơ
sở hạ tầng tốt để đáp ứng nhu cầu sản xuất .
Cần có việc phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng tại KCN , bên cạnh đó việc đảm bảo hệ
thống nhà máy , các phòng ban , hệ thống dịch vụ trong các KCN cũng phải hoàn thiện
việc phát triển hệ thống các cơ sở hạ tầng ngoài KCN như : Làm đường giao thông , các
công trình nhà ở cho công nhân , các công trình phục vụ cho vui chơi ,giải trí …
Kết quả quá trình xây dựng đó đã góp phần làm thay đổi bộ mặt của vùng , không ít
vùng nông thôn đất đai sinh lầy , hoang hoá , ít có khả năng sinh lợi sau khi xây dựng
KCN đã trở nên sầm uất , đời sống king tế xã hội được lột xác .
- Tạo ra mô hình kinh tế năng động đóng góp lớn vaòi tăng trưởng kinh tế
+KCN sẽ là nơi đào tạo cán bộ kỹ thuật năng động , công nhân lành nghề và cán bộ
quản lý có trình độ cao , đủ sức vươn ra thị trường thế giới .
+KCN sẽ là sợi dây nối liền giữa nền kinh tế thế giới và Việt Nam
8
+Hình thánh một số ngành công nghiệp mũi nhọn có khả năng cạnh tranh trên thị
trường thế giới ( dệt may , đồ gia dụng , giày dép … )
+Nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng xuất khẩu của nền kinh tế .
+Phát triển các ngành công nghiệp theo đúng hướng , và quy hoạch chung .
+Các KCNgóp phần hình thành các khu kinh tế trọng điểm cho cả nước , đảm bảo
được yêu cầu về quy hoach vùng lãnh thổ .
II. Đánh giá tác động đến nền kinh tế nói chung
1. Những tác động tích cực
1.1. Thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước
Sự ra đời của các KCN là những mảnh đất màu mỡ cho ra đời trên 4400 doanh
nghiệp trong và ngoài nước hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ công nghiệp, với
giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 31,9% (cao gấp đôi so với mức tăng giá trị
công nghiệp cả nước). Các khu công nghiệp Việt Nam đã thúc đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hoá Việt Nam.
Theo tính toán, gần 30.000 ha đất nông nghiệp hoặc vùng thị tứ kém phát triển trở
thành các KCN có cơ sở hạ tầng hiện đại và các vùng đô thị khang trang (xung quanh
KCN), thu hút hàng vạn doanh nghiệp trong và ngoài nước. Đây là những hạt nhân quan
trọng thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn.
Đến hết năm 2005, các KCN là nơi đào tạo thực tế 750.000 người nông dân, người
lao động phổ thông ở những nơi thị tứ trở thành người công nhân, và với tốc độ tăng
trưởng này, đến 2010 các KCN Việt Nam sẽ thu hút 2,5 triệu người. Đây là nguồn tài lực
để đưa Việt Nam từ một nước nông nghiệp phát triển ở trình độ thấp trở thành một nước
công nghiệp mới ở thập niên thứ 2 của thế kỷ 21.
Nhiều ngành công nghiệp: sản xuất xe hơi, sản xuất máy móc trang thiết bị, nguyên
vật liệu cao cấp… tại các KCN, đặc biệt công nghiệp hoá dầu tại khu Dung Quất đi vào
hoạt động, sẽ góp phần nâng cao chất lượng phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam.
Việc xây dựng các KCN không những tạo ra động lực thúc đẩy phát triển sản xuất
công nghiệp mà còn kéo theo sự phát triển của các ngành dịch vụ phục vụ trực tiếp cho
hoạt động sản xuất công nghiệp trong KCN và hình thành mạng lưới dịch vụ phục vụ cho
nhu cầu của người lao động. Qua đó có thể thấy việc phát triển các KCN sẽ thúc đẩy quá
9
trình chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ và
giảm tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế.
1.2. Tác động đến quá trình đô thị hoá
Sự phát triển các khu công nghiệp đã làm cho tiến trình đô thị hoá được diễn ra một
cách nhanh chóng hơn. Cụ thể là:
-Cơ sở hạ tầng của các vùng đất khu công nghiệp và xung quanh khu công nghiệp
được nâng cấp, và từ đó mọc lên những đô thị, nhiều nơi trở thành những thành phố sầm
uất, có đầy đủ điện, nước, đường xá, hệ thống thông tin liên lạc, các đường xá, công trình
phúc lợi hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế.
-Tạo ra sự thay đổi cơ cấu lao động, cơ cấu dân cư theo hướng: nâng cao tỷ lệ công
nhân, và tỷ lệ dân cư thành thị.
1.3. Tác động đến quá trình hoàn thiện cơ chế, chính sách làm cho môi trường đầu tư tại
các KCN nói riêng và cả nước nói chung tốt hơn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các
doanh nghiệp hoạt động.
Các khu công nghiệp, thực tế đã trở thành “vườn ươm “ hay là nơi thử nghiệm các cơ
chế, chính sách mới, tiên tiến như: cơ chế “một cửa tại chỗ”, hay cơ chế “tự bảo đảm tài
chính” cũng như nhiều chính sách khác về hoàn thiện thủ tục kiểm hoá hải quan, phát
triển hoạt động tài chính – ngân hàng trong các khu công nghiệp có sự phối hợp của ban
quản lý khu công nghiệp. Tất cả đều tạo môi trường đầu tư tại các khu công nghiệp hấp
dẫn hơn.
1.4. Tác động thúc đẩy sự phát triển các loại hình dịch vụ
Sự phát triển các khu công nghiệp đã tạo cơ hội cho sự xuất hiện các hoạt động dịch
vụ chủ yếu sau: Dịch vụ cung cấp cơ sở hạ tầng: điện, nước, xử lý chất thải vv; dịch vụ tài
chính – ngân hàng; dịch vụ giao thông vận tải; dịch vụ kho, dịch vụ cun ứng; dịch vụ xây
dựng và cho thuê bất động sản; dịch vụ huấn luyện, đào tạo và cung cấp lao động; dịch vụ
lao động và chuyên gia như dịch vụ chợ, dịch vụ cho thuê nhà, dịch vụ văn hoá xã hội.
Các dịch vụ trên ra đời cùng với sự ra đời và phát triển của các khu công nghiệp, đồng
thời nó góp phần tạo nên sự tiẹn ích của các khu công nghiệp, làm cho môi trường kinh
10
doanh và môi trường sống tại các khu này được cải thiện theo hướng hiện đại hoá và văn
minh.
1.5 Tác động thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.
Các khía cạnh về hội nhập quốc tế được thúc đẩy nhờ sự phát triển các khu công
nghiệp, đó là: chính khu công nghiệp là nơi thử nghiệm đầu tiên chính sách thông thoáng
với các nhà đầu tư nước ngoài; tạo mũi nhọn cho việc thực hiện mở rộng quan hệ thương
mại quốc tế, kim ngạch xuất nhập đạt được tại các khu công nghiệp Việt Nam đã chiếm
khoảng 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, góp phần tạo uy tín thương mại của
Việt Nam trên thị trường thế giới; tại các khu chế xuất, các doanh nghiệp chế xuất được
hưởng cơ chế hải quan thông thoáng hơn, giúp kích thích khả năng cạnh tranh, đáp ứng
được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Một số tác động tiêu cực trong phát triển KCN
2.1. Hiện tượng xé rào luật trong khuyến khích đầu tư vào KCN ở các địa phương
Hiện tượng 33 tỉnh, thành phố tự ý ban hành những ưu đãi riêng về thuế đất; giảm thuế
thu nhập doanh nghiệp; tăng thêm thời gian ưu đãi cho các nhà đầu tư vào địa phương
mình mà chủ yếu vào các KCN gây ảnh hưởng đến kỷ cương và tính bền vững của môi
trường kinh doanh ở Việt Nam nói chung; tạo ra môi trường pháp lý “gồ ghề”, không nhất
quán, ganh đua không lành mạnh giữa các tỉnh trong việc đưa ra các ưu đãi trong đầu tư,
mà không đưa ra được chứng cứ cụ thể về hiệu quả của việc “xé rào” riêng trong việc xây
dựng cơ chế, chính sách thu hút đầu tư. Trong khi đó, nhiều nhà đầu tư khi được tiếp thị
nhiều chính sách ưu đãi khác nhau của địa phương thì lại hồ nghi tính kỷ cương pháp luật
của môi trường đầu tư.
Trong một đánh giá mới đây của Chương trình phát triển kinh tế tư nhân (MPDF) và
bộ phận tư vấn dịch vụ đầu tư nước ngoài (FIAS) của Ngân hàng Thế giới, hệ thống chính
sách ưu đãi đầu tư của Việt Nam vốn thuộc hành rối rắm, phức tạp và khó hiểu nhất khu
vực . Sự phức tạp đó được nhân lên khi các địa phương ồ ạt xé rào. Họ đua nhau cạnh
tranh thu hút đầu tư bằng các chính sách ưu đãi mà không có những bằng chứng cụ thể về
11
hiệu quả của các chính sách đó. Nhưng mặt tiêu cực là khiến các nhà đầu tư giảm sự tin
cậy đã thể hiện rõ.
2.2. Phát triển KCN dẫn đến hiện tượng di dân tự do, ảnh hưởng tới an ninh, trật tự xã hội
ở nhiều vùng kinh tế
Trong số 750.000 lao động trong các KCN hiện nay, có đến 80% tập trung vào các tỉnh
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và trên 70% số lao động vùng này từ miền Trung và
miền Bắc tới. Cá biệt như Bình Dương, số lao động địa phương trong các KCN trong tỉnh
chỉ chiếm chưa đến 10% tổng số lao động. Họ tới vùng kinh tế phía Nam tự do hoặc theo
một số công ty lao động tư nhân thành lập mang tính tự phát. Đa số người lao động có
trình độ thấp, một số tội phạm núp bóng lý lịch người khác đến vùng này lao động, làm
cho tình hình an ninh, trật tự xã hội thêm phức tạp, khó quản lý.
iệc người lao động di cư một cách ồ ạt cũng dẫn đến các nhiều tác động không mong
muốn như sự quá tải về hạ tầng xã hội: Trường học, bệnh viện, đường xá… cũng như các
dịch vụ cho người lao động và gia đình họ tại địa phương nơi có KCN.
2.3. Sự phát triển KCN dẫn tới ô nhiễm môi trường
Như phần trên đã phân tích, việc thiếu vốn cộng với việc tiết kiệm chi phí đầu tư,
thêm vào đó là sự quản lý thiếu chặt chẽ, nên ở nhiều nơi, sự phát triển KCN đã ảnh
hưởng đến môi trường sống trên diện rộng ở mức đáng báo động. Nhiều KCN ở miền
Đông Nam bộ xả nước thải trực tiếp vào hệ thống sông Đồng Nai, làm ô nhiễm nặng, ảnh
hưởng đến nguồn nước sinh hoạt của hàng triệu người. Hay các KCN ở huyện Thuận An
đã xả chất thải làm ô nhiễm nguồn nước ngầm và đất, hậu quả là hàng trăm ha cây ăn trái
ở vùng Lái Thiêu (Bình Dương) có tuổi hàng chục năm bị thối gốc và chết hàng loạt,
nước sông Bình Dương bị ô nhiễm nặng. Nhiều nơi, dân phản đối, khiếu kiện vì môi
trường sống của họ gần KCN bị xuống cấp nặng nề.
2.4 Ảnh hưởng đến chất lượng của tăng trưởng kinh tế
Chất lượng tăng trưởng kinh tế thể hiện ở tính bền vững và tính hiệu quả của quá trình
này. Trong nhiều trường hợp, do sự xuất hiện quá ồ ạt các khu công nghiệp hoặc quy
hoạch phát triển khu công nghiệp thiếu đồng bộ, thiếu tầm nhìn chiến lược đã gây ảnh
hưởng xấu đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Cụ thể là: tạo ra sự phát triển không đồng
bộ giữa trong và ngoài hàng rào khu công nghiệp, tạo ra sự phân hoá rất rõ về mọi mặt
12
giữa trong và ngoài khu công nghiệp; gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các khu
công nghiệp; thiếu sự liên kết giữa các khu ccông nghiệp trong cùng một vùng, một địa
phương, giữa các doanh nghiệpn trong cùng một khu công nghiệp và kết quả là ảnh
PHẦN II. Thực trạng phát triển khu công nghiệp tai Việt Nam
I. Sự hình thành và phát triển các KCN ở nước ta
1. Các KCN hình thành từ những năm 1960 và 1970 theo mô hình công nghiệp của Liên
Xô cũ
Các KCN theo mô hình này tập trung ở một số thành phố khu vực phía Bắc: Hà Nội,
Hải Phòng, Thái Nguyên, Phú Thọ, vv. nhưng nhiều nhất là ở Hà Nội. Việc hình thành và
phát triển các KCN cũ ở nước ta trong những năm 60 và 70 của thế kỷ trước chưa có sự
định hình, qui hoạch như hiện nay. Có thể nói sự ra đời tự nhiên của một số nhà máy, xí
nghiệp là do sự đòi hỏi cần thiết trong phát triển kinh của đất nước, chưa tính đến các yếu
tố: sự phát triển, đô thị hoá của các thành phố, đặc biệt là vấn đề môi sinh. Do vậy, những
KCN này bộc lộ nhiều thiếu sót mà cho đến nay vẫn chưa hoàn toàn giải quyết được.
Riêng ở khu vực Hà Nội, thực trạng của các KCN này như sau:
Bảng 2: Các KCN theo mô hình cũ trên địa bàn Hà Nội
TT Khu công nghiệp Số doanh
nghiệp
Diện tích đất
(ha)
Nhân công
1 Minh Khai – Vĩnh Tuy – Mai Động 38 81 15.910
2 Giáp Bát – Trương Định 13 32 3.760
3 Văn Điển – Pháp Vân 14 39 59.000
4 Thượng Đình 29 76 17.270
5 Cầu Diễn – Mai Dịch 8 27 1.950
6 Gia Lâm – Yên Viên - Đức Giang 21 38 10.230
7 Đông Anh 22 68 8.280
8 Chèm 5 14 2.310
9 Cầu Bươu 5 4 1.390
Tổng cộng 155 379 120.100
13
Nguồn: Ban Quản lý các KCN và Chế xuất Hà Nội (2001): Đề xuất một số giải pháp về
quản lý Nhà nước để xây dựng và phát triển các KCN, KCX Hà Nội năm 2000 – 2010.
Với 9 KCN và tổng diện tích lên đến 379 ha, điểm yếu cơ bản của các KCN này là
thiếu quy hoạch, xây dựng thiếu đồng bộ, nhất là các cơ sở hạ tầng. Theo kết quả kiểm tra
gần đây của Thành phố Hà Nội, không một nhà máy, xí nghiệp nào trong các KCN này có
phương án xử lý bảo vệ môi trường. Trong khi đó, do hiện tượng quy hoạch lộn xộn,
trong khu vực nhà máy, xí nghiệp có đủ cả các công trình phục vụ sinh hoạt như: Nhà ở,
nhà trẻ, bệnh xá, cơ sở dịch vụ… gây ảnh hưởng rất lớn đến vệ sinh môi trường và sức
khoẻ của người dân bên trong và xung quan các KCN.
Bên cạnh đó, về tổ chức quản lý, không hề có cơ chế quản lý hành chính nhà nước của
chính quyền trên địa bàn có KCN. Điều này đương nhiên sẽ dẫn đến công tác quản lý lộn
xộn, thiếu trật tự, qui hoạch, gây ảnh hưởng đến tính bền vững KCN. Mặt khác, hầu hết
các KCN cũ được hình thành từ những năm trước do được xây dựng liền kề với các đô thị
cũ nên hiện tại đã, đang và sẽ nằm trong qui hoạch phát triển khu dân sinh của các thành
phố nên chúng gây ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề giải phóng mặt bằng, các vấn đề dân
sinh và giao thông đô thị.
2. Các KCN theo mô hình mới
Ngày 25/1/1991, Thủ tướng Chính phủ cấp giấy phép thành lập KCX Tân Thuận, được
xem là KCN tập trung đầu tiên ở Việt Nam. Từ đó, số lượng các KCN được thành lập
tăng qua các năm thể hiện sự quan tâm của các nhà đầu tư về một lĩnh vực đầu tư hiệu
quả. Trong 3 năm đầu, từ 1991-1993, cả nước chỉ có 2 KCN được thành lập là KCX Tân
Thuận và KCX Linh Trung 1 (thành phố Hồ Chí Minh), 2 năm 1994-1995 có thêm 5
KCN được thành lập. Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992 có quy định về
việc khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài vào các KCN, KCX, việc “thí điểm” thành
lập các KCN từ 1992-1995 có thể nói là đã kết thúc, từ năm 1996 số lượng các KCN được
tăng lên đáng kể, riêng năm 1996 đã có 13 KCN được thành lập, cao gấp đôi so với giai
đoạn trước. Đặc biệt là năm 1997, Quy chế quản lý KCN, KCX và KCNC ban hành kèm
theo Nghị định số 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ ra đời và hướng dẫn hoạt động
của các KCN, KCX, tạo khung pháp lý thống nhất cho việc thành lập và hoạt động của
các KCN, vì thế các KCN đến năm 1997 đã là: 45 KCN, gấp 3,5 lần so với năm 1996.
14
Những năm sau đó, quy mô các KCN tăng tương đối đều đặn hàng năm với tốc độ khoảng
20%/năm. Các KCN được thành lập tăng dần cùng với sự gia tăng vốn đầu tư xây dựng
và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN. Đến thngs 4 năm 2005, đã có 133 KCN đã ra đời, phân
bố rộng khắp trên 45 tỉnh, thành phố. Trong đó, Đồng Nai là địa phương có nhiều KCN
nhất với 17 KCN, tổng diện tích đất là 4.264 ha (chiếm 16,1% tổng diện tích đất KCN cả
nước).
Bên cạnh đó còn có gần 500 khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ do địa phương tự thành
lập ở các tỉnh, thành phố. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ tâp trung phân
tích các KCN do Chính phủ cấp phép thành lập. Sự phát triển các KCN được thể hiện qua
bảng sau:
Bảng 3: Tình hình phát triển các KCN ở Việt Nam giai đoạn 1991 – 2005
Năm Số KCN được cấp
giấy phép
Tổng số KCN (luỹ
kế)
Diện tích KCN được thành
lập mới và mở rộng
1991 1 1 300
1992 2 3 360
1993 1 4 24
1994 4 8 678
1995 5 13 1201
1996 15 28 340
1997 20 48 3355
1998 13 61 2625
1999 3 64 226
2000 1 65 335
2001 3 68 390
2002 10 78 2836
2003 21 99 3622
2004 15 114 4020
15
2005 16 130 3.387
Nguồn: Vụ Quản lý KCN và Chế xuất, Bộ KH và ĐT
Qua bảng trên ta thấy 2 giai đoạn 1996 – 1998 và 2000 – 2005 có sự “bùng nổ” về
phát triển KCN trong cả nước cả về số lượng và diện tích:
-Giai đoạn 1996 – 1998: Đây là giai đoạn khủng hoảng tài chính Châu Á, có tác động
tiêu cực đến sự phát triển kinh tế Việt Nam: xuất khẩu, đầu tư nước ngoài,... Tuy nhiên,
cũng trong giai đoạn này nhiều địa phương năng động đã đưa ra các biện pháp nhằm phục
hồi và phát triển kinh tế, trong đó được chú trọng là hình thành các KCN có cơ sở hạ tầng
tốt để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Giai đoạn 2000 – 2005: Đây là giai đoạn Nhà nước có nhiều chính sách ưu đãi, cải
thiện môi trường đầu tư, kinh doanh: Thực hiện Luật Doanh nghiệp; Luật ĐTNN sửa đổi;
ký kết Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ; cải tổ nền hành chính… Đây cũng là giai đoạn
đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Với các yếu tố này giúp cho số doanh
nghiệp trong nước tăng nhanh cùng với sự phục hồi của thu hút ĐTNN sau khủng hoảng
làm cho nhu cầu mặt bằng kinh doanh tăng cao. Do vậy, việc phát triển các KCN trong
giai đoạn này là yêu cầu mang tính tất yếu.
II. Thực trạng hoạt động các KCN nước ta hiện nay
1. Về giá thuê đất
Mức giá thuê đất thường phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: vị trí KCN, chất lượng hạ
tầng KCN, điều kiện thanh toán, các yếu tố môi trường bên ngoài KCN… Hiện nay giá
thuê đất cho sản xuất kinh doanh trong các KCN cả nước là rất khác nhau; giá cao nhất
lên đến 140 USD/ m2 cho 50 năm (hay 2,8 USD/m2/năm); trung bình cả nước là 54
USD/m2 cho 50 năm; giá thuê đất thấp nhất là tại các KCN Bình Định, Điện Ngọc –
Quảng Nam khoảng 15 USD/m2 cho 50 năm, thậm chí để thu hút đầu tư một số KCN ở
Quảng Nam (doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng là doanh nghiệp nhà nước địa phương) còn
không thu tiền thuê đất với nhiều dự án. Kết quả điều tra của Diễn đàn Phát triển Việt
Nam về tính hấp dẫn trong thu hút đầu tư đối với 10 tỉnh, thành phố cho thấy vấn đề này:
Hình 1: Giá thuê đất bình quân của một số tỉnh, thành phố trong cả nước
Đơn vị: USD/m2/năm
16
Nguồn: Kết quả điều tra của Diễn đàn phát triển Việt Nam, tháng 12 /2005
Theo hình trên chúng ta có thể thấy giá thuê đất bình quân ở TP. Hồ Chí Minh hiện
cao nhất cả nước, với mức giá cho thuê là 1,85 USD/m2/năm; tiếp theo đó là Hà Nội 1,5
USD/m2/năm; Bình Dương 1,0 và thấp nhất hiện là Thái Bình với mức giá cho thuê là
0,13 USD/m2/năm. Tuy nhiên, giá thuê đất rẻ chưa phải là yếu tố quan trọng quyết định
sự lựa chọn KCN của các nhà đầu tư vì nếu cơ sở hạ tầng không hoàn chỉnh, thủ tục hành
chính rườm rà, và đặc biệt là môi trường kinh doanh không hấp dẫn thì các KCN cũng
khó có thể thu hút các nhà đầu tư. Bằng chứng cho thấy các KCN khu vực miền Trung dù
có giá thuê đất rẻ nhưng tỷ lệ lấp đầy các KCN vẫn rất thấp.
Ở những nơi, KCN được xây dựng có vốn ngân sách hỗ trợ, các công ty cơ sở hạ tầng
hoạt động như một đơn vị hành chính có thu, thì tiền thuê đất rẻ, nó như là một nhân tố
xúc tiến đầu tư. Ngoài ra, khi vốn đầu tư được bỏ ra từ ngân sách địa phương để đầu tư
vào hạ tầng, nó tạo điều kiện cho ban quản lý KCN và chế xuất của tỉnh có thể lựa chọn
cấy giấy phép cho những dự án có lợi nhất cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương
(dự án có hàm lượng công nghệ cao, ít ô nhiễm môi trường…) và có điều kiện để phát
triển các đô thị xung quanh KCN.
2. Về tình hình thu hút đầu tư
Các KCN ở Việt Nam đang là địa chỉ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài
nước, đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút đầu tư, tạo nguồn vốn quan trọng cho đầu
tư phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư phát triển kết
cấu hạ tầng. Số lượng các dự án đầu tư và vốn đầu tư trong và ngoài nước vào KCN tăng
17
qua các năm thể hiện sự quan tâm của các nhà đầu tư về một địa bàn đầu tư có nhiều ưu
đãi và thuận lợi.
Nếu như đến 1995, chỉ có chưa đến 200 doanh nghiệp được cấp phép hoạt động sản
xuất kinh doanh trong KCN với số vốn đầu tư đăng ký chưa đến 1.500 triệu đô và 190 tỷ
đồng thì đến cuối năm 2005 các KCN đã thu hút được 4.516 dự án với tổng vốn đầu tư
đăng ký 17,5 tỷ USD và trên 100.000 tỷ đồng (chưa kể 1.059 triệu USD và 31,3 nghìn tỷ
đồng đầu tư phát triển hạ tầng các KCN), gấp hơn 22 lần về số dự án và 16 lần về số vốn
đầu tư so với năm 1995. Trong số các dự án này, có 2.400 dự án đã đi vào hoạt động và
900 dự án khác đang triển khai xây dựng nhà xưởng.
Trong những năm đầu mới thành lập KCN (1992-1998), các nhà đầu tư nước ngoài
được khuyến khích đầu tư vào các KCN, KCX theo Luật Đầu tư nước ngoài, vì vậy, số dự
án đầu tư nước ngoài cùng với số vốn đầu tư ở giai đoạn này tăng với tốc độ cao và số dự
án có vốn đầu tư nước ngoài lớn hơn nhiều so với số dự án đầu tư trong nước, trong giai
đoạn từ 1995-1998, số dự án đầu tư nước ngoài tăng bình quân hơn 40%/năm, số vốn đầu
tư đăng ký (lũy kế) tăng bình quân 60%/năm, số lượng các dự án có vốn đầu tư nước
ngoài lớn hơn từ 3-4 lần so với số dự án trong nước. Đồng thời, do tác động của khủng
hoảng kinh tế - tài chính tại Châu Á, số dự án và số vốn đầu tư nước ngoài trong những
năm sau tăng với tốc độ chậm hơn, năm 1998-1999 số dự án tăng 20%, số vốn chỉ tăng
8% và năm 1999-2000 số dự án tăng hơn 30% và số vốn tăng 40%.
Từ năm 1998 đến nay, số dự án đầu tư nước ngoài tăng bình quân 25% năm. Đến hết
năm 2005, cả nước có trên 2.202 dự án có vốn đầu tư nước ngoài, cao hơn 17,8% so với
năm 2004.
Năm 1998, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước được ban hành cùng với các Nghị
định quy định chi tiết thi hành có những ưu đãi và khuyến khích đối với các dự án trong
nước đầu tư vào KCN. Do vậy, số dự án trong nước vào KCN từ năm 1998 tăng đáng kể
(tính luỹ kế), năm 1998-1999 tăng 84% từ 132 dự án lên 244 dự án, giai đoạn 1999-2000
tăng 93% từ 244 dự án lên 472 dự án. Các năm sau tăng đều đặn bình quân khoảng 35%.
Cuối năm 2005, số dự án trong nước đạt 2.314 dự án tăng 46% so với năm 2004. Về số
vốn đầu tư, giai đoạn 1995-1998, vốn đầu tư của khu vực trong nước vào KCN tăng bình
quân mỗi năm khoảng 15% (tính luỹ kế), sau năm 1998, vốn đầu tư tăng với tốc độ cao
18
hơn, đặc biệt các năm 1999 và 2000 vốn đầu tư tăng đột biến, hơn 20 lần so với năm
trước do dự án Nhà máy điện Phú Mỹ I được triển khai tại KCN Phú Mỹ I (Bà Rịa - Vũng
Tàu). Hai năm gần đây, số dự án trong nước có tốc độ tăng khá nhưng vốn đầu tư mỗi dự
án tương đối thấp dẫn đến tốc độ tăng vốn đầu tư khá thấp, chỉ đạt khoảng 2%.
Những năm gần đây, số lượng các dự án trong nước tăng với tốc độ cao hơn so với các
dự án có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp ra đời cùng
với các Nghị định hướng dẫn đã dần đưa các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp của
khu vực trong nước và ngoài nước về cùng một mặt bằng, vì vậy những năm tới dự đoán
số dự án trong nước vào KCN sẽ vượt số dự án có vốn đầu tư nước ngoài, những năm tới
số dự án trong nước dự đoán cao hơn so với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
3. Về tình hình sản xuất kinh doanh
KCN đã và đang góp phần nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Giai đoạn 1995-1998, các khu công nghiệp sau khi hoàn tất việc xây dựng cơ bản đã
đi vào hoạt động và thu hút đầu tư, các chỉ tiêu về giá trị sản xuất công nghiệp, xuất khẩu
và nộp ngân sách của các doanh nghiệp trong KCN đều tăng năm sau cao hơn năm trước.
Giai đoạn 1998-2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế - tài chính, tình hình sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có giảm sút, do đó ảnh
hưởng tới tình hình hoạt động chung của các doanh nghiệp KCN, đặc biệt là tình hình
xuất khẩu. Giá trị sản xuất công nghiệp 1998-1999 chỉ tăng 6,9%, xuất khẩu 11,5% và
nộp ngân sách 23%.
Cùng với sự phục hồi của nền kinh tế thế giới và khu vực, tình hình sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp KCN trở lại với tốc độ tăng trưởng cao, trong thời kỳ 2001 -
2005, tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN, KCX (kể cả trong
nước và nước ngoài) ước đạt khoảng 44 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 32%/năm, giá trị
xuất khẩu đạt trên 21 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 24%/năm - cao hơn tốc độ tăng
trưởng bình quân giá trị xuất khẩu của cả nước (đạt bình quân khoảng 17%/năm), giá trị
nhập khẩu đạt khoảng 27 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 32%/năm. Riêng năm 2005,
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của các KCN đã đạt 14,4 tỷ USD, bằng 21,5% tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu của cả nước.
19
KCN góp phần giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động và thúc đẩy
chuyển đổi cơ cấu lao động. Các KCN đã tạo ra một số lượng lớn việc làm, nâng cao trình
độ tay nghề và tương ứng với nó là thu nhập của người lao động, góp phần tạo ra sự ổn
định kinh tế và xã hội. Đến nay, các KCN đã tạo việc làm cho trên 0,74 triệu lao động
trực tiếp tăng gấp 3 lần so với năm 2001, 14 lần so với năm 1995 và gần 2 triệu lao động
gián tiếp.
Các doanh nghiệp KCN đã góp phần tạo thêm năng lực sản xuất mới trong nhiều
ngành kinh tế then chốt đối với sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước, như ngành công
nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng, dệt may, công nghiệp thực phẩm (đây là các dự án
thu hút nhiều lao động và có tỷ lệ xuất khẩu cao); các dự án công nghiệp nặng chủ yếu tập
trung trong lĩnh vực lắp ráp các sản phẩm điện, điện tử; sắt thép, cơ khí; các ngành công
nghiệp kỹ thuật cao…
III.NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ YẾU KÉM CÒN TỒN TẠI
1.Kết quả đạt được
Sự phát triến rầm rộ các KCN
Tính đến cuối năm 1997 cả nước có 48 KCN, trong đó Miền Bắc 10 KCN, Miền
Trung 6 KCN , Miền Nam là 32 KCN.
Sau ba năm tới tháng 3/2000 số lượng KCN trên toàn quốc là 65 KCN, được thủ
tướng chính phủ thành lập và cho thuê đất . Các KCN tập trung ở 27 tỉnh thành phố trực
thuộc trung ương , còn 34 tỉnh chưa có KCN. Diện tích đất đã cho công ty xây dựng cơ sở
ghạ tầng là 24.395 ha , diện tích đất KCN theo chi tiết là 5.350 ha . Diện tích đất của các
KCN đã lấp đầy 1.680 bằng 32% diện tích đất công nghiệp theo quy hoạch chi tiết . Và
48% diện tích đất đã tạo mặt bằng công nghiệp có các công trình hạ tầng có thể thu hút
đầu tư 1.680/3.550 và mặt bằng 24%tổng diện tích công nghiệp theo quy hoạch .
Các KCN đã đầu tư theo ba loại hình là KCN do các doanh nghiệp trong nước đầu tư
51 KCN . KCN liên doanh với nước ngoài là 13 KCN. KCN đầu tư 100% vốn nước ngoài
1 KCN .
20
Các KCN đã đầu tư xong cơ sở hạ tầng là 16 KCN , các KCN đang đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng là 34 KCN , và KCN chưa đầu tư xây dựng là 15 KCN . Các KCN đã thực
hiện song đền bù giải phóng mặt bằng là 22 KCN , đang thực hiện đền bù là 13 KCN . .
*Thu hút được lượng vốn đầu tư lớn đồng thời tạo việc làm cho hàng vạn lao động .
Việc thu hút vốn đầu tư vào KCN đạt kết quả nhất định , số lượng các dự án được cấp
phép và đi vào sử dụng tăng liên tục qua các năm . Cùng với nó là việc thu hút lao động
rất lớn vào làm việc trong KCN , đó là dấu hiệu đang mừng . Theo số liệu thống kê , đến
cuối năm 1997 các KCN đã thu hút được 543 doanh nghiệp với tổng số vốn thu hút hiện
trên 2 tỷ USD , đã thu hút được 8.8 vạn lao động , không kể số lượng lao động xây dựng
cơ bản và làm việc trong lĩnh vực phục vụ cho KCN .
Cho đến cuối năm 1999 đã có 914 doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt động tổng số
vốn đăng ký là 7.8 tỷ USD , trong đó 569 doanh nghiệp nước ngoài vốn đănh ký 1800tỷ
tương đương 1.4 tỷ USD chiếm 36% số dự án và 17% tổng số vốn đầu tư . Trong tổng số
các doanh nghiệp được cấp phép hoạt động , đã thu hút được 14000 người lao động , tạo
sức mua cho thị trường trong nước 1000 tỷ đồng . Chỉ trong sáu tháng đầu năm 2000 đã
có thêm 68 giấy phép đầu tư nước ngoài đăng ký vào KCN với tổng số vốn đăng ký 186,3
triệu USD tăng 97 % về tổng dự án so với cùng kỳ năm trước. Do kinh doanh có hiệu quả
đã có 18 dự án mở rộng quy mô sản xuất với tổng số vốn đầu tư gần 80 triệu USD , đã thu
hút tới 180.000 lao động trực tiếp , đồng thời tạo việc làm cho hàng vạn lao động gián
tiếp .
Cho đến nay , đầu năm 2002 theo bộ kế hoạch và đầu tư thu hút 795 dự án của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài , tổng số vốn đầu tư là 7.555 triệu USD , 674 dự án
trong nước tổng số vốn 30.090 tỷ đồng , tạo việc làm cho 233.000 lao động .
*Các KCN đã đóng góp đáng kể cho tăng trưởng kinh tế . Hoạt động của các KCN đạt
được kết quả nhanh hơn so với nền kinh tế nói chung , ngành công nghiệp và các khu đầu
tư nước ngoài nói riêng và giữ được mức tăng trưởng cao qua mấy năm gần đây .
Năm 1997 : KCN đạt tổng giá trị sản lượng 1.155 triệu USD chiếm 15% giá trị sản xuất
công nghiệp . Đóng góp vào xuất khẩu 848 triệu USD gần bằng 10% giá trị xuất khẩu cả
nước , 47 % giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và tăng gần
hai lần so với năm 1996
21
Năm 1998 : KCN đạt giá trị sản lượng 1.871 triệu USD, chiếm 20% sản xuất nông nghiệp
, đóng góp xuất khẩu 1300 triệu USD bằng 14% giá trị xuất khẩu của cả nước , 65%giá trị
xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 50% so với năm 1997 .
Trong gần 10 tháng đầu năm 1999 tạo ra giá trị sản lượng 1,7 tỷ USD chiếm 20% giá trị
sản xuất công nghiệp cả nước , trong đó xuất khẩu đạt 1,1 tỷ USD chiếm 15% giá trị xuất
khẩu , tăng 20% so với năm 1998 .
Trong 6 tháng đầu năm 2000 tạo giá trị tổng sản lượng chiếm 25% giá trị tổng sản
lượng công nghiệp và chiếm 16 % giá trị xuất khẩu của cả nước , với doanh số đạt 1,5 tỷ
USD trong đó xuất khẩu đạt 1 tỷ . tăng 25 % so với năm 1999 về cả doanh số lẫn giá trị
xuất khẩu
2. Những tồn tại yếu kém
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của các KCN nói chung vẫn còn gặp phải
không ít những hạn chế, bao gồm:
- Xuất phát từ quan niệm trước đây về khu công nghiệp tập trung (như quy định trong
Nghị định 36/NĐ-CP/1997) là “khu tập trung các doanh nghiệp khu công nghiệp chuyên
sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh
giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ
quyết định thành lập” cho nên các khu công nghiệp thường được lựa chọn bố trí tại những
địa điểm có những thuận lợi chủ yếu về hạ tầng kỹ thuật, xa khu vực dân cư và ít quan
tâm đến việc cung cấp các hạ tầng xã hội. Việc tập trung lao động quá cao ở một số khu
vực trong khi các điều kiện hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội chung của khu vực (đường
giao thông, nhà ở, bệnh viện, trường học, trung tâm thưng mại...) chưa phát triển đồng bộ
để đáp ứng các nhu cầu đó, nên tạo ra tình trạng quá tải cho khu vực, có thể nhận thấy ở
các dấu hiệu như ách tắc giao thông vào các giờ cao điểm, giá cả sinh hoạt tăng cao, điều
kiện ăn ở của người lao động thấp, nguy cơ nảy sinh các hiện tượng xã hội khác như mất
an ninh trật tự,...
- Nhiều khu công nghiệp tập trung ở khu vực phía Nam như ở các tỉnh Bình Dương,
Thành phố Hồ Chí Minh đang gặp phi những vấn đề về cung cấp lao động và cung cấp
các dịch vụ hạ tầng xã hội như các dịch vụ phục vụ cho việc đi lại, ăn ở, y tế chăm sóc
sức khoẻ cho người lao động...
22
- Cho đến thời điểm giữa năm 2005, tại nhiều địa phương, tỷ lệ cho thuê đất, hạ tầng
khu công nghiệp còn ở mức thấp ngay cả đối với những khu được thành lập trước năm
1995. Trong số 12 khu thành lập trước 1995, chỉ có 6 khu có tỷ lệ lấp đầy trên 50%1, bao
gồm hai khu đã lấp đầy 100%. Cá biệt có khu Đài Tư (Hà Nội) tỷ lệ cho thuê mới đạt
khoảng 1,7%.
- Quá trình hình thành và phát triển các khu công nghiệp trong giai đoạn vừa qua đang
đứng trước một xu hướng không tích cực. Đó là:
+ Các khu công nghiệp thành lập trong giai đoạn sau có tốc độ quá nhanh làm giảm tính
hấp dẫn trong thu hút đầu tư của các khu công nghiệp thành lập trước đó, làm cho các khu
công nghiệp thành lập trong giai đoạn trước có tỷ lệ lấp đầy thấp (bình quân chỉ 57%)
+Tính hấp dẫn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài giảm sút: số khu, diện tích thành
lập tăng gấp 4-5 lần trong khi số dự án chỉ tăng gấp 1,7 lần và lượng vốn chỉ tăng 1,6 lần.
-Thực tế ở nhiều địa phương, một số khu công nghiệp (chưa được thành lập theo quyết
định của Thủ tướng Chính phủ) đã và đang bố trí tập trung các doanh nghiệp sn xuất công
nghiệp theo mô hình khu công nghiệp tập trung. Các địa điểm như vậy đang gặp phải rất
nhiều vấn đề liên quan đến việc đảm bảo hạ tầng khu công nghiệp và sự phát triển bền
vững của khu vực. Tại một số khu công nghiệp này, những hạng mục hạ tầng cơ bản của
khu công nghiệp chưa được xây dựng (hệ thống thoát nước và xử lý chất thi, đường giao
thông nội bộ...) đã làm nảy sinh nhiều vấn đề và hiện nay việc tổ chức xử lý, đầu tư xây
dựng và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp này gặp phải nhiều khó khăn về vốn, về các
giải pháp kỹ thuật và đặc biệt là phương thức kinh doanh hạ tầng...
-Một số địa phương để chuẩn bị cho hình thành các khu công nghiệp đã cấp đất cho
các doanh nghiệp vào đầu tư mặc dù chưa có quy hoạch cụ thể (chi tiết) cho việc xây
dựng. Trong bố trí lựa chọn địa điểm, xuất phát từ tiêu chí thuận lợi về điều kiện hạ tầng
bên ngoài khu, nhiều khu công nghiệp được lựa chọn bố trí gần với các khu dân cư đô thị,
và đặc biệt là quá gần với các trục đường giao thông chính không đảm bảo khoảng cách
cần thiết và do vậy dẫn đến tình trạng bố trí dày đặc dọc hai bên các tuyến đường quốc lộ
chính (ví dụ đường 5), tạo ra sự tập trung quá mức, khó khăn về đảm bảo cung cấp các
điều kiện về hạ tầng.
1
23
-Cơ cấu đầu tư theo ngành, lĩnh vực công nghiệp, các dự án FDI vào KCN hiện nay
chủ yếu là dự án công nghiệp nhẹ (dệt, sợi, may mặc,...) và công nghiệp thực phẩm là các
dự án thu hút nhiều lao động và có tỷ lệ xuất khẩu cao; các dự án công nghiệp nặng chủ
yếu tập trung trong lĩnh vực lắp ráp các sản phẩm điện, điện tử; các ngành sản xuất công
nghiệp nặng khác như vật liệu xây dựng, hoá chất, điện, cơ khí... còn khá khiêm tốn. Hiện
nay, chưa có được đánh giá đầy đủ về cơ cấu các ngành công nghiệp được đầu tư trong
các khu công nghiệp, nhưng có thể thấy rằng phần lớn các khu công nghiệp có cơ cấu
ngành nghề tương đối giống nhau. Đối với các khu công nghiệp ở các thành phố lớn, nơi
giới hạn về diện tích khu công nghiệp, các ngành có hàm lượng công nghệ cao chưa được
đầu tư phát triển, các dự án chủ yếu vẫn là các ngành sử dụng nhiều lao động.
-Bộ máy quản lý nhà nước về phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất trong thời
gian qua còn chậm được kiện toàn, chưa quy định rõ cơ quan chịu trách nhiệm quản lý
nhà nước về phát triển các khu công nghiệp ở tầm vĩ mô. Ngày 15 tháng 8 năm 2000 Thủ
tướng Chính phủ đã có Quyết định số 100/2000/TTg về việc chuyển các Ban quản lý
KCN cấp tỉnh về trực thuộc Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh (trừ Ban quản lý KCN Dung Quất
và Ban quản lý KCN Việt Nam-Singapore). Tuy nhiên, mô hình tổ chức và chức năng,
nhiệm vụ của các Ban quản lý KCN cấp tỉnh cũng chậm được kiện toàn cần tiếp tục
nghiên cứu để hoàn thiện, phù hợp với tình hình mới.
-Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất chậm được sửa đổi và ban hành. Thực tiễn
quản lý trong những năm vừa qua phát sinh nhiều vấn đề bất cập liên quan đến Nghị định
36/CP (hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các cơ quan liên quan sửa đổi
Quy chế và trình Thủ tướng Chính phủ - Các quy định trong Nghị định, Quy chế sửa đổi
nhìn chung đáp ứng được tình hình thực tiễn quản lý hiện nay).
PHẦN III. NHỮNG ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Trên cơ sở những nhận định về triển vọng phát triển công nghiệp Việt nam trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với những phân tích về thực trạng tình hình phát triển
của các khu công nghiệp chúng em đưa ra một số nhóm giải pháp và kiến nghị sau.
24
I.Giải pháp
1. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với phát triển KCN
1.1.Nâng cao chất lượng quy hoạch KCN
Qui hoạch được coi là yếu tố quan trọng tác động đến khả năng phát triển bền vững
các khu công nghiệp, nó xác định khuôn khổ và phương hướng cho sự phát triển của các
khu này. Tuy nhiên, như trên đã phân tích, thực tế công tác qui hoạch các khu công
nghiệp Việt Nam hiện còn rất nhiều bất cập và yếu kém.
Thứ nhất là qui hoạch các khu công nghiệp mới chỉ mang tính chất hình thức, vì thực
chất có nhiều khu công nghiệp đã được cấp phép mà không dựa vào qui hoạch (trong đó
nhiều khu công nghiệp được cấp phép hoạt động trong giai đoạn chưa có qui hoạch khu
công nghiệp, và những khu công nghiệp này hiện vẫn hoạt động có hiệu quả), nói một
cách khác, công tác qui hoạch còn đi sau so với sự tiến triển của tình hình và so với yêu
cầu thực tiễn phát triển các khu công nghiệp. Tình trạng này còn phổ biến hơn nếu xem
xét đến thực tế phát triển của các cụm công nghiệp địa phương không do Thủ tướng chính
phủ ra quyết định.
Thứ hai, việc xây dựng qui hoạch còn chưa tính toán đầy đủ các yếu tố phát triển,
chẳng hạn như chưa gắn kết qui hoạch khu công nghiệp với qui hoạch tổng thể phát triển
kinh tế xã hội của địa phương, chưa chú trọng đến yêu cầu phát triển bên ngoài hàng rào
khu công nghiệp, đặc biệt chưa chú trọng đến các yêu cầu về bảo vệ môi trường, giải
quyết các vấn đề xã hội do tác động trực tiếp của việc xây dựng các khu công nghiệp, vv.
Thứ ba, qui hoạch khu công nghiệp chưa thực sự tính đến lợi ích tổng thể mà chủ yếu
dựa vào yêu cầu của vùng, địa phương dẫn đến những quyết định duy ý chí (vì lợi ích cục
bộ), gây thiệt hại nhiều về kinh tế.
Thứ tư, tầm nhìn của qui hoạch khu công nghiệp còn hạn chế, thiếu tính phối hợp
đồng bộ giữa các ngành, các địa phương, dẫn đến tính chất manh mún, mất cân đối trong
việc bố trí xây dựng các khu công nghiệp.
Mặc dù hiện nay chúng ta đã có qui hoạch phát triển khu công nghiệp đến năm 2010
và đang trình phê duyệt qui hoạch đến năm 2020, nhưng trên cơ sở nghiên cứu tình hình
thực tế và phân tích kinh nghiệm quốc tế, nhóm nghiên cứu cho rằng cần phải nâng cao
25
hơn nữa chất lượng công tác qui hoạch để tăng cường tính chất bền vững trong phát triển
các khu công nghiệp
1.2. Đa dạng hoá mô hình các khu công nghiệp.
Mô hình tổ chức các KCN cần phải đi sát với thực tế xu hướng phát triển KCN hiện
đại. Mô hình tổ chức sản xuất công nghiệp ở nước ta (cũng như ở nhiều quốc gia khác)
trong những thập kỷ 1960, 1970 thiên về việc hình thành những tổ hợp công nghiệp có
quan hệ chặt chẽ về công nghệ, đến những năm 1980, 1990 là sự ra đời của các khu công
nghiệp tập trung với một quan niệm mới về phát huy hiệu quả của công nghiệp thông qua
việc sử dụng chung các dịch vụ hạ tầng (bao gồm cả dịch vụ xử lý những tác động môi
trường sinh thái). Hiện nay, xu hướng mới trong phát triển các KCN là hình thành những
cluster công nghiệp trong đó chú trọng hơn đến các mối liên hệ nhiều tầng trong phát triển
công nghiệp. Do vậy, mô hình phát triển các khu công nghiệp phải phù hợp với các giai
đoạn nhất định trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Các khu công nghiệp ở một giai đoạn
mà nền kinh tế còn kém phát triển, dư thừa nhiều lao động, thì không tránh khỏi phải thu
hút nhiều ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động (ngay cả ở các đô thị lớn). Một khi
kinh tế phát triển như hiện nay thì sự tồn tại của khu công nghiệp như vậy trở nên bất hợp
lý và cần có những mô hình phát triển mới. Nhóm nghiên cứu đề xuất một số mô hình
phát triển KCN mới có thể áp dụng vào VN hiện nay như sau :
Mô hình KCN tập trung, trong đó bao gồm các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp,
sản xuất hàng hoá tiêu thụ trong nước và phục vụ xuất khẩu. Sự thành công của một số
khu công nghiệp tập trung thời gian qua đã chứng minh sự phù hợp của mô hình này, và
việc duy trì áp dụng mô hình khu công nghiệp tập trung vẫn nên được coi là một trong
những hướng phát triển cần thiết của các khu công nghiệp. Tuy nhiên, trong mô hình này,
chúng ta có thể kết hợp tổ chức hoạt động của cả các doanh nghiệp chế xuất và các doanh
nghiệp sản xuất công nghiệp phục vụ nhu cầu trong nước.
Mô hình KCN tổng hợp, trong đó bao gồm cả các doanh nghiệp công nghiệp, doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ và cả khu dân cư. Một trong những xu hướng mới hiện nay trong
việc tổ chức hoạt động của khu công nghiệp là kết hợp phát triển hoạt động sản xuất công
nghiệp với các hoạt động cung cấp dịch vụ và các đầu vào cần thiết cho các doanh nghiệp
công nghiệp, kết hợp phát triển sản xuất và tổ chức đời sống dân cư trong khu công
26
nghiệp, theo mô hình tổng hợp. Việc kết hợp phát triển các doanh nghiệp công nghiệp với
các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ (như vận tải, bưu điện, thông tin liên lạc, tài chính,
vv) một mặt sẽ cho phép tạo ra một tổng thể khép kín các hoạt động, đảm bảo sự chủ
động trong việc tổ chức hoạt động của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, mặt
khác, sự kết hợp này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giảm chi phí dịch vụ do sự rút
ngắn khoảng cách trong cung cấp dịch vụ, qua đó tăng cường khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp tham gia khu công nghiệp. Bên cạnh đó, việc phát triển các khu dân cư
trong khu công nghiệp (với mục đích chủ yếu phục vụ nhu cầu của người lao động làm
việc trong khu công nghiệp) sẽ giúp giải quyết được những vấn đề bức xúc hiện nay về
nhà ở cho người lao động trong khu công nghiệp, qua đó tạo ra sự ổn định về lao động
trong các khu công nghiệp.
Mô hình liên kết khu công nghiệp, theo đó nhiều KCN sẽ được bố trí gần nhau và liên
kết theo dạng cluster công nghiệp. Tổ chức theo dạng cluster tức là việc tập trung theo
ngành và theo khu vực địa lý các đơn vị sản xuất kinh doanh. Mô hình tổ chức này cho
phép tận dụng khả năng tiết kiệm chi phí giao dịch, với sự tập trung của các nhà cung cấp
nguyên vật liệu, linh kiện và máy móc thiết bị cũng như sự tập trung của lực lượng lao
động có tay nghề chuyên môn phù hợp với từng ngành. Sự tập trung này cũng tạo điều
kiện phát triển các loại hình dịch vụ phù hợp với từng ngành như dịch vụ kỹ thuật, tài
chính kế toán, vv. Các lợi thế này là nhân tố đảm bảo sự phát triển bền vững của mô hình
liên kết KCN này. Hiện nay mô hình cluster công nghiệp đã và đang được áp dụng thành
công tại các nước phát triển và các nước đang phát triển có điều kiện tương tự như nước
ta, do vậy, nhóm nghiên cứu cho rằng việc tổ chức các khu công nghiệp theo mô hình
cluster có thể được coi là một mô hình phát triển bền vững hợp lý cho các khu công
nghiệp của Việt nam trong tương lai.
1.3.Giải pháp về tăng cường hiệu quả công tác quản lý môi trường
Một trong những vấn đề bức xúc trong quá trình phát triển các khu công nghiệp hiện
nay là tình trạng ô nhiễm môi trường do hoạt động của các khu công nghiệp gây ra ngày
càng trở nên trầm trọng. Thực tế cho thấy một tình trạng phổ biến là hầu hết các khu công
nghiệp đều chưa tuân thủ đầy đủ các ràng buộc về bảo vệ môi trường (cả môi trường
nước, chất thải, không khí và tiếng ồn), và không ít các khu công nghiệp bị coi là “ổ gây ô
27
nhiễm” cho khu vực có khu công nghiệp. Do vậy, bảo vệ môi trường trong các khu công
nghiệp phải được coi là một nội dung quan trọng cần thực hiện để đảm bảo phát triển bền
vững khu công nghiệp và địa phương có khu công nghiệp, và cần có những giải pháp thiết
thực và cấp bách. Các giải pháp này phải đồng thời nhắm đến hai mục tiêu là khắc phục
tình trạng ô nhiễm hiện tại và ngăn ngừa ô nhiễm mới.
Trước hết, Nhà nước phải kết hợp với các địa phương, các KCN và các doanh nghiệp
đang hoạt động trong các KCN tìm ra giải pháp thiết thực để khắc phục tình trạng ô
nhiễm môi trường ở các KCN. Cần kết hợp giữa việc rà soát các chế tài xử lý hành vi gây
ô nhiễm môi trường với việc hỗ trợ các đơn vị tổ chức có liên quan để chấm dứt tình trạng
ô nhiễm hiện tại, đặc biệt là tình trạng ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm khí thải.
Hai là, Nhà nước phải có các qui định đầy đủ và hợp lý về bảo vệ môi trường ngay từ
khâu qui hoạch phát triển khu công nghiệp. Những qui định này hiện nay vẫn còn nhiều
bất cập, chưa hợp lý và chưa khoa học dẫn đến sự tuân thủ chưa triệt để của các khu công
nghiệp, đặc biệt là qui định về việc xây dựng khu xử lý nước thải tập trung cho mỗi khu
công nghiệp. Vì vậy, theo nhóm nghiên cứu, cần có qui định cụ thể về sự sẵn sàng của cơ
sở hạ tầng xử lý nước thải và chất thải trước khi cho phép phê duyệt cấp giấy phép đầu tư
vào khu công nghiệp, đồng thời cần có qui định cụ thể về việc thẩm định kỹ càng các nội
dung về môi trường của mỗi dự án trước khi cấp phép đầu tư.
Giải pháp thứ hai là nhà nước cần hoàn thiện hệ thống các qui định chế tài pháp lý
trong việc quản lý môi trường. Hiện nay, mặc dù đã có luật bảo vệ môi trường nhưng việc
xử lý việc vi phạm qui định bảo vệ môi trường còn lỏng lẻo, chưa triệt để dẫn đến việc
các doanh nghiệp xem nhẹ nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Để đảm bảo duy trì một môi
trường bền vững, nhà nước, mà cụ thể là các cơ quan có liên quan (Bộ Tài nguyên môi
trường, Bộ Khoa học công nghệ, Bộ Tài chính, vv) phải hợp tác xây dựng được hệ thống
các qui định chi tiết xử phạt hành vi vi phạm bảo vệ môi trường làm cơ sở cho việc quản
lý môi trường và tăng cường tính chất răn đe trong việc thực thi nghĩa vụ bảo vệ môi
trường của các đơn vị kinh doanh trong khu công nghiệp.
Bên cạnh đó, một giải pháp khác nhằm nâng cao chất lượng công tác bảo vệ môi
trường là nhà nước phải có cơ chế khuyến khích nâng cao tinh thần trách nhiệm của các
đơn vị kinh doanh tham gia bảo vệ môi trường. Cơ chế khuyến khích này có thể bao gồm
28
các nội dung như không thu tiền thuê đất đối với diện tích xây dựng cơ sở hạ tầng xử lý
chất thải và nước thải bảo vệ môi trường, kể cả khu xử lý tập trung và các khu xử lý cục
bộ trong các doanh nghiệp. Đồng thời, nhà nước cũng nên có cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp
(lãi suất thấp hoặc hỗ trợ lãi suất, thưởng) đối với phần vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ
tầng xử lý môi trường, hoặc hỗ trợ tạo điều kiện ưu tiên cho các doanh nghiệp sử dụng
công nghệ ít gây tổn hại cho môi trường.
Để đảm bảo xử lý vấn đề môi trường được thuận lợi, việc qui hoạch thành lập các khu
công nghiệp chuyên ngành cũng là một giải pháp hiệu quả, bởi vì nếu như trong cùng một
khu công nghiệp mà có nhiều doanh nghiệp thuộc ngành nghề khác nhau thì công nghệ xử
lý môi trường cũng đòi hỏi đa dạng, tốn kém và khó quản lý. Việc tập trung các doanh
nghiệp có cùng ngành nghề trong một khu công nghiệp sẽ tạo điều kiện đầu tư tập trung
vào cơ sở hạ tầng và công nghệ xử lý môi trường, nâng cao hiệu quả trong công tác phòng
ngừa các nguyên nhân gây ô nhiễm, xử lý triệt để và có hiệu quả tình trạng ô nhiễm tại
các khu công nghiệp.
1.4.Giải pháp nâng cao tính hấp dẫn của KCN trong thu hút đầu tư
Tính hấp dẫn trong thu hút đầu tư của khu công nghiệp có ảnh hưởng quyết định hiệu
quả hoạt động của khu công nghiệp cũng như khả năng phát triển một cách bần vững của
chúng. Sức hấp dẫn của khu công nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó trước hết
phải kể đến ưu thế tương đối của môi trường đầu tư vào khu công nghiệp và những nỗ lực
của nhà nước trong việc triển khai các hoạt động xúc tiến đầu tư.
Đối với các khu công nghiệp của Việt nam thời gian qua chưa thể hiện được ưu thế
vượt trội trong việc thu hút đầu tư, nhiều khu công nghiệp vẫn không đạt mục tiêu lấp đầy
sau nhiều năm hoạt động. Nguyên nhân của tình trạng này được lý giải theo nhiều khía
cạnh : môi trường pháp luật chưa thông thoáng, thủ tục hành chính còn nhiều bất cập, cơ
sở hạ tầng trong và ngoài khu công nghiệp chưa đảm bảo thuận tiện, chi phí hoạt động
trong khu công nghiệp còn cao, đặc biệt là tiền thuê đất, nguồn nhân lực còn thiếu và yếu,
phương thức tiếp thị chưa tốt, vv.
Để nâng cao tính hấp dẫn của các khu công nghiệp, những giải pháp cơ bản sau đây là
cần thiết.
29
Trước hết cần hoàn thiện môi trường pháp lý và đơn giản hoá các thủ tục hành chính,
thông qua việc nhanh chóng xây dựng và thông qua luật về khu công nghiệp, hoàn thiện
cơ chế “một cửa tại chỗ” và coi đây là công cụ quan trọng tạo lập môi trường hành chính
thuận lợi trong khu công nghiệp, đồng thời ổn định các chính sách và cơ chế để tạo điều
kiện cho các nhà đầu tư vào khu công nghiệp có những tính toán chiến lược dài hạn và
bền vững.
Cần tiếp tục xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng quốc gia (giao thông, năng lượng,
thông tin liên lạc, vv), khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia xây dựng cơ sở hạ
tầng ngoài khu công nghiệp, sử dụng nguồn lực của nhà nước để hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ
tầng ở những địa phương chưa có điều kiện, qua đó tạo thuận lợi cho việc triển khai hoạt
động của các nhà đầu tư vào khu công nghiệp.
Giải pháp thứ ba là tạo điều kiện giảm chi phí kinh doanh cho các nhà đầu tư vào khu
công nghiệp, nâng cao tính hấp dẫn trong thu hút đầu tư bằng nhiều chính sách khác nhau,
trong đó : giảm chi phí thu hồi đất, đền bù giải toả để tạo điều kiện giảm tiền thuê đất cho
nhà đầu tư; giảm chi phí sử dụng dịch vụ công cộng và chi phí duy tu bảo dưỡng cơ sở hạ
tầng, nên thu chi phí theo mức độ hoạt động (doanh thu, kim ngạch xuất khẩu, vv) để tạo
điều kiện cho những doanh nghiệp còn khó khăn trong hoạt động có điều kiện phát triển
sản xuất. Bên cạnh đó, cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế (kể cả các nhà đầu tư
nước ngoài) tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng khu công nghiệp sẽ làm tăng tính cạnh tranh và
qua đó có thể giảm đáng kể chi phí sử dụng hạ tầng (điện, nước, liên lạc, vv) cho các nhà
đầu tư trong khu công nghiệp.
Đồng thời với các chính sách tạo thuận lợi về mặt điều kiện kinh doanh cho các nhà
đầu tư vào khu công nghiệp, công tác xúc tiến đầu tư của nhà nước cũng sẽ góp phần
không nhỏ vào việc nâng cao tính hấp dẫn trong thu hút đầu tư vào khu công nghiệp. Hoạt
động xúc tiến đầu tư vào khu công nghiệp của chúng ta hiện nay còn mang tính chất tự
phát và manh mún, mỗi địa phương thực hiện theo một cách và dẫn đến tình trạng cạnh
tranh không lành mạnh ngay giữa các khu công nghiệp trong nước, làm tổn hại đến hình
ảnh về môi trường đầu tư của Việt Nam. Từ thực tế trên, nhóm nghiên cứu đề xuất cần tập
trung hoạt động xúc tiến đầu tư với sự tham gia và hỗ trợ của các cơ quan nhà nước trung
ương, thông qua việc thiết lập các kênh thông tin tập trung (website, các chiến dịch xúc
30
tiến đầu tư, thiết lập các đoàn vận động đầu tư cùng với việc liên kết chặt chẽ với các tổ
chức các nhà đầu tư quốc tế). Hoạt động này cần có sự chỉ đạo tập trung bởi một cơ quan
chuyên trách với sử dụng ngân sách nhà nước để tién hành hoạt động. Đồng thời, việc
tham gia hiệp hội các khu công nghiệp và khu chế xuất khu vực và thế giới cũng sẽ góp
thêm cơ hội quảng bá cho các khu công nghiệp của Việt Nam.
1.5. Hoàn thiện một số chính sách phát triển bền vững KCN
1.5.1.Các yêu cầu trong xây dựng chính sách
Liên quan đến vấn đề này, cần lưu ý không những là công việc của các nhà lãnh đạo
và quản lý cấp quốc gia mà còn là nhiệm vụ của chính quyền các địa phương trong việc
cụ thể hóa chính sách trong cơ chế vận dụng ở từng địa phương. Quá trình hoàn thiện
chính sách phải được bắt đầu từ sự thay đổi hay chuyển hóa quan niệm về sự phát triển
các khu công nghiệp ở nước ta, tiếp sau đó là sự thay đổi trong hệ thống văn bản pháp quy
và cuối cùng là hoàn thiện hệ thống chính sách liên quan trực tiếp đến phát triển bền vững
khu công nghiệp.
Các chính sách nhằm phát triển bền vững khu công nghiệp cần hướng tới việc: thực
hiện mục tiêu quy hoạch phát triển các khu công nghiệp; đẩy mạnh hoạt động, nâng cao
khả năng cạnh tranh và tăng hiệu quả hoạt động cho các doanh nghiệp; thu hút được các
nhà đầu tư trong nước và nước ngoài vào khu công nghiệp.
1.5.2.Hoàn thiện chính sách thu hồi đất
Thu hồi đất và giải phóng mặt bằng cho khu công nghiệp hiện nay được coi là khâu
mấu chốt quyết định sự thành công của các khu công nghiệp và lại là khâu có nhiều khó
khăn nhất theo những kết quả nhóm nghiên cứu đã ghi nhận được trong thời gian qua.
Những vấn đề liên quan đến việc thu hồi đất và đền bù đất bị thu hồi đã gây tổn hại đến
nhiều phía, cả đối với khu công nghiệp (trong đó là các doanh nghiệp tham gia đầu tư vào
khu công nghiệp), đối với dân cư trong vùng có khu công nghiệp và nhìn chung là đối với
nền kinh tế. Nguyên nhân của những vấn đề này cũng đến từ nhiều phía, từ chính sách
31
chung của Nhà nước, các cơ chế đặc thù của mỗi địa phương, tinh thần trách nhiệm của
các nhà đầu tư khu công nghiệp cũng như sự hợp tác từ phía người dân.
1.5.3.Chính sách đảm bảo nguồn lao động cho KCN
Tình trạng thiếu hụt nhân công, kể cả lao động quản lý lẫn lao động phổ thông, đang
ngày càng trở thành một vấn đề nghiêm trọng tại các khu công nghiệp cùng với sự gia
tăng về số lượng và qui mô của các khu công nghiệp trong thời gian gần đây, đặc biệt là
tại các vùng có tập trung nhiều khu công nghiệp. Thực tế này đã gây nhiều khó khăn cho
việc mở rộng qui mô của các khu công nghiệp hiện tại cũng như xây dựng các khu công
nghiệp mới. Để giải quyết một cách triệt để và lâu dài vấn đề này, nhóm nghiên cứu đề
xuất một số giải pháp như sau.
Cần có chính sách đồng bộ về đào tạo cán bộ quản lý và đào tạo nghề trên toàn quốc
gắn liền với nhu cầu và qui hoạch phát triển các khu công nghiệp. Cần mở rộng qui mô
đào tạo lao động kỹ thuật tại các địa bàn tập trung nhiều khu công nghiệp để có thể tạo
nguồn lao động tại chỗ đáp ứng nhu cầu phát triển dài hạn của các khu này. Cơ cấu đào
tạo có thể dựa trên dự báo nhu cầu theo qui hoạch phát triển khu công nghiệp và theo đơn
đặt hàng trực tiếp của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp.
Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các doanh
nghiệp trong khu công nghiệp tự đào tạo lao động (tại chỗ hoặc gửi đi đào tạo tại nước
ngoài), góp phần giải quyết tình trạng thiếu hụt lao động đặc biệt là lao động kỹ thuật.
Bên cạnh hoạt động đào tạo, nhà nước cần phối hợp với địa phương có chính sách tạo
môi trường sống lành mạnh và chăm lo đời sống cho lao động làm việc trong khu công
nghiệp. Chính sách này được thể hiện thông qua các chủ trương xây dựng các khu dịch vụ
hỗ trợ quanh khu công nghiệp, trong đó phát triển các loại hình cung cấp dịch vụ lưu trú,
dịch vụ văn hoá thể thao, dịch vụ thương mại cung cấp các sản phẩm cần thiết cho đời
sống của người lao động, có như vậy mới đảm bảo tạo điều kiện cho người lao động an
tâm gắn bó lâu dài với địa bàn và với khu công nghiệp.
2. Các giải pháp đối với địa phương
2.1. Đẩy nhanh việc triển khai đền bù, thu hồi đất cho xây dựng KCN
32
Như đã nhấn mạnh ở phần trên, vấn đề bức xúc nhất trong việc triển khai các khu
công nghiệp hiện nay là vấn đề đền bù thu hồi đất xây dựng khu công nghiệp. Để giải
quyết những bất cập này không thể chỉ trong chờ vào sự nỗ lực của nhà nước thông qua
các chinh sách mà trước hết đó là nhiệm vụ của các cấp chính quyền địa phương. Thực tế
cho thấy, ở những địa phương nào mà các cấp chính quyền nhận thức tốt vai trò của mình
trong việc thu hồi đất và hợp tác toàn diện trong việc triển khai công tác giải phóng mặt
bằng thì công tác triển hai xây dựng khu công nghiệp rất thuận lợi. Trái lại, tại một số địa
phương, tiến độ xây dựng khu công nghiệp bị đình trệ do chính quyền địa phương đã
không có những giải pháp phù hợp cho công tác thu hồi đất, thậm chí, một số địa phương
lại hầu như giao toàn bộ công việc này cho các nhà đầu tư khu công nghiệp tự lo. Để tạo
điều kiện phát triển thuận lợi các khu công nghiệp, nhóm nghiên cứu đề xuất một số giải
pháp cần tiến hành triệt để đối với chính quyền các địa phương có khu công nghiệp.
Một là phải nhận thức đầy đủ trách nhiệm quan trọng của chính quyền địa phương
trong tổ chức đền bù, giải toả, tránh phó mặc cho các nhà đầu tư cơ sở hạ tầng tự đàm
phán, thoả thuận trực tiếp với dẫn vì như vậy sẽ dễ dẫn đến sự đối xử không công bằng,
gây tâm lý không tin tưởng của người dân. Để hoàn thành trách nhiệm này, chính quyền
địa phương cần có những giải pháp cụ thể như sau :
Công bố công khai và phổ biến sớm qui hoạch đã được phê duyệt bằng nhiều hình
thức đến người dân ở khu vực bị thu hồi đất nhằm chuẩn bị tâm lý cho người dân và giả
bớt những hoạt động lợi dụng sự hiểu biết về thông tin qui hoạch để trục lợi thông qua
mua bán, sang nhượng, xây dựng kiên cố trên vùng đất được qui hoạch dẫn đến gây bất
ổn về tình hình giá đất, gây khó khăn và tốn kém cho việc thu hồi và giải phóng mặt bằng
cho xây dựng khu công nghiệp.
Chuẩn bị kỹ càng kế hoạch thu hồi đất và tái định cư cho người dân mất đất, thông qua
chính quyền địa phương các cấp để phổ biến cho dân. Kế hoạch này phải có nhiều
phương án để cho người dân có thể lựa chọn phương án phù hợp với điều kiện riêng của
họ (giao đất lấy tiền, đổi đất lấy nền nhà, góp đất lấy cổ phần, vv), phải được phổ biến và
lấy ý kiến đóng góp của các cấp (quản lý, hộ dân, vv), và phải do các cán bộ có uy tín
tham gia tổ chức thực hiện kế hoạch.
33
Hai là chính quyền địa phương phải có phương án và kế hoạch ổn định cuộc sống cho
người dân sau khi bị thu hồi đất. Tình trạng phổ biến ở một số địa phương là những người
dân sau khi bị thu hồi đất phải mất rất nhiều thời gian để tổ chức lại cuộc sống trong khi
lại ít nhận được sự quan tâm của chính quyền địa phương. Thậm chí nhiều nơi, những
người bị thu hồi đất thấy bị thiệt thòi quá nhiều đã quay trở lại gây khó khăn cho hoạt
động của các nhà đầu tư. Để ổn định cuộc sống cho dân mất đất, trước hết chính quyền
địa phương cần đi trước một bước trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng ở khu vực tái định cư
và xây dựng khu nhà ở tái định cư phù hợp. Cần tạo điều kiện cho những hộ dân có liên
quan tham gia giám sát việc xây dựng nhà tái định cư để đảm bảo rằng những gì họ được
hưởng là tương xứng với những lợi ích mà họ đã phải “hy sinh” vì sự phát triển của khu
công nghiệp.
Trong nhiều trường hợp các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình đền bù, giải tỏa đưa
ra ở trên không đem lại kết quả như mong đợi, chính quyền các địa phương có thể đưa
vào thực hiện phương pháp đền bù mới. Theo đó, khi bàn giao đất sản xuất cho công ty
đầu tư phát triển hạ tầng KCN, người nông dân thay vì được đền bù bằng tiền mặt họ sẽ
được nhận cổ phiếu của công ty. Như vậy họ sẽ là cổ đông, tham gia trực tiếp vào hoạt
động kinh doanh của KCN và thay vì được nhận hoa màu từ sản xuất nông nghiệp họ sẽ
được nhận tiền lãi từ hoạt động kinh doanh hạ tầng của KCN. Người dân sẽ sẵn sàng bàn
giao đất để công ty hạ tầng có thể sớm đi vào hoạt động, mang lại lợi nhuận cho chính họ.
Giải pháp này sẽ mang tính hiện thực nhiều hơn vì chắc chắn sẽ nhận được sự đồng tình
của phần lớn người dân mất đất.
2.2.Tăng cường cung cấp hàng hoá, dịch vụ phục vụ khu công nghiệp
Sự hình thành của khu công nghiệp tại địa phương chắc chắn sẽ dẫn đến sự hình thành
các nhu cầu khác nhau phục vụ cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp và cho lực
lượng lao động làm việc trong khu công nghiệp. Điều này đòi hỏi địa phương phải có sự
chuẩn bị để sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu thiết thực này, một mặt góp phần tạo điều
kiện phát triển cho khu công nghiệp, mặt khác tận dụng nhu cầu này để đa dạng hoá các
loại hình sản xuất hàng hoá và cung ứng dịch vụ, tăng thu nhập cho người dân địa
phương.
34
Phát triển các loại hình sản xuất sản phầm và dịch vụ cung cấp cho khu công nghiệp
phải được tính đến ngay từ khi phê duyệt cấp phép cho khu công nghiệp. Đi đôi với thành
lập khu công nghiệp, chính quyền địa phương cũng cần xây dựng những cơ sở hạ tầng cần
thiết cho việc phát triển các hoạt động vệ tinh cho khu công nghiệp. Điều này cũng sẽ tạo
điều kiện cho quá trình đô thị cùng với sự phát triển của các khu công nghiệp trong tương
lai.
Chính quyền địa phương sẽ phải định hướng và tạo điều kiện cho các hộ dân xung
quanh khu công nghiệp tham gia phát triển các loại hình sản xuất kinh doanh hàng hóa và
dịch vụ chuyên nghiệp phục vụ chủ yếu nhu cầu của lực lượng lao động làm việc trong
khu công nghiệp. Quá trình này có thể bắt đầu từ việc địa phương xây dựng các mô hình
kiểu mẫu hộ gia đình sản xuất hàng hoá, nhân rộng điển hình làm tăng tính đa dạng trong
cung cấp dịch vụ, tiến tới tăng qui mô và tăng dần tính chuyên môn hoá, từng bước đảm
bảo cung cấp đầu vào cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp.
2.3.Tạo nguồn lao động nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động
Đảm bảo đủ nguồn lao động đáp ứng nhu cầu của khu công nghiệp (hiện đang rất
thiếu về số lượng và yếu về chất lượng) hiện nay không thể chỉ trông chờ vào chính sách
của nhà nước mà trước hết địa phương có khu công nghiệp phải đi đầu trong việc cung
ứng nguồn lao động bền vững. Vấn đề nguồn lao động cho khu công nghiệp có thể được
giải quyết thông qua việc huy động và đào tạo nguồn lao động tại chỗ, đồng thời thông
qua việc tạo điều iện thuận lợi cho viêc ổn định cuộc sống cho số lượng lao động nhập cư
từ những địa phương khác. Các giải pháp cụ thể được nhóm nghiên cứu đề xuất là :
Ưu tiên đào tạo và huy động lực lượng lao động là con em những hộ dân bị thu hồi đất
cho khu công nghiệp vào làm việc tại các khu công nghiệp. Cách làm này vừa cho phép
giải quyết vấn đề về lao động vừa cho phép giải quyết những vấn đề xã hội có thể nảy
sinh do mất đất, qua đó vừa tạo thuận lợi hơn cho việc thu hồi đất cho những khu công
nghiệp khác trên địa bàn, vừa là một trong những điều kiện đảm bảo phát triển bền vững
khu công nghiệp.
35
Khuyến khích các thành phần kinh tế thành lập các cơ sử cung ứng lao động, đảm
nhận nhiệm vụ tuyển dụng lao động tại chỗ và ở các địa phương có nguồn lao động dòi
dào, đào tạo và huấn luyện để cung cấp cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp.
Tổ chức tốt vấn đề nhà ở cho người lao động nhập cư bằng việc hỗ trợ các hộ dân
trong việc xây dựng các khu nhà ở đạt tiêu chuẩn với giá thuê hợp lý tạo điều kiện lưu trú
lâu dài cho người lao động, đồng thời tổ chức tốt công tác đảm bảo an ninh trong khu vực,
tạo tâm lý an tâm cho sự lưu trú lâu dài của người lao động nhập cư, tránh tình trạng luận
chuyển lao động tự do có ảnh hưởng không tốt tới sự phát triển lâu dài của các khu công
nghiệp.
Địa phương kết hợp với các hộ dân quanh khu công nghiệp trong việc cung cấp các
dịch vụ văn hoá xã hội, nâng cao đời sống tinh thần, cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế cho
người lao động.
2.4..Phát triển khu dân cư ở khu vực có khu công nghiệp
Sự phát triển bền vững của các khu công nghiệp phải gắn liền với sự phát triển của các
khu dân cư xung quanh khu công nghiệp, phát triển khu dân cư sẽ tạo sự phát triển cân
đối giữa bên trong và bên ngoài khu công nghiệp, nâng cao mức sống và đẩy nhanh tốc độ
đô thị hoá theo hướng văn minh, hiện đại và an ninh. Những giải pháp chủ yếu cho vấn đề
này có thể là:
Chính quyền sở tại phối hợp với các cơ quan chuyên môn và có sự tham gia của người
dân tổ chức lập qui hoạch đô thị ngoài khu công nghiệp. Điều này sẽ cho phép làm giảm
tính chất hình thức của qui hoạch, nâng cao chất lượng qui hoạch đồng thời đảm bảo thiết
kế khu đô thị phù hợp bền vững với sự phát triển của khu công nghiệp.
Địa phương dành quỹ đất khuyến khích các tổ chức, tập thể và cá nhân đầu tư xây
dựng khu dân cư tập trung, nhà tập thể giá rẻ bán trả dần cho người lao động và cán bộ
làm việc trong khu công nghiệp, khuyến khích họ gắn bó lâu dài với khu công nghiệp.
Việc xây dựng cơ sở hạ tầng khu dân cư xung quanh khu đô thị cần được chính quyền
các cấp tại địa phương quan tâm tạo điều kiện hỗ trợ. Một mặt sử dụng ngân sách đầu tư
cơ sở hạ tầng, mặt khác cho phép và khuyến khích xã hội hoá hoạt động đầu tư hạ tầng
ngoài khu công nghiệp để dần hình thành bộ mặt một đô thị văn minh cùng với tương lai
phát triển của khu công nghiệp.
36
Địa phương cũng cần có biện pháp vận động tuyên truyền mọi tổ chức các nhân coi
việc tạo môi trường sống cho người lao động làm việc trong khu công nghiệp là vấn đề
của người trong cuộc, tỏ thái độ hiếu khách đối với số lao động nhập cư, tăng sức hấp dẫn
cho việc thu hút đầu tư vào khu công nghiệp.
II . MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Để đảm bảo thực hiện thành công những giải pháp nêu trên, chúng em đề xuất một số
kiến nghị cơ bản như sau :
1. Kiến nghị về tổ chức quản lý KCN
1.1. Kiến nghị mô hình quản lý KCN và KCX ở cấp trung ương
Từ khi chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý từ Ban quản lý các Khu công nghiệp và
chế xuất Việt Nam trực thuộc Chính phủ thành Vụ quản lý khu công nghiệp và khu chế
xuất thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư với chức năng của đơn vị tham mưu, giúp việc cho Bộ
trưởng không có tư cách pháp nhân; có con dấu và tài khoản riêng. Do vậy, mọi hoạt động
của Vụ đối với công tác quản lý các KCN, KCX trong cả nước nhất thiết đều phải thông
qua lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư để có tư cách pháp nhân, gây ảnh hưởng rất lớn đến
khả năng, thời gian xử lý các công việc trong lĩnh vực mà cơ chế “một cửa, tại chỗ” đã
được thực hiện ở tất cả các KCN và KCX trong cả nước. Nói cách khác, nhiệm vụ và
quyền hạn của Vụ là chưa có sự tương xứng cần thiết giữa Ban quản lý các KCN của từng
địa phương (tỉnh, thành phố) với Vụ quản lý các KCN và KCX thuộc bộ Kế hoạch Đầu tư
ở cấp Trung ương. Điều này gây trở ngại đáng kể cho việc triển khai một cách có hiệu quả
hoạt động quản lý nhà nước của Vụ quản lý các KCN và KCX đối với các Ban quản lý
các KCN ở địa phương. Từ thực tế đó, nhóm nghiên cứu đề xuất với Chính phủ và Bộ Kế
hoạch và Đầu tư chuyển chức năng của Vụ quản lý các KCN và KCX hiện nay thành Cục
quản lý các KCN và KCX trực thuộc Bộ, qua đó cho phép đảm bảo sự thống nhất về
nhiệm vụ và quyền hạn giữa các cơ quan quản lý TW và cơ quan quản lý địa phương đối
với các KCN.
1.2.Kiến nghị phân cấp quản lý KCN và KCX
Để tăng cường tính chủ động và tinh thần trách nhiệm trong quản lý các khu công
nghiệp, việc phân cấp quản lý các KCN cho các ban quản lý KCN tại địa phương là một
37
điều kiện quan trọng cho phép nâng cao hiệu qủa quản lý KCN. Tuy nhiên, cho đến nay
mới chỉ có Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là có được sự phân cấp đầy đủ các quyền
quyết định về các hoạt động trong các KCN. Do đó, nhóm nghiên cứu kiến nghị trong
thời gian tới, nhà nước sẽ tiến hành việc phân cấp đầy đủ hơn các quyền cho ban quản lý
KCN tại các địa phương còn lại trong cả nước, tránh việc quản lý chồng chéo giữa các cơ
quan quản lý các cấp, các ngành khác nhau đối với một vấn đề thuộc khu công nghiệp,
điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi đáng kể cho các ban quản lý trong việc thực hiện đầy
đủ chức năng quản lý nhà nước theo mô hình “một cửa – tại chỗ” đối với các hoạt động
trong các KCN; và đặc biệt tạo điều kiện cho các nhà đầu tư khi xin phép và triển khai các
dự án đầu tư trong khu công nghiệp được nhanh chóng, thuận lợi.
2.Kiến nghị về tổ chức thực hiện qui hoạch, chính sách và cơ chế đã ban hành.
Một trong những nguyên nhân của các khó khăn trong việc quản lý sự phát triển các
KCN thời gian qua là tình trạng phát triển không có qui hoạch, thực hiện các chính sách
không nhất quán, buông lỏng kiểm soát việc tuân thủ các qui chế, qui định trong quản lý
KCN. Để khắc phục khó khăn này, đồng thời đảm bảo sự thành công trong việc triển khai
đồng bộ các giải pháp nêu trên, nhóm nghiên cứu kiến nghị :
Nhanh chóng phê duyệt qui hoạch phát triển KCN đến năm 2020 và triển khai thực
hiện trên thực tế để đảm bảo sự phát triển cân đối của các KCN trong thời gian tới. Kiên
quyết tôn trọng qui hoạch đã được duyệt và coi đó là căn cứ quan trọng nhất trong việc
xét duyệt cấp phép đầu tư các khu công nghiệp, tránh hiện tượng các địa phương tự cấp
phép xây dựng khu công nghiệp và đặt các cơ quan nhà nước vào tình trạng “sự đã rồi”.
Rà soát lại và hoàn thiện hệ thống chính sách liên quan đến KCN, làm có những điều
chỉnh cần thiết để thích ứng với yêu cầu phát triển bền vững các khu công nghiệp trong
điều kiện hiện nay.
Tổ chức phối hợp một cách chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý trung ương và cơ quan
quản lý địa phương để có sự nhất quán trọng quản lý phát triển các KCN. Đồng thời phải
tổ chức phối hợp giữa các cấp chính quyền và người dân ở khu công nghiệp để đảm bảo
tạo ra một môi trường bền vững và hấp dẫn trong thu hút đầu tư vào khu công nghiệp./.
3. Kiến nghị về điều chỉnh các cơ chế, chính sách theo chu kỳ sống của KCN.
38
Tiếp thu ý kiến của các chuyên gia nghiên cứu về KCN cho thấy, để đảm bảo sự phát
triển cho các KCN, ngoài sự nhất quán về cơ chế chính sách cho các KCN nói chung, việc
điều chỉnh kịp thời một số cơ chế chính sách theo chu kỳ sống của KCN cũng có ý nghĩa
quan trọng trong việc duy trì và nâng cao khả năng cạnh tranh cũng như tính hấp dẫn của
các KCN. Chẳng hạn một KCN mới thành lập cần có cơ chế đặc biệt để thu hút đầu tư,
nhanh chóng lấp đầy KCN để nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở hạ tầng của KCN, trong
khi đó, một KCN đã được lấp đầy lại cần có cơ chế riêng nhằm tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp đang hoạt động trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh, qua đó đảm bảo sự
phát triển bền vững của các doanh nghiệp nói riêng và của chính KCN nói chung.
39
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình kinh tế phát triển
Sách cơ hội đầu tư vào các KCN ở Việt Na
40