chân thành cảm tạ quý ân nhân đã giúp đỡ cho ấn tống quyển ... ·...
TRANSCRIPT
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
1
Chân thành cảm tạ quý ân nhân đã
giúp đỡ cho ấn tống quyển đạo kinh
nầy.
Chúng tôi có cơ-duyên nhận được cuốn sách quí “Đạo-Kinh” này từ
Dì Bảy Ngọc Trâm Hương tại Cao-Đài Thiên-Lý Bửu-Tòa, San Jose,
California, USA, vào tháng mười hai năm 2010. Nhận thấy giá trị quí
báu của quyển sách này, chúng tôi phát nguyện đánh vào máy vi-tính
để có thể đưa lên mạng cho mọi người cùng đọc và nghiên-cứu. Vì
đánh máy gấp rút, sơ xuất lỗi đánh máy do đó khó có thể tránh được.
Xin quí vị độc giả niệm tình bỏ qua cho những lỗi lầm và đồng thời chỉ
bảo các chỗ sai lầm để chúng tôi có thể hoàn thiện quyển sách quí báu
này trong những lần sửa-chữa tới.
Xin chân thành cảm tạ,
Viễn Lưu, Dec/25/2010
Lễ-Giáng-Sinh năm Canh Dần.
Email: [email protected]
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
2
ĐẠO-KINH
ĐẠO kinh thức tỉnh gần xa,
Giục ngƣời mộ Đạo trẻ già tầm tu.
Tu cho thoát kiếp Diêm-phù,
Lửa lòng dập tắt thiên-thu rạng ngời.
ĐẠO lành độ khắp phƣơng Trời,
Hòa-đồng vạn-vật thảnh thơi Thái bình.
NGUYỄN HỮU ĐẮC
(CHƠN-HƠN-TỬ)
Thiên-Phong: THƢỢNG-ĐẮC-THANH
Phong-Thánh: THIÊN-LỘC-TINH
ĐỀ-TỪ
Công-to nghiệp cả trong thiên hạ, còn có gì hơn là ÁI-QUỐC và
ĐẠO-ĐỨC.
Khai quốc Đại-Vỉ Nhơn!
Cả hai, tài-đức hoàn-toàn không ai kém ai!
1. Ngoài sự Ái-Quốc và bỏ việc Nƣớc thì Đại-Vỉ-Nhơn không
còn ham muốn gì, mà cũng không vui thú chi nữa!
2. Ngoài việc Đạo-Đức và cứu Nhơn-Loại thì Đấng Cứu thế
không còn lo lắng, mà cũng không vui thích gì nữa!
Ngƣời nầy thì làm việc thực tế, chủ động; ngƣời kia thi làm việc
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
3
tinh-thần, chủ tịnh. Cả hai hành động không giống nhau, nhƣng kết-
quả cũng là một:
“GIÚP NƢỚC, CỨU ĐỜI”
1. Công-nghiệp dựng nƣớc, khai hóa dân-tộc, đáng ca, đáng
khóc, đáng biên, đáng chép thì không cứ gì một nƣớc nào!
2. Gƣơng Đạo-Đức cao-siêu hi-sanh cứu Đời, có khi phải tử vì
Đạo đặng cứu Thế, thật đáng chiêm ngƣỡng đáng tụng
niệm, đáng gƣơng cho cả nhơn-loại Thế-giới, cũng không
cứ gì một dân-tộc nào.
1. Những vị anh-hùng hào-kiệt tận-trung báo-quốc mà ta vẫn
tƣởng, vẫn mơ, vẫn sùng bái, nên kể nhƣ quí ông: Tôn-Văn
và Huỳnh-Hƣng (bên Trung-Hoa), Charlemagne (bên Pháp)
Pierre le Grand (bên Nga), Washington (bên Mỹ), Lê-Lợi,
Trần-Hƣng-Đạo, Bà Trƣng, Bà Triệu (Việt-Nam), v.v...
2. Còn những bậc Chí-Tôn Cứu-Thế mà hằng ngày ta vẫn sùng
bái chiêm-ngƣỡng tụng niệm luôn luôn, nên kể nhƣ: Đức
Thích-Ca Phật-Tổ, Đức Lão-Tử Đạo-Tổ, Đức Văn-Tuyên
Khổng-Thánh, Đức Chúa Gia-Tô, Đức Thánh Ghandhi,
v.v...
Cả hai, Thực-tế chủ-động cùng Tinh-thần chủ-tịnh cũng đều là
hùng-tâm của chí Đại Trƣợng-Phu đồng-kết quả đƣợc công-đức
muôn đời đối với Nhơn-loại.
Vậy thì, tuốt gƣơm ra mặt trận để gìn giữ biên-cƣơng Đất-Nƣớc,
cùng là thực-hành một nền Đức-Dục cao-siêu để gầy dựng tinh-thần
Dân-tộc cũng đều là công nghiệp bằng nhau.
Một công nghiệp đáng kính, đáng sùng bái mãi mãi.
Thật không uổng một kiếp làm ngƣời là Tiểu-Thiên-Địa phải có
ích-gì cho Nhơn-loại, mới không hổ thẹn cùng Trời đất.
Thế thì, đối với Tác giả quyển Giáo-Lý Đạo-Đức (Đức Kinh và
Đạo-Kinh), tôi xin để lời kính bái khen tặng và chính nhờ đọc sách
nầy mà tôi khỏi hoang-mang lo cho đƣờng tƣơng-lai nền Đạo-Đức
của Dân-tộc ta, và tấm lòng tôi đƣợc nhẹ-nhàng vui-khoẻ, không
còn phiền não gì về cuộc đời nữa. Thật rõ-ràng lời Thánh xƣa đã
nói không sai!
“Triêu văn Đạo, tịch tử khả hỉ “.
“Sớm mai nghe đến Đạo, chiều dầu thác cũng là vui”.
KỈNH TỰ
NGUYỄN- HỮU-LỢI
Pháp Danh: CHƠN TỊNH
Thiên Phong: Thƣợng-Lợi-Thanh
Thánh Sắc: Thiên-Minh-Tinh
LỜI KHEN TẶNG
Hiện thời trào lƣu thế-giới hết sức khẩn-trƣơng, thiên-hạ lâm vào
cảnh khó khăn, nhơn-tâm ngày càng thất-đạo.
May thay! Giáo-Lý Đạo-Đức trọn bộ 2 quyển Nhứt, Nhì, xuất thế
cứu Đời trụy-lạc, ắc giác tỉnh đƣợc lòng ngƣời trở về đƣờng chánh-
thiện.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
4
Hởi còn vẳng vẳng bên tai tôi: “Nƣớc-nhà mất hẳn nền Đức-dục”
Đó là lời của tác giả thƣờng nói.
Tác giả là ngƣời trí-thức tân-học, không ƣa tà-thuyết dị-đoan, chỉ
luận về việc có bằng cớ và đúng Chơn-Lý; mục-đích để giúp ích
cho đời đƣợc vãn hồi hạnh phúc trong cảnh thái-bình.
Hơn nữa, đối với xã-hội Việt-Nam, tác-giả đã lập nhiều cuộc
phƣớc-thiện đáng kể nhƣ: Sáng lập Trƣờng-học Long Thành, Sơ-
đẳng và Trung-học, hơn 20 năm giúp trẻ em khỏi nạn mù-chữ. Xuất
bản tờ báo Bảo-an, cơ-quan Đạo-Đức. Lập Bảo-an thơ-xã cơ quan
Đức-Dục. Tiếp tay vào Gia-Long Học-Đƣờng nên trƣờng nầy mới
đƣợc duy trì thêm 4 năm nữa. Khẩn 10 mẫu đất tại làng Phƣớc-An
Tỉnh Bà Rịa để giúp ngƣời học Đạo có chỗ nơi tu-tịnh.
Tác-giả xuất bản nhiều quyển sách chánh-trị xã-hội và Triết-lý
Đạo-Đức kể nhƣ: Phƣơng-Pháp-Lập-Thân, Tứ-Đức-Minh Kinh,
Đạo-Đức Kinh Chú Giải, Cảm Ứng Kinh Luận, Đạo-Giáo Siêu-
Hình Thƣợng học v.v.
Chính Tác-giả là hàng kỳ-cựu tiền-phong trong công cuộc lập các
cơ-quan Đạo-Đức và Tôn-giáo trên 30 năm trong cõi đất nƣớc Việt-
Nam.
Đáng kính thay cái Đại-chí giúp đời của Tác-giả. Thật là đáng mặt
ân-nhân của xã-hội vậy!
THI:
ĐẠO-KINH lý-thuyết rất cao sâu.
Độ dẫn Trần-ai khỏi lụy sầu.
Hai chữ vô-vi truyền hậu thế.
Kính khen Huynh ĐẮC thấu cơ-mầu.
KỈNH TỰ
HỒ-ĐĂNG-CƢ-SĨ
Pháp danh Thiện-Huệ
Phật-Huệ Tịnh-Thất
Phú-Lâm-Chợ lớn
PHONG TẶNG
Kính khen NGUYỄN ĐẮC thanh cao
Gặp nhiều tài-biến có nào lợt phai
Lòng cố gắng tỏ bày lý lẽ
Máy thiên cơ mở hé lần lần
Sơn-khê chớn chở phong vân
Tinh-thần thâm-thúy ân cần ta lo
Ta khá lƣớt xuống đò thầy chực
Những linh-căn Tây-Vức đƣợc kề
Hiệp nhau cho gắp trở về
Học thông lý-đạo mới về Thiên-Thai
Lòng mong mỏi Cao-Đai chờ trẻ
Dọn sạch lòng thầy sẽ mật truyền
Đắc thành quả vị mới yên
Mới là chứng vị Phật-Tiên của thầy.
Nay Tác-giả Nguyễn-hữu-Đắc lấy lòng từ-bi bác ái mở hé màn bí-
mật Đại-Đạo, đem Bí-Pháp Thánh-truyền để phổ thông cho ta học.
Vậy ta nên cần-chuyên học-tập thì rất có ích cho ta, rất hạnh-phúc
cho ta!
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
5
QUAN THƠ
Thái-giáo-Hoàng đề bút
Bạch-vân-Am Chợ-Lớn
TỰA
Trong quyển I (ĐỨC-KINH) Tôi có nói Đạo-Học Á-Đông rộng
minh-mông không bờ bến; kể nhƣ một bộ Toàn-Thơ Tứ-khố của
nƣớc Trung-Hoa thì không khác nào rừng-biển không ai học cho
trọn hết đƣợc.
Tứ khố là: Kinh, Tử, Sử, Tập
Kinh nhƣ Thi, Thƣ, Dịch, v.v...
Tử, nhƣ Lão-Tử, Tuân-Tử, Liệt-Tử v.v...
Sử nhƣ Sử-ký, Hán-sử v.v...
Tập nhƣ các Văn-Tập của Bách-gia chƣ-tử.
Toàn-thơ Tứ khố là một vật chí-bửu vô-giá có một không hai, bao
gồm tinh-thần Đạo-Đức triết lý siêu việt từ xƣa đến nay cả Vạn-
quốc cũng đều ca tụng.
Chỉ những các Đạo-cổ Tây-Phƣơng nhƣ Đạo Pythagore, tỉ-tổ của
học-phái khẩu-khuyết tâm truyền Hình nhi Thƣợng học
(Pythagoriciens) và Đạo Socrate tỉ tổ và Giáo-Chủ của học phái
luân lý công truyền Hình-nhi-hạ-học (Socratoisme). Hai Đạo-Học
biệt tài nầy của tây-phƣơng cũng còn thua kém Đạo-Lão và Đạo-
Nho rất xa. Bởi vậy có biết bao nhiêu là bậc thức-giả và nhà cổ
thông-minh bên Âu-Mỹ qua Tàu, qua Ấn-độ đặng truy tầm nguyên-
cội cổ-học Á-đông rồi họ mới lọc lừa đem cái chất tinh ba ra mà
ứng dụng và truyền bá tinh-thần tƣ-tƣởng cao siêu ấy lại cho nƣớc
nhà hƣởng chung. Có phải là quí báu chăng?...
Những vị thức-giả khảo-cố ấy nên kể quí ông: Fichte và Hegel
(Đức), Spinoza (Hòa-lan), Chalmer, Mosès (Anh). Léon Denis,
Allen Kardec, Camille Flammarion, Annie Besant, Augste Comte,
Henri Bergson, là ngƣời Pháp và biết bao nhiêu là Hiền-Triết Âu-
Châu bên Phƣơng-Tây nhƣ: Prel Myers, Dariès, Richet, Crookes,
Aksakof, Balsano, Comte de Cagliostro và Dr. Pellitier. v.v... Còn
nhiều lắm kể không hết sợ choán giấy vô ích.
Lấy chơn-lý mà suy nghiệm thì Đạo-học Á-đông, chánh là cái ổ bao
gồm các khoa-học của nhơn-loại trên thế gian nầy, nghĩa là bao
nhiêu khoa-học văn-minh của loài-ngƣời cũng đều do nơi đó mà
phát tích ra cả.
Đây tôi xin kể vài khoa-học ấy còn truyền tục đến ngày nay.
1. Khoa Triết-học (Philosophie)
2. Khoa Siêu-hình-học (Métaphysique)
3. Khoa Pháp-môn-học (Occultision)
4. Khoa Phẩm-vị-học (Hiéaratique)
5. Khoa Thực-nghiệm-học ( Expérimentalisme)
6. Khoa Độc-vật-học (Toxicologie)
Còn nhiều khoa-học khác rất thần hiệu không kém gì khoa-học của
Âu-Mỹ. Chỉ khác nhau là Âu-Mỹ chuyên về văn-minh vật-chất
(Chủ-động). Còn ngƣời Á-Đông thì chuyên về văn-minh tinh-thần
Đạo-Đức (Chủ-tịnh).
1.) Chúng ta phải biết rằng khoa-học đời nay dựa theo văn-minh
vật-chất, nên các Bác-Sĩ thông-minh nhờ có:
1. Khoa Giải-Phẫu-học (Anatomie).
2. Vật-lý học (Physique).
3. Hóa-học (Chimie).
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
6
Mà làm cho khoa-học vật-chất trở nên tấn-hóa đƣợc kỳ-tài thần
diệu vô cùng.
2.) Còn Đạo-cổ thì ẩn theo Tinh-Thần văn-minh, các vị Đạo-sƣ cao
kiến không kém gì Bác-Sĩ, cũng tầm ra phƣơng-pháp nhiệm mầu
nhƣ:
1.– Các cơ-trí tầm bịnh căn (Etiologie).
2.–Thần-trí Tâm-lý diệu-pháp(Pathogénie psychologique).
3.– Khoa-độc-vật-học (Toxicologie) nhờ 3 phƣơng-pháp nầy mà
Đạo-học tinh-thần càng linh diệu bí ẩn phi-thƣờng hơn khoa-học
vật-chất. (Thí dụ: Hồi đời Thƣợng Vua Trụ và Vua Võ-Vƣơng
tranh hùng. Học trò của Phái Triệt-giáo dùng hắc-khí của khoa
Độc-vật-học nên thắng nhiều trận giặc của đệ-tử Xiểng-giáo).
Âu-Mỹ lợi dụng khoa-học vật-chất mà tìm ra những món đồ lợi khí
sức mạnh làm cho long Trời lở Đất.
Á-Đông thì nhờ có tinh-thần Đạo-học, phát đƣợc sức linh-diệu ẩn-
tàng trong châu-thân con ngƣời và tìm ra cái quyền thiên-linh của
Vũ-trụ rồi mới tìm cách tu-luyện làm cho Linh-Hồn xuất ra khỏi
xác-thân để hiệp với Tạo-Hóa Thật hết sức là huyền-diệu.
Nhƣng tiếc thay các Đạo-Sƣ rất cẩn-ý không chịu truyền bá rộng
hoác ra cái phép tu-luyện bí-ẩn linh-diệu ấy, vì sợ kẻ phàm-phu tục-
tử làm hƣ danh cái Đạo Trời, và giết hại sanh-linh nhƣ đệ-tử của
Phái Triệt-giáo khi xƣa, là cái gƣơng sát-nhơn phải tránh vậy. Vì
vậy mà Khoa-học Đạo-Đức tinh-thần bị bế-tắc hơn 500 năm nay.
Nay tôi vâng lịnh Ơn-trên mở hé cho ra chút ánh sáng bí mật của
Đại-Đạo vô-vi hầu để phấn khích ngƣời thông minh trí-thức tân-học
muốn hƣớng thiện tầm thêm chơn-lý đặng mở thêm cái Đạo-học
linh-diệu Á-Đông đƣợc tấn triển cho kịp thời với sự tấn-bộ của văn-
minh vật-chất.
Bởi Học-thuật của tinh-thần Đạo-Đức hết sức rộng minh mông
huyền-diệu bí-ẩn, cho nên trong quyển Đạo-Kinh nầy, cũng nhƣ
trong quyển Đức-Kinh trƣớc, tôi xin tóm luận và sơ-giải để cho
ngƣời mộ Đạo hiểu đƣợc mà thực hành một cách giản-dị gọi là tu
tắt. Rồi chừng nào đức-hạnh đầy đủ sẽ gặp Chơn-sƣ Tiên-trƣởng
dạy thêm.
Vậy Quyển II (Đạo Kinh) phân ra thiên:
1. – ĐẠO.
2. – LINH-HỒN VÀ BẢY THỂ CHẤT CỦA CON
NGUỜI.
3. – ĐẠO BÍ PHÁP THÁNH TRUYỀN.
4. – KHẨU-KHUYẾT TÂM-TRUYỀN.
NGUYỄN-HỮU-ĐẮC
TIỂU DẪN
Ba vạn sáu ngàn ngày thấm thoát từ thuở mọc răng tới tuổi bạc đầu,
kiếp ngƣời vắn vỏi tợ phù du, khi thác về nơi tiêu-diệt biệt tích!
Trần-tục cho rằng kiếp chết là kiếp mất! Thôi thì hãy ăn chơi sung
sƣớng cho thích chí bình sanh, kẻo ngày tuổi xuân qua rồi, rất uổng
đời ngƣời.
Đó là lý-tƣởng của hạng ngƣời sống về xác-thịt; đó là hạng vô
lƣơng phàm-tục. Nếu cái xã-hội nào toàn là hạng ngƣời nhƣ thế, thì
cái xã hội ấy sẽ hóa ra hỗn-loạn, quan-quân trở nên sâu dân mọt
nƣớc; dân-chúng-sanh ra trộm-cƣớp du đãng tôi loàn, con giặc;
quốc-gia lâm vào cảnh thành sầu biển khổ...
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
7
Dè đâu ngoài cái thế-giới hữu-hình của Trần-tục, còn có cái thế-
giới hƣ-linh, trang-nghiêm và thiêng-liêng để dành sẵn cho những
ngƣời từ-thiện tu hành khi công viên, quả mảng trở về chứng hƣởng
sự an lạc đời đời trên cõi hƣ-linh ấy.
Các Tôn-giáo trên thế-gian nầy đều công nhận nhƣ thế. Vì lý do đó
mà Đạo-học Á-Đông lấy nhiều sự thật hiện có hằng cớ chỉ rõ cho
con ngƣời tin rằng: Có sự CẢM ỨNG; xác-thịt chết chớ linh-hồn
bất-diệt, và có nhiều đều ơn đền, oán trả, vui khổ với kiếp tƣơng lai.
Luật Cảm-Ứng định cái PHƢỚC và cái HỌA, nghĩa là làm lành
thì đặng phƣớc, làm ác thì gặp họa.
Đó là hai lý lẽ có bằng cớ kinh nghiệm làm cho ngƣời đời tỉnh ngộ
rất mau.
Hết thảy, các tín-đồ Phật-giáo, Nho-giáo, Đạo-giáo Thiên-chúa-
giáo, Cơ-đốc, Tin-lành, v.v... đều tin chắc rằng có sự Cảm-Ứng. Có
sự thƣởng phạt báo ứng do bởi một kiếp ngƣời, hay những tiền-kiếp
đã gây tạo ra, nên kiếp nầy có đƣợc sự ban thƣởng may mắn theo
sức mình muốn, hoặc sự huờn khổ mà ta phải mang chịu. Và tin
chắc rằng ngoài cái-thân hình-thể, có một Linh-thể bất-hoại,
trƣờng-tồn bất-diệt.
Nếu ta có chút tƣ-tƣởng, khi chán đời rồi thì ắt ta suy nghĩ hiểu
rằng: Nếu con ngƣời lao tâm nhọc xác mệt hồn trọn đời mà chỉ làm
nô lệ cho cái “ăn” cùng “sắc-dục” đến khi chết về nơi tiêu-diệt thì
kiếp sống nầy rất là vô-vị. Cái đời ngƣời rất khổ sở mà không ý
nghĩa chi, không giá-trị chi, không ích chi cho đời, thật rất hổ lƣơng
tâm, chẳng đáng làm ngƣời.
Bằng hiểu rằng: Sau khi chết Linh-Hồn chẳng chết, còn mang theo
nghiệp-quả tiền-khiên, thì ai ai cũng lo tránh những tội-ác, ráng làm
điều lành việc phải, dầu mất sự vui sƣớng nơi cõi trần-ai, thì cũng
vui lòng, vì còn dẩy đầy hy-vọng với cái kết-quả tƣơng-lai nơi cảnh
thế-giới hƣ-linh.
Luật Cảm-Ứng là CHƠN-LÝ muôn ngàn đời không thay đổi. Hễ
có CẢM thì có ỨNG, cũng nhƣ Phật-giáo nói “NHÂN” ngày trƣớc
là “QUẢ” ngày nay; nhân ngày nay là quả ngày sau, Tự mình định
lấy số mạng mình, hễ làm nhân phải thì kết quả tốt, làm nhân quấy
kết quả khổ.
Nhờ đó mà con ngƣời mất hết tánh sợ chết, lại còn có cái hy vọng
cao-xa siêu-quần, dầu ở trong cảnh thập-tử nhứt-sanh, mà cũng dám
làm cho đƣợc đều phải, đều lành và cũng vui lòng làm luôn luôn; vì
muốn hy-sanh sự sống tạm để tìm sự sống đời đời ở cõi trên. Đến
giờ sắp chết mà cũng còn hy-vọng; Bởi vậy, xƣa nay những bực
anh hùng hào-kiệt vĩ-nhơn thinh danh chói rạng, vang lừng thiên
cổ, cũng đều là hạng trí-thức có tinh-thần Đạo-Đức xem sự chết nhẹ
tợ lông hồng.
Nay ta ăn năn tỉnh-ngộ, và muốn thay đổi cái số mạng xấu ra tốt sau
nầy, thì ta phải làm sao cho cái quả tốt đi, mà muốn có cái quả tốt
thì ta phải tạo lấy cái nhân tốt.
Cái nhân tốt là gì? Tức là thực-hành Đạo-Đức!
Muốn có Đức thì làm y theo lệ-luật trong quyển ĐỨC-KINH đã
xuất bản rồi. Còn muốn hành Đạo thì học y theo quyển ĐẠO-KINH
nầy.
NGUYỄN-HỮU-ĐẮC Kỉnh-Tự.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
8
Thiên I
ĐẠO
ĐẠO là Hƣ-vô (I ' Absolu).
ĐẠO là cái Không, cái im lặng.
1. – Đạo-giáo gọi là Nhứt-điểm Nguyên-Khí (Logos).
2. – Phật-giáo cho là cái Trực giác (Intuition).
3. – Nho-giáo gọi là Đƣờng-chí-thiện (la voie par
excellence).
4. – Thần-Đạo (Shinto) bên nƣớc Nhựt gọi là Hƣ-vô
(I'Absolu).
5. – Đạo Phƣơng-Tây gọi là Nguyên-lý-độc nhứt (Oeos).
6. – Đạo Thiên-Chúa gọi là Chơn-linh-tuyệt-đích
(Âoyoc).
7. – Đạo Cao-Đài gọi là Nguyên-khí Thái-Cực (Verbum).
Đạo là thoạt kỳ-thủy thì không có gì cả, bởi cái không mà thành ra
cái có, rồi do cái có đó, lập thành ra muôn vật, nghĩa là trƣớc hết là
không, rồi tự-nhiên thành ra một vật Độc-nhất trong khoảng
không-gian, do vật Độc nhất ấy mà sanh ra muôn vật trong vủ-trụ.
Vật Độc-nhất ấy không biết gọi tên gì, tạm đặt tên nó là Đạo.
Đạo là vật tự-nhiên hổn thành ra trƣớc khi chƣa có Trời Đất, mờ
mờ, mịt-mịt, im lặng một mình trong khoảngg không-gian; ở đâu
cũng có mà bao giờ cũng thế. Không suy Viễn, không hao-mòn
chút nào; mà muôn vật trong Vũ-trụ cũng bởi đó mà sanh ra cả. Do
cái tánh đơn-nhứt của Đạo mà sanh ra Âm-Dƣơng, tức là Trời Đất.
Cái tính đơn-nhứt ấy thật là linh-hoạt.
Trời có nó mới sáng. Đất có nó mới vững, Thần có nó mới thiêng,
Vạn-vật có nó mới sinh sản ra mãi mãi.
Tác-giả:NGUYỄN-HỮU-ĐẮC
(Chơn-Hƣ-Tử)
oOo
Đạo-học Á-Đông giải nghĩa chữ Đạo nhƣ vầy:
Trong chữ ĐẠO có chữ TẨU và chữ THỦ
THỦ nghĩa là sơ-khởi đầu tiên, trƣớc hết.
TẨU nghĩa là chạy, vận hành trong mối Đạo.
ĐẠO tức là nơi khởi hành của vạn-vật muôn loài.
Vậy thì Đạo là Cội nguồn của võ-trụ, là lý độc-nhứt, tức là khí
Hƣ-vô của Thái-Cực, Vô-động mà cũng là Hữu-động nữa. Theo
khoa-học Bí pháp Tâm-truyền của Đức-Lão Tử thì Đạo là Nhứt
điểm Nguyên-Khí do nơi đó mới phân ra Âm-Dƣơng cấu tạo lập
thành Càn-khôn mà dựng nên Võ-trụ.
Bởi vậy Ngài luận chữ VÔ (Bất-động) tức là Bổn-Tánh của Trời-
Đất.
Còn chữ HỮU (Hữu-động) tức là mẹ đẻ ra muôn-loài vạn-vật.
“Vậy thì Bất-động chủ về tinh-thần, còn Hữu-động chủ về vật-
chất. Cả hai đồng phải tƣơng đƣơng hiệp lại mới sanh đƣợc Âm-
Dƣơng, và muôn-loài vạn-vật mới sanh tồn đƣợc.
Phàm ở đời hễ có đẹp thì có xấu; có lành thì có dữ; Đạo-lý mầu-
nhiệm tựa hồ nào khác: hể có TỊNH thì có Động; Trong cái
KHÔNG thì sanh ra cái CÓ.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
9
Bởi thế cho nên muôn-loài vạn-vật đều ở trong cái “ĐỘNG, mà cái
ĐỘNG là nó phát nguyên ở chốn Hƣ-vô”.
Mấy hàng trên đây cũng đủ giải-nghĩa rõ hai chữ Hƣ-vô của Đạo.
Cái lý ĐỘNG và TỊNH đồng tƣơng-hòa đối lẫn nhau khác nào nhƣ
NGÀY với ĐÊM vậy.
Đạo tức là VÔ-CỰC (PARABRAHM) = tiếng Nam Phạn, Pâli) Hƣ-
không. Ngƣời ta không thể nào lấy cái phạm-vi chật hẹp mà hiểu
đƣợc Đạo, cùng đem cái danh-từ để đặt tên cho Đạo đƣợc.
Hiouan, tức là Âm-Dƣơng gọi là lƣỡng nghi (Aditi = tiếng Pâli)
phân đồng giửa cõi Hƣ-vô, là nói có sự ĐỘNG (êtrê) và sự Bất-
Động (non-être) cùng nhau luân chuyển ăn rập nhƣ kiếng rọi hình
(subjectif et objectif).
Theo lời giản luận của ông Hiền Lý-thiết-Quả thì sự “Động và Bất-
Động (Âm-Dƣơng là Thanh-Khí tinh-ba của Tạo-Hóa. Với bãn
năng nhãn-quang phàm tục thì không bao giờ thấy và rờ đƣợc cái
chất hết sức nhẹ-nhàng ấy, Trƣớc khi muôn vật có Hình-thể sanh ra
thì ngƣời ta không biết cái NGUỒN-GỐC TỐI THƢỢNG (principe
suprême) ấy tên là gì”.
Vả lại lời hiền xƣa cũng có nói: đem cặp mắt phàm-nhơn không thể
nào nhận biết đƣợc cảnh Hƣ-vô; còn có mục kích đƣợc là các giống
chỉ thuộc về hữu-hình kia.
Ta phải biết mỗi vật chi sanh ra có thể-chất thì đều chuyển-động do
nơi sự Bất-động (Tịnh) mà ra rồi mới tạo nên danh từ tùy theo hình-
thể và sự rung-động của nó, Từ khi hỗn-độn (không có gì), cho đến
lúc biến thái đủ cả hình-trạng thì hết thảy sự ấy thuộc về quyền-
năng của một vị Chủ-Tể tức là Đấng Tạo-Hóa làm ra vậy.
Có ngƣời lầm tƣởng rằng đối với cái tiếng bất-động trƣờng-tồn có
thể gọi là ĐẠO chớ có dè đâu cái chữ ĐẠO là gom-chung cả, dầu
cho bất-động hay hữu-Động cũng là Đạo hết.
“Ông Hồ-thƣợng-Công có nói rằng: Đạo tức là cái giới hạn của sự
Hỗn-độn mà cũng là cái nguồn đầu tiên của sự vô-hình chƣa lập
nên Võ-Trụ. Cái Vô-Động ấy là cội rể của Trời-Đất; đó là cái thời-
kỳ còn u-minh chƣa định chất gì, chừng có sự Động thì lúc ấy là lúc
Âm-Dƣơng phân đồng; chững mới có hiện-tƣợng đủ cả hình-thức
và sanh ra muôn loài vạn-vật”.
ĐỘNG sanh ra là do chốn Hƣ-vô, thế ở chốn Hƣ-vô đã có một chất
bất hoại rồi; chất ấy nó có trƣớc thuộc về ở trong cõi Thiên-nhiên
của Trời vậy. Động và Tịnh cũng nhƣ một, tƣơng đƣơng đều nhau
nhƣ hai hòn núi. Ngôi vị của Trời-Đất cũng do nơi chúng nó mà có
ra. Còn cái lƣỡng-năng (Trí-Huệ) của con ngƣời cũng ở nơi sự vô-
động (Tịnh) về phần thể cách Thiêng-liêng; dầu cho cả muôn loài
vật sanh-sanh hóa-hóa ở chốn Trần-gian cũng đều tùng y theo nhứt
luật là luật “thiên diển” của đấng Hóa-Công cả thảy.
Giải-nghĩa theo môn siêu-hình thì động (être) tức là Dƣơng
(principe mâle); còn Tịnh (non-être) là Âm (principe femelle).
Trời có Âm-Dƣơng. Con ngƣời thì có sự Sống về hình-thể vật-
chất (vie matérielle) và trí-huệ thiêng-liêng (nature spir tuelle)
phối hiệp với Trời-Đất cho nên mới gọi là Tiểu-Thiên-Địa.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
10
LÕ TẠO-HÓA
Các Đấng Thiên-Liêng, các Hành-Tinh và Muôn-Loài, Vạn-
Vật.
“Trong khoảngg Trời-Đất cũng giống nhƣ cái ống thục; "mảnh trên
là Trời, mảnh dƣới là Đất, để không cũng không dẹp xuống, mà
động đến thì có hơi ra mãi không bao giờ hết”.
Chỗ không-gian ấy gọi là nơi bản-căn của Thiên-Địa và của máy
Thiên Cơ, tức đó là lò TẠO-HÓA, là mẹ đẻ ra muôn loài. Ông
Chalmer, vị Triết-học ở nƣớc Anh công nhận rằng lý-thuyết nầy rất
đúng.
Còn ông Cố-Đạo Pauthier cũng có nói: “ Đức Lão-Tử Đạo tổ biết
rõ lúc đầu tiên Càn-khôn còn hỗn-độn thì Âm-Dƣơng chƣa phân
biệt, nên vạn-vật còn ở trong vòng u-ám rồi dần dần mới có một
chất Nguyên-Khí giao-hòa phân đồng vận-chuyển đặng dƣỡng-dục
quần-sanh hóa ra muôn loài cho hạp với Thiên Cơ, đó là cái khuôn
mẫu tạo nên Càn-Khôn, vũ-Trụ ở trong nền Cổ-Đạo Phƣơng-Đông
vậy.
Bởi cớ ấy cho nên Thiên-Địa gọi là LƢỠNG-NGHI cấu tạo nên khí
Âm-Dƣơng, là lý cao sâu của Trời-Đất không thể dò ra cho đƣợc.
Không phải tại nơi cái gốc cội giữa chỗ giao-hòa phân đồng ấy mà
thôi đâu, vì theo lời ông Hồ-thƣợng-Công nói nhƣ vầy: “Vô tức là
Tịnh mà tịnh lắm phải Động, (Cực-Lạc sanh bi) Đó là máy Âm-
Dƣơng của Trời-Đất muốn phân đồng không quá, không thặng,
đặng để sanh ra muôn loài vạn-vật mới có cuộc sống sót sanh tồn
theo phép nhiệm mầu của Đấng Hóa-Công”.
Ông Hiền Lý-thiết-Quả cũng có luận rằng: “Giữa khoảng Hƣ-không
của Trời-Đất bao đầy các chất thanh-khí hết sức nhẹ-nhàng, hết sức
mỏng manh và vẫn mịn màng, song nó không phải giống nhƣ các
vật-chất ở Trần-gian. Nó vẫn chuyển động luôn không hề dứt, song
đối với con mắt phàm của ta, thì ta không thể thấy nó đặng. Loài
ngƣời nhờ đó mà sống và cũng không bao giờ nó tuyệt hết đƣợc.
Máy Thiên-Cơ tức là Đấng TẠO-HÓA vô-hình vô ảnh. Tuy là vô-
hình vô ảnh nhƣng mà biến thái muôn-hình vạn-trạng, hằng ngày
tiếp xúc với vạn-vật ở cõi Trần luôn luôn tùy theo cơ chuyển-đạt.
Ta thấy trong khoảng không-gian kia trống lỗng vô-hình và không
dò đƣợc mà nào dè đâu nơi chốn ấy có những các ĐẤNG-THIÊN
LIÊNG hành động biến cố một cách châu đáo. Trong khoảng ấy có
các dảy HÀNH-TINH nhấp nhán trong một luật tƣơng-đối hấp-dẫn
cùng nhau ăn rập với sự hành động của các Đấng Thiên-Liêng.
Chúng ta lại càng không hiểu rõ tại sao mà trong các chất không
thấy đó mà trong Trung-thinh-giới có ảnh hƣởng tiếp xúc cảm-động
đến việc làm của nhơn-loại một cách thiết-thực! Đó là cái ánh sáng
mở rộng cho các nhà Pháp-môn (les occultistes) đƣơng truy-tầm
nghiên cứu.
Bởi vậy những kẻ tu-hành đắc-quả đều có thể dùng các phép thần-
thông sai khiến đƣợc những thể-chất ở trên Hƣ-Không của Tạo-Hóa
hằng vận chuyển cả càn-khôn Võ-trụ mà ta không thể thấy bằng
mắt đƣợc. Họ không lạ gì mà không biết máy thiên-cơ là gốc vận-
chuyển Càn-Khôn võ-trụ.
Âm-Dƣơng tức là Lƣỡng-nghi, là cái hiện-tƣợng rõ-ràng của Tạo-
Hóa; ta không thể chối cãi đƣợc.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
11
Trong muôn việc của Thiên cơ-tạo thành mà ta đều thấy bằng mắt
đƣợc, hoặc nhƣ biết đƣợc, thấy đƣợc cái hoa thơm, con chim đẹp,
đó la do nơi quyền-phép tối-trọng của Đấng thiêng-liêng tùy theo
cơ chuyển-đạt rất phân-minh. Còn theo khoa Pháp-môn siêu-hình ở
trong chỗ vô-vi thì nó là chất Hƣ-không tuyệt-đích.
Nhiều vị Hiền-Triết giảng-luận giáo-lý huyền-vi nầy nói khoa Nội-
giáo bí-truyền (ésotérique) rằng: các phép tối trọng ấy đều do ở
trong Đạo-cổ là Đạo rất cao-thâm vi diệu vậy. Chính Đức Lão-tử
Đạo-tổ là ngƣời cao-nhơn đầu tiên đã từng biết trƣớc hết về khoa
bí-truyền ấy rồi; mà khoa bí-truyền ấy là Ngài hấp thọ của vua
Huỳnh-Đế ngày xƣa.(!) Bởi vậy ở chƣơng đầu về phần Đức-kinh
của Ngài có luận nhƣ vầy:
“Đạo sanh ra Một, Một sanh ra Hai, Hai sanh ra Ba, Ba sanh ra
muôn-loài vạn-vật, rồi vạn vật lại trở về với Đạo. “
Hết thảy vạn vật đều thọ khí Âm-Dƣơng điều-hòa mà sanh-sanh
hóa-hóa tùng theo nhứt-luật là luật Thiên-Diễn.
Vậy thì Đạo là vật trƣờng-tồn bất-hoại, bất-diệt; Đạo tức là lý Độc-
nhứt nguyên-thủy của vạn-vật càn-khôn Võ-trụ. Lý Độc-nhứt ấy gọi
là Thái-Cực vậy.
Rõ-ràng chốn Hƣ-vô đó là trung-tâm điểm của Võ-trụ, là cội-nguồn
của sự Vô-động và Hữu-động, là chỗ pháp Sanh-Khí Âm-Dƣơng.
Theo trong Kinh thánh, giáo-lý của Đạo-cổ thì Thái-Cực sanh
Lƣỡng-nghi, lƣỡng-nghi sanh Tứ-tƣợng. Trời Đất (Thiên-Địa) là
bắt đầu khi có ngôi Thái-Cực là 1, biến ra lƣỡng-nghi là 2, sanh ra
tứ-tƣợng là 4; Hiệp cọng thành ra 7 rồi Âm-Dƣơng mới phân đồng
cấu tạo sanh-sanh hóa-hóa ra muôn-loài vạn vật mà loài ngƣời đƣợc
hiệp với Đạo cho nên ở trong Pháp-môn gọi con ngƣời là TIỂU-
THIÊN-ĐỊA.
THIÊN II
LINH-HỒN VÀ BẢY THỂ CHẤT
CỦA CON NGƢỜI
Trời Đất có Âm-Dƣơng và Tam-bửu: Nhựt-Nguyệt-Tinh.
Con ngƣời cũng có Âm-Dƣơng và Tam-bửu: Tinh-Khí-Thần đồng
vận-chuyển trong châu-thân con ngƣời cũng nhƣ một bầu Vũ-trụ
nhỏ vậy. Bí mật của Trời là Hạo-nhiên-khí. Trong thân ngƣời cũng
có ẩn Khí-hạo nhiên.
Bởi vậy trong Pháp-môn gọi con ngƣời là Tiểu Thiên-Địa.
Tuy là chịu dƣới quyền Thiên-Liêng thống-xuất, nhƣng Thần-hồn
của con ngƣời có thể thăng-thƣợng đi ngay về cõi Thƣợng-Thiên
khỏi phải tùng theo luật Luân-Hồi chuyển kiếp của Tạo-Hóa, nếu
con ngƣời thông hiểu đƣợc Đạo, am-hiểu đƣợc cơ mầu của Đấng-
Hóa-công, biết dùng các Thể-chất trong xác-thân và diệt đặng Bản
Ngã mà điều-hòa với Đại-ngã của Vủ-trụ. Diệt Bản-ngã mà điều
hoà với Đại-ngã tức là Phƣơng-Pháp luyện-Đạo vậy.
Trƣớc khi muốn luyện-Đạo, cần phải am-hiểu Bảy-Thể-chất đầu
tiên của con ngƣời, châu-thân mình phải vận-động hô-hấp cách thế
nào cho hạp Vệ-sanh, và cho biết phân biệt mỗi Thể-chất, ứng dụng
trúng đƣờng đi nƣớc bƣớc của nó, chớ nếu làm ngang dùng bƣớng
thì chỉ là làm nguy hiểm cho thân mạng hoặc bị điên khùng, lãng
trí, có khi thiệt mạng là khác nữa.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
12
BẢY THỂ CHẤT ẤY LÀ:
1) Xƣơng cốt thân-thể (Le corps).
2) Huyết-mạch (máu) (Le sang).
3) Thận (Le mouvement).
4) Khí (Le souffle).
5) Thần (La lumière).
6) Tinh (L'association des idées).
7) Dƣơng (La volonté d'en haut).
Còn bên Âu-Châu thì theo học phái Thông-Thần-Học (Théosophie)
thì 7 thể-chất y nhƣ đây:
1) Cái xác (Corps physique).
2) Cái phách (Corps éthérique).
3) Cái vía (Corps astral).
4) Cái hạ-trí (Corps mental inférieur).
5) Cái thƣợng-trí (Corps casual)
6) Phật-thể (Corps bouddhique).
7) Kim-thân (Corps atmique).
Xin nói tắt cho mau hiểu rằng: Nếu muốn rõ về phƣơng-pháp
luyện-đạo thì ít ra ta phải kềm ý-chí đừng cho loạn động, biết tự-trị
(Maitriese de soi) lấy mình trƣớc và cần nhứt là phải hiểu đến y-
khoa, đau đâu chữa đó; thêm phải bác lảm về khoa vật lý học đặng
điều-trị lấy sanh mạng của mình. Chớ nếu không biết một tí gì nghề
y-khoa, không am-hiểu ngũ-tạng lục phủ trong thân thể mình ra
sao chỉ có nghe rồi mê-tín làm theo thì chung cuộc kết-quả chỉ có
điên khùng, có phải là hại không?
Bởi vậy về cách luyện-đạo ta chớ nên khinh thƣờng mà bắt chƣớc
làm cần theo; cần phải có vị Chơn-sƣ (Gourou) ở bên mình để
điểm đạo, chỉ mối huyền-cơ cho; mà muốn ngộ vị Chơn-Sƣ (Đức
Tiên-Trƣởng) không phải dễ, cần phải đủ đức-hạnh cho thật hoàn-
toàn mới gặp đƣợc Ngài.
Vì sự cố công gắng chí dày công-phu học Đạo tự bấy lâu nay, nên
tôi mới soạn đƣợc bộ “Giáo-Lý” nầy, cũng chƣa dám gọi là quán-
thông lẽ nhiệm-mầu, song cũng giúp ít tài-liệu cho ngƣời Đồng-Chí
mộ đạo, để tầm cái ánh sáng cho rõ-ràng, cùng là phá mê những
ngƣời tin lầm theo kẻ lợi dụng Tôn-Giáo, ám ảnh Đức Tin của các
Tín-Đồ, dắt-dìu nhơn sanh vào vòng mờ-ám!
Họ nhồi sọ Tín-Đồ đủ cách, theo tà-thuyết quái-giáo của họ bày đặt
ra có hình-thức mục đích đồ danh trục-lợi.
Vậy, muốn luyện Đạo, cần phải có 3 điều kiện tối quan trọng:
1. – Đức hạnh hoàn-toàn.
2. – Thông hiểu các thể-chất trong châu-thân.
3. – Biết cách trị bịnh.
Cách trị bịnh của Đạo-học có 2 Giáo-khoa rất cần yếu là:
1. – KHOA-ĐỘC-VẬT HỌC.
2. –THẦN-TRÍ TÂM-LÝ DIỆU-PHÁP. (KHÁP)
PHƢƠNG-PHÁP LUYỆN ĐẠO
Theo khoa Chánh Giáo trƣớc hết ngƣời luyện Đạo phải tầm kiếm
và học các Thể-chất diệu dụng trong châu-thân con ngƣời cho
đƣợc phân minh rồi mới lo tìm kiếm các mối huyền-vi nguồn gốc
của Trời-Đất; cách đó mới hạp với cơ Trời, chớ mình chƣa biết cơ-
thể trong thân mình mà lo học cái Đạo Cao Siêu, mối nhiệm mầu
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
13
của Hóa-Công trƣớc thì khác nào mò trăng đáy nƣớc! Bởi lấy chơn-
lý mà biện-luận thì sự thật là ta cần phải học các thể-chất trong
châu-thân cho đƣợc hoàn-toàn, đó là bằng cơ Giáo Khoa-học Đạo
thứ nhứt của ta, rồi mới tới Giáo Khoa Thứ nhì là cách luyện
Đạo về hình nhi thƣợng học (Métaphysique).
Chính đó là nền móng (base) giáo-lý thực-hành của khoa Đạo-học
Á Đông. Hỡi các ngƣời học Đạo hãy bền chí, chẳng nên ngã lòng vì
sự khó-nhọc, hoặc đem dạ hoài-nghi rằng các giáo-khoa dạy Đạo
không bao giờ kết-quả đƣợc. Ta hãy thực hành Đạo-Đức và khởi sự
thí-nghiệm đi, thì ta mới tƣờng chơn-giả ra sao!
Tôi đã nói rõ Khoa Tinh-Thần Đạo-học Á-Đông phát minh đƣợc
sức linh-dịu ẩn-tàng trong châu-thân con ngƣời và tìm ra cái quyền
thiên-linh của Vủ-trụ rồi mới tìm cách tu -luyện là cho Linh-Hồn
xuất ra khỏi xác-thân để hiệp với Tạo-Hóa. Thật vậy, chắc-chắn
nhƣ vậy không sai!
Điều tối cần-yếu của sự luyện Đạo là phải đoạn-tuyệt trần-duyên,
nghĩa là phải diệt trừ hết các dục-vọng trần-ai. Chính sự dục-vọng
là nguồn gốc các căn bịnh của loài ngƣời trên thế-gian nầy. Sự dục-
vọng gây ra thất-tình Lục-Dục rồi phạm đến ngũ-tạng lục phủ mà
phải sanh ra trăm bịnh đau đớn và sầu khổ của con ngƣời.
Trừ đƣợc thất-tình lục-dục thì các cơ-thể trong thân mới an-tịnh
đƣợc rồi tâm-thần mới im-lặng. Trong khi châu-thân con ngƣời
hoàn-toàn im-lặng tức nhiên Thần-hồn xuất ra khỏi sác thân, rồi
nhập trở vô; nhƣ vậy là đắc Đạo; hết sức linh-diệu.
oOo
THIÊN III
ĐẠO HỌC BÍ PHÁP THÁNH TRUYỀN
I ĐẶC-TÁNH CỦA MỖI THỂ-CHẤT CON NGƢỜI
Theo khoa Thực-nghiệm thì ngƣời đắc Đạo nói rằng: Về cách
luyện Đạo tuy là giản dị chớ rất khó khăn lắm, nào khác con tầm
kéo tơ của nó vậy.
Muốn am-hiểu về khoa luyện-đạo thì phải dày công-phu học Đạo;
trƣớc phải lo học các thể-chất diệu dụng trong châu-thân mình rồi
thời mới biết đƣợc các mối huyền-diệu ở ngoài; cho nên nhà Hiền-
triết ở Hy-lạp là ông Pythagore có nói rằng: "Ngƣời hãy tự biết
ngƣời đi, rồi sẽ biết đến Võ-trụ và các vị Thƣợng Đế (Connais-toi
toimême et tu connaitras les Dieux et l'Unvivers).
Bởi vậy ta chớ thấy sự tu giản-dị mà gọi rằng dễ. Thì đây tôi xin sơ
luận về cách thức luyện-Đạo của ngƣời phƣơng-Đông nhƣ dƣới
đây:
Châu-thân (corps) gồm cả bộ xƣơng cốt và huyết-mạch hiệp lại
thành các thể-chất con ngƣời (xƣơng-cốt tức là vật-chất hình-thể,
máu-huyết là cái xe luân-chuyển sự sống của muôn-loài vạn-vật).
Còn Dƣơng tức là thiên-ý nắm mạng-số con ngƣời. Loài ngƣời
sanh-tử cũng do nơi Dƣơng-khí là chủ-tể hiệp với Trời-Đất. Vậy
sách có câu rằng: “Trời là ta, ta là Trời”. Đức Lữ-Tổ là Thuần-
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
14
Dƣơng chơn-nhơn cũng có nói câu nầy: “Một phần Âm mà còn thì
không đƣợc đắc quả thành Tiên, mà một phần Dƣơng còn chút ít thì
ngƣời ta không-thể chết”. (Phần Âm vị tận tắc bất Tiên, phần
Dƣơng vị tận tắc bất tử). Tuy là lời ông nói lộn lạo nghe khó hiểu,
chớ phƣơng-pháp luyện-Đạo tu Tiên am-hiểu thì cũng đã đƣợc làm
Tiên phân nữa.
Dƣơng-khí, tức là sanh-khí. Còn không-khí (air) mà ta hít vào nuôi
phổi đó khác với Dƣơng-khí, vì ở trong Không-Khí có một phần
sanh-khí mà thôi. Còn Sanh-Khí là cái chủ chốt mạng vận của con
ngƣời, nó vẫn thƣờng thƣờng nuôi dƣỡng chung khắp cả muôn loài
vạn vật; bởi vậy trong mình sắt đá cây cỏ thú-vật cũng có phần khí
cả. Nên chi ngƣời ta không ăn 3 ngày cũng có thể sống đƣợc nhờ
sanh-khí ấy bảo dƣỡng trong 3 ngày đó.
Đức-Lữ-Tổ cũng còn khuyên đời một câu này rất hay: “Ngƣời ta
mà khôi phục đƣợc cái Chơn-dƣơng đã hao tán mất đi và biết
ngƣng-tụ cái Thanh-Khí lại thì đƣờng bƣớc lên cõi Tiên không khó
gì; tiếc cho ngƣời Thế-nhơn đã loạn ở trong mà muốn che ở ngoài,
vì vậy cho nên không có ai hiểu rõ đƣợc phƣơng-pháp bí truyền
đó”.
Thật vậy, phần Tinh ba (Thanh-khí) không phải là mầm-lý-trí để
mở mang trí-khôn mà thôi, nó vốn cũng là cái kho chứa các ý-
tƣởng cao-thƣợng đặng ngƣng-tụ các Thể-chất siêu-hình. Bởi vậy
Hình với Thần hiệp một (union) làm thành ra con ngƣời ở trên thế
gian nầy.
Tuy nhiên có cái xác-phàm mang cả huyết nhục dầu cho đƣợc
trong sạch tinh-tấn thanh-khiết cách mấy đi nữa thì cũng chỉ ứng
dụng theo vật-chất hữu-hình mà thôi. Còn đối với Thanh-khí ở cõi
Thiên-liêng làm sao cho bằng đƣợc, nếu muốn hiệp chung nó với
xác-thân cũng phải cần có vật chi làm trung-gian để làm cho 2 Thể-
chất ấy lạc lại. Vật trung gian nầy tức là sợi giây từ khí (lien
magnétique) mà hễ giây từ-khí nầy đứt thì con ngƣời tức khắc phải
chết liền. Vì thế trong châu-thân ngƣời ta đầy cả lằn điển lực ở khắp
thân-thể.
Còn cách vận-chuyển Tinh-Khí-Thần có 3 lối đặc-biệt rõ-ràng và
cũng khác cách không giống nhau đƣợc. Nếu ta không biết ứng
dụng làm sái cách thì càng hại vô ngăn. Bên Tây-Tạng có phái Đạo
sỉ “Yoguis” dùng cách thế ấy mà luyện Đạo gọi là “luyện Hỏa-
Hầu” (traité à la Yoga). Bởi vậy các thể-chất huyền-vi ở trong nhƣ
“Tinh-Khí-Thần” là các thể-chất tuế nhuyển tinh-anh (subtils) có
một cái lực lƣợng phi-thƣờng nếu ta biết dùng đặng thì thân ta đƣợc
thoát ra khỏi vòng sanh tử.
Còn đến nhƣ các thể-chất phụ thuộc nhƣ các điển-quang trong mình
con ngƣời mà ta biết ứng dụng thì cũng có một phần quan-trọng về
thân-thể, nhờ dùng nó mà đè nén đƣợc dục-tình và phá-tan các vật-
độc nhƣ là tham lam ích kỷ, mê-muội, nghĩa là các vật-chất mà ta
còn đem lòng dục-vọng luyến-mộng ở trần ai; nhờ ta biết ứng dụng
lý-tính mà đè nén cảm-tình. Đó là ta biết nghiệm theo phƣơng-pháp
triết-học là “Thực-nghiệm-túc” (Rigorisms) tức là học-thuyết lấy
Lý-tính đè nén cảm-tình, tắc dứt lòng dục-vọng thì Đạo-Đức của
con ngƣời mới thành-lập.
Vì nhờ thực-nghiệm theo phƣơng-pháp nầy, loài ngƣời mới mau
tấn-hóa về tinh-thần văn-minh Đạo-Đức. Chớ con ngƣời mà cứ
tranh đua chen lấn bả-lợi mồi-danh trên trƣờng đời hoài thì càng
sanh ra nhiều chứng tâm bịnh nào là rầu-lo, buồn-tủi, cho nên thân
thể bị ốm o gầy mòn, tinh-thần hao kém, xƣơng hƣ cốt lỏng, hình-
tƣớng bạt-nhƣợc.
Nguồn gốc của bịnh nhơn do nơi đó mà phát triển thì tinh-thần con
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
15
ngƣời càng ngày càng thêm trụy-lạc.
Vậy hết thảy các chức bịnh chi sanh ra đều do một chỗ trong bảy
chỗ bí yếu về thể-chất của con ngƣời bị hƣ nhƣợc. Trừ ra chỗ bí yếu
thứ bảy là Dƣơng-Khí không hƣ hao đƣợc; chỉ có cái chết bất đắc
kỳ-tử là cái chết thình lình mới có thể làm cho nó bị rung động và
kém sức, nhƣng cái chết đó không phải tại do cơ-thể hƣ hoại mà ra,
khi nào ngƣời ta bị bịnh mới làm mất sự chi phối liên-lạc với các
chỗ bí yếu trong châu-thân. Vì thế nên hết thảy mọi chứng bịnh chi
của con ngƣời đều luận chứng do có một cái nguyên nhân Dục-
Vọng từ trƣớc gieo mầm căn-bịnh mà sanh ra, cho nên mới biến ra
đủ các chứng.
Bởi vậy, học Đạo phải luyện cửu khiếu, trừ thập ác, cấm Thất-tình
Lục-Dục (xem giáo-lý tiểu học của Huỳnh Tiên Cô).
Ở trong khoa-học luyện-Đạo bí-pháp Thánh-Truyền luận rằng:
Phần Dƣơng là một Thể-chất rất yếu-điểm cho loài ngƣời vì
Dƣơng-Khí là lằng hơi đại khái giúp ích cho sự sống và thông
chuyển cả trong châu-thân con ngƣời để giúp cho ngũ tạng lục phủ
có sức vận-động hằng ngày. Dƣơng-Khí mà thông thì ngƣời mới
sống đƣợc và các Thể-chất xác-thân mới chuyển động đƣợc.
Dƣơng-Khí mà ngƣng lại hoặc tuyệt đi thì con ngƣời phải chết liền.
(Khác nào nhƣ khoa-học lợi dụng cái sức mạnh của hơi nƣớc đặng
làm cho các máy móc chuyển động nhƣ bộ máy trong thân thể loài
ngƣời vậy. Hễ hơi nƣớc hết thì máy ngƣng lập tức).
Trong thân thể con ngƣời có 3 tạng rất quí báu cần yếu cho sự sống,
là “Tinh-Khí-Thần” gọi là Tam-Bửu tức là 3 Thể-chất hết sức tuế
nhuyển tinh-anh.
Dƣơng-Khí chiếm trọn một địa vị tối yếu trong thân thể con ngƣời;
các nơi châu-thân đâu đâu cũng đều có hơi khí thông đồng để phối
hiệp liên-lạc-tinh-Thần và các Thể-chất trong thân con ngƣời. Khí
tuyệt, Tinh cũng phải rã thì con ngƣời phải chết ngay. Tuy xác-thân
hƣ hoại chớ Thần vẫn còn trƣờng-tồn.
Bởi vậy đối với sự sống thì phải có một phần “Hình” và một phần
“Thần” mà Hình và Thần phải liên-lạc nhau không thể chia lìa
đƣợc. Thần có thể sai khiến Hình đƣợc chớ Hình không thể sai
khiến Thần đƣợc. Hình là vật-chất nơi cõi tạm nên có sanh có tử,
còn Thần là Nguyên-thủy chơn-linh nơi cõi thiêng-liêng tuyệt đích
muôn kiếp ngàn đời không hề hƣ hoại; bởi vậy Tinh-Thần là vật
quí báu hơn Hình-Hài. Nếu Hình-Hài có chỗ thƣơng tổn mà Tinh-
Thần còn trọn thì vật ấy có sống lâu đƣợc, chớ còn Hình-Hài dầu
cho nó đƣợc hoàn-toàn mà Tinh-Thần rủi hƣ hoại một chút thì vật
ấy không thể thọ đƣợc.
Gẫm xem muôn vật trên thế gian nầy cũng đồng tuân ý theo một
luật Tuần Huờn tự-nhiên của Võ-trụ.
Hễ Thần lìa Hình rồi thì Thần vẫn sống độc lập nơi cõi Hƣ-Không
tiêu diêu tự toại, nhàn lạc với khí Hƣ-vô chẳng có điều gì trở ngại
cả, vì không hình nên không có diệt; không có sanh nên không có
tử. Ấy là chỗ diệu dụng của Thần-Khí, không thể nào lấy đủ tài-
liệu vật-chất gì mà cân-lƣờng và phân-đoán cho thấu-đáo đƣợc.
Khi Thần-Khí muốn chuyển kiếp trở lại cõi Trần gian thì phải
ngƣng-tụ lại mƣợn Hình và Thần hiệp một (Union) tạo nên thể-
phách tinh-anh mới mẻ làm thành một con ngƣời mới khác.
Vì lẽ đó mới có cuộc sanh-tử của con ngƣời mà trong Đạo-giới gọi
là chuyển-kiếp luân-hồi vậy.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
16
Nhờ có Sanh-Khí con ngƣời mới đi đứng nằm ngồi đƣợc thong thả
mà cũng nhờ có Sanh-Khí ấy cho nên con ngƣời mới có đủ sanh-
lực trí-khôn sáng láng, thế-thì Khí là vận-mạng của con ngƣời. Hể
Khí đầy đủ thì con ngƣời đƣợc vô bịnh.
Chớ chi muôn loài vạn-vật ở trong càn-khôn Võ-trụ càng nhờ
Chơn-Khí anh-linh hấp dẫn tƣơng-đồng mới trƣờng-tồn đứng vững
đƣợc. Loài ngƣời mà đƣợc đắc-quả siêu-phàm nhập-Thánh cũng do
nơi đó mà thành.
Còn luận về thể-chất phàm-gian thì Khí là mối tiêu-biểu cho các
nhà vận-động trên trƣờng thể-thao (thể-dục). Mỗi lần con ngƣời cữ-
động Hình-thể của mình thì Không-Khí vừa thông vào phổi và
trong tạng-phủ, giúp cho phổi nở nang và làm cho đƣợc điều-hòa
mạnh-mẽ có sức lực thêm, chuyển-vận vừa máu-huyết lƣu thông
cùng khắp trong xƣơng-gân-cốt-tủy.
Trong Không-Khí (air) có chứa một phần Sanh-Khí (Azote) và một
phần Dƣỡng-Khí (oxygène) mà con mắt phàm không thế nào thấy
đƣợc.
Nếu bàn về mặt tinh-thần thì Khí là một món diệu-dụng cho Thần-
trí. Tinh mà hiệp Khí với Thần thì kêu là “Tinh-Khí-Thần” qui
nhất chừng ấy con ngƣời đƣợc phát huệ siêu phàm nhập-thánh.
Ta cần phải biết nếu không có Khí, một mình Thần thì Thần
không định đƣợc rồi Tinh phải loạn mà hể Tinh loạn thì Thần phải
lìa ngôi vị.
Bởi vậy “Thần”, “Khí”, và “Tinh” cần phải liên-lạc chi phối hiệp
cùng nhau rất mật-thiết để làm ra cái Kho Trí Huệ đựng sự Thiên-
Tƣ (intuition) cho con ngƣời.
Vì thế ta thƣờng gọi Thần-Khí là một điểm Linh-Quang của Càn-
Khôn võ-trụ.
Còn cái thể-chất “Tinh” chỉ là vật để chứa các sanh-lực và vận
chuyển vào trong khối óc những lằng tƣ-tƣởng ý-chí tốt-xấu của
con ngƣời. Nhƣng Tinh chỉ có dùng trong lúc ngƣời còn sống hiện
tại mà thôi. Khi con ngƣời thoát xác rồi thì chất Tinh là vật vô
dụng. Chớ Thần-Khí là vật trƣờng-tồn thiên-nhiên vẫn sống hoài
hoài không hề dứt mất đặng.
Ở trong sách “Phản-khoa-Tự” (Livre du Revers) có nói rằng: nếu
muốn làm cho mình đƣợc trở nên toàn dƣơng nhƣ một bực Chơn-
Nhơn thì lợi hại lắm, là vì phải dùng cách nội-công vận chuyển hô-
hấp thanh-khí thay đổi cơ-thể trong mình, mà nếu không biết dùng
làm sái đƣờng thì phải nguy hiểm đến tánh mạng Dƣơng-Khí chỉ là
một vật hiện-tƣợng vô-hình của cõi hƣ-linh, bởi vậy nếu không biết
phƣơng-pháp dùng nó rồi làm mất đƣờng lạc nẻo thì thân mạng nan
tồn, ta nên để nó yên theo luật Tự-Nhiên của Tạo-vật. Còn nhƣ
muốn rõ cách thức thì phải nhờ có vị Chơn-Sƣ chỉ dạy luật Sanh-
mạng cho thì mới khỏi nguy đến tánh mạng.
Nên ở đây tôi xin tiếp luận một phần-về các thể-chất vận-động
Thanh-khí vào trong châu-thân loài ngƣời phải làm sao cho thuận
hạp với luật Tạo-Hóa, những cơ quan hữu-hình để lập thành nền
cơ-thể về xác-thịt của con ngƣời mà thôi.
Tuy vậy tôi cũng tùy sức mà bày-giải sơ-lƣợc qua về cái nguyên-lý
của Âm-Dƣơng (nguyên-lý tƣơng đối có tánh cách về vạn-vật
sanh-lý, nghĩa là cái gì thuộc về nóng hay lạnh, khô hay ƣớt, là do
cái nguyên-lý của Âm-Dƣơng cấu tạo).
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
17
Âm-Dƣơng là cái nguyên-lý tƣơng đối, nghĩa là bao giờ cũng đi đôi
với nhau. Ngƣời phát-minh ra môn Siêu-Hình bí-pháp là Đức Phục
Hy (Fohi), môn ấy là cái nền tảng về Khoa-Học Triết-lý Siêu-Hình
của ngƣời Trung-Hoa - Trong sách ấy, ngƣời ta có bày-giải hết thảy
cả chi nhánh về các thứ khoa-học trên thế gian, luận-lý rất minh-
bạch xác-đáng lắm. Tới bây giờ các nƣớc Văn-minh ở Âu-châu còn
đƣơng tầm kiếm môn bí-pháp ấy.
Cái xác-thân của con ngƣời là một bộ-phận thuộc về huyết-nhục, đó
là cái màu-sắc giả-hình bề ngoài do con ngƣời mƣợn để học-hỏi sự
tấn-hóa của mình ớ thế-gian và kinh-nghiệm đƣờng đời vật-chất mà
gầy-dựng nên một Linh-Hồn hoàn-toàn tấn-hóa cũng nhƣ ta dùng
y-phục tạm mà mặc đở, có ngày cũng phải rách-rả; ta cần phải thay
đổi lại cái khác; song tuy nhiên luận về hình-hài xác-thịt cũng đồng
tƣơng-đối với nguyên-lý của khí Âm-Dƣơng tạo thành mà ra.
Ngày xƣa trong sách có nói bà Nữ-Hoa luyện đá và trời, đó cũng là
câu ẩn ý nói về Âm-Dƣơng tƣơng đối.
Hết thảy các thứ hơi chi do lỗ chƣn lông của xác-thân con ngƣời
bay xông ra ngoài, đều do có một sự vận-động ở trong mà hóa ra tự
nơi bộ máy của sự vận-động ấy là bộ Thận, tức là cái lò để vận-
chuyển các mạch-lạc; chính nó là chủ của sự bài-tiết (xua đuổi) các
thứ hơi bên ngoài, và nó cũng dùng để thông-lƣu các thể-chất thuộc
về hạ bộ.
Bộ Thận chia ra hai phần: Một thứ để làm trung gian cho các thể-
chất khác, nó gọi là Thận-Thủy. Đó là phần thuộc về Âm của
nguyên lý tƣơng-đối.
Còn một phần kia thì thuộc Hỏa. Về luồng Hỏa cũng có một sự vận
chuyển riêng của nó. Và sự vận chuyển ấy cũng có một nơi làm căn
bản gọi là Thận Hỏa. Luồng Hỏa tự vận chuyển đƣợc là nhờ bởi
Khí Tiên-Thiên nếu không có Khí ấy thì các bộ máy trong cơ-thể
không tài nào vận-động liên tiếp đƣợc; trong lúc vận-động thì
Luồng Hỏa là một cơ quan chánh-thức của châu-thân vậy.
Muốn cho phần Dƣơng hiệp với phần Âm cho đƣợc sung-mãn, thì
bộ Thận cần phải vận-chuyển Thủy Hỏa ký tế.
Do đó mà Không Khí (air) vào trong châu-thân đƣợc thanh-sảng
một cách bình-thuờng, và cân đồng ngay một phần số tƣơng-đƣơng
ở trong bộ Thận, rồi Thần mới đƣợc minh-tỉnh phát-sánh ra trí tuệ.
Không khí ấy thấm-nhuận vào mạch máu, rồi vận-động lƣu-chuyển
khắp xác-thân (chỗ căn-bản của khí vận-động là bộ Phổi) mà cái
nguyên-lý Âm-Dƣơng nối tiếp vào phần Âm thuộc về hạ bộ là nhờ
bởi sự vận chuyển liên tiếp (chỗ căn bản sự vận chuyển ấy là bộ
Thận) và bộ Thận tiếp xúc nhau là nhờ bởi Khí Dƣơng nên nó mới
đƣợc điều-hòa một cách bình phu; sự vận chuyển điều hòa nầy cứ
theo mức độ Thủy Hỏa mà liên tiếp hoài, bởi vì Thận bên trái thì
thuộc về phần Âm mà Thận bên mặt thì thuộc về phần Dƣơng,
Thủy Hỏa cứ phải xứng hợp và quân bình nhau luôn, đó là cái
trạng-thái làm cho cơ-thể con ngƣời có đƣợc phần sanh-lực, thì xác-
thân mới đƣợc bình an và đƣợc khỏe mạnh.
oOo
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
18
II
TRẠNG THÁI HÌNH THỂ
LỜI NÓI ĐẦU
Dƣới đây tôi phát họa Trạng-thái Hình-thể của con ngƣời còn sống,
trong khi ngủ, lúc chết và luyện Đạo xuất Hồn, hầu để giúp một
phần sáng kiến cho những ngƣời luyện Đạo rồi mà chƣa thấy ấn
chứng.
SỐ I
TRẠNG THÁI HÌNH THỂ
Trong lúc con ngƣời còn sống
Tôi phát họa vẽ ra cái bản-đồ số I rất giản dị để chỉ về “đời sống”
của con ngƣời trong lúc bình thƣờng cho dễ hiểu, mà dƣới đây tôi
tóm-luận lại ít điều đại khái nhƣ vầy:
Theo nhƣ bản-đồ đó, thì ngƣời ta nhận biết đƣợc rõ-ràng trong
châu-thân con ngƣời có bảy Thể-chất bí yếu liên thuộc với nhau
rất có thứ tự, mà sự liên thuộc của các Thể-chất ấy đều một mực
nhƣ nhau và mỗi Thể-chất có một đặc tính khác nhau; nhƣ sự phối
hiệp của Tinh Khí và Thần, đó là chỉ về những sự ảnh hƣởng và
cần yếu của ba thể làm cho thân con ngƣời đƣợc trở nên khỏe
mạnh.
Cái thể-chất đứng ở phía trên cao hơn hết là bộ xƣơng cốt mà nó
dính liền với sáu Thể-chất ở dƣới một cách trực tiếp; còn Thể-chất
chót là “Dƣơng” chỉ dùng cái Ý-Chí chánh-thức riêng của nó mà
thôi, chớ theo nó không có phụ thuộc một Thể-chất nào cả; và
ngƣời ta nhận biết rằng: cái Thể-chất cuối cùng ấy có tính chất hòa-
đồng hết thảy, nó liên thuộc mật thiết với toàn châu-thân trong
ngoài một cách gián tiếp nhƣng các Thể-chất kia không liên thuộc
đƣợc với nó, nó chỉ đứng biệt lập riêng ra một ngôi vị tùy cảnh của
nó.
Theo về khoa-học luyện Đạo Á Đông nói rằng: Chất “Dƣơng”
thuộc về khí “Tiên-Thiên” có những mẹo luật tối trọng hệ và mảnh
liệt hơn các Thể-chất khác và ngoài cái bình giả tạm mà chúng ta
thƣờng gọi là xác-thân, thì ngƣời ta cho biết rằng còn một Linh-thể
chơn thiệt có thể sống đƣợc trƣờng-tồn vỉnh viển, chớ không phải
cần có xác-thịt nầy mà con ngƣời mới sống đƣợc hoàn-toàn đâu;
Linh-thể đó tức là Thần thuộc về khí “Hạ-Thiên” vậy.
Cải bản-đồ số I ấy là cái gốc rễ về hình tƣớng của con ngƣời, để dễ
hiểu mà giác luận viết ra đƣợc đủ mọi cách thức về khoa “Thần-trí
Tâm Lý Diệu Pháp”. Vì nếu nhƣ có một chứng bịnh nào xảy ra,
thì ngƣời trị bịnh có thể tự đem bản-đồ ra mà xem xét, tra cứu, thiệt
nghiệm coi bịnh đau ấy căn cứ ở tại đâu ? Trƣớc hết xem cái căn
thể của nó ở tại chỗ nào? Trong cơ-thể coi nó thiếu Hỏa hay nhiều
Hỏa, rồi tùy theo cái máy vận-động mà tăng thêm Hỏa hay gọi là
Điển Quang cùng hoặc giảm bớt cái nhiệt độ cho đƣợc điều hòa, rồi
xem đến gốc bịnh của nó phát sanh tại đâu? Sau hết tìm đến cái
Thể-chất nào ở châu-thân bị hƣ nhƣợc, thì ra tay điều-trị riêng ngay
chỗ đó. Về sự tra-xét theo khoa “Thần-trí Tâm lý Diệu Pháp” coi
trong cơ-thể thì biết rõ căn bịnh hơn là xem xét mạch lạc ở ngoài
xác-thân.
Bởi vậy hết thảy những lực độ bình thƣờng thuộc về “đời sống”
của con ngƣời đều rút tóm cả vào trong bản-đồ số I; theo bản-đồ
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
19
nầy có thể trị bịnh nhân mạnh đƣợc. Cái phƣơng-pháp điều-trị bịnh
nhân cũng giống hệt nhƣ cái qui tắc của những bản-đồ trị bịnh mà
các nhà Y-sĩ đã các nhà Y-sĩ đã vẽ ra dùng để kê cứu bịnh nhân
vậy. Cứ theo cái bản-đồ Hình-thể chỉ về lúc con ngƣời còn sống
đem ra tra-xét thì biết ngay cái lực độ bình thƣờng trong cơ-thể của
ngƣời đau ra sao? Ta chỉ xét nghiệm riêng về Thể-chất nào có can
hệ đến bịnh nhân mà thôi; thí dụ nhƣ cái nhiệt độ của bịnh thay đổi
về bực nào; hoặc sự điều hòa của nó có gián đoạn bất thƣờng nhƣ là
bị chậm chạp, bị giảm thiểu hay là tăng đã; rồi theo phƣơng-pháp lý
luận mà điều dẫn cái Thể-chất bị hƣ nhƣợc ấy cho đƣợc cân đồng
điều hòa với sức vận chuyển của nó nhƣ vậy thì toàn cơ-thể sẽ đƣợc
trở nên bộ máy hoàn-toàn thời con ngƣời mới đƣợc vô bịnh. Nếu
trong bộ máy cơ-thể mà có một cái bị hƣ, thì toàn thể đều bị ảnh
hƣởng hết. Lúc đó phải đem bản-đồ ra tra-xét, nếu mắc phải bịnh gì
thì phải cắt nghĩa cho minh-bạch hoặc bằng lời nói hay bằng bút
tích; chừng đó mới đem ra thực nghiệm bịnh nhơn thì bịnh nhân ắt
mạnh đƣợc liền.
Phƣơng-pháp nầy là cách trị bịnh của các Vị Tiên Trƣởng phát
minh ra để dạy đệ tử trƣớc khi dạy cách luyện Đạo.
Ngƣời ta xét về Bản-đồ Hình-thể mà biết đƣợc khoa mầu luyện Đạo
cũng đủ chứng tỏ ra rằng Đạo-lý của ngƣời Phƣơng Đông (Á Châu)
là siêu việt, không phải chỉ riêng thờ phụng về chủ nghĩa Thần
quyền đâu (Panthéisme).
SỐ 2
TRẠNG THÁI HÌNH THỂ
Trong lúc con ngƣời ngủ, Thần xuất
Tôi đã luận rõ về kiếp sống rồi, nay tôi xin vẽ “bản-đồ” số 2 và số
3 để luận ngoài sự sống của con ngƣời nghĩa là trong khi ngủ,
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
20
trong hồi mặt tƣởng để hiến cho ngƣời luyện Đạo đƣợc hiểu rõ hơn
nữa.
Nói về trong giấc ngủ tự-nhiên của con ngƣời (còn giấc ngủ ép
buộc thì có nhiều cách khác nhau). Đây chỉ nói về giấc ngủ tự-
nhiên khi ban đêm; khi ngủ thì huyết-mạch chạy chẩm rãi trở nên
hòa huỡn rồi lần lần yếu bớt, còn các lằng tƣ-tƣởng đều tan mất
hết. Thần xuất ra khỏi xác-thân. Ta hãy coi nơi “bản-đồ Hình-thể”
số 2, 3 thì ta hiểu rõ: Trong khi con ngƣời ngủ, về phần vật-chất thì
cái Hơi Khí trong phổi giảm lần, còn máu huyết trong tim (Tâm)
chạy chậm lần lần. Về bên Thần-trí thì Thần và Khí hiệp nhau
thành Thần-Khí tức là cái Vía rất tuế nhuyển tinh-anh và xuất ra
khỏi xác rất lẹ làng.
Vã chăng trong giấc ngủ thì Thần không thể hiệp với Tinh đƣợc
nữa, tách lìa Tinh ra để một mình Tinh ở lại nơi Hình-xác, vì Thể-
chất của Tinh-không có dấu chỉ dính dấp đến sự ngủ của con
ngƣời. Lúc con ngƣời nghỉ-ngơi là lúc Thần không còn phận sự
nhƣ hồi con ngƣời còn thức hoạt-động, nên chi lúc ngủ nó phải xuất
ra khỏi xác-thân liền đặng cũng nghỉ-ngơi nơi cõi Hƣ-Linh, chớ
không còn trú ngụ ở trong thân con ngƣời nữa.
Khi xuất ra khỏi xác rồi thì Thần-Khí không còn liên thuộc chi với
Tinh và không còn ý chí gì nữa; cho nên nó cỡi mây lƣớt gió, tiêu
diêu đảnh Thứu non bồng, tự toại 4 phƣơng trời, nhàn lạc nơi chốn
Hƣ-Không.
Bản-đồ Hình-thể số 2 về giấc ngủ đó thì tôi miêu tả thêm ra cho
biết về lúc ngủ mộng hay là chƣa đƣợc thức tỉnh (Inconscient) nơi
cõi Trung giái (plan astral). Ban ngày ngƣời ta đem lòng dục-vọng
tƣ-tƣởng một vật chi thái quá hoặc để trí nhớ một điều nào đã qua
rồi, khi ngủ nó tạo ra hình ảnh ở trong cái vía, thành ra mộng
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
21
(chiêm bao) y nhƣ vậy, khi tỉnh giấc cũng còn nhớ lại mơ màng
những đều đã thấy ở trong cõi mộng.
Cũng có nhiều khi ta nằm mộng, gặp nhiều tin dữ, hoặc thấy bị
cháy nhà, té sông, té cây, ma nhát quỉ đè v.v... đều gọi là Ác-mộng
(Cauchemar) tục kêu là mộc đè. Ấy bởi tại nhiều duyên cớ nên ta
nằm mộng nhƣ vậy; một là tại có khi ăn no quá, đồ ăn chƣa kiệp
tiêu hóa nơi dạ dầy, cho nên Thể-chất trong mình coi khó chịu; hai
là tại lúc ta nằm ngủ bị cấn vật chi trên mình làm cho máu huyết ứ
lại chẳng vận chuyển đƣợc thành ra phải gặp nhiều cái mộng hung
dữ ấy, chớ chẳng có đều chi lạ mà phải đi đoán xâm đoán mộng cho
biết hung kiết làm gì thành ra dị-đoan vô ích.
Bởi vậy ngƣời tu hành luyện đạo lúc buổi cơm chiều họ không khi
nào dùng, để bụng trống đặng tham thiền (Méditation) cho dễ. Ta
cũng thƣờng thấy Thầy Sải Cao-Miên dùng cơm đúng ngọ vì lẽ đó.
Mỗi khi con ngƣời đang ngủ, cái Vía (Corps astral) xuất ra khỏi
xác, và nó thƣờng chỉ lẫn quẩn theo chung quanh cái xác không
dám đi đâu xa là bởi nó còn khờ dại và liên-lạc với cái thân nhờ tiếp
xúc bởi một sợi giây từ khí (lien magnétique) làm trung gian.
Còn ngƣời luyện Đạo đắc quả biết Xuất-Thần (dédoubler) thì dùng
cái Vía đi thần du khắp chỗ nơi xa xuôi đặng; mà trƣớc khi đi họ
làm cái Vía giả bằng một chất thanh khí theo cõi Trung-giái bao
bọc khắp xác-thân rồi họ mới cỡi mây tƣớc gió tiêu diêu tự toại
khắp đầu non cùng gốc biển.
Về sự luyện Đạo nầy có 2 bực:
1. Một là bắt đầu luyện có Dƣơng-Thần ở xác, mà làm nội thân
(Immanence) làm cơ chuẩn (Postulate) nghĩa là: phải đoạn trừ
những các sự ham muốn vọng tƣởng của xác-thịt (cái ham muốn
vọng tƣởng đó gọi là Âm-Thần); phải luyện cho tiêu-diệt chẳng
còn một mãi sự ham muốn chi, tâm tánh đƣợc tự-nhiên, nhƣ nhiên
(Tức là thâu đƣợc Dƣơng-Thần).
2. Rồi sau mới luyện xuất Dƣơng-Thần. Duy có cách nầy tuyệt
diệu hơn hết, là tập “Thai tức”. Phƣơng-pháp nhƣ sau đây: lấy ý
chí (volonté) điều hòa hơi thở - ban đầu còn thở dài và mạnh, tập
quen thỉnh thoảng thở hơi vắn và êm, dịu lần tới nhẹ-nhàng phái
phái, có thở nHƣ-Không thở rồi mới lấy tƣ-tƣởng đem cái Linh-
Khí của Võ-trụ ngƣng-tụ lại nơi Đơn-điền miêu miêu chẳng giứt
nhƣ loài trập trùng trong lúc mùa Đông; lâu ngày ngƣng kết lại
thành một điểm “Linh Minh”. Đó thật là cố công, có công-phu lắm
mới đắc quả đƣợc. Rồi phải học tập cách sao khiến điểm “Linh
Mỉnh” ấy, vận chuyển khấp cả châu-thân hoặc ra khỏi xác hiệp Một
dung hoà cùng Đại Linh (Tiên-thiên khí) mà thần du trong Võ-trụ
biến hóa vô cùng, sớm dạo non Nam, chiều chơi biển Bắc. Đó là tới
thời-kỳ đạt đƣợc máy Thiên-Cơ, lẽ nhiệm mầu của Đức Hóa-Công
vậy.
Hể Thần-Khí mà xuất ra khỏi xác-thân rồi, thì cái xác chỉ là vật vô
dụng, nên ngƣời ta hay nói giấc ngủ chết, thật vậy; bởi đó cho nên
ngƣời ta trọng giấc ngủ lắm; hể khi nào ngƣời ta ngủ mê thì ít ai
dám phá khuấy động chạm mạnh. Nhƣ muốn kêu thức dậy thì phải
kêu nhỏ nhẹ êm thấm đừng làm giựt mình; nếu ta đánh thức một
cách bạo động lớn tiếng thình lình quá e cho có sự hại, vì ngƣời
đang ngủ mê Thần-khí (vía) xuất ra khỏi xác còn đƣơng vớ vẫn,
nếu mình làm cho ngƣời ta giựt mình một cách thình lình thì Thần-
khí nhập xác-thân không kịp hoảng hốt thành ra hại to, hoặc nó làm
cho ngƣời ta phải bị điên khùng mất trí và nhiều khi phải chết luôn
nữa.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
22
Theo khoa sinh lý học (physiologie) ngƣời ta cũng đồng nhận và
khảo cứu đã lâu rồi, ý nhƣ vậy không sai nhà Hiền Triết Pháp-quốc
là ông Montaigne (1533-1592) cũng bình luận giống y một cách
thức. Ông cho rằng: “nhứt là đối với đám trẻ thơ lúc đƣơng ngủ mê
nếu la lớn tiếng làm cho chúng nó giựt mình thì chúng nó xính vính
kinh hồn gọi là hoảng vía mà nguy đến tánh mạng nó. Vả chăng
Hồn (âme) của mấy đứa nhỏ mới đầu thai nhập xác thì những hồn
ấy nó còn đƣơng vui vẻ và vẫn-vơ nơi cõi Trung giái hoài, chƣa có
thiệt nhập đủ vào thân nó, chừng đúng 12 tuổi sấp lên thì chúng nó
mới đầy đủ Thần-Khí. Lúc đứa nhỏ còn mang ở trong thai thì cái
điểm Linh-quang chƣa nhập vào hình hài Thể-chất của đứa nhỏ:
khi nào đứa nhỏ ra đời (lọt khỏi lòng mẹ) thì Thần-Khí mới nhập
liền vào xác-thân đứa nhỏ, song nó chƣa nhập trọn, cũng còn vơ
vẫn nơi cõi Trung giái (Plan astral) hoài là vì cái vía mãng còn ham
vui nơi trên cảnh ấy, cho nên ta thƣờng thấy mấy đứa con nít khi ở
trong nôi lúc ngủ chúng nó hay chơi dởn và cƣời trửng nơi miệng,
đó là vì chúng nó còn ham thích tƣởng mộng ở trên cõi Hƣ-Linh,
mà ngƣời đời cho rằng là các mụ bà dạy bảo chúng nó vậy. Bởi thế,
cho nên Linh-khí của trẻ con chƣa thật đầy đủ, nếu ta muốn đánh
thức trong giấc ngủ mê của chúng nó thì ta phải kêu nhỏ nhẹ êm tai
nhƣ tiếng đờn thì mới đúng phép Vệ Sanh và bảo tồn đƣợc vô hại.”
Tại sao lạ vậy? Là vì theo lẽ dƣới đây:
A. Tôi xin luận về khoa Sanh-lý học (physiologie) nhƣ vậy: Về
phần Thể-chất hữu-hình thì khi ta đánh thức cách bạo động đó là ta
làm cho Hơi-khí trong phổi và huyết-mạch trong tim (tâm) đƣơng
hòa huởn êm ái thình lình bị kích thích một cách quá ƣ mạnh mẽ
làm cho cả điển-lực trong xác-thân phải rung động chuyển xây tức
tốc và bị tán loạn bậy bạ khắp cả.
Đang khi đó cái vía thuở nay xuất nhập trong xác-thân nhẹ-nhàng
quen theo lối cũ đƣờng xƣa, rồi nay thình lình bị một vật chi liên
động bất ngờ nên vụt nhập vào xác gặp lúc Hơi khí và điển lực tán
loạn không có trật tự điều hòa nên thành ra Thần-Khí nhập càng vô
sái đƣờng đi mà làm cho các giây thần kinh hệ (système nerveux) bị
ngƣng trệ và nhiều khi con ngƣời bị ứ máu lại chết lập tức.
Thì đây ta thử để ý đến điều nầy thì ta dƣ biết ngay, là đang khi ta
ngủ mê mà có ai rủi đánh thức ta thình lình quá, tuy ta thức dậy rồi,
nhƣng ban đầu ta còn mơ màng chƣa thật tỉnh giấc còn ngây ngất
trông ra dáng ngƣời mệt nhọc lắm, kế một lát lâu ta mới định-trí
tỉnh Hồn đƣợc.
Còn nếu ta thử lấy kim chích vào xác-thân của kẻ đang say giấc ngủ
thì ta liền thấy kẻ ấy giựt mình hoảng hốt chổm dậy ngay, nhƣng
chƣa biết đau đớn là chi, và mình ở chỗ nào, ngơ ngáo một lát lâu
rồi mới định-trí tỉnh hồn biết đau và hiểu biết mình bị ngƣời ta
chích. Đó là ban đầu xác-thân cùng tổng huyết-mạch bị động thình
lình rồi mới kích thích ngay đến cái Phách (corps éthérique) kế
sang qua đến cái Vía (corps astral), chừng cái Vía nhập trọn vào
xác-thân (corps physique) thì kẻ ấy mới định-trí và biết đau cùng là
đƣợc hiểu mọi lẽ vừa đã xảy qua đó.
Còn nhiều cách thí nghiệm mà các nhà Thôi Miên (Les
hypnotiseurs) và các vị Truyền thần (Les Magnétiseurs) dùng cách
thức thâu thần đặng coi cái Phách và Vía của ngƣời trong khi đau
ốm ra sao?
Bên Âu-Châu có hai vị biệt tài về khoa nầy là ông Charles Lancelin
và Henri-Durville dùng nhiều phƣơng thí nghiệm về cách thâu hồn
đoạt phách v.v...
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
23
Phải biết rằng trong khi hoãng hốt ấy, thì tổng huyết-mạch trong
châu-thân vận chuyển tán loạn và các giây thần kinh hệ bị kích
thích dữ dội và rung động khắp cùng thân thể làm cho xác-thân của
con ngƣời khó chịu lắm, vì trƣớc khi cái Vía nhập vào cái xác vội
vàng tức tốc quá làm rung động cái Phách, cho nên cái Phách rút
sanh-lực (1) vô cái Xác không kịp, thành ra con ngƣời lúc đó ngó
coi ra dáng lạ lùng lắm. Phải biết rằng cái Phách là một Thể-chất
để dùng rút sanh-lực đặng nuôi cái Xác, nhờ vậy con ngƣời mới
biết cảm xúc đuợc.
B. Về khoa Tâm Linh (Spiritualisme) cũng có luận giải rành rẽ nói
rằng: cái vía (Thần-Khí) có cái thiên tƣ rất đặc biệt là nó biết nhìn
cái xác-thân nào của nó rồi nó mới chịu nhập vô. Thật vậy mấy
ngƣời biết luyện Dƣơng-Khí, nghĩa là biết cách Xuất-Thần
(dédoubler) khi ra khỏi xác-thân thì nhìn biết xác (corps physique)
của mình một cách rõ-ràng và thấy đƣợc cả các vật ở chung quanh
mình nhƣ bàn, ghế, tủ v.v... chiếu ra màu sáng nhƣ con đom đóm
vậy (legérement lumieux). Mỗi khi cái vía xuất ra khỏi xác thì nó
nhìn kỹ cái hình trạng của xác rồi nó mới đi vào cõi Hƣ-Linh Trung
giái mà ngơi nghi. Còn mỗi khi nó trở lại nhập xác thì nó cũng xem
xét lại kỹ lƣỡng nếu phải thiệt là hình trạng cái xác của nó thì nó
mới liền chịu nhập vô; nhƣợc bằng không phải thì nó không hề chịu
nhập đâu.
Bởi vậy trong khi mê giấc; thử ai khuấy chơi đổi quần áo, hoặc vẽ
đen đỏ bay rằn rựt nơi mặt của ngƣời đƣơng ngủ đổi hình dạng ra
khác cách rồi đánh thức ngƣời ấy dậy, thì ngƣời đó chổi-dậy một
cách kỳ quái hoảng hốt, ngơ ngáo, đó là tại tâm linh biến đổi nên
phải phát tiết đâm ra chứng lạ kỳ, thần-trí lộn xộn mới phát ra điên
khùng mất trí khôn v.v... Tại sao lạ vậy? Là tại hồi cái Vía về nhập
vào xác thì nó nhìn thấy hình dạng của xác nó đổi thay khác thì nó
tƣởng là không phải xác của nó, nên nó sợ không dám nhập vô, cứ
lẩn quẩn chung quanh cái xác hoài và không chịu nhập trọn vào
xác. Dầu có nhập vào đi nữa thì phân nửa mà thôi. Vì thế xác-thân
ấy tuy đi đứng nằm ngồi đƣợc mà coi bộ lơ láo không nhứt định
vào đâu. Nguời ta thƣờng gọi là kẻ mất hồn mất vía là vậy đó.
Bởi vậy cho nên khi xƣa có luật-hình nghiêm cấm không ai đƣợc
phép vẽ mặt mày của ngƣời đang ngủ mê; nếu ai phạm tội ấy sẽ bị
trừng phạt một cách rất nặng-nề về tội phá khuấy Tôn giáo và sẽ bị
xử lƣu là khác. Thật là một luật hình trang nghiêm thuộc về Lễ giáo
vậy.
SỐ 3
TRẠNG THÁI HÌNH THỂ
Trong lúc con ngƣời trầm tƣ mặc tƣởng
Bản-đồ số 3 chỉ về lúc trầm mặc. Trạng-thái nầy là sự mê-mang
hoặc bị thâu thần hay chết-giả, vì những lúc đó con ngƣời bị kích
thích ở ngoại giới mà sanh ra, nên mấy Thể-chất bày ra rõ-rệt nhƣ
trong bản-đồ số 3 chỉ cho ta biết trong lúc ấy con ngƣời đang ở
trạng-thái mê-mang. Trong lúc trầm mặt thiêm-thiếp mê-mang ấy,
thì các mạch máu chạy rất chậm chạp, cũng có khi ngƣng hẳn lại
một chốc lát.
Các bản-đồ mà tôi phát định vẽ ra những dấu chỉ ấy là cốt ngoại ý
mong cho ngƣời đời xem cho hiểu biết căn bịnh ngay, khỏi phải
luận đoán mất nhiều thời giờ . Lúc mạch máu bị ngƣng thì Thận-
Thủy chịu ảnh hƣởng một phần hơi Khí còn lại ở trong lá phổi
(Khí-Phổi), lúc nầy cái căn bản ở nơi Thận-Thủy không còn ích lợi
gì và nó cũng không hoạt-động tự-do đƣợc nữa, nên phải chịu giảm
thiểu. ________________________
1. Tiếng Phạn gọi Sanh-lực là Prâna (ou globule de vitalité sanh-lực).
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
24
(Vì thế trong lúc trầm mặc là lúc thiếp mê, con ngƣời bị mất hết
động lực cảm giác, lúc nầy cái trạng-thái bề ngoài giống hệt nhƣ lúc
chết vậy). Còn phần bên kia thì Thận-Hỏa bị Chơn-Khí lên quá
mức độ nên làm cho nó nóng quá và sức mạnh cao hơn lúc bình
thƣờng. Vì Thủy là Chơn Âm còn Hỏa là Chơn-dƣơng cho nên
lúc nầy nhiệt độ trong cơ-thể tăng lên nhiều; và Thần-Khí đáng lẽ
hiệp thành một, mà lại biến thành ra hai đƣờng thông lƣu với não
cân, rồi sanh ra một thứ nguyên động lực trong châu-thân giống in
nhƣ lúc nhiệt độ đã bị hồi suy kém mà còn sung khởi lên nữa, nhƣ
hình các Thể-chất đã vẽ ở trong Bản-đồ đó vậy.
Nhƣ cái bản-đồ Hình-thể số 1 về “đời sống” giống tựa nhƣ bản-đồ
Hình-thể số 2. Theo Bản-đồ số 2, thì cái diệu dụng và sức vận-động
của Khí-Phổi trong giấc ngủ cũng tƣơng đƣơng nhƣ cái diệu dụng
và vận-động của Khí-Phổi trong lúc sống bình thƣờng. Nhƣng
Thần không có thể biểu lộ bằng Hình-thể đƣợc, vì nó chỉ do bởi
cảnh vô-hình mà vận chuyển với các Thể-chất thuộc về hạ bộ là
nhờ Hình-thể-thể số 1 làm trung gian cho nó mà thôi, cho nên căn
bản của Hình-thể “2” là chú trọng ở Thần, thì không có dính liếu gì
đến Tinh cả. Vì thế lúc nầy Dƣơng-Khí mới thành ra cái lý độc
nhứt trong sự tồn tại, mà Khí Dƣơng không hề bao giờ thấy rõ hiển
hiện ra đƣợc mà nếu thân thể đƣợc sung mãn Khí Dƣơng thì đời
sống của con ngƣời mới đƣợc trƣờng thọ viên mãn. Bởi vậy, mỗi
khi Lƣơng-y xem mạch ngƣời bịnh mà tuyên bố: Tuyệt Dƣơng, thì
khó mà trị bịnh. Bịnh nhơn ắc phải chết. Ta phải nhận biết rằng:
theo Bản-đồ số “2” nhờ sức nội công vận chuyển Dƣơng-Khí ở
ngoài mà đem đƣợc Thần lên thì con ngƣời có thể xuất-vía hay
xuất-thần đƣợc là vì con ngƣời chƣa am-hiểu cách vận chuyển
Dƣơng-Khí trong lúc xuất vía thì Tinh-không còn đắc dụng gì với
các thể-chất thuộc về hạ-bộ nữa, nghĩa nó cố-kết ở bên trong, không
cho tẩu lậu, lúc này là lúc nó ngăn-cản đƣợc hết thảy ý-chí và sức
ngoại-cảm mà vƣợt đƣợc lên trên các thể-chất khác ; cho nên hình-
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
25
thể xác-thịt (xƣơng và máu) trong lúc này dƣờng nhƣ tiều-tụy giảm-
thiểu vậy. Song tinh-thần ý-chí càng đƣợc nẩy-nở minh giác thêm
ra để thâu nhập cho đƣợc một cái năng-lực linh-thiêng mầu nhiệm
của võ-trụ - Ngày nào ngƣời ta hiểu đến lẽ đó thì mới biết đƣợc
Chơn-Lý một cách rõ-rệt.
Luận đến Thần, Khí, và Tinh là ba thể-chất chánh-yểu chủ-sự về
ý-chí lý-tƣởng, thì rất cần phải giữ-gìn, đừng để cho một trong 3 thể
ấy bị tẩu-lậu hay tán-loạn. Vả chăng chúng nó hay trêu-chọc xác-
thân mà tìm đƣờng lậu tán, nhƣng đối với ngƣời biết phƣơng-pháp
luyện Đạo thì dùng ý-chí cùng tƣ-tƣởng mạnh bạo và trong sạch mà
ngăn-giữ chúng nó rất dễ dàng. – Nhờ sự tuế-nhuyễn tinh-anh của
hai thể-chất vô-hình là Thần và Khí, nên Khí Thần có thể hiệp-
nhứt thành một Linh-Thể thông-thiên đạt-địa, dời xuất ra ngoài
xác-thân rồi lại đƣợc. Nhờ đó cho nên những điều học-hỏi nào mà
con ngƣời chƣa hiểu biết đƣợc, thì do nơi những đặc-tính riêng của
hai thể-chất đó mà có thể khám phá đƣợc hết cơ-mầu của Tạo-Hóa ;
Thí-dụ muốn thấu đáo những hình-trạng huyền-bí của Vũ-trụ thì
phải biết xuất-vía hay xuất-thần mới thấu triệt đƣợc, chớ với sự
nặng-nề trọng trƣợc của xác-thịt cùng vứi sự thô-bỉ vụng-về của
tánh-tình sự hiểu-biết về điều huyền-bí siêu-việt con ngƣời không
tài nào phát-triển cùng hiểu-thấu nổi đâu. – Ngƣời biết phƣơng-
pháp luyện-đạo thì làm chủ đƣợc xác-thân và Thần-Trí ; nên có thể
làm chủ đƣợc toàn cơ-thể sự sống của mình: biết đƣợc quyền sanh
tử mạng vận ra sao? Vì một ngày kia con ngƣời sẽ chết, thì xác-thịt
phải hƣ hoại, lúc đó chỉ có Linh-Hồn của ngƣời đắc Đạo mới siêu
thăng nhập tịch lên mấy cảnh Thƣợng Thiên gọi là: Thiên Đƣờng
(Paradis), Cực-Lạc Niết Bàn (Nirvana) mà hƣởng cuộc vui vẽ. (1)
Chính cái đó mới thật là cần thiết quan hệ hơn là có cái Hình-thể
của xác-thân ở Trần Thế; vì Linh-Hồn thật là trƣờng sanh bất-diệt.
Bởi vậy các vị Đạo Sƣ hiểu phƣơng-pháp thí nghiệm mỗi lần sai
hồn trục vía, hoặc dùng cách đánh thiếp cho Thần-Khí xuất ra
ngao du ở đâu thì các vị ấy đều hằng lo phòng bị coi chừng các Hồn
vơ vẫn (Les forces vives errantes) ở cõi Hƣ-Linh đến nhập vào xác
Đồng-Tử “Médiums” rồi phá khuấy. Hồn ấy ta hay gọi là đảng Cô
Hồn Ngạ Quỉ. (2) Các Hồn Ngạ Quỉ đó thƣờng vất vả theo mây
gió không chỗ nƣơng dựa nên hay khuấy rối chận đƣờng chận ngỏ
làm cho hƣ cuộc thí nghiệm đi.
Những Thần-hồn nào mà có vị Đạo Sƣ sai khiển đó nếu không đủ
khí lực thì có thể bị các đảng Cô Hồn Ngạ Quỉ ấy chận bắt lại đƣợc
và cám dổ v v... Ta phải biết rằng nếu một Linh-thể nào siêu việt
hơn thì có thể khiến đƣợc các Thể-chất của Hồn còn khờ yếu là vì
nếu Thần-Khí yếu thì không bao giờ tự vệ cho mình và không thể
nắm chủ quyền Xác-thân của mình cho đƣợc.
______________________ (1). Vì lẽ đó mà ngƣời thầu lý đạo rồi thì họ trọng phần hồn hơn phần xác, nhƣng
ta cũng phải gìn giữ xác cho đƣợc mạnh giỏi đặng tạm mƣợn nó có chỗ để cho
Linh-Hồn nƣơng ngụ nơi cõi Trần Gian hầu học-hỏi thêm tấn-hóa. Cho nên xác-
thân là về phần vật-chất, còn phần hồn thuộc về Tinh-Thần mà hai lẽ nầy cần
phải tƣơng đƣơng mới đƣợc.
(2). Nhƣ Hồn của các Cô, các Cậu thƣờng hay nhập xác Đồng Cốt mà ta hằng có
thấy ở Xã Hội Việt Nam ta vậy.
Có khi trong một cuộc đàn thí nghiệm nào mà có ai nặng bóng vía
(Les non-voyanis) thì Pháp-Sƣ hay Đạo Sƣ không hề trục Vía
(Thần-Khí) họ ra khỏi xác-thân đặng. Còn trái lại nếu ai mà nhẹ
bóng vía (les voyanis) thì rất dễ thí nghiệm lắm, vì mấy hạng Đạo-
Sƣ là hạng ngƣời đầy đủ Tinh-Thần mạnh mẻ, cho nên có thể sai
khiến các Thể-chất của kẻ nhẹ bóng vía xuất ra theo ý muốn điều
khiển của Đạo Sƣ. Lúc ấy họ dùng tƣ-tƣởng, mà thâu phục sai
khiến Tinh-Thần của ngƣời dự cuộc một cách nhậm lẹ phi thƣờng.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
26
Bởi vậy trong lúc ngƣời luyện-Đạo đang trầm tƣ mặc tƣởng hay là
các nhà Sƣ đƣơng tham thiền thì ta chớ nên động tịnh các bực ấy để
cho họ an vui trong giấc Đại-Định của họ. Lúc ấy là lúc họ đƣa
những tƣ-tƣởng tốt lành của họ vào mấy cảnh cao hết sức cao,
mình gọi là cảnh Thƣợng Giới “Niết Bàn” (Plan mental
nirvanique). (1)
Lúc ấy họ chỉ còn để cái xác-thân tạm chết-giả lại đó mà thôi; cho
nên lúc đó dầu có đụng chạm họ hay là loài muổi mòng chích đến
họ đi nữa thì họ cũng không hay biết chi cả.
Tôi đã miêu tả Bản-đồ Hình-thể số 3 để cho ta coi đó mà tầm hiểu
rõ đƣợc, nhứt là để giúp cho những ngƣời mới luyện Đạo, hoặc
ngƣời muốn học phép Xuất-Thần (dédoubler) đƣợc thêm tài-liệu
và rộng thêm kiến văn nữa.
Mấy năm gần đây ngƣời Âu Châu mới bắt đầu ham mộ nghiên cứu
học-hỏi về các khoa huyền bí đã nói ở trên đó, là vì họ cho là một
sự lạ mới mẻ rất cần ích. (2) Còn đối với ngƣời Á Đông thì họ cho
là sự thƣờng vì ngƣời nƣớc da vàng đã từng có học và thông thạo tự
cổ cập kim mà cả thảy sự gì huyền bí cũng đều ở trong cửa Đạo-
Giáo mà ra.
Vả chăng tôi không có chút lòng nào mong bày bố tạo ra một sự gì
phi thƣờng hay là một Lý-tƣởng gì mờ ám vơ vẫn đâu, tôi chỉ đem
điều Chơn-Lý thực-nghiệm rõ-ràng hầu kết giây Tinh-Thần giúp
dạy lẫn nhau để cho chƣ quí Đạo-Hữu đƣợc biết cả những khoa-
học bí truyền huyền-diệu của nền Đạo-Giáo mà thôi.
Nhƣng tôi học biết bao nhiêu luận tóm bấy nhiêu chớ không hề
thêm bớt quá sức của tôi, là vì nếu càng thêm bớt chừng nào càng
xa Chơn-Lý chừng nấy mà lại dắc ngƣời đồng Đạo vào chốn tối
tâm u-ám thêm nữa; vậy tốt hơn là đừng thêm bớt hoặc đừng nói
nhiều là hay hơn (Mặc, mặc, mặc Thần Tiên tùng thử đắc).
_______________ (1.) Khi Tƣ-tƣởng tốt ấy nhập vào cảnh Niết Bàn rồi thì rải xuống Trần Gian cho
nhơn-loại nhờ.
(2). Bắt đầu thế kỷ hai mƣơi mấy (XX siècle) gần lối bốn mƣơi năm nay bên Âu
Châu, ngƣời Hồng Mao (Anglais) Đức (Allemands) Nga (Russes) và bên Mỹ
Châu ngƣời Hoa Kỳ (Américains) họ hết sức nghiên của ngƣời bên Á Đông, nên
chi họ lập đƣợc nhiều Hội để cho phổ thông Đạo-Đức, nhƣng mà chƣa đạt đến
cách luyện đạo của ngƣời Trung Hoa lối cỗ nhƣ Phục Hy, Huỳnh Đế v.v...
Nay họ đã khởi sự lần lần nghiên cứu, đặng tầm cái Chơn-Lý huyền-diệu của
Đạo-học, nhƣng mà không dễ gì khám phá đƣợc đâu.
_____________________
Những đều gì tôi đã luận giải ở trên đó đều nhờ công-phu học Đạo
của tôi từ bấy lâu nay; còn các Bản-đồ Hình-thể tôi đã miêu tả ra
cũng đuợc rành vẽ y theo bản-đồ cổ-truyền dạy ở trong nền Đạo-
Giáo và đã có thí nghiệm hẳn hòi rồi. Song các Huyền Pháp đã nói
đó nhƣ muốn học cũng khó mà quán thông đắc thành đƣợc, ít ra
phải ngộ Đạo mầu của vị Chơn Tiên chỉ biểu mới đặng, chớ chẳng
phải dễ gì mà học Đạo một mình đƣợc đâu. Còn những lời khuyên
bảo của Đức Tiên Trƣởng mà nếu ta đem dạ khinh thƣờng và vô tƣ
không chú tâm cẩn thận thì có ngày ta sẽ bị đọa và phải trả quả một
cách nặng-nề.
Theo tôi biết thì nội một cái năng-lực về bề ngoài các Thể-chất
hữu-hình của xác-thân cũng đủ thí nghiệm đƣợc rồi, bởi vì chỉ dùng
Tinh-Thần tƣ-tƣởng tốt lành thì cũng làm đƣợc một món đồ-nghề
theo khoa-học luyện Đạo. Nội trong cái Tinh-Thần đó cũng có thể
trị đƣợc các điều dục-vọng, phá tan những sự ác-vọng vô-minh của
con ngƣời rồi.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
27
Đó ta cần nên biết nếu Thần-Khí nào còn vơ-vẩn (nghĩa là ngƣời
còn ở trong thời-kỳ vô-minh xuất ra gặp một Chơn-Khí nào sáng
suốt và siêu việt hơn thì Thần-Khí ấy phải chịu khiếp phục ngay.
Vì thế ngƣời chƣa am-hiểu đƣờng Đạo-Đức thì Thần-Khí còn
trƣợc nặng-nề, tƣ-tƣởng không đủ tốt lành khó mà bảo-an về phần
vật-chất lẫn cả Tinh-Thần nữa. Cho nên về khoa luyện Đạo muốn
đƣợc xuất Dƣơng-Thần không phải dễ đâu, ít ra phải thạo biết các
Thể-chất trong châu-thân trƣớc nhứt (hãy coi theo bản-đồ Hình-thể
mà dò) rồi tập cách điều-trị mỗi Thể-chất cho đƣợc hòa-đồng rồi
sau mới lần học qua khoa luyện Đạo. Ta chớ nên thấy các vị Đồng
cốt (Médiums) đang khi thiêm-thiếp mê-mang, mà ta lầm tƣởng là
họ biết xuất Thần đƣợc, là vì trƣớc khi họ bị cảm giác một điều chi
hoặc họ bị kích thích một vật nào rồi trong các thể-chất của họ mới
lần lần thay đổi, huyết mạnh chạy chậm chậm; Thần-Khí của họ
liền xuất ra khỏi xác nhƣng vơ vẫn không chú ý điều chi cả, cho
nên các vị Pháp-Sƣ luyện Đồng-Tử họ gìn giữ kỹ-lƣỡng lắm không
dám hờ hẩn, sợ Thần-Khí của Đồng-Tử tán loạn tách dời xa đề, rồi
khi huờn lại nhập vào xác rất nguy hiểm cho tánh mạng lắm. Phải
biết rằng cách mê-mang đó không phải nhƣ cách mê-mang của giấc
ngủ tự-nhiên vậy.
Đối với sự học Đạo thì tôi không hề khi nào chịu tin đều chi dị-
đoan vô-lối. Những Bản-đồ Hình-thể vẽ trên đó đều có khuôn-mẫu
và di tích trong nền Đạo-Giáo từ thuở năm ngàn năm trƣớc kia
chớ không phải mới bày đặt ra bây giờ đây. Còn y-khoa tài tình đời
nay đó cũng nhờ trƣớc kia nghiên cứu theo khoa “Thần-trí Tâm lý
diệu pháp” của Đạo-Giáo rồi mới đem ra lƣu truyền kế tục mải
đến ngày nay. Vì thế Đạo-học càng ngày càng phát minh thêm mải
cho đến bực tinh-vi vô cùng, vô tận.
SỐ 4
TRẠNG THÁI HÌNH THỂ
trong lúc con ngƣời thoát xác (chết)
Bản-đồ số 4 chỉ về lúc chết đã phát họa ra một cách rõ-ràng để cho
ta thấy biết một vài chỗ rất cần ích, đó là chỉ về lúc con ngƣời lìa bỏ
cõi trần vậy.
Theo lời truyền dạy của chƣ Vị Tôn Sƣ “Les Maitres” (1), thì tôi
đƣợc hiểu biết rằng: cái chết tự-nhiên của con ngƣời cũng nhƣ thay
đổi áo-quần không có gì là lạ cả; không phải là bị mắc bịnh mất-
thần-trí và cũng không phải là bị rời-rã các phần Thể-chất trong
châu-thân; mà chính thật là do bởi tạng-phủ của xác-thân hữu-hình
lâu ngày bị hao-mòn đi, vì tại ta không biết gìn-giữ cho kỹ-lƣỡng;
nếu ta không biết giữ-gin xác-thân cho đƣợc mạnh khỏe thì càng
mau lìa bỏ nó hơn nữa. (2)Trƣớc khi bỏ xác, thì các Thể-chất trong
mình đều ngƣng lại, con ngƣời lấy làm khó chịu vật mình trăn-trở,
xác-thân chuyển động; Thần-Khí sắp lìa, nên lúc nầy coi con
ngƣời dị-hình quá; đó nghĩa là trƣớc khi có sự ngƣng-lìa các Thể-
chất của cơ-thể, cho nên hết thảy những Thể-chất trong châu-thân
đều bị ảnh hƣởng chung và sức vận-động xung-khởi lên một lúc,
thể nhƣ ngọn đèn lúc hết dầu trƣớc khi tắt, nó cũng bật lên tia sáng
một chút rồi mới lần tắt luôn.
Cái bản-đồ chỉ về lúc chết theo cách thức ở bên Viển-Đông đã tác-
kiến ra đó, có thể dẫn đƣa chúng ta về đƣờng tra-xét bộ máy cơ-thể
rất linh-hoạt tinh-tƣờng và xác đáng, có thể làm tài-liệu cho các vị
Bác-Sỉ thông thạo về Y-khoa. Lúc sắp hấp-hối chết thì con ngƣời
mất hẳn phần cảm giác thuộc về thân thể đều ở trong trạng-thái
điên-đảo vẫn-vơ và mệt-ngất; lúc ấy ngƣời ta thƣờng gọi là hấp-hối
mất-thần. Lúc nầy trong thân thể bị giảm thiểu lần lần sức vận-
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
28
động ; nhiệt độ và trí-giác cũng giảm lần cho tới tắt hơi thở cuối
cùng thì xác-thân phải chết (đó là lúc các Thể-chất trong cơ-thể bị
phân lìa bởi mất phần Sanh-Khí rồi tức là tuyệt-khí vậy).
Những kỳ-trạng ngƣng-lìa trong bộ máy cơ-thể đó bày tỏ ra trong
bản-đồ rất là rõ-ràng minh-bạch; cũng có khi một vài Thể-chất trở
lại nhƣ lúc trƣớc (cũng nhƣ lúc mạnh) và cũng có khi xác-thân bề
ngoài coi nhƣ đã chết lâu rồi mà bên trong bộ máy cơ-thể chƣa
ngƣng-liệt hẳn, là vì cái Thể-chất chánh-yếu của Khí còn chút
sanh-lực, nên trong xác-thân mới còn ấm-nóng mà hồi dƣơng đƣợc
một lúc, chƣa đến nổi phải ngƣng-liệt ngay toàn cả cơ-thể.
Khi chết rồi đem mai táng (chôn dƣới đất) thì trong một thời-kỳ
Thể-chất xác-thân sẽ phải tiêu-rã mục-nát cả. Lúc con ngƣời chết
thì ngay ở trong Thận-Thủy không còn khí Âm nữa, nên Thể-chất
của máu phải bị ngƣng lại và bị lạnh-lẽo, là vì Sanh-Khí không còn
hoàn-toàn, chỉ riêng có một phần Dƣỡng-Khí ở nơi Phổi hơi hóp
còn lại chút đỉnh làm cho Máu ấm-áp đƣợc một lúc mà thôi. Thể-
chất của Thận (Thận-Thủy hay Thận Hỏa) lúc nầy bị hƣ-bại hẳn,
nên phải ngƣng-liệt lại (đó là lúc hấp-hối của con ngƣời) bởi vì sự
hoạt-động là lẽ sống ở đời, mà cơ-thể bị liệt bại bất-động thì xác-
thân phải tức khắc chết liền.
Khí Âm ở Thận lúc đó bị tuyệt lần lần, Dƣỡng-Khí (1) ở Phổi còn
lại bao nhiêu phải bù vào để san-sớt cho các Thể-chất kia rồi thủng-
thẳng cũng bắt đầu vắn sức vận-động, chừng lúc kiệt sanh-lực rồi
thì lúc ấy Sanh-Khí sẽ mất hẳn căn bản. Rồi lúc đó Thần-Khí sấp
lìa Hình mà nhập vào cõi Hạ-Thiên (Monde Astral). Lúc ấy Thần-
Khí vui vẽ lắm, vì bỏ đƣợc cái xác-phàm ô-trƣợc nặng-nề rồi ra
ngoài đƣợc nhẹ-nhàng lắm. Lúc chết là lúc những huyết-mạch trong
cơ-thể đều bị ngƣng bế hết, không còn năng-lực hoạt-động gì cả.
Thể-chất của Thần vì đó mà hết liên-lạc, bởi không còn sức vận-
động ở bộ Thận nữa,
nên Sanh-Khí mới không đủ sức mà nối tiếp với cơ-thể, thành bị
bứt ngang mà trở về Nguyên-Khí của Hƣ-Linh. Còn cái Thể-chất
của Tinh lúc nầy vì bởi Thần hết liên-lạc, nên bị tiêu-tán mất,
không còn đắc dụng nữa. Ta phải biết rằng: dầu con ngƣời mà chết
nghĩa là bỏ xác song Thể-chất của Dƣơng (Wun) thì vẫn còn
nguyên hoài đến lúc Sanh-Khí đoạn tuyệt thì đôi mắt con ngƣời sẽ
bị lạc-tinh-không còn trông thấy gì nữa (hai mắt hết thần coi khờ
dại đục lờ) vì thế trọn cơ-thể con ngƣời không còn linh-khí tinh-anh
nữa, nên xác-thân sẽ phải hƣ nát tiêu-diệt.
Đó là lúc xác-thân con ngƣời không còn chi phối về sự sống liên-
lạc nữa, nhƣng mà sự sống của Thần-Khí còn trƣờng-tồn, vì rằng:
chết chẳng qua là lìa phạm-vi hữu-hình đặng sang phạm-vi vô-hình
nghỉ-ngơi cũng học-hỏi đặng tấn-hóa thêm nữa mà thôi (nên chi
ngƣời hiểu Đạo thấu biết cơ mầu của Tạo-Hóa nên coi sự chết là lẽ
thƣờng). Những trạng-thái liên tiếp thay đổi trong lúc chết, tóm lại
nhƣ vầy:
1. Cái Thể-chất thứ nhứt của Thần khi bị giảm thiểu lần lần rồi thì
sự liên-lạc về hình chất và sự rời rạc về bãn năng trong các Thể-
chất kia đều bị ngƣng-lìa cả, nên bắt ép Dƣỡng-Khí ở nơi Phổi còn
chút Sanh-Khí nào phải đem ra mà tiêu dùng để làm căn bổn sanh-
lý cho nó, vì thế Thận (Thủy Hỏa) lúc nầy mất hết thế lực, đó là cái
dấu chỉ trƣớc nhứt về sự chết của con ngƣời. Khi Sanh-Khí đoạn
tuyệt rồi, thì hết thảy các Thể-chất trong cơ-thể đều thấy rõ nhƣ
vậy: Mạch lạc đứng yên, huyết-mạch ngƣng-tụ, Hình-thể châu-
thân-xám dợt và lạnh ngắt, cơ-thể không còn sự hoạt-động, mất hết
sự cảm giác, các Thể-chất thuộc về hạ bộ thì đều xanh xám cả:
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
29
Đó là trạng-thái của sự chết thuộc về động vật (con ngƣời cũng là
một loài động vật, nhƣng thứ động vật có Tinh-Thần tri giác).
_______________ (1). Ngƣời ta có thể không ăn uống đến 3 ngày, mà vẫn còn sống đƣợc, chớ nếu
hết không khí, nhƣ chìm xuống nƣớc hay bỏ vào thùng đóng kín lại trong vài
phút đồng hồ thì phải ngộp hơi chết liền, vì Không khí rất quan hệ cho Thân thể
con ngƣời lắm. Ngƣời ta hít Không Khí vô phổi, cốt nhờ một phần Dƣỡng-Khí là
chất hơi nhẹ-nhàng mà con mắt phàm không thể trông thấy đƣợc, lúc hít không
khí vô trong phổi, thì Dƣỡng-Khí thâu nhập vào tổng huyết-mạch rồi châu lƣu
khắp toàn thân. Dƣỡng-Khí là một phần trọng yếu ớ trong không khí; thân thể
cần phải có Dƣỡng-Khí mới có nuôi sanh mạng để phát nhiệt và có sức khỏe, cho
nên thứ không khí mà hít vô phổi, có một phần Dƣỡng-Khí rất nhiều. Song thứ
hơi đã thở ra rồi, không nên hít trở vô, vì ít Dƣỡng-Khí không đủ bổ dƣỡng cho
thân thể.
Theo cách luyện đạo về sự hô-hấp (respiration) thì trƣớc khi ngồi hay đứng cũng
phải cho ngay thẳng lấy ngón tay bên mặt bịch lổ mũi bên trái, bít không khí cho
vô, rồi nín hơi kế bịch lổ mũi bên mặt cho Dƣỡng-Khí dơ bẩn ở trong phổi theo
lỗ mũi bên trái mà ra, và khi thở ra rồi thì chịu khó hít vô và bịch lỗ mũi đó lại
cho Dƣỡng-Khí ra bên mặt lỗ mũi kia, cứ làm đi làm lại vậy hoài chừng năm
mƣời phút hay độ nữa giờ thì ta biết trong mình tà khỏe khoắn dƣờng nào.
_______________________
Còn lúc chết-giả cũng là ở trong trạng-thái trầm mặc mê man
thiêm-thiếp, nhƣng chẳng phải ở trạng-thái trầm mặc chánh-thức có
khác là khác cái kiễu thức bề trong mà thôi; sự đó ngƣời Đông-
Phƣơng ai cũng đều biết cả, ngay bên Tây-Phƣơng (Âu Châu) cũng
mới biết đây, vì ngƣời ta thƣờng thấy có sự chết-giả luôn luôn;
nhiều khi họ đem chôn lầm xác những kẻ mà họ tƣởng là chết rồi,
chớ có dè đâu những kẻ đó sau khi bị ngƣời ta mai táng rồi thì phải
chết thiệt liền! Nhƣng trƣớc khi chết thiệt, họ còn tĩnh lại một lúc
và dật mình trở qua, trở lại, nhƣng không thể nào đƣợc vì đã bị liệm
chắc-chắn trƣớc khi đem mai táng. Bởi vậy có khi ngƣời ta đào mã
lấy cốt thì thấy ngƣời chết đổi lại nằm xấp khác hơn khi liệm xác.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
30
Vì thế mới có cái hại về bịnh Thiên-Thời, hể kẻ nào vƣơng chứng
ấy mà rủi có chết thì họ lập tức bó lại đem chôn liền, vì sợ bịnh
truyền nhiểm lan ra -Than ôi! Khi bịnh nhân hồi tĩnh lại thì không
thể nào sống đƣợc, có phải là tội-nghiệp không? Cho nên ngƣời xƣa
thƣờng hay truyền dặn nhau rằng: Khi có ngƣời chết, thì phải đợi
sau lúc 48 giờ (nghĩa là phải để ngƣời chết nằm yên trong 2 ngày)
rồi mới đƣợc chôn xác; nhƣng cũng có khi xảy ra những kẻ chết
còn ở trong trạng-thái chết-giả trái tim còn hoi hóp thì có lẽ phải để
lâu đến mấy tuần, mấy tháng, cũng chƣa chết thiệt; vì thế nên có
nhiều giống dân bày ra cái lối thiêu xác, chủ-ý là để đánh thức kẻ
chết-giả cho biết để đem thần-hồn về nhập xác ; nhƣng chƣa chắc
sự thiêu-đốt xác-thịt ấy mà làm cho kẻ chết giả thức-thần đƣợc đâu.
Giả thử nhƣ lúc đó mà kẻ chết-giả thức tỉnh đƣợc, vì sự thiêu xác
một cách thình lình dữ dội nhƣ vậy, thử hỏi kẻ đó dù kiên-tâm chịu
đau đến đâu vị tất đã sống nổi, mà không bị chết tức thời sao? Xem
nhƣ thế thì có lẽ ngƣời ta thƣờng chôn lầm biết bao kẻ chƣa bị chết
thiệt, chắc hẳn rằng: Nếu cái tục thiêu xác mà còn giữ theo nhƣ vậy
thì có lẽ ngƣời ta sẽ thiêu đốt lầm nhiều ngƣời sống và bịnh nhân
(vì sự thiêu xác thƣờng có luôn). Cái tục nầy kêu là Hỏa Táng (1)
về bên Ấn-Độ và xứ Cao-Miên còn giữ cổ-truyền tới giờ.
Lại còn có nhiều ông Lƣơng-y tƣởng lầm rằng bịnh nhận chết thiệt,
nên bỏ không trị bịnh nữa; đƣợc một vài ông có kiên-tâm nghị lực
mới chịu ráng sức chịu khó mà điều-trị nên bịnh nhân có thể sống
lại đƣợc; còn ngoài ra phần nhiều họ xem xét không kỷ mà tin lầm
là chết thiệt rồi, thì họ không còn biết tìm phƣơng-kế nào mà điều-
trị hay là tra-xét bịnh nhân coi ra thể nào? Vì vậy cái phƣơng-diện
chánh-yếu về sanh mạng của con ngƣời là đƣờng Sanh-Tử, thì hiện
Khoa-học ngày nay cũng chƣa thấu hiểu rõ-rệt đƣợc, lẽ đó Khoa-
học hãy còn ở trong vòng tối tăm. Chỉ trừ ra ngƣời học Đạo mới là
am-hiểu đƣợc lẽ huyền-vi của Tạo-Hóa mà thôi.
_____________________
(1). Trong đời có 4 cách táng ngƣời chết kêu là Tứ Táng:
1. Thủy-táng – ném ngƣời chết xuống sông. Cách táng lạ nầy do ở phía
Bắc nƣớc Phi Châu, ngƣời Mọi da đen hay dùng. Hay là bên xứ Ấn-Độ
(Inde) có con sông Hằng Hà (Gange), khi chết họ cũng đem thây thả
xuống giòng sông nầy đặng cho Linh-Hồn đƣợc siêu thăng về miền
Cực-Lạc.
2. Hỏa-Táng – Đốt thây thành tro. Cách táng nầy theo tục ngƣời Ấn-Độ và
ngƣời Cao-Miên, Xiêm, Lào, gần xứ ta thƣờng thấy.
3. Thổ-Táng – Chôn thây dƣới đất. Theo nƣớc Việt ta, hoặc Tầu, Nhật bên
Đông-Phƣơng mình, và cũng có cả các nƣớc Âu Châu cũng đều dùng
cách táng nầy.
4. Điểu-Táng – Phơi thây cho chim ăn. Cách táng lạ nầy ở về miền ngoại
bộ lạc nƣớc Mông Cổ có dùng.
_________________
2. Khi nào trong cơ-thể mất hết sức vận-động rồi Thận-Thủy và
Thận Hỏa đều ngƣng máy thì sự chết tới liền ngay. (Vì vậy cái Thể-
chất của hộ Thận là một Thể-chất cần yếu đứng đầu trong các Thể-
chất thuộc về hạ bộ). Sự bại liệt của Thận ảnh hƣởng ngay đến
Thần, lúc nầy Thần còn riêng đƣợc mảnh lực nào đều hiệp với sức
vận chuyển của Sanh-Khí để làm cho con ngƣời đƣợc sung sức mà
sống thêm. Nhƣng Thần (tức là Thần-Khí, bởi vì Khí với Thần là
hai Thể-chất bao giờ cũng liên-lạc khắng khít với nhau luôn luôn)
lúc nầy còn lại đƣợc chút ánh sáng nào thì cũng không giúp ích cho
các Thể-chất khác đƣợc; - Còn Thể-chất của Tinh còn đọng lại bao
nhiêu đều bị tiêu-tán hết, và hết thảy những tàn lực của các Thể-
chất còn dƣ lại (bởi Khí Dƣơng chua đoạn tuyệt) cũng không thể
nào bảo vệ cho toàn cơ-thể đƣợc nữa, dầu khí Dƣơng còn dính dấp
chút đỉnh cũng không ăn thua gì, mà nó cũng không hƣ liệt gì hết,
tới lúc con ngƣời từ trần thì nó thoát-lìa ra ngoài. Đó là kỳ-trạng thứ
nhì của sự chết thuộc về động vật (La mort animale).
3. Cái kỳ-trạng thứ ba thì rất mau chóng; đó là lúc mà Dƣỡng-Khí
đã bị bao tán rồi, nên con ngƣời thành ra đuối sức, không thể giửa
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
31
cho xác-thân đƣợc vững chãi nữa; Chơn-Khí là một Thể-chất
trƣờng-tồn bất-diệt nhƣng lúc nầy Chơn-Khí cũng muốn cho cơ-
thể có đƣợc sanh-lực khả quan nên mới lƣu lại để bảo vệ cho xác-
thân nhƣng cững chẳng ăn thua gì, nên chi Thần mới từ từ thoát lần
ra ngoài, để lại phách (corps éthérique) còn lƣu luyến chút đỉnh
chung quanh xác, nên Sanh-Khí mới còn chút đỉnh ngƣng-tụ ở
trong những Thể-chất thƣơng bộ. Đó là sự chết thuộc về Linh-tánh
(1) (Lamort animique).
Khi Thần-Khí đả đã thoát-lìa ra ngoài xác-thân rồi, thì con nguời
mới thiệt chết, nhƣng lẽ đó cũng chƣa lấy gì làm đúng hẳn vì ngay
lúc đó dầu Khí Dƣơng đoạn tuyệt đi nữa, mà con ngƣời còn quyến
luyến Hồng Trần thì Thần chƣa vội đi ngay liền. Lúc Thần chƣa
chịu lìa hẳn cơ-thể thì cái căn bãn của Khí cũng còn vấn vƣơng
chút đỉnh nơi thƣợng bộ; nhƣng lúc vừa mới phân lìa thì Thần còn
vơ vẫn ở trên khu xác một lúc, nhƣ tỏ tình thƣơng tiếc, không nở
dời đi. Cho nên lúc này Khí mới thủng-thẳng giảm thiểu lần lần,
chớ không có giứt ngang thình lình ngay, nó thủng-thẳng thoát-lìa
xác một cách nhẹ-nhàng êm ái, giống in nhƣ ngọn đền lúc hết dầu,
nó cũng giảm sự sáng lần lần cho tới khi tắt hẳn mới thôi. Vì lẽ đó
mà khi xƣa hằng thấy ngƣời cha chết thì ngƣời con thƣờng trèo lên
trên máy nhà để khẩn cầu Thần Thánh hộ độ, đừng sớm cho Thần
xuất dƣơng; đó là theo những lể giáo cổ-truyền bằng cách bóng
dáng mà thôi. Cho nên những nhà tin Thuật số và bọn Bàng môn
hay nói rằng: Trong lúc con ngƣời lâm bịnh, hay lúc vừa mới thoát
xác thì có ma quỉ theo bên mình ám ảnh mà tỏ ra các hiện tƣợng lạ
lùng nên mỗi khi có một ngƣời nào chết thì ngƣời ta hay để ý rình
xem ở bên khu xác coi có xảy ra những trạng-thái nào kỳ dị và có
thể chữa trị đƣợc hay không? Nên trong lúc ấy họ kêu hồn trục vía
đủ mọi cách để mong cho ngƣời chết đƣợc tỉnh sống lại, hoặc làm
phù phép ếm đối vân..vân... (theo ta thƣờng mục kích thấy các Thầy
Pháp ở trong đồng-bái hay chuyện chữa bịnh nhân bằng một cách
mê-tín dị-đoan quá lẽ); nhƣng dầu cho bịnh nhân có tĩnh đƣợc chút
ít đi nữa, là bởi nhờ Sanh-Khí (là một Thể-chất hằng sống) còn
đọng ở trong xác-thân, chƣa thoát ra hết mà thôi, giây phút sau
cũng phải chết luôn.
____________ (1). Kẻ chết về Linh-tánh thƣờng hay biết trƣớc ngày giờ chết của mình nhứt là
ngƣời đắc Đạo đều biết trƣớc năm, tháng, ngày, giờ chết của mình; nên trƣớc khi
chết họ để lại bao nhiêu là dấu tích linh hiển cảm hóa lòng ngƣời.
Thần-Khí từ từ thoát-lìa ra khỏi xác, thì sanh-lực ở trong xác con
ngƣời bị giảm thiếu lần lần, cho tới lúc Thần thoát hẳn ra ngoài
không gian, thì lúc đó con ngƣời mê man bất tỉnh, không biết gì nữa
cả; cho tới lúc Dƣơng-Khí đoạn tuyệt rồi, thì con ngƣời mới thiệt
chết.
Khi con ngƣời chết rồi, nghĩa là lìa bỏ xác-thân lại, thì Thần-Khí
vẫn còn Trƣờng-Cửu, ra nhập vào cõi Hƣ-Linh, tạo lập nên đời
sống khác hạp với các Thể-chất thuộc về Thể-chất trên không trung
mà tồn tại ở trong một Thế Giới mới thuộc về cõi Hƣ-Linh (Monde
Astral), nhƣng vẫn giống in nhƣ Hình-thể cũ ở cõi Phàm gian vật-
chất (Monde physique); có khác là cái Linh-thể không còn giử theo
phạm-vi hữu-hình nữa, nhƣng sống trong sự trƣờng-tồn bất-diệt.
Đó là theo cái bản-đồ chỉ về lúc chết ở bên Á Đông đã chỉ dạy nhƣ
vậy. Đối với những kiểu bản-đồ mƣờng tƣợng nhƣ nhau, thì rất khó
khăn cho ngƣời không học Đạo hiểu thấu tận tƣờng đƣợc, và đối
với một cái Đạo-lý tức là Đạo-Giáo đã có từ năm ngàn năm nay
rồi, thì cũng rất khó khăn và không tài nào khảo cứu cho hết để
nhắc lại cho thiệt đúng đƣợc; huống chi những giáo điều dạy về
Hình-thể rất quí báu của con ngƣời là một sự rất quan trọng chẳng
bao giờ dời đổi đƣợc; cho nên nhờ bởi có cái Hình-thể nấy và cũng
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
32
nhờ có cái giáo điều ấy, mà ông Thánh Saint-Paul đã giảng cho mọi
ngƣời biết rằng: “hết thảy vạn vật trên trần gian đều phải trải qua
trong vòng kinh nghiệm để tiến hóa, nghĩa là phải: vui, buồn,
sƣớng, khổ cùng với sinh, lảo, bịnh, tử, rồi lần lần mới, đạt đến mục
đích trƣờng-tồn, Hƣ-Linh bất diêt.” (Saint Paul: Romains, VI-5;
VIII-37, 38, 39. Cor: 1 épitre, VI-13, 14; XV-19, 20, 21, 22, 42, 43,
44, 52, 54. Cor: 2 épitre, V-15).
Đó chẳng qua là làm ngƣời ở cõi Phàm gian vật-chất thì phải học
tất các luật lệ ở cõi Trần rồi phải học cho hiểu thấu máy huyền-vi
và luật chƣởng quản của Đấng Tạo-Hóa. Chẳng phải ngƣời ta sanh
ra ở giửa Trần gian chỉ biết ăn uống và cấu xé giành giựt hại lẫn
nhau rồi chết (sanh rồi lại tử) mà thôi.
Đời ngƣời mộng tƣởng, lăn lóc, cực nhọc, vất vả, đau đớn, khổ đọa,
nhọc xác, mệt hồn, rồi ra cũng dinh hƣ tiêu trƣởng, cái thân hình rốt
cuộc cũng hƣ nát với cỏ cây.
Mục đích của cuộc đời đâu phải thế. Vậy ai là ngƣời đã từng kinh
nghiệm cái thế sự Trần Gian nầy thì cũng đều công nhận rằng:
“Cuộc đời là một con đƣờng đi, mà nhân tình thế sự là một cái
trƣờng học để cho con ngƣời luyện tập điều khôn lẽ dại đặng cho
mau tấn-hóa hạp với cơ Trời”.
Thế thì, lập Đức, học Đạo-lý là điều cần nhất của bổn phận làm
ngƣời ở chốn Trần Gian!
5
LUYỆN ĐẠO XUẤT HỒN
TRẠNG THÁI HÌNH THỂ
Lúc con ngƣời luyện Đạo Xuất-Thần
Phƣơng-pháp tu dƣỡng Tinh-Thần
Công-phu tu dƣỡng luyện Đạo theo Tinh-Thần bên Á Đông thật là
huyền-kỳ lắm, thứ nhứt là ở trong cửa Đạo-Giáo, những phép mầu
siêu việt không biết sao mà lƣợc-thuật và tả ra cho hết đƣợc. Song
tôi cũng ráng chí đem sự sở hành thực nghiệm ra đây để giúp chƣ
quí Đạo-Hữu Đồng-chí thêm nhiều sáng kiến đƣợc mau chơn nhẹ
buớc vào cửa Đạo Vô-Vi.
Những công-phu tu luyện có nhiều cách chia ra nhƣ dƣới đây:
1) Thần tức điều hòa.
2) Chí-thành Minh-tƣởng.
3) Linh-năng khải phát.
4) Linh-năng vận dụng.
5) Linh-năng xuất hiện.
Năm cách thức trên đây đều là những phƣơng-pháp giải thoát cho
loài ngƣời ra khỏi bến mê sông khổ và thoát kiếp luân-hồi đƣợc
siêu thăng về cõi thiêng-liêng Cực-Lạc.
Nhƣng muốn luyện năm cách trên đây thì trƣớc hết phải luyện dứt
bỏ cho đƣợc lòng dục-vọng Trần ai, diệt cho đƣợc mất cả tâm viên
ý mả. Cách luyện đầu cơ nầy gọi là “Phƣơng-pháp tu dƣỡng
Tinh-Thần” mà tôi xin giải luận ngay dƣới đây: Thần-Khí không
thể lìa xác-thịt mà hoạt-động một mình đƣợc, nên hễ gặp khi xác-
thịt có điều khổ thống, thì rất cản trở phần “Chơn ngả Linh-năng”
xuất hiện, lại hại cho xác-thịt điên-đảo chẳng an, mà Thần-Khí lại
làm chủ sự họa ấy. Muốn tu dƣỡng Tinh-Thần cùng công-phu
luyện tập, làm cho “Tâm linh xuất hiện”, cần phải lo trau giồi xác-
thịt cùng tâm-ý thƣờng ngày. Bƣớc thứ nhứt chúng ta phải luyện cái
công-phu gọi là: Nhắm-mắt lóng lòng.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
33
Cách nhắm mắt bên Phật giáo gọi là Tham thiền (Méditation).
1. Nhắm mắt, thì bao nhiêu trần-duyên hệ-lụy khêu gợi lòng
ngƣời, đều dứt tuyệt hết.
2. Nhắm mắt, thì tâm-niệm dễ ngƣng-tụ, thâu phục đƣợc ý mả
tâm viên.
3. Nhắm mắt, thì các bộ “Cảm giác thần kinh” đƣợc yên nghỉ;
Tinh-Thần có cơ hội bình tịnh, hồi phục cái sức đã tiêu hao,
vẫn bị mệt nhọc suốt ngày.
4. Nhắm mắt, thì “Tâm-cảnh” dễ lóng trong; nhƣ cảnh xuân-
bình thủy, phẳng lặng trong veo, nhƣ vùng minh nguyệt treo
giữa trời thu, không một mảy sầu vân u ám.
5. Nhắm mắt, để dƣỡng thần, là một cái phƣơng-pháp độc nhứt
vô nhị, của các bậc Thánh-Triết xƣa nay.
Cách tu dƣỡng nầy chia ra từ tuần để luyện cho dễ:
TUẦN THỨ NHỨT
Con mắt là một cơ quan rất trọng yếu, để cảm giác, nhận biết tất cả
các sự vật. Tới giờ công-phu tu dƣỡng muốn lóng lòng cho trong
sạch, đặng giải thoát những phiền lao tục lụy, thì phải cần nhắm
mắt lại. Nhắm mắt với Lóng lòng rất quan hệ mật thiết cùng nhau,
nên phải thực hành phƣơng-pháp sau đây:
Lựa một nơi vắng vẻ êm đềm, tránh bớt những tiếng ồn ào nhiệt
náo, không khí đƣợc sạch sẽ có gió lƣu thông. Ngồi trên ghế thân
hình cho ngay thẳng, thong thả êm ái, đừng có chút chi trở ngại mới
ngồi đƣợc lâu. Cách ngồi thế nào cho đƣợc điềm tịnh an nhiên,
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
34
dƣờng nhƣ quên cả hiện tƣợng bốn phía, quên cả xác-thân, hiệp với
cõi Hƣ-vô, cùng trời đất dung hoà làm một. Bây giờ mới nhắm hai
mắt lại, rồi lại muốn mở ra, cái thời gian nhắm mắt rất vắn không
đặng lâu. Nhân vì tránh chẳng khỏi với sự hay biết các thứ tiếng
tâm diêu động bốn phía, cũng vì tập chƣa quen, hãy nhẩn nại ráng
chi tập-luyện cho bền. Khi nhắm mắt đƣợc lâu, khi ấy mí mắt nháy
lia, làm cho con ngƣời cảm sự xốn xan khó chịu, nên muốn mở ra,
không giữ đƣợc lâu tới mƣời phút. Ấy là sự trãi qua rất thƣờng có,
của mấy ngƣời mới luyện tập.
Mới bắt đầu luyện tập cho trọn một tuần, chẳng hạn thời giờ nào,
miển là mỗi khi luyện tập cho đƣợc nhƣ dƣới đây:
1. Mỗi lần nhắm lại đƣợc lâu;
2. Chẳng nhớ tƣởng tới sự mở mắt ra;
3. Dầu có tiếng tâm gì xao động cũng mặc;
4. Mí mắt chẳng dực nháy;
5. Mỗi lần tập đƣợc nhƣ thế, chừng nửa giờ cho tới một giờ
trở lên, thì đã thành công.
TUẦN THỨ NHÌ
Tuần thứ nhứt chỉ tập cách nhắm mắt và ngồi cho êm thắm mà thôi,
vì chỉ mới thâu hồi dứt đƣợc tánh loạn động của xác-thịt, còn phân
Tâm-ý không phƣơng xử trí. Tuần nầy một phƣơng-diện thì nhắm
mắt, một phƣơng-diện tập luôn công-phu để “Lóng lòng” cho trong
sạch. (Nghĩa là tâm trống lỏng, tâm không) Kết quả của sự “Lóng
lòng” cho đạt mục đích là:
1. Cho đƣợc quên mình;
2. Tâm-cảnh Hƣ-Không;
3. Tinh-Thần an-tịnh;
4. Không toan điều sẽ tới;
5. Dứt hết các lằng sóng liên tƣởng chẳng cho làm bận
trí khôn.
Cảnh nầy gọi là “HƢ-TÂM TRẠNG THÁI” Nhƣng mà: mới bƣớc
đầu muốn cho đƣợc “Tâm-Ý” trống không, chẳng nhớ việc nầy
tƣởng việc nọ, thiệt là chuyện chẳng phải dễ. Nên cần có phƣơng-
pháp để luyện tập mới đƣợc.
Muốn qua sông thì phải chờ đò, muốn tới chỗ xa phải mƣợn xe,
muốn cho đƣợc tới cảnh “Hƣ-Tâm” phải nhờ phƣơng-pháp tập-
luyện. Tóm lại đò, xe, phƣơng-pháp, chẳng qua là một thứ phƣơng
tiện cho mình dùng đở cho tới chỗ mục đích mà thôi. Bây giờ muốn
lóng lòng cho trong sạch đƣợc trở vào cảnh “Hƣ-Tâm” thì phải thâu
tƣ-tƣởng tán loạn, chú ý vào một món mới đƣợc.
Ngồi nơi thanh vắng, nhắm mắt lại, đoạn chỉnh đốn những tƣ-tƣởng
tán loạn, gom lại một điểm, chỉ nhớ mải bốn chữ :
“CAO ĐÀI-TIÊN-ÔNG” chớ cho lao xao lảng trí. Hoặc gom hết
Tâm-ý đặng lóng nghe rõ tiếng đồng hồ tích tắc nhẹ-nhàng. Hoặc
tập chú hết bao nhiêu ý tưởng, lóng nghe hơi thở êm dịu của mình.
Ba cách ấy muốn dùng cách nào cũng đặng.
Ban đầu mới tập cách thâu tâm-ý lại, cũng rất gian nan, mới thâu lại
vừa đƣợc một điểm thì những cái tƣ-tƣởng khác lại xen vào, hoặc
nhớ những chuyện đâu đâu viễn vọng. Có khi đƣơng ngồi luyện
tập, trong Tâm-cảnh càng nhiểu loạn, còn quá khi chƣa biết luyện
tập nữa. Ấy là cái bằng cớ chỉ rõ cho mình biết rằng đã đƣợc “Tự-
Giác”, cảnh nầy là đƣờng trải qua ai cũng không tránh khỏi, vì có
nhƣ thế, nên mới có “Công-phu tu-tập” để hàng phục lủ tinh-quái
dục-vọng ấy.
Khi xƣa “Phật” thâu phục đƣợc lủ ấy mà chứng quả Bồ Đề.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
35
Đức Gia-Tô không nghe lời nó dụ dổ mới trở nên vị Giáo-Chủ
Thánh-Triết.
Kinh sách nói tà ma quỉ mị ấy là lời nói bóng dáng, chớ lẽ thật là
thâu phục đƣợc những dục-vọng, tƣ-tƣởng tà niệm tán loạn của
mình mà thôi. Nếu nhờ công-phu chính chắn, hết lòng luyện lập chế
trị Tâm-ý đã quen, thì sẽ hóa thành tự-nhiên.
Mỗi lần ngồi lại luyện tập thì:
1. Bao nhiêu Tâm-ý đều chuyên chú vào một chuyện đã
định không xao lãng.
2. Không còn một mảy nhớ tƣỡng chuyện xƣa việc tới nào
xen vào khuấy rối.
3. Thấu hết phóng tâm, trỡ lại cảnh “Nhứt tâm bất loạn” là
mục đích tuần nầy vậy.
TUẦN THỨ BA
Cách luyện tập tuần rồi là khiến tất cả bao nhiêu tâm-ý ngƣng lại,
chuyên chú gom về một điểm, chẳng cho phóng táng. Càng tập thì
thấy ấn chứng, phải lâu cho thật quen đặng làm nền tảng cho sự tu
dƣỡng Tinh-Thần. Cũng nhƣ muốn dựng nên tòa đền cho chắc
chắc, mới hầu đặng trăm năm bền bỉ .
Còn tuần nầy đã nhờ công-phu tu-tập trong tuần thứ hai đã quen,
nên tuần nầy sự luyện tập có dễ. Tuần nầy cách luyện tập nhƣ vầy:
Gom hết bao nhiêu Tâm-ý lại một điểm, chẳng cho một mảy tạp
niệm vọng tƣởng xen vào, ƣớc đƣợc nữa giờ hay một giờ trở lên.
Lúc nầy tâm thần đƣợc yên tịnh, mơ màng dƣờng muốn quên mình,
thì lập tức bỏ luôn không nhớ tƣởng tới cái điều mình tạm mƣợn
chú ý đó đi, hoặc câu kinh mình đọc đó, đặng trở vào cảnh “Hƣ-
Tâm” là đã đƣợc thành công kết quả.
Muốn cho dễ hiểu hơn, thì giải kỷ nhƣ vầy:
1. Thâu cái tâm tán loạn, gom lại “Một” cho quen, rồi cái
“Một” đó cũng phải bỏ đi, ấy là vào cảnh không (Hư-
Không).
2. Ban đầu phải tập trong cảnh thanh vắng, quen lần lần sẽ
thử đến nơi cảnh nhiệt náo. Nhơn tập “Lóng Lòng” trong
sạch đã quen, nên dầu có tiếng tâm xao động kích thích
cũng chẳng cảm động, hoặc trong tai có nghe mà cũng bỏ
qua luôn, chớ không nghi tiếng đó là gì, nghĩa gì. Tâm
không hề vọng-niệm, không hay biết tới.
3. Khi tập quen rồi, thì giảm bớt các điều hạn chế, Hình-thể,
hoặc đi, đứng, nằm, ngồi đều đặng thích hợp cả. Miển là
Tâm-cảnh trở nên không không chẳng còn một mảy nhớ
tưởng gì, đó là đặng Chánh Tâm rồi.
TUẦN THỨ TƢ
Cách luyện tập trong tuần thứ tƣ, là tuần chót, trong tuần nầy, hầu
cho tới mục đích là cảnh “Hƣ-Tâm” vì mấy tuần trƣớc tập chẳng
cho tán loạn. Tâm-ý trở lại một điểm, cho tới một điểm ấy cũng tập
bỏ đi, ấy là lúc còn phải luyện tập, nhờ tập quen nhƣ vậy, lâu ngày
sẽ hóa thành tự-nhiên, nên khỏi khó khăn nhƣ lối ban đầu.
Tuần nầy nhờ sự quen ấy rồi, nếu cố tập mỗi khi ngồi lại hể nhắm
mắt thì bƣớc liền vào cảnh “Hƣ-Không” khỏi tập gom tƣ-tƣởng lại
một điểm nữa. Trong Tinh-Thần lúc nầy cảm nhƣ đã không còn
dính dấp chi với cõi hồng trần nầy nữa, phới phở nhẹ-nhàng,
dƣờng nhƣ ngồi dƣới chiếc “khinh thoàng” gặp hồi nƣớc xuôi
gió thuận, buông cả lái lèo, mặc dầu trôi chãy tới đâu cũng đƣợc.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
36
Nếu đƣợc nhƣ thế thì là đã đƣợc giải thoát, và đã thành công trong
tuần nầy vậy. Gom hết đại ý lại nhƣ vầy:
1. Dứt các điều tạp niệm, vọng tưởng;
2. Thân tuy ở nơi trược thế, mà tâm hồn đã nhập Thánh cảnh
rồi, thoát khỏi đời vật-chất thô bỉ chỉ sống vào cõi Tinh-
Thần Siêu-Việt.
3. Dầu bao nhiêu cái đáng mừng, đáng giận, đáng muốn, đáng
lo, cũng chẳng động tâm.
4. Đi, đứng, nằm, ngồi, hay đi đi lại lại giao thiệp với xã hội,
trong chốn phiền ba nhiệt náo, mà Tâm-cảnh vẫn trong trẻo
tinh khiết như tấm gương trong, rọi vật mà không nhiểm vật
.
5. Dầu đương lúc luyện tập, hay là lúc thường cũng ở vào
cảnh “Hư-Tâm trạng-thái”.
TÓM LUẬN SỰ LUYỆN ĐẠO
Những tình cảnh trải qua trong lúc luyện tập
Ban đầu khi ngồi lại mà bƣớc liền vào cảnh “Hƣ-Tâm”, không thể
nào tránh khỏi sự nhớ tƣởng điều nầy việc kia đặng. Song nhờ tập
gom hết bao nhiêu ý tƣởng vào một chuyện mà ta tạm mƣợn đặng
chú ý vào Một đó, cho đặng nữa giờ hay là một giờ, rồi sau tập bỏ
luôn cái tƣ-tƣởng hiệp Một đó đi, đáng trở vào cảnh Hƣ-Tâm. Ấy
là mới luyện tập lúc đầu. Rốt lại hễ mỗi lần ngồi lại nhắm mắt thì
bƣớc ngay vào cảnh vô-ngả (non moi) trong trí chẳng còn phải tƣ-
tƣởng hay chuyên chú vào một món nhƣ lúc đầu nữa. Đặng nhƣ thế
thì cái công-phu “Nhắm mắt lóng lòng” đã thành công viên mản.
Cái công-phu tu dƣỡng “nhắm mắt lóng lòng” nầy cho đạt tới mục
đích là cảnh “Hƣ-Không” mới xem qua dƣờng chẳng phải dễ,
nhƣng mà nhờ ba tuần đầu chế ngự tâm-ý đã quen, nên không chi
khó khăn cả. Thí dụ nhƣ hồi mới tập viết chữ hoặc là cỡi xe máy,
thì lúc đầu cũng khó khăn, sau tập quen mà hóa thành tự-nhiên, hể
cầm viết hoặc lên xe máy, thì trí không khỏi chủ ý chi cho lắm, mà
phần “Thức-tỉnh Tinh-Thần” (Conscient) sẽ hoạt-động rất dễ
dàng.
Vả con ngƣời là một thứ động vật dễ tập quen lắm, rất đổi là
chuyện gì rất gay trở khó khăn thế mấy đi nữa, hể quyết chí thì làm
đặng liền, chìu theo cảnh đặng ngay. Huống hồ gì chuyện rất dễ, là
chỉ tập cho trí khôn yên nghỉ chẳng cho làm việc nữa, thì có gì là
khó đâu. Nếu tuần thứ nhứt rất dễ nhƣ thế, mà tập không đƣợc, thì
là ngƣời ý chí còn xao lảng, chẳng đủ tƣ cách tu dƣỡng tập-luyện.
Cái khóa trình luyện tập trong tuần đầu, là nền móng cho sự tu
dƣỡng rất thiết yếu, rất mật thiết. Bằng luyện tập chẳng tới cảnh
“Hƣ-Tâm”, trí khôn còn tán loạn, thì khó bƣớc qua mấy tuần sau,
ví nhƣ thi rớt thì còn phải ở lại lớp củ là tuần thứ nhứt nữa. Nếu cẩu
thả tập liền qua tuần thứ hai, mà Tâm-cảnh vẫn còn hổn loạn chƣa
thuần-tịnh thì không có hiệu lực chi cả. Kết quả thì Tinh-Thần cùng
nặng-lực cũng nhƣ ngƣời thƣờng, chẳng có chút chi gọi là quyền
oai của Linh-năng phát triển cả. Nếu tuần thứ nhứt là cơ sở, mà cho
đặng chín chắn vững vàng, thì bƣớc qua tuần thứ hai, thứ ba và mấy
tuần sau chót, sẽ đặng Thuận-hành, cho tới ngày thành công cũng
không điều chi cản trở. Dầu cho giửa chừng, chƣa tới lúc thành
công hoàn-toàn, mà tuần nào cũng có cái hiệu quã tuần nấy thì thân
với tâm cũng đã đƣợc nhiều điều ích lợi. So lại với lúc chƣa biết
luyện tập tu dƣỡng rất khác xa; Tinh-Thần cùng xác-thịt cảm đƣợc
sự khoái-lạc thiên-nhiên vô hạn.
Khi luyện tập trong 4 tuần đã đƣợc thành công nhập cảnh “Hƣ-
Không” đƣợc rồi thì chừng đó cảnh “Hƣ-Tâm” đã phát hiện,
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
37
Thần-Hồn xuất ra khỏi xác, rồi nhập trở vô; đến lúc nầy xác-thân
con ngƣời thức cũng nhƣ ngủ, mà ngủ cũng nhƣ thức gọi là “Thức
Tỉnh” (Conscient). Thần-Khí vô ra rất nhẹ-nhàng dễ dàng lắm tùy
theo ngƣời luyện Đạo dày công-phu hay ít công-phu mà thôi. Xin
xem bản-đồ số 5. Muốn cho “Thần-Hồn” đƣợc mạnh mẻ cứng cát
và linh thiêng thì phải luyện qua “Thƣợng-Thừa” là 5 cách nầy:
1. Thần-tức điều-hòa.
2. Chí-thành minh-tƣởng.
3. Linh-năng khải-phát.
4. Linh-năng vận-dụng.
5. Linh-năng xuất-hiện.
Nhƣng 5 điều nầy muốn đạt đƣợc thì cần phải có nhờ vị Chơn-Sƣ
điểm Đạo tiếp dẫn cho thời mới đắc quả đƣợc.
Cách luyện Đạo Xuất-Thần, xuất vía ngày nay bên Âu Mỹ có một
phần học giả háo kỳ ƣa phƣơng-pháp ấy: Nhƣ ông Henri-Durville
có viết một quyển sách nhan đề: “Les protections-psychiques” để
phố thông và cổ động cho thuyết “Tinh-Thần học” và ông Yram
cũng có viết hai quyển sách “Le Médecin de I'Âme” và
“L'évolution-dans les mondes súprieurs” Ông học tập cách xuất vía
trọn 12 năm rất công-phu và kết quả đƣợc chắc chăn, nên ông mới
viết hai quyển sách tƣờng thuật rõ-ràng để lại cho ngƣời sau biết.
Bên Ấn-Độ có nhiều Đạo Sỉ về phái Du-già (Yoga) tu hành luyện
Đạo rất cao, họ đều biết phép Xuất-Thần cả. Có nhiều khi họ xuất
hồn đi thăm các Đạo-Hữu ở đƣờng xa muôn dậm. Đƣờng đi cách
trở khó khăn mà họ Xuất-Thần đi trong giây lát đến mấy chỗ non
cao tịch-mịch ở trong chốn rừng sâu động cả là mấy chỗ các vị cao
tăng ẩn mình tu luyện, là nơi không ai từng để bƣớc-chơn đến đó
đƣợc, mà họ đều Xuất-Thần đến bái yết các vị cao nhân kỳ sỉ ấy
đặng thọ giáo chơn truyền học các phép tắc linh nghiệm đế về cứu
dân độ-thế.
Nếu ta muốn khai khiếu mở đƣợc các tạng-phủ quí báu là các Thể-
chất trong mình ta theo Khoa-học luyện Đạo đặng Xuất-Thần cho
đƣợc thì ta phải sửa mình trong sạch, diệt các điều dục-vọng phàm-
tâm ích kỷ thì mới mong biết đƣợc phép quí báu ấy.
Chớ ta còn những ý tƣởng cao vọng tranh danh đoạt lợi thì dẩu học
trọn đời cũng không hề xuất-hồn đƣợc.
Về khoa luyện Đạo tới đây tôi xin tạm dứt để quí Đạo-Hữu vào có
đủ đức hạnh hoàn-toàn sẽ gặp Chơn-Sƣ Tiên Trƣởng dìu dắc dẫn độ
mới đắc quả đƣớc.
III
LINH-HỒN
HỒN CON NGƢỜI CÓ 3 NGÔI
1. Thần-hồn
2. Anh Hồn
3. Linh-Hồn
1. THẦN-HỒN thuộc về Khí Hạ-Thiên; chính là Linh-thể trong 7
Thể-chất hình hài của con ngƣời. Linh-thể vô-hình nầy hiệp với
các Thể-chất hữu-hình mà tạo thành một con ngƣời.
Linh-thể nầy là Ngƣơn-Thần hay là Hạ-Trí, trƣờng-tồn bất-diệt.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
38
Mỗi khi con ngƣời chết rồi, nó lìa bỏ xác thần của con ngƣời mà
nghỉ-ngơi và sống độc lập trong cõi Hƣ-Linh, nơi chốn Hƣ-Không.
Thần-hồn thƣờng bị Thức-thần cám dỗ sanh ra nhiều dục-vọng nên
mới mê-muội và trụy-lạc; phải nhờ tu tâm, luyện tánh thì Thần-hồn
mới đƣợc minh-tỉnh và sáng suốt.
2. ANH-HỒN là Nguyên-thủy chơn-linh (gọi là Thƣợng-Trí) của
con ngƣời đã đƣợc tấn-hóa cao siêu rồi là nhờ có học-hỏi kinh
nghiệm nhiều đời, nhiều kiếp nên mới đƣợc tinh-khôn và thanh-
khiết nhƣ vậy. Trong nhiều kiếp, Anh Hồn nhờ thọ tú-khí Âm-
Dƣơng mà tạo thành Huyền-Linh-khí, rồi nhờ hơi nóng mặt Trời
phóng ánh quang đƣợc lâu đời mà rút thâu Thiên-Điển vào mà hóa
thành Linh-Điển tức là Anh Hồn vậy.
3. LINH-HỒN thuộc về Khí Tiên-Thiên, chính là Linh- Thanh-
điển. Tức đó là Linh-căn chơn-dƣơng nhờ tu hành Đạo-Đức trong
nhiều kiếp nên Nguyên Dƣơng Thanh Khí hết sức thuần túy nhẹ-
nhàng, trong sạch. Nhờ có luyện Đạo mà đƣợc phát huệ, thông
minh và hiển linh, hóa thành linh-quang. Linh-quang nầy là Linh-
Hồn vậy!
THI BÀI:
Thầy quảng-đại cao dày sông biển
Thấy nhiều con nhác-biếng dại khờ
Thƣơng con thầy chỉ huyền-cơ
Cho con biết bến, biết bờ mà theo
Thần Đạo-học vừa gieo tánh mạng
Luyện Linh-Hồn vƣợt khoảngg từng mây
Hồn con là ngọc của Thầy
Hồn con báu lạ xƣa nay còn ngoài
Thân-thể với hình-hài vật-chất
Có giác hồn ba bực tuỳ thân
THẦN-HỒN khôn dại không chừng
Theo màu thuốc nhuộm, theo lằng sóng đƣa
Nói chánh-lý ngăn ngừa nẻo dạy
Chính ANH-HỒN phải quấy phân minh
Hễ ngƣời cốt cách đƣợc thanh
THẦN-HỒN ít lúc cải canh ANH-HỒN
Kẻ tiền kiếp đeo còn nghiệp cốt
Nặng nhẹ mang những lốt thú cầm
THẦN-HỒN nhiều ít giả tâm
ANH-HỒN khó nối việc châm nom liền
LINH-HỒN vốn thiêng-liêng huợt-bát
Chính là ngôi bổn-giác Thầy ban
Gìn cho trong sạch hoàn-toàn
Thần dày Đạo-Đức linh càng phẩm cao
Giử trong sạch, đừng hao tinh-khí
Ngƣơn-Thần đừng đến lụy trần ai
Trong ngần chẳng chút lợi phai
Có ngày chơn bƣớc đến đài Cao Xanh
Phải rán nhớ trong mình sẳn đủ
Tánh-linh Thầy ban phú từ xƣa
Trăm điều vật-dục phải chừa
Đừng tham danh lợi chớ ƣa sang giàu
Chữ chí-thiện là đầu trăm việc
Lẽ chánh-tà định quyết chớ từ
Thấy điều gian-trá phải trừ
Đừng cho mình vấy tiếng hƣ theo ngƣời.
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
39
CUỘC TẤN HÓA CỦA THẦN-HỒN
TỨC LÀ NGUƠN THẦN TRONG MỘT KIẾP
Ở CÕI TRẦN THUYÊN BIẾN
Trong một kiếp luân-hồi của Ngƣơn-Thần (Thần-hồn hay là Hạ-
Trí) có thể làm đƣợc một việc rất lớn lao vĩ-đại, đặng hay thất, tùy
theo căn-quả và công-phu kể dƣới đây:
1. Có thể nhờ thâu Tánh-Quang Võ-trụ về trong Huyền-quang-
Khiếu: (1) Nếu biết Đinh-tịnh Tham-Thoàn cố sức gắng công nhẩn
nại mới mong toàn-bão mới đắc cảnh đặng! ...
Khi có đƣợc Tánh-Quang về làm chủ trong thân mới “diệt trừ dục-
vọng”, vùng vẩy vƣợt khỏi mảnh mù ám kia của Thức-thần (là Tạp-
trƣợc chất âm khí kêu là Karma) mà hiệp lại với ANH-HỒN (là
Chơn-linh hay là Thƣợng-Trí)!!!
Sự diệt nầy là nhờ Tánh-Quang đã qui nhứt rồi mới giải thoát đƣợc
Giả-Quang (là Táo-Tánh Dục-vọng).
II. Trong khi lên khi xuống hiệp với ANH-HỒN (chơn-linh) có thể
không hiệp nổi; bởi chƣa dứt tuyệt Thức-thần; vì tại mê mộng,
huyền ảo; cũng bởi tại bị Tạp trƣợc Âm nó làm mê mẩn Hôn-Trầm,
cũng là bị Thức-thần nó đƣơng quyền làm chủ nhƣ vậy đó, là vì
chƣa có đặng Định-Tịnh Tinh-Thần Thống Nhứt; vậy phải Hồi-
Quang phản chiếu, đó là cách thâu Tánh-Quang về hầu mƣợn lấy
ánh-linh của Tánh-Quang kia, đặng trừ diệt Thức-thần cho tuyệt
gốc căn trần trƣợc thì đâu còn gì là Mê.
_________________ (1) Xem trƣơng 37
Đó là cảnh tình của phần đông chƣa Ngộ nên mới ra cớ đó. (Ngộ
nghĩa là gặp Chơn-Sƣ truyền dạy).
Cho nên nhà Đạo gọi vậy là “chƣa có tu luyện” hay là “Vị Đắc
chơn truyền” cùng một nghĩa vậy.
Nếu học đạo mà Đắc-Ngộ chơn truyền rồi, thì Nguơn-Thần sẽ vƣợt
lên khoảng từng mây nhƣ chơi”...
III. Bị Hôn-trầm nhẩn nhừ với Thức-thần mà ra mờ ám, do chỗ mờ
ám đó nên đành chịu hãm mình với nó mà lại đánh dứt dây liên-lạc
với Linh-căn chơn-chƣởng vậy!
Khi con ngƣời đã sa đọa hảm vào cảnh Dục trƣợc mờ ám ấy rồi; thì
lại bị chia ra Thể và Dụng làm ra 2 hình thức là:
Bổn-thể: Hình ngƣời
Sự Dụng: Lòng thú
Nhƣ vậy thì kiếp sống của họ rất vô-vị, vô-năng vô-giác, đã chẳng
giúp ích cho cơ-tạo tuần-huờn tấn-hóa; mà họ còn đem sự họa hại
cho nhơn-loại và sự thối bộ của cơ-tạo lại đành bích màng, dứt
mầm sự vạn-năng đi.
Ôi cứ nhƣ vậy thì biết bao giờ mà tấn-thủ tới cực điểm tấn-hiệp
cùng Chơn-linh đƣợc!!!
YẾU LUẬN
Ngày nào Ngƣơn-Thần (Thần-hồn) đƣợc nhờ lấy chỗ Tham-
Thoàn Định-Tịnh, thâu Tánh-Quang về đƣợc thì mới có thể tấn
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
40
tới Chơn Giải Thoát đƣợc.
Nếu mà chúng-sanh đoạn dục-vọng của Tâm-Viên Ý-Mã rồi mới
vọt lên tột cao siêu hầu tiếp xúc với điển “Linh Thiên chi Điển”
đƣợc trọn rồi, thì khỏi bị lôi cuốn trong vòng năng-lực của Thức-
thần xô đẩy nữa.
Vậy mới có thể gồm đủ chỗ Tiên-Giác-Nhi-Hậu-Động.
1. Là lối theo Phật-Đà nói ta Tự-Giác Giác-Tha; lối nầy tri
thức hoàn-toàn sáng suốt vậy. Tánh tình cao thƣợng. Nếu
con ngƣời đa hƣởng nhờ Chơn Tánh-Quang tức là Chơn-
Linh-Căn đã sẵn có đôi phần mới trọn đặng sự tự-trị, tự-do,
tự-cƣờng mà chế phục các sự Tà kiến thì ít có thất bại và
buồn bã lúng túng trong xác-phàm hồi chƣa có tu vậy.
2. Nhƣng phải biết, trong lối Định-Tịnh Vong-Ngã nhƣ Tử-
Thi vậy; ta đã hƣởng ứng vào Bổn Thân ta rồi, lối nầy là lối
ngủ Hy-Di một giấc, thì lại có cảnh lạ cho ta biết sự Ấn
chứng.
A) Nhƣ là Ngũ-Tạng động nhƣ bánh xe lăng.
B) Nơi hạ thận phát-gian thì Qui-Đầu diêu động. (Khí
về phải luyện lấy Đơn-dƣợc).
Cứ nhƣ vậy là đã hƣởng ứng Chơn-Khí về đặng rồi, đó là đắc cảnh
ấn chứng vậy. Do chỗ cảnh đó mà Tiên-Gia Phật-Đạo kêu rằng
Càn-Khôn Giao-Cấu hoặc Tịnh hoặc Động thì có huyền-diệu chí
linh vậy.
Chừng đặng Hồi-Quang Phục-Vị rồi thì coi lại cảnh đau khổ của
cảnh giả-tạp nơi dục-vọng trong kiếp phù ba nầy còn gì mà hại ta
trụy-lạc nữa.
MUỐN NGUƠN THẦN (Thần-hồn)
Đặng tấn-hóa theo 3 việc Đắc-Thất Vĩ-Đại
đã nói đó thì phải làm sao?
Muốn cho Ngƣơn-Thần (Thần-hồn) đặng tròn đƣợc 3 việc đã nói
chỗ tấn-hóa, hầu diệt dứt tuyệt căn Thức-thần, thì phải đem lấy
Tánh-Quang (thánh trí) về trong Huyền-quang-Khiếu hay là “Cốc
Thần” mới có thể bồi bổ bổn-thể của con ngƣời đƣợc tƣơi-nhuận
mà tuyệt cả vạn-kiếp trƣợc trần lƣu tồn lại nữa, đó là Thức-Căn đã
tiêu, vậy thì ta phải lo Thoàn Định Vong-Ngã mới đặng Định nầy là
Định cho tới chỗ Vô Định mới đúng việc tu theo Tân Pháp của
Thƣợng Đế Ngọc Hoàng dạy truyền từ năm Bính Tý (1936) 8 tháng
9 năm ban truyền Chơn Pháp vậy.
Đạo Trời rất tinh-vi; chỉ rõ huyền-vi bí pháp giửa thanh thiên bạch
nhựt, cho các trò tâm đức học lấy mà làm đặng trở về ngôi xƣa vị
củ.
oOo
GIẢI NGHĨA
1. Tiên-Giác-Nhi-Hậu-Động ấy là: “Thuần âm chi-khí” nó mạnh
động là Tạp Khí Tịnh Khởi, trần căn phóng túng, trƣớc muốn việc
nầy, sau muốn việc nọ bèn tƣởng tƣợng dục tâm mới sanh ra Ý thức
Dục-vọng; Dục-vọng bèn sanh và dục-thức dâm niệm Giao-Cấu,
nên gọi là Tạp Niệm Phát Khởi chi động tình, vậy là “Thuận Sanh
Phàm Nhơn” đó.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
41
Nên kẻ tu thoàn phải trừ trƣợc ý đó tức là cái “Trƣớc biết mà sau
Động”: bằng không thì sanh ra bịnh và hại.
Trái lại theo Tiên-Gia Thánh Thể thì Tiên Động nhi hậu giác, là ý
nói: Sự Chơn Niệm tự khởi là không có giả ý trong chỗ niệm, niệm
chi hết; tuy không có niệm tƣởng chi chi hết, mà huyền cơ mầu
nhiệm tuần huờn đến khí độ, tự-nhiên nhứt niệm niệm sanh, chơn-
dƣơng sảng xuất liền liền liên tiếp theo sau!!...Rất huyền-diệu lắm!
Trống trống không không Vong-Ngã mà có Chơn Tánh Khí
phục huờn về phát Động niệm Tâm, nên mới dám gọi là Chơn
Niệm Chi Động.
Đoạn mới dùng Chơn-ý dẫn Chơn Niệm (hay chơn chƣởng) nầy
mới có thể bồi bổ đặng khắp toàn châu-thân Ngũ-Tạng thƣợng tắn
mà còn điểm nhuận Linh-căn đó vậy mới gọi là Trƣờng Sanh Cửu
Thị là lối Hoãng hoãng hốt hốt vong ngả kỳ trung hữu vật đó.
2. Tịnh-Định Vong-Ngã nhƣ Tử Thi gọi là Chơn-Tịnh chánh
pháp: đã có nói rằng: Chết mà không chết sống mà không sống
“Tử-Nhi Bất-Tử, Sanh-Nhi Bất-Sanh” mới là trúng vậy. Trái lại mà
mê mẩn Hôn-Trầm thì còn bị Thức-thần nó đƣơng quyền làm chủ
vậy.
Nếu Chơn-Tịnh Vong-Ngã là Tịnh Cực, đặng thâu lấy Tiên-Thiên
Khí đó thôi.
Còn Hậu-Thiên Khí hết dụng đặng nữa do đó mới dám nói là Tử-
Nhi Bất-Tử, Sanh-Nhi Bất-Sanh vậy; vì lối đó nó lửng đửng lờ đờ
mà nhẹ-nhàng thân thể vui khoái tứ chi vậy.
Nếu đặng lối nầy thì phải phân biệt 2 lẽ là:
I. Lối vong ngả nầy; chỉ còn có Thần và Khí là Hồn Sanh mà
thôi.
II. Còn Bổn-Mạng là Thức-thần; đã bị tiêu-diệt rồi. Nhƣng
còn một bí yếu về Độc điều nữa đây là:
Phép tu Đại Đạo của Ngọc Hoàng chẳng dụng vật chi mà trợ nó
đặng; chỉ dùng Hƣ-Vô Tiên-Thiên Khí mà thôi; vì nó thiệt là Chơn-
Khí nên gọi là Kỳ tựu tắc hữu Kỳ tán tắc vô. Bởi vậy cho nên tu
về Trƣờng Sanh, trƣớc hết học Tử rồi sau mới có Sanh... Cho nên
phải chịu xấu nhƣợc mới nói là phép Bá-Nhựt trúc-cơ đó.
Vì không tu thì Thuận-hành theo cơ Thiên Địa “Nhứt bổn tán vạn
thù” đó mà bảo dƣỡng về xác-thịt Hậu-Thiên.
Vậy nay tu theo về Tân Pháp Đại Đạo Cao Đai Giáo-Chủ thì nghịch
chuyển Châu-thiên cho Vạn thù Qui Nhứt Bổn; cho nên trƣớc hết
chịu Tử mà trừ khử nghiệp chƣớng, cho Chơn Hồn qui về Đạo-Tâm
vậy. Nên phải chịu Tử trƣớc; rồi sau mới đặng Phục-Sanh; bởi
trong Kinh Phật có câu rằng Vãng Sanh của Di Đà là “Bạc nhứt
thiết nghiệp chƣớng. Căn bổn Đắc sanh Tịnh độ Đà-La-Ni” vây.
Đó là sau mới Phục-Sanh đặng mà Trƣờng-Cửu vì vậy “phải Lấy
Khí mà nuôi Thần đó”.
Trái lại không nên dùng Thần mà bổ Khí nữa.
HIỂU TẠI SAO VẬY?
Do tại Tỳ-tƣớng chƣa đƣợc hẹp nhõ lại vì còn chứa nhiều tạp-chất
quá; bởi đó cũng thành không đặng Chơn-Tịnh, cho nên Dƣơng-
Khí Tiên-Thiên thâu vào mà tựu ở lại có đặng đâu; lại còn lắm khi
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
42
pha chất nhục thể nữa. Nhƣ vậy đâu có gọi là Tịnh-Định Vong-Ngã
nhƣ Tử thi (Chơn-Tịnh) cho đặng. (Vì vậy mà ngƣời luyện Đạo
phải ăn chay trƣờng).
Thần Vị thạnh nên sanh ra mê-muội đó là Hôn-Trầm
Vì bởi thâu Âm Khí vào nên Lục-Dục Thất-tình vẫn còn mà ra vậy.
Nếu mà cứ thâu Âm Thần vào mải thì lần lần phải bị tiêu-diệt đâu
là Đại Đạo Tiên-Gia nữa.
3. Huyền-quang-Khiếu là một cái lỗ quang rất bí yếu bi diệu phép
mầu nhiệm thâu lƣỡng-khí Âm-Dƣơng ngƣng tựu hòa hiệp mà có
ra. Nên Đạo Gia gọi là Chơn Diệu Khiếu chánh là chỗ Khảm-Ly
giao-xứ đó.
Khảm-Ly giao-xứ là chỗ Trung-tâm Thái-Cực hay là Đạo-Tâm của
con ngƣời Tức là Tiên-Thiên ngũ-ngƣơn là Lƣơng- tri và Tiên-
Thiên ngũ khí Lƣơng-năng tƣơng hội tại nơi Cung-trung đơn-điền
vậy. Duyên cớ đó mới gọi Khảm-Ly giao-xứ là chỗ Huyền-quang-
Khiếu vậy.
Khiếu nầy ngoài Cửu Khiếu của Nhơn-Thân, nhờ tu luyện lƣỡng
huyền-khí hiệp về mà có vậy.
Hể có tu luyện mới có Khiếu-Huyền-Quang này, nếu không tu-
luyện thì không có Khiếu diệu nầy.
Trong Đơn Kinh nói rằng:
Thử Khiếu phi phàm Khiếu, Càn-Khôn cọng hiệp thành.
Bổn lai vô nhứt vật; nơi hữu Khảm-Ly-Tinh (1)
Khảm-Ly-Tinh nầy là Tinh-hoa của Nhị-ngũ vậy; rồi Tinh-hoa của
Nhị-ngũ là Ngủ-Nguơn với Ngủ-Đức đó là chỉ rõ Lƣơng-Tri Chơn-
tánh và Lƣơng-Năng Chơn-Tinh của linh-khí Võ-trụ kết hiệp lại mà
nên chỗ nầy gọi là Thánh Thai, mà bọc Thánh Thai đây gọi là
Huyền Khiếu vậy.
Do chỗ diệt trừ Thức-quang-tữ đi, là những tạp trƣợc âm lƣu tồn,
tán tuyệt là bởi nhờ Tánh-Quang (Thần-hồn) sống lại do nhờ rút
thâu Linh-Điển đƣợc nhiều; là nhờ có nhiều ánh sáng Linh-Điển.
Đặng sự sáng suốt huyền-diệu mới hiệp đƣợc với Đạo vậy.
TỔNG KẾT LUẬN
Gom lại mà nói; nếu chẳng sớm lo tu Thoàn-Định thì Thức-thần
(vọng-niệm) xao động hoài, vậy xin hỏi lấy đâu mà an-Thần, lấy
đâu mà định-trí. Nhƣ Thần không an, Trí không định ắc phải chịu
hoại nát Linh-căn. Do chỗ diệt trừ Thức-thần, chỉ cần có thật hành
phép Nhứt-bất-kiến hữu-vô là Chơn-Tất-cảnh (1) đó là chơn giải
thoát.
Đƣợc chơn giải thoát mới làm trọn phận sự một kiếp luân-hồi của
Ngƣơn-Thần, mà tấn-thủ tới một nơi siêu việt thì thấy thông thã
tiêu diêu Linh-Tánh đó là Chơn-giác.
Sự khổ về luân-hồi của Ngƣơn-Thần phải thi hành chỗ trả vay,
vay trả đó là tại Vọng-Niệm của Thức-thần phát sanh mà có vậy.
Nếu có vọng-niệm của Thức-thần dục thúc, mà ai biết đƣợc Định-
Tịnh cho lâu ngày thì sẽ nhờ Tánh-Quang dứt tuyệt thức quang
(mạng quang) mà hễ thức quang chết rồi, thì Ngƣơn-Thần sống lại
đâu còn là khổ và sanh nghiệp quả.
Mà không Vọng-niệm nữa đó là tán tiêu trƣợc âm thì đâu còn khổ
nữa!...Hết đau khổ là trọn lòng Thanh Dƣơng-Khí Thuần-dƣơng
rồi.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
43
Mà khi hết khổ là đến chỗ Linh-Chơn chứng quã “Tam Diệu, Tam
Bồ Đề” vậy (2)
Nếu muốn đặng Chơn-linh Toàn-Giác nhƣ Phật thì chỉ có một
đƣờng là phải đem hiệp với Bổn-Tánh Thiên Chơn Chí- Linh kia
mà ta đã làm mất đi rồi, thì bây giờ phải nhớ phép Định-Tịnh thâu
Tánh-Quang trở về hiệp với Căn Mạng với Khảm-Ly Giao xứ (3).
Vậy phải tập quán phép Hồi-Quang phản-chiếu mới đặng Hồi-
Quang. Quang tức là Linh-Quang phản chiếu qui ƣ Khí-Huyệt.
Khi Linh-Thiên-Điển qui ƣ Khí-Huyệt nên Châu rồi thì Chơn-
thể toàn-linh, nhẹ-nhàng, hết ăn vật-chất chỉ còn có lấy thực-khí
sơn-hà mà thôi.
_______________ 1. Tất-cảnh không là Đắc-Đạo vậy , mà đắc Đạo là vô Đắc vô vô đắc hựu vô
không không không; vô vô không mới là thiệt Tất-cảnh-không nghĩa là không
còn Tam-Tâm và tứ-tƣớng gì cả. Nếu Tam-Tâm tứ-tƣớng bặt đứt thì còn đâu
vọng-niệm đó là Thoàn; Thâu đặn Bổn-Tánh thiên-nhiên chi sơ sanh đó, Phật gọi
rằng “Viên Minh phổ chiếu bổn huờn sơ”.
2. Tam diệu Tam Bồ Đề là: Chơn-hƣởng-tử Linh-căn của Tinh-Khí-Thần; có ra
ánh-linh nầy chiếu diệu huy hoàng mà phát hào quang cũng nhờ Thoàn Định
đó!...
3. Khảm-Ly giao-xứ ấy là chỗ chơn Tinh, Chơn-Khí, Chơn-Thần ngƣng tựu về
cả ba, mới biến hóa ra chơn chƣởng tử hay là Phật gọi Bồ Đề; mà cũng kêu là
chỗ Khí-căn-huyệt của Tiên-Gia vậy; Tánh mạng con ngƣời gom vào nơi đó cả.
oOo
V
THIÊN-ĐÀNG VÀ ĐỊA NGỤC
TỊNH LÀ THANH
ĐỘNG LÀ TRƢỢC
TỪ THIỆN THĂNG THƢỢNG CẢNH
HUNG ÁC SA ĐỊA NGỤC
Thiên-đàng, Địa-ngục, phân minh đôi nẻo; trƣợc thanh động tịnh.
Thƣợng-Hạ Âm-Dƣơng hữu vô tánh mạng thiên ác; nặng nhẹ đôi-
đƣờng, hƣ-thiệt tồn-vong.
Nghịch-hành trở-vận thì đặng lên Thiên-Đàng.
Thuận-hành chuyển biến thì phải đọa Địa-ngục.
Thần là: (Âm); Tịnh là: (Dƣơng);
Dƣơng: (thì do Nguyên-Khí tịnh mà thƣợng thăng);
Âm: (thì do Nguyên-Khí tịnh mà giáng-hạ);
Đó là: Nghịch-hành PHẢN BỔN về nguyên.
Còn Dƣơng: (Ngộ động Nguyên-Khí mà giáng-hạ);
Đó là: Thuận-hành NGUYÊN-BỔN hóa điêu tàn,
1. Thiên-Đàng là cảnh thƣợng huyền chi-khí; khinh thanh
thƣợng phù một mải bợn nhơ khó qua đặng!
2. Địa-ngục là cảnh trọng trƣợc hạ ngƣng, một mãi thanh
thƣợng nhẹ chẳng vào đặng.
Đó là: Càn-Khôn Thiên-đàng Địa-ngục phân minh
1. Tại nhơn-thân của con ngƣời, thì Đạo cốt, trùng lầu, trở
lên là Thiên-Đàng.
2. Quang-Môn, Mạng môn trở xuống là Địa-ngục.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
44
Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận là Trung gian!
Tinh-Thần của mạng thể là: Linh-căn.
1. Hể Nguyên-Khí động, thì sanh ra Trƣợc Tinh cùng vọng
thần; Biết dụng Pháp luân Nghịch-hành hóa Khí, mà trở lên
Thiên-Đàng! (Nghịch-hành là luyện Đạo đem Tinh-Khí lên
Nê-Huờn Cung không cho hao ra ngoài).
2. Còn chẳng biết, cứ dụng Thuận-hành, thì Tinh trƣợc giáng-
hạ Địa-ngục, rồi điêu tàn! (Thuận-hành là nam nử dâm dục
thì tinh khí chãy xuống tiêu hao).
1. Tánh hạnh thiện từ, thì Pháp thân đặng khinh thanh, mà qui
căn hồi Thƣợng Thiên cảnh!
2. Tánh hạnh hung ác, thì thân hình trọng trƣợc, mà phải sa
Địa-ngục!
1. Ta thử lấy một vật chi thanh nhẹ, mà đem chi đáy biển, coi
nó có chịu ở cùng chăng?
2. Hay là: lấy một vật chi trƣợc nặng, mà đem lên trên Hƣ-
Không, coi nó có cƣ trụ cùng chăng?
Nếu muốn nó cƣ trụ, phải dụng động cơ mới đặng!
Nhƣng cũng chẳng bền đặng! Thì Thiên-Đàng, Địa-ngục, Pháp
thân, Nhục thân, Tánh hạnh, Thiện ác cũng vậy!
Vậy ta mau mở trí thông minh mà tầm Đại Đạo tánh mạng song tu,
mới là chẳng uổng một kiếp sanh của Ngƣơn-Thần tức là con
ngƣời!
VI
LUÂN HỒI VÀ QUẢ BÁO
THIÊN-ĐỊA VÀ NHƠN-TÂM THÔNG CẢM
Thân hình của con ngƣời, là máy Tiễu Càn-Khôn, gom đủ cả khí
bao la Võ-trụ, thông tiếp cùng Thiên địa.
Thiên địa nhơn-thân, đều do theo phƣơng-pháp Động Tịnh, mà
luân-hồi, là bởi Nhân thân sanh tạo, mà nên quã báo!
Vì thông với Trời Đất nên: Hể Nhơn cơ động, thì Thiên cơ động.
Nếu nhơn-thân khởi hành điều tƣơng khắc thì Thiên cơ cƣớp điển
thoại của linh-tánh con ngƣời.
Có khí luân hành đều có Âm-Dƣơng Ngủ-Hành.
Nếu Nhơn-thân khởi khắc về cơ khí Âm, thì có Âm khí Thiên cơ
thâu đoạt. Nhơn-thân khởi khắc Dƣơng-Khí thì có Dƣơng-Khí
Thiên cơ thâu đoạt.
Thoạt-động khắc Ngủ-Hành thì có Ngủ-Hành Thiên cơ thâu đoạt.
Thiên cơ thâu đoạt rồi, lƣu hành xây vận đến khi châu huờn linh-
tánh mới tấn-hóa đặng! Nhơn thần mà khởi hành Tƣơng Sanh, thì
thâu đoạt cơ khí Thiên Địa vào nơi Cơ-thể, cũng đồng hợp theo cơ
khí của Thiên Địa. Bằng khởi khắc thì có họa hại.
Bởi có câu: (Thuận thiên giả tồn, Nghịch thiên giả vong).
Trƣớc Sơ Sanh, thì Thần-hồn (Ngƣơn-Thần) chủ trƣơng nơi Tâm
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
45
Vị; thì Ngƣơn-Thần bất thức bất tri, vô ƣu vô lự, vạn Thần đều gom
về căn cội!
Nhơn tâm bổn căn thƣờng tịnh; nhƣng Lục-Dục cám dổ làm cho
Ngƣơn-Thần thất vị, rồi sanh ra Thức-thần làm chủ vọng-động,
Càn-Khôn, mới biến sanh vạn-tƣợng.
Lục-thức sanh, thì Lục-thần tiêu-diệt, phải bị sa đọa vào Lục-đạo
chuyển kiếp luân hồi đặng trả quã báo, theo luật sanh khắc của máy
Thiên cơ, nhƣ dƣới đây: Nhản; tham sắc, Khuyết điểm linh-tánh,
thì Chơn-Thần phải đọa vào Noãn sanh!
Nhỉ; tham thính, hao-mòn linh-tánh thì Chơn-Thần đọa vào Thai
sanh!
Tỷ; tham Hƣơng hao-mòn linh-tánh thì Chơn-Thần phải đọa vào
Thấp sanh!
Thiệt; tham vị, hao-mòn linh-tánh thì Chơn-Thần phải đọa vào
Hóa sanh!
Thân; tham xúc hao-mòn linh-tánh thì Chơn-Thần phải đọa vào
Âm cảnh!
Ý; tham pháp, hao-mòn linh-tánh thì Chơn-Thần phải đọa vào
Thanh thần Đạo, mà chuyển luân.
Vậy thì luân-hồi quã báo, đều do Nhơn tánh đào tạo khởi hành,
rồi Thiên tánh mới cảm xúc Linh thần mà ấn định chẳng sai chút
nào.
oOo
THIÊN IV
KHẨU KHUYẾT TÂM TRUYỀN
1. Khẩu Khuyết Chơn Truyền
2. Luyện Đạo theo Tân Pháp Cao Đai
3. Chơn Ngôn bi truyền của Chơn-Sƣ Tiên Trƣởng
KHẨU KHUYẾT CHƠN TRUYỀN
Tu luyện cần phải:
1. Quảng đại, từ-hòa, ân-xá.
2. Bế khẩu Dƣỡng-Khí.
3. Tịnh-Tâm tồn-Thần hầu đặng bảo nguơn thủ nhứt Tam-
Bửu “Tinh-Khí-Thần”.
Tu mà không tịnh-dƣỡng Tam-Bửu cho đầy đủ đặng tiếp Linh-khí
Hƣ-vô, huờn lại bổn-thể, để cho hao tán hết Tam-Bửu thì còn gì mà
tu.
Phép tu đơn luyện-Thần, hƣờn-hƣ thì phải tập quán tịnh-tọa Hƣ-vô
cho đặng nhiều ngày đặng dẹp trừ thành kiến do trƣợc dục mà ra.
Ngƣơn-Thần an-tịnh thì mới có định-Thần Dƣỡng-Khí đặng.
Phải dẹp bỏ phàm-tâm, sẽ có ứng chơn-tâm. Trong chơn-tâm sẽ
sanh ra Chơn-Khí tựu huờn trong Khí căn huyệt.
TRƢỢC KHÍ MUỐN TU LUYỆN PHẢI HIỄU ĐOẠN NẦY:
Trời-Đất-Ngƣời có liên can tƣơng hiệp
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
46
1
TAM GIÁO QUI PHÁP NGỦ HÀNH
THÍCH GIÁO lấy Ngủ Giáo làm đầu là Đức:
Nhứt = bất sát sanh (1 chẳng giết loài sống).
Nhì = bất du đạo (2 chẳng trộm cuớp).
Tam = bất dâm dục (3 chẳng tà dâm).
Tứ = bất ẩm tửu (4 chẳng ruợu thịt).
Ngủ = bất vọng ngử (5 chẳng nói dối).
NHO GIÁO lấy Trung Thứ làm đầu là Hạnh làm khuôn
Nhơn = nghe tiếng chẳng nở ăn thịt là Nhơn.
Nghĩa = đừng làm cho ngƣời cái điều mình không muốn.
Lể = không gian dâm vợ con ngƣời là Lể.
Trí = không uống ruợu cho loạn tánh là Trí.
Tín = không nói gạt ngƣời và chẳng sai lời là Tín.
ĐẠO GIÁO lấy cảm ứng Ngủ-Hành làm Thằng.
1. Kim 2. Mộc 3. Thủy 4. Hỏa 5. Thổ di Đức.
2
NHỨT KHÍ HẠO NHIÊN TẠI SAO MÀ KHUYẾT
Giải nghĩa:
1. Nếu chẳng răng SÁT-SANH thì không Nhơn. Không Nhơn
thì KHUYẾT-MỘC, ở tại Trời Sao Tuế-Tinh chẳng an, ở tại
Đất thì Đông-Phƣơng có tai nạn, trong Thân Ngƣời tại Can-
Đởm có hại vậy.
2. Nếu sanh ra TRỘM-CƢỚP thì không Nghĩa. Không Nghĩa
thì KHUYẾT-KIM, ở tại Trời Sao Thái-Bạch chẳng an ở tại
Đất thì Tây-Phƣơng có tai nạn, trong Thân Ngƣời tại Phế-
Trƣờng có hại vậy.
3. Nếu sanh ra DÂM-DỤC tà dâm thì không Lể. Không Lể thì
KHUYẾT-HỎA ở tại Trời Sao Vinh-Hoặc chẳng an, ở tại
Đất thì Nam-Phƣơng có tai nạn, trong Thân Ngƣời tại Tâm-
Trƣờng có hại vậy.
4. Nếu ham UỐNG-RUỢU mất trí, không Trí. Không Trí thì
KHUYẾT-THỦY, ở tại Trời Thần-Tinh chẳng an, ở tại Đất,
Bắc-Phƣơng có tai nạn, trong Thân Ngƣời tại Thận-Thủy và
Bàng-Quang bị hại vậy.
5. Nếu NÓI-DỐI tức là không Tín. Không Tín thì KHUYẾT-
THỔ, ở Trời, Trấn-Tinh chẳng an ở tại Đất thì Trung-Ƣơng
có tai nạn trong Thân Ngƣời tại Tỳ-Vị phải bị hại vậy.
Đó là Bỗ-Khuyết khá nhớ.
3
THẤT TÌNH LỤC DỤC
TẠI SAO PHẢI NGĂN NGỪA CHÚNG NÓ
Lục-Dục là: Nhãn, Nhỉ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý.
1. NHẢN thì ƣa màu sắc tốt đẹp, vì mắt ngó thấy sự tốt đẹp
màu sắc thì dấy động lên.
2. NHỈ thì thích nghe những giọng nói tao nhã thanh bay, ƣa
nghe điều phi lể mà sanh ra Buồn, Giận, Vui, Mừng, Sợ,
Ghét.
3. TỶ ƣa mùi thơm, hơi ngọt mà khiến lòng tham muốn.
4. THIỆT lƣởi thích nếm vật lạ món ngon nên phạm tội sát
sanh mà sa đọa vào đƣờng Lục-đạo.
5. THÂN thì mến vợ đẹp hầu sinh, dục tình dâm niệm, ham
dâm dục quá độ làm cho hao tán Nguơn tinh, Nguơn khí,
Ngƣơn-Thần.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
47
6. Ý thì biến sanh tƣ-tƣởng vất vơ quấy quá. Cái ý là mối đại
hại nhứt cho con ngƣời, có khi lợi ích và có lúc làm cho tội
lổi nữa. Nó tƣởng sự nầy sang qua sự nọ, chuyện kia hết sức
rồi tới chuyện nọ sanh ra, nhãy vô hiện ra lẹ làng không chi
ngăn đón nó đặng.
Vậy thì MẮT THẤY, TAI NGHE, MỦI HƢỞI, MIỆNG NẾM,
THÂN HAM, xúm nhau làm cho Thần hồn xao động sanh lòng
quấy quá. Lục-Dục là sáu con quỉ tức là sáu đứa du côn; nhƣng biết
cách thâu phục chúng nó đặng thì sáu con quỉ ấy trở nên LỤC
THÔNG là đắc Đạo.
Muốn thâu phục chúng nó thì làm cách nào?
Là cần phải chủ cái TÂM, Tâm thanh tịnh, định cái trí tự-nhiên.
LỤC DỤC đƣợc an thì LỤC THẦN đầy đủ.
Hể có LỤC TRẦN, mà có LỤC TRẦN mới sanh ra LỤC TẶC có
LỤC TẶC thì làm hại LỤC CĂN, LỤC THỨC, LỤC THẦN nên sa
vào ĐỊA NGỤC hay LỤC ĐẠO.
Lục tặc là 6 con Ma Quỉ hại ngƣời; bởi vậy ngƣời Tu hành phải giử
Lục Trai cho chín chắn, dồi luyện Mắt, Tai, còn cảm giác sự dơ hèn
của Trần thế. Rồi cần phải Tâm-cảnh Trai nữa thì mới đƣợc hoàn-
toàn mà đắc Đạo.
THẤT TÌNH là: Hỷ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Lạc, Cụ.
HỶ là Mừng, NỘ là Giận, ÁI là Thƣơng, Ố là Ghét, AI là Buồn,
LẠC là vui, CỤ là Sợ.
Muốn tránh Thất-tình thì phải tập chí cho cao thƣợng, đừng để
chúng nó cám dổ, Lục-Dục khiến sai; mình phải mạnh bạo cƣơng
quyết mà làm chủ nó, chớ đừng yếu ớt lôi thôi, để nó sai khiến
mình rồi nó muốn chi cứ phải vừa theo nó mãi thì làm sao tu cho
thành đƣợc.
4
VÌ TẠI SAO PHẢI QUI TAM BỬU NGỦ HÀNH?
TAM BỬU
1. Lo lắng, vọng tƣởng, nầy nọ thì LAO THẦN (LINH-HỒN).
2. Ham muốn, mơ mộng phú quí vinh huê thì TẤN KHÍ.
3. Dâm mê sa tình trƣờng dục hải thì tổn TINH.
Nếu Tam-Bửu hao hoài thì tự-nhiên nguủ hành (5 tạng) cũng phải
xiêu bè suy nhƣợc cũng theo nhau cả.
NGỦ HÀNH
Tại sao phải cần Ngủ-Hành tức là Ngũ-Tạng? Vì sợ bị hao tán nên
phải tránh.
1. HAM GIÀU sang phải trù nghỉ Kế nọ mƣu kia phƣơng nầy
chƣớc nọ báo hại phải hao cái Chơn-tâm.
TÂM ấy thuộc HỎA
2. MƢU KẾ định rồi, thì phải phấn đấu tranh đua để đoạt sao cho
kỳ đƣợc mục đích mới nghe thì báo hại tới lao Can.
CAN ấy thuộc MỘC
3. MỤC ĐÍCH SANG GIÀU đã đoạt xong thì muốn vui xác-thịt,
sanh bể dục, sóng tình tha hồ đấm đuối ngày đem, báo hại thêm
ra lao Thận.
THẬN ấy thuộc THỦY
4. SẮC DỤC vui say, bèn tầm kiếm món ăn vật lạ thèm ngon của
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
48
Miệng Lƣởi mà lắm khi chất độc khắc cũng chẳng từ, báo hại
phải tổn Tỳ.
TỲ ấy thuộc THỔ
5. NGON MIỆNG thấm lƣởi no say ngon khoái rồi, thì bị vật thực
bằng huyết nhục kia nó mới phát sanh ra tánh con ngƣời hiểm
độc, hung hăng, táo bạo, ganh gổ, tự phụ, tự kiêu, ham sân vì
máu nóng sanh ra báo hại thêm cho hao Phế.
PHẾ ấy thuộc KIM
Đó là NGỦ HÀNH đã suy mà NGỦ TẠNG đã nhƣợc.
Vậy thì ngƣời Tu Luyện phải không ham giàu, không ham sang,
không ham ngon béo, khong ham dục; các sự đều Không, Không.
Không hết thế mới thành công đắc quả.
THI RẰNG:
Tu hành ngủ giái với tam qui.
Hai nẻo cho xong mới kịp thì.
Tứ cú kim cang phân chỉ rõ.
Muốn về Cực-Lạc phải làm y.
5
NGỦ KHÍ TRIỀU NGUƠN CÙNG TAM-HUÊ TỤ ĐẢNH
NGỦ KHÍ:
1. Không “MỪNG” thì HỒN ĐỊNH tức là Khí Thanh Đế.
Đông-Phƣơng Triều Nguơn.
2. Không “GIẬN” thì PHÁCH ĐỊNH tức là Khí Bạch Đế.
Tây-Phƣơng Triều Nguơn.
3. Không “VUI” thì THẦN ĐỊNH tức là Khí Xích Đế. Nam
Phƣơng Triều Nguơn.
4. Không “THƢƠNG” thì TINH ĐỊNH tức là Khí Hắc Đế.
Bắc Phƣơng Triều Nguơn.
5. Không “DÂM” thì Ý ĐỊNH tức là Khí Huỳnh Đế. Trung
Ƣơng Triều Nguơn.
Đó là cách giữ gìn cho Ngủ Khí Triều Nguơn.
MUỐN CHO NGỦ KHÍ TRIỀU NGUƠN THÌ PHẢI CỬ NGỦ
HUẨN
Ngủ Huẩn là năm món thảo mộc khí vị độc dữ kỵ với phép luyện
đơn là:
KHÓI THUỐC, HÀNH, HẸ, TỎI, CỦ KIỆU.
KHÓI THUỐC: Khắc tạng PHẾ thuộc KIM phạm nhầm thì tán khí
hƣ Phổi.
HẸ: Khắc tạng CAN thuộc MỘC phạm nhầm thì làm cho tổn can là
Gan.
HÀNH: Khắc tạng THẬN thuộc THỦY phạm nhầm thì sẽ hƣ trái
Cật.
TỎI: Khắc tạng TÂM thuộc HỎA phạm nhầm hại Tim thì tuyệt
Hỏa.
CỦ KIỆU: Khắc tạng TỲ thuộc THỔ phạm nhầm thì phạt Bao Tử.
Ngƣời tu luyện Đơn Kim nếu phạm nhằm Ngủ Huẩn thì không Kết
Đơn, mà nó khắc Ngũ-Tạng làm cho đau ốm còn bị lây phạm tới
Ngủ Giái thì không đặng NGỦ KHÍ TRIỀU NGUƠN đó.
Ngủ Khí là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, tức là nguủ hành (trong
mình con ngƣời). Đêm ngày mỗi món đều ở yên mỗi một chỗ, là
hành nào thì hành nấy ở đó, chẳng đặng đi bậy qua chỗ khác.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
49
a) Ban ngày thời KIM Khí ở nơi CON MẮT; MỘC Khí ở nơi
LỔ TAI; THỦY Khí ở tại LỖ MIỆNG; HỎA Khí ở nơi LỔ
MỦI; THỔ Khí ở nơi NGOÀI DA.
b) Còn ban đêm thì KIM Khí trú tại PHỔI; MỘC Khí trú tại
GAN; THỦY Khí trú tại CẬT; HỎA Khí trú tại TRÁI TIM;
THỖ Khí trú tại BAO TỬ. Mỗi ngày ngủ khí đều có hao
kém, vì bởi Ngũ-Tạng là Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận nó hay
chuyển động.
Nhƣ may mà gặp đặng minh sƣ truyền chỉ phép Hồi-Quang phản
chiếu, thì mới biết làm chơ Ngủ-Hành triều tu (chầu nhóm) nơi
HUYỀN QUANG KHIẾU.
Đó là Ngủ Khí Triều Nguơn vậy.
TAM-HUÊ TỤ ĐẢNH PHẢI LÀM CÁCH NÀO?
TAM-HUÊ
“Tam-Huê là Tinh-Khí-Thần”.
Ban đêm Tinh-Khí-Thần trú nơi trái cật.
Ban ngày thì ở ba nơi khác nhau. Ba chỗ ấy là: Tinh ở nơi Lổ tai,
Khí ở nơi lổ miệng, Thần tại con mắt: miệng nói tai nghe, con mắt
thấy điều nầy kêu điều kia, mà làm cho lần lần hao-mòn Tinh-Khí-
Thần.
Kẻ tu hành luyện Đạo phải lấy Chơn-ý mà thâu Tinh-Khí-Thần đem
vào nơi Kim đanh (là trong óc). Đó là làm cho Tam-Huê Tụ Đảnh
vậy.
Dùng NGỦ VỊ cho phù hạp với NGỦ CHẤT
Ngủ-Chất là: Cay, Mặn, Đắng, Ngọt, Chua.
Mà phải đồng chất nhau.
Ngủ-Chất y Ngủ-Hành vì nó dƣỡng Ngũ-Tạng cho nên nếu dùng
tạp-chất thì thọ bịnh.
Nếu phế thanh mà Tâm suy thì cũng chẳng đặng: Ngũ-Tạng phải
đồng cùng nhau mới có an Khí khởi hành.
Chất cay là Kim sanh ra khí khô ráo mở đƣờng nhuận tả thăng
xuống khiếu phỗi.
Chất chua là Mộc sanh ra khí ấm-áp có thể thâu liểm rút lại và sáp
lại cho Gan.
Mặn là Thủy hóa khí sanh hàng làm cho mềm, bền trong chơn
Thận.
Đắng là Hỏa sanh ra khí nhiệt làm cho ráo Tim bền lại đƣợc.
Ngọt là Thỗ Sanh-Khí ra ẩm thấp mở mang con đƣờng thông thả
theo lá lách mà đi vô Tỳ.
NGỦ VỊ BỔ NGỦ TẠNG
Màu Xanh là Đậu xanh ăn Bổ Gan
“ Trắng “ “ trắng “ “ Phế
Màu Đen là Đậu Đen ăn Bổ Thận
“ Đỏ “ “ đỏ “ “ Tâm
“ Vàng “ “ vàng “ “ Tỳ
Song phải biết Nhiệt Hàng
Nếu bế Dƣơng-quang thì đặng Trƣờng Sanh và ít có đau:
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
50
Ít nói Bổ Phế.
Ít ăn Bổ Tỳ.
Dứt lo tƣởng Bổ Tâm.
Trừ đƣợc hờn giận nảo phiền Bổ Can.
Lìa sắc dục Bổ Thận.
Chỗ Trƣờng sanh là tại Chơn-Thần tịnh chơn.
7 PHƢƠNG-PHÁP BẢO HỘ NỘI TÂM VỆ SANH VỀ TU
LUYỆN
Mấy điều yếu lý
I. Khi ăn cho đúng giờ chớ nên ăn nhiều mà Tỳ-tƣớng phình
lên.
II. Ăn rồi phải đi đứng, lúc đi cho thong thả khoan thai ƣớc độ
300 bƣớc rồi sẽ nằm hay là ngồi.
III. Khi đi đại tiện, nơi đại biền và tiểu biền chớ nên dục tốc,
cũng chẳng nên rặn mà phải bị hao Khí nghe! ...
IV. Nếu có chi lậu (là địch) chớ nên nín mà trƣợc khí trở lên
làm hại cho Nê-Huờn cung nghe!...
V. Chớ khá ngồi lâu, nằm lâu, bƣớc ra di phải cho thật chậm
rải, chớ nên hối hả xạo sự nội chỉ (là đại trƣờng chuyển động).
Đi phải cho thẳng lƣng, cẳng cho đều đồng tiếp theo y nhƣ
Hành Thoàn vậy.
VI. Còn sự ăn nói: Tiếng phải cho Diệu diệu, Sự nói ấy là
cách (Nuôi Chơn-Khí vậy). Và cũng chẳng nên lóng nghe,
những các thứ tiếng ở ngoài vội vang.
VII. Không nên trứ Ý vào đâu cả! Cũng đừng ngó sắc gì hết
cả! Nếu ngó sắc thì phải động Tâm mà sanh ra Vọng-Tình.
VIII. Nếu ngó rõ thì thuộc về Thức-quang mới sanh ra Vọng
bởi còn có phân biệt bỉ thử.
Tánh-Quang ngó qua rồi hiểu liền ít hay phân tể.
Sự Sanh Vọng bởi do Tỳ-tƣớng không teo làm cho Sanh-Khí phát
động mà khó ngồi an Thoàn Tọa.
1. Khá giữ-gìn nơi Nhản-Quang là đôi mắt cũng kêu là
Sông-Mâu-Quang.
2. Còn sự thở hơi cho riêu riêu chớ cấp tốc cũng đừng thở
theo hơi ruột vì nếu thở hơi ruột thì Chơn-Khí trở ra hết.
3. Tu luyện phải giử Tam-Bửu cho đầy đủ sung túc tƣơi tắng
đừng mộng tƣởng mà sanh ra Vọng-Tình Vọng-Ý thì tự-
nhiên khỏi bịnh.
oOo
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
51
II
Luyện Đạo THEO TÂN-PHÁP CAO-ĐÀI
1
PHÉP LUYỆN KỶ
Biển lặng thấy Ngọc trầm đái-Biển
Lòng gạn đục Đạo trổ nơi Tâm.
Luyện-Kỷ trƣớc hết phải dẹp Thất-tình Lục-Dục, nhứt trần bất
nhiểm, Vạn-duyên đốn-tuyệt, Nhản Nhỉ Tỷ Thiệt Thân Ý đều là bế
thâu lại. Đi, đứng, nằm, ngồi, hằng chuyên tâm-niệm tƣởng Lục-tự
Tân-truyền (là Nam-Mô-Cao Đai Tiên Ông) hay là Lục-tự Cổ-
truyền là (Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật) đặng để Tâm không.
Khi niệm tƣởng thì hít khí Trời vô nhẹ nhẹ cho chí Rún, niệm
tƣởng nghe ở bực Nam-Mô-Cao, khi thở ra Đài-Tiên-Ông (từ Rún
sấp ra là Đài-Tiên-Ông cho tới mủi, hít vô thở ra nhƣ vậy niệm
tƣởng nhƣ vậy đặng thâu Thất-tình Lục-Dục).
Còn khi Tịnh-tọa, (Tọa-Thoàn) lƣng cho ngay thẳng nhƣ cây thƣớc
để dựng đứng vậy, mặt phải bình, (lƣởi để trên ổ gà), mắt nhắm
phải cho hí hí vừa thấy yến sáng, mà cũng đừng tƣởng nơi yến
sáng.
Khởi sự thì trƣớc hết hít vô mạnh cho chí Rún, rồi hà ra hít vào 3
lần nhƣ vậy đặng cho quên hết cuộc trần, đó cũng gọi là Mộc-Dục.
Kế đó Niệm Lục-tự Tân-truyền rồi Thần-Quang phản chiếu nơi
(Linh-Sơn là Tâm) ý thủ Quang-Môn(là Rún) hơi hít thở niệm
tƣởng cho điều hòa, một hồi rồi không niệm tƣởng nữa, phải Vong-
Ngã, chừng nào có phóng Tâm thì ý niệm tƣởng nhƣ trƣớc, một hồi
cho lâu rồi cung phải vong -ngả nữa tiềm Nội-Tức đặng, cùng tiếp
diễn của Tạo-Hóa!...
2
PHÉP HUỜN-HƢ
Hơi thở Hậu-Thiên tầm Nội-Tức
Máy Trời phẳng lặng im-lìm,
Định-Tâm, định-Tánh mới tìm Chơn Nhƣ.
Hƣờn-Hƣ là tập cái Tâm và cái Thân đƣợc yên tịnh. Khi tịnh đƣợc
thuần thục rồi thì luyện cho cái Khí Hậu-Thiên tiếp với Khí Tiên-
Thiên mà hiệp cùng Hƣ-vô chi-khí.
Luyện thì buổi đầu phải dùng hơi thở làm gốc:
Hơi thở nhẹ điều hòa là Thanh.
Hơi thở mạnh không điều hòa là Trƣợc.
Khi khởi sự, Nhản phản chiếu Linh-Sơn, Ý thủ Huỳnh-Đinh, hơi
trên hít vô cho chí rún, Ý niệm tƣởng nghe 3 bực: Nam-Mô-Cao
tới rún, hơi dƣới lên thì 1 hơi trên xuống giao hội tại Trung-tâm-
niệm 3 bực Đài-Tiên-Ông, cho hơi ra chí Mui ; khi 2 hơi giao hội
tại Trung-tâm, làm nhƣ nín hơi mà chẳng phải nín, rồi niệm tƣởng
cho hơi ra, hít thở một hồi rồi cung phải vong -ngã, thở nhƣ vậy thì
đói cung no, lại Đạo thơ có câu: Trƣờng sanh tu phục Khí; chừng
nào đặng Nội-Tức rồi, bịt mui cu ng thở đƣợc, cứ y thủ hành nhƣ
vậy, đợi đến Tiết-hàn Đông-Chí mới đặng phép luyện Bá-Nhựt
trúc-cơ.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
52
3
PHÉP LUYỆN BÁ NHỰT
Chí công đại-tịnh trăm ngày
Vạn-duyên đốn-tuyệt sanh hai điển lằng
Tấn-dƣơngthối-phù hạ thăng
Thâu-điển Hiệp-thiên Linh-căn Đạo thành
Khởi sự Tọa-Thoàn, Tâm không vọng-niệm, khi có Danh- Sanh rồi,
Thần-Quang phản chiếu nơi Khí-Huyệt, ý thủ Trung- Cung tiếp
dụng hô-hấp, Tấn-Dƣơng-Hỏa hít vô 1 hơi, hà ra cũng 1 hơi, mà 5
chặn, hít hà nhƣ vậy là kể 1 lần, rồi Thần-Quang dẫn từ Giáng-tắc-
cung qua Vĩ-Lƣ, chớ mau chớ chậm, dẫn lần cho tới Thận-Đƣờng
thì Đại-Định trong 1 hơi gọi là Mẹo, hữu Mộc-Dục. Còn sự Hô-hấp
Tấn-dƣơng-hỏa cho đủ 18 lần, cũng phải cho đúng tới Thận-Đƣờng,
Đại-Định một hơi xong rồi, khởi sự Thần-Quang bắt từ Thận-
Đƣờng, dẫn tới Nê- Huờn, còn sự hô-hấp nhƣ trƣớc 18 lần nữa cũng
phải cho đúng tới Nê-Huờn rồi ngƣng trụ Đại-Định một hơi gọi là
Ngọ-hữu- Mộc. Vậy là trọn phép Tấn-dƣơng-hỏa.
KẾ THỐI-ÂM-PHÙ
Hít vô 1 hơi, mà để ý đến 5 chặn, hà ra thì có 1 hơi. Hô-hấp nhƣ
vậy là kể 1 lần. Còn Thần-Quang bắt từ Nê-Huờn dẫn xuống tới
Quang-Môn. Đại-Định 1 hơi gọi là: Dậu hữu Mộc-Dục. Còn sự hô-
hấp 12 lần cu ng phải cho đúng tới Quang-Môn(Rún). Đại-Định 1
hơi xong rồi khỏi Hô-hấp nhƣ trƣớc 12 lần nữa cho tới Giáng-Tắc-
Cung; còn Thần-Quang cũng dẫn đƣợc khí đi, từ Quang-Môn lần
xuống Giáng-Tắc-Cung, cũng ngƣng trụ Đại-Định một hơi gọi là Tí
hữu Mộc-Dục rồi dụng ý dẫn về Huỳnh Đi nh, gọi là đủ 1 vòng
Châu Thiên!!!
Chẳng luận giờ khắc nào, Tâm không vọng-niệm mà có Dƣơng-
Sanh, thì cứ việc vận luyện y nhƣ trên đây chừng nào có Dƣơng-
Quang lộ, nhứt hiện tới nhị hiện là đủ 300 Châu thiên thì thôi vận-
luyện.
4
ĐẠI ĐỊNH
Đại-Định thêm 7 ngày chờ cho có Dƣơng-Quang tam hiện thì Kim
Đơn đã kết thành rồi, có cảnh Lục-căn chấn-động:
1. Luởng thận nhƣ hơi nƣớc nóng.
2. Đơn-điền nhƣ hơi lửa hực.
3. Cặp mắt có tủa ánh sáng vàng.
4. Sau lổ tai nghe có gió.
5. Ngọc chẩm nghe kêu nhƣ chim gỏ kiến.
6. Lổ mui làm nhƣ nhãy Mủi.
Hê Dƣơng-Quang tam hiện có cảnh lục-căn chấn-động thì Đại-
Dƣợc đã thành. Khi Đại-Dƣợc đã thành, động thƣơng nơi Tâm;
Tâm chẳng chứa mới giáng-hạ xuống Giáng-Tắc-Cung là gần chỗ
Cốc-Đạo, mà phá cửa Ngoại-Thận, thì phải Đại-Định chờ Đơn-
dƣợc tái động mới dụng ý mà đƣa vào Vỉ-Lƣ, rồi Chơn-ý trở lại thủ
Huỳnh-Đình! Rồi khởi hành Hậu-Thiên Tức, vận Tấn-dƣơng-Hỏa,
Thối-âm-Phù nhƣ thể vận luyện Bá-Nhựt Tiểu-châu-Thiên vậy; mà
vận 2 vòng gọi là Đại-châu-Thiên! Hể Đại-Dƣợc có trắc trở nơi
Tam-Quang thì dụng Chơn-ý đƣa cho khỏi cửa, rồi dụng hô-hấp
Tấn-dƣơng-Hỏa. Thối-âm-Phù cho đủ 2 vòng, cũng khởi sự từ
Giáng-Tắc-Cung vận hành theo đƣờng Nhâm đốc mạch 2 vòng.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
53
5
(THẬP NGOẠT HOÀI THAI)
Đây là, 10 tháng dƣỡng thai thì Thần ở Khí-Huyệt đơn- Khí ở
Tâm, Ý ở Huỳnh-đinh mà Đại-Định.
Đến đây còn có một Chơn-Thần với Ý mà thôi, cứ chơn-định dụng
văn-Hỏa là Chơn-Nhơn Tức, mà nuôi âm, chớ không có vận luyện
chi nữa, chơn-định cho đƣợc 2 tháng thì tánh ăn Tân dịch đa dứt;
định cho đến 4-5 tháng thì huyết-mạch đều ngƣng cho đến 8-9
tháng thì lục thông phát huệ.
Đủ 10 tháng rồi thì Thần-Dƣơng, Thái-Viên quả-mãng rồi có cảnh
Liên-hoa loạn-xạ, dụng ý mà dẫn về thƣợng điền, mà Đại-Định,
Chơn-ý cứ thủ Nê-Huờn chớ không thủ Huỳnh Đinh nữa.
Còn khi có cảnh Liên-hoa là cảnh Xuất-Thần thì phải tập Xuất-
Thần.
6
PHÉP TAM-NIÊN NHŨ-BỘ
Khi có cảnh Liên hoa thì tập Xuất-Thần ra rồi phải thâu lại liền,
ban đầu Xuất-Thần đi gần, lần lần mới đặng đi xa; 7 ngày mới đặng
phép Xuất-Thần một lần, Xuất-Thần thì ít, Đại-Định thì nhiều. Khi
Xuất-Thần ra có gặp Quỉ-Quái Tinh-Ma có giả Tiên Phật mà
khuyến dụ dẫn đi cho lạc đàng, đặng hết thành chánh-quả phải mau
nhập vô Nê-Huờn!!!
7
PHÉP CỬU NIÊN DIỆN BÍCH
Đến đây còn có một Chơn-linh mà thôi, cứ Đại-Định cho tới chín
năm thì đã thành Chánh-quả, hết sức nhẹ-nhàng Thuần-dƣơng,
khinh phù thăng thƣợng về nơi ngoại Càn-Khôn. Khi đủ 9 năm rồi,
nhƣ muốn xuống thế cứu đời thì hạ thế mà độ đời.
Còn muốn tu thêm thì Đại-Định lâu chừng nào thì Linh-quang
(Linh-Hồn) càng mạnh, càng lớn chừng nấy, lại chứng quả vị cao
hơn nữa.
8
HÌNH ĐỒ KHI LUYỆN KỶ
Giờ Tý Hồi-Quang soi Tâm. Ý ở Huỳnh đinh . Trên thì Tâm dƣới
thì Tỳ, Huỳnh đình ở vào giữa, cuối Tâm trên Tỳ khá hiểu.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
54
Khá nhớ lấy Nhãn chiếu Khí-Huyệt, Ý thủ trung-cung, cho nên nói
ý là Mai-Mối gọi là Huỳnh-Bà.
Hể Ý ở đầu gốc thì Tinh Khí cung về gốc.
Hể lửa đốt thì nƣớc thành hơi, lấy hơi mà làm thuốc lấy Tinh đổi
ra hơi đem về Khí. Gọi là Luyện Tinh hòa Khí . Cũng gọi là Càn-
Khôn Giao-Cấu, Khảm-Ly tƣơng hiệp. Càn hảm Khôn Thần-
Quang ở vào cung Càn, đem vào Khí-Huyệt, Khảm ở cung Khôn
mà Giao-Cấu đây nghĩa là phản-cấu mới nên Tiên.
Giao-Cấu mà dục-cấu tức là thuận-cấu thì sanh phàm.
Lẽ thuận nghịch nhƣ vầy.
I
THUẬN CẤU SANH PHÀM
Trƣớc khi sanh thì từ Huỳnh đình trở lên Nê-Huờn là Càn dƣơng
mà Tâm ly hỏa thuộc Quang ở trên Huỳnh đình thì nó thuận -cấu.
Tâm-huyết-thần nó nguyên căn thuộc âm mà hãm giao nơi cung
Càn; Ly ở Càn mà Giao-Cấu. Đó là thuận.
II
NGHỊCH CẤU SANH TIÊN
Còn phản-cấu thì Tâm Quang là Ly mà chiếu soi Khí-Huyệt
Khảm, ấy là Ly giao Khảm. Ly phản về nguyên. Thần trở về âm
Khôn, thì tức nhiên ly thần chủ về nhà, Khảm linh: Khách phải thất
vị tức phải hóa Khí hồi Nguyên.
10
LUẬN VỀ HÔ HẤP THẦN CÔNG
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
55
Vì Tâm ở trên, Thận ở dƣới tức nhiên Tâm là Lửa-Thận là Nƣớc;
Tỳ là Lò. Còn Thập-nhị-trùng-lầu là Thoát thƣợc; Hô-hấp là lấy
hơi gió thổi Lửa đặng đốt Nƣớc thành Hơi; chẳng có gì lạ hơn có 1
Âm-Dƣơng mà thôi. Âm-Dƣơng lại có chủ có thầy. Chủ của Tâm
huyệt-Âm là Thần-nhản nên Hồi-Quang phản chiếu thì Thần-nhản
đem về Khí-Huyệt là đem chủ Thần-hỏa về đặng hơi gió thỗi lửa
mới theo Tƣớng soái mà đến đó.
(Kẻ phàm do Hô-hấp mới tiêu hóa vật thực, cho nên ăn no thì hơi
thở phải nhiều. Còn muốn tìm Chơn-Nhơn-tức, phải bớt ăn là
vậy).
Còn Ý là chủ của Vạn-Khí Dƣơng-tinh, nên Ý ở Huỳnh Đinh , để
chờ dắc Khí-dƣợc về Huỳnh-Đinh.
Tấn-dƣơng-Hỏa thì tấn công dụng một hơi hít một cái tới Rún, rồi
hà ra 5 bực.
Còn Thối-phù thì hà ra một hơi chí Mui hít vô 5 bực.
Hể Tấn-dƣơng thì lấy hấp làm đại hào, hà làm tiểu hào.
Còn Thối-phù lấy hà làm đại hào, hấp làm tiểu hào.
Tấn-dƣơng hít một hơi tay lần một hột chuổi; Thối-phù hà một hơi
tay lần 1 hột chuổi.
(Xâu chuỗi tiểu châu làm nhƣ vầy tiện hơn: làm riêng một xâu 60
hột và một xâu 126 hột tiện hơn. Trong lúc Trúc-Cơ dụng xâu 60
hột, ngăn làm 4 lớp, lớp đầu 18 hột thì gút riêng, kế 18 hột gút
riêng nữa để làm 2 thời Tấn-dƣơng rồi 12 hột gút riêng, kế 12 hột
cho dễ trong khoãn tứ-thời Mộc-Dục (Mộc Dục là Đại-tịnh, gọi là
tắm rửa bồi trần, chẳng nhiểm một mãi trần ai đó là tắm gội, chớ
không phải lấy nƣớc mà tắm sạch lòng đặng đâu).
Còn xâu trƣờng 120 hột để dụng Đại-châu-Thiên ngăn ra làm 8
chận theo 2 lớp Tiểu châu, riêng 6 hột để làm 6 hơi giúp.
(Nơi đây kẻ lâm tƣởng hậu học mang chuối gọi là hiệu nghiệm của
ngƣời tu thì lầm lắm, mang chuổi mà không làm độ-số thì có ích gì
đâu?)
Còn về Lục-tự-Niệm lại lầm hơn nữa, tƣởng kêu Phật thì Phật rƣớc,
kêu Thầy mà Thầy rƣớc đặng đâu. Nếu niệm Lục-tự Phật mà không
dùng giờ Luyện-Kỷ thì không ích chi!
11
SỰ LẦM THẤT-NHỰT ĐẠI-ĐỊNH
Lại còn lầm Thất-Nhựt Đại-Định, tƣởng rằng: Vào thất bảy ngày thì
thành.
Nhật-thất là để làm cho Thần-ý Đại-Định chờ Đại-Dƣợc, đủ cân-
lƣợng không non không già, để hái lấy, chớ nhập-định mà không có
Đại-Dƣợc thì có ích vào đâu.
Khi Trúc-Cơ Tiểu-châu-Thiên thì lúc dƣơng-vật động thì Thần ở
Khí-Huyệt.
Ý ở Huỳnh-Đình Đại-Định, chờ chơn tinh tái động thì hít một hơi 5
hà thì Thần-Quang cũng đi lần theo từ số 12 trở lại, dùng sự sáng
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
56
con mắt cũng tƣởng theo đƣờng Đốc mạch mà dắc tinh theo hơi hít
hà đƣa Thần-Quang thì dắc đủ 18 hơi hít, 90 hà thì Thần-Quang
cũng đến số 3 rồi Đại-Định trong một hơi, rồi khởi hít hà nữa đủ 18
hơi 90 hà thì Thần-Quang cũng đến số 7, Mộc-Dục Đại-Định nữa.
Kế đơn động Thối-phù thở một hơi hà, 5 hít, đủ 12 hà Thần-Quang
cũng tƣởng đến số 9 rồi cùng Đại-Định; kế tiếp 12 hà 60 hít thì đến
số 12 dùng Đại-tịnh rồi lấy Ý rƣớc về Huỳnh-Đình Đại-Định nữa.
Nhƣ còn khỏe thì lấy thuốc; mệt thì nghỉ mà Ý cũng chẳng nên rời,
giữ thuốc nơi Huỳnh-Đình, nếu rời thì thuốc tãn mất. Đại-châu-
Thiên thì hái, cũng nhƣ Tiểu-châu-Thiên mà mãng 2 vòng Thần-
Khí đến số 12 thì Ý vừa qua hạ kiều rồi giúp 6 hơi Tấn-Dƣơng;
mãn 6 hơi đó đủ 126 hơi rồi đúng Ý dắc luôn về Tâm Huỳnh-Đình
gọi là phục thực. Giờ nầy Ý ở Huỳnh-Đình, Thần ở Khí-Huyệt, đó
là chiết Khảm điền Ly; lấy Thần hỏa ở cung Ly trở về cung Khảm.
Lổ Huyền quang tức là Khí-Huyệt ấy là Mẹ còn Huyền Quang Tốn
là Tinh; hai bên thì Thận-Thủy, Thận hỏa, trƣớc là Tỳ nó ở giữa.
oOo
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
57
III
CHƠN NGÔN BÍ TRUYỀN CỦA CHƠN-SƢ TIÊN TRƢỞNG
1
PHÁP LUẬT BÍ MẬT CỦA ĐẠO VÔ-VI
Đây, dƣới đây là chìa Khóa bí mật để mở cửa kho phép tắc nhiệm
mầu của Đại Đạo Vô-Vi do nơi đó mà biến hóa vô cùng vô tận...
SƠ GIẢI
Luyện Đạo là lấy cái nghịch điều hòa cho cái thuận dùng cái
thuận mà khám phá ra cái nghịch.
Nhƣng phải hiểu cội lý nó nhƣ vầy:
Cái Hình của Đạo có 2 yếu tố: 1 Âm và 1 Dƣơng.
Cái Hồn của Đạo là vô Tƣớng vô Sắc.
Ngƣời tu phải mƣợn cái Hình-Đạo mà lập nền cho Đạo thể cũng
nhƣ ta mƣợn xác-phàm của ta đặng tu luyện hóa ra xác Thánh cho
ta vậy.
Thời-kỳ vô-thể, Thái-Cực còn nguyên vẹn chƣa phân làm Luởng-
Nghi, Tứ-Tƣợng, thì Đạo không Động, không Tịnh, bao phủ lấy
Âm-Dƣơng đó là ĐẠO-THỄ.
Đến khi Thái-Cực chia 2, Âm-Dƣơng tách ra 2 nẻo tuần hoàn
sanh ra Đạo; ấy là ĐẠO-DỤNG.
Từ đây Tiên-Thiên giữ gìn Đạo-Khí, còn Hậu-Thiên là Hình-Thức
của Âm-Dƣơng.
Hậu-Thiên động tịnh trong lòng Tiên-Thiên tức là Âm-Dƣơng động
tịnh trong lòng Đạo. Vì đó Đạo-Khí cũng bị ảnh hƣởng mà tiêu hao,
xem ra thì chính Đạo sanh ra Âm-Dƣơng mà Âm-Dƣơng là
rƣờng cột của Đạo, có Đạo mới có Âm-Dƣơng.
Trái lại có Âm-Dƣơng mới có Đạo, đó là Thái-Cực tạo ra Âm-
Dƣơng, và nghịch trả lại là Âm-Dƣơng giao-cảm tất hiệp thành
Thái-Cực, là hỏi:
Lúc Thái-Cực phân ra 2 ngôi, thì Âm-Dƣơng cũng phân ra 2
đƣờng.
1. Ở ngôi Tiên-Thiên thì có Tiên-Thiên Âm-Dƣơng
2. Ở ngôi Hậu-Thiên thì có Hậu-Thiên Âm-Dƣơng
1. Tiên-Thiên Âm-Dƣơng là KHÍ cho nên chẳng thể rờ đƣợc
bóp đƣợc, nắm đƣợc, hƣởi đƣợc.
2. Hậu-Thiên Âm-Dƣơng là CHẤT cho nên rờ đƣợc, bóp,
nắm, chứa đƣợc.
1. Tiên-Thiên Âm-Dƣơng là Nƣớc Cốt
2. Hậu-Thiên Âm-Dƣơng là Cặn Bã
1. Bởi nơi Thái-Cực Tiên-Thiên Âm-Dƣơng sẵn có.
2. Còn Hậu-Thiên Âm-Dƣơng là do Thái-Cực sanh ra.
1. Tu luyện Kim Đơn phải hiểu chỗ Hậu-Thiên Âm-Dƣơng mà
dùng.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
58
2. Mà phải nhờ có Tiên-Thiên Âm-Dƣơng mới thành đạt đƣợc.
Thái-Cực Tiên-Thiên Âm-Dƣơng sanh Hậu-Thiên Âm-Dƣơng
Hậu-Thiên Âm-Dƣơng sanh ra loài ngƣời.
Bây giờ loài ngƣời lấy Hậu-Thiên Âm-Dƣơng của mình mà hiệp
với Tiên-Thiên Âm-Dƣơng thì sẽ đƣợc một Thái-Cực, tức là huờn
Đơn gọi là Thánh thai hay là Kim đơn đó.
Vậy nên biết làm cho Âm-Dƣơng trong ngoài thân ta mà giao-cảm
đƣợc thì ta nắm đƣợc mối Đạo của Trời tức là biết đƣợc phép mầu
nhiệm của đấng Tạo-Hóa vậy!
Muốn rõ phép giao-cảm Âm-Dƣơng Tiên-Thiên và Hậu-Thiên thì
phải học thông Thiên-can và Địa-chi, cùng là phải biết Huyền
quang là nơi giao-cảm Âm-Dƣơng; phải biết Khảm-Ly Tiên-
Thiên và Khảm-Ly Hậu-Thiên phải biết ngoại dƣợc là Chơn
Diên, còn nội dƣợc là Chơn Hống.
Đạo-Hữu nào muốn học thông phép nhiệm mầu trên đây thì phải lo
tu tâm, luyện tánh, có hạnh đức hoàn-toàn sẽ gặp Đại-Đức Chơn-
Sƣ Tiên Trƣởng có đủ quyền năng tiếp dạy mới thấu rõ máy Thiên
cơ đặng!
2
TẠI SAO MÀ LẢO VÀ TỬ (Có Già, có Chết)
CHÖ GIẢI
Đạo là: Âm-Dƣơng tiêu trƣởng.
Làm ngƣời khá thông, lo chƣởng lấy Tinh-Thần hầu lo tu luyện,
cho kịp thì giờ.
1. Thuần-dƣơng Nhựt-Nguyệt, là căn cơ của Thiên địa.
2. Ngƣời do Tinh-Thần mà bảo tồn tánh mạng.
1. Càn-Khôn, thì Nhựt, là Dƣơng, thƣờng tồn thƣờng
trƣởng!...
1. Còn Nguyệt là Âm, thƣờng luân thƣờng chuyển.
2. Bởi vậy con ngƣời có sanh trƣởng, thì có lão có tử!...
Thần và Tánh của con ngƣời thuộc Dƣơng, nên bất tiêu bất-diệt!
Còn Tánh mạng thuộc Âm, thƣờng tiêu thƣờng vong, có sanh có
trƣởng, có lảo và có tử!...
Nhƣ Nguyệt, Âm, sanh trƣởng, ấy là: bực thƣợng đức còn lảo và
tử là phẩm hạ đức.
Ngƣời Thƣợng Sỉ, nên tùng sanh trƣởng mà giải thoát tục trần, đặng
vào nơi Thánh Đạo!
Kẻ hạ sỉ, sẽ phải bị tiêu vong, thì nên tùng cơ Đạo mà chấp Đức
vậy!
Chấp Đức cho kịp lúc Lảo thành; bởi Âm-Dƣơng tiêu trƣởng có
đôi-đƣờng:
KHI SƠ SANH, THÌ THIÊN VÔ NGUYỆT!
CÕN NHƠN THÌ VÔ TINH
Ấy là: quẻ Khôn-vi-Địa
1. Đến ngày sơ-tam, thì sanh đặng Nhứt-dƣơng, biến khôn
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
59
thành phục quái!
1. Ngƣời đặng 960 ngày mới có 1 điểm tinh!
2. Cho đến Sơ-ngủ, thì Nguyệt biến Âm, thành Nhị-dƣơng, là
biến Phục thành Lâm!
2. Ngƣời đặng 5 tuổi, 4 tháng, mới có 2 điểm Chơn Tinh!
3. Đến sơ-bát, thì Nguyệt thâu đặng Tam dƣơng biến Lâm
thành Thới!
3. Ngƣời đặng 8 tuổi mới có 3 điểm Tinh!
4. Đến thập nhứt, thì Nguyệt thâu đặng Tứ dƣơng biến Thới thành
Trán!
4. Ngƣời đặng 12 tuổi, 8 tháng, mới có 4 điểm Tinh!
5. Đến ngày thập tam, thì Nguyệt thâu đặng Ngủ dƣơng, biến Trán
thành Ƣơng!
5. Ngƣời đặng 13 tuổi, 4 tháng, mới có 5 điểm Tinh!
6. Đến ngày thập ngủ nhựt, thì Nguyệt thâu đặng Lục dƣơng, biến
Ƣơng thành Càn!
6. Ngƣời đặng 16 tuổi, mới có 6 điểm Tinh, thì Càn-Khôn chói
rạng Lục Dƣơng sanh trƣởng!!!...
Ngƣời nơi đây đã lớn, Tinh-Thần đầy đủ, thì kiếp mau tầm đƣờng
siêu sanh Liễu Tử! Giờ nầy chẳng tu, thì 8 năm lại biến thành Nhứt
Âm!...
Còn Nguyệt; biến thành Nhứt Âm, Càn đổi ra Cấn! (1).
oOo
1. Ngƣời đặng 24 tuổi, thì đã khuyết 1 điểm Chơn Tinh, nếu
chẳng lo tu luyện, thì đến 32 tuổi, thì đã khuyết 2 điểm Dƣơng
rồi!
2. Nhƣ mặt Nguyệt; đến Nhị thập nhứt nhựt, khuyết nhị dƣơng,
biến Cấn thành Độn! Nơi đây chẳng dụng trí tri mà tu luyện; để
đến 40 tuổi, khuyết 3 điểm Dƣơng, ắt khó huờn: Nhƣng gắng
công lâu ngày thi cũng thành đặng.
3. Nhƣ mặt Nguyệt; đến Nhị thập tam nhựt, thì khuyết tam
Dƣơng, biến Độn thành Bỉ!
4. Ngƣời chẳng tu đợi đến 48 tuổi, thì đã Khuyết 4 điểm Dƣơng,
rồi thì thêm khó. Nhƣng gắng công mài sắt, ắt ngày nên kim.
Nhƣ mặt Nguyệt; đến nhị-thập ngủ-nhựt, đã thành tứ Âm, biến
Bỉ thành Quang!
5. Ngƣời chẳng siêng cần, để đến 56 tuổi, thì khuyết đến 5 điểm
Chơn-dƣơng! Nhƣ mặt Nguyệt; đến nhị thập bát nhựt, đa thành
ngủ-Âm, biến Quang thành Bát .
6. Ngƣời chẳng kíp tu, thì đến lục thập tứ tuế (64 tuổi), thì Khuyết
hết 6 điểm Chơn Tinh đã hết rồi, ô hô lâm mạng!
Nhƣ mặt Nguyệt; đến tam-thập-nhựt thì lục-Âm thuần toàn, biến
Bát thành Khôn, thì trên Trời không trăng, nơi ngƣời không
mạng!
______________ (1) = Càn (thuộc Kim) -Cấn (thuộc Thổ) -Khôn (thuộc Thổ)
Nơi đây còn có sát chơn-Âm, thì dùng Âm-trung, phản luyện thành
Dƣơng, thì thật là khổ-gay. Những Chí-tâm, Chí-đức gắng công
phục hồi, cũng đặng thành Thánh-Đạo!
Vậy thiện-Nam và Tín-Nữ, man tầm Đại-Đạo, hầu Phản-bản huờn-
nguyên, cho kịp kỳ lảo-tử!
3
TU THÂN LUYỆN KỶ
Con ngƣời là Tiểu-thiên-Địa, vì trong thân con ngƣời cũng có
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
60
Âm-Dƣơng nhƣ Trời-Đất vậy.
Nhờ nhị Khí Âm-Dƣơng mà hóa sanh đặng.
Phía trƣớc thân ngƣời là Mạch Nhâm.
Phía sau thân ngƣời là Mạch Đốc.
Hai mạch nầy nối nhau hai đầu
Phía trên gọi là Thƣợng thƣớc Kiều
Phía dƣới gọi là Hạ thƣớc Kiều
Vậy Nhâm-Mạch đi qua từ lổ Mũi theo cuống họng xuống Bao-tử
tới Đại-trƣờng và Tiểu-trƣờng, đó là thống lộ của tam Điền là Nê-
Huờn-Cung, Huỳnh-Đình cung và cung Khí-Huyệt.
Còn Đốc-mạch đi từ Cốc-Đạo lên Côn-lôn-đảnh, tức là Kỉnh đồ
trong Tam-Quang là Vĩ-Lƣ quang, Giáp-tích quang và Ngọc-chẩm
quang.
GIẢI NGHĨA HAI MẠCH NẦY
Khi Thai-nhi còn ở trong Thai-Bào thi 2 mạch nầy lƣu thông với
nhau, điều hòa luân chuyển ăn nhịp với trong thân Thai-nhi.
Bởi vậy cho nên Thai-nhi không ăn không uống không thở mà vẫn
sống là do nơi Tam-Bửu (Tinh-Khí-Thần) còn trong sạch ở nơi
Tiên-Thiên vậy.
Con ngƣời có Mắt tức là THẦN,
Mũi tức là KHÍ,
Tai tức là TINH
Nếu ba món nầy trong sạch nghĩa là Mắt không thấy. Mũi không
hƣởi, Tai không nghe, thì gọi Tiên-Thiên Tinh-Khí- Thần vậy; trái
lại: nếu thấy đƣợc, nghe đƣợc, thở đƣợc thì Tiên-Thiên Tam-Bửu sẽ
trở xuống thành Hậu-Thiên Tam-Bửu.
CHÂU-THÂN HÌNH ĐỒ
Thì bây giờ: Càn-Khôn đổi thành Ly-khảm tức là 2 Mạch Nhâm
Đốc phải rời rã ở nơi 2 thƣớc kiều, (Nhị thƣớc kiều) do đó anh nhi
mất lẽ trƣờng sanh.
Tu tức là nơi chỗ nầy:
Đạo là vận-trù tìm trƣờng sanh nơi đây vậy. Nếu tham thiền
nhập định nên nhớ để Chơn-ý vào chỗ thƣớc kiều hầu ráp lại 2
mạch Nhâm Đốc lại. Vì Nhâm Đốc cƣ thông; bá mạch tƣơng thông
thì nhơn-thân vô bịnh! Đó là Trƣờng sanh; nếu 2 mạch Nhâm Đốc
thông hiệp nhau rồi thì liền có Hào quang của Tiên-Thiên khí hiện
sáng lòa vậy. Lúc nầy con ngƣời cảm thấy thân nhẹ-nhàng yên lặng
khỏe khoắn, trí chẳng nhiểm một điểm trần nào hết.
Có câu rằng: Nhứt niệm bất sanh, toàn thể hiện, lục-căn tái động bị
vân già.
Còn luyện trƣờng sanh Đơn-dƣợc chỉ là dụng 8 lƣợng Diên và 8
lƣợng Hồng để tại Thƣợng thức kiều do bởi Chơn-ý, đủ huyền-diệu
làm cho Nhâm Đốc tƣơng thông Phải gìn Ngƣơn-Thần cho
chính!!!...Nơi nầy phải trao khẩu khuyết.
Phải để Chơn-ý ở trên Thƣợng thƣớc kiều thì bổn chi bất-động,
Ngủ uẩn giai không, phải cấm khẩu tồn-Thần định ý điều tức miên
miên, mạc giao gián đoạn, dỉ hữu nhƣ-vô, đó là ngƣng thần tổ khiếu
là để Chơn-Thần nơi TỔ-ĐẠO mà hấp thụ Tiên-Thiên khí vậy
(Ngủ huẩn: sắc, thọ, tƣỡng, hành, thức).
Thì trong thân ta lúc nào cũng có khí Tiên-Thiên.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
61
Bởi vì: Hữu thử Tiên-Thiên tắc sanh.
Vô thử Tiên-Thiên tắc tử.
4
TỨ THỜI HƢ-VÔ
GIẢI NGHĨA
TỊNH TỨ-THỜI TÍ-NGỌ MẸO-DẬU
Tịnh là phép diệt mê khử vọng
Đặng an-Thần bất-động Khí-căn
Tí-Ngọ Mẹo-Dậu là lằn
Thƣờng thƣờng liên tiếp Thủy thăng trung bình
Hỏa giáng xuống dục tình Khí hải
Nhờ Tham-Thoàn khắp rải tiêu tan
Vọng-ái mới đặng lặng trang
Đó là chiết Khảm phản đàng về Ly
Mấy lời khá nhớ làm y
Thất-Lục, đều lặng, Ngủ-chi điều hòa
Đó là Tịnh-tọa Tiên-Gia ...
oOo
GIỜ TÝ = giờ Tý: Vong-Ngã là tịnh luyện giống nhƣ Tử thi vậy,
nghĩa là: Chết mà không chết: Sống mà không biết. Trong cảnh nầy
Chơn-Nhơn xuất thẳng lên Nê-Huờn Cung mà hầu tiếp Thiên-Điểu
đó cũng gọi là Đại-Định vậy.
Cần nhứt phải dùng một ghế dƣới chƣn phải có cái gì để dƣới bàn
chơn đừng cho đụng đất; ra nơi nào cao Địa đêm thanh mà hít lấy
Khí Hƣ-vô Thanh Khí; đó là để thâu điển hơn ở trong nhà.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
62
Bởi trong nhà là ổ Âm Khí bao bọc, vì Âm Khí trƣớc độc, nó sẽ hại
ta.
Âm-Dƣơng phản khắc sẽ bị tiêu-diệt đó.
GIỜ TÝ = là giờ Dƣơng-Khí phát sanh phải ngồi ngó về hƣớng
Đông, nên cần ngồi thoàn mặt ngó Đông đặng thâu Thanh Khí mà
dƣỡng Thần, tay phải ấn Tý, thân mình cho ngay thẳng cho các bộ
phận đƣợc thông Khiếu đó.
Còn miệng cần nhứt ngậm lại nếu hở thì tan Khí vậy. Nhớ Bế Khẩu
và bế Nhỉ mà đƣợc bổ Thận.
GIỜ NGỌ = Ngọ là đứng bóng tóm 24 Khí Chơn tinh-anh thuần
túy của Võ-trụ mà ban bố làm cho tƣơi-nhuận Vạn loại khấp cả
Càn-Khôn vậy.
Ngọ là giờ của Khí giao bôi lại nơi điểm Trung-tâm của bầu Trời
thế-giới. Nguyên vốn giờ Ngọ ấy Thƣợng Đế gom 24 Khí hiệp lại
làm một rồi bủa ra khắp cả Nhơn Gian chung tộc cho các Nhơn-loại
cỏ cây đều thọ hƣởng.
Khí ấy là điển quang tuần-huờn chữ thƣờng gọi “Nhứt nhựt vận
hành Châu Thiên vậy”.
GIỜ MẸO = cũng tịnh ngồi nhƣ Tý mà cũng phải nhƣ Tử Thi,
Vạn-duyên đốn-tuyệt, cấm vọng, tƣởng, chẳng vậy nó sanh ra Ngũ-
Tạng sẽ hƣ hỏng.
GIỜ DẬU = cũng y nhƣ giờ Mẹo vậy.
Trong 4 giờ trên đó giờ nào cũng Mộc-Dục là Không Không trống
lỏng, không nhớ những chi vào tâm cả.
GIẢI NGHỈA MỘC DỤC
Trong tứ thời: Tý-Ngọ-Mẹo-Dậu mới vô hay là sau, thƣờng hay
dùng luyện Mộc-Dục đó.
MỘC-DỤC là nghĩa làm sao?
Đó là Chơn-Định tắm rửa bụi trần chẳng nhiểm, để tâm trí Không
Không đừng nhớ, đừng lo tƣởng chi cả. Cũng gọi là Chơn-Nhơn
hô-hấp; nếu tịnh mà không Mộc-Dục còn động là Hậu-Thiên hô-
hấp (Trƣợc Khí).
Phép Mộc-Dục là làm cho Vạn-duyên bất nhứt nhiểm chớ không
có gì lạ đâu.
Khi Mộc-Dục phải dùng Song Khuê (Mâu) mà trấn Mồ kỹ cho
vững nền (Thái Thanh Hồi-Quang).
Mồ Kỷ nhị Thổ là Khôn Âm là Thổ về hiệp với Cấn Dƣơng cũng
là Thổ mà nên Đạo vậy!...
Đó là Âm thổ hiệp với Dƣơng Thổ là Khí hiệp Thần mà nên Chơn-
ý tức là lƣỡng thổ thành Đạo Khuê vậy!...
Muốn có Chơn-ý thì phải nhờ tứ tƣợng là Kỷ Thổ Dƣơng về với
Mồ Thổ Âm mới tạo thành đặng Chơn-ý.
Bởi Đạo nhờ Chơn-ý; nếu Đạo không Chơn-ý tức là không Đạo.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
63
Tánh-Tình: Tinh-Thần qui ƣ Ý đó, còn nơi Trời là Kim, Mộc,
Thủy, Hỏa qui ƣ Thổ.
Nếu muốn nên Đạo thì phải Định-Thần Hiệp Khí qui về Chơn-ý mà
dẫn nó đem vào Huyền-quang-Khiếu vậy.
(Tứ tƣợng phải xem bản-đồ Tứ Tổ Qui Gia mà nghiệm xét mới hiểu
đặng).
TỨ TỔ QUI GIA
Bản-đồ và diển nghĩa
1. Tứ Gia tức là Kim Mộc Thủy Hỏa hiệp lại sanh ra Chơn Thổ ở
tại Giửa (trọn Ngủ-Hành).
2. Còn ở tại Ngƣời là Tâm, Can, Phế, Thận, hiệp lại Tỳ là đủ (Ngũ-
Tạng) tức thị là Hồn-Phách Tinh-Thần hiệp lại mới sanh ra Chơn-ý
ở trong vậy.
Trƣớc hết là Vô Cực sanh Thái-Cực một vòng tròn tức là Càn-
Khôn. Lập ra Thế Giái là một ngan đầu (Nhứt Nguơn) phân ra
Lƣỡng Nghi, một sỗ xuống chia Tứ tƣợng chia có Đông Tây, Nam
Bắc đó là phƣơng hƣớng.
Chữ Thập nầy rất là mầu nhiệm, ẩn cái nghĩa lý sâu xa gom đủ
Ngủ-Hành và Ngũ-Tạng, là ý nói về: Thiên Nhơn đồng nhứt Khí thì
Trời hiệp Ngủ-Hành lập thành Thế giái, Ngƣời biết hiệp Ngũ-Tạng
thì trở nên Tiên Phật.
5
TỌA THOÀN
Khi Tọa-Thoàn ngồi cho ngay lƣng.
Mặt phải bình. Đôi mắt hí hí không mở hoát, không nhắm lại. Cặp
mắt nhắm hở nhƣ hột lúa nằm ngang. Nếu mỡ thì thuộc Dƣơng,
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
64
nhắm bít lại thì thuộc Âm. Hễ thuộc Âm tức hại cho Phế và hại cho
Mắt.
Khi điều hòa đôi mắt rồi thì Nhản chiếu nơi Tâm nhƣng đừng đƣa
trồng mắt liếc xuống ngực, chỉ lấy ý tƣởng đem về Tâm mà lúc nào
cũng bình diện.
Đôi Nhản quang tƣởng xuống nơi Tâm (trong Khẩu Khuyết gọi là
Hồi-Quang phản chiếu). Còn Ý bất phóng ngoại và phải điều hòa
Nội-Tức.
Nội-Tức là thở ở trong, không thông ra ngoài, nhƣng chƣa thở đƣợc
theo nhƣ loài Thủy tộc, phải nghe hơi thở cho điều hòa, nhƣng phải
phân ba bực.
Hơi hít vào cho tới Rún thì phân nhƣ vầy: (đó là lấy từ mực cho
điều hòa hơi thở).
Khi hít vô tới Mũi gọi là Nam.
Khi đem hơi thở vô ngay Trung-tâm là Mô.
Hơi thở vận xuống chí Rún gọi là Cao.
Từ Rún nghỉ một chút gọi là Đài.
Rồi dẫn hơi thở lên ngay Trung-tâm gọi là Tiên.
Đem hơi thở ra tới lổ Mủi gọi là Ông
Làm nhƣ vậy cho điều hòa hơi thở, nhƣng lấy ý tƣởng mà thôi,
đừng đọc danh hiệu 6 chữ đó. Cứ điều hòa nhƣ thế luôn luôn. Tâm
cứ thủ vậy hoài đừng mong sự gì và cũng đừng phóng ra, ấy là phép
Tịnh sơ thoàn, tập lần lƣợc cho đƣợc rồi sẽ đi đến lớp khác, là lớp
Đại-Định Trúc-Cơ.
Đây là dạy theo Tân Pháp chơn truyền của Cao Đai Thƣợng Đế,
chớ không dùng cựu pháp nữa.
Luyện Pháp Sơ thoàn nhập định, phải hiểu rõ các danh từ nếu làm
sái thì có hại nhƣ:
1. Cứ đƣa hơi ra mau và mạnh thì làm cho lổ Mủi phải bịnh.
2. Thấy màu sắc hiện trƣớc mắt ấy là Hỏa Vọng Nhản quang,
là vì đôi mắt khi lim diêm, khi nhắm lại thì trƣợc Khí xông
lên thành không đƣợc đó.
3. Phép ngồi Tịnh-tọa chẳng cần ngồi kiết dà hay bán dà cứ
dùng ghế ngồi để 2 chơn xuống cho máu huyết thông lƣu thì
sau khỏi bại, bằng không thì sau sẽ đau bịnh tê.
4. Nhớ khi Phãn chiếu Hồi-Quang, đừng đem đôi mắt xuống vì
hại về sau đôi mắt. Lấy ý tƣởng chiếu xuống Tâm, chớ
không đƣa tròng mắt liếc xuống ngực. (Ý thủ tại Huỳnh-
Đình).
6
ĐẠI ĐỊNH BÁ NHỰT TRÚC-CƠ
YẾU LÝ SƠ GIẢI
Khi Đại-Định, nhập vào Tịnh thất thì cần phải biểu: “Nhứt Trần
bất nhiểm”. Cần phải hiểu cho thông phƣơng-pháp mới hành đƣợc.
Nhứt là chỗ vận Hỏa-Hầu, phải biết cách vận hành, bằng không nó
sẽ làm cho ta bị thổ huyết, hoặc bị hƣ hại cả 5 tạng-phủ nữa.
Vậy cách Sơ Thoàn phải hành y theo lời dạy trên đây cho thuần
thục hoàn-toàn rồi mới luyện qua Bá-Nhựt trúc-cơ. Chẳng nên
khinh thƣờng.
7
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
65
PHÉP TRỪ DÂM CĂN DƢƠNG VẬT Ngoài giờ Luyện đạo của ngƣời tu Chơn
Ban ngày, hoặc ban đêm, bất luận là giờ phút nào, vì Tinh lực
mạnh, nhiệt nóng nên dƣơng vật chuyển động thì mau mau ngồi
Kiết-dà, hoặc bán-dà, thủ công theo phƣơng-pháp nầy:
1. Hít 1 hơi mạnh vô từ lổ Mủi tới Hải Khí dƣới Rún, rồi nín
thở (đình-tức).
2. Nín-thở một chút rồi Hà ra mạnh cho ra lổ Mủi.
3. Hít-Hà đủ 36 lần thì dƣơng vật thục đầy vô. Dâm Niệm tiêu
tan.
4. Nếu gìn-giữ đƣợc lâu thì Tinh-khí đầy đủ nơi Hạ đơn-điền
tất nhiên Tam Thần đƣợc sáng suốt minh-tỉnh luôn luôn.
5. Nhƣng trong giờ Tịnh Tứ Thời phải nhớ lấy Thần-Hỏa nấu
Tinh thành hơi hóa Khí nhập vô ống xƣơng, bằng không thì
Tinh vì bị đầy tràn phải xông ra đƣờng dƣơng vật, tục gọi là
Di-Tinh.
Bài nầy dạy ngƣời Chơn tu mà chƣa biết vận luyện Hỏa Hầu (Thần
là Nhãn Quang, Hỏa là Tâm-ý).
8
TRƢỜNG SANH VÔ BỊNH
Nguời tu-chơn không luyện Hỏa Hầu, nếu có học và có thực hành
theo 2 phƣơng-pháp trên đây (Sơ thoàn và Trừ dâm căn dƣơng
vật), thì cũng đƣợc vô bịnh và sống lâu, tức là Nhơn Tiên ở cõi
Trần Gian!
9
HƠI THỞ CỦA NGƢỜI PHÀM TỤC (THUẬN HÀNH)
Hơi thở của ngƣời phàm tục thì từ Mũi hít vô tới Hãi Khí (dƣới
Rún) rồi từ Hải Khí theo Mạch-Nhâm đi trở lên ra lổ Mủi. Khi ăn
no thì thở từ Tỳ trở lên ra miệng, và thở nhiều đặng mau tiêu hóa
vật thực.
Còn phía sau thân, thì thở từ Nê-Huờn Cung (mỏ-ác theo Mạch Đốc
dài xuống xƣơng sống đi xuôi xuống. Hai Mạch Nhâm và Đốc
không giao thông nhau đƣợc.
10
HƠI THỞ CỦA TIÊN-GIA (NGHỊCH HÀNH)
Ngƣời tu Tiên luyện Đạo thì khác, thở từ Mủi hít vô tới Hải- Khí từ
Hải-Khí mở đƣờng Vỉ-Lử ngang thanh cật (Thận-Đƣờng) ở sau
thân ngƣời, rồi do xƣơng sống theo Mạch-Đốc mà đi ngƣợc lên đến
Nê-Huờn-cung, tiếp liền đem hơi thở chạy theo Mạch-Nhâm xuống
ngay vào Hải-Khí, chớ không cho ra lổ Mủi. Hai Mạch Nhâm và
Đốc thông nhau cho giáp một vòng, không hề dứt đoạn, gọi là vòng
châu-thiên.
Hơi thở cứ từ Hải-khí qua Vỉ-Lử do Mạch-Đốc lên Nê-Huờn rồi từ
Nê-Huờn do Mạch-Nhâm đi ngay xuống Hải Khí không cho ra lổ
mủi, cứ tiếp đi thƣờng thƣờng chẳng hở dứt, phải kềm giử tƣ-tƣởng
trí nhớ đƣa theo hơi thở điều hòa luôn luôn, đến khi nào hơi thở nhẹ
quá dƣờng nhƣ-không biết nghe đƣợc nữa, thì mới có Nội-Tức mà
luyện Hỏa Hầu đƣợc (Phật gọi là Pháp luân thƣờng chuyển).
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
66
PHẢI BIẾT PHÂN BIỆT
1
Huỳnh-Đình ở cuối Tâm trên Tỳ.
Bởi cơ-thể của Tâm có Huyết-Khí. Khí-Huyết thông nhau bởi hô-
hấp. Chỗ căn-cứ hô-hấp đó tức là Huỳnh-Đình, trên là Tâm, dƣới là
Tỳ.
2
Thất-tình: Hỉ-Nộ-Ái-Ố-Lạc-Cụ
Hỉ = Mầng (Toại ý bên trong).
Lạc = Vui (Vui khoái xuất cảnh bên ngoài nhƣ ăn chơi coi hát).
Ái = Thƣơng (yêu mến bên ngoài nhƣ tình duyên).
Ai = Thƣơng (trọng mến bên trong nhƣ cha mẹ).
Lục-Dục: Nhãn-Nhỉ-Tỉ-Thiệt-Thân-Ý
Nhãn = mắt thấy mới ham muốn.
Thân = ƣa sung sƣớng sang trọng, mặt sƣớng.
Ý = muốn toại lòng mình, dục-vọng.
NỮ NHƠN LUYỆN ĐẠO
TÍN-NỬ HỌC-ĐẠO NÊN NGHE BÀI DẠY DƢỚI ĐÂY
Trong châu-thân có 2 đƣờng thở cốt yếu thông từ Nê-Huờn đến chỗ
Hạ-điền ấy là Mạch-Nhâm và Mạch-Đốc đó. Trƣớc là Tam Điền,
cửu Khiếu. Sau là tam quan cửu lộ.
Tấn-dƣơng-Hỏa, Thối-âm-Phù là chi vậy. Khẩu Khuyết có nói
Tam-Bửu là Tinh-Khí-Thần và nói: Luyện-Tinh hóa-Khí, luyện-
Khí hóa-Thần, luyện-Thần Hƣờn-Hƣ.
Nhƣng xét kỷ ra thì mấy điều bao hàm trong chữ, chỉ có Tinh với
Khí là đáng kể đó thôi. Bởi vậy muốn bảo tồn 3 báu ấy, kẻ
tu hành phải đoạn dâm căn là đầu mối của khoa-học luyện Đạo.
Đoạn dâm căn có 2 phép là
1. Trảm Xích Long về phần Nử nhơn (Xích Long là Huyết).
2. Sát Bạch Hổ về phần Nam Nhơn (Bạch Hổ là Tinh). Nữ
Nhơn khác hơn Nam Nhơn chỗ nầy:
Thƣờng ngày huyết khí do theo 2 đƣờng mạch máu từ Rún chạy
xuống vẫn lƣu hành bao nhiêu huyết-mạch bao nhiêu chất bổ của
xác-thân đều đem về nuôi hai đùm trứng trên Tử Cung.
Trên Tử cung, hai bên mặt và trái có 2 buồng trứng (ổ, trứng).
Hai đùm trứng nầy nhờ có khí huyết chạy xuống nuôi duởng nên
vận chuyển đều đều, đến khi đúng ngày trứng ấy chín và rụng.
Nhƣng trong trứng nầy không đậu vì thiếu Dƣơng trùng nên màng
huyết-mạch lâu ngày phải lủng, những chất bổ lọc trong vật thực,
không ra một lƣợt nên phải hƣ hết, và bị tống ra ngoài, tục gọi Kinh
nguyệt Mỗi lần Kinh nguyệt thì hƣ hao chất bổ trong máu và trong
xƣơng.
Bởi vậy Nữ Nhơn học Đạo phải biết gìn giữ của ấy (Khí huyết)
đem nó về nuôi châu-thân mình. Đơn-dƣợc Thánh Thai, cũng do
nơi đó mà sanh sản. Còn muốn sống lâu thì phải xa lánh sự dâm
dục.
Còn luyện Đạo, trƣớc hết muốn đoạn dâm căn thì phải thông Hồi-
Quang phản-chiếu, là biết điều-tức là cần nhứt.
TRẢM XÍCH LONG
Thâu Thần Điển đặt tại Nê-Huờn, dụng ý đem xuống hai bên
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
67
Huyền Ƣng, và 2 bên cặp Nhủ Phòng, lần đi xuống nhẹ nhẹ đem về
Huyệt Khí. Nơi Tam Xoa Lộ dụng ý thâu 2 viên trứng trở về Khiếu
trung Khiếu, rồi trả hơi thở về Huyền Ƣng, hơi thở ra cửa miệng.
KẾT LUẬN
Thế giới chiến tranh vì quyền lợi, loài ngƣời giết lẫn nhau chẳng
gớm tay vì miếng ăn, trộm cƣớp vì nghèo đói, đó là do bởi Đời ly
Đạo, Ngƣời vô Đức.
Lòng Bác Ái đứng trƣớc cảnh hổn loạn ấy, khó nổi ngồi yên, nên
mới cố công gắng sức tầm ra một phƣơng-pháp cứu Đời trụy lạc.
Vì đó mà 2 quyển sách: ĐỨC KINH và ĐẠO KINH phải xuất hiện
giúp Đời.
Tự Cổ cập Kim, thời buổi ly loạn thƣờng tạo ra 2 hạng ngƣời lầm
lạc:
1. Một hạng tham lam vì ham mê bã-lợi mùi-danh theo xu-thời
mẩu-thế, tranh-bá đồ-vƣơng một cách nhơ nhuốc hoặc phải
bị chết non thác yểu, rồi ra tên tuổi bị chôn lấp dƣới bùn lầy
bẩn thỉu, rất uổng cho một kiếp làm ngƣời.
2. Còn một hạng ngƣời nữa, vì yếu tánh, lại bị ảnh-hƣởng
trong thời-cuộc ô-trƣợc, nên chán đời mà bỏ phế gia đinh ẩn
chốn sơn lâm hoặc nhập Thiền môn cứ gỏ mỏ tụng Kinh,
làm cho thoái bộ đời sống của mình, một cách vô vị thật
uổng thay một kiếp làm ngƣời.
Vậy phải làm sao. Phải cứu-vản bằng cách nào?
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
68
Thì đây:
I. Đối với hạng ngƣời trên, xin dâng quyển Đức-Kinh đã xuất bản
rồi.
ĐỨC-KINH giúp cho ta một Hoa Tiêu để nhắm con đƣờng đi khỏi
lạc lầm, tức là dạy ta Nhập-thế, cầu danh lợi một cách hợp lý cho
thăng bằng nhơn-đạo, nghĩa là cho đúng cán Cân công-lý trong
nhơn-quần xã-hội. Nhƣ vậy là biết tùng theo luật Quân-bình của
Tạo-Hóa đó!
Đƣợc vậy đời sống mới cho mình một nền Hạnh phúc thật-tế muôn
đời an-cƣ lạc-nghiệp, y nhƣ câu Thánh hiền:
“Tri túc thƣờng lạc”
1. Nhờ đó mà ta đƣợc bão tồn danh nghiệp, mà tên tuổi khỏi bị
chôn sâu trong ô-trọc.
2. Nếu một Quốc-Gia làm đƣợc nhƣ vậy, thì đâu có trộm-
cƣớp giặc-loạn, đâu có thổ-phỉ cƣờng-hào.
3. Nếu Toàn-cầu thế-giới thực hành y vậy, thì đâu có còn
chiến-tranh nữa, trái lại Nhơn-loại đƣợc thái bình an minh,
chắc vậy chẳng sai.
II. Đối với hạng dƣới thì có sẳn quyển Đạo Kinh đây.
ĐẠO KINH giúp cho ta xuất thế siêu-việt thƣợng-từng Đạo-Đức
một cách phi thƣờng. Làm cho Tâm-Hồn ta đƣợc an-nhàn thoát khổ
mà lại đƣợc trƣờng-sanh vô-bịnh. May ra đƣợc cái hạnh-phúc sanh
Tiên, tác Phật. Nhƣ vậy mới không uổng cho kiếp làm ngƣời là
Tiểu-Thiên-Địa.
THI BÀI
Tuồng Đời đƣơng diển khắp nơi
Cũng vì quyền lợi mà Đời cạnh tranh
Rồi đây Đời Đạo hợp thành
Chiến tranh mất hẳn, Đuốc Lành sáng soi
Phận ta ráng túc giọng còi
Độ ngƣời qua khỏi cái voi máu đời
Ấy là cũng bởi cơ Trời
Để mà lựa lọc những ngƣời thiện căn
Càng thêm mặt bể sóng nhăn
Bốn phƣơng khói lửa dƣới lằn đạn tên
Lòng tu chí gắng cho bền
Cũng đừng ham chuộng cái nền phú sang
Sao bằng cờ Thánh luận bàn
Thỏa thê động báo thanh-nhàn cảnh Tiên
Mặc tình cờ ruợu hàn-huyên
Vui cùng Tinh-Tú động-Tiên Niết Bàn
Phải thâm hiểu lý thanh-nhàn
Vui theo Thiên-cảnh là đàng Phƣớc-duyên.
Tác-Giả
CHUNG NGUYỄN HỮU ĐẮC
Xuân-Thu Canh-Dần Niên Chơn-Hƣ-Tử
1950 Thiên-Phong: Thƣợng-Đắc-Thanh
Thánh Sắc: Thiên-Lộc-Tinh
oOo
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
69
MỤC-LỤC ĐẠO-KINH
Trƣơng Số
Đề Từ
Tựa
Tiểu Dẫn
Thiên I – Đạo
Thiên II – Bảy Thể-chất của con ngƣời
Thiên III – Đạo-Học bí-pháp Thánh-truyền
Thiên IV – Khẩu-khuyết Tâm-truyền
Thiên V – Nữ-nhơn luyện-Đạo
Thiên VI - Kết-Luận
THIÊN I
I – Đạo
II – Lò tạo-Hóa
THIÊN II
I – Bảy thể-chất của con ngƣời.
II – Phƣơng-pháp luyện-Đạo
THIÊN III
ĐẠI-HỌC BÍ-PHÁP THÁNH-TRUYỀN
I – Đặc-Tánh của mỗi thể-chất con ngƣời.
II – Trạng-thái Hình-thể
1. Trong luc con ngƣời còn sống.
2. Trong lúc con ngƣời ngủ Xuất-Thần.
3. Trong lúc con ngƣời trầm tƣ mặc tƣởng.
4. Trong lúc con ngƣời chết.
5. Trong lúc con ngƣời luyện-Đạo xuất Hồn.
III – Linh-Hồn có 3 ngôi.
IV – Cuộc Tấn-Hóa của Linh-Hồn.
V – Thiên-Đàng và Địa-Ngục.
VI – Luân-Hồi và Quả-Báo.
THIÊN V
KHẨU-KHUYẾT TÂM-TRUYỀN
I – Khẩu-Khuyết Chơn-Truyền
Trời-Đất-Ngƣời có liên can tƣởng hiệp.
1. Tam-Giáo qui Pháp Ngũ-Hành.
2. Nhứt-Khí Hạo-Nhiên tại sao mà khuyết.
3. Ngăn Ngừa Thất-tình Lục-Dục.
4. Phải qui Tam-Bửu Ngũ-Hành.
5. Ngũ-Khí Triều-Ngƣơn.
6. Tam-Huê tụ đảnh. Ngũ-vị bổ Ngũ-tạng.
II – Luyện Đạo theo Tân-Pháp Cao-Đài.
1. Luyện-Kỷ.
2. Hƣờn-Hƣ Bá-Nhựt Trúc-Cơ.
3. Thập ngoạt hoài Thai.
4. Tam-niên nhũ-bộ.
5. Cửu-Niên Diện-Bích.
6. Hình-đồ Luyện-Kỷ.
7. Hình-đồ Trúc-Cơ.
8. Lẽ Thuận-Nghịch và Hình-độ.
9. Họa-đồ Tấn-Dƣơng-Hỏa Thối-Phù.
III – Chơn-ngôn bí-truyền của Chơn-sƣ Tiên-Trƣởng.
1. Pháp-luật bí mật của Đạo Vô-Vi.
2. Tại sao mà Lão và Tử.
3. Tu Thân Luyện-Kỷ
Châu Thiên Hình Đồ.
4. Tứ Thời Hƣ-vô: Tý-Ngọ-Mẹo-Dậu và Mộc-Dục.
Tứ Tổ Qui Gia.
Bản-đồ Tứ Tổ.
5. Tọa-Thoàn.
6. Đại-Định yếu lý.
7. Phép trừ dâm căn Dƣơng-Vật
8. Trƣờng Sanh vô bịnh.
ĐẠO KINH Nguyễn Hữu Đắc
70
9. Hơi thở của ngƣời Phàm tục.
10. Hơi thở của Thần Tiên.
THIÊN V
1. Phƣơng-pháp luyện Đạo.
2. Bản-đồ Hình-thể.
THIÊN VI
KẾT-LUẬN
Bản-Đồ và Hình-Đồ
1. Bản-đồ Hình-thể gtrong lúc con ngƣời Sống, Chết, Ngủ
và Luyện Đạo xuất hồn.
2. Bản-đồ Luyện-Kỷ và Trúc-Cơ.
3. Hình Đồ lẽ Thuận Nghịch.
4. Bản-đồ Tấn-dƣơng-Hỏa Thối-phù
5. Châu Thiên Hình Đồ.
6. Bản-đồ Tứ Tổ Qui Gia.
7. Nữ Nhơn Hình Đồ.