chia khoa giai tu vi - dang son
TRANSCRIPT
1/ TỬ VI CÁCH CỤC TỐI TRỌNG ÂM DƯƠNG .
Cách cục trong khoa Tử Vi hầu hết dựa trên lẽ âm dương của dịch, ngũ hành chỉ là
phụ mà thôi . Khi dụng ngũ hành càng cần nắm vững dịch lý mới khỏi sai lầm .
2/ HỌC GIẢ YẾU THÔNG "QUÁ HƯ CÙNG BIẾN" .
Người học Tử Vi do đó cần hiểu lẽ "quá hư cùng biến" của dịch .
Quá Hư : Cái tốt quá độ trở thành hư hỏng .
Cùng Biến : Đang rất tốt nếu biến xấu thành rất xấu, đang rất xấu nếu biến tốt
thành rất tốt.
3/ NỮ TINH PHÚ, HIỂM Ố KỴ ĐÀO HOA .
Nữ tinh ám chỉ Thái Âm (đế tinh, tượng sự cực âm) và bốn sao ứng với 4 quái âm
của dịch là Tham Lang (ứng với quái Tốn), Liêm Trinh (ứng với quái Li), Thiên Đồng
(ứng với quái Đoài), Thiên Lương (ứng với quái Khôn). Các sao này hàm chứa tính
âm yếu đuối nếu phong phú (tức Hóa Lộc) hoặc trong cảnh nguy hiểm (hãm địa
hoặc hội họp nhiều sát , bại tinh và không gặp không vong); lại thêm các cách đào
hoa tất ứng với sa đọa hoặc tai nạn .
4/ TĨNH TÚ SÁT ĐA TOÀN VI BẤT HẢO .
Các sao nhóm tĩnh (Cự Cơ Nguyệt Đồng Lương) hợp với cảnh an bình , gặp nhiều sát
tinh chắc chắn sẽ không tốt. (Nhật ngoại lệ vì là đế tinh dương mạnh mẽ) .
5/ CHÍNH TINH HÃM ĐẢO QUYỀN LỘC QUANG VINH .
Chính tinh hãm rất xấu, nhưng nếu hoá Lộc hoặc hóa Quyền lại trở thành tốt hơn cả
chính tinh miếu vượng hoá Lộc hoá Quyền ,
6/ MIẾU VƯỢNG KỴ SINH PHẢN VI BẤT THIỆN .
Ngược lại chính tinh miếu vượng hóa Kỵ trở thành xấu hơn cả chính tinh hãm địa
hoá Kỵ . Đặc biệt chính tinh miếu vượng hoá Kỵ thêm cách đào hoa dễ gây ra họa
đào hoa; ngược lại các chính tinh chứa sẵn tính đào hoa , nếu lạc hãm hóa Kỵ lại
khiến họa đào hoa khó xảy ra, vì hóa Kỵ mang tính phản đào hoa .
7/ CHỦ HIỀN KHÁCH HIỂM QUÂN TỬ GIAN NAN .
Chính cung đa số sao hiền (cát tinh), nhưng các cung hợp chiếu đa số là sao hiểm
(sát bại tinh) ví như người quân tử gặp cảnh nguy nan . Dù đắc cách cũng rất mong
manh, dễ bị phá hỏng .
Áp dụng : Sao ở hai cung Mệnh và Thân đa số là cát tinh, nhưng sao ở các cung hợp
chiếu - nhất là cung xung chiếu - đa số là sát, bại tinh xấu xa ; nghĩa là mình tốt mà
hoàn cảnh bất thuận, dễ gặp xui xẻo, tai họa .
8/ CHỦ HIỂM KHÁCH HIỀN TIỂU NHÂN ĐẮC CHÍ .
Chính cung đa số là sao hiểm (sát bại tinh), nhưng các cung hợp chiếu đa số là sao
hiền (cát tinh) , ví như kẻ tiểu nhân gặp cảnh đắc chí, mưu sự bất chính dễ thành .
Áp dụng: Sao ở hai cung Mệnh và Thân đa số là sát, bại tinh xấu xa, nhưng sao ở
các cung hợp chiếu - nhất là cung xung chiếu - đa số là cát tinh; nghĩa là mình bản
tính xấu mà hoàn cảnh thuật lợi, nên dễ thành công, lại hay đóng kịch là người tốt .
9/ KÌNH DƯƠNG CƯ NGỌ VỊ YỂU CHIẾT HÌNH THƯƠNG
Tuổi Bính Mậu có Kình Dương ở Ngọ . Kình tượng thanh gươm, Ngọ tượng con ngựa
nên gọi là cách "mã đầu đới kiếm". Ngọ là hãm địa của Kình Dương, lại thuộc hỏa
khắc tính kim của Kình nên cách này hết sức nguy hiểm . Phú có câu "Mã đầu đới
kiếm phi yểu chiết nhi hình thương" nghĩa là có cách mã đầu đới kiếm cư mệnh
không chết sớm cũng bị thương tật .
Nhưng vì lý "cùng tắc biến" lại có 3 kỳ cách như tiếp theo đây .
10/ NHƯỢC HÃM LỘC QUYỀN TRẤN UY BIÊN ẢI
Theo lý "cùng tắc biến" của dịch một hoàn cảnh cực xấu biến thành tốt sẽ trở thành
cực tốt .
Mệnh có Kình Dương cư Ngọ (hãm địa), cùng cung Đồng Âm (hãm địa), tuổi Bính
Thiên Đồng hoá Lộc có Thiên Cơ hóa Quyền tam hợp (đắc Lộc Quyền), tuổi Mậu Thái
Âm hoá Quyền có Thiên Cơ hóa Kỵ tam hợp (đắc Quyền Kỵ) là hai kỳ cách tốt đẹp
"mã đầu đới kiếm trấn ngự biên cương", tạo nên sự nghiệp trong cảnh dầu sôi lửa
bỏng .
Kình Dương cư Ngọ (hãm địa) cùng cung với Tham Lang (hãm địa). Tuổi Mậu Tham
Lang hóa Lộc, cũng là kỳ cách "mã đầu đới kiếm trấn ngự biên cương" . (Trái lại tuổi
Bính mà gặp cách này là hoạn họa trùng trùng vì không được cát hóa ).
Chú ý : Tuổi Bính Thiên Cơ cư Ngọ (hoá Quyền) không hợp cách vì Thiên Cơ không
hãm ở Ngọ, nếu gặp Kình Dương thì "phi yểu chiết nhi hình thương" .
11/ CƠ LƯƠNG QUANG QUÝ HÌNH LỘC DANH Y
Cơ Lương là hai sao tĩnh gặp sát tinh Thiên Hình hết sức nguy hiểm , khó tránh khỏi
tai họa . Nhưng Hình không quá ác, có thể giải bằng Lộc Tồn (bảo thủ, cẩn trọng),
hoặc hóa Lộc (thuận lợi , may mắn). Nên nếu trong thế tam hợp có Lộc Hình Riêu thì
Hình ứng với hành động quyết liệt nhưng xây dựng. Riêu ứng với thuốc đắng giã
tật , Cơ Lương (không nhất thiết đồng cung) bản chất thích phục vụ nên hợp với
nghề y dược; thêm Quang Quý (được người ưa thích) theo đuổi y học có cơ thành
tựu lớn . Nếu Cơ hoặc Lương ở Sửu Mùi, có Tả Hữu giáp hai bên lại càng hoàn mỹ
(xem thêm cách 12) .
Các chính tinh khác gặp Hình Riêu Lộc Quang Quý cũng phù hợp ít nhiều với ngành
y dược .
Xác suất càng cao nếu cư Quan Lộc thay vì Mệnh .
12/ THẾ CỤC CHUYỂN DI LỘC HÌNH TỬ PHÁ
Tử Phá Sửu Mùi là cách chính tà tranh thắng nên cần Tả Hữu phò tá Tử Vi để Tử Vi
đắc thế, chế ngự bớt tính phá hoại của Phá Quân . Trái lại gặp đối thủ của Tả Hữu là
Thiên Hình thì Hình tất sẽ về cùng phe với Phá Quân, buộc Tử Vi lùi bước. Lộc Tồn
(bảo thủ, cẩn trọng) giảm được tính sát của Hình Phá, hóa Lộc (may mắn) giúp Phá
Quân thành tựu . Do đó nếu Phá Quân hóa Lộc hoặc Tử Phá được Lộc Tồn hội họp
gặp Thiên Hình lại là một kỳ cách hết sức tốt đẹp, ví như kẻ anh hùng có bản lãnh
đổi thay thời cuộc, tạo nên sự nghiệp phi thường trong cảnh dầu sôi lửa bỏng .
Lý tưởng nhất là Tử Phá có Tả Hữu giáp hai bên . Gồm có Tử Phá cư Sửu sinh tháng
9 (Hình tam hợp), tháng 11 (Hình xung chiếu); hoặc Tử Phá cư Mùi sinh tháng 3
(Hình tam hợp), tháng 5 (Hình xung chiếu). Bốn cách này Hình hội họp mà không cư
cùng Tử Phá nên giảm bớt sát khí, đỡ lo tai họa .
13/ TỬ VI QUYỀN PHỦ KHUYẾT TẢ DỤNG HÌNH
Tử Vi ở cung dương (thế tam hợp Phủ Tướng) thiếu Tả Hữu là cách "cô quân", ví như
vua không có cận thần, thiếu hẳn hiệu quả; gặp đối thủ của Tả Hữu là Thiên Hình lại
càng bất lợi (tuy vậy không nguy hiểm vì Tử Vi có uy lực rất mạnh mẽ, Thiên Hình là
sao sát nhưng có tính thuần dương nên thuộc chính phái, không chống lại Tử Vi).
Nhưng nếu Tử Vi có hóa Quyền hội họp thì uy lực rất mạnh mẽ, khắc phục biến Hình
thành phù tá đắc lực, là một kỳ cách . Lưu Huyền Đức vua nước Thục thời Tam Quốc
có cách này ("Lưu Huyền Đức đạt thừa Hán nghiệp thi ư Tử Phủ Vũ Tướng Khoa
Quyền Hình Ấn Hồng Khôi mệnh thân ").
14/ TỬ PHỦ NHẬT KÌNH, CỰ THƯƠNG TRÍ XẢO
Tử, Phủ , Nhật là ba đế tinh mạnh mẽ, có bản lãnh biến Kình Dương (cùng cung)
thành của mình, tức là tự mình trở thành trí xảo . Nếu mệnh cư ở Thìn Tuất Sửu Mùi
tất Kình Dương nhập miếu, theo đuổi kinh doanh dễ thành tựu lớn .
Chú ý : Thái Âm cũng là đế tinh nhưng tương đối yếu, không vận dụng nổi Kình
Dương nên chỉ có cách này khi đồng cư với Thái Dương ở Sửu Mùi .
15/ TÀNG HUNG TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG KHÔNG VONG
Tử Phủ Vũ Tướng ứng với cộng hưởng giữa hai nhóm Tử Liêm Vũ và Phủ Tướng nên
rất tốt đẹp, nhưng nếu gặp Không vong (Tuần Triệt hoặc Thiên Không Địa Không
đúng vị đóng cùng cung) lại biến thành xấu, dù nhiều cách tốt khác hội họp đi nữa
cũng gặp nhiều hung hiểm .
16/ MÃO DẬU KIẾP KHÔNG TỬ THAM THOÁT TỤC
Ngược lại Tử Tham Mão Dậu là cách kém nhất của Tử Vi (hội họp với Tham Lang
thay vì Phủ Tướng), ứng với sự sa đọa , dâm đãng, nếu gặp Địa Kiếp hoặc các sao
Không vong cùng cung lại là vô vi thoát tục .
17/ LIÊM TRINH VÔ LỰC NGỘ HỔ NGUY NAN
Liêm Trinh ứng với quái Li rực rỡ quá độ nên tốt thì chủ công danh, xấu biến thành
tai họa . Liêm Trinh cùng cung Phá Quân hoặc Tham Lang thì lạc hãm nên vô lực .
Bạch Hổ tượng kẻ nhất định dùng vũ lực để bảo vệ quyền lợi của mình . Vô lực mà
đòi dùng lực tất bị nguy hiểm, tai ương . Nên Liêm Trinh hãm địa cùng cung với
Bạch Hổ khó tránh tai nạn .
Liêm Trinh độc thủ Dần Thân được hội họp với Phủ Tướng nhưng lại bị Tham Lang
(hãm) xung chiếu, đồng cung Bạch Hổ cũng nguy hiểm nhưng đỡ hơn Liêm Phá ,
Liêm Tham . Có sao tốt giải cứu thì không đáng lo ngại .
Chú ý : Có Thanh Long hội họp thì thành cách "Thanh Long Bạch Hổ". Trong trường
hợp này Bạch Hổ không còn tác họa nữa mà biến thành một yếu tố thành công .
18/ LIÊM PHÁ LIÊM THAM KHÚC XƯƠNG ĐẠI HỌA
Liêm Trinh ứng với quái Li, ví như cô tiểu thư đài các, có Khúc Xương càng thêm vẻ
kiêu sa . Nhưng cùng cung Phá Tham là lạc hãm, như cảnh thân gái dặm trường, vẻ
đài các kiêu sa càng khiến kẻ bất lương dòm ngó, biến thành tai họa .
19/ MỆNH LÂM HIỂM TỌA ĐÀ VŨ XƯƠNG LINH
Vũ Khúc ở cung dương (hoặc gặp Tham Lang ở Sửu Mùi ) Văn Xương tương đối đẹp,
nhưng vì cả hai sao cùng thuộc Kim có tính sát nên hàm chứa nguy hiểm . Đà Linh
là hai sao sát có tính âm hàn (Đà là sao âm của cặp Kình Đà, Linh là sao âm của cặp
Hỏa Linh). Đà thuộc Kim, Linh thuộc Hỏa nhưng có mang thêm tính Kim . Cái đẹp
mong manh gặp tính sát âm hàn đã xấu, cả bốn sao lại đều mang tính sát của Kim
nên trở thành cực xấu, ứng với nguy hiểm hoặc khó khăn to lớn .
Ở cung âm Vũ Phá , Vũ Tham, Vũ Sát vốn đã không hợp với Xương Khúc nên càng
xấu hơn nữa .
(Phú để lại có câu "Linh Xương Đà Vũ hạn đáo đầu hà" nghĩa là đến hạn Linh Xương
Đà Vũ tất gieo mình xuống sông tự tử, ý nói là quá nhiều khó khăn không thể nào
giải quyết nổi, chỉ còn cách là tự tử cho xong) .
20/ VŨ PHỦ KIẾP KÌNH ÁC NHÂN QUÝ HIỂN
Vũ Phủ Tí Ngọ là một cộng hưởng vô cùng tốt đẹp vì cả hai sao đều là tài tinh , Phủ
lại là đế tinh nên có uy lực mạnh mẽ . Kiếp Kình là hai sát tinh ác độc, Phủ bản chất
dung hòa nên đều thu dụng làm của mình , trở thành cách độc ác nhưng quý hiển.
(Có cách này độc ác thì khá giả, hợp cách gian thương tạo ra tài sản trên máu mủ
thiên hạ . Ngược lại quyết giữ thiện tâm thì như người tốt đồng hành với bọn bất
lương, tất phải chịu một số oan nghiệt rồi mới tốt đẹp) .
Vũ không được Phủ cùng cung thì uy lực kém hơn . Đồng cách Kiếp Kình, thêm nhiều
sao tốt hội họp cũng ác độc nhưng khó thành công , thêm nhiều sao xấu hội họp tất
vì tiền bạc mà mang họa vào thân .
21/ DẬU CUNG BẤT MIỄN THIÊN TƯỚNG ĐA ĐOAN
Thiên Tướng là quý tinh nên cư mệnh không phải lo cơm áo, nhưng bản chất nhu
nhược nên không vượt nổi tính "bại" của cung Dậu . Tướng kém cỏi nhất ở Dậu (kém
hơn Mão vì hai đế tinh Âm Dương cư ở Tử Tức và Huynh Đệ đều hãm địa) , lại bị
Liêm Tham Phá hãm địa ở Mão xung chiếu, nên gặp rất nhiều phiền toái rắc rối .
Mệnh cung của nhiều cô gái giang hồ nhan sắc được khách làng chơi chu cấp như vợ
bé có cách này .
22/ PHẢN HỮU HỒNG LOAN SẮC KHÔNG GIÁC NGỘ
Cũng là Thiên Tướng cư Dậu , tuổi Ngọ có Hồng Loan cùng cung nên thanh sạch,
Đào Hỉ ở Mão xung chiếu, thành thử đắc cách tam minh Đào Hồng Hỉ, ví như kẻ lạc
giữa bụi trần nhơ nhuốc mà tâm tư sáng suốt, bình lặng như không, ngộ ra mọi sắc
hương đều là giả dối .
Thiên Tướng cùng cung Hồng Loan tại Mão luận tương tự nhưng xác suất thấp hơn .
Luật chung về Thiên Tướng cho tất cả mọi cung : Thiên Tướng ứng với hình thức bề
ngoài, nếu hội họp với cả hai loại sao sắc (Đào Hồng Hỉ) và Không (Tuần Triệt Thiên
Không Địa Không ) lại biến thành cảnh sắc sắc không không, thường có duyên với
cảnh tu hành ) .
23/ QUÝ TINH TƯỚNG PHỦ TUẦN TRIỆT LAO ĐAO
Phủ Tướng là hai quý tinh có tính dung hòa nên nói chung khi độc thủ không ngại tứ
sát Kình Đà Hỏa Linh lắm . Cư mệnh vẫn dễ phú quý, chỉ tăng thêm tính gian xảo .
Thế nhưng là thế "có" nên gặp Tuần Triệt coi như mất hết . Cách tốt bao nhiêu cũng
thành vô dụng . Gặp Thiên Không , Địa Không đúng vị không vong cũng luận như
trên .
Chú ý : Cách này ứng với khi Phủ Tướng ở cung âm . Ở cung dương là cách 15 đã kể
trên .
24/ HÌNH TƯỚNG, PHỦ HAO ĐỒNG VI PHÁ CÁCH
Thiên Tướng là sao yếu đuối nên có Tả Hữu phù tá thì rất tốt đẹp, ngược lại gặp đối
thủ của Tả Hữu là Thiên Hình cùng cung thì hết sức nguy hiểm . Thiên Hình là sát
tinh nên Thiên Tướng khó thoát khỏi tai họa . Thiên Phủ cũng cần Tả Hữu và kỵ
Thiên Hình, nhưng vì là đế tinh có uy lực mạnh nên gặp Thiên Hình không đáng lo
ngại . Nhưng Phủ là tài tinh, cùng cung Đại Tiểu Hao là phá cách, ứng với sự túng
thiếu . Đại Tiểu Hao đắc địa đi nữa cũng chỉ có những thoáng huy hoàng mà thôi .
25/ PHÁ HIỀM XƯƠNG KHÚC, PHẢN HỢP KIẾP KHÔNG
Phá Quân bản chất phá hoại, Xương Khúc lại nho nhã dung hòa, nên Phá Quân có
Xương Khúc phò tá không thể làm ra chuyện (trừ trường hợp có thêm sao của cả hai
nhóm Tả Hữu, Khôi Việt hội họp). Phú có câu "Phá Quân Xương Khúc vi bần nho" .
Ngược lại Phá gặp Kiếp Không là hai sao chuyên phá hoại thì đúng là chủ gặp tớ, dễ
thành đại sự .
26/ HAO PHÁ BẦN CÙNG, LỘC QUÂN ĐẠI PHÁT
Đại Tiểu Hao là hai sao thiếu chí hướng, khiến Phá Quân không thể chuyên nhất
phát huy ưu điểm xung phá của mình . Đại Tiểu Hao bản chất lại là phí phạm, hư
hao; dễ đẩy Phá Quân vào cảnh bần cùng . Ngược lại Phá Quân gặp Lộc Tồn (cẩn
trọng nhưng khá giả) hoặc hóa Lộc (thuận lợi , may mắn ) tất đại phát .
Chú ý : Lộc và Không Kiếp cùng phù hợp Phá Quân nên gặp Phá Quân thay vì phá
hoại nhau lại cùng giúp Phá Quân trở thành tốt đẹp .
27/ THANH LIÊM HÌNH SÁT, HIỂN ĐẠT SÁT KÌNH
Thất Sát có Tả Hữu phù tá thì tốt đẹp. Nhưng mang tính sát nên đồng thời phù hợp
với đối thủ của Tả Hữu là Thiên Hình; do đó gặp Thiên Hình không bất lợi , chỉ thể
hiện một chiều hướng khác . Thất Sát miếu vượng thì thanh liêm, nghiêm khắc, hãm
thì tàn nhẫn .
Sao Sát phù hợp nhất với tính dũng cảm của Thất Sát là Kình Dương, tức sao dương
của cặp Kình Đà, Thất Sát gặp Kình Dương như chủ can đảm gặp tớ liều lĩnh, chỉ cần
một trong hai sao đắc vị là có thể thành công to lớn . Nhưng đây là một kết hợp đầy
sát khí nên rất nguy hiểm, bạo phát thường đi liền với bạo tàn, nhất là một trong hai
sao hãm địa thì rất khó lòng thoát khỏi tai họa . (Hai sao cùng hãm thành cảnh "kẻ
dùng gươm chết vì gươm", chính là đại họa) .
Thất Sát gặp Đà La ý nghĩa tương tự Kình Dương , nhưng mức thành đạt và xác suất
thành đạt thấp hơn, vì Đà La là sao âm phát triển không nhanh bằng Kình Dương là
sao dương .
28/ NẠN ĐÁO TRÙNG TRÙNG SÁT DƯƠNG NGỌ VỊ
Kình Dương cư Ngọ là cách "Mã đầu đới kiếm". Ngọ thuộc Hỏa, Kình thuộc Kim, Hỏa
khắc Kim nên đây là vị hãm địa xấu nhất của Kình Dương . Thất Sát ở Ngọ miếu địa
cùng cung với Kình tất có thành tựu, nhưng khó lòng tránh khỏi tai họa khủng khiếp;
hợp với số kẻ làm tướng chết oanh liệt ở trận tiền .
Phá Quân cư Ngọ (miếu địa) đồng cung Kình Dương cũng luận tương tự .
29/ ĐÀO HOA CHÍNH THỊ TUẦN TỰ THAM LIÊM
Tham Lang ứng với quái Tốn, tượng là con gái trưởng, nhu nhược thành thử dễ bị
cuốn hút vào chuyện trăng hoa, nên gọi là "chính đào hoa". Liêm Trinh ứng với quái
Li, tượng là con gái thứ , xinh đẹp kiêu sa . Nhan sắc là lợi điểm mà cũng có thể là
tai họa, nên gọi là "thứ đào hoa" .
30/ ĐA SÁT, BẠI, DÂM PHÁT SINH ĐẠI HỌA
Sát tinh hoặc phá hoại hoặc cuốn hút người ta vào đường phá hoại . Bại tinh gây ra
bất hạnh . Dâm tinh, tức các cách đào hoa thiếu đứng đắn, gây sự sa ngã . Tham
Liêm bản chất đã mang sẵn tính đào hoa gặp nhiều sao của các nhóm này tụ tập rất
nguy hiểm, cần đề phòng tai họa hoặc trụy lạc .
31/ THAM LINH THÀNH TỰU, THAM HỔ TAI ƯƠNG
Hổ là một bại tinh bản tính quyết liệt, nên Tham Lang hãm địa thiếu uy lực gặp Hổ
cùng cung khó lòng tránh khỏi tai nạn, miếu vượng cũng phiền toái . Lý tương tự
như trường hợp Liêm Trinh .
Chú ý : Có Thanh Long hội họp thì thành cách "Thanh Long Bạch Hổ " . Trong trường
hợp này Bạch Hổ không còn tác họa nữa mà biến thành một yếu tố thành công .
Tham Lang là một trong bộ ba Sát Phá Tham tất phải có sát tinh phù hợp . Lục sát
có Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp . Ta đã biết Phá Quân hợp Không Kiếp, Thất Sát hợp
Kình Đà; suy ra Tham Lang hợp Hỏa Linh .
Linh là sao âm của cặp Hỏa Linh, ví như ngọn lửa âm thầm, giúp Tham Lang thuộc
mộc được nung nóng, thành tựu nhưng không phải là đột phát .
32/ THAM HỎA ANH HÙNG, THAM XƯƠNG NHIỄU SỰ
Hỏa Tinh thuộc dương, ví như ngọn lửa lớn khiến Tham Lang thuộc mộc cháy bùng,
nên Tham Hỏa là cách anh hùng, ứng với sự thành công đột phát .
Xương là sao dương của cặp Xương Khúc, mang tính đào hoa nhưng đồng thời thuộc
kim khắc hành mộc của Tham . Tham Lang mang tính đào hoa gặp Xương ví như
cảnh "bỏ thì thương vương thì tội" chẳng ra gì, mập mờ rất phiền toái . Tham Xương
cư Mệnh do đó là kẻ hay gây rắc rối cho đời . Tệ nhất là có đủ bộ Xương Khúc hội
họp; phú có câu "Tham Lang Xương Khúc chính sự phiền hà" .
Chú ý : Nếu có nhiều cát tinh như Tả Hữu Khôi Việt Lộc Tồn tam Hóa , hoặc sao phù
tá đúng bộ là Linh Hỏa thì giải được, không kể là xấu nữa .
33/ ÂM DƯƠNG VẠN SỰ XƯƠNG KHÚC KIẾP KHÔNG
Muốn luận tốt xấu cho cặp đế tinh Âm Dương cần nhất là xét bốn sao Xương Khúc
và Không Kiếp . Âm Dương hội họp với Xương Khúc là đắc cách dễ phát triển tiềm
năng , với Không Kiếp là phá cách, nhẹ sinh ra cảnh đầu voi đuôi chuột, nặng thì
nhiều tai họa .
34/ HỈ NGỘ TAM MINH, Ố HIỀM TAM ÁM
Âm Dương tượng trưng ánh sáng của mặt trăng mặt trời nên gặp bộ tam minh Đào
Hồng Hỉ (tượng vẻ tươi sáng của một cô gái xuân thì) rất đẹp đẽ . Trái lại gặp bộ tam
ám Riêu Đà Kỵ (tượng ba hoàn cảnh u ám) thì giảm uy lực . Ngoại lệ là kỳ cách Âm
Dương Sửu Mùi tiếp theo đây .
35/ SỬU MÙI ẢM ĐẠM NHẬT NGUYỆT VÔ QUANG
Sửu Mùi Nhật Nguyệt cùng cung ví như mặt trời mặt trăng cùng dành ánh sáng, là
cảnh âm dương hỗn độn, tranh tối tranh sáng, nói chung là phá cách . Vì Âm Dương
cùng là đế tinh, cư mệnh thích làm đàn anh thiên hạ nhưng lại không chịu hoặc
không biết lo lắng cho thuộc hạ, gây ra những cảnh đầu voi đuôi chuột .
36/ GIA KỴ TRIỆT TUẦN PHẢN VI ĐẠI CÁT
Cũng Nhật Nguyệt Sửu Mùi nhưng có Tuần hoặc Triệt án ngữ thì cảnh hỗn độn bị
phá hủy, khiến Nhật Nguyệt cùng có cơ hội phát huy tiềm năng to lớn của mình, là
một kỳ cách tốt đẹp . Địa Không cư ở đây cũng tương tự .
Sửu Mùi là đắc địa của Hóa Kỵ, lại gặp không vong thì chỉ còn sót lại tính cẩn trọng,
rất cần thiết để hai đế tinh có thể cộng tác với nhau . Thế nên Âm Dương Sửu Mùi
gặp không vong đã tốt, thêm Hóa Kỵ trở thành hoàn mỹ .
Là một kỳ cách rất đáng ghi nhớ vì Nhật Nguyệt lẽ thường rất hiềm Hóa Kỵ và không
vong .
37/ ÂM DƯƠNG HÃM ĐẮC KỲ CÁCH VINH XƯƠNG
Thái Âm cực xấu ở Thìn Ngọ (khí dương thịnh lại là cung dương), Thái Dương cực xấu
ở Hợi (khí âm thịnh lại là cung âm), nhưng là đế tinh nên có tiềm năng mạnh mẽ .
Do đó nếu đắc kỳ cách lại thành tựu hết sức to lớn .
38/ NHẬT PHÁT VĂN CHƯƠNG, NGUYỆT THĂNG VŨ CHỨC
Thái Dương vốn thuộc dương khi lạc hãm đắc kỳ cách theo luật "cùng tắc biến" lại
nhuốm tính âm nên dễ phát về văn chương . Cùng lý Thái Âm vốn thuộc âm, lạc
hãm đắc kỳ cách lại nhuốm tính dương nên dễ phát về võ nghiệp .
Kỳ cách quan trọng nhất là Âm Dương hóa Lộc hoặc hóa Quyền, thêm Xương Khúc
phù tá . (Tưởng Giới Thạch tung hoành ở lục địa Trung Hoa, bị thua chạy ra Đài Loan
rồi biến Đài Loan thành một cường quốc có cách Thái Âm hãm địa cư Thìn hóa Lộc,
được thêm Khoa Quyền chiếu, lại có Khúc Xương phù tá) .
39/ NHẬT LƯƠNG XƯƠNG LỘC QUYỀN LỰC HẠCH TÂM
Thiên Lương thuộc quái Khôn (âm) lại vĩnh viễn tam hợp với Thái Âm (âm) , được hội
họp với Thái Dương (dương) thành cảnh âm dương quân bình nên rất đẹp đẽ . Nhật
vượng ở Mão thành cách Nhật Lương cùng cung, được Nguyệt miếu ở Hợi tam hợp,
nếu hội họp có thêm sao phù tá lý tưởng của Thái Dương là Văn Xương và sao đại
biểu may mắn là hóa Lộc hoặc Lộc Tồn là lý tưởng . Nhật Nguyệt là hai đế tinh ,
thêm Lương là bầy tôi lương đống, cung mệnh được cách này dễ trở thành nhân vật
có quyền lực . Nhật ở Dậu hãm địa nên thành tựu kém hơn nhưng vẫn là cách tốt
đẹp . Đặc biệt nếu Nhật hoặc Lương hóa Lộc hoặc hóa Quyền thì theo lý "cùng tắc
biến" lại thành kỳ cách, tốt hơn cả Nhật Lương cư Mão .
Lương cư Tý Ngọ cũng đắc cả hai sao Nhật Nguyệt, nhưng không được tọa cùng đế
vị nên kém hơn Nhật Lương Mão Dậu, ứng với quyền lực ở vị trí thấp hơn, cư mệnh
đắc phụ tinh tốt đẹp có thể là nhân sĩ địa phương hoặc làm thầy giáo (số vạn thế sư
biểu Khổng Phu Tử có Thiên Lương cư Tý) .
40/ TỴ HỢI TÀ DÂM ĐỒNG LƯƠNG LỘC MÃ
Lương gốc là quái Khôn tượng mẹ, Đồng gốc quái Đoài tượng con gái út . Đồng
Lương ở Tỵ Hợi thì Âm Dương cùng cung ở Sửu Mùi là cảnh Nhật Nguyệt tranh huy u
ám . Thiên Lương mất ánh sáng của Nguyệt, lại không được Nhật soi sáng trở thành
u tối , như người mẹ quên mất thiên chức của mình . Tỵ Hợi lại thuộc tứ mã tượng
biến động nên Thiên Lương ở đây hãm địa, ứng với sự buông thả, phóng túng . Đồng
như cô con gái ham chơi được mẹ thả lỏng, nên là cách "vượng địa" bay nhảy tự do
không còn gì kềm hãm nữa .
Hóa Lộc và Thiên Mã (Lộc Mã, nhưng xem chú ý 1) là một cách rất tốt, biểu tượng
thay đổi may mắn, nhưng chính vì vậy khuynh hướng phóng túng của Thiên Lương
càng có cơ hội bộc phát . Thiên Đồng non dại thiếu sự dạy bảo của người trên thấy
đổi thay may mắn thế nào chẳng ham vui nhảy vào , thiếu kinh nghiệm tất bị sa
ngã . Bởi vậy Đồng Lương Tỵ Hợi gặp Lộc Mã thay vì tốt đẹp lại tà dâm , bất chính .
Nếu không gặp Lộc Mã nhưng có các cách đào hoa hội họp cũng luận như trên .
Chú ý 1: Lộc Tồn và Thiên Mã (cũng gọi là Lộc Mã) không thể luận như Hóa Lộc và
Thiên Mã vì Lộc Tồn có tính bảo thủ, giảm tính vọng động của Đồng Lương Tỵ Hợi .
Chú ý 2: Tham Liêm Tỵ Hợi gặp hóa Lộc Thiên Mã tương tự, nhưng lý hiển nhiên hơn
vì là hai sao chính phụ đào hoa .
41/ CỰ MÔN ÁM CHỦ TỐI HỈ NHẬT MINH
Cự Môn là đầu đảng của các sao ám, tượng sự bất mãn thị phi nên rất cần Thái
Dương soi sáng , do đó Cự Nhật đồng cung là một cách tốt đẹp . Nhưng cần chú ý ở
Dần Nhật vượng nên tốt đẹp hơn ở Thân . Cung Mệnh cư ở Thân có Cự Nhật là hạng
người đầu voi đuôi chuột, thích đảm đương trọng trách nhưng hay bỏ việc giữa
đường .
Ngoài ra Cự Môn cũng tốt hơn nếu gặp bộ tam minh Đào Hồng Hỉ . Ngược lại nếu
cùng cung với một trong ba sao thuộc bộ tam ám Riêu Đà Kỵ hoặc hội họp với hai
hoặc cả ba sao này thì rất phiền toái, đa đoan; dù đắc cách Cự Nhật cũng thế .
42/ CỰ NGỘ SÁT TINH NHẤT SINH TỌA NẠN
Trong các sao tĩnh thì Cự Môn - vì bản chất đã hàm tính xấu - sợ lục sát tinh hơn cả,
gặp một trong lục sát cùng cung là phá cách . Nếu cư mệnh :
Cùng Kình hoặc Đà : Lắm thị phi .
Cùng Hỏa hoặc Linh : Lắm tai nạn
Cùng Không hoặc Kiếp : Thành ít bại nhiều .
43/ THIÊN ĐỒNG DẬU HÃM CÁT HÓA VINH QUANG
Thiên Đồng cực hãm ở Dậu (vì cung xung chiếu có Thái Âm hãm địa), nên theo lý
cùng tắc biến nếu cát hóa lại biến thành kỳ cách, có thể tạo nên sự nghiệp huy
hoàng .
Tuổi Bính Thiên Đồng ở Dậu (hãm) hoá Lộc, được Thiên Cơ ở Sửu (hãm) hoá Quyền
tam hợp, thêm Thiên Việt cùng cung , Lộc Tồn ở Tỵ hội họp . Hết sức tốt đẹp .
Tuổi Đinh Thiên Đồng ở Dậu (hãm) hoá Quyền, được Thái Âm ở Mão (hãm) hoá Lộc
xung chiếu, Thiên Cơ hóa Khoa ở Sửu (hãm) và Cự môn hóa Kỵ ở Tỵ (hãm) chiếu về,
thêm Thiên Việt cùng cung . Chính cung hóa Quyền nên đắc cách Quyền Kỵ và gồm
thâu cả tứ hóa . Tốt đẹp e còn hơn cả tuổi Bình .
44/ ĐỒNG CỰ ĐINH TÂN VÕNG LA ĐẠI QUÝ
Thìn là vị Thiên La, Tuất là vị địa võng . Cự ở Thìn xung Đồng ở Tuất đều là lạc hãm
rất xấu, nhưng chính vì thế mà hoá cát lại thành cực tốt .
Tuổi Đinh Thiên Đồng cư Tuất hóa Quyền, Cự Môn hóa Kỵ thành cách Quyền Kỵ, có
khả năng tạo dựng sự nghiệp trong cảnh khó khăn . Ngoài ra lại có Thái Âm hóa Lộc
ở Dần (hãm) , Lộc Tồn ở Ngọ chiếu về, ứng với tài lộc, may mắn . Thiên Đồng cư
Thìn cũng rất tốt, nhưng không bằng Tuất vì thiếu Lộc Tồn tam hợp, và Thái Âm ở
Thân (vượng) hóa Lộc không tốt bằng ở Dần (hãm) .
Tuổi Tân Cự Môn cư Thìn (hãm) hóa Lộc, có Thái Dương ở Tý (hãm) hoá Quyền nên
là kỳ cách tốt đẹp . Cự Môn cư Tuất cũng tốt đẹp, nhưng kém hơn ở Thìn vì Thái
Dương ở Ngọ (miếu) hóa Quyền không bằng Thái Dương ở Tý (hãm) .
Chú ý 1 : Tuổi Bính Thiên Đồng hóa Lộc , Thiên Cơ hóa Quyền nên Thiên Đồng ở
Thìn Tuất cũng tốt nhưng không bằng tuổi Đinh vì hai lẽ : Thứ nhất Thiên Cơ uy lực
kém hơn Thái Âm , thứ hai bị Lộc Tồn ở vị nghịch lẽ âm dương .
Chú ý 2 : Tuổi Quý Cự Môn ở Thìn (hãm) hóa Quyền được thêm Lộc Tồn ở Tý chiếu
về nên cũng tốt đẹp, nhưng vẫn không bằng tuổi Tân có Thái Dương hãm cát hóa .
Cự Môn ở Tuất thì kém hẳn .
45/ DẦN THÂN RIÊU HỈ CƠ NGUYỆT LĂNG LOÀN
Nguyệt cực âm nên dù là đế tinh vẫn yếu đuối, Cơ bề ngoài bảo thủ nhưng trong
tâm tư biến đổi liền liền, Dần Thân lại là mã địa tượng xung động . Hai sao đồng
cung ở đây không vững vàng, lại gặp Riêu (quyến rũ) Hỉ (vui tươi) thành cách đào
hoa thì sao khỏi sa ngã . Nên đây là cách dâm đãng . Gặp các cách đào hoa khác
cũng luận tương tự .
Nhưng chú ý : Nếu Cơ Nguyệt Dần Thân có thêm Không vong trấn giữ (Tuần Triệt
hoặc Thiên Không cùng cung) thì ứng với luật "cùng tắc biến" của dịch, sắc lại biến
thành không; nên càng có nhiều cách đào hoa càng có khuynh hướng tìm giải thoát
trong cảnh tu hành .
46/ THÌN TUẤT KHÔNG VONG CƠ LƯƠNG TĂNG ĐẠO
Cơ Lương Thìn Tuất là miếu vượng rất tốt đẹp; cư mệnh là cách của bậc quân sư tài
giỏi , gặp sát tinh cùng cung xâm phạm phải xuống cấp vẫn còn là hạng "nhất nghệ
tinh nhất thân vinh". Nhưng Cơ Lương là hai sao nhu nhược, nên bị một trong các
sao không vong cùng cung trấn áp (gồm có Tuần Triệt, Địa Không ở vị trí này ) tất
chẳng còn gì cả, như người có của báu một lúc trắng tay, lại thiếu bản lãnh quật
cường nên sinh thất chí, cư mệnh là cách của người chán đời đi tu .
47/ CỰ CƠ MÃO DẬU BẤT ĐÁO NHÂN DUYÊN
Cự Cơ Mão Dậu là một kỳ cách của Tử Vi, nếu gặp Tuần Triệt hoặc Đại Tiểu Hao để
thành tựu lớn . Nhưng đây là kỳ cách do nhiều yếu tố xấu phá hoại nhau mà thành
nên theo luật bù trừ được cái này mất cái kia .
Cự Cơ Mão Dậu cư Mệnh thì Phu thê ắt là Âm Dương Sửu Mùi như mặt trăng mặt trời
tranh dành ánh sáng, là cảnh âm dương bất thuận; do đó là số tình duyên ngang
trái .
48/ CƠ NHẬT ĐỒNG LIÊN NỮ NHÂN BẤT TÚC
Phái nữ mệnh có Thiên Cơ tất cung phu có Thái Dương là sao chính ứng với chồng .
Thái Dương hãm hoặc đồng cung Thái Âm là cảnh vợ chồng bất thuận, Thái Dương
cư Dần vượng đồng cung với Cự Môn cũng là mâu thuẫn, chỉ còn lại Thái Dương ở
các cung Mão Thìn Tỵ Ngọ (ứng với mệnh Thiên Cơ tại Tỵ Ngọ Mùi Thân). Nhưng Cơ
ở Thân tất đồng cung với Thái Âm bản chất dễ có sự thiếu đứng đắn, Cơ ở Mùi là
hãm địa; nên Thiên Cơ cư mệnh chỉ có Tỵ Ngọ là tương đối tốt đẹp cho phái nữ,
ngoài ra khó tránh cảnh nhân duyên dang dở .
Phú có câu "nữ mệnh đoan chính Thái Dương tinh, tảo ngộ hiền phu tín khả bằng",
nghĩa là nữ mệnh có Thái Dương là người đoan chính, sớm gặp chồng hiền . Xét trên
dịch lý e rằng câu phú này không đúng; bởi Thái Dương là sao cực dương cư mệnh
phái nữ không hợp .
Thái Dương càng miếu vượng tính mâu thuẫn càng cao nên nữ mệnh có Thái Dương
cư các cung Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ dễ thành công trên đường sự nghiệp nhưng khó
thuận nhân duyên . Sửu Mùi Âm Dương đồng cung khó tránh đôi lần dang dở, các
cung còn lại vì hãm địa lại hóa ra đỡ xấu, chịu nhẫn nại qua những phút giây bất
thuận thì vẫn có thể được hưởng cảnh bạch đầu giai lão .
Thiên Đồng là phúc tinh cư mệnh dễ gặp may mắn . Nhưng Thiên Đồng là nữ tinh
yếu đuối, bản chất thay đổi vô chừng nên càng may mắn càng có khuynh hướng tự
gây phiền toái cho mình . Nghĩa là trong cái tốt đã chứa sẵn mầm biến động, khó
tìm hạnh phúc với chồng con; ngay cả Đồng Lương miếu ở Dần Thân cũng thế .
49/ CÁCH TUY HỌA PHÚC CHỦ YẾU THIỆN TÂM
50/ KHẢ DĨ AN NHIÊN ĐỨC NĂNG THẮNG SỐ .
Số mệnh vốn là xác suất nên họa phúc đều có thể đổi thay . Nếu phát thiện tâm thì
có thể lấy đức thắng số mà được vạn sự an lành .
Đằng Sơn