các năm qua đổi mới phương pháp dạy học được sở gd-Đt...
TRANSCRIPT
MỞ ĐẦU
Các năm qua, đổi mới phương pháp dạy học được Sở GD-ĐT Quảng Bình
liên kết với Đại Học Huế tổ chức và mở nhiều đợt tập huấn cho giáo viên. Tôi may
mắn cũng được tham gia và đã nhận được nhiều bài học bổ ích, nhiều phương pháp
luận mới mẻ về đánh giá và tiếp cận học sinh theo năng lực ( học sinh làm được gì
thông qua việc học) thay vì phương pháp tiếp cận nội dung ( học sinh học được cái
gì ), lấy học sinh làm trung tâm, thầy cô giáo giữ vai trò quan trọng. Tuy nhiên bên
cạnh tiếp cận phương pháp mới đang còn loay hoay lúng túng thì chúng tôi còn gặp
vấn đề về nội dung chương trình sách giáo khoa mặc dù đã có đổi mới giảm tải
nhưng vẫn còn nặng nề quá tải.
Một băn khoăn nữa mà tôi muốn đề cập ở đây là sỉ số học sinh trong một lớp quá
đông, mức độ và năng lực tiếp thu của mỗi em khác nhau thậm chí là rất chênh lệch
vì vậy gặp không ít khó khăn trong việc triển khai củng như áp dụng phương pháp
dạy học mới. Bên cạnh đó, nhiều bài dạy, giáo viên muốn có thêm một số phương
tiện, vật dụng, đồ dùng khác thì phải tự chạy vạy, tự bỏ tiền túi ra làm, trong điều
kiện áp lực công việc tại trường học ngày càng nhiều, đồng lương, chế độ còn ít ỏi,
kinh phí hỗ trợ của nhà trường rất hạn chế.
Có thể nói, phương pháp dạy học là một yếu tố quan trọng bậc nhất để mục
tiêu, chất lượng, hiệu quả giáo dục phổ thông đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo
dục, kỳ vọng của xã hội, đất nước trong bối cảnh hội nhập. Tính cấp thiết việc đổi
mới phương pháp dạy học được đặt ra và đang quyết tâm thực hiện. Đây không phải
là câu chuyện đơn giản, giải quyết trong một sớm một chiều, cần có một lộ trình
nhất định, đặc biệt là nỗ lực, ý chí, từ nhiều phía, các cấp quản lý giáo dục, đội ngũ
giáo viên đến đối tượng học sinh chúng ta.
1. Đối tượng nghiên cứu
Là một giáo viên trung học phổ thông thì bắt buộc, yêu cầu người giáo viên phải tốn
nhiều thời gian, phải vất vả, tìm tòi, sáng tạo rất nhiều trong khâu thiết kế, soạn bài,
chuẩn bị, sử dụng nhiều phương án, tình huống sự phạm, chuyên môn để dẫn dắt,
gợi mở học sinh tìm hiểu, suy nghĩ, tư duy đặc biệt với tình hình hội nhập và phát
triển hiện nay giáo dục trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi
người giáo viên của thế kỷ 21 phải năng động sáng tạo tìm tòi và đầy tâm huyết với
nghề mới đáp ứng được xu thế của giáo dục hiện nay. Như lý do đã nêu trên tôi xin
chọn đề tài “Những vấn đề cốt lõi của giáo viên thế kỷ 21”.
Trong phạm vi đề tài, tôi xin trình bày về bối cảnh chung, những vấn đề cốt lõi của
giáo viên thế kĩ 21, quan niệm về người giáo viên thế kỷ 21, liên hệ bản thân trước
những yêu cầu đối với người giáo viên thế kỷ 21.
NỘI DUNG PHẦN MỘT: Giới thiệu khái quát về các chuyên đề học tập trong khóa
Bồi dưỡng
1. Lý luận về nhà nước và hành chính nhà nước.
Bản chất của nhà nước nói chung.
Trong xã hội có giai cấp, quyền lực chính trị luôn thuộc về một giai cấp hoặc liên
minh các giai cấp thống trị. Giai cấp cầm quyền tổ chức ra bộ máy đặc biệt để duy trì sự
thống trị đối với xã hội, buộc các lực lượng xã hội khác phục tùng ý chí của mình. Bộ máy
đó là nhà nước - tổ chức quyền lực chính trị đặc biệt. Quyền lực chính trị, như C.Mác và
Ph. Ăngghen đã chỉ rõ, về thực chất là “bạo lực có tổ chức của một giai cấp để đàn áp giai
cấp khác”.
Bản chất của nhà nước trước hết thể hiện ở tính giai cấp, nghĩa là nhà nước luôn
thực hiện ý chí và bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị trong xã hội. Tuy nhiên, ngoài tính
giai cấp, nhà nước còn mang tính xã hội. Với tư cách là tổ chức công quyền, nhà nước đại
diện cho xã hội thực hiện chức năng quản lý các quan hệ xã hội. Trong khi thực hiện các
chức năng giai cấp, nhà nước ít nhiều còn phải tính đến lợi ích chung của xã hội. Nhà
nước phải giải quyết những vấn đề nảy sinh trong xã hội, bảo đảm duy trì các giá trị xã hội
đã đạt được. Những đặc tính này được thể hiện khác nhau, phụ thuộc vào cơ sở kinh tế -
xã hội của các kiểu nhà nước.
Bản chất Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là biểu hiện cụ thể bản
chất nhà nước XHCN, thể hiện ở tính giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân và tính thời
đại.
Nhà nước CHXHCN Việt Nam mang tính giai cấp công nhân dựa trên nền tảng liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, được dẫn dắt bởi
CN Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bản chất giai cấp của Nhà nước CHXHCNVN
được thể hiện rõ nhất ở đặc điểm là được đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của
Đảng Cộng Sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân.
Quản lý hành chính nhà nước Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà nước, đó
là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước trên cơ sở pháp luật đối
với hành vi hoạt động của con người và các quá trình xã hội, do các cơ quan trong hệ
thống hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những mục
tiêu, chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động
thực thi quyền hành pháp: hành pháp là một trong ba nhánh quyền lực của nhà nước: Lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Quản lý hành chính là sự tác động có tổ chức và có định
hướng: Trong quản lý hành chính nhà nước, chức năng tổ chức rất quan trọng,vì không có
tổ chức thì không thể quản lý được. Nhà nước phải tổ chức cả triệu người và mỗi người
đều có vị trí tích cực đối với xã hội, đóng góp phần của mình để tạo ra lợi ích cho xã hội.
Quản lý hành chính nhà nước có tính định hướng vì thông qua tác động quản lý của mình
các chủ thể quản lý hành chính nhà nước định hướng hành vi con người và các quá trình
xã hội theo những quỹ đạo, mục tiêu nhất định. Quản lý hành chính nhà nước được tiến
hành trên cơ sở pháp luật và theo nguyên tắc pháp chế: Quản lý hành chính nhà nước là
hoạt động thực thi quyền lực nhà nước, sử dụng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước nhưng
phải trong khuôn khổ của pháp luật. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của nhà
nước pháp quyền.
Nền hành chính nhà nước là bộ phận quan trọng trong hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa, là công cụ để thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động trong xã hội. Hoạt động hành chính nhà nước nhằm thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng để đạt được những mục tiêu chính trị của quốc gia. Bản chất của nhà
nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân, do đó nhân dân là chủ thể tối cao của đất nước. Tuy nhiên, Nhà nước xã hội chủ
nghĩa được nhân dân uỷ quyền, thay mặt nhân dân thực hiện quản lý các lĩnh vực của đời
sống xã hội một cách tập trung, thống nhất. Hoạt động hành chính nhà nước phải chịu sự
kiểm tra, giám sát của nhân dân, phải đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân dân trong
quản lý nhà nước, quản lý xã hội.Trong quá trình phát triển của xã hội, hoạt động quản lý
không chỉ là một khoa học mà còn là một nghệ thuật. Quản lý là một khoa học vì nó có
tính quy luật, có các nguyên lý và các mối quan hệ tương hỗ với các môn khoa học khác.
Quản lý là một nghệ thuật vì nó gắn với tài nghệ, bản lĩnh, nhân cách, trí tuệ, kinh
nghiệm... của người quản lý.
Quản lý hành chính nhà nước là biểu hiện quan trọng và tập trung nhất của toàn bộ
hoạt động của nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Chính vì
vậy, người cán bộ, công chức phải có kiến thức về những quy luật khách quan của hoạt
động quản lý nói chung và quản lý nhà nước nói riêng.
Đối tượng của quản lý hành chính nhà nước là tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội:
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng... Quản lý hành chính nhà nước
không chỉ là tổ chức, điều chỉnh từng lĩnh vực mà còn phải liên kết, phối hợp các lĩnh vực
thành một thể thống nhất để đảm bảo xã hội phát triển đồng bộ, cân đối, có hiệu quả đáp
ứng nhu cầu của các thành viên trong xã hội. Tuy nhiên, quản lý toàn bộ các lĩnh vực của
đời sống xã hội không có nghĩa là các cơ quan hành chính nhà nước can thiệp vào mọi
khía cạnh, mọi quan hệ xã hội mà chỉ điều chỉnh, tác động vào các quan hệ xã hội đã
được pháp luật xác định. Khi nói đến đặc điểm của quản lý hành chính nhà nước là nói
đến những nét đặc thù của quản lý hành chính nhà nước để phân biệt với các dạng quản lý
xã hội khác.
2. Chiến lược và chính sách phát triển Giáo dục – Đào tạo
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định "Đổi mới căn bản,
toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ
hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo
viên và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt" và "Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh
nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây
dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam.
* Tình hình giáo dục Việt Nam giai đoạn 2001-2010
- Những thành tựu
Quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục phát triển, đáp ứng tốt hơn nhu cầu
học tập của nhân dân. Chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo có tiến bộ.
Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của học sinh, sinh viên được nâng cao
một bước. Đã mở thêm nhiều ngành nghề đào tạo mới, bước đầu đáp ứng nhu cầu của thị
trường lao động. Chất lượng giáo dục mũi nhọn đã được coi trọng thông qua việc phát
triển hệ thống trường chuyên, trường năng khiếu và thực hiện các chương trình đào tạo
chất lượng cao, chương trình tiên tiến ở nhiều trường đại học và cao đẳng nghề. Công
bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục đã được cải thiện, đặc biệt người dân tộc thiểu số, con
em các gia đình nghèo, trẻ em gái và các đối tượng bị thiệt thòi ngày càng được quan tâm.
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tăng nhanh về số lượng, nâng dần về chất
lượng, từng bước khắc phục một phần bất hợp lý về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu phổ cập giáo
dục và phát triển các cấp học và trình độ đào tạo. Ngân sách Nhà nước đầu tư cho giáo
dục tăng nhanh, từ 15,3% năm 2001 lên 20% tổng chi ngân sách năm 2010. Giáo dục
ngoài công lập phát triển, đặc biệt trong giáo dục nghề nghiệp và đại học.Trong 10 năm
qua, những thành tựu của giáo dục nước ta đã đóng góp quan trọng trong việc nâng cao
dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững
an ninh chính trị, tạo điều kiện cho đất nước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.
- Nguyên nhân của những thành tựu:
Sự lãnh đạo của Đảng, quan tâm của Quốc hội; sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ
và chính quyền các cấp; sự quan tâm, tham gia đóng góp của các đoàn thể, tổ chức xã hội
trong và ngoài nước, của toàn dân đối với giáo dục đã quyết định sự thành công của sự
nghiệp giáo dục. Sự ổn định chính trị, những thành quả phát triển kinh tế - xã hội, đời
sống nhân dân được cải thiện và hội nhập quốc tế trong thời kỳ đổi mới đã tạo môi trường
thuận lợi cho phát triển giáo dục. Đầu tư cho giáo dục trong tổng chi ngân sách nhà nước
đã liên tục tăng qua các năm. Lòng yêu nước, yêu người, yêu nghề, ý thức trách nhiệm, sự
nỗ lực của đội ngũ nhà giáo và quyết tâm đổi mới của ngành giáo dục đã góp phần quan
trọng vào việc thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục.
- Những bất cập và yếu kém
Hệ thống giáo dục quốc dân thiếu tính thống nhất, thiếu liên thông giữa một số cấp
học và một số trình độ đào tạo, chưa có khung trình độ quốc gia về giáo dục. Tình trạng
mất cân đối trong cơ cấu ngành nghề đào tạo, giữa các vùng miền chậm được khắc phục,
chưa đáp ứng được nhu cầu nhân lực của xã hội. Số lượng các cơ sở đào tạo, quy mô tăng
nhưng các điều kiện đảm bảo chất lượng chưa tương xứng. Chất lượng giáo dục còn thấp
so với yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới và so với trình độ của các nước
có nền giáo dục tiên tiến trong khu vực, trên thế giới. Quản lý giáo dục vẫn còn nhiều bất
cập, còn mang tính bao cấp, ôm đồm, sự vụ và chồng chéo, phân tán; trách nhiệm và
quyền hạn quản lý chuyên môn chưa đi đôi với trách nhiệm, quyền hạn quản lý về nhân sự
và tài chính. Một bộ phận nhà giáo và cán bộ quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm
vụ giáo dục trong thời kỳ mới. Đội ngũ nhà giáo vừa thừa, vừa thiếu cục bộ, vừa không
đồng bộ về cơ cấu chuyên môn. Nội dung chương trình, phương pháp dạy và học, công
tác thi, kiểm tra, đánh giá chậm được đổi mới. Nội dung chương trình còn nặng về lý
thuyết, phương pháp dạy học lạc hậu, chưa phù hợp với đặc thù khác nhau của các loại
hình cơ sở giáo dục, vùng miền và các đối tượng người học. Cơ sở vật chất kỹ thuật của
nhà trường còn thiếu và lạc hậu. Vẫn còn tình trạng phòng học tạm tranh tre, nứa lá ở
mầm non và phổ thông, nhất là ở vùng sâu, vùng xa; thư viện, phòng thí nghiệm, phòng
học bộ môn và các phương tiện dạy học chưa đảm bảo về số lượng, chủng loại và chất
lượng so với yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, nhất là ở các trường đại học. Quỹ đất
dành cho các cơ sở giáo dục chưa đạt chuẩn quy định.
* Giáo dục nước ta giai đoạn 2010-2020 - Quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục
Phát triển giáo dục phải thực sự là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà
nước và của toàn dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nâng
cao vai trò các tổ chức, đoàn thể chính trị, kinh tế, xã hội trong phát triển giáo dục. Xây
dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, tiên tiến, hiện đại, xã hội chủ nghĩa, lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Thực hiện công bằng xã hội
trong giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục vùng khó để đạt được mặt bằng chung, đồng
thời tạo điều kiện để các địa phương và các cơ sở giáo dục có điều kiện bứt phá nhanh, đi
trước một bước, đạt trình độ ngang bằng với các nước có nền giáo dục phát triển. Xây
dựng xã hội học tập, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng được học, học suốt đời, đặc biệt đối
với người dân tộc thiểu số, người nghèo, con em diện chính sách. Đổi mới căn bản, toàn
diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa, hội nhập
quốc tế, thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển giáo
dục gắn với phát triển khoa học và công nghệ, tập trung vào nâng cao chất lượng, đặc biệt
chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành để một mặt
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, đảm bảo an ninh quốc phòng; mặt khác phải chú trọng thỏa mãn nhu cầu phát triển
của mỗi người học, những người có năng khiếu được phát triển tài năng. Hội nhập quốc tế
sâu, rộng về giáo dục trên cơ sở bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc, giữ vững độc lập, tự
chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng giao lưu hợp tác với các nền giáo dục trên thế
giới, nhất là với các nền giáo dục tiên tiến hiện đại; phát hiện và khai thác kịp thời các cơ
hội thu hút nguồn lực có chất lượng.
* Mục tiêu phát triển giáo dục 2010-2020
Đến năm 2020, nền giáo dục nước ta được đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; chất lượng giáo dục
được nâng cao một cách toàn diện, gồm: giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, năng lực sáng
tạo, năng lực thực hành, năng lực ngoại ngữ và tin học; đáp ứng nhu cầu nhân lực, nhất là
nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây
dựng nền kinh tế tri thức; đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục và cơ hội học tập suốt
đời cho mỗi người dân, từng bước hình thành xã hội học tập.
3. Quản lý Giáo dục và chính sách phát triển giáo dục trong cơ chế thi trường
định hướng XHCN.
* Ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của cơ chế thị trường với giáo dục:
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8, khóa XI đã chỉ rõ:
Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giao duc va đao tao . Vậy, tại sao phải chủ động
phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường và phải bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa. Vì cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chi phối ảnh
hưởng tới toàn bộ các hoạt động của đất nước ta, trong đó có giáo dục và đào tạo. Thành
công của quá trình đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo phụ thuộc rất nhiều vào sự chủ
động, năng lực của tổ chức, cá nhân trong việc chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Mặt tích cực của cơ chế thị trường là chú trọng giải
quyết quan hệ cung/cầu; cạnh tranh, tạo động lực nâng cao chất lượng đào tạo, chú trọng
hiệu quả đầu tư. Mặt tiêu cực của cơ chế thị trường trong giáo dục là chạy theo lợi nhuận
tối đa, bỏ quên lợi ích lâu dài của người học, gây bức xúc xã hội. Trong khi đó, chức năng
xã hội và vai trò quan trọng của giáo dục không cho phép biến giáo dục thành thị trường
hàng hóa thông thường. Trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
cần vận dụng những yếu tố tích cực của kinh tế thị trường để phát triển giáo dục ở phạm
vi và mức độ phù hợp. Ảnh hưởng của kinh tế thị trường đến giáo dục là đương nhiên,
không nên kì thị, né tránh nhưng phải chủ động phát huy ưu thế, đồng thời làm tốt công
tác quản lý, ngăn ngừa, hạn chế những mặt trái của kinh tế thị trường; khuyến khích đầu
tư giáo dục không vì lợi nhuận.
* Định hướng xã hội chủ nghĩa trong giáo dục và đào tạo:
Theo quan điểm của Đảng ta, mục tiêu, nội dung giáo dục và đào tạo phải đảm bảo
vì sự phát triển tốt đẹp của con người và xã hội. Để đạt được mục tiêu và nội dung này,
Nghị quyết Trung ương 8 đã khẳng định nguồn lực nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu
tư ngân sách cho giáo dục và đào tạo. Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để thực hiện
công bằng trong tiếp cận giáo dục đối với mọi người dân; hỗ trợ, có chính sách phù hợp
cho giáo dục phổ cập, giáo dục bắt buộc, giáo dục vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và các đối tượng diện chính sách; thực hiện xã hội
hóa giáo dục, tạo điều kiện cho giáo dục ngoài công lập phát triển. Tuy nhiên, Nghị quyết
Trung ương 8 cũng chỉ rõ nhiệm vụ mà ngành giáo dục - đào tạo phải nhanh chóng thực
hiện trong thời gian tới và những năm tiếp theo là chủ động giao quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục, đào tạo. Nhà nước tăng cường công tác giám sát,
thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật, của các chủ thể trong hoạt
động giáo dục, đào tạo.
* Thực hiện hê thông giao duc mơ
Nghị quyết cũng đề ra yêu cầu và mục tiêu hướng tới của nền giáo dục Việt Nam là
xây dựng hệ thống giáo dục mở . Tức là hê thông giao duc linh hoạt , liên thông giữa các
yếu tố: nội dung, phương pháp, phương thức, thời gian, không gian, chủ thể giáo dục…
của hệ thống và liên thông với môi trường bên ngoài hệ thống . Tuy nhiên, hệ thống này
phải bảo đảm tính sáng tạo cho việc xây dựng , tổ chức các nội dung , hình thức giáo dục ;
đồng thời tạo cơ hội tiếp cận giáo dục cho moi người ; tận dụng các nguồn lực cho giáo
dục và bảo đảm tính hiệu quả, phát triển bền vững của hệ thống.
Nói cách khác, hệ thống giáo dục mở là hệ thống giáo dục tạo ra cơ hội phát triển
chương trình giáo dục, tạo cơ hội học tập phù hợp cho mọi đối tượng có nhu cầu, không
phân biệt lứa tuổi, trình độ học vấn và nghề nghiệp, địa vị xã hội, giới tính trong mọi thời
gian khác nhau và không gian khác nhau. Nhờ đó, việc học tập của con người có điều kiện
để thực hiện không ngừng suốt đời.
* Ôn định hệ thông giáo dục phô thông 12 năm:
Nội dung nghị quyết đã chỉ rõ là cơ cấu hệ thống giáo dục phải góp phần đảm bảo
quyền lợi học tập của người dân. Chất lượng giáo dục của mỗi cấp học phải đảm bảo đạt
chuẩn quốc gia và tương ứng với chất lượng quốc tế, phát huy hiệu quả đầu tư giáo dục.
Thực hiện quan điểm chỉ đạo của nghị quyết, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã xây dựng đề án
phát triển giáo dục trong tình hình mới và khẳng định việc ổn định hệ thống giáo dục như
hiện nay, tức 12 năm giáo dục phổ thông (GDPT). Lí do thứ nhất là trong lịch sử giáo dục
Việt Nam, mô hình giáo dục 12 năm tồn tại lâu nhất và ổn định nhất (tính từ sau Cách
mạng tháng 8 năm 1945 đến nay, mô hình 12 năm đã tồn tại 32 năm trong phạm vi cả
nước). Thứ hai là mô hình GDPT 12 năm đang được thực hiện ở đa số nước trên thế giới.
Theo thống kê của UNESCO, có 163/206 nước, GDPT từ 12 năm trở lên (12 - 14 năm),
chiếm tỉ lệ 79,1%; trong đó, hệ thống GDPT 12 năm là phổ biến nhất: 117 nước, chiếm tỉ
lệ 56,8%.
Hơn nữa, việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông theo hướng phát triển
năng lực học sinh là xu thế quốc tế đã và đang được nhiều nước tiên tiến áp dụng. Định
hướng này đòi hỏi phải gia tăng thời lượng cho việc tổ chức các hoạt động học tập, đặc
biệt là hoạt động thực hành và vận dụng kiến thức. Vì vậy, Bộ Giáo dục - Đào tạo quyết
định chọn phương án duy trì hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm.
4. Giáo viên THPT với công tác tư vấn học sinh trong trường THPT.
* Tư vấn tâm lý học đường – một nhu cầu có thực của học sinh trung học phổ thông
Bước sang thế kỷ thứ XX, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục có những bước đột phá, tạo sự
chuyển biến nhanh về mọi mặt trong đời sống của người Việt Nam. Tuy nhiên, những
biến động của nền kinh tế thị trường mở cửa cũng gây ra không ít tác động tiêu cực đến
đời sống tinh thần của nhiều người, đặc biệt là giới trẻ, mà lực lượng đông nhất chính là
học sinh trung học phổ thông. Ở độ tuổi 15-18, các em chưa phải là người lớn nhưng cũng
không còn là trẻ con, có khả năng nhận thức nhưng những nhận thức của các em chưa thật
sự chín chắn và có thể sẽ sai lệch nếu không được định hướng. Đa số các em còn lệ thuộc
vào cha mẹ về cả kinh tế lẫn tinh thần. Tuy nhiệm vụ chính là học tập, nhưng các em
thường phải đối mặt với rất nhiều áp lực, từ nhiều phía: gia đình, nhà trường, xã hội. Ở
nhà, đó là những yêu cầu, kỳ vọng của cha mẹ, ông bà, là bầu không khí trong gia đình, là
mối quan hệ giữa con cái với cha mẹ,… Ở trường, là áp lực về học tập, quan hệ với thầy
cô, bạn bè,..Ngoài xã hội, các em phải đối mặt với những cám dỗ của các trò chơi, các
trang thông tin mạng,… Và riêng bản thân các em cũng phải lúng túng với những vấn đề
mới nảy sinh: những thay đổi về tâm sinh lý, tình yêu tuổi học trò, việc lựa chọn nghề
nghiệp trong tương lai,… Cá biệt, có những em vấp phải vấn đề nghiêm trọng hơn: lệch
lạc về giới tính, bạo hành gia đình, tệ nạn xã hội,… Đối diện với những vấn đề phức tạp
đó, rất nhiều em sẽ không biết nhìn nhận, giải quyết vấn đề như thế nào cho hợp lý.Trong
những trường hợp như thế, học sinh rất cần đến sự chia sẻ, sự thông hiểu từ người thân:
gia đình, bạn bè,… Có thể nói, lứa tuổi 15 – 18 là một trong những giai đoạn khủng hoảng
và khó khăn trong cuộc đời của mỗi người. Sự trợ giúp kịp thời và đúng đắn từ phía người
lớn là một nhu cầu bức thiết đối với trẻ, đặc biệt là khi các em đã rơi vào sự khủng hoảng
tâm lý. Học sinh cần được giãi bày, cần được tâm sự, cần được những lời khuyên đúng
đắn từ người lớn, mà gần gũi với các em nhất chính là cha mẹ, thầy cô. Và khi không thể
có được điều đó từ gia đình, nhiều em đã xem thầy cô như một chỗ dựa tinh thần. Cho các
em những lời khuyên, định hướng đúng đắn cho các em con đường phải đi, giúp các em
tìm lại niềm tin, niềm vui trong cuộc sống,… Đó là những điều mà người thầy cần phải
thực hiện được để đáp ứng nhu cầu được tư vấn tâm lý, một nhu cầu có thực và vô cùng
bức thiết của học sinh trong nhà trường phổ thông. * Người giáo viên chủ nhiệm với
công tác tư vấn tâm lý cho học sinh Giáo dục học sinh không phải chỉ là dạy cho các em về kiến thức, mà còn phải giúp các
em hình thành nhân cách; không chỉ là dạy chữ mà còn phải dạy người. Vì lẽ đó mà sự
nghiệp giáo dục dược mệnh danh là "trồng người". Việc trồng người này đòi hỏi phải có
sự chung tay góp sức của các lực lượng xã hội, mà quan trọng nhất là sự phối hợp ăn ý,
chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường. Thế nhưng các bậc cha mẹ đôi khi cũng bế tắc trong
việc giáo dục con ở tuổi thanh thiếu niên. Một số bậc cha mẹ, khi con cái có vấn đề, đã trả
lời giáo viên chủ nhiệm: "Tôi lo làm kiếm tiền lo cho nó đi học, không có thời gian, có gì
thì cô dạy dùm, tôi cám ơn". Có người rất thật lòng: "Ở nhà tôi rầy cỡ nào nó cũng không
nghe. Tôi nói mười câu không bằng thầy nói một câu." Cũng có người thể hiện thái độ bất
hợp tác: khóa điện thoại khi thầy cô chủ nhiệm gọi đến, và khi đã liên lạc được thì "Cô mà
còn gọi nữa là tui cho nó nghỉ học!".
Với một số học sinh, gia đình không phải là chốn bình yên, không phải là nơi mà em
muốn quay về sau mỗi ngày đi học. Và còn biết bao tình huống mà người giáo viên chủ
nhiệm phải đối diện khi quản lý một lớp học: các em có mâu thuẫn với giáo viên bộ môn
và yêu cầu được đổi giáo viên, bị thầy cô ép đi học thêm, thầy cô đối xử bất công hay hiều
lầm, bị thất tình, mâu thuẫn với bạn bè dẫn đến xô xát, muốn nghỉ học vì chán nản chuyện
gia đình, vì hoàn cảnh khó khăn,… Ở tuổi mới lớn, vì luôn muốn được quan tâm, đôi khi
các em thổi phồng vấn đề của mình lên quá mức, khiến cho việc nhỏ trở nên trầm trọng.
Nếu không được kịp thời giúp đỡ, khi cảm thấy không ai quan tâm đến mình, các em sẽ tự
giải quyết vấn đề và thông thường đó là những cách xử lý tiêu cực, đôi khi gây ra hậu quả
vô cùng trầm trọng.
Thiết nghĩ, trước những tình huống nảy sinh trong quá trình quản lý lớp học, với tư
cách là giáo viên chủ nhiệm (GVCN), người thầy cần phải có đủ thời gian, đủ kiên nhẫn,
đủ bản lĩnh và quan trọng nhất là phải có đủ tình thương để có thể lắng nghe, thông cảm,
thấu hiểu, chia sẻ và định hướng cho các em cách giải quyết những vấn đề khó khăn trong
cuộc sống. Tuy nhiên, ta không nên chờ đến khi thật sự có vấn đề rồi mới đi tìm cách giải
quyết, mà phải phát hiện được vấn đề khi nó còn tiềm ẩn, ngăn chặn những tình huống
xấu phát sinh.
Muốn làm được điều đó, ngay từ đầu năm học, khi vừa nhận lớp, GVCN phải tìm hiểu
thật cặn kẽ tình hình học sinh thông qua các nguồn khác nhau. Từ bản thân các em thông
qua Phiếu thông tin cá nhân, có thể nắm được hoàn cảnh kinh tế gia đình, tình hình nhà ở,
mối quan hệ gia đình, xã hội, những ước muốn, sở trường, những khó khăn nếu có,… Với
những thông tin đầu tiên này, GVCN có thể sàng lọc chọn ra những học sinh có hoàn cảnh
đặc biệt để nếu cần, thu thập thêm thông tin về các em thông qua bạn bè, cha mẹ, GVCN
hay thầy cô cũ của các em. Tuy nhiên, trong cuộc sống, không có gì là không thể xảy ra.
Vì vậy, đối với những học sinh được đánh giá thật bình thường về hoàn cảnh, về tâm lý,
cũng không nên chủ quan cho rằng không cần phải quan tâm đến các em. GVCN phải thể
hiện sự quan tâm của mình đến với từng học sinh, nhưng cũng phải đặt trọng tâm, trọng
điểm ở một số học sinh các biệt. Song song đó, GVCN cũng cần tự hình thành cho mình
một mạng lưới thu thập thông tin riêng từ các nguồn: giáo viên bộ môn, giám thị phụ trách
lớp, cha mẹ, bạn bè của học sinh.
Sau khi nắm chắc được tình hình học sinh, GVCN tiến hành bước thứ hai: quan sát.
Quan sát để phát hiện những thay đổi trong hành vi, những hiện tượng bất thường trong
đời sống học đường, quan sát những biểu hiện của học sinh có nguy cơ rối nhiễu tâm lý.
Đó có thể là những biểu hiện nhỏ: đi trễ, không mang giày, cáu gắt với bạn, lo ra, … hay
lớn hơn: nghỉ học không xin phép, cúp tiết. Và nghiêm trọng hơn, như vi phạm kiểm tra,
vô lễ với giáo viên,… Với những học sinh cá biệt, việc nghỉ học, cúp tiết là chuyện
thường ngày, nhưng với những học sinh vốn ngoan ngoãn, chăm chỉ thì một biểu hiện nhỏ
nhất cũng là điều cần lưu ý.
Tóm lại, trong nhà trường trung học phổ thông, việc tư vấn tâm lý cho học sinh là một
hoạt động không thể thiếu của GVCN. Việc làm này đòi hỏi người thầy phải bỏ ra nhiều
thời gian, công sức và tâm huyết. Nhưng trong quá trình thực hiện tư vấn tâm lý cho học
sinh, GVCN cũng gặp không ít khó khăn khách quan và chủ quan: những giáo viên trẻ
chưa đủ kinh nghiệm và vốn sống, thầy cô lớn tuổi lại khó tìm được tiếng nói chung với
những đứa trẻ chưa bằng tuổi con mình, có người quá bận rộn nên không đủ thời gian giải
quyết vấn đề cho đến nơi đến chốn, có người không đủ năng lực để giải quyết vấn đề mà
học sinh đặt ra,… Khó khăn là có thật, nhưng nhu cầu được tư vấn tâm lý của học sinh
cũng là có thật. Do đó, còn theo đuổi nghề giáo, còn ở vị trí của một GVCN thì còn còn
cần phải không ngừng học hỏi, chia sẻ với đồng nghiệp những kinh nghiệm, kỹ năng tư
vấn tâm lý. Nhìn chung thanh niên mới lớn là thời kỳ đặc biệt quan trọng đối với cuộc đời
con người. Đây là thời kì lứa tuổi phát triển một cách hài hòa, cân đối, là thời kì có sự biến
đổi lớn trong toàn bộ nhân cách để các em sẵn sàng bước vào cuộc sống tự lập. Những
thay đổi trong vị thế xã hội, sự thách thức khách quan của cuộc sống sẽ làm nảy sinh ở lứa
tuổi học sinh THPT những khó khăn về tâm lý, tình cảm của lứa tuổi, vướng mắc trong
học tập, hướng nghiệp,… cần được người lớn quan tâm, chia sẻ. Thực hiện tốt công tác tư
vấn tâm lý cho học sinh, người GVCN đã đóng góp một phần công sức không nhỏ vào sự
nghiệp trồng người./.
5. Tổ chức hoạt động dạy học, xây dựng và phát triển kế hoạch Giáo dục ở trường
THPT
*Khái niệm “hoạt động dạy học”
Hoạt động dạy học của giáo viên là một mặt của hoạt động sư phạm (4)
. Trươc đây,
ngươi ta hiêu hoat đông sư pham chi la hoat đông cua ngươi thây. Ngươi thây đong vai tro
trung tâm trong qua trinh day va hoc . Trong hoat đông sư phạm, ngươi thây chu đông tư
viêc chuẩn bi nôi dung giang day , phương phap truyên thu , đến những lời chỉ dẫn , nhưng
câu hoi, v.v. Còn học sinh (HS) tiêp nhân thu đông, học thuộc để “trả bài”. Ngươi thây giư
“chia khoa tri thưc”, cánh cửa tri thức chỉ có thể mở ra từ phía hoạt động của người thầy .
Quan niêm nay hiên nay đa lôi thơi , bị vượt qua . Vì rằng, tư góc đô khoa học sư pham,
quan niêm trên chi chu trong hoat đông môt mặt, hoạt động cua ngươi thây ma không thây
đươc mặt kia cua hoat đông sư pham la hoat đông cua tro .Theo quan điêm lý thuyết vê
dạy học hiện đại , hoạt động dạy học bao gồm hoạt động của thầy và trò . Nhà tâm lý học
A.Mentriskaia viêt: “Hai hoạt đông cua thây va tro la hai măt cua môt hoat đông”(5)
.
*Hoạt động dạy học là hoạt động tương tác có tính đặc thù
Hoạt động dạy học là hoạt động được thực hiện theo một chiến lược, chương trình
đã được thiết kế, tác động đến người học nhằm hướng tới mục tiêu hình thành và phát
triển phẩm chất, năng lực của người học. Giáo viên (GV) xây dựng, thiết kế hoạt động dạy
học một cách đầy đủ và cụ thể bao nhiêu thì công việc dạy học càng hiệu quả bấy nhiêu.
Vì hầu hết GV đều mong muốn đạt được thành công chóng vánh trong các giờ dạy nên họ
thường bỏ qua việc xây dựng chiến lược hoạt động của thầy một cách lôgic, khoa học và
có định hướng. Khi nói về hoạt động dạy của GV, người ta dễ nghĩ đến sự hoàn chỉnh có
tính đơn phương của nó. Từ đó, người ta xây dựng những “quy tắc vàng” bắt buộc mỗi
GV phải tuân thủ một cách đầy đủ, nghiêm ngặt. Thực tế này dẫn đến tình trạng, nhiều giờ
học trở nên nhàm chán, sa vào truyền thụ tri thức một chiều, không đáp ứng được nhu cầu
cá nhân người học. Thực chất, vì hoạt động của GV là hoạt động lôi cuốn HS và hòa nhịp
với hoạt động của HS nên những “quy tắc vàng” phải đảm bảo tính tương tác. Ý kiến của
Davydov: “Các hoạt động dạy- học là các hoạt động cùng nhau của thầy và trò” đã chỉ ra
sự tương tác trong hoạt động dạy học mang tính đặc thù. Nói là đặc thù vì, thứ nhất, hoạt
động dạy học nằm trong chuỗi hoạt động của con người nhưng là hoạt động nghề nghiệp,
không phải là hoạt động của mọi người. Người hoạt động dạy học phải có tiêu chuẩn và
năng lực nghề nghiệp mới tham gia được hoạt động này. Thứ hai, hoạt động dạy học là
hoạt động tương tác. GV tác động vào HS, HS phát triển, GV căn cứ vào sự thay đổi ở HS
để điều chỉnh hoạt động dạy. Như vậy, sự tương tác trong hoạt động dạy học không phải
là sự tương tác giữa các cá nhân hay nhóm xã hội với nhau như trong hoạt động kinh tế,
chính trị, hay các hoạt động xã hội khác (ở đó sự tương tác giữa các cá nhân hay nhóm xã
hội nhiều khi không cùng mục tiêu, thậm chí trái ngược nhau về lợi ích, v.v.). Trong khi
đó, hoạt động dạy học là “hoạt động cùng nhau của thầy và trò”. Thầy và trò cùng hướng
về một mục tiêu. Năng lực của hoạt động dạy của người thầy và năng lực học của học sinh
được thể hiện ở các mức độ đạt được của mục tiêu chương trình giáo dục đề ra. Do vậy,
hoạt động dạy có kết quả khi nó tác động cùng hướng với hoạt động học. Hoạt động dạy
học có tính tương tác ở chỗ, nó phải bắt nhịp cùng người học, là người tham gia hoạt động
học cả về trí tuệ và tình cảm. Thứ ba, hoạt động dạy học nhìn từ phía hoạt động của người
thầy trong tương tác với họat động học của trò là hướng dẫn, tổ chức và điều khiển hoạt
động học của HS. Trong cuốn Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, các tác giả đã
định nghĩa hoạt động dạy học như sau: “Hoạt động dạy là hoạt động của người lớn tổ chức
điều khiển hoạt động của trẻ nhằm giúp chúng lĩnh hội nền văn hóa xã hội, tạo ra sự phát
triển tâm lý, hình thành nhân cách của chúng”(6)
.
*Xây dựng và phát triển kế hoạch Giáo dục ở trường THPT
Tính kế hoạch là đặc trưng của quản lý; có kế hoạch là nguyên tắc của quản lý;
quản lý bằng kế hoạch là phương pháp chủ đạo của quản lý. Quản lý một hệ thống phức
tạp đòi hỏi phải có một kế hoạch được xây dựng từ trước. Kế hoạch hoá trong giáo dục
là áp dụng sự phân tích hệ thống và hợp lý các quá trình phát triển giáo dục với mục
đích làm cho giáo dục đạt được các kết quả và có hiệu quả phù hợp với những yêu cầu
và nhiệm vụ của người học và xã hội đặt ra (Education Planning, Mexico, 1990). Một
bản kế hoạch được thực hiện thông qua các chương trình và các đề án. Đề án là một tập
hợp các hoạt động nhằm thực hiện một mục tiêu riêng biệt của bản kế hoạch trong một
thời gian và với một ngân sách xác định. Chương trình là một tập hợp các đề án nhằm
thực hiện một mục tiêu chính của bản kế hoạch hoặc nhiều mục tiêu có liên quan với
nhau trong một phạm vi thời gian nói chung dài hơn thời gian các đề án của chương
trình đó. Bất cứ một nhà trường nào, các hoạt động giáo dục – đào tạo đều bị chi phối
bởi các yếu tố:
- Nhu cầu của nền kinh tế-xã hội (yêu cầu chung của đất nước và của địa phương,
vùng lãnh thổ nơi trường đóng) đối với con người do nhà trường đào tạo về tri thức, tư
tưởng, tình cảm, sức khoẻ và những kỹ năng cần thiết. Các nhu cầu này thể hiện trong
mục tiêu đào tạo, trong các chỉ thị của cấp trên, trong chỉ tiêu đào tạo, tuyển sinh được
giao… Nhu cầu về quyền lợi của các cá nhân và tập thể sư phạm nhà trường.
- Yếu tố nội lực: các điều kiện về con người, tài chính, vật chất, không gian và thời
gian để tiến hành giáo dục và đào tạo. Thực trạng chất lượng học sinh ở thời điểm xuất
phát.
- - Các yếu tố ngoại lực: sự quan tâm của xã hội; sự phát triển kinh tế-xã hội, dân
số; mặt bằng dân trí, truyền thống văn hoá ...
Như vậy, bản chất của xây dựng kế hoạch trong nhà trường thể hiện ở hoạt động
phân tích để xác định mục tiêu, tìm ra những con đường, những giải pháp để nhà trường
ngày càng đáp ứng các nhu cầu của xã hội. Mục đích của xây dựng kế hoạch là đảm bảo
cho sự phát triển của nhà trường theo từng mốc thời gian. Xây dựng kế hoạch là một chức
năng quan trọng hàng đầu của quản lý. Nó là cơ sở của việc thực hiện các chức năng khác
của quản lý. Bản kế hoạch là một bản quyết định, nhưng đây quan trọng về sự phát triển
của hệ thống, của nhà trường trong một thời gian định trước.
6. Phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên THPT hạng II
Xuất phát từ đặc trưng của nhà trường hiện đại, các chuyên gia giáo dục cho rằng,
việc phát triển năng lực nghề nghiệp cho giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp tiếp cận chuẩn
trong khu vực và quốc tế là hướng đi phù hợp xu thế, hướng tới đáp ứng yêu cầu của đổi
mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Người giáo viên hiện nay không chỉ là người dạy học
trên lớp, và làm nhiệm vụ cung cấp thông tin và truyền thụ kiến thức, mà người giáo viên
phải trở thành người tổ chức, hướng dẫn quá trình học tập của người học.
Từ những thay đổi về vai trò, vị trí của người học và người dạy trong những hoàn cảnh
biến đổi nhanh, phức tạp đòi hỏi người giáo viên phải được trang bị những kiến thức
chuyên môn và năng lực sư phạm, khả năng đáp ứng linh hoạt và hiệu quả trước những
yêu cầu mới.
“Theo đó, việc đào tạo giáo viên cần dựa trên phát triển năng lực nghề nghiệp và nhấn
mạnh đến những kiến thức chuyên ngành, năng lực sư phạm mà người giáo viên cần phải
được đào tạo, bồi dưỡng, để có thể thực hiện các hoạt động giáo dục một cách hiệu quả
nhất trong môi trường công tác thực tế, nâng cao chất lượng dạy và học” - thạc sỹ Lê Đình
Bình trao đổi.
Xuất phát từ đặc trưng của nhà trường hiện đại, yêu cầu về phẩm chất và năng lực của
người giáo viên, là chuyển mục tiêu và nội dung đào tạo từ chủ yếu cung cấp tri thức sang
đào tạo năng lực, chuyển phương thức tổ chức đào tạo theo định hướng tức là hình thành
và phát triển kiến thức, kỹ năng và năng lực sư phạm, phẩm chất, nhân cách nghề của
người giáo viên theo nguyên lý hoạt động, thông qua việc nghiên cứu và giải quyết các
tình huống sư phạm, phát triển năng lực nghề nghiệp của giáo viên theo chu trình: đào tạo
- bồi dưỡng thường xuyên.
Bồi dưỡng theo yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới. Tùy theo từng ngành
cần cập nhật bồi dưỡng kiến thức mới; bồi dưỡng thực hành các phương pháp, cách thức
xây dựng kế hoạch tổ chức dạy học mới; ứng dụng khoa học - công nghệ vào dạy học…
“Các chương trình tài liệu đào tạo, bồi dưỡng được phát triển theo hướng đa dạng hóa, có
bảo bản in, bản điện tử, video clip, đĩa CD, cẩm nang hỏi đáp… trong đó chú trọng việc
“số hóa”, đưa lên mạng Internet tất cả các thông tin để tạo điều kiện cho giáo viên và cán
bộ quản lý giáo dục có thể tự học tập ở mọi nơi, mọi lúc. Hình thức bồi dưỡng, đa dạng
hóa học tập bồi dưỡng. Bồi dưỡng tập trung, bồi dưỡng theo cụm, bồi dưỡng tại trường,
bồi dưỡng ngắn hạn, bồi dưỡng từ xa… Linh hoạt trong cách tổ chức, tùy vào điều kiện cụ
thể”. Cần bồi dưỡng phương pháp giảng dạy cho giáo viên bằng những việc làm thiết
thực, cụ thể. Theo đó, bồi dưỡng thực hành các phương pháp mới phát huy được năng lực
học sinh. Bồi dưỡng phương pháp giảng dạy tích hợp, phân hóa, phương pháp kiểm tra
đánh giá kết quả học tập với nhiều hình thức đa dạng, hạn chế việc cung cấp lý thuyết, coi
trọng thực hành. Bồi dưỡng phương pháp tiếp cận thông tin, khai thác thông tin, xử lý
thông tin, ứng dụng thông tin vào thực tế giảng dạy.
*Đột phá trong phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên
Làm thế nào để tạo đột phá trong phát triển năng lực nghề nghiệp đội ngũ giáo viên
hiện nay, đó là trăn trở của GS.TSKH Nguyễn Mạnh Hùng và PGS.TS Đặng Thị Thanh
Huyền - Học viện Quản lý Giáo dục.
Với giáo dục truyền thống, giáo viên được đào tạo một lần có thể yên tâm làm việc đến
tuổi nghỉ hưu, tuổi tác cùng với kinh nghiệm của họ luôn được đề cao và thông thường,
giáo viên trẻ được truyền lại kinh nghiệm từ những người đi trước để trưởng thành nghề
nghiệp.
Điều đó dẫn đến các phản ứng của giáo viên mỗi khi có sự thay đổi mà kinh nghiệm
không giúp ích nhiều cho họ khi thực hiện nhiệm vụ mới, với các cách thức khác biệt mà
trước đây họ chưa từng trải nghiệm.
“Chẳng hạn với chương trình giáo dục phổ thông mới, việc thiết kế bài giảng phù hợp với
năng lực học tập của học sinh, dạy học tích hợp các lĩnh vực trong một môn học hoặc phát
triển chương trình giáo dục nhà trường, tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo, thiết kế
chuyên đề học tập phù hợp với nhà trường, địa phương… có thể là một cú sốc với nhiều
giáo viên đã thuộc lòng các bài giảng từ vài chục năm trước”
Từ năm 1987, Hội thảo Camegie: Thầy giáo cho thế kỷ 21, coi nghề thầy giáo như là một
nghề cho sự giải thoát và phát triển quốc gia. Hội đồng quốc gia về các tiêu chuẩn giảng
dạy chuyên nghiệp, Hoa Kỳ đã phát hành một bản yêu cầu mang tính định hướng nguyên
tắc nghề nghiệp với 5 vấn đề cốt lõi của giáo viên như sau: Giáo viên cần phải tận tâm đối
với học sinh và việc học tập của họ; Giáo viên phải nắm vững các môn học và biết dạy các
môn học như thế nào; Giáo viên có nghĩa vụ đối với việc giảng dạy, quản lý và kiểm tra
việc học của học sinh; Giáo viên suy nghĩ một cách có hệ thống về khả năng học và thực
hành nghề nghiệp của họ; Giáo viên là thành viên của cộng đồng học tập.
“Giáo dục phát triển năng lực người học đòi hỏi người giáo viên phải hướng dẫn người
học cách học, đưa học sinh vào thế giới hiện thực thông qua các hoạt động học tập. Giáo
viên giới thiệu ý nghĩa của kiến thức trong cuộc sống hiện thực và ý nghĩa của việc học
tập”
7. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh
*Đổi mới phương pháp dạy học nhằm chú trọng phát triển năng lực của học sinh
Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý tích cực
hoá học sinh về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn
với những tình huông của cuộc sông và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với
hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ GV
– HS theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên
cạnh việc học tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ
sung các chủ đề học tập phức hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức
hợp.
Những định hướng chung, tổng quát về đổi mới phương pháp dạy học các môn học thuộc
chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực là:
Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và phát
triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm thông tin,...),
trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy.
Có thể chọn lựa một cách linh hoạt các phương pháp chung và phương pháp đặc thù
của môn học để thực hiện. Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ phương pháp nào cũng phải
đảm bảo được nguyên tắc “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức với sự tô
chức, hướng dẫn của GV”.
Việc sử dụng phương pháp dạy học gắn chặt với các hình thức tổ chức dạy học. Tuỳ
theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể mà có những hình thức tổ chức
thích hợp như học cá nhân, học nhóm; học trong lớp, học ở ngoài lớp... Cần chuẩn bị
tốt về phương pháp đối với các giờ thực hành để đảm bảo yêu cầu rèn luyện kỹ năng
thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, nâng cao hứng thú cho người học.
Cần sử dụng đủ và hiệu quả các thiết bị dạy học môn học tối thiểu đã qui định. Có thể
sử dụng các đồ dùng dạy học tự làm nếu xét thấy cần thiết với nội dung học và phù
hợp với đối tượng học sinh. Tích cực vận dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
*Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học theo năng lực học sinh.
1. Cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống
Các phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, luyện tập luôn
là những phương pháp quan trọng trong dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học không có
nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học truyền thống quen thuộc mà cần bắt đầu bằng
việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của chúng. Để nâng cao hiệu
quả của các phương pháp dạy học này người giáo viên trước hết cần nắm vững những yêu
cầu và sử dụng thành thạo các kỹ thuật của chúng trong việc chuẩn bị cũng như tiến hành
bài lên lớp, chẳng hạn như kỹ thuật mở bài, kỹ thuật trình bày, giải thích trong khi thuyết
trình, kỹ thuật đặt các câu hỏi và xử lý các câu trả lời trong đàm thoại, hay kỹ thuật làm
mẫu[1]
trong luyện tập. Tuy nhiên, các phương pháp dạy học truyền thống có những hạn
chế tất yếu, vì thế bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống cần kết hợp sử dụng
các phương pháp dạy học mới, đặc biệt là những phương pháp và kỹ thuật dạy học phát
huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh. Chẳng hạn có thể tăng cường tính tích cực
nhận thức của học sinh trong thuyết trình, đàm thoại theo quan điểm dạy học giải quyết
vấn đề.
2. Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học
Không có một phương pháp dạy học toàn năng phù hợp với mọi mục tiêu và nội
dung dạy học. Mỗi phương pháp và hình thức dạy học có những ưu, nhựơc điểm và giới
hạn sử dụng riêng. Vì vậy việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học
trong toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và
nâng cao chất lượng dạy học. Dạy học toàn lớp, dạy học nhóm, nhóm đôi và dạy học cá
thể là những hình thức xã hội của dạy học cần kết hợp với nhau, mỗi một hình thức có
những chức năng riêng. Tình trạng độc tôn của dạy học toàn lớp và sự lạm dụng phương
pháp thuyết trình cần được khắc phục, đặc biệt thông qua làm việc nhóm.
3. Vận dụng dạy học giải quyết vấn đề
Dạy học giải quyết vấn đề (dạy học nêu vấn đề, dạy học nhận biết và giải quyết vấn
đề) là quan điểm dạy học nhằm phát triển năng lực tư duy, khả năng nhận biết và giải
quyết vấn đề. Học được đặt trong một tình huống có vấn đề, đó là tình huống chứa đựng
mâu thuẫn nhận thức, thông qua việc giải quyết vấn đề, giúp học sinh lĩnh hội tri thức, kỹ
năng và phương pháp nhận thức. Dạy học giải quyết vấn đề là con đường cơ bản để phát
huy tính tích cực nhận thức của học sinh, có thể áp dụng trong nhiều hình thức dạy học
với những mức độ tự lực khác nhau của học sinh.
Các tình huống có vấn đề là những tình huống khoa học chuyên môn, cũng có thể là
những tình huống gắn với thực tiễn. Trong thực tiễn dạy học hiện nay, dạy học giải quyết
vấn đề thường chú ý đến những vấn đề khoa học chuyên môn mà ít chú ý hơn đến các vấn
đề gắn với thực tiễn. Tuy nhiên nếu chỉ chú trọng việc giải quyết các vấn đề nhận thức
trong khoa học chuyên môn thì học sinh vẫn chưa được chuẩn bị tốt cho việc giải quyết
các tình huống thực tiễn. Vì vậy bên cạnh dạy học giải quyết vấn đề, lý luận dạy học còn
xây dựng quan điểm dạy học theo tình huống.
4. Vận dụng dạy học theo tình huống
Dạy học theo tình huống là một quan điểm dạy học, trong đó việc dạy học được tổ
chức theo một chủ đề phức hợp gắn với các tình huống thực tiễn cuộc sống và nghề
nghiệp. Quá trình học tập được tổ chức trong một môi trường học tập tạo điều kiện cho
học sinh kiến tạo tri thức theo cá nhân và trong mối tương tác xã hội của việc học tập.
5. Vận dụng dạy học định hướng hành động
Dạy học định hướng hành động là quan điểm dạy học nhằm làm cho hoạt động trí
óc và hoạt động chân tay kết hợp chặt chẽ với nhau. Trong quá trình học tập, học sinh
thực hiện các nhiệm vụ học tập và hoàn thành các sản phẩm hành động, có sự kết hợp linh
hoạt giữa hoạt động trí tuệ và hoạt động tay chân. Đây là một quan điểm dạy học tích cực
hoá và tiếp cận toàn thể. Vận dụng dạy học định hướng hành động có ý nghĩa quan trong
cho việc thực hiện nguyên lý giáo dục kết hợp lý thuyết với thực tiễn, tư duy và hành
động, nhà trường và xã hội.
6. Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lý hỗ trợ dạy học.
Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học,
nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy học. Việc sử dụng các
phương tiện dạy học cần phù hợp với mối quan hệ giữa phương tiện dạy học và phương
pháp dạy học. Hiện nay, việc trang bị các phương tiện dạy học mới cho các trường phổ
thông từng bước được tăng cường. Tuy nhiên các phương tiện dạy học tự làm của giáo
viên luôn có ý nghĩa quan trọng, cần được phát huy.
Tóm lại có rất nhiều phương hướng đổi mới phương pháp dạy học với những cách
tiếp cận khác nhau, trên đây chỉ là một số phương hướng chung. Việc đổi mới phương
pháp dạy học đòi hỏi những điều kiện thích hợp về phương tiện, cơ sở vật chất và tổ chức
dạy học, điều kiện về tổ chức, quản lý. Ngoài ra, phương pháp dạy học còn mang tính chủ
quan. Mỗi giáo viên với kinh nghiệm riêng của mình cần xác định những phương hướng
riêng để cải tiến phương pháp dạy học và kinh nghiệm của cá nhân.
8. Thanh tra kiểm tra và một số hoạt động đảm bảo chất lượng trường THPT
Xây dựng kế hoạch kiểm tra nội bộ nhà trường là một nhiệm vụ hết sức quan trọng nhằm
giúp cho nhà quản lí tiến hành hoạt động kiểm tra thường xuyên và đúng các nội dung đã
đề ra. Đồng thời đối với cán bộ giáo viên cần căn cứ vào kế hoạch kiểm tra chung của nhà
trường để tự kiểm tra các hoạt động của mình. Do vậy khi xây dựng kế hoạch kiểm tra cần
phải bảo đảm các yêu cầu sau:
-Hiệu trưởng xây dựng kế hoạch kiểm tra nội bộ trường học phải phù hợp với tình hình
thực tiễn, điều kiện cụ thể cho phép của trường và có tính khả thi.
-Kế hoạch kiểm tra nội bộ trường học cần được thiết kế dưới dạng sơ đồ hoá và phải được
công bố công khai ngay từ đầu năm học và treo ở văn phòng nhà trường.
-Nội dung kế hoạch trong đó ghi rõ: mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp tiến hành,
hình thức, đơn vị và cá nhân được kiểm tra, thời gian tiến hành kiểm tra đảm bảo tính ổn
định tương đối của kế hoạch kiểm tra.
-Nội dung kiểm tra phải thiết thực và có sức thuyết phục, hình thức kiểm tra gọn nhẹ để
không gây tâm lí căng thẳng, nặng nề cho đối tượng, cần huy động nhiều lực lượng tham
gia kiểm tra và dành thời gian cần thiết, thích đáng cho hoạt động kiểm tra.
-Hiệu trưởng cần xây dựng các loại kế hoạch kiểm tra như: kế hoạch kiểm tra toàn năm
học, kế hoạch kiểm tra học kì, kế hoạch kiểm tra hàng tháng, kế hoạch kiểm tra hàng
tuần... với những lịch biểu cụ thể.
+ Kế hoạch kiểm tra năm được ghi toàn bộ các đầu công việc theo thứ tự thời gian bắt đầu
từ tháng 9 năm trước đến tháng 8 năm sau.
+ Kế hoạch kiểm tra tháng: được dựa vào kế hoạch kiểm tra của năm nhưng cần phải chi
tiết công việc, đối tượng, thời gian tiến hành một cách cụ thể.
-Kế hoạch kiểm tra tuần: được ghi chi tiết cụ thể: đối tượng (cá nhân, đơn vị) được kiểm
tra, các nội dung kiểm tra cụ thể, thời gian, lực lượng kiểm tra... một cách công khai ở văn
phòng nhà trường.
-Xây dựng lực lượng kiểm tra: Hiệu trưởng ra quyết định thành lập Ban kiểm tra gồm
những thành viên có uy tín, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm giỏi, phân công
cụ thể và xác định quyền hạn, trách nhiệm của từng thành viên trong Ban kiểm tra.
-Phân cấp trong kiểm tra: Hiệu trưởng có thể tiến hành kiểm tra trực tiếp hay gián tiếp.
Khi kiểm tra gián tiếp phải uỷ nhiệm, phân cấp rõ ràng (cho phó hiệu trưởng, tổ trưởng tổ
chuyên môn hoặc cán bộ, giáo viên có uy tín).
-Xây dựng chế độ kiểm tra: Hiệu trưởng cần quy định thể thức làm việc, nhiệm vụ cụ thể,
thời gian, quy trình tiến hành và quyền lợi cho mỗi đợt kiểm tra hoặc mỗi kiểm tra viên...
-Cung cấp đầy đủ, kịp thời những điều kiện vật chất, tinh thần, tâm lí cho hoạt động kiểm
tra, khai thác và tận dụng mọi khả năng, sáng tạo của các thành viên trong Ban kiểm tra.
Tóm lại, kiểm tra nội bộ trường học là một hoạt động nghiệp vụ quản lí của hiệu ưưởng
trường học, do vậy không thể tiến hành một cách tuỳ tiện và hình thức. Cần phải nắm
được cơ sở khoa học, nắm được những phương pháp, biện pháp kĩ thuật để tiến hành kiểm
tra nội bộ trường học có hiệu quả.
- Các cơ quan quản lí giáo dục (Sở, Phòng Giáo dục và Đào tạo) cần tăng cường chỉ đạo
hiệu trưởng các nhà trường tiến hành tốt kiểm tra nội bộ trường học, đồng thời bồi dưỡng
cho họ chuyên môn nghiệp vụ, nhằm giúp cán bộ quản lí nắm cơ sở khoa học, những
phương pháp, biện pháp kĩ thuật nghiệp vụ kiểm tra nội bộ trường học, thực hiện phân cấp
quyền lực và uỷ quyền trách nhiệm trong kiểm tra nội bộ trường học. Luôn nâng cao trình
độ văn hoá - khoa học, chuyên môn và nghiệp vụ; hiểu biết rộng, khả năng chuyên môn
vững, năng lực sư phạm dồi dào, tự rèn luyện phong cách lãnh đạo, nâng cao phẩm chất,
uy tín của mình. Đồng thời hướng dẫn cách làm cụ thể giúp cho hoạt động kiểm tra nội bộ
nhà trường đạt hiệu quả.
9. Sinh hoạt tổ chuyên môn và công tác bồi dưỡng giáo viên trong trường THPT
Tổ chuyên môn là một bộ phận cấu thành trong trong bộ máy tổ chức, quản lý của trường
THCS, THPT. Trong trường, các tổ, nhóm chuyên môn có mối quan hệ hợp tác với nhau,
phối hợp các các bộ phận nghiệp vụ khác và các tổ chức Đảng, đoàn thể trong nhà trường
nhằm thực hiện chiến lược phát triển của nhà trường, chương trình giáo dục và các hoạt
động giáo dục và các hoạt động khác hướng tới mục tiêu giáo dục.
* Chức năng tổ chuyên môn - Giúp Hiệu trưởng điều hành các hoạt động nghiệp vụ chuyên môn liên quan đến dạy và
học;
- Trực tiếp quản lý giáo viên trong tổ theo nhiệm vụ quy định.
- Tổ chuyên môn là đầu mối để Hiệu trưởng quản lý nhiều mặt, nhưng chủ yếu vẫn là hoạt
động chuyên môn, tức là hoạt động dạy học trong trường.
- Tổ trưởng chuyên môn phải là người có khả năng xây dựng kế hoạch; điều hành tổ chức,
hoạt động của tổ theo kế hoạch giáo dục, phân phối chương trình môn học của Bộ Giáo
dục và Đào tạo và kế hoạch năm học của nhà trường; tổ chức bồi dưỡng chuyên môn cho
giáo viên trong tổ; đánh giá, xếp loại và đề xuất khen thưởng, kỉ luật giáo viên thuộc tổ
mình quản lý.
- Do đó, tổ trưởng chuyên môn phải là người có phẩm chất đạo đức tốt; có năng lực, trình
độ, kinh nghiệm chuyên môn; có uy tín đối với đồng nghiệp, học sinh. Tổ trưởng chuyên
môn phải là người có khả năng tập hợp giáo viên trong tổ, biết lắng nghe, tạo sự đoàn kết
trong tổ, gương mẫu, công bằng, kiên trì, khéo léo trong giao tiếp, ứng xử.
- Xây dựng kế hoạch hoạt động chung của tổ theo tuần tháng, học kì và cả năm học nhằm
thực hiện chương trình, kế hoạch dạy học và các hoạt động khác theo kế hoạch giáo dục,
phân phối chương trình môn học của Bộ Giáo dục và Đào tạo và kế hoạch năm học của
nhà trường;
- Xây dựng kế hoạch cụ thể dạy chuyên đề, tự chọn, ôn thi tốt nghiệp, dạy bồi dưỡng học
sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu kém;
- Xây dựng kế hoạch cụ thể về sử dụng đồ dùng dạy học, thiết bị dạy học đúng, đủ theo
các tiết trong phân phối chương trình;
- Hướng dẫn xây dựng và quản lý việc thực hiện kế hoạch cá nhân, soạn giảng của tổ viên
(kế hoạch cá nhân dạy chuyên đề, tự chọn, ôn thi tốt nghiệp, dạy bồi dưỡng học sinh giỏi,
phụ đạo học sinh yếu kém; sử dụng đồ dùng dạy học, thiết bị dạy học đúng, đủ theo các
tiết trong phân phối chương trình; soạn giáo án theo phân phối chương trình, chuẩn kiến
thức, kĩ năng và sách giáo khoa, thảo luận các bài soạn khó; viết sáng kiến kinh nghiệm về
nâng cao chất lượng dạy học, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá,
phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu kém...);
- Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên trong tổ, giáo viên mới tuyển
dụng (đổi mới phương pháp dạy học; đổi mới kiểm tra, đánh giá; dạy học theo chuẩn kiến
thức kĩ năng; sử dụng đồ dùng dạy học, thiết bị dạy học, ứng dụng CNTT trong dạy học
góp phần đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra, đánh giá...).
- Điều hành hoạt động của tổ (tổ chức các cuộc họp tổ theo định kì quy định về hoạt động
chuyên môn, nghiệp vụ và các hoạt động giáo dục khác; lưu trữ hồ sơ của tổ; thực hiện
báo cáo cho Hiệu trưởng theo quy định);
- Quản lý, kiểm tra việc thực hiện quy chế chuyên môn của giáo viên (thực hiện hồ sơ
chuyên môn; soạn giảng theo kế hoạch dạy học và phân phối chương trình, chuẩn kiến
thức kĩ năng; ra đề kiểm tra, thực hiện việc cho điểm theo quy định; kế hoạch dự giờ của
các thành viên trong tổ...);
- Dự giờ giáo viên trong tổ theo quy định (4 tiết/giáo viên/năm học);
- Các hoạt động khác (đánh giá, xếp loại giáo viên; đề xuất khen thưởng, kỉ luật giáo
viên... Việc này đỏi hỏi tổ trưởng chuyên môn phải nắm thật rõ về tổ viên của mình về ưu
điểm hạn chế trong việc thực hiện nhiệm vụ giảng dạy được phân công).
* Sinh hoạt tổ chuyên môn - Sinh hoạt tổ chuyên môn là một hoạt động chuyên môn không thể thiếu trong hoạt động
của nhà trường; là dịp để trao đổi chuyên môn góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
Thông qua sinh hoạt tổ chuyên môn sẽ xuất hiện nhiều ý tưởng. Do vậy, tổ trưởng cần tạo
điều kiện để giáo viên nói lên ý tưởng, kinh nghiệm của mình. Nội dung sinh hoạt tổ
chuyên môn cần đa dạng, phong phú, có thay đổi và phải có chuẩn bị trước về nội dung và
cách thức tổ chức thực hiện.
- Việc sinh hoạt tổ chuyên môn thực hiện theo định kì quy định trong Điều lệ trường
THCS, THPT (2 tuần/lần. Thời gian do Hiệu trưởng quy định và tuỳ yêu cầu về tính chất,
nội dung công việc);
- Nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn thực hiện theo nhiệm vụ quy định (tránh việc sinh
hoạt chỉ để giải quyết sự vụ, sự việc và/hoặc mang tính hành chính)
10. Xây dựng mối quan hề trong và ngoài nhà trường để nâng cao chất lượng
Việc giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện các phẩm chất và năng lực nhằm giúp trẻ phát triển
nhân cách một cách toàn diện là một quá trình lâu dài liên tục, diễn ra ở nhiều môi trường
khác nhau, liên quan rất nhiều đến các mối quan hệ xã hội phức tạp. Vì thế, việc giáo dục
nói chung và giáo dục trẻ em nói riêng luôn luôn đòi hỏi sự phối hợp, kết hợp chặt chẽ của
nhiều lực lượng xã hội và nhất là đòi hỏi sự quan tâm đúng cách của nhà trường, gia đình
và mọi người trong xã hội.
Chúng ta đều biết rằng trong thực tế, trong môi trường xã hội mà trẻ sống, học tập
và phát triển; bên cạnh các mặt tác động tốt, các ảnh hưởng tích cực luôn luôn tồn tại, hàm
chứa các yếu tố có thể gây nguy hại đến sự phát triển nhân cách của trẻ và với đặc điểm
hiếu động và ít vốn sống lại trẻ dễ bắt chước theo, dần dần trở thành thói quen xấu, tác
động tiêu cực đến sự phát triển nhân cách của trẻ. Nhất là khi thiếu sự phối hợp đúng đắn,
thiếu sự thống nhất tác động giáo dục giữa nhà trường và gia đình thì hậu quả xấu trong
giáo dục sẽ xuất hiện, nếu không kịp thời khắc phục hậu quả sẽ rất tai hại.
Trong lý luận cũng như trong thực tiễn giáo dục, sự thống nhất tác động giáo dục từ
nhà trường, gia đình và xã hội được xem là vấn đề có tính nguyên tắc đảm bảo cho mọi
hoạt động giáo dục có điều kiện đạt hiệu quả tốt. Trong việc tổ chức kết hợp các lực lượng
giáo dục, gia đình có vai trò và tác động vô cùng quan trọng, là trọng tâm của các hoạt
động kết hợp. Gia đình là nơi trẻ được sinh ra, lớn lên và hình thành nhân cách của mình.
Ảnh hưởng giáo dục của gia đình đến với trẻ là đầu tiên và sớm nhất. Giáo dục con cái
trong gia đình không phải chỉ là việc riêng tư của bố mẹ, mà còn là trách nhiệm đạo đức
và nghĩa vụ công dân của những người làm cha mẹ. Nó được xác định trong nhiều văn bản
pháp luật ở nước ta hiện nay như trong Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bảo
vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, …gắn với quan hệ máu mủ ruột thịt và tình yêu thương
sâu sắc của ông bà, cha mẹ với con cái nên giáo dục gia đình mang tính xúc cảm mạnh
mẽ, có khả năng cảm hóa lớn nhất. Tùy vào điều kiện kinh tế, đời sống của mỗi gia đình
mà việc tiến hành giáo dục trong các giai đoạn phát triển của trẻ có các nội dung, hình
thức, nhiệm vụ khác nhau:
– Ngay khi trẻ đang nằm nôi, bố mẹ đã phải dạy trẻ biết yêu thương, vui cười thông qua
việc chơi và trò chuyện với bé, dạy chế độ sinh hoạt thông qua việc cho bé ăn, ngủ, vệ
sinh.
– Lứa tuổi mầm non, cha mẹ cần phối hợp với nhà trường quan tâm đến các mặt sau đây
của trẻ: Chế độ ăn uống, chế độ sinh hoạt, việc rèn luyện các giác quan, phát triển ngôn
ngữ, việc dạy trẻ cách ứng xử đúng đắn, giáo dục lòng thương yêu đối với sự vật và con
người xung quanh mình.
– Khi các em vào trường tiểu học, công việc học tập trở thành nhiệm vụ chủ đạo của trẻ.
Vì vậy các bậc cha mẹ phải quan tâm tạo điều kiện thuận lợi như giúp các em rèn luyện
các nề nếp thói quen học tập, vệ sinh, mua sắm đồ dùng học tập đầy đủ, các kỹ năng tự
chăm sóc, bảo vệ,…
– Khi các em lên trung học cơ sở, nhiệm vụ học tập càng nặng nề, thời gian đầu tư cho
việc học tăng thêm, đồng thời quan hệ bè bạn, quan hệ xã hội phức tạp hơn. Ngoài việc
quan tâm đến việc học tập của trẻ, cha mẹ nên dành thời gian chú ý đến các mối quan hệ
của con cái với bạn bè để kịp thời phát hiện những lệch lạc do bạn xấu rủ rê, chú ý đến sự
phát triển năng khiếu, định hướng việc lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực của
con mình.
– Ở trung học phổ thông, về mặt sinh lý cơ thể cũng như đời sống tâm lý của trẻ có những
biến đổi rất mạnh mẽ, chuyển từ trẻ con sang người lớn. Đây là thời kỳ khủng hoảng trong
quá trình phát triển của tuổi thanh thiếu niên. Ở giai đoạn này, các em thường muốn thử
nghiệm khả năng, mong muốn của cá nhân mình vào thực tiễn cuộc sống. Trong khi vốn
sống còn nghèo nàn, khả năng suy xét nông cạn nên thường dẫn đến những va vấp, gây
những hậu quả tai hại cho bản thân và gia đình. Trong điều kiện của nền kinh tế thị
trường, nhiều em ở độ tuổi này đã sa đà vào các trò giải trí quá mức như nghiện chơi gêm,
chát chít,… thậm chí có em sa vào tệ nạn xã hội như cá cược, trộm cắp, trấn lột,…
Để việc giáo dục gia đình có hiệu quả tốt, các bậc cha mẹ cần quan tâm xây dựng một gia
đình đầy đủ toàn vẹn, trong đó mọi thành viên có nghĩa vụ và trách nhiệm với nhau. Xây
dựng một phong cách sinh hoạt có nề nếp, phù hợp nhu cầu hứng thú nhằm phát huy
những mặt tích cực của trẻ. Đặc biệt cha mẹ, người lớn phải giữ uy tín vai trò gương mẫu
của mình trong gia đình và ngoài xã hội. Thường xuyên liên hệ chặt chẽ với nhà trường,
đoàn thể để nắm được mục đích giáo dục, có sự phối hợp chặt chẽ.
Tóm lại, việc phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội đối với việc chăm sóc giáo dục
trẻ là một nguyên tắc cơ bản nếu muốn có sự thành công. Sự phối hợp chặt chẽ ba môi
trường giáo dục trên, trước là để đảm bảo sự thống nhất trong nhận thức cũng như hoạt
động giáo dục cùng một hướng, một mục đích, một tác động tổ hợp, đồng tâm tạo sức
mạnh kích thích, thúc đẩy quá trình phát triển nhân cách của trẻ, tránh sự tách rời mâu
thuẫn, bài xích lẫn nhau gây cho các em tâm trạng nghi ngờ, hoang mang, dao động trong
việc lựa chọn, định hướng các giá trị tốt đẹp của nhân cách. Sự phối hợp gia đình, nhà
trường, xã hội có thể diễn ra dưới nhiều hình thức. Vấn đề cơ bản hàng đầu là tất cả các
lực lượng giáo dục phải phát huy tinh thần trách nhiệm, chủ động tạo ra những mối quan
hệ phối hợp vì mục tiêu giáo dục đào tạo thế hệ trẻ thành những người công dân hữu ích
cho đất nước.
PHẦN HAI NHỮNG VẤN ĐỀ CỐT LÕI CỦA GIÁO VIÊN THẾ KỶ 21
1. Bối cảnh chung
*Sự toàn cầu hoá các xã hội
Điều này có nghĩa chất lượng GD không thể được xác định chỉ trong giới hạn
những đường biên của những hệ thống riêng của nước mình về các giá trị, văn hoá, truyền
thống và điều chỉnh xã hội. Những nhu cầu GD cần được tính đến trong quan niệm về
"ngôi làng toàn cầu" và những hệ thống khác về giá trị, những văn hoá khác, những truyền
thống khác. Thách thức đối với những người chủ trương phát triển GD là phải thúc đẩy sự
đa dạng của văn hoá với một cốt lõi chung, một kho tàng những lý tưởng có tính phổ biến
và một nền tảng những giá trị cốt lõi chung như là sự tôn trọng quyền và tư cách của con
người, loại bỏ bạo lực, tình đoàn kết nhân loại, bảo vệ môi trường; sự khoan dung và một
văn hoá hoà bình v.v... Điều này đòi hỏi cần thay đổi những mục đích của hệ thống giáo
dục và theo đó, thay đổi cách nhìn chất lượng GD.
*Sự toàn cầu hóa các nền kinh tế
Sự toàn cầu hoá những nền kinh tế có nghĩa là đặt tầm quan trọng ít hơn về nguồn tài
nguyên thiên nhiên được tiềm tàng ở đâu đó mà đặt tầm quan trọng nhiều hơn về nguồn
lực con người; tầm quan trọng ít hơn về kiến thức cơ sở - mặc dù còn rất cần thiết - mà
nhiều hơn về kỹ năng hành vi/ thái độ; và cuối cùng, tầm quan trọng ít hơn về sự phân
đoạn truyền thống của những hoạt động kinh tế: những khu vực thứ nhất (tức nông
nghiệp), thứ hai (tức công nghiệp) và thứ ba (tức dịch vụ); sự phân biệt đó nay bị lu mờ đi
bởi sự tích hợp ngày một tăng của những quá trình sản xuất, phân phối và cả đến tiêu thụ,
trong khi cũng lúc đó, những quá trình không còn đòi hỏi phải thực hiện toàn bộ ở một địa
điểm duy nhất nữa. Những nhiệm vụ của các nhà làm kế hoạch và làm chính sách GD có
lẽ vẫn phải tiếp tục nhấn mạnh đến sự phát triển những kỹ năng cơ bản, nhưng những ưu
tiên gắn với các kỹ năng khác nhau có thể làm thay đổi đáng kể cách nhìn về chất lượng.
Sự thay đổi sẽ tác động đến chất lượng ĐầU VÀO (nhiệm vụ giao cho giáo viên cần được
xác định lại), của QUÁ TRÌNH (những nội dung gì là chất lượng của quan hệ giữa con
người trong nội bộ nhà trường, nhằm khuyến khích học sinh, sinh viên tham gia xác định
một quan niệm, một vai trò mà một xã hội cần có trong nền kinh tế toàn cầu hoá),
của KếT QUả (nhất quán với sự tổ hợp những mục đích được xác định vừa có tính chất
truyền thống, vừa có tính quốc gia, nhất quán với những đòi hỏi được xác định một cách
quốc tế, cho bất kỳ hoàn cảnh nào) và của sự PHÙ HợP (ít hơn với môi trường kinh tế
tĩnh hoặc xác định, và nhiều hơn với môi trường kinh tế không đoán trước được).
*Sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ
Tiến bộ công nghệ đã dẫn đến sự phát triển những hệ thống cung cấp GD (đầu vào
và quá trình) có tính đa dạng phong phú và rộng lớn. Những hệ quả của xu thế này cũng
đã cảm nhận thấy rõ trong một xã hội ở đó sự phân biệt giữa thông tin và kiến thức cho
đến nay đã được thừa nhận, nhưng đang bị lu mờ đi bởi vai trò ngày càng tăng của hệ
thống GD không chính quy (non - formal) và phi chính quy (informal), ở đó đang sử dụng
những công nghệ thông tin mới và sự giao lưu thông tin với tốc độ nhanh; điều này, may
thay, sẽ đóng góp làm cho hệ thống GD đa dạng và mềm dẻo hơn.
2. Những vấn đề cốt lõi của giáo viên thế kỷ 21
Những vấn đề cốt lõi của giáo viên thế kỹ 21 và chương trình đào tạo giáo viên được phát
triển xung quanh các đầu ra mong muốn đối với đào tạo ban đầu cùng với 3 gía trị cốt lõi.
Các giá trị về người học: tình yêu đối với trẻ em, lòng tin rằng mọi em đều học được, cam
kết nuôi dưỡng tiềm năng ở mỗi em và coi trọng sự đa dạng của trẻ.
Các giá trị về giáo viên: tính chuyên nghiệp, hướng tới phát triển năng lực đáp ứng các
mức chuẩn cao, ham học hỏi, hoàn thiện không ngừng, yêu nghề, có đạo đức, thích ứng và
nhẫn nại.
Các giá trị phục vụ nghề và cộng đồng: cộng tác với đồng nghiệp, có trách nhiệm xã hội
và hội nhập, có tinh thần học tập và giúp đỡ đồng nghiệp, có tác phong quản lý.
Trong bồi cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nhiều quốc gia trên thế giới đã coi giáo
dục là chiến lược hàng đầu nên đã tiến hành đổi mới giáo dục và thu được những thành
tựu đáng kể.
Giáo dục Việt Nam đang trong công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện đã đặt ra những yêu
cầu mới với các trường đại học sư phạm; đòi hỏi các trường đại học sư phạm phải thực
hiện nhiệm vụ chiến lược để đảm bảo nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng giáo viên
cho đất nước.
3. Quan niệm về người giáo viên thế kỹ 21
*Lớp học lấy người học làm trung tâm và việc giảng dạy được cá thể hóa
Học sinh có thể tiếp cận với bất cứ nguồn thông tin nào có thể có. Do đó một cách chắc
chắn rằng không cần thiết phải “mớm bằng thìa” các kiến thức, hoặc giảng dạy nội dung
mà “một kiểu nội dung dùng cho tất cả”.
Học sinh có cá tính khác nhau, mục tiêu khác nhau và yêu cầu khác nhau. Do đó việc
giảng dạy được cá nhân hóa không chỉ là có thể mà là cần thiết. Khi được phép quyết định
sự lựa chọn cho mình, học sinh sẽ làm chủ việc học tập của họ. Điều này tăng thêm động
lực bên trong và giúp cho học sinh có sự nỗ lực hơn. Đây chính là một yếu tố quan trọng
cho việc có một kết quả học tập đầu ra được tốt hơn.
*Học sinh như những người sáng tạo
Học sinh thời nay có những công cụ nhanh nhất và tốt nhất, việc sử dụng trong
nhiều trường hợp hiếm khi ra khỏi vấn đề giao tiếp với gia đình và bạn bè thông qua chat,
tin nhắn, hoặc gọi điện thoại. Thậm chí với cả các học sinh được xem là những người sinh
ra với công nghệ số, đa số vẫn còn lâu mới có thể sáng tạo ra một nội dung số hóa nào đó.
Trong khi họ vẫn sở hữu các thiết bị số hóa đắt tiền với tiềm năng có thể tạo ra blog, thể
hiện thông tin bằng hình ảnh, sách, các video, các hướng dẫn, và đó mới chỉ là một số ví
dụ được đưa ra, ở rất nhiều lớp học học sinh vẫn được yêu cầu tắt các thiết bị này chỉ để
tập chung vào các tài liệu được phát hoặc các phiếu bài tập.
Thật là đáng buồn vì nhiều khi các tờ giấy này sẽ bị vứt đi sau khi được chấm điểm. Nhiều
học sinh thậm chí không muốn làm, có trường hợp còn để nguyên các tờ giấy đó và một
lúc sau trả lại cho giáo viên. Trên thực tế, khi có cơ hội học sinh có thể tạo ra các blog,
phim, các câu chuyện được số hóa rất hay và sáng tạo mà họ cảm thấy rất tự hào và chia
sẻ với người khác.
* Học các công nghệ mới
Đưa ra các lựa chọn, các kỹ năng và kinh nghiệm trải nghiệm trực tiếp với các công
nghệ đó cho học sinh là điều cần thiết. Bởi công nghệ luôn phát triển, việc học một công
cụ nào đó một lần rồi hy vọng cho tất cả những lần khác là không thể.
Tin mừng là các công nghệ mới thường được giả thiết là tạo ra cho mọi người chưa biết
đều có thể dễ dàng sử dụng, cho nên ai cũng có thể tìm hiểu và hcọ tập vào bất cứ lúc nào.
* Hợp tác
Công nghệ cho phép sự hợp tác giữa giáo viên và học sinh. Tạo ra các nguồn học
liệu số hóa, các bài trình bày và các dự án cùng với các nhà giáo dục và học sinh khác tạo
ra các hoạt động trong lớp học giống như trong thế giới thực.
Hợp tác nên vượt ra khỏi việc chia sẻ tài liệu qua email hay tạo ra các bài trình bày
powerpoint. Rất nhiều ý tưởng không bao giờ ra khỏi sự trao đổi thông thường hay qua
giấy tờ được copy, đó là một sự thiệt hại lớn. Hợp tác toàn cầu có thể thay đổi sự trải
nghiệm toàn bộ của chúng ta.
* Kết nôi
Kết nối với các cá nhân có cùng suy nghĩ. Một lần nữa, các công cụ ngày nay cho
phép chúng ta kết nối với bất cứ ai, ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào. Có một câu hỏi cho một
chuyên gia hay một đồng nghiệp? Đơn giản hãy kết nối thông qua các phương tiện truyên
thông xã hội: hãy theo dõi, tham gia, hỏi hoặc trả lời!
4. LIÊN HỆ BẢN THÂN TRƯỚC NHỮNG YÊU CẦU ĐỐI VỚI NGƯỜI GIÁO
VIÊN THẾ KỸ 21.
Bản thân tôi là một giáo viên trung học phổ thông, tôi luôn ý thức được rằng cá nhân
mình cần cố gắng nổ lực hết mình trước những yêu cầu đối với người giáo viên thế kỹ 21
hiện nay. Với thâm niên gần mười lăm năm trong nghề giáo, tôi thấy tâm lý lứa tuổi của
các em học sinh biến đổi theo thời gian, các em rất khác với trước đây mười lăm năm, đã
mạnh dạn hơn, biết thể hiện cái tôi của mình hơn, có khiếu hài hước, có óc phê phán và
một số em rất trưởng thành trong tư duy suy nghĩ, mạnh dạn trong giao tiếp, thẳng thắn
đưa ra ý kiến cá nhân tuy cũng không tránh khỏi những lỗi rất “học sinh”, ngây thơ và
trong sáng. Với sự phát triển như vũ bão của công nghệ, các em đã sở hữu các thiết bị điện
tử cá nhân, tham gia mạng xã hội, tự do bình luận và đưa ra ý kiến của mình qua các trang
mạng xã hội, được tiếp cận với muôn vàn thông tin và kiến thức do công nghệ mang lại,
giúp các em ngày càng nhanh nhạy và trở nên thông thái hơn theo cách riêng của mình.
Hơn lúc nào hết tôi ý thức được rằng, người giáo viên đứng lớp bây giờ không thể
truyền đạt kiến thức một cách máy móc khô khan và theo kiểu giáo viên là trung tâm, “cô
đọc trò chép”, học sinh không thụ động tiếp thu kiến thức nữa mà giáo viên phải lấy học
sinh làm trung tâm, xu hướng dạy học theo năng lực học sinh. Với mỗi học sinh tôi đều có
sự nhìn nhận rất khác, không em nào giống em nào, với mổi em tôi có phương pháp riêng,
và rất cân nhắc trước khi khen thưởng hay trách phạt một trường hợp cụ thể.
Thời chúng tôi những sinh viên bước vào giảng đương đại học những năm 2000. Thời
kỳ mà công nghệ tin học đã góp phần hỗ trợ trong việc học tập và nghiên cứu, soạn giáo
án trên máy vi tính. Tuy nhiên mỗi khi muốn liên lạc với giáo viên chủ nhiệm lớp hay
muốn biết tại sao bạn mình vắng học thì cách duy nhất là gọi điện thoại bàn cố định nếu
biết số điện thoại hoặc đến tận nhà. Hiện nay rất khác xa với thời đó, đặc biệt những năm
gần đây. Khi mà chúng ta truyền thông tin và nhận thông tin chỉ trong nháy mắt. Tôi nghĩ
rằng, bản thân cần phải học hỏi và cập nhật công nghệ mới, đi ra thế giới, hãy thông minh
và biết sử dụng điện thoại thông minh. Tôi có thể biết và chia sẻ với các em những điều
mà thời gian trên lớp một giáo viên không thể biết, có thể hiểu và giải quyết những vấn đề
mà ngay trong lớp học không thể thấu đáo trọn vẹn nhờ vào ứng dụng Zalo trên điện thoại
thông minh. Hôm đó, N.K một học sinh bình thường rất hoạt bát nhanh nhẹn, sôi nổi bổng
nhiên trầm lắng không để ý bài tôi giảng mắt nhìn xa xăm. Thoáng thấy nét mặt em tôi
cảm nhận rằng có gì đó không bình thường, tôi vẫn tiếp tục công việc của mình với cả lớp.
Tối lại, sau khi đã cho con cái ăn tối, dọn dẹp xong việc nhà, tôi liền bật điện thoại lên vào
Blog của em thì mới biết bố mẹ em đang gặp vấn đề lớn về tình cảm và có thể dẫn đến ly
hôn. Tôi đã nhắn tin thăm hỏi an ủi và đã hiểu để thông cảm cho em và từ đó có những
điều chỉnh trong phương pháp sư phạm để đạt hiệu quả giáo dục tốt nhất. Tôi muốn nhấn
mạnh rằng giáo viên thế kỷ 21 phải là người biết tiếp cận nhanh với công nghệ không
những hỗ trợ trong giảng dạy như soạn giáo án, trình chiếu bài giảng, lập nhóm và ra bài
tập cho các em thông qua một số ứng dụng trên điện thoại thông minh như Zalo,
Facebook, Messeger mà còn nắm thông tin của các em để hiểu và chia sẻ từ đó có phương
pháp sư phạm phù hợp.
Cho dù là giáo viên trong thời đại nào thì tình yêu thương đối với học sinh, có lòng tin
mãnh liệt rằng mọi trẻ em đều học được, và hãy coi trọng sự đa dạng của trẻ vẫn là điều
cốt lõi của một giáo viên đặc biệt trong thế kỷ 21 thì điều đó lại càng trở nên quan trọng
hơn bao giờ hết. Đó đây vẫn có tình trạng bạo hành với học sinh, những hành vi đồi bại
với học sinh trên các phương tiện thông tin đại chúng, cá nhân tôi rất bất bình, phẫn nộ và
mong muốn các cơ quan chức năng cần xử lý đích đáng các đối tượng trên không để con
sâu làm rầu nồi canh, không để nhân dân và xã hội mất niềm tin vào thầy cô, người mà từ
xa xưa xã hội đã hết sức tôn trọng , “Muốn sang thì bắc cầu kiều-muốn con hay chữ thì
yêu lấy thầy”.
PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. KẾT LUẬN
Bản thân tôi thấy rằng, trong thời kỳ đổi mới, với sự phát triển như vũ bảo của khoa
học và công nghệ đặc biệt thời kỳ hội nhập sâu rộng và với sự vượt trội của công nghệ
4.0. Thế giới đã có những thay đổi rất nhanh chóng, và các quốc gia đang phát triển như
Việt Nam cần có sự chuẩn bị và tạo đà để cùng hội nhập và phát triển trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Giáo dục cũng phải được ưu tiên và xem là quốc sách hang đầu với
kinh nghiệm của các quốc gia phát triển đi trước cho thấy.
Trong những năm qua Đảng và nhà nước ta đã kịp thời quan tâm và có những đổi mới căn
bản về chính sách giáo dục và đã có những bước thay đổi và có kết quả đáng khích lệ.
Như trước đây đến mùa thi các sĩ tử khăn gói lên đường giao thông tắc nghẽn, các thành
phố lớn quá tải, quá sức gồng gánh thêm lượng thí sinh khá lớn đổ về thành phố dự thi.
Nhưng rõ ràng hiện nay đã rất thay đổi, không còn cảnh chen lấn nhau mổi khi mùa thi
đến. Bên cạnh đó, còn có rất nhiều thay đổi mà tôi cho là rất tích cực như việc thực hiện
việc kiểm tra và đánh giá học sinh theo năng lực, sách giáo khoa đã đổi mới phù hợp với
tình hình học sinh hiện nay hơn.
Trước những thay đổi sâu rộng và toàn diện của thế giới nói chung Việt Nam nói riêng thì
tôi cho rằng người giáo viên càng cần phải thay đổi, cần tiến bộ hơn để hội nhập cùng góp
phần đưa giáo dục đi lên và giáo viên của thế kỷ 21 càng cần đòi hỏi có năng lực hơn, có
tố chất hơn để đáp ứng được yêu cầu của phụ huynh học sinh trong thời đại ngày nay.
Giáo viên thế kỷ 21, trước hết vẫn phải thương yêu học sinh hết mực, phải có long tin rằng
mổi em học sinh đều có năng lực học và tiếp thu. Bên cạnh có chuyên môn nghiệp vụ
vững vàng, luôn đầu tư cho chuyên môn và không ngừng nâng cao trình độ, học hỏi đồng
nghiệp, mà còn phải là người biết sử dụng công nghệ vào giảng dạy và trong quản lý học
sinh và tương tác với học sinh như tôi đã nêu ở phần trước. Giáo viên thế kỷ 21 là phải
thông minh và biết sử dụng điện thoiạ thông minh vì học sinh đặc biệt là học sinh trung
học phổ thông hiện nay hết sức sang tạo và không phải là người học tiếp thu kiến thức mà
thầy cô giáo truyền đạt một cách thu động nữa, mà các em đã tiếp cận được với những
nguồn thông tin và kiến thức thông qua Internet. Hơn lúc nào hết, giáo viên thế kỷ 21 cần
có những tố chất và năng lực thực để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao và để nhân
dân tin tưởng.
2. KIẾN NGHỊ
Tôi thấy rằng nội dung các chuyên đề mà chúng tôi được học tập trong đợt này là phù
hợp với người học. Cách bố trí thứ tự các chuyên đề là hợp lý làm cho học viên có điều
kiện dể xâu chuỗi, so sánh và rút ra bài học bổ ích. Các giảng viên trực tiếp đứng lớp
giảng dạy nhiệt tình, có một số giảng viên trình bày bài giảng rất thu hút dể hiểu, về mặt
sư phạm thì quả thật tôi học tập được không ít ở một số thầy cô về cách lên lớp, cách trình
bày một vấn đề….
Tuy nhiên, tôi thấy việc tổ chức lớp học nên vào dịp hè để học viên có thời gian học
tập hơn.
Tài liệu tham khảo
1. Chuyển dẫn từ PGS Lê Văn Hồng (Chủ biên) - PTS Lê Ngọc Lan- PTS Nguyễn
Văn Thàng (1995), Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm (Tài liệu dùng cho
các trường Đại học sư phạm và Cao đẳng sư phạm), Hà Nội, tr.80.
2. Lê Văn Hồng (Chủ biên) (1995), TLĐD, tr .79.
3. Tlđd, tr.84.
4. Trong cuôn Giao tiêp sư pham (Nxb Giao duc , Hà Nội ,1966), hai tac gia Hoang
Anh - Vũ Kim Thanh có dẫn ý kiến của các nhà nghiên cứu Liên Xô trước đây như
D.Z. Dunep, V.I.Đaeviađenxki, A.N.Aisue coi hoat đông sư pham bao gôm hoat
đông day va hoc co quan hê mât thiêt giưa thây va tro.
5. Hoàng Anh - Vũ Kim Thanh (1966), Giao tiêp sư pham, Nxb Giao duc, Hà Nội, tr7.
6. Lê Văn Hồng (Chủ biên) (1995),Tlđd, tr.84.
7. Hoàng Hòa Bình - Nguyễn Minh Thuyết (2012), Phương pháp dạy học tiếng Việt
nhìn từ tiểu học, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, tr.87.
8. Lê Văn Hồng (Chủ biên) (1995),Tlđd, tr.84.
9. J.Dewey, Dân chủ và giáo dục, Chương IV, J.Dewey dẫn lời của Emerson. Chuyển
dẫn từ: Phạm Anh Tuấn, Lời người dịch,in trong, J.Dewey (Phạm Anh Tuấn dịch)
(2010), Dân chủ và giáo dục, NXB Tri thức, Hà Nội, tr.12.
10. Quyết định số 05/2007/ QĐ-BGDĐT, ngày 8 tháng 3 năm 2007, Ban hành quy định
về chuẩn nghề nghiệp giáo viên các cấp: tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ
thông.