bÁo cÁo tỔng quan kinh tẾ vĨ mÔ - pgbank.com.vn€¦ · nhật bản đón nhận nhiều...
TRANSCRIPT
KHỐI ĐẦU TƯ
--
Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex
VP5 (18T1 - 18T2), Lê Văn Lương,
Trung Hòa - Nhân Chính, Hà Nội
Tháng 09/2017
Cục Dữ trữ liên bang Mỹ (Fed) vừa công bố biên bản cuộc họp tháng 9 của cơ quan này,
trong đó một số quan chức Fed muốn có thêm dấu hiệu củng cố việc lạm phát ở mức cao hơn
trước khi nâng lãi suất vào tháng 12 tới. Kinh tế Mỹ đón nhận nhiều tin tức tích cực trong
tháng 9 khi số liệu GDP quý 2/2017 sau điều chỉnh tăng cao hơn ước tính, lĩnh vực sản xuất
tăng tốc, CPI tăng khi giá năng lượng tăng, doanh số bán lẻ đảo chiều tăng mạnh và tỷ lệ thất
nghiệp giảm.
Ngân hàng trung ương Châu Âu (ECB) cho biết sẽ đưa ra mức lãi suất cho vay qua đêm
không có đảm bảo mới trước năm 2020 trong quá trình cải cách các mức lãi suất. Trong
tháng 9, kinh tế khu vực đón nhận nhiều tin tức trái chiều khi lĩnh vực sản xuất tăng trưởng ở
mức cao nhất 6 năm, thặng dư thương mại mở rộng nhờ xuất khẩu tăng, niềm tin người tiêu
dùng tăng lên mức cao nhất từ năm 2001, chỉ số giá tiêu dùng và tỷ lệ thất nghiệp ổn định.
Tuy nhiên, doanh thu bán lẻ giảm tháng thứ 2 liên tiếp.
Thành viên hội đồng chính sách tiền tệ Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) Makoto
Sakurai cho rằng BOJ nên duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng như hiện nay và kiên trì mục tiêu
lạm phát 2% vì điều này góp phần ổn định tỷ giá trong dài hạn và qua đó góp phần ổn định
giá cả. Nhật Bản đón nhận nhiều tin tức kinh tế trái chiều trong tháng 9 khi lĩnh vực sản xuất
mở rộng với tốc độ nhanh hơn tháng trước, CPI và doanh số bán lẻ tăng cao hơn dự báo. Tuy
nhiên, sản xuất công nghiệp và chi tiêu hộ gia đình đều tăng thấp hơn dự kiến, tỷ lệ thất
nghiệp tiếp tục ổn định.
Thống đốc Ngân hàng trung ương Trung Quốc (PBOC) Chu Tiểu Xuyên cho rằng tăng
trưởng kinh tế sẽ đạt mức 7% trong nửa sau năm 2017 nhờ tốc độ tăng nhanh của chi tiêu hộ
gia đình. Tuy nhiên, những chỉ báo kinh tế cuối quý 3 ít ủng hộ điều này khi GDP quý 3 chỉ
tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng của quý 2, lĩnh vực sản xuất bất ngờ
giảm tốc sau 3 tháng tăng tốc liên tiếp, chỉ số giá tiêu dùng tăng chậm lại do giá thực phẩm
giảm và thặng dư thương mại thu hẹp khi nhập khẩu tăng.
Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam 9 tháng đầu năm 2017 ước
đạt 6,41% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 5,99% của 9 tháng đầu năm 2016,
GDP đặc biệt tăng tốc trong quý 3 với mức tăng tới 7,46%. Sản xuất công nghiệp sau 9 tháng
đầu năm tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước với đóng góp quan trọng của Samsumg và
Formosa. Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) tháng 9/2017 tăng nhẹ lên mức 53,3 điểm, chủ
yếu do số đơn đặt hàng mới, số đơn hàng xuất khẩu và việc làm tăng nhanh hơn nhờ nhu cầu
khách hàng tăng. Tổng mức bán lẻ 9 tháng ước tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại
trừ yếu tố giá thì tăng 9,2%, cao hơn mức tăng 9% của cùng kỳ năm 2016.
BÁO CÁO TỔNG QUAN KINH TẾ VĨ MÔ
Tóm tắt nội dung
Những người thực hiện:
Xin vui lòng tham khảo Khuyến cáo sử
dụng ở trang cuối
Bùi Quỳnh Vân
Chuyên viên Phân tích
T: +(84 4) 6 281 1298 Ext: 243
Nguyễn Thị Diệu Linh
Chuyên viên Phân tích
T: +(84 4) 6 281 1298 Ext: 644
2
MỸ
GDP quý 2/2017 tăng cao hơn quý 1: Tăng trưởng kinh tế Mỹ quý 2 đạt 3,1%, cao hơn số
liệu ước tính trước đó là 3% đồng thời cao hơn mức dự báo tăng 3% của các chuyên gia kinh
tế. Theo đó, tăng trưởng GDP quý 2 tiếp tục tăng nhanh hơn so với mức tăng 1,2% trong quý
đầu tiên. GDP quý 2 điều chỉnh tăng do đầu tư hàng tồn kho tư nhân và chi tiêu tiêu dùng tăng.
Lĩnh vực sản xuất tiếp tục tăng tốc trong tháng 9: Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) sản
xuất trong tháng 9 tăng lên mức 60,8 điểm từ mức 58,8 điểm hồi tháng 8, trái dự báo giảm
xuống mức 57,9 điểm của các chuyên gia kinh tế. PMI tăng một phần do số đơn đặt hàng mới
tăng mạnh, chỉ số đơn đặt hàng mới tăng lên mức 64,6 điểm trong tháng 9 từ mức 60,3 trong
tháng 8. Bên cạnh đó chỉ số lao động cũng tăng lên mức 60,3 điểm trong tháng 9 từ mức 59,9
điểm trong tháng 8.
CPI tiếp tục đà tăng do giá năng lượng tăng: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng nhẹ hơn dự
báo trong tháng 9 khi chỉ tăng 0,5% sau khi tăng 0,4% vào tháng 8. Các chuyên gia kinh tế dự
báo CPI tháng 9 sẽ tăng 0,6%. Mức tăng của CPI tháng 9 được đóng góp phần lớn do giá năng
lượng tăng 6,1% sau khi giảm 2,8% vào tháng 8. Giá gas tăng 13,1% do cơn bão Hurricane
Harvey và đóng góp khoảng 3/4 vào tổng mức tăng của CPI chung. So với cùng kỳ năm trước,
CPI tháng 9 tăng 2,2% sau khi tăng 1,9% vào tháng 8, CPI cơ bản tăng 1,7%.
Doanh số bán lẻ đảo chiều tăng mạnh: Doanh số bán lẻ của nước này trong tháng 9 đã tăng
mạnh 1,6% so với tháng trước sau khi giảm 0,1% vào tháng 8, thấp hơn mức dự báo tăng 1,7%
của các chuyên gia kinh tế. Doanh số bán lẻ tăng một phần do giá gas tăng đẩy doanh số bán
gas tăng 5,8%, doanh số bán lẻ mô tô và phụ tùng cũng tăng 3,6% trong tháng 9 sau khi giảm
2,1% vào tháng 8. So với cùng kỳ năm trước, doanh số bán lẻ tháng 9 tăng 4,4%.
Niềm tin người tiêu dùng giảm thấp hơn dự báo: Chỉ số phản ánh niềm tin người tiêu dùng
Mỹ đã giảm nhẹ trong tháng 9 xuống 95,1 điểm từ mức 96,8 điểm của tháng trước, đồng thời
thấp hơn dự báo ở mức 95,3 điểm của các chuyên gia kinh tế. Chỉ số phản ánh kỳ vọng của
người tiêu dùng đã giảm xuống 84,4 trong tháng 9 từ 87,7 trong tháng 8, trong khi chỉ số điều
kiện kinh tế hiện tại đã tăng lên 111,7 điểm từ mức 110,9.
Tỷ lệ thất nghiệp giảm: Bảng lương phi nông nghiệp tháng 9 bất ngờ giảm 33 nghìn việc làm,
trái với mức tăng thêm 169.000 nghìn việc làm sau điều chỉnh của tháng 8. Theo đó, tỷ lệ thất
nghiệp trong tháng 9 đã giảm xuống mức 4,2% từ mức 4,4% trong tháng 8, thấp hơn dự báo
của các chuyên gia kinh tế sẽ ở mức 4,4%
Fed muốn có thêm dấu hiệu củng cố việc lạm phát ở mức cao hơn trước khi nâng lãi suất
vào tháng 12 tới: Theo biên bản cuộc họp tháng 9 của Cục Dữ trữ liên bang Mỹ (Fed), một số
quan chức Fed muốn có thêm dấu hiệu củng cố việc lạm phát ở mức cao hơn trước khi nâng
lãi suất vào tháng 12 tới. Trong khi đó, một số quan chức khác cho rằng đợi lạm phát đạt mức
mục tiêu 2% mới tăng lãi suất là một sai lầm, một số khác thì ủng hộ việc kiên nhẫn. Fed đã
nâng lãi suất 2 lần trong năm 2017, nhưng những kế hoạch gần đây cho thấy cơ quan này sẽ
nâng lãi suất lần thứ 3 vào cuối năm nay.
Biểu đồ 2: PMI sản xuất (ISM)
Cục Dữ trữ liên bang Mỹ (Fed) vừa công bố biên bản cuộc họp tháng 9 của cơ quan này,
trong đó một số quan chức Fed muốn có thêm dấu hiệu củng cố việc lạm phát ở mức cao
hơn trước khi nâng lãi suất vào tháng 12 tới. Kinh tế Mỹ đón nhận nhiều tin tức tích cực
trong tháng 9 khi số liệu GDP quý 2/2017 sau điều chỉnh tăng cao hơn ước tính, lĩnh vực
sản xuất tăng tốc, CPI tăng khi giá năng lượng tăng, doanh số bán lẻ đảo chiều tăng
mạnh và tỷ lệ thất nghiệp giảm.
Biểu đồ 3: CPI mm
Biểu đồ 4: Niềm tin người tiêu dùng
Biểu đồ 5: Tỷ lệ thất nghiệp
Biểu đồ 1: GDP qq
2,7
1,6
0,5 0,6
2,2
2,8
1,8
1,2
3,1
0
1
2
3
4
6/15 9/15 12/15 3/16 6/16 9/16 12/16 3/17 6/17
%
60,8
46
48
50
52
54
56
58
60
62
09/15 03/16 09/16 03/17 09/17
0,5%
-0,8%
-0,6%
-0,4%
-0,2%
0,0%
0,2%
0,4%
0,6%
0,8%
9/14 12/14 3/15 6/15 9/15 12/15 3/16 6/16 9/16 12/16 3/17 6/17 9/17
95,1
86
88
90
92
94
96
98
100
9/15 11/15 1/16 3/16 5/16 7/16 9/16 11/16 1/17 3/17 5/17 7/17 9/17
4,2
4,0
4,2
4,4
4,6
4,8
5,0
5,2
9/15 3/16 9/16 3/17 9/17
%
3
CHÂU ÂU
Lĩnh vực sản xuất tăng lên mức cao nhất hơn 6 năm: Lĩnh vực sản xuất tăng trưởng mạnh
nhất hơn 6 năm rưỡi qua trong tháng 9 khi PMI sản xuất tăng lên mức 58,1 điểm từ mức 57,4
điểm của tháng 8. Đây cũng là tháng đánh dấu ngành sản xuất khu vực mở rộng tháng thứ 51
liên tiếp. PMI tháng 9 tăng mạnh đưa mức điểm trung bình quý 3 đạt 57,4 điểm, cao nhất kể từ
quý đầu năm 2011. Chris Williamson, kinh tế trưởng của IHS Markit cho biết sự hồi phục thể
hiện rộng khắp toàn khu vực khi nhu cầu tăng trưởng đã nâng đỡ tất cả các ngành sản xuất.
Chỉ số giá tiêu dùng giữ ổn định so với tháng trước trong khi lạm phát cơ bản tăng chậm
lai: CPI ước tính sơ bộ khu vực tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước trong tháng 9, bằng mức
tăng của tháng 8 và thấp hơn mức tăng dự báo 1,6% của các chuyên gia kinh tế. CPI cơ bản
sau khi loại trừ năng lượng, thực phẩm, đồ uống có cồn và thuốc lá tăng chậm hơn tháng trước
khi chỉ đạt mức 1,1%, thấp hơn mức tăng 1,2% của tháng 8.
Doanh thu bán lẻ tiếp tục giảm tháng thứ hai liên tiếp: Doanh thu bán lẻ tháng 8 đã giảm
0,5% sau khi giảm 0,3% trong tháng 7 , trái dự báo tăng lên 0,3% của các chuyên gia kinh tế.
So với cùng kỳ năm trước, doanh số bán lẻ tháng 8 tăng với tốc độ chậm hơn là 1,2% sau khi
tăng lên 2,3% vào tháng 7 đã được điều chỉnh từ 2,6%.
Thặng dư thương mại tháng 8 tăng mạnh nhờ xuất khẩu tăng: Thặng dư thương mại sau
điều chỉnh mùa vụ tháng 8 đạt 21,6 tỷ EUR, cao hơn mức 17,9 tỷ EUR của tháng 7. Trong đó,
xuất khẩu tăng 2,5% so với tháng trước còn nhập khẩu chỉ tăng 0,4%.
Niềm tin người tiêu dùng tăng lên mức cao nhất kể từ năm 2001: Niềm tin người người
tiêu dùng cải thiện tháng thứ 2 liên tiếp trong tháng 9 lên mức cao nhất kể từ năm 2001. Chỉ số
niềm tin người tiêu dùng sơ bộ tháng 9 tăng lên mức –1,2 điểm, cao hơn mức dự báo ổn định ở
–1,5 điểm của tháng 8. Chỉ số niềm tin người tiêu dùng Cộng đồng Châu Âu (EU) tháng 9
cũng tăng lên mức –1,5 điểm từ mức –2,3 điểm của tháng 7 và tháng 8.
Tỷ lệ thất nghiệp ổn định ở mức thấp nhất hơn 8 năm: Tỷ lệ thất nghiệp Eurozone trong
tháng 8 ổn định ở mức 9,1% của tháng 7, mức thấp nhất kể từ năm 2009. Số lượng người
không có việc làm của khu vực hiện ở mức 14,751 triệu người, giảm 42.000 người so với
tháng 7 và giảm 1,319 triệu người so với cùng kỳ năm trước.
ECB dự kiến đưa ra mức lãi suất cho vay qua đêm không có đảm bảo mới trước năm
2020: Ngân hàng trung ương Châu Âu (ECB) đã quyết định đưa ra lãi suất cho vay qua đêm
không có đảm bảo mới trước năm 2020 trong quá trình cơ quan này cải cách các mức lãi suất.
Lãi suất này sẽ bổ sung cho các mức lãi suất tiêu chuẩn hiện nay đóng vai trò mức một mức
tham chiếu. Các nội dung quan trọng của lãi suất này sẽ được gửi tới các thành viên thị trường
vào năm 2018.
Biểu đồ 6: PMI sản xuất
Ngân hàng trung ương Châu Âu (ECB) cho biết sẽ đưa ra mức lãi suất cho vay qua đêm
không có đảm bảo mới trước năm 2020 trong quá trình cải cách các mức lãi suất. Trong
tháng 9, kinh tế khu vực đón nhận nhiều tin tức trái chiều khi lĩnh vực sản xuất tăng trưởng ở
mức cao nhất 6 năm, thặng dư thương mại tăng mạnh nhờ xuất khẩu tăng, niềm tin người tiêu
dùng tăng lên mức cao nhất từ năm 2001, chỉ số giá tiêu dùng và tỷ lệ thất nghiệp ổn định. Tuy
nhiên, doanh thu bán lẻ giảm tháng thứ 2 liên tiếp.
Biểu đồ 8: Doanh số bán lẻ mm
Biểu đồ 7: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) yy
Biểu đồ 9: Tỷ lệ thất nghiệp
Biểu đồ 5: GDP qq
0,3
0,50,5 0,5
0,3
0,4
0,6 0,6
0,7
0,0
0,1
0,2
0,3
0,4
0,5
0,6
0,7
0,8
6/15 9/15 12/15 3/16 6/16 9/16 12/16 3/17 6/17
%
58,1
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
09/15 12/15 03/16 06/16 09/16 12/16 03/17 06/17 09/17
1,5%
-0,5%
0,0%
0,5%
1,0%
1,5%
2,0%
9/15 12/15 3/16 6/16 9/16 12/16 3/17 6/17 9/17
-0,5%
-1,0%
-0,5%
0,0%
0,5%
1,0%
1,5%
08/14 08/15 08/16 08/17
9,1
9,0
9,5
10,0
10,5
11,0
11,5
12,0
12,5
08/12 02/13 08/13 02/14 08/14 02/15 08/15 02/16 08/16 02/17 08/17
%
4
NHẬT BẢN
Lĩnh vực sản xuất mở rộng với tốc độ nhanh hơn tháng trước: Chỉ số nhà quản trị mua
hàng trong lĩnh vực sản xuất (PMI) tháng 9 tăng lên mức 52,9 điểm từ mức 52,2 điểm trong
tháng 8. Sản lượng, số đơn đặt hàng mới đều tăng với tốc độ nhanh trong khi đó tăng trưởng
về việc làm là yếu nhất kể từ tháng 11/2016.
Sản xuất công nghiệp tăng thấp hơn ước tính: Sản xuất công nghiệp tháng 8 tăng thấp hơn
ước tính khi chỉ đạt mức tăng 2% so với tháng trước sau khi giảm 0,8% vào tháng 7, thấp hơn
ước tính tăng 2,1% đưa ra trước đó. So với cùng kỳ năm trước, sản xuất công nghiệp tháng 8
tăng tốc lên mức 5,3% từ mức tăng 4,7% của tháng 7.
Chỉ số giá tiêu dùng tăng cao hơn tháng trước: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8 tăng
0,7% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn dự báo tăng 0,6% và cao hơn mức tăng 0,4% của
tháng 7. CPI cơ bản sau khi loại trừ thực phẩm tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước, trùng dự
báo và cao hơn mức tăng 0,5% của tháng 7. So với tháng trước, CPI và CPI cơ bản tháng 8
tăng lần lượt 0,2% và 0,1%.
Doanh số bán lẻ tăng trái dự báo: Doanh số bán lẻ tháng 8 tăng 1,76% so với tháng trước,
trái dự báo giảm 0,5% của các chuyên gia kinh tế sau khi tăng 1,1% vào tháng 7. So với cùng
kỳ năm trước, doanh số bán lẻ tăng 1,7%, thấp hơn mức dự báo tăng 2,4% của các chuyên gia
kinh tế, sau khi tăng 1,8% vào tháng trước đó.
Chi tiêu hộ gia đình tăng thấp hơn dự báo: Chi tiêu hộ gia đình trung bình tháng 8 tăng
0,6% so với cùng kỳ năm trước lên mức 280.320 yen, thấp hơn dự báo tăng 0,9% của các
chuyên gia kinh tế, sau khi giảm 0,2% vào tháng trước đó. Thu nhập trung bình hộ gia đình
Nhật tháng 8 đứng ở mức 485.099 yen, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước.
Tỷ lệ thất nghiệp ổn định: Tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 8 giữ nguyên ở mức 2,8% của tháng
trước và trùng dự báo. Số lượng người có việc làm trong tháng 8 là 65,73 triệu ngường, tăng
1,3% so với cùng kỳ năm trước.
Niềm tin người tiêu dùng tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 3: Niềm tin người tiêu dùng
cải thiện mạnh hơn dự báo trong tháng 9 khi đạt 43,9 điểm từ mức 43,3 điểm trong tháng 8,
cao hơn mức tăng dự báo là 43,5 điểm của các chuyên gia kinh tế. Đây là mức điểm cao nhất
của niềm tin người tiêu dùng kể từ tháng 3 năm nay.
BOJ nên duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng như hiện nay: Thành viên hội đồng chính sách
tiền tệ Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) Makoto Sakurai cho rằng cơ quan này cần duy
trì chính sách tiền tệ nới lỏng như hiện nay. Sakurai cho rằng sự dao động của giá cả hiện khá
yếu và sẽ mất khá nhiều thời gian để đạt mục tiêu lạm phát 2%. BOJ nên nhìn nhận vấn đề này
một cách thận trọng cũng như không nên thay đổi mục tiêu lạm phát 2% do điều này sẽ góp
phần ổn định tỷ giá trong dài hạn và qua đó đạt được sự ổn định về mặt giá cả.
Thành viên hội đồng chính sách tiền tệ Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) Makoto Sakurai
cho rằng BOJ nên duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng như hiện nay và kiên trì mục tiêu lạm phát
2% vì điều này góp phần ổn định tỷ giá trong dài hạn và qua đó góp phần ổn định giá cả. Nhật
Bản đón nhận nhiều tin tức kinh tế trái chiều trong tháng 9 khi lĩnh vực sản xuất mở rộng với tốc
độ nhanh hơn tháng trước, CPI và doanh số bán lẻ tăng cao hơn dự báo. Tuy nhiên, sản xuất
công nghiệp và chi tiêu hộ gia đình đều tăng thấp hơn dự kiến, tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục ổn định.
Biểu đồ 11: Chỉ số giá tiêu dùng yy
Biểu đồ 13: Chi tiêu hộ gia đình yy
Biểu đồ 10: Doanh thu bán lẻ yy
Biểu đồ 12: Niềm tin người tiêu dùng
Biểu đồ 9: GDP yy
-0,1
0,7
-0,9
2,12,0
0,9
1,6
1,2
2,5
-1,0
-0,5
0,0
0,5
1,0
1,5
2,0
2,5
6/15 9/15 12/15 3/16 6/16 9/16 12/16 3/17 6/17
%
1,8%
-3%
-2%
-1%
0%
1%
2%
3%
4%
0,7
-0,6
-0,4
-0,2
0,0
0,2
0,4
0,6
0,8
08/15 02/16 08/16 02/17 08/17
%
44,1
39
40
41
42
43
44
45
09/15 12/15 03/16 06/16 09/16 12/16 03/17 06/17 09/17
0,6%
-6%
-5%
-4%
-3%
-2%
-1%
0%
1%
2%
3%
5
TRUNG QUỐC
Tăng trưởng kinh tế quý 3 chậm hơn quý trước: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) quý 3 đã
tăng 6,8%, đúng như dự báo của các chuyên gia kinh tế và thấp hơn mức tăng 6,9% của quý
trước đó. So với quý trước, GDP quý 3 đã tăng 1,7%. Mức tăng này trùng với dự báo mà các
chuyên gia kinh tế đưa ra và thấp hơn mức 1,8% trong quý 2.
Lĩnh vực sản xuất mở rộng với tốc độ chậm lại: Lĩnh vực sản xuất Trung Quốc đã giảm tốc
trong tháng 9 sau khi tăng tốc liên tục 3 tháng gần đây. Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) do
Caixin/IHS Markit công bố trong tháng 9 giảm xuống mức 51 điểm từ mức 51,6 điểm của
tháng 8, giảm mạnh hơn mức dự báo giảm xuống 51,5 điểm của các chuyên gia. Sản lượng sản
xuất và số đơn hàng mới và số đơn hàng xuất khẩu đều tăng với tốc độ thấp hơn tháng trước.
Chỉ số giá tiêu dùng tăng chậm lại do giá thực phẩm giảm: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
tháng 9 tăng chậm lại ở mức 1,6% so với cùng kỳ năm trước từ mức 1,8% của tháng 8, trùng
dự báo, đồng thời thấp hơn nhiều mức tăng 3% mà Chính phủ nước này đặt ra từ đầu năm.
Trong đó, giá thực phẩm giảm 1,4%, trái với mức tăng nhẹ 0,2% của tháng trước đó. Giá hàng
phi thực phẩm tăng 2,4%, cao hơn mức tăng 2,3% của tháng 8, giá hàng tiêu dùng tăng 0,7%,
giá dịch vụ tăng 3,3%. So với tháng trước, CPI tháng 9 tăng 0,5%, cao hơn mức tăng 0,4% của
tháng 8, đánh dấu tháng tăng thứ 3 liên tiếp.
Sản xuất công nghiệp cao hơn tháng trước: Sản xuất công nghiệp tháng 9 đã tăng 6,6% từ
mức 6% trong tháng 8, cao hơn dự báo 6,5% của các chuyên gia kinh tế.
Doanh số bán lẻ tăng cao hơn dự báo: Doanh thu bán lẻ tháng 9 tăng lên mức 10,3% từ mức
10,1% trong tháng trước, cao hơn dự báo 10,2% của các chuyên gia kinh tế.
Thặng dư thương mại thu hẹp do nhập khẩu tăng: Xuất khẩu tăng chậm hơn dự báo trong
khi nhập khẩu tăng mạnh do nhu cầu nội địa tăng. Xuất khẩu tháng 9 tăng 8,1% so với cùng kỳ
năm trước trong khi nhập khẩu tăng 18,7% so với cùng kỳ năm trước, các chuyên gia kinh tế
dự báo mức tăng lần lượt là 10% và 15%. Theo đó, thặng dư thương mại tháng 9 đạt 28,47 tỷ
USD, thấp hơn mức dự báo 38 tỷ USD của các chuyên gia kinh tế.
PBOC cho biết tăng trưởng kinh tế Trung Quốc sẽ đạt 7% trong nửa sau năm 2017: Tại
Hội nghị quốc tế về ngân hàng G30 tổ chức tại Mỹ giữa tháng 10/2017, Thống đốc Ngân hàng
trung ương Trung Quốc (PBOC) Chu Tiểu Xuyên cho biết nước này sẽ đạt mức tăng trưởng
kinh tế 7% trong nửa sau của năm 2017 nhờ tốc độ tăng nhanh của chi tiêu hộ gia đình. Tăng
trưởng kinh tế Trung Quốc đã chậm lại trong vài năm qua, GDP năm 2016 chỉ tăng 6,7%,
nhưng đã tăng tốc trở lại với mức tăng 6,9% trong nửa đầu năm 2017. Mục tiêu của nước này
là đạt mức tăng GDP 6,5% trong cả năm 2017.
Thống đốc Ngân hàng trung ương Trung Quốc (PBOC) Chu Tiểu Xuyên cho rằng tăng trưởng
kinh tế nước này sẽ đạt mức 7% trong nửa sau năm 2017 nhờ tốc độ tăng nhanh của chi tiêu
hộ gia đình. Tuy nhiên, những chỉ báo kinh tế cuối quý 3 ít ủng hộ điều này khi GDP quý 3 chỉ
tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng của quý 2, lĩnh vực sản xuất bất ngờ
giảm tốc sau 3 tháng tăng tốc liên tiếp, chỉ số giá tiêu dùng tăng chậm lại do giá thực phẩm
giảm và thặng dư thương mại thu hẹp do nhập khẩu tăng.
Biểu đồ 17: Cán cân thương mại
Biểu đồ 15: CPI yy
Biểu đồ 16: Sản lượng CN & bán lẻ yy
Biểu đồ 14: PMI sản xuất
Biểu đồ 14: GDP yy
6,8
6,5
6,6
6,7
6,8
6,9
7,0
9/15 3/16 9/16 3/17 9/17
%
51,0
47
48
49
50
51
52
1,6
0,0
0,5
1,0
1,5
2,0
2,5
09/15 03/16 09/16 03/17 09/17
%
10,3
6,6
0
2
4
6
8
10
12
9/16 10/16 11/16 12/16 1/17 2/17 3/17 4/17 5/17 6/17 7/17 8/17 9/17
%
Doanh số bán lẻ yy Sản lượng công nghiệp yy
8,1%
-40%
-20%
0%
20%
-10
0
10
20
30
40
50
60
70
tỷ U
SD
Cán cân thương mại Xuất khẩu yy
VIỆT NAM - SẢN XUẤT, TIÊU DÙNG
Tăng trưởng kinh tế 9 tháng đầu năm 2017 cao hơn cùng kỳ năm 2016, đặc biệt tăng
mạnh trong quý 3: GDP 9 tháng đầu năm 2017 ước tăng 6,41% so với cùng kỳ năm trước,
cao hơn mức tăng 5,99% của 9 tháng đầu năm 2016. Trong đó, GDP quý 1 tăng 5,15%, quý 2
tăng 6,28% và ước tính quý 3 tăng 7,46%. Sau 9 tháng, trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản, ngành thủy sản đạt mức tăng cao nhất với 5,42%, đóng góp 0,17 điểm phần trăm vào
mức tăng chung. Ở lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là
điểm sáng với mức tăng 12,77% (+2,15 điểm %), riêng ngành khai khoáng sụt giảm tới 8,08%
làm mức tăng trưởng chung giảm 0,57 điểm %. Đối với khu vực dịch vụ, ngành bán buôn và
bán lẻ tăng tới 8,16% (+0,75 điểm %), hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng cao
nhất 7 năm khi đạt 7,89% (+0,4 điểm %)
Sản xuất công nghiệp 9 tháng tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước với đóng góp quan
trọng của Samsumg và Formosa: Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 9 tăng
13,2% so với cùng kỳ năm trước, mức cao nhất từ đầu năm 2017. Tính chung 9 tháng đầu năm
2017, IIP tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 7,1% của 9 tháng đầu năm
2016. Đáng chú ý, ngành sản xuất sản phẩm điện tử tăng mạnh 25,1% chủ yếu nhờ sản xuất
điện thoại thông minh và linh kiện điện tử tăng tới 45,5% trong quý 3, cao hơn mức tăng 5,9%
của quý 1 và 23,5% của quý 2 do Samsung đầu tư mở rộng sản xuất. Bên cạnh đó, ngành sản
xuất kim loại cũng tăng mạnh 21,4% nhờ sự đóng góp của Tập đoàn Formosa.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 8/2017 tăng 3,4% so với
tháng trước và tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng, chỉ số tiêu thụ
ngành chế biến, chế tạo tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2016 tăng 8,3%).
Dệt và sản xuất kim loại là 2 ngành chỉ số tiêu thụ tăng cao nhất, lần lượt đạt 31,7% và 22,6%.
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/9/2017 tăng 9,9% so
với cùng thời điểm năm trước (cùng kỳ năm 2016 tăng 9%).
Chỉ số nhà quản trị mua hàng Purchasing Managers’ Index (PMI) tháng 9/2017 đã tăng
nhẹ từ 51,8 điểm của tháng trước lên 53,3 điểm, chủ yếu do số đơn đặt hàng mới, số đơn hàng
xuất khẩu và việc làm tăng nhanh hơn nhờ nhu cầu khách hàng tăng. Theo đó, sản lượng sản
xuất đã tăng tháng thứ 11 liên tiếp, lượng công việc tồn đọng tăng. Trong khi đó, tốc độ tăng
chi phí đầu vào nhanh nhất 6 năm khiến giá cả đầu ra tăng lần đầu tiên kể từ tháng 4.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 9 ước đạt 336,6 nghìn tỷ
đồng, tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 12,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9
tháng đầu năm nay, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt
2.917,6 nghìn tỷ đồng, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá
tăng 9,2%, cao hơn mức tăng 9% của cùng kỳ năm 2016.
Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam 9 tháng đầu năm 2017 ước đạt 6,41%
so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 5,99% của 9 tháng đầu năm 2016, GDP đặc biệt tăng tốc
trong quý 3 với mức tăng tới 7,46%. Sản xuất công nghiệp sau 9 tháng đầu năm tăng mạnh so với cùng
kỳ năm trước với đóng góp quan trọng của Samsumg và Formosa. Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI)
tháng 9/2017 tăng nhẹ lên mức 53,3 điểm, chủ yếu do số đơn đặt hàng mới, số đơn hàng xuất khẩu và
việc làm tăng nhanh hơn nhờ nhu cầu khách hàng tăng. Tổng mức bán lẻ 9 tháng ước tăng 10,5% so
với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 9,2%, cao hơn mức tăng 9% của cùng kỳ năm 2016.
Biểu đồ 20: Chỉ số sản xuất IIP
Biểu đồ 23: Tăng trưởng bán lẻ yoy
Biểu đồ 22: PMI sản xuất
Biểu đồ 21: Chỉ số tồn kho CN chế biến
Biểu đồ 19: Tăng trưởng GDP (q/q-4)
6,53% 6,68%
5,48%5,65%
5,99%6,21%
5,10%
5,73%
6,41%
0%
1%
2%
3%
4%
5%
6%
7%
8%
09/15 12/15 03/16 06/16 09/16 12/16 03/17 06/17 09/17
7,2% 7,0% 7,2%8,3%
0,7%
3,3%5,5%
7,4% 7,2%
8,6%8,1% 8,4%
13,2%
3,4% 6,0%
2,0%
4,7%
-6,2%
-2,1%
12,5%
-0,8%
1,7%
0,4%
1,4% 3,9%
0,1%
-10%
-5%
0%
5%
10%
15%
09/16 11/16 01/17 03/17 05/17 07/17 09/17
YoY
MoM
8,8%8,1% 8,3%
13,3%12,5% 12,7%
11,0%10,2% 10,4% 9,8% 9,9%
2,6%2,0%
2,8%
0,7%
3,3%4,2%
4,9%
-0,1%
0,9%1,5% 1,2%
-2%
0%
2%
4%
6%
8%
10%
12%
14%
10/16 11/16 12/16 01/17 02/17 03/17 04/17 05/17 06/17 07/17 08/17
YoY
MoM
52,9
51,7
54
52,4
51,9
54,2 54,6
54,1
51,6
52,5
51,7 51,8
53,3
49
50
51
52
53
54
55
09/16 11/16 01/17 03/17 05/17 07/17 09/17
13,65%
4%
6%
8%
10%
12%
14%
16%
18%
20%
09/14 12/14 03/15 06/15 09/15 12/15 03/16 06/16 09/16 12/16 03/17 06/17 09/17
VIỆT NAM - XUẤT NHẬP KHẨU
Kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu năm tăng 20,47% so với cùng kỳ năm 2016: Xuất khẩu
trong tháng 9/2017 đạt 19,34 tỷ USD, giảm 2,1% so với tháng trước, đưa kim ngạch xuất khẩu
9 tháng/2017 đạt 154,32 tỷ USD, tăng 20,47% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng
19,8% của 8 tháng đầu năm.
Kim ngạch nhập khẩu 9 tháng đầu năm tăng 23,37% so với cùng kỳ: Nhập khẩu trong
tháng 9/2017 đạt hơn 18,24 tỷ USD, tăng 0,3% so với tháng trước, qua đó đưa kim ngạch nhập
khẩu 9 tháng/2017 đạt 153,99 tỷ USD, tăng 23,37% so với cùng kỳ năm 2016. Nhập khẩu của
khối doanh nghiệp FDI trong tháng đạt 13,5 tỷ USD, tăng mạnh 22,12% so với tháng trước,
đưa kim ngạch nhập khẩu của khối này trong 9 tháng/2017 đạt 95,41 tỷ USD, tăng 29,44% so
với cùng kỳ năm trước. Trái lại, nhập khẩu của khu vực trong nước tháng 9 giảm mạnh khi chỉ
đạt 4,74 tỷ USD, giảm tới 33,5% so với tháng trước khiến khu vực trong nước có tháng xuất
siêu đầu tiên sau nhiều năm.
Như vậy, cán cân thương mại tháng 9 đạt mức thặng dư cao thứ 2 từ đầu năm, qua đó
đưa cán cân thương mại 9 tháng đầu năm 2017 đảo chiều sang xuất siêu 0,32 tỷ USD. Hàn
Quốc và Trung Quốc là 2 nước đóng góp chủ yếu vào thâm hụt thương mại 9 tháng đầu năm
của Việt Nam với mức nhập siêu 23,62 tỷ USD và 19,71 tỷ USD, ngược lại Hoa Kỳ và EU là
2 thị trường lớn nhất mà Việt Nam xuất siêu, đạt lần lượt 24,31 tỷ USD và 19,41 tỷ USD.
Hàng hóa xuất khẩu: Trong 154,32 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu, điện thoại di động chiếm
tới 31,5 tỷ USD (20,4%), hàng dệt, may chiếm 19,2 tỷ USD (12,5%), máy vi tính, sản phẩm
điện tử và linh kiện chiếm 18,5 tỷ USD (12%). Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao
khác gồm giày, dép các loại 10,6 tỷ USD, máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng 9,3 tỷ USD.
Hàng hóa nhập khẩu: Trong 153,99 tỷ USD kim ngạch nhập khẩu, máy vi tính, sản phẩm
điện tử và linh kiện chiếm 27,32 tỷ USD (17,7%), máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng chiếm
25,4 tỷ USD (16,5%), điện thoại và các loại linh kiện 10,86 tỷ USD (7,1%). Các mặt hàng có
kim ngạch nhập khẩu cao khác gồm vải các loại (8,26 tỷ USD), sắt thép (6,7 tỷ USD), chất dẻo
nguyên liệu (5,4 tỷ USD), xăng dầu (5 tỷ USD).
Cán cân thương mại tháng 9 tiếp tục thặng dư qua đó giúp cán cân thương
mại 9 tháng đầu năm 2017 đảo chiều sang xuất siêu 0,32 tỷ USD. Trong số
hàng hóa xuất khẩu, điện thoại di động, hàng dệt may và máy vi tính đóng
góp tỷ trọng lớn nhất vào kim ngạch. Trong số hàng hóa nhập khẩu, máy vi
tính, máy móc thiết bị phụ tùng và điện thoại di động có kim ngạch cao nhất.
Biểu đồ 24: Xuất Nhập khẩu
Biểu đồ 27: XNK Khu vực FDI
Biểu đồ 25: Xuất nhập khẩu tích lũy
Biểu đồ 26: Cơ cấu xuất siêu
Biểu đồ 28: XK ròng theo nước/khu vực Biểu đồ 29: Xuất dầu thô-nhập xăng dầu
19,3418,24
1,10-2
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
09/16 11/16 01/17 03/17 05/17 07/17 09/17
Tỷ USD Xuất khẩu Nhập khẩu Xuất khẩu ròng
0,0
0,5
1,0
1,5
2,0
2,5
3,0
3,5
0
2
4
6
8
10
12
14
16
12/13 05/14 10/14 03/15 08/15 01/16 06/16 11/16 04/17 09/17
Tỷ USDTỷ USD Xuất siêu Xuất khẩu Nhập khẩu
-4
-3
-2
-1
0
1
2
3
4
03/2017 04/2017 05/2017 06/2017 07/2017 08/2017 09/2017
Tỷ USDMỹ EU+Anh Nhật ASEAN Khác Trung Quốc Hàn Quốc
0,21
0,77
0,0
0,2
0,4
0,6
0,8
1,0
1,2
1,4
09/13 03/14 09/14 03/15 09/15 03/16 09/16 03/17 09/17
Xuất dầu thô Nhập xăng dầu
tỷ USD
20,47%
23,37%
-5%
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
03/16 05/16 07/16 09/16 11/16 01/17 03/17 05/17 07/17 09/17XK yy tích lũy NK yy tích lũy
0,54
0,56
-3
-2
-1
0
1
2
3
4 tỷ USD
Xuất siêu của khu vực trong nước
Xuất siêu của khu vực FDI
8
VIỆT NAM - FDI, ODA, KIỀU HỐI
Tính chung trong 9 tháng năm 2017, tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn, mua
cổ phần là 25,48 tỷ USD, tăng 34,3% so với cùng kỳ năm 2016. Ước tính đến 20/9, các dự án
đầu tư nước ngoài đã giải ngân được 12,5 tỷ USD, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm 2016.
Tính đến ngày 20/9/2017, cả nước có 1.844 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 14,56
tỷ USD, tăng 30,3% so với cùng kỳ năm 2016. Bên cạnh đó, có 878 lượt dự án đã cấp phép từ
các năm trước đăng ký điều chỉnh tăng vốn đầu tư 6,75 tỷ USD, tăng 28,3% so với cùng kỳ
năm trước và 3.742 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng trị giá góp
vốn đạt 4,16 tỷ USD, tăng 64%. Một số dự án lớn được cấp phép trong 9 tháng đầu năm 2017
gồm dự án nhà máy nhiệt điện BOT Nghi Sơn 2 với tổng vốn 2,79 tỷ USD từ nhà đầu tư Nhật
Bản, dự án Samsung Display Việt Nam tăng vốn thêm 2,5 tỷ USD do Hàn Quốc đầu tư, dự án
nhà máy nhiệt điện BOT Nam Định 1 có tổng vốn 2,07 tỷ USD do Singapore đầu tư, dự án
đường ống dẫn khí B-Ô Môn quy mô 1,27 tỷ USD do Nhật Bản liên doanh với PVN và
PVGas Việt Nam đầu tư tại Kiên Giang, dự án nhà máy Polytex Far Eastern sản xuất xơ tổng
hợp polyester tăng vốn thêm 486 triệu USD do Đài Loan đầu tư.
Biểu đồ 32: Vốn FDI theo tháng
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2017 tăng 0,59% so với tháng trước trong đó, nhóm giáo
dục có chỉ số giá tăng tới 5% do 41 tỉnh, thành phố tăng học phí, 2 đợt tăng giá xăng dầu
làm chỉ số giá nhiên liệu tăng 3,54% và nhóm thuốc, dịch vụ y tế tăng 0,25% khi có 3 tỉnh,
thành phố tăng giá dịch vụ y tế cho đối tượng không có thẻ bảo hiểm y tế. So với tháng
12/2016, CPI tháng 9 tăng 1,83% và tăng 3,41% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ
bản tháng 9 tăng chậm lại ở mức 0,08% so với tháng trước, thấp hơn mức 0,1% của tháng 8
Đầu tư của nước ngoài từ đầu năm đến tháng 9/2017 thu hút được 25,48 tỷ USD, tăng
34,3% so với cùng kỳ năm 2016. Vốn giải ngân tính đến 20/9 đạt 12,5 tỷ USD, tăng 2,2 tỷ
USD so với thời điểm 20/8 và tăng 13,4% so với cùng kỳ năm trước.
VIỆT NAM - CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2017 tăng 0,59% so với tháng trước, tăng 1,83% so với
tháng 12/2016 và tăng 3,41% so với cùng kỳ năm trước (Tháng 8 tăng 0,92% so với tháng
12/2016; tăng 3,35% so với cùng kỳ năm trước). Bình quân 9 tháng đầu năm 2017 CPI tăng
3,79% so với bình quân cùng kỳ năm 2016, thấp hơn mức bình quân 3,84% của 8 tháng/2017.
Trong đó, có 9/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có CPI tháng 9 tăng so với tháng trước. Cụ thể,
nhóm giáo dục có chỉ số giá tăng cao nhất là 5% do trong tháng có 41 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương thực hiện lộ trình tăng học phí. Trong tháng còn có 2 đợt điều chỉnh tăng
giá xăng, dầu vào thời điểm 5/9/2017 và thời điểm 20/9/2017 làm chỉ số giá nhóm nhiên liệu
tăng 3,54%, tác động làm CPI tăng khoảng 0,14%, nhóm giao thông tăng 1,51%, nhóm nhà ở
và vật liệu xây dựng tăng 0,69%. Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,25% do trong tháng có 3
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế cho đối
tượng không có thẻ bảo hiểm y tế.
Lạm phát cơ bản tháng 9 tăng chậm lại ở mức 0,08% so với tháng trước, thấp hơn mức tăng
0,1% của tháng 8 và tăng 1,32% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 9
tháng tăng 1,45% so với cùng kỳ năm 2016.
Biểu đồ 30: Chỉ số giá tiêu dùng
Biểu đồ 31: Đóng góp của 1 số mặt hàng vào
mức tăng CPI chung
Biểu đồ 32: Vốn FDI đăng ký và thực hiện
theo tháng
3,41%
0,59%
-0,8%
-0,6%
-0,4%
-0,2%
0,0%
0,2%
0,4%
0,6%
0,8%
1,0%
-1%
0%
1%
2%
3%
4%
5%
6%
Ytd YoY MoM
-0,5%
0,0%
0,5%
1,0%
1,5%Thuốc, dịch vụ y tế Giao thông
Nhà ở, VLXD Hàng ăn và dịch vụ ăn uống
MoM
0,0
1,0
2,0
3,0
4,0
5,0
6,0
7,0
09/15 03/16 09/16 03/17 09/17
Vốn đăng ký và bổ sung Vốn thực hiệnTỷUSD
Mọi chi tiết và câu hỏi liên quan đến bản tin này xin vui lòng liên hệ:
Phòng Nghiên cứu và Phân tích
Khối Dịch vụ Ngân hàng Đầu tư
Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex
Tầng 24, Tòa nhà Mipec, 229 phố Tây Sơn, Quận Đống Đa, Hà Nội.
Tel : +(84 4) 6 281 1298 Ext: 243 Fax: +(84 4) 6 281 1299
Email: [email protected] Website: www.pgbank.com.vn
Blog: pgbankresearch.wordpress.com
Thông tin liên hệ
Khuyến cáo sử dụng
Những thông tin được cung cấp trên đây do Phòng Nghiên cứu và Phân tích - Khối Đầu tư - PG Bank
thu thập từ các nguồn được coi là đáng tin cậy. Việc cung cấp các thông tin này chỉ phục vụ mục đích
tham khảo. PG Bank không chịu bất kỳ trách nhiệm nào về những hậu quả có thể gây ra do việc sử
dụng thông tin của bài viết. Các thông tin trên có thể thay đổi theo diễn biến của thị trường và PG
Bank không có trách nhiệm phải thông báo về những thay đổi này.