assessment of water, fertilizer and …ipsard.gov.vn/outlook2009/outlookcd/final_report_vn(28... ·...

66
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRUNG TÂM TƯ VẤN CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP **************** BÁO CÁO NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA THỰC TIỄN SỬ DỤNG CÁC YẾU TỐ ĐẦU VÀO CHO SẢN XUẤT CÀ PHÊ TỈNH ĐẮK LẮK Nhóm nghiên cứu: Trần Thị Quỳnh Chi 1 Dave D’haeze 2 1 Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp 2 EDE Consulting for Coffee 1

Upload: others

Post on 29-Feb-2020

2 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

VIỆN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

TRUNG TÂM TƯ VẤN CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP****************

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA THỰC TIỄN SỬ DỤNG CÁC YẾU TỐ ĐẦU VÀO CHO SẢN XUẤT CÀ PHÊ

TỈNH ĐẮK LẮK

Nhóm nghiên cứu:Trần Thị Quỳnh Chi1 Dave D’haeze2

Hà Nội, tháng 10/2005

1 Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp2 EDE Consulting for Coffee

1

Page 2: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

LỜI CẢM ƠN

Nghiên cứu “Đánh giá tác động thực tiễn sử dụng các yếu tố đầu vào cho sản xuất cà phê" được hoàn thành với sự đóng góp của nhiều tổ chức cá nhân.

Trước hết, nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn Đại Sứ quán Pháp - Dự án “Tăng cường năng lực thông tin phục vụ công tác hoạch định chính sách nông nghiệp” (MISPA) đã hỗ trợ kinh phí để triển khai nghiên cứu này.

Nhóm nghiên cứu xin cảm ơn TS. Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện Kinh tế Nông nghiệp đã gợi ý tưởng, đóng góp ý kiến nhận xét và hỗ trợ nhóm nghiên cứu hoàn tất báo cáo này. Ngoài ra, cũng xin gửi lời cảm ơn tới các cán bộ Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp, Trung tâm Thông tin Chiến lược, Dự án MISPA và một số phòng ban khác trong Viện Kinh tế Nông nghiệp đã tạo điều kiện và đóng góp ý kiến cho nhóm nghiên cứu.

Báo cáo này cũng không thể hoàn thiện nếu thiếu sự giúp đỡ, hướng dẫn nhiệt tình của các chuyên gia thuộc văn phòng Công ty Tư vấn Châu Á, Thái Bình Dương - EDE; đặc biệt là TS. Dave D’haeze.

Chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn Sở Nông nghiệp và PTNT Đắk Lắk, Trung tâm khuyến nông Tỉnh Đắk Lắk, Viện nghiên cứu khoa học nông nghiệp Tây Nguyên, Trạm Nghiên cứu đất Tây Nguyên, Phân viện Quy hoạch Nông nghiệp miền Trung, các Trung tâm khuyến nông huyện Krong Ana và CuMgar, lãnh đạo và nông dân hai huyện Krong Ana và CuMgar đã tham gia các cuộc họp chuyên gia, trả lời phỏng vấn của nhóm nghiên cứu.

Báo cáo này được hoàn thiện trong thời gian ngắn (6 tháng) và điều kiện kinh phí hạn hẹp, vì vậy không thể tránh được thiếu sót. Nhóm nghiên cứu rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để tiếp tục hoàn thiện báo cáo này.

Xin chân thành cảm ơn.

2

Page 3: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

ĐÁNH GIÁ VIỆC SỬ DỤNG NƯỚC, PHÂN BÓN VÀ THUỐC TRỪ SÂU TRONG SẢN XUẤT CÀ PHÊ Ở TÌNH ĐẮC LẮC

PHẦN I: GIỚI THIỆU

1. Lịch sử phát triển cây cà phê Robusta ở Việt Nam

Cây cà phê đầu tiên được đưa vào Việt Nam năm 1857 và được trồng ở Việt Nam từ năm 1888 (Nhạn và cộng sự, 1999). Người Pháp đã mang cây cà phê Arabica từ đảo Bourbon sang trồng ở phía Bắc Việt Nam sau đó mở rộng sang các vùng khác. Hầu hết cà phê được xuất khẩu sang Pháp dưới thương hiệu "Arabica du Tonkin". Đầu thế kỷ 20, cây cà phê được trồng ở một số đồn điền người Pháp tại Phủ Quỳ (Nghệ An) và một số nơi ở Tây Nguyên với diện tích không quá vài nghìn ha. Năm 1930, Việt Nam có khoảng 5900 ha cà phê (VICOFA, 2002). Trong thời kỳ những năm 1960-1970, cây cà phê được phát triển ở một số nông trường quốc doanh ở các tỉnh phía Bắc, khi cao nhất (1964-1966) đã đạt tới 13000 ha. Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, tổng diện tích cà phê Việt Nam có khoảng 20.000 ha. Nhờ vốn từ các Hiệp định hợp tác liên Chính phủ với các nước Liên Xô (cũ), CHDC Đức, Bungary, Tiệp Khắc và Ba Lan, cây cà phê bắt đầu được chú trọng đầu tư, đặc biệt ở các tỉnh Tây Nguyên. Năm 1980, Việt Nam xuất khẩu khoảng 6000 tấn cà phê với diện tích khoảng 23 nghìn ha. Bản kế hoạch ban đầu được xây dựng năm 1980 đặt mục tiêu cho ngành cà phê Việt Nam có khoảng 180 nghìn ha với sản lượng 200 nghìn tấn. Sau đó, bản kế hoạch này đã nhiều lần sửa đổi. Các con số cao nhất dừng lại ở mức 350 nghìn ha với sản lượng 450 nghìn tấn (VICOFA, 2002).

Trong thời kỳ từ 1982 đến 1988, cà phê được trồng mới thêm khoảng vài chục nghìn ha. Đến năm 1990, Việt Nam có khoảng 119300 ha. Trong giai đoạn từ 1990 đến 1994, giá cà phê thế giới ở mức rất thấp và diện tích cà phê Việt Nam không thay đổi nhiều, mỗi năm tăng khoảng 10 nghìn ha. Năm 1994, tổng diện tích cà phê Việt Nam đạt 150.000 ha, vẫn chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn (1,32%) trong tổng diện tích các loại cây trồng của Việt Nam (ICARD & Oxfarm, 2002).

Năm 1994, khi sương muối ở Brazil phá huỷ phần lớn diện tích cà phê nước này đã làm cung thế giới giảm mạnh, giá thế giới tăng đột biến. Giá tăng đã khuyến khích người trồng cà phê Việt Nam mở rộng diện tích trồng và tăng thâm canh cà phê. Những người nghèo và đồng bào dân tộc ít người mở rộng diện tích cà phê bằng cách khai hoang, phá rừng.

Diện tích trồng cà phê đã tăng lên nhanh hơn, bình quân 23,9%/năm, đưa tổng diện tích cây cà phê năm 2000 lên đến 516,7 nghìn ha, chiếm 4,14% tổng diện tích cây trồng của Việt Nam, đứng thứ ba chỉ sau hai loại cây lương thực chủ lực là lúa (chiếm 61,4%) và ngô (chiếm 5,7%). Trong thập kỷ 90 thế kỷ XX, sản lượng tăng lên trên 20%/năm (và các năm 1994, 1995, 1996 sản lượng tăng thậm chí còn cao hơn với tỷ lệ lần lượt là 48,5%, 45,8% và 33%). Năm 2000, Việt Nam có khoảng 520 nghìn ha cà phê, tổng sản lượng đạt 800 nghìn tấn. Nếu so với năm 1980, diện tích cà phê của Việt Nam năm 2000 đã tăng gấp 23 lần và sản lượng tăng gấp 83 lần. Mức sản lượng và diện tích vượt xa mọi kế hoạch trước đó và suy đoán của các chuyên gia trong nước và quốc tế. Tăng trưởng cà

3

Page 4: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

phê Việt Nam trong quá khứ chủ yếu dựa trên tăng diện tích, đặc biệt là những năm đầu thập niên 90. Sau đó, tăng năng suất trở thành yếu tố chính đóng góp cho tăng trưởng sản lượng cà phê ở Việt Nam. Tính chung cho cả giai đoạn 1994 - 2002, năng suất đóng góp khoảng 38% tốc độ tăng sản lượng và diện tích đóng góp khoảng 62%. Nghề trồng cà phê ở Việt Nam là một nguồn thu nhập cho một nhóm đông dân cư ở nông thôn, trung du và miền núi. Cà phê đã tạo việc làm cho hơn 600 nghìn nông dân và số người có cuộc sống liên quan tới cà phê trên 1 triệu người. Cà phê chiếm khoảng 8% giá trị sản lượng nông nghiệp khoảng 25% giá trị xuất khẩu nông nghiệp. Đắk Lắk là vùng trồng cà phê lớn nhất của Việt Nam, chủ yếu là cà phê vối với tổng diện tích năm 2004 đạt khoảng 160.000 ha. Việc mở rộng diện tích trồng cà phê cũng chủ yếu diễn ra ở tỉnh này. Đăk Lăk là tỉnh lớn nhất Việt Nam nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên với tổng diện tích tự nhiên khoảng 1,3 triệu ha bao gồm 422 nghìn ha đất nông nghiệp, chủ yếu là đất đỏ Bazan. Khí hậu thời tiết vùng Tây Nguyên đã tạo cho Đăk Lăk điều kiện rất thích hợp để phát triển những loại cây công nghiệp có giá trị hàng hoá lớn như cà phê, cao su, hồ tiêu v.v... Trong giai đoạn 1995 - 2000, cây cà phê là một cây công nghiệp đem lại nhiều lợi ích cho người dân nói riêng và cho cả tỉnh Đăk Lăk nói chung. Do lợi nhuận trồng cà phê cao nên người dân đã giàu lên và có tới hàng chục vạn người từ 61 tỉnh thành Việt Nam đến Đăk Lăk để lập nghiệp, trong đó phần lớn là dân di cư tự do, mở rộng diện tích trồng cà phê (Sở NN&PTNT Đắk Lắk, 2002). Những người dân đi di cư tự do này đã gây ra biết bao khó khăn cho Đăk Lăk trong quản lý nhân hộ khẩu, an ninh trật tự và thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Hàng ngàn vụ tranh chấp đất đai, hàng ngàn vụ vi phạm lâm luật đã xảy ra. Nhiều trường học, cơ sở y tế quá tải.3 Do diện tích trồng cà phê tăng trưởng quá nhanh và nước tưới được xem là yếu tố sống còn cho cây cà phê nên các vườn trồng cà phê ở khu vực này đang phải đối mặt với những dấu hiệu đáng báo động của việc khan hiếm nước tưới cũng như mực nước ngầm (D’haeze, 1999; Ha, 2002). Trong mùa khô, khi cây cà phê đến giai đoạn trổ hoa và ra quả, mỗi ha cà phê cần tới 1500-3000 m³ nước (Luu, 2002; Bau, L.N., 1984). Mặt khác, phân hoá học và thuốc trừ sâu dường như cũng đã được sử dụng quá mức quy định (D’haeze, 1999). Do đất bazal ở Đắk Lắk rất xốp nên các chất dinh dưỡng dễ thẩm thấu xuống nước ngầm, ảnh hưởng đến nước sinh hoạt và về lâu dài có thể ảnh hưởng đến việc nuôi trồng tôm ở vùng đồng bằng. Ngoài ra, giá đầu vào (phân bón và nhiên liệu) cũng đang ngày càng tăng trong thời gian gần đây. Việc sử dụng quá mức những yếu tố đầu vào này do đó không chỉ ảnh hưởng đến môi trường mà còn ảnh hưởng đến kinh tế của hộ gia đình.

3. Mục tiêu của nghiên cứuMục tiêu tổng thểNghiên cứu này được tiến hành nhằm phân tích thực trạng sử dụng các nguồn lực dành cho sản xuất cà phê hiện nay ở hai huyện trồng cà phê điển hình của tỉnh Đắk Lắk. Từ đó, nghiên cứu sẽ xác định những tác động của việc sử dụng nguồn lực này đến môi trường và kinh tế các hộ điều tra.

Mục tiêu cụ thểNghiên cứu nhằm đạt được một số mục tiêu cụ thể như sau:

3 http://www.laodong.com.vn

4

Page 5: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

1. Đánh giá và giải thích việc sử dụng các nguồn lực trong sản xuất cà phê hiện nay ở hai huyện Cu M’gar và Krong Ana thuộc tỉnh Đắk Lắk.

2. So sánh và giải thích việc sử dụng các yếu tố đầu vào này với các tiêu chuẩn địa phương do các viện nghiên cứu và trung tâm khuyến nông đưa ra.

3. Đánh giá tác động môi trường và kinh tế của việc sử dụng các nguồn lực nước, phân bón và thuốc trừ sâu hiện nay.

4. Đưa ra các đề xuất và kiến nghị cho nông dân và hệ thống khuyến nông.

4. Kết cấu bài viếtĐể đạt được các mục tiêu nghiên cứu trên, trong phần giới thiệu chung bài viết trước hết sẽ giới thiệu qua về lịch sử phát triển của cây cà phê Vối ở Việt Nam, giới thiệu tóm tắt về các nghiên cứu trước đây trong lĩnh vực này, trên cơ sở đó nêu ra những lý do phải tiến hành nghiên cứu này. Phần này cũng nêu ra các mục tiêu nghiên cứu chung và cụ thể và đặc biệt nhấn mạnh đến những phương pháp nghiên cứu thu thập số liệu thứ cấp và sơ cấp thông qua phỏng vấn thực địa và tổ chức hội thảo chuyên gia.Trong phần thứ hai, tác giả sẽ mô tả kết quả điều tra để thấy rõ thực trạng sử dụng ba yếu tố đầu vào chính (nước, phân bón và thuốc trừ sâu) cho sản xuất cà phê ở các vùng điều tra.Trong phần thứ ba, bài viết sẽ phân tích các tác động của việc sử dụng những yếu tố này đến môi trường và kinh tế nông hộ.Cuối cùng, bài viết sẽ đề xuất ra một số khuyến nghị về việc sử dụng tối ưu nguồn lực cho hai đối tượng chính: nông dân và hệ thống khuyến nông.

5. Hạn chế của nghiên cứuTrong khuôn khổ của một nghiên cứu nhỏ bị hạn chế về thời gian và nguồn lực, nhóm tác giả chỉ lựa chọn 80 hộ trong 2 huyện điển hình về sử dụng các nguồn lực cho sản xuất cà phê ở Đắk Lắk để thấy được hiện trạng sử dụng hiện nay. Ngoài ra, nghiên cứu cũng không có tham vọng phân tích một cách rất cụ thể về mặt kỹ thuật các tác động của việc sử dụng này đến môi trường. Nhóm tác giả chỉ có thể dựa trên sự so sánh giữa thực trạng sử dụng và các khuyến nghị về việc sử dụng các nguồn lực này của các cơ quan khuyến nông, các Viện nghiên cứu trong vùng và cả những nghiên cứu ngoài nước.

6. Phương pháp nghiên cứu6.1. Biện pháp thu thập số liệua. Thu thập các thông tin, số liệu thứ cấp: chủ yếu là các kết quả nghiên cứu trước đây về các biện pháp kỹ thuật mà các đơn vị nghiên cứu trong và ngoài nước triển khai về việc sử dụng các nguồn đầu vào chính trong sản xuất cà phê. Nguồn thông tin chủ yếu là qua internet, thu viện và các Viện, tổ chức nghiên cứu. Ngoài ra, tác giả cũng thu thập những tờ rơi giới thiệu kỹ thuật trồng và chăm sóc cây cà phê của hệ thống khuyến nông tại tỉnh Đắk Lắk.b. Thu thập số liệu sơ cấp

Lựa chọn địa điểm nghiên cứuNhóm nghiên cứu đã lựa chọn 2 huyện điển hình của tỉnh đắk Lắk, tỉnh sản xuất cà phê vối lớn nhất của Việt nam. Đó là 2 huyện Krong Ana và CưMgar. Năm 2004, tổng diện tích trồng cà phê của tỉnh đạt khoảng 160.000 ha. Trong đó, diện tích trồng cà phê của 2 huyện đạt 52339 ha, chiếm 54% tổng diện tích nông nghiệp của hai huyện.

5

Page 6: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

Hai huyện và 4 xã được lựa chọn điều tra bắt đầu trồng cà phê từ thập kỷ 60 của thế kỷ 20 từ nhiều giống cà phê khác nhau do người Pháp đem vào. Quy mô vườn trồng cà phê lúc đó khoảng 10-20 ha, do các nông trường quốc doanh quản lý. Sau năm 1975, cà phê ở khu vực này không được đầu tư phát triển.

Cho đến tận năm 1980, trong một số vùng thuộc huyện Krong Ana, đặc biệt là hai xã điều tra Ea Tieu and Ea Ktul, các công ty liên doanh Việt - Đức đã được thiết lập và năm 1991 được đổi thành Tổng công ty cà phê Việt Nam, đầu tư phát triển mạnh cà phê ở vùng này. Cà phê ở CuMgar phát triển chậm hơn Krong Ana.

Cách lấy mẫu điều tra hộNhóm nghiên cứu đã lựa chọn 80 hộ nông dân thuộc 4 xã, 2 huyện, mỗi xã 20 hộ. Việc lựa chọn dựa trên tình hình thu nhập của hộ (trong đó phân ra nhóm hộ giàu, hộ nghèo và hộ trung bình). Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng có tính đến vấn đề dân tộc, cố gắng lựa chọn một số hộ dân tộc thiểu số để đưa vào nghiên cứu (số hộ dân tộc thiểu số chiếm 6,25% tổng số mẫu nghiên cứu) . Khả năng tiếp cận với các nguồn lực tự nhiên khác nhau cũng là một tiêu chí được sử dụng để lựa chọn hộ. Chẳng hạn như, nhóm điều tra đã lựa chọn cả các nhóm hộ tiếp cận rất dễ với nguồn nước, do vậy không bị ảnh hưởng nhiều của tình trạng hạn hán và cả các nhóm hộ gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn nước và do vậy bị ảnh hưởng rất lớn của hạn hán năm 2004.

Nội dung bảng hỏi hộ nông dânNhóm nghiên cứu đã tập trung vào một số nội dung chính trong khi lập bảng hỏi điều tra hộ như sau:- Các đặc điểm của hộ: tâp trung vào các đặc điểm của chủ hộ như tên, giới tính, dân tộc, quê gốc, trình độ học vấn, nghề nghiệp trước đây. Ngoài ra, bảng hỏi cũng lấy thêm các thông tin về tổng số thành viên trong gia đình, số lượng người trưởng thành và tổng số thành viên là nông dân. Những thông tin này sẽ cho biết số lượng lao động trong gia đình được huy động vào các sản xuất nông nghiệp, có thể sử dụng để đối chứng với các thông tin được cung cấp trong các phần sau về ngày công lao động trong sản xuất cà phê. Trong phần này, tình trạng hộ giàu, nghèo, trung bình cũng được đề cập đến theo đánh giá định tính của chính chủ hộ, của người đi điều tra và cán bộ địa phương. Thông tin này sau đó sẽ được so sánh với tổng thu nhập của hộ gia đình do nhóm nghiên cứu tính toán để thấy rõ tình trạng của hộ. Thông tin về tình trạng thu nhập của hộ là rất quan trọng để đánh giá mức độ sử dụng các nguồn lực của hộ trong những điều kiện kinh tế khác nhau.- Tình hình sử dụng đất:Bảng hỏi tập trung trước hết vào các thông tin chung về tổng diện tích đất nông nghiệp, đất trồng cà phê trong các mảnh khác nhau. Ngoài thông tin về diện tích, phần này cũng đề cập đến các loại đất, đá mẹ, độ dốc khác nhau trong từng mảnh ruộng. Những thông

6

Biểu đồ 1: Phân loại hộ điều tra (%)

Page 7: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

tin về sản lượng cà phê trong 3 năm, thu nhập của hộ trong 3 năm và tổng ngày công lao động vụ 2003-04 theo từng công đoạn chăm sóc khác nhau (có so sánh với năm 2002-03) cũng được thu thập ở đây nhằm có một bức tranh chung về tình hình sản xuất cà phê. Mặt khác những thông tin về thu nhập và chi phí lao động cũng giúp nhóm nghiên cứu phân tích được tác động của việc sử dụng các nguồn lực đến kinh tế hộ gia đình.- Thông tin về thực trạng sử dụng nước (chỉ tập trung vào 1 mảnh ruộng chính):Phần này đề cập đến các thông tin chung như phương pháp tưới, nguồn nước, số lượng tưới, chu kỳ tưới. Các câu hỏi giành riêng cho phương pháp tưới phun mưa và phương pháp tưới gốc và các thông tin về nguồn nước cụ thể (thuỷ lợi, giếng...), các loại công cụ sử dụng trong tưới nước cũng được nêu ra để tính lượng và chi phí về nước sử dụng thực tế trong sản xuất cà phê của vụ. Ngoài ra, phần này cũng nêu ra các câu hỏi định tính như có đủ nước tưới không, việc thiếu nước tưới có ảnh hưởng như thế nào đến cây cà phê và khó khăn trong việc tưới nước.- Thông tin về việc sử dụng phân bón: phần này tập trung vào các thông tin như số lượng bón trong mỗi lần bón, thời gian bón phân, giá phân bón cho các loại phân khác nhau. Lượng phân bón của các loại cũng được so sánh với mức của năm 2002. Các thông tin về việc chuyên chở phân bón cũng được để cập đến để thấy được tổng chi phí bón phân của các hộ nông dân.- Thông tin về việc sử dụng thuốc trừ sâu: loại thuốc, nhãn hiệu, số lượng phun, thời gian phun và giá thuốc là những thông tin định lượng chính trong bảng hỏi về thuốc trừ sâu. Những thông tin về số lượng phun thuốc cũng được so sánh với năm 2002. Các thông tin về biện pháp sử dụng thuốc phòng trừ sâu bệnh tổng hợp, biện pháp chuyên chở và dự trữ thuốc trừ sâu cũng được đề cập đến nhằm có bức tranh tổng thể về các biện pháp phòng trừ sâu bệnh và tổng chi phí cho việc sử dụng thuốc trừ sâu.- Thông tin về dịch vụ khuyến nông: các thông tin chung về dịch vụ khuyến nông tổng thể, dịch vụ khuyến nông cho từng loại đầu vào sản xuất cà phê đều được đề cập đến trong phần này với những nội dung chính tập trung vào số lần sử dụng trong năm và chi phí sử dụng cho từng nguồn thông tin khuyến nông khác nhau. Phần này cũng nêu ra các câu hỏi định tính như mong đợi của hộ về dịch vụ khuyến nông, đường truyền thông tin khuyến nông ở địa phương...- Câu hỏi mở: một số câu hỏi mở được đề cập ở đây là việc xây dựng kế hoạch chi tiêu cho các đầu vào sản xuất cà phê, mức giá hoà vốn trong sản xuất cả phê vối, và việc sử dụng các nguồn đầu vào này có ảnh hưởng như thế nào đến môi trường xung quanh. Những thông tin này được thu thập để biết được đánh giá của hộ nông dân đối với tác động của việc sử dụng đầu vào đến môi trường và kinh tế hộ. Trên cơ sở đó có thể so sánh với các số liệu định lượng đã lấy được trong các phần trên và ý kiến của chuyên gia về vấn đề này.

Nội dung họp chuyên giaNgoài các bảng hỏi phỏng vấn hộ, nhóm nghiên cứu cũng tổ chức các cuộc họp chuyên gia. Các cuộc họp chuyên gia với các trung tâm khuyến nông tỉnh và 2 huyện phỏng vấn. Nội dung của các cuộc họp này tập trung vào: (i) cơ cấu tổ chức, trình độ cán bộ của trung tâm; (ii) những thông tin chung về việc chuyển giao kỹ thuật trồng và chăm sóc cà phê: kênh nhận thông tin, kênh chuyển giao, đối tượng chuyển giao, hình thức chuyển giao, chi phí chuyển giao...; (iii) các thông tin cụ thể về kỹ thuật sử dụng phân bón (loại phân, thời gian bón cho từng loại đât, tuổi cây, năng suất khác nhau); kỹ thuật sử dụng

7

Page 8: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

thuốc trừ sâu (phương thức phun, thời gian phun cho các loại bệnh và năng suất khác nhau, kỹ thuật sử dụng phương pháp phòng trừ sâu bệnh tổng hợp); kỹ thuật tưới nước.Nhóm nghiên cứu cũng tổ chức họp chuyên gia với các Viện nghiên cứu như Viện Khoa học Kỹ thuật Tây nguyên, Trạm Nghiên cứu đất thuộc Viện Nông hoá Thổ nhưỡng. Các câu hỏi tập trung vào những lĩnh vực sau: (i) cơ cấu tổ chức, trình độ cán bộ, mạng lưới chuyển giao công nghệ của đơn vị; (ii) các thông tin về chuyển giao công nghệ: phương thức chuyển giao, loại thông tin chuyển giao, tần suất chuyển giao, đối tượng chuyển giao, mối quan hệ với các trung tâm khuyến nông; (iii) các thông tin cụ thể kỹ thuật như tỉ lệ lấy chất dinh dưỡng của cà phê Vối ở Tây nguyên, tỉ lệ chất dinh dưỡng thấm xuống đất ở các điều kiện đất, tuổi cây, năng suất khác nhau...

d. Thảo luận về các vật tư/tài liệu sử dụng lấy từ bên ngoài (số liệu tham khảo của WASI, NISF, AEC + nêu rõ độ chính xác của số liệu) 6.2. Các biện pháp phân tích số liệua. Bản đồ sử dụng, nêu rõ tỷ lệ và hệ phóng + nguồn cung cấp bản đồ (tham khảo + ngày)b. Các biện pháp phân tích thống kê (kiểm trình giá trị “t”, biểu đồ định tính, phân tích tương quan, phân tích phương sai ANOVA một chiều).

- Biện pháp kiểm định giá trị “t”, bao gồm hai biện pháp sau:+ Kiểm định giá trị “t” một đuôi: được sử dụng để so sánh xem có sự khác biệt giữa giá trị trung bình của mẫu so với giá trị trung bình đã biết của tổng thể. Chẳng hạn như có thể kiểm định xem lượng nước sử dụng trung bình cho cà phê ở huyện Krong Ana có khác mức nước do Viện Khoa học Nông nghiệp Tây Nguyên (WASI) khuyến cáo hay không.+ Kiểm định giá trị “t” hai đuôi: phương pháp này được sử dụng để kiệm định sự khác biệt giữa hai giá trị trung bình của hai nhóm mẫu thu thập. Chẳng hạn như có thể kiểm định lượng thuốc trừ sâu sử dụng cho huyện Krong Ana có khác huyện CưMgar hay không.

- Biện pháp phân tích phương sai ANOVAPhương pháp được sử dụng để so sánh giá trị trung bình của 3 nhóm mẫu độc lập trở lên. Chúng ta có thể kiểm định xem có sự khác biệt về thống kê của lượng nước sử dụng ở 4 xã. Nếu sắc xuất p value lớn hơn 0,05 thì chúng ta chấp nhận giả thiết Ho, tức là không có sự khác biệt về lượng nước sử dụng cho trồng cà phê ở 4 xã nghiên cứu.

- Phân tích tương quan (Correlation analysis).Phương pháp này dùng để phân tích mối quan hệ giữa hai biến. Chẳng hạn như chúng ta có thể xem xét mối quan hệ giữa tổng thu nhập của hộ và tổng chi phí cho các đầu vào sản xuất cà phê. Mối quan hệ này có thể là dương hoặc âm tuỳ theo từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Ở đây chúng ta có thể sử dụng phương pháp kiểm định Pearson. Giá trị Pearson sẽ chạy trong khoảng -1 đến +1. Nếu giá trị Pearson = -1, mối tương quan là nghịch hoàn toàn. Nếu giá trị Pearson = +1, mối tương quan là thuận hoàn toàn.

8

Page 9: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

PHẦN II: THỰC TIỄN SỬ DỤNG CÁC NGUỒN LỰC NƯỚC, PHÂN BÓN VÀ THUỐC TRỪ SÂU CHO SẢN XUẤT CÀ PHÊ ĐẮK LẮK

1 Mô tả nông hộTại hai huyện điều tra, phần lớn chủ hộ là nam giới, chiếm khoảng 84% tổng số hộ, chỉ có 16% là nữ giới. Trong đó, huyện Krong Ana chỉ có 77% chủ hộ là nam trong khi ở huyện CuMgar, con số này lên tới 90%.Độ tuổi trung bình của chủ hộ được phỏng vấn là khoảng 45 tuổi. 96% nằm trong độ tuổi lao động (nam từ 16 đến 60, nữ từ 16 đến 55). Điều này cho thấy hai huyện điều tra đều có tiềm năng lao động cho sản xuất nông nghiệp.

Độ tuổi phân bố khác biệt đôi chút theo huyện và theo giới. Chủ hộ là nam giới có độ tuổi trung bình 45 trong khi nữ giới là 43. Độ tuổi trung bình chủ hộ ở hai huyện Krong Ana và CuMgar là

43,5 và 46 (xem hình 2 và 3). Tính theo nhóm thu nhập, độ tuổi trung bình của hộ thu nhập cao, trung bình và thấp lần lượt là 46,44 và 47.Trong số các hộ được phỏng vấn, có tới 91% nhập cư từ nơi khác đến, chủ yếu từ miền Trung (Nghệ An, 32%; Quảng Ngãi, 18%, Hà Tĩnh, 14%). Chỉ có huyện Krong Ana là có hộ dân địa phương chính gốc, chiếm khoảng 18% tổng số hộ trong huyện. Trong khi đó, ở CuMgar, tất cả các hộ điều tra đều là dân nhập cư. Tính trung bình, các hộ nhập cư cách đây khoảng 25 năm, đủ dài để định cư và phát triển sản xuất.

Tình trạng nhập cư còn khác biệt theo dân tộc. 75% só hộ dân tộc được phỏng vấn là dân địa phương gốc, chỉ có 1 hộ nhập cư từ Nghệ An cách đây 17 năm

Số thành viên trung bình trong các hộ khu vực điều tra là 5 người/hộ, với 3,4 là người trưởng thành. Ở hai huyện Krông Ana và CuMgar, số thành viên trung bình mỗi hộ lần lượt là 4,5 và 5,4 người, số người trưởng thành là 3 và 3,8 người và trẻ em dưới 16 tuổi là 1,5 và 1,6 người. Điều này cho thấy lực lượng lao động khá dồi dào ở vùng điều tra. Tuy nhiên, nguồn lao động trong khu vực còn phụ thuộc vào số người trưởng thành còn lại trong gia đình tham gia vào hoạt động nông nghiệp. Mặc dù 100% số người được phỏng vấn cho biết

9

Biểu đồ 2: Độ tuổi trung bình chủ hộ phân theo giới

Biểu đồ 3: Độ tuổi trung bình chủ hộ phân theo huyện

Biểu đồ 4: Số thành viên trung bình của hộ và số người trưởng thành phân theo huyện

Biểu đồ 5: Số lượng hộ phân theo nhóm

Page 10: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

trước đây họ tham gia vào sản xuất nông nghiệp nhưng chỉ có 2,4 trong số 5 thành viên hiện nay là nông dân. Điều tra cũng cho thấy, rất nhiều người trưởng thành (đặc biệt là thanh niên) đã ra thành phố lớn làm việc và học tập chứ không ở nhà làm nông nghiệp. Chỉ có lúc thu hoạch khi quá hiếm lao động hoặc chi phí sản xuất quá cao, một số người có thể trở về giúp đỡ gia đình.

Khi phân loại hộ theo nhóm, rất khó để có thể thống nhất các tiêu chí phân hộ giàu, nghèo và trung bình. Nên ban đầu, nghiên cứu chỉ dựa vào quan sát của người điều tra, chính quyền địa phương và nong dân để xác định nhóm hộ. Theo cách phân biệt này, hầu hết các hộ ở đây đều thuộc nhóm hộ trung bình, chiếm 80% trong khi hộ giàu và hộ nghèo chỉ chiếm lần lượt 11 và 9%. Tất cả các hộ dân tộc thiểu số đều thuộc nhóm hộ trung bình. Tuy nhiên, do tiêu chí phân loại không rõ ràng nên trong quá trình phân tích, nhóm nghiên cứu đã chia số hộ điều tra thành 3 nhóm dựa vào thu nhập hàng năm của hộ lấy từ kết quả phỏng vấn, đó là nhóm thu nhập thấp, trung bình và cao. Số lượng hộ trong mỗi nhóm và thu nhập trung bình của hộ được trình bày trong bảng sau.

Bảng 1: Thu nhập trung bình của 3 nhóm hộ (000 đ)

Biến số

Số quan sát %

GT trung bình

Độ lệch chuẩn Min Max

Nghèo 27 33.75 17884 4152 3400 23000Trung bình 27 33.75 31084 5055 23900 43500Giàu 26 32.5 77515 36562 44100 200000

Theo Ngân hàng Thế giới, chuẩn nghèo quốc tế là 1 USD/người/ngày, tương đương với 6 triệu đồng/người/năm. Với số lượng thành viên trung bình trong hộ ở Đắk Lắk là 5 người, thu nhập trung bình của hộ thoát nghèo là phải trên 30 triệu đồng/hộ/năm. Kết quả nghiên cứu cho thấy có tới khoảng 30% số hộ điều tra ở đây có thu nhập dưới 30 triệu/năm, nằm trong mức nghèo thế giới. Nhưng người lại nhóm hộ giàu chiếm 33% có thu nhập rất cao, cá biệt có hộ thu nhập lên tới 200 triệu đồng/năm. Có tới 5% số hộ có thu nhập trên 100 triệu/năm. Điều này cho thấy chênh lệch giàu nghèo ở khu vực này khá lớn. Phỏng vấn nông dân cho thấy, sở dĩ khoảng cách thu nhập khác biệt như vậy phần lớn là do thu nhập từ cà phê tăng đột biến ở một số hộ vào khoảng giữa những năm 90. Sau khủng hoảng, nhiều hộ vẫn duy trì được thu nhập khá, tuy không được như trước nhưng ngược lại, một số hộ còn nghèo hơn trước đây. Ngoài ra, một phần thành viên trong gia đình ra thành phố cũng gửi tiền về nhà, đây cũng là nguồn thu nhập lớn của một số hộ.

Trình độ giáo dục của các hộ điều tra khá thấp. Có tới 55% số hộ mới tốt nghiệp cấp II và 30% tốt nghiệp cấp I. Chỉ có 10% tốt nghiệp cấp III và 1% có bằng đại học. Không có ai tốt nghiệp từ cao học trở lên. Trình độ giáo dục cũng khác biệt giữa các huyện. Krong Ana có trình độ giao dục cao hơn CuMgar với 1 người tốt nghiệp đại học, 1 người có bằng cao đẳng và 7 người tốt nghiệp câp III. Trong khi đó, 62,5% số người điều tra ở CuMgar chỉ tốt nghiệp trường cấp II và 3,7% tốt nghiệp cấp I. Người Kinh (với 59% tốt nghiệp cấp II và không có ai mù chữ) có xu hướng học cao hơn người dân tộc Edê (với 20% người mù chữ và chỉ có 40% tốt nghiệp cấp II). Phụ nữ có trình độ giáo dục cao hơn nam giới chút ít với 55 và 58% nam giới và nữ giới có bằng cấp II và 9 và 15% tốt nghiệp trung học.

2. Tình hình sử dụng đất.Diện tích đất trung bình trên 1 hộ ở hai huyện điều tra khoảng 1,45 ha, trong đó 1,15 ha dành cho sản xuất cà phê, chiếm 79%.

10

Page 11: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

Tình hình sử dụng đất có khác biệt rõ rệt ở hai huyện. Ở Krong Ana, hầu hết đất được giành cho sản xuất cà phê trong khi ở CuMar, chỉ có 68% tổng diện tích đất nông nghiệp giành cho sản xuất cà phê, cho thấy xu hướng đa dạng hoá cao hơn ở huyện CuMgar. Có tới 96% số hộ ở đây đều đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Tình hình sử đụng đất giữa các nhóm hộ cũng khác nhau. Biểu đồ 8 cho thấy hộ có thu nhập càng cao thì càng có xu hướng dành ít đất hơn cho sản xuất cà phê. Trong khi đó, nhóm hộ thu nhập thấp nhất lại giành toàn bộ đất cho sản xuất cà phê, con số này của nhóm hộ trung bình và hộ giàu là 79% và 74%. Mức độ tương quan giữa đa dạng hoá và thu nhập của hộ sẽ được chứng minh bằng thống kê trong phần phân tích cụ thể về thu nhập sau). Diện tích đất của nhóm người Kinh (1,5 ha tổng diện tích đất NN/hộ và 1 ha cho cà phê) có xu hướng cao hơn nhóm dân tộc (0,5 ha/hộ). Tổng diện tích đất trung bình/hộ là 1,45 ha, chia thành 1,7 mảnh, tương đương với 0,85 ha/mảnh. Quy mô đất cà phê cao hơn chút ít 0,875 ha/mảnh.Đất nông nghiệp ở huyện Krong Ana manh mún hơn huyện CuMgar. Như đã đề cập ở trên, hầu hết đất ở Krong Ana dành cho sản xuất cà phê, với diện tích trung bình 0,74 ha/mảnh. Ở CuMgar, quy mô đất trồng cà phê là 1 ha/mảnh và quy mô đất nông nghiệp là 0,93 ha/mảnh.Diện tích đất của các nhóm thu nhập cũng khác nhau. Nhóm thu nhập thấp có quy mô đất nhỏ, 0,6ha/mảnh. QUy mô đất nông nghiệp và đất trồng cà phê của hộ trung bình là 0,75 và 0,77 ha/mảnh, so với quy mô rất cao của hộ thu nhập cao lần lượt là 1,37 và 1,5 ha/mảnh. Điều này phản ánh xu hướng tập trung đất của nhóm thu nhập cao.Tính trung bình, cây cà phê được trồng khoảng 16 năm ở 2 huyện, với cây lâu năm nhất là 25 năm và non nhất là 6 năm. Tuổi cây cà phê ở huyện Krong Ana cao gấp 1,2 lần huyện CuMgar. Như vậy, cà phê ở các hộ điều tra đều đã trưởng thành và già, trồng chủ yếu trên đất đỏ bazal.

11

Biểu đồ 7: Tổng diện tích đất tự nhiên và đất trồng cà phê phân theo (ha/mảnh)

Biểu đồ 6: Tổng diện tích đất nông nghiệp và đất trồng cà phê phân theo loại hộ (ha/mảnh)

Biểu đồ 8: Tuổi cây cà phê phân theo huyện và nhóm hộ (năm)

Page 12: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

3. Thu nhập và chi phí Khác với xu thế tăng sản lượng cà phê liên tục từ giữa thậm kỷ 90 đến năm 2002, kể từ năm 2003 sản xuất cà phê có xu hướng giảm. Có một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Trước hết, khi giá cà phê liên tục giảm từ năm 1998 xuống mức thấp kỷ lục năm 2002, đầu tư vào sản xuất cà phê do đó cũng giảm liên tục. Thứ hai, chính sách của chính phủ cũng khuyến khích giảm diện tích trồng cà phê ở những khu vực không thuận lợi xuống khoảng 450.000 ha trồng cà phê cả nước, điều này cũng khiến sản lượng cà phê giảm theo.

Chính vì vậy sản lượng cà phê năm 2004 ở những vùng này đã giảm 14% so với năm 2003. Năm 2005 sản lượng cà phê ước tính đạt bằng năm 2004 (2.8 tấn/hộ). Tuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều trang trại trồng cà phê, song sản lượng ước tính năm 2005 của vùng điều tra có thể sẽ ngang bằng với năm 2004 do khu vực này có nhiều hộ sinh sống gần nguồn nước, hoặc có nguồn nước tưới ổn định từ hệ thống nước tưới tiêu công cộng.

Nếu phân theo huyện, năng suất cà phê trung bình 3 năm của Krong Ana cao hơn CuMgar, đặc biệt là năm 2003 năng suất cà phê của Krong Ana cao gấp 1,3 lần so với CuMgar. Tuy nhiên, do diện tích đất trồng cà phê trung bình năm 2004 của CuMgar (1,3ha/hộ) cao hơn Krong Ana (1ha/hộ) tổng sản lượng cà phê bình quân hộ của CuMgar vì thế cùng cao hơn so với Krong Ana (3,14 tấn so với 2,95 tấn).

Năng suất cà phê không có sự khác biệt nhiều giữa hộ giàu và hộ trung bình. Tuy nhiên, do diện tích đất trồng cà phê năm 2004 của nhóm hộ giàu cao hơn rất nhiều so với nhóm hộ nghèo (gấp 4 lần) và nhóm hộ trung bình (gấp 2,3 lần) nên tổng sản lượng cà phê bình quân của hộ giàu cao gấp 4,6 lần so với hộ nghèo và 2,1 lần so với hộ trung bình. Năng suất cà phê của hộ nghèo rất thấp, chỉ đạt 2 tấn/ha. Nguyên nhân chính là do mức đầu tư vào cây cà phê của hộ nghèo giảm trước tín hiệu giá cà phê sụt giảm vào cuối thập niên 90.

12

Biểu đồ 9: Sản lượng cà phê (tấn/hộ)

Biểu đồ 11: Năng suất cà phê phân theo huyện (tấn/ha)

Biểu đồ 10: Năng suất cà phê phân theo loại hộ

Page 13: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

Thu nhập

Bảng 2: Tổng thu nhập năm 2003-2004 từ các nguồn khác nhau

Nhìn chung, tổng thu nhập bình quân hộ năm 2004 có cao hơn chút ít so với năm 2003 (chênh lệch khoảng 1,4 triệu VNĐ). Cơ cấu tổng thu nhập không khác nhau nhiều trong hai năm 2003 và 2004. Thu nhập từ sản xuất cà phê chiếm gần 80% tổng thu nhập trong cả hai năm. Chăn nuôi và trồng trọt cũng là những nguồn thu nhập quan trọng, chiếm khoảng 8% tổng thu.

Bảng 3: Nguồn thu nhập phân theo huyệnNguồn thu

nhập Krong Ana CuMgar

2003 2004 2003 2004

 Giá trị (000 đ) %

Giá trị (000 đ) %

Giá trị (000 đ) %

Giá trị (000 đ) %

Cà phê 33123 92.28 29838 90.64 31485 70.58 36399 72.67Lương thực 0 0.00 0 0.00 1341 3.01 1366 2.73Chăn nuôi 1205 3.36 1518 4.61 4451 9.98 4488 8.96Cây trồng khác 0 0.00 0 0.00 6183 13.86 6654 13.28Làm thuê, phi NN 1564 4.36 1564 4.75 1146 2.57 1183 2.36Tổng 35892 100 32920 100 44607 100 50098 100

Tổng thu nhập hộ là rất khác nhau trong 2 huyện. Ở huyện CuMgar, tổng thu nhập hộ trong năm 2004 cao gấp 1,12 lần so với năm 2003, trong khi ở huyện Krong Ana con số này có thấp hơn đôi chút so với năm 2003. Sự khác biệt chủ yếu ở thu nhập từ sản xuất cà phê. Thu nhập từ sản xuất cà phê của CuMgar tăng hơn 2% trong năm 2003-2004 trong khi ở Krong Ana lại bị giảm mất gần 2%. Năm 2003, tổng thu nhập hộ ở huyện CuMgar cao gấp 1,24 lần so với huyện Krong Ana, trong khi đó

#

Nguồn thu nhập

2003 2004Giá trị

(000 d) %Giá trị

(000 d) %1. Cà phê 32283 79.99 33200 79.582. Lương thực 688 1.7 700 1.683. Chăn nuôi 2869 7.11 3040 7.294. Cây trồng khác 3169 7.85 3410 8.175. Làm thuê, phi NN 1350 3.35 1369 3.28

Tổng 40358 100 41719 100

13

Biểu đồ 12: Phân bố thu nhập hộ năm 2004 (%)

Page 14: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

con số này của năm 2004 là 1,52 lần. Thông tin chi tiết về nguồn thu nhập năm 2004 sẽ được phân tích cụ thể ở phần dưới đây.

Phân tích chuyên sâu về các nguồn thu nhập cho thấy cây cà phê vẫn là nguồn thu nhập chính. Tỷ trọng cà phê trong tổng thu nhập năm 2004 của Krong Ana cao hơn CuMgar 18%. Điều này cho thấy sự phụ thuộc rất nhiều của Krong Ana vào sản xuất cà phê, mặc dù sự phụ thuộc này đã giảm dần từ 92,3% năm 2003 xuống còn 90,6% năm 2004.

Tuy nhiên, giá trị tuyệt đối của cây cà phê trong tổng thu nhập huyện CuMgar lại cao gấp 1,22 lần so với huyện Krong Ana. Điều này cho thầy CuMgar có xu hướng đa dạng hóa thu nhập cao hơn Krong Ana. Có thể thấy rõ xu hướng này trong Biểu đồ 11. Thu nhập từ chăn nuôi và trồng trọt của huyện CuMgar chiếm 22.2% năm 2003 và 24% năm 2004, trong khi đó thu nhập từ cây lương thực và các loại cây màu khác ở huyện Krong Ana chỉ là con số không, còn thu nhập từ chăn nuôi thì vẫn còn rất khiêm tốn (lần lượt là 3,4% và 4,6% trong năm 2003 và 2004). Đây cũng là một trong những nguyên nhân giải thích tại sao tổng thu nhập của CuMgar lớn hơn Krong Ana.

Cà phê vẫn là nguồn thu nhập chính trong các nhóm thu nhập. Đóng góp của cà phê trong tổng thu nhập của nhóm hộ nghèo và hộ trung bình cao hơn so với nhóm hộ giàu (lần lượt là 86%, 87% và 75%). Thu nhập từ trồng trọt trong số các hộ nghèo và hộ trung bình là rất thấp (chỉ chiếm 1% và 4%) trong khi ở các hộ giàu con số này khá cao, đạt 15%. Thu nhập từ chăn nuôi của hộ nghèo chiếm tới 10% tổng thu nhập. Điều này cho thấy nhóm hộ giàu có xu hướng đa dạng hoá thu nhập hơn hai nhóm còn lại.

Điều này được giải thích rõ ràng qua bảng phân tích tương quan giữa tổng thu nhập năm 2004 với tỷ trọng diện tích đất trồng cà phê và tổng diện tích đất nông nghiệp của hộ. Kết qủa cho thấy có sự tương quan nghịch giữa hai biến này, với mức ý nghĩa 99% (kiểm định 2 đuôi) và hệ sô biến -0.52, nghĩa là hộ càng giàu thì mô hình sử dụng đất nông nghiệp của hộ càng được đa dạng hóa.

Bảng 4: Tương quan giữa tỉ lệ đất cà phê/đất NN với thu nhập hộ

totincome04 proptotincome04 Tương quan

Pearson 1 -.520(**)

Mức ý nghĩa (2 đuôi) . .000

N 80 80prop Tương quan

Pearson -.520(**) 1

Mức ý nghĩa (2 đuôi) .000 .

N 80 80** Tương quan có ý nghĩa ở mức 0.01 (2 đuôi)

14

Biểu đồ 13: Phân loại thu nhập năm 2004 theo nhóm thu nhập

Page 15: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

Chi phí sản xuất

Trong trường hợp không sử dụng lao động gia ìinh, chi phí sản xuất năm 2004 (khi sử dụng biện pháp tưới phun) là 7.258 đồng/kg, cao hơn so với sử dụng biện pháp tưới gốc (6.589 đồng/kg). Để hiểu được nguyên nhân của sự khác biệt này, có thể tham khảo Chương quản lý nước. .

Bảng 5: Phân bổ chi phí sản xuất cà phê không sử dụng lao động gia đình

# Hạng mục Chi phí (000 đ/tấn)Tưới gốc

(%)Tưới phun

(%)1 PP tưới gốc 2152 32.66  

  PP tưới phun 2821   38.872 Thuốc trừ sâu 208 3.16 2.873 Phân bón 3009 45.67 41.464 Làm cỏ 178 2.70 2.455 Làm luống 85 1.29 1.176 Tỉa cành 212 3.22 2.927 Thu hoạch 603 9.15 8.318 Vận chuyển 141 2.14 1.94

         

 Tổng chi phí-tưới phun 7257 100.00  

 Tổng chi phí-tưới gốc 6588   100.00

Trong số chi phí này, phân bón chiếm tỷ lệ cao nhất khoảng 41%, kế đến là nước tưới (39%) và thu hoạch (8%). Các hoạt động còn lại mỗi thứ chỉ chiếm từ 2%-3%, chủ yếu là chi phí thuê lao động. Chi phí về nước tưới, phân bón và thuốc trừ sâu sẽ được phân tích kỹ trong phần tiếp theo của báo cáo.

Theo một cuộc điều tra do SDC_MISPA tiến hành vào năm 2003, chi phí sản xuất bình quân vào khoảng 8.020 đ/kg, có cao hơn đôi chút so với năm 2004, mặc dù giá phân bón và xăng dầu trong năm 2004 cao hơn năm 2003 (Xem Bảng 6). Sở dĩ như vậy là do cuộc điều tra năm 2003 không tính đến chi phí về đất đai, khấu hao đất đai, vay vốn, thuế sử dụng đất. Do vậy khó có thể so sánh nếu sử dụng các phương pháp tính toán khác nhau.

Bảng 6: Đơn giá các loại phân bón năm 2004

Loại phân bón Đơn giá (d/kg)SA 2761Urea 4354Thermo-Phosphate 1992Super-phosphate 1600KCl 3859NPK 4418Nitrate 3867Lime 3250Manure 286DAP 4200

15

Page 16: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

Loại khác 4433

Trong trường hợp sử dụng lao động gia đình, tổng chi phí lớn hơn rất nhiều. Với biện pháp tưới phun, chi phí là 8.642 đ/kg trong khi với biện pháp tưới gốc chi phí là 8.026 đ/kg. Sự khác biệt giữa hai trường hợp này cho thấy lao động gia đình cũng là một nguồn quan trọng. Lao động gia đình sử dụng để làm cỏ, bảo dưỡng bồn tưới, tỉa thưa, thu hoạch và vận chuyển cũng chiếm tỷ lệ đáng kể. Chi phí lao động gia đình cao nhất là trong tỉa thưa, vận chuyển và thu hoạch, lần lượt chiếm 57%, 55% và 50% tổng chi phí nhân công. Kế đến là chi phí về làm cỏ và bảo dưỡng bồn tưới cây (lần lượt là 47% và 42%).

Bảng 7: Chi phí sản xuất cà phê (có sử dụng lao động gia đình)

# Chi phíChi phí

(000 đ/tấn)Tưới

phun (%)Tưới gốc

(%)1 PP tưới gốc 2321 28.92    PP tưới phun 2936   33.982 Thuốc trừ sâu 209 2.6 2.423 Phân bón 3009 37.49 34.824 Làm cỏ 334 4.16 3.875 Làm luống 147 1.84 1.716 Tỉa thưa 491 6.11 5.687 Thu hoạch 1205 15.01 13.948 Vận chuyển 312 3.89 3.61         

 Tổng chi phí-tưới phun 8643 100.00  

 Tổng chi phí-tưới gốc 8027   100.00

Chi phí sản xuất cà phê khác nhau rất nhiều ở cả hai huyện, trong cả hai trường hợp áp dụng hai biện pháp tưới lẫn chi phí lao động gia đình. Với biện pháp tưới phun, có lao động gia đình, tổng chi phí của Krong Ana cao hơn CuMgar 335 đ/kg. Trong trường hợp không sử dụng lao động gia đình, chênh lệch thấp hơn nhiều (161 đ/kg). Với biện pháp tưới gốc, chênh lệch về tổng chi phí giữa hai huyện là không đáng kể, cho dù chi phí của Krong Ana có cao hơn đôi chút. Trong trường hợp sử dụng lao động gia đình, khoảng cách về chi phí vẫn còn lớn hơn so với khi không sử dụng lao động gia đình, ở mức 136 đ/kg. Qua so sánh ở trên có thể thấy rằng sự khác biệt về chi phí nhân công giữa Krong Ana và CuMgar khi áp dụng biện pháp tưới phun cao hơn so với khi áp dụng biện pháp tưới gốc.

Bảng 8: Chi phí sản xuất cà phê không sử dụng lao động gia đình phân theo huyện (000 đ/tấn)

# Activities

Không sử dụng lao động gia đình

Có sử dụng lao động gia đình

Krong Ana CuMgar Krong Ana CuMgar1 PP tưới gốc 2313.504 2008.698 2511.033 2151.424  PP tưới phun 2984.595 2592.937 3116.929 2683.5482 Thuốc trừ sâu 246 170 246 1703 Phân bón 2836 3244 2836 3244

16

Page 17: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

4 Làm cỏ 208 157 359 3185 Làm luống 67 102 145 1506 Tỉa thưa 178 233 353 5747 Thu hoạch 643 571 1272 11518 Vận chuyển 160 93 397 100             Tổng chi phí-tưới phun 7324 7163 8725 8390  Tổng chi phí-tưới gốc 6653 6579 7922 7715

1.1Thực tiễn tưới nước của các hộ điều tra Nông dân trồng cà phê Đắk Lắk thường sử dụng hai biện pháp tưới nước chính là tưới gốc và tưới phun mưa. tưới phun mưa là biện pháp được áp dụng rộng rãi nhất ở các nước trồng cà phê do rất dễ hoạt động ở những địa hình núi không bằng phẳng. Biện pháp này cũng cho hiệu quả cao do có khả năng tưới nước đều trên các ngọn cây. Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất của biện pháp này là chi phí đầu tư thiết bị rất tốn kém (trị giá của một hệ thống hoàn thiện la fkhoảng 1200 USD/ha cà phê), có nguy cơ bị mất nhiều nước, đặc biệt là trong điều kiện gió mạnh, tốn nhiên liệu do áp lực bơm phải rất khoẻ) (Bau& Hien, 2005).

Ngoài ra, người trồng cà phê cũng áp dụng biện pháp tưới gốc. Biện pháp này có những ưu điểm sau:- Đầu tư ban đầu thấp- Không hao hụt nhiều nước nếu tưới đúng cách- Không tốn nhiều nhiên liệu do không cần áp lực bơm quá khoẻ- Không bị nhiều hao hụt do bay hơi vì nước được tưới trực tiếp vào hệ thống rễ

Biện pháp này cũng có một số nhược điểm như sau:- Đòi hỏi chi phí nhân cộng lớn để vận hành và chăm sóc bồn- Hầu hết các nước sản xuất cà phê đều không muốn dùng biện pháp này bởi vì việc xây

bồn xung quanh từng cây cà phê có thể gây hại đến hệ thống rễ (Bau& Hien, 2005).

Tuy nhiên, có tới 85 % số hộ điều tra áp dụng phương pháp tưới gốc, chỉ có 15% áp dụng phương pháp tưới phun. Tất cả các hộ dân tộc đều áp dụng phương pháp tưới gốc, chỉ có người Kinh áp dụng phương pháp tưới phun.

Số hộ áp dụng biện pháp tưới gốc ở hai huyện không khác nhau nhiều (82 % và 88 % số hộ ở Krong Ana và CuMgar). Lý do khiến cho Krong Ana sử dụng phương pháp tưới phun nhiều hơn là vì nhiều hộ nông dân ở đây ký hợp đồng sản xuất cà phê với các nông trường quốc doanh nên được hỗ trợ chi phí đầu tư trang thiết bị và hướng dẫn phương pháp tưới nước. Tuy nhiên, rất khó có thể rút ra kết luận do số lượng các hộ dùng biện pháp tưới phun mưa rất ít. Chỉ có thể đưa ra kết luận mang tính xu hướng. Điều này có thể thấy rõ phân bổ số hộ áp dụng các biện pháp tưới khác nhau theo các nhóm trong bảng sau.

Bảng 9: Số hộ sử dụng các biện pháp tưới khác nhau trong năm 2004Nhóm Tưới phun Tưới gốcTổng số 12 68Dân tộc    

Kinh 12 63E-đê   5

17

Page 18: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

Huyện    Krong Ana 7 32

CuMgar 5 36Loại hộ    

Nghèo 4 23Trung bình 6 21

Giàu 2 24

Tỉ lệ hộ áp dụng biện pháp tưới gốc không khác nhau nhiều giữa nhóm thu nhập thấp và cao (85 và 92 %). Chỉ có nhóm thu nhập trung bình áp dụng biện pháp tưới phun nhiều hơn hai nhóm còn lại tới 22%. Mặc dù tỉ lệ hộ thu nhập cao áp dụng phương pháp tưới phun ít hơn nhóm có thu nhập thấp và trung bình nhưng đó cũng chỉ là xu hướng như đã trình bày ở trên, số hộ áp dụng biện pháp tưới phun hạn chế.

Các hộ điều tra sử dụng các nguồn nước khác nhau: nguồn nước mặt (bồn chứa nước, công trình thuỷ lợi), và nước ngầm (giếng đào và giếng khoan). Có tới 88 % số hộ dùng nước ngầm (65% giếng đào và 23% giếng khoan). Chỉ có 1,2% số hộ dùng nước từ bồn chứa gần đó và 10% sử dụng nước của các công trình thuỷ lợi. Nguồn nước cũng được chia thành nước công cộng và tư nhân. Hầu hết số hộ đều sử dụng nguồn nước tư nhân (chiếm 85%). Chỉ có 15% số họ sử dụng các công trình thuỷ lợi hoặc nguồn nước công cộng do nhà nước đầu tư.

18

Biểu đồ 15: Tỷ lệ % số hộ áp dụng các biện pháp tưới khác nhau

Biểu đồ 14: Tỷ lệ % số hộ áp dụng các biện pháp tưới khác nhau

Biểu đồ 16: Tỷ lệ % số hộ sử dụng các nguồn nước khác nhau

Biểu đồ 17: % hộ gia đình áp dụng các lần tưới

Page 19: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

Các hộ gia đình điều tra tưới khá nhiều lần trong cả năm 2003 và 2004. Có tới 65 % và 62.5 % số hộ tưới 4 lần trong hai năm 2003 và 2004. Có 1,25% số hộ tưới từ 6 lần trở lên trong 2 năm này. Sở dĩ số lượng tưới trong hai năm không khác nhau nhiều là do cả hai năm này đều là năm khô hạn với lượng mưa trung bình năm 2003 (1,680 mm) chỉ cao hơn năm 2004 chút ít (1,545 mm). Phân tích phân bổ lượng mưa theo tháng cho thấy đối với sản xuất cà phê, năm 2004 là năm khó khăn hơn nhiều do vào những tháng đầu năm và cuối năm khi bắt đầu mùa sản xuất cà phê, ở Đắk Lắk hầu như không có mưa, gây hạn hán lớn, làm giảm khả năng nở hoa của cây cà phê. Theo chuyên gia cà phê, nhìn vào biểu đồ phân bổ lượng mưa của hai năm này, nông dân nên tưới khoảng 2-3 lần vào giữa tháng 1 để kích thích hoa nở khoảng 70-80% và lần thứ

hai vào tháng 2 để kích thích hoa nở nốt 20% còn lại. Đến tháng 3 và tháng 4, ở Đắk Lắk đã bắt đầu có mưa, đủ để quả phát triển. Tuy nhiên, trên thực tế hầu hết các hộ đều tưới từ 4 lần trở lên, gây lãng phí nước nghiêm trọng.

Các nhóm thu nhập áp dụng số lần tưới khác nhau. Nhóm thu nhập cao chỉ tưới 3-4 lần trong năm 2004. Trong số những hộ tưới 3 lần trong năm 2004, nhóm thu nhập cao chiếm tơi 58% so với 23 và 19% của nhóm thu nhập thấp và trung bình. Phân tích độ tương quan cũng cho thấy tương quan

chặt chẽ giữa thu nhập và số lần tưới, với độ tin cậy tới 99% và (Pearson R = -0.317; p < 0.01). Nhóm thu nhập thấp tưới nhiều hơn hai nhóm kia rất nhiều, thậm chí có trường hợp tưới đến 7 lần trong năm 2004.

Lượng nướcTại hai huyện điều tra, hộ nông dân tưới trung bình 820 lít/cây/lần đối với biện pháp tưới gốc và 630 lít/cây/lần đối với biện pháp tưới phun. Thực tế này có vẻ như trái ngược với bản chất của biện pháp tới phun là tốn nhiều nước hơn biện pháp tưới gốc. Nhưng trên thực tế, lượng nước tưới còn phụ thuộc vào nhận thức của hộ nông dân, lượng nước sẵn có và hỗ trợ của các dịch vụ khuyến nông. Như đã đề cập ở trên, phần lớn các hộ sử dụng biện pháp tưới phun ở Krong Ana được hỗ trợ kỹ thuật của các nông trường quốc doanh nên họ áp dụng hiệu quả hơn CuMgar.

Bảng 11: Lượng nước trung bình áp dụng phương pháp tưới khác nhauBiến số Số quan GT trung Sai Min Max

19

Bảng 10: Tương quan giữa số lần tưới trong năm 2004 và nhóm thu nhập Quintiles Irri_times04Income quintiles

Tương quan Pearson 1 -.317(**)

Mức ý nghĩa (2 đuôi) . .004

N 80 80Irri_times04

Tương quan Pearson -.317(**) 1

Mức ý nghĩa (2 đuôi) .004 .

N 80 80** Tương quan có ý nghĩa ở mức 0.01 (2 đuôi)

050

100150200250300350400450500

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

2003

2004

Biểu đồ 19: % hộ gia đình áp dụng các lần tưới nước năm 2004

01020304050607080

3 l?n 4 l?n 5 l?n 7 l?n

Nghèo

TB

Giàu

Biểu đô 18: Biều đồ phân bổ lượng mưa tại Đắk Lắk

Page 20: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

sát bình sốLượng nước/cây-tưới gốc (m3) 68 0.82 0.31 0.48 1.45Lượng nước/năm-tưới gốc (lít/ha) 68 3195 797 2123 5324Lượng nước/năm - tưới phun (lít/ha) 12 2812 601 2000 4275Lượng nước/cây-tưới phun (m3) 12 0.63 0.15 0.38 0.98

Khoảng cách giữa lượng nước tối thiểu và tối đa/cây của hai biện pháp này cũng khác nhau. Đối với các hộ dùng biện pháp tưới gốc, lượng tối thiểu là 480 lít/cây/lần tưới và lượng tối đa là 1450 lít/cây/lần tưới. Đối với hộ dùng biện pháp tưới phun mưa, số liệu này là từ 380 đến 980 lít/lần tưới/cây. Như vậy qua số liệu mô tả có thể thấy biện pháp phun mưa dường như hiệu quả hơn với lượng nước sử dụng ít hơn và khoảng cách giữa các hộ không lớn như các hộ dùng biện pháp tưới gốc.

Lượng nước tưới hàng năm cho biện pháp tưới gốc là 3195.5 m3l/ha/year, lớn hơn nhiều so với hộ dùng biện pháp tưới phun mưa (2812 m3/ha/year). Tuy nhiên, độ giao động về lượng nước sử dụng hàng năm của hộ dùng biện pháp phun mưa (1140 m3-6,480 m3) cao hơn biện pháp tưới gốc (2122.5 m3-5324 m3).

Bảng sau cho thấy sự khác biệt lượng nước sử dụng giữa các biện pháp tưới và giữa hai huyện. Đối với những hộ dùng biện pháp tưới gốc, lượng nước/cây tại Krong Ana thấp hơn rất nhiều so với CuMgar (654 và 959 lít/cây/lần tưới). Tình hình tương tự cũng diễn ra đối với các hộ dùng biện pháp phun mưa nhưng độ chênh lệch thấp hơn giữa hai huyện (610 và 654 lít/cây). Lượng nước hàng năm mà các hộ áp dụng hai biện pháp này ở Krong Âna cũng thấp hơn CuMgar (Bảng 12). Trong số các hộ dùng biện pháp tưới gốc, lượng nước tưới cao hơn ở nhóm thu nhập cao, trung bình và thấp ( 976, 735 và 722 lít/cây). Điều này được minh chứng rõ trong phân tích độ tương quan giữa tổng thu nhập và lượng nước sử dụng trong trường hợp tưới gốc. Tương quan này có ý nghĩa với độ tin cậy tới 99% (Pearson R=0.391, p<0.01).

Bảng 12: Tương quan giữa lượng nước theo phương pháp tưới gốc và thu nhập hộ

totincome04 basin_treetotincome04 Tương quan

Pearson 1 .391(**)

Mức ý nghĩa (2 đuôi) . .001

N 80 68basin_tree Tương quan

Pearson .391(**) 1

Mức ý nghĩa (2 đuôi) .001 .

N 68 68** Tương quan có ỹ nghĩa ở mức 0.01 (2 đuôi)

Lượng nước hàng năm không cho thấy xu hướng như trên do mật độ cây của các nhóm thu nhập khác nhau. Trong khi lượng nước mà các hộ thu nhập thấp sử dụng hàng năm là 3,017 m3/ha thì nhóm thu nhập trung bình chỉ dùng 2,981 m3 và nhóm thu nhập cao dùng hết 3,553 m3. Tuy nhiên, do mật độ cây cà phê ở ba nhóm thu nhập thấp, trung bình vào cao lần lượt là 1116, 1110 và 1124 cây/ha, nên nhóm thu nhập cao có xu hướng dùng lượng nước hàng

20

Page 21: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

năm cho biện pháp tưới gốc nhiều hơn hai nhóm còn lại trong khi nhóm thu nhập thấp lại dùng nhiều nước hàng năm hơn nhóm thu nhập trung bình.

Đối với các hộ dùng biện pháp tưới phun mưa, bức tranh này có khác đôi chút. Nhóm thu nhập cao vẫn dùng lượng nước lớn nhất (795 lít/cây) trong khi nhóm thu nhập thấp (634 lít/cây) dùng nhiều nước hơn nhóm thu nhập trung bình (569 lít/cây). Lượng nước hàng năm mà các hộ sử dụng cho biện pháp này tăng theo thu nhập (1,836, 2,420, and 5,950 m 3 /ha cho 3 nhóm thu nhập thấp, trung bình và cao). Mối quan hệ này có ý nghĩa thông kê ở mức độ tin cậy 95% trong phân tích tương quan giữa thu nhập và lượng nước mà hộ sử dụng (Pearson R=0.391, p<0.05)

Bảng 13: Tương quan giữa lượng nước theo phương pháp tưới phun và thu nhập hộ

totincome04vol_sprinkler_tr

eetotincome04 Tương quan

Pearson 1 .685(*)

Mức ý nghĩa (2 đuôi) . .014N 80 12

vol_sprinkler_tree Tương quan Pearson .685(*) 1

Mức ý nghĩa (2 đuôi) .014 .N 12 12

* Tương quan có ỹ nghĩa ở mức 0.05 (2 đuôi).

Các hộ sử dụng nguồn nước tư nhân dùng nhiều nước hơn các hộ sử dụng nguồn nước công cộng (với chênh lệch cho hai biện pháp tưới gốc và phun mưa là 50 và 70 lít/cây). Điều này là do nguồn nước công cộng chỉ cho phép người dân sử dụng một lượng nước nhất định. Các nông trường quốc doanh hoặc đơn vị cung cấp nước công cộng chỉ mở nguồn nước vài lần một tháng nên nông dân không được sử dụng nhiều như họ muốn.

Bảng 14: Lượng nước sử dụng theo các nhómTưới gốc Tưới phun

Huyện m3/cây lit/ha lít/ha m3/câyKrong Ana 0.654 2909 2163 0.610

CuMgar 0.959 3450 3720 0.654Nhóm thu nhập        

Nghèo 0.722 3017 1836 0.634Trung bình 0.735 2982 2420 0.569

Giàu 0.976 3553 5940 0.795Nguồn nước        

Tư nhân 0.820 3155 3520 0.663Công cộng 0.772 3614 2104 0.594

Khi được hỏi về hiện tượng thiếu nước trong năm 2003 và 2004, hầu hết các hộ đều cho biết năm 2004 thiếu nước hơn năm 2003. Chỉ có 51% số hộ cho biết có đủ nước sử dụng trong năm 2004 trong khi năm 2003 có tới 85% số hộ có đủ nước. Năm 2004, huyện CuMgar thiếu nhiều nước hơn huyện Krong Ana với 46 % và 51 % số hộ thừa nhận thiếu nước tại hai huyện này. 65% hộ thu nhập thấp và trung bình đối mặt với hiện tượng thiếu nước trong khi chỉ có 32% số hộ thu nhập cao thừa nhận khó khăn này. Đặc biệt số hộ sử dụng nguồn nước

21

Page 22: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

tư nhân gặp khó khăn nhiều hơn với 55% số hộ thừa nhận khó khăn này trong khi chỉ có 16% số hộ sử dụng nguồn nước công cộng bị thiếu nước do nguồn nước công cộng lấy từ hệ thống thuỷ lợi có xu hướng bền vững hơn nguồn nước tư nhân khai thác từ nguồn nước ngầm.

Phân tích chi phí tưới nước

Như đã đề cập trong phần phân tích tổng chi phí sản xuất ở trên, chi phí tưới chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng chi phí (tính cả chi phí lao động gia đình). Về lý thuyết, biện pháp tưới phun tốn nhiều nước hơn, điều này giải thích phần nào về chi phí cao hơn. Tuy nhiên, chi phí của mỗi biện pháp không chỉ phụ thuộc vào lượng nước mà còn phụ thuộc vào khoảng cách đến nguồn nước gần nhất, nguồn nước, chi phí đầu tư ban đầu, điều kiện khí hậu của các vùng khác nhau và các điều kiện ưu đãi của chính quyền địa phương (ví dụ như tài nguyên nước công cộng, tư nhân). Việc phân tích chi phí nước tưới ở 80 hộ khác nhau trong nghiên cứu này đã cho thấy rõ thực tế nêu trên.

Trong trường hợp sử dụng lao động gia đình, tổng chi phí nước tưới khi áp dụng biện pháp tưới gốc (2.321 nghìn VND/tấn) thấp hơn 26% so với khi áp dụng biện pháp tưới phun (2.936 nghìn VND/tấn). Hơn nữa, chi phí tưới gốc cũng dao động khá nhiều, từ chi phí tối thiểu là 712 nghìn VND/tấn cho tới hơn 11 triệu VND/tấn. Trong khi đó chi phí tưới phun chỉ dao động từ 1,7 triệu VND/tấn đến 4,2 triệu VND/tấn. Trong biện pháp tưới gốc tỷ lệ cao nhất là chi phí cố định, chiếm gần 70% tổng chi phí. Chi phí cố định được đầu tư khá cao trong biện pháp tưới phun. Điều này phần nào khiến nông dân không muốn áp dụng biện pháp tưới phun, mặc dù họ biết rằng biện pháp này là hiệu qủa hơn so với tưới gốc. Chi phí hoạt động của biện pháp tưới phun còn thấp hơn đôi chút so với tưới gốc (852 so với 928 nghìn đồng/tấn khi sử dụng lao động gia đình) bởi vì tưới phun sử dụng nhân công ít hơn so với tưới gốc.

Trong trường hợp không sử dụng lao động gia đình, chi phí khi áp dụng biện pháp tưới gốc cũng thấp hơn so với khi áp dụng biện pháp tưới phun (lần lượt là 2.152 và 2.821 nghìn VND t-1 ) với độ lệch tiêu chuẩn cũng khác nhau (1.414 và 738 nghìn VND t-1).

Qua phân tích ở trên có thể thấy chi phí tươi phun cao hơn so với chi phí tưới gốc. Tuy nhiên hiện nay biện pháp tưới gốc sử dụng nhiều nước hơn so với biện pháp tưới phun, do vậy trong tương lai nếu người nông dân phải trả tiền nước tưới và tiếp tục áp dụng biện pháp tưới như hiện nay thì chi phí tưới gốc sẽ rất cao. Đây cũng là một yếu tố cần phải xem xét.

Bảng 15: Chi phí tưới (000d/tấn quả)Biến Số hộ TB Sai số Min Max

Tưới gốc - có LĐ gia đình 68 2321 1469 712 11498Tưới phun - có LĐ gia đình 12 2936 779 1669 4261Tưới gốc - ko LĐ gia đình 68 2152 1414 498 10998Tưới phun - ko LĐ gia đình 12 2821 738 1591 3975

Việc phân tích phân bổ chi phí theo các nhóm khác nhau là một vấn đề rất đáng để xem xét. Nhìn chung, chi phí tưới của Krong Ana cao hơn CuMgar, đặc biệt là về chi phía biến đổi. Chi phí cố định của những hộ áp dụng biện pháp tưới gốc ở Krong Ana cao hơn 9% so với ở CuMgar. Chi phí hoạt động ở Krong Ana thậm chí còn cao hơn 22% so với ở CuMgar. Sở dĩ như vậy là vì cả giá nhân công và giá xăng dầu ở Krong Ana (25,2 nghìn đ/người-ngày và 4,5 nghìn đ/lít) đều cao hơn ở CuMgar (24 nghìn đ/người-ngày và 4,5 nghìn đ/lít).

22

Page 23: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

Tất cả các hạng mục chi phí của những hộ sử dụng nguồn nước công cộng đều cao hơn so với các hộ sử dụng nguồn nước tư nhân. Điều này là do trong biện pháp tưới gốc, chi phí lắp đặt ống dẫn nước và bơm nước từ nguồn công cộng đều cao gấp 4 và 1,1 lần so với khi sử dụng nguồn nước tư nhân. Chỉ có chi phí đào giếng và nước tưới công cộng là thấp hơn so với của tư nhân, mặc dù chệnh lệch không nhiều như vậy (chỉ hơn 0,12 và 50 lần) (song cần lưu ý rằng chi phí tưới nước của nguồn nước công cộng và nguồn nước tư nhân chỉ vào khoảng 100 nghìn đ/ha so với 2 nghìn đ/ha, do đó mức chênh lệch 50 lần như vậy không phải là qúa nhiều). Với biện pháp tưới phun, chi phí lắp đặt ống dẫn nước và đào giếng của chủ sở hữu tư nhân cao gấp 1,4 và 8 lần so với của công cộng. Tuy nhiên, chi phí về máy bơm, tưới nước và dụng cụ tưới phun của công cộng đều cao hơn rất nhiều so với của tư nhân. Chi phí nhân công và nhiên liệu không khác nhau nhiều giữa hai nhóm này.

Bảng 16: Chi phí tưới theo nhóm (000 đ/tấn quả)

Các nhóm

Chi phí cố đình Chi phí hoạt động

Tưới gốc Tưới phunCó LĐ

gia đình

Ko LĐ gia

đìnhHuyện        

Krong Ana 1458 2341 1011 823CuMgar 1335 1785 826 690

Nguồn nước        Tư nhân 1317 1980 903 740

Công cộng 2174 2239 993 842

1.2Thực tiễn sử dụng phân bón Bón phân là hoạt động rất quan trọng trong sản xuất cà phê. Có tới 99 % số hộ điều tra cho biết có sử dụng phân bón. Chỉ có 1 hộ ở huyện CuMgar không sử dụng phân bón.

Nông dân sản xuất cà phê ở Dak Lak dùng 11 loại phân. Trung bình, một hộ bón 1140 kg phân cho 1 tấn cà phê quả (tính tổng tất cả các loại phân). Loại phân bón chính được sử dụng là NPK và phân xanh, chiếm tỉ lệ cao nhất trong tổng lượng phân 26.5 % và 33 %. SA, urea, thermo-phosphate, KCl chiếm khoảng 8% trong tổng lượng.

Bảng 17: Lượng phân bón theo loại

Loại phân Lượng (kg/tấn) %SA 102.23 8.96Urea 97.06 8.51Thermo-Phosphate 97.26 8.53Super-phosphate 7.41 0.65KCl 93.63 8.21NPK 301.92 26.48Nitrate 3.74 0.33Vôi 34.43 3.02Phân xanh 375.20 32.90DAP 11.60 1.02Khác 15.83 1.39Tổng 1140.31 100.00

23

Page 24: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

Hộ dân huyện Krong Ana dùng ít phân bón hơn huyện CuMgar (trung bình 1088 kg/tấn hạt và 1191 kg/tấn hạt). Loại phân chủ yếu mà huyện Krong Ana sử dụng là NPK và phân xanh, chiếm 33 và 40 %. Trong khi đó, huyện CuMgar dùng nhiều loại phân hơn như phân xanh, NPK, SA and Thermo-phosphate, chiếm lần lượt 27, 21,11 và 13 % tổng lượng bón.

Bảng 18: Lượng phân bón theo loại, theo huyện

Loại phânKrong Ana CuMgar

Lượng (kg/tấn) % Lượng (kg/tấn) %SA 68 6.25 135 11.34Urea 70 6.43 122 10.24Thermo-Phosphate 40 3.68 152 12.76Super-phosphate 15 1.38 0 0.00KCl 53 4.87 133 11.17NPK 360 33.09 247 20.74Nitrate 8 0.74 0 0.00Vôi 18 1.65 50 4.20Phân xanh 434 39.89 319 26.78DAP 0 0.00 23 1.93Khác 22 2.02 10 0.84Tổng 1088 100 1191 100

Các nhóm thu nhập cũng sử dụng phân bón khác nhau. Nhóm thu nhập cao sử dụng ít phân bón nhất 1061 kg/tấn hạt so với 1240 kg và 1161 kg/tấn hạt của nhóm thu nhập trung bình và thấp. Điều này có thể là do nhóm thu nhập cao có nhiều kiến thức hơn và có nhiều tiền đầu tư ban đầu chăm sóc cây cà phê hơn nên đất tốt, không phải dùng nhiều phân bón. Mặt khác, họ sử dụng chủ yếu là phân hoá học (chiếm tới 40% tổng lượng phân), nên tác dụng với đất mạnh hơn. Trong khi đó, nhóm thu nhập thấp không có nhiều tiền mua phân hoá học nên họ chủ yếu sử dụng chủ yếu là phân xanh (chiếm tới hơn 40% tổng lượng phân).

Bảng 19: Lượng phân bón theo loại, theo nhóm hộ (kg/tấn)

Loại phânNghèo TB Giàu

Lượng % Lượng % Lượng %SA 72 6.21 86 6.91 151 14.83Urea 97 8.34 59 4.77 137 13.45Thermo-Phosphate 79 6.83 66 5.33 148 14.60Super-phosphate 7 0.61 3 0.24 12 1.21KCl 85 7.36 49 3.94 149 14.63NPK 334 28.76 287 23.13 285 28.01Nitrate 0 0.00 2 0.19 9 0.89Vôi 0 0.00 91 7.37 11 1.09Phân xanh 471 40.60 579 46.69 64 6.31DAP 0 0.00 12 0.98 23 2.27Khác 15 1.29 5 0.44 28 2.71Tổng 1161 100 1240 100 1016 100

24

Page 25: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

Lượng phân hoá học cũng được nhóm nghiên cứu phân tích theo phân đơn, đó là đạm (N), lân (P2O5) và Kali (K2O) để đánh giá hiệu quả sử dụng phân bón của nông dân Đắk Lắk.

Tình trung bình năm 2004, lượng bón đạm cao nhất, khoảng 191 kg/tấn so với mức 70 kg/tấn và 173 kg/tấn lượng lân và kali. Khoảng giao động của hai yếu tố đạm và kali cũng cao hơn với giá trị tối thiểu là 75 và 41 kg/tấn và giá trị tối đa là 788 và 1108 kg/tấn, cho thấy biên độ sử dụng phân bón giao động khá lớn trong số 80 hộ điều tra năm 2004.

Bảng 20: Lượng phân bón sử dụng trong sản xuất cà phê 2004(kg/tấn quả khô)

Các yếu tố Số hộ TB Độ lệch Min MaxP 80 69.98 41.81 20.31 304.62N 80 191.28 104.43 75.00 788.31K 80 173.49 136.04 41.03 1107.69

Có thể phân tích xu thế sử dụng các yếu tố này theo từng nhóm dân số như sau. Hộ nông dân ở CuMgar bón nhiều phân hoá học hơn huyện Krong Ana do tổng lượng phân bón của CuMgar cũng lớn hơn Krong Ana theo phân tích ở trên với mức chênh lệch 103 kg phân bón/tấn. Trong số 3 yếu tố này, chênh lệch giữa hai huyện lớn nhất là trong sử dụng Kali với mức chênh 58 kg so với 39 kg và 10 kg của đạm và lân. Mặc dù bón nhiều phân hơn nhưng năng suất của huyện CuMgar cũng không cao hơn so với Krong Ana. Năm 2004, năng suất của Krong Ana cao hơn CuMgar 0,3 tấn/ha. Điều này cho thấy năng suất cà phê không chỉ phụ thuộc vào việc bón nhiều phân mà còn phụ thuộc rất nhiều vào kỹ thuật bón phân hợp lý.

Bảng 21: Lượng phân hoá học theo nhóm (kg/tấn quả khô)

Các nhóm P N KTổng 70 191 173Huyện      

Krong Ana 65 171 144CuMgar 75 210 202

Nhóm thu nhập      Nghèo 64 175 161

TB 63 168 142Giàu 83 232 219

Nhóm thu nhập cao sử dụng lượng dinh dưỡng trong phân nhiều hơn hai nhóm còn lại, đặc biệt là Kali trong khi lượng sử dụng của nhóm thu nhập thấp và thu nhập trung bình chênh lệch không nhiều. Kết quả cho thấy nhóm thu nhập cao sử dụng nhiều phân hoá học hơn nhóm thu nhập trung bình 77 kg và 64 kg đạm và Kali, nhờ thu nhập và đầu tư cây trồng cao của nhóm này.

Chi phí phân bón

Như đã trình bày ở trên, tổng chi phí phân bón ở các huyện điều tra là khoảng 3 triệu đồng/tấn cà phê. Tổng chi phí này không được phân theo hai trường hợp lao động gia đình và không có lao động gia đình mà chỉ tính tổng chi phí lao động.

Các yếu tố cấu thành chi phí phân bón được trình bày trong bảng 22. Trên thực tế, huyện CuMgar (3.2 triệu đ/tấn) trả chi phí phân bón cao hơn huyện Krong Ana (2.8 triệu đ/tấn) do giá một số loại phân ở huyên CuMgar (SA, Thermo-phosphate) cao hơn Krong Ana (với mức chênh

25

Page 26: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

lệch của hai loại phân này khoảng 115 và 710 đ/kg). Mặc dù vậy, chi phí lao động và vận chuyển ở Krong Ana cao hơn CuMgar chút ít nhưng không đủ bù đắp chênh lệch giá.

Tổng chi phí mà hộ thu nhập thấp phải trả cho một tấn cà phê cao hơn hộ thu nhập trung bình (với chênh lệch khoảng 300 nghìn đồng/tấn). Chi phí lao động và vận chuyển của hộ thu nhập thấp cao hơn hai nhóm còn lại do nhóm này có xu hướng sử dụng nhiều lao động vào bón phân hơn hai nhóm còn lại. Ngoài ra, giá phân bón mà hộ thu nhập thấp mua cao hơn chút ít so với hộ trung bình (3330 và 3150 đ/kg).

Bảng 22: Chi phí phân bón theo nhóm (000đ/tấn quả tươi)Các nhóm Mua phân LĐ+vận chuyển Tổng

Huyện      Krong Ana 2705 131 2836

CuMgar 3155 89 3244Nhóm thu nhập      

Nghèo 2760 138 2898TB 2438 108 2546

Giàu 3635 81 3716

1.3Thực tiễn sử dụng thuốc trừ sâu

Có tới 77,5 % số hộ điều tra cho biết có sử dụng thuốc trừ sâu để diệt sâu bệnh gây hại cho cây cà phê. Chỉ có 22,5% số họ hoàn toàn không sử dụng thuộc trừ sâu. Có 7 loại thuốc trừ sâu chính thường được sử dụng để chống lại các loại bệnh và sâu như rệp vừng, vảy nến, kiến và các vi sinh vật khác. Sâu được coi là sinh vật chính có thể được trị bằng nhiều loại thuốc khác nhau như đã trình bày trong bảng 21. Trong số các loại thuốc trừ sâu, nông dân chủ yếu sử dụng Supracide 40EC và Supracide 40FC, chiếm 27 và 29 % tổng số hộ.

Bảng 23: Số hộ sử dụng các loại thuốc diệt trừ sâu bệnh hại khác nhau

 Rệp vừng Rệp sáp Kiến

Loại khác (côn trùng)

Dibamirin 5EC     4 7Supracide 40EC 2 19   4Supracide 40 FC 1 10   16Ofatox       1Suprathion 40EC 4     5Ba Sa     1 17Furadan       2

Việc sử dụng thuốc trừ sâu khác biệt giữa hai huyện. Hầu hết các hộ gia đình Krong Ana sử dụng Dibamirin 5 EV và Supracide 40 FC (chiếm 26.3 và 26.6 % tổng số hộ) trong khi CuMgar chủ yếu sử dụng Supracide 40 EC và BaSa (chiếm 26 và 45 % số hộ).

Bảng 24: Số hộ sử dụng thuốc trừ sâu theo huyện 2004

Thuốc Krong Ana CuMgar

26

Page 27: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

Dibamirin 5EC 10 Supracide 40EC 7 8Supracide 40 FC 15 1Ofatox   1Suprathion 40EC 3 4Ba Sa 3 15Furadan   2

Lượng thuốc trừ sâu

Tính trung bình, mỗi hộ gia đình dùng khoảng 2.60 lít tổng lượng thuốc trừ sâu năm 2004 (với độ lệch 1.53 litres), cao hơn nhiều so với mức 1.3 litres năm 2003. 25 %số hộ cho biết có tăng lượng thuốc trừ sâu do nhận được khuyến cáo của dịch vụ khuyến nông. 75% số hộ cho biết năm 2004, sâu bệnh nhiệu hơn năm 2003 nên phải dùng nhiều thuốc trừ sâu hơn.

Lượng thuốc trừ sâu trung bình mà các nhóm hộ sử dụng cũng khác biệt. Lượng thuốc trung bình giữa hai huyện không khác nhau nhiều trong năm 2004 (2.63 và 2.58 lít ), nhưng năm 2003, Krong Ana sử dụng thuốc trừ sâu ít hơn CuMgar nhiều (0.95 và 1.77 lít). Năm 2004, nhóm có thu nhập trung bình (3.19 lít) dùng nhiều thuốc trừ sâu hơn nhóm thu nhập cao và thấp (2.75 và 1.9 lít/năm). Trong khi đó, năm 2003, nhóm thu nhập cao sử dụng nhiều nhất, sao đó đến nhóm trung bình và thấp.

Bảng 25: Lượng thuốc trừ sâu trung bình năm 2003 và 2004 các nhóm sử dụng (lít)

Nhóm thu nhập Lượng 2004 Lượng 2003Nghèo 1.89 0.65

TB 3.19 1.35Giàu 2.75 1.88

Huyện    Krong Ana 2.63 0.95

CuMgar 2.58 1.77

Chi phí thuốc trừ sâuChi phí mua thuốc trừ sâu trung bình năm 2004 khoảng 208 nghìn đồng/tấn (không tính công lao động gia đình), chiếm khoảng 3 % tổng chi phí sản xuất. Nếu tính thêm lao động gia đình, tổng chi phí chỉ cao hơn chút ít (209 nghìn đồng/tấn). Sở dĩ hai loại chi phí này chênh lệch không nhiều do bản thân chi phí lao động trong tổng chi phí thuốc trừ sâu đã thấp.

Thành phần trong chi phí thuốc trừ sâu được phân tích theo các nhóm dân số trong bảng 26. Kết quả cho thấy chi phí thuốc trừ sâu ở Krong Ana cao hơn CuMgar (với mức chênh lệch 76 nghìn đồng/tấn), trong đó,chi phí lao động chỉ chiếm phần nhỏ trong tổng chi phí (22% ở Krong Ana và 30% ở CuMgar). Chi phí thuốc trừ sâu ở CuMgar cao hơn Krong Ana là do cà phê CuMgar bị nhiễm nhiều sâu bệnh hơn Krong Ana (xem bảng dưới đây về số hộ có cà phê bị nhiễm sâu bệnh)

Bảng 26: Số hộ có cà phê bị nhiễm sâu bệnh

Tên bệnh Krong Ana CumGar

Rệp vừng 2 2

27

Page 28: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

Vảy nến 9 7Kiến 4  Khác (sâu) 23 22

Tổng chi phí thuốc trừ sâu mà nhóm hộ có thu nhập thấp phải trả cao hơn nhóm thu nhập trung bình và cao (256 nghìn VND/tấn so với 210 và 153 nghìn đồng/tấn) do nhóm thu nhập thấp không có nhiều tiền đầu tư ban đầu để chăm sóc cây nên cây bị nhiễm bệnh nhiều hơn và phải trả chi phí cao hơn cho công đoạn này

Bảng 27: Chi phí thuốc trừ sâu các nhóm phải trả (000đ/tấn quả)

Huyện Lao động Mua thuốc Tổng

Krong Ana 55 186 241CuMgar 52 114 166

Nhóm thu nhập      Nghèo 40 217 256

TB 43 167 210Giàu 76 77 153

1.4 Dịch vụ khuyến nôngNhìn chung, dịch vụ khuyến nông được cung cấp khá rộng khắp. Có tới 99% nông dân vùng điều tra đã nhận được dịch vụ khuyến nông trong năm 2004. Hầu hết các dịch vụ này đều do các cơ quan khuyến nông cung cấp cho người dân (chiều từ trên xuống) (chiếm tới 99%). Chỉ có một hộ gia đinh đến gặp cán bộ khuyến nông và hỏi về các biện pháp hỗ trợ. Điều này cho thấy nông dân rất bị động trong việc nhận dịch vụ hỗ trợ. Nếu các cơ quan khuyến nông không chủ động đến và cung cấp dịch vụ, họ cũng không thấy cần thiết phải xin hỗ trợ. Cần thay đổi nhận thức này của dân để họ thấy thực sự cần đến các dịch vụ khuyến nông.

Nhóm nghiên cứu chia dịch vụ khuyến nông thành 3 loại: dịch vụ về nước tưới, phân bón và thuốc trừ sâu.

1.7.1. Dịch vụ khuyến nông cho nước tướiCó tới 70% số hộ phỏng vấn nhận được hỗ trợ kỹ thuật cho việc tưới nước. Có thể thấy rõ số người nhận dịch vụ khuyến nông tại 2 huyện trong hình dưới đây. Trong khi có tới 90% số hộ ở Krong Ana nhận được hỗ trợ về tưới nước thì ở CuMgar chỉ có 55% số hộ nhận được. Đây có thể là lý do vì sau lượng nước sử dụng cho 1 tấn cà phê quả ở CuMgar cao hơn Krong Ana rất nhiều đối với cả những hộ áp dụng phương pháp tưới gốc và tưới phun. Lượng nước tưới cho một cây của các họ sử dụng phương pháp tưới gốc ở hai huyên CuMgar and Krong Ana là 959 và 654 lít. Đối với các hộ sử dụng phương pháp tưới phun, số liệu này là 654 và 610 lít.

28

Biểu đồ 20: Tỷ lệ % các hộ nhận được dịch vụ hỗ trợ tưới nước

Page 29: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

Phân bổ theo nhóm thu nhập cho thấy, nhóm thu nhập thấp và trung bình nhận được hỗ trợ về nước tưới như nhau (chiếm 81.5% tổng số hộ mỗi nhóm), trong khi chỉ có 46% số hộ giàu nhận được dịch vụ này. Điều này có thể giải thích tại sao nhóm hộ thu nhập cao sử dụng lượng nước nhiều nhất (976 lít/cây đối với biện pháp tưới gốc) so với mức 735 and 722 L cây-1 của nhóm hộ thu nhập thấp và trung bình.

Các hộ gia đình nhận hỗ trợ dịch vụ khuyến nông từ 4 đối tượng: hệ thống khuyến nông nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, cửa hàng tư nhân và viện nghiên cứu. Khoảng 68% số hộ nhận hỗ trợ từ trung tâm khuyến nông, 20% từ doanh nghiệp nhà nước, 10% từ viện nghiên cứu và 1,5% từ cửa hàng tư nhân.

Các hộ điều tra cũng được yêu cầu xếp thứ tự chất lượng cho các dịch vụ mà hộ nhận được từ các đối tượng khác nhau. Kết quả cho thấy trong số 45 hộ nhận được dịch vụ từ hệ thống khuyến nông nhà nước, 58% cho rằng dịch vụ này là tốt nhất và 40% cho rằng chất lượng dịch vụ trung bình. Trong số 39 hộ xếp thứ tự dịch vụ tốt nhất cho các đối tượng cung cấp, có tới 67% cho rằng đó là dịch vụ của hệ thống khuyến nông. Trong số 7 hộ nhận được thông tin của các viện nghiên cứu, 86% cho rằng dịch vụ này có chất lượng khá cao. Sở dĩ số lượng hộ nhận thông tin của Viện nghiên cứu ít là bởi vì các viện nghiên cứu không thường xuyên cung cấp dịch vụ trực tiếp cho nông dân, mà chỉ cung cấp qua các dự án. Các viện này chủ yếu là nhiệm vụ nghiên cứu chứ không ứng dụng nhiều (theo WASI). Điều này cho thấy các trung tâm khuyến nông vấn là đơn vị cung cấp dịch vụ chính cho người dân với chất lượng tốt nhất.

Bảng 28:Số hộ nhận được dịch vụ hỗ trợ từ nhiều nguồn khác nhau

Nguồn cung cấp Tần số % Lũy kế       Trung tâm khuyến nông 45 68.18 68.18Doanh nghiệp nhà nước 13 19.7 87.88Viện nghiên cứu 7 10.61 98.48Cửa hàng tư nhân 1 1.52 100       Tổng cộng 66 100  

29

Biểu đồ 21: Tỷ lệ % các hộ nhận được dịch vụ khuyến nông

Biểu đồ 22: Tỷ lệ % các hộ nhận được hỗ trợ kỹ thuật tưới nước

Page 30: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

Bảng 29: Số hộ xếp hạng chất lượng dịch vụ của các cơ quan hỗ trợ khác nhau

Nguồn cung cấp TốtTrung bình Kém

Tổng cộng

         Trung tâm khuyến nông 26 18 1 45Doanh nghiệp nhà nước 7 6 0 13Viện nghiên cứu 6 1 0 7Cửa hàng tư nhân 0 1 0 1         Tổng cộng 39 26 1 66

Theo các hộ nông dân, dịch vụ khuyến nông chỉ được cung cấp nhiều nhất là 2 lần/năm. Trong số 66 hộ nhận được hỗ trợ kỹ thuật về nước tưới, chỉ có 14% nhận được 2 lần/năm. Số còn lại chỉ nhận được 1 lần/năm. Và cũng chỉ có hệ thống khuyến nông và doanh nghiệp nhà nước mới cung cấp dịch vụ tới 2 lần/năm. Viện nghiên cứu và cửa hàng tư nhân chỉ cung cấp 1 lần/năm và cho ít hộ nông dân hơn. Chỉ có 5% số hộ ở huyện Krong Ana nhận được dịch vụ 2 lần/năm, trogn khi số liệu này ở CuMgar là 30%. Nhưng trên thực tế, số hộ nhận được dịch vụ ở CuMgar thấp hơn so với Krong Ana (28 và 45). Mặc dù % số hộ nhận dịch vụ 2 lần/năm thấp hơn, nhưng số lượng tuyệt đối ở Krong Ana cao hơn.

Bảng 30: Số hộ nhận hỗ trợ nhiều lần khác nhau năm 2004

Nguồn cung cấp

Lần hỗ trợ  Tổng cộng1 2

Trung tâm khuyến nông 38 7 45Doanh nghiệp nhà nước 11 2 13Viện nghiên cứu 7 0 7Cửa hàng tư nhân 1 0 1Tổng cộng 57 9 66

Tất cả các dịch vụ khuyến nông về nước tưới đều được cung cấp miễn phí do người nông dân không có thói quen tìm đến cơ quan khuyến nông để xin cung cấp dịch vụ. Nếu không cung cấp

30

Page 31: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

miễn phí hoặc thậm chí không trợ cấp thêm, nông dân thà ở nhà làm vườn chứ không muốn mất thời gian đến tham dự lớp tập huấn bởi lẽ họ cũng chưa nhận thức được tầm quan trọng của dịch vụ này đối với hoạt động sản xuất (theo Trung tâm khuyến nông tỉnh). Chỉ có mót số ít nông dân đến các Viện nghiên cứu và trả tiền tư vấn khi cà phê gặp dịch bệnh nguy hiểm hoặc để phân tích mẫu đất. Chi phí cho một lần phân tích mẫu đất là khoảng 100-120 nghìn đồng. Trong số các đối tượng cung cấp hỗ trợ khuyến nông, chỉ có trung tâm khuyến nông tỉnh tiến hành đánh giá nhu cầu hàng năm của một số nhóm nông dân đại diện, trên cơ sở đó lập kế hoạch hàng năm và xin kinh phí của Trung tâm khuyến nông quốc gia. Trung tâm khuyến nông huyện đã giới thiệu sơ lược phương pháp tưới nước hợp lý thông qua các khoá đào tạo nhưng không hướng dẫn cụ thể việc áp dụng vào những điều kiện khác nhau do họ không đủ cán bộ để đi đến các vùng trồng cà phê. Vì vậy, việc áp dụng các phương pháp này chỉ phụ thuộc vào khả năng tài chính, nguồn nước sẵn có và một số đặc tính của đất theo đánh giá của bản thân người dân. Tuy nhiên, bản thân Trung tâm khuyến nông tỉnh cũng không có tài liệu hướng dẫn về phương pháp tưới nước, lượng tưới và số lần tưới. Có thể các Trung tâm khuyến nông huyện thu thập thông tin từ nguồn khác, không phải Trung tâm khuyến nông tỉnh.

Tổng số hộ nhận được dịch vụ khuyến nông về nước tưới không khác nhau nhiều giữa các nhóm thu nhập với số hộ thu nhập cao, trung bình và thấp lần lượt là 18, 23 và 25. Số hộ được nhận dịch vụ 2 lần/năm cao nhất ở nhóm hộ thu nhập thấp. Điều này cho thấy các cơ quan cung cấp dịch vụ khuyến nông ở tỉnh đã trú trọng nhiều đến nhóm thu nhập thấp.

Bảng 31: Số hộ nhận hỗ trợ nhiều lần khác nhau phân theo nhóm thu nhập

Nhóm thu nhậpLần hỗ trợ Tổng

cộng1 2Nghèo 19 4 23Trung bình 23 2 25Giàu 15 3 18

1.7.2. Dịch vụ hỗ trợ sử dụng phân bón

Trong số 80 hộ điều tra, có tới 77,5% số hộ nhận được dịch vụ khuyến nông về phân bón. Ở cấp huyện, việc cung cấp dịch vụ có sự khác biệt lớn. Ở Krong Ana, 90% số hộ điều tra nhận được hỗ trợ kỹ thuật phân bón trong khi đó con số này ở CuMgar chỉ là 66%. Điều này giải thích tại sao

ở CuMgar, dư lượng phân hoá học và tổng chi phí/tấn cà phê lại cao hơn so với ở Krong Ana.

31

Biểu đồ 23: Tỷ lệ % số hộ nhận được dịch vụ phân bón

Biểu đồ 24: Tỷ lệ % số hộ nhận được dịch vụ phân bón

Page 32: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

Phần mô tả theo nhóm thu nhập cho thấy số hộ nghèo nhận được dịch vụ khuyến nông về phân bón bằng với số hộ trung bình và cao hơn rất nhiều so với số hộ giàu. Điều này lần nữa cho thấy hệ thống khuyên snông chú trọng đặc biệt tới đối tượng nghèo. Tuy nhiên năng suất cà phê của các hộ nghèo (2.6 tấn/ha) vẫn thấp hơn so với hộ trung bình và hộ giàu (tương ứng là 3 và 2,7 tấn/ha). Điều này cũng được chứng minh thông qua phân tích tương quan giữa 2 biến là tổng thu nhập của hộ và năng suất cà phê năm 2004 (p<0.05). Tất nhiên, năng suất cà phê thấp của hộ nghèo còn do nhiều yếu tố khác, không chỉ do hệ thống khuyến nông phân bón, nhưng qua đây có thể rút ra khuyến nghị đối với dịch vụ khuyến nông.

Các hộ điều tra nhận được dịch vụ khuyến nông phân bón từ 5 nguồn khác nhau như trình bày ở Bảng 31. Trong số 5 nguồn dịch vụ, trung tâm khuyến nông nhà nước hỗ trợ tới 60% số hộ. Các doanh nghiệp nhà nước và cửa hàng tư nhân chỉ cung cấp dịch vụ tới 17 và 11% số hộ. Chỉ có 4% số hộ nông dân được hàng xóm tư vấn. Trong số các hộ này, có 10 hộ nhận được hỗ trợ từ 2-3 nguồn thông tin khác nhau.

Bảng 32: Số hộ nhận được dịch vụ từ các cơ quan khác nhau

Nguồn dịch vụ Số hộ % Cộng dồnTrung tâm khuyến nông 45 60.0 60.0Doanh nghiệp nhà nước 13 17.3 77.3Viện nghiên cứu 6 8.0 85.3Cửa hàng tư nhân 8 10.7 96.0Hàng xóm 3 4.0 100.0Tổng cộng 75 100  

Số hộ nhận được dịch vụ từ các nguồn cũng khác nhau giữa Krong Ana và CuMgar. Cả hai huyện đều nhận được nhiều dịch vụ của trung tâm khuyến nông. Chỉ các hộ ở Krong Ana nhận được hỗ trợ từ các doanh nghiệp nhà nước và viện nghiên cứu (chiếm 29% và 17% tổng số trong huyện). Các hộ ở CuMgar nhận được hỗ trợ từ các cửa hàng tư nhân và hàng xóm láng giềng (lần lượt là 27% và 10%). Điều này cho thấy huyện Krong Ana được nhận nhiều dịch vụ của nhà nước hơn huyện CuMgar, nơi không có nhiều dịch vụ khuyến nông nhà nước. Điều này phần nào lý giải tại sao năng suất cà phế của CuMgar thấp hơn so với Krong Ana (tương ứng là 2,6 tấn/ha và 2,93 tấn/ha). Ở hai huyện này, không có nhiều dịch vụ khuyến nông trên các phương tiện thông tin hoặc trên internet, do vậy không có hộ nào nhận được sự hỗ trợ qua các phương tiện này.

Bảng 33: Số hộ nhận được dịch vụ từ các cơ quan khác nhau ở 2 huyện

Nguồn dịch vụ Krong Ana CuMgarTrung tâm khuyến nông 26 19Doanh nghiệp nhà nước 13 Viện nghiên cứu 6

32

Biểu đồ 25: Số hộ nhận dịch vụ phân bón phân theo nhóm thu nhập.

Page 33: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

Cửa hàng tư nhân   8Hàng xóm láng giềng   3

Nhiều hộ điều tra đã xếp hạng chất lượng tốt nhất cho các dịch vụ khuyến nông phân bón mà họ nhận được (chiếm 52%). Có 43% số hộ xếp hạng chất lượng tốt thứ hai cho các dịch vụ và chỉ có 5% số còn lại là chưa thỏa mãn với sự hỗ trợ khuyến nông khi họ xếp hạng thứ ba cho các dịch vụ này. Các trung tâm khuyến nông của nhà nước vẫn được các hộ đánh giá cao khi có tới 34% số hộ xếp hạng chất lượng tốt nhất cho trung tâm khuyến nông, trong khi đó chỉ có 9% xếp hạng chất lượng tốt nhất cho các doanh nghiệp nhà nước và các viện nghiên cứu. Các dịch vụ của cửa hàng tư nhân và hàng xóm láng giềng chỉ được xếp hạng thứ hai và thứ ba. Điều này cho thấy hỗ trợ của khuyến nông nhà nước vẫn được người nông dân đánh giá cao nhất.

Bảng 34: Số hộ xếp hạng dịch vụ phân theo nguồn dịch vụ

Nguồn cung cấpXếp hạng

1 2 3Trung tâm khuyến nông 26 17 2Doanh nghiệp nhà nước 7 6 Viện nghiên cứu 6   Cửa hàng tư nhân   7 1Hàng xóm láng giềng   2 1Tổng cộng 39 32 4

Có tới 91% số hộ chỉ nhận được hỗ trợ khuyến nông một lần duy nhất trong một năm. Chỉ có 8% số hộ được nhận hai lần trong một năm. Số hộ nhận được dịch vụ khuyến nông hai lần một năm từ các trung tâm khuyến nông của nhà nước và từ các cửa hàng tư nhân là bằng nhau (6 hộ). Chỉ có duy nhất 1 hộ nông dân trong một năm hai lần nhận được sự hỗ trợ của các doanh nghiệp nhà nước và của hàng xóm.

Bảng 35: Số hộ nhận được những lần hỗ trợ khác nhau

Nguồn cung cấpSố lần

1 2Trung tâm khuyến nông 39 6Doanh nghiệp nhà nước 12 1Viện nghiên cứu 6 Cửa hàng tư nhân 2 6Hàng xóm láng giềng 2 1Tổng cộng 61 14

Số hộ được hỗ trợ khuyến nông về phân bón không khác nhau nhiều giữa 3 nhóm thu nhập. Trong số 14 hộ điều tra, có tới 6 hộ trung bình và 7 hộ giàu nhận được hai lần hỗ trợ trong một năm. Chỉ có duy nhất 1 hộ nghèo nhận được hai lần hỗ trợ trong một năm. Số hỗ được hỗ trợ hai lần trong một năm ở CuMgar cũng cao hơn ở Krong Ana (13 so với 1), song số hộ được hỗ trợ một lần trong một năm ở Krong Ana lại cao hơn rất nhiều so với ở CuMgar (44 so với 17). Các dịch vụ khuyến nông về phân bón cung được cung ứng miễn phí ở cả hai huyện này.

1.7.3. Các dịch vụ khuyến nông về thuốc trừ sâu.

33

Page 34: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

Trong tổng số các hộ điều tra ở hai huyện, có 90% số hộ nhận được trợ giúp sử dụng thuốc trừ sâu. Trong số này, tất cả các hộ ở Krong Ana đều được hỗ trợ trong khi có tới 20% số hộ ở CuMgar không được hướng dẫn sử dụng thuốc trừ sâu. Điều này là do ở CuMgar cây cà phê không bị ảnh hưởng bởi sâu bệnh hại nhiều như ở Krong Ana, do đó lượng thuốc trừ sâu mà Krong Ana sử dụng cao hơn so với CuMgar (tương ứng là 2,63 so với 2,58 lít) và sự hỗ trợ kỹ thuật cho CuMgar là cũng cần thiết hơn và thu hút được nhiều sự quan tâm của các tổ chức khuyến nông hơn.

Cũng giống như trong hai trường hợp nêu trên, người nghèo cũng được hỗ trợ phương pháp sử dụng thuốc trừ sâu. Có tới 98% số hộ nghèo được trợ giúp về thuốc trừ sâu, trong khi con số này đối với hộ trung bình và hộ giàu chỉ là 92% và 80%. Các hộ nhận được hướng dẫn sử dụng thuốc trừ sâu từ 4 nguồn khác nhau, đó là trung tâm khuyến nông nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, các viện nghiên cứu và các cửa hàng tư nhân. Giống như các loại hình dịch vụ khuyến nông khác, những hướng dẫn về quản lý thuốc trừ sâu chủ yếu đều do các trung tâm khuyến nông cung cấp (chiếm 54% trong tổng số hộ).

Bảng 36: Số hộ nhận được dịch vụ từ các cơ quan khác nhau

Nguồn dịch vụ Tần số %Lũy kế

Trung tâm khuyến nông 44 53.66 53.66Doanh nghiệp nhà nước 13 15.85 69.51Viện nghiên cứu 7 8.54 78.05Cửa hàng tư nhân 18 21.95 100Tổng cộng 82 100  

Huyện Krong Ana nhận được trợ giúp về khuyến nông nhiều hơn CuMgar, tương ứng là 49 hộ so với 33 hộ. Khác với Krong Ana, các hộ ở CuMgar không nhận được bất cứ sự hỗ trợ nào của các doanh nghiệp nhà nước và các viện nghiên cứu. Họ chỉ được tiếp cận với các dịch vụ của trung tâm khuyến nông và các cửa hàng tư nhân.

Bảng 37: Số hộ nhận được dịch vụ phân theo huyện

Nguồn cung cấp Krong Ana CuMgarTrung tâm khuyến nông 25 19Doanh nghiệp nhà nước 13 Viện nghiên cứu 7 Cửa hàng tư nhân 4 14Tổng cộng 49 33

Hộ thu nhập thấp nhận được nhiều hỗ trợ nhất của trung tâm khuyến nông, cho thấy định hướng phục vụ người nghèo của trung tâm. Hộ giàu nhận được hỗ trợ ít hơn từ trung tâm khuyến nông và nhiều hơn từ các cửa hàng tư nhân. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là những thông tin hướng dẫn của các cửa hàng luôn đáng tin cậy như trung tâm khuyến nông hoạt động độc lập không vì mục địch lợi nhuận. Điều này phần nào lý giải một thực tế là mặc dù các hộ giàu sử dụng nhiều đầu vào hơn, nhưng hiệu quả chưa hẳn đã cao hơn các hộ khác.

Bảng 38: Số hộ nhận được dịch vụ phân theo nhóm thu nhập

Nguồn cung cấp NghèoTrung bình Giàu

Trung tâm khuyến nông 18 16 10Doanh nghiệp nhà nước 3 7 3

34

Page 35: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

Viện nghiên cứu 2 2 3Cửa hàng tư nhân 4 3 11Tổng cộng 27 28 27

Chất lượng dịch vụ của trung tâm khuyến nông được hầu hết các hộ (gần 32%) xếp hạng tốt nhất. Có tới 22% số hộ xếp hạng các cửa hàng tư nhận ở vị trí thứ hai. Tất cả các hộ từng nhận được sự hỗ trợ của các viện nghiên cứu đều đánh giá chất lượng dịch vụ của các viện là cao. Đây là một tín hiệu tốt cho thấy chất lượng dịch vụ của các viện nghiên cứu là đáng tin cậy và được người dân đánh giá cao.

Bảng 39: Số hộ xếp hạng dịch vụ phân theo nguồn cung cấp khác nhau

Nguồn cung cấpXếp hạng

1 2 3Trung tâm khuyến nông 26 17 1Doanh nghiệp nhà nước 7 6 Viện nghiên cứu 7   Cửa hàng tư nhân   18 Tổng cộng 40 41 1

Có tới 85% số hộ nhận được hỗ trợ kỹ thuật một lần trong một năm. Chỉ có trung tâm khuyến nông cung cấp hỗ trợ kỹ thuật hai lần trong một năm, chiếm 12% tổng số hộ. Duy nhất có 1 hộ cho biết nhận được hỗ trợ của trung tâm khuyến nông 3 lần trong năm 2004.

Bảng 40: Số hộ nhận được các lần hỗ trợ khác nhau

Nguồn cung cấpSố lần

1 2 3Trung tâm khuyến nông 33 10 1Doanh nghiệp nhà nước 12 1 Các viện nghiên cứu 7   Cửa hàng tư nhân 18   Tổng cộng 70 11 1

Tóm lại, trong những năm gần đây, hệ thống cung cấp dịch vụ khuyến nông tỉnh Đắc Lắc đã được cải thiện đáng kể, đặc biệt chú trọng đến người nghèo. Tuy nhiên, hệ thống vẫn gặp một số khó khăn trở ngại như sau. Một là, hình thức cung cấp dịch vụ khuyến nông vẫn chỉ là những hình thức truyền thống (thông qua các khoá đào tạo), người nông dân vẫn không được tiếp cận các dịch vụ thông qua các phương tiện truyền thông, đặc biệt là truyền hình, đài phát thanh và mạng internet. Hai là, các viện nghiên cứu chưa tham gia chủ động và đầy đủ vào các hoạt động khuyến nông. Phó viện trưởng WASI cho biết hiện nay, viện có một trung tâm khuyến nông nhưng không cung cấp dịch vụ miễn phí, khiến cho người nghèo khó tiếp cận với dịch vụ của viện. Mặt khác, viện không có nhiều mối quan hệ với các trung tâm khuyến nông của tỉnh hay trạm khuyến nông của huyện để chuyển giao công nghệ ứng dụng. Ba là, thông tin khuyến nông chủ yếu do các cơ sở khuyến nông chủ động cung cấp. Người nông dân không chủ động tìm tòi thông tin hoặc sự trợ giúp của các cơ quan khuyến nông này. Bốn là, dịch vụ khuyến nông được cung cấp chủ yếu dưới hình thức các lớp tập huấn. Các loại hình dịch vụ khác như cử cán bộ kỹ thuật xuống tận vườn cà phê của nông dân vẫn chưa đuợc phổ biến nhiều do hạn chế về nhân lực. Các dịch vụ khuyến nông chỉ được cung cấp duy nhất một lần trong một năm.

Trước những khó khăn này, vấn đề đặt ra là liệu người dân có sẵn lòng chịu chi phí khuyến nông hay không? Và họ mong đợi điều gì từ các dịch vụ khuyến nông trong tương lai? Với vấn đề thứ nhất, câu trả lời là có tới 65% số hộ đồng ý trả chi phí khuyến nông trong tương lai, nếu như các

35

Page 36: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

dịch vụ đó đạt yêu cầu. Trong đó, hộ nghèo và hộ trung bình rất sẵn sàng trả phí khuyến nông, trong khi có tới 61,5% số hộ giàu không đồng ý trả.

Bảng 41: Sẵn sàng trả chi phí khuyến nôngTần số % Lũy kế

Sẵn sàng 52 65 65Không sẵn sàng 28 35 100Tổng cộng 80 100  

Với câu hỏi thứ hai về kỳ vọng của người nông dân đối với các dịch vụ khuyến nông, câu trả lời là có 36% số hộ không hề quan tâm tới dịch vụ khuyến nông. Điều này cho thấy các dịch vụ khuyến nông không hề tạo ra được bất cứ giá trị tăng thêm nào cho người nông dân. Có 50% số hộ cho biết họ muốn có thêm các công nghệ mới, trong đó có kỹ thuật quản lý sâu bệnh hại tổng hợp, hướng dẫn sử dụng thuốc trừ sâu và phân bón, kỹ thuật chăm sóc cây cà phê. Chỉ có một hộ nghèo bày tỏ mong muốn hỗ trợ nhiều hơn cho các vùng sâu vùng xa. Việc phân tích theo nhóm thu nhập cũng rất đáng lưu tâm. Nhóm hộ giàu quan tâm nhiều hơn tới sự hỗ trợ về công nghệ mới (các hộ muốn có thêm công nghệ mới chiếm 73% tổng số hộ giàu), trong khi nhóm hộ nghèo lại không hề mong đợi gì từ các dịch vụ khuyến nông, cho dù chính họ là những người nằm trong chương trình hỗ trợ đó (số hộ này chiếm hơn 50% tổng số hộ nghèo).

Bảng 42: Những mong đợi về các dịch vụ khuyến nôngHạng mục Tần số % Cộng gộp

Không mong đợi gì 29 36.25 36.25Cung cấp thường xuyên hơn 10 12.5 48.75Giới thiệu công nghệ mới 40 50 98.75Hỗ trợ cho vùng sâu vùng xa 1 1.25 100Tổng cộng 80 100  

2 Đánh giá tác động môi trường của việc sử dụng các yếu tố đầu vào cho sản xuất cà phê

2.1 Tưới nước

Như đã trình bày ở phần thực tiễn sử dụng nước tưới, tất cả các hộ gia đình trong khu vực điều tra đều có xu hướng sử dụng quá lượng nước được khuyến cáo đối với cả biện pháp tưới gốc và tưới phun. Để chứng minh thống kê, nhóm nghiên cứu đã sử dụng biện pháp kiểm định 1 đuôi t-test để so sánh lượng nước sử dụng/cây với lượng khuyến cáo (390 liters/tree/round) (Dave, 2003). Kết quả tính toán cho thấy đối với cả hai biện pháp tưới, lượng nước sử dụng đều vượt mức, đối với biện pháp tưới gốc, mức vượt trung bình là 315 lít/cây và biện pháp tưới phun là 153 lít/cây. Như vậy, có thể thấy người nông dân sử dụng biện pháp tưới phun vận hành có hiệu quả hơn, trong khi biện pháp tưới phun mưa cho năng suất cao hơn biện pháp tưới gốc (2,9 tấn/ha so với 2,8 tấn/ha)..

Bảng 43: Kiểm định t-test để so sánh lượng nước thực và lượng khuyến cáoBiến Số hộ TB Sai số Độ lệch Độ tin cậy 95%m3/cây-tưới gốc 68 0.815 0.038 0.315 0.739 0.892m3/cây-tưới phun 12 0.628 0.044 0.153 0.531 0.725

Trên thực tế, rất nhiều nông dân được phỏng vấn cho rằng càng dùng nhiều nước thì năng suất cà phê càng cao. Tuy nhiên, chuyên gia đã khuyến nghị rằng cần tránh tưới quá nhiều nước. Hệ rễ cây cà phê ăn sâu lòng đất khoảng 0-30 cm và độ trùm của rễ biến động trong khoảng 0-50

36

Page 37: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

cm. Nếu tưới quá nhiều nước, tầng đất chứa rễ cà phê sẽ bị bão hoà, thừa nước, sau đó sẽ cắm sâu hơn nữa theo chiều của trọng lực, kéo theo vi chất dinh dưỡng của tầng đất phía trên (Dave, 2003).

Ngoài ra, các hộ gia đình Đắk Lăk tưới nước và bón phân cùng một lúc trong những tháng khô hạn. Điều này khiến cho rất nhiều loại phân như Urea, sulfat đạm và KCl dễ dàng bị hoà tan, làm giảm khả năng thẩm thấu của đất, khiến cho hệ rễ khó hấp thu nước, đặc biệt là trong những mùa hạn hán kéo dài (Tiem, 2002).

Để đánh giá tác động môi trường của việc sử dụng nước tưới trong khu vực điều tra, nhóm nghiên cứu đã sử dụng kết quả nghiên cứu của Dave et al (2004) tính cân bằng mực nước ngầm trong vùng Eatul - Dak Lak để xác định lượng nước lãng phí trong quá trình trồng cà phê. Để sử dụng phương pháp của nghiên cứu này, cần giả thiết rằng điều kiện khí hậu và ứng xử của nông dân với sản xuất cà phê ở 2 huyện điều tra giống như vùng Eatul.

Kết quả tính toán cho thấy cân bằng nước ngầm ở vùng điều tra trong điều kiện khí hậu khô đều đạt giá trị âm cho cả hai phương pháp tưới phun và tưới gốc. Trong đó, mực cân bằng ở những nơi áp dụng biện pháp tưới phun thấp hơn nơi áp dụng biện pháp tưới gốc khoảng 6000 lít.

Bảng 44: Mực nước ngầm còn lại trong điều kiện khô hạn

Các yếu tốĐơn

vịTưới gốc Tưới phun

Mực nước ngầm từ mưa Tr lít 27624 27624Mực nước ngầm từ hệ thống tưới Tr lít 7170 7170 Tổng lượng nước ngầm được giữ lại Tr lít 34794 34794Các yếu tố tiêu thụ nước       số lần tưới   3.71 4 số cây/ha   1117 1128 Lượng tưới/cây Lít 815 628 Lượng tưới/vụ Tr lít 34554 28990 Diện tích khu vực ha 10231 10231 Số lượng dân cư   5555 5555 Lượng nước dùng/người Lít 65 65 Tổng lượng nước mất đi Tr lít 34619 29055Dòng chảy Tr lít 15326 15326Mực nước cho phép (nước ngầm giữ lại-dòng chảy) Tr lít 19468 19468Mực nước ngầm còn lại Tr lít -15,151 -9,587

Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng tính toán mực nước ngầm theo biện pháp tưới ở hai huyện khác nhau. Đối với những người sử dụng biện pháp tưới gốc, Krong Ana lãng phí ít nước hơn CuMgar (11 nghìn so với 18 nghìn lít). Đối với những hộ dùng biện pháp tưới phun thì Krong Ana lãng phí hơn CuMgar 1334 lít.

Bảng 45: Mực nước ngầm còn lại trong điều kiện khô hạn theo huyện

Các yếu tố Đơn vị

Tưới gốc Tưới phunKrong Ana CuMgar

Krong Ana CuMgar

Mực nước ngầm từ mưa Tr lít 27624 27624 27624 27624Mực nước ngầm từ hệ thống tưới Tr lít 7170 7170 7170 7170 Tổng lượng nước ngầm được giữ lại Tr lít 34794 34794 34794 34794Các yếu tố tiêu thụ nước           số lần tưới   4.03 3.46 4.14 3.8

37

Page 38: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

số cây/ha   1133 1105 1142 1108 Lượng tưới/cây Lít 654 959 610 654 Lượng tưới/vụ Tr lít 30551 37512 29506 28172 Diện tích khu vực ha 10231 10231 10231 10231 Số lượng dân cư   5555 5555 5555 5555 Lượng nước dùng/người Lít 65 65 65 65 Tổng lượng nước mất đi Tr lít 30616 37577 29571 28237Dòng chảy Tr lít 15326 15326 15326 15326Mực nước cho phép (nước ngầm giữ lại-dòng chảy) Tr lít 19468 19468 19468 19468Mực nước ngầm còn lại Tr lít -11,148 -18,109 -10,103 -8,769

Nhóm hộ có thu nhập cao lãng phí mực nước ngầm nhiều hơn nhóm có thu nhập thấp và trung bình đối với cả hai biện pháp tưới gốc và tưới phun. Nhóm thu nhập trung bình sử dụng biện pháp tưới phun có xu hướng tưới nước hiệu quả nhất với mực nước lãng phí thấp nhất 7269 lít. Điều này cho thấy các dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật cần giúp nhiều hơn nữa cho nhóm có thu nhập cao, chứ không chỉ nhóm thu nhập thấp và người dân tộc.

Bảng 46: Mực nước ngầm còn lại trong điều kiện khô hạn theo nhóm thu nhậpCác yếu tố Đơn

vịTưới gốc Tưới phun

Nghèo TB Giàu Nghèo TB GiàuMực nước ngầm từ mưa Tr lít 27624 27624 27624 27624 27624 27624Mực nước ngầm từ hệ thống tưới Tr lít 7170 7170 7170 7170 7170 7170 Tổng lượng nước ngầm được giữ lại Tr lít 34794 34794 34794 34794 34794 34794Các yếu tố tiêu thụ nước               số lần tưới   3.87 3.86 3.42 4.25 4 3.5 số cây/ha   1124 1110 1116 1110 1147 1105 Lượng tưới/cây Lít 721 735 976 634 568 795 Lượng tưới/vụ Tr lít 32087 32219 38112 30600 26662 31457 Diện tích khu vực ha 10231 10231 10231 10231 10231 10231 Số lượng dân cư   5555 5555 5555 5555 5555 5555 Lượng nước dùng/người Lít 65 65 65 65 65 65 Tổng lượng nước mất đi Tr lít 32152 32284 38177 30665 26727 31522Dòng chảy Tr lít 15326 15326 15326 15326 15326 15326Mực nước cho phép (nước ngầm giữ lại-dòng chảy) Tr lít 19468 19468 19468 19468 19468 19468Mực nước ngầm còn lại Tr lít -12684 -12816 -18709 -11197 -7259 -12054

2.2 Phân bón

Lượng phân bón

Dư lượng phân hoá học được tính bằng cách lấy tổng lượng phân đơn (đạm, lân và kali) trừ đi lượng hấp thụ thực tế của cây. Lượng hấp thụ thực tế được tính bằng cách tham khảo tỉ lệ mỗi yếu tố do cây cà phê hấp thụ (tham khảo tài liệu nghiên cứu của Viện nghiên cứu đất và WASI), sau đó nhân tỉ lệ đó với lượng phân thực tế. Tính toán mức dư thuốc trừ sâu tại vùng điều tra cho thấy dư chất của phân bón khá lớn với mức dư của lân lớn nhất (49 kg/ton quả khô) nhưng với độ lệch thấp nhất (từ -9.1 đến 287 kg). Mức dư của đạm cũng khá cao, 39 kg/tấn quả khô với độ lệch cũng rất cao. Mức dư của kali là thấp nhất, chỉ khoảng 0.5 kg/tấn quả khô nhưng với độ lệch lớn nhất. Điều này cho thấy hộ gia đình trong khu vực điều tra sử dụng lượng phân bón rất

38

Page 39: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

khác nhau. Dư lượng các loại phân hoá học ở huyện CuMgar đều có xu hướng cao hơn so với Krong Ana. Trong đó, dư lượng kali lớn nhất, khoảng 46 kg/tấn qủa khô.

Có nhiều hộ bón phân khá hiệu quả với 6 bón chỉ còn dư từ -10 đến 10 kg lân /tấn cà phê và 9 hộ dư từ -10 đến 10 kg đạm/tấn quả khô. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều hộ bón phân quá thấp (23 hộ bón thiếu trên 10 kg N/tấn quả khô với lượng thiếu trung bình là 93 kg và 37 hộ bón thiếu trên 10 kg K/tấn quả khô với lượng thiếu là 113 kg). Tuy nhiên, đối với những hộ bón thiếu phân hoá học, họ có thể bù đắp bằng phân xanh hoặc các loại chất hữu cơ khác.

Nhưng điều đáng lo ngại là có nhiều hộ bón quá nhiều (48 hộ bón quá 10 kg N/tấn quả khô với lượng dư thừa trung bình là 110 kg, 33 hộ bón thừa 10 kg K/tấn quả khô với lượng dư thừa trung bình là 128 kg và đặc biệt có tới 74 hộ bón thừa trên 10 kg P/tấn quả khô với lượng dư thừa trung bình là 53 kg).

Bảng 47: Yếu tố dinh dưỡng từ phân bón còn dư (kg/tấn quả khô)

Biến Số hộ TB Độ lệch Min MaxP còn dư 80 48.8 43.0 -9.1 287.2K còn dư 80 0.5 173.0 -400.6 965.7N còn dư 80 39.4 137.9 -331.1 663.7

Dư lượng phân hoá học có thể thấy rõ hơn trong hình dưới đây.

Việc phân tích theo nhóm nhận được và không nhận được các dịch vụ khuyến nông cũng cho thấy những hộ nông dân không nhận được dịch vụ khuyến nông sử dụng ít phân hoá học hơn những hộ nhận được hỗ trợ. Phân tích tương quan cho thấy có mối tương quan ý nghĩa giữa dịch vụ khuyến nông và dư lượng phân, ở mức độ tin cậy 95%.

Bảng 48: Phân tích tương quan giữa yếu tố dinh dưỡng phân bón và các dịch vụ khuyến nông

Khuyến

nông PKhuyến

nông NKhuyến

nông KTương quan Pearson 1 0.011 1 0.240 1 0.262Mức ý nghĩa (2 đuôi) . 0.922 . 0.033 . 0.020Tương quan Pearson 0.011 1 0.240 1 0.262 1.000Mức ý nghĩa (2 đuôi) 0.922 . 0.033 . 0.020 .

Phép tương quan có ý nghĩa với độ tin cậy 95%

39

Biểu đồ 26: Dư lượng phân hoá học trong sản xuất cà phê (kg/tấn cà phê)

191

70

173

-152

-21

-173

39.4 48.8

0.5

-200

-150

-100

-50

0

50

100

150

200

250

1 2 3

Tổng yếu tố dinh dưỡng

Lượng được hấp thụ

Phần còn dư

N P K

Page 40: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

Lượng phân vô cơ thực tế sử dụng có thể được so sánh với lượng khuyến cáo của Trạm nghiên cứu thổ nhưỡng Tây Nguyên trong bảng dưới đây.

Bảng 49: Lượng phân bón vô cơ khuyến cáo (N, P2O5, và K2O), kg/ ha/năm

Tuổi câykg ha-1/năm

N P2O5 K2ONăm thứ nhất (cây mới trồng) 60 60 30Năm thứ 2 (đốn lần 1) 120 75 100Năm thứ 3 (đốn lần 2) 150 90 130Năm thứ 4 trở đi (3,5 – 4,0 t hạt xanh) 280 100 300

Nguồn: Lịch & Tuấn, Trạm Nghiên cứu thổ nhưỡng Tây Nguyên

Để có thể so sánh lượng phân bón sử dụng trên thực tế với lượng khuyến cáo, nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương pháp kiểm định giá trị ‘t”. Bảng 47 trình bày kết qủa kiểm định, qua đó cho thấy tất cả các kiểm định giá trị “t” đều có ý nghĩa thống kê, có nghĩa là lượng thực tế sử dụng của cả 3 yếu tố phân bón vô cơ đều cao hơn lượng phân bón khuyến cáo. Tính bình quân, độ lệch chuẩn của đạm là cao nhất (147 kg/ha), trong khi độ lệch chuẩn của lân và kali chỉ là 63 kg. Tuy nhiên, chỉ 63 kg cũng đã gây tổn hại tới môi trường, đặc biệt là hệ thống nước ngầm bao gồm cả nước cho sản xuất nông nghiệp và nước cho sinh hoạt hàng ngày.

Bảng 50: Kiểm định giá trị “t” cho tổng lượng phân bón thực tế sử dụng so với lượng phân bón khuyên cáo (kg/ha)

BiếnSố quan sát

GT trung bình

Sai số chuẩn

Độ lệch chuẩn

Khoảng tin cậy 95%

. t-test tot_P_ha == 100            tot_P_ha 80 119.17 7.10 63.48 105.05 133.30. t-test tot_N_ha == 280            tot_N_ha 80 324.73 16.6 148.1 291.8 357.7. t-test tot_K_ha ==300            tot_P_ha 80 292 19.0 169.9 254.2 329.8Nguồn: Điều tra của IAE (2005)

Số lần bón phân

Năm 2004, các hộ bón phân trung bình khoảng 5,6 lần, cao hơn rất nhiều so với số lần bón khuyến cáo (2 lần). Số lần bón phân ở CuMgar cao hơn chút ít so với ở Krong Ana. Số lần bón phân của nhóm hộ giàu và hộ trung bình cũng cao hơn nhóm hộ nghèo, song sự khác biệt là rất nhỏ như trình bày trong Bảng 48.

Bảng 51: Số lần bón phân theo nhómNhóm Số lần

Tổng 5.6Huyện  

Krong Ana 5.49CuMgar 5.68

Nhóm thu nhập  Nghèo 5.48

40

Page 41: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

TB 5.63Giàu 5.65

Theo khuyến cáo của các chuyên gia cà phê, nên sử dụng phân bón lần đầu vào mùa khô, chủ yếu là phân SA. Tuy nhiên, tại khu vực điều tra, chỉ có 1,6% số hộ bón phân vào tháng 1. Lần bón phân khuyến cáo thứ hai là khi mùa mưa bắt đầu đến, khi đó đã đủ độ ẩm đất. Mùa mưa năm 2004 ở Đắc Lắc bắt đầu vào từ tháng 3 – tháng 4. Tuy nhiên trên thực tế các hộ bón chủ yếu và tháng 5,6 và 7 (chiếm gần 60%), chậm hơn rất nhiều so với thời gian khuyến cáo.

Theo các chuyên gia cà phê, chỉ cần 2 lần bón phân bởi vì sau tháng 3 lượng mưa bắt đầu tăng dần cho tới tháng 9, đủ để cho cây ra hoa, kích thích cây ra cành chuẩn bị cho lần ra hoa thứ hai.

2.3 Thuốc trừ sâu

Như đã phân tích ở trên, nông dân trong vùng điều tra phát hiện được 3 loại bệnh mà họ cho là gây hại đến cà phê, đó là rệp vừng (7.5% số hộ phỏng vấn), vảy nến (31.2%) và kiến (5.4%). Tuy nhiên, kiến không được coi là côn trùng mà chỉ là sinh vật dẫn dụ côn trùng. Điều này cho thấy nông dân chưa có nhận thức đầy đủ về các loại bệnh gây hại cho cây.Nông dân coi tất cả các loại sâu là bệnh khác để sử dụng nhiều thuốc trừ sâu khác nhau nhưng trên thực tế có rất nhiều loại sâu bệnh khác nhau cần được khuyến cáo sử dụng các loại thuốc khác nhau. Họ thậm chí còn không biết gọi tên các loại bệnh vì vậy không biết sử dụng thuốc nào cho loại bệnh nào.Tại Đắk Lắk và các khu vực khác đã có rất nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng có một số loại bệnh phổ biến cây cà phê thường mắc phải như bệnh gỉ sắt, bệnh thối cổ rễ, stem canker, nematodes.... Những loại bệnh này do các vi sinh vật gây ra và rất phổ biễn ở Đắk Lắk. Tuy nhiên, điều tra cho thấy không có nông dân nào đề cập đến các loại bệnh này vì có thể họ không nhận ra các dấu hiệu của bệnh trên cây.Bảng sau đây mô tả việc sử dụng thuốc trừ sâu của nông dân và tác dụng của nó do các nhà nghiên cứu khuyến cáo. Kết quả cho thấy hầu hết nông dân sử dụng thuốc trừ sâu cho các loại bệnh không giống như khuyến cáo của các viện nghiên cứu. Họ thậm chí còn sử dụng sai mục đích, lấy thuốc Basa để diệt kiến nhưng thực tế thuốc Basa dùng để diệt sâu hại.

Bảng : Sử dụng thuốc trừ sâu của nông dân và khuyến cáo của cq nghiên cứuLoại thuốc Nông dân sử dụng Viện nghiên cứuDibamirin 5EC Côn trùng, kiến hại  

Supracide 40EC Rệp vừng, côn trùngRệp vảy, rệp sáp, rệp sáp hại rễ

Supracide 40 FCRệp vừng, rệp sáp, côn trùng Rệp sáp hại rễ

Ofatox Côn trùng  Suprathion 40EC Rệp vừng, côn trùng Rệp vảy, rệp sápBa Sa Sâu, kiến hại SâuFuradan Sâu  

41

Page 42: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Cà phê là một trong những mặt hàng nông sản chính của Việt Nam tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng từ xuất khẩu, tạo công ăn việc làm, hỗ trợ xóa đói giảm nghèo cho nhiều hộ dân trong ngành hàng này, đặc biệt là nông dân và tiểu thương. Từ đầu những năm 90 cho tới năm 1996-1997 cà phê luôn là mặt hàng xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam sau gạo, đưa Việt nam trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trên thế giới sau Brazil. Nhiều hộ ở các vùng trồng cà phê đã nhanh chóng trở nên giàu có trong thời gian này.

Tuy nhiên, việc phụ thuộc qúa nhiều vào thị trường thế giới mà không có các biện pháp hỗ trợ thương mại hiệu qủa đã khiến Việt Nam lâm vào cuộc khủng hoảng cà phê trầm trọng khắp thế giới kể từ năm 1998. Hiện nay mặc dù đã xuất hiện một số tín hiệu tốt trên thị trường cà phê thế giới, song Việt Nam lại đang đối mặt với những thách thức mới để hướng tới phát triển cà phê bền vững.

Các yếu tố đầu vào trong sản xuất cà phê đang gặp nhiều khó khăn. Nước - nguồn nguyên liệu đầu vào rất quan trọng trong sản xuất cà phê đang bị khai thác qúa mức, nhất là trong điều kiện thời tiết ngày càng khô hanh. Giá nhiên liệu đang trên đà gia tăng trên thị trường thế giới cũng như ở thị trường Việt Nam, khiến cho chi phí tưới nước ngày càng trở nên tốn kém. Thêm nữa, giá phân bón và thuốc trừ sâu cũng đang gia tăng trong những năm gần đây, khiến cho chi phí sản xuất cà phê tăng mạnh. Ngoài ra, các dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật cho người sản xuất cà phê tuy đã được cải thiện song không phải lúc nào cũng đáp ứng được đúng yêu cầu đúng đối tượng. Các vấn đề nêu trên khiến cho việc thực hiện nghiên cứu “đánh giá thực tiễn sử dụng các yếu tố đầu vào cho sản xuất cà phê Đắk Lắk” trở nên rất cần thiết. Nghiên cứu sẽ mô tả thực tiễn quản lý tài nguyên (nước, phân bón, thuốc trừ sâu) của người nông dân trồng cà phê, so sánh với những khuyến cáo của các cơ quan nghiên cứu và hệ thống khuyến nông để đưa ra những khuyến nghị chính sách cho cả cấp trung ương và địa phương.

Sau nửa năm thực hiện nghiên cứu, các kết qủa sơ bộ đã cho thấy một bức tranh lý thú về việc sử dụng nguồn tài nguyên trồng cà phê của tỉnh Đắc Lắc, cụ thể như sau:

* Nước tưới:Người nông dân ở 2 huyện Krong Ana và CuMgar chủ yếu sử dụng biện pháp tưới gốc với chi phí đầu tư ban đầu thấp và dễ áp dụng. Chỉ có 15% số hộ áp dụng biện pháp tưới phun với chi phí đầu tư ban đầu rất lớn nhưng hiệu qủa năng suất cà phê rất cao. Kết qủa nghiên cứu cho thấy nông dân sử dụng 815 lít nước/cây nếu áp dụng biện pháp tưới gốc và 630 lít nước/cây nếu sử dụng biện pháp tưới phun. So với khuyến cáo của WASI và của các nhà nghiên cứu khác (Dave, 2003), lượng nước sử dụng của cả hai phương pháp đều cao qúa mức, với chênh lệch là 315 lít/cây đối với biện pháp tưới gốc và 153 lít/cây đối với biện pháp tưới phun. Lượng nước sử dụng của Krong Ana thấp hơn nhiều so với CuMgar, với mức chệnh lêch là 304 lít/cây đối với biện pháp tưới gốc và 43 lít/cây đối với biện pháp tưới phun. Tuy nhiên, năng suất cà phê năm 2004 của CuMgar (2,62 tấn/ha) lại thấp hơn rất nhiều so với của Krong Ana (2,98 tấn/ha). Như vậy, tưới nhiều nước không hẳn đã nâng cao năng suất cà phê, đặc biệt là phân tích thống kê cho thấy lượng nước tưới không có tương quan ý nghĩa với năng suất cà phê.

Lượng nước sử dụng nhiều nhất là ở nhóm hộ giàu (976 lít/cây bằng biện pháp tưới gốc), kế đến là nhóm hộ trung bình (735 lít/cây) và hộ nghèo (722 lít/cây). Sự khác biệt có thể là do nhóm hộ giàu với thu nhập cao hơn nên có điều kiện đầu tư nhiều hơn cho hệ thống nước tưới. Tuy nhiên, năng suất cà phê lại cao nhất ở nhóm thu nhập trung bình (3,02 tấn/ha). Năng suất cà phê của nhóm hộ giàu và hộ nghèo không khác nhau nhiều (lần lượt là 2,67 tấn/ha so với 2,64 tấn/ha). Điều này cũng khẳng định kết qủa phân tích nêu trên, tưới quá nhiều nước đã không nâng cao được năng suất cà phê.

42

Page 43: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

Nghiên cứu cũng xem xét số lần tưới nước của các hộ nông dân địa phương. Kết qủa cho thấy có tới 68% hộ nông dân tưới nước qúa 4 lần trong năm 2004, trong đó có 2% số hộ thậm chí tưới đến 7 lần. Tuy nhiên khi phân tích phân bố lượng mưa năm 2004, các nhà nghiên cứu đã khuyến cáo chỉ nên tưới từ 2-3 lần cho cây cà phê trong năm 2004, đủ để cây cà phê ra hoa ra hạt đúng kích cỡ. Điều này cho thấy hầu hết nông dân đều lạm dụng tưới nước so với số lần tưới khuyến cáo cho năm 2004. Trong các nhóm thu nhập khác nhau, số lần tưới của nhóm hộ giàu ít hơn nhóm hộ trung bình và hộ nghèo. Chỉ có 41% hộ giàu tưới 4 lần, số còn lại chỉ tưới 3 lần, trong khi đó con số này của nhóm hộ nghèo là 70% số hộ tưới 4 lần, thậm chí có 8% số hộ tưới tới 6-7 lần.

Để đánh giá được tác động môi trường đối với nguồn tài nguyên nước trong vùng, nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương pháp từng được các nhà nghiên cứu khác áp dụng để tính toán mực nước ngầm còn lại của lưu vực Eatul. Kết qủa cho thấy mực nước ngầm còn lại luôn luôn âm đối với cả hộ tưới phun lẫn hộ tưới gốc, song mực nước ngầm của những hộ áp dụng phương pháp tưới phun thấp hơn so với tưới gốc. Mực nước ngầm còn lại ở huyện Krong Ana cao hơn so với huyện CuMgar khi sử dụng biện pháp tưới gốc và thấp hơn khi sử dụng biện pháp tưới phun. Mực nước ngầm còn lại của nhóm hộ giàu bao giờ cũng thấp hơn so với hai nhóm kia trong cả hai biện pháp tưới nước.

Đánh giá tác động kinh tế của việc sử dụng nước đối với sản xuất cà phê được thực hiện bằng phương pháp phân tích chi phí. Khi sử dụng biện pháp tưới phun, tổng chi phí tưới nước luôn cao hơn khi sử dụng biện pháp tưới gốc. Trong đó, chi phí cố định của biện pháp tưới phun cao hơn rất nhiều so với biện pháp tưới gốc. Chi phí hoạt động của biện pháp tưới phun vẫn còn thấp hơn chút ít so với biện pháp tưới gốc, bởi vì phương pháp tưới phun sử dụng ít lao động hơn phương pháp tưới gốc. Chi phí khi sử dụng lao động gia đình cũng cao hơn rất nhiều so với khi không sử dụng lao động gia đình, cho thấy lao động gia đình cũng là một nguồn quan trọng trong sản xuất cà phê. Với những hộ áp dụng biện pháp tưới gốc, chi phí cố định và chi phí hoạt động của Krong Ana cao hơn CuMgar 9% và 22%. Sở dĩ như vậy là do cả chi phí nhân công và chi phí nhiên liệu ở Krong Ana đều cao hơn ở CuMgar.

Tất cả các hạng mục chi phí của những hộ sử dụng nguồn nước công cộng đều cao hơn so với các hộ sử dụng nguồn nước tư nhân. Sở dĩ như vậy là do khi sử dụng biện pháp tưới gốc, chi phí về ống dẫn nước và máy bơm nước từ nguồn nước công cộng cao gấp 4 lần và 1,1 lần so với khi sử dụng nguồn nước tư nhân. Với biện pháp tưới phun, giá máy bơm và giá thiết bị phun nước, tưới nước của nguồn nước công cộng đều cao hơn rất nhiều so với nguồn nước tư nhân. Chi phí nhân công và nhiên liệu không khác nhau nhiều giữa hai nhóm này.

Hiện nay, chi phí tưới phun cao hơn chi phí tưới gốc. Tuy nhiên, lượng nước dùng cho biện pháp tưới gốc cao hơn rất nhiều so với tưới phun. Như vậy nếu trong tương lai, nông dân phải trả phí sử dụng nước thì chi phí tưới gốc sẽ chắc chắn cao hơn rất nhiều. Điều này cho thấy hiện nay người nông dân chưa áp dụng đúng phương pháp tưới gốc, làm ảnh hưởng lớn đến mực nước ngầm.

* Phân bón

Có tới 99% hộ điều tra xác nhận đã từng sử dụng phân bón. Chỉ có 1 hộ ở CuMgar chưa bao giờ sử dụng. Người sản xuất cà phê của Đắc Lắc sử dụng 11 loại phân bón khác nhau. Nhìn chung, mỗi hộ sử dụng khoảng 1.140 kg phân bón/tấn cà phê. Các hộ ở Krong Ana sử dụng phân bón ít hơn so với CuMgar. Hộ giàu sử dụng lượng phân bón ít nhất, tức là khoảng 1.061 kg/tấn cà phê so với 1.240 kg và 1.161 kg/tân của nhóm hộ trung bình và hộ nghèo trong năm 2004, nhưng hộ giàu lại sử dụng nhiều phân hóa học nhất.

43

Page 44: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

Nhóm nghiên cứu cũng tính toán lượng dinh dưỡng từ phân bón. Các hộ sản xuất cà phê bón nhiều đạm nhất, với sự khác biệt lớn về lượng phân bón trong số 80 hộ điều tra trong năm 2004.

Các hộ ở huyện CuMgar sử dụng phân hoá học nhiều hơn so với các hộ ở Krong Ana. Tuy nhiên, trên thực tế năng suất cà phê năm 2004 của Krong Ana (2,9 tấn/ha) còn cao hơn 0,3 tấn/ha so với của CuMgar (2,6 tấn/ha). Do vậy, năng suất cà phê không chỉ phụ thuộc vào lượng phân bón, mà còn phụ thuộc vào kỹ thuật trồng cà phê hiệu qủa. Nhóm thu nhập cao sử dụng nhiều phân hoá học hơn nhóm thu nhập thấp và trung bình, đặc biệt là Kali.

Để có thể đánh giá được tác động môi trường của việc sử dụng phân bón, nhóm nghiên cứu đã tính toán dư lượng phân hoá học đơn. Kết qủa cho thấy mức dư của 3 yếu tố đều rất lớn, nhiều nhất là lân, kế đến là đạm và kali với độ lệch chuẩn rất lớn, qua đây cho thấy lượng phân bón sử dụng giữa các hộ là rất khác nhau. Nhiều hộ sử dụng rất hiệu qủa, trong khi một số hộ khác lại sử dụng qúa ít hoặc qúa nhiều phân bón.

Để đánh giá tác động đến môi trường, nhóm nghiên cứu đã so sánh lượng phân hoá học thực tế sử dụng với lượng phân bón khuyến cáo, tất cả đều cho thấy dư lượng rất lớn, làm tổn hại tới môi trường, ví dụ như nước ngầm, trong đó có cả nước phục vụ sản xuất nông nghiêp và nước sinh hoạt hàng ngày.

Nông dân ở hai huyện bón phân trung bình 5,6 lần năm 2004, cao hơn rất nhiều so với mức khuyến cáo của các chuyên gia cà phê là 2 lần trong năm 2004. Số lần bón phân ở CuMgar có cao hơn đôi chút so với ở Krong Ana và cao hơn ở nhóm hộ giàu so với nhóm hộ trung bình và hộ nghèo.

* Thuốc trừ sâu:

Có tới 77,5% số hộ cho biết đã sử dụng 7 loại thuốc trừ sâu khác nhau để trị các loại bệnh do rệp, bọ sáp, kiến và các loại sinh vật khác gây ra. Tính trung bình một hộ trong năm 2004 đã phun 2,60 lít thuốc trừ sâu các loại. Con số này cao hơn nhiều so với 1,3 lít của năm 2003 do sâu bọ hại năm 2003 không nhiều như năm 2004. Lượng thuốc trừ sâu trung bình năm 2004 không khác nhau nhiều giữa Krong Ana và CuMgar. Nhóm thu nhập trung bình (3,19 lít năm 2004) sử dụng nhiều thuốc trừ sâu hơn nhóm hộ giàu và hộ nghèo (2,75 lít và 1,9 lít/năm).

Nhìn chung, người nông dân ở vùng điều tra đã phân biệt được 3 loại bệnh hại cây cà phê, đó là rệp (7,5% trong tổng số hộ điều tra), vảy nến (31,2%) và kiến (5,4%). Tuy nhiên kiến không được xem như một loại sâu bệnh hại, mà chỉ là một loài truyền bệnh. Hơn nữa, người nông dân coi tất cả các loại bệnh khác đều là sâu bọ. Nhiều người không biết tên cụ thể của loại bệnh, do vậy họ không biết nên sử dụng loại thuốc trừ sâu nào cho loài bệnh gì. Hầu hết các loại thuốc trừ sâu mà nông dân sử dụng để trị các loại bệnh đều không được các viện nghiên cứu khuyến cáo sử dụng để trị những căn bệnh cây đó.

Như vậy, các viện nghiên cứu và cơ sở khuyến nông cần hợp tác chặt chẽ, thường xuyên hơn để cung cấp kiến thức cho nông dân về các loại bệnh gây hại phổ biến cho cây cà phê và các biện pháp phòng trừ, đặc biệt là nhóm dân nghèo do họ không có khả năng đầu tư nhiều vào chăm sóc cây cà phê ngay từ đầu

* Dịch vụ khuyến nông

Ở vùng điều tra khi có tới 99% số hộ điều tra đã nhận được các dịch vụ khuyến nông trong năm 2004, các hộ ở Krong Ana nhận được nhiều hơn các hộ ở CuMgar. Hầu hết các dịch vụ khuyến nông đều được cung cấp từ các cơ quan khuyến nông cho người nông dân và đây cũng là các dịch vụ có chất lượng tốt nhất. Tất cả các dịch vụ khuyến nông đều được cung cấp miễn phí. Người nghèo được hưởng ưu đãi nhận trợ giúp về khuyến nông. Đặc biệt là nhận thức của người nông dân về tầm quan trọng của khuyến nông cũng đang được nâng lên khi có tới 65% số

44

Page 45: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

hộ đồng ý trả chi phí khuyến nông trong tương lai nếu như các dịch vụ khuyến nông đó đạt yêu cầu chất lượng.

Tuy nhiên, vẫn còn những khó khăn và hạn chế trong các hoạt động khuyến nông. Thứ nhất, loại hình cung cấp dịch vụ vẫn chỉ là những loại hình truyền thống, người nông dân vẫn chưa tiếp cận được với các dịch vụ qua các phương tiện truyền thông, đặc biệt là truyền hình, đài phát thanh và mạng internet. Thứ hai, các viện nghiên cứu chưa chủ động tham gia vào việc chuyển giao công nghệ cho hệ thống khuyến nông. Thứ ba, vẫn còn thiếu sự hỗ trợ khuyến nông hai chiều. Thứ tư, các dịch vụ khuyến nông được cung cấp chủ yếu dưới hình thức các lớp tập huấn và chỉ diễn ra một năm một lần.

KHUYẾN NGHỊ* Cho Bộ và chính quyền địa phương- Thường xuyên theo dõi và đánh giá việc sử dụng các yếu tố đầu vào để đưa ra khuyến nghị kịp thời- Thiết lập cơ chế quản lý thống nhất trong ngành cà phê nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối với ngành và đặc biệt là mối quan hệ giữa viện nghiên cứu và hệ thống khuyến nông thông qua các hình thức:

+ Các Viện nghiên cứu phải báo cáo kết quả nghiên cứu hàng năm cho Bộ và từ đó Bộ có thể chuyển giao lại cho các đơn vị khác và hệ thống khuyến nông.

+ Tạo nên cơ chế chuyển giao thông tin lẫn nhau giữa hai hệ thống nghiên cứu và khuyến nông, chẳng hạn như có thể đưa vào hợp đồng nghiên cứu hoặc quyết định giao kế hoạch hàng năm một điều khoản về chuyển giao công nghệ. Cách làm đó cũng rất hữu hiệu trong việc đánh giá ngay tính thực tiễn và hiệu quả của kết quả nghiên cứu.- Thường xuyên thu thập kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước (đặc biệt qua tổ chức ICO) và chuyển giao qua hệ thống khuyến nông.- Mở rộng các hình thức phổ biến thông tin như TV, báo, bưu điện, bảng thông báo, truyền thanh địa phương, internet.- Các vấn đề về tài chính: hỗ trợ tài chính cho các hoạt động khuyến nông và khoa học cần được điều chính theo các hướng sau:

+ Kinh phí cần được cấp dựa trên yêu cầu từ dưới lên. Hệ thống khuyến nông và nghiên cứu phải lập kế hoạch dựa trên thực tiễn sản xuất và những khó khăn nông dân mắc phải. Điều này yêu cầu phải có hệ thống giám sát đánh giá và giám sát tốt để kịp thời điều chỉnh các yêu cầu và nhiệm vụ nghiên cứu.

+ Thời gian lập kế hoạch và thông qua kế hoạch cần được rút ngắn. Trên thực tế, có đơn vị nghiên cứu ở Đắk Lắk phải chờ đến hơn 2 năm để được thông qua kế hoạch. Đến lúc đó, tính thời sự và cấp thiết của nghiên cứu đã giảm đi rất nhiều.

+ Cần giao quyền tự chủ tài chính cho khuyến nông và nghiên cứu thông qua hình thức khoán kinh phí đề các đơn vị có thể điều chỉnh đáp ứng yêu cầu thực tế và đặc biệt có thể trả lương cao hơn cho các cán bộ nghiên cứu và khuyến nông. Cần giành một quỹ linh hoạt để các đơn vị này có thể sử dụng trong các trường hợp cấp thiết như thiên tai, sâu bệnh...

* Đối với hệ thống khuyến nông và các viện nghiên cứu- Tăng số lần cung cấp dịch vụ: kỹ thuật cho các vấn đề tưới, bón phân và thuốc trừ sâu cần được hỗ trợ thường xuyên hơn và đúng thời điểm. Hiện nay, hệ thống khuyến nông chỉ mới cung cấp dịch vụ cho một nhóm nông dân khoảng 1 lần một năm, không đủ để nông dân tiếp nhận, thực hành kỹ thuật. Vì vậy, dịch vụ này cần ddwowcj cung cấp thường xuyên hơn, đặc biệt là vào những thời điểm quan trọng như trước vụ sản xuất, trong trường hợp thiên tai hoặc sâu bệnh.- Tăng cường thông tin hai chiều: Cần khuyến khích và có hình thức khuyến khích nông dân phản hồi về những thông tin nhận được. Trên thực tế, hệ thống khuyến nông không phải lúc nào cũng đáp ứng đúng yêu cầu thực tế của dân. Nếu nông dân không được trao đổi thống tin thông qua phản hồi, họ sẽ không thể nêu ra những vấn đề vướng mắc trên đồng ruộng. Kết quả nghiên cứu cho thấy không có nông dân nào phản hồi lại về tác dụng của thông tin và những khó khăn

45

Page 46: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

của họ. Điều này cũng khiến cho việc đánh giá hiệu quả của khuyến nông rất khó và nhiều khi chỉ là một chiều.- Mở rộng đối tượng cung cấp dịch vụ: nghiên cứu cho thấy hệ thống khuyến nông hiện nay đã chú ý đến đối tượng dân nghèo, thu nhập thấp. Tuy nhiên trên thực tế, nhóm dân thu nhập cao lại sử dụng đầu vào quá mức khuyến cáo rất nhiều. Vì vậy, hệ thống khuyến nông nên trú trọng cả nhóm dân này. Ngoài ra cũng cần cung cấp thông tin cho các cửa hàng, người buôn bán phân bón và thuốc trừ sâu vì chính họ đưa ra rất nhiều khuyến cáo cho nông dân khi bán sản phẩm.- Mở rộng kênh cung cấp thông tin: Hỗ trợ kỹ thuật không chỉ được cung cấp bằng các hình thức truyền thống như tổ chức lớp hộ, mô hình đầu bờ mà nên được mở rộng bằng các hình thức khác như vừa học vừa làm, tổ chức phổ biến tại mô hình trình diễn giỏi, in tờ roi bằng nhiều thứ tiến khác nhau (Kinh và dân tộc), thông qua TV, báo đài...- Cần cung cấp dịch vụ đáp ứng yêu cầu thị trường: Điều này đặc biệt quan trọng để giúp khuyến nông và nghiên cứu đáp ứng được yêu cầu của người buôn bán, chế biến và tiêu dùng. Để làm được như vậy, cần thường xuyên cập nhật nghiên cứu yêu cầu kỹ thuật về sản phẩm của các đối tượng này trong nước và quốc tế (thông qua các diễn đàn quốc tế).- Cho phép hệ thống khuyến nông và nghiên cứu thu phí tư vấn khuyến nông. Điều này sẽ giúp nông dân tôn trọng và tuân theo chỉ dẫn. Tuy nhiên, để làm được điều này, các dịch vụ cung cấp phải được chuẩn hoá, đa dạng, hướng tới thị trường và linh hoạt...

* Đối với nông dânNhững khuyến cáo cụ thể tới người dân sẽ được cung cấp chi tiết và đầy đủ thông qua hệ thống khuyến nông và các đơn vị nghiên cứu. Trong khuôn khổ báo cáo này, nhóm tác giả chỉ đưa ra những khuyến nghị rất chung:- Cần nhận thức rằng không phải tưới nhiều nước là sẽ khiến năng suất cà phê tăng cao. Trên thực tế, tưới quá nhiều nước có thể làm mất cân bằng mực nước ngầm và có thể ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất nếu tưới nước không đúng lúc, làm tăng chi phí sản xuất nhất là khi giá nhiên liệu tăng đột biến như hiện nay. Mức tưới khuyến cáo hiện nay là khoảng 400 lít trong trường hợp năm ít mưa như 2004. Số lần tưới nước cũng không nên quá nhiều, chỉ nên khoảng 2-3 lần vào giữa tháng 1 và cuối tháng 2, tuỳ thuộc vào việc phân bổ lượng mưa.- Việc bón phân hợp lý cũng là cách để tránh ô nhiễm môi trường (đặc biệt là nguồn nước sinh hoạt), tránh lãng phí chi phí, ảnh hưởng xấu tới chất lượng và an toàn thực phẩm của cà phê trong trường hợp nhiều dư chất. Nông dân chỉ nên bón lượng phân hợp lý theo khuyến cáo N: 280 kg/ha, P2O5: 100 kg/ha và K2O: 300 kg/ha. Chỉ nên bón phân lần đầu vào mùa khô, chủ yếu là phân SA, lần thứ hai khi mùa mưa bắt đầu đến.- Sử dụng thuốc trừ sâu hợp lý cũng đóng vai trò rất quan trọng để giúp nâng cao chất lượng và đáp ứng các yêu cầu an toàn thực phẩm. Nông dân nên trú trọng nhiều hơn đến các khuyến cáo của khuyến nông để nhận biết được loại bệnh và phương pháp cứu chữa.- Nông dân cũng nên cung cấp các thông tin phản hồi cho hệ thống khuyến nông và nghiên cứu về những hỗ trợ kỹ thuật nhận được.

46

Page 47: ASSESSMENT OF WATER, FERTILIZER AND …ipsard.gov.vn/OUTLOOK2009/OutlookCD/Final_report_VN(28... · Web viewTuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báu và cộng sự, training profile on irrigation for coffee in daklak, WASI 1/20052. Báu và Dave D’Haeze, Technical Training of Trainers-Pest & Disease

management, Dự án PPP 3. Dave D’Haeze, Over_Irrigation for Coffee canephora in the Central Highlands of

Vietnam revisited simulation of soil moisture dynamics in Rhodic Ferralsols, 3/ 2003

4. Đoàn Triệu Nhạn và cộng sự, Cây cà phê ở Việt Nam, 19995. Hoang Thanh Tiem, physical characteristics of coffee, 20006. ICARD & Oxfam, Tác động của tự do hoá thương mại đến người trồng cà phê,

20037. Lịch và Tuấn, Bón phân cho cà phê vối ở Đắk Lắk, Trạm Nghiên cứu đất Tây

Nguyên.8. MISPA, Báo cáo tổng quan ngành hàng cà phê Việt Nam, 20049. Sở Nông nghiệp và PTNT Đắk Lắk, Báo cáo năm 2002.10. Tin giá Reuters, 2004-200511. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2004, 200512. Tổ chức nông lương thế giới-FAO, Số liệu nông nghiệp, 2005

http://www.laodong.com.vn

47