phÁp luẬt vỀ bẢo vỆ quyỀn lỢi cỦa ngƯỜi gỬi tiỀn
Post on 12-Mar-2023
0 Views
Preview:
TRANSCRIPT
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
HUỲNH ANH
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2010
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
HUỲNH ANH
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60.38.50
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THANH BÌNH
TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2010
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sỹ Nguyễn Thanh Bình. Luận văn có kế thừa
các tư tưởng, kết quả nghiên cứu của những người đi trước.
Mọi thông tin, số liệu được sử dụng trong Luận văn là trung thực và có trích
dẫn nguồn đầy đủ.
TP. Hồ Chí Minh, ngày ….. tháng 11 năm 2010
Tác giả
Huỳnh Anh
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHTG : Bảo hiểm tiền gửi
NGT : Người gửi tiền
NH : Ngân hàng
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
TCTD : Tổ chức tín dụng
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1 - Tính cấp thiết của đề tài ...............................................................................................1
2 - Tình hình nghiên cứu đề tài .........................................................................................3
3 - Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu ...............................4
4 - Các phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu ....................................................................5
5 - Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài .......................................................5
6 - Kết cấu của luận văn ....................................................................................................6
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI
CỦA NGƢỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG ....... 7
1.1. Tổ chức tín dụng và hoạt động của tổ chức tín dụng .......................................... 7
1.1.1. Khái quát về tổ chức tín dụng ...................................................................................7
1.1.2. Các hoạt động của tổ chức tín dụng .........................................................................9
1.2. Khái quát tiền gửi ................................................................................................. 16
1.2.1. Khái niệm tiền gửi ...................................................................................................16
1.2.2. Các hình thức tiền gửi .............................................................................................17
1.3. Vai trò của tiền gửi ............................................................................................... 19
1.3.1. Đối với người gửi tiền .............................................................................................19
1.3.2. Đối với tổ chức tín dụng .........................................................................................20
1.3.3. Đối với nền kinh tế ..................................................................................................21
1.4. Ngƣời gửi tiền tại các tổ chức tín dụng ............................................................... 24
1.4.1. Khái quát về người gửi tiền ....................................................................................24
1.4.2. Phân loại chủ thể gửi tiền .......................................................................................25
1.5. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của ngƣời gửi tiền ....................................... 27
1.5.1. Xuất phát từ yêu cầu đảm bảo sự bình đẳng giữa tổ chức tín dụng và người gửi
tiền. ..........................................................................................................................28
1.5.2. Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền từ những rủi ro của hoạt động tài chính ngân
hàng .........................................................................................................................29
1.5.3. Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền góp phần đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức
tín dụng ...................................................................................................................30
1.5.4. Thông qua hoạt động cung cấp dịch vụ, tổ chức tín dụng có thể gây thiệt hại
cho người gửi tiền ...................................................................................................31
1.6. Những quyền lợi của ngƣời gửi tiền cần đƣợc bảo vệ ....................................... 32
1.6.1. Quyền được tạo thuận lợi khi gửi tiền và rút tiền. ..................................................32
1.6.2. Quyền được trả đầy đủ, đúng hạn gốc và lãi mọi khoản tiền gửi...........................33
1.6.3. Quyền được đảm bảo bí mật thông tin tiền gửi (số dư tài khoản, số tài
khoản,...), an toàn tài khoản. ..................................................................................34
1.6.4. Quyền được cung cấp thông tin về tiền gửi: lãi suất, số dư,... ...............................37
1.6.5. Quyền định đoạt tiền gửi, để lại di sản thừa kế ......................................................38
1.6.6. Quyền được bảo hiểm chi trả khi tổ chức tín dụng gặp rủi ro ...............................39
1.6.7. Quyền khởi kiện tổ chức tín dụng có hành vi vi phạm hợp đồng đã cam kết theo
quy định của pháp luật. ...........................................................................................39
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA
NGƢỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN ....................................................... 41
2.1. Quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi của ngƣời gửi tiền ............................. 41
2.1.1. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh việc bảo vệ quyền lợi
của người gửi tiền .................................................................................................. 41
2.1.2. Thực tiễn pháp luật điều chỉnh việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền .............. 42
2.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của
ngƣời gửi tiền ......................................................................................................... 78
2.2.1. Hoàn thiện những quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người
gửi tiền ................................................................................................................... 78
2.2.2. Hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền ......................................... 86
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................. 8
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Huỳnh Anh
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1 – Tính cấp thiết của đề tài
Kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy, bảo vệ tốt quyền lợi
người gửi tiền có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo an toàn tổ chức tín dụng,
hệ thống tài chính ngân hàng, cũng như góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Bởi khi
người gửi tiền tin rằng quyền lợi của họ được đảm bảo thì họ sẽ tích cực gửi tiền
vào tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng huy động được nguồn vốn dồi dào để cho
vay, từ đó nguồn vốn được lưu thông, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội. Đồng thời, khi quyền lợi được đảm bảo thì người gửi tiền cũng không dễ dàng
nghe theo những tin đồn thất thiệt dẫn đến việc rút tiền ồ ạt, ảnh hưởng đến an toàn
hệ thống ngân hàng. Tại Việt Nam, sự đổ vỡ hàng loạt các hợp tác xã tín dụng nông
thôn và quỹ tín dụng đô thị trên toàn quốc trong những năm cuối thập niên 80 của
thế kỉ XX đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người gửi tiền. Thực tiễn ở các nước trên thế giới cũng cho thấy điều đó
qua các cuộc khủng hoảng kinh tế, đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính thế giới
năm 2008 vừa qua1.
Xét ở một khía cạnh khác, quyền lợi người gửi tiền cần được bảo vệ xuất
phát từ vị thế của người gửi tiền trong mối quan hệ với tổ chức tín dụng. Theo đó,
quyền lợi của người gửi tiền chưa thật sự bình đẳng với tổ chức tín dụng. Người gửi
tiền khi gửi tiền vào tổ chức tín dụng, chủ yếu dựa vào niềm tin và uy tín của tổ
chức tín dụng, vì không có tài sản nào bảo đảm từ phía tổ chức tín dụng. Trong khi
đó, tổ chức tín dụng thường yêu cầu khách hàng vay phải có tài sản thế chấp để bảo
đảm tiền vay. Điều này đòi hỏi phải có cơ chế bảo vệ người gửi tiền trong tương
quan với việc bảo đảm khả năng chi trả của tổ chức tín dụng. Hiện nay, để khắc
phục một phần vấn đề này là sự can thiệp của bảo hiểm tiền gửi. Theo đó, tổ chức
nhận tiền gửi sẽ đóng tiền bảo hiểm cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi, trong trường hợp
tổ chức nhận tiền gửi mất khả năng thanh toán thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ đứng
ra chi trả cho người gửi tiền một lượng tiền nhất định theo hạn mức do pháp luật
quy định. Tuy nhiên, ở Việt Nam cho đến nay, những quy định pháp luật về vấn đề
1 Đối với các nước bảo vệ tốt quyền lợi người gửi tiền là yếu tố quan trọng trong giải quyết khủng hoảng tài
chính, nhờ đó thị trường tài chính không bị rối ren, các tổ chức tín dụng giải thể, phá sản trong vòng trật tự
(điển hình là Mỹ); ngược lại, ở các nước không bảo vệ tốt quyền lợi người gửi tiền đã làm cho hệ thống tài
chính - ngân hàng bị rối loạn, hiện tượng rút tiền hàng loạt đã diễn ra (điển hình là ở Anh). Đó là lí do vì sao
sự sụp đổ của ngân hàng ở Anh là rất lớn còn ở Mỹ thì có nhiều ngân hàng sụp đổ nhưng khủng hoảng dây
chuyền không nặng nề như ở Anh.
Huỳnh Anh
2
này vẫn còn những hạn chế, từ hạn mức chi trả bảo hiểm đến ghi nhận vai trò, mô
hình của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chưa thật phù hợp nên hiệu quả bảo vệ quyền
lợi người gửi tiền chưa cao. Bởi bảo vệ quyền lợi người gửi tiền không chỉ dừng lại
ở việc chi trả bảo hiểm mà còn phải hạn chế sự sụp đổ của tổ chức tín dụng, hạn chế
tình trạng mất khả năng thanh toán của tổ chức tín dụng. Thực tiễn cho thấy người
gửi tiền chưa thật sự yên tâm về sự an toàn tiền gửi của mình. Minh chứng là người
gửi tiền dễ dàng nghe theo tin đồn thất thiệt, dẫn đến hiện tượng rút tiền hàng loạt
tại một số ngân hàng trong thời gian qua như Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á
Châu (2003), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nông thôn Ninh Bình (2005),…
Ngoài ra, an toàn tiền gửi cũng như đảm bảo những quyền lợi liên quan đến
tiền gửi (lãi suất, giá trị và tiện ích của các dịch vụ được cung ứng) là sự quan tâm
của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào khi gửi tiền tại các tổ chức tín dụng. Đặc biệt, khi
đó lại là những khoản tiền dành dụm, chắt chiu để đảm bảo cuộc sống thì tiền gửi
đối với người gửi tiền càng trở nên quan trọng. Ước tính khoảng 60% - 65% tổng
lượng tiền gửi tại các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng hiện nay là của
người dân với số người gửi tiền lên tới hàng chục triệu người. Vì thế, bảo vệ quyền
lợi người gửi tiền không chỉ có ý nghĩa bảo vệ lợi ích chính đáng của người gửi tiền
mà còn có ý nghĩa đảm bảo an sinh xã hội.
Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập, vì vậy, những tác động tiêu cực từ
thị trường tài chính thế giới cũng sẽ ảnh hưởng đến hệ thống tài chính nước ta, từ đó
ảnh hưởng đến khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền2. Mặt khác, hiện nay
năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính - ngân hàng của nước ta so với nhiều
nước trên thế giới còn thua kém về chất lượng sản phẩm, về công nghệ áp dụng, về
quy mô vốn… có thể sẽ có một số tổ chức tín dụng nhỏ dễ bị đổ vỡ trước sự cạnh
tranh của các ngân hàng nước ngoài. Đặc biệt là khi Việt Nam mở cửa hoàn toàn thị
trường tài chính, với tính chất của nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh sẽ khốc liệt
hơn thời điểm hiện nay. Khi đó, quyền lợi của người gửi tiền tại các tổ chức tín
dụng nhỏ này sẽ bị đe dọa. Vì vậy, cần có những giải pháp góp phần hạn chế sự sụp
đổ của các tổ chức tín dụng này để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền trong thời
gian sắp tới. Điều này cũng phù hợp với chính sách của Nhà nước về xây dựng các
loại hình tổ chức tín dụng theo đó “xây dựng hệ thống các tổ chức tín dụng hiện đại,
2 Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập và trong giai đoạn tiến đến là một quốc gia phát triển. Để đạt được
mục tiêu này, Việt Nam không thể tách khỏi sự ảnh hưởng của bên ngoài, những biến động của tình hình thế
giới. Đặc biệt là sự tác động trong trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ, một lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm và
nhiều rủi ro, có tính chất ảnh hưởng dây chuyền. Một khi có khủng hoảng thì không chỉ xảy ra ở một hay một
vài quốc gia mà nó có thể lan rộng khắp nơi trên thế giới, Việt Nam không ngoại lệ.
Huỳnh Anh
3
đủ sức đáp ứng nhu cầu vốn và dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế và dân cư, góp
phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức
tín dụng, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người gửi tiền”3.
Từ những lý do trên, việc đúc kết kinh nghiệm của các nước, kết hợp thực
tiễn Việt Nam để bổ sung, hoàn thiện những quy định của pháp luật về bảo vệ
quyền lợi người gửi tiền là rất cần thiết. Do đó, tác giả chọn đề tài “Pháp luật về
bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng” để làm luận văn tốt
nghiệp cao học luật của mình.
2 - Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian qua, với phạm vi và mức độ nghiên cứu khác nhau, có nhiều tác
giả có bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền lợi người
gửi tiền tại các tổ chức tín dụng như: luận văn tốt nghiệp cử nhân luật “Một số vấn
đề pháp lý về bảo hiểm tiền gửi”(2004) của tác giả Đặng Thị Đỉnh; luận văn tốt
nghiệp cử nhân luật “Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền trong hình thức
nhận tiền gửi của tổ chức tín dụng”(2005) của tác giả Bùi Thị Thúy Triều; luận văn
tốt nghiệp cử nhân luật “Một số vấn đề pháp lý về bảo hiểm tiền gửi”(2005) của tác
giả Nguyễn Thị Thu Thảo; luận văn tốt nghiệp cử nhân luật “Bảo hiểm tiền gửi -
công cụ pháp lý bảo vệ quyền lợi người gửi tiền” (2006) của tác giả Vũ Tuyết
Minh; luận văn tốt nghiệp cao học luật “Bảo hiểm tiền gửi - quy định của pháp luật
và thực tiễn áp dụng” (2009) của tác giả Nguyễn Thị Diệu Linh. Một số bài viết của
các tác giả như: “Bàn thêm về vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi trong việc bảo
vệ người gửi tiền và đảm bảo sự phát triển an toàn của hệ thống ngân hàng”(2009)
của TS. Phùng Văn Hùng; “Tăng cường bảo vệ quyền lợi người gửi tiền”(2009) của
TS. Nguyễn Thị Kim Oanh & ThS. Lê Việt Nga…
Tuy nhiên, các công trình trên chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ bảo hiểm tiền
gửi, tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến bảo hiểm tiền gửi mà không
đặt trọng tâm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Cũng có tác giả đặt trọng tâm bảo vệ
quyền lợi người gửi tiền (tác giả Bùi Thị Thúy Triều, Vũ Tuyết Minh) nhưng chỉ
nghiên cứu trong mối tương quan với bảo hiểm tiền gửi, đồng thời các công trình
nghiên cứu này cũng đã lâu (2005), đến nay điều kiện kinh tế - xã hội cũng như
những quy định của pháp luật đã có sự thay đổi. Vì vậy, có thể nói, việc nghiên cứu
một cách tập trung và hệ thống những quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi của
người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng trong điều kiện hội nhập hiện nay là một nội
3 Xem Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng 1997
Huỳnh Anh
4
dung cần tiếp tục hoàn thiện.
3 - Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu về hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng
bằng hình thức nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, qua đó làm sáng tỏ sự cần
thiết bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng.
Từ những quy định của pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng, luận văn sẽ làm rõ những bất cập,
hạn chế trong các quy định của pháp luật hiện hành về quyền lợi chính đáng của
người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng; đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm
góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các tổ chức
tín dụng trong điều kiện hiện nay.
3.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Các vấn đề lý luận về tổ chức tín dụng và các hoạt động của tổ chức tín
dụng, trong đó có hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi và phát hành
giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng, các quyền và lợi ích của ngƣời gửi tiền tại
các tổ chức tín dụng. Quy định của pháp luật hiện hành cũng nhƣ thực trạng
bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng. Từ đó, kiến nghị một
số biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi người
gửi tiền.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động huy động vốn của tổ chức tín dụng bao gồm huy động vốn bằng
nhận tiền gửi, huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá, huy động vốn bằng vay
vốn giữa các tổ chức tín dụng, vay vốn của . Trong phạm vi luận văn này, tác giả
chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động huy động vốn của tổ chức tín dụng bằng nhận
tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá. Người gửi tiền được nghiên cứu trong luận văn
này là cá nhân, tổ chức có tiền gửi tại tổ chức tín dụng thông qua hoạt động nhận
tiền gửi của tổ chức tín dụng và phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng nhằm
huy động vốn. Người gửi tiền ở đây không bao gồm, các tổ chức tín dụng là chủ nợ
cho vay nợ, .
Huỳnh Anh
5
Tác giả tập trung nghiên cứu những quy định cơ bản nhất về quyền lợi của
người gửi tiền trong các hoạt động nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá của tổ
chức tín dụng.
4 - Các phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Thực hiện đề tài này tác giả đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp phân tích, tổng hợp để làm rõ những quy định về hoạt động của tổ
chức tín dụng và quy định pháp luật về bảo vệ người gửi tiền tại các tổ chức tín
dụng. Trên cơ sở đó luận văn đi từ cơ sở lý luận đến thực trạng pháp luật và chỉ ra
những hạn chế; đồng thời đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về
bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.
5 - Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài có những đóng góp mới như sau:
Một là, tác giả phân tích để thấy rõ hơn khái niệm tiền gửi, có liên hệ so sánh
giữa khái niệm tiền gửi theo quy định hiện hành và khái niệm tiền gửi theo Luật
Các tổ chức tín dụng 2010.
Hai là, luận văn đã chỉ ra được những cở sở cho thấy sự cần thiết phải bảo vệ
quyền lợi của người gửi tiền tại tổ chức tín dụng; nêu rõ những quyền lợi nào
của người gửi tiền cần được bảo vệ. Đồng thời lý giải vì sao người gửi tiền có
được các quyền ấy, vì sao cần bảo vệ các quyền ấy.
Ba là, phân tích được những quy định của pháp luật hiện hành về bảo vệ
quyền lợi của người gửi tiền bao gồm những ghi nhận trực tiếp quyền lợi của
người gửi tiền; những công cụ pháp luật điều chỉnh nhằm đảm bảo an toàn tổ
chức tín dụng, gián tiếp bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền như quy định về lãi
suất, hạn chế tín dụng,... Đặc biệt, những quy định về bảo hiểm tiền gửi, một
thiết chế bảo vệ quyền lợi người gửi tiền hữu hiệu. Qua đó, giúp độc giả có được
những kiến thức chung nhất về quy định của pháp luật hiện hành trong việc bảo
vệ quyền lợi người gửi tiền.
Bốn là, phân tích thực tiễn pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, kết
hợp khảo sát thực tiễn cho thấy những bất cập của quy định pháp luật hiện hành
liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Bao gồm những bất cập về
quy định đóng, phong tỏa tài khoản, những quy định về thừa kế, rút vốn trước
hạn, cung cấp thông tin và bảo mật thông tin, khuyến mại, chuyển tiền, bảo hiểm
tiền gửi...
Huỳnh Anh
6
Năm là, đề xuất những giải pháp nhằm góp phần bảo vệ tốt hơn nữa quyền
lợi người gửi tiền. Gồm hai nhóm giải pháp:
- Nhóm giải pháp hoàn thiện những quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi
của người gửi tiền.
- Nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.
6 - Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
cấu trúc thành 2 chương, bao gồm:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại
các tổ chức tín dụng.
- Chương 2: Thực tiễn pháp luật bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các
tổ chức tín dụng và hướng hoàn thiện.
Huỳnh Anh
7
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI
CỦA NGƢỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1.1. Tổ chức tín dụng và hoạt động của tổ chức tín dụng
1.1.1. Khái quát về tổ chức tín dụng
1.1.1.1. Khái niệm
Khi xã hội loài người phát triển đến một giai đoạn nhất định, xuất hiện nhu
cầu trao đổi sản phẩm cho nhau và hàng hóa xuất hiện, sản xuất hàng hóa ra đời.
Khi sản xuất hàng hóa hình thành và phát triển thì tiền tệ xuất hiện và ngành nghề
kinh doanh tiền tệ cũng ra đời. Từ đó, xuất hiện những tổ chức chuyên thực hiện các
hoạt động thu nhận các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và sử dụng để cấp tín dụng,
làm các dịch vụ tiền tệ khác, người ta gọi chúng là các TCTD. Hiện nay, các TCTD
tồn tại với nhiều loại hình, tên gọi khác nhau, nghiệp vụ kinh doanh ngày càng đa
dạng, phức tạp. Ngày càng có nhiều các loại hình kinh doanh mới bên cạnh các loại
hình kinh doanh truyền thống như kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm,...
Hoạt động của các TCTD vốn phức tạp và có vai trò không nhỏ đối với nền
kinh tế của mỗi quốc gia. Do vậy, các nước đều có những chế định pháp luật quy
định về TCTD nhằm điều chỉnh hoạt động của chúng. Ở nước ta, theo Luật Các
TCTD 1997, sửa đổi, bổ sung năm 2004 (sau đây gọi là Luật Các TCTD 2004),
định nghĩa: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của
Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng.”
Theo quy định trên, TCTD là doanh nghiệp thực hiện “hoạt động kinh doanh
tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng
số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”4. Trên thực tế, có
nhiều tổ chức được gọi là TCTD nhưng không thực hiện đầy đủ các hoạt động ngân
hàng như định nghĩa đã nêu, tức không thực hiện đồng thời hoạt động “kinh doanh
tiền tệ” và “dịch vụ ngân hàng”.
Xuất phát từ thực tế trên, Luật Các TCTD 2010, định nghĩa TCTD như sau:
“Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động
ngân hàng”.
So với định nghĩa TCTD của Luật Các TCTD 2004 thì Luật Các TCTD 2010
định nghĩa phù hợp hơn. Các doanh nghiệp thực hiện một hoặc một số hoạt động
4 Khoản 3 Điều 9 Luật HNNN 2003
Huỳnh Anh
8
NH cũng được xem là TCTD, TCTD không nhất thiết phải hoạt động đồng thời tất
cả các nghiệp vụ ngân hàng.
Như vậy, các định nghĩa đều khẳng định TCTD là doanh nghiệp, có thực hiện
hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, các TCTD khác nhau có thể có phạm vi hoạt động
ngân hàng tùy theo hình thức tổ chức và hoạt động của loại hình TCTD đó, từ đó
một TCTD có thể thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng.
Theo luật hiện hành, căn cứ vào phạm vi hoạt động, TCTD gồm các loại: TCTD
là NH và TCTD phi NH. Cụ thể5:
- Ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Tùy theo tính chất
và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm: ngân hàng thương
mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách,
ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.
- Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực
hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường
xuyên, nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không làm dịch vụ
thanh toán. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng gồm công ty tài chính, công
ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác.
1.1.1.2. Đặc điểm của tổ chức tín dụng
Từ khái niệm TCTD có thể thấy TCTD có những đặc điểm sau:
- Một là, TCTD là doanh nghiệp có đối tượng kinh doanh trực tiếp là tiền tệ.
Cũng giống như các doanh nghiệp khác, TCTD kinh doanh vì mục tiêu lợi
nhuận, nhưng đối tượng kinh doanh trực tiếp không phải là hàng hóa phục vụ thông
thường, mà đó là tiền tệ - một loại hàng hóa đặc biệt, vật ngang giá chung trong trao
đổi và chịu sự tác động của nhiều yếu tố chính trị - xã hội .
- Hai là, TCTD là doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh chính, chủ yếu,
thường xuyên và mang tính chất nghề nghiệp là hoạt động ngân hàng. Đó là các
hoạt động nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
Từ những hoạt động này dẫn đến những nét rất riêng biệt của TCTD.
+ Thứ nhất, TCTD hoạt động trên nguyên tắc “đi vay để cho vay”, nghĩa là
nguồn vốn cho vay của TCTD chính là vốn huy động từ khách hàng dưới
5 Theo Khoản 2 và Khoản 3 Điều 20 Luật Các TCTD 2004.
Huỳnh Anh
9
các hình thức huy động vốn chủ yếu như nhận tiền gửi các loại, phát hành
trái phiếu ngân hàng, vay của TCTD khác hoặc vay của NHNN trên thị
trường liên NH.
+ Thứ hai, hoạt động của TCTD luôn tìm ẩn những nguy cơ, rủi ro, bất trắc
so với hoạt động kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp khác, bản chất
nghề nghiệp của TCTD là người cho người khác sử dụng vốn của mình và
mình huy động được để thu lợi nhuận mà chỉ có thể đòi được lại vốn sau
một thời hạn nhất định. Mặt khác, còn phải tùy thuộc vào hiệu quả, mục
đích sử dụng vốn của người đi vay.
+ Thứ ba, hoạt động ngân hàng của TCTD có ảnh hưởng quyết định đến sự
tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế đất nước. Bởi vì, những tác động
tiêu cực hay tích cực từ hoạt động kinh doanh của TCTD có tác động dây
chuyền đối với quyền lợi của nhiều tổ chức, cá nhân trong xã hội.
- Ba là, TCTD là loại hình doanh nghiệp chịu sự quản lý nhà nước của NHNN
và thuộc phạm vi áp dụng của pháp luật ngân hàng.
Đây là một trong các dấu hiệu nhận dạng một tổ chức kinh tế là TCTD. Các tổ
chức kinh tế khác chịu sự quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước khác mà
không phải là NHNN. Chẳng hạn, công ty chứng khoán chịu sự quản lý nhà nước
của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, các tổ chức kinh doanh thương mại chịu sự
quản lý nhà nước của Bộ Công thương,…
1.1.2. Các hoạt động của tổ chức tín dụng
Theo quy định của pháp luật hiện hành, các hoạt động của TCTD gồm: huy
động vốn, hoạt động tín dụng, dịch vụ thanh toán và ngân quỹ và các hoạt động
khác.
1.1.2.1. Huy động vốn
Huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của
TCTD. Hoạt động này mang lại nguồn vốn để TCTD có thể thực hiện các hoạt động
khác như cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ khác cho khách hàng. Hoạt động
huy động vốn của TCTD gồm các nội dung như nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có
giá, vay vốn giữa các TCTD và vay vốn của NHNN.
a) Nhận tiền gửi
Nhận tiền gửi là hoạt động huy động vốn chủ yếu của TCTD, nó chiếm tỉ lệ
lớn trong tổng nguồn vốn huy động ở mỗi TCTD. Theo Luật Các TCTD 2004
Huỳnh Anh
10
không đưa ra khái niệm nhận tiền gửi. Để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt
động này, Luật Các TCTD 2010 đưa ra khái niệm nhận tiền gửi như sau:
Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức
tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành
chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi
khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền
theo thỏa thuận6.
Tùy thuộc vào hình thức hoạt động của TCTD, các TCTD sẽ nhận tiền gửi với
phạm vi khác nhau. TCTD là NH không bị giới hạn về hình thức nhận tiền gửi, tức
là có thể thực hiện tất cả các hình thức nhận tiền gửi. TCTD phi NH chỉ được nhận
tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy định của
NHNN. Như vậy, TCTD phi NH không thể nhận tiền gửi ngắn hạn và tiền gửi
không kỳ hạn7. Quy định này nhằm góp phần đảm bảo khả năng chi trả cho khách
hàng của các TCTD phi NH. Bởi vì các TCTD phi NH chủ yếu cấp tín dụng trung
và dài hạn8, nếu cho phép tổ chức này nhận tiền gửi không kỳ hạn hoặc nhận tiền
gửi có kỳ hạn dưới một năm thì sẽ khó bảo đảm khả năng thanh khoản khi không
thể rút vốn để đáp ứng nhu cầu thu hồi tiền hoặc thanh toán của khách hàng gửi
tiền.
Trong thời gian sắp tới, khi Luật Các TCTD 2010 có hiệu lực (01/01/2011),
phạm vi nhận tiền gửi của các TCTD phi NH sẽ tiếp tục bị thu hẹp, theo đó các
TCTD này không được phép nhận tiền gửi cá nhân và cung ứng các dịch vụ thanh
toán qua tài khoản của khách hàng9.
b) Phát hành giấy tờ có giá
Ngoài việc huy động vốn qua tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tài khoản tiền
gửi thanh toán, các TCTD có thể huy động vốn bằng cách phát hành giấy tờ có giá.
Các giấy tờ có giá do TCTD phát hành là một công cụ vay nợ trên thị trường
tiền tệ, thị trường vốn dưới hình thức giấy nhận nợ hoặc chứng chỉ tiền gửi, trong
đó TCTD cam kết trả gốc, lãi cho người mua sau một thời gian nhất định.
6 Khoản 13 Điều 4 Luật Các TCTD 2010.
7 Xem Khoản 1 và Khoản 2 Điều 45 Luật Các TCTD năm 2004: “1. Ngân hàng được nhận tiền gửi của tổ
chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác” và “2. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng được nhận tiền gửi có kỳ
hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy định của Ngân hàng Nhà nước."
8 Xem Điều 16 Nghị định số16/2001/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính; xem
Mục 2 Nghị định số 79/2002/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính.
9 Xem Khoản 4 Luật Các TCTD 2010.
Huỳnh Anh
11
Theo Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD ban hành kèm
theo Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24 tháng 3 năm 2008 của Thống đốc
Ngân hàng nhà nước (sau đây gọi là Quy chế phát hành giấy tờ có giá), tại Khoản 1
Điều 4 định nghĩa:
“Giấy tờ có giá” là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy
động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một
thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa
tổ chức tín dụng và người mua”.
Giấy tờ có giá do TCTD phát hành có thể là loại giấy tờ có giá ngắn hạn
hoặc dài hạn, giấy tờ có giá ghi danh hoặc giấy tờ có giá vô danh. Cụ thể10
:
+ “Giấy tờ có giá ngắn hạn” là giấy tờ có giá có thời hạn dưới một 1
năm bao gồm kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
+ “Giấy tở có giá dài hạn” là giấy tờ có giá có thời hạn từ một năm trở
lên, bao gồm trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn và các giấy tờ có giá
dài hạn khác.
+ “Giấy tờ có giá ghi danh” là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức
chứng chỉ hoặc ghi sổ có ghi tên người sở hữu.
+ “Giấy tờ có giá vô danh” là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức
chứng chỉ không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc
quyền sở hữu của người nắm giữ giấy tờ có giá.
Về điều kiện phát hành giấy tờ có giá, các TCTD muốn phát hành giấy tờ có
giá phải thỏa mãn những điều kiện do pháp luật quy định. Theo quy định hiện hành,
tùy theo loại giấy tờ có giá được phát hành, pháp luật quy định điều kiện khác nhau.
Nó tùy thuộc vào TCTD phát hành giấy tờ có giá là loại giấy tờ có giá ngắn hạn,
giấy tờ có giá dài hạn hay trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền. Có
thể nhận thấy các điều kiện này đều nhằm mục đích đảm bảo an toàn trong hoạt
động của TCTD và đảm bảo khả năng chi trả của TCTD cho khách hàng mua giấy
tờ có giá. Vì vậy, một trong các điều kiện không thể thiếu trong phát hành là TCTD
được phát hành giấy tờ có giá phải tuân thủ đầy đủ các hạn chế để đảm bảo an toàn
trong hoạt động theo quy định của Luật Các TCTD và hướng dẫn của NHNN11
.
10
Khoản 2, Khoản 3, Khoản 4 và Khoản 5 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá.
11 Xem Điều 18, Điều 22 Quy chế phát hành giấy tờ có giá.
Huỳnh Anh
12
Các TCTD có thể phát hành giấy tờ có giá theo bốn phương thức: TCTD trực
tiếp phát hành giấy tờ có giá; bảo lãnh phát hành giấy tờ có giá thông qua TCTD
khác, công ty chứng khoán được phép hoạt động bảo lãnh giấy tờ có giá và các định
chế tài chính theo quy định tại giấy phép hoạt động; hoặc phương thức đại lý phát
hành, theo đó TCTD ủy quyền cho một số tổ chức khác phát hành giấy tờ có giá;
hoặc phát hành theo hình thức đấu thầu giấy tờ có giá.
Hiện nay, theo Luật Các TCTD 2004, phát hành giấy tờ có giá là một trong
các hình thức huy động vốn, được quy định riêng rẽ với hình thức huy động vốn là
nhận tiền gửi. Điều này đã dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau khi xác định tiền
gửi12
. Thực chất, có một số loại giấy tờ có giá (như chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ
phiếu) khi TCTD phát hành chúng xét về bản chất cũng là một hình thức nhận tiền
gửi. Bởi vì khi tổ chức, cá nhân mua giấy tờ có giá này do TCTD phát hành chính là
tổ chức, cá nhân đó đã gửi tiền vào TCTD và TCTD có trách nhiệm trả lãi và vốn
khi đến hạn (kỳ hạn được ghi trên giấy tờ có giá).
Xuất phát từ bản chất hoạt động phát hành giấy tờ có giá của TCTD, cũng là
một hình thức nhận tiền gửi, Luật Các TCTD 2010 đã đưa ra khái niệm nhận tiền
gửi, trong đó khẳng định việc phát hành một số loại giấy tờ có giá như “phát hành
chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu” là một hình thức nhận tiền gửi. Điều này đã
tạo được sự thống nhất giữa các quy định về nhận tiền gửi và khái niệm tiền gửi,
đồng thời cũng tạo được cách hiểu thống nhất về tiền gửi.
c) Vay vốn giữa các TCTD
Hình thức huy động vốn là nhận tiền gửi và phát hành giấy tờ có giá là
những hoạt động chính nhằm thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ của TCTD, đó
là đi vay để cho vay. Tuy nhiên, lượng vốn huy động được và nhu cầu về lượng tiền
cho vay của TCTD không phải lúc nào cũng cân đối như mong đợi. Vì vậy, để góp
phần bảo đảm khả năng thanh toán và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của các
TCTD, pháp luật còn cho phép các TCTD có thể cho nhau vay. Hoạt động này giúp
TCTD đi vay khắc phục được tình trạng thiếu vốn tạm thời, đồng thời giúp được
TCTD cho vay tìm kiếm thêm lợi nhuận trên số vốn nhàn rỗi do huy động được
nhưng chưa có khách hàng vay.
12
Cách hiểu thứ nhất: Tiền gửi phải hình thành trên cơ sở hoạt động nhận tiền gửi, vì vậy tiền mua giấy tờ có
giá không phải là tiền gửi vì luật không ghi nhận điều này; cách hiểu thứ hai: xem tiền mua các loại giấy tờ
có giá là tiền gửi với lập luận phát hành giấy tờ có giá là một hình thức gửi tiền khác bên cạnh các hình thức
gửi tiền có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, dẫn đến việc mặc nhiên thừa nhận tiền gửi có thể không hình thành
thông qua hoạt động nhận tiền gửi hoặc mặc nhiên xem hoạt động phát hành giấy tờ có giá là một hình thức
nhận tiền gửi (dù Luật Các TCTD 2004 chưa quy định điều này)
Huỳnh Anh
13
"Vay vốn giữa các tổ chức tín dụng" là việc cấp tín dụng dưới hình thức cho
vay của tổ chức tín dụng (bên cho vay) cho một tổ chức tín dụng khác (bên vay)”.
TCTD có thể vay vốn của TCTD nước ngoài13
.
Như vậy, việc vay vốn giữa các TCTD cũng là hoạt động cấp tín dụng. Vì
vậy, cũng tương tự như hoạt động cho vay của TCTD đối với các tổ chức, cá nhân
khác. Điểm khác biệt trong quan hệ này là bên vay cũng là một TCTD. Nội dung
quan hệ vay vốn cũng bao gồm những thỏa thuận về nghĩa vụ trả gốc và lãi của bên
vay, các khoản phí khác phải trả của bên vay, về thời hạn cho vay, về các biện pháp
bảo đảm, về phương thức cho vay,...
Hoạt động vay vốn giữa các TCTD được thực hiện trên thị trường liên NH.
Các TCTD trong khi tham gia hệ thống thanh toán có thể mở tài khoản tại các
TCTD khác. Qua tài khoản này, các TCTD có thể cho nhau vay vốn. Thông thường
các TCTD chỉ vay vốn của TCTD khác nhằm đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp
bách, trong nhiều trường hợp nó bổ sung và thay thế cho các khoản vay từ NHNN.
d) Vay vốn của Ngân hàng Nhà nước
Trong quá trình hoạt động của TCTD, có những trường hợp TCTD rơi vào
tình huống tạm thời mất khả năng chi trả vì chưa kịp thu hồi nguồn vốn đã cho vay
để chi trả cho khách hàng khi họ có yêu cầu. Vì vậy, pháp luật quy định các TCTD
là NH được phép vay vốn của NHNN trong trường hợp này, qua đó giúp các TCTD
vượt qua khó khăn tạm thời về thanh khoản, bảo vệ quyền lợi cho NGT.
Đây cũng chính là một công cụ mà NHNN sử dụng nhằm thực hiện chính
sách tiền tệ quốc gia - công cụ tái cấp vốn. Qua việc tái cấp vốn cho NH đang gặp
khó khăn về thanh khoản, NHNN đã góp phần đảm bảo ổn định chung cho nền kinh
tế, bởi rủi ro của một NH có tính dây chuyền, có thể ảnh hưởng đến nhiều tổ chức,
cá nhân khác và có thể ảnh hưởng đến sự an toàn của cả hệ thống NH.
Theo quy định hiện hành, “Tổ chức tín dụng là ngân hàng được vay vốn
ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức tái cấp vốn theo quy định tại
Điều 30 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”14
. Như vậy, theo quy định này
chỉ TCTD là NH mới được NHNN cấp tín dụng và chỉ cấp tín dụng ngắn hạn. Việc
cấp tín dụng có thể thực hiện dưới các hình thức: 1. Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng;
2. Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác; 3.
13
Khoản 1 Điều 2 Quy chế vay vốn giữa các TCTD ban hành kèm theo quyết định Quyết định số 1310/
2001/QĐ-NHNN ngày 15/10/2001 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước; Điều 47 Luật Các TCTD 1997.
14 Điều 48 Luật Các TCTD 1997.
Huỳnh Anh
14
Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn
khác15
.
Các TCTD không phải là NH về nguyên tắc không được vay vốn dưới hình
thức tái cấp vốn của NHNN, trừ trường hợp đặc biệt là đối với TCTD tạm thời mất
khả năng chi trả, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống các TCTD thì có thể
được NHNN cho vay tái cấp vốn nhưng phải được Chính phủ chấp nhận16
.
1.1.2.2. Hoạt động tín dụng
Tín dụng là quan hệ kinh tế trong đó một chủ thể thỏa thuận để chủ thể khác
được sử dụng một số vốn của mình (dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng hóa) trong
một thời gian nhất định với điều kiện có hoàn trả dựa trên cơ sở tín nhiệm.
Bên cạnh hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng là một trong những
hoạt động chủ yếu của TCTD trong quá trình kinh doanh tiền tệ. Theo quy định của
pháp luật hiện hành “Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn
vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng”17
.
Thẩm quyền cấp tín dụng của TCTD được quy định tại Điều 49 Luật Các
TCTD 2004 như sau: “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân
dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo
lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước.”
Như vậy, theo quy định trên, hoạt động tín dụng của TCTD thực chất là một
giao dịch hợp đồng, theo đó TCTD thỏa thuận để cho khách hàng sử dụng một số
tiền của mình trong một thời gian nhất định với điều kiện có hoàn trả trên cơ sở sự
tín nhiệm. Loại giao dịch này có những đặc điểm:
- Một bên chủ thể tham gia quan hệ giao dịch là TCTD. TCTD đóng vai trò
là bên cung cấp vốn.
- Nguồn vốn mà TCTD cung cấp cho khách hàng chủ yếu là nguồn vốn huy
động. 15
Điều 17 Luật NHNN 1997; Theo Luật NHNN 2010 các hình thức cho vay tái cấp vốn được quy định như
sau: a) Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá; b) Chiết khấu giấy tờ có giá; c) Các hình thức tái cấp
vốn khác.
16 Xem Điều 30 Luật Các TCTD 1997
17 Khoản 8 Điều 20 Luật Các TCTD 2004. Theo Điều 10 Luật Các TCTD 2004, “Cấp tín dụng là việc tổ
chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp
vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”.
Huỳnh Anh
15
- Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh có độ rủi ro cao, hậu quả của
rủi ro có tính dây chuyền.
- TCTD hoạt động tín dụng dưới các hình thức như: cho vay, chiết khấu các
giấy tờ có giá, bảo lãnh ngân hàng, cho thuê tài chính, bao thanh toán.
1.1.2.3. Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ là hoạt động gắn liền với hoạt
động huy động vốn và cấp tín dụng. Bởi khi thực hiện nghiệp vụ huy động vốn,
TCTD là NH tiến hành mở tài khoản cho khách hàng ký gửi tiền. Qua nghiệp vụ
này, một mặt NH huy động được vốn từ khách hàng, mặt khác NH có thể cung cấp
cho khách hàng các dịch vụ ngân hàng khác, trong đó có dịch vụ thanh toán. Khách
hàng vay cũng là những chủ thể thường xuyên sử dụng các dịch vụ thanh toán của
NH. Hơn nữa, thông qua một số dịch vụ thanh toán, khách hàng cũng có thể thực
hiện vay tiền của TCTD (chẳng hạn dịch vụ thấu chi, ủy nhiệm chi,…).
Để thực hiên hoạt động này, pháp luật quy định cho TCTD có một số quyền
và nghĩa vụ như sau:
- TCTD được mở tài khoản tiền gửi tại NHNN, tại các TCTD khác. Riêng
đối với TCTD có nhận tiền gửi của khách hàng thì phải duy trì số dư trong tài khoản
gửi tại NHNN không thấp hơn mức dự trữ bắt buộc do NHNN quy định.
- TCTD được thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng. Ngoài
ra, đối với TCTD là NH thì có thêm một số quyền riêng như được mở tài khoản
thanh toán cho khách hàng trong và ngoài nước, được cung ứng các dịch vụ thanh
toán,…
1.1.2.4. Các hoạt động khác
Bên cạnh những hoạt động nêu trên, các TCTD cũng được phép thực hiện
một số hoạt động kinh doanh khác nhằm tăng hiệu quả kinh doanh và giảm bớt rủi
ro trong kinh doanh. Pháp luật có một số quy định về các hoạt động kinh doanh
khác của các TCTD như sau:
- TCTD góp vốn, mua cổ phần trong giới hạn pháp luật quy định.
- TCTD được kinh doanh ngoại hối và vàng ở thị trường trong nước và
quốc tế khi được NHNN cho phép.
- TCTD được ủy thác, nhận ủy thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan
đến hoạt động ngân hàng.
Huỳnh Anh
16
- Được thành lập công ty độc lập để kinh doanh bảo hiểm theo quy định
pháp luật.
1.2. Khái quát tiền gửi
1.2.1. Khái niệm tiền gửi
Tiền gửi là số tiền của tổ chức, cá nhân gửi tại tổ chức tín dụng hoặc tổ
chức khác có hoạt động ngân hàng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn,
tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được
hưởng lãi hoặc không hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi
tiền.(Theo Khoản 9 Điều 20 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các
TCTD 2004).
Với cách giải thích trên, tiền gửi theo pháp luật tín dụng ngân hàng hiện hành
là khoản tiền khách hàng gửi tại các tổ chức có hoạt động ngân hàng, trong đó gồm
TCTD và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng. Tiền gửi tồn tại dưới nhiều
hình thức khác nhau, có kỳ hạn, không kỳ hạn hoặc hình thức khác, có thể hưởng lãi
hoặc không. Theo quy định của pháp luật hiện hành, các hình thức khác có thể hiểu
là phát hành giấy tờ có giá18
, vì thế tiền mua loại giấy tờ có giá cũng được xem là
một dạng tiền gửi. Tuy nhiên, (như đã trình bày trong Điểm a, Điểm b Mục 1.1.2.1),
pháp luật đã quy định hình thức phát hành giấy tờ có giá là một hình thức tồn tại
riêng biệt. Vì vậy, để đảm bảo sự rõ ràng, thống nhất cần phải khẳng định rõ hoạt
động phát hành một số loại giấy tờ giá cũng là hình thức nhận tiền gửi.
Theo Luật Các TCTD năm 2010, khái niệm tiền gửi không được đặt ra một
cách riêng rẽ, tiền gửi được xác định thông qua khái niệm hình thức nhận tiền gửi
(như đã trình bày tại Điểm a Mục 1.1.2.1). Trong đó, bên cạnh các hình thức tiền
gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, khái niệm còn xác định nhận tiền gửi bao gồm
hoạt động nhận tiền nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức “phát hành
chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo
nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận”19
.
18
Một số văn bản quy phạm pháp luật ghi nhận tiền mua giấy tờ có giá là một loại tiền gửi được trả bảo hiểm
tiền gửi theo quy định pháp luật như: Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 về bảo hiểm
tiền gửi; Nghị định số109/2005/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2005 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 về bảo hiểm tiền gửi; Thông tư số 03/2006/TT-
NHNN ngày 25 tháng 4 năm 2006 về việc hướng dẫn một số nội dung tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày
01 tháng 9 năm 1999 về bảo hiểm tiền gửi và Nghị định 109/2005/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2005 về việc
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 về bảo hiểm tiền
gửi.
19 Khoản 13 Điều 4 Luật Các TCTD 2010.
Huỳnh Anh
17
Như vậy, thông qua khái niệm huy động vốn, chúng ta nhận thấy tiền gửi có
thể được hiểu như sau: Tiền gửi là số tiền của tổ chức, cá nhân gửi tại tổ chức
nhận tiền gửi dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi
tiết kiệm; tiền của tổ chức, cá nhân mua một số loại giấy tờ có giá như chứng chỉ
tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu của các tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức khác có
hoạt động ngân hàng.
Theo khái niệm mới này, Luật không liệt kê cụ thể các tổ chức nhận tiền gửi
như trước đây để tránh sự thiếu sót, phạm vi tiền gửi được đưa ra rộng hơn, phù hợp
hơn. Đây cũng là phạm vi nghiên cứu mà chúng tôi hướng đến.
Thực tế có một số tổ chức khác như các tổ chức thực hiện dịch vụ tiết kiệm
bưu điện vẫn có hoạt động nhận tiền gửi. Theo đó, các tổ chức này có thể nhận tiền
gửi tiết kiệm bưu điện, phát hành chứng chỉ tiền gửi và giấy tờ có giá khác theo quy
định của pháp luật20
.Theo khái niệm mới này, những khoản tiền này cũng được xem
là tiền gửi.
1.2.2. Các hình thức tiền gửi
1.2.2.1. Tiền gửi không kỳ hạn
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà giữa khách hàng và TCTD không
tồn tại một thỏa thuận về thời hạn rút tiền. TCTD nhận tiền gửi không kỳ hạn có
nhiệm vụ chi trả cho khách hàng khi khách hàng có nhu cầu rút tiền.
Tiền gửi không kỳ hạn bao gồm tiền gửi thanh toán (còn gọi là tài khoản
dịch vụ hay tài khoản thanh toán, ở Mỹ gọi là tiền gửi theo yêu cầu, ở Pháp thì gọi
là tiền gửi theo tài khoản séc) và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
- Tiền gửi thanh toán là tiền gửi được khách hàng gửi tại các TCTD để thực
hiện các khoản chi trả, thanh toán.
Chủ tài khoản của loại tài khoản tiền gửi không kỳ hạn thông thường là các
chủ thể tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, cá nhân có hoạt động kinh
doanh hoặc các chủ thể khác. Mục đích của khách hàng gửi tiền trong trường hợp
này là để gửi giữ tiền hoặc hưởng các tiện ích từ các dịch vụ thanh toán của TCTD,
chẳng hạn khách hàng được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả như séc, ủy
nhiệm chi và các lệnh chi khác; yếu tố lãi suất chỉ là thứ yếu, có thể không được trả
lãi suất hoặc được trả mức lãi suất rất thấp.
20
Quyết định số 270/2005/QĐ-TTG ngày 31 tháng 10 năm 2005 về việc tổ chức, huy động, quản lý và sử
dụng nguồn tiền gửi kiệm bưu điện.
Huỳnh Anh
18
Một dạng tài khoản thuộc loại này đang được sử dụng phổ biến hiện nay là
tài khoản tiền giao dịch chứng khoán. Đây là loại tài khoản tiền gửi thanh toán
chuyên dùng của khách hàng để phục vụ cho mục đích kinh doanh chứng khoán.
Hiện nay, để thu hút khách hàng, hầu hết các NH không thu phí duy trì tài khoản
loại này và khách hàng vẫn được tính lãi trên số dư tiền gửi trong tài khoản.
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn:
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi
tiết kiệm, được xác nhận trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ
chức nhận tiền gửi tiết kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo
hiểm tiền gửi.
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là tiền gửi tiết kiệm mà NGT có thể rút tiền
theo yêu cầu mà không cần báo trước vào bất kỳ ngày làm việc nào của tổ chức
nhận tiền gửi tiết kiệm. Đây là loại tiền gửi của các tầng lớp dân cư trong xã hội
nhằm mục đích an toàn tiền gửi, tích lũy và tiết kiệm. NGT được hưởng lãi và được
BHTG. Loại tiền gửi này là tiền để dành của cá nhân chứ không phải để thanh toán.
Tài khoản tiền gửi loại này không được sử dụng để phát hành séc và thực
hiện các giao dịch thanh toán bằng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt để
chi trả cho người khác, trừ trường hợp tiền gửi tiết kiệm bằng đồng Việt Nam của
người cư trú được sử dụng để chuyển khoản thanh toán tiền vay của chính chủ sở
hữu tiền gửi tiết kiệm hoặc đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm tại tổ chức nhận tiền
gửi tiết kiệm đó; hoặc chuyển khoản sang tài khoản khác do chính chủ sở hữu tiền
gửi tiết kiệm hoặc đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm là chủ tài khoản tại tổ chức
nhận tiền gửi tiết kiệm đó.
1.2.2.2. Tiền gửi có kỳ hạn
Bao gồm tiền gửi có kỳ hạn của cá nhân, tổ chức và tiền gửi tiết kiệm có kỳ
hạn của cá nhân.
- Tiền gửi có kỳ hạn của cá nhân, tổ chức là loại tiền gửi mà khách hàng gửi
tại các TCTD trên cơ sở có sự thỏa thuận với TCTD nhận tiền gửi về thời gian rút
tiền. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết các tổ chức nhận gửi đều cho phép khách hàng có
thể rút tiền trước hạn nếu thỏa mãn những điều kiện nhất định như thời gian báo
trước hoặc có thỏa thuận.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là tiền gửi tiết kiệm mà NGT chỉ có thể rút tiền
sau một kỳ hạn gửi tiền nhất định theo thỏa thuận với tổ chức nhận tiền gửi tiết
kiệm. Tuy nhiên, NGT cũng có thể rút tiền trước hạn nếu hội đủ các điều kiện nhất
Huỳnh Anh
19
định như phải có thỏa thuận với TCTD và phải đảm bảo thời gian báo trước,...Trong
trường hợp không đủ điều kiện nhưng TCTD đồng ý thì khách hàng vẫn có thể rút
tiền trước hạn nhưng phải trả mức phí do TCTD quy định21
.
Trên thực tế, có rất nhiều dạng của các hình thức tiền gửi dựa trên phân chia
kỳ hạn, tính chất của tiện ích và cả hình thức khuyến mại như tài khoản tiền gửi
kinh doanh chứng khoán, tài khoản thẻ, tiết kiệm linh hoạt,...
1.3. Vai trò của tiền gửi
1.3.1. Đối với NGT
Khi gửi tiền vào TCTD, nhu cầu gửi tiền của khách hàng rất đa dạng. Vì vậy,
sự mong đợi những lợi ích có được từ tiền gửi của từng khách hàng cụ thể cũng
khác nhau. Nói cách khác, vai trò của tiền gửi đối với mỗi cá nhân gửi tiền không
giống nhau, phụ thuộc vào loại sản phẩm tiền gửi mà khách hàng lựa chọn. Tuy
nhiên, chúng ta có thể khái quát vai trò của tiền gửi đối với khách hàng gửi tiền ở
những khía cạnh sau:
- Tiền gửi mang ý nghĩa tiết kiệm và đầu tư sinh lợi
Cá nhân có thể có những khoản tiền dành dụm để dự phòng rủi ro, bất trắc
trong cuộc sống. Khi đó, tiền gửi có ý nghĩa tiết kiệm, tổ chức nhận tiền gửi sẽ giữ
hộ NGT đối với phần tiền gửi của họ, đáp ứng nhu cầu tiết kiệm cho khách hàng.
Đối với khách hàng gửi tiền, lợi ích mà họ có được từ việc gửi tiền tại TCTD
trước hết đó chính là khoản lãi của tiền gửi. Những số tiền tiết kiệm này sẽ không tự
nhiên đem lại thu nhập cho chủ sở hữu nhưng từ hoạt động nhận tiền gửi của các
TCTD đã tạo thu nhập cho NGT thông qua việc trả lãi. Vì thế, tiền gửi cũng mang ý
nghĩa đầu tư, bởi tiền gửi sẽ sinh lợi, tạo cơ hội cho NGT gia tăng tiêu dùng trong
tương lai. Khi gửi tiền tại tổ chức nhận tiền gửi, NGT sẽ được nhận một khoản lãi
trên số tiền gửi, từ đó số tiền của khách hàng ngày càng gia tăng. Số tiền lãi khách
hàng nhận được phụ thuộc vào giá trị tiền gửi và hình thức gửi tiền mà khách hàng
lựa chọn. Chẳng hạn, với cùng một số tiền gửi nhưng lãi suất gửi tiết kiệm có kỳ
hạn cao hơn lãi suất gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
- Việc gửi tiền tại TCTD có ý nghĩa đảm bảo tính an toàn tiền gửi, bí mật cá
nhân liên quan đến tiền gửi
21
Điều 16 Quy chế về tiền gửi tiết kiệm được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 47/2006/QĐ-NHNN.
Huỳnh Anh
20
Khi tiền của khách hàng được gửi tại tổ chức nhận tiền gửi, tức tiền sẽ được
cất giữ ở một nơi an toàn, bởi tổ chức nhận tiền gửi là tổ chức có uy tín nhất định,
được pháp luật quy định có trách nhiệm trả đầy đủ và đúng hạn cả vốn và lãi các
khoản tiền gửi, nhờ đó giúp khách hàng có thể tích trữ vốn tạm thời nhàn rỗi. Bên
cạnh đó, việc gửi tiền tại tổ chức nhận tiền gửi có thể đáp ứng nhu cầu đảm bảo tính
riêng tư của NGT. Bởi vì cá nhân khi gửi tiền vào tổ chức nhận tiền gửi vì nhiều lý
do khác nhau không muốn người khác biết mình có số tiền nhất định, khi đó gửi
tiền vào tổ chức nhận tiền gửi sẽ là một giải pháp. Pháp luật có những quy định về
trách nhiệm bảo mật thông tin khách hàng trong hoạt động ngân hàng.
- Thông qua tiền gửi, khách hàng có thể sử dụng các tiện ích dịch vụ thanh
toán của các TCTD
Thông qua tiền gửi, NGT có cơ hội tiếp cận các dịch vụ khác nhau của
TCTD, đặc biệt là dịch vụ thanh toán và dịch vụ tín dụng khi khách hàng cần vốn
cho sản xuất, kinh doanh hoặc cần tiền cho tiêu dùng. Bởi vì, muốn sử dụng các tiện
ích của các dịch vụ thanh toán của TCTD, khách hàng phải có một tài khoản tiền
gửi mở tại TCTD đó. Các dịch vụ do TCTD cung cấp hầu hết đều thông qua tài
khoản này của khách hàng. Đây là loại tài khoản tiền gửi thanh toán. Ngoài ra còn
sử dụng các dịch vụ:
+ NGT có thể sử dụng dịch vụ thanh toán của TCTD như: chi trả cho đối tác,
người lao động trong hoạt động thương mại, chuyển tiền cho người thân, chi trả cho
các khoản tiêu dùng hằng ngày của mình mà không cần dùng tiền mặt..., sử dụng
nhiều dịch vụ liên quan khác như sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử, truy vấn
số dư và các giao dịch tức thời trên tài khoản bằng dịch vụ ngân hàng điện tử như
SMS B@nking và Phone B@nking,... Nhìn chung, NGT có thể hưởng được rất
nhiều tiện ích từ việc gửi tiền tại TCTD.
+ NGT có thể sử dụng các dịch vụ tín dụng của TCTD như: NGT có thể vay
tiền của TCTD thông qua tài khoản tiền gửi khi sử dụng các dịch vụ như chi hộ,
thấu chi,...
Từ phân tích trên, có thể thấy, tiền gửi có vai trò quan trọng đối với NGT. Vì
vậy, làm thế nào để đảm bảo những quyền lợi chính đáng của NGT phát sinh từ mối
quan hệ gửi tiền và nhận tiền gửi là vấn đề rất cần quan tâm.
1.3.2. Đối với tổ chức tín dụng
- Vai trò của TCTD là trung gian tín dụng trong nền kinh tế, thực hiện điều
hòa nguồn vốn trong xã hội. Hoạt động cơ bản mang tính chức năng của TCTD là
Huỳnh Anh
21
huy động vốn để cấp tín dụng, nói cách khác là đi vay để cho vay lại. Thực tế, hầu
như các TCTD hoạt động kinh doanh là nhờ vào nguồn vốn huy động, đặc biệt là
vốn huy động dưới hình thức nhận tiền gửi từ các thành phần kinh tế chiếm tỉ lệ lớn.
Như vậy, TCTD có thực hiện tốt vai trò trung gian tín dụng hay không phụ thuộc rất
lớn vào số tiền gửi mà TCTD huy động được.
- TCTD là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ - ngân hàng. Vì thế,
mặc dù đối tượng kinh doanh của TCTD là hàng hóa đặc biệt (tiền tệ), nhưng cũng
như các doanh nghiệp khác, mục đích hoạt động kinh doanh của TCTD là tìm kiếm
lợi nhuận. Lợi nhuận của TCTD chính là khoản lời chênh lệch giữa lãi suất huy
động và lãi suất cho vay, bên cạnh đó còn có những khoản phí thu được từ việc
cung ứng dịch vụ ngân hàng cho khách hàng. Điều này đồng nghĩa với việc nếu
TCTD huy động được nguồn tiền gửi dồi dào, cơ hội thu được lợi nhuận của TCTD
sẽ cao hơn vì có thể cấp tín dụng với lượng tiền nhiều hơn, thu lãi nhiều hơn. Tương
tự như vậy, khách hàng gửi tiền hầu hết là những khách hàng sử dụng các dịch vụ
ngân hàng của tổ chức nhận tiền gửi, bởi vì hầu hết các dịch vụ đều được thực hiện
thông qua tiền gửi, nên nếu lượng tiền gửi nhiều thì cơ hội phí thu được từ hoạt
động cung ứng dịch vụ của tổ chức nhận tiền gửi cũng nhiều hơn.
- Việc đa dạng các hình thức huy động tiền gửi đã góp phần tạo nên sự đa
dạng phương thức kinh doanh của TCTD, thúc đẩy sự phát triển của TCTD. Xuất
phát từ nhu cầu đa dạng và khác nhau của khách hàng gửi tiền, cũng như những đòi
hỏi ngày càng cao của họ, nên để thu hút khách hàng gửi tiền, đòi hỏi các TCTD
phải thiết kế và phát triển nhiều loại sản phẩm với nhiều hình thức tiền gửi phong
phú. Chẳng hạn, bên cạnh các hình thức tiền gửi cổ điển như tiền gửi có kỳ hạn, tiền
gửi không kỳ hạn đơn giản, các TCTD đưa ra nhiều sản phẩm tiền gửi như tiết kiệm
linh hoạt, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm bội thu, tiết kiệm kỳ hạn thả nổi,... và rất
nhiều hình thức khuyến mại như chương trình gửi tiền có quà tặng, quay số trúng
thưởng,...
1.3.3. Đối với nền kinh tế
- Yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước rất cần vốn
đầu tư. Bên cạnh các nguồn vốn khác thì nguồn vốn huy động trong nước có tính
chất quyết định.
Nguồn vốn đóng vai trò quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất
nước, đặc biệt là các nước đang phát triển như nước ta. Đối với các nước đang phát
triển, vốn đầu tư là vấn đề khó khăn vì khả năng tích lũy vốn hoặc huy động vốn
trong nước thấp, khả năng vay nợ nước ngoài cũng bị hạn chế.
Huỳnh Anh
22
Ở nước ta, chiến lược huy động nguồn vốn để đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa được đặt ra ngay từ Đại hội VII: “Để CNH, HĐH cần huy
động nhiều nguồn vốn, gắn với việc sử dụng vốn có hiệu quả. Trong đó nguồn vốn
trong nước là quyết định, nguồn vốn từ bên ngoài là quan trọng”, và đến Đại hội
VIII tiếp tục khẳng định: “Huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển, trong đó
vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng” và
“phát huy tối đa mọi nguồn vốn trong nước để chiếm tỉ lệ cao trong đầu tư”. Đại
hội Đảng lần IX xác định rõ: “Nội lực là chính, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với
nhau thành nguồn lực để phát triển đất nước”. Đại hội X: “Huy động mọi nguồn
lực trong xã hội cho đầu tư phát triển”22
.
Như vậy, để phát triển kinh tế - xã hội nói chung, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước nói riêng, điều kiện cơ bản là phải có vốn. Có hai nguồn để
tạo vốn là: một là, tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân; hai là, dựa vào
nguồn vốn từ bên ngoài FDI (đầu tư trực tiếp nước ngoài) và ODA (hỗ trợ phát triển
chính thức).
Trong hai nguồn vốn trên, nguồn vốn tích lũy từ nội bộ nền kinh tế quốc dân
xét về lâu dài là nguồn chủ yếu, có vai trò quyết định. Bởi vì nguồn vốn từ nước
ngoài dù có lớn đến đâu đi nữa nếu không có nguồn vốn đầu tư do sự tích lũy từ nội
tại nền kinh tế thì nguồn vốn từ nước ngoài cũng không thể sử dụng có hiệu quả.
Mặt khác, nguồn vốn dù là viện trợ hay đầu tư nước ngoài cũng chỉ là tạm thời, sử
dụng nguồn vốn trong nước vừa đảm bảo tăng trưởng bền vững, ổn định, lại vừa
tránh được sự phụ thuộc vào nước ngoài.
Tuy nhiên, thực tế huy động vốn trong những năm qua cho thấy, trong khi
nền kinh tế đang rất “đói vốn” thì một lượng vốn không nhỏ trong dân chưa được
quan tâm huy động cho đầu tư phát triển (theo các chuyên gia kinh tế, lượng vốn
trong dân ở nước ta nước khoảng 6 tỷ - 9 tỷ USD, mức huy động hiện nay (năm
2006) mới đạt khoảng 40%)23
. Bên cạnh đó, đến nay, cùng với sự phát triển của nền
kinh tế, thu nhập người dân ngày một cải thiện, của cải tích lũy được ngày càng
nhiều tạo nên một nguồn vốn nhàn rỗi càng lớn. Vì vậy, khai thác được nguồn vốn
nhàn rỗi trong dân chúng là góp phần quan trọng trong việc quản lý và sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn trong nước, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
22
Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI,
VII, VIII, XI, X), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr 297, 432, 510, 633.
23 Xem: Vũ Văn Phúc (2006), Lý luận tuần hoàn, chu chuyển tư bản và vấn đề vốn cho công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.152.
Huỳnh Anh
23
Tóm lại, nước ta đang có nhu cầu rất lớn về nguồn vốn để thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nguồn vốn đóng vai trò quyết định là vốn trong
nước. Thực tiễn thời gian qua cho thấy chúng ta chưa phát huy hết hiệu quả sử dụng
nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn nhàn rỗi trong dân. Nguồn vốn này chính là một
nguồn quan trọng vì chiếm tỉ lệ khá lớn để phục vụ cho mục tiêu phát triển đất
nước. Qua đó, càng khẳng định lượng tiền gửi của NGT tại các TCTD có ý nghĩa
quan trọng trong việc góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
- Yêu cầu hội nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
cũng cần nhiều vốn để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển mở rộng sản xuất kinh
doanh
Ngày nay, xu hướng toàn cầu hóa mà cốt lõi là toàn cầu hóa kinh tế đã trở
thành một thực tế khách quan, tác động mạnh mẽ đến tất cả các quốc gia trong khu
vực và trên thế giới. Quá trình toàn cầu hóa kinh tế gia tăng ngày càng nhanh dưới
tác động của cách mạng khoa học – công nghệ. Mọi quốc gia không thể đứng ngoài
xu thế này. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập mạnh mẽ. Biểu hiện gần đây là
sự gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Yêu cầu hội nhập này đã mang lại
cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức. Một trong những thách thức đó là khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam so với các doanh nghiệp nước ngoài.
Quá trình hội nhập sẽ tăng cường thu hút đầu tư và chuyên giao kỹ thuật,
công nghệ cao về thương mại từ các nước tạo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam
tiếp thu công nghệ cao. Song, đây cũng là một thách thức cho các doanh nghiệp
Việt Nam. Sự cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ thương mại của Việt Nam hạn chế,
yếu kém về chất lượng, đơn điệu về chủng loại, giá thành cao,... so với doanh
nghiệp nước ngoài. Một trong những nguyên nhân cơ bản chính là công nghệ sản
xuất của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém. Để khắc phục được điều đó, doanh
nghiệp cần đổi mới công nghệ. Muốn vậy, doanh nghiệp phải có vốn để đầu tư cho
việc đổi mới công nghệ này. Nguồn tiền gửi của tổ chức, cá nhân tại các TCTD là
một trong những nguồn quan trọng để cung cấp vốn cho doanh nghiệp thông qua
trung gian tài chính là TCTD.
- Yêu cầu tái cấu trúc nền kinh tế cũng cần đến nguồn vốn đầu tư.
Từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua, vấn đề tái cấu trúc nền kinh
tế sau khi bị suy giảm được coi là việc làm cấp thiết được đặt ra không chỉ đối với
Việt Nam mà còn đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Để chuẩn bị cho việc tái cấu
trúc nền kinh tế, vốn là một trong những yếu tố quan trọng nhằm đáp ứng những chi
Huỳnh Anh
24
phí cần thiết để tổ chức lại, cấu trúc lại các bộ phận của nền kinh tế nói chung. Quá
trình tái cấu trúc nền kinh tế không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà còn của các
tổ chức, cá nhân trong xã hội. Trong đó, các doanh nghiệp là một trong những chủ
thể quan trọng trong kịch bản tái cấu trúc nền kinh tế. Vì vậy, không chỉ Nhà nước
mà các tổ chức kinh tế đều rất cần vốn trong quá trình tái cấu trúc nền kinh tế.
Như đã trình bày, huy động và tập trung nguồn vốn trong nước để phát triển
kinh tế - xã hội đang trở thành một bộ phận chủ yếu trong chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội của nước ta, bởi lẽ nhu cầu vốn đầu tư trong nước càng trở nên bức thiết
trong điều kiện khoa học kỹ thuật tiến bộ và sự phân công lao động quốc tế ngày
càng sâu rộng. Giờ đây, vốn càng trở nên quan trọng hơn trong quá trình tái cấu trúc
nền kinh tế, phục vụ mục tiêu khắc phục suy giảm kinh tế sau khủng hoảng, tiến đến
xây dựng nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
1.4. Ngƣời gửi tiền tại các tổ chức tín dụng
1.4.1. Khái quát về người gửi tiền
Pháp luật hiện hành không định nghĩa chung nhất về NGT. Tuy nhiên, chúng
ta cũng có thể hiểu khái niệm về NGT qua một số văn bản điều chỉnh về tiền gửi
như sau:
Theo quy chế tiền gửi tiết kiệm, tại Khoản 2 Điều 6, định nghĩa:
Người gửi tiền là người thực hiện giao dịch liên quan đến tiền gửi tiết
kiệm. Người gửi tiền có thể là chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm, hoặc đồng
chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm, hoặc người giám hộ hoặc người đại diện
theo pháp luật của chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm, của đồng chủ sở hữu
tiền gửi tiết kiệm.
Theo định nghĩa trên, NGT là người thực hiện giao dịch liên quan đến tiền
gửi, chỉ có thể là cá nhân hoặc nhóm cá nhân, không có chủ thể là tổ chức. Tuy
nhiên, theo Quy chế về mở và sử dụng tài khoản tiền gửi, khi liệt kê các đối tượng
được mở tài khoản tiền gửi, đối tượng này bao gồm cả các tổ chức24
.
Như đã phân tích, tiền mua một số loại giấy tờ có giá cũng là một hình thức
tiền gửi. Do đó, chủ thể mua các loại giấy tờ có giá này được xem là NGT. Theo
Quy chế này, người mua giấy tờ có giá bao gồm cả cá nhân và tổ chức25
.
24
Xem Khoản 2 Điều 2 Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng nhà nước và tổ chức tín
dụng ban hành kèm theo Quyết định số 1284 /2002/QĐ-NHNN2 ngày 21 -11 - 2002 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước.
25 Điều 3 Quy chế phát hành giấy tờ có giá.
Huỳnh Anh
25
Như vậy, khái quát chung chúng ta có thể hiểu, NGT là người thực hiện giao
dịch liên quan đến tiền gửi. NGT có thể là cá nhân, nhóm cá nhân hoặc tổ chức.
Mặc dù không có khái niệm chung về NGT, nhưng các văn bản quy phạm
pháp luật hiện hành đã chỉ ra những chủ thể nào có thể trở thành NGT đối với hai
hình thức gửi tiền cơ bản là tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm.
1.4.2. Phân loại chủ thể gửi tiền
Tiền gửi tạo được sự quan tâm của nhiều thành phần chủ thể khác nhau trong
đời sống xã hội. Các thành phần này lại có những nhu cầu rất khác nhau đối với tiền
gửi. Chính vì vậy, có rất nhiều loại khách hàng gửi tiền. Tuy nhiên, chúng ta có thể
phân loại NGT dựa trên các tiêu chí chung sau đây:
1.4.2.1. Căn cứ vào chủ thể gửi tiền, người gửi tiền được chia thành:
a) Chủ thể gửi tiền là cá nhân
Bên cạnh số ít cá nhân gửi tiền nhằm đáp ứng yêu cầu thanh toán, phần lớn
các cá nhân gửi tiền tại các TCTD là những khoản tiền dành dụm, chắt chiu trong
cuộc sống, khoản lãi từ tiền gửi có thể nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu cuộc sống
hằng ngày của họ. Họ ít có điều kiện tham gia đầu tư kinh doanh trực tiếp (do năng
lực hoặc điều kiện khác...) nên dựa hẳn vào tiền gửi. Vì vậy, tiền gửi rất quan trọng
đối với họ, khi tiền gửi này bị rủi ro thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của họ.
Đối tượng này thông thường là cán bộ hưu trí, hoặc người lao động có thu nhập
trung bình, người làm công ăn lương... Nhìn xa hơn, đời sống của những người này
bị ảnh hưởng sẽ trở thành một mối lo cho xã hội bởi lượng người này chiếm số
lượng khá lớn. Chính vì vậy, khi xây dựng các chính sách liên quan đến những đối
tượng này, Nhà nước luôn quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi cho họ. Trong quan
hệ tiền gửi, khi quy định về BHTG cũng quan tâm ưu ái cho đối tượng này.
b) Chủ thể gửi tiền là tổ chức
Chủ thể tiền gửi là tổ chức phần lớn là những tổ chức mở tài khoản nhằm
phục vụ cho nhu cầu thanh toán trong kinh doanh. Có thể nói, hầu hết các tổ chức
kinh doanh đều có tiền gửi tại NH. Nguồn gốc của tiền gửi thực chất là một phần
tiền của các thành viên góp vốn của doanh nghiệp hoặc của chủ sở hữu doanh
nghiệp. Tiền gửi này thường tách bạch với các khoản tiền khác của thành viên góp
vốn (trừ một số doanh nghiệp như công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân), khoản
tiền này được họ dùng để tìm kiếm lợi nhuận với những dự liệu rủi ro do hoạt động
kinh doanh mang lại. Vì vậy, nếu tiền gửi của họ bị rủi ro thì ít nghiêm trọng hơn so
với đa số khách hàng cá nhân gửi tiền.
Huỳnh Anh
26
Ngoài ra, một số tổ chức khác có những khoản tiền nhàn rỗi (do thu nhập,
nguồn quỹ của tổ chức,...) như các đơn vị sự nghiệp có thu hoặc của các cơ quan
nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức nghề nghiệp,... gửi tại TCTD nhằm
tranh thủ tìm kiếm thêm lợi nhuận, tăng thu nhập cho các thành viên của tổ chức.
1.4.2.2. Căn cứ vào mục đích gửi tiền, người gửi tiền được chia thành:
a) Chủ thể gửi tiền nhằm mục đích hưởng lãi
Chủ thể gửi tiền nhằm mục đích hưởng lãi thường gửi tiền dưới hình thức
tiền gửi tiết kiệm. Các hình thức tiết kiệm khác nhau phản ánh mục đích khác nhau
của NGT.
Đối với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Đối tượng NGT là cá nhân có tiền
nhàn rỗi muốn gửi TCTD vì mục tiêu an toàn và sinh lợi nhưng không thiết lập
được kế hoạch sử dụng tiền gửi trong tương lai. Khách hàng gửi tiền dưới hình thức
này nhằm mục tiêu an toàn, tiện lợi quan trọng hơn là mục đích sinh lợi.
Đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Đối tượng NGT là cá nhân có tiền nhàn
rỗi muốn gửi TCTD vì mục tiêu an toàn và sinh lợi và thiết lập được kế hoạch sử
dụng tiền gửi trong tương lai. Khách hàng gửi tiền dưới hình thức này là các cá
nhân muốn có thu nhập ổn định và thường xuyên, đáp ứng cho việc chi tiêu hàng
tháng hoặc hàng quý. Mục tiêu quan trọng của họ khi gửi tiền theo hình thức này là
lợi tức có được theo định kỳ.
Đối với tiền gửi thông qua việc mua các loại giấy tờ có giá: Như đã phân tích
tại Mục 1.2.1, tiền mua một số loại giấy tờ có giá như chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu,
kỳ phiếu cũng là một dạng tiền gửi. Loại tiền gửi này có vai trò tiết kiệm và đầu tư
là chủ yếu. Mục đích của khách hàng là muốn được hưởng lãi từ việc mua các giấy
tờ có giá đó. Các loại giấy tờ có giá đều có mệnh giá, thời hạn và lãi suất được thể
hiện trên giấy tờ đó. Khi đến hạn thanh toán, người mua giấy tờ có giá sẽ đến tổ
chức phát hành giấy tờ đó để nhận số tiền bằng mệnh giá của giấy tờ đó, cộng với
tiền lãi. Nó thực chất gần giống như là dạng tiền gửi có kỳ hạn. Trong trường hợp
chủ sở hữu giấy tờ có giá cần tiền mặt hoặc không muốn nắm giữ giấy tờ có giá đó
nữa thì có thể chiết khấu lại cho TCTD, thay vì rút tiền trước hạn như đối với tiền
gửi có kỳ hạn.
b) Chủ thể gửi tiền nhằm mục đích thanh toán
Tổ chức, cá nhân có nhu cầu thực hiện thanh toán qua NH thì họ sẽ mở tài
khoản tiền gửi thanh toán tại NH. Mục đích chủ yếu của đối tượng này là sử dụng
Huỳnh Anh
27
dịch vụ thanh toán của NH thông qua tài khoản tiền gửi, không nhằm mục đích
hưởng lãi.
Theo thông lệ các nước, NH không phải được trả lãi cho loại tiền gửi này,
mà NH còn yêu cầu khách hàng phải duy trì số dư tối thiểu, để được hưởng các dịch
vụ của khách hàng, nếu không có đủ số dư này thì khách hàng phải trả phí cho việc
sử dụng dịch vụ.
Ở Việt Nam, do dân chúng chưa có thói quen sử dụng dịch vụ thanh toán qua
NH nên để thu hút khách hàng, NH vẫn trả lãi đối với tài khoản tiền gửi thanh toán,
tuy nhiên mức lãi suất rất thấp.
Ngoài ra, đối với khách hàng có nhu cầu đầu tư, kinh doanh chứng khoán, họ
có thể mở tài khoản tiền gửi giao dịch chứng khoán. Đây là tài khoản thanh toán
chuyên dùng của khách hàng mở tại các NH để sử dụng cho mục đích kinh doanh
chứng khoán. Loại tài khoản này nhìn chung cũng có những tiện ích của một tài
khoản thanh toán khác trong việc sử dụng các dịch vụ thanh toán và thường vẫn
được hưởng lãi suất với mức lãi suất thấp như đối với các tài khoản thanh toán
khác. Tuy nhiên, mục đích chủ yếu là phục vụ cho kinh doanh chứng khoán của
khách hàng gửi tiền.
1.5. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của ngƣời gửi tiền
Trong quan hệ nhận tiền gửi giữa TCTD và NGT thì khách hàng gửi tiền
thường là những người có sự hiểu biết hạn chế hơn về hoạt động ngân hàng, đặc
biệt là những rủi ro trong hoạt động ngân hàng của TCTD. Vì vậy, trong nhiều
trường hợp họ không thể lường hết được những bất lợi mà mình có thể gặp phải khi
đem tiền gửi vào TCTD, họ không thể bảo vệ mình một cách tốt nhất. Do đó, họ cần
được sự trợ giúp của Nhà nước, sự bảo vệ của pháp luật.
Ngoài ra, NGT trong mối quan hệ với tổ chức nhận tiền gửi thì NGT ở vị trí
yếu thế hơn, quyền lợi của NGT dễ bị xâm hại hơn so với tổ chức nhận tiền gửi. Bởi
vì tổ chức nhận tiền gửi nắm giữ tiền gửi của NGT, nắm giữ thông tin về NGT,...
nhưng NGT không nắm giữ bất cứ tài sản bảo đảm từ phía TCTD. Bên cạnh đó,
NGT cũng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi những tác động khác của điều kiện kinh tế -
xã hội như lạm phát, khủng hoảng tài chính,...
Với chức năng đại diện cho đại bộ phận dân cư trong xã hội, Nhà nước sẽ sử
dụng công cụ có hiệu quả nhất là pháp luật, ban hành những quy định hạn chế
những rủi ro trong hoạt động tín dụng, hạn chế những tác động tiêu cực từ sự biến
Huỳnh Anh
28
động của điều kiện kinh tế - xã hội, những quy định ngăn ngừa sự xâm hại lợi ích
NGT từ phía TCTD, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NGT.
1.5.1. Xuất phát từ yêu cầu đảm bảo sự bình đẳng giữa tổ chức tín dụng và người gửi tiền
TCTD là trung gian tín dụng trong nền kinh tế, một trong những hoạt động
chủ yếu là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng. Khi nhận tiền gửi,
TCTD đóng vai trò là chủ thể vay, khi cấp tín dụng, TCTD đóng vai trò là chủ thể
cho vay. Như vậy, xét trong quan hệ này TCTD là chủ thể vay, trong quan hệ khác
TCTD là chủ thể cho vay.
Theo lẽ thường, đối với các hợp đồng vay tiền, để bảo đảm khả năng thanh
toán của người vay, người cho vay thường yêu cầu người vay phải cầm cố, thế chấp
tài sản bảo đảm tiền vay. Điều này đã là tập quán trong vay tiền và đã được pháp
luật ghi nhận từ lâu. Ở nước ta, theo quy định của pháp luật dân sự cũng điều chỉnh
về hợp đồng vay tài sản và những biện pháp bảo đảm. Tuy nhiên, trong quan hệ vay
tiền giữa TCTD (người đi vay) và các tổ chức, cá nhân gửi tiền (người cho vay) thì
không hoàn toàn như vậy. Cụ thể:
+ Trong hoạt động cho vay của TCTD, hầu hết các hợp đồng tín dụng đều có
tài sản bảo đảm, có ý nghĩa bảo vệ lợi ích của TCTD, đảm bảo khả năng thu hồi nợ
trong trường hợp khách hàng vay không có khả năng thanh toán các khoản vay. Khi
khách hàng không trả được nợ cho TCTD, TCTD có thể xử lý tài sản bảo đảm để
thu hồi nợ theo quy định.
+ Tuy nhiên, trong mối quan hệ nhận tiền gửi thì lại khác, khách hàng gửi
tiền vào TCTD chỉ dựa vào niềm tin đối với TCTD, uy tín của TCTD mà không
nhận bất kỳ tài sản bảo đảm nào từ phía TCTD. Mặc dù, xét về bản chất thì đây
cũng là hợp đồng vay nhưng chủ thể vay là TCTD, chủ thể cho vay là khách hàng
gửi tiền. Có thể nói, uy tín của TCTD là một yếu tố để khách hàng có thể tin cậy ở
mức độ nhất định hơn so với số đông tổ chức, cá nhân đi vay tiền bất kỳ (vì TCTD
được thành lập và hoạt động kinh doanh tiền tệ phải thỏa mãn những điều kiện cần
thiết về vốn, nghiệp vụ... và được pháp luật cho phép). Tuy nhiên, uy tín của TCTD
sẽ không thể đảm bảo được quyền lợi của NGT một khi TCTD mất khả năng thanh
toán.
Do vậy, để cân bằng lợi ích trong quan hệ nhận tiền gửi và gửi tiền, pháp luật
cần có những quy định bảo vệ quyền lợi của NGT trong quan hệ này.
1.5.2. Bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền từ những rủi ro của hoạt động tài chính
- ngân hàng
Huỳnh Anh
29
Trong hoạt động ngân hàng luôn tiềm ẩn rủi ro cao do tính kéo dài của quan
hệ kinh doanh. Khi TCTD gặp rủi ro thì đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp là NGT
vì khi đó TCTD không có khả năng chi trả tiền gửi cho họ. Những rủi ro này có thể
xuất phát từ những yếu tố sau:
- Đối tượng kinh doanh của TCTD là tiền tệ, một loại hàng hóa đặc biệt, vật
ngang giá chung trong trao đổi. Vì vậy, hoạt động kinh doanh tiền tệ chịu chi phối
của nhiều yếu tố tác động từ chính trị, kinh tế - xã hội.
Theo các nhà kinh tế học, tiền tệ được định nghĩa “là một vật đảm nhận đồng
thời vai trò công cụ trao đổi, công cụ thước đo giá trị và công cụ tích lũy”. Theo
Mác, “tiền tệ là thứ hàng hóa đặc biệt, tách ra khỏi thế giới hàng hóa, dùng làm vật
ngang giá chung để thể hiện và đo lường giá trị của mọi hàng hóa; nó trực tiếp thể
hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất”.
Như vậy, tiền tệ không chỉ là trung gian trao đổi, mà còn là một hàng hóa; nói cách
khác, tiền tệ không chỉ công cụ trung gian trong các trao đổi giữa những người sản
xuất hoặc những người buôn bán với người tiêu thụ, mà trong một số giao dịch, nó
đóng vai trò là đối tượng của giao dịch. Chính vì tính chất đặc biệt này của tiền tệ,
nên người ta gọi nó là hàng hóa đặc biệt. Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của
TCTD, tiền tệ đã trở thành hàng hóa, tiền tệ là đối tượng của các giao dịch trong
hoạt động kinh doanh này (hoạt động vay, cho vay).
Vì chức năng và đặc tính trên, tiền tệ được xem là một trong những phương
tiện hữu hiệu để đưa nền kinh tế đi đến những mục tiêu mong muốn. Chính vì vậy,
một mặt tiền tệ có khả năng tác động đến điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội; mặt
khác nó chịu sự chi phối bởi các điều kiện này. Chính vì vậy, hoạt động kinh doanh
tiền tệ cũng chịu sự chi phối rất lớn từ các điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội. Khi
cơ chế, chính sách này thay đổi có thể dẫn đến những biến động trong hoạt động
kinh doanh tiền tệ, có thể tác động tích cực hoặc mang lại rủi ro trong hoạt động
NH.
- Việc cho vay của TCTD phụ thuộc rất lớn vào việc sử dụng vốn vay của
khách hàng. Bởi việc sử dụng vốn vay của khách hàng ảnh hưởng đến kết quả của
việc cho vay, từ đó, ảnh hưởng đến khả năng chi trả tiền gửi cho khách hàng gửi
tiền.
Đối với hợp đồng vay tài sản thông thường thì người cho vay dùng tài sản
của chính mình để cho vay nên khi người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì
chỉ có người cho vay phải gánh chịu hậu quả. Tuy nhiên, việc cho vay của TCTD
chủ yếu dựa vào nguồn vốn huy động của tổ chức, cá nhân trong xã hội. Chính vì
Huỳnh Anh
30
vậy, do chức năng trung gian này mà các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của
khách hàng (người vay) sẽ ảnh hưởng ngay đến TCTD và qua đó ảnh hưởng đến
quyền lợi của NGT.
Trong trường hợp khách hàng sử dụng vốn gặp rủi ro do sử dụng vốn sai
mục đích, quá trình sản xuất kinh doanh bị thua lỗ, thậm chí dẫn đến phá sản... thì
việc thu hồi vốn và lãi tín dụng đầy đủ là không chắc chắn. Việc cho vay của TCTD
không đạt kết quả. Khi đó, TCTD có thể gặp rủi ro tín dụng.
Ngoài ra, những nguyên nhân khác dẫn đến rủi ro tín dụng của TCTD như do
sự non kém về nghiệp vụ của cán bộ tín dụng, sự tha hóa của một bộ phận cán bộ
tín dụng trong xét duyệt dự án cho vay, hoặc khách hàng gặp sự cố như thất nghiệp,
ốm đau, hoặc khách hàng “chay ỳ” không thanh toán tiền vay cho TCTD.
Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng cũng có thể từ phía Nhà nước. Do thay
đổi cơ chế, chính sách làm cho các doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính hoặc do
các yếu tố khách quan như ảnh hưởng của thị trường biến động, khủng hoảng kinh
tế, thiên tai,... làm cho các TCTD gặp nhiều khó khăn trong thu hồi nợ.
1.5.3. Bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền góp phần đảm bảo an toàn hệ thống
các tổ chức tín dụng
Do đặc trưng liên kết trong hệ thống các TCTD, vì vậy sẽ dẫn đến phản ứng
Đôminô khi một TCTD nào đó bị đổ vỡ. Cụ thể, khi TCTD nào đó gặp rủi ro dẫn
đến việc TCTD mất khả năng thanh toán tạm thời hoặc buộc chấm dứt hoạt động.
Khi đó, do quan hệ có tính ảnh hưởng dây chuyền có thể kéo theo các TCTD khác
cũng gặp khó khăn về thanh toán, từ đó ảnh hưởng đến an toàn hệ thống các TCTD.
Tính ảnh hưởng dây chuyền không chỉ trong hệ thống TCTD của một quốc gia mà
có thể ảnh hưởng đến hệ thống TCTD của các quốc gia khác trên thế giới, đặc biệt
là trong điều kiện hội nhập quốc tế như hiện nay.
Trong khi đó, hoạt động ngân hàng có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế
của mỗi quốc gia. Hoạt động ngân hàng giúp điều hòa nguồn vốn trong xã hội, thúc
đẩy sự phát triển kinh tế26
. Vì vậy, khi hệ thống TCTD sụp đổ sẽ kéo nền kinh tế đổ
vỡ theo. Đối với Việt Nam, hệ thống tài chính còn ở giai đoạn đầu của quá trình
phát triển theo cơ chế thị trường, nhu cầu vốn của nền kinh tế là rất lớn nên hoạt
26
Hoạt động ngân hàng khuyến khích tiết kiệm và đưa nguồn vốn trong xã hội vào sử dụng có hiệu quả. Việc
cung cấp tài chính cho các doanh nghiệp đã khuyến khích sản xuất, tạo thêm việc làm, tăng sản lượng và
giảm nhập khẩu hàng hóa. Mặt khác, việc khách hàng cá nhân vay vốn sẽ khuyến khích tăng nhu cầu về hàng
hóa và điều này sẽ giúp cho việc tăng cường sản xuất.
Huỳnh Anh
31
động ngân hàng có vai trò càng quan trọng trong việc cung ứng vốn nhằm duy trì
nhịp độ tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế.
Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới vừa qua là một minh chứng, hàng loạt
các NH sụp đổ, trong đó có những NH hàng đầu thế giới như Merill Lynch, Lehman
Brothers, Northern Rock… Với tính chất ảnh hưởng dây chuyền, khủng hoảng tài
chính đã lây lan giữa các quốc gia. Rất nhiều quốc gia trên thế giới rơi vào khủng
hoảng tài chính trầm trọng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của kinh tế
thế giới, bao gồm cả các cường quốc như Mỹ, Nhật, Anh. Đến nay, tình hình thế
giới còn nhiều biến động, hậu quả của cuộc khủng hoảng còn nặng nề. Chính vì
vậy, đảm bảo an toàn cho hoạt động của hệ thống các TCTD là tối cần thiết, đặc
biệt quan trọng đối với mọi quốc gia.
Trong quá trình giải quyết khủng hoảng, các nước trên thế giới thực hiện các
giải pháp để khắc phục, một trong những giải pháp đó là tăng cường bảo vệ quyền
lợi của NGT để tạo lòng tin cho họ. Giải pháp tức thời được thông qua là việc tăng
hạn mức chi trả bảo hiểm. Rõ ràng, bảo vệ NGT góp phần vào việc đảm bảo an toàn
hệ thống các TCTD vì khi NGT tin vào những quy định của pháp luật, cơ chế của
pháp luật có thể bảo vệ được quyền lợi của mình thì sẽ hạn chế việc NGT tin vào
những tin đồn thất thiệt, dẫn đến hiện tượng rút tiền hàng loạt, tạo nguy cơ “lung
lay” hệ thống các TCTD. Đồng thời cũng góp phần hạn chế xảy ra trường hợp
tương tự như khi có một TCTD tạm thời hoặc thật sự mất khả năng thanh toán cho
NGT, những NGT khác có thể do tâm lý hoang mang mà đồng loạt đến các TCTD
rút tiền gửi, đẩy các TCTD vào tình trạng thiếu khả năng chi trả,... đe dọa an toàn
của hệ thống các TCTD.
1.5.4. Thông qua hoạt động cung cấp dịch vụ, tổ chức tín dụng có thể gây thiệt
hại cho người gửi tiền
Cung ứng các dịch vụ thanh toán là một trong những chức năng chủ yếu của
TCTD là NH. Trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ, TCTD là NH cung cấp các
dịch vụ cho khách hàng gửi tiền thông qua tiền gửi, quản lý tài khoản khách hàng,
cũng như nắm giữ các thông tin liên quan đến tài khoản khách hàng. Thông qua
hoạt động này, vì nhiều lý do khác nhau đã ảnh hưởng đến quyền lợi của khách
hàng gửi tiền.
Thứ nhất, liên quan đến việc thực hiện nghiệp vụ thanh toán qua tài khoản.
Trong dịch vụ thanh toán, chuyển tiền là một dịch vụ khá cổ điển và phổ biến. Việc
chuyển tiền nhầm trong hoạt động ngân hàng đã là việc hiện hữu và cũng không
phải là hi hữu, dù cả NH và khách hàng điều không mong muốn. Đó là những
Huỳnh Anh
32
trường hợp NH nhầm về chủ thể được chuyển tiền, thay vì chuyển tiền từ khách
hàng A cho khách hàng B nhưng lại chuyển cho khách hàng C; hoặc chuyển nhầm
số tiền, tức là lẽ ra NH sẽ chuyển tiền vào tài khoản nào đó một số tiền X nhưng lại
chuyển vào tài khoản này số tiền Y27
. Khi đó, có những trường hợp khách hàng đã
không được NH chịu trách nhiệm về khoản tiền đã bị chuyển nhầm do NH cho rằng
mình không có lỗi trong việc chuyển nhầm, mặc dù việc chuyển tiền vốn là hoạt
động nghiệp vụ của NH. Bên cạnh đó, về phía người được nhận số tiền chuyển
nhầm, về nguyên tắc họ không có lỗi, vì tiền vào tài khoản họ có thể biết hoặc
không biết rõ nguồn gốc và rút tiền ra sử dụng. Tuy nhiên, khi có thông báo mà họ
cố tình chiếm dụng thì có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý bằng pháp luật,
yêu cầu người thụ hưởng hoàn trả số tiền nói trên. Trong nhiều trường hợp vì muốn
sớm thu lại số tiền mà nhân viên NH có những ứng xử khiến khách hàng gặp nhiều
phiền phức và gặp rắc rối không đáng, ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng.
Thứ hai, liên quan đến vấn để bảo mật thông tin khách hàng. NGT mang tiền
đến gửi tại TCTD bên cạnh nhu cầu về thanh toán, hưởng lãi, họ còn có nhu cầu
được bảo mật thông tin liên quan đến tiền gửi. Về nguyên tắc, TCTD bảo đảm
những thông tin cá nhân cho họ. Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của công
nghệ thông tin, cũng như việc ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực tài
chính - ngân hàng đã phổ biến và đa dạng, đòi hỏi cơ chế bảo vệ thông tin cho NGT
càng chặt chẽ hơn.
Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán nước ta ngày càng phát triển, đây là thị
trường phức tạp, vấn đề thông tin rất quan trọng đối với các nhà đầu tư chứng
khoán. Các đối thủ cạnh tranh có thể lợi dụng việc nắm bắt thông tin về khách hàng
gửi tiền để gây bất lợi cho nhà đầu tư. Từ đó cho thấy, bảo vệ bí mật thông tin cho
khách hàng trong điều kiện hiện nay là rất cần thiết.
1.6. Những quyền lợi của ngƣời gửi tiền cần đƣợc bảo vệ
1.6.1. Quyền được tạo thuận lợi khi gửi tiền và rút tiền
Tổ chức, cá nhân gửi tiền vào TCTD xuất phát từ nhu cầu đầu tư sinh lợi.
Đây là nhu cầu chính đáng, giúp họ có thêm thu nhập, đáp ứng lợi ích của nhà đầu
tư. Thu nhập của các cá nhân, tổ chức trong xã hội tăng chính là góp phần vào sự
27
Một số vụ việc chuyển tiền nhầm có giá trị lớn: Năm 2006, NH Ngoại thương Việt Nam đã chuyển nhầm
số tiền 4 triệu đồng thành hơn 48,5 tỷ đồng cho khách hàng. Năm 2008, NH Thương mại Cổ phần Kỹ thương
đã chuyển nhầm cho khách hàng số tiền 306 triệu đồng. Năm 2010, NH Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Agribank chi nhánh Đà Nẳng chuyển nhầm vào tài khoản ông Phạm Sự số tiền 1,277 tỷ đồng, trong khi tiền
thực hưởng của ông Sự chỉ hơn 105 triệu đồng.
Huỳnh Anh
33
giàu có của quốc gia, cần được khuyến khích. Bên cạnh đó, TCTD là tổ chức kinh
doanh tiền tệ, nhận tiền gửi để cấp tín dụng, việc gửi tiền của khách hàng tại TCTD
chính là phục vụ cho nhu cầu kinh doanh của TCTD, giúp TCTD có nguồn vốn để
cho vay, sinh lời. Vì vậy, TCTD có trách nhiệm tạo thuận lợi cho khách hàng khi
gửi tiền.
Mặt khác, tiền gửi tại TCTD vẫn thuộc quyền sở hữu của khách hàng, khách
hàng có quyền rút tiền, thể hiện sự định đoạt của chủ sở hữu đối với tiền gửi. Tất
nhiên, việc rút tiền này phải nằm trong giới hạn sự thỏa thuận giữa NGT và TCTD
trong hợp đồng gửi tiền về vấn đề rút tiền gửi28
.
Tạo thuận lợi cho NGT là đảm bảo việc gửi tiền và rút tiền được nhanh
chóng, dễ dàng. Chẳng hạn, thủ tục gửi tiền và rút tiền cần đơn giản, gọn nhẹ, khách
hàng có thể lựa chọn TCTD để gửi tiền, khách hàng có thể đồng thời gửi tiền ở
nhiều TCTD khác nhau, gửi tiền tại một TCTD nhưng có thể rút tiền ở nhiều TCTD
khác...
1.6.2. Quyền được trả đầy đủ, đúng hạn gốc và lãi mọi khoản tiền gửi
Có thể nói đây là quyền quan trọng nhất mà khách hàng quan tâm. Trong
mối quan hệ giữa NGT và tổ chức nhận tiền gửi thì thực chất là mối quan hệ giữa
một bên là chủ thể vay (TCTD) và một bên là chủ thể cho vay (NGT). Chủ thể vay
sau khi nhận được tiền vay (lợi ích) thì đương nhiên phải có nghĩa vụ đối với người
cho vay trong việc chi trả vốn và lãi. Đây là nghĩa vụ cơ bản của bên vay trong hợp
đồng vay tài sản.
Đối với tiền gửi dưới dạng các loại giấy tờ có giá, cũng cùng nguyên lý trên,
TCTD phát hành phải chi trả đầy đủ gốc và lãi cho khách hàng khi đến hạn thanh
toán được ghi trên giấy tờ có giá đó. Xuất phát từ tính chất của giấy tờ có giá, khách
hàng cũng có thể thanh toán trước hạn thông qua hoạt động chiết khấu giấy tờ có
giá của TCTD, khi đó TCTD sẽ mua lại giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán của
khách hàng. Trong trường hợp này giá và lãi suất chiết khấu sẽ do khách hàng và
TCTD thỏa thuận phù hợp quy định pháp luật.
1.6.3. Quyền được đảm bảo bí mật thông tin tiền gửi (số dư tài khoản, số tài
khoản,...), an toàn tài khoản
28
Tức là phụ thuộc vào sự thỏa thuận trong hợp đồng tiền gửi giữa NGT và TCTD về thời hạn rút tiền, về rút
tiền trước hạn... Chẳng hạn, nếu khách hàng thỏa thuận trong hợp đồng nhận tiền gửi là không được rút trước
hạn thì khi chưa đến hạn thanh toán, khách hàng không thể buộc TCTD tạo điều kiện thuận lợi cho họ rút
tiền.
Huỳnh Anh
34
1.6.3.1. Quyền đảm bảo bí mật thông tin tiền gửi
Việc bảo đảm bí mật thông tin khách hàng chính là bảo vệ lợi ích chính đáng
của khách hàng. Bảo mật thông tin tiền gửi của khách hàng góp phần đảm bảo an
toàn tiền gửi của khách hàng, tránh được việc bị kẻ xấu lợi dụng những thông tin
biết được để rút tiền khách hàng hoặc có những hành vi phá hoại gây thiệt hại cho
khách hàng.
Hiện nay, công nghệ thông tin trong lĩnh vực ngân hàng đã được sử dụng
rộng rãi, bọn tội phạm cũng có những thủ đoạn mới và tinh vi hơn. Chẳng hạn, khi
bọn tội phạm có được mật khẩu hay mã giao dịch giữa NH và khách hàng, chúng có
thể sử dụng tài khoản khách hàng hoặc yêu cầu NH thực hiện những giao dịch gây
bất lợi cho khách hàng,...
Đối với khách hàng gửi tiền là các chủ thể kinh doanh thì thông tin về tiền
gửi cũng là một dạng bí mật trong kinh doanh của NGT. Những thông tin này có thể
phản ánh phương án sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính, mối quan hệ với đối
tác của khách hàng gửi tiền,... Những thông tin này nếu bị khai thác bởi đối thủ
cạnh tranh thì có thể gây thiệt hại cho khách hàng. Đảm bảo bí mật thông tin khách
hàng gửi tiền cũng chính là góp phần chống lại những người có ý đồ cạnh tranh
không lành mạnh.
Một số thông tin cụ thể của khách hàng cần được bảo mật bao gồm:
- Số hiệu tài khoản của khách hàng
Số hiệu tài khoản chính là mã tài khoản. Số hiệu tài khoản tiền gửi giúp phân
biệt các tài khoản của các khách hàng khác nhau trong quản lý ngân hàng. Muốn rút
tiền hoặc gửi tiền vào một tài khoản nhất định thì phải biết số tài khoản đó, trừ
trường hợp rút tiền thông qua máy rút tiền tự động, người rút tiền có thể không cần
sử dụng số hiệu tài khoản, thay vào đó chủ tài khoản phải có thẻ và biết mã số pin.
Đối với những NGT vào TCTD theo hình thức tiết kiệm, tiền gửi kỳ hạn
nhằm mục đích an toàn tiền gửi, hưởng lãi suất, họ thường có nhu cầu bảo mật số
hiệu tài khoản không chỉ nhằm tránh khai thác của kẻ thứ ba gây thiệt hại tài sản
của họ, họ còn muốn không ai biết được họ đã có tài khoản gửi tại TCTD, chưa nói
đến việc người khác biết được ngày đáo hạn của số tiền gửi thông qua số hiệu tài
khoản.
Đối với tài khoản thanh toán, đối tác của khách hàng dễ dàng có được số
hiệu tài khoản thông qua lần giao dịch đầu tiên với khách hàng. Tuy nhiên, về
nguyên tắc TCTD cần tôn trọng bí mật số hiệu tài khoản của khách hàng, trừ trường
Huỳnh Anh
35
hợp khách hàng cho phép hoặc ngầm cho phép thông qua việc khách hàng công bố
số hiệu tài khoản của mình một cách công khai.
- Mẫu chữ ký của chủ tài khoản
Chữ ký của chủ tài khoản được chủ tài khoản đăng kí khi mở tài khoản tại
TCTD. Mẫu chữ ký này được sử dụng trên các chứng từ giao dịch với TCTD và
giữa khách hàng với người được ủy quyền kí thay.
Hiện nay, bên cạnh việc khách hàng đăng kí chữ ký mẫu trên giấy, chữ ký
điện tử đã được các TCTD sử dụng ngày càng rộng rãi, chữ ký điện tử có giá trị như
chữ ký trên giấy. Chữ ký điện tử được tạo lập dưới dạng từ, chữ, số, ký hiệu, âm
thanh hoặc các hình thức khác bằng phương tiện điện tử, gắn liền hoặc kết hợp một
cách lô gíc với thông điệp dữ liệu, có khả năng xác nhận người ký thông điệp dữ
liệu và xác nhận sự chấp thuận của người đó đối với nội dung thông điệp dữ liệu
được kí29
.
Chữ ký của khách hàng là một trong những yếu tố của chứng từ để TCTD
giao dịch với khách hàng. Nếu chữ ký của khách hàng bị TCTD tiết lộ, kẻ gian có
thể lợi dụng để rút tiền của khách hàng hoặc có những hành vi khác như mạo danh
khách hàng để thực hiện những giao dịch khách hàng không muốn, hoặc yêu cầu
TCTD cung cấp thông tin về khách hàng…, trên cở sở giả mạo chữ ký có thể gây
thiệt hại tài sản cho khách hàng.
Hiện nay, các TCTD, đặc biệt TCTD là NH đã thực hiện cung cấp nhiều dịch
vụ cho khách hàng thông qua mạng internet. Việc sử dụng dịch vụ ngân hàng điện
tử đã rất phổ biến. Chữ ký điện tử đã được sử dụng trong các giao dịch qua NH đã
không còn xa lạ. Vì vậy, bảo vệ bí mật chữ ký khách hàng có ý nghĩa vô cùng quan
trọng.
- Doanh số hoạt động
Doanh số hoạt động của khách hàng phản ánh tình hình kinh doanh của
khách hàng, đặc biệt là những khách hàng chủ yếu sử dụng các dịch vụ của TCTD
trong hoạt động của mình.
Doanh số hoạt động của khách hàng nếu bị đối thủ cạnh tranh biết được có
thể gây bất lợi cho khách hàng. Từ thông tin về doanh số hoạt động, đối thủ cạnh
29
Luật giao dịch điện tử 2005.
Huỳnh Anh
36
tranh sẽ biết được tình hình tài chính của khách hàng, khách hàng kinh doanh thua
lỗ hay có lời,…, từ đó có lợi thế trong hoạch định kế hoạch kinh doanh, có thể tranh
giành đối tác, gây thiệt hại cho khách hàng.
- Số dư tài khoản
Số dư tài khoản chính là khoản nợ của NH đối với chủ tài khoản vào thời
điểm nhất định (số dư có). Tuy nhiên, trong trường hợp có sự thỏa thuận trước giữa
khách hàng và TCTD nợ, khi đó khách hàng trở thành người vay tiền. Số dư nợ phải
trả lãi cho TCTD và không được vượt quá số dư nợ do TCTD cho phép.
Biết được số dư tài khoản của một nhà kinh doanh sẽ nắm được khả năng tài
chính của doanh nhân đó, đặc biệt là những doanh nhân chủ yếu sử dụng dịch vụ
NH. Vì vậy, nếu TCTD tiết lộ số dư tài khoản của khách hàng, đối thủ cạnh tranh
của khách hàng nắm được thông tin này có thể gây thiệt hại cho khách hàng như
giành mối làm ăn với khách hàng, hoặc có thể chèn ép khách hàng khi cùng kí hợp
đồng cùng bán hoặc cùng mua một loại sản phẩm nào đó chẳng hạn. Chính vì vậy,
số dư tài khoản của khách hàng cần được TCTD bảo mật.
Ngoài ra còn có các thông tin khác như các thông tin liên quan đến giao dịch
rút tiền, chuyển tiền và tài sản của khách hàng, nội dung các văn bản, giấy tờ của
NGT.
Vấn đề bảo mật thông tin khách hàng phải đặt trong mối tương quan với lợi
ích của các chủ thể khác, lợi ích của TCTD, lợi ích chung của toàn xã hội. Do vậy,
dù không có sự thỏa thuận giữa TCTD và khách hàng, TCTD có thể cung cấp thông
tin khách hàng cho chủ thể thứ ba trong một số trường hợp nhất định. Chẳng hạn,
cung cấp thông tin theo yêu cầu bằng văn bản của các cơ quan Nhà nước trong quá
trình thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, Tổng Giám đốc tổ chức
BHTG,…
1.6.3.2. Quyền đảm bảo an toàn tài khoản
Đảm bảo an toàn tài khoản khách hàng xuất phát từ việc đảm bảo quyền sở
hữu hợp pháp của chủ sở hữu đối với tài sản của họ. Bên cạnh đó, một trong những
mục đích khách hàng gửi tiền vào TCTD chính là muốn được đảm bảo an toàn tiền
gửi. Thay vì cất giữ tiền tại nhà, khách hàng cho rằng TCTD là nơi có uy tín, có thể
tin cậy khi gửi tiền vào.
Tuy vậy, trong những trường hợp nhất định, tài khoản của khách hàng có thể
bị xâm hại. Như đã phân tích trên, kẻ gian lợi dụng việc nắm bắt được thông tin
khách hàng để xâm hại đến tài khoản khách hàng. Ngoài ra, trong quá trình tác
Huỳnh Anh
37
nghiệp, vấn đề sai sót trong thanh toán, chuyển tiền của TCTD cũng đe dọa đến an
toàn tiền gửi khách hàng. Điều này cũng đặt ra yêu cầu đảm bảo an toàn tài khoản
khách hàng.
1.6.4. Quyền được cung cấp thông tin về tiền gửi: lãi suất, số dư,...
Hợp đồng tiền gửi giữa TCTD và NGT là một hợp đồng khá đặc biệt, không
chỉ vì đối tượng của hợp đồng là một loại hàng hóa đặc biệt mà nó còn đặc biệt ở
chỗ đối tượng của hợp đồng có thể thường xuyên biến động (sự thay đổi số dư trên
tài khoản tiền gửi), yếu tố của hợp đồng là lãi suất cũng có thể thay đổi theo thời
gian. Vì vậy, chủ thể của hợp đồng có quyền được cung cấp những thông tin thuộc
về nội dung của hợp đồng.
Mặt khác, việc cung cấp thông tin về tiền gửi cho khách hàng có ý nghĩa đảm
bảo tính công khai minh bạch thông tin, khẳng định sự cạnh tranh lành mạnh của
TCTD trên thị trường.
Việc cung cấp thông tin tiền gửi chính là là đáp ứng quyền lợi chính đáng
của tổ chức, cá nhân gửi tiền. Thể hiện:
- Biết số dư của mình trong tài khoản, một mặt giúp khách hàng kiểm soát
được số tiền mà họ đã sử dụng hoặc đã được chi trả qua tài khoản tiền gửi của họ,
tạo được sự chủ động trong sử dụng tài khoản; mặt khác, việc được thông báo số dư
thường xuyên giúp khách hàng có thể phát hiện sự sai sót của TCTD trong việc chi
trả hoặc trường hợp có sự cố kỹ thuật, từ đó giúp khách hàng kịp thời thông báo với
TCTD để điều chỉnh phù hợp30
.
- Biết lãi suất tiền gửi có ý nghĩa giúp khách hàng lựa chọn hình thức gửi tiền
(tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi thanh
toán,…), nơi gửi tiền (chọn lựa TCTD có mức lãi suất ưu đãi hơn chẳng hạn) sao
cho đảm bảo tốt nhất quyền lợi chính đáng của mình. Vì vậy, lãi suất tiền gửi cần
được thông báo công khai để khách hàng dễ dàng nắm bắt. Chẳng hạn, niêm yết tại
TCTD hoặc đưa lên trang web của TCTD.
Ngoài ra, lãi suất tiền gửi của khách hàng tại TCTD có thể thay đổi theo từng
thời kỳ tùy theo lãi suất thị trường. Do đó, NGT cần phải được biết lãi suất mà họ
30
Hiện nay, thông qua các dịch vụ ngân hàng điện tử như iB@nking, SMS B@nking và Phone B@nking,
TCTD có thể dễ dàng cung cấp thông tin về những lần giao dịch gần nhất cũng như số dư trên tài khoản của
khách hàng nhanh chóng, tiện lợi. Đối với tài khoản thẻ, khách hàng cũng có thể thực hiện sao kê tài khoản
hoặc kiểm tra số dư dễ dàng thông qua việc sử dụng máy ATM.
Huỳnh Anh
38
được hưởng trong từng thời điểm, đáp ứng được nhu cầu kiểm soát tiền lãi, kiểm
soát tài khoản của khách hàng đối với tài khoản tiền gửi của mình.
1.6.5. Quyền định đoạt tiền gửi, để lại di sản thừa kế
Quyền định đoạt tiền gửi cũng xuất phát từ quyền đương nhiên của chủ sở
hữu đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Để lại di sản thừa kế cũng chính
là quyền đặc biệt trong quyền định đoạt của chủ sở hữu. Đảm bảo quyền định đoạt
tiền gửi cũng chính là bảo đảm quyền định đoạt đương nhiên này.
Tuy nhiên, giữa NGT và TCTD có tồn tại hợp đồng tiền gửi. Vì vậy, định
đoạt ở đây được hiểu là định đoạt trên cơ sở đảm bảo trách nhiệm của NGT đối với
tổ chức nhận tiền gửi. Bởi vì, khi khách hàng gửi tiền tại TCTD, khách hàng tạm
thời chuyển quyền sử dụng số tài sản này cho TCTD. Trách nhiệm này do chính bản
thân khách hàng tự nguyện thiết lập khi giao kết hợp đồng với TCTD.
- Việc định đoạt tài khoản tiền gửi của khách hàng thể hiện ở những nội dung
sau:
+ Khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào khách hàng muốn đối với
những khoản tiền gửi không kỳ hạn và được quyền rút trước hạn theo quy định pháp
luật đối với những khoản tiền gửi có kỳ hạn (quyền định đoạt bị hạn chế vì khách
hàng đã tự thỏa thuận với TCTD chấp nhận sự hạn chế này khi gửi tiền vào TCTD).
Khách hàng cũng có thể ủy quyền cho người khác sử dụng số tiền này thông qua
hợp đồng ủy quyền hoặc giấy ủy quyền có công chứng hoặc chứng thực, hoặc sử
dụng số tiền đó làm tài sản bảo đảm,…
+ Khách hàng được quyền yêu cầu NH mở lại tài khoản đóng, phong toả
hoặc thay đổi cách thức sử dụng tài khoản khi cần thiết 31
.
+ Khách hàng có thể để lại thừa kế số tiền gửi thông qua di chúc hoặc
thừa kế theo pháp luật theo quy định pháp luật thừa kế.
+ Đối với các loại giấy tờ có giá, người sở hữu giấy tờ có giá có quyền
chuyển nhượng dưới các hình thức mua, bán, tặng cho, thừa kế giấy tờ có giá hoặc
người sở hữu có thể dùng giấy tờ có giá để làm vật cầm cố, bảo lãnh và các giao
dịch hợp pháp khác.
31 Chẳng hạn, khách hàng yêu cầu phong tỏa tài khoản vì lí do riêng tư, hoặc khi nghi ngờ có người có thể giả
mạo mình để rút tiền do biết được thông tin về tài khoản của mình, đặc biệt là đối với những giao dịch điện
tử, hoặc khách hàng đánh mất thẻ đối với tài khoản thẻ... Sau khi đảm bảo an toàn tài khoản, khách hàng có
thể yêu cầu TCTD mở tài khoản đã phong tỏa.
Huỳnh Anh
39
1.6.6. Quyền được bảo hiểm chi trả khi tổ chức tín dụng gặp rủi ro
Trong quan hệ nhận tiền gửi, hay quan hệ vay tiền, trong đó bên vay là
TCTD và bên cho vay là NGT, bên cho vay đã không nắm giữ bất kỳ tài sản bảo
đảm nào từ phía bên vay. Vì vậy, khi TCTD gặp rủi ro dẫn đến mất khả năng chi
trả, khi đó, chủ thể chịu ảnh hưởng trực tiếp chính là NGT. TCTD sẽ không thể
thanh toán hoặc thanh toán rất ít cho NGT. Vì vậy, cần có một biện pháp bảo vệ
quyền lợi NGT trong tình huống này, đó chính là BHTG. Theo đó, NGT sẽ được
thanh toán một khoản tiền bảo hiểm gồm tất cả hoặc một phần tiền gửi và lãi suất
khi tổ chức nhận tiền gửi bị phá sản hoặc mất khả năng thanh toán.
Việc đảm bảo quyền này cho khách hàng cũng có ý nghĩa quan trọng là tránh
được hiện tượng rút tiền hàng loạt của khách hàng, từ đó lây lan sang các TCTD
khác theo phản ứng dây chuyền, đe dọa sự an toàn của hệ thống tài chính - ngân
hàng.
Thực tế cho thấy hầu hết các nước trên thế giới đều thành lập các tổ chức
BHTG chính thức sau khi các cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra ở nước họ, xuất
phát từ việc nhận thức được vai trò quan trọng của BHTG đối với NGT nói riêng,
hệ thống tài chính ngân hàng nói chung.
1.6.7. Quyền khởi kiện tổ chức tín dụng có hành vi vi phạm hợp đồng đã cam kết
theo quy định của pháp luật.
Chúng ta khẳng định rằng cần bảo vệ quyền của NGT như: quyền được tạo
điều kiện thuận lợi khi gửi và rút tiền, quyền được định đoạt tiền gửi,... Nhưng
những quyền này trên thực tế không phải lúc nào cũng được đảm bảo dù đã được
thừa nhận. Vì nhiều lý do khác nhau mà TCTD có thể vi phạm quyền lợi của NGT.
Bên cạnh việc tự giải quyết của các bên (NGT và TCTD) như thỏa thuận, thương
lượng... chưa đảm bảo tốt nhất quyền lợi của NGT vì thiếu tính cưỡng chế trực tiếp
của nhà nước.
Do đó, quyền khởi kiện là giải pháp sau cùng và là công cụ tố tụng hữu hiệu
để bảo vệ quyền lợi NGT khi lợi ích bị xâm hại. Theo đó, khi TCTD vi phạm hợp
đồng hoặc vi phạm những nghĩa vụ khác đối với NGT, gây thiệt hại cho NGT, NGT
có quyền khởi kiện tổ chức nhận tiền gửi đó và yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu
Huỳnh Anh
40
có) nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng cho mình32
. Kết quả giải quyết của cơ quan có
thẩm quyền có tính bắt buộc, đảm bảo thực thi bằng sự cưỡng chế nhà nước.
Kết luận chương 1:
Tiền gửi có khái niệm khá rộng bao gồm các hình tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi
không kỳ hạn, tiền gửi dưới hình thức phát hành các loại giấy tờ có giá. Tiền gửi có
vai trò quan trọng không chỉ đối với người gửi tiền, mà còn có vai trò to lớn đối với
sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại
hóa cũng như yêu cầu tái cấu trúc nền kinh tế của nước ta hiện nay. Vì vậy, để góp
phần vào sự ổn định và phát triển của nền kinh tế nói chung, góp phần vào huy động
được lượng tiền gửi dồi dào để cung cấp cho nền kinh tế đang “đói vốn” nói riêng,
nhất thiết phải đảm bảo được quyền và lợi ích chính đáng của người gửi tiền.
Ở một khía cạnh khác, bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền chính là sự bảo vệ
của nhà nước với tư cách là đại diện cho đông bảo quần chúng nhân dân đối với tổ
chức, cá nhân trong xã hội. Bởi vì, xuất phát từ tính chất mối quan hệ tiền gửi giữa
người gửi tiền và tổ chức tín dụng đặt ra yêu cầu bảo vệ quyền lợi của người gửi
tiền. Cụ thể, một là: người gửi tiền đóng vai trò là chủ thể cho vay nhưng không
nắm giữ bất kỳ tài sản bảo đảm nào từ phía chủ thể đi vay (tổ chức tín dụng ); hai
là: Xét một cách chung nhất, người gửi tiền có sự hiểu biết hạn chế hơn so với tổ
chức tín dụng về lĩnh vực hoạt động ngân hàng nên họ không thể lường hết được
những rủi ro có thể xảy ra, dẫn đến không thể bảo vệ quyền lợi cho mình một cách
tốt nhất.
32
Theo Điều 161 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 về quyền khởi kiện: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự
mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.
Huỳnh Anh
41
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA
NGƢỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN
2.1. Quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi của ngƣời gửi tiền
2.1.1. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh việc bảo vệ quyền lợi
của người gửi tiền
Quyền lợi của NGT được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật có
liên quan. Bao gồm:
- Luật Các TCTD 1997. Luật này điều chỉnh tổ chức và hoạt động của các
TCTD và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng, trong đó có quy định trách
nhiệm của các tổ chức này trong việc bảo vệ quyền lợi của NGT;
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD năm 2004.
- Quy chế tiền gửi tiết kiệm ban hành kèm theo Quyết định số
1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13 tháng 9 năm 2004 của Thống đốc Ngân hàng nhà
nước Việt Nam (sau đây gọi là Quy chế tiền gửi tiết kiệm). Quy chế này điều chỉnh
các hoạt động nhận và chi trả tiền gửi tiết kiệm bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ
trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam giữa tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm và NGT;
- Quyết định số 47/2006/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 9 năm 2006 của Thống
đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy
chế về tiền gửi tiết kiệm. (sau đây gọi là Quyết định số 47/2006/QĐ-NHNN);
- Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20 tháng 9 năm 2001 của Chính phủ về
hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (sau đây gọi là
Nghị định số 64/2001/NĐ-CP);
- Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại NHNN và các TCTD ban
hành kèm theo Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN ngày 21 tháng 11 năm 2002
của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Quy chế mở và sử
dụng tài khoản tiền gửi);
- Nghị định số 70/2000/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2000 của Chính phủ
về việc giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản
gửi của khách hàng.(sau đây gọi là Nghị định số 70/2000/NĐ-CP).
Huỳnh Anh
42
- Thông tư số 02/2001/TT-NHNN ngày 4 tháng 4 năm 2001 của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thi hành Nghị định số 70/2000/NĐ-CP (sau đây gọi
là Thông tư số 02/2001/TT-NHNN );
- Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 của Chính phủ về
bảo hiểm tiền gửi (sau đây gọi là Nghị định số 89/1999/NĐ-CP). Mục tiêu chủ yếu
của việc ban hành Nghị định này là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
NGT, góp phần duy trì sự ổn định của TCTD, đảm bảo sự phát triển an toàn, lành
mạnh cho hệ thống NH;
- Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2005 của Chính phủ
về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01
tháng 9 năm 1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi (sau đây gọi là Nghị định số
109/2005/NĐ-CP);
- Thông tư số 03/2006/TT-NHNN ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam về việc hướng dẫn một số nội dung tại Nghị định số
89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi và Nghị định
số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP (sau đây gọi là Thông tư số 03/2006/TT-
NHNN);
- Các văn bản pháp luật khác.
2.1.2. Thực tiễn pháp luật điều chỉnh việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền
Việc tiếp cận của pháp luật hiện hành về quyền lợi NGT không quy định trực
tiếp mà nó được quy định thông qua trách nhiệm của TCTD. Bởi tư cách NGT hình
thành trên cơ sở quan hệ nhận tiền và gửi tiền giữa khách hàng và TCTD và mọi lợi
ích liên quan đến tiền gửi của NGT do TCTD là chủ thể chi phối chủ yếu. Quy định
được xem là chủ đạo làm cơ sở cho những quy định cụ thể trong việc bảo vệ quyền
lợi của NGT được thể hiện tại Điều 17 Luật Các TCTD 1997, theo đó:
Tổ chức tín dụng có trách nhiệm:
[1]. Tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi; mức bảo toàn
hoặc bảo hiểm do Chính phủ quy định;
[2]. Tạo thuận lợi cho khách hàng gửi và rút tiền theo yêu cầu; bảo
đảm trả đầy đủ, đúng hạn gốc và lãi của mọi khoản tiền gửi;
Huỳnh Anh
43
[3]. Bảo đảm bí mật số dư tiền gửi của khách hàng; từ chối việc điều
tra, phong toả, cầm giữ, trích chuyển tiền gửi mà không có sự đồng ý của
khách hàng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
[4]. Thông báo công khai mức lãi suất tiền gửi.
Để bao quát và hệ thống việc phân tích thực tiễn pháp luật về bảo vệ quyền
lợi của NGT, chúng tôi tiến hành tìm hiểu các quy định pháp luật ở các khía cạnh
sau: gửi tiền và nhận tiền gửi tại các TCTD; mở tài khoản tiền gửi và sử dụng tài
khoản; quyền định đoạt đối với tiền gửi khi tổ chức gửi tiền chấm dứt hoạt động, cá
nhân gửi tiền chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự; bảo vệ NGT khi TCTD
mất khả năng thanh toán.
2.1.2.1. Thực tiễn pháp luật về gửi tiền và nhận tiền gửi tại các tổ chức tín dụng
a) Về các loại tiền gửi
Theo quy định hiện hành, tại Khoản 2 Điều 1 Quy chế tiền gửi tiết kiệm:
“Quy chế này điều chỉnh các hoạt động nhận và chi trả tiền gửi tiết kiệm bằng đồng
Việt Nam và ngoại tệ trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam giữa tổ chức nhận tiền gửi tiết
kiệm và người gửi tiền”; Khoản 4 Điều 1 Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi
tại NHNN và TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 1284 /2002/QĐ-NHNN:
“Việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi đồng Việt nam và ngoại tệ của người không
cư trú và người cư trú phải tuân thủ theo các quy định tại Quy chế này và các quy
định hiện hành của Nhà nước về quản lý ngoại hối”; theo Khoản 11 Điều 4 Pháp
lệnh ngoại hối 2005: “Tổ chức tín dụng được phép là các ngân hàng và các tổ chức
tín dụng phi ngân hàng được hoạt động ngoại hối và cung ứng dịch vụ ngoại hối
theo quy định tại Pháp lệnh này”33
.
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, TCTD được phép nhận tiền
gửi bằng đồng Việt Nam và cả ngoại tệ. Việc nhận tiền gửi bằng ngoại tệ chỉ áp
dụng đối với các tổ chức nhận tiền gửi được phép hoạt động ngoại hối và phải phù
hợp với quy định hiện hành của Chính phủ và NHNN về quản lý ngoại hối34
. Ngoại
tệ được hiểu là đồng tiền của quốc gia, lãnh thổ khác, đồng tiền chung Châu Âu và
đồng tiền chung khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực35
. Tiền gửi
bằng nội tệ và ngoại tệ có thể thể hiện dưới hình thức các loại giấy tờ có giá. Theo
33
Pháp lệnh này là Pháp lệnh Ngoại hối 2005.
34 Khoản 5 Điều 4 Quy chế tiền gửi tiết kiệm.
35 Nghị định số 160/2006/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh ngoại hối.
Huỳnh Anh
44
Luật Các TCTD 2010, đó là các loại giấy tờ có giá như chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu,
tín phiếu.
b) Về đối tượng gửi tiền
- NGT là cá nhân
Giao dịch về tiền gửi giữa TCTD và NGT là giao dịch dân sự. Trong đó, các
bên trong giao dịch là TCTD (bên vay) và NGT (bên cho vay). Để giao dịch có hiệu
lực thì các bên phải có năng lực chủ thể. Ở đây chúng ta quan tâm về phía chủ thể là
cá nhân gửi tiền.
Theo quy định của pháp luật dân sự, điều kiện cần để giao dịch có hiệu lực là
chủ thể tham gia phải có năng lực hành vi dân sự. Theo đó, chủ thể có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ (từ đủ 18 tuổi và có khả năng nhận thức và điều khiển được
hành vi của mình) có thể tham gia tất cả các giao dịch dân sự. Điều kiện về năng lực
để chủ thể tham gia quan hệ nhận tiền gửi được cụ thể hóa trong quy chế tiền gửi
tiết kiệm như sau:
Chủ thể từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì được
tham gia quan hệ gửi tiền. Trong trường hợp NGT từ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi
nhưng có tài sản riêng đủ để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định
của Bộ luật Dân sự thì được thực hiện các giao dịch liên quan đến tiền gửi tiết kiệm.
Đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người hạn chế
năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật thì chỉ được thực hiện các giao
dịch liên quan đến tiền gửi tiết kiệm thông qua người giám hộ hoặc người đại diện
theo pháp luật36
.
Cá nhân gửi tiền tiết kiệm có thể là cá nhân Việt Nam hoặc cá nhân nước
ngoài đang sinh sống và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
Đối với cá nhân gửi tiền dưới dạng mua các loại giấy tờ có giá, pháp luật có
quy định phạm vi chủ thể gửi tiền khác hơn. Theo đó, chủ thể là cá nhân gửi tiền
dưới hình thức mua các loại giấy tờ có giá gồm37
: Cá nhân Việt Nam; Người Việt
Nam định cư ở nước ngoài; Cá nhân nước ngoài hoạt động đầu tư theo quy định của
pháp luật Việt Nam, bao gồm các cá nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và
không hoạt động tại Việt Nam. Đối với người mua giấy tờ có giá là cá nhân nước
ngoài, TCTD chỉ được phát hành giấy tờ có giá ghi danh.
36
Điều 3 Quy chế về tiền gửi tiết kiệm.
37 Điều 3 Quy chế phát hành giấy tờ có giá.
Huỳnh Anh
45
Như vậy, so với cá nhân gửi tiền tiết kiệm, cá nhân gửi tiền dưới hình thức
mua giấy tờ có giá có phạm vi rộng hơn, bao gồm cả người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, cá nhân nước ngoài hoạt động đầu tư theo quy định Việt Nam nhưng
không nhất thiết hoạt động tại Việt Nam. Nhưng đối với cá nhân người nước ngoài
thì chỉ được mua giấy tờ có giá ghi danh.
Theo quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi, mọi cá nhân Việt Nam và cá
nhân nước ngoài có năng lực pháp luật và năng lực hành vi đều có thể là chủ thể gửi
tiền. Quy chế còn xác định rõ, đối với cá nhân nước ngoài có năng lực pháp luật dân
sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật nước mà cá nhân đó là
công dân.
- NGT là tổ chức
Đối với tổ chức thì năng lực chủ thể xuất hiện đầy đủ khi tổ chức được thành
lập hoặc cho phép thành lập một cách hợp pháp. Vì vậy, kể từ thời điểm được thành
lập hợp pháp, tổ chức có thể tham gia những giao dịch được pháp luật ghi nhận.
Pháp luật ngân hàng quy định chủ thể gửi tiền là tổ chức như sau38
:
- Tổ chức không được tham gia hình thức tiền gửi tiết kiệm.
- Tồ chức gửi tiền dưới hình thức mua giấy tờ có giá, gồm: Tổ chức Việt
Nam; tổ chức nước ngoài hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam,
bao gồm các tổ chức nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và không hoạt động tại
Việt Nam. Tổ chức nước ngoài chỉ có thể mua giấy tờ có giá ghi danh do TCTD
phát hành.
- Tổ chức có thể mở tài khoản tiền gửi thanh toán gồm: TCTD nước ngoài
hoạt động tại nước ngoài; Các tổ chức Việt Nam và các tổ chức nước ngoài được
phép hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
Như vậy, tổ chức không được gửi tiền dưới hình thức tiết kiệm, tổ chức nước
ngoài không hoạt động tại Việt Nam không mở tài khoản thanh toán tại TCTD Việt
Nam (trừ TCTD nước ngoài). Trong luận văn này, chủ thể gửi tiền mà tác giả
hướng đến không bao gồm các TCTD.
Như đã trình bày trong chương 1, đối tượng gửi tiền bao gồm các tổ chức, cá
nhân. Hầu hết các cá nhân đều có thể tham gia gửi tiền nếu có năng lực pháp luật và
năng lực hành vi theo quy định. Đối với tổ chức thì có thể gửi tiền dưới mọi hình
38
Xem Quy chế tiền gửi tiết kiệm, Quy chế phát hành giấy tờ có giá, Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền
gửi.
Huỳnh Anh
46
thức, trừ hình thức tiền gửi tiết kiệm. Riêng đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài thì
chỉ được gửi tiền dưới hình thức mua các loại giấy tờ có giá ghi danh.
Trên thực tế, có nhiều tố chức có tiền nhàn rỗi tạm thời chưa sử dụng, gửi
tiền vào TCTD với mục đích tiết kiệm, sinh lời là chủ yếu, không nhằm mục đích
thanh toán. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành không ghi nhận tổ chức là chủ thể gửi
tiết kiệm. Điều này không phù hợp với thực tế.
c. Về lãi suất tiền gửi
Thông thường các TCTD sẽ ấn định lãi suất huy động và lãi suất cho vay
trên cơ sở nhu cầu thị trường và lãi suất cơ bản do NHNN quy định.
Theo quy định hiện hành, Nhà nước điều chỉnh lãi suất huy động gián tiếp
thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay của TCTD. Nếu nhìn nhận ở góc độ
NGT, đó là điều chỉnh lãi suất cho vay của NGT cho TCTD vay. Theo đó, pháp luật
quy định lãi suất cho vay không vượt quá 150 % lãi suất cơ bản39
. Lãi suất cơ bản
được NHNN công bố định kỳ làm cơ sở cho hoạt động huy động vốn và cho vay
của TCTD. Hiện nay, lãi suất cơ bản là 8%/năm40
, tức lãi suất cho vay không được
vượt quá 12%/năm. Khi TCTD được phép cho vay với lãi suất cao, thì TCTD có thể
huy động với mức lãi suất cao và ngược lại. Tuy nhiên, hiện nay, trong nhiều trường
hợp, Chính phủ cho phép áp dụng lãi suất thỏa thuận41
, không phụ thuộc vào lãi suất
cơ bản.
Như vậy, bên cạnh việc cho phép các TCTD áp dụng cho vay theo lãi suất
thỏa thuận trong những trường hợp nhất định, Nhà nước khống chế lãi suất trần cho
vay theo lãi suất cơ bản. Trên cơ sở này, TCTD sẽ xây dựng lãi suất huy động và lãi
suất cho vay phù hợp với đơn vị mình dựa vào tình hình thị trường, khả năng cạnh
tranh,...
Đối với lãi suất tiền gửi dưới hình thức giấy tờ có giá, Nhà nước điều chỉnh
thông qua quy định lãi suất giấy tờ có giá do TCTD phát hành quy định phù hợp với
lãi suất thị trường, đảm bảo hiệu quả kinh doanh và an toàn hoạt động cho TCTD.
39
Xem: Điều 476 Bộ luật Dân sự 2005; Điều 1 Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng
nhà nước ngày 16 tháng 5 năm 2008 về cơ chế điều chỉnh lãi suất cơ bản bẳng đồng Việt Nam.
40 Quyết định số 1565/2010/QĐ-NHNN ngày 24 tháng 06 năm 2010 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước về
mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam.
41 Thông tư số 12/2010/ TT-NHNN ngày 14 tháng 4 năm 2010 hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng
đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận: “Tổ chức tín dụng thực hiện cho vay bằng đồng
Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận đối với khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của dự án, phương án sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển và đời sống có hiệu quả”.
Huỳnh Anh
47
Song song với quy định này là quy định về lãi suất chiết khấu các loại giấy tờ có
giá.
Trong điều kiện nền kinh tế lạm phát cao, với mức lãi suất thấp, NGT thực
sự không có lãi, thậm chí lãi âm42
. Hiện nay, dù khủng hoảng kinh tế đã qua, nhưng
tình hình kinh tế vẫn còn biến động, lạm phát vẫn còn cao43
nên lãi suất thực của
tiền gửi rất thấp, trong khi giá tiêu dùng cứ tăng cao44
. Điều này khiến cho một bộ
phận dân cư tích trữ vàng tại nhà mà không gửi tiền vào các TCTD. Theo nhận định
của Hiệp hội kinh doanh vàng Việt Nam, lượng vàng trong dân đang ở mức quá
lớn45
, điều này cho thấy người dân ngày càng có xu hướng tích trữ vàng tại nhà. Do
đó ảnh hưởng lớn đến việc huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư.
Mặt khác, như đã trình bày, trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành, các
TCTD xây dựng mức lãi suất huy động riêng cho đơn vị mình. Trong quá trình đó,
để đảm bảo có lời cũng như nhằm tăng tính cạnh tranh giữa các TCTD, nên các
TCTD áp dụng mức lãi suất tự điều chỉnh tăng rất linh động. Nếu theo hợp đồng
nhận tiền gửi trước đây thông thường là lãi suất cố định, không thay đổi trong suốt
thời gian gửi tiền, thì với lãi suất tự điều chỉnh tăng, lãi suất trong hợp đồng sẽ thay
đổi tăng theo từng thời kỳ, phụ thuộc vào sự tăng giảm lãi suất của đơn vị nhận tiền
gửi, theo sự tăng giảm của lãi suất thị trường. Tuy nhiên, nếu lãi suất thị trường
giảm thì không áp dụng giảm lãi suất đối với NGT.
Trên thực tế, đa số NGT không thể nắm được sự điều chỉnh của lãi suất đó
đối với tiền gửi của mình mà sẽ do TCTD tự áp dụng, tính toán. Các trang web của
các TCTD cũng chỉ đưa lãi suất huy động chung cho các loại tiền gửi vào thời điểm
hiện tại. Sự điều chỉnh lãi suất đối với những hợp đồng gửi tiền cụ thể không được
TCTD thông tin đến NGT. NGT cũng không biết cách tính lãi trong quá trình lãi
suất thay đổi được thực hiện như thế nào, mức lãi suất cụ thể áp dụng trong khoản
thời gian khác nhau trong quá trình gửi tiền là bao nhiêu. Vì vậy, NGT không có
42
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vào 2008 khiến cho lạm phát ở Việt Nam lên rất cao, lên đến
19,89%, với mức lạm phát này, lãi suất thực của NGT lúc bấy giờ là lãi suất âm (Xem tại:
“http://baodientu.chinhphu.vn/Home/Lam-phat-trong-tam-kiem-soat/20103/28146.vgp).
43 Theo các chuyên gia cảnh báo thì lạm phát năm 2010 vẫn có thể lên cao đến 2 con số nếu chúng ta không
có hướng đi hợp lí (xem tại: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Vietnam-going-to-cope-with-2-digits-
inflation-in-this-year-MLam-03012010133411.html).
44 Theo báo cáo của Tổng Cục Thống kê thì chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2010 tăng 1,31% so với tháng
trước. Đây là mức tăng cao nhất trong sáu tháng qua kể từ tháng 3/2010 với mức tăng trên 1%, CPI bình quân
của cả nước 9 tháng đầu năm 2010 so với cùng kỳ năm 2009 đã tăng 8,64%.
45 Xem tại: http://vietnamnet.vn/kinhte/2008/05/783737/
Huỳnh Anh
48
điều kiện kiểm tra, theo dõi tiền lãi của mình được tính toán có chính xác hay
không, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
d) Về chính sách ưu đãi trong huy động tiền gửi
- Về hình thức khuyến mại
Theo quy định pháp luật hiện hành, TCTD có thể thực hiện những chính sách
ưu đãi để thu hút khách hàng trong quá trình huy động vốn. TCTD có thể thực hiện
các chương trình khuyến mại theo đặc thù của lĩnh vực mình trên cơ sở quy định
chung của pháp luật thương mại. Theo quy định của Luật Thương mại 2005, thương
nhân có thể thực hiện các hình thức khuyến mại để thu hút khách hàng như: Tặng
hàng hoá cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền; Bán hàng, cung ứng
dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ để khách hàng được
hưởng một hay một số lợi ích nhất định...46
Trên thực tế, các TCTD đưa ra những hình thức khuyến mại với các chính
sách ưu đãi phong phú như: quà tặng cho khách hàng, quay số trúng thưởng, thưởng
lãi suất... Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, khi nhu cầu nguồn vốn của các TCTD
tăng cao, các TCTD đã đưa ra những hình thức khuyến mại là gửi tiền được trả lãi
trước. Đồng thời việc khuyến mại này được thực hiện theo cách thoả thuận với từng
khách hàng cụ thể, không có sự công khai đối với tất cả các khách hàng cũng như
đối với các TCTD khác. Đây là biểu hiện của sự cạnh tranh không lành mạnh. Đồng
thời, điều này không phù hợp với nguyên tắc khuyến mại là nguyên tắc “công khai,
minh bạch” và nguyên tắc “Không được phân biệt đối xử giữa các khách hàng tham
gia chương trình khuyến mại trong cùng một chương trình khuyến mại”. Hiện nay,
một số NH đã đưa hình thức khuyến mại này lên trang web của mình như NH SHB,
NH Thương mại Cổ phần xăng dầu Petrolimex (PG bank), NH Đại Dương
(Oceanbank), NH Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank),...
Tuy nhiên, về ảnh hưởng và tính hợp pháp của hình thức khuyến mại này,
nhận thấy theo quy định hiện hành, hình thức gửi tiền trả lãi trước không thuộc hình
thức nào trong các hình thức khuyến mại mà Luật Thương mại đã đưa ra. Mặt khác,
khi áp dụng hình thức này, các TCTD có thể dễ dàng nâng lãi suất huy động thực
lên, dẫn đến trường hợp chạy đua lãi suất giữa các NH. Từ đó, đẩy lãi suất cho vay
lên cao, đặc biệt trong điều kiện Chính phủ mở rộng việc cho vay theo lãi suất thỏa
thuận như hiện nay thì NH không bị khống chế lãi suất cho vay trong nhiều trường
hợp. Hệ quả là các doanh nghiệp có thể không vay được vốn do lãi cao sẽ ảnh
46
Xem Điều 92 Luật Thương mại 2005
Huỳnh Anh
49
hưởng đến sự phát triển kinh tế. Và khi đó, vai trò điều chỉnh của lãi suất cơ bản
cũng không còn ý nghĩa.
- Về cung cấp thông tin trong khuyến mại
Hiện nay, các TCTD thường có những hình thức gửi tiền với những ưu đãi
kèm theo. Trong một số trường hợp, sự không minh bạch thông tin đã ảnh hưởng
đến quyền lợi NGT. Chẳng hạn, trong chính sách ưu đãi của một số NH có nội dung
gửi tiết kiệm có kỳ hạn kèm theo ưu đãi là được quay số trúng thưởng. Theo đó,
khách hàng sẽ không được rút vốn trước hạn đối với loại tiền gửi này, nếu khách
hàng rút trước hạn thì sẽ tính theo lãi suất không kỳ hạn. Tuy nhiên, để đạt mục đích
thuyết phục được khách hàng gửi tiền, trong quá trình nhân viên hướng dẫn khách
hàng đã không nói rõ với khách hàng điều này. Và trong giấy chứng nhận tiền gửi
cũng không có ghi nội dung này. Vì vậy, có nhiều khách hàng đã không biết và khi
họ có nhu cầu thì đến rút vốn trước hạn, lúc bấy giờ mới biết là không thể rút.
Trong khi đó, các hình thức gửi tiền có kỳ hạn khác thì có thể rút vốn trước hạn và
lãi suất được tính theo lãi suất có kỳ hạn đối với khoản thời gian gửi tiền đạt kỳ hạn
nhất định như 3 tháng, 6 tháng,... Rõ ràng, TCTD đã cố ý không minh bạch khi
thông tin cho khách hàng trong quá trình nhận tiền gửi, khiến cho khách hàng ngộ
nhận sẽ được rút vốn trước hạn theo thông lệ của TCTD, từ đó họ mang tiền đến gửi
tại TCTD. Đến khi NGT có nhu cầu rút vốn trước hạn thì không được đảm bảo
quyền lợi thỏa đáng. Điều này trái với nguyên tắc: “Không được lợi dụng lòng tin
và sự thiếu hiểu biết, thiếu kinh nghiệm của khách hàng để thực hiện khuyến mại
nhằm phục vụ cho mục đích riêng của bất kỳ thương nhân, tổ chức hoặc cá nhân
nào”47
.
2.1.2.2. Thực tiễn pháp luật về mở tài khoản tiền gửi và sử dụng tài khoản
a) Về rút vốn trước hạn
Theo pháp luật hiện hành, để tạo thuận lợi cho khách hàng khi gửi tiền tại
TCTD dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn nhưng có nhu cầu vốn tức thời, luật có quy
định trường hợp khách hàng được quyền rút vốn trước hạn. Theo đó, nếu khách
hàng có thỏa thuận trước với tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm và thông báo yêu cầu
rút trước hạn đúng thời gian quy định của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm thì khách
hàng đương nhiên được rút vốn trước hạn mà không phải trả phí. Trong trường hợp
khách hàng không có thỏa thuận trước với tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm thì nếu tổ
47
Xem Khoản 5 Điều 4 Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định chi
tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại.
Huỳnh Anh
50
chức này đồng ý, khách hàng có thể rút vốn trước hạn nhưng phải chịu phí đối với
khoản tiền gửi tiết kiệm rút trước hạn48
. Trong các văn bản quy phạm pháp luật
khác điều chỉnh liên quan đến việc sử dụng tiền gửi không tìm thấy quy định về vấn
để rút vốn trước hạn49
.
Như vậy, về hình thức tiền gửi được rút trước hạn, pháp luật hiện hành chỉ
quy định về quyền rút vốn trước hạn đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Đối với
loại tiền gửi có kỳ hạn thông thường (tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp) thì
không có quy định này. Tuy nhiên, thực tiễn thì các TCTD vẫn áp dụng quy định
của Quy chế để áp dụng đối với vấn đề rút vốn trước hạn của hình thức tiền gửi này.
Bên cạnh đó, về chủ thể rút vốn trước hạn, khách hàng gửi tiền có quyền rút
vốn trước hạn theo Quy chế tiền gửi tiết kiệm. Theo đó, NGT được quy định trong
quy chế này chỉ gồm cá nhân (cá nhân Việt Nam hoặc nước ngoài). Pháp luật hiện
hành không ghi nhận quyền rút vốn trước hạn đối với NGT là tổ chức. Trên thực tế,
có những tổ chức có lượng tiền nhàn rỗi đem gửi tại TCTD, trong đó có gửi dưới
hình thức tiền gửi có kỳ hạn; ngoài ra, doanh nghiệp cũng có những khoản tiền tạm
thời nhàn rỗi, có thể gửi dưới dạng có kỳ hạn, nhưng pháp luật không quy định việc
rút vốn trước hạn đối với NGT trong trường hợp này. Thực tiễn áp dụng, các TCTD
đều cho phép các đối tượng này rút vốn trước hạn tương tự như NGT là cá nhân gửi
tiết kiệm.
Ngoài ra, với quy định của pháp luật hiện hành, NGT được phép rút vốn
trước hạn với điều kiện có thỏa thuận trước với tổ chức nhận tiền gửi khi gửi tiền và
phải đảm bảo thời gian báo trước. Nếu không có những điều kiện trên thì TCTD vẫn
có thể cho phép khách hàng rút vốn trước hạn và có quyền thu phí. Trên thực tế, các
TCTD vẫn cho phép NGT rút vốn trước hạn không cần những điều kiện trên, thậm
chí không thu phí rút trước hạn. Ở góc độ này, ta nhận thấy NGT được lợi. Tuy
nhiên, cũng từ quy định trên, nếu khách hàng không có thỏa thuận trước với tổ chức
nhận tiền gửi về vấn đề rút vốn trước hạn thì việc cho phép rút vốn trước hạn hay
không hoàn toàn phụ thuộc vào tổ chức nhận tiền gửi. Hiện nay, khi khách hàng đến
gửi tiền, các tổ chức nhận tiền gửi thường không có văn bản thỏa thuận với khách
hàng về vấn đề rút vốn trước hạn. Trong khi đó, các nhân viên TCTD luôn giải
thích theo chủ trương thực tế của TCTD là trong trường hợp gửi tiền có kỳ hạn,
khách hàng đều có quyền rút vốn trước hạn. Thậm chí ở một số TCTD, dù rút vốn
48
Xem Quy chế tiền gửi tiết kiệm.
49 Gồm các văn bản như: Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi; Nghị định số 64/2001/NĐ-CP.
Huỳnh Anh
51
trước hạn, khách hàng vẫn được tính lãi suất theo tiền gửi có kỳ hạn nếu thời gian
gửi đạt đến kỳ hạn nhất định. Tuy vậy, một khi TCTD không cho rút vốn trước hạn
thì khách hàng gửi tiền sẽ thiếu chứng cứ chắc chắn để yêu cầu TCTD thực hiện
theo tư vấn ban đầu (hưởng lãi suất như đã thỏa thuận) cũng như yêu cầu TCTD bồi
thường thiệt hại (nếu có) do không thể rút tiền để phục vụ cho các mục đích khác
nhau của khách hàng như đã dự tính.
Như vậy, để thu hút khách hàng, các tổ chức nhận tiền gửi đã làm cho khách
hàng gửi tiền tin rằng họ hoàn toàn có thể rút vốn trước hạn đối với những khoản
tiền gửi có thời hạn vào thời điểm họ muốn thông qua tư vấn của nhân viên ngân
hàng. Và với mức lãi suất có kỳ hạn là lãi suất cao, các khách hàng sẽ dễ dàng chọn
hình thức gửi tiền này để gửi tiền tại các TCTD. Thế nhưng, khi có sự tranh chấp về
vấn đề rút vốn trước hạn xảy ra, họ lại là người thua thiệt hơn so với TCTD.
b) Quy định về phong tỏa tài khoản
Về nguyên tắc, tổ chức nhận tiền gửi không được phép tự ý phong tỏa tài
khoản tiền gửi khách hàng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp luật định, để đảm
bảo quyền lợi của các chủ thể liên quan, quyền lợi chung của xã hội, tổ chức nhận
tiền gửi vẫn có thể thực hiện phong tỏa, trích chuyển tài khoản NGT mà không cần
có sự đồng ý của họ.
Các TCTD có thể phong tỏa tài khoản khách hàng trong trường hợp50
:
a) Khi có thoả thuận giữa chủ tài khoản và tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán;
b) Khi có quyết định hoặc yêu cầu bằng văn bản của người có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật;
c) Các trường hợp khác do pháp luật quy định;
Như vậy, trong trường hợp không có thỏa thuận với khách hàng, trong một
số trường hợp luật định, cơ quan có thẩm quyền có quyền yêu cầu TCTD phong tỏa
tài khoản hoặc trích chuyển tài khoản hoặc chuyển tài khoản để nộp thuế, nộp phạt,
trả nợ, tránh tẩu tán tài sản… Chẳng hạn cơ quan quản lý thuế yêu cầu phong tỏa tài
khoản, trích tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính
thuế và chuyển sang tài khoản ngân sách nhà nước tại Kho bạc Nhà nước trên cơ sở
quyết định của cơ quan thuế; hoặc cơ quan khác như Tòa án áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời có quyền phong toả tài khoản tại NH, TCTD khác; cơ quan thi
50
Khoản 1 Điều 9 Nghị định số 64/2001/NĐ-CP.
Huỳnh Anh
52
hành án trong quá trình thi hành án có quyền yêu cầu phong tỏa tài khoản của khách
hàng là người phải thi hành án nhằm tránh việc tẩu tán tài sản, các cơ quan điều tra
có quyền yêu cầu phong tỏa tài khoản khách hàng trong quá trình điều tra như để
phòng chống tham nhũng, chống rửa tiền…51
Trong những trường hợp NH cho là cần thiết phải phong tỏa tài khoản của
khách hàng để bảo vệ lợi ích chính đáng cho mình đã không được pháp luật ghi
nhận cụ thể. Theo quy định pháp luật hiện hành, NH có quyền phong tỏa tài khoản
khách hàng trong các trường hợp được quy định tại Điều 9 Nghị định số 64
/2001/NĐ-CP “Khi có thoả thuận giữa chủ tài khoản và tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán; Khi có quyết định hoặc yêu cầu bằng văn bản của người có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật; Các trường hợp khác do pháp luật quy định”. Theo
đó, pháp luật không ghi nhận quyền của NH được quyền phong tỏa tài khoản khách
hàng nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng cho mình. Song, trên thực tế một số TCTD
vẫn tự quy định quyền này. Điều đó dẫn đến các TCTD tự đặt ra những trường hợp
phong tỏa tài khoản để bảo vệ quyền lợi cho mình ở các TCTD khác nhau là khác
nhau, đôi khi không chính đáng sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi NGT. Những quy định
này thường không được phổ biến cụ thể cho khách hàng, trừ một số ít NH52
.Chẳng
hạn, qua thăm dò một số NH cho thấy nhiều trường hợp NH quyết định phong tỏa
tài khoản không dựa trên một quy định cụ thể nào mà khi xét thấy có thể ảnh hưởng
đến quyền lợi của NH thì quyết định phong tỏa tài khoản khách hàng gửi tiền. Đồng
thời, các NH thường không công bố công khai các quy định này. Qua khảo sát các
trang web của một số NH như NH Sài gòn Thương tín (Sacombank), NH Thương
mại Cổ phần Kỹ thương (Techcombank), NH Nông nghiệp và Phát triển nông
(Agribank), NH Ngoại thương (Vietcombank), NH Á Châu (ACB), NH Đông Á
(Dongabank), NH Thương mại Cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB)..., nhận thấy chỉ
có Vietcombank đưa thông tin về trường hợp NH được quyền phong tỏa tài khoản
khách hàng53
.
c) Quy định về đóng tài khoản
51
Xem: Luật quản lí thuế 2006; Bộ luật TTDS 2004; Luật Thi hành án dân sự 2008; Pháp lệnh về Tổ chức
điều tra hình sự; Nghị định 74/2005/NĐ-CP ngày 7 tháng 6 năm 2005 về phòng chống rửa tiền.
52 Xem tại:
http://www.vietcombank.com.vn/Corporates/Documents/Giay%20de%20nghi%20mo%20tai%20khoan.pdf.
53 Theo quy định mở và sử dụng tài khoản tại Ngân hàng ngoại thương: “Ngân hàng có quyền phong tỏa
phần số dư tương đương với tài khoản ghi có vào tài khoản trước đó khi phát hiện tin trên lệnh chuyển tiền
về người hưởng khoản tiền ghi có mâu thuẫn, chưa rõ ràng hoặc ngân hàng trả tiền có yêu cầu trả tiền lại”
(xem tại:
http://www.vietcombank.com.vn/Corporates/Documents/Giay%20de%20nghi%20mo%20tai%20khoan.pdf)
Huỳnh Anh
53
Đóng tài khoản là việc NH đóng hồ sơ tài khoản, số tài khoản đã bị đóng có
thể sử dụng để đăng ký cho khách hàng khác. Theo Nghị định số 64/2001/NĐ-CP
về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, tại Khoản 1,
Khoản 2 Điều 10 quy định:
1) Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đóng tài khoản thanh toán trong
các trường hợp sau:
a) Khi chủ tài khoản yêu cầu;
b) Khi cá nhân có tài khoản bị chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi
dân sự;
c) Khi tổ chức có tài khoản chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp
luật.
2. Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được quyền quyết định việc đóng
tài khoản khi chủ tài khoản vi phạm pháp luật trong thanh toán hoặc vi
phạm thoả thuận với tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; hoặc khi tài
khoản có số dư thấp và không hoạt động trong thời hạn nhất định theo
quy định của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Trong khi đó, Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi ban hành kèm theo
Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN lại quy định: NH chỉ được đóng tài khoản tiền
gửi của khách hàng theo các trường hợp quy định tại Khoản 1, Điều 10, Nghị định
số 64/2001/NĐ-CP. Như vậy, ở đây có sự mâu thuẫn giữa hai văn bản quy phạm
pháp luật trong việc áp dụng Khoản 2 Điều 10 Nghị định số 64/2001/NĐ-CP. Tuy
vậy, căn cứ vào thẩm quyền ban hành thì sẽ ưu tiên áp dụng Nghị định số
64/2001/NĐ-CP.
Xét nội dung quy định tại Khoản 2 Nghị định số 64/2001/NĐ-CP, việc NH
đóng tài khoản của khách hàng khi “tài khoản có số dư thấp và không hoạt động
trong thời hạn nhất định theo quy định của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán”
cũng phù hợp cho việc quản lý tài khoản khách hàng, nhưng với quy định này thì
thời gian và số dư thấp lại do NH đặt để, ảnh hưởng đến quyền lợi của khách
hàng54
. Mặt khác, “khi chủ tài khoản vi phạm pháp luật trong thanh toán hoặc vi
phạm thoả thuận với tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán”. Việc vi phạm này có
nhiều mức độ khác nhau, vì vậy, quy định này sẽ dẫn đến việc NH dễ dàng đóng tài
54
Theo Quy định về mở và sử dụng tài khoản tại NH Ngoại thương thì NH sẽ đóng tài khoản khách hàng khi
tài khoản không còn số dư và không hoạt động trong 12 tháng liên tục. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài
gòn không đóng tài khoản khách hàng mà chuyển sang dạng tài khoản treo để thuận tiện theo dõi.
Huỳnh Anh
54
khoản khách hàng vì những lý do trên, có thể có những trường hợp không chính
đáng, xâm hại đến quyền lợi khách hàng.
d) Về hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán của ngân hàng
NH có thể cung ứng dịch vụ thanh toán dưới dạng các thể thức như thanh
toán bằng séc, thanh toán bằng lệnh chi hoặc ủy nhiệm chi, thanh toán bằng nhờ thu
hoặc ủy nhiệm thu, thanh toán bằng thẻ NH, thanh toán bằng thư tín dụng... Thanh
toán bằng lệnh chi hoặc ủy nhiệm chi là thể thức phổ biến, được áp dụng cho thanh
toán tiền, hàng hóa hoặc chuyển tiền của người sử dụng dịch vụ thanh toán trong
cùng một tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoặc giữa các tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán. Thực tiễn có một số vấn đề phát sinh từ việc NH cung cấp dịch vụ
này cho khách hàng.
Thời gian qua, vì nhiều lý do khác nhau, NH đã chuyển nhầm tiền cho khách
hàng, có thể nhầm số tiền hoặc nhầm người thụ hưởng. Theo quy định tại Khoản 3
Điều 27 quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
ban hành kèm theo Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26 tháng 03 năm
2002 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Quy chế thanh
toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán), khách hàng có quyền “Khiếu nại
và đòi bồi thường thiệt hại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán khi tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán: thực hiện giao dịch thanh toán chậm so với thoả thuận;
không thực hiện giao dịch thanh toán hoặc thực hiện giao dịch thanh toán không
đúng số tiền, người được thụ hưởng theo yêu cầu của lệnh thanh toán đó;…”. Cơ
chế xác định bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 29 Quy chế này, theo đó tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán chỉ bồi thường thiệt hại do lỗi của tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán. Như vậy, trong trường hợp chuyển nhầm tiền, khách hàng
có quyền khiếu nại và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu do lỗi của tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán. Tuy nhiên, trên thực tế, đã xuất hiện trường hợp NH cấp thông
tin không chính xác và khách hàng tin vào thông tin này nên đã thực hiện giao dịch
và gây thiệt hại55
thì ai là người có lỗi, ai sẽ gánh chịu thiệt hại, khách hàng hay
NH? Pháp luật đã chưa dự liệu đến trường hợp này.
Ngoài ra, hiện nay, việc NH chuyển tiền cho khách hàng, nhiều trường hợp
NH “ngâm” tiền của khách hàng mà không chuyển ngay cho đối tượng thụ hưởng.
Điều này không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của người thụ hưởng mà cả quyền lợi
55
Chẳng hạn, trường hợp chuyển tiền nhầm do khách hàng không nhớ số tài khoản của người thụ hưởng nên
đã nhờ nhân viên NH kiểm tra hộ thông qua tên người thụ hưởng, từ chỗ tin tưởng vào thông tin NH cung
cấp, khách hàng đã đồng ý thực hiện giao dịch, từ đó dẫn đến việc chuyển tiền nhầm chủ thể.
Huỳnh Anh
55
của khách hàng chuyển tiền. Người thụ hưởng cần tiền nhưng không nhận được
đúng thời hạn, ảnh hưởng đến kế hoạch chi tiêu hoặc kinh doanh của họ; người
chuyển tiền bị mất uy tín, đôi khi bị mất đối tác kinh doanh vì “không thanh toán
đúng hạn”,... Theo quy định hiện hành, NH có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
khách hàng theo mức phạt chậm trả tối đa bằng mức lãi suất qua hạn loại cho vay
cao nhất tại NH vi phạm56
. Với chế tài quy định như hiện nay, việc các TCTD vi
phạm trong việc thực hiện chuyển tiền vẫn còn phổ biến. Quyền lợi NGT chưa được
đảm bảo.
Một thực tiễn khác là khi việc chuyển nhầm tiền xảy ra, thông thường nhân
viên NH đã thực hiện việc chuyền nhầm tiền đều tự ý đi liên hệ trước với khách
hàng để “xin” lại số tiền đó. Nếu số tiền không lớn và họ không thể liên lạc với
người được chuyển nhầm hoặc gặp khó khăn khác dẫn đến không thu hồi được, các
nhân viên thường tự bù tiền của cá nhân vào để tránh bị kỷ luật, trừ lương... Song,
cũng có nhiều trường hợp, vì nóng lòng muốn thu lại số tiền đã chuyển nhầm, đặc
biệt là khi chuyển nhầm số tiền lớn, nhân viên NH đã gây phiền hà cho người bị
chuyển tiền nhầm. Chẳng hạn, trường hợp chuyển nhầm tiền của NH Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn chi nhánh Đà Nẳng như đã nêu, sau khi chuyển nhầm tiền,
nhân viên NH đã vội vàng đến thương lượng với khách hàng được chuyển nhầm
nhhưng không mang theo thẻ nhân viên, sau đó đã cho rằng người được chuyển
nhầm không đồng ý trả tiền và báo công an can thiệp. Điều này ảnh hưởng đến uy
tín, danh dự của người được chuyển tiền nhầm, đồng thời gây những rắc rối cho
NGT.
2.1.2.3. Thực tiễn pháp luật về quyền định đoạt đối với tiền gửi khi tổ chức gửi tiền
chấm dứt hoạt động, cá nhân gửi tiền chết, mất tích, mất năng lực hành vi
dân sự
Theo pháp luật hiện hành, khi chủ tài khoản (cá nhân, tổ chức) tiền gửi tại
TCTD chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, chấm dứt hoạt động, TCTD sẽ
đóng tài khoản và sẽ thực hiện theo quy định của pháp luật về thừa kế, giám hộ đối
với cá nhân, cũng như thực hiện thanh toán tài sản theo quy định khi tổ chức chấm
dứt hoạt động.
56
Xem Điều 29 Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26 tháng 03 năm 2002 của Thống đốc Ngân hàng
nhà nước Việt Nam về việc ban hành quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
toán.
Huỳnh Anh
56
a) Thực tiễn pháp luật về quyền định đoạt đối với tiền gửi khi cá nhân
gửi tiền chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự
Trong thực tế có nhiều trường hợp cá nhân gửi tiền, vàng hoặc sở hữu giấy tờ
có giá do NH, TCTD phát hành nhằm huy động vốn, gọi chung là tiền gửi tại TCTD
chết. Từ đó phát sinh vấn đề thừa kế tài sản này. Theo đó, phần di sản này sẽ được
chia theo quy định pháp luật hoặc theo di chúc sau khi đã thanh toán các khoản nợ
do người chết để lại.
Theo quy định hiện hành, TCTD được xem là chủ thể được quyền tạm thời
quản lý di sản và có trách nhiệm giao lại cho người quản lý di sản theo di chúc chỉ
định hoặc cho người quản lý do những người thừa kế cử ra. Người này sẽ đại diện
để nhận phần di sản gửi tại TCTD57
.
Pháp luật không quy định cụ thể các loại giấy tờ cần thiết khi khách hàng đến
TCTD nhận tiền gửi thừa kế. Thực tiễn, để xác định tư cách người thừa kế, TCTD
yêu cầu những người thừa kế xuất trình các loại giấy tờ cần thiết sau: đơn xin lĩnh
tiền, giấy chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu, bản di chúc hợp pháp (nếu có) hoặc
văn bản khai nhận di sản, giấy chứng tử của người để lại di sản (chủ tài khoản), giấy
ủy quyền của những người thừa kế khác có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền
hoặc công chứng (trong trường hợp có nhiều người thừa kế)… và có thể có những
giấy tờ khác tùy từng trường hợp cụ thể. Vd: giấy chứng nhận đăng ký kết hôn của
vợ chồng hoặc giấy tờ khác tương đương. Thường TCTD sẽ giao cho một người
được ủy quyền duy nhất trên cơ sở giấy ủy quyền hoặc hợp đồng ủy quyền.
Trong trường hợp có tranh chấp về di sản thừa kế, trong đó bao gồm cả phần
tiền gửi tại các TCTD. Khi đó, tòa án sẽ xác định phần di sản mà những người thừa
kế được hưởng, bao gồm cả phần tiền gửi nói trên. Trên cơ sở này, NH sẽ thực hiện
việc chuyển giao tiền gửi cho những người được chỉ định trong bản án.
Bên cạnh đó, theo quy định của pháp luật hiện hành, NGT chỉ được phép rút
trước hạn nếu có thỏa thuận với tổ chức nhận tiền gửi hoặc được tổ chức nhận tiền
gửi đồng ý trong trường hợp không có thỏa thuận. Mặc dù hiện nay đa số các TCTD
đều cho phép NGT rút trước hạn đối với những khoản tiền gửi có kỳ hạn, tuy nhiên
trong trường hợp khách hàng đã thỏa thuận rõ với TCTD là không được phép rút
trước hạn thì NGT sẽ không thể rút trước hạn. Như vậy, về nguyên tắc, những
người thừa kế của NGT cũng không thể rút trước hạn số tiền này để chia di sản thừa
kế khi NGT chết. Tuy nhiên, pháp luật cũng có quy định, TCTD đóng tài khoản của
57
Xem Khoản 2 Điều 638 Bộ luật Dân sự 2005.
Huỳnh Anh
57
khách hàng khi khách hàng gửi tiền chết. Vậy điều đó có được mặc nhiên hiểu là
những người thừa kế có thể rút khoản tiền này nếu họ xuất trình đầy đủ những giấy
tờ cần thiết, ngay cả tài khoản thuộc dạng không được rút trước hạn nói trên hay
không? Hơn nữa, nếu được phép rút thì quyền lợi của họ đối với khoản tiền này
được tính toán như thế nào (về cách tính lãi suất).
Thực tiễn vận dụng quy định trên của các TCTD hiện nay là đối với những
khoản tiền gửi không được phép rút vốn trước hạn như trường hợp nêu trên thì
TCTD sẽ đóng tài khoản của NGT đã chết, cùng thời điểm đó là việc mở tài khoản
mới đứng tên người thừa kế hoặc đại diện người thừa kế hoặc người được chỉ định
trong di chúc hoặc theo bản án. Số tiền này chỉ được người thừa kế rút ra khi đến
ngày đáo hạn58
. Điều này phù hợp với nguyên tắc bình đẳng về sự thỏa thuận giữa
TCTD và NGT, cũng như phù hợp với nguyên tắc thừa kế bao gồm thừa kế cả
quyền và nghĩa vụ. Tuy vậy, khi NGT chết, có thể có những lý do khách quan mà
người thừa kế cần rút vốn trước hạn. Chẳng hạn, trong trường hợp di sản thừa kế
còn bao gồm nhiều tài sản khác hoặc số người thừa kế đông thì việc không thể rút
tiền gửi để chia di sản thừa kế có thể dẫn đến những mâu thuẫn, tranh chấp giữa
những người thừa kế sau này do việc chia di sản thừa kế bị kéo dài. Ngoài ra, những
người thừa kế cần sử dụng số tiền này để chi trả những chi phí cho người chết như
tiền mai táng, thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại như cấp dưỡng, trợ cấp cho
người sống nương nhờ, trả nợ ...
Mặt khác, đối với khoản tiền gửi không được rút vốn trước hạn, nếu không
thể rút vốn trước hạn khi NGT chết thì sẽ dẫn đến một số bất cập. Theo quy định tại
Điều 645 Bộ luật Dân sự 2005 “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực
hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa
kế”. Như vậy, nếu khoản thời gian từ thời điểm người để lại di sản chết (thời điểm
mở thừa kế) đến ngày đáo hạn hợp đồng gửi tiền là trên 3 năm (do thời hạn hợp
đồng gửi tiền có thể đến 5 năm) dẫn đến hết thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực
hiện nghĩa vụ của người chết. Điều này vô hình chung “buộc” chủ nợ phải khởi kiện
yêu cầu người thừa kế trả nợ vì sợ hết thời hạn khởi kiện sẽ khó đòi được nợ.
b) Thực tiễn pháp luật về quyền định đoạt đối với tiền gửi khi tổ chức gửi
tiền chấm dứt hoạt động
Một tổ chức có thể chấm dứt hoạt động trong trường hợp hợp nhất, sáp
nhập, chia, giải thể, phá sản. Trong trường hợp tổ chức chấm dứt hoạt động có 58
Qua khảo sát thực tế, một số TCTD quy định cho phép rút vốn trước hạn trong trường hợp bất khả kháng
như thiên tai, tang chế,...và sẽ tính lãi suất không kỳ hạn.
Huỳnh Anh
58
tiền gửi tại TCTD thì theo quy định hiện hành, tổ chức nhận tiền gửi sẽ đóng tài
khoản tiền gửi của tổ chức.
Đối với tổ chức chấm dứt hoạt động do hợp nhất, sáp nhập, chia thì quyền và
nghĩa vụ có thể được kế thừa, khi đó việc chuyển giao phần tiền gửi tại tổ chức
nhận tiền gửi có thể thực hiện được dễ dàng. Tuy nhiên, trong trường hợp doanh
nghiệp không đạt được mục đích kinh doanh dẫn đến giải thể hoặc thua lỗ trong
kinh doanh dẫn đến phá sản. Khi đó, doanh nghiệp phải dùng tài sản để chi trả cho
chủ nợ theo quy định về giải thể, phá sản doanh nghiệp. Các hợp đồng chưa đến hạn
cũng được xem đến hạn và thanh lý. Như vậy, phần tiền gửi tại tổ chức nhận tiền
gửi dưới hình thức tiền gửi không được rút trước hạn cũng phải được đóng lại và tất
toán.
Ngoài ra, đối với vấn đề phá sản doanh nghiệp, theo quy định của pháp luật
phá sản, trong quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp, pháp luật có quy định về
việc thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản59
, theo đó tại Khoản 5 Điều 20 Nghị định
76/2006/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2006 của Chính phủ hướng dẫn việc áp dụng
Luật phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức hoạt động của Tổ quản lý,
thanh lý tài sản (sau đây gọi là Nghị định số 76/2006/NĐ-CP) có quy định “Tổ quản
lý, thanh lý tài sản mở tài khoản riêng để phục vụ cho việc quản lý, thanh lý tài sản
phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.” Mục đích của
việc mở tài khoản nhằm để gửi các khoản tiền thu được từ những người mắc nợ và
từ việc bán đấu giá các tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục
thanh lý tài sản trong trường hợp cần thiết. Việc mở tài khoản này sẽ do Tổ trưởng
Tổ quản lý, thanh lý thực hiện và đứng tên tài khoản tiền gửi60
.
Sau khi thanh lý tài sản, nếu tài sản vẫn còn thì thuộc về xã viên hợp tác xã,
chủ doanh nghiệp tư nhân, các thành viên của công ty, các cổ đông của công ty cổ
phần, chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước (gọi chung là chủ sở hữu doanh nghiệp,
thành viên của doanh nghiệp). Các thành viên của công ty sẽ nhận được phần tài sản
còn lại tương ứng với phần vốn góp61
. Như vậy, trong trường hợp đã hoàn tất việc
chi trả các khoản nợ cho chủ nợ của doanh nghiệp bị phá sản thì Tổ quản lý, thanh
lý tài sản này có trách nhiệm giao lại phần tài sản cho chủ doanh nghiệp, cho các
thành viên của doanh nghiệp. Khi đó, đối với phần tài sản mở tại TCTD trong quá
59
Điều 9 Luật Phá sản 2004.
60 Điểm g Khoản 2 Điều 26 Nghị định số 76/2006/NĐ-CP.
61 Xem Khoản 2 Điều 37, Điểm đ Khoản 1 Điều 41, Điểm g Khoản 1 Điều 134, Điểm g Khoản 1 Điều 140
Luật Doanh nghiệp 2005.
Huỳnh Anh
59
trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp được pháp luật quy định, Tổ trưởng tổ thanh
lý tài sản có trách nhiệm “Đóng tài khoản khi có quyết định giải thể Tổ quản lý,
thanh lý tài sản”. Về nguyên tắc, sau khi thanh toán xong các khoản nợ của doanh
nghiệp, tài sản thuộc về chủ sở hữu doanh nghiệp, các thành viên của doanh nghiệp
và họ phải có quyền định đoạt đối với phần tài sản của mình. Vấn đề đặt ra ở đây là,
trong trường hợp đã có quyết định giải thể Tổ quản lý, thanh lý tài sản thì trong thời
gian bao lâu Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý phải đóng tài khoản tiền gửi nêu trên để
giao lại cho chủ sở hữu đích thực. Nếu việc này kéo dài thì có thể dẫn đến việc
người đang đứng tên tài khoản chiếm dụng tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp,
thành viên của doanh nghiệp hoặc thực hiện những giao dịch có hại cho quyền lợi
của các chủ sở hữu doanh nghiệp, thành viên của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, pháp
luật không có quy định về thời gian cụ thể để Tòa án ra quyết định giải thể Tổ quản
lý, thanh lý tài sản, nếu thực tế việc chi trả cho các chủ nợ đã hoàn tất nhưng thẩm
phán phụ trách giải quyết vụ việc vẫn chưa ra quyết định giải thể thì chủ sở hữu
doanh nghiệp, các thành viên của doanh nghiệp có quyền khiếu nại yêu cầu Toà án
ra quyết định giải thể Tổ quản lý, thanh lý tài sản hay không? Như vậy, xét về bản
chất, số tiền gửi tại TCTD là của các thành viên góp vốn của công ty, thế nhưng
việc định đoạt của họ đối với phần tài sản của mình có thể gặp trở ngại như nêu
trên.
c) Thực tiễn pháp luật về cung cấp thông tin cho người gửi tiền
Những thông tin khách hàng thường quan tâm là thông tin về mở và sử dụng
tài khoản, số dư tài khoản, lãi suất, các giao dịch đã thực hiện… Thông qua những
thông tin này khách hàng có thể kiểm tra việc sử dụng tiền trong tài khoản của mình
cũng như hoạch định chi tiêu trong tương lai. Theo quy định tại Điều 101 Luật Các
TCTD 1997 “Tổ chức tín dụng phải thông tin định kỳ cho chủ tài khoản về những
giao dịch và số dư trên tài khoản của họ tại tổ chức tín dụng”. Pháp luật cũng quy
định tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có trách nhiệm thông tin kịp thời về
những giao dịch thanh toán và số dư tài khoản cho khách hàng theo định kỳ hoặc
đột xuất khi có yêu cầu, niêm yết công khai các quy định về mở và sử dụng tài
khoản62
, điều này giúp khách hàng nắm được quy định về mở và sử dụng tài khoản.
Vấn đề cung cấp thông tin cho khách hàng cũng được pháp luật quy định tại Nghị
định số 70/2000/NĐ-CP, theo đó tổ chức nhận tiền gửi có trách nhiệm cung cấp
thông tin cho NGT hoặc cho người được khách hàng ủy quyền theo yêu cầu. Đồng
thời, khách hàng có quyền khiếu nại, khởi kiện trong trường hợp tổ chức nhận tiền
62 Xem: Điều 9 Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi.
Huỳnh Anh
60
gửi cung cấp thông tin không đúng quy định hoặc không đúng đối tượng, không
chính xác, không trung thực; được tổ chức nhận tiền gửi bồi thường do hành vi sai
phạm trên gây thiệt hại cho NGT.
Như đã trình bày trong phần chủ thể gửi tiền, người chưa thành niên có thể
có tài sản tiền gửi tại TCTD. Khi đó, theo quy chế tiền gửi tiết kiệm, người chưa
thành niên này được gọi là NGT, là khách hàng của tổ chức nhận tiền gửi. Đồng
thời người giám hộ, người đại diện đã đại diện cho người chưa thành niên để thực
hiện giao dịch gửi tiền tại TCTD cũng được gọi là NGT63
. Vì vậy, các chủ thể này
đều có quyền yêu cầu tổ chức nhận tiền gửi cung cấp thông tin liên quan đến tiền
gửi. Trong trường người đại diện cho người chưa thành niên nhưng không trực tiếp
thực hiện giao dịch gửi tiền (vì người chưa thành niên có thể có nhiều người đại
diện theo quy định pháp luật) thì không được xem là NGT, pháp luật hiện hành
không ghi nhận trường hợp TCTD có trách nhiệm cung cấp thông tin cho người đại
diện của người chưa thành niên khi họ yêu cầu. Tuy nhiên, họ đều là người bảo vệ
lợi ích chính đáng cho người thành niên, việc biết được thông tin về tài khoản tiền
gửi của người chưa thành niên cũng có ý nghĩa giúp họ bảo vệ quyền lợi cho người
chưa thành niên. Việc không ghi nhận quyền này của người đại diện là một thiếu
sót.
Ngoài ra, trong trường hợp NGT chết, những người thừa kế phát sinh nhu
cầu biết được những thông tin về tài khoản của NGT. Nhu cầu này là chính đáng vì
liên quan trực tiếp đến di sản mà họ được hưởng. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành đã
không quy định nội dung này.
d) Thực tiễn pháp luật về bảo mật thông tin người gửi tiền
Thông tin liên quan đến tài khoản tiền gửi của khách hàng rất nhiều, về
nguyên tắc tổ chức không được cung cấp bất kỳ thông tin nào liên quan đến khách
hàng nếu không được sự đồng ý của khách hàng, trừ một số trường hợp do luật
định. Theo Khoản 3 Điều 17 Luật Các TCTD thì TCTD có trách nhiệm “Bảo đảm
bí mật số dư tiền gửi của khách hàng”. Luật Các TCTD chỉ dừng lại ở quy định về
đảm bảo bí mật số dư tài khoản. Quy định cụ thể, đầy đủ hơn được thể hiện bởi các
văn bản liên quan như tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (phần lớn là các tổ chức
nhận tiền gửi) có trách nhiệm “bảo mật thông tin liên quan đến tài khoản và giao
dịch trên tài khoản của khách hàng theo quy định”64
hoặc theo Nghị định sô
63
Xem: Khoản 2 Điều 6 Quy chế tiền gửi tiết kiệm.
64 Điều 9 Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi.
Huỳnh Anh
61
70/2000/NĐ-CP và Thông tư số 02//2001/TT-NHNN hướng dẫn thi hành Nghị định
số 70/2000/NĐ-CP, các thông tin liên quan đến tiền gửi của khách hàng gồm: số
hiệu tài khoản, mẫu chữ kí của chủ tài khoản hoặc người được chủ tài khoản ủy
quyền, các thông tin về doanh số hoạt động và số dư tài khoản; các thông tin liên
quan đến giao dịch gửi, rút tiền, chuyển tiền và tài sản của khách hàng; nội dung
văn bản, giấy tờ, tài liệu, tên và mẫu chữ kí của NGT”. Trong trường hợp TCTD tiết
lộ bí mật thông tin khách hàng thì khách hàng có quyền khiếu nại, tố cáo hoặc khởi
kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu có) do việc để lộ bí mật thông tin65
. Quy chế
về tiền gửi tiết kiệm cũng có quy định tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm có trách
nhiệm giữ bí mật số dư tiền gửi của chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm hoặc đồng sở hữu
tiền gửi tiết kiệm theo quy định của pháp luật và đảm bảo an toàn tiền gửi cho chủ
sở hữu tiền gửi tiết kiệm hoặc đồng sở hữu tiền gửi tiết kiệm; chịu trách nhiệm về
những thiệt hại, vi phạm, lợi dụng đối với tiền gửi tiết kiệm do lỗi của tổ chức nhận
tiền gửi tiết kiệm.
Tuy nhiên, việc bảo vệ quyền lợi NGT phải đặt trong mối tương quan với
việc bảo vệ quyền và lợi ích của chủ thể khác. Vì vậy, pháp luật cho phép tổ chức
nhận tiền gửi có quyền cung cấp thông tin về tiền gửi của khách hàng cho chủ thể
khác mà không cần có sự đồng ý của NGT. Cụ thể, tổ chức nhận tiền gửi có quyền
cung cấp thông tin trong trường hợp nhằm phục vụ hoạt động nội bộ của tổ chức
nhận tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng; Cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền như: cung cấp thông tin theo yêu cầu của Tổng Giám
đốc tổ chức BHTG khi tổ chức này thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, cơ quan
Nhà nước trong quá trình thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thuộc thẩm
quyền theo quy định của pháp luật66
, cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan
thuế về “thông tin giao dịch qua tài khoản của khách hàng là người nộp thuế trong
những trường hợp luật định”67
.
Việc khách hàng sử dụng các dịch vụ thanh toán của NH rất thường xuyên,
đặc biệt là các thương nhân. Thông qua việc sử dụng các dịch vụ thanh toán do NH
cung cấp, thông tin về khách hàng có thể bị chủ thể thứ ba biết đến như dịch vụ
thanh toán bằng thư tín dụng, dịch vụ nhờ thu…68
. Do đó, nếu các chủ thể thứ ba
65
Khoản 3 và Khoản 4 Điều 2 Nghị định số 70/2000/NĐ-CP.
66 Điều 5 Nghị định số 70/2000/NĐ-CP.
67 Điều 16 Luật Quản lí thuế 2006.
68 Chẳng hạn, khi khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ, thông qua bộ
chứng từ, NH thông báo có thể biết nhiều thông tin liên quan đến khách hàng, trong một số trường hợp, có
thể có sự tham gia của NH xác nhận và NH này cũng biết những thông tin liên quan đến khách hàng.
Huỳnh Anh
62
(NH thông báo, NH xác nhận, NH thu hộ) này tiết lộ thông tin trên cho đối thủ cạnh
tranh của khách hàng thì có thể gây thiệt hại cho khách hàng. Đối thủ cạnh tranh có
thể có những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, chèn ép khách hàng, hoặc về lâu
dài có thể giành đối tác với khách hàng. Về nghĩa vụ bảo mật thông tin của chủ thể
thứ ba thì pháp luật hiện hành chưa ghi nhận.
Theo Luật Các TCTD 2010 về vấn đế bảo mật thông tin, có thể giải quyết cơ
bản vấn đề này. Theo đó, tại Điều 4 quy định “Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài phải bảo đảm bí mật thông tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi,
tài sản gửi và các giao dịch của khách hàng tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài”. Với quy định này, các thông tin liên quan đến “giao dịch của
khách hàng” phải được TCTD, chi nhánh NH nước ngoài bảo mật, tức có cả những
thông tin TCTD có được thông qua hoạt động cung ứng dịch vụ cho khách hàng,
trong đó bao gồm chủ thể thứ 3 đã nêu trên.
2.1.2.4. Thực tiễn pháp luật về đảm bảo an toàn của tổ chức tín dụng
Pháp luật có những quy định đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD,
hay nói cách khác là để phòng ngừa, hạn chế, những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt
động của TCTD. Quy định này không chỉ nhằm bảo vệ an toàn cho chính TCTD mà
còn bảo vệ cho lợi ích chung của nhà nước và xã hội, đó là sự ổn định tiền tệ quốc
gia, sự an toàn của cả hệ thống tín dụng, bảo vệ lợi ích của NGT.
Ở khía cạnh NGT, khi có rủi ro xảy ra có thể dẫn đến TCTD mất khả năng
thanh toán, khi đó quyền lợi của NGT bị ảnh hưởng nghiêm trọng vì TCTD không
thể chi trả tiền gửi cho NGT.
Các quy định đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD nói chung, bảo vệ
quyền lợi NGT nói riêng bao gồm một số nội dung như sau:
a) Các quy định về đảm bảo an toàn trong huy động vốn: Để đảm bảo khả
năng chi trả của TCTD trong hoạt động của mình, Nhà nước yêu cầu TCTD phải có
khoản tiền dự trữ bắt buộc. Dự trữ bắt buộc được hiểu là số tiền mà các TCTD hoạt
động tại Việt Nam phải duy trì trên tài khoản tiền gửi thanh toán tại NHNN. Theo
quyết định 581/2003/QĐ-NHNN ngày ngày 9 tháng 9 năm 2003 của Thống đốc
Ngân hàng nhà nước về việc ban hành “Quy chế dự trữ bắt buộc đối với các TCTD”
thì TCTD đang hoạt động tại Việt Nam phải thực hiện dự trữ bắt buộc khi nhận tiền
gửi của khách hàng.
Do xuất phát từ đặc điểm kinh doanh của TCTD là sử dụng nguồn vốn có
được từ huy động để cấp tín dụng là chủ yếu, vì vậy góp phần đảm bảo việc chi trả
Huỳnh Anh
63
cho nguồn vốn huy động này, NHNN yêu cầu TCTD phải trích một khoản tiền để
dự trữ tại NHNN căn cứ vào số vốn huy động. Cụ thể, dự trữ bắt buộc được tính
toán trên cơ sở số dư tiền gửi huy động bình quân của từng loại tiền gửi phải dự trữ
bắt buộc tại Hội sở chính và các chi nhánh của TCTD trong kỳ xác định dự trữ bắt
buộc và tỷ lệ dự trữ bắt buộc tương ứng được Thống đốc Ngân hàng nhà nước quy
định trong từng thời kỳ69
.
Bên cạnh đó, để đảm bảo khả năng chi trả TCTD mất khả năng thanh toán
các khoản nợ đến hạn hoặc không còn khả năng chi trả, bị phá sản, pháp luật quy
định các TCTD tham gia BHTG bắt buộc trên cơ sở tiền gửi của khách hàng. Theo
đó, NGT sẽ được chi trả một khoản tiền bảo hiểm nhất định cho NGT khi TCTD rơi
vào tình huống trên. Ngoài ra, việc hỗ trợ của BHTG đối với TCTD gặp khó khăn
về thanh khoản cũng được xem là một sự bảo đảm nhất định tạo được tâm lý yên
tâm cho NGT, tăng cường hơn lòng tin của NGT đối với các TCTD. Từ đó, hạn
chế tình trạng rút tiền hàng loạt và tạo nên sự xáo trộn khi có sự cố nào đó trong
hoạt động của các TCTD. Phần này sẽ được phân tích cụ hơn trong mục 2.1.2.5.
b) Các quy định về đảm bảo an toàn trong cấp tín dụng
Như đã trình bày, kết quả sử dụng vốn vay của chủ thể vay ảnh hưởng rất
lớn đến khả năng thu hồi nợ của TCTD, điều đó cũng đồng nghĩa với việc ảnh
hưởng đến khả năng chi trả cho khách hàng gửi tiền. Vì vậy, đảm bảo an toàn trong
cấp tín dụng là vô cùng quan trọng.
Một số hạn chế khác nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động cấp tín dụng
như TCTD không được cho vay đối với một số đối tượng là chủ thể quản lý của
TCTD, bởi vì thông qua đó có thể dẫn đến việc họ sử dụng vốn vay để thu lợi bất
chính hoặc tạo tiền đề cho những vi phạm pháp luật. Theo đó, các TCTD không
được cho vay đối với các chủ thể như: Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm
soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (phó Giám đốc) của TCTD; b)
Cán bộ, nhân viên của chính TCTD đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định, quyết định
cho vay; c) Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm
soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc). Không được
cho vay không có bảo đảm hoặc cấp tín dụng có ưu đãi cho các thành viên: a) Tổ
chức kiểm toán, Kiểm toán viên đang kiểm toán tại TCTD; Kế toán trưởng, Thanh
tra viên; b) Các cổ đông lớn của TCTD; c) Doanh nghiệp có một trong những đối
69
Xem thêm về tỉ lệ dự trữ bắt buộc được NHNN quy định từ tháng 2 năm 2009 và áp dụng tới nay tại Quyết
định 379/2009/QĐ-NHNN về điều chỉnh tỉ lệ dự trữ bắt buộc của các TCTD.
Huỳnh Anh
64
tượng quy định tại khoản 1 Điều 77 của Luật này70
sở hữu trên 10% vốn Điều lệ của
doanh nghiệp đó71
.
Theo Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19 tháng 4 năm 2005 quy
định các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD (sau đây gọi là Quyết
định số 457/2005/QĐ-NHNN), TCTD phải chấp hành các quy định giới hạn tín
dụng trong hoạt động bao gồm: (1) Mức cho vay tối đa đối với một khách hàng
(15% vốn tự có), một nhóm khách hàng có liên quan (50% vốn tự có); (2) Mức cho
vay và bảo lãnh tối đa đối với một khách hàng (25% vốn tự có), một nhóm khách
hàng có liên quan (60% vốn tự có); (3) các quy định về giới hạn góp, vốn, mua cổ
phần đối với một dự án, một khoản đầu tư thương mại không quá 11% vốn của
doanh nghiệp hoặc vốn đầu tư dự án,...; nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho
vay trung hạn và dài hạn (40% đối với NHTM và 30% đối với TCTD khác). Theo
Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày ngày 20 tháng 5 năm 2010 của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ
chức tín dụng thay thế Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN (sau đây gọi là Thông
tư số 13/2010/TT-NHNN) thì đối với vấn đề sử dụng vốn huy động để cấp tín dụng
có quy định khác hơn, theo đó, xác định chung nguồn vốn huy động làm cơ sở xác
định tỉ lệ cho vay, đồng thời quy định TCTD là NH không được cấp tín dụng vượt
quá 80% và TCTD phi NH không được cấp tín dụng vượt quá 85% từ nguồn vốn
huy động này. Đặc biệt, thông tư này đã có những quy định chế tài để áp dụng khi
có sự vi phạm của TCTD đối với việc trích lập dự phòng rủi ro.
Đến Thông tư 19/2010/TT-NHNN ngày 27 tháng 9 năm 2010 sửa đổi bổ
sung một số điều của Thông tư số 13/2010/TT-NHNN, quy định thêm việc cấp tín
dụng từ nguồn vốn huy động không quá 25% đối với tiền gửi không kỳ hạn của tổ
chức kinh tế (trừ TCTD). Quy định này nhằm tăng tính an toàn trong hoạt động cấp
tín dụng của TCTD.
c) Một số quy định đảm bảo an toàn khác
Ngoài ra còn có những tỉ lệ đảm bảo an toàn khác góp phần đảm bảo an toàn
hoạt động TCTD như tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu; giới hạn tín dụng; tỷ lệ khả năng
chi trả; giới hạn góp vốn, mua cổ phần; tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy
động.
70
Luật này là Luật Các TCTD 1997.
71 Xem Điều 19 Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định
1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước.
Huỳnh Anh
65
TCTD phải đảm bảo khả năng chi trả được xác định bằng tỉ lệ giữa tài sản
“có” có thể thanh toán ngay so với các loại tài sản “nợ” phải thanh toán. Theo quy
chế về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD ban hành kèm theo
Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN, các tỷ lệ về khả năng chi trả được quy định
như sau: tỷ lệ tối thiểu 25% giữa giá trị tài sản “có” có thể thanh toán ngay và tài
sản “nợ” sẽ đến hạn thanh toán trong thời gian một tháng và tỷ lệ tối thiểu bằng 1
giữa tài sản “có” có thể thanh toán ngay trong thời gian 7 ngày làm việc và tài sản
“nợ” phải thanh toán trong thời gian 7 ngày làm việc.
Theo Thông tư số 13/2010/TT-NHNN, tỷ lệ tối thiểu nói trên là 15% giữa
tổng tài sản “có” thanh toán ngay và tổng “nợ” phải trả trong ngày. Quy định này
cho phép kiểm soát khả năng chi trả TCTD một cách thường xuyên hơn, đảm bảo
an toàn hơn, nếu TCTD xuất hiện bất ổn trong khả năng chi trả sẽ kịp thời chấn
chỉnh ngay.
Ngoài ra, TCTD còn có nghĩa vụ dự phòng rủi ro. Dự phòng rủi ro là khoản
tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của
TCTD không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết 72
. Điều này có ý nghĩa trong tình
huống TCTD có những khoản nợ xấu không thu hồi được khi đến hạn thì khoản tiền
dự phòng này giúp TCTD đảm bảo khả năng chi trả cho NGT.
Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định chế độ kiểm soát đặc biệt áp dụng đối
với các TCTD có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán73
, khi đó
TCTD được đặt dưới sự kiểm soát của NHNN. Mục đích của chế độ kiểm soát đặc
biệt là nhằm giúp đỡ các TCTD đang gặp khó khăn về thanh toán, chi trả vượt qua
được khó khăn tài chính đó, bảo vệ sự an toàn cho TCTD và cho cả hệ thống
TCTD, bảo vệ quyền lợi NGT. Để có thể can thiệp, giúp đỡ kịp thời, luật cũng quy
định khi có nguy cơ mất khả năng chi trả cho khách hàng của mình, TCTD phải báo
cáo ngay với về thực trạng tài chính, nguyên nhân và các biện pháp đã áp dụng, dự
kiến áp dụng để khắc phục74
.
Trong quá trình kiểm soát đặc biệt, quyền lợi của NGT cũng được pháp luật
quan tâm, bảo vệ thể hiện qua việc quy định thẩm quyền của Ban kiểm soát đặc
biệt, đó là quyền “đình chỉ những hoạt động không phù hợp với phương án củng cố 72
Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lí rủi ro tín dụng ban hành theo
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước.
73 TCTD đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt khi rơi vào trường hợp tại Khoản 3 Điều 92 Luật Các TCTD
2004: “a ) Có nguy cơ mất khả năng chi trả; b) Nợ không có khả năng thu hồi có nguy cơ mất khả năng thanh
toán; c) Khi số lỗ luỹ kế của tổ chức tín dụng lớn hơn 50% tổng số vốn điều lệ thực có và các quỹ”.
74 Xem Điều 91 Luật Các TCTD 2004.
Huỳnh Anh
66
tổ chức và hoạt động đã được thông qua, các quy định về an toàn trong hoạt động
ngân hàng có thể gây phương hại đến lợi ích của người gửi tiền”75
.
2.1.2.5. Thực tiễn pháp luật bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền khi tổ chức tín
dụng mất khả năng thanh toán
Như đã nêu trên, khi TCTD mất khả năng thanh toán thì BHTG là tổ chức
đứng ra chi trả một phần hoặc toàn bộ tiền gửi cho NGT. Vì vậy, những quy định về
BHTG liên quan mật thiết đến việc bảo vệ quyền lợi NGT.
a) Thực tiễn pháp luật về quy định liên quan đến Bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam trong việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền
BHTG là một loại hình bảo hiểm đối với hoạt động ngân hàng. Có rất nhiều
tác giả có khái niệm khác nhau về BHTG, chúng ta có thể hiểu “Bảo hiểm tiền gửi
là loại hình bảo hiểm, theo đó bảo đảm nghĩa vụ chi trả trong tương lai các khoản
tiền gửi cho NGT tại các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi các tổ chức này
gặp rủi ro dẫn đến tình trạng không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn
bị buộc giải thể hoặc phá sản”76
.
Ở Việt Nam, ban đầu chỉ thực hiện BHTG đối với những khoản tiền gửi có
kỳ hạn tại các quỹ tín dụng nhân dân77
. Đến khi tổ chức BHTG Việt Nam ra đời,
cùng với nó là sự ra đời của hàng loạt các quy định về BHTG với phạm vi và đối
tượng được bảo hiểm rộng hơn. Nói cách khác, BHTG Việt Nam cam kết bảo vệ
quyền lợi cho nhiều NGT hơn.
Hiện nay, các quy định vềBHTG được quy định chủ yếu tại Nghị định số
89/1999/NĐ-CP, Nghị định số 109/2005/NĐ-CP, Thông tư số 03/2006/TT-NHNN
và các quy định về quản lý tài chính đối với BHTG Việt Nam. Từ những cơ sở pháp
lý này, các quy định pháp luật về BHTG liên quan trực tiếp đến quyền lợi NGT theo
pháp luật hiện hành được quy định như sau:
- Về người được hưởng quyền lợi bảo hiểm
NGT không phải đóng phí bảo hiểm nhưng là người được hưởng quyền lợi
bảo hiểm. Theo đó, khi tổ chức nhận tiền gửi có tham gia đóng bảo hiểm đúng quy
định thì khi tổ chức này bị phá sản hoặc mất khả năng thanh toán, các chủ thể gửi
75
Xem Khoản 2 Điều 94 Luật Các TCTD 2004.
76 Lê Thị Thu Thủy (2007), “Bàn mô hình bảo hiểm tiền gửi trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí
luật học (12), tr. 37.
77 Quyết định số 101/QĐ/BTC ngày 1/2/1994 của Bộ trưởng Bộ tài chính về việc ban hành quy tắc bảo hiểm
trách nhiệm của quỹ tín dụng nhân dân đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn.
Huỳnh Anh
67
tiền sẽ được BHTG Việt Nam chi trả bảo hiểm. Tuy nhiên, không phải tất cả những
chủ thể gửi tiền đều được hưởng bảo hiểm. Theo quy định, khi có sự kiện bảo hiểm
xảy ra thì tổ chức BHTG Việt Nam sẽ có trách nhiệm thay tổ chức nhận tiền gửi đó
trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của khách hàng gửi tiền ở tổ chức tham gia
BHTG đó, đó là những khách hàng gửi tiền bằng đồng Việt Nam tại tổ chức có
tham gia bảo hiểm, bao gồm: cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, các doanh nghiệp tư
nhân và công ty hợp danh gửi tại tổ chức tham gia BHTG. Trừ trường hợp NGT là
cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc nắm giữ trên 10% vốn cổ phần có quyền
bỏ phiếu của tổ chức tham gia BHTG đó; hoặc là thành viên Hội đồng quản trị, Ban
kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ
chức tham gia BHTG đó; hoặc NGT đã dùng tiền gửi để đảm bảo thực hiện nghĩa
vụ; hoặc tiền dùng để mua giấy tờ có giá vô danh do tổ chức tham gia BHTG phát
hành78
.
Vậy theo quy định hiện hành, về nguyên tắc pháp luật chỉ BHTG của cá nhân
(bảo hiểm đối với hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp
danh thực chất cũng là tiền gửi cá nhân).
Luật không quy định việc chi trả BHTG cho NGT là hợp tác xã, công ty cổ
phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Một số quan điểm cho rằng nên bổ sung các
chủ thể này vào chủ thể được chi trả bảo hiểm với lập luận rằng đều này sẽ tạo điều
kiện huy động vốn phục vụ cho nhu cầu đầu tư phát triển79
, hoặc nhằm tạo sự bình
đẳng về mặt pháp lý giữa các chủ thể kinh tế với nhau80
. Tuy nhiên, đối với các tổ
chức, đa số vốn của họ dùng để phục vụ cho mục đích kinh doanh, tức là đã phục vụ
cho nhu cầu đầu tư. Mặt khác, nếu xét một cách toàn diện, cá nhân gửi tiền thường
là đối tượng đáng được bảo vệ hơn vì khoản tiền gửi rất quan trọng với họ, bên cạnh
đó so với NGT là tổ chức thì NGT là cá nhân khả năng tự bảo vệ mình kém hơn tổ
chức, đặc biệt là các tổ chức kinh tế (khả năng am hiểu, nắm bắt và đánh giá thông
tin,...) nên họ dễ bị thiệt thòi hơn. Vì vậy, bảo vệ quyền lợi NGT là cá nhân xét ở
khía cạnh này ta thấy có tính hợp lý nhất định.
- Về chủ thể đóng phí tham gia bảo hiểm
78
Điều 3 Nghị định số 89/1999/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 109/2005/NĐ-CP.
79 Nguyễn Thị Diệu Linh (2009), Bảo hiểm tiền gửi-quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng, Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.87-88.
80 Phạm Nguyệt Thảo (2007) , “Một số vấn đề pháp lí về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam”, Tạp chí luật học,
(12), tr. 52.
Huỳnh Anh
68
Theo quy định tại Điều 2 Nghị định số 89/1999/NĐ-CP, quy định về chủ thể
tham gia bảo hiểm như sau: “Các tổ chức tín dụng và tổ chức không phải là tổ chức
tín dụng được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật
các tổ chức tín dụng có nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân phải tham gia bảo hiểm
tiền gửi bắt buộc”
Như vậy, chủ thể có nhận tiền gửi theo quy định trên đều có nghĩa vụ đóng
phí BHTG bắt buộc. Nhận thấy, việc đóng phí BHTG của các tổ chức nhận tiền gửi
hiện nay nhằm đẳm bảo quyền lợi cho NGT là cá nhân, phần đông những đối tượng
này là những người có thu nhập thấp trong xã hội, chính vì vậy bảo vệ quyền lợi của
đa số cá nhân gửi tiền mang ý nghĩa góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Việc chi trả
BHTG cho các chủ thể gửi tiền không chỉ dựa vào khoản phí bảo hiểm do tổ chức
nhận tiền gửi đóng mà còn dựa vào vốn của tổ chức BHTG được Nhà nước cấp.
Cũng chính vì lý do này, pháp luật hiện hành đã không BHTG đối với các tổ chức
(trừ một số tổ chức như hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty
hợp danh).
Như lập luận trên, Nhà nước không cần thiết phải trợ giúp tài chính cho các
tổ chức trong việc đóng BHTG cũng như trong chi trả bảo hiểm. Tuy vậy, luật chưa
có quy định nhằm tạo cơ hội cho các tổ chức được tham gia BHTG trên cơ sở tự
nguyện của tổ chức gửi tiền và tổ chức nhận tiền gửi. Trong trường hợp nhằm tăng
tính cạnh tranh của trong hoạt động ngân hàng, tổ chức nhận tiền gửi có nhu cầu
đóng BHTG cho tổ chức thì cũng nên tạo hành lang pháp lý cho họ.Việc đóng phí
này sẽ do NH thực hiện trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng gửi tiền.
- Về tiền gửi được bảo hiểm
Theo quy định hiện hành, tiền gửi được bảo hiểm được xác định như sau81
:
Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của người gửi tiền
là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, các doanh nghiệp tư nhân và công ty
hợp danh gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, trừ những trường hợp
sau đây:
a) Tiền gửi của người gửi tiền là cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ
hoặc nắm giữ trên 10% vốn cổ phần có quyền bỏ phiếu của tổ chức tham
gia bảo hiểm tiền gửi đó;
81
Khoản 2 Mục 1 Thông tư số 03/2006/TT-NHNN hướng dẫn một số nội dung tại Nghị định số
89/1999/NĐ-CP và Nghị định số 109/2005/NĐ-CP.
Huỳnh Anh
69
b) Tiền gửi của người gửi tiền là thành viên Hội đồng quản trị, Ban
kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc)
của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó;
c) Tiền gửi dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người gửi tiền;
d) Tiền mua giấy tờ có giá vô danh do tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi phát hành.
Như vậy, tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của NGT
là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh gửi
tại tổ chức tham gia BHTG. Do đó, BHTG chỉ bảo hiểm đối với tiền đồng Việt
Nam, không bảo hiểm đối với dạng tiền gửi là vàng, không BHTG đối với ngoại tệ.
Điều này đồng nghĩa với việc một bộ phận không nhỏ NGT tham gia gửi tiền bằng
ngoại tệ, vàng tại các TCTD không được bảo hiểm khi TCTD bị đổ vỡ. Với quy
định hiện nay, một mặt cho thấy sự không công bằng đối với chủ thể gửi tiền dưới
dạng ngoại tệ, vàng; mặt khác, đã không tính đến thực trạng sử dụng ngoại tệ của
các TCTD và các tổ chức, cá nhân được phép sử dụng ngoại tệ ở Việt Nam.
Hiện nay, nhà nước ta đã cho phép sử dụng ngoại tệ rộng rãi đối với cá nhân,
tổ chức. Theo quy định tại Pháp lệnh số 28/2005/PL-UBTV11 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội thông qua ngày 13/12/2005 về ngoại hối thì các tổ chức cá nhân là
người cư trú, người không cư trú có hoạt động ngoại hối, hoạt động liên quan đến
ngoại hối được phép mở và sử dụng tài khoản ngoại tệ tại TCTD được phép82
khi có
nguồn ngoại tệ hợp pháp để thực hiện các giao dịch thu ngoại tệ từ nước ngoài
chuyển vào, thu ngoại tệ từ nguồn thu được phép trong nước, thu ngoại tệ tiền mặt
từ nước ngoài vào theo quy định của NHNN, chi bán cho các TCTD được phép, chi
chuyển đổi ra các loại ngoại tệ khác hoặc các công cụ thanh toán khác bằng ngoại
tệ, chi chuyển ra nước ngoài hoặc chuyển sang tài khoản tiền gửi ngoại tệ của người
không cu trú khác hoặc thanh toán cho người cư trú tiền, hàng hóa, dịch vụ xuất
khẩu,... Hơn nữa, Việt Nam đã gia nhập WTO, do vậy sẽ có nhiều tổ chức, cá nhân
nước ngoài đến và làm việc tại Việt Nam, đầu tư vào Việt Nam. Với chính sách kêu
gọi, thu hút đầu tư nước ngoài của nhà nước ta, trong thời gian sắp tới, lượng ngoại
tệ được sử dụng trong các giao dịch thông qua hệ thống các TCTD ngày càng tăng
cao.
Từ thực tế đó, việc quy định chỉ có tiền gửi bằng đồng Việt Nam của cá
nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh được bảo 82
TCTD được phép là các NH và các TCTD phi NH được hoạt động ngoại hối và cung ứng dịch vụ ngoại
hối theo quy định tại Pháp lệnh ngoại hối 2005.
Huỳnh Anh
70
hiểm là chưa hợp lý. Trong khi các tổ chức, cá nhân người cư trú và người không cư
trú đều có thể mở tài khoản ngoại tệ tại Việt Nam, việc không bảo hiểm đối với
đồng ngoại tệ đã không đảm bảo sự công bằng giữa những NGT. Đồng thời, khi
lượng giao dịch bằng ngoại tệ chiếm một tỉ lệ đáng kể trong hệ thống các TCTD của
quốc gia thì việc loại bỏ đồng ngoại tệ ra khỏi danh sách tiền gửi được bảo hiểm là
không phù hợp. Với xu hướng hội nhập như hiện nay, thực tiễn cho thấy số lượng
quốc gia bảo hiểm cho đồng ngoại tệ vẫn chiếm tỷ lệ cao so với các quốc gia không
bảo hiểm đối với đồng ngoại tệ83
.
Mặt khác, thực tế hiện nay tư tưởng gửi vàng vào TCTD thay vì gửi tiền đã
trở nên rất phổ biến trong dân chúng. Tuy nhiên, gửi vàng vào TCTD với lãi suất
thấp, nếu có rủi ro lại không được chi trả bảo hiểm, điều đó làm cho NGT không
mặn mà với việc gửi vàng. Vì vậy, trong các giải pháp để tiết kiệm thì họ thường
chọn giải pháp gửi vàng hoặc cất giữa vàng tại nhà hơn là gửi tiền. Đồng thời, cũng
theo lập luận trên, cần đảm bảo quyền lợi của chủ thể gửi tiền dưới dạng vàng là
đảm bảo sự công bằng giữa những NGT.
- Về hạn mức chi trả bảo hiểm
Hạn mức chi trả bảo hiểm là khoản tiền tối đa mà tổ chức BHTG có thể
thanh toán cho NGT thuộc đối tượng được bảo hiểm tại các tổ chức tham gia BHTG
khi tổ chức này bị mất khả năng thanh toán.
Theo quy định pháp luật hiện hành, số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các
khoản tiền gửi bao gồm cả gốc và lãi của một NGT tại một tổ chức tham gia BHTG
thuộc đối tượng được chi trả bảo hiểm theo quy định pháp luật, tối đa là 50 triệu
đồng. NGT có tổng số tiền gửi được bảo hiểm (gồm cả gốc và lãi) tại một tổ chức
tham gia BHTG bằng hoặc nhỏ hơn 50 triệu đồng sẽ được BHTG Việt Nam chi trả
toàn bộ số tiền gửi84
.
Hiện nay có hai hình thức bảo hiểm chủ yếu đó là bảo hiểm hoàn toàn và bảo
hiểm theo hạn mức. Theo đó, bảo hiểm hoàn toàn ưu điểm là ngăn chặn một cách
hiệu quả hiện tượng NGT rút tiền hàng loạt khi có sự cố trong hoạt động ngân hàng,
nhưng nó có nhược điểm lớn là sẽ dễ dẫn đến rủi ro đạo đức, tức tâm lý bất cẩn gia
tăng từ phía TCTD và phí bảo hiểm sẽ rất cao, trách nhiệm của tổ chức BHTG cũng
83
Nghiên cứu của Kunt và Sobaci cho thấy trong 68 hệ thống BHTG được nghiên cứu có 20 hệ thống không
BHTG ngoại tệ.( Xem: Lê Thị Thu Thủy (2007), “Mô hình bảo hiểm tiền gửi trong thời kỳ hội nhập kinh tế
quốc tế”, Tạp chí Luật học, (12), tr. 67.
84 Khoản 3 Điều 1 Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2005 về việc sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi.
Huỳnh Anh
71
trở nên rất nặng nề. Chính vì vậy, chúng ta không chọn mô hình này. Tuy nhiên, khi
chọn hình thức thứ hai, vấn đề hạn mức chi trả tiền gửi là bao nhiêu cần phải được
tính toán phù hợp.
Việc ấn định hạn mức BHTG phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tình hình kinh
tế và hệ thống tài chính ngân hàng; thu nhập bình quân đầu người; số lượng NGT;
năng lực tài chính của BHTG và chính sách của Chính phủ về hoạt động BHTG...
Xét những yếu tố trên trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, chúng ta có thể nhận
thấy như sau:
+ Thị trường tài chính Việt Nam đã từng có những biến động lớn và đến nay
vẫn chưa hoàn toàn ổn định. Hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua đã
xảy ra hiện tượng hàng loạt các TCTD có nguy cơ mất khả năng thanh toán do NGT
rút tiền ồ ạt. Chẳng hạn, Quỹ Tín dụng nhân dân vào những năm 1990, rồi vào thời
điểm những năm 1997, 1998 hàng loạt ngân hàng thương mại cổ phần liên tiếp gặp
khó khăn về khả năng chi trả như Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (2003),
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nông thôn Ninh Bình (2005), Ngân hàng Thương
mại Cổ phần Phương Nam (2005) cũng rơi vào trường hợp tương tự... 85
. Bên cạnh
đó, Việt Nam vừa bước vào giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới, thị trường tài chính
vẫn chưa mở cửa hoàn toàn (đến 2012). Dù vậy, cuộc khủng hoảng tài chính thế
giới vừa qua đã ảnh hưởng nhất định đến Việt Nam. Vì vậy, thị trường tài chính
Việt Nam hiện nay vẫn còn biến động.
+ Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam thời gian qua tăng đáng kể.
Theo thông lệ, nếu việc chi trả bảo hiểm theo một giới hạn nhất định thì yếu tố thu
nhập bình quân đầu người là yếu tố quan trọng. Thời gian qua, thu nhập bình quân
đầu người của Việt Nam có xu hướng tăng86
. Theo thống kê của Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF) vào 4/2008, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam năm 2000 là 401
USD, năm 2001 là 413 USD, năm 2002 là 440 USD, năm 2003 là 489 USD, năm
2004 là 555 USD, năm 2005 là 637 USD, năm 2006 là 722 USD, năm 2007 là 818
85 Kinh nghiệm thế giới cho thấy, cùng với một cơ chế chính sách tài chính tốt và kịp thời khi nâng hạn mức
bảo hiểm tiền gửi đã giúp tạo được niềm tin của khách hàng. Chẳng hạn, trong cuộc khủng hoảng tài chính
thế giới vừa qua, bên cạnh việc bảo lãnh với số tiền 400 tỷ USD cho các giao dịch liên ngân hàng nhưng
không có tài sản đảm bảo, hỗ trợ tài chính cho các ngân hàng mạnh mua lại các ngân hàng yếu kém, đổ vỡ,
Mỹ còn nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi từ 100.000 USD lên 250.000 USD đã góp phần tạo niềm tin của
khách hàng, tránh được việc đổ xô rút tiền hàng loạt. Trong khi đó, ở Anh lại xảy ra hiện tượng này vì đã
không tạo được niềm tin đối với khách hàng. (Xem số liệu tại: http://www.nclp.org.vn/chinh_sach/vai-tro-
cua-bao-hiem-tien-gui-my-trong-quan-ly-khung-hoang).
86 Theo thống kê của Tổng cục Thống kê: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) chín tháng năm 2010 ước tính
tăng 6,52% so với chín tháng năm 2009, trong đó quý I tăng 5,83%; quý II tăng 6,4% và quý III tăng 7,16%.
Đây là mức tăng khá cao so với mức tăng 4,62% của cùng kỳ năm trước.
Huỳnh Anh
72
USD, năm 2008 là 937 USD87
, năm 2009 khoảng trên 1126 USD và chỉ tiêu năm
2010 là 1200 USD88
. Nhận thấy, mức chi trả BHTG theo Điều 3 Nghị định số
89/1999/NĐ-CP là 30 triệu, áp dụng từ cuối năm 1999 đầu năm 2000 đến năm
2005, theo đó thu nhập bình quân năm 2000 là 401 USD. Đến năm 2005, theo Nghị
định số 109/2005/NĐ-CP, mức chi trả bảo hiểm là 50 triệu (tăng 66% hạn mức năm
2000), ứng với thu nhập bình quân là 637 USD, tăng hơn năm 2000 là 58,8 %, mức
chi trả bảo hiểm lúc bấy giờ là 50 triệu và vẫn giữ nguyên đến nay. Nay, thu nhập
bình quân dự kiến năm 2010 là 1200 USD, tăng hơn so với năm 2005 là 46,9%.
Như vậy, hạn mức chi trả bảo hiểm về nguyên tắc phải tính tỉ lệ thuận với thu nhập
bình quân đầu người. Vì vậy, xét ở khía cạnh thu nhập bình quân đầu người, hạn
mức chi trả BHTG Việt Nam cần tăng lên một mức độ nhất định.
+ Về tỷ lệ NGT: Ở Việt Nam, năm 2005, số NGT từ 50 triệu đồng trở xuống
chiếm tỉ lệ lớn, chủ yếu là cán bộ hưu trí hoặc người lao động có thu nhập trung
bình, người làm công ăn lương... Chính vì vậy, tỉ lệ NGT được chi trả bảo hiểm
toàn bộ chiếm tỉ lệ cao. Tình hình hiện nay, đồng tiền mất giá, thu nhập bình quân
đầu người dân tăng cao thì số lượng tiền gửi của các đối tượng với số tiền gửi cao
hơn 50 triệu đồng rất nhiều. Vì vậy, việc tăng hạn mức chi trả lên một mức hợp lý là
cần thiết, đảm bảo các đối tượng trên không bị rủi ro trong quá trình gửi tiền tại các
TCTD. Điều này cũng xuất phát từ chính sách của Chính phủ về hoạt động BHTG
là bảo vệ những cá nhân nhỏ lẻ, bảo đảm an sinh xã hội.
+ Hiện nay, năng lực tài chính của BHTG Việt Nam cũng đã được nâng lên,
BHTG Việt Nam có vốn điều lệ là 5.000 tỉ đồng89
, cộng thêm phí BHTG của BHTG
Việt Nam thu từ các tổ chức tham gia BHTG. Thực tiễn trong thời gian qua, BHTG
Việt Nam đã bảo vệ tốt quyền lợi NGT, chi trả đầy đủ tiền bảo hiểm.
Qua phân tích trên, nhận thấy, trước tình hình hiện nay, với sự ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính vẫn còn, với thực trạng lạm phát cao, thu nhập bình
quân đầu người tăng thì hạn mức 50 triệu đồng đã duy trì từ năm 2005 đến nay thấp,
không hợp lý.
Việc quy định hạn mức chi trả BHTG hợp lý sẽ góp phần hạn chế nguy cơ
rút tiền hàng loạt cũng như củng cố niềm tin đối với tổ chức huy động tiền gửi khi 87
Theo báo cáo của Thủ tướng Chính Phủ về tình hình kinh tế, xã hội năm 2009 và mục tiêu, nhiệm vụ, giải
pháp chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội năm 2010 (Xem tại:
http://www.imf.org/external/pubs/weo/2008/01/weodata/index.aspx)
88 Xem tại: http://www.vtc.vn/2-229308/xa-hoi/nam-2010-binh-quan-dau-nguoi-khoang-1200-usd.htm
89 Điều 4 Quyết định số 13/2008/QĐ-TTg ngày 18 tháng 01 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ ban hành
quy chế quản lý tài chính đối với Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
Huỳnh Anh
73
có khả năng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán hoặc phá sản. Đặc biệt, hạn
chế được tâm lý tin vào những tin đồn thất thiệt, dẫn đến hiện tượng rút tiền hàng
loạt, làm cho một TCTD đang hoạt động bình thường rơi vào tình trạng mất khả
năng thanh toán và có thể ảnh hưởng chung đến toàn hệ thống TCTD.
- Về việc chi trả bảo hiểm
Theo quy định tại Nghị định số 109/2005/NĐ-CP và Thông tư số
03/2006/TT-NHNN, đối với tổ chức tham gia BHTG bị cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xác định là không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn, trong
vòng 60 ngày kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản yêu cầu tổ
chức này chấm dứt các giao dịch để tiến hành thanh lý tài sản hoặc kể từ ngày Toà
án thông báo quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản theo quy định của pháp luật về
phá sản, tổ chức BHTG có trách nhiệm tiến hành chi trả tiền bảo hiểm cho NGT tại
tổ chức tham gia BHTG đó theo nguyên tắc được quy định. Trường hợp NGT có
tổng số tiền gửi được bảo hiểm (gồm cả gốc và lãi) lớn hơn 50 triệu đồng thì phần
vượt trên 50 triệu đồng sẽ được trả trong quá trình thanh lý tài sản của tổ chức tham
gia BHTG phù hợp với quy định của pháp luật về giải thể, phá sản.
Sau thời gian mười năm kể từ ngày tổ chức BHTG có thông báo đầu tiên về
việc chi trả tiền bảo hiểm, những khoản tiền BHTG không có người nhận và không
có lý do chính đáng sẽ được bổ sung vào nguồn vốn hoạt động của tổ chức BHTG
và người có quyền sở hữu khoản tiền gửi được bảo hiểm sẽ không có quyền đòi tổ
chức BHTG chi trả số tiền bảo hiểm đó.
- Vấn đề thông tin về bảo hiểm tiền gửi cho người gửi tiền
Theo quy định hiện hành, tổ chức tham gia BHTG phải niêm yết Chứng nhận
BHTG tại trụ sở và các quầy giao dịch nhận tiền gửi90
. Điều đó chứng minh tổ chức
này đã tham gia BHTG. Khách hàng cũng có thể biết được thông tin về tổ chức
tham gia BHTG khi truy cập Website của BHTG Việt Nam
(http://www.div.gov.vn). Dù vậy, hiện nay việc quy định BHTG là bắt buộc nên
NGT cũng có thể yên tâm về phần này.
Tuy nhiên, không phải tất cả các loại tiền gửi đều được bảo hiểm. Vì vậy, với
khả năng hiểu biết của khách hàng hạn chế của NGT trong lĩnh vực ngân hàng vẫn
còn hạn chế như hiện nay, nhiều cá nhân gửi tiền đã không xác định được loại tiền
gửi của mình có được bảo hiểm hay không, từ đó ảnh hưởng đến việc chọn lựa hình
90
Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 89/1999/NĐ-CP.
Huỳnh Anh
74
thức gửi tiền của NGT để được hưởng bảo hiểm hoặc gây ngộ nhận rằng “hễ là tiền
gửi thì được bảo hiểm”.
- Về phí bảo hiểm tiền gửi
Chúng ta biết rằng, phí BHTG là khoản tiền mà tổ chức tham gia BHTG có
nghĩa vụ phải nộp cho tổ chức BHTG để được bảo hiểm cho tiền gửi của khách
hàng.
Nguyên tắc của bảo hiểm là phí bảo hiểm cao hay thấp sẽ phụ thuộc vào mức
độ rủi ro của người được bảo hiểm. Trên thực tế, nguyên tắc này chưa thực hiện
được đối với BHTG Việt Nam. Quy định pháp luật hiện nay vẫn còn không thống
nhất. Theo Nghị định số 109/2005/NĐ-CP thì phí bảo hiểm là 0,15 %/ năm tính trên
số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi, mức phí này có thể được điều chỉnh
theo loại hình tổ chức tham gia BHTG hoặc trên cơ sở đánh giá, xếp loại của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Thời gian qua chưa thấy Chính phủ có hướng dẫn cụ
thể về vấn đề điều chỉnh này, các tổ chức tham gia bảo hiểm vẫn đóng phí bảo hiểm
trên thực tế vẫn với tỉ lệ như nhau. Trong khi đó, theo Thông tư số 03/2006/TT-
NHNN thì "tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải nộp cho Bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam một khoản phí bằng 0,15%/năm tính trên toàn bộ số dư tiền gửi bình quân của
các loại tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi” mà không
đề cập gì đến vấn đề điều chỉnh tỉ lệ trên. Chính phủ cũng chưa có văn bản nào khác
điều chỉnh tỉ lệ này.
Vừa qua BHTG Việt Nam đã triển khai đề án tính phí bảo hiểm trên cơ sở rủi
ro của các TCTD. BHTG Việt Nam cũng có văn yêu cầu các NH thương mại, quỹ
tín dụng báo cáo để tạo tiền đề cho việc tính phí bảo hiểm theo mức độ rủi ro91
.Tuy
nhiên, đến nay mức tính phí vẫn chưa có gì thay đổi, vẫn là mức phí đồng hạng...
Việc áp dụng phí trên cơ sở mức độ rủi ro tuy phức tạp hơn so với cách tính phí như
hiện nay, nhưng mang lại nhiều lợi ích thiết thực, đúng với định hướng phát triển
kinh tế thị trường. Không chỉ vậy, cách tính mức phí có tác dụng giúp các TCTD
không ngừng cải thiện, nâng cao hoạt động của TCTD vì họ thấy được khả năng của
họ trong toàn hệ thống. Nếu mức phí thấp có nghĩa là chất lượng hoạt động của
TCTD đó đang tốt, cố gắng phát huy. Còn nếu mức phí cao có nghĩa là chất lượng
91
Quy định thông tin báo cáo áp dụng đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là Ngân hàng thương mại
ban hành kèm theo Quyết định số 191/QĐ-BHTG ngày 18 tháng 8 năm 2006 của Tổng giám đốc bảo hiểm
tiền gửi ViệtNam.
- Quy định thông tin báo cáo áp dụng đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là Quỹ tín dụng nhân dân
ban hành kèm theo Quyết định số 192/QĐ-BHTG ngày 18 tháng 8 năm 2006 của Tổng giám đốc bảo hiểm
tiền gửi Việt Nam.
Huỳnh Anh
75
hoạt động của TCTD đang có vấn đề thì điều đó càng thôi thúc TCTD phải phấn
đấu để vượt qua trạng thái đó. Từ đó, các TCTD sẽ cố gắng kinh doanh để giảm phí
bảo hiểm, phí bảo hiểm giảm thì TCTD giảm chi phí, lúc đó NGT có lợi hơn. Bởi
khi TCTD phải đóng phí cao thì để đảm bảo kinh doanh có lãi, lãi suất tiền gửi có
thể phải thấp nên ảnh hưởng đến NGT.
Ngoài ra, như đã trình bày trong phần chủ thể đóng phí bảo hiểm, trong
trường hợp cho phép NH tự nguyện đóng phí bảo hiểm cho khách hàng là tổ chức,
lúc bấy giờ BHTG mang tính chất kinh doanh thương mại. Do vậy, cách tính phí
bảo hiểm đối với trường hợp này có thể cao hơn đối với trường hợp đóng BHTG bắt
buộc. Đồng thời, các tính phí phải tính toán phù hợp. Chẳng hạn, nếu áp dụng bảo
hiểm chi trả có giới hạn thì phải căn cứ vào hạn mức chi trả để đóng phí92
.
b) Một số quy định về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Theo quy định hiện hành, BHTG Việt Nam là tổ chức hoạt động không vì
mục tiêu lợi nhuận. BHTG Việt Nam hoạt động nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của NGT, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia BHTG và sự
phát triển an toàn, lành mạnh hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động
của BHTG Việt Nam vẫn còn một số hạn chế trong thực hiện mục tiêu trên.
Một là, BHTG Việt Nam do Chính phủ thành lập và là cơ quan trực thuộc
Chính phủ. Tuy nhiên, thông qua các văn bản pháp luật hiện hành, nhận thấy hoạt
động của BHTG Việt Nam chưa có sự độc lập trong quá trình thực hiện chức năng
nhiệm vụ của mình, hoạt động chủ yếu trên cơ sở kiến nghị và quyết định với cơ
quan quản lý nhà nước có liên quan. Đặc biệt, BHTG Việt Nam phụ thuộc nhiều
vào NHNN93. Điều đó đã hạn chế vai trò của BHTG trong việc bảo vệ quyền lợi
92
Theo quy định hiện hành, phí bảo hiểm đóng trên toàn bộ số dư bình quân của từng loại tiền gửi được bảo
hiểm, trong khi đó tiền bảo hiểm chỉ trả một số lượng nhất định tối đa 50 triệu đồng. Như vậy, đối với số tiền
chênh lệch trên 50 triệu đồng thì không được bảo hiểm trong khi tổ chức bảo hiểm vẫn phải đóng phí trên
toàn bộ số dư bình quân.
93 Chẳng hạn, NHNN trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà nước đối với tổ chức và hoạt động của BHTG Việt
Nam thể hiện qua một số quy định sau:
- Khi phát hiện tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vi phạm các quy định về an toàn trong hoạt động
ngân hàng, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có quyền yêu cầu tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi thực hiện các
biện pháp chấn chỉnh, đồng thời báo cáo bằng văn bản với Ngân hàng Nhà nước. (Khoản 1 Điều 12 Nghị
định số 89/1999/NĐ-CP)
- Trong trường hợp xét thấy hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có nguy cơ dẫn đến
mất khả năng chi trả, thất thoát lớn về tài sản hoặc có tác động nghiêm trọng tới các tổ chức tín dụng khác,
thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi có quyền yêu cầu tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có biện pháp chấn chỉnh
kịp thời, đồng thời báo cáo Ngân hàng Nhà nước có biện pháp xử lý khẩn cấp. (Khoản 2 Điều 12 Nghị định
số 89/1999/NĐ-CP)
Huỳnh Anh
76
NGT, bảo vệ an toàn hệ thống ngân hàng. BHTG Việt Nam không có quyền chủ
động áp dụng các biện pháp chấn chỉnh, không tự đưa ra được các biện pháp xử lý
khẩn cấp,… để hạn chế, ngăn chặn các tổ chức tham gia BHTG mất khả năng thanh
toán. BHTG Việt Nam chỉ dừng lại ở việc “yêu cầu” các tổ chức tham gia BHTG tự
chấn chỉnh và “báo cáo” với NHNN để NHNN có biện pháp xử lý. Điều này đã làm
mất đi tính linh hoạt, chủ động của BHTG Việt Nam. Ngoài ra, BHTG Việt Nam
khi nhận thấy cần thiết phải hỗ trợ tài chính cho các tổ chức tham gia BHTG vẫn
không thể tự quyết định. BHTG Việt Nam phải được sự đồng ý của NHNN. Điều
đó có thể sẽ dẫn đến việc can thiệp không kịp thời. Bởi rủi ro tài chính là rủi ro có
tốc độ lan truyền nhanh, nếu không có sự can thiệp kịp thời thì rất có thể sẽ đe dọa
đến sự ổn định của toàn hệ thống94
.
Qua nghiên cứu về vị trí pháp lý của tổ chức BHTG trên thế giới, nhận thấy
hầu hết các tổ chức BHTG đều theo mô hình độc lập với NH Trung ương, chỉ một
số ít trực thuộc NH trung ương. Các mô hình BHTG trên thế giới như mô hình
BHTG của Mỹ là mô hình thành lập đầu tiên trên thế giới (năm 1933 sau khủng
hoảng tài chính 1929-1933), đây là mô hình độc lập với Chính phủ và chịu sự kiểm
soát của Quốc hội. Tổng công ty BHTG Hàn Quốc (KDIC) là tổ chức độc lập trực
thuộc Chính phủ,…95
. Các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương như
Nhật Bản, Philipines, lãnh thổ Đài Loan thuộc Trung Quốc, Malaysia đều theo mô
hình độc lập. Một số nước như Bangladesh, Kenya, Slovenia, Đảo Sip, Lào,
Srilanka là những nước hệ thống BHTG thuộc ngân hàng Trung ương96
. Thực tiễn
cho thấy các mô hình BHTG hoạt động có hiệu quả đa số là các mô hình độc lập với
NHNN và thường tồn tại ở các nước phát triển.
Hai là, về vấn đề kinh doanh của tổ chức BHTG Việt Nam, theo Điều 5 Nghị
định số 89/1999/NĐ-CP thì Tổ chức BHTG là tổ chức tài chính nhà nước hoạt động
không vì mục tiêu lợi nhuận, bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí. Tổ chức
BHTG có tư cách pháp nhân, có bảng cân đối riêng, được mở tài khoản tại các NH
trong nước và nước ngoài, có con dấu, được Nhà nước cấp vốn điều lệ. BHTG Việt
94
Khoản 6 Điều 1 NĐ109/2005/NĐ-CP có quy định: “Tổ chức bảo hiểm tiền gửi chỉ xem xét, quyết định việc
hỗ trợ tài chính cho tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định tại Điều 14 sau khi Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam xác định rằng việc giải thể, phá sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có thể gây ra
những ảnh hưởng nghiêm trọng, sâu rộng đến sự an toàn của hệ thống tài chính, ngân hàng và sự ổn định
chính trị, kinh tế - xã hội”
95 Đăng Dung (2010), “Quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi”, xem tại:
http://vietnamnet.vn/kinhte/201003/Bao-ve-tot-hon-nguoi-gui-tien-896955/
96 Xem tại: http://www.vinacorp.vn/news/xay-dung-luat-bao-hiem-tien-gui-khong-the-tri-hoan/ct-376867
Huỳnh Anh
77
Nam được sử dụng vốn để đầu tư ở mức độ rất hạn chế97
, chủ yếu mang tính chất
tiết kiệm nguồn vốn nhàn rỗi.
Nhận thấy, mặc dù BHTG là một tổ chức được thành lập nhằm thực hiện
chính sách công của nhà nước, thực hiện mục tiêu bảo vệ quyền lợi NGT, đảm bảo
an sinh xã hội, đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD, nhưng với định hướng phát
triển của nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, do vậy
BHTG cần phù hợp với xu hướng này, đặc biệt là hiện nay Việt Nam đã gia nhập
WTO. Bên cạnh đó, BHTG của rất nhiều quốc gia cũng theo mô hình doanh nghiệp
đã trở thành xu hướng chung và mang lại những hiệu quả tích cực98
. Nhờ đó, tổ
chức BHTG có thể có nhiều lợi nhuận để tăng nguồn vốn cho hoạt động của mình.
Mặt khác, giúp tổ chức BHTG Việt Nam giảm bớt, tiến tới không còn sự phụ thuộc
về vốn từ ngân sách nhà nước.
Mặt khác, với tư cách là một doanh nghiệp, BHTG Việt Nam có thể thực
hiện bảo hiểm cho các tổ chức gửi tiền tại các TCTD nếu họ có yêu cầu thông qua
việc tham gia BHTG tự nguyện như đã trình bày trong phần chủ thể tham gia tham
gia BHTG trên đây.
c) Quy định liên quan đến phá sản tổ chức tín dụng
NGT chính là chủ nợ không có bảo đảm của TCTD, vì vậy, theo quy định tại
Khoản 1 Điều 13 Luật phá sản, Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 114/2008/NĐ-CP của
Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật phá sản đối với doanh nghiệp
hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và tài chính khác, thì
khi nhận thấy TCTD lâm vào tình trạng phá sản, NGT có quyền nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản đối với TCTD. Tuy nhiên, do với tính chất đặc biệt của TCTD là
hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên sẽ có sự tham gia của Nhà nước
trước khi tiến hành phá sản như đối với các doanh nghiệp thông thường khác.
TCTD có thể sẽ có giai đoạn kiểm soát đặc biệt trước khi thực hiện giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản.
97
Chẳng hạn, BHTG Việt Nam được sử dụng vốn tạm thời nhàn rỗi để mua trái phiếu, tín phiếu Chính phủ,
tín phiếu NHNN, gửi tiền tại Kho bạc Nhà nước và tại NHNN Nam; gửi tiền, mua trái phiếu, tín phiếu của
các Ngân hàng thương mại Nhà nước và các Ngân hàng thương mại cổ phần được NHNN xếp loại A nhằm
bảo đảm an toàn vốn và bù đắp chi phí. (xem Khoản 5 mục II Thông tư số 62/2008/TT-BTC ngày ngày 08
tháng 7 năm 2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện quy chế quản lý tài chính đối với bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam).
98 Đa số các nước trên thế giới đều quy định tổ chức BHTG là một loại hình doanh nghiệp với tên gọi là tổng
công ty BHTG (xem tại http://www.div.gov.vn/Default.aspx?tabid=120&News=377&CategoryID=3)
Huỳnh Anh
78
Khoản 3 Điều 92 Luật Các TCTD 2004, TCTD có thể đặt trong tình trạng
kiểm soát đặc biệt khi có nguy cơ mất khả năng chi trả; nợ không có khả năng thu
hồi có nguy cơ mất khả năng thanh toán; hoặc khi số lỗ luỹ kế của TCTD lớn hơn
50% tổng số vốn điều lệ thực có và các quỹ99
. Đồng thời, theo Điều 98 Luật Các
TCTD 2004 “sau khi Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản về việc không áp dụng
hoặc chấm dứt áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán của tổ chức tín
dụng mà tổ chức tín dụng đó vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, thì có thể bị
Toà án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản theo quy định của Luật phá
sản”. Như vậy, thủ tục phá sản khi TCTD lâm vào tình trạng phá sản chỉ có thể tiến
hành khi có văn bản của về việc không áp dụng hoặc chấm dứt các biện pháp phục
hội khả năng thanh toán đối với TCTD, ngay cả trường hợp NGT có nộp đơn yêu
cầu phá sản TCTD trước đó rất lâu100.
2.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của
ngƣời gửi tiền
2.2.1. Hoàn thiện những quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền
Sửa đổi, bổ sung Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
NHNN có vai trò điều tiết hệ thống tiền tệ, do đó nó bao gồm vai trò đảm
bảo an toàn hệ thống các TCTD. Theo quy định hiện hành, NHNN là cơ quan của
Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân
hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng
làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ101
. Với cách tổ chức hiện nay, Chính phủ là cơ
quan quyết định chính sách (cả về mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt động) cũng như can
thiệp vào quá trình triển khai thực thi chính sách tiền tệ. Đây là một trong những
nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHNN, nhất là trong việc thực
hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền. Vì vậy, NHNN cần được nâng cao tính độc
99
Theo Luật Các TCTD 2010 quy định: NHNN xem xét, đặt TCTD vào tình trạng kiểm soát đặc biệt khi tổ
chức tín dụng lâm vào một trong các trường hợp sau đây:
a) Có nguy cơ mất khả năng chi trả;
b) Nợ không có khả năng thu hồi có nguy cơ dẫn đến mất khả năng thanh toán;
c) Khi số lỗ lũy kế của tổ chức tín dụng lớn hơn 50% giá trị thực của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ ghi trong
báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất;
d) Hai năm liên tục bị xếp loại yếu kém theo quy định của Ngân hàng Nhà nước;
đ) Không duy trì được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu quy định tại Điểm b, Khoản 1 Điều 130 của Luật này trong
thời hạn một năm liên tục hoặc tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thấp hơn 4% trong thời hạn 06 tháng liên tục. 100
Xem Điều 152, Điều 155 Luật Các TCTD 2010.
101 Xem Điều 1 Luật NHNN 1997.
Huỳnh Anh
79
lập của mình để hoạt động hiệu quả hơn. Cần thiết trao cho NHNN đủ thẩm quyền
để lựa chọn các công cụ điều hành một cách linh hoạt và phù hợp nhất nhằm đạt
được các chỉ tiêu đề ra, tức NHNN có trách nhiệm hoàn thành chỉ tiêu trên cơ sở
được trao đủ thẩm quyền cần thiết để có thể toàn quyền lựa chọn những công cụ
điều hành chính sách tiền tệ phù hợp nhất. Chỉ tiêu chính sách tiền tệ do Chính phủ
hoặc Quốc hội quyết định sau khi thảo luận, thỏa thuận với NHNN. Khi NHNN
hoạt động hiệu quả, tính an toàn của hệ thống các TCTD cao hơn, quyền lợi của
NGT cũng được đảm bảo chắc chắn hơn.
Sửa đổi, bổ sung một số quy định trong Luật Các tổ chức tín dụng
- Thứ nhất, NGT có quyền được biết những thông tin về tiền gửi của mình,
giúp họ theo dõi, kiểm tra tiền gửi của mình. Như vậy, bên cạnh việc thông báo lãi
suất theo định kỳ của TCTD, Luật Các TCTD cần quy định thêm nghĩa vụ thông
báo công khai cách tính lãi suất của TCTD cho khách hàng biết, đặc biệt là đối với
những khoản tiền gửi được tính theo lãi suất linh hoạt hoặc lãi suất tự điều chỉnh
tăng. Các thông tin về cách tính lãi suất phải được đưa lên trang website của các
TCTD.
- Thứ hai, để tránh việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các TCTD, cũng
như việc lợi dụng các hình thức khuyến mại để nâng lãi suất huy động theo ý chí
của TCTD, dẫn đến những biến động bất ổn trên thị trường tiền tệ. Nhà nước cần
phải có những quy định và cơ chế kiểm soát chặt chẽ đối với các hoạt động xúc tiến
thương mại trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, đặc biệt là hình thức khuyến mại. Do
đó, Luật Các TCTD cần ghi nhận việc điều chỉnh các hoạt động xúc tiến thương
mại của các TCTD sẽ được điều chỉnh riêng và được Chính phủ quy định cụ thể.
Sửa đổi, bổ sung Quy chế tiền gửi tiết kiệm ban hành kèm theo Quyết định
số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13 tháng 9 năm 2004 của Thống đốc
Ngân hàng nhà nước và Quyết định số 47/2006/QĐ-NHNN ngày 25 tháng
9 năm 2006 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung
một số điều của Quy chế về tiền gửi tiết kiệm
Thứ nhất, nhằm đảm bảo sự phù hợp giữa lý luận và thực tiễn, đó là bên cạnh
tiền gửi tiết kiệm của cá nhân nhằm mục đích tiết kiệm và an toàn thì các tổ chức có
tiền gửi nhàn rỗi cũng gửi vào TCTD với mục đích này. Vì vậy, Quy chế cần ghi
nhận chủ thể gửi tiền tiết kiệm bao gồm cả tổ chức.
Thứ hai, trong quá trình huy động vốn, vấn đề các nhân viên NH muốn
khách hàng gửi tiền nên đôi khi cố tình không minh bạch thông tin dẫn đến nhiều
Huỳnh Anh
80
khách hàng đã có sự nhầm lẫn trong giao dịch. Vì vậy, để tránh sự nhầm lẫn này,
bên cạnh các quy định hiện hành về công bố công khai lãi suất, công khai nội dung
khuyến mại (đối với hình thức huy động vốn có khuyến mại), Quy chế cần quy định
TCTD cần thể hiện rõ nội dung về lãi suất, về quyền rút vốn trước hạn đối với
những trường hợp có sự thay đổi khác hơn so với quy định chung mà có khả năng
gây ngộ nhận cho khách hàng. Chẳng hạn, trong trường hợp NGT không được rút
vốn trước hạn thì trong giấy chứng nhận tiền gửi phải ghi rõ “không được rút vốn
trước hạn” hoặc “rút vốn trước hạn sẽ tính lãi suất không kỳ hạn”102
. Điều này
cũng khắc phục được vấn đề tranh chấp liên quan đến việc có thỏa thuận về rút
trước hạn giữa tổ chức nhận tiền gửi và NGT. Bởi, khi đó đã xác định rõ tiền gửi
nào được rút vốn trước hạn, tiền gửi nào không được rút vốn trước hạn.
Thứ ba, NGT cũng cần được tạo điều kiện để biết tiền gửi của mình tại các
TCTD có được bảo hiểm không, trên thực tế một bộ phận không nhỏ NGT không
nắm được điều này. Vì vậy, thỏa thuận giữa NGT và TCTD cần thể hiện được nội
dung này. Xuất phát từ đó, Quy chế cần bổ sung nội dung TCTD có trách nhiệm ghi
nhận vào thể lệ tiền gửi các loại tiền gửi được bảo hiểm và không được bảo hiểm.
Trong thời gian tới, nếu thực hiện việc việc bảo hiểm tự nguyện đối với tổ chức thì
việc ghi nhận vào thể lệ gửi tiền hoặc quy chế mở tài khoản về việc xác định tiền
gửi có được bảo hiểm hay không lại càng có ý nghĩa quan trọng, bởi vì lúc bấy giờ
sẽ các khoản tiền gửi được bảo hiểm và không được bảo hiểm càng khó xác định
hơn hiện nay. Ngoài ra, đây cũng là một cách tuyên truyền hữu hiệu để NGT hiểu
thêm về chính sách BHTG của nhà nước ta đối với dân chúng, giúp dân chúng có
nhận thức và lòng tin nhiều hơn đối với BHTG, đối với TCTD, từ đó củng cố lòng
tin của họ khi gửi tiền vào TCTD.
Thứ tư, như đã phân tích trong Điểm a Mục 2.1.2.3, pháp luật hiện hành quy
định tổ chức nhận tiền gửi đóng tài khoản tiền gửi khi NGT chết và thực hiện
chuyển giao tiền gửi cho những người thừa kế. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành
không quy định cụ thể trình tự, thủ tục chuyển giao. Đồng thời, thực tiễn giải quyết
vấn đề chuyển giao đối với khoản tiền gửi không thể rút vốn trước hạn cho thấy một
số vướng mắc. Do vậy, Quy chế cần thiết quy định rõ theo hướng cho phép những
người thừa kế tiền gửi của NGT được quyền rút vốn trước hạn ngay cả trong trường
hợp có thỏa thuận không được phép rút vốn trước hạn và được tính lãi suất không
kỳ hạn. Điều này có ý nghĩa hạn chế những tranh chấp về thừa kế có thể phát sinh
102
Vì trên thực tế, thông thường các TCTD đều cho phép tính lãi suất có kỳ hạn đối với khoản tiền gửi rút
trước hạn nếu khoản tiền này đạt kỳ hạn nhất định.
Huỳnh Anh
81
do việc chia di sản phức tạp và kéo dài cũng như khắc phục được bất cập là chủ nợ
của người chết “buộc” phải khởi kiện những người thừa kế để đòi nợ vì sợ hết thời
hiệu khởi kiện.
Thêm vào đó, Quy chế cần quy định trong những trường hợp bất khả kháng
(như thiên tai, hỏa hoạn, ốm đau,...) NGT có thể rút vốn trước hạn đối với tiền gửi
không có thỏa thuận rút trước hạn nhằm giúp họ vượt qua khó khăn này.
Thứ năm, Quy chế cần quy định tổ chức nhận tiền gửi có trách nhiệm đưa lên
website của mình Thể lệ tiền gửi tiết kiệm, Quy định về mở và sử dụng tài khoản
tiền gửi. Qua đó, tạo được sự công khai, minh bạch hơn về thông tin tiền gửi. NGT
dễ dàng tìm hiểu và nắm được những thông tin cần thiết để lựa chọn tổ chức nhận
tiền gửi, hình thức gửi tiền phù hợp với nhu cầu của mình.
Sửa đổi, bổ sung quy chế phát hành giấy tờ có giá ban hành kèm theo
Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24 tháng 3 năm 2008 của Thống
đốc Ngân hàng nhà nước
Các loại giấy tờ có giá rất đa dạng và phong phú. Bên cạnh đó, chỉ có một số
loại giấy tờ có giá được xem là tiền gửi (theo Luật Các TCTD 2010 thì bao gồm
chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu) thì mới có thể được BHTG chi trả khi gửi
tiền vào tổ chức có tham gia BHTG. Ngoài ra, pháp luật hiện hành cũng chỉ bảo
hiểm tiền ghi danh. Chính vì vậy, khi phát hành các loại giấy tờ có giá, tổ chức phát
hành cần thiết ghi rõ trên giấy tờ có giá đó là được bảo hiểm hay không được
BHTG.
Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20 tháng 9 năm
2001 về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
toán và Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà
nước và các tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định số
1284/2002/QĐ-NHNN ngày 21 tháng 11 năm 2002 của Thống đốc Ngân
hàng nhà nước
Thứ nhất, như đã phân tích, nội dung của hai văn bản này không có sự thống
nhất trong việc quy định các trường hợp được phép đóng tài khoản của khách hàng.
Đồng thời quy định tại Khoản 2 Điều 10 Nghị định số 64/2001/NĐ-CP không phù
hợp, có thể ảnh hưởng đến lợi ích chính đáng của NGT. Mặt khác, hiện nay chúng
ta đang khuyến khích thanh việc thanh toán không dùng tiền mặt, việc dễ dàng đóng
tài khoản khách hàng sẽ hạn chế việc thanh toán này. Vì vậy, không nên quy định
trường hợp NH được đóng tài khoản khách hàng vì lý do số dư trong tài khoản thấp
Huỳnh Anh
82
và không sử dụng dịch vụ thanh toán trong thời gian dài. Do đó, bỏ nội dung này
trong phần trong Khoản 2 Điều 10 Nghị định số 64/2001/NĐ-CP. Đồng thời, luật
cần quy định cụ thể vi phạm nào thì TCTD được đóng tài khoản khách hàng để
tránh sự tùy tiện của các TCTD khi quy định vấn đề này. Từ đó sửa đổi Khoản 1
Điều 14 Quy chế mở và sử dụng tài khoản tại NHNN và TCTD theo hướng NH
được phép đóng tài khoản của khách hàng theo Điều 10 Nghị định số 64/2001/NĐ-
CP.
Thứ hai, Nghị định cần bổ sung trường hợp tổ chức nhận tiền gửi đóng tài
khoản NGT khi người này bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đồng thời, chuyển
giao cho cho người giám hộ quản lý theo quy định về giám hộ.
Thứ ba, theo quy định hiện hành không có quy định về trường hợp khách
hàng được phép phong tỏa tài khoản của TCTD để bảo vệ lợi ích chính đáng cho
mình. Vì vậy, Nghị định cần bổ sung nội dung này để tránh việc các TCTD đưa ra
những quy định phong tỏa tài khoản NGT không chính đáng, ảnh hưởng đến quyền
lợi của họ.
Sửa đổi, bổ sung Quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán ban hành kèm theo Quyết định số 226/2002/QĐ-
NHNN ngày 26 tháng 03 năm 2002 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước
Việt Nam
Trong quá trình thực hiện dịch vụ chuyển tiền, việc NH “ngâm” tiền của
khách hàng đã xâm phạm đến quyền lợi chính đáng của khách hàng và trong nhiều
trường hợp đã gây thiệt hại đáng kể cho khách hàng. Hiện nay, pháp luật cũng có
quy định về việc nếu NH gây thiệt hại cho khách hàng thì khách hàng có quyền
khiếu nại, yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu có). Đồng thời, luật cũng xác định mức
bồi thường nhưng chưa đủ mạnh nên việc vi phạm còn phổ biến. Do vậy, cần nâng
cao mức bồi thường đối với hành vi này. Chẳng hạn, mức phạt chậm trả bằng 2 lần
mức lãi suất quá hạn loại cho vay cao nhất tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
vi phạm. Bên cạnh đó, hành vi “ngâm tiền” là một hành vi vi phạm nguyên tắc hoạt
động ngân hàng, vì vậy cần có chế tài hành chính đối với hành vi này. Quy chế cần
bổ sung chế tài xử phạt hành chính đối với nhân viên NH và NH có hành vi cố ý giữ
lại khoản tiền của khách hàng mà không chuyển đúng thời gian quy định, trong đó
nêu rõ mức xử phạt đối với hành vi trên.
Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 70/2000/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm
2000 của Chính phủ về việc giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp thông tin liên
quan đến tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng và Thông tư số
Huỳnh Anh
83
02/2001/TT-NHNN ngày 4 tháng 4 năm 2001 của Ngân hàng Nhà nước
về hướng dẫn thực hiện Nghị định số 70/2000/NĐ-CP
Thứ nhất, theo quy định hiện hành, cũng như Luật Các TCTD 2010 không
quy định chế tài cụ thể đối với tổ chức nhận tiền gửi khi vi phạm nghĩa vụ tiết lộ
thông tin. Hiện nay, pháp luật chỉ dừng lại ở việc khách hàng được quyền khiếu nại
và khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu có). Cần quy định cơ chế xác định
thiệt hại làm cơ sở cho các cơ quan tiến hành tố tụng xác định thiệt hại mà chủ thể
vi phạm phải bồi thường cho NGT bị thiệt hại. Cần bổ sung những chế tài cụ thể đối
với việc tiết lộ bí mật thông tin khách hàng vào Nghị định này, xác định rõ những
trường hợp nào thì xử phạt hành chính, trường hợp nào phải truy cứu trách nhiệm
hình sự. Từ đó, phân định rõ vụ việc thuộc trách nhiệm cụ thể của cơ quan nào, tạo
thuận lợi cho khách hàng khi khiếu kiện, tránh sự đùn đẩy giữa các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, đồng thời cũng giúp cơ quan có thẩm quyền giải quyết dễ
dàng hơn.
Thứ hai, để tạo cơ sở pháp lý cũng như tạo điều kiện tốt hơn trong việc bảo
vệ quyền lợi NGT chưa thành niên, người thừa kế của NGT, cần ghi nhận chủ thể
được cung cấp thông tin bao gồm cả người đại diện cho NGT (đối với NGT chưa
thành niên) và người thừa kế của NGT (trong trường hợp NGT chết). Vì vậy, sửa
đổi Thông tư số 02/2001/TT-NHNN hướng dẫn thi hành Khoản 1 Điều 5 Nghị định
số 70/2000/NĐ-CP như sau: “Việc cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi và tài
sản gửi của khách hàng theo yêu cầu của bản thân khách hàng đó hoặc người đại
diện của NGT hoặc người thừa kế (trong trường hợp NGT chết) được thực hiện
theo hướng dẫn của từng tổ chức nhận tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng.”
Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm
1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi, Nghị định số 109/2005/NĐ-CP
ngày 24 tháng 8 năm 2005 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP và Thông tư số 03/TT-NHNN ngày
25 tháng 4 năm 2006 của Ngân hàng Nhà nước về việc hướng dẫn một số
nội dung tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP và Nghị định số 109/2005/NĐ-
CP
- Thứ nhất, về đối tượng được bảo hiểm
Chính sách bảo hiểm của Nhà nước là bảo hiểm cá nhân NGT nhỏ, đảm bảo
an sinh xã hội, bảo vệ chủ yếu những đối tượng là người có thu nhập trung bình,
thấp, người làm công ăn lương... Mặt khác, quy định chế độ bảo hiểm như hiện nay
có ý nghĩa khuyến khích những người dân có vốn lớn, có khả năng kinh doanh nên
Huỳnh Anh
84
đầu tư vốn vào kinh doanh để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, góp phần giải quyết
việc làm, ổn định xã hội, tạo nhiều nguồn thu nhập cho ngân sách nhà nước. Vì vậy
pháp luật nên duy trì quy định bảo hiểm bắt buộc đối với đối tượng này.
Vấn đề bảo hiểm đối với tổ chức không cần thiết sử dụng quy định bảo vệ
bắt buộc, bởi họ không là đối tượng yếu thế cần sự che chở của xã hội. Như đã trình
bày, bảo hiểm đối với tiền gửi cá nhân phần đông là khoản tiết kiệm, dành dụm.
Còn đối với các tổ chức kinh doanh thì đã kinh doanh cũng nên chấp nhận rủi ro.
Đó là chưa đề cập đến các chủ thể này có khả năng nắm bắt thông tin tốt, có thể tự
bảo vệ mình tốt hơn so với các chủ thể khác khi có những bất ổn trong thị trường tài
chính - tiền tệ. Do đó, việc bảo hiểm cho khoản tiền gửi đối với các chủ thể này nên
để các TCTD tự nguyện tham gia, điều này tùy thuộc vào sự cạnh tranh cũng như
năng lực của các TCTD, bởi bên cạnh việc đóng phí bảo hiểm, TCTD còn phải duy
trì tài khoản dự trữ bắt buộc tại NHNN, điều này cũng ảnh hưởng đến nguồn vốn
kinh doanh của TCTD.
Tóm lại, bổ sung quy định cho phép các TCTD đóng phí BHTG đối với các
khoản tiền gửi của tổ chức, việc đóng phí này là tự nguyện. Từ đó, bổ sung quy
định các tổ chức gửi tiền tại các TCTD có đóng các khoản phí này sẽ được bảo
hiểm đối với phần tiền gửi của mình.
- Thứ hai,về hạn mức chi trả bảo hiểm
Như đã phân tích trên, việc xác định hạn mức chi trả BHTG cần phải dựa
vào nhiều yếu tố như tình hình thị trường tài chính, lạm phát, thu nhập bình quân
đầu người, năng lực tài chính chính của BHTG... Phân tích cho thấy thị trường tài
chính Việt Nam còn nhiều biến động, lạm phát đang cao, thu nhập bình quân đầu
người của Việt Nam trong 5 năm qua cũng đã tăng đáng kể. Vì vậy, việc duy trì hạn
mức chi trả BHTG là 50 triệu đồng từ năm 2005 đến nay là thấp, không phù hợp.
Do đó, cần xác định lại hạn mức này cho phù hợp với tình hình hiện tại.
- Thứ ba, về loại tiền gửi được bảo hiểm
Bên cạnh việc bảo hiểm đối với Đồng Việt Nam, cần thiết phải bảo hiểm đối
với ngoại tệ và vàng được gửi tại các tổ chức tham gia BHTG. Điều này một mặt
đảm bảo được sự bình đẳng giữa những NGT, mặt khác, tăng cường thu hút nguồn
vốn ngoại tệ phục vụ cho nhu cầu giao dịch thanh toán quốc tế bằng ngoại tệ. Đồng
thời, đó cũng là một đòi hỏi tất yếu, phù hợp với thông lệ quốc tế khi lượng giao
dịch ngoại tệ của nước ta hiện đã phổ biến và có xu hướng ngày càng tăng.
Thứ tư, tổ chức lại mô hình của BHTG
Huỳnh Anh
85
Tổ chức lại mô hình BHTG Việt Nam theo hướng BHTG Việt Nam hoạt
động như một doanh nghiệp. Một mặt, khắc phục sự yếu kém do những hạn chế về
sự lệ thuộc NHNN như hiện nay, mặt khác sẽ tạo điều kiện giảm hỗ trợ của Ngân
sách nhà nước cho BHTG Việt Nam, đồng thời phù hợp với xu hướng phát triển của
nền kinh tế thị trường. Điều này cũng phù hợp với giải pháp cho phép các TCTD
đóng phí BHTG tự nguyện để BHTG cho NGT là tổ chức.
Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm
2006 của Chính phủ hướng dẫn việc áp dụng Luật Phá sản đối với doanh
nghiệp đặc biệt và tổ chức và hoạt động của tổ quản lý, thanh lý tài sản
Trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản (tạm gọi chung là
doanh nghiệp), khoản tiền còn lại sau khi hoàn thành việc thanh toán nợ cho chủ nợ
sẽ thuộc về chủ sở hữu, các thành viên của doanh nghiệp. Như đã phân tích, quá
trình thanh lý tài sản, Tổ quản lý, thanh lý tài sản có mở một tài khoản là tài sản của
doanh nghiệp bị phá sản và do Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản đứng tên. Để
tránh việc người này lợi dụng việc đứng tên tài khoản gây thiệt hại cho chủ sở hữu
thực sự của khoản tiền gửi, cần quy định cụ thể thời hạn Tổ trưởng tổ quản lý, thanh
lý tài sản đóng tài khoản để chuyển giao cho chủ sở hữu, thành viên của doanh
nghiệp (chẳng hạn, không quá một ngày kể từ ngày có quyết định giải thể tổ thanh
lý tài sản). Đồng thời, như đã nêu, trong trường hợp đã thanh toán xong các khoản
nợ cho chủ nợ mà thẩm phán giải quyết vụ việc vẫn chưa ra quyết định giải thể Tổ
quản lý, thanh lý tài sản thì chủ sở hữu doanh nghiệp, thành viên của doanh nghiệp
có quyền khiếu nại thẩm phán này và yêu cầu ra quyết định trên.
Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm
2006 của Chính phủ về ban hành danh mục vốn pháp định của các tổ
chức tín dụng
TCTD phải có vốn Điều lệ thực góp hoặc được cấp tối thiểu tương đương
mức vốn pháp định theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Danh mục mức
vốn pháp định của các TCTD trong Nghị định này, đối với các ngân hàng thương
mại, mức vốn pháp định là 3.000 tỷ đồng; chi nhánh ngân hàng nước ngoài là 15
triệu USD; với ngân hàng chính sách, ngân hàng phát triển là 5.000 tỷ đồng; ngân
hàng đầu tư, ngân hàng hợp tác và quỹ tín dụng nhân dân Trung ương là 3.000 tỷ
đồng; với công ty tài chính là 500 tỷ đồng; công ty cho thuê tài chính là 150 tỷ
đồng. Như vậy, mức vốn pháp định cao nhất áp dụng đối với các loại hình tổ chức
tín dụng hiện nay là 5000 tỉ đồng. Mức vốn này vẫn còn ở mức thấp. Mức vốn pháp
định thấp sẽ dẫn đến việc các NH đua nhau ra đời với mức vốn Điều lệ thấp nên
Huỳnh Anh
86
thường thiếu chất lượng, thiếu sự đa dạng dịch vụ, tiện ích để phục vụ cho khách
hàng, khả năng kiểm soát rủi ro thấp, giới hạn trách nhiệm của các TCTD đối với
các khoản nợ cũng thấp, không đảm bảo được tốt nhất quyền lợi của NGT. Do vậy,
cần tăng vốn pháp định đối với các tổ chức tín dụng. Chẳng hạn, có thể nâng mức
vốn pháp định của loại hình TCTD là NH thương mại từ mức 3000 tỷ đồng lên
7000 tỷ đồng, đối với ngân hàng chính sách, ngân hàng phát triển là 10.000 tỷ
đồng.
2.2.2. Hoàn thiện cơ chế đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền
Thứ nhất, xuất phát từ thực trạng chuyển tiền nhầm của NH đã gây ra thiệt
hại cho khách hàng chuyển tiền, cũng như gây phiền hà cho khách hàng được
chuyển nhầm, NH cần tăng cường cơ chế kiểm tra nhằm hạn chế, khắc phục những
sai sót trên, tránh gây ảnh hưởng đến quyền lợi NGT do sự nhầm lẫn đó. Chẳng
hạn, cần tăng cường năng lực chuyên môn của đội ngũ nhân viên NH, tính chuyên
nghiệp trong công việc, tăng cường sử dụng những trang thiết bị hiện đại có khả
năng phát hiện nhanh những sai sót kỹ thuật trong quá trình thực hiện nghiệp vụ của
nhân viên NH,...
Thứ hai, cần bồi dưỡng kiến thức cho nhân viên NH về những quy định pháp
luật liên quan mật thiết đến việc thực hiện nghiệp vụ để phục vụ tốt hơn đối với
khách hàng gửi tiền, trong đó chú trọng những kiến thức về BHTG, những kiến thức
về chi trả tiền gửi cho người thừa kế khi cá nhân chết, những quy định pháp luật
liên quan đến việc giải quyết hậu quả của việc chuyền nhầm tiền,… tránh việc gây
phiền hà cho khách hàng gửi tiền như trong thời gian qua.
Thứ ba, cơ chế thẩm định, đánh giá cũng như theo dõi việc thực hiện các
chương trình khuyến mại của tổ chức nhận tiền gửi cần chặt chẽ hơn. Từ đó, hạn
chế được những vi phạm trong việc xây dựng chương trình khuyến mại của TCTD
cũng như những vi phạm trong quá trình thực hiện khuyến mại. Đảm bảo sự cạnh
tranh lành mạnh trong hoạt động ngân hàng.
Thứ tư, các TCTD cần tăng cường kiểm soát nội bộ để nâng cao tính an toàn.
Theo Hiệp ước Basel 2103
, rủi ro trong hoạt động ngân hàng không chỉ là rủi ro tín
dụng, rủi ro thị trường mà còn có rủi ro hoạt động. Theo Basel 2 định nghĩa “rủi ro
hoạt động” là rủi ro xảy ra tổn thất do các qui trình, hệ thống hay nhân viên trong
nội bộ NH vận hành không tốt hoặc do các nguyên nhân khách quan bên ngoài. Đây
103
Basel là Ủy ban Giám sát ngân hàng do các NH Trung ương các nước G10 thành lập năm 1975 dưới sự
bảo trợ của Ngân hàng Thanh toán quốc tế. Hiệp ước Basel 2 do Basel ban hành năm 2001 về an toàn vốn
trong hoạt động ngân hàng (xem tại: http://forum.broview.vn/default.aspx?g=posts&m=173).
Huỳnh Anh
87
là một trong những rủi ro trầm trọng mà NH thường phải đối mặt trong quá trình
hoạt động. Do vậy, các NH nâng cao năng lực của nhân viên NH, cần thường xuyên
đánh giá thực trạng tình hình tài chính để kịp thời có biện điều chỉnh và can thiệp
cần thiết, qua đó có thể ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro. Đặc biệt, hệ thống quản trị
điều hành và quản trị kinh doanh của các NH thương mại nước ta còn nhiều yếu
kém như hiện nay.
Kết lsuận chương 2:
Bên cạnh việc trình bày khái quát về những quy định nhằm bảo vệ quyền lợi
của người gửi tiền theo quy định hiện hành, tác giả đã tập trung làm rõ những quy
định liên quan đến bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, đặc biệt là phân tích những
hạn chế bất cập trong thực tiễn áp dụng. Theo đó, tác giả luận giải sâu những nội
dung về chủ thể gửi tiền, về lãi suất tiền gửi, những chính sách khuyến mại nhằm
thu hút các chủ thể gửi tiền của tổ chức tín dụng, các quy định liên quan đến vấn đề
cung cấp thông tin và bảo mật thông tin khách hàng, các quy định về phong tỏa và
đóng tài khoản khách hàng, quy định về quyền lợi của khách hàng gửi tiền khi tổ
chức tín dụng mất khả năng thanh toán. Qua đó, tác giả đã mạnh dạn đề xuất một số
giải pháp thiết thực, góp phần khắc phục hạn chế trên.
Huỳnh Anh
88
KẾT LUẬN CHUNG
Trên cơ sở tập hợp, chứng minh, luận giải và phân tích các dữ liệu một các
khoa học và thực tiễn, luận văn đã đạt được một số nội dung sau:
Một là, hệ thống hóa được những vấn đề mang tính lý luận về bảo vệ quyền
lợi NGT. Phân tích cho thấy rõ tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền lợi người gửi
tiền, nó không chỉ có ý nghĩa bảo vệ lợi ích của cá nhân gửi tiền mà còn có ý nghĩa
góp phần đảm bảo an toàn hoạt động hệ thống ngân hàng, góp phần phát triển nền
kinh tế thông qua việc cung ứng vốn cho nền kinh tế của các chủ thể này. Đồng
thời, chỉ rõ các quyền lợi của người gửi tiền cần được bảo vệ.
Hai là, tác giả đã phân tích những quy định của pháp luật hiện hành liên
quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến quyền lợi của người gửi tiền. Đặc biệt, tác giả
cũng so sánh đối chiếu quy định của pháp luật hiện hành với Luật Các tổ chức tín
dụng 2010 để làm rõ hơn vấn đề cần phân tích cũng như làm rõ những quy định mới
có liên quan đến quyền lợi người gửi tiền sẽ được áp dụng trong thời gian sắp tới.
Ba là, trên cơ sở phân tích những ảnh hưởng của quy định hiện hành liên
quan đến người gửi tiền, tác giả đã phân tích được những bất cập của quy định hiện
hành, quyền lợi của người gửi tiền vẫn chưa được đảm bảo. Đó là những bất cập
liên quan đến vấn đề phong tỏa tài khoản, cung cấp thông tin, bảo mật thông tin,
liên quan đến lãi suất, thừa kế; đặc biệt những vấn đề liên quan đến bảo hiểm tiền
gửi là nổi bật vì ảnh hưởng rất sâu sắc đến quyền lợi người gửi tiền.
Bốn là, trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng đó tác giả đã đề xuất một số
giải pháp để hoàn thiện những quy định pháp luật còn hạn chế, thiếu sót. Theo đó,
tác giả đã nêu một số nội dung cụ thể cần sửa đổi, bổ sung trong các văn bản liên
quan đến bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.
Tác giả hi vọng luận văn sẽ đóng góp một phần nhỏ trong việc hoàn thiện
những quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, tạo được mối quan hệ
hài hòa lợi ích giữa các chủ thể là người gửi tiền, tổ chức tín dụng, khách hàng vay,
tổ chức bảo hiểm tiền gửi… cũng như góp phần đảm bảo an toàn hệ thống tài chính
tiền tệ quốc gia.
-------------------
s
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. VĂN BẢN PHÁP LUẬT
1. Bộ luật Tố tụng dân sự 2004.
2. Bộ luật Dân sự 2005.
3. Luật Các tổ chức tín dụng 1997.
4. Luật Ngân hàng Nhà nước 1997.
5. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước 2003.
6. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng 2004.
7. Luật Phá sản 2004.
8. Luật Doanh nghiệp 2005.
9. Luật Công cụ chuyển nhượng 2005
10. Luật Giao dịch điện tử 2005.
11. Luật Thương mại 2005.
12. Luật Quản lí thuế 2006.
13. Luật Thi hành án dân sự 2008.
14. Luật Các tổ chức tín dụng 2010.
15. Luật Ngân hàng Nhà nước 2010.
16. Pháp lệnh Ngoại hối 2005.
17. Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 của Chính phủ
về bảo hiểm tiền gửi.
18. Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2005 của Chính
phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP
ngày 01 tháng 9 năm 1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi.
19. Nghị định số 70/2000/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2000 của Chính
phủ về việc giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi
và tài sản gửi của khách hàng.
20. Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20 tháng 9 năm 2001 của Chính phủ
về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
21. Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02 tháng 5 năm 2001 của Chính phủ
về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính.
22. Nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày 4 tháng 10 năm 2002 của Chính phủ
"Về tổ chức và hoạt động của Công ty tài chính”.
23. Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm 2006 của Chính
phủ về ban hành danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng.
24. Nghị định số 95/2008/NĐ-CP ngày 25 tháng 8 năm 2008 của Chính phủ
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02
tháng 5 năm 2001 về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính.
25. Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07 tháng 6 năm 2005 của Chính phủ
về phòng chống rửa tiền.
26. Nghị định 22/2006/NĐ-CP ngày 28 tháng 02 năm 2006 của Chính phủ
về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng
liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài.
27. Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 4 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ
quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại.
28. Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2006 của Chính phủ
hướng dẫn việc áp dụng Luật phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ
chức, hoạt động của tổ quản lý, thanh lý tài sản.
29. Nghị định số 114/2008/NĐ-CP ngày 3 tháng 11 năm 2008 của Chính
phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật phá sản đối với doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và tài
chính khác.
30. Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 9 tháng 11 năm 1999 của thủ
tướng Chính phủ về việc thành lập bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
31. Quyết định số 13/2008/QĐ-TTg ngày 18 tháng 01 năm 2008 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế đối với bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam.
32. Quyết định số 1310/ 2001/QĐ-NHNN ngày 15 tháng 10 năm 2001 của
Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam ban hành Quy chế vay vốn giữa
các tổ chức tín dụng.
33. Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN ngày 21 tháng 11 năm 2002 của
Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam về ban hành “Quy chế mở và sử
dụng tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng”.
34. Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26 tháng 3 năm 2002 của
Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc ban hành quy chế hoạt
động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
35. Quyết định số 581/2003/QĐ-NHNN ngày 09 tháng 6 năm 2003 của
Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc ban hành Quy chế dự trữ
bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng.
36. Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13 tháng 9 năm 2004 của
Thống đốc Ngân hàng nhà nước về ban hành quy chế về tiền gửi tiết kiệm.
37. Quyết định số 47/2006/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 9 năm 2006 của
Thống đốc Ngân hàng nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
Quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành kèm theo quyết định số
1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13/9/2004 của Thống đốc ngân hàng nhà nước.
38. Quyết định số 1325/2004/QĐ-NHNN ngày 15 tháng 10 năm 2004 của
Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc ban hành quy chế chiết
khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng đối với khách hàng
39. Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19 tháng 4 năm 2005 của
Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam quy định các tỷ lệ bảo đảm an
toàn trong hoạt động của TCTD.
40. Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 của
Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam về ban hành quy định về phân
loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lí rủi ro tín dụng.
41. Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24 tháng 3 năm 2008 của
Thống đốc Ngân hàng nhà nước về ban hành quy chế phát hành giấy tờ có
giá của trong nước tổ chức tín dụng.
42. Quyết định số 1011/2010/QĐ-NHNN ngày 27 tháng 4 năm 2010 của
Ngân hàng nhà nước Việt Nam về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam.
43. Thông tư số 03/2000/TT-NHNN5 ngày 16 tháng 3 năm 2000 của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thi hành Nghị định số 89/1999 NĐ-CP
ngày 01 tháng 9 năm 1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi.
44. Thông tư số 02/2001/TT-NHNN ngày 4 tháng 4 năm 2001 Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam về hướng dẫn thực hiện NĐ 70/2000/NĐ-CP của Chính
phủ về việc giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi
và tài sản gửi của khách hàng.
45. Thông tư số 06/2002/TT-NHNN ngày 23 tháng 12 năm 2002 của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện Nghị định số 79/2002/NĐ-
CP ngày 4 tháng 10 năm 2002 của Chính phủ "Về tổ chức và hoạt động của
Công ty tài chính”
46. Thông tư số 03/2006/TT-NHNN ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam về việc hướng dẫn một số nội dung tại Nghị định
số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi và
Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về việc sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP.
47. Thông tư số 06/2006/TT-NHNN ngày 25 tháng 8 năm 2006 của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện khoản 3, điều 6 quyết định
số 270/1005/QĐ-TTG ngày 31/10/2005 của Thủ tướng chính phủ về việc tổ
chức, huy động, quản lý và sử dụng nguồn tiền gửi tiết kiệm bưu điện.
48. Thông tư số 07/2007/TT-BTM-BTC ngày 6 tháng 7 năm 2007 của Bộ
Thương mại, Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện một số điều về khuyến mại
và hội chợ, triển lãm thương mại quy định tại Nghị định số 37/2006/NĐ-CP
ngày 4 tháng 4 năm 2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động
xúc tiến thương mại.
49. Thông tư số 62/2008/TT-BTC ngày 8 tháng 7 năm 2008 của Bộ tài
chính hướng dẫn thực hiện quy chế đối với bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
50. Quyết định 379/2009/QĐ-NHNN ngày 24 tháng 2 năm 2009 của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam về điều chỉnh tỉ lệ dự trữ bắt buộc của các TCTD.
51. Thông tư số 16/2009/TT-NHNN ngày 11 tháng 8 năm 2009 của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế phát
hành giấy tờ có giá trong nước của tổ chức tín dụng. Ban hành kèm theo
Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24 tháng 3 năm 2008 của Thống
đốc Ngân hàng nhà nước.
52. Thông tư số 229/2009/TT-BTC ngày 08 tháng 12 năm 2009 của Bộ tài
chính hướng dẫn, bổ sung thông tư số 62/2008/TT-BTC ngày 8 tháng 7 năm
2008 hướng dẫn thực hiện quy chế đối với bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
53. Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20 tháng 5 năm 2010 của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt
động của tổ chức tín dụng.
54. Thông tư số19/2010/TT-NHNN ngày 27 tháng 9 năm 2010 của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số
13/2010/TT-NHNN ngày ngày 20 tháng 5 năm 2010 quy định về các tỷ lệ
đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
55. Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14 tháng 4 năm 2010 của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng
Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận.
56. Quy định thông tin báo cáo áp dụng đối với tổ chức tham gia bảo hiểm
tiền gửi là Ngân hàng thương mại ban hành kèm theo Quyết định số
191/QĐ-BHTG ngày 18 tháng 8 năm 2006 của Tổng giám đốc bảo hiểm tiền
gửi Việt Nam.
57. Quy định thông tin báo cáo áp dụng đối với tổ chức tham gia bảo hiểm
tiền gửi là Quỹ tín dụng nhân dân ban hành kèm theo Quyết định số
192/QĐ-BHTG ngày 18 tháng 8 năm 2006 của Tổng giám đốc bảo hiểm tiền
gửi Việt Nam.
B. GIÁO TRÌNH, SÁCH CHUYÊN KHẢO, LUẬN VĂN, TẠP CHÍ…
- Giáo trình
58. Trường Đại học luật TP.Hồ Chí Minh (2005), Giáo trình Luật Ngân
hàng Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
- Sách chuyên khảo
59. Lê Vinh Danh (2006), Tiền và hoạt động ngân hàng, NXB Tài chính.
60. David Cod (1997), Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
61. Nguyễn Ngọc Hùng (Trường Đại học kinh tế – Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh) (1998), Lý thuyết tài chính tiền tệ, NXB Thống kê, TP.
Hồ Chí Minh.
62. Lê Thị Thu Thủy (Đại học Quốc Gia Hà Nội – Khoa Luật) (2006), Các
biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng, NXB Tư
pháp, Hà Nội.
63. Lê Văn Tư (1997), Tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, NXB Thống kê, TP.
Hồ Chí Minh
64. Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh, tạp chí công nghệ ngân
hàng (2007), Hoàn thiện luật ngân hàng-những đòi hỏi từ hội nhập kinh tế
quốc tế, NXB Lao động - xã hội, TP.Hồ Chí Minh.
- Luận văn
65. Lê Thị Hoa (2009), pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền
gửi của tổ chức tín dụng, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
66. Tạ Chương Lâm (2009), pháp luật về đảm bảo an toàn trong hoạt động
ngân hàng của ngân hàng thương mại tại Việt Nam, Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh.
67. Nguyễn Thị Diệu Linh (2009), Bảo hiểm tiền gửi - quy định của pháp
luật và thực tiễn áp dụng, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
- Tạp chí
68. Phùng Văn Hùng (2009), “Bàn thêm về vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền
gửi trong việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền và đảm bảo sự phát triển an
toàn của hệ thống ngân hàng”. Tạp chí ngân hàng số (11), tr 44 -47.
69. Phạm Nguyệt Thảo (2007), “Một số vấn đề pháp lí về bảo hiểm tiền gửi
ở Việt Nam”, Tạp chí luật học (12), tr 49-56.
70. Lê Thị Thu Thủy (2007), “Mô hình bảo hiểm tiền gửi trong thời kỳ hội
nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Luật học, (12), tr 67-74.
- Các bài viết khác
71. Đăng Dung (2010), “Quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi”, xem tại:
http://vietnamnet.vn/kinhte/201003/Bao-ve-tot-hon-nguoi-gui-tien-896955/
72. L.Hương-M.Hương, “Đề xuất nâng mức bảo hiểm tiền gửi lên gấp 4
lần”, xem tại http://vneconomy.vn/20090120094741427P0C6/de-xuat-nang-
muc-bao-hiem-tien-gui-len-gap-4-lan.htm
73. Mai Hương (2007), “DIV và mô hình tổng công ty giảm thiểu rủi ro”,
xem tại
http://www.div.gov.vn/Default.aspx?tabid=120&News=377&CategoryID=3
74. Đỗ Quốc Tình (2007), “Bàn về việc xây dựng luật bảo hiểm tiền gửi”,
xem tại http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/?s=BHTG
75. Đinh Dũng Sĩ (2010), “Mô hình nào cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam?”,
xem tại http://www.saga.vn/Marketing/Phantichvadubao/18634.saga
C. CÁC TRANG WEB
76. http://baodientu.chinhphu.vn/
77. http://www.chinhphu.vn/
78. http//www.div.gov.vn/
79. http://ebank.vnexpress.net/
80. http://forum.broview.vn/
81. http://www.gso.gov.vn/
82. http://www.nclp.org.vn/
83. http://www.saga.vn/
84. http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/
85. http://vietnamnet.vn/
86. http://www.vinacorp.vn/
87. http://vneconomy.vn/
88. http://www.vtc.vn/
top related