phÁp luẬt vỀ bẢo vỆ quyỀn lỢi cỦa ngƯỜi gỬi tiỀn

101
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH HUỲNH ANH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2010

Upload: khangminh22

Post on 12-Mar-2023

0 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

HUỲNH ANH

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA

NGƯỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2010

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

HUỲNH ANH

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA

NGƯỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật kinh tế

Mã số: 60.38.50

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THANH BÌNH

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2010

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện

dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sỹ Nguyễn Thanh Bình. Luận văn có kế thừa

các tư tưởng, kết quả nghiên cứu của những người đi trước.

Mọi thông tin, số liệu được sử dụng trong Luận văn là trung thực và có trích

dẫn nguồn đầy đủ.

TP. Hồ Chí Minh, ngày ….. tháng 11 năm 2010

Tác giả

Huỳnh Anh

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BHTG : Bảo hiểm tiền gửi

NGT : Người gửi tiền

NH : Ngân hàng

NHNN : Ngân hàng Nhà nước

TCTD : Tổ chức tín dụng

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1

1 - Tính cấp thiết của đề tài ...............................................................................................1

2 - Tình hình nghiên cứu đề tài .........................................................................................3

3 - Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu ...............................4

4 - Các phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu ....................................................................5

5 - Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài .......................................................5

6 - Kết cấu của luận văn ....................................................................................................6

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI

CỦA NGƢỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG ....... 7

1.1. Tổ chức tín dụng và hoạt động của tổ chức tín dụng .......................................... 7

1.1.1. Khái quát về tổ chức tín dụng ...................................................................................7

1.1.2. Các hoạt động của tổ chức tín dụng .........................................................................9

1.2. Khái quát tiền gửi ................................................................................................. 16

1.2.1. Khái niệm tiền gửi ...................................................................................................16

1.2.2. Các hình thức tiền gửi .............................................................................................17

1.3. Vai trò của tiền gửi ............................................................................................... 19

1.3.1. Đối với người gửi tiền .............................................................................................19

1.3.2. Đối với tổ chức tín dụng .........................................................................................20

1.3.3. Đối với nền kinh tế ..................................................................................................21

1.4. Ngƣời gửi tiền tại các tổ chức tín dụng ............................................................... 24

1.4.1. Khái quát về người gửi tiền ....................................................................................24

1.4.2. Phân loại chủ thể gửi tiền .......................................................................................25

1.5. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của ngƣời gửi tiền ....................................... 27

1.5.1. Xuất phát từ yêu cầu đảm bảo sự bình đẳng giữa tổ chức tín dụng và người gửi

tiền. ..........................................................................................................................28

1.5.2. Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền từ những rủi ro của hoạt động tài chính ngân

hàng .........................................................................................................................29

1.5.3. Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền góp phần đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức

tín dụng ...................................................................................................................30

1.5.4. Thông qua hoạt động cung cấp dịch vụ, tổ chức tín dụng có thể gây thiệt hại

cho người gửi tiền ...................................................................................................31

1.6. Những quyền lợi của ngƣời gửi tiền cần đƣợc bảo vệ ....................................... 32

1.6.1. Quyền được tạo thuận lợi khi gửi tiền và rút tiền. ..................................................32

1.6.2. Quyền được trả đầy đủ, đúng hạn gốc và lãi mọi khoản tiền gửi...........................33

1.6.3. Quyền được đảm bảo bí mật thông tin tiền gửi (số dư tài khoản, số tài

khoản,...), an toàn tài khoản. ..................................................................................34

1.6.4. Quyền được cung cấp thông tin về tiền gửi: lãi suất, số dư,... ...............................37

1.6.5. Quyền định đoạt tiền gửi, để lại di sản thừa kế ......................................................38

1.6.6. Quyền được bảo hiểm chi trả khi tổ chức tín dụng gặp rủi ro ...............................39

1.6.7. Quyền khởi kiện tổ chức tín dụng có hành vi vi phạm hợp đồng đã cam kết theo

quy định của pháp luật. ...........................................................................................39

CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA

NGƢỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN ....................................................... 41

2.1. Quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi của ngƣời gửi tiền ............................. 41

2.1.1. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh việc bảo vệ quyền lợi

của người gửi tiền .................................................................................................. 41

2.1.2. Thực tiễn pháp luật điều chỉnh việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền .............. 42

2.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của

ngƣời gửi tiền ......................................................................................................... 78

2.2.1. Hoàn thiện những quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người

gửi tiền ................................................................................................................... 78

2.2.2. Hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền ......................................... 86

KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................. 8

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Huỳnh Anh

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1 – Tính cấp thiết của đề tài

Kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy, bảo vệ tốt quyền lợi

người gửi tiền có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo an toàn tổ chức tín dụng,

hệ thống tài chính ngân hàng, cũng như góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Bởi khi

người gửi tiền tin rằng quyền lợi của họ được đảm bảo thì họ sẽ tích cực gửi tiền

vào tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng huy động được nguồn vốn dồi dào để cho

vay, từ đó nguồn vốn được lưu thông, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã

hội. Đồng thời, khi quyền lợi được đảm bảo thì người gửi tiền cũng không dễ dàng

nghe theo những tin đồn thất thiệt dẫn đến việc rút tiền ồ ạt, ảnh hưởng đến an toàn

hệ thống ngân hàng. Tại Việt Nam, sự đổ vỡ hàng loạt các hợp tác xã tín dụng nông

thôn và quỹ tín dụng đô thị trên toàn quốc trong những năm cuối thập niên 80 của

thế kỉ XX đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của người gửi tiền. Thực tiễn ở các nước trên thế giới cũng cho thấy điều đó

qua các cuộc khủng hoảng kinh tế, đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính thế giới

năm 2008 vừa qua1.

Xét ở một khía cạnh khác, quyền lợi người gửi tiền cần được bảo vệ xuất

phát từ vị thế của người gửi tiền trong mối quan hệ với tổ chức tín dụng. Theo đó,

quyền lợi của người gửi tiền chưa thật sự bình đẳng với tổ chức tín dụng. Người gửi

tiền khi gửi tiền vào tổ chức tín dụng, chủ yếu dựa vào niềm tin và uy tín của tổ

chức tín dụng, vì không có tài sản nào bảo đảm từ phía tổ chức tín dụng. Trong khi

đó, tổ chức tín dụng thường yêu cầu khách hàng vay phải có tài sản thế chấp để bảo

đảm tiền vay. Điều này đòi hỏi phải có cơ chế bảo vệ người gửi tiền trong tương

quan với việc bảo đảm khả năng chi trả của tổ chức tín dụng. Hiện nay, để khắc

phục một phần vấn đề này là sự can thiệp của bảo hiểm tiền gửi. Theo đó, tổ chức

nhận tiền gửi sẽ đóng tiền bảo hiểm cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi, trong trường hợp

tổ chức nhận tiền gửi mất khả năng thanh toán thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ đứng

ra chi trả cho người gửi tiền một lượng tiền nhất định theo hạn mức do pháp luật

quy định. Tuy nhiên, ở Việt Nam cho đến nay, những quy định pháp luật về vấn đề

1 Đối với các nước bảo vệ tốt quyền lợi người gửi tiền là yếu tố quan trọng trong giải quyết khủng hoảng tài

chính, nhờ đó thị trường tài chính không bị rối ren, các tổ chức tín dụng giải thể, phá sản trong vòng trật tự

(điển hình là Mỹ); ngược lại, ở các nước không bảo vệ tốt quyền lợi người gửi tiền đã làm cho hệ thống tài

chính - ngân hàng bị rối loạn, hiện tượng rút tiền hàng loạt đã diễn ra (điển hình là ở Anh). Đó là lí do vì sao

sự sụp đổ của ngân hàng ở Anh là rất lớn còn ở Mỹ thì có nhiều ngân hàng sụp đổ nhưng khủng hoảng dây

chuyền không nặng nề như ở Anh.

Huỳnh Anh

2

này vẫn còn những hạn chế, từ hạn mức chi trả bảo hiểm đến ghi nhận vai trò, mô

hình của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chưa thật phù hợp nên hiệu quả bảo vệ quyền

lợi người gửi tiền chưa cao. Bởi bảo vệ quyền lợi người gửi tiền không chỉ dừng lại

ở việc chi trả bảo hiểm mà còn phải hạn chế sự sụp đổ của tổ chức tín dụng, hạn chế

tình trạng mất khả năng thanh toán của tổ chức tín dụng. Thực tiễn cho thấy người

gửi tiền chưa thật sự yên tâm về sự an toàn tiền gửi của mình. Minh chứng là người

gửi tiền dễ dàng nghe theo tin đồn thất thiệt, dẫn đến hiện tượng rút tiền hàng loạt

tại một số ngân hàng trong thời gian qua như Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á

Châu (2003), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nông thôn Ninh Bình (2005),…

Ngoài ra, an toàn tiền gửi cũng như đảm bảo những quyền lợi liên quan đến

tiền gửi (lãi suất, giá trị và tiện ích của các dịch vụ được cung ứng) là sự quan tâm

của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào khi gửi tiền tại các tổ chức tín dụng. Đặc biệt, khi

đó lại là những khoản tiền dành dụm, chắt chiu để đảm bảo cuộc sống thì tiền gửi

đối với người gửi tiền càng trở nên quan trọng. Ước tính khoảng 60% - 65% tổng

lượng tiền gửi tại các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng hiện nay là của

người dân với số người gửi tiền lên tới hàng chục triệu người. Vì thế, bảo vệ quyền

lợi người gửi tiền không chỉ có ý nghĩa bảo vệ lợi ích chính đáng của người gửi tiền

mà còn có ý nghĩa đảm bảo an sinh xã hội.

Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập, vì vậy, những tác động tiêu cực từ

thị trường tài chính thế giới cũng sẽ ảnh hưởng đến hệ thống tài chính nước ta, từ đó

ảnh hưởng đến khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền2. Mặt khác, hiện nay

năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính - ngân hàng của nước ta so với nhiều

nước trên thế giới còn thua kém về chất lượng sản phẩm, về công nghệ áp dụng, về

quy mô vốn… có thể sẽ có một số tổ chức tín dụng nhỏ dễ bị đổ vỡ trước sự cạnh

tranh của các ngân hàng nước ngoài. Đặc biệt là khi Việt Nam mở cửa hoàn toàn thị

trường tài chính, với tính chất của nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh sẽ khốc liệt

hơn thời điểm hiện nay. Khi đó, quyền lợi của người gửi tiền tại các tổ chức tín

dụng nhỏ này sẽ bị đe dọa. Vì vậy, cần có những giải pháp góp phần hạn chế sự sụp

đổ của các tổ chức tín dụng này để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền trong thời

gian sắp tới. Điều này cũng phù hợp với chính sách của Nhà nước về xây dựng các

loại hình tổ chức tín dụng theo đó “xây dựng hệ thống các tổ chức tín dụng hiện đại,

2 Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập và trong giai đoạn tiến đến là một quốc gia phát triển. Để đạt được

mục tiêu này, Việt Nam không thể tách khỏi sự ảnh hưởng của bên ngoài, những biến động của tình hình thế

giới. Đặc biệt là sự tác động trong trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ, một lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm và

nhiều rủi ro, có tính chất ảnh hưởng dây chuyền. Một khi có khủng hoảng thì không chỉ xảy ra ở một hay một

vài quốc gia mà nó có thể lan rộng khắp nơi trên thế giới, Việt Nam không ngoại lệ.

Huỳnh Anh

3

đủ sức đáp ứng nhu cầu vốn và dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế và dân cư, góp

phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức

tín dụng, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người gửi tiền”3.

Từ những lý do trên, việc đúc kết kinh nghiệm của các nước, kết hợp thực

tiễn Việt Nam để bổ sung, hoàn thiện những quy định của pháp luật về bảo vệ

quyền lợi người gửi tiền là rất cần thiết. Do đó, tác giả chọn đề tài “Pháp luật về

bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng” để làm luận văn tốt

nghiệp cao học luật của mình.

2 - Tình hình nghiên cứu đề tài

Thời gian qua, với phạm vi và mức độ nghiên cứu khác nhau, có nhiều tác

giả có bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền lợi người

gửi tiền tại các tổ chức tín dụng như: luận văn tốt nghiệp cử nhân luật “Một số vấn

đề pháp lý về bảo hiểm tiền gửi”(2004) của tác giả Đặng Thị Đỉnh; luận văn tốt

nghiệp cử nhân luật “Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền trong hình thức

nhận tiền gửi của tổ chức tín dụng”(2005) của tác giả Bùi Thị Thúy Triều; luận văn

tốt nghiệp cử nhân luật “Một số vấn đề pháp lý về bảo hiểm tiền gửi”(2005) của tác

giả Nguyễn Thị Thu Thảo; luận văn tốt nghiệp cử nhân luật “Bảo hiểm tiền gửi -

công cụ pháp lý bảo vệ quyền lợi người gửi tiền” (2006) của tác giả Vũ Tuyết

Minh; luận văn tốt nghiệp cao học luật “Bảo hiểm tiền gửi - quy định của pháp luật

và thực tiễn áp dụng” (2009) của tác giả Nguyễn Thị Diệu Linh. Một số bài viết của

các tác giả như: “Bàn thêm về vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi trong việc bảo

vệ người gửi tiền và đảm bảo sự phát triển an toàn của hệ thống ngân hàng”(2009)

của TS. Phùng Văn Hùng; “Tăng cường bảo vệ quyền lợi người gửi tiền”(2009) của

TS. Nguyễn Thị Kim Oanh & ThS. Lê Việt Nga…

Tuy nhiên, các công trình trên chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ bảo hiểm tiền

gửi, tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến bảo hiểm tiền gửi mà không

đặt trọng tâm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Cũng có tác giả đặt trọng tâm bảo vệ

quyền lợi người gửi tiền (tác giả Bùi Thị Thúy Triều, Vũ Tuyết Minh) nhưng chỉ

nghiên cứu trong mối tương quan với bảo hiểm tiền gửi, đồng thời các công trình

nghiên cứu này cũng đã lâu (2005), đến nay điều kiện kinh tế - xã hội cũng như

những quy định của pháp luật đã có sự thay đổi. Vì vậy, có thể nói, việc nghiên cứu

một cách tập trung và hệ thống những quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi của

người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng trong điều kiện hội nhập hiện nay là một nội

3 Xem Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng 1997

Huỳnh Anh

4

dung cần tiếp tục hoàn thiện.

3 - Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở tìm hiểu về hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng

bằng hình thức nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, qua đó làm sáng tỏ sự cần

thiết bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng.

Từ những quy định của pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng, luận văn sẽ làm rõ những bất cập,

hạn chế trong các quy định của pháp luật hiện hành về quyền lợi chính đáng của

người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng; đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm

góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các tổ chức

tín dụng trong điều kiện hiện nay.

3.2. Đối tƣợng nghiên cứu

Các vấn đề lý luận về tổ chức tín dụng và các hoạt động của tổ chức tín

dụng, trong đó có hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi và phát hành

giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng, các quyền và lợi ích của ngƣời gửi tiền tại

các tổ chức tín dụng. Quy định của pháp luật hiện hành cũng nhƣ thực trạng

bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng. Từ đó, kiến nghị một

số biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi người

gửi tiền.

3.3. Phạm vi nghiên cứu

Hoạt động huy động vốn của tổ chức tín dụng bao gồm huy động vốn bằng

nhận tiền gửi, huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá, huy động vốn bằng vay

vốn giữa các tổ chức tín dụng, vay vốn của . Trong phạm vi luận văn này, tác giả

chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động huy động vốn của tổ chức tín dụng bằng nhận

tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá. Người gửi tiền được nghiên cứu trong luận văn

này là cá nhân, tổ chức có tiền gửi tại tổ chức tín dụng thông qua hoạt động nhận

tiền gửi của tổ chức tín dụng và phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng nhằm

huy động vốn. Người gửi tiền ở đây không bao gồm, các tổ chức tín dụng là chủ nợ

cho vay nợ, .

Huỳnh Anh

5

Tác giả tập trung nghiên cứu những quy định cơ bản nhất về quyền lợi của

người gửi tiền trong các hoạt động nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá của tổ

chức tín dụng.

4 - Các phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu

Thực hiện đề tài này tác giả đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng,

phương pháp phân tích, tổng hợp để làm rõ những quy định về hoạt động của tổ

chức tín dụng và quy định pháp luật về bảo vệ người gửi tiền tại các tổ chức tín

dụng. Trên cơ sở đó luận văn đi từ cơ sở lý luận đến thực trạng pháp luật và chỉ ra

những hạn chế; đồng thời đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về

bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.

5 - Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài

Đề tài có những đóng góp mới như sau:

Một là, tác giả phân tích để thấy rõ hơn khái niệm tiền gửi, có liên hệ so sánh

giữa khái niệm tiền gửi theo quy định hiện hành và khái niệm tiền gửi theo Luật

Các tổ chức tín dụng 2010.

Hai là, luận văn đã chỉ ra được những cở sở cho thấy sự cần thiết phải bảo vệ

quyền lợi của người gửi tiền tại tổ chức tín dụng; nêu rõ những quyền lợi nào

của người gửi tiền cần được bảo vệ. Đồng thời lý giải vì sao người gửi tiền có

được các quyền ấy, vì sao cần bảo vệ các quyền ấy.

Ba là, phân tích được những quy định của pháp luật hiện hành về bảo vệ

quyền lợi của người gửi tiền bao gồm những ghi nhận trực tiếp quyền lợi của

người gửi tiền; những công cụ pháp luật điều chỉnh nhằm đảm bảo an toàn tổ

chức tín dụng, gián tiếp bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền như quy định về lãi

suất, hạn chế tín dụng,... Đặc biệt, những quy định về bảo hiểm tiền gửi, một

thiết chế bảo vệ quyền lợi người gửi tiền hữu hiệu. Qua đó, giúp độc giả có được

những kiến thức chung nhất về quy định của pháp luật hiện hành trong việc bảo

vệ quyền lợi người gửi tiền.

Bốn là, phân tích thực tiễn pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, kết

hợp khảo sát thực tiễn cho thấy những bất cập của quy định pháp luật hiện hành

liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Bao gồm những bất cập về

quy định đóng, phong tỏa tài khoản, những quy định về thừa kế, rút vốn trước

hạn, cung cấp thông tin và bảo mật thông tin, khuyến mại, chuyển tiền, bảo hiểm

tiền gửi...

Huỳnh Anh

6

Năm là, đề xuất những giải pháp nhằm góp phần bảo vệ tốt hơn nữa quyền

lợi người gửi tiền. Gồm hai nhóm giải pháp:

- Nhóm giải pháp hoàn thiện những quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi

của người gửi tiền.

- Nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.

6 - Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được

cấu trúc thành 2 chương, bao gồm:

- Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại

các tổ chức tín dụng.

- Chương 2: Thực tiễn pháp luật bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các

tổ chức tín dụng và hướng hoàn thiện.

Huỳnh Anh

7

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI

CỦA NGƢỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

1.1. Tổ chức tín dụng và hoạt động của tổ chức tín dụng

1.1.1. Khái quát về tổ chức tín dụng

1.1.1.1. Khái niệm

Khi xã hội loài người phát triển đến một giai đoạn nhất định, xuất hiện nhu

cầu trao đổi sản phẩm cho nhau và hàng hóa xuất hiện, sản xuất hàng hóa ra đời.

Khi sản xuất hàng hóa hình thành và phát triển thì tiền tệ xuất hiện và ngành nghề

kinh doanh tiền tệ cũng ra đời. Từ đó, xuất hiện những tổ chức chuyên thực hiện các

hoạt động thu nhận các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và sử dụng để cấp tín dụng,

làm các dịch vụ tiền tệ khác, người ta gọi chúng là các TCTD. Hiện nay, các TCTD

tồn tại với nhiều loại hình, tên gọi khác nhau, nghiệp vụ kinh doanh ngày càng đa

dạng, phức tạp. Ngày càng có nhiều các loại hình kinh doanh mới bên cạnh các loại

hình kinh doanh truyền thống như kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm,...

Hoạt động của các TCTD vốn phức tạp và có vai trò không nhỏ đối với nền

kinh tế của mỗi quốc gia. Do vậy, các nước đều có những chế định pháp luật quy

định về TCTD nhằm điều chỉnh hoạt động của chúng. Ở nước ta, theo Luật Các

TCTD 1997, sửa đổi, bổ sung năm 2004 (sau đây gọi là Luật Các TCTD 2004),

định nghĩa: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của

Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng.”

Theo quy định trên, TCTD là doanh nghiệp thực hiện “hoạt động kinh doanh

tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng

số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”4. Trên thực tế, có

nhiều tổ chức được gọi là TCTD nhưng không thực hiện đầy đủ các hoạt động ngân

hàng như định nghĩa đã nêu, tức không thực hiện đồng thời hoạt động “kinh doanh

tiền tệ” và “dịch vụ ngân hàng”.

Xuất phát từ thực tế trên, Luật Các TCTD 2010, định nghĩa TCTD như sau:

“Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động

ngân hàng”.

So với định nghĩa TCTD của Luật Các TCTD 2004 thì Luật Các TCTD 2010

định nghĩa phù hợp hơn. Các doanh nghiệp thực hiện một hoặc một số hoạt động

4 Khoản 3 Điều 9 Luật HNNN 2003

Huỳnh Anh

8

NH cũng được xem là TCTD, TCTD không nhất thiết phải hoạt động đồng thời tất

cả các nghiệp vụ ngân hàng.

Như vậy, các định nghĩa đều khẳng định TCTD là doanh nghiệp, có thực hiện

hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, các TCTD khác nhau có thể có phạm vi hoạt động

ngân hàng tùy theo hình thức tổ chức và hoạt động của loại hình TCTD đó, từ đó

một TCTD có thể thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng.

Theo luật hiện hành, căn cứ vào phạm vi hoạt động, TCTD gồm các loại: TCTD

là NH và TCTD phi NH. Cụ thể5:

- Ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân

hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Tùy theo tính chất

và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm: ngân hàng thương

mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách,

ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.

- Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực

hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường

xuyên, nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không làm dịch vụ

thanh toán. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng gồm công ty tài chính, công

ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác.

1.1.1.2. Đặc điểm của tổ chức tín dụng

Từ khái niệm TCTD có thể thấy TCTD có những đặc điểm sau:

- Một là, TCTD là doanh nghiệp có đối tượng kinh doanh trực tiếp là tiền tệ.

Cũng giống như các doanh nghiệp khác, TCTD kinh doanh vì mục tiêu lợi

nhuận, nhưng đối tượng kinh doanh trực tiếp không phải là hàng hóa phục vụ thông

thường, mà đó là tiền tệ - một loại hàng hóa đặc biệt, vật ngang giá chung trong trao

đổi và chịu sự tác động của nhiều yếu tố chính trị - xã hội .

- Hai là, TCTD là doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh chính, chủ yếu,

thường xuyên và mang tính chất nghề nghiệp là hoạt động ngân hàng. Đó là các

hoạt động nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.

Từ những hoạt động này dẫn đến những nét rất riêng biệt của TCTD.

+ Thứ nhất, TCTD hoạt động trên nguyên tắc “đi vay để cho vay”, nghĩa là

nguồn vốn cho vay của TCTD chính là vốn huy động từ khách hàng dưới

5 Theo Khoản 2 và Khoản 3 Điều 20 Luật Các TCTD 2004.

Huỳnh Anh

9

các hình thức huy động vốn chủ yếu như nhận tiền gửi các loại, phát hành

trái phiếu ngân hàng, vay của TCTD khác hoặc vay của NHNN trên thị

trường liên NH.

+ Thứ hai, hoạt động của TCTD luôn tìm ẩn những nguy cơ, rủi ro, bất trắc

so với hoạt động kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp khác, bản chất

nghề nghiệp của TCTD là người cho người khác sử dụng vốn của mình và

mình huy động được để thu lợi nhuận mà chỉ có thể đòi được lại vốn sau

một thời hạn nhất định. Mặt khác, còn phải tùy thuộc vào hiệu quả, mục

đích sử dụng vốn của người đi vay.

+ Thứ ba, hoạt động ngân hàng của TCTD có ảnh hưởng quyết định đến sự

tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế đất nước. Bởi vì, những tác động

tiêu cực hay tích cực từ hoạt động kinh doanh của TCTD có tác động dây

chuyền đối với quyền lợi của nhiều tổ chức, cá nhân trong xã hội.

- Ba là, TCTD là loại hình doanh nghiệp chịu sự quản lý nhà nước của NHNN

và thuộc phạm vi áp dụng của pháp luật ngân hàng.

Đây là một trong các dấu hiệu nhận dạng một tổ chức kinh tế là TCTD. Các tổ

chức kinh tế khác chịu sự quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước khác mà

không phải là NHNN. Chẳng hạn, công ty chứng khoán chịu sự quản lý nhà nước

của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, các tổ chức kinh doanh thương mại chịu sự

quản lý nhà nước của Bộ Công thương,…

1.1.2. Các hoạt động của tổ chức tín dụng

Theo quy định của pháp luật hiện hành, các hoạt động của TCTD gồm: huy

động vốn, hoạt động tín dụng, dịch vụ thanh toán và ngân quỹ và các hoạt động

khác.

1.1.2.1. Huy động vốn

Huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của

TCTD. Hoạt động này mang lại nguồn vốn để TCTD có thể thực hiện các hoạt động

khác như cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ khác cho khách hàng. Hoạt động

huy động vốn của TCTD gồm các nội dung như nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có

giá, vay vốn giữa các TCTD và vay vốn của NHNN.

a) Nhận tiền gửi

Nhận tiền gửi là hoạt động huy động vốn chủ yếu của TCTD, nó chiếm tỉ lệ

lớn trong tổng nguồn vốn huy động ở mỗi TCTD. Theo Luật Các TCTD 2004

Huỳnh Anh

10

không đưa ra khái niệm nhận tiền gửi. Để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt

động này, Luật Các TCTD 2010 đưa ra khái niệm nhận tiền gửi như sau:

Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức

tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành

chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi

khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền

theo thỏa thuận6.

Tùy thuộc vào hình thức hoạt động của TCTD, các TCTD sẽ nhận tiền gửi với

phạm vi khác nhau. TCTD là NH không bị giới hạn về hình thức nhận tiền gửi, tức

là có thể thực hiện tất cả các hình thức nhận tiền gửi. TCTD phi NH chỉ được nhận

tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy định của

NHNN. Như vậy, TCTD phi NH không thể nhận tiền gửi ngắn hạn và tiền gửi

không kỳ hạn7. Quy định này nhằm góp phần đảm bảo khả năng chi trả cho khách

hàng của các TCTD phi NH. Bởi vì các TCTD phi NH chủ yếu cấp tín dụng trung

và dài hạn8, nếu cho phép tổ chức này nhận tiền gửi không kỳ hạn hoặc nhận tiền

gửi có kỳ hạn dưới một năm thì sẽ khó bảo đảm khả năng thanh khoản khi không

thể rút vốn để đáp ứng nhu cầu thu hồi tiền hoặc thanh toán của khách hàng gửi

tiền.

Trong thời gian sắp tới, khi Luật Các TCTD 2010 có hiệu lực (01/01/2011),

phạm vi nhận tiền gửi của các TCTD phi NH sẽ tiếp tục bị thu hẹp, theo đó các

TCTD này không được phép nhận tiền gửi cá nhân và cung ứng các dịch vụ thanh

toán qua tài khoản của khách hàng9.

b) Phát hành giấy tờ có giá

Ngoài việc huy động vốn qua tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tài khoản tiền

gửi thanh toán, các TCTD có thể huy động vốn bằng cách phát hành giấy tờ có giá.

Các giấy tờ có giá do TCTD phát hành là một công cụ vay nợ trên thị trường

tiền tệ, thị trường vốn dưới hình thức giấy nhận nợ hoặc chứng chỉ tiền gửi, trong

đó TCTD cam kết trả gốc, lãi cho người mua sau một thời gian nhất định.

6 Khoản 13 Điều 4 Luật Các TCTD 2010.

7 Xem Khoản 1 và Khoản 2 Điều 45 Luật Các TCTD năm 2004: “1. Ngân hàng được nhận tiền gửi của tổ

chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác” và “2. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng được nhận tiền gửi có kỳ

hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy định của Ngân hàng Nhà nước."

8 Xem Điều 16 Nghị định số16/2001/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính; xem

Mục 2 Nghị định số 79/2002/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính.

9 Xem Khoản 4 Luật Các TCTD 2010.

Huỳnh Anh

11

Theo Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD ban hành kèm

theo Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24 tháng 3 năm 2008 của Thống đốc

Ngân hàng nhà nước (sau đây gọi là Quy chế phát hành giấy tờ có giá), tại Khoản 1

Điều 4 định nghĩa:

“Giấy tờ có giá” là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy

động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một

thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa

tổ chức tín dụng và người mua”.

Giấy tờ có giá do TCTD phát hành có thể là loại giấy tờ có giá ngắn hạn

hoặc dài hạn, giấy tờ có giá ghi danh hoặc giấy tờ có giá vô danh. Cụ thể10

:

+ “Giấy tờ có giá ngắn hạn” là giấy tờ có giá có thời hạn dưới một 1

năm bao gồm kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và các

giấy tờ có giá ngắn hạn khác.

+ “Giấy tở có giá dài hạn” là giấy tờ có giá có thời hạn từ một năm trở

lên, bao gồm trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn và các giấy tờ có giá

dài hạn khác.

+ “Giấy tờ có giá ghi danh” là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức

chứng chỉ hoặc ghi sổ có ghi tên người sở hữu.

+ “Giấy tờ có giá vô danh” là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức

chứng chỉ không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc

quyền sở hữu của người nắm giữ giấy tờ có giá.

Về điều kiện phát hành giấy tờ có giá, các TCTD muốn phát hành giấy tờ có

giá phải thỏa mãn những điều kiện do pháp luật quy định. Theo quy định hiện hành,

tùy theo loại giấy tờ có giá được phát hành, pháp luật quy định điều kiện khác nhau.

Nó tùy thuộc vào TCTD phát hành giấy tờ có giá là loại giấy tờ có giá ngắn hạn,

giấy tờ có giá dài hạn hay trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền. Có

thể nhận thấy các điều kiện này đều nhằm mục đích đảm bảo an toàn trong hoạt

động của TCTD và đảm bảo khả năng chi trả của TCTD cho khách hàng mua giấy

tờ có giá. Vì vậy, một trong các điều kiện không thể thiếu trong phát hành là TCTD

được phát hành giấy tờ có giá phải tuân thủ đầy đủ các hạn chế để đảm bảo an toàn

trong hoạt động theo quy định của Luật Các TCTD và hướng dẫn của NHNN11

.

10

Khoản 2, Khoản 3, Khoản 4 và Khoản 5 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá.

11 Xem Điều 18, Điều 22 Quy chế phát hành giấy tờ có giá.

Huỳnh Anh

12

Các TCTD có thể phát hành giấy tờ có giá theo bốn phương thức: TCTD trực

tiếp phát hành giấy tờ có giá; bảo lãnh phát hành giấy tờ có giá thông qua TCTD

khác, công ty chứng khoán được phép hoạt động bảo lãnh giấy tờ có giá và các định

chế tài chính theo quy định tại giấy phép hoạt động; hoặc phương thức đại lý phát

hành, theo đó TCTD ủy quyền cho một số tổ chức khác phát hành giấy tờ có giá;

hoặc phát hành theo hình thức đấu thầu giấy tờ có giá.

Hiện nay, theo Luật Các TCTD 2004, phát hành giấy tờ có giá là một trong

các hình thức huy động vốn, được quy định riêng rẽ với hình thức huy động vốn là

nhận tiền gửi. Điều này đã dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau khi xác định tiền

gửi12

. Thực chất, có một số loại giấy tờ có giá (như chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ

phiếu) khi TCTD phát hành chúng xét về bản chất cũng là một hình thức nhận tiền

gửi. Bởi vì khi tổ chức, cá nhân mua giấy tờ có giá này do TCTD phát hành chính là

tổ chức, cá nhân đó đã gửi tiền vào TCTD và TCTD có trách nhiệm trả lãi và vốn

khi đến hạn (kỳ hạn được ghi trên giấy tờ có giá).

Xuất phát từ bản chất hoạt động phát hành giấy tờ có giá của TCTD, cũng là

một hình thức nhận tiền gửi, Luật Các TCTD 2010 đã đưa ra khái niệm nhận tiền

gửi, trong đó khẳng định việc phát hành một số loại giấy tờ có giá như “phát hành

chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu” là một hình thức nhận tiền gửi. Điều này đã

tạo được sự thống nhất giữa các quy định về nhận tiền gửi và khái niệm tiền gửi,

đồng thời cũng tạo được cách hiểu thống nhất về tiền gửi.

c) Vay vốn giữa các TCTD

Hình thức huy động vốn là nhận tiền gửi và phát hành giấy tờ có giá là

những hoạt động chính nhằm thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ của TCTD, đó

là đi vay để cho vay. Tuy nhiên, lượng vốn huy động được và nhu cầu về lượng tiền

cho vay của TCTD không phải lúc nào cũng cân đối như mong đợi. Vì vậy, để góp

phần bảo đảm khả năng thanh toán và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của các

TCTD, pháp luật còn cho phép các TCTD có thể cho nhau vay. Hoạt động này giúp

TCTD đi vay khắc phục được tình trạng thiếu vốn tạm thời, đồng thời giúp được

TCTD cho vay tìm kiếm thêm lợi nhuận trên số vốn nhàn rỗi do huy động được

nhưng chưa có khách hàng vay.

12

Cách hiểu thứ nhất: Tiền gửi phải hình thành trên cơ sở hoạt động nhận tiền gửi, vì vậy tiền mua giấy tờ có

giá không phải là tiền gửi vì luật không ghi nhận điều này; cách hiểu thứ hai: xem tiền mua các loại giấy tờ

có giá là tiền gửi với lập luận phát hành giấy tờ có giá là một hình thức gửi tiền khác bên cạnh các hình thức

gửi tiền có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, dẫn đến việc mặc nhiên thừa nhận tiền gửi có thể không hình thành

thông qua hoạt động nhận tiền gửi hoặc mặc nhiên xem hoạt động phát hành giấy tờ có giá là một hình thức

nhận tiền gửi (dù Luật Các TCTD 2004 chưa quy định điều này)

Huỳnh Anh

13

"Vay vốn giữa các tổ chức tín dụng" là việc cấp tín dụng dưới hình thức cho

vay của tổ chức tín dụng (bên cho vay) cho một tổ chức tín dụng khác (bên vay)”.

TCTD có thể vay vốn của TCTD nước ngoài13

.

Như vậy, việc vay vốn giữa các TCTD cũng là hoạt động cấp tín dụng. Vì

vậy, cũng tương tự như hoạt động cho vay của TCTD đối với các tổ chức, cá nhân

khác. Điểm khác biệt trong quan hệ này là bên vay cũng là một TCTD. Nội dung

quan hệ vay vốn cũng bao gồm những thỏa thuận về nghĩa vụ trả gốc và lãi của bên

vay, các khoản phí khác phải trả của bên vay, về thời hạn cho vay, về các biện pháp

bảo đảm, về phương thức cho vay,...

Hoạt động vay vốn giữa các TCTD được thực hiện trên thị trường liên NH.

Các TCTD trong khi tham gia hệ thống thanh toán có thể mở tài khoản tại các

TCTD khác. Qua tài khoản này, các TCTD có thể cho nhau vay vốn. Thông thường

các TCTD chỉ vay vốn của TCTD khác nhằm đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp

bách, trong nhiều trường hợp nó bổ sung và thay thế cho các khoản vay từ NHNN.

d) Vay vốn của Ngân hàng Nhà nước

Trong quá trình hoạt động của TCTD, có những trường hợp TCTD rơi vào

tình huống tạm thời mất khả năng chi trả vì chưa kịp thu hồi nguồn vốn đã cho vay

để chi trả cho khách hàng khi họ có yêu cầu. Vì vậy, pháp luật quy định các TCTD

là NH được phép vay vốn của NHNN trong trường hợp này, qua đó giúp các TCTD

vượt qua khó khăn tạm thời về thanh khoản, bảo vệ quyền lợi cho NGT.

Đây cũng chính là một công cụ mà NHNN sử dụng nhằm thực hiện chính

sách tiền tệ quốc gia - công cụ tái cấp vốn. Qua việc tái cấp vốn cho NH đang gặp

khó khăn về thanh khoản, NHNN đã góp phần đảm bảo ổn định chung cho nền kinh

tế, bởi rủi ro của một NH có tính dây chuyền, có thể ảnh hưởng đến nhiều tổ chức,

cá nhân khác và có thể ảnh hưởng đến sự an toàn của cả hệ thống NH.

Theo quy định hiện hành, “Tổ chức tín dụng là ngân hàng được vay vốn

ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức tái cấp vốn theo quy định tại

Điều 30 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”14

. Như vậy, theo quy định này

chỉ TCTD là NH mới được NHNN cấp tín dụng và chỉ cấp tín dụng ngắn hạn. Việc

cấp tín dụng có thể thực hiện dưới các hình thức: 1. Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng;

2. Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác; 3.

13

Khoản 1 Điều 2 Quy chế vay vốn giữa các TCTD ban hành kèm theo quyết định Quyết định số 1310/

2001/QĐ-NHNN ngày 15/10/2001 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước; Điều 47 Luật Các TCTD 1997.

14 Điều 48 Luật Các TCTD 1997.

Huỳnh Anh

14

Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn

khác15

.

Các TCTD không phải là NH về nguyên tắc không được vay vốn dưới hình

thức tái cấp vốn của NHNN, trừ trường hợp đặc biệt là đối với TCTD tạm thời mất

khả năng chi trả, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống các TCTD thì có thể

được NHNN cho vay tái cấp vốn nhưng phải được Chính phủ chấp nhận16

.

1.1.2.2. Hoạt động tín dụng

Tín dụng là quan hệ kinh tế trong đó một chủ thể thỏa thuận để chủ thể khác

được sử dụng một số vốn của mình (dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng hóa) trong

một thời gian nhất định với điều kiện có hoàn trả dựa trên cơ sở tín nhiệm.

Bên cạnh hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng là một trong những

hoạt động chủ yếu của TCTD trong quá trình kinh doanh tiền tệ. Theo quy định của

pháp luật hiện hành “Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn

vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng”17

.

Thẩm quyền cấp tín dụng của TCTD được quy định tại Điều 49 Luật Các

TCTD 2004 như sau: “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân

dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo

lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà

nước.”

Như vậy, theo quy định trên, hoạt động tín dụng của TCTD thực chất là một

giao dịch hợp đồng, theo đó TCTD thỏa thuận để cho khách hàng sử dụng một số

tiền của mình trong một thời gian nhất định với điều kiện có hoàn trả trên cơ sở sự

tín nhiệm. Loại giao dịch này có những đặc điểm:

- Một bên chủ thể tham gia quan hệ giao dịch là TCTD. TCTD đóng vai trò

là bên cung cấp vốn.

- Nguồn vốn mà TCTD cung cấp cho khách hàng chủ yếu là nguồn vốn huy

động. 15

Điều 17 Luật NHNN 1997; Theo Luật NHNN 2010 các hình thức cho vay tái cấp vốn được quy định như

sau: a) Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá; b) Chiết khấu giấy tờ có giá; c) Các hình thức tái cấp

vốn khác.

16 Xem Điều 30 Luật Các TCTD 1997

17 Khoản 8 Điều 20 Luật Các TCTD 2004. Theo Điều 10 Luật Các TCTD 2004, “Cấp tín dụng là việc tổ

chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp

vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”.

Huỳnh Anh

15

- Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh có độ rủi ro cao, hậu quả của

rủi ro có tính dây chuyền.

- TCTD hoạt động tín dụng dưới các hình thức như: cho vay, chiết khấu các

giấy tờ có giá, bảo lãnh ngân hàng, cho thuê tài chính, bao thanh toán.

1.1.2.3. Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ

Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ là hoạt động gắn liền với hoạt

động huy động vốn và cấp tín dụng. Bởi khi thực hiện nghiệp vụ huy động vốn,

TCTD là NH tiến hành mở tài khoản cho khách hàng ký gửi tiền. Qua nghiệp vụ

này, một mặt NH huy động được vốn từ khách hàng, mặt khác NH có thể cung cấp

cho khách hàng các dịch vụ ngân hàng khác, trong đó có dịch vụ thanh toán. Khách

hàng vay cũng là những chủ thể thường xuyên sử dụng các dịch vụ thanh toán của

NH. Hơn nữa, thông qua một số dịch vụ thanh toán, khách hàng cũng có thể thực

hiện vay tiền của TCTD (chẳng hạn dịch vụ thấu chi, ủy nhiệm chi,…).

Để thực hiên hoạt động này, pháp luật quy định cho TCTD có một số quyền

và nghĩa vụ như sau:

- TCTD được mở tài khoản tiền gửi tại NHNN, tại các TCTD khác. Riêng

đối với TCTD có nhận tiền gửi của khách hàng thì phải duy trì số dư trong tài khoản

gửi tại NHNN không thấp hơn mức dự trữ bắt buộc do NHNN quy định.

- TCTD được thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng. Ngoài

ra, đối với TCTD là NH thì có thêm một số quyền riêng như được mở tài khoản

thanh toán cho khách hàng trong và ngoài nước, được cung ứng các dịch vụ thanh

toán,…

1.1.2.4. Các hoạt động khác

Bên cạnh những hoạt động nêu trên, các TCTD cũng được phép thực hiện

một số hoạt động kinh doanh khác nhằm tăng hiệu quả kinh doanh và giảm bớt rủi

ro trong kinh doanh. Pháp luật có một số quy định về các hoạt động kinh doanh

khác của các TCTD như sau:

- TCTD góp vốn, mua cổ phần trong giới hạn pháp luật quy định.

- TCTD được kinh doanh ngoại hối và vàng ở thị trường trong nước và

quốc tế khi được NHNN cho phép.

- TCTD được ủy thác, nhận ủy thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan

đến hoạt động ngân hàng.

Huỳnh Anh

16

- Được thành lập công ty độc lập để kinh doanh bảo hiểm theo quy định

pháp luật.

1.2. Khái quát tiền gửi

1.2.1. Khái niệm tiền gửi

Tiền gửi là số tiền của tổ chức, cá nhân gửi tại tổ chức tín dụng hoặc tổ

chức khác có hoạt động ngân hàng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn,

tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được

hưởng lãi hoặc không hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi

tiền.(Theo Khoản 9 Điều 20 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các

TCTD 2004).

Với cách giải thích trên, tiền gửi theo pháp luật tín dụng ngân hàng hiện hành

là khoản tiền khách hàng gửi tại các tổ chức có hoạt động ngân hàng, trong đó gồm

TCTD và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng. Tiền gửi tồn tại dưới nhiều

hình thức khác nhau, có kỳ hạn, không kỳ hạn hoặc hình thức khác, có thể hưởng lãi

hoặc không. Theo quy định của pháp luật hiện hành, các hình thức khác có thể hiểu

là phát hành giấy tờ có giá18

, vì thế tiền mua loại giấy tờ có giá cũng được xem là

một dạng tiền gửi. Tuy nhiên, (như đã trình bày trong Điểm a, Điểm b Mục 1.1.2.1),

pháp luật đã quy định hình thức phát hành giấy tờ có giá là một hình thức tồn tại

riêng biệt. Vì vậy, để đảm bảo sự rõ ràng, thống nhất cần phải khẳng định rõ hoạt

động phát hành một số loại giấy tờ giá cũng là hình thức nhận tiền gửi.

Theo Luật Các TCTD năm 2010, khái niệm tiền gửi không được đặt ra một

cách riêng rẽ, tiền gửi được xác định thông qua khái niệm hình thức nhận tiền gửi

(như đã trình bày tại Điểm a Mục 1.1.2.1). Trong đó, bên cạnh các hình thức tiền

gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, khái niệm còn xác định nhận tiền gửi bao gồm

hoạt động nhận tiền nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức “phát hành

chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo

nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận”19

.

18

Một số văn bản quy phạm pháp luật ghi nhận tiền mua giấy tờ có giá là một loại tiền gửi được trả bảo hiểm

tiền gửi theo quy định pháp luật như: Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 về bảo hiểm

tiền gửi; Nghị định số109/2005/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2005 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của

Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 về bảo hiểm tiền gửi; Thông tư số 03/2006/TT-

NHNN ngày 25 tháng 4 năm 2006 về việc hướng dẫn một số nội dung tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày

01 tháng 9 năm 1999 về bảo hiểm tiền gửi và Nghị định 109/2005/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2005 về việc

sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 về bảo hiểm tiền

gửi.

19 Khoản 13 Điều 4 Luật Các TCTD 2010.

Huỳnh Anh

17

Như vậy, thông qua khái niệm huy động vốn, chúng ta nhận thấy tiền gửi có

thể được hiểu như sau: Tiền gửi là số tiền của tổ chức, cá nhân gửi tại tổ chức

nhận tiền gửi dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi

tiết kiệm; tiền của tổ chức, cá nhân mua một số loại giấy tờ có giá như chứng chỉ

tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu của các tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức khác có

hoạt động ngân hàng.

Theo khái niệm mới này, Luật không liệt kê cụ thể các tổ chức nhận tiền gửi

như trước đây để tránh sự thiếu sót, phạm vi tiền gửi được đưa ra rộng hơn, phù hợp

hơn. Đây cũng là phạm vi nghiên cứu mà chúng tôi hướng đến.

Thực tế có một số tổ chức khác như các tổ chức thực hiện dịch vụ tiết kiệm

bưu điện vẫn có hoạt động nhận tiền gửi. Theo đó, các tổ chức này có thể nhận tiền

gửi tiết kiệm bưu điện, phát hành chứng chỉ tiền gửi và giấy tờ có giá khác theo quy

định của pháp luật20

.Theo khái niệm mới này, những khoản tiền này cũng được xem

là tiền gửi.

1.2.2. Các hình thức tiền gửi

1.2.2.1. Tiền gửi không kỳ hạn

Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà giữa khách hàng và TCTD không

tồn tại một thỏa thuận về thời hạn rút tiền. TCTD nhận tiền gửi không kỳ hạn có

nhiệm vụ chi trả cho khách hàng khi khách hàng có nhu cầu rút tiền.

Tiền gửi không kỳ hạn bao gồm tiền gửi thanh toán (còn gọi là tài khoản

dịch vụ hay tài khoản thanh toán, ở Mỹ gọi là tiền gửi theo yêu cầu, ở Pháp thì gọi

là tiền gửi theo tài khoản séc) và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.

- Tiền gửi thanh toán là tiền gửi được khách hàng gửi tại các TCTD để thực

hiện các khoản chi trả, thanh toán.

Chủ tài khoản của loại tài khoản tiền gửi không kỳ hạn thông thường là các

chủ thể tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, cá nhân có hoạt động kinh

doanh hoặc các chủ thể khác. Mục đích của khách hàng gửi tiền trong trường hợp

này là để gửi giữ tiền hoặc hưởng các tiện ích từ các dịch vụ thanh toán của TCTD,

chẳng hạn khách hàng được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả như séc, ủy

nhiệm chi và các lệnh chi khác; yếu tố lãi suất chỉ là thứ yếu, có thể không được trả

lãi suất hoặc được trả mức lãi suất rất thấp.

20

Quyết định số 270/2005/QĐ-TTG ngày 31 tháng 10 năm 2005 về việc tổ chức, huy động, quản lý và sử

dụng nguồn tiền gửi kiệm bưu điện.

Huỳnh Anh

18

Một dạng tài khoản thuộc loại này đang được sử dụng phổ biến hiện nay là

tài khoản tiền giao dịch chứng khoán. Đây là loại tài khoản tiền gửi thanh toán

chuyên dùng của khách hàng để phục vụ cho mục đích kinh doanh chứng khoán.

Hiện nay, để thu hút khách hàng, hầu hết các NH không thu phí duy trì tài khoản

loại này và khách hàng vẫn được tính lãi trên số dư tiền gửi trong tài khoản.

- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn:

Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi

tiết kiệm, được xác nhận trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ

chức nhận tiền gửi tiết kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo

hiểm tiền gửi.

Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là tiền gửi tiết kiệm mà NGT có thể rút tiền

theo yêu cầu mà không cần báo trước vào bất kỳ ngày làm việc nào của tổ chức

nhận tiền gửi tiết kiệm. Đây là loại tiền gửi của các tầng lớp dân cư trong xã hội

nhằm mục đích an toàn tiền gửi, tích lũy và tiết kiệm. NGT được hưởng lãi và được

BHTG. Loại tiền gửi này là tiền để dành của cá nhân chứ không phải để thanh toán.

Tài khoản tiền gửi loại này không được sử dụng để phát hành séc và thực

hiện các giao dịch thanh toán bằng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt để

chi trả cho người khác, trừ trường hợp tiền gửi tiết kiệm bằng đồng Việt Nam của

người cư trú được sử dụng để chuyển khoản thanh toán tiền vay của chính chủ sở

hữu tiền gửi tiết kiệm hoặc đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm tại tổ chức nhận tiền

gửi tiết kiệm đó; hoặc chuyển khoản sang tài khoản khác do chính chủ sở hữu tiền

gửi tiết kiệm hoặc đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm là chủ tài khoản tại tổ chức

nhận tiền gửi tiết kiệm đó.

1.2.2.2. Tiền gửi có kỳ hạn

Bao gồm tiền gửi có kỳ hạn của cá nhân, tổ chức và tiền gửi tiết kiệm có kỳ

hạn của cá nhân.

- Tiền gửi có kỳ hạn của cá nhân, tổ chức là loại tiền gửi mà khách hàng gửi

tại các TCTD trên cơ sở có sự thỏa thuận với TCTD nhận tiền gửi về thời gian rút

tiền. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết các tổ chức nhận gửi đều cho phép khách hàng có

thể rút tiền trước hạn nếu thỏa mãn những điều kiện nhất định như thời gian báo

trước hoặc có thỏa thuận.

- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là tiền gửi tiết kiệm mà NGT chỉ có thể rút tiền

sau một kỳ hạn gửi tiền nhất định theo thỏa thuận với tổ chức nhận tiền gửi tiết

kiệm. Tuy nhiên, NGT cũng có thể rút tiền trước hạn nếu hội đủ các điều kiện nhất

Huỳnh Anh

19

định như phải có thỏa thuận với TCTD và phải đảm bảo thời gian báo trước,...Trong

trường hợp không đủ điều kiện nhưng TCTD đồng ý thì khách hàng vẫn có thể rút

tiền trước hạn nhưng phải trả mức phí do TCTD quy định21

.

Trên thực tế, có rất nhiều dạng của các hình thức tiền gửi dựa trên phân chia

kỳ hạn, tính chất của tiện ích và cả hình thức khuyến mại như tài khoản tiền gửi

kinh doanh chứng khoán, tài khoản thẻ, tiết kiệm linh hoạt,...

1.3. Vai trò của tiền gửi

1.3.1. Đối với NGT

Khi gửi tiền vào TCTD, nhu cầu gửi tiền của khách hàng rất đa dạng. Vì vậy,

sự mong đợi những lợi ích có được từ tiền gửi của từng khách hàng cụ thể cũng

khác nhau. Nói cách khác, vai trò của tiền gửi đối với mỗi cá nhân gửi tiền không

giống nhau, phụ thuộc vào loại sản phẩm tiền gửi mà khách hàng lựa chọn. Tuy

nhiên, chúng ta có thể khái quát vai trò của tiền gửi đối với khách hàng gửi tiền ở

những khía cạnh sau:

- Tiền gửi mang ý nghĩa tiết kiệm và đầu tư sinh lợi

Cá nhân có thể có những khoản tiền dành dụm để dự phòng rủi ro, bất trắc

trong cuộc sống. Khi đó, tiền gửi có ý nghĩa tiết kiệm, tổ chức nhận tiền gửi sẽ giữ

hộ NGT đối với phần tiền gửi của họ, đáp ứng nhu cầu tiết kiệm cho khách hàng.

Đối với khách hàng gửi tiền, lợi ích mà họ có được từ việc gửi tiền tại TCTD

trước hết đó chính là khoản lãi của tiền gửi. Những số tiền tiết kiệm này sẽ không tự

nhiên đem lại thu nhập cho chủ sở hữu nhưng từ hoạt động nhận tiền gửi của các

TCTD đã tạo thu nhập cho NGT thông qua việc trả lãi. Vì thế, tiền gửi cũng mang ý

nghĩa đầu tư, bởi tiền gửi sẽ sinh lợi, tạo cơ hội cho NGT gia tăng tiêu dùng trong

tương lai. Khi gửi tiền tại tổ chức nhận tiền gửi, NGT sẽ được nhận một khoản lãi

trên số tiền gửi, từ đó số tiền của khách hàng ngày càng gia tăng. Số tiền lãi khách

hàng nhận được phụ thuộc vào giá trị tiền gửi và hình thức gửi tiền mà khách hàng

lựa chọn. Chẳng hạn, với cùng một số tiền gửi nhưng lãi suất gửi tiết kiệm có kỳ

hạn cao hơn lãi suất gửi tiết kiệm không kỳ hạn.

- Việc gửi tiền tại TCTD có ý nghĩa đảm bảo tính an toàn tiền gửi, bí mật cá

nhân liên quan đến tiền gửi

21

Điều 16 Quy chế về tiền gửi tiết kiệm được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 47/2006/QĐ-NHNN.

Huỳnh Anh

20

Khi tiền của khách hàng được gửi tại tổ chức nhận tiền gửi, tức tiền sẽ được

cất giữ ở một nơi an toàn, bởi tổ chức nhận tiền gửi là tổ chức có uy tín nhất định,

được pháp luật quy định có trách nhiệm trả đầy đủ và đúng hạn cả vốn và lãi các

khoản tiền gửi, nhờ đó giúp khách hàng có thể tích trữ vốn tạm thời nhàn rỗi. Bên

cạnh đó, việc gửi tiền tại tổ chức nhận tiền gửi có thể đáp ứng nhu cầu đảm bảo tính

riêng tư của NGT. Bởi vì cá nhân khi gửi tiền vào tổ chức nhận tiền gửi vì nhiều lý

do khác nhau không muốn người khác biết mình có số tiền nhất định, khi đó gửi

tiền vào tổ chức nhận tiền gửi sẽ là một giải pháp. Pháp luật có những quy định về

trách nhiệm bảo mật thông tin khách hàng trong hoạt động ngân hàng.

- Thông qua tiền gửi, khách hàng có thể sử dụng các tiện ích dịch vụ thanh

toán của các TCTD

Thông qua tiền gửi, NGT có cơ hội tiếp cận các dịch vụ khác nhau của

TCTD, đặc biệt là dịch vụ thanh toán và dịch vụ tín dụng khi khách hàng cần vốn

cho sản xuất, kinh doanh hoặc cần tiền cho tiêu dùng. Bởi vì, muốn sử dụng các tiện

ích của các dịch vụ thanh toán của TCTD, khách hàng phải có một tài khoản tiền

gửi mở tại TCTD đó. Các dịch vụ do TCTD cung cấp hầu hết đều thông qua tài

khoản này của khách hàng. Đây là loại tài khoản tiền gửi thanh toán. Ngoài ra còn

sử dụng các dịch vụ:

+ NGT có thể sử dụng dịch vụ thanh toán của TCTD như: chi trả cho đối tác,

người lao động trong hoạt động thương mại, chuyển tiền cho người thân, chi trả cho

các khoản tiêu dùng hằng ngày của mình mà không cần dùng tiền mặt..., sử dụng

nhiều dịch vụ liên quan khác như sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử, truy vấn

số dư và các giao dịch tức thời trên tài khoản bằng dịch vụ ngân hàng điện tử như

SMS B@nking và Phone B@nking,... Nhìn chung, NGT có thể hưởng được rất

nhiều tiện ích từ việc gửi tiền tại TCTD.

+ NGT có thể sử dụng các dịch vụ tín dụng của TCTD như: NGT có thể vay

tiền của TCTD thông qua tài khoản tiền gửi khi sử dụng các dịch vụ như chi hộ,

thấu chi,...

Từ phân tích trên, có thể thấy, tiền gửi có vai trò quan trọng đối với NGT. Vì

vậy, làm thế nào để đảm bảo những quyền lợi chính đáng của NGT phát sinh từ mối

quan hệ gửi tiền và nhận tiền gửi là vấn đề rất cần quan tâm.

1.3.2. Đối với tổ chức tín dụng

- Vai trò của TCTD là trung gian tín dụng trong nền kinh tế, thực hiện điều

hòa nguồn vốn trong xã hội. Hoạt động cơ bản mang tính chức năng của TCTD là

Huỳnh Anh

21

huy động vốn để cấp tín dụng, nói cách khác là đi vay để cho vay lại. Thực tế, hầu

như các TCTD hoạt động kinh doanh là nhờ vào nguồn vốn huy động, đặc biệt là

vốn huy động dưới hình thức nhận tiền gửi từ các thành phần kinh tế chiếm tỉ lệ lớn.

Như vậy, TCTD có thực hiện tốt vai trò trung gian tín dụng hay không phụ thuộc rất

lớn vào số tiền gửi mà TCTD huy động được.

- TCTD là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ - ngân hàng. Vì thế,

mặc dù đối tượng kinh doanh của TCTD là hàng hóa đặc biệt (tiền tệ), nhưng cũng

như các doanh nghiệp khác, mục đích hoạt động kinh doanh của TCTD là tìm kiếm

lợi nhuận. Lợi nhuận của TCTD chính là khoản lời chênh lệch giữa lãi suất huy

động và lãi suất cho vay, bên cạnh đó còn có những khoản phí thu được từ việc

cung ứng dịch vụ ngân hàng cho khách hàng. Điều này đồng nghĩa với việc nếu

TCTD huy động được nguồn tiền gửi dồi dào, cơ hội thu được lợi nhuận của TCTD

sẽ cao hơn vì có thể cấp tín dụng với lượng tiền nhiều hơn, thu lãi nhiều hơn. Tương

tự như vậy, khách hàng gửi tiền hầu hết là những khách hàng sử dụng các dịch vụ

ngân hàng của tổ chức nhận tiền gửi, bởi vì hầu hết các dịch vụ đều được thực hiện

thông qua tiền gửi, nên nếu lượng tiền gửi nhiều thì cơ hội phí thu được từ hoạt

động cung ứng dịch vụ của tổ chức nhận tiền gửi cũng nhiều hơn.

- Việc đa dạng các hình thức huy động tiền gửi đã góp phần tạo nên sự đa

dạng phương thức kinh doanh của TCTD, thúc đẩy sự phát triển của TCTD. Xuất

phát từ nhu cầu đa dạng và khác nhau của khách hàng gửi tiền, cũng như những đòi

hỏi ngày càng cao của họ, nên để thu hút khách hàng gửi tiền, đòi hỏi các TCTD

phải thiết kế và phát triển nhiều loại sản phẩm với nhiều hình thức tiền gửi phong

phú. Chẳng hạn, bên cạnh các hình thức tiền gửi cổ điển như tiền gửi có kỳ hạn, tiền

gửi không kỳ hạn đơn giản, các TCTD đưa ra nhiều sản phẩm tiền gửi như tiết kiệm

linh hoạt, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm bội thu, tiết kiệm kỳ hạn thả nổi,... và rất

nhiều hình thức khuyến mại như chương trình gửi tiền có quà tặng, quay số trúng

thưởng,...

1.3.3. Đối với nền kinh tế

- Yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước rất cần vốn

đầu tư. Bên cạnh các nguồn vốn khác thì nguồn vốn huy động trong nước có tính

chất quyết định.

Nguồn vốn đóng vai trò quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất

nước, đặc biệt là các nước đang phát triển như nước ta. Đối với các nước đang phát

triển, vốn đầu tư là vấn đề khó khăn vì khả năng tích lũy vốn hoặc huy động vốn

trong nước thấp, khả năng vay nợ nước ngoài cũng bị hạn chế.

Huỳnh Anh

22

Ở nước ta, chiến lược huy động nguồn vốn để đẩy nhanh quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa được đặt ra ngay từ Đại hội VII: “Để CNH, HĐH cần huy

động nhiều nguồn vốn, gắn với việc sử dụng vốn có hiệu quả. Trong đó nguồn vốn

trong nước là quyết định, nguồn vốn từ bên ngoài là quan trọng”, và đến Đại hội

VIII tiếp tục khẳng định: “Huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển, trong đó

vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng” và

“phát huy tối đa mọi nguồn vốn trong nước để chiếm tỉ lệ cao trong đầu tư”. Đại

hội Đảng lần IX xác định rõ: “Nội lực là chính, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với

nhau thành nguồn lực để phát triển đất nước”. Đại hội X: “Huy động mọi nguồn

lực trong xã hội cho đầu tư phát triển”22

.

Như vậy, để phát triển kinh tế - xã hội nói chung, đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước nói riêng, điều kiện cơ bản là phải có vốn. Có hai nguồn để

tạo vốn là: một là, tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân; hai là, dựa vào

nguồn vốn từ bên ngoài FDI (đầu tư trực tiếp nước ngoài) và ODA (hỗ trợ phát triển

chính thức).

Trong hai nguồn vốn trên, nguồn vốn tích lũy từ nội bộ nền kinh tế quốc dân

xét về lâu dài là nguồn chủ yếu, có vai trò quyết định. Bởi vì nguồn vốn từ nước

ngoài dù có lớn đến đâu đi nữa nếu không có nguồn vốn đầu tư do sự tích lũy từ nội

tại nền kinh tế thì nguồn vốn từ nước ngoài cũng không thể sử dụng có hiệu quả.

Mặt khác, nguồn vốn dù là viện trợ hay đầu tư nước ngoài cũng chỉ là tạm thời, sử

dụng nguồn vốn trong nước vừa đảm bảo tăng trưởng bền vững, ổn định, lại vừa

tránh được sự phụ thuộc vào nước ngoài.

Tuy nhiên, thực tế huy động vốn trong những năm qua cho thấy, trong khi

nền kinh tế đang rất “đói vốn” thì một lượng vốn không nhỏ trong dân chưa được

quan tâm huy động cho đầu tư phát triển (theo các chuyên gia kinh tế, lượng vốn

trong dân ở nước ta nước khoảng 6 tỷ - 9 tỷ USD, mức huy động hiện nay (năm

2006) mới đạt khoảng 40%)23

. Bên cạnh đó, đến nay, cùng với sự phát triển của nền

kinh tế, thu nhập người dân ngày một cải thiện, của cải tích lũy được ngày càng

nhiều tạo nên một nguồn vốn nhàn rỗi càng lớn. Vì vậy, khai thác được nguồn vốn

nhàn rỗi trong dân chúng là góp phần quan trọng trong việc quản lý và sử dụng có

hiệu quả nguồn vốn trong nước, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.

22

Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI,

VII, VIII, XI, X), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr 297, 432, 510, 633.

23 Xem: Vũ Văn Phúc (2006), Lý luận tuần hoàn, chu chuyển tư bản và vấn đề vốn cho công nghiệp hóa, hiện

đại hóa ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.152.

Huỳnh Anh

23

Tóm lại, nước ta đang có nhu cầu rất lớn về nguồn vốn để thực hiện công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nguồn vốn đóng vai trò quyết định là vốn trong

nước. Thực tiễn thời gian qua cho thấy chúng ta chưa phát huy hết hiệu quả sử dụng

nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn nhàn rỗi trong dân. Nguồn vốn này chính là một

nguồn quan trọng vì chiếm tỉ lệ khá lớn để phục vụ cho mục tiêu phát triển đất

nước. Qua đó, càng khẳng định lượng tiền gửi của NGT tại các TCTD có ý nghĩa

quan trọng trong việc góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước.

- Yêu cầu hội nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp

cũng cần nhiều vốn để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển mở rộng sản xuất kinh

doanh

Ngày nay, xu hướng toàn cầu hóa mà cốt lõi là toàn cầu hóa kinh tế đã trở

thành một thực tế khách quan, tác động mạnh mẽ đến tất cả các quốc gia trong khu

vực và trên thế giới. Quá trình toàn cầu hóa kinh tế gia tăng ngày càng nhanh dưới

tác động của cách mạng khoa học – công nghệ. Mọi quốc gia không thể đứng ngoài

xu thế này. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập mạnh mẽ. Biểu hiện gần đây là

sự gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Yêu cầu hội nhập này đã mang lại

cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức. Một trong những thách thức đó là khả

năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam so với các doanh nghiệp nước ngoài.

Quá trình hội nhập sẽ tăng cường thu hút đầu tư và chuyên giao kỹ thuật,

công nghệ cao về thương mại từ các nước tạo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam

tiếp thu công nghệ cao. Song, đây cũng là một thách thức cho các doanh nghiệp

Việt Nam. Sự cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ thương mại của Việt Nam hạn chế,

yếu kém về chất lượng, đơn điệu về chủng loại, giá thành cao,... so với doanh

nghiệp nước ngoài. Một trong những nguyên nhân cơ bản chính là công nghệ sản

xuất của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém. Để khắc phục được điều đó, doanh

nghiệp cần đổi mới công nghệ. Muốn vậy, doanh nghiệp phải có vốn để đầu tư cho

việc đổi mới công nghệ này. Nguồn tiền gửi của tổ chức, cá nhân tại các TCTD là

một trong những nguồn quan trọng để cung cấp vốn cho doanh nghiệp thông qua

trung gian tài chính là TCTD.

- Yêu cầu tái cấu trúc nền kinh tế cũng cần đến nguồn vốn đầu tư.

Từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua, vấn đề tái cấu trúc nền kinh

tế sau khi bị suy giảm được coi là việc làm cấp thiết được đặt ra không chỉ đối với

Việt Nam mà còn đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Để chuẩn bị cho việc tái cấu

trúc nền kinh tế, vốn là một trong những yếu tố quan trọng nhằm đáp ứng những chi

Huỳnh Anh

24

phí cần thiết để tổ chức lại, cấu trúc lại các bộ phận của nền kinh tế nói chung. Quá

trình tái cấu trúc nền kinh tế không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà còn của các

tổ chức, cá nhân trong xã hội. Trong đó, các doanh nghiệp là một trong những chủ

thể quan trọng trong kịch bản tái cấu trúc nền kinh tế. Vì vậy, không chỉ Nhà nước

mà các tổ chức kinh tế đều rất cần vốn trong quá trình tái cấu trúc nền kinh tế.

Như đã trình bày, huy động và tập trung nguồn vốn trong nước để phát triển

kinh tế - xã hội đang trở thành một bộ phận chủ yếu trong chiến lược phát triển kinh

tế - xã hội của nước ta, bởi lẽ nhu cầu vốn đầu tư trong nước càng trở nên bức thiết

trong điều kiện khoa học kỹ thuật tiến bộ và sự phân công lao động quốc tế ngày

càng sâu rộng. Giờ đây, vốn càng trở nên quan trọng hơn trong quá trình tái cấu trúc

nền kinh tế, phục vụ mục tiêu khắc phục suy giảm kinh tế sau khủng hoảng, tiến đến

xây dựng nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.

1.4. Ngƣời gửi tiền tại các tổ chức tín dụng

1.4.1. Khái quát về người gửi tiền

Pháp luật hiện hành không định nghĩa chung nhất về NGT. Tuy nhiên, chúng

ta cũng có thể hiểu khái niệm về NGT qua một số văn bản điều chỉnh về tiền gửi

như sau:

Theo quy chế tiền gửi tiết kiệm, tại Khoản 2 Điều 6, định nghĩa:

Người gửi tiền là người thực hiện giao dịch liên quan đến tiền gửi tiết

kiệm. Người gửi tiền có thể là chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm, hoặc đồng

chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm, hoặc người giám hộ hoặc người đại diện

theo pháp luật của chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm, của đồng chủ sở hữu

tiền gửi tiết kiệm.

Theo định nghĩa trên, NGT là người thực hiện giao dịch liên quan đến tiền

gửi, chỉ có thể là cá nhân hoặc nhóm cá nhân, không có chủ thể là tổ chức. Tuy

nhiên, theo Quy chế về mở và sử dụng tài khoản tiền gửi, khi liệt kê các đối tượng

được mở tài khoản tiền gửi, đối tượng này bao gồm cả các tổ chức24

.

Như đã phân tích, tiền mua một số loại giấy tờ có giá cũng là một hình thức

tiền gửi. Do đó, chủ thể mua các loại giấy tờ có giá này được xem là NGT. Theo

Quy chế này, người mua giấy tờ có giá bao gồm cả cá nhân và tổ chức25

.

24

Xem Khoản 2 Điều 2 Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng nhà nước và tổ chức tín

dụng ban hành kèm theo Quyết định số 1284 /2002/QĐ-NHNN2 ngày 21 -11 - 2002 của Thống đốc Ngân

hàng Nhà nước.

25 Điều 3 Quy chế phát hành giấy tờ có giá.

Huỳnh Anh

25

Như vậy, khái quát chung chúng ta có thể hiểu, NGT là người thực hiện giao

dịch liên quan đến tiền gửi. NGT có thể là cá nhân, nhóm cá nhân hoặc tổ chức.

Mặc dù không có khái niệm chung về NGT, nhưng các văn bản quy phạm

pháp luật hiện hành đã chỉ ra những chủ thể nào có thể trở thành NGT đối với hai

hình thức gửi tiền cơ bản là tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm.

1.4.2. Phân loại chủ thể gửi tiền

Tiền gửi tạo được sự quan tâm của nhiều thành phần chủ thể khác nhau trong

đời sống xã hội. Các thành phần này lại có những nhu cầu rất khác nhau đối với tiền

gửi. Chính vì vậy, có rất nhiều loại khách hàng gửi tiền. Tuy nhiên, chúng ta có thể

phân loại NGT dựa trên các tiêu chí chung sau đây:

1.4.2.1. Căn cứ vào chủ thể gửi tiền, người gửi tiền được chia thành:

a) Chủ thể gửi tiền là cá nhân

Bên cạnh số ít cá nhân gửi tiền nhằm đáp ứng yêu cầu thanh toán, phần lớn

các cá nhân gửi tiền tại các TCTD là những khoản tiền dành dụm, chắt chiu trong

cuộc sống, khoản lãi từ tiền gửi có thể nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu cuộc sống

hằng ngày của họ. Họ ít có điều kiện tham gia đầu tư kinh doanh trực tiếp (do năng

lực hoặc điều kiện khác...) nên dựa hẳn vào tiền gửi. Vì vậy, tiền gửi rất quan trọng

đối với họ, khi tiền gửi này bị rủi ro thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của họ.

Đối tượng này thông thường là cán bộ hưu trí, hoặc người lao động có thu nhập

trung bình, người làm công ăn lương... Nhìn xa hơn, đời sống của những người này

bị ảnh hưởng sẽ trở thành một mối lo cho xã hội bởi lượng người này chiếm số

lượng khá lớn. Chính vì vậy, khi xây dựng các chính sách liên quan đến những đối

tượng này, Nhà nước luôn quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi cho họ. Trong quan

hệ tiền gửi, khi quy định về BHTG cũng quan tâm ưu ái cho đối tượng này.

b) Chủ thể gửi tiền là tổ chức

Chủ thể tiền gửi là tổ chức phần lớn là những tổ chức mở tài khoản nhằm

phục vụ cho nhu cầu thanh toán trong kinh doanh. Có thể nói, hầu hết các tổ chức

kinh doanh đều có tiền gửi tại NH. Nguồn gốc của tiền gửi thực chất là một phần

tiền của các thành viên góp vốn của doanh nghiệp hoặc của chủ sở hữu doanh

nghiệp. Tiền gửi này thường tách bạch với các khoản tiền khác của thành viên góp

vốn (trừ một số doanh nghiệp như công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân), khoản

tiền này được họ dùng để tìm kiếm lợi nhuận với những dự liệu rủi ro do hoạt động

kinh doanh mang lại. Vì vậy, nếu tiền gửi của họ bị rủi ro thì ít nghiêm trọng hơn so

với đa số khách hàng cá nhân gửi tiền.

Huỳnh Anh

26

Ngoài ra, một số tổ chức khác có những khoản tiền nhàn rỗi (do thu nhập,

nguồn quỹ của tổ chức,...) như các đơn vị sự nghiệp có thu hoặc của các cơ quan

nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức nghề nghiệp,... gửi tại TCTD nhằm

tranh thủ tìm kiếm thêm lợi nhuận, tăng thu nhập cho các thành viên của tổ chức.

1.4.2.2. Căn cứ vào mục đích gửi tiền, người gửi tiền được chia thành:

a) Chủ thể gửi tiền nhằm mục đích hưởng lãi

Chủ thể gửi tiền nhằm mục đích hưởng lãi thường gửi tiền dưới hình thức

tiền gửi tiết kiệm. Các hình thức tiết kiệm khác nhau phản ánh mục đích khác nhau

của NGT.

Đối với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Đối tượng NGT là cá nhân có tiền

nhàn rỗi muốn gửi TCTD vì mục tiêu an toàn và sinh lợi nhưng không thiết lập

được kế hoạch sử dụng tiền gửi trong tương lai. Khách hàng gửi tiền dưới hình thức

này nhằm mục tiêu an toàn, tiện lợi quan trọng hơn là mục đích sinh lợi.

Đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Đối tượng NGT là cá nhân có tiền nhàn

rỗi muốn gửi TCTD vì mục tiêu an toàn và sinh lợi và thiết lập được kế hoạch sử

dụng tiền gửi trong tương lai. Khách hàng gửi tiền dưới hình thức này là các cá

nhân muốn có thu nhập ổn định và thường xuyên, đáp ứng cho việc chi tiêu hàng

tháng hoặc hàng quý. Mục tiêu quan trọng của họ khi gửi tiền theo hình thức này là

lợi tức có được theo định kỳ.

Đối với tiền gửi thông qua việc mua các loại giấy tờ có giá: Như đã phân tích

tại Mục 1.2.1, tiền mua một số loại giấy tờ có giá như chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu,

kỳ phiếu cũng là một dạng tiền gửi. Loại tiền gửi này có vai trò tiết kiệm và đầu tư

là chủ yếu. Mục đích của khách hàng là muốn được hưởng lãi từ việc mua các giấy

tờ có giá đó. Các loại giấy tờ có giá đều có mệnh giá, thời hạn và lãi suất được thể

hiện trên giấy tờ đó. Khi đến hạn thanh toán, người mua giấy tờ có giá sẽ đến tổ

chức phát hành giấy tờ đó để nhận số tiền bằng mệnh giá của giấy tờ đó, cộng với

tiền lãi. Nó thực chất gần giống như là dạng tiền gửi có kỳ hạn. Trong trường hợp

chủ sở hữu giấy tờ có giá cần tiền mặt hoặc không muốn nắm giữ giấy tờ có giá đó

nữa thì có thể chiết khấu lại cho TCTD, thay vì rút tiền trước hạn như đối với tiền

gửi có kỳ hạn.

b) Chủ thể gửi tiền nhằm mục đích thanh toán

Tổ chức, cá nhân có nhu cầu thực hiện thanh toán qua NH thì họ sẽ mở tài

khoản tiền gửi thanh toán tại NH. Mục đích chủ yếu của đối tượng này là sử dụng

Huỳnh Anh

27

dịch vụ thanh toán của NH thông qua tài khoản tiền gửi, không nhằm mục đích

hưởng lãi.

Theo thông lệ các nước, NH không phải được trả lãi cho loại tiền gửi này,

mà NH còn yêu cầu khách hàng phải duy trì số dư tối thiểu, để được hưởng các dịch

vụ của khách hàng, nếu không có đủ số dư này thì khách hàng phải trả phí cho việc

sử dụng dịch vụ.

Ở Việt Nam, do dân chúng chưa có thói quen sử dụng dịch vụ thanh toán qua

NH nên để thu hút khách hàng, NH vẫn trả lãi đối với tài khoản tiền gửi thanh toán,

tuy nhiên mức lãi suất rất thấp.

Ngoài ra, đối với khách hàng có nhu cầu đầu tư, kinh doanh chứng khoán, họ

có thể mở tài khoản tiền gửi giao dịch chứng khoán. Đây là tài khoản thanh toán

chuyên dùng của khách hàng mở tại các NH để sử dụng cho mục đích kinh doanh

chứng khoán. Loại tài khoản này nhìn chung cũng có những tiện ích của một tài

khoản thanh toán khác trong việc sử dụng các dịch vụ thanh toán và thường vẫn

được hưởng lãi suất với mức lãi suất thấp như đối với các tài khoản thanh toán

khác. Tuy nhiên, mục đích chủ yếu là phục vụ cho kinh doanh chứng khoán của

khách hàng gửi tiền.

1.5. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của ngƣời gửi tiền

Trong quan hệ nhận tiền gửi giữa TCTD và NGT thì khách hàng gửi tiền

thường là những người có sự hiểu biết hạn chế hơn về hoạt động ngân hàng, đặc

biệt là những rủi ro trong hoạt động ngân hàng của TCTD. Vì vậy, trong nhiều

trường hợp họ không thể lường hết được những bất lợi mà mình có thể gặp phải khi

đem tiền gửi vào TCTD, họ không thể bảo vệ mình một cách tốt nhất. Do đó, họ cần

được sự trợ giúp của Nhà nước, sự bảo vệ của pháp luật.

Ngoài ra, NGT trong mối quan hệ với tổ chức nhận tiền gửi thì NGT ở vị trí

yếu thế hơn, quyền lợi của NGT dễ bị xâm hại hơn so với tổ chức nhận tiền gửi. Bởi

vì tổ chức nhận tiền gửi nắm giữ tiền gửi của NGT, nắm giữ thông tin về NGT,...

nhưng NGT không nắm giữ bất cứ tài sản bảo đảm từ phía TCTD. Bên cạnh đó,

NGT cũng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi những tác động khác của điều kiện kinh tế -

xã hội như lạm phát, khủng hoảng tài chính,...

Với chức năng đại diện cho đại bộ phận dân cư trong xã hội, Nhà nước sẽ sử

dụng công cụ có hiệu quả nhất là pháp luật, ban hành những quy định hạn chế

những rủi ro trong hoạt động tín dụng, hạn chế những tác động tiêu cực từ sự biến

Huỳnh Anh

28

động của điều kiện kinh tế - xã hội, những quy định ngăn ngừa sự xâm hại lợi ích

NGT từ phía TCTD, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NGT.

1.5.1. Xuất phát từ yêu cầu đảm bảo sự bình đẳng giữa tổ chức tín dụng và người gửi tiền

TCTD là trung gian tín dụng trong nền kinh tế, một trong những hoạt động

chủ yếu là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng. Khi nhận tiền gửi,

TCTD đóng vai trò là chủ thể vay, khi cấp tín dụng, TCTD đóng vai trò là chủ thể

cho vay. Như vậy, xét trong quan hệ này TCTD là chủ thể vay, trong quan hệ khác

TCTD là chủ thể cho vay.

Theo lẽ thường, đối với các hợp đồng vay tiền, để bảo đảm khả năng thanh

toán của người vay, người cho vay thường yêu cầu người vay phải cầm cố, thế chấp

tài sản bảo đảm tiền vay. Điều này đã là tập quán trong vay tiền và đã được pháp

luật ghi nhận từ lâu. Ở nước ta, theo quy định của pháp luật dân sự cũng điều chỉnh

về hợp đồng vay tài sản và những biện pháp bảo đảm. Tuy nhiên, trong quan hệ vay

tiền giữa TCTD (người đi vay) và các tổ chức, cá nhân gửi tiền (người cho vay) thì

không hoàn toàn như vậy. Cụ thể:

+ Trong hoạt động cho vay của TCTD, hầu hết các hợp đồng tín dụng đều có

tài sản bảo đảm, có ý nghĩa bảo vệ lợi ích của TCTD, đảm bảo khả năng thu hồi nợ

trong trường hợp khách hàng vay không có khả năng thanh toán các khoản vay. Khi

khách hàng không trả được nợ cho TCTD, TCTD có thể xử lý tài sản bảo đảm để

thu hồi nợ theo quy định.

+ Tuy nhiên, trong mối quan hệ nhận tiền gửi thì lại khác, khách hàng gửi

tiền vào TCTD chỉ dựa vào niềm tin đối với TCTD, uy tín của TCTD mà không

nhận bất kỳ tài sản bảo đảm nào từ phía TCTD. Mặc dù, xét về bản chất thì đây

cũng là hợp đồng vay nhưng chủ thể vay là TCTD, chủ thể cho vay là khách hàng

gửi tiền. Có thể nói, uy tín của TCTD là một yếu tố để khách hàng có thể tin cậy ở

mức độ nhất định hơn so với số đông tổ chức, cá nhân đi vay tiền bất kỳ (vì TCTD

được thành lập và hoạt động kinh doanh tiền tệ phải thỏa mãn những điều kiện cần

thiết về vốn, nghiệp vụ... và được pháp luật cho phép). Tuy nhiên, uy tín của TCTD

sẽ không thể đảm bảo được quyền lợi của NGT một khi TCTD mất khả năng thanh

toán.

Do vậy, để cân bằng lợi ích trong quan hệ nhận tiền gửi và gửi tiền, pháp luật

cần có những quy định bảo vệ quyền lợi của NGT trong quan hệ này.

1.5.2. Bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền từ những rủi ro của hoạt động tài chính

- ngân hàng

Huỳnh Anh

29

Trong hoạt động ngân hàng luôn tiềm ẩn rủi ro cao do tính kéo dài của quan

hệ kinh doanh. Khi TCTD gặp rủi ro thì đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp là NGT

vì khi đó TCTD không có khả năng chi trả tiền gửi cho họ. Những rủi ro này có thể

xuất phát từ những yếu tố sau:

- Đối tượng kinh doanh của TCTD là tiền tệ, một loại hàng hóa đặc biệt, vật

ngang giá chung trong trao đổi. Vì vậy, hoạt động kinh doanh tiền tệ chịu chi phối

của nhiều yếu tố tác động từ chính trị, kinh tế - xã hội.

Theo các nhà kinh tế học, tiền tệ được định nghĩa “là một vật đảm nhận đồng

thời vai trò công cụ trao đổi, công cụ thước đo giá trị và công cụ tích lũy”. Theo

Mác, “tiền tệ là thứ hàng hóa đặc biệt, tách ra khỏi thế giới hàng hóa, dùng làm vật

ngang giá chung để thể hiện và đo lường giá trị của mọi hàng hóa; nó trực tiếp thể

hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất”.

Như vậy, tiền tệ không chỉ là trung gian trao đổi, mà còn là một hàng hóa; nói cách

khác, tiền tệ không chỉ công cụ trung gian trong các trao đổi giữa những người sản

xuất hoặc những người buôn bán với người tiêu thụ, mà trong một số giao dịch, nó

đóng vai trò là đối tượng của giao dịch. Chính vì tính chất đặc biệt này của tiền tệ,

nên người ta gọi nó là hàng hóa đặc biệt. Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của

TCTD, tiền tệ đã trở thành hàng hóa, tiền tệ là đối tượng của các giao dịch trong

hoạt động kinh doanh này (hoạt động vay, cho vay).

Vì chức năng và đặc tính trên, tiền tệ được xem là một trong những phương

tiện hữu hiệu để đưa nền kinh tế đi đến những mục tiêu mong muốn. Chính vì vậy,

một mặt tiền tệ có khả năng tác động đến điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội; mặt

khác nó chịu sự chi phối bởi các điều kiện này. Chính vì vậy, hoạt động kinh doanh

tiền tệ cũng chịu sự chi phối rất lớn từ các điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội. Khi

cơ chế, chính sách này thay đổi có thể dẫn đến những biến động trong hoạt động

kinh doanh tiền tệ, có thể tác động tích cực hoặc mang lại rủi ro trong hoạt động

NH.

- Việc cho vay của TCTD phụ thuộc rất lớn vào việc sử dụng vốn vay của

khách hàng. Bởi việc sử dụng vốn vay của khách hàng ảnh hưởng đến kết quả của

việc cho vay, từ đó, ảnh hưởng đến khả năng chi trả tiền gửi cho khách hàng gửi

tiền.

Đối với hợp đồng vay tài sản thông thường thì người cho vay dùng tài sản

của chính mình để cho vay nên khi người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì

chỉ có người cho vay phải gánh chịu hậu quả. Tuy nhiên, việc cho vay của TCTD

chủ yếu dựa vào nguồn vốn huy động của tổ chức, cá nhân trong xã hội. Chính vì

Huỳnh Anh

30

vậy, do chức năng trung gian này mà các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của

khách hàng (người vay) sẽ ảnh hưởng ngay đến TCTD và qua đó ảnh hưởng đến

quyền lợi của NGT.

Trong trường hợp khách hàng sử dụng vốn gặp rủi ro do sử dụng vốn sai

mục đích, quá trình sản xuất kinh doanh bị thua lỗ, thậm chí dẫn đến phá sản... thì

việc thu hồi vốn và lãi tín dụng đầy đủ là không chắc chắn. Việc cho vay của TCTD

không đạt kết quả. Khi đó, TCTD có thể gặp rủi ro tín dụng.

Ngoài ra, những nguyên nhân khác dẫn đến rủi ro tín dụng của TCTD như do

sự non kém về nghiệp vụ của cán bộ tín dụng, sự tha hóa của một bộ phận cán bộ

tín dụng trong xét duyệt dự án cho vay, hoặc khách hàng gặp sự cố như thất nghiệp,

ốm đau, hoặc khách hàng “chay ỳ” không thanh toán tiền vay cho TCTD.

Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng cũng có thể từ phía Nhà nước. Do thay

đổi cơ chế, chính sách làm cho các doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính hoặc do

các yếu tố khách quan như ảnh hưởng của thị trường biến động, khủng hoảng kinh

tế, thiên tai,... làm cho các TCTD gặp nhiều khó khăn trong thu hồi nợ.

1.5.3. Bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền góp phần đảm bảo an toàn hệ thống

các tổ chức tín dụng

Do đặc trưng liên kết trong hệ thống các TCTD, vì vậy sẽ dẫn đến phản ứng

Đôminô khi một TCTD nào đó bị đổ vỡ. Cụ thể, khi TCTD nào đó gặp rủi ro dẫn

đến việc TCTD mất khả năng thanh toán tạm thời hoặc buộc chấm dứt hoạt động.

Khi đó, do quan hệ có tính ảnh hưởng dây chuyền có thể kéo theo các TCTD khác

cũng gặp khó khăn về thanh toán, từ đó ảnh hưởng đến an toàn hệ thống các TCTD.

Tính ảnh hưởng dây chuyền không chỉ trong hệ thống TCTD của một quốc gia mà

có thể ảnh hưởng đến hệ thống TCTD của các quốc gia khác trên thế giới, đặc biệt

là trong điều kiện hội nhập quốc tế như hiện nay.

Trong khi đó, hoạt động ngân hàng có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế

của mỗi quốc gia. Hoạt động ngân hàng giúp điều hòa nguồn vốn trong xã hội, thúc

đẩy sự phát triển kinh tế26

. Vì vậy, khi hệ thống TCTD sụp đổ sẽ kéo nền kinh tế đổ

vỡ theo. Đối với Việt Nam, hệ thống tài chính còn ở giai đoạn đầu của quá trình

phát triển theo cơ chế thị trường, nhu cầu vốn của nền kinh tế là rất lớn nên hoạt

26

Hoạt động ngân hàng khuyến khích tiết kiệm và đưa nguồn vốn trong xã hội vào sử dụng có hiệu quả. Việc

cung cấp tài chính cho các doanh nghiệp đã khuyến khích sản xuất, tạo thêm việc làm, tăng sản lượng và

giảm nhập khẩu hàng hóa. Mặt khác, việc khách hàng cá nhân vay vốn sẽ khuyến khích tăng nhu cầu về hàng

hóa và điều này sẽ giúp cho việc tăng cường sản xuất.

Huỳnh Anh

31

động ngân hàng có vai trò càng quan trọng trong việc cung ứng vốn nhằm duy trì

nhịp độ tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế.

Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới vừa qua là một minh chứng, hàng loạt

các NH sụp đổ, trong đó có những NH hàng đầu thế giới như Merill Lynch, Lehman

Brothers, Northern Rock… Với tính chất ảnh hưởng dây chuyền, khủng hoảng tài

chính đã lây lan giữa các quốc gia. Rất nhiều quốc gia trên thế giới rơi vào khủng

hoảng tài chính trầm trọng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của kinh tế

thế giới, bao gồm cả các cường quốc như Mỹ, Nhật, Anh. Đến nay, tình hình thế

giới còn nhiều biến động, hậu quả của cuộc khủng hoảng còn nặng nề. Chính vì

vậy, đảm bảo an toàn cho hoạt động của hệ thống các TCTD là tối cần thiết, đặc

biệt quan trọng đối với mọi quốc gia.

Trong quá trình giải quyết khủng hoảng, các nước trên thế giới thực hiện các

giải pháp để khắc phục, một trong những giải pháp đó là tăng cường bảo vệ quyền

lợi của NGT để tạo lòng tin cho họ. Giải pháp tức thời được thông qua là việc tăng

hạn mức chi trả bảo hiểm. Rõ ràng, bảo vệ NGT góp phần vào việc đảm bảo an toàn

hệ thống các TCTD vì khi NGT tin vào những quy định của pháp luật, cơ chế của

pháp luật có thể bảo vệ được quyền lợi của mình thì sẽ hạn chế việc NGT tin vào

những tin đồn thất thiệt, dẫn đến hiện tượng rút tiền hàng loạt, tạo nguy cơ “lung

lay” hệ thống các TCTD. Đồng thời cũng góp phần hạn chế xảy ra trường hợp

tương tự như khi có một TCTD tạm thời hoặc thật sự mất khả năng thanh toán cho

NGT, những NGT khác có thể do tâm lý hoang mang mà đồng loạt đến các TCTD

rút tiền gửi, đẩy các TCTD vào tình trạng thiếu khả năng chi trả,... đe dọa an toàn

của hệ thống các TCTD.

1.5.4. Thông qua hoạt động cung cấp dịch vụ, tổ chức tín dụng có thể gây thiệt

hại cho người gửi tiền

Cung ứng các dịch vụ thanh toán là một trong những chức năng chủ yếu của

TCTD là NH. Trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ, TCTD là NH cung cấp các

dịch vụ cho khách hàng gửi tiền thông qua tiền gửi, quản lý tài khoản khách hàng,

cũng như nắm giữ các thông tin liên quan đến tài khoản khách hàng. Thông qua

hoạt động này, vì nhiều lý do khác nhau đã ảnh hưởng đến quyền lợi của khách

hàng gửi tiền.

Thứ nhất, liên quan đến việc thực hiện nghiệp vụ thanh toán qua tài khoản.

Trong dịch vụ thanh toán, chuyển tiền là một dịch vụ khá cổ điển và phổ biến. Việc

chuyển tiền nhầm trong hoạt động ngân hàng đã là việc hiện hữu và cũng không

phải là hi hữu, dù cả NH và khách hàng điều không mong muốn. Đó là những

Huỳnh Anh

32

trường hợp NH nhầm về chủ thể được chuyển tiền, thay vì chuyển tiền từ khách

hàng A cho khách hàng B nhưng lại chuyển cho khách hàng C; hoặc chuyển nhầm

số tiền, tức là lẽ ra NH sẽ chuyển tiền vào tài khoản nào đó một số tiền X nhưng lại

chuyển vào tài khoản này số tiền Y27

. Khi đó, có những trường hợp khách hàng đã

không được NH chịu trách nhiệm về khoản tiền đã bị chuyển nhầm do NH cho rằng

mình không có lỗi trong việc chuyển nhầm, mặc dù việc chuyển tiền vốn là hoạt

động nghiệp vụ của NH. Bên cạnh đó, về phía người được nhận số tiền chuyển

nhầm, về nguyên tắc họ không có lỗi, vì tiền vào tài khoản họ có thể biết hoặc

không biết rõ nguồn gốc và rút tiền ra sử dụng. Tuy nhiên, khi có thông báo mà họ

cố tình chiếm dụng thì có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý bằng pháp luật,

yêu cầu người thụ hưởng hoàn trả số tiền nói trên. Trong nhiều trường hợp vì muốn

sớm thu lại số tiền mà nhân viên NH có những ứng xử khiến khách hàng gặp nhiều

phiền phức và gặp rắc rối không đáng, ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng.

Thứ hai, liên quan đến vấn để bảo mật thông tin khách hàng. NGT mang tiền

đến gửi tại TCTD bên cạnh nhu cầu về thanh toán, hưởng lãi, họ còn có nhu cầu

được bảo mật thông tin liên quan đến tiền gửi. Về nguyên tắc, TCTD bảo đảm

những thông tin cá nhân cho họ. Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của công

nghệ thông tin, cũng như việc ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực tài

chính - ngân hàng đã phổ biến và đa dạng, đòi hỏi cơ chế bảo vệ thông tin cho NGT

càng chặt chẽ hơn.

Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán nước ta ngày càng phát triển, đây là thị

trường phức tạp, vấn đề thông tin rất quan trọng đối với các nhà đầu tư chứng

khoán. Các đối thủ cạnh tranh có thể lợi dụng việc nắm bắt thông tin về khách hàng

gửi tiền để gây bất lợi cho nhà đầu tư. Từ đó cho thấy, bảo vệ bí mật thông tin cho

khách hàng trong điều kiện hiện nay là rất cần thiết.

1.6. Những quyền lợi của ngƣời gửi tiền cần đƣợc bảo vệ

1.6.1. Quyền được tạo thuận lợi khi gửi tiền và rút tiền

Tổ chức, cá nhân gửi tiền vào TCTD xuất phát từ nhu cầu đầu tư sinh lợi.

Đây là nhu cầu chính đáng, giúp họ có thêm thu nhập, đáp ứng lợi ích của nhà đầu

tư. Thu nhập của các cá nhân, tổ chức trong xã hội tăng chính là góp phần vào sự

27

Một số vụ việc chuyển tiền nhầm có giá trị lớn: Năm 2006, NH Ngoại thương Việt Nam đã chuyển nhầm

số tiền 4 triệu đồng thành hơn 48,5 tỷ đồng cho khách hàng. Năm 2008, NH Thương mại Cổ phần Kỹ thương

đã chuyển nhầm cho khách hàng số tiền 306 triệu đồng. Năm 2010, NH Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Agribank chi nhánh Đà Nẳng chuyển nhầm vào tài khoản ông Phạm Sự số tiền 1,277 tỷ đồng, trong khi tiền

thực hưởng của ông Sự chỉ hơn 105 triệu đồng.

Huỳnh Anh

33

giàu có của quốc gia, cần được khuyến khích. Bên cạnh đó, TCTD là tổ chức kinh

doanh tiền tệ, nhận tiền gửi để cấp tín dụng, việc gửi tiền của khách hàng tại TCTD

chính là phục vụ cho nhu cầu kinh doanh của TCTD, giúp TCTD có nguồn vốn để

cho vay, sinh lời. Vì vậy, TCTD có trách nhiệm tạo thuận lợi cho khách hàng khi

gửi tiền.

Mặt khác, tiền gửi tại TCTD vẫn thuộc quyền sở hữu của khách hàng, khách

hàng có quyền rút tiền, thể hiện sự định đoạt của chủ sở hữu đối với tiền gửi. Tất

nhiên, việc rút tiền này phải nằm trong giới hạn sự thỏa thuận giữa NGT và TCTD

trong hợp đồng gửi tiền về vấn đề rút tiền gửi28

.

Tạo thuận lợi cho NGT là đảm bảo việc gửi tiền và rút tiền được nhanh

chóng, dễ dàng. Chẳng hạn, thủ tục gửi tiền và rút tiền cần đơn giản, gọn nhẹ, khách

hàng có thể lựa chọn TCTD để gửi tiền, khách hàng có thể đồng thời gửi tiền ở

nhiều TCTD khác nhau, gửi tiền tại một TCTD nhưng có thể rút tiền ở nhiều TCTD

khác...

1.6.2. Quyền được trả đầy đủ, đúng hạn gốc và lãi mọi khoản tiền gửi

Có thể nói đây là quyền quan trọng nhất mà khách hàng quan tâm. Trong

mối quan hệ giữa NGT và tổ chức nhận tiền gửi thì thực chất là mối quan hệ giữa

một bên là chủ thể vay (TCTD) và một bên là chủ thể cho vay (NGT). Chủ thể vay

sau khi nhận được tiền vay (lợi ích) thì đương nhiên phải có nghĩa vụ đối với người

cho vay trong việc chi trả vốn và lãi. Đây là nghĩa vụ cơ bản của bên vay trong hợp

đồng vay tài sản.

Đối với tiền gửi dưới dạng các loại giấy tờ có giá, cũng cùng nguyên lý trên,

TCTD phát hành phải chi trả đầy đủ gốc và lãi cho khách hàng khi đến hạn thanh

toán được ghi trên giấy tờ có giá đó. Xuất phát từ tính chất của giấy tờ có giá, khách

hàng cũng có thể thanh toán trước hạn thông qua hoạt động chiết khấu giấy tờ có

giá của TCTD, khi đó TCTD sẽ mua lại giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán của

khách hàng. Trong trường hợp này giá và lãi suất chiết khấu sẽ do khách hàng và

TCTD thỏa thuận phù hợp quy định pháp luật.

1.6.3. Quyền được đảm bảo bí mật thông tin tiền gửi (số dư tài khoản, số tài

khoản,...), an toàn tài khoản

28

Tức là phụ thuộc vào sự thỏa thuận trong hợp đồng tiền gửi giữa NGT và TCTD về thời hạn rút tiền, về rút

tiền trước hạn... Chẳng hạn, nếu khách hàng thỏa thuận trong hợp đồng nhận tiền gửi là không được rút trước

hạn thì khi chưa đến hạn thanh toán, khách hàng không thể buộc TCTD tạo điều kiện thuận lợi cho họ rút

tiền.

Huỳnh Anh

34

1.6.3.1. Quyền đảm bảo bí mật thông tin tiền gửi

Việc bảo đảm bí mật thông tin khách hàng chính là bảo vệ lợi ích chính đáng

của khách hàng. Bảo mật thông tin tiền gửi của khách hàng góp phần đảm bảo an

toàn tiền gửi của khách hàng, tránh được việc bị kẻ xấu lợi dụng những thông tin

biết được để rút tiền khách hàng hoặc có những hành vi phá hoại gây thiệt hại cho

khách hàng.

Hiện nay, công nghệ thông tin trong lĩnh vực ngân hàng đã được sử dụng

rộng rãi, bọn tội phạm cũng có những thủ đoạn mới và tinh vi hơn. Chẳng hạn, khi

bọn tội phạm có được mật khẩu hay mã giao dịch giữa NH và khách hàng, chúng có

thể sử dụng tài khoản khách hàng hoặc yêu cầu NH thực hiện những giao dịch gây

bất lợi cho khách hàng,...

Đối với khách hàng gửi tiền là các chủ thể kinh doanh thì thông tin về tiền

gửi cũng là một dạng bí mật trong kinh doanh của NGT. Những thông tin này có thể

phản ánh phương án sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính, mối quan hệ với đối

tác của khách hàng gửi tiền,... Những thông tin này nếu bị khai thác bởi đối thủ

cạnh tranh thì có thể gây thiệt hại cho khách hàng. Đảm bảo bí mật thông tin khách

hàng gửi tiền cũng chính là góp phần chống lại những người có ý đồ cạnh tranh

không lành mạnh.

Một số thông tin cụ thể của khách hàng cần được bảo mật bao gồm:

- Số hiệu tài khoản của khách hàng

Số hiệu tài khoản chính là mã tài khoản. Số hiệu tài khoản tiền gửi giúp phân

biệt các tài khoản của các khách hàng khác nhau trong quản lý ngân hàng. Muốn rút

tiền hoặc gửi tiền vào một tài khoản nhất định thì phải biết số tài khoản đó, trừ

trường hợp rút tiền thông qua máy rút tiền tự động, người rút tiền có thể không cần

sử dụng số hiệu tài khoản, thay vào đó chủ tài khoản phải có thẻ và biết mã số pin.

Đối với những NGT vào TCTD theo hình thức tiết kiệm, tiền gửi kỳ hạn

nhằm mục đích an toàn tiền gửi, hưởng lãi suất, họ thường có nhu cầu bảo mật số

hiệu tài khoản không chỉ nhằm tránh khai thác của kẻ thứ ba gây thiệt hại tài sản

của họ, họ còn muốn không ai biết được họ đã có tài khoản gửi tại TCTD, chưa nói

đến việc người khác biết được ngày đáo hạn của số tiền gửi thông qua số hiệu tài

khoản.

Đối với tài khoản thanh toán, đối tác của khách hàng dễ dàng có được số

hiệu tài khoản thông qua lần giao dịch đầu tiên với khách hàng. Tuy nhiên, về

nguyên tắc TCTD cần tôn trọng bí mật số hiệu tài khoản của khách hàng, trừ trường

Huỳnh Anh

35

hợp khách hàng cho phép hoặc ngầm cho phép thông qua việc khách hàng công bố

số hiệu tài khoản của mình một cách công khai.

- Mẫu chữ ký của chủ tài khoản

Chữ ký của chủ tài khoản được chủ tài khoản đăng kí khi mở tài khoản tại

TCTD. Mẫu chữ ký này được sử dụng trên các chứng từ giao dịch với TCTD và

giữa khách hàng với người được ủy quyền kí thay.

Hiện nay, bên cạnh việc khách hàng đăng kí chữ ký mẫu trên giấy, chữ ký

điện tử đã được các TCTD sử dụng ngày càng rộng rãi, chữ ký điện tử có giá trị như

chữ ký trên giấy. Chữ ký điện tử được tạo lập dưới dạng từ, chữ, số, ký hiệu, âm

thanh hoặc các hình thức khác bằng phương tiện điện tử, gắn liền hoặc kết hợp một

cách lô gíc với thông điệp dữ liệu, có khả năng xác nhận người ký thông điệp dữ

liệu và xác nhận sự chấp thuận của người đó đối với nội dung thông điệp dữ liệu

được kí29

.

Chữ ký của khách hàng là một trong những yếu tố của chứng từ để TCTD

giao dịch với khách hàng. Nếu chữ ký của khách hàng bị TCTD tiết lộ, kẻ gian có

thể lợi dụng để rút tiền của khách hàng hoặc có những hành vi khác như mạo danh

khách hàng để thực hiện những giao dịch khách hàng không muốn, hoặc yêu cầu

TCTD cung cấp thông tin về khách hàng…, trên cở sở giả mạo chữ ký có thể gây

thiệt hại tài sản cho khách hàng.

Hiện nay, các TCTD, đặc biệt TCTD là NH đã thực hiện cung cấp nhiều dịch

vụ cho khách hàng thông qua mạng internet. Việc sử dụng dịch vụ ngân hàng điện

tử đã rất phổ biến. Chữ ký điện tử đã được sử dụng trong các giao dịch qua NH đã

không còn xa lạ. Vì vậy, bảo vệ bí mật chữ ký khách hàng có ý nghĩa vô cùng quan

trọng.

- Doanh số hoạt động

Doanh số hoạt động của khách hàng phản ánh tình hình kinh doanh của

khách hàng, đặc biệt là những khách hàng chủ yếu sử dụng các dịch vụ của TCTD

trong hoạt động của mình.

Doanh số hoạt động của khách hàng nếu bị đối thủ cạnh tranh biết được có

thể gây bất lợi cho khách hàng. Từ thông tin về doanh số hoạt động, đối thủ cạnh

29

Luật giao dịch điện tử 2005.

Huỳnh Anh

36

tranh sẽ biết được tình hình tài chính của khách hàng, khách hàng kinh doanh thua

lỗ hay có lời,…, từ đó có lợi thế trong hoạch định kế hoạch kinh doanh, có thể tranh

giành đối tác, gây thiệt hại cho khách hàng.

- Số dư tài khoản

Số dư tài khoản chính là khoản nợ của NH đối với chủ tài khoản vào thời

điểm nhất định (số dư có). Tuy nhiên, trong trường hợp có sự thỏa thuận trước giữa

khách hàng và TCTD nợ, khi đó khách hàng trở thành người vay tiền. Số dư nợ phải

trả lãi cho TCTD và không được vượt quá số dư nợ do TCTD cho phép.

Biết được số dư tài khoản của một nhà kinh doanh sẽ nắm được khả năng tài

chính của doanh nhân đó, đặc biệt là những doanh nhân chủ yếu sử dụng dịch vụ

NH. Vì vậy, nếu TCTD tiết lộ số dư tài khoản của khách hàng, đối thủ cạnh tranh

của khách hàng nắm được thông tin này có thể gây thiệt hại cho khách hàng như

giành mối làm ăn với khách hàng, hoặc có thể chèn ép khách hàng khi cùng kí hợp

đồng cùng bán hoặc cùng mua một loại sản phẩm nào đó chẳng hạn. Chính vì vậy,

số dư tài khoản của khách hàng cần được TCTD bảo mật.

Ngoài ra còn có các thông tin khác như các thông tin liên quan đến giao dịch

rút tiền, chuyển tiền và tài sản của khách hàng, nội dung các văn bản, giấy tờ của

NGT.

Vấn đề bảo mật thông tin khách hàng phải đặt trong mối tương quan với lợi

ích của các chủ thể khác, lợi ích của TCTD, lợi ích chung của toàn xã hội. Do vậy,

dù không có sự thỏa thuận giữa TCTD và khách hàng, TCTD có thể cung cấp thông

tin khách hàng cho chủ thể thứ ba trong một số trường hợp nhất định. Chẳng hạn,

cung cấp thông tin theo yêu cầu bằng văn bản của các cơ quan Nhà nước trong quá

trình thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, Tổng Giám đốc tổ chức

BHTG,…

1.6.3.2. Quyền đảm bảo an toàn tài khoản

Đảm bảo an toàn tài khoản khách hàng xuất phát từ việc đảm bảo quyền sở

hữu hợp pháp của chủ sở hữu đối với tài sản của họ. Bên cạnh đó, một trong những

mục đích khách hàng gửi tiền vào TCTD chính là muốn được đảm bảo an toàn tiền

gửi. Thay vì cất giữ tiền tại nhà, khách hàng cho rằng TCTD là nơi có uy tín, có thể

tin cậy khi gửi tiền vào.

Tuy vậy, trong những trường hợp nhất định, tài khoản của khách hàng có thể

bị xâm hại. Như đã phân tích trên, kẻ gian lợi dụng việc nắm bắt được thông tin

khách hàng để xâm hại đến tài khoản khách hàng. Ngoài ra, trong quá trình tác

Huỳnh Anh

37

nghiệp, vấn đề sai sót trong thanh toán, chuyển tiền của TCTD cũng đe dọa đến an

toàn tiền gửi khách hàng. Điều này cũng đặt ra yêu cầu đảm bảo an toàn tài khoản

khách hàng.

1.6.4. Quyền được cung cấp thông tin về tiền gửi: lãi suất, số dư,...

Hợp đồng tiền gửi giữa TCTD và NGT là một hợp đồng khá đặc biệt, không

chỉ vì đối tượng của hợp đồng là một loại hàng hóa đặc biệt mà nó còn đặc biệt ở

chỗ đối tượng của hợp đồng có thể thường xuyên biến động (sự thay đổi số dư trên

tài khoản tiền gửi), yếu tố của hợp đồng là lãi suất cũng có thể thay đổi theo thời

gian. Vì vậy, chủ thể của hợp đồng có quyền được cung cấp những thông tin thuộc

về nội dung của hợp đồng.

Mặt khác, việc cung cấp thông tin về tiền gửi cho khách hàng có ý nghĩa đảm

bảo tính công khai minh bạch thông tin, khẳng định sự cạnh tranh lành mạnh của

TCTD trên thị trường.

Việc cung cấp thông tin tiền gửi chính là là đáp ứng quyền lợi chính đáng

của tổ chức, cá nhân gửi tiền. Thể hiện:

- Biết số dư của mình trong tài khoản, một mặt giúp khách hàng kiểm soát

được số tiền mà họ đã sử dụng hoặc đã được chi trả qua tài khoản tiền gửi của họ,

tạo được sự chủ động trong sử dụng tài khoản; mặt khác, việc được thông báo số dư

thường xuyên giúp khách hàng có thể phát hiện sự sai sót của TCTD trong việc chi

trả hoặc trường hợp có sự cố kỹ thuật, từ đó giúp khách hàng kịp thời thông báo với

TCTD để điều chỉnh phù hợp30

.

- Biết lãi suất tiền gửi có ý nghĩa giúp khách hàng lựa chọn hình thức gửi tiền

(tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi thanh

toán,…), nơi gửi tiền (chọn lựa TCTD có mức lãi suất ưu đãi hơn chẳng hạn) sao

cho đảm bảo tốt nhất quyền lợi chính đáng của mình. Vì vậy, lãi suất tiền gửi cần

được thông báo công khai để khách hàng dễ dàng nắm bắt. Chẳng hạn, niêm yết tại

TCTD hoặc đưa lên trang web của TCTD.

Ngoài ra, lãi suất tiền gửi của khách hàng tại TCTD có thể thay đổi theo từng

thời kỳ tùy theo lãi suất thị trường. Do đó, NGT cần phải được biết lãi suất mà họ

30

Hiện nay, thông qua các dịch vụ ngân hàng điện tử như iB@nking, SMS B@nking và Phone B@nking,

TCTD có thể dễ dàng cung cấp thông tin về những lần giao dịch gần nhất cũng như số dư trên tài khoản của

khách hàng nhanh chóng, tiện lợi. Đối với tài khoản thẻ, khách hàng cũng có thể thực hiện sao kê tài khoản

hoặc kiểm tra số dư dễ dàng thông qua việc sử dụng máy ATM.

Huỳnh Anh

38

được hưởng trong từng thời điểm, đáp ứng được nhu cầu kiểm soát tiền lãi, kiểm

soát tài khoản của khách hàng đối với tài khoản tiền gửi của mình.

1.6.5. Quyền định đoạt tiền gửi, để lại di sản thừa kế

Quyền định đoạt tiền gửi cũng xuất phát từ quyền đương nhiên của chủ sở

hữu đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Để lại di sản thừa kế cũng chính

là quyền đặc biệt trong quyền định đoạt của chủ sở hữu. Đảm bảo quyền định đoạt

tiền gửi cũng chính là bảo đảm quyền định đoạt đương nhiên này.

Tuy nhiên, giữa NGT và TCTD có tồn tại hợp đồng tiền gửi. Vì vậy, định

đoạt ở đây được hiểu là định đoạt trên cơ sở đảm bảo trách nhiệm của NGT đối với

tổ chức nhận tiền gửi. Bởi vì, khi khách hàng gửi tiền tại TCTD, khách hàng tạm

thời chuyển quyền sử dụng số tài sản này cho TCTD. Trách nhiệm này do chính bản

thân khách hàng tự nguyện thiết lập khi giao kết hợp đồng với TCTD.

- Việc định đoạt tài khoản tiền gửi của khách hàng thể hiện ở những nội dung

sau:

+ Khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào khách hàng muốn đối với

những khoản tiền gửi không kỳ hạn và được quyền rút trước hạn theo quy định pháp

luật đối với những khoản tiền gửi có kỳ hạn (quyền định đoạt bị hạn chế vì khách

hàng đã tự thỏa thuận với TCTD chấp nhận sự hạn chế này khi gửi tiền vào TCTD).

Khách hàng cũng có thể ủy quyền cho người khác sử dụng số tiền này thông qua

hợp đồng ủy quyền hoặc giấy ủy quyền có công chứng hoặc chứng thực, hoặc sử

dụng số tiền đó làm tài sản bảo đảm,…

+ Khách hàng được quyền yêu cầu NH mở lại tài khoản đóng, phong toả

hoặc thay đổi cách thức sử dụng tài khoản khi cần thiết 31

.

+ Khách hàng có thể để lại thừa kế số tiền gửi thông qua di chúc hoặc

thừa kế theo pháp luật theo quy định pháp luật thừa kế.

+ Đối với các loại giấy tờ có giá, người sở hữu giấy tờ có giá có quyền

chuyển nhượng dưới các hình thức mua, bán, tặng cho, thừa kế giấy tờ có giá hoặc

người sở hữu có thể dùng giấy tờ có giá để làm vật cầm cố, bảo lãnh và các giao

dịch hợp pháp khác.

31 Chẳng hạn, khách hàng yêu cầu phong tỏa tài khoản vì lí do riêng tư, hoặc khi nghi ngờ có người có thể giả

mạo mình để rút tiền do biết được thông tin về tài khoản của mình, đặc biệt là đối với những giao dịch điện

tử, hoặc khách hàng đánh mất thẻ đối với tài khoản thẻ... Sau khi đảm bảo an toàn tài khoản, khách hàng có

thể yêu cầu TCTD mở tài khoản đã phong tỏa.

Huỳnh Anh

39

1.6.6. Quyền được bảo hiểm chi trả khi tổ chức tín dụng gặp rủi ro

Trong quan hệ nhận tiền gửi, hay quan hệ vay tiền, trong đó bên vay là

TCTD và bên cho vay là NGT, bên cho vay đã không nắm giữ bất kỳ tài sản bảo

đảm nào từ phía bên vay. Vì vậy, khi TCTD gặp rủi ro dẫn đến mất khả năng chi

trả, khi đó, chủ thể chịu ảnh hưởng trực tiếp chính là NGT. TCTD sẽ không thể

thanh toán hoặc thanh toán rất ít cho NGT. Vì vậy, cần có một biện pháp bảo vệ

quyền lợi NGT trong tình huống này, đó chính là BHTG. Theo đó, NGT sẽ được

thanh toán một khoản tiền bảo hiểm gồm tất cả hoặc một phần tiền gửi và lãi suất

khi tổ chức nhận tiền gửi bị phá sản hoặc mất khả năng thanh toán.

Việc đảm bảo quyền này cho khách hàng cũng có ý nghĩa quan trọng là tránh

được hiện tượng rút tiền hàng loạt của khách hàng, từ đó lây lan sang các TCTD

khác theo phản ứng dây chuyền, đe dọa sự an toàn của hệ thống tài chính - ngân

hàng.

Thực tế cho thấy hầu hết các nước trên thế giới đều thành lập các tổ chức

BHTG chính thức sau khi các cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra ở nước họ, xuất

phát từ việc nhận thức được vai trò quan trọng của BHTG đối với NGT nói riêng,

hệ thống tài chính ngân hàng nói chung.

1.6.7. Quyền khởi kiện tổ chức tín dụng có hành vi vi phạm hợp đồng đã cam kết

theo quy định của pháp luật.

Chúng ta khẳng định rằng cần bảo vệ quyền của NGT như: quyền được tạo

điều kiện thuận lợi khi gửi và rút tiền, quyền được định đoạt tiền gửi,... Nhưng

những quyền này trên thực tế không phải lúc nào cũng được đảm bảo dù đã được

thừa nhận. Vì nhiều lý do khác nhau mà TCTD có thể vi phạm quyền lợi của NGT.

Bên cạnh việc tự giải quyết của các bên (NGT và TCTD) như thỏa thuận, thương

lượng... chưa đảm bảo tốt nhất quyền lợi của NGT vì thiếu tính cưỡng chế trực tiếp

của nhà nước.

Do đó, quyền khởi kiện là giải pháp sau cùng và là công cụ tố tụng hữu hiệu

để bảo vệ quyền lợi NGT khi lợi ích bị xâm hại. Theo đó, khi TCTD vi phạm hợp

đồng hoặc vi phạm những nghĩa vụ khác đối với NGT, gây thiệt hại cho NGT, NGT

có quyền khởi kiện tổ chức nhận tiền gửi đó và yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu

Huỳnh Anh

40

có) nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng cho mình32

. Kết quả giải quyết của cơ quan có

thẩm quyền có tính bắt buộc, đảm bảo thực thi bằng sự cưỡng chế nhà nước.

Kết luận chương 1:

Tiền gửi có khái niệm khá rộng bao gồm các hình tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi

không kỳ hạn, tiền gửi dưới hình thức phát hành các loại giấy tờ có giá. Tiền gửi có

vai trò quan trọng không chỉ đối với người gửi tiền, mà còn có vai trò to lớn đối với

sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại

hóa cũng như yêu cầu tái cấu trúc nền kinh tế của nước ta hiện nay. Vì vậy, để góp

phần vào sự ổn định và phát triển của nền kinh tế nói chung, góp phần vào huy động

được lượng tiền gửi dồi dào để cung cấp cho nền kinh tế đang “đói vốn” nói riêng,

nhất thiết phải đảm bảo được quyền và lợi ích chính đáng của người gửi tiền.

Ở một khía cạnh khác, bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền chính là sự bảo vệ

của nhà nước với tư cách là đại diện cho đông bảo quần chúng nhân dân đối với tổ

chức, cá nhân trong xã hội. Bởi vì, xuất phát từ tính chất mối quan hệ tiền gửi giữa

người gửi tiền và tổ chức tín dụng đặt ra yêu cầu bảo vệ quyền lợi của người gửi

tiền. Cụ thể, một là: người gửi tiền đóng vai trò là chủ thể cho vay nhưng không

nắm giữ bất kỳ tài sản bảo đảm nào từ phía chủ thể đi vay (tổ chức tín dụng ); hai

là: Xét một cách chung nhất, người gửi tiền có sự hiểu biết hạn chế hơn so với tổ

chức tín dụng về lĩnh vực hoạt động ngân hàng nên họ không thể lường hết được

những rủi ro có thể xảy ra, dẫn đến không thể bảo vệ quyền lợi cho mình một cách

tốt nhất.

32

Theo Điều 161 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 về quyền khởi kiện: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự

mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.

Huỳnh Anh

41

CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA

NGƢỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN

2.1. Quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi của ngƣời gửi tiền

2.1.1. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh việc bảo vệ quyền lợi

của người gửi tiền

Quyền lợi của NGT được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật có

liên quan. Bao gồm:

- Luật Các TCTD 1997. Luật này điều chỉnh tổ chức và hoạt động của các

TCTD và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng, trong đó có quy định trách

nhiệm của các tổ chức này trong việc bảo vệ quyền lợi của NGT;

- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD năm 2004.

- Quy chế tiền gửi tiết kiệm ban hành kèm theo Quyết định số

1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13 tháng 9 năm 2004 của Thống đốc Ngân hàng nhà

nước Việt Nam (sau đây gọi là Quy chế tiền gửi tiết kiệm). Quy chế này điều chỉnh

các hoạt động nhận và chi trả tiền gửi tiết kiệm bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ

trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam giữa tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm và NGT;

- Quyết định số 47/2006/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 9 năm 2006 của Thống

đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy

chế về tiền gửi tiết kiệm. (sau đây gọi là Quyết định số 47/2006/QĐ-NHNN);

- Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20 tháng 9 năm 2001 của Chính phủ về

hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (sau đây gọi là

Nghị định số 64/2001/NĐ-CP);

- Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại NHNN và các TCTD ban

hành kèm theo Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN ngày 21 tháng 11 năm 2002

của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Quy chế mở và sử

dụng tài khoản tiền gửi);

- Nghị định số 70/2000/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2000 của Chính phủ

về việc giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản

gửi của khách hàng.(sau đây gọi là Nghị định số 70/2000/NĐ-CP).

Huỳnh Anh

42

- Thông tư số 02/2001/TT-NHNN ngày 4 tháng 4 năm 2001 của Ngân hàng

Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thi hành Nghị định số 70/2000/NĐ-CP (sau đây gọi

là Thông tư số 02/2001/TT-NHNN );

- Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 của Chính phủ về

bảo hiểm tiền gửi (sau đây gọi là Nghị định số 89/1999/NĐ-CP). Mục tiêu chủ yếu

của việc ban hành Nghị định này là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

NGT, góp phần duy trì sự ổn định của TCTD, đảm bảo sự phát triển an toàn, lành

mạnh cho hệ thống NH;

- Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2005 của Chính phủ

về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01

tháng 9 năm 1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi (sau đây gọi là Nghị định số

109/2005/NĐ-CP);

- Thông tư số 03/2006/TT-NHNN ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Ngân hàng

Nhà nước Việt Nam về việc hướng dẫn một số nội dung tại Nghị định số

89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi và Nghị định

số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số

điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP (sau đây gọi là Thông tư số 03/2006/TT-

NHNN);

- Các văn bản pháp luật khác.

2.1.2. Thực tiễn pháp luật điều chỉnh việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền

Việc tiếp cận của pháp luật hiện hành về quyền lợi NGT không quy định trực

tiếp mà nó được quy định thông qua trách nhiệm của TCTD. Bởi tư cách NGT hình

thành trên cơ sở quan hệ nhận tiền và gửi tiền giữa khách hàng và TCTD và mọi lợi

ích liên quan đến tiền gửi của NGT do TCTD là chủ thể chi phối chủ yếu. Quy định

được xem là chủ đạo làm cơ sở cho những quy định cụ thể trong việc bảo vệ quyền

lợi của NGT được thể hiện tại Điều 17 Luật Các TCTD 1997, theo đó:

Tổ chức tín dụng có trách nhiệm:

[1]. Tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi; mức bảo toàn

hoặc bảo hiểm do Chính phủ quy định;

[2]. Tạo thuận lợi cho khách hàng gửi và rút tiền theo yêu cầu; bảo

đảm trả đầy đủ, đúng hạn gốc và lãi của mọi khoản tiền gửi;

Huỳnh Anh

43

[3]. Bảo đảm bí mật số dư tiền gửi của khách hàng; từ chối việc điều

tra, phong toả, cầm giữ, trích chuyển tiền gửi mà không có sự đồng ý của

khách hàng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

[4]. Thông báo công khai mức lãi suất tiền gửi.

Để bao quát và hệ thống việc phân tích thực tiễn pháp luật về bảo vệ quyền

lợi của NGT, chúng tôi tiến hành tìm hiểu các quy định pháp luật ở các khía cạnh

sau: gửi tiền và nhận tiền gửi tại các TCTD; mở tài khoản tiền gửi và sử dụng tài

khoản; quyền định đoạt đối với tiền gửi khi tổ chức gửi tiền chấm dứt hoạt động, cá

nhân gửi tiền chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự; bảo vệ NGT khi TCTD

mất khả năng thanh toán.

2.1.2.1. Thực tiễn pháp luật về gửi tiền và nhận tiền gửi tại các tổ chức tín dụng

a) Về các loại tiền gửi

Theo quy định hiện hành, tại Khoản 2 Điều 1 Quy chế tiền gửi tiết kiệm:

“Quy chế này điều chỉnh các hoạt động nhận và chi trả tiền gửi tiết kiệm bằng đồng

Việt Nam và ngoại tệ trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam giữa tổ chức nhận tiền gửi tiết

kiệm và người gửi tiền”; Khoản 4 Điều 1 Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi

tại NHNN và TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 1284 /2002/QĐ-NHNN:

“Việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi đồng Việt nam và ngoại tệ của người không

cư trú và người cư trú phải tuân thủ theo các quy định tại Quy chế này và các quy

định hiện hành của Nhà nước về quản lý ngoại hối”; theo Khoản 11 Điều 4 Pháp

lệnh ngoại hối 2005: “Tổ chức tín dụng được phép là các ngân hàng và các tổ chức

tín dụng phi ngân hàng được hoạt động ngoại hối và cung ứng dịch vụ ngoại hối

theo quy định tại Pháp lệnh này”33

.

Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, TCTD được phép nhận tiền

gửi bằng đồng Việt Nam và cả ngoại tệ. Việc nhận tiền gửi bằng ngoại tệ chỉ áp

dụng đối với các tổ chức nhận tiền gửi được phép hoạt động ngoại hối và phải phù

hợp với quy định hiện hành của Chính phủ và NHNN về quản lý ngoại hối34

. Ngoại

tệ được hiểu là đồng tiền của quốc gia, lãnh thổ khác, đồng tiền chung Châu Âu và

đồng tiền chung khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực35

. Tiền gửi

bằng nội tệ và ngoại tệ có thể thể hiện dưới hình thức các loại giấy tờ có giá. Theo

33

Pháp lệnh này là Pháp lệnh Ngoại hối 2005.

34 Khoản 5 Điều 4 Quy chế tiền gửi tiết kiệm.

35 Nghị định số 160/2006/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh ngoại hối.

Huỳnh Anh

44

Luật Các TCTD 2010, đó là các loại giấy tờ có giá như chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu,

tín phiếu.

b) Về đối tượng gửi tiền

- NGT là cá nhân

Giao dịch về tiền gửi giữa TCTD và NGT là giao dịch dân sự. Trong đó, các

bên trong giao dịch là TCTD (bên vay) và NGT (bên cho vay). Để giao dịch có hiệu

lực thì các bên phải có năng lực chủ thể. Ở đây chúng ta quan tâm về phía chủ thể là

cá nhân gửi tiền.

Theo quy định của pháp luật dân sự, điều kiện cần để giao dịch có hiệu lực là

chủ thể tham gia phải có năng lực hành vi dân sự. Theo đó, chủ thể có năng lực

hành vi dân sự đầy đủ (từ đủ 18 tuổi và có khả năng nhận thức và điều khiển được

hành vi của mình) có thể tham gia tất cả các giao dịch dân sự. Điều kiện về năng lực

để chủ thể tham gia quan hệ nhận tiền gửi được cụ thể hóa trong quy chế tiền gửi

tiết kiệm như sau:

Chủ thể từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì được

tham gia quan hệ gửi tiền. Trong trường hợp NGT từ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi

nhưng có tài sản riêng đủ để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định

của Bộ luật Dân sự thì được thực hiện các giao dịch liên quan đến tiền gửi tiết kiệm.

Đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người hạn chế

năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật thì chỉ được thực hiện các giao

dịch liên quan đến tiền gửi tiết kiệm thông qua người giám hộ hoặc người đại diện

theo pháp luật36

.

Cá nhân gửi tiền tiết kiệm có thể là cá nhân Việt Nam hoặc cá nhân nước

ngoài đang sinh sống và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.

Đối với cá nhân gửi tiền dưới dạng mua các loại giấy tờ có giá, pháp luật có

quy định phạm vi chủ thể gửi tiền khác hơn. Theo đó, chủ thể là cá nhân gửi tiền

dưới hình thức mua các loại giấy tờ có giá gồm37

: Cá nhân Việt Nam; Người Việt

Nam định cư ở nước ngoài; Cá nhân nước ngoài hoạt động đầu tư theo quy định của

pháp luật Việt Nam, bao gồm các cá nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và

không hoạt động tại Việt Nam. Đối với người mua giấy tờ có giá là cá nhân nước

ngoài, TCTD chỉ được phát hành giấy tờ có giá ghi danh.

36

Điều 3 Quy chế về tiền gửi tiết kiệm.

37 Điều 3 Quy chế phát hành giấy tờ có giá.

Huỳnh Anh

45

Như vậy, so với cá nhân gửi tiền tiết kiệm, cá nhân gửi tiền dưới hình thức

mua giấy tờ có giá có phạm vi rộng hơn, bao gồm cả người Việt Nam định cư ở

nước ngoài, cá nhân nước ngoài hoạt động đầu tư theo quy định Việt Nam nhưng

không nhất thiết hoạt động tại Việt Nam. Nhưng đối với cá nhân người nước ngoài

thì chỉ được mua giấy tờ có giá ghi danh.

Theo quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi, mọi cá nhân Việt Nam và cá

nhân nước ngoài có năng lực pháp luật và năng lực hành vi đều có thể là chủ thể gửi

tiền. Quy chế còn xác định rõ, đối với cá nhân nước ngoài có năng lực pháp luật dân

sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật nước mà cá nhân đó là

công dân.

- NGT là tổ chức

Đối với tổ chức thì năng lực chủ thể xuất hiện đầy đủ khi tổ chức được thành

lập hoặc cho phép thành lập một cách hợp pháp. Vì vậy, kể từ thời điểm được thành

lập hợp pháp, tổ chức có thể tham gia những giao dịch được pháp luật ghi nhận.

Pháp luật ngân hàng quy định chủ thể gửi tiền là tổ chức như sau38

:

- Tổ chức không được tham gia hình thức tiền gửi tiết kiệm.

- Tồ chức gửi tiền dưới hình thức mua giấy tờ có giá, gồm: Tổ chức Việt

Nam; tổ chức nước ngoài hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam,

bao gồm các tổ chức nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và không hoạt động tại

Việt Nam. Tổ chức nước ngoài chỉ có thể mua giấy tờ có giá ghi danh do TCTD

phát hành.

- Tổ chức có thể mở tài khoản tiền gửi thanh toán gồm: TCTD nước ngoài

hoạt động tại nước ngoài; Các tổ chức Việt Nam và các tổ chức nước ngoài được

phép hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.

Như vậy, tổ chức không được gửi tiền dưới hình thức tiết kiệm, tổ chức nước

ngoài không hoạt động tại Việt Nam không mở tài khoản thanh toán tại TCTD Việt

Nam (trừ TCTD nước ngoài). Trong luận văn này, chủ thể gửi tiền mà tác giả

hướng đến không bao gồm các TCTD.

Như đã trình bày trong chương 1, đối tượng gửi tiền bao gồm các tổ chức, cá

nhân. Hầu hết các cá nhân đều có thể tham gia gửi tiền nếu có năng lực pháp luật và

năng lực hành vi theo quy định. Đối với tổ chức thì có thể gửi tiền dưới mọi hình

38

Xem Quy chế tiền gửi tiết kiệm, Quy chế phát hành giấy tờ có giá, Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền

gửi.

Huỳnh Anh

46

thức, trừ hình thức tiền gửi tiết kiệm. Riêng đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài thì

chỉ được gửi tiền dưới hình thức mua các loại giấy tờ có giá ghi danh.

Trên thực tế, có nhiều tố chức có tiền nhàn rỗi tạm thời chưa sử dụng, gửi

tiền vào TCTD với mục đích tiết kiệm, sinh lời là chủ yếu, không nhằm mục đích

thanh toán. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành không ghi nhận tổ chức là chủ thể gửi

tiết kiệm. Điều này không phù hợp với thực tế.

c. Về lãi suất tiền gửi

Thông thường các TCTD sẽ ấn định lãi suất huy động và lãi suất cho vay

trên cơ sở nhu cầu thị trường và lãi suất cơ bản do NHNN quy định.

Theo quy định hiện hành, Nhà nước điều chỉnh lãi suất huy động gián tiếp

thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay của TCTD. Nếu nhìn nhận ở góc độ

NGT, đó là điều chỉnh lãi suất cho vay của NGT cho TCTD vay. Theo đó, pháp luật

quy định lãi suất cho vay không vượt quá 150 % lãi suất cơ bản39

. Lãi suất cơ bản

được NHNN công bố định kỳ làm cơ sở cho hoạt động huy động vốn và cho vay

của TCTD. Hiện nay, lãi suất cơ bản là 8%/năm40

, tức lãi suất cho vay không được

vượt quá 12%/năm. Khi TCTD được phép cho vay với lãi suất cao, thì TCTD có thể

huy động với mức lãi suất cao và ngược lại. Tuy nhiên, hiện nay, trong nhiều trường

hợp, Chính phủ cho phép áp dụng lãi suất thỏa thuận41

, không phụ thuộc vào lãi suất

cơ bản.

Như vậy, bên cạnh việc cho phép các TCTD áp dụng cho vay theo lãi suất

thỏa thuận trong những trường hợp nhất định, Nhà nước khống chế lãi suất trần cho

vay theo lãi suất cơ bản. Trên cơ sở này, TCTD sẽ xây dựng lãi suất huy động và lãi

suất cho vay phù hợp với đơn vị mình dựa vào tình hình thị trường, khả năng cạnh

tranh,...

Đối với lãi suất tiền gửi dưới hình thức giấy tờ có giá, Nhà nước điều chỉnh

thông qua quy định lãi suất giấy tờ có giá do TCTD phát hành quy định phù hợp với

lãi suất thị trường, đảm bảo hiệu quả kinh doanh và an toàn hoạt động cho TCTD.

39

Xem: Điều 476 Bộ luật Dân sự 2005; Điều 1 Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng

nhà nước ngày 16 tháng 5 năm 2008 về cơ chế điều chỉnh lãi suất cơ bản bẳng đồng Việt Nam.

40 Quyết định số 1565/2010/QĐ-NHNN ngày 24 tháng 06 năm 2010 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước về

mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam.

41 Thông tư số 12/2010/ TT-NHNN ngày 14 tháng 4 năm 2010 hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng

đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận: “Tổ chức tín dụng thực hiện cho vay bằng đồng

Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận đối với khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của dự án, phương án sản

xuất, kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển và đời sống có hiệu quả”.

Huỳnh Anh

47

Song song với quy định này là quy định về lãi suất chiết khấu các loại giấy tờ có

giá.

Trong điều kiện nền kinh tế lạm phát cao, với mức lãi suất thấp, NGT thực

sự không có lãi, thậm chí lãi âm42

. Hiện nay, dù khủng hoảng kinh tế đã qua, nhưng

tình hình kinh tế vẫn còn biến động, lạm phát vẫn còn cao43

nên lãi suất thực của

tiền gửi rất thấp, trong khi giá tiêu dùng cứ tăng cao44

. Điều này khiến cho một bộ

phận dân cư tích trữ vàng tại nhà mà không gửi tiền vào các TCTD. Theo nhận định

của Hiệp hội kinh doanh vàng Việt Nam, lượng vàng trong dân đang ở mức quá

lớn45

, điều này cho thấy người dân ngày càng có xu hướng tích trữ vàng tại nhà. Do

đó ảnh hưởng lớn đến việc huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư.

Mặt khác, như đã trình bày, trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành, các

TCTD xây dựng mức lãi suất huy động riêng cho đơn vị mình. Trong quá trình đó,

để đảm bảo có lời cũng như nhằm tăng tính cạnh tranh giữa các TCTD, nên các

TCTD áp dụng mức lãi suất tự điều chỉnh tăng rất linh động. Nếu theo hợp đồng

nhận tiền gửi trước đây thông thường là lãi suất cố định, không thay đổi trong suốt

thời gian gửi tiền, thì với lãi suất tự điều chỉnh tăng, lãi suất trong hợp đồng sẽ thay

đổi tăng theo từng thời kỳ, phụ thuộc vào sự tăng giảm lãi suất của đơn vị nhận tiền

gửi, theo sự tăng giảm của lãi suất thị trường. Tuy nhiên, nếu lãi suất thị trường

giảm thì không áp dụng giảm lãi suất đối với NGT.

Trên thực tế, đa số NGT không thể nắm được sự điều chỉnh của lãi suất đó

đối với tiền gửi của mình mà sẽ do TCTD tự áp dụng, tính toán. Các trang web của

các TCTD cũng chỉ đưa lãi suất huy động chung cho các loại tiền gửi vào thời điểm

hiện tại. Sự điều chỉnh lãi suất đối với những hợp đồng gửi tiền cụ thể không được

TCTD thông tin đến NGT. NGT cũng không biết cách tính lãi trong quá trình lãi

suất thay đổi được thực hiện như thế nào, mức lãi suất cụ thể áp dụng trong khoản

thời gian khác nhau trong quá trình gửi tiền là bao nhiêu. Vì vậy, NGT không có

42

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vào 2008 khiến cho lạm phát ở Việt Nam lên rất cao, lên đến

19,89%, với mức lạm phát này, lãi suất thực của NGT lúc bấy giờ là lãi suất âm (Xem tại:

“http://baodientu.chinhphu.vn/Home/Lam-phat-trong-tam-kiem-soat/20103/28146.vgp).

43 Theo các chuyên gia cảnh báo thì lạm phát năm 2010 vẫn có thể lên cao đến 2 con số nếu chúng ta không

có hướng đi hợp lí (xem tại: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Vietnam-going-to-cope-with-2-digits-

inflation-in-this-year-MLam-03012010133411.html).

44 Theo báo cáo của Tổng Cục Thống kê thì chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2010 tăng 1,31% so với tháng

trước. Đây là mức tăng cao nhất trong sáu tháng qua kể từ tháng 3/2010 với mức tăng trên 1%, CPI bình quân

của cả nước 9 tháng đầu năm 2010 so với cùng kỳ năm 2009 đã tăng 8,64%.

45 Xem tại: http://vietnamnet.vn/kinhte/2008/05/783737/

Huỳnh Anh

48

điều kiện kiểm tra, theo dõi tiền lãi của mình được tính toán có chính xác hay

không, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.

d) Về chính sách ưu đãi trong huy động tiền gửi

- Về hình thức khuyến mại

Theo quy định pháp luật hiện hành, TCTD có thể thực hiện những chính sách

ưu đãi để thu hút khách hàng trong quá trình huy động vốn. TCTD có thể thực hiện

các chương trình khuyến mại theo đặc thù của lĩnh vực mình trên cơ sở quy định

chung của pháp luật thương mại. Theo quy định của Luật Thương mại 2005, thương

nhân có thể thực hiện các hình thức khuyến mại để thu hút khách hàng như: Tặng

hàng hoá cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền; Bán hàng, cung ứng

dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ để khách hàng được

hưởng một hay một số lợi ích nhất định...46

Trên thực tế, các TCTD đưa ra những hình thức khuyến mại với các chính

sách ưu đãi phong phú như: quà tặng cho khách hàng, quay số trúng thưởng, thưởng

lãi suất... Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, khi nhu cầu nguồn vốn của các TCTD

tăng cao, các TCTD đã đưa ra những hình thức khuyến mại là gửi tiền được trả lãi

trước. Đồng thời việc khuyến mại này được thực hiện theo cách thoả thuận với từng

khách hàng cụ thể, không có sự công khai đối với tất cả các khách hàng cũng như

đối với các TCTD khác. Đây là biểu hiện của sự cạnh tranh không lành mạnh. Đồng

thời, điều này không phù hợp với nguyên tắc khuyến mại là nguyên tắc “công khai,

minh bạch” và nguyên tắc “Không được phân biệt đối xử giữa các khách hàng tham

gia chương trình khuyến mại trong cùng một chương trình khuyến mại”. Hiện nay,

một số NH đã đưa hình thức khuyến mại này lên trang web của mình như NH SHB,

NH Thương mại Cổ phần xăng dầu Petrolimex (PG bank), NH Đại Dương

(Oceanbank), NH Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank),...

Tuy nhiên, về ảnh hưởng và tính hợp pháp của hình thức khuyến mại này,

nhận thấy theo quy định hiện hành, hình thức gửi tiền trả lãi trước không thuộc hình

thức nào trong các hình thức khuyến mại mà Luật Thương mại đã đưa ra. Mặt khác,

khi áp dụng hình thức này, các TCTD có thể dễ dàng nâng lãi suất huy động thực

lên, dẫn đến trường hợp chạy đua lãi suất giữa các NH. Từ đó, đẩy lãi suất cho vay

lên cao, đặc biệt trong điều kiện Chính phủ mở rộng việc cho vay theo lãi suất thỏa

thuận như hiện nay thì NH không bị khống chế lãi suất cho vay trong nhiều trường

hợp. Hệ quả là các doanh nghiệp có thể không vay được vốn do lãi cao sẽ ảnh

46

Xem Điều 92 Luật Thương mại 2005

Huỳnh Anh

49

hưởng đến sự phát triển kinh tế. Và khi đó, vai trò điều chỉnh của lãi suất cơ bản

cũng không còn ý nghĩa.

- Về cung cấp thông tin trong khuyến mại

Hiện nay, các TCTD thường có những hình thức gửi tiền với những ưu đãi

kèm theo. Trong một số trường hợp, sự không minh bạch thông tin đã ảnh hưởng

đến quyền lợi NGT. Chẳng hạn, trong chính sách ưu đãi của một số NH có nội dung

gửi tiết kiệm có kỳ hạn kèm theo ưu đãi là được quay số trúng thưởng. Theo đó,

khách hàng sẽ không được rút vốn trước hạn đối với loại tiền gửi này, nếu khách

hàng rút trước hạn thì sẽ tính theo lãi suất không kỳ hạn. Tuy nhiên, để đạt mục đích

thuyết phục được khách hàng gửi tiền, trong quá trình nhân viên hướng dẫn khách

hàng đã không nói rõ với khách hàng điều này. Và trong giấy chứng nhận tiền gửi

cũng không có ghi nội dung này. Vì vậy, có nhiều khách hàng đã không biết và khi

họ có nhu cầu thì đến rút vốn trước hạn, lúc bấy giờ mới biết là không thể rút.

Trong khi đó, các hình thức gửi tiền có kỳ hạn khác thì có thể rút vốn trước hạn và

lãi suất được tính theo lãi suất có kỳ hạn đối với khoản thời gian gửi tiền đạt kỳ hạn

nhất định như 3 tháng, 6 tháng,... Rõ ràng, TCTD đã cố ý không minh bạch khi

thông tin cho khách hàng trong quá trình nhận tiền gửi, khiến cho khách hàng ngộ

nhận sẽ được rút vốn trước hạn theo thông lệ của TCTD, từ đó họ mang tiền đến gửi

tại TCTD. Đến khi NGT có nhu cầu rút vốn trước hạn thì không được đảm bảo

quyền lợi thỏa đáng. Điều này trái với nguyên tắc: “Không được lợi dụng lòng tin

và sự thiếu hiểu biết, thiếu kinh nghiệm của khách hàng để thực hiện khuyến mại

nhằm phục vụ cho mục đích riêng của bất kỳ thương nhân, tổ chức hoặc cá nhân

nào”47

.

2.1.2.2. Thực tiễn pháp luật về mở tài khoản tiền gửi và sử dụng tài khoản

a) Về rút vốn trước hạn

Theo pháp luật hiện hành, để tạo thuận lợi cho khách hàng khi gửi tiền tại

TCTD dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn nhưng có nhu cầu vốn tức thời, luật có quy

định trường hợp khách hàng được quyền rút vốn trước hạn. Theo đó, nếu khách

hàng có thỏa thuận trước với tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm và thông báo yêu cầu

rút trước hạn đúng thời gian quy định của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm thì khách

hàng đương nhiên được rút vốn trước hạn mà không phải trả phí. Trong trường hợp

khách hàng không có thỏa thuận trước với tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm thì nếu tổ

47

Xem Khoản 5 Điều 4 Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định chi

tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại.

Huỳnh Anh

50

chức này đồng ý, khách hàng có thể rút vốn trước hạn nhưng phải chịu phí đối với

khoản tiền gửi tiết kiệm rút trước hạn48

. Trong các văn bản quy phạm pháp luật

khác điều chỉnh liên quan đến việc sử dụng tiền gửi không tìm thấy quy định về vấn

để rút vốn trước hạn49

.

Như vậy, về hình thức tiền gửi được rút trước hạn, pháp luật hiện hành chỉ

quy định về quyền rút vốn trước hạn đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Đối với

loại tiền gửi có kỳ hạn thông thường (tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp) thì

không có quy định này. Tuy nhiên, thực tiễn thì các TCTD vẫn áp dụng quy định

của Quy chế để áp dụng đối với vấn đề rút vốn trước hạn của hình thức tiền gửi này.

Bên cạnh đó, về chủ thể rút vốn trước hạn, khách hàng gửi tiền có quyền rút

vốn trước hạn theo Quy chế tiền gửi tiết kiệm. Theo đó, NGT được quy định trong

quy chế này chỉ gồm cá nhân (cá nhân Việt Nam hoặc nước ngoài). Pháp luật hiện

hành không ghi nhận quyền rút vốn trước hạn đối với NGT là tổ chức. Trên thực tế,

có những tổ chức có lượng tiền nhàn rỗi đem gửi tại TCTD, trong đó có gửi dưới

hình thức tiền gửi có kỳ hạn; ngoài ra, doanh nghiệp cũng có những khoản tiền tạm

thời nhàn rỗi, có thể gửi dưới dạng có kỳ hạn, nhưng pháp luật không quy định việc

rút vốn trước hạn đối với NGT trong trường hợp này. Thực tiễn áp dụng, các TCTD

đều cho phép các đối tượng này rút vốn trước hạn tương tự như NGT là cá nhân gửi

tiết kiệm.

Ngoài ra, với quy định của pháp luật hiện hành, NGT được phép rút vốn

trước hạn với điều kiện có thỏa thuận trước với tổ chức nhận tiền gửi khi gửi tiền và

phải đảm bảo thời gian báo trước. Nếu không có những điều kiện trên thì TCTD vẫn

có thể cho phép khách hàng rút vốn trước hạn và có quyền thu phí. Trên thực tế, các

TCTD vẫn cho phép NGT rút vốn trước hạn không cần những điều kiện trên, thậm

chí không thu phí rút trước hạn. Ở góc độ này, ta nhận thấy NGT được lợi. Tuy

nhiên, cũng từ quy định trên, nếu khách hàng không có thỏa thuận trước với tổ chức

nhận tiền gửi về vấn đề rút vốn trước hạn thì việc cho phép rút vốn trước hạn hay

không hoàn toàn phụ thuộc vào tổ chức nhận tiền gửi. Hiện nay, khi khách hàng đến

gửi tiền, các tổ chức nhận tiền gửi thường không có văn bản thỏa thuận với khách

hàng về vấn đề rút vốn trước hạn. Trong khi đó, các nhân viên TCTD luôn giải

thích theo chủ trương thực tế của TCTD là trong trường hợp gửi tiền có kỳ hạn,

khách hàng đều có quyền rút vốn trước hạn. Thậm chí ở một số TCTD, dù rút vốn

48

Xem Quy chế tiền gửi tiết kiệm.

49 Gồm các văn bản như: Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi; Nghị định số 64/2001/NĐ-CP.

Huỳnh Anh

51

trước hạn, khách hàng vẫn được tính lãi suất theo tiền gửi có kỳ hạn nếu thời gian

gửi đạt đến kỳ hạn nhất định. Tuy vậy, một khi TCTD không cho rút vốn trước hạn

thì khách hàng gửi tiền sẽ thiếu chứng cứ chắc chắn để yêu cầu TCTD thực hiện

theo tư vấn ban đầu (hưởng lãi suất như đã thỏa thuận) cũng như yêu cầu TCTD bồi

thường thiệt hại (nếu có) do không thể rút tiền để phục vụ cho các mục đích khác

nhau của khách hàng như đã dự tính.

Như vậy, để thu hút khách hàng, các tổ chức nhận tiền gửi đã làm cho khách

hàng gửi tiền tin rằng họ hoàn toàn có thể rút vốn trước hạn đối với những khoản

tiền gửi có thời hạn vào thời điểm họ muốn thông qua tư vấn của nhân viên ngân

hàng. Và với mức lãi suất có kỳ hạn là lãi suất cao, các khách hàng sẽ dễ dàng chọn

hình thức gửi tiền này để gửi tiền tại các TCTD. Thế nhưng, khi có sự tranh chấp về

vấn đề rút vốn trước hạn xảy ra, họ lại là người thua thiệt hơn so với TCTD.

b) Quy định về phong tỏa tài khoản

Về nguyên tắc, tổ chức nhận tiền gửi không được phép tự ý phong tỏa tài

khoản tiền gửi khách hàng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp luật định, để đảm

bảo quyền lợi của các chủ thể liên quan, quyền lợi chung của xã hội, tổ chức nhận

tiền gửi vẫn có thể thực hiện phong tỏa, trích chuyển tài khoản NGT mà không cần

có sự đồng ý của họ.

Các TCTD có thể phong tỏa tài khoản khách hàng trong trường hợp50

:

a) Khi có thoả thuận giữa chủ tài khoản và tổ chức cung ứng dịch vụ

thanh toán;

b) Khi có quyết định hoặc yêu cầu bằng văn bản của người có thẩm

quyền theo quy định của pháp luật;

c) Các trường hợp khác do pháp luật quy định;

Như vậy, trong trường hợp không có thỏa thuận với khách hàng, trong một

số trường hợp luật định, cơ quan có thẩm quyền có quyền yêu cầu TCTD phong tỏa

tài khoản hoặc trích chuyển tài khoản hoặc chuyển tài khoản để nộp thuế, nộp phạt,

trả nợ, tránh tẩu tán tài sản… Chẳng hạn cơ quan quản lý thuế yêu cầu phong tỏa tài

khoản, trích tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính

thuế và chuyển sang tài khoản ngân sách nhà nước tại Kho bạc Nhà nước trên cơ sở

quyết định của cơ quan thuế; hoặc cơ quan khác như Tòa án áp dụng biện pháp

khẩn cấp tạm thời có quyền phong toả tài khoản tại NH, TCTD khác; cơ quan thi

50

Khoản 1 Điều 9 Nghị định số 64/2001/NĐ-CP.

Huỳnh Anh

52

hành án trong quá trình thi hành án có quyền yêu cầu phong tỏa tài khoản của khách

hàng là người phải thi hành án nhằm tránh việc tẩu tán tài sản, các cơ quan điều tra

có quyền yêu cầu phong tỏa tài khoản khách hàng trong quá trình điều tra như để

phòng chống tham nhũng, chống rửa tiền…51

Trong những trường hợp NH cho là cần thiết phải phong tỏa tài khoản của

khách hàng để bảo vệ lợi ích chính đáng cho mình đã không được pháp luật ghi

nhận cụ thể. Theo quy định pháp luật hiện hành, NH có quyền phong tỏa tài khoản

khách hàng trong các trường hợp được quy định tại Điều 9 Nghị định số 64

/2001/NĐ-CP “Khi có thoả thuận giữa chủ tài khoản và tổ chức cung ứng dịch vụ

thanh toán; Khi có quyết định hoặc yêu cầu bằng văn bản của người có thẩm quyền

theo quy định của pháp luật; Các trường hợp khác do pháp luật quy định”. Theo

đó, pháp luật không ghi nhận quyền của NH được quyền phong tỏa tài khoản khách

hàng nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng cho mình. Song, trên thực tế một số TCTD

vẫn tự quy định quyền này. Điều đó dẫn đến các TCTD tự đặt ra những trường hợp

phong tỏa tài khoản để bảo vệ quyền lợi cho mình ở các TCTD khác nhau là khác

nhau, đôi khi không chính đáng sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi NGT. Những quy định

này thường không được phổ biến cụ thể cho khách hàng, trừ một số ít NH52

.Chẳng

hạn, qua thăm dò một số NH cho thấy nhiều trường hợp NH quyết định phong tỏa

tài khoản không dựa trên một quy định cụ thể nào mà khi xét thấy có thể ảnh hưởng

đến quyền lợi của NH thì quyết định phong tỏa tài khoản khách hàng gửi tiền. Đồng

thời, các NH thường không công bố công khai các quy định này. Qua khảo sát các

trang web của một số NH như NH Sài gòn Thương tín (Sacombank), NH Thương

mại Cổ phần Kỹ thương (Techcombank), NH Nông nghiệp và Phát triển nông

(Agribank), NH Ngoại thương (Vietcombank), NH Á Châu (ACB), NH Đông Á

(Dongabank), NH Thương mại Cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB)..., nhận thấy chỉ

có Vietcombank đưa thông tin về trường hợp NH được quyền phong tỏa tài khoản

khách hàng53

.

c) Quy định về đóng tài khoản

51

Xem: Luật quản lí thuế 2006; Bộ luật TTDS 2004; Luật Thi hành án dân sự 2008; Pháp lệnh về Tổ chức

điều tra hình sự; Nghị định 74/2005/NĐ-CP ngày 7 tháng 6 năm 2005 về phòng chống rửa tiền.

52 Xem tại:

http://www.vietcombank.com.vn/Corporates/Documents/Giay%20de%20nghi%20mo%20tai%20khoan.pdf.

53 Theo quy định mở và sử dụng tài khoản tại Ngân hàng ngoại thương: “Ngân hàng có quyền phong tỏa

phần số dư tương đương với tài khoản ghi có vào tài khoản trước đó khi phát hiện tin trên lệnh chuyển tiền

về người hưởng khoản tiền ghi có mâu thuẫn, chưa rõ ràng hoặc ngân hàng trả tiền có yêu cầu trả tiền lại”

(xem tại:

http://www.vietcombank.com.vn/Corporates/Documents/Giay%20de%20nghi%20mo%20tai%20khoan.pdf)

Huỳnh Anh

53

Đóng tài khoản là việc NH đóng hồ sơ tài khoản, số tài khoản đã bị đóng có

thể sử dụng để đăng ký cho khách hàng khác. Theo Nghị định số 64/2001/NĐ-CP

về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, tại Khoản 1,

Khoản 2 Điều 10 quy định:

1) Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đóng tài khoản thanh toán trong

các trường hợp sau:

a) Khi chủ tài khoản yêu cầu;

b) Khi cá nhân có tài khoản bị chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi

dân sự;

c) Khi tổ chức có tài khoản chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp

luật.

2. Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được quyền quyết định việc đóng

tài khoản khi chủ tài khoản vi phạm pháp luật trong thanh toán hoặc vi

phạm thoả thuận với tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; hoặc khi tài

khoản có số dư thấp và không hoạt động trong thời hạn nhất định theo

quy định của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.

Trong khi đó, Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi ban hành kèm theo

Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN lại quy định: NH chỉ được đóng tài khoản tiền

gửi của khách hàng theo các trường hợp quy định tại Khoản 1, Điều 10, Nghị định

số 64/2001/NĐ-CP. Như vậy, ở đây có sự mâu thuẫn giữa hai văn bản quy phạm

pháp luật trong việc áp dụng Khoản 2 Điều 10 Nghị định số 64/2001/NĐ-CP. Tuy

vậy, căn cứ vào thẩm quyền ban hành thì sẽ ưu tiên áp dụng Nghị định số

64/2001/NĐ-CP.

Xét nội dung quy định tại Khoản 2 Nghị định số 64/2001/NĐ-CP, việc NH

đóng tài khoản của khách hàng khi “tài khoản có số dư thấp và không hoạt động

trong thời hạn nhất định theo quy định của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán”

cũng phù hợp cho việc quản lý tài khoản khách hàng, nhưng với quy định này thì

thời gian và số dư thấp lại do NH đặt để, ảnh hưởng đến quyền lợi của khách

hàng54

. Mặt khác, “khi chủ tài khoản vi phạm pháp luật trong thanh toán hoặc vi

phạm thoả thuận với tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán”. Việc vi phạm này có

nhiều mức độ khác nhau, vì vậy, quy định này sẽ dẫn đến việc NH dễ dàng đóng tài

54

Theo Quy định về mở và sử dụng tài khoản tại NH Ngoại thương thì NH sẽ đóng tài khoản khách hàng khi

tài khoản không còn số dư và không hoạt động trong 12 tháng liên tục. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài

gòn không đóng tài khoản khách hàng mà chuyển sang dạng tài khoản treo để thuận tiện theo dõi.

Huỳnh Anh

54

khoản khách hàng vì những lý do trên, có thể có những trường hợp không chính

đáng, xâm hại đến quyền lợi khách hàng.

d) Về hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán của ngân hàng

NH có thể cung ứng dịch vụ thanh toán dưới dạng các thể thức như thanh

toán bằng séc, thanh toán bằng lệnh chi hoặc ủy nhiệm chi, thanh toán bằng nhờ thu

hoặc ủy nhiệm thu, thanh toán bằng thẻ NH, thanh toán bằng thư tín dụng... Thanh

toán bằng lệnh chi hoặc ủy nhiệm chi là thể thức phổ biến, được áp dụng cho thanh

toán tiền, hàng hóa hoặc chuyển tiền của người sử dụng dịch vụ thanh toán trong

cùng một tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoặc giữa các tổ chức cung ứng dịch

vụ thanh toán. Thực tiễn có một số vấn đề phát sinh từ việc NH cung cấp dịch vụ

này cho khách hàng.

Thời gian qua, vì nhiều lý do khác nhau, NH đã chuyển nhầm tiền cho khách

hàng, có thể nhầm số tiền hoặc nhầm người thụ hưởng. Theo quy định tại Khoản 3

Điều 27 quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

ban hành kèm theo Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26 tháng 03 năm

2002 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Quy chế thanh

toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán), khách hàng có quyền “Khiếu nại

và đòi bồi thường thiệt hại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán khi tổ chức cung

ứng dịch vụ thanh toán: thực hiện giao dịch thanh toán chậm so với thoả thuận;

không thực hiện giao dịch thanh toán hoặc thực hiện giao dịch thanh toán không

đúng số tiền, người được thụ hưởng theo yêu cầu của lệnh thanh toán đó;…”. Cơ

chế xác định bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 29 Quy chế này, theo đó tổ

chức cung ứng dịch vụ thanh toán chỉ bồi thường thiệt hại do lỗi của tổ chức cung

ứng dịch vụ thanh toán. Như vậy, trong trường hợp chuyển nhầm tiền, khách hàng

có quyền khiếu nại và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu do lỗi của tổ chức cung ứng

dịch vụ thanh toán. Tuy nhiên, trên thực tế, đã xuất hiện trường hợp NH cấp thông

tin không chính xác và khách hàng tin vào thông tin này nên đã thực hiện giao dịch

và gây thiệt hại55

thì ai là người có lỗi, ai sẽ gánh chịu thiệt hại, khách hàng hay

NH? Pháp luật đã chưa dự liệu đến trường hợp này.

Ngoài ra, hiện nay, việc NH chuyển tiền cho khách hàng, nhiều trường hợp

NH “ngâm” tiền của khách hàng mà không chuyển ngay cho đối tượng thụ hưởng.

Điều này không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của người thụ hưởng mà cả quyền lợi

55

Chẳng hạn, trường hợp chuyển tiền nhầm do khách hàng không nhớ số tài khoản của người thụ hưởng nên

đã nhờ nhân viên NH kiểm tra hộ thông qua tên người thụ hưởng, từ chỗ tin tưởng vào thông tin NH cung

cấp, khách hàng đã đồng ý thực hiện giao dịch, từ đó dẫn đến việc chuyển tiền nhầm chủ thể.

Huỳnh Anh

55

của khách hàng chuyển tiền. Người thụ hưởng cần tiền nhưng không nhận được

đúng thời hạn, ảnh hưởng đến kế hoạch chi tiêu hoặc kinh doanh của họ; người

chuyển tiền bị mất uy tín, đôi khi bị mất đối tác kinh doanh vì “không thanh toán

đúng hạn”,... Theo quy định hiện hành, NH có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho

khách hàng theo mức phạt chậm trả tối đa bằng mức lãi suất qua hạn loại cho vay

cao nhất tại NH vi phạm56

. Với chế tài quy định như hiện nay, việc các TCTD vi

phạm trong việc thực hiện chuyển tiền vẫn còn phổ biến. Quyền lợi NGT chưa được

đảm bảo.

Một thực tiễn khác là khi việc chuyển nhầm tiền xảy ra, thông thường nhân

viên NH đã thực hiện việc chuyền nhầm tiền đều tự ý đi liên hệ trước với khách

hàng để “xin” lại số tiền đó. Nếu số tiền không lớn và họ không thể liên lạc với

người được chuyển nhầm hoặc gặp khó khăn khác dẫn đến không thu hồi được, các

nhân viên thường tự bù tiền của cá nhân vào để tránh bị kỷ luật, trừ lương... Song,

cũng có nhiều trường hợp, vì nóng lòng muốn thu lại số tiền đã chuyển nhầm, đặc

biệt là khi chuyển nhầm số tiền lớn, nhân viên NH đã gây phiền hà cho người bị

chuyển tiền nhầm. Chẳng hạn, trường hợp chuyển nhầm tiền của NH Nông nghiệp

và Phát triển Nông thôn chi nhánh Đà Nẳng như đã nêu, sau khi chuyển nhầm tiền,

nhân viên NH đã vội vàng đến thương lượng với khách hàng được chuyển nhầm

nhhưng không mang theo thẻ nhân viên, sau đó đã cho rằng người được chuyển

nhầm không đồng ý trả tiền và báo công an can thiệp. Điều này ảnh hưởng đến uy

tín, danh dự của người được chuyển tiền nhầm, đồng thời gây những rắc rối cho

NGT.

2.1.2.3. Thực tiễn pháp luật về quyền định đoạt đối với tiền gửi khi tổ chức gửi tiền

chấm dứt hoạt động, cá nhân gửi tiền chết, mất tích, mất năng lực hành vi

dân sự

Theo pháp luật hiện hành, khi chủ tài khoản (cá nhân, tổ chức) tiền gửi tại

TCTD chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, chấm dứt hoạt động, TCTD sẽ

đóng tài khoản và sẽ thực hiện theo quy định của pháp luật về thừa kế, giám hộ đối

với cá nhân, cũng như thực hiện thanh toán tài sản theo quy định khi tổ chức chấm

dứt hoạt động.

56

Xem Điều 29 Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26 tháng 03 năm 2002 của Thống đốc Ngân hàng

nhà nước Việt Nam về việc ban hành quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh

toán.

Huỳnh Anh

56

a) Thực tiễn pháp luật về quyền định đoạt đối với tiền gửi khi cá nhân

gửi tiền chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự

Trong thực tế có nhiều trường hợp cá nhân gửi tiền, vàng hoặc sở hữu giấy tờ

có giá do NH, TCTD phát hành nhằm huy động vốn, gọi chung là tiền gửi tại TCTD

chết. Từ đó phát sinh vấn đề thừa kế tài sản này. Theo đó, phần di sản này sẽ được

chia theo quy định pháp luật hoặc theo di chúc sau khi đã thanh toán các khoản nợ

do người chết để lại.

Theo quy định hiện hành, TCTD được xem là chủ thể được quyền tạm thời

quản lý di sản và có trách nhiệm giao lại cho người quản lý di sản theo di chúc chỉ

định hoặc cho người quản lý do những người thừa kế cử ra. Người này sẽ đại diện

để nhận phần di sản gửi tại TCTD57

.

Pháp luật không quy định cụ thể các loại giấy tờ cần thiết khi khách hàng đến

TCTD nhận tiền gửi thừa kế. Thực tiễn, để xác định tư cách người thừa kế, TCTD

yêu cầu những người thừa kế xuất trình các loại giấy tờ cần thiết sau: đơn xin lĩnh

tiền, giấy chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu, bản di chúc hợp pháp (nếu có) hoặc

văn bản khai nhận di sản, giấy chứng tử của người để lại di sản (chủ tài khoản), giấy

ủy quyền của những người thừa kế khác có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền

hoặc công chứng (trong trường hợp có nhiều người thừa kế)… và có thể có những

giấy tờ khác tùy từng trường hợp cụ thể. Vd: giấy chứng nhận đăng ký kết hôn của

vợ chồng hoặc giấy tờ khác tương đương. Thường TCTD sẽ giao cho một người

được ủy quyền duy nhất trên cơ sở giấy ủy quyền hoặc hợp đồng ủy quyền.

Trong trường hợp có tranh chấp về di sản thừa kế, trong đó bao gồm cả phần

tiền gửi tại các TCTD. Khi đó, tòa án sẽ xác định phần di sản mà những người thừa

kế được hưởng, bao gồm cả phần tiền gửi nói trên. Trên cơ sở này, NH sẽ thực hiện

việc chuyển giao tiền gửi cho những người được chỉ định trong bản án.

Bên cạnh đó, theo quy định của pháp luật hiện hành, NGT chỉ được phép rút

trước hạn nếu có thỏa thuận với tổ chức nhận tiền gửi hoặc được tổ chức nhận tiền

gửi đồng ý trong trường hợp không có thỏa thuận. Mặc dù hiện nay đa số các TCTD

đều cho phép NGT rút trước hạn đối với những khoản tiền gửi có kỳ hạn, tuy nhiên

trong trường hợp khách hàng đã thỏa thuận rõ với TCTD là không được phép rút

trước hạn thì NGT sẽ không thể rút trước hạn. Như vậy, về nguyên tắc, những

người thừa kế của NGT cũng không thể rút trước hạn số tiền này để chia di sản thừa

kế khi NGT chết. Tuy nhiên, pháp luật cũng có quy định, TCTD đóng tài khoản của

57

Xem Khoản 2 Điều 638 Bộ luật Dân sự 2005.

Huỳnh Anh

57

khách hàng khi khách hàng gửi tiền chết. Vậy điều đó có được mặc nhiên hiểu là

những người thừa kế có thể rút khoản tiền này nếu họ xuất trình đầy đủ những giấy

tờ cần thiết, ngay cả tài khoản thuộc dạng không được rút trước hạn nói trên hay

không? Hơn nữa, nếu được phép rút thì quyền lợi của họ đối với khoản tiền này

được tính toán như thế nào (về cách tính lãi suất).

Thực tiễn vận dụng quy định trên của các TCTD hiện nay là đối với những

khoản tiền gửi không được phép rút vốn trước hạn như trường hợp nêu trên thì

TCTD sẽ đóng tài khoản của NGT đã chết, cùng thời điểm đó là việc mở tài khoản

mới đứng tên người thừa kế hoặc đại diện người thừa kế hoặc người được chỉ định

trong di chúc hoặc theo bản án. Số tiền này chỉ được người thừa kế rút ra khi đến

ngày đáo hạn58

. Điều này phù hợp với nguyên tắc bình đẳng về sự thỏa thuận giữa

TCTD và NGT, cũng như phù hợp với nguyên tắc thừa kế bao gồm thừa kế cả

quyền và nghĩa vụ. Tuy vậy, khi NGT chết, có thể có những lý do khách quan mà

người thừa kế cần rút vốn trước hạn. Chẳng hạn, trong trường hợp di sản thừa kế

còn bao gồm nhiều tài sản khác hoặc số người thừa kế đông thì việc không thể rút

tiền gửi để chia di sản thừa kế có thể dẫn đến những mâu thuẫn, tranh chấp giữa

những người thừa kế sau này do việc chia di sản thừa kế bị kéo dài. Ngoài ra, những

người thừa kế cần sử dụng số tiền này để chi trả những chi phí cho người chết như

tiền mai táng, thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại như cấp dưỡng, trợ cấp cho

người sống nương nhờ, trả nợ ...

Mặt khác, đối với khoản tiền gửi không được rút vốn trước hạn, nếu không

thể rút vốn trước hạn khi NGT chết thì sẽ dẫn đến một số bất cập. Theo quy định tại

Điều 645 Bộ luật Dân sự 2005 “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực

hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa

kế”. Như vậy, nếu khoản thời gian từ thời điểm người để lại di sản chết (thời điểm

mở thừa kế) đến ngày đáo hạn hợp đồng gửi tiền là trên 3 năm (do thời hạn hợp

đồng gửi tiền có thể đến 5 năm) dẫn đến hết thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực

hiện nghĩa vụ của người chết. Điều này vô hình chung “buộc” chủ nợ phải khởi kiện

yêu cầu người thừa kế trả nợ vì sợ hết thời hạn khởi kiện sẽ khó đòi được nợ.

b) Thực tiễn pháp luật về quyền định đoạt đối với tiền gửi khi tổ chức gửi

tiền chấm dứt hoạt động

Một tổ chức có thể chấm dứt hoạt động trong trường hợp hợp nhất, sáp

nhập, chia, giải thể, phá sản. Trong trường hợp tổ chức chấm dứt hoạt động có 58

Qua khảo sát thực tế, một số TCTD quy định cho phép rút vốn trước hạn trong trường hợp bất khả kháng

như thiên tai, tang chế,...và sẽ tính lãi suất không kỳ hạn.

Huỳnh Anh

58

tiền gửi tại TCTD thì theo quy định hiện hành, tổ chức nhận tiền gửi sẽ đóng tài

khoản tiền gửi của tổ chức.

Đối với tổ chức chấm dứt hoạt động do hợp nhất, sáp nhập, chia thì quyền và

nghĩa vụ có thể được kế thừa, khi đó việc chuyển giao phần tiền gửi tại tổ chức

nhận tiền gửi có thể thực hiện được dễ dàng. Tuy nhiên, trong trường hợp doanh

nghiệp không đạt được mục đích kinh doanh dẫn đến giải thể hoặc thua lỗ trong

kinh doanh dẫn đến phá sản. Khi đó, doanh nghiệp phải dùng tài sản để chi trả cho

chủ nợ theo quy định về giải thể, phá sản doanh nghiệp. Các hợp đồng chưa đến hạn

cũng được xem đến hạn và thanh lý. Như vậy, phần tiền gửi tại tổ chức nhận tiền

gửi dưới hình thức tiền gửi không được rút trước hạn cũng phải được đóng lại và tất

toán.

Ngoài ra, đối với vấn đề phá sản doanh nghiệp, theo quy định của pháp luật

phá sản, trong quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp, pháp luật có quy định về

việc thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản59

, theo đó tại Khoản 5 Điều 20 Nghị định

76/2006/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2006 của Chính phủ hướng dẫn việc áp dụng

Luật phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức hoạt động của Tổ quản lý,

thanh lý tài sản (sau đây gọi là Nghị định số 76/2006/NĐ-CP) có quy định “Tổ quản

lý, thanh lý tài sản mở tài khoản riêng để phục vụ cho việc quản lý, thanh lý tài sản

phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.” Mục đích của

việc mở tài khoản nhằm để gửi các khoản tiền thu được từ những người mắc nợ và

từ việc bán đấu giá các tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục

thanh lý tài sản trong trường hợp cần thiết. Việc mở tài khoản này sẽ do Tổ trưởng

Tổ quản lý, thanh lý thực hiện và đứng tên tài khoản tiền gửi60

.

Sau khi thanh lý tài sản, nếu tài sản vẫn còn thì thuộc về xã viên hợp tác xã,

chủ doanh nghiệp tư nhân, các thành viên của công ty, các cổ đông của công ty cổ

phần, chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước (gọi chung là chủ sở hữu doanh nghiệp,

thành viên của doanh nghiệp). Các thành viên của công ty sẽ nhận được phần tài sản

còn lại tương ứng với phần vốn góp61

. Như vậy, trong trường hợp đã hoàn tất việc

chi trả các khoản nợ cho chủ nợ của doanh nghiệp bị phá sản thì Tổ quản lý, thanh

lý tài sản này có trách nhiệm giao lại phần tài sản cho chủ doanh nghiệp, cho các

thành viên của doanh nghiệp. Khi đó, đối với phần tài sản mở tại TCTD trong quá

59

Điều 9 Luật Phá sản 2004.

60 Điểm g Khoản 2 Điều 26 Nghị định số 76/2006/NĐ-CP.

61 Xem Khoản 2 Điều 37, Điểm đ Khoản 1 Điều 41, Điểm g Khoản 1 Điều 134, Điểm g Khoản 1 Điều 140

Luật Doanh nghiệp 2005.

Huỳnh Anh

59

trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp được pháp luật quy định, Tổ trưởng tổ thanh

lý tài sản có trách nhiệm “Đóng tài khoản khi có quyết định giải thể Tổ quản lý,

thanh lý tài sản”. Về nguyên tắc, sau khi thanh toán xong các khoản nợ của doanh

nghiệp, tài sản thuộc về chủ sở hữu doanh nghiệp, các thành viên của doanh nghiệp

và họ phải có quyền định đoạt đối với phần tài sản của mình. Vấn đề đặt ra ở đây là,

trong trường hợp đã có quyết định giải thể Tổ quản lý, thanh lý tài sản thì trong thời

gian bao lâu Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý phải đóng tài khoản tiền gửi nêu trên để

giao lại cho chủ sở hữu đích thực. Nếu việc này kéo dài thì có thể dẫn đến việc

người đang đứng tên tài khoản chiếm dụng tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp,

thành viên của doanh nghiệp hoặc thực hiện những giao dịch có hại cho quyền lợi

của các chủ sở hữu doanh nghiệp, thành viên của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, pháp

luật không có quy định về thời gian cụ thể để Tòa án ra quyết định giải thể Tổ quản

lý, thanh lý tài sản, nếu thực tế việc chi trả cho các chủ nợ đã hoàn tất nhưng thẩm

phán phụ trách giải quyết vụ việc vẫn chưa ra quyết định giải thể thì chủ sở hữu

doanh nghiệp, các thành viên của doanh nghiệp có quyền khiếu nại yêu cầu Toà án

ra quyết định giải thể Tổ quản lý, thanh lý tài sản hay không? Như vậy, xét về bản

chất, số tiền gửi tại TCTD là của các thành viên góp vốn của công ty, thế nhưng

việc định đoạt của họ đối với phần tài sản của mình có thể gặp trở ngại như nêu

trên.

c) Thực tiễn pháp luật về cung cấp thông tin cho người gửi tiền

Những thông tin khách hàng thường quan tâm là thông tin về mở và sử dụng

tài khoản, số dư tài khoản, lãi suất, các giao dịch đã thực hiện… Thông qua những

thông tin này khách hàng có thể kiểm tra việc sử dụng tiền trong tài khoản của mình

cũng như hoạch định chi tiêu trong tương lai. Theo quy định tại Điều 101 Luật Các

TCTD 1997 “Tổ chức tín dụng phải thông tin định kỳ cho chủ tài khoản về những

giao dịch và số dư trên tài khoản của họ tại tổ chức tín dụng”. Pháp luật cũng quy

định tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có trách nhiệm thông tin kịp thời về

những giao dịch thanh toán và số dư tài khoản cho khách hàng theo định kỳ hoặc

đột xuất khi có yêu cầu, niêm yết công khai các quy định về mở và sử dụng tài

khoản62

, điều này giúp khách hàng nắm được quy định về mở và sử dụng tài khoản.

Vấn đề cung cấp thông tin cho khách hàng cũng được pháp luật quy định tại Nghị

định số 70/2000/NĐ-CP, theo đó tổ chức nhận tiền gửi có trách nhiệm cung cấp

thông tin cho NGT hoặc cho người được khách hàng ủy quyền theo yêu cầu. Đồng

thời, khách hàng có quyền khiếu nại, khởi kiện trong trường hợp tổ chức nhận tiền

62 Xem: Điều 9 Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi.

Huỳnh Anh

60

gửi cung cấp thông tin không đúng quy định hoặc không đúng đối tượng, không

chính xác, không trung thực; được tổ chức nhận tiền gửi bồi thường do hành vi sai

phạm trên gây thiệt hại cho NGT.

Như đã trình bày trong phần chủ thể gửi tiền, người chưa thành niên có thể

có tài sản tiền gửi tại TCTD. Khi đó, theo quy chế tiền gửi tiết kiệm, người chưa

thành niên này được gọi là NGT, là khách hàng của tổ chức nhận tiền gửi. Đồng

thời người giám hộ, người đại diện đã đại diện cho người chưa thành niên để thực

hiện giao dịch gửi tiền tại TCTD cũng được gọi là NGT63

. Vì vậy, các chủ thể này

đều có quyền yêu cầu tổ chức nhận tiền gửi cung cấp thông tin liên quan đến tiền

gửi. Trong trường người đại diện cho người chưa thành niên nhưng không trực tiếp

thực hiện giao dịch gửi tiền (vì người chưa thành niên có thể có nhiều người đại

diện theo quy định pháp luật) thì không được xem là NGT, pháp luật hiện hành

không ghi nhận trường hợp TCTD có trách nhiệm cung cấp thông tin cho người đại

diện của người chưa thành niên khi họ yêu cầu. Tuy nhiên, họ đều là người bảo vệ

lợi ích chính đáng cho người thành niên, việc biết được thông tin về tài khoản tiền

gửi của người chưa thành niên cũng có ý nghĩa giúp họ bảo vệ quyền lợi cho người

chưa thành niên. Việc không ghi nhận quyền này của người đại diện là một thiếu

sót.

Ngoài ra, trong trường hợp NGT chết, những người thừa kế phát sinh nhu

cầu biết được những thông tin về tài khoản của NGT. Nhu cầu này là chính đáng vì

liên quan trực tiếp đến di sản mà họ được hưởng. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành đã

không quy định nội dung này.

d) Thực tiễn pháp luật về bảo mật thông tin người gửi tiền

Thông tin liên quan đến tài khoản tiền gửi của khách hàng rất nhiều, về

nguyên tắc tổ chức không được cung cấp bất kỳ thông tin nào liên quan đến khách

hàng nếu không được sự đồng ý của khách hàng, trừ một số trường hợp do luật

định. Theo Khoản 3 Điều 17 Luật Các TCTD thì TCTD có trách nhiệm “Bảo đảm

bí mật số dư tiền gửi của khách hàng”. Luật Các TCTD chỉ dừng lại ở quy định về

đảm bảo bí mật số dư tài khoản. Quy định cụ thể, đầy đủ hơn được thể hiện bởi các

văn bản liên quan như tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (phần lớn là các tổ chức

nhận tiền gửi) có trách nhiệm “bảo mật thông tin liên quan đến tài khoản và giao

dịch trên tài khoản của khách hàng theo quy định”64

hoặc theo Nghị định sô

63

Xem: Khoản 2 Điều 6 Quy chế tiền gửi tiết kiệm.

64 Điều 9 Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi.

Huỳnh Anh

61

70/2000/NĐ-CP và Thông tư số 02//2001/TT-NHNN hướng dẫn thi hành Nghị định

số 70/2000/NĐ-CP, các thông tin liên quan đến tiền gửi của khách hàng gồm: số

hiệu tài khoản, mẫu chữ kí của chủ tài khoản hoặc người được chủ tài khoản ủy

quyền, các thông tin về doanh số hoạt động và số dư tài khoản; các thông tin liên

quan đến giao dịch gửi, rút tiền, chuyển tiền và tài sản của khách hàng; nội dung

văn bản, giấy tờ, tài liệu, tên và mẫu chữ kí của NGT”. Trong trường hợp TCTD tiết

lộ bí mật thông tin khách hàng thì khách hàng có quyền khiếu nại, tố cáo hoặc khởi

kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu có) do việc để lộ bí mật thông tin65

. Quy chế

về tiền gửi tiết kiệm cũng có quy định tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm có trách

nhiệm giữ bí mật số dư tiền gửi của chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm hoặc đồng sở hữu

tiền gửi tiết kiệm theo quy định của pháp luật và đảm bảo an toàn tiền gửi cho chủ

sở hữu tiền gửi tiết kiệm hoặc đồng sở hữu tiền gửi tiết kiệm; chịu trách nhiệm về

những thiệt hại, vi phạm, lợi dụng đối với tiền gửi tiết kiệm do lỗi của tổ chức nhận

tiền gửi tiết kiệm.

Tuy nhiên, việc bảo vệ quyền lợi NGT phải đặt trong mối tương quan với

việc bảo vệ quyền và lợi ích của chủ thể khác. Vì vậy, pháp luật cho phép tổ chức

nhận tiền gửi có quyền cung cấp thông tin về tiền gửi của khách hàng cho chủ thể

khác mà không cần có sự đồng ý của NGT. Cụ thể, tổ chức nhận tiền gửi có quyền

cung cấp thông tin trong trường hợp nhằm phục vụ hoạt động nội bộ của tổ chức

nhận tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng; Cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền như: cung cấp thông tin theo yêu cầu của Tổng Giám

đốc tổ chức BHTG khi tổ chức này thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, cơ quan

Nhà nước trong quá trình thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thuộc thẩm

quyền theo quy định của pháp luật66

, cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan

thuế về “thông tin giao dịch qua tài khoản của khách hàng là người nộp thuế trong

những trường hợp luật định”67

.

Việc khách hàng sử dụng các dịch vụ thanh toán của NH rất thường xuyên,

đặc biệt là các thương nhân. Thông qua việc sử dụng các dịch vụ thanh toán do NH

cung cấp, thông tin về khách hàng có thể bị chủ thể thứ ba biết đến như dịch vụ

thanh toán bằng thư tín dụng, dịch vụ nhờ thu…68

. Do đó, nếu các chủ thể thứ ba

65

Khoản 3 và Khoản 4 Điều 2 Nghị định số 70/2000/NĐ-CP.

66 Điều 5 Nghị định số 70/2000/NĐ-CP.

67 Điều 16 Luật Quản lí thuế 2006.

68 Chẳng hạn, khi khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ, thông qua bộ

chứng từ, NH thông báo có thể biết nhiều thông tin liên quan đến khách hàng, trong một số trường hợp, có

thể có sự tham gia của NH xác nhận và NH này cũng biết những thông tin liên quan đến khách hàng.

Huỳnh Anh

62

(NH thông báo, NH xác nhận, NH thu hộ) này tiết lộ thông tin trên cho đối thủ cạnh

tranh của khách hàng thì có thể gây thiệt hại cho khách hàng. Đối thủ cạnh tranh có

thể có những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, chèn ép khách hàng, hoặc về lâu

dài có thể giành đối tác với khách hàng. Về nghĩa vụ bảo mật thông tin của chủ thể

thứ ba thì pháp luật hiện hành chưa ghi nhận.

Theo Luật Các TCTD 2010 về vấn đế bảo mật thông tin, có thể giải quyết cơ

bản vấn đề này. Theo đó, tại Điều 4 quy định “Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân

hàng nước ngoài phải bảo đảm bí mật thông tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi,

tài sản gửi và các giao dịch của khách hàng tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân

hàng nước ngoài”. Với quy định này, các thông tin liên quan đến “giao dịch của

khách hàng” phải được TCTD, chi nhánh NH nước ngoài bảo mật, tức có cả những

thông tin TCTD có được thông qua hoạt động cung ứng dịch vụ cho khách hàng,

trong đó bao gồm chủ thể thứ 3 đã nêu trên.

2.1.2.4. Thực tiễn pháp luật về đảm bảo an toàn của tổ chức tín dụng

Pháp luật có những quy định đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD,

hay nói cách khác là để phòng ngừa, hạn chế, những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt

động của TCTD. Quy định này không chỉ nhằm bảo vệ an toàn cho chính TCTD mà

còn bảo vệ cho lợi ích chung của nhà nước và xã hội, đó là sự ổn định tiền tệ quốc

gia, sự an toàn của cả hệ thống tín dụng, bảo vệ lợi ích của NGT.

Ở khía cạnh NGT, khi có rủi ro xảy ra có thể dẫn đến TCTD mất khả năng

thanh toán, khi đó quyền lợi của NGT bị ảnh hưởng nghiêm trọng vì TCTD không

thể chi trả tiền gửi cho NGT.

Các quy định đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD nói chung, bảo vệ

quyền lợi NGT nói riêng bao gồm một số nội dung như sau:

a) Các quy định về đảm bảo an toàn trong huy động vốn: Để đảm bảo khả

năng chi trả của TCTD trong hoạt động của mình, Nhà nước yêu cầu TCTD phải có

khoản tiền dự trữ bắt buộc. Dự trữ bắt buộc được hiểu là số tiền mà các TCTD hoạt

động tại Việt Nam phải duy trì trên tài khoản tiền gửi thanh toán tại NHNN. Theo

quyết định 581/2003/QĐ-NHNN ngày ngày 9 tháng 9 năm 2003 của Thống đốc

Ngân hàng nhà nước về việc ban hành “Quy chế dự trữ bắt buộc đối với các TCTD”

thì TCTD đang hoạt động tại Việt Nam phải thực hiện dự trữ bắt buộc khi nhận tiền

gửi của khách hàng.

Do xuất phát từ đặc điểm kinh doanh của TCTD là sử dụng nguồn vốn có

được từ huy động để cấp tín dụng là chủ yếu, vì vậy góp phần đảm bảo việc chi trả

Huỳnh Anh

63

cho nguồn vốn huy động này, NHNN yêu cầu TCTD phải trích một khoản tiền để

dự trữ tại NHNN căn cứ vào số vốn huy động. Cụ thể, dự trữ bắt buộc được tính

toán trên cơ sở số dư tiền gửi huy động bình quân của từng loại tiền gửi phải dự trữ

bắt buộc tại Hội sở chính và các chi nhánh của TCTD trong kỳ xác định dự trữ bắt

buộc và tỷ lệ dự trữ bắt buộc tương ứng được Thống đốc Ngân hàng nhà nước quy

định trong từng thời kỳ69

.

Bên cạnh đó, để đảm bảo khả năng chi trả TCTD mất khả năng thanh toán

các khoản nợ đến hạn hoặc không còn khả năng chi trả, bị phá sản, pháp luật quy

định các TCTD tham gia BHTG bắt buộc trên cơ sở tiền gửi của khách hàng. Theo

đó, NGT sẽ được chi trả một khoản tiền bảo hiểm nhất định cho NGT khi TCTD rơi

vào tình huống trên. Ngoài ra, việc hỗ trợ của BHTG đối với TCTD gặp khó khăn

về thanh khoản cũng được xem là một sự bảo đảm nhất định tạo được tâm lý yên

tâm cho NGT, tăng cường hơn lòng tin của NGT đối với các TCTD. Từ đó, hạn

chế tình trạng rút tiền hàng loạt và tạo nên sự xáo trộn khi có sự cố nào đó trong

hoạt động của các TCTD. Phần này sẽ được phân tích cụ hơn trong mục 2.1.2.5.

b) Các quy định về đảm bảo an toàn trong cấp tín dụng

Như đã trình bày, kết quả sử dụng vốn vay của chủ thể vay ảnh hưởng rất

lớn đến khả năng thu hồi nợ của TCTD, điều đó cũng đồng nghĩa với việc ảnh

hưởng đến khả năng chi trả cho khách hàng gửi tiền. Vì vậy, đảm bảo an toàn trong

cấp tín dụng là vô cùng quan trọng.

Một số hạn chế khác nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động cấp tín dụng

như TCTD không được cho vay đối với một số đối tượng là chủ thể quản lý của

TCTD, bởi vì thông qua đó có thể dẫn đến việc họ sử dụng vốn vay để thu lợi bất

chính hoặc tạo tiền đề cho những vi phạm pháp luật. Theo đó, các TCTD không

được cho vay đối với các chủ thể như: Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm

soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (phó Giám đốc) của TCTD; b)

Cán bộ, nhân viên của chính TCTD đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định, quyết định

cho vay; c) Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm

soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc). Không được

cho vay không có bảo đảm hoặc cấp tín dụng có ưu đãi cho các thành viên: a) Tổ

chức kiểm toán, Kiểm toán viên đang kiểm toán tại TCTD; Kế toán trưởng, Thanh

tra viên; b) Các cổ đông lớn của TCTD; c) Doanh nghiệp có một trong những đối

69

Xem thêm về tỉ lệ dự trữ bắt buộc được NHNN quy định từ tháng 2 năm 2009 và áp dụng tới nay tại Quyết

định 379/2009/QĐ-NHNN về điều chỉnh tỉ lệ dự trữ bắt buộc của các TCTD.

Huỳnh Anh

64

tượng quy định tại khoản 1 Điều 77 của Luật này70

sở hữu trên 10% vốn Điều lệ của

doanh nghiệp đó71

.

Theo Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19 tháng 4 năm 2005 quy

định các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD (sau đây gọi là Quyết

định số 457/2005/QĐ-NHNN), TCTD phải chấp hành các quy định giới hạn tín

dụng trong hoạt động bao gồm: (1) Mức cho vay tối đa đối với một khách hàng

(15% vốn tự có), một nhóm khách hàng có liên quan (50% vốn tự có); (2) Mức cho

vay và bảo lãnh tối đa đối với một khách hàng (25% vốn tự có), một nhóm khách

hàng có liên quan (60% vốn tự có); (3) các quy định về giới hạn góp, vốn, mua cổ

phần đối với một dự án, một khoản đầu tư thương mại không quá 11% vốn của

doanh nghiệp hoặc vốn đầu tư dự án,...; nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho

vay trung hạn và dài hạn (40% đối với NHTM và 30% đối với TCTD khác). Theo

Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày ngày 20 tháng 5 năm 2010 của Ngân hàng

Nhà nước Việt Nam quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ

chức tín dụng thay thế Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN (sau đây gọi là Thông

tư số 13/2010/TT-NHNN) thì đối với vấn đề sử dụng vốn huy động để cấp tín dụng

có quy định khác hơn, theo đó, xác định chung nguồn vốn huy động làm cơ sở xác

định tỉ lệ cho vay, đồng thời quy định TCTD là NH không được cấp tín dụng vượt

quá 80% và TCTD phi NH không được cấp tín dụng vượt quá 85% từ nguồn vốn

huy động này. Đặc biệt, thông tư này đã có những quy định chế tài để áp dụng khi

có sự vi phạm của TCTD đối với việc trích lập dự phòng rủi ro.

Đến Thông tư 19/2010/TT-NHNN ngày 27 tháng 9 năm 2010 sửa đổi bổ

sung một số điều của Thông tư số 13/2010/TT-NHNN, quy định thêm việc cấp tín

dụng từ nguồn vốn huy động không quá 25% đối với tiền gửi không kỳ hạn của tổ

chức kinh tế (trừ TCTD). Quy định này nhằm tăng tính an toàn trong hoạt động cấp

tín dụng của TCTD.

c) Một số quy định đảm bảo an toàn khác

Ngoài ra còn có những tỉ lệ đảm bảo an toàn khác góp phần đảm bảo an toàn

hoạt động TCTD như tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu; giới hạn tín dụng; tỷ lệ khả năng

chi trả; giới hạn góp vốn, mua cổ phần; tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy

động.

70

Luật này là Luật Các TCTD 1997.

71 Xem Điều 19 Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định

1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước.

Huỳnh Anh

65

TCTD phải đảm bảo khả năng chi trả được xác định bằng tỉ lệ giữa tài sản

“có” có thể thanh toán ngay so với các loại tài sản “nợ” phải thanh toán. Theo quy

chế về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD ban hành kèm theo

Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN, các tỷ lệ về khả năng chi trả được quy định

như sau: tỷ lệ tối thiểu 25% giữa giá trị tài sản “có” có thể thanh toán ngay và tài

sản “nợ” sẽ đến hạn thanh toán trong thời gian một tháng và tỷ lệ tối thiểu bằng 1

giữa tài sản “có” có thể thanh toán ngay trong thời gian 7 ngày làm việc và tài sản

“nợ” phải thanh toán trong thời gian 7 ngày làm việc.

Theo Thông tư số 13/2010/TT-NHNN, tỷ lệ tối thiểu nói trên là 15% giữa

tổng tài sản “có” thanh toán ngay và tổng “nợ” phải trả trong ngày. Quy định này

cho phép kiểm soát khả năng chi trả TCTD một cách thường xuyên hơn, đảm bảo

an toàn hơn, nếu TCTD xuất hiện bất ổn trong khả năng chi trả sẽ kịp thời chấn

chỉnh ngay.

Ngoài ra, TCTD còn có nghĩa vụ dự phòng rủi ro. Dự phòng rủi ro là khoản

tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của

TCTD không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết 72

. Điều này có ý nghĩa trong tình

huống TCTD có những khoản nợ xấu không thu hồi được khi đến hạn thì khoản tiền

dự phòng này giúp TCTD đảm bảo khả năng chi trả cho NGT.

Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định chế độ kiểm soát đặc biệt áp dụng đối

với các TCTD có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán73

, khi đó

TCTD được đặt dưới sự kiểm soát của NHNN. Mục đích của chế độ kiểm soát đặc

biệt là nhằm giúp đỡ các TCTD đang gặp khó khăn về thanh toán, chi trả vượt qua

được khó khăn tài chính đó, bảo vệ sự an toàn cho TCTD và cho cả hệ thống

TCTD, bảo vệ quyền lợi NGT. Để có thể can thiệp, giúp đỡ kịp thời, luật cũng quy

định khi có nguy cơ mất khả năng chi trả cho khách hàng của mình, TCTD phải báo

cáo ngay với về thực trạng tài chính, nguyên nhân và các biện pháp đã áp dụng, dự

kiến áp dụng để khắc phục74

.

Trong quá trình kiểm soát đặc biệt, quyền lợi của NGT cũng được pháp luật

quan tâm, bảo vệ thể hiện qua việc quy định thẩm quyền của Ban kiểm soát đặc

biệt, đó là quyền “đình chỉ những hoạt động không phù hợp với phương án củng cố 72

Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lí rủi ro tín dụng ban hành theo

Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước.

73 TCTD đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt khi rơi vào trường hợp tại Khoản 3 Điều 92 Luật Các TCTD

2004: “a ) Có nguy cơ mất khả năng chi trả; b) Nợ không có khả năng thu hồi có nguy cơ mất khả năng thanh

toán; c) Khi số lỗ luỹ kế của tổ chức tín dụng lớn hơn 50% tổng số vốn điều lệ thực có và các quỹ”.

74 Xem Điều 91 Luật Các TCTD 2004.

Huỳnh Anh

66

tổ chức và hoạt động đã được thông qua, các quy định về an toàn trong hoạt động

ngân hàng có thể gây phương hại đến lợi ích của người gửi tiền”75

.

2.1.2.5. Thực tiễn pháp luật bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền khi tổ chức tín

dụng mất khả năng thanh toán

Như đã nêu trên, khi TCTD mất khả năng thanh toán thì BHTG là tổ chức

đứng ra chi trả một phần hoặc toàn bộ tiền gửi cho NGT. Vì vậy, những quy định về

BHTG liên quan mật thiết đến việc bảo vệ quyền lợi NGT.

a) Thực tiễn pháp luật về quy định liên quan đến Bảo hiểm tiền gửi Việt

Nam trong việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền

BHTG là một loại hình bảo hiểm đối với hoạt động ngân hàng. Có rất nhiều

tác giả có khái niệm khác nhau về BHTG, chúng ta có thể hiểu “Bảo hiểm tiền gửi

là loại hình bảo hiểm, theo đó bảo đảm nghĩa vụ chi trả trong tương lai các khoản

tiền gửi cho NGT tại các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi các tổ chức này

gặp rủi ro dẫn đến tình trạng không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn

bị buộc giải thể hoặc phá sản”76

.

Ở Việt Nam, ban đầu chỉ thực hiện BHTG đối với những khoản tiền gửi có

kỳ hạn tại các quỹ tín dụng nhân dân77

. Đến khi tổ chức BHTG Việt Nam ra đời,

cùng với nó là sự ra đời của hàng loạt các quy định về BHTG với phạm vi và đối

tượng được bảo hiểm rộng hơn. Nói cách khác, BHTG Việt Nam cam kết bảo vệ

quyền lợi cho nhiều NGT hơn.

Hiện nay, các quy định vềBHTG được quy định chủ yếu tại Nghị định số

89/1999/NĐ-CP, Nghị định số 109/2005/NĐ-CP, Thông tư số 03/2006/TT-NHNN

và các quy định về quản lý tài chính đối với BHTG Việt Nam. Từ những cơ sở pháp

lý này, các quy định pháp luật về BHTG liên quan trực tiếp đến quyền lợi NGT theo

pháp luật hiện hành được quy định như sau:

- Về người được hưởng quyền lợi bảo hiểm

NGT không phải đóng phí bảo hiểm nhưng là người được hưởng quyền lợi

bảo hiểm. Theo đó, khi tổ chức nhận tiền gửi có tham gia đóng bảo hiểm đúng quy

định thì khi tổ chức này bị phá sản hoặc mất khả năng thanh toán, các chủ thể gửi

75

Xem Khoản 2 Điều 94 Luật Các TCTD 2004.

76 Lê Thị Thu Thủy (2007), “Bàn mô hình bảo hiểm tiền gửi trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí

luật học (12), tr. 37.

77 Quyết định số 101/QĐ/BTC ngày 1/2/1994 của Bộ trưởng Bộ tài chính về việc ban hành quy tắc bảo hiểm

trách nhiệm của quỹ tín dụng nhân dân đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn.

Huỳnh Anh

67

tiền sẽ được BHTG Việt Nam chi trả bảo hiểm. Tuy nhiên, không phải tất cả những

chủ thể gửi tiền đều được hưởng bảo hiểm. Theo quy định, khi có sự kiện bảo hiểm

xảy ra thì tổ chức BHTG Việt Nam sẽ có trách nhiệm thay tổ chức nhận tiền gửi đó

trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của khách hàng gửi tiền ở tổ chức tham gia

BHTG đó, đó là những khách hàng gửi tiền bằng đồng Việt Nam tại tổ chức có

tham gia bảo hiểm, bao gồm: cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, các doanh nghiệp tư

nhân và công ty hợp danh gửi tại tổ chức tham gia BHTG. Trừ trường hợp NGT là

cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc nắm giữ trên 10% vốn cổ phần có quyền

bỏ phiếu của tổ chức tham gia BHTG đó; hoặc là thành viên Hội đồng quản trị, Ban

kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ

chức tham gia BHTG đó; hoặc NGT đã dùng tiền gửi để đảm bảo thực hiện nghĩa

vụ; hoặc tiền dùng để mua giấy tờ có giá vô danh do tổ chức tham gia BHTG phát

hành78

.

Vậy theo quy định hiện hành, về nguyên tắc pháp luật chỉ BHTG của cá nhân

(bảo hiểm đối với hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp

danh thực chất cũng là tiền gửi cá nhân).

Luật không quy định việc chi trả BHTG cho NGT là hợp tác xã, công ty cổ

phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Một số quan điểm cho rằng nên bổ sung các

chủ thể này vào chủ thể được chi trả bảo hiểm với lập luận rằng đều này sẽ tạo điều

kiện huy động vốn phục vụ cho nhu cầu đầu tư phát triển79

, hoặc nhằm tạo sự bình

đẳng về mặt pháp lý giữa các chủ thể kinh tế với nhau80

. Tuy nhiên, đối với các tổ

chức, đa số vốn của họ dùng để phục vụ cho mục đích kinh doanh, tức là đã phục vụ

cho nhu cầu đầu tư. Mặt khác, nếu xét một cách toàn diện, cá nhân gửi tiền thường

là đối tượng đáng được bảo vệ hơn vì khoản tiền gửi rất quan trọng với họ, bên cạnh

đó so với NGT là tổ chức thì NGT là cá nhân khả năng tự bảo vệ mình kém hơn tổ

chức, đặc biệt là các tổ chức kinh tế (khả năng am hiểu, nắm bắt và đánh giá thông

tin,...) nên họ dễ bị thiệt thòi hơn. Vì vậy, bảo vệ quyền lợi NGT là cá nhân xét ở

khía cạnh này ta thấy có tính hợp lý nhất định.

- Về chủ thể đóng phí tham gia bảo hiểm

78

Điều 3 Nghị định số 89/1999/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 109/2005/NĐ-CP.

79 Nguyễn Thị Diệu Linh (2009), Bảo hiểm tiền gửi-quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng, Đại học

Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.87-88.

80 Phạm Nguyệt Thảo (2007) , “Một số vấn đề pháp lí về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam”, Tạp chí luật học,

(12), tr. 52.

Huỳnh Anh

68

Theo quy định tại Điều 2 Nghị định số 89/1999/NĐ-CP, quy định về chủ thể

tham gia bảo hiểm như sau: “Các tổ chức tín dụng và tổ chức không phải là tổ chức

tín dụng được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật

các tổ chức tín dụng có nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân phải tham gia bảo hiểm

tiền gửi bắt buộc”

Như vậy, chủ thể có nhận tiền gửi theo quy định trên đều có nghĩa vụ đóng

phí BHTG bắt buộc. Nhận thấy, việc đóng phí BHTG của các tổ chức nhận tiền gửi

hiện nay nhằm đẳm bảo quyền lợi cho NGT là cá nhân, phần đông những đối tượng

này là những người có thu nhập thấp trong xã hội, chính vì vậy bảo vệ quyền lợi của

đa số cá nhân gửi tiền mang ý nghĩa góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Việc chi trả

BHTG cho các chủ thể gửi tiền không chỉ dựa vào khoản phí bảo hiểm do tổ chức

nhận tiền gửi đóng mà còn dựa vào vốn của tổ chức BHTG được Nhà nước cấp.

Cũng chính vì lý do này, pháp luật hiện hành đã không BHTG đối với các tổ chức

(trừ một số tổ chức như hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty

hợp danh).

Như lập luận trên, Nhà nước không cần thiết phải trợ giúp tài chính cho các

tổ chức trong việc đóng BHTG cũng như trong chi trả bảo hiểm. Tuy vậy, luật chưa

có quy định nhằm tạo cơ hội cho các tổ chức được tham gia BHTG trên cơ sở tự

nguyện của tổ chức gửi tiền và tổ chức nhận tiền gửi. Trong trường hợp nhằm tăng

tính cạnh tranh của trong hoạt động ngân hàng, tổ chức nhận tiền gửi có nhu cầu

đóng BHTG cho tổ chức thì cũng nên tạo hành lang pháp lý cho họ.Việc đóng phí

này sẽ do NH thực hiện trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng gửi tiền.

- Về tiền gửi được bảo hiểm

Theo quy định hiện hành, tiền gửi được bảo hiểm được xác định như sau81

:

Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của người gửi tiền

là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, các doanh nghiệp tư nhân và công ty

hợp danh gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, trừ những trường hợp

sau đây:

a) Tiền gửi của người gửi tiền là cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ

hoặc nắm giữ trên 10% vốn cổ phần có quyền bỏ phiếu của tổ chức tham

gia bảo hiểm tiền gửi đó;

81

Khoản 2 Mục 1 Thông tư số 03/2006/TT-NHNN hướng dẫn một số nội dung tại Nghị định số

89/1999/NĐ-CP và Nghị định số 109/2005/NĐ-CP.

Huỳnh Anh

69

b) Tiền gửi của người gửi tiền là thành viên Hội đồng quản trị, Ban

kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc)

của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó;

c) Tiền gửi dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người gửi tiền;

d) Tiền mua giấy tờ có giá vô danh do tổ chức tham gia bảo hiểm tiền

gửi phát hành.

Như vậy, tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của NGT

là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh gửi

tại tổ chức tham gia BHTG. Do đó, BHTG chỉ bảo hiểm đối với tiền đồng Việt

Nam, không bảo hiểm đối với dạng tiền gửi là vàng, không BHTG đối với ngoại tệ.

Điều này đồng nghĩa với việc một bộ phận không nhỏ NGT tham gia gửi tiền bằng

ngoại tệ, vàng tại các TCTD không được bảo hiểm khi TCTD bị đổ vỡ. Với quy

định hiện nay, một mặt cho thấy sự không công bằng đối với chủ thể gửi tiền dưới

dạng ngoại tệ, vàng; mặt khác, đã không tính đến thực trạng sử dụng ngoại tệ của

các TCTD và các tổ chức, cá nhân được phép sử dụng ngoại tệ ở Việt Nam.

Hiện nay, nhà nước ta đã cho phép sử dụng ngoại tệ rộng rãi đối với cá nhân,

tổ chức. Theo quy định tại Pháp lệnh số 28/2005/PL-UBTV11 của Ủy ban thường

vụ Quốc hội thông qua ngày 13/12/2005 về ngoại hối thì các tổ chức cá nhân là

người cư trú, người không cư trú có hoạt động ngoại hối, hoạt động liên quan đến

ngoại hối được phép mở và sử dụng tài khoản ngoại tệ tại TCTD được phép82

khi có

nguồn ngoại tệ hợp pháp để thực hiện các giao dịch thu ngoại tệ từ nước ngoài

chuyển vào, thu ngoại tệ từ nguồn thu được phép trong nước, thu ngoại tệ tiền mặt

từ nước ngoài vào theo quy định của NHNN, chi bán cho các TCTD được phép, chi

chuyển đổi ra các loại ngoại tệ khác hoặc các công cụ thanh toán khác bằng ngoại

tệ, chi chuyển ra nước ngoài hoặc chuyển sang tài khoản tiền gửi ngoại tệ của người

không cu trú khác hoặc thanh toán cho người cư trú tiền, hàng hóa, dịch vụ xuất

khẩu,... Hơn nữa, Việt Nam đã gia nhập WTO, do vậy sẽ có nhiều tổ chức, cá nhân

nước ngoài đến và làm việc tại Việt Nam, đầu tư vào Việt Nam. Với chính sách kêu

gọi, thu hút đầu tư nước ngoài của nhà nước ta, trong thời gian sắp tới, lượng ngoại

tệ được sử dụng trong các giao dịch thông qua hệ thống các TCTD ngày càng tăng

cao.

Từ thực tế đó, việc quy định chỉ có tiền gửi bằng đồng Việt Nam của cá

nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh được bảo 82

TCTD được phép là các NH và các TCTD phi NH được hoạt động ngoại hối và cung ứng dịch vụ ngoại

hối theo quy định tại Pháp lệnh ngoại hối 2005.

Huỳnh Anh

70

hiểm là chưa hợp lý. Trong khi các tổ chức, cá nhân người cư trú và người không cư

trú đều có thể mở tài khoản ngoại tệ tại Việt Nam, việc không bảo hiểm đối với

đồng ngoại tệ đã không đảm bảo sự công bằng giữa những NGT. Đồng thời, khi

lượng giao dịch bằng ngoại tệ chiếm một tỉ lệ đáng kể trong hệ thống các TCTD của

quốc gia thì việc loại bỏ đồng ngoại tệ ra khỏi danh sách tiền gửi được bảo hiểm là

không phù hợp. Với xu hướng hội nhập như hiện nay, thực tiễn cho thấy số lượng

quốc gia bảo hiểm cho đồng ngoại tệ vẫn chiếm tỷ lệ cao so với các quốc gia không

bảo hiểm đối với đồng ngoại tệ83

.

Mặt khác, thực tế hiện nay tư tưởng gửi vàng vào TCTD thay vì gửi tiền đã

trở nên rất phổ biến trong dân chúng. Tuy nhiên, gửi vàng vào TCTD với lãi suất

thấp, nếu có rủi ro lại không được chi trả bảo hiểm, điều đó làm cho NGT không

mặn mà với việc gửi vàng. Vì vậy, trong các giải pháp để tiết kiệm thì họ thường

chọn giải pháp gửi vàng hoặc cất giữa vàng tại nhà hơn là gửi tiền. Đồng thời, cũng

theo lập luận trên, cần đảm bảo quyền lợi của chủ thể gửi tiền dưới dạng vàng là

đảm bảo sự công bằng giữa những NGT.

- Về hạn mức chi trả bảo hiểm

Hạn mức chi trả bảo hiểm là khoản tiền tối đa mà tổ chức BHTG có thể

thanh toán cho NGT thuộc đối tượng được bảo hiểm tại các tổ chức tham gia BHTG

khi tổ chức này bị mất khả năng thanh toán.

Theo quy định pháp luật hiện hành, số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các

khoản tiền gửi bao gồm cả gốc và lãi của một NGT tại một tổ chức tham gia BHTG

thuộc đối tượng được chi trả bảo hiểm theo quy định pháp luật, tối đa là 50 triệu

đồng. NGT có tổng số tiền gửi được bảo hiểm (gồm cả gốc và lãi) tại một tổ chức

tham gia BHTG bằng hoặc nhỏ hơn 50 triệu đồng sẽ được BHTG Việt Nam chi trả

toàn bộ số tiền gửi84

.

Hiện nay có hai hình thức bảo hiểm chủ yếu đó là bảo hiểm hoàn toàn và bảo

hiểm theo hạn mức. Theo đó, bảo hiểm hoàn toàn ưu điểm là ngăn chặn một cách

hiệu quả hiện tượng NGT rút tiền hàng loạt khi có sự cố trong hoạt động ngân hàng,

nhưng nó có nhược điểm lớn là sẽ dễ dẫn đến rủi ro đạo đức, tức tâm lý bất cẩn gia

tăng từ phía TCTD và phí bảo hiểm sẽ rất cao, trách nhiệm của tổ chức BHTG cũng

83

Nghiên cứu của Kunt và Sobaci cho thấy trong 68 hệ thống BHTG được nghiên cứu có 20 hệ thống không

BHTG ngoại tệ.( Xem: Lê Thị Thu Thủy (2007), “Mô hình bảo hiểm tiền gửi trong thời kỳ hội nhập kinh tế

quốc tế”, Tạp chí Luật học, (12), tr. 67.

84 Khoản 3 Điều 1 Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2005 về việc sửa đổi, bổ sung một số

điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi.

Huỳnh Anh

71

trở nên rất nặng nề. Chính vì vậy, chúng ta không chọn mô hình này. Tuy nhiên, khi

chọn hình thức thứ hai, vấn đề hạn mức chi trả tiền gửi là bao nhiêu cần phải được

tính toán phù hợp.

Việc ấn định hạn mức BHTG phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tình hình kinh

tế và hệ thống tài chính ngân hàng; thu nhập bình quân đầu người; số lượng NGT;

năng lực tài chính của BHTG và chính sách của Chính phủ về hoạt động BHTG...

Xét những yếu tố trên trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, chúng ta có thể nhận

thấy như sau:

+ Thị trường tài chính Việt Nam đã từng có những biến động lớn và đến nay

vẫn chưa hoàn toàn ổn định. Hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua đã

xảy ra hiện tượng hàng loạt các TCTD có nguy cơ mất khả năng thanh toán do NGT

rút tiền ồ ạt. Chẳng hạn, Quỹ Tín dụng nhân dân vào những năm 1990, rồi vào thời

điểm những năm 1997, 1998 hàng loạt ngân hàng thương mại cổ phần liên tiếp gặp

khó khăn về khả năng chi trả như Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (2003),

Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nông thôn Ninh Bình (2005), Ngân hàng Thương

mại Cổ phần Phương Nam (2005) cũng rơi vào trường hợp tương tự... 85

. Bên cạnh

đó, Việt Nam vừa bước vào giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới, thị trường tài chính

vẫn chưa mở cửa hoàn toàn (đến 2012). Dù vậy, cuộc khủng hoảng tài chính thế

giới vừa qua đã ảnh hưởng nhất định đến Việt Nam. Vì vậy, thị trường tài chính

Việt Nam hiện nay vẫn còn biến động.

+ Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam thời gian qua tăng đáng kể.

Theo thông lệ, nếu việc chi trả bảo hiểm theo một giới hạn nhất định thì yếu tố thu

nhập bình quân đầu người là yếu tố quan trọng. Thời gian qua, thu nhập bình quân

đầu người của Việt Nam có xu hướng tăng86

. Theo thống kê của Quỹ tiền tệ quốc tế

(IMF) vào 4/2008, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam năm 2000 là 401

USD, năm 2001 là 413 USD, năm 2002 là 440 USD, năm 2003 là 489 USD, năm

2004 là 555 USD, năm 2005 là 637 USD, năm 2006 là 722 USD, năm 2007 là 818

85 Kinh nghiệm thế giới cho thấy, cùng với một cơ chế chính sách tài chính tốt và kịp thời khi nâng hạn mức

bảo hiểm tiền gửi đã giúp tạo được niềm tin của khách hàng. Chẳng hạn, trong cuộc khủng hoảng tài chính

thế giới vừa qua, bên cạnh việc bảo lãnh với số tiền 400 tỷ USD cho các giao dịch liên ngân hàng nhưng

không có tài sản đảm bảo, hỗ trợ tài chính cho các ngân hàng mạnh mua lại các ngân hàng yếu kém, đổ vỡ,

Mỹ còn nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi từ 100.000 USD lên 250.000 USD đã góp phần tạo niềm tin của

khách hàng, tránh được việc đổ xô rút tiền hàng loạt. Trong khi đó, ở Anh lại xảy ra hiện tượng này vì đã

không tạo được niềm tin đối với khách hàng. (Xem số liệu tại: http://www.nclp.org.vn/chinh_sach/vai-tro-

cua-bao-hiem-tien-gui-my-trong-quan-ly-khung-hoang).

86 Theo thống kê của Tổng cục Thống kê: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) chín tháng năm 2010 ước tính

tăng 6,52% so với chín tháng năm 2009, trong đó quý I tăng 5,83%; quý II tăng 6,4% và quý III tăng 7,16%.

Đây là mức tăng khá cao so với mức tăng 4,62% của cùng kỳ năm trước.

Huỳnh Anh

72

USD, năm 2008 là 937 USD87

, năm 2009 khoảng trên 1126 USD và chỉ tiêu năm

2010 là 1200 USD88

. Nhận thấy, mức chi trả BHTG theo Điều 3 Nghị định số

89/1999/NĐ-CP là 30 triệu, áp dụng từ cuối năm 1999 đầu năm 2000 đến năm

2005, theo đó thu nhập bình quân năm 2000 là 401 USD. Đến năm 2005, theo Nghị

định số 109/2005/NĐ-CP, mức chi trả bảo hiểm là 50 triệu (tăng 66% hạn mức năm

2000), ứng với thu nhập bình quân là 637 USD, tăng hơn năm 2000 là 58,8 %, mức

chi trả bảo hiểm lúc bấy giờ là 50 triệu và vẫn giữ nguyên đến nay. Nay, thu nhập

bình quân dự kiến năm 2010 là 1200 USD, tăng hơn so với năm 2005 là 46,9%.

Như vậy, hạn mức chi trả bảo hiểm về nguyên tắc phải tính tỉ lệ thuận với thu nhập

bình quân đầu người. Vì vậy, xét ở khía cạnh thu nhập bình quân đầu người, hạn

mức chi trả BHTG Việt Nam cần tăng lên một mức độ nhất định.

+ Về tỷ lệ NGT: Ở Việt Nam, năm 2005, số NGT từ 50 triệu đồng trở xuống

chiếm tỉ lệ lớn, chủ yếu là cán bộ hưu trí hoặc người lao động có thu nhập trung

bình, người làm công ăn lương... Chính vì vậy, tỉ lệ NGT được chi trả bảo hiểm

toàn bộ chiếm tỉ lệ cao. Tình hình hiện nay, đồng tiền mất giá, thu nhập bình quân

đầu người dân tăng cao thì số lượng tiền gửi của các đối tượng với số tiền gửi cao

hơn 50 triệu đồng rất nhiều. Vì vậy, việc tăng hạn mức chi trả lên một mức hợp lý là

cần thiết, đảm bảo các đối tượng trên không bị rủi ro trong quá trình gửi tiền tại các

TCTD. Điều này cũng xuất phát từ chính sách của Chính phủ về hoạt động BHTG

là bảo vệ những cá nhân nhỏ lẻ, bảo đảm an sinh xã hội.

+ Hiện nay, năng lực tài chính của BHTG Việt Nam cũng đã được nâng lên,

BHTG Việt Nam có vốn điều lệ là 5.000 tỉ đồng89

, cộng thêm phí BHTG của BHTG

Việt Nam thu từ các tổ chức tham gia BHTG. Thực tiễn trong thời gian qua, BHTG

Việt Nam đã bảo vệ tốt quyền lợi NGT, chi trả đầy đủ tiền bảo hiểm.

Qua phân tích trên, nhận thấy, trước tình hình hiện nay, với sự ảnh hưởng

của cuộc khủng hoảng tài chính vẫn còn, với thực trạng lạm phát cao, thu nhập bình

quân đầu người tăng thì hạn mức 50 triệu đồng đã duy trì từ năm 2005 đến nay thấp,

không hợp lý.

Việc quy định hạn mức chi trả BHTG hợp lý sẽ góp phần hạn chế nguy cơ

rút tiền hàng loạt cũng như củng cố niềm tin đối với tổ chức huy động tiền gửi khi 87

Theo báo cáo của Thủ tướng Chính Phủ về tình hình kinh tế, xã hội năm 2009 và mục tiêu, nhiệm vụ, giải

pháp chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội năm 2010 (Xem tại:

http://www.imf.org/external/pubs/weo/2008/01/weodata/index.aspx)

88 Xem tại: http://www.vtc.vn/2-229308/xa-hoi/nam-2010-binh-quan-dau-nguoi-khoang-1200-usd.htm

89 Điều 4 Quyết định số 13/2008/QĐ-TTg ngày 18 tháng 01 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ ban hành

quy chế quản lý tài chính đối với Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.

Huỳnh Anh

73

có khả năng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán hoặc phá sản. Đặc biệt, hạn

chế được tâm lý tin vào những tin đồn thất thiệt, dẫn đến hiện tượng rút tiền hàng

loạt, làm cho một TCTD đang hoạt động bình thường rơi vào tình trạng mất khả

năng thanh toán và có thể ảnh hưởng chung đến toàn hệ thống TCTD.

- Về việc chi trả bảo hiểm

Theo quy định tại Nghị định số 109/2005/NĐ-CP và Thông tư số

03/2006/TT-NHNN, đối với tổ chức tham gia BHTG bị cơ quan nhà nước có thẩm

quyền xác định là không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn, trong

vòng 60 ngày kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản yêu cầu tổ

chức này chấm dứt các giao dịch để tiến hành thanh lý tài sản hoặc kể từ ngày Toà

án thông báo quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản theo quy định của pháp luật về

phá sản, tổ chức BHTG có trách nhiệm tiến hành chi trả tiền bảo hiểm cho NGT tại

tổ chức tham gia BHTG đó theo nguyên tắc được quy định. Trường hợp NGT có

tổng số tiền gửi được bảo hiểm (gồm cả gốc và lãi) lớn hơn 50 triệu đồng thì phần

vượt trên 50 triệu đồng sẽ được trả trong quá trình thanh lý tài sản của tổ chức tham

gia BHTG phù hợp với quy định của pháp luật về giải thể, phá sản.

Sau thời gian mười năm kể từ ngày tổ chức BHTG có thông báo đầu tiên về

việc chi trả tiền bảo hiểm, những khoản tiền BHTG không có người nhận và không

có lý do chính đáng sẽ được bổ sung vào nguồn vốn hoạt động của tổ chức BHTG

và người có quyền sở hữu khoản tiền gửi được bảo hiểm sẽ không có quyền đòi tổ

chức BHTG chi trả số tiền bảo hiểm đó.

- Vấn đề thông tin về bảo hiểm tiền gửi cho người gửi tiền

Theo quy định hiện hành, tổ chức tham gia BHTG phải niêm yết Chứng nhận

BHTG tại trụ sở và các quầy giao dịch nhận tiền gửi90

. Điều đó chứng minh tổ chức

này đã tham gia BHTG. Khách hàng cũng có thể biết được thông tin về tổ chức

tham gia BHTG khi truy cập Website của BHTG Việt Nam

(http://www.div.gov.vn). Dù vậy, hiện nay việc quy định BHTG là bắt buộc nên

NGT cũng có thể yên tâm về phần này.

Tuy nhiên, không phải tất cả các loại tiền gửi đều được bảo hiểm. Vì vậy, với

khả năng hiểu biết của khách hàng hạn chế của NGT trong lĩnh vực ngân hàng vẫn

còn hạn chế như hiện nay, nhiều cá nhân gửi tiền đã không xác định được loại tiền

gửi của mình có được bảo hiểm hay không, từ đó ảnh hưởng đến việc chọn lựa hình

90

Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 89/1999/NĐ-CP.

Huỳnh Anh

74

thức gửi tiền của NGT để được hưởng bảo hiểm hoặc gây ngộ nhận rằng “hễ là tiền

gửi thì được bảo hiểm”.

- Về phí bảo hiểm tiền gửi

Chúng ta biết rằng, phí BHTG là khoản tiền mà tổ chức tham gia BHTG có

nghĩa vụ phải nộp cho tổ chức BHTG để được bảo hiểm cho tiền gửi của khách

hàng.

Nguyên tắc của bảo hiểm là phí bảo hiểm cao hay thấp sẽ phụ thuộc vào mức

độ rủi ro của người được bảo hiểm. Trên thực tế, nguyên tắc này chưa thực hiện

được đối với BHTG Việt Nam. Quy định pháp luật hiện nay vẫn còn không thống

nhất. Theo Nghị định số 109/2005/NĐ-CP thì phí bảo hiểm là 0,15 %/ năm tính trên

số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi, mức phí này có thể được điều chỉnh

theo loại hình tổ chức tham gia BHTG hoặc trên cơ sở đánh giá, xếp loại của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền. Thời gian qua chưa thấy Chính phủ có hướng dẫn cụ

thể về vấn đề điều chỉnh này, các tổ chức tham gia bảo hiểm vẫn đóng phí bảo hiểm

trên thực tế vẫn với tỉ lệ như nhau. Trong khi đó, theo Thông tư số 03/2006/TT-

NHNN thì "tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải nộp cho Bảo hiểm tiền gửi Việt

Nam một khoản phí bằng 0,15%/năm tính trên toàn bộ số dư tiền gửi bình quân của

các loại tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi” mà không

đề cập gì đến vấn đề điều chỉnh tỉ lệ trên. Chính phủ cũng chưa có văn bản nào khác

điều chỉnh tỉ lệ này.

Vừa qua BHTG Việt Nam đã triển khai đề án tính phí bảo hiểm trên cơ sở rủi

ro của các TCTD. BHTG Việt Nam cũng có văn yêu cầu các NH thương mại, quỹ

tín dụng báo cáo để tạo tiền đề cho việc tính phí bảo hiểm theo mức độ rủi ro91

.Tuy

nhiên, đến nay mức tính phí vẫn chưa có gì thay đổi, vẫn là mức phí đồng hạng...

Việc áp dụng phí trên cơ sở mức độ rủi ro tuy phức tạp hơn so với cách tính phí như

hiện nay, nhưng mang lại nhiều lợi ích thiết thực, đúng với định hướng phát triển

kinh tế thị trường. Không chỉ vậy, cách tính mức phí có tác dụng giúp các TCTD

không ngừng cải thiện, nâng cao hoạt động của TCTD vì họ thấy được khả năng của

họ trong toàn hệ thống. Nếu mức phí thấp có nghĩa là chất lượng hoạt động của

TCTD đó đang tốt, cố gắng phát huy. Còn nếu mức phí cao có nghĩa là chất lượng

91

Quy định thông tin báo cáo áp dụng đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là Ngân hàng thương mại

ban hành kèm theo Quyết định số 191/QĐ-BHTG ngày 18 tháng 8 năm 2006 của Tổng giám đốc bảo hiểm

tiền gửi ViệtNam.

- Quy định thông tin báo cáo áp dụng đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là Quỹ tín dụng nhân dân

ban hành kèm theo Quyết định số 192/QĐ-BHTG ngày 18 tháng 8 năm 2006 của Tổng giám đốc bảo hiểm

tiền gửi Việt Nam.

Huỳnh Anh

75

hoạt động của TCTD đang có vấn đề thì điều đó càng thôi thúc TCTD phải phấn

đấu để vượt qua trạng thái đó. Từ đó, các TCTD sẽ cố gắng kinh doanh để giảm phí

bảo hiểm, phí bảo hiểm giảm thì TCTD giảm chi phí, lúc đó NGT có lợi hơn. Bởi

khi TCTD phải đóng phí cao thì để đảm bảo kinh doanh có lãi, lãi suất tiền gửi có

thể phải thấp nên ảnh hưởng đến NGT.

Ngoài ra, như đã trình bày trong phần chủ thể đóng phí bảo hiểm, trong

trường hợp cho phép NH tự nguyện đóng phí bảo hiểm cho khách hàng là tổ chức,

lúc bấy giờ BHTG mang tính chất kinh doanh thương mại. Do vậy, cách tính phí

bảo hiểm đối với trường hợp này có thể cao hơn đối với trường hợp đóng BHTG bắt

buộc. Đồng thời, các tính phí phải tính toán phù hợp. Chẳng hạn, nếu áp dụng bảo

hiểm chi trả có giới hạn thì phải căn cứ vào hạn mức chi trả để đóng phí92

.

b) Một số quy định về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

Theo quy định hiện hành, BHTG Việt Nam là tổ chức hoạt động không vì

mục tiêu lợi nhuận. BHTG Việt Nam hoạt động nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của NGT, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia BHTG và sự

phát triển an toàn, lành mạnh hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động

của BHTG Việt Nam vẫn còn một số hạn chế trong thực hiện mục tiêu trên.

Một là, BHTG Việt Nam do Chính phủ thành lập và là cơ quan trực thuộc

Chính phủ. Tuy nhiên, thông qua các văn bản pháp luật hiện hành, nhận thấy hoạt

động của BHTG Việt Nam chưa có sự độc lập trong quá trình thực hiện chức năng

nhiệm vụ của mình, hoạt động chủ yếu trên cơ sở kiến nghị và quyết định với cơ

quan quản lý nhà nước có liên quan. Đặc biệt, BHTG Việt Nam phụ thuộc nhiều

vào NHNN93. Điều đó đã hạn chế vai trò của BHTG trong việc bảo vệ quyền lợi

92

Theo quy định hiện hành, phí bảo hiểm đóng trên toàn bộ số dư bình quân của từng loại tiền gửi được bảo

hiểm, trong khi đó tiền bảo hiểm chỉ trả một số lượng nhất định tối đa 50 triệu đồng. Như vậy, đối với số tiền

chênh lệch trên 50 triệu đồng thì không được bảo hiểm trong khi tổ chức bảo hiểm vẫn phải đóng phí trên

toàn bộ số dư bình quân.

93 Chẳng hạn, NHNN trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà nước đối với tổ chức và hoạt động của BHTG Việt

Nam thể hiện qua một số quy định sau:

- Khi phát hiện tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vi phạm các quy định về an toàn trong hoạt động

ngân hàng, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có quyền yêu cầu tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi thực hiện các

biện pháp chấn chỉnh, đồng thời báo cáo bằng văn bản với Ngân hàng Nhà nước. (Khoản 1 Điều 12 Nghị

định số 89/1999/NĐ-CP)

- Trong trường hợp xét thấy hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có nguy cơ dẫn đến

mất khả năng chi trả, thất thoát lớn về tài sản hoặc có tác động nghiêm trọng tới các tổ chức tín dụng khác,

thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi có quyền yêu cầu tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có biện pháp chấn chỉnh

kịp thời, đồng thời báo cáo Ngân hàng Nhà nước có biện pháp xử lý khẩn cấp. (Khoản 2 Điều 12 Nghị định

số 89/1999/NĐ-CP)

Huỳnh Anh

76

NGT, bảo vệ an toàn hệ thống ngân hàng. BHTG Việt Nam không có quyền chủ

động áp dụng các biện pháp chấn chỉnh, không tự đưa ra được các biện pháp xử lý

khẩn cấp,… để hạn chế, ngăn chặn các tổ chức tham gia BHTG mất khả năng thanh

toán. BHTG Việt Nam chỉ dừng lại ở việc “yêu cầu” các tổ chức tham gia BHTG tự

chấn chỉnh và “báo cáo” với NHNN để NHNN có biện pháp xử lý. Điều này đã làm

mất đi tính linh hoạt, chủ động của BHTG Việt Nam. Ngoài ra, BHTG Việt Nam

khi nhận thấy cần thiết phải hỗ trợ tài chính cho các tổ chức tham gia BHTG vẫn

không thể tự quyết định. BHTG Việt Nam phải được sự đồng ý của NHNN. Điều

đó có thể sẽ dẫn đến việc can thiệp không kịp thời. Bởi rủi ro tài chính là rủi ro có

tốc độ lan truyền nhanh, nếu không có sự can thiệp kịp thời thì rất có thể sẽ đe dọa

đến sự ổn định của toàn hệ thống94

.

Qua nghiên cứu về vị trí pháp lý của tổ chức BHTG trên thế giới, nhận thấy

hầu hết các tổ chức BHTG đều theo mô hình độc lập với NH Trung ương, chỉ một

số ít trực thuộc NH trung ương. Các mô hình BHTG trên thế giới như mô hình

BHTG của Mỹ là mô hình thành lập đầu tiên trên thế giới (năm 1933 sau khủng

hoảng tài chính 1929-1933), đây là mô hình độc lập với Chính phủ và chịu sự kiểm

soát của Quốc hội. Tổng công ty BHTG Hàn Quốc (KDIC) là tổ chức độc lập trực

thuộc Chính phủ,…95

. Các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương như

Nhật Bản, Philipines, lãnh thổ Đài Loan thuộc Trung Quốc, Malaysia đều theo mô

hình độc lập. Một số nước như Bangladesh, Kenya, Slovenia, Đảo Sip, Lào,

Srilanka là những nước hệ thống BHTG thuộc ngân hàng Trung ương96

. Thực tiễn

cho thấy các mô hình BHTG hoạt động có hiệu quả đa số là các mô hình độc lập với

NHNN và thường tồn tại ở các nước phát triển.

Hai là, về vấn đề kinh doanh của tổ chức BHTG Việt Nam, theo Điều 5 Nghị

định số 89/1999/NĐ-CP thì Tổ chức BHTG là tổ chức tài chính nhà nước hoạt động

không vì mục tiêu lợi nhuận, bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí. Tổ chức

BHTG có tư cách pháp nhân, có bảng cân đối riêng, được mở tài khoản tại các NH

trong nước và nước ngoài, có con dấu, được Nhà nước cấp vốn điều lệ. BHTG Việt

94

Khoản 6 Điều 1 NĐ109/2005/NĐ-CP có quy định: “Tổ chức bảo hiểm tiền gửi chỉ xem xét, quyết định việc

hỗ trợ tài chính cho tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định tại Điều 14 sau khi Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam xác định rằng việc giải thể, phá sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có thể gây ra

những ảnh hưởng nghiêm trọng, sâu rộng đến sự an toàn của hệ thống tài chính, ngân hàng và sự ổn định

chính trị, kinh tế - xã hội”

95 Đăng Dung (2010), “Quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi”, xem tại:

http://vietnamnet.vn/kinhte/201003/Bao-ve-tot-hon-nguoi-gui-tien-896955/

96 Xem tại: http://www.vinacorp.vn/news/xay-dung-luat-bao-hiem-tien-gui-khong-the-tri-hoan/ct-376867

Huỳnh Anh

77

Nam được sử dụng vốn để đầu tư ở mức độ rất hạn chế97

, chủ yếu mang tính chất

tiết kiệm nguồn vốn nhàn rỗi.

Nhận thấy, mặc dù BHTG là một tổ chức được thành lập nhằm thực hiện

chính sách công của nhà nước, thực hiện mục tiêu bảo vệ quyền lợi NGT, đảm bảo

an sinh xã hội, đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD, nhưng với định hướng phát

triển của nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, do vậy

BHTG cần phù hợp với xu hướng này, đặc biệt là hiện nay Việt Nam đã gia nhập

WTO. Bên cạnh đó, BHTG của rất nhiều quốc gia cũng theo mô hình doanh nghiệp

đã trở thành xu hướng chung và mang lại những hiệu quả tích cực98

. Nhờ đó, tổ

chức BHTG có thể có nhiều lợi nhuận để tăng nguồn vốn cho hoạt động của mình.

Mặt khác, giúp tổ chức BHTG Việt Nam giảm bớt, tiến tới không còn sự phụ thuộc

về vốn từ ngân sách nhà nước.

Mặt khác, với tư cách là một doanh nghiệp, BHTG Việt Nam có thể thực

hiện bảo hiểm cho các tổ chức gửi tiền tại các TCTD nếu họ có yêu cầu thông qua

việc tham gia BHTG tự nguyện như đã trình bày trong phần chủ thể tham gia tham

gia BHTG trên đây.

c) Quy định liên quan đến phá sản tổ chức tín dụng

NGT chính là chủ nợ không có bảo đảm của TCTD, vì vậy, theo quy định tại

Khoản 1 Điều 13 Luật phá sản, Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 114/2008/NĐ-CP của

Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật phá sản đối với doanh nghiệp

hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và tài chính khác, thì

khi nhận thấy TCTD lâm vào tình trạng phá sản, NGT có quyền nộp đơn yêu cầu

mở thủ tục phá sản đối với TCTD. Tuy nhiên, do với tính chất đặc biệt của TCTD là

hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên sẽ có sự tham gia của Nhà nước

trước khi tiến hành phá sản như đối với các doanh nghiệp thông thường khác.

TCTD có thể sẽ có giai đoạn kiểm soát đặc biệt trước khi thực hiện giải quyết yêu

cầu tuyên bố phá sản.

97

Chẳng hạn, BHTG Việt Nam được sử dụng vốn tạm thời nhàn rỗi để mua trái phiếu, tín phiếu Chính phủ,

tín phiếu NHNN, gửi tiền tại Kho bạc Nhà nước và tại NHNN Nam; gửi tiền, mua trái phiếu, tín phiếu của

các Ngân hàng thương mại Nhà nước và các Ngân hàng thương mại cổ phần được NHNN xếp loại A nhằm

bảo đảm an toàn vốn và bù đắp chi phí. (xem Khoản 5 mục II Thông tư số 62/2008/TT-BTC ngày ngày 08

tháng 7 năm 2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện quy chế quản lý tài chính đối với bảo hiểm tiền gửi

Việt Nam).

98 Đa số các nước trên thế giới đều quy định tổ chức BHTG là một loại hình doanh nghiệp với tên gọi là tổng

công ty BHTG (xem tại http://www.div.gov.vn/Default.aspx?tabid=120&News=377&CategoryID=3)

Huỳnh Anh

78

Khoản 3 Điều 92 Luật Các TCTD 2004, TCTD có thể đặt trong tình trạng

kiểm soát đặc biệt khi có nguy cơ mất khả năng chi trả; nợ không có khả năng thu

hồi có nguy cơ mất khả năng thanh toán; hoặc khi số lỗ luỹ kế của TCTD lớn hơn

50% tổng số vốn điều lệ thực có và các quỹ99

. Đồng thời, theo Điều 98 Luật Các

TCTD 2004 “sau khi Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản về việc không áp dụng

hoặc chấm dứt áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán của tổ chức tín

dụng mà tổ chức tín dụng đó vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, thì có thể bị

Toà án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản theo quy định của Luật phá

sản”. Như vậy, thủ tục phá sản khi TCTD lâm vào tình trạng phá sản chỉ có thể tiến

hành khi có văn bản của về việc không áp dụng hoặc chấm dứt các biện pháp phục

hội khả năng thanh toán đối với TCTD, ngay cả trường hợp NGT có nộp đơn yêu

cầu phá sản TCTD trước đó rất lâu100.

2.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của

ngƣời gửi tiền

2.2.1. Hoàn thiện những quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền

Sửa đổi, bổ sung Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

NHNN có vai trò điều tiết hệ thống tiền tệ, do đó nó bao gồm vai trò đảm

bảo an toàn hệ thống các TCTD. Theo quy định hiện hành, NHNN là cơ quan của

Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân

hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng

làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ101

. Với cách tổ chức hiện nay, Chính phủ là cơ

quan quyết định chính sách (cả về mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt động) cũng như can

thiệp vào quá trình triển khai thực thi chính sách tiền tệ. Đây là một trong những

nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHNN, nhất là trong việc thực

hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền. Vì vậy, NHNN cần được nâng cao tính độc

99

Theo Luật Các TCTD 2010 quy định: NHNN xem xét, đặt TCTD vào tình trạng kiểm soát đặc biệt khi tổ

chức tín dụng lâm vào một trong các trường hợp sau đây:

a) Có nguy cơ mất khả năng chi trả;

b) Nợ không có khả năng thu hồi có nguy cơ dẫn đến mất khả năng thanh toán;

c) Khi số lỗ lũy kế của tổ chức tín dụng lớn hơn 50% giá trị thực của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ ghi trong

báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất;

d) Hai năm liên tục bị xếp loại yếu kém theo quy định của Ngân hàng Nhà nước;

đ) Không duy trì được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu quy định tại Điểm b, Khoản 1 Điều 130 của Luật này trong

thời hạn một năm liên tục hoặc tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thấp hơn 4% trong thời hạn 06 tháng liên tục. 100

Xem Điều 152, Điều 155 Luật Các TCTD 2010.

101 Xem Điều 1 Luật NHNN 1997.

Huỳnh Anh

79

lập của mình để hoạt động hiệu quả hơn. Cần thiết trao cho NHNN đủ thẩm quyền

để lựa chọn các công cụ điều hành một cách linh hoạt và phù hợp nhất nhằm đạt

được các chỉ tiêu đề ra, tức NHNN có trách nhiệm hoàn thành chỉ tiêu trên cơ sở

được trao đủ thẩm quyền cần thiết để có thể toàn quyền lựa chọn những công cụ

điều hành chính sách tiền tệ phù hợp nhất. Chỉ tiêu chính sách tiền tệ do Chính phủ

hoặc Quốc hội quyết định sau khi thảo luận, thỏa thuận với NHNN. Khi NHNN

hoạt động hiệu quả, tính an toàn của hệ thống các TCTD cao hơn, quyền lợi của

NGT cũng được đảm bảo chắc chắn hơn.

Sửa đổi, bổ sung một số quy định trong Luật Các tổ chức tín dụng

- Thứ nhất, NGT có quyền được biết những thông tin về tiền gửi của mình,

giúp họ theo dõi, kiểm tra tiền gửi của mình. Như vậy, bên cạnh việc thông báo lãi

suất theo định kỳ của TCTD, Luật Các TCTD cần quy định thêm nghĩa vụ thông

báo công khai cách tính lãi suất của TCTD cho khách hàng biết, đặc biệt là đối với

những khoản tiền gửi được tính theo lãi suất linh hoạt hoặc lãi suất tự điều chỉnh

tăng. Các thông tin về cách tính lãi suất phải được đưa lên trang website của các

TCTD.

- Thứ hai, để tránh việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các TCTD, cũng

như việc lợi dụng các hình thức khuyến mại để nâng lãi suất huy động theo ý chí

của TCTD, dẫn đến những biến động bất ổn trên thị trường tiền tệ. Nhà nước cần

phải có những quy định và cơ chế kiểm soát chặt chẽ đối với các hoạt động xúc tiến

thương mại trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, đặc biệt là hình thức khuyến mại. Do

đó, Luật Các TCTD cần ghi nhận việc điều chỉnh các hoạt động xúc tiến thương

mại của các TCTD sẽ được điều chỉnh riêng và được Chính phủ quy định cụ thể.

Sửa đổi, bổ sung Quy chế tiền gửi tiết kiệm ban hành kèm theo Quyết định

số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13 tháng 9 năm 2004 của Thống đốc

Ngân hàng nhà nước và Quyết định số 47/2006/QĐ-NHNN ngày 25 tháng

9 năm 2006 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung

một số điều của Quy chế về tiền gửi tiết kiệm

Thứ nhất, nhằm đảm bảo sự phù hợp giữa lý luận và thực tiễn, đó là bên cạnh

tiền gửi tiết kiệm của cá nhân nhằm mục đích tiết kiệm và an toàn thì các tổ chức có

tiền gửi nhàn rỗi cũng gửi vào TCTD với mục đích này. Vì vậy, Quy chế cần ghi

nhận chủ thể gửi tiền tiết kiệm bao gồm cả tổ chức.

Thứ hai, trong quá trình huy động vốn, vấn đề các nhân viên NH muốn

khách hàng gửi tiền nên đôi khi cố tình không minh bạch thông tin dẫn đến nhiều

Huỳnh Anh

80

khách hàng đã có sự nhầm lẫn trong giao dịch. Vì vậy, để tránh sự nhầm lẫn này,

bên cạnh các quy định hiện hành về công bố công khai lãi suất, công khai nội dung

khuyến mại (đối với hình thức huy động vốn có khuyến mại), Quy chế cần quy định

TCTD cần thể hiện rõ nội dung về lãi suất, về quyền rút vốn trước hạn đối với

những trường hợp có sự thay đổi khác hơn so với quy định chung mà có khả năng

gây ngộ nhận cho khách hàng. Chẳng hạn, trong trường hợp NGT không được rút

vốn trước hạn thì trong giấy chứng nhận tiền gửi phải ghi rõ “không được rút vốn

trước hạn” hoặc “rút vốn trước hạn sẽ tính lãi suất không kỳ hạn”102

. Điều này

cũng khắc phục được vấn đề tranh chấp liên quan đến việc có thỏa thuận về rút

trước hạn giữa tổ chức nhận tiền gửi và NGT. Bởi, khi đó đã xác định rõ tiền gửi

nào được rút vốn trước hạn, tiền gửi nào không được rút vốn trước hạn.

Thứ ba, NGT cũng cần được tạo điều kiện để biết tiền gửi của mình tại các

TCTD có được bảo hiểm không, trên thực tế một bộ phận không nhỏ NGT không

nắm được điều này. Vì vậy, thỏa thuận giữa NGT và TCTD cần thể hiện được nội

dung này. Xuất phát từ đó, Quy chế cần bổ sung nội dung TCTD có trách nhiệm ghi

nhận vào thể lệ tiền gửi các loại tiền gửi được bảo hiểm và không được bảo hiểm.

Trong thời gian tới, nếu thực hiện việc việc bảo hiểm tự nguyện đối với tổ chức thì

việc ghi nhận vào thể lệ gửi tiền hoặc quy chế mở tài khoản về việc xác định tiền

gửi có được bảo hiểm hay không lại càng có ý nghĩa quan trọng, bởi vì lúc bấy giờ

sẽ các khoản tiền gửi được bảo hiểm và không được bảo hiểm càng khó xác định

hơn hiện nay. Ngoài ra, đây cũng là một cách tuyên truyền hữu hiệu để NGT hiểu

thêm về chính sách BHTG của nhà nước ta đối với dân chúng, giúp dân chúng có

nhận thức và lòng tin nhiều hơn đối với BHTG, đối với TCTD, từ đó củng cố lòng

tin của họ khi gửi tiền vào TCTD.

Thứ tư, như đã phân tích trong Điểm a Mục 2.1.2.3, pháp luật hiện hành quy

định tổ chức nhận tiền gửi đóng tài khoản tiền gửi khi NGT chết và thực hiện

chuyển giao tiền gửi cho những người thừa kế. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành

không quy định cụ thể trình tự, thủ tục chuyển giao. Đồng thời, thực tiễn giải quyết

vấn đề chuyển giao đối với khoản tiền gửi không thể rút vốn trước hạn cho thấy một

số vướng mắc. Do vậy, Quy chế cần thiết quy định rõ theo hướng cho phép những

người thừa kế tiền gửi của NGT được quyền rút vốn trước hạn ngay cả trong trường

hợp có thỏa thuận không được phép rút vốn trước hạn và được tính lãi suất không

kỳ hạn. Điều này có ý nghĩa hạn chế những tranh chấp về thừa kế có thể phát sinh

102

Vì trên thực tế, thông thường các TCTD đều cho phép tính lãi suất có kỳ hạn đối với khoản tiền gửi rút

trước hạn nếu khoản tiền này đạt kỳ hạn nhất định.

Huỳnh Anh

81

do việc chia di sản phức tạp và kéo dài cũng như khắc phục được bất cập là chủ nợ

của người chết “buộc” phải khởi kiện những người thừa kế để đòi nợ vì sợ hết thời

hiệu khởi kiện.

Thêm vào đó, Quy chế cần quy định trong những trường hợp bất khả kháng

(như thiên tai, hỏa hoạn, ốm đau,...) NGT có thể rút vốn trước hạn đối với tiền gửi

không có thỏa thuận rút trước hạn nhằm giúp họ vượt qua khó khăn này.

Thứ năm, Quy chế cần quy định tổ chức nhận tiền gửi có trách nhiệm đưa lên

website của mình Thể lệ tiền gửi tiết kiệm, Quy định về mở và sử dụng tài khoản

tiền gửi. Qua đó, tạo được sự công khai, minh bạch hơn về thông tin tiền gửi. NGT

dễ dàng tìm hiểu và nắm được những thông tin cần thiết để lựa chọn tổ chức nhận

tiền gửi, hình thức gửi tiền phù hợp với nhu cầu của mình.

Sửa đổi, bổ sung quy chế phát hành giấy tờ có giá ban hành kèm theo

Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24 tháng 3 năm 2008 của Thống

đốc Ngân hàng nhà nước

Các loại giấy tờ có giá rất đa dạng và phong phú. Bên cạnh đó, chỉ có một số

loại giấy tờ có giá được xem là tiền gửi (theo Luật Các TCTD 2010 thì bao gồm

chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu) thì mới có thể được BHTG chi trả khi gửi

tiền vào tổ chức có tham gia BHTG. Ngoài ra, pháp luật hiện hành cũng chỉ bảo

hiểm tiền ghi danh. Chính vì vậy, khi phát hành các loại giấy tờ có giá, tổ chức phát

hành cần thiết ghi rõ trên giấy tờ có giá đó là được bảo hiểm hay không được

BHTG.

Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20 tháng 9 năm

2001 về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh

toán và Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà

nước và các tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định số

1284/2002/QĐ-NHNN ngày 21 tháng 11 năm 2002 của Thống đốc Ngân

hàng nhà nước

Thứ nhất, như đã phân tích, nội dung của hai văn bản này không có sự thống

nhất trong việc quy định các trường hợp được phép đóng tài khoản của khách hàng.

Đồng thời quy định tại Khoản 2 Điều 10 Nghị định số 64/2001/NĐ-CP không phù

hợp, có thể ảnh hưởng đến lợi ích chính đáng của NGT. Mặt khác, hiện nay chúng

ta đang khuyến khích thanh việc thanh toán không dùng tiền mặt, việc dễ dàng đóng

tài khoản khách hàng sẽ hạn chế việc thanh toán này. Vì vậy, không nên quy định

trường hợp NH được đóng tài khoản khách hàng vì lý do số dư trong tài khoản thấp

Huỳnh Anh

82

và không sử dụng dịch vụ thanh toán trong thời gian dài. Do đó, bỏ nội dung này

trong phần trong Khoản 2 Điều 10 Nghị định số 64/2001/NĐ-CP. Đồng thời, luật

cần quy định cụ thể vi phạm nào thì TCTD được đóng tài khoản khách hàng để

tránh sự tùy tiện của các TCTD khi quy định vấn đề này. Từ đó sửa đổi Khoản 1

Điều 14 Quy chế mở và sử dụng tài khoản tại NHNN và TCTD theo hướng NH

được phép đóng tài khoản của khách hàng theo Điều 10 Nghị định số 64/2001/NĐ-

CP.

Thứ hai, Nghị định cần bổ sung trường hợp tổ chức nhận tiền gửi đóng tài

khoản NGT khi người này bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đồng thời, chuyển

giao cho cho người giám hộ quản lý theo quy định về giám hộ.

Thứ ba, theo quy định hiện hành không có quy định về trường hợp khách

hàng được phép phong tỏa tài khoản của TCTD để bảo vệ lợi ích chính đáng cho

mình. Vì vậy, Nghị định cần bổ sung nội dung này để tránh việc các TCTD đưa ra

những quy định phong tỏa tài khoản NGT không chính đáng, ảnh hưởng đến quyền

lợi của họ.

Sửa đổi, bổ sung Quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng

dịch vụ thanh toán ban hành kèm theo Quyết định số 226/2002/QĐ-

NHNN ngày 26 tháng 03 năm 2002 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước

Việt Nam

Trong quá trình thực hiện dịch vụ chuyển tiền, việc NH “ngâm” tiền của

khách hàng đã xâm phạm đến quyền lợi chính đáng của khách hàng và trong nhiều

trường hợp đã gây thiệt hại đáng kể cho khách hàng. Hiện nay, pháp luật cũng có

quy định về việc nếu NH gây thiệt hại cho khách hàng thì khách hàng có quyền

khiếu nại, yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu có). Đồng thời, luật cũng xác định mức

bồi thường nhưng chưa đủ mạnh nên việc vi phạm còn phổ biến. Do vậy, cần nâng

cao mức bồi thường đối với hành vi này. Chẳng hạn, mức phạt chậm trả bằng 2 lần

mức lãi suất quá hạn loại cho vay cao nhất tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

vi phạm. Bên cạnh đó, hành vi “ngâm tiền” là một hành vi vi phạm nguyên tắc hoạt

động ngân hàng, vì vậy cần có chế tài hành chính đối với hành vi này. Quy chế cần

bổ sung chế tài xử phạt hành chính đối với nhân viên NH và NH có hành vi cố ý giữ

lại khoản tiền của khách hàng mà không chuyển đúng thời gian quy định, trong đó

nêu rõ mức xử phạt đối với hành vi trên.

Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 70/2000/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm

2000 của Chính phủ về việc giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp thông tin liên

quan đến tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng và Thông tư số

Huỳnh Anh

83

02/2001/TT-NHNN ngày 4 tháng 4 năm 2001 của Ngân hàng Nhà nước

về hướng dẫn thực hiện Nghị định số 70/2000/NĐ-CP

Thứ nhất, theo quy định hiện hành, cũng như Luật Các TCTD 2010 không

quy định chế tài cụ thể đối với tổ chức nhận tiền gửi khi vi phạm nghĩa vụ tiết lộ

thông tin. Hiện nay, pháp luật chỉ dừng lại ở việc khách hàng được quyền khiếu nại

và khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu có). Cần quy định cơ chế xác định

thiệt hại làm cơ sở cho các cơ quan tiến hành tố tụng xác định thiệt hại mà chủ thể

vi phạm phải bồi thường cho NGT bị thiệt hại. Cần bổ sung những chế tài cụ thể đối

với việc tiết lộ bí mật thông tin khách hàng vào Nghị định này, xác định rõ những

trường hợp nào thì xử phạt hành chính, trường hợp nào phải truy cứu trách nhiệm

hình sự. Từ đó, phân định rõ vụ việc thuộc trách nhiệm cụ thể của cơ quan nào, tạo

thuận lợi cho khách hàng khi khiếu kiện, tránh sự đùn đẩy giữa các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền, đồng thời cũng giúp cơ quan có thẩm quyền giải quyết dễ

dàng hơn.

Thứ hai, để tạo cơ sở pháp lý cũng như tạo điều kiện tốt hơn trong việc bảo

vệ quyền lợi NGT chưa thành niên, người thừa kế của NGT, cần ghi nhận chủ thể

được cung cấp thông tin bao gồm cả người đại diện cho NGT (đối với NGT chưa

thành niên) và người thừa kế của NGT (trong trường hợp NGT chết). Vì vậy, sửa

đổi Thông tư số 02/2001/TT-NHNN hướng dẫn thi hành Khoản 1 Điều 5 Nghị định

số 70/2000/NĐ-CP như sau: “Việc cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi và tài

sản gửi của khách hàng theo yêu cầu của bản thân khách hàng đó hoặc người đại

diện của NGT hoặc người thừa kế (trong trường hợp NGT chết) được thực hiện

theo hướng dẫn của từng tổ chức nhận tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng.”

Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm

1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi, Nghị định số 109/2005/NĐ-CP

ngày 24 tháng 8 năm 2005 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số

điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP và Thông tư số 03/TT-NHNN ngày

25 tháng 4 năm 2006 của Ngân hàng Nhà nước về việc hướng dẫn một số

nội dung tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP và Nghị định số 109/2005/NĐ-

CP

- Thứ nhất, về đối tượng được bảo hiểm

Chính sách bảo hiểm của Nhà nước là bảo hiểm cá nhân NGT nhỏ, đảm bảo

an sinh xã hội, bảo vệ chủ yếu những đối tượng là người có thu nhập trung bình,

thấp, người làm công ăn lương... Mặt khác, quy định chế độ bảo hiểm như hiện nay

có ý nghĩa khuyến khích những người dân có vốn lớn, có khả năng kinh doanh nên

Huỳnh Anh

84

đầu tư vốn vào kinh doanh để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, góp phần giải quyết

việc làm, ổn định xã hội, tạo nhiều nguồn thu nhập cho ngân sách nhà nước. Vì vậy

pháp luật nên duy trì quy định bảo hiểm bắt buộc đối với đối tượng này.

Vấn đề bảo hiểm đối với tổ chức không cần thiết sử dụng quy định bảo vệ

bắt buộc, bởi họ không là đối tượng yếu thế cần sự che chở của xã hội. Như đã trình

bày, bảo hiểm đối với tiền gửi cá nhân phần đông là khoản tiết kiệm, dành dụm.

Còn đối với các tổ chức kinh doanh thì đã kinh doanh cũng nên chấp nhận rủi ro.

Đó là chưa đề cập đến các chủ thể này có khả năng nắm bắt thông tin tốt, có thể tự

bảo vệ mình tốt hơn so với các chủ thể khác khi có những bất ổn trong thị trường tài

chính - tiền tệ. Do đó, việc bảo hiểm cho khoản tiền gửi đối với các chủ thể này nên

để các TCTD tự nguyện tham gia, điều này tùy thuộc vào sự cạnh tranh cũng như

năng lực của các TCTD, bởi bên cạnh việc đóng phí bảo hiểm, TCTD còn phải duy

trì tài khoản dự trữ bắt buộc tại NHNN, điều này cũng ảnh hưởng đến nguồn vốn

kinh doanh của TCTD.

Tóm lại, bổ sung quy định cho phép các TCTD đóng phí BHTG đối với các

khoản tiền gửi của tổ chức, việc đóng phí này là tự nguyện. Từ đó, bổ sung quy

định các tổ chức gửi tiền tại các TCTD có đóng các khoản phí này sẽ được bảo

hiểm đối với phần tiền gửi của mình.

- Thứ hai,về hạn mức chi trả bảo hiểm

Như đã phân tích trên, việc xác định hạn mức chi trả BHTG cần phải dựa

vào nhiều yếu tố như tình hình thị trường tài chính, lạm phát, thu nhập bình quân

đầu người, năng lực tài chính chính của BHTG... Phân tích cho thấy thị trường tài

chính Việt Nam còn nhiều biến động, lạm phát đang cao, thu nhập bình quân đầu

người của Việt Nam trong 5 năm qua cũng đã tăng đáng kể. Vì vậy, việc duy trì hạn

mức chi trả BHTG là 50 triệu đồng từ năm 2005 đến nay là thấp, không phù hợp.

Do đó, cần xác định lại hạn mức này cho phù hợp với tình hình hiện tại.

- Thứ ba, về loại tiền gửi được bảo hiểm

Bên cạnh việc bảo hiểm đối với Đồng Việt Nam, cần thiết phải bảo hiểm đối

với ngoại tệ và vàng được gửi tại các tổ chức tham gia BHTG. Điều này một mặt

đảm bảo được sự bình đẳng giữa những NGT, mặt khác, tăng cường thu hút nguồn

vốn ngoại tệ phục vụ cho nhu cầu giao dịch thanh toán quốc tế bằng ngoại tệ. Đồng

thời, đó cũng là một đòi hỏi tất yếu, phù hợp với thông lệ quốc tế khi lượng giao

dịch ngoại tệ của nước ta hiện đã phổ biến và có xu hướng ngày càng tăng.

Thứ tư, tổ chức lại mô hình của BHTG

Huỳnh Anh

85

Tổ chức lại mô hình BHTG Việt Nam theo hướng BHTG Việt Nam hoạt

động như một doanh nghiệp. Một mặt, khắc phục sự yếu kém do những hạn chế về

sự lệ thuộc NHNN như hiện nay, mặt khác sẽ tạo điều kiện giảm hỗ trợ của Ngân

sách nhà nước cho BHTG Việt Nam, đồng thời phù hợp với xu hướng phát triển của

nền kinh tế thị trường. Điều này cũng phù hợp với giải pháp cho phép các TCTD

đóng phí BHTG tự nguyện để BHTG cho NGT là tổ chức.

Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm

2006 của Chính phủ hướng dẫn việc áp dụng Luật Phá sản đối với doanh

nghiệp đặc biệt và tổ chức và hoạt động của tổ quản lý, thanh lý tài sản

Trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản (tạm gọi chung là

doanh nghiệp), khoản tiền còn lại sau khi hoàn thành việc thanh toán nợ cho chủ nợ

sẽ thuộc về chủ sở hữu, các thành viên của doanh nghiệp. Như đã phân tích, quá

trình thanh lý tài sản, Tổ quản lý, thanh lý tài sản có mở một tài khoản là tài sản của

doanh nghiệp bị phá sản và do Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản đứng tên. Để

tránh việc người này lợi dụng việc đứng tên tài khoản gây thiệt hại cho chủ sở hữu

thực sự của khoản tiền gửi, cần quy định cụ thể thời hạn Tổ trưởng tổ quản lý, thanh

lý tài sản đóng tài khoản để chuyển giao cho chủ sở hữu, thành viên của doanh

nghiệp (chẳng hạn, không quá một ngày kể từ ngày có quyết định giải thể tổ thanh

lý tài sản). Đồng thời, như đã nêu, trong trường hợp đã thanh toán xong các khoản

nợ cho chủ nợ mà thẩm phán giải quyết vụ việc vẫn chưa ra quyết định giải thể Tổ

quản lý, thanh lý tài sản thì chủ sở hữu doanh nghiệp, thành viên của doanh nghiệp

có quyền khiếu nại thẩm phán này và yêu cầu ra quyết định trên.

Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm

2006 của Chính phủ về ban hành danh mục vốn pháp định của các tổ

chức tín dụng

TCTD phải có vốn Điều lệ thực góp hoặc được cấp tối thiểu tương đương

mức vốn pháp định theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Danh mục mức

vốn pháp định của các TCTD trong Nghị định này, đối với các ngân hàng thương

mại, mức vốn pháp định là 3.000 tỷ đồng; chi nhánh ngân hàng nước ngoài là 15

triệu USD; với ngân hàng chính sách, ngân hàng phát triển là 5.000 tỷ đồng; ngân

hàng đầu tư, ngân hàng hợp tác và quỹ tín dụng nhân dân Trung ương là 3.000 tỷ

đồng; với công ty tài chính là 500 tỷ đồng; công ty cho thuê tài chính là 150 tỷ

đồng. Như vậy, mức vốn pháp định cao nhất áp dụng đối với các loại hình tổ chức

tín dụng hiện nay là 5000 tỉ đồng. Mức vốn này vẫn còn ở mức thấp. Mức vốn pháp

định thấp sẽ dẫn đến việc các NH đua nhau ra đời với mức vốn Điều lệ thấp nên

Huỳnh Anh

86

thường thiếu chất lượng, thiếu sự đa dạng dịch vụ, tiện ích để phục vụ cho khách

hàng, khả năng kiểm soát rủi ro thấp, giới hạn trách nhiệm của các TCTD đối với

các khoản nợ cũng thấp, không đảm bảo được tốt nhất quyền lợi của NGT. Do vậy,

cần tăng vốn pháp định đối với các tổ chức tín dụng. Chẳng hạn, có thể nâng mức

vốn pháp định của loại hình TCTD là NH thương mại từ mức 3000 tỷ đồng lên

7000 tỷ đồng, đối với ngân hàng chính sách, ngân hàng phát triển là 10.000 tỷ

đồng.

2.2.2. Hoàn thiện cơ chế đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền

Thứ nhất, xuất phát từ thực trạng chuyển tiền nhầm của NH đã gây ra thiệt

hại cho khách hàng chuyển tiền, cũng như gây phiền hà cho khách hàng được

chuyển nhầm, NH cần tăng cường cơ chế kiểm tra nhằm hạn chế, khắc phục những

sai sót trên, tránh gây ảnh hưởng đến quyền lợi NGT do sự nhầm lẫn đó. Chẳng

hạn, cần tăng cường năng lực chuyên môn của đội ngũ nhân viên NH, tính chuyên

nghiệp trong công việc, tăng cường sử dụng những trang thiết bị hiện đại có khả

năng phát hiện nhanh những sai sót kỹ thuật trong quá trình thực hiện nghiệp vụ của

nhân viên NH,...

Thứ hai, cần bồi dưỡng kiến thức cho nhân viên NH về những quy định pháp

luật liên quan mật thiết đến việc thực hiện nghiệp vụ để phục vụ tốt hơn đối với

khách hàng gửi tiền, trong đó chú trọng những kiến thức về BHTG, những kiến thức

về chi trả tiền gửi cho người thừa kế khi cá nhân chết, những quy định pháp luật

liên quan đến việc giải quyết hậu quả của việc chuyền nhầm tiền,… tránh việc gây

phiền hà cho khách hàng gửi tiền như trong thời gian qua.

Thứ ba, cơ chế thẩm định, đánh giá cũng như theo dõi việc thực hiện các

chương trình khuyến mại của tổ chức nhận tiền gửi cần chặt chẽ hơn. Từ đó, hạn

chế được những vi phạm trong việc xây dựng chương trình khuyến mại của TCTD

cũng như những vi phạm trong quá trình thực hiện khuyến mại. Đảm bảo sự cạnh

tranh lành mạnh trong hoạt động ngân hàng.

Thứ tư, các TCTD cần tăng cường kiểm soát nội bộ để nâng cao tính an toàn.

Theo Hiệp ước Basel 2103

, rủi ro trong hoạt động ngân hàng không chỉ là rủi ro tín

dụng, rủi ro thị trường mà còn có rủi ro hoạt động. Theo Basel 2 định nghĩa “rủi ro

hoạt động” là rủi ro xảy ra tổn thất do các qui trình, hệ thống hay nhân viên trong

nội bộ NH vận hành không tốt hoặc do các nguyên nhân khách quan bên ngoài. Đây

103

Basel là Ủy ban Giám sát ngân hàng do các NH Trung ương các nước G10 thành lập năm 1975 dưới sự

bảo trợ của Ngân hàng Thanh toán quốc tế. Hiệp ước Basel 2 do Basel ban hành năm 2001 về an toàn vốn

trong hoạt động ngân hàng (xem tại: http://forum.broview.vn/default.aspx?g=posts&m=173).

Huỳnh Anh

87

là một trong những rủi ro trầm trọng mà NH thường phải đối mặt trong quá trình

hoạt động. Do vậy, các NH nâng cao năng lực của nhân viên NH, cần thường xuyên

đánh giá thực trạng tình hình tài chính để kịp thời có biện điều chỉnh và can thiệp

cần thiết, qua đó có thể ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro. Đặc biệt, hệ thống quản trị

điều hành và quản trị kinh doanh của các NH thương mại nước ta còn nhiều yếu

kém như hiện nay.

Kết lsuận chương 2:

Bên cạnh việc trình bày khái quát về những quy định nhằm bảo vệ quyền lợi

của người gửi tiền theo quy định hiện hành, tác giả đã tập trung làm rõ những quy

định liên quan đến bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, đặc biệt là phân tích những

hạn chế bất cập trong thực tiễn áp dụng. Theo đó, tác giả luận giải sâu những nội

dung về chủ thể gửi tiền, về lãi suất tiền gửi, những chính sách khuyến mại nhằm

thu hút các chủ thể gửi tiền của tổ chức tín dụng, các quy định liên quan đến vấn đề

cung cấp thông tin và bảo mật thông tin khách hàng, các quy định về phong tỏa và

đóng tài khoản khách hàng, quy định về quyền lợi của khách hàng gửi tiền khi tổ

chức tín dụng mất khả năng thanh toán. Qua đó, tác giả đã mạnh dạn đề xuất một số

giải pháp thiết thực, góp phần khắc phục hạn chế trên.

Huỳnh Anh

88

KẾT LUẬN CHUNG

Trên cơ sở tập hợp, chứng minh, luận giải và phân tích các dữ liệu một các

khoa học và thực tiễn, luận văn đã đạt được một số nội dung sau:

Một là, hệ thống hóa được những vấn đề mang tính lý luận về bảo vệ quyền

lợi NGT. Phân tích cho thấy rõ tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền lợi người gửi

tiền, nó không chỉ có ý nghĩa bảo vệ lợi ích của cá nhân gửi tiền mà còn có ý nghĩa

góp phần đảm bảo an toàn hoạt động hệ thống ngân hàng, góp phần phát triển nền

kinh tế thông qua việc cung ứng vốn cho nền kinh tế của các chủ thể này. Đồng

thời, chỉ rõ các quyền lợi của người gửi tiền cần được bảo vệ.

Hai là, tác giả đã phân tích những quy định của pháp luật hiện hành liên

quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến quyền lợi của người gửi tiền. Đặc biệt, tác giả

cũng so sánh đối chiếu quy định của pháp luật hiện hành với Luật Các tổ chức tín

dụng 2010 để làm rõ hơn vấn đề cần phân tích cũng như làm rõ những quy định mới

có liên quan đến quyền lợi người gửi tiền sẽ được áp dụng trong thời gian sắp tới.

Ba là, trên cơ sở phân tích những ảnh hưởng của quy định hiện hành liên

quan đến người gửi tiền, tác giả đã phân tích được những bất cập của quy định hiện

hành, quyền lợi của người gửi tiền vẫn chưa được đảm bảo. Đó là những bất cập

liên quan đến vấn đề phong tỏa tài khoản, cung cấp thông tin, bảo mật thông tin,

liên quan đến lãi suất, thừa kế; đặc biệt những vấn đề liên quan đến bảo hiểm tiền

gửi là nổi bật vì ảnh hưởng rất sâu sắc đến quyền lợi người gửi tiền.

Bốn là, trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng đó tác giả đã đề xuất một số

giải pháp để hoàn thiện những quy định pháp luật còn hạn chế, thiếu sót. Theo đó,

tác giả đã nêu một số nội dung cụ thể cần sửa đổi, bổ sung trong các văn bản liên

quan đến bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Tác giả hi vọng luận văn sẽ đóng góp một phần nhỏ trong việc hoàn thiện

những quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, tạo được mối quan hệ

hài hòa lợi ích giữa các chủ thể là người gửi tiền, tổ chức tín dụng, khách hàng vay,

tổ chức bảo hiểm tiền gửi… cũng như góp phần đảm bảo an toàn hệ thống tài chính

tiền tệ quốc gia.

-------------------

s

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. VĂN BẢN PHÁP LUẬT

1. Bộ luật Tố tụng dân sự 2004.

2. Bộ luật Dân sự 2005.

3. Luật Các tổ chức tín dụng 1997.

4. Luật Ngân hàng Nhà nước 1997.

5. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước 2003.

6. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng 2004.

7. Luật Phá sản 2004.

8. Luật Doanh nghiệp 2005.

9. Luật Công cụ chuyển nhượng 2005

10. Luật Giao dịch điện tử 2005.

11. Luật Thương mại 2005.

12. Luật Quản lí thuế 2006.

13. Luật Thi hành án dân sự 2008.

14. Luật Các tổ chức tín dụng 2010.

15. Luật Ngân hàng Nhà nước 2010.

16. Pháp lệnh Ngoại hối 2005.

17. Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 của Chính phủ

về bảo hiểm tiền gửi.

18. Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2005 của Chính

phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP

ngày 01 tháng 9 năm 1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi.

19. Nghị định số 70/2000/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2000 của Chính

phủ về việc giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi

và tài sản gửi của khách hàng.

20. Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20 tháng 9 năm 2001 của Chính phủ

về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.

21. Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02 tháng 5 năm 2001 của Chính phủ

về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính.

22. Nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày 4 tháng 10 năm 2002 của Chính phủ

"Về tổ chức và hoạt động của Công ty tài chính”.

23. Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm 2006 của Chính

phủ về ban hành danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng.

24. Nghị định số 95/2008/NĐ-CP ngày 25 tháng 8 năm 2008 của Chính phủ

sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02

tháng 5 năm 2001 về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính.

25. Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07 tháng 6 năm 2005 của Chính phủ

về phòng chống rửa tiền.

26. Nghị định 22/2006/NĐ-CP ngày 28 tháng 02 năm 2006 của Chính phủ

về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng

liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài.

27. Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 4 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ

quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại.

28. Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2006 của Chính phủ

hướng dẫn việc áp dụng Luật phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ

chức, hoạt động của tổ quản lý, thanh lý tài sản.

29. Nghị định số 114/2008/NĐ-CP ngày 3 tháng 11 năm 2008 của Chính

phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật phá sản đối với doanh

nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và tài

chính khác.

30. Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 9 tháng 11 năm 1999 của thủ

tướng Chính phủ về việc thành lập bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.

31. Quyết định số 13/2008/QĐ-TTg ngày 18 tháng 01 năm 2008 của Thủ

tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế đối với bảo hiểm tiền gửi Việt

Nam.

32. Quyết định số 1310/ 2001/QĐ-NHNN ngày 15 tháng 10 năm 2001 của

Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam ban hành Quy chế vay vốn giữa

các tổ chức tín dụng.

33. Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN ngày 21 tháng 11 năm 2002 của

Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam về ban hành “Quy chế mở và sử

dụng tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng”.

34. Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26 tháng 3 năm 2002 của

Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc ban hành quy chế hoạt

động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.

35. Quyết định số 581/2003/QĐ-NHNN ngày 09 tháng 6 năm 2003 của

Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc ban hành Quy chế dự trữ

bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng.

36. Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13 tháng 9 năm 2004 của

Thống đốc Ngân hàng nhà nước về ban hành quy chế về tiền gửi tiết kiệm.

37. Quyết định số 47/2006/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 9 năm 2006 của

Thống đốc Ngân hàng nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của

Quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành kèm theo quyết định số

1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13/9/2004 của Thống đốc ngân hàng nhà nước.

38. Quyết định số 1325/2004/QĐ-NHNN ngày 15 tháng 10 năm 2004 của

Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc ban hành quy chế chiết

khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng đối với khách hàng

39. Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19 tháng 4 năm 2005 của

Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam quy định các tỷ lệ bảo đảm an

toàn trong hoạt động của TCTD.

40. Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 của

Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam về ban hành quy định về phân

loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lí rủi ro tín dụng.

41. Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24 tháng 3 năm 2008 của

Thống đốc Ngân hàng nhà nước về ban hành quy chế phát hành giấy tờ có

giá của trong nước tổ chức tín dụng.

42. Quyết định số 1011/2010/QĐ-NHNN ngày 27 tháng 4 năm 2010 của

Ngân hàng nhà nước Việt Nam về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam.

43. Thông tư số 03/2000/TT-NHNN5 ngày 16 tháng 3 năm 2000 của Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thi hành Nghị định số 89/1999 NĐ-CP

ngày 01 tháng 9 năm 1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi.

44. Thông tư số 02/2001/TT-NHNN ngày 4 tháng 4 năm 2001 Ngân hàng

Nhà nước Việt Nam về hướng dẫn thực hiện NĐ 70/2000/NĐ-CP của Chính

phủ về việc giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi

và tài sản gửi của khách hàng.

45. Thông tư số 06/2002/TT-NHNN ngày 23 tháng 12 năm 2002 của Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện Nghị định số 79/2002/NĐ-

CP ngày 4 tháng 10 năm 2002 của Chính phủ "Về tổ chức và hoạt động của

Công ty tài chính”

46. Thông tư số 03/2006/TT-NHNN ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam về việc hướng dẫn một số nội dung tại Nghị định

số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi và

Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về việc sửa

đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP.

47. Thông tư số 06/2006/TT-NHNN ngày 25 tháng 8 năm 2006 của Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện khoản 3, điều 6 quyết định

số 270/1005/QĐ-TTG ngày 31/10/2005 của Thủ tướng chính phủ về việc tổ

chức, huy động, quản lý và sử dụng nguồn tiền gửi tiết kiệm bưu điện.

48. Thông tư số 07/2007/TT-BTM-BTC ngày 6 tháng 7 năm 2007 của Bộ

Thương mại, Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện một số điều về khuyến mại

và hội chợ, triển lãm thương mại quy định tại Nghị định số 37/2006/NĐ-CP

ngày 4 tháng 4 năm 2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động

xúc tiến thương mại.

49. Thông tư số 62/2008/TT-BTC ngày 8 tháng 7 năm 2008 của Bộ tài

chính hướng dẫn thực hiện quy chế đối với bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.

50. Quyết định 379/2009/QĐ-NHNN ngày 24 tháng 2 năm 2009 của Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam về điều chỉnh tỉ lệ dự trữ bắt buộc của các TCTD.

51. Thông tư số 16/2009/TT-NHNN ngày 11 tháng 8 năm 2009 của Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế phát

hành giấy tờ có giá trong nước của tổ chức tín dụng. Ban hành kèm theo

Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24 tháng 3 năm 2008 của Thống

đốc Ngân hàng nhà nước.

52. Thông tư số 229/2009/TT-BTC ngày 08 tháng 12 năm 2009 của Bộ tài

chính hướng dẫn, bổ sung thông tư số 62/2008/TT-BTC ngày 8 tháng 7 năm

2008 hướng dẫn thực hiện quy chế đối với bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.

53. Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20 tháng 5 năm 2010 của Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt

động của tổ chức tín dụng.

54. Thông tư số19/2010/TT-NHNN ngày 27 tháng 9 năm 2010 của Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số

13/2010/TT-NHNN ngày ngày 20 tháng 5 năm 2010 quy định về các tỷ lệ

đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.

55. Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14 tháng 4 năm 2010 của Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng

Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận.

56. Quy định thông tin báo cáo áp dụng đối với tổ chức tham gia bảo hiểm

tiền gửi là Ngân hàng thương mại ban hành kèm theo Quyết định số

191/QĐ-BHTG ngày 18 tháng 8 năm 2006 của Tổng giám đốc bảo hiểm tiền

gửi Việt Nam.

57. Quy định thông tin báo cáo áp dụng đối với tổ chức tham gia bảo hiểm

tiền gửi là Quỹ tín dụng nhân dân ban hành kèm theo Quyết định số

192/QĐ-BHTG ngày 18 tháng 8 năm 2006 của Tổng giám đốc bảo hiểm tiền

gửi Việt Nam.

B. GIÁO TRÌNH, SÁCH CHUYÊN KHẢO, LUẬN VĂN, TẠP CHÍ…

- Giáo trình

58. Trường Đại học luật TP.Hồ Chí Minh (2005), Giáo trình Luật Ngân

hàng Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

- Sách chuyên khảo

59. Lê Vinh Danh (2006), Tiền và hoạt động ngân hàng, NXB Tài chính.

60. David Cod (1997), Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, NXB Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

61. Nguyễn Ngọc Hùng (Trường Đại học kinh tế – Đại học Quốc gia Thành

phố Hồ Chí Minh) (1998), Lý thuyết tài chính tiền tệ, NXB Thống kê, TP.

Hồ Chí Minh.

62. Lê Thị Thu Thủy (Đại học Quốc Gia Hà Nội – Khoa Luật) (2006), Các

biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng, NXB Tư

pháp, Hà Nội.

63. Lê Văn Tư (1997), Tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, NXB Thống kê, TP.

Hồ Chí Minh

64. Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh, tạp chí công nghệ ngân

hàng (2007), Hoàn thiện luật ngân hàng-những đòi hỏi từ hội nhập kinh tế

quốc tế, NXB Lao động - xã hội, TP.Hồ Chí Minh.

- Luận văn

65. Lê Thị Hoa (2009), pháp luật về huy động vốn bằng hình thức nhận tiền

gửi của tổ chức tín dụng, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.

66. Tạ Chương Lâm (2009), pháp luật về đảm bảo an toàn trong hoạt động

ngân hàng của ngân hàng thương mại tại Việt Nam, Đại học Luật Thành

phố Hồ Chí Minh.

67. Nguyễn Thị Diệu Linh (2009), Bảo hiểm tiền gửi - quy định của pháp

luật và thực tiễn áp dụng, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.

- Tạp chí

68. Phùng Văn Hùng (2009), “Bàn thêm về vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền

gửi trong việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền và đảm bảo sự phát triển an

toàn của hệ thống ngân hàng”. Tạp chí ngân hàng số (11), tr 44 -47.

69. Phạm Nguyệt Thảo (2007), “Một số vấn đề pháp lí về bảo hiểm tiền gửi

ở Việt Nam”, Tạp chí luật học (12), tr 49-56.

70. Lê Thị Thu Thủy (2007), “Mô hình bảo hiểm tiền gửi trong thời kỳ hội

nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Luật học, (12), tr 67-74.

- Các bài viết khác

71. Đăng Dung (2010), “Quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi”, xem tại:

http://vietnamnet.vn/kinhte/201003/Bao-ve-tot-hon-nguoi-gui-tien-896955/

72. L.Hương-M.Hương, “Đề xuất nâng mức bảo hiểm tiền gửi lên gấp 4

lần”, xem tại http://vneconomy.vn/20090120094741427P0C6/de-xuat-nang-

muc-bao-hiem-tien-gui-len-gap-4-lan.htm

73. Mai Hương (2007), “DIV và mô hình tổng công ty giảm thiểu rủi ro”,

xem tại

http://www.div.gov.vn/Default.aspx?tabid=120&News=377&CategoryID=3

74. Đỗ Quốc Tình (2007), “Bàn về việc xây dựng luật bảo hiểm tiền gửi”,

xem tại http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/?s=BHTG

75. Đinh Dũng Sĩ (2010), “Mô hình nào cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam?”,

xem tại http://www.saga.vn/Marketing/Phantichvadubao/18634.saga

C. CÁC TRANG WEB

76. http://baodientu.chinhphu.vn/

77. http://www.chinhphu.vn/

78. http//www.div.gov.vn/

79. http://ebank.vnexpress.net/

80. http://forum.broview.vn/

81. http://www.gso.gov.vn/

82. http://www.nclp.org.vn/

83. http://www.saga.vn/

84. http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/

85. http://vietnamnet.vn/

86. http://www.vinacorp.vn/

87. http://vneconomy.vn/

88. http://www.vtc.vn/