Ẩm thỰc cung ĐÌnh hÀn quỐc
TRANSCRIPT
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
1
ẨM THỰC CUNG ĐÌNH HÀN QUỐC
Giáo viên hướng dẫn: Th.s Đào Vũ Vũ
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thuý An 1H09
Nguyễn Hà Linh 1H09
Nguyễn Thảo Ly 1H09
Bùi Phương Oanh 1H09
Vũ Mai Phương 1H09
Phần I : Mở đầu
I, Lý do chọn đề tài :
Mối bang giao giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã không ngừng phát triển trên nhiều
lĩnh vực kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức. Ngày càng có
nhiều công ty Hàn Quốc đầu tư vào Việt Nam và số lượng tu nghiệp sinh học tập, lao
động tại Hàn Quốc cũng ngày một tăng nhanh. Vì thế nhu cầu học tiếng Hàn, tìm hiểu
về đất nước, con người và nền văn hóa Hàn Quốc là nhu cầu chính đáng của nhiều
người Việt Nam hiện nay.
Chúng ta biết đến đất nước Hàn Quốc với một nền văn hóa truyền thống lâu đời,
phong phú về di sản, đậm đà về bản sắc và mang đúng chất Hàn Quốc. Một trong
những nét văn hóa truyền thống đặc sắc luôn được người Hàn Quốc tự hào mỗi khi
quảng bá hình ảnh của mình là nét đẹp trong văn hóa ẩm thực, đặc biệt là ẩm thực
cung đình. Ẩm thực cung đình là tinh hoa của ẩm thực Hàn Quốc nên chắc chắn có
nhiều điểm công phu và tinh tế hơn so với ẩm thực đời thường. Những gì nổi bật, mới
lạ luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt của con người. Đây cũng chính là lý do chúng tôi
chọn đề tài này để nghiên cứu.
II, Phạm vi nghiên cứu :
Trong bài nghiên cứu này chúng tôi để cập đến những nét chung nhất về ẩm thực
cung đình Hàn Quốc bao gồm: tên gọi, nguồn gốc của tên gọi, các bữa ăn trong ngày,
vị trí và cách ngồi ăn, cách sắp xếp bàn ăn, nơi chuẩn bị và bộ phận phụ trách ẩm thực
cung đình, tiệc hoàng gia trong những dịp đặc biệt và các món ăn trong cung đình.
III. Mục đích nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu :
Chúng tôi mong rằng đề tài nghiên cứu này sẽ giúp ích phần nào cho những ai
quan tâm đến văn hóa Hàn Quốc, đặc biệt là các bạn sinh viên khoa tiếng Hàn trong
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
2
việc tìm hiểu những nét đặc trưng nhất của ẩm thực cung đình Hàn Quốc và bước đầu
tiếp cận nét đặc sắc trong văn hoá Hàn Quốc. Chúng tôi thực hiện bài nghiên cứu này
dưới hình thức: thu thập, thống kê, phân tích thông tin và kết luận có sử dụng tài liệu
sách, báo, tạp chí và internet…
Là sinh viên năm thứ nhất nên sự hiểu biết còn hạn chế, chúng tôi mong rằng bài
nghiên cứu này sẽ nhận được nhiều sự đóng góp của các thầy cô và các bạn.
Nội dung chúng tôi đề cập tới trong bài bao gồm :I. Khái quát ẩm thực cung đình Hàn Quốc
II. Tìm hiểu về ẩm thực cung đình Hàn Quốc
A. Các bữa ăn trong ngày
B. Vị trí, cách ngồi ăn
C. Cách sắp xếp bàn ăn
D. Nơi chuẩn bị và bộ phận phụ trách chế biến ẩm thực cung đình
E. Tiệc hoàng gia trong những dịp đặc biệt
III. Các món chủ yếu trong ẩm thực cung đình Hàn Quốc
A.주식류 - Món chính
B.찬품류- Món phụ
D.후식류 - Các món tráng miệng
C.저장발효음식- Các món ăn lên men
E.차와화채- Trà và Chè
Phần II : Nội Dung
I. Khái quát ẩm thực cung đình Hàn Quốc :
* Ẩm thực cung đình Hàn Quốc trong tiếng Hàn được gọi là kungjung umsik trong
suốt thời kì cận đại, ẩm thực trong hoàng cung đã phản ánh sự giàu có sang trọng của
người trị vì bán đảo Triều Tiên. Sự giàu có của hoàng tộc được chứng minh qua ví dụ
từ tận thời vương triều Silla, nơi mà một cái hồ nhân tạo (hồ Anapji ở Gyeongju), được
tạo nên với nhiều nhà lều và đại sảnh ở giữa với mục đích chính là tổ chức tiệc tùng -
giao lưu hay tăng mối hòa hảo với các thế lực địa phương và là con kênh bắc qua hồ
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
3
nhân tạo, Poseokjeong, được xây dựng nên với mục đích duy nhất là để các cốc rượu
trôi nổi trong khi làm thơ.
Hồ Anapji
Poseokjong
* Món ăn cung đình là sự kết tinh nghệ thuật nấu nướng của người Hàn Quốc, bao
gồm những nét đặc trưng từ những nơi hẻo lánh xa xôi nhất của đất nước. Sử dụng
những nguyên liệu tốt nhất của mỗi vùng, những món ăn đã phản ánh tính đa dạng của
Hàn Quốc. Vị Hoàng đế có 5 bữa ăn trong 1 ngày, trong đó 2 bữa chính gọi là
Surasang. Surasang được phục vụ với 12 món ăn khác nhau cùng với cơm, kimchi và
vài loại cháo.
Đã có một sự cân bằng về “âm” và “dương” trong những món ăn kèm được bày
theo một sự sắp xếp riêng biệt tùy theo hình dáng và màu sắc của các nguyên liệu. Các
món ăn được đựng trong những chiếc bát bằng bạc, màu của nó sẽ biến đổi nếu đồ ăn
bên trong có chứa bất cứ chất độc nào. Dưới đây là 2 món ăn phổ biến của ẩm thực
cung đình truyền thống:
- “Gujeolpan” (món gồm 9 phần) gồm 9 loại thức ăn từ thịt, rau, được thay đổi theo
mùa. Món ăn đựng trong 9 ngăn nhỏ của một cái khay, ăn chung với bánh tráng mỏng
được đặt ở trung tâm. Món ăn đẹp mắt này thường dùng để khai vị các bữa ăn chính.
Gujeolpan
- “Sam saek” món bánh gạo nếp là một thức quà truyền thống phổ biến của người
Hàn Quốc. Được làm từ những quả chà là của xứ Trung Hoa, hạt thông, mật ong và
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
4
bột gạo nếp; món tráng miệng dẻo dính này được yêu thích bởi vẻ ngoài cầu kì và còn
thường được dùng trong các ngày lễ.
Samsaek
Các món ăn cung đình Hàn Quốc luôn được chuẩn bị một cách công phu, với sự
chú trọng lớn tới từng chi tiết nhỏ. Những đầu bếp khéo léo đã làm nên những món ăn
đó từ những sản phẩm nông nghiệp và hải sản có chất lượng tốt nhất được mang đến từ
khắp mọi miền đất nước.
* Thức ăn trong cung đình không khác nhiều so với thức ăn ở ngoài cung bởi vì
chúng. Điểm khác biệt chính là các món ăn hoàng cung thì ít muối và gia vị hơn. Các
bữa ăn được nấu cho hoàng tộc cũng không thay đổi theo mùa giống như một bữa ăn
của người dân thường. Mỗi tháng, những vị quan đứng đầu của 8 tỉnh lần lượt được
diện kiến trong cung để giới thiệu những nguyên liệu đặc biệt của địa phương mình.
Điều này đã mang lại cho người làm bếp sự phân loại kĩ lưỡng các nguyên liệu để sử
dụng cho bữa ăn hoàng tộc.
* Đằng sau một bữa ăn được chuẩn bị cho một vị vua có những ý nghĩa đặc biệt.
Người dân thu hoạch vụ mùa, đánh bắt cá hay săn bắn thú và chỉ dâng lên vị vua của
họ những thứ tốt nhất mà họ thu hoạch được.
Thực phẩm được dâng lên đã phản ánh những nỗ lực lớn của người dân cũng như
những điều kiện sống của họ ở thời điểm đó. Bởi vậy, khi những thực phẩm đó được
chế biến và dâng lên vị vua, ông ta có thể thấu hiểu được cuộc sống của người dân và
những điều kiện thay đổi theo mùa mà không cần phải đi vi hành khắp cả đất nước.
II. Tìm hiểu về ẩm thực cung đình Hàn Quốc.
A. Các bữa ăn trong ngày
Ở thời Joseon thường có 5 bữa ăn được phục vụ trong cung trong 1 ngày, và những
tài liệu ghi chép chỉ ra rằng hình mẫu này đã tồn tại từ cổ xưa. Bữa chính là bữa với
đầy đủ các món, trong khi đó bữa ăn chiều và ăn đêm gồm những món ăn nhẹ hơn.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
5
Bữa ăn đầu tiên, mieumsang, được phục vụ vào lúc mặt trời mọc những ngày vua và
hoàng hậu không dùng thảo dược. Bữa ăn gồm có cháo (juk) được làm từ các nguyên
liệu như bào ngư (jeonbokjuk), gạo trắng (huinjuk), các loại nấm (beoseotjuk), hạt
thông (jatjuk) và vừng (kkaejuk). Các món ăn kèm thường có kimchi, nabak kimchi,
sò, tương đậu nành và nhiều thứ khác. Người ta nghĩ rằng cháo mang lại cho vua và
hoàng hậu sinh khí cho cả ngày.
Surasang là tên bữa chính trong ngày: Bữa trưa được phục vụ lúc 10h sáng và các
bữa tối vào khoảng từ 6 đến 7h. Bộ 3 bàn ăn (Surasang) thường được bày với 2 loại
cơm, 2 loại súp, 2 loại món hầm, một món thịt hấp, một nồi rau lẩu, 3 loại kimchi, 3
loại jang và 12 món ăn kèm, hay còn gọi là 12 cheop. Bữa ăn diễn ra ở trong suragan,
một phòng chỉ chuyên để dùng bữa, chỗ ngồi của vua hướng phía đông và hoàng hậu
hướng phía tây. Cách ngồi này cũng thể hiện sự hài hoà giữa “âm” và “dương”. Thuyết
âm dương ngũ hành của phương Đông cho rằng hướng Đông là đại diện cho tính
“dương” và hướng Tây là đại diện cho tính “âm”. Mỗi bữa ăn đều có cách bày bàn
riêng và được giám sát bởi người nữ hầu là sura sanggung. Những người này sẽ mở
nắp đậy của món ăn rồi dâng đến vua và hoàng hậu sau khi đã đảm bảo món ăn không
có độc.
Sơ đồ bày bàn ăn Surasang
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
6
Natgeotsang là tên bữa ăn nhẹ được phục vụ vào khoảng 2h chiều. Sáng sớm, một
tô cháo được dâng lên và nó được gọi là chojoban (bữa sáng sớm).
Ngoài bữa chính thì vào bữa ăn đêm, mì, thức ăn bổ dưỡng và các loại cháo
cũng được dâng lên. Các tài liệu ghi chép về bữa ăn hàng ngày trong cung thì hiếm
thấy hơn các tài liệu liên quan đến bữa tiệc trong cung đình. Tài liệu duy nhất còn sót
lại mà chúng ta có thể dùng để tìm hiểu về bữa ăn hàng ngày trong cung là ‘영조실록’.
B. Vị trí, cách ngồi ăn
Các thành viên trong gia đình hoàng tộc không ăn chung ở 1 bàn. Nếu có 2 người
cùng ăn trưa, họ ngồi ở những chiếc bàn riêng và chúng được đặt cạnh nhau. 3 chiếc
bàn được chuẩn bị cho mỗi người với tên gọi là : wonban, sowanban và chaeksangban.
C. Cách sắp xếp bàn ăn.
Surasang được phục vụ với 3 chiếc bàn và 1 nồi lẩu. Chiếc bàn tròn lớn nhất ở giữa
cao nhất là chiếc bàn chính để đặt các món chính: súp, hầm, các món ăn kèm và các
món ăn lên men. Chiếc bàn nhỏ ở góc trái cao hơn để đặt cơm đậu đỏ, canh bò ninh,
món tráng miệng, trà, bát và đĩa không. Nắp đậy các bát đĩa đựng món ăn cũng được
đặt ở bàn này. Chiếc bàn hình chữ nhật ở góc phải thấp hơn có trứng, dầu vừng, nhiều
loại rau sống và vài loại sốt. Nồi lẩu ở góc trái thấp hơn được làm nóng bằng than và
thường là món jeongol (lẩu) như sinseollo.
Surasang
Ở một bữa ăn dành cho vua, 12 món ăn kèm khác nhau được dọn ra. Tuy nhiên, số
đĩa món ăn đặt trên bàn thực tế lại nhiều hơn thế. Các đĩa thêm vào bao gồm 2 loại
cơm (cơm trắng không và cơm nấu độn với đậu đỏ), 2 loại súp, 3 loại kimchi (kimchi
cải thảo, kimchi củ cải và kimchi nước), 2 loại hầm (đậu xay hầm và cá muối hầm), 3
loại jang (tương đậu nành, tương khô, tương ớt) và một món hấp. Về nguyên tắc, các
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
7
nguyên liệu và phương thức nấu ăn không được chồng chéo lên nhau giữa các món ăn
được chuẩn bị cho surasang.
12 món ăn kèm đựng trong những chiếc đĩa nhỏ, gồm có 9 món khác nhau (rau đã
chế biến, rau tươi, cá hay thịt nướng, rau giấm, thịt cá khô, cá muối, rau chiên áp chảo
và những lát thịt bò luộc) và 3 món ăn kèm đặc biệt (trứng chần, sashimi, cá thịt bỏ lò
còn ấm). Surasang của ngày nay được truyền miệng lại từ những người hầu hạ trong
cung và những hậu duệ cuối triều đại Joseon, bởi vậy nó có thể không đại diện cho
toàn bộ thời kì Joseon.
D. Nơi chuẩn bị và bộ phận phụ trách chế biến ẩm thực cung đình.
Có rất nhiều cung nữ ở trong cung. Ở Hàn Quốc, một cung nữ được gọi là
gungnyeo, là từ viết tắt của gungjung yeogwan (người nữ quan trong cung). Thứ bậc
của các cung nữ rất đa dạng, từ một sanggung ở hạng thứ 5 đến một em gái naein 4-5
tuổi. Các cung nữ thì được phân chia thành sanggung và naein (còn gọi là nain). Khi
một nain bình thường phục vụ trên 15 năm, cô ấy sẽ được ban cho chiếc kẹp tóc trang
sức dành cho sanggung. Người ta thường gắn liền sanggung với sự cẩn thận và lão
luyện. Điều này có thể được lý giải bởi nhiều năm kinh nghiệm trong cung của họ.
Một cung nữ ở hạng sanggung được đối đãi đủ tốt để sống trong ngôi nhà riêng của cô
ấy với kẻ hầu người hạ. Tên gọi cho các cung nữ rất đa dạng tùy thuộc vào tuổi, thứ
hạng và vị trí. Các công việc và trách nhiệm được giao cho các cung nữ cũng có thứ
bậc. Các cung nữ làm công việc thêu thùa may vá và những cung nữ làm công việc
nấu ăn xếp hạng sau Jimil naein.
Cũng như các cung nữ khác, một sanggung nấu nướng thường ở độ tuổi trên 40 khi
mà cô ấy được tiến cử lên hạng sanggung. Khi đó, cô ấy đã là một đầu bếp tay nghề
cao với kinh nghiệm hơn 30 năm nấu ăn. Ở những dịp bình thường, họ sẽ chuẩn bị
thức ăn cho vua và hoàng hậu mỗi sang mỗi tối. Ở cuối triều đại Joseon, naein được
gửi tới khu bếp mặc chiếc áo choàng màu ngọc bích và váy màu xanh dương giống
như các cung nữ khác. Khi làm việc, họ sẽ xắn tay áo lên, mặc một chiếc áo choàng
nữa, chiếc này màu tím và không có đường viền, đeo chiếc tạp dề màu trắng.
Ở những cung điện riêng của vua và hoàng hậu, Sura được phục vụ. Nơi mà sura
được dọn ra gọi là suragan hay sojubang, nằm ở cách xa cung của họ. Bàn ăn và thức
ăn được chuẩn bị và rửa dọn ở toeseongan, một phòng để sắp xếp món ăn. Ở
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
8
sanggwabang (bếp làm đồ tráng miệng), rất nhiều loại món tráng miệng như trái cây
tươi, trái cây được chế biến, bánh, trà và cháo được chuẩn bị.
Trang phục của naein và sanggung
Cung đình ở cuối triều đại Joseon, trong những dịp bình thường, sura sẽ do các
sanggung được bổ nhiệm tới khu bếp chuẩn bị. Tuy nhiên, với những bữa tiệc đặc biệt,
các đầu bếp nam gọi là daeryeong suksu chuẩn bị thức ăn ở sukseolso, bếp được xây
dựng trong một gian bếp tạm. Do thức ăn cho bữa tiệc phải giết mổ cả một con bò và
nấu nó trong một chiếc nồi lớn, mà việc này thì quá sức đối với phụ nữ. Daeryeong
suksu, một đầu bếp đặc biệt cho những bữa tiệc, theo nghĩa đen là “những bàn tay tài
hoa đang chờ được hoàng cung trọng dụng”. Để trở thành một suksu, một người đã
phải theo dõi và học từ một suksu lão luyện trong vòng 10 năm. Có thể dễ dàng đoán
được họ trở nên tài giỏi và thành thạo đến mức nào.
E. Tiệc hoàng gia trong những dịp đặc biệt
Khi có những sự kiện trọng đại, phải huy động một nguồn nhân lực rất lớn để
chuẩn bị cho những bữa tiệc hoàng gia.
Những bữa tiệc như vậy thường được tổ chức vào những dịp như: sinh nhật lần thứ
16, 40, 50, 41 và 51 của vua, hoàng hậu hoặc hoàng thái hậu; khi phong một tước vị
mới; khi chỉ định chính thức hoàng thái tử; hôn lễ hay tiếp đón sứ giả nước ngoài…
Tiệc được chia làm các loại: jinyeon (yến tiệc đại sự), jinchan (yến tiệc trong nội
cung, nhỏ hơn jinyeon), jinjak (tiệc rượu dâng vua) và sujak (tiệc rượu ăn mừng). Khi
nhận được sự phê chuẩn của triều đình, một bộ phận được gọi là jinyeondogam sẽ
được thành lập. Đây là một bộ phận lâm thời có trách nhiệm chuẩn bị cho bữa tiệc
hoàng gia. Bộ phận này sẽ thảo luận cách thức tiến hành, mua những nguyên liệu cần
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
9
thiết và chuẩn bị nhiều hoạt động như nhảy múa, ca hát … Sự chuẩn bị này mất tới
nhiều tháng. Daeryeongsuksu, một đầu bếp nam chuyên về các món tiệc sẽ được mời
tới để chuẩn bị cho các món ăn.
Ở chính giữa của chiếc bàn được đặt trước nhà vua, thức ăn được xếp thành nhiều
chồng cao và ở đỉnh của mỗi chồng được trang trí cầu kì với nhiều loại hoa làm bằng
giấy, được gọi là sanghwa. Trong bữa ăn cung đình, thực đơn được gọi là changan
hoặc chanpumdanja. Chanpumdanja là một cuộn giấy có ghi tên các món có trong bữa,
được dùng cả ở trong những bữa tiệc và bữa ăn thường ngày trong cung đình.
Chanpumdanja
III. Các món chủ yếu trong ẩm thực cung đình Hàn Quốc
A. Món chính -주식류
(1) Sura (Cơm):
► Cơm trắng, cơm đậu đỏ:
Trong cung, loại cơm mà vua và hoàng hậu ăn được gọi là Sura. Thông thường có
hai loại cơm là cơm trắng và cơm đậu đỏ được dâng lên trong bữa ăn. Loại gạo dùng
để nấu Sura là loại gạo nhất phẩm được tuyển chọn từ các vùng của quốc gia và chỉ
dành để nấu cơm dâng lên cho vua và hoàng hậu. Cơm trắng chỉ được nấu từ gạo trắng
đơn thuần. Còn cơm đậu đỏ không phải là lấy gạo trộn với đậu đỏ rồi nấu lên mà
người ta luộc đậu đỏ lên rồi đổ nước vào nấu cùng cơm. Vì cơm đậu đỏ có màu như
ráng chiều nên còn được gọi là Hongban.
Cơm đậu đỏ Cơm ngũ
cốc
► Ogok Sura (Cơm ngũ cốc):
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
10
Gạo nếp, gạo dẻo, Chajo, đậu xanh và đậu đỏ trộn lẫn với nhau để nấu cơm ngũ cốc.
Theo quan niệm cũ thì ngày rằm tháng giêng là ngày ăn chay nên sẽ ăn cơm ngũ cốc
cùng với rau.
►Goldongban (Cơm trộn):
Bibimbap còn được gọi tên là bibim. Món cơm trộn trong cung được chế biến từ
nhiều loại rau củ và thịt đã được rang, trộn đều với cơm trong một cái bát lớn, ở trên
mặt đặt một quả trứng tráng, vài lát cá và rong biển chiên. Theo một nguồn tài liệu
khác thì trong cung, vào ngày cuối cùng của tháng Chạp, người ta phải ăn Bibimbap
trong bữa ăn cuối cùng của năm và món ăn đầu tiên được ăn trong năm mới là
Tteokguk. Điều này có ý nghĩa là không để những thức ăn thừa còn sót lại của năm cũ
sang năm mới. Người ta sẽ sử dụng những thức ăn còn thừa đó để làm Bibimbap.
Cơm trộn
(2) Juk, Mieum, Eungi (Các loại cháo) :
Juk, Mieum, Eungi được nấu hoàn toàn từ ngũ cốc và là loại thức ăn dạng cháo.
Trong cung Juk hay Eungi thường được dâng lên vào bữa sớm hoặc bữa sáng. Có rất
nhiều loại Juk, Mieum, Eungi khác nhau, dựa vào loại ngũ cốc và những nguyên liệu
đặc biệt nấu thành mà có tên khác nhau.
► Omija Eungi :
Nước quả Omija bỏ thêm mật ong rồi đun sôi, sau đó thêm bột đậu xanh vào.
Omija
►Sok Mieum:
Gạo nếp, táo ta, nhân sâm, hwangyul cho vào nước, đun kĩ rồi đổ vào bát. Có thể
cho thêm các loại dược thảo khác, là món ăn vừa giúp cho hoàng thể nhanh hồi phục
vừa giúp cho cơ thể khoẻ mạnh hơn.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
11
► Jat Juk (Cháo hạt thông):
Nghiền nát gạo đã được ngâm trước đó rồi cho vào nồi đun kĩ với hạt quả thông.
Cháo hạt
thôngCháo vừng
đen
► Haengin Juk (Cháo hạnh nhân):
Hạnh nhân bỏ vỏ, nghiền nát rồi nấu chung với gạo đã giã nhỏ.
► Heukimja Juk (Cháo vừng đen):
Vừng đen giã giập rồi nấu cùng với gạo đã giã nhỏ. Cháo vừng không chỉ được nấu
từ mỗi vừng đen mà người ta còn sử dụng cả vừng trắng. Từ ngày xưa, vừng đen đã
được biết đến với tác dụng giúp cho tóc đen và giữ độ ẩm cho tóc nên trong dân gian
cũng được sử dụng rộng rãi.
► Tarak Juk:
Là loại cháo nấu từ gạo ngâm nghiền nhỏ và sữa.
► Jangguk Juk:
Cháo trắng được đun sôi, sau đó thêm thịt bò, nấm thái sợi, gia vị thích hợp đã viên
thành những viên nhỏ, trộn đều và đun sôi.
Tarak
Juk
Jangguk Juk
(3) Guksu (Các loại mì)
Trong cung, Guksu thường có trên bàn tiệc hoặc trong bữa ăn thường ngày, vào
bữa trưa khi có khách đến, Guksu cũng được chuẩn bị một cách đơn giản để dâng lên.
Loại mì làm từ bột kiều mạch được sử dụng nhiều hơn loại mì làm từ bột mì.
► Jangguk Naengmyeon : (Mỳ lạnh với nước dùng từ tương)
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
12
Nước dùng đun sôi với thịt bò, sau đó thả mì vào trần, được thì đổ ra bát, xếp lên
trên thịt luộc cắt lát, gỏi, thịt viên, nấm, rau củ và trứng thái chỉ.
► Kimchiguk Naengmyeon: (Mỳ lạnh với nước kimchi muối)
Sườn bò ninh nhừ rồi cho củ cải vào đun vừa tới, chần mì rồi cho vào bát, trên đặt
thịt nguội, lê và kimchi.
► Guksu Bibim ( Mì trộn):
Đây là món ăn thường ăn vào mùa xuân, người ta trộn mì với thịt bò sống, thịt
nguội cắt lát, rau cần và nước sốt, sau đó xếp thịt viên, trứng thái rối và lê lên trên.
Jangguk Naengmyeon Mì trộn
► Myeon Sinseollo : (Nồi lẩu mỳ)
Thịt bắp bò, cải thảo, tôm, cuống rau cần, măng, trứng chiên thái chỉ xếp vào nồi
đun lẩu theo hình vòng cung rồi đổ nước luộc thịt vào đun sôi. Luộc mì và để riêng ra
một cái bát to, khi các nguyên liệu trong Sinseollo đã chín thì gắp vào bát và ăn cùng
với mì. Có vị mát trong.
Myeon Sinseollo On Myeon
► On Myeon : (Mỳ ấm nóng)
Nước ninh sườn bò nêm gia vị phù hợp, mì luộc chín rồi cho vào bát, trên đặt thịt
nướng hoặc thịt viên, trứng thái chỉ và một số nguyên liệu khác.
► Nan Myeon : (Mỳ trứng)
Nan Myeon được làm từ bột mì trộn với trứng và nước nên mềm và có màu vàng
nhạt. Vì là mì nước nên có thể trực tiếp cho vào nước dùng đun lên hoặc luộc rồi để
riêng ra bát như On Myeon, khi ăn thì thêm nước dùng vào.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
13
Nan Myeon Tomi Myeon
► Tomi Myeon: (Mỳ cá diêu hồng)
Chuẩn bị cá hấp hoặc các loại cá khác cùng với nước ninh xương bò và trang trí
bằng các nguyên liệu cắt lát hoặc thái chỉ giống như Sinseollo. Xếp xương bò ở dưới
nồi hầm, sau đó xếp cá nguyên con lên trên, viền xung quanh xếp các nguyên liệu đã
được thái chỉ theo hình vòng cung, trên mặt trang trí bằng hạt thông, quả óc chó và
bạch quả, sau đó cho nước dùng vào đun lên. Đun sôi một lúc rồi cho thêm rau cải cúc
và miến vào trần qua. Khi đun, thỉnh thoảng dùng dao rạch mình cá rồi rắc thêm muối
và hạt tiêu.
(4) Mandu, Tteokguk: (Há cảo và canh bánh tteok)
Mandu có thể dùng bằng cách cho vào nước dùng rồi đun sôi hoặc hầm nhừ. Vỏ
Mandu chủ yếu được làm từ bột mì, cũng có khi được làm từ bột kiều mạch.
►Jangguk Mandu: (Há cảo với nước dùng từ tương)
Kim chi cải bắp, thịt lợn, đậu phụ và một số nguyên liệu khác vừa đủ cho vào một
bánh bao nặn thành hình tròn.병시(餠匙) nặn thành hình bán nguyệt, nhẵn.
► Saengchi Mandu: (Há cảo thịt gà lôi)
Thịt gà lôi băm nhỏ cùng mùi tây, cải bắp, 표고 (nấm
pyogo), v.v vừa đủ cho vào một bánh bao, vỏ bánh bao trộn
một chút bột kiều mạch và tinh bột, nặn giống hình bánh송편,
rồi thả vào nước dùng thịt heo đun sôi.
► Dongah Mandu
Bí gọt vỏ cắt dạng tròn, ướp một chút muối. Nhân bánh bao gồm thịt gà luộc thái
nhỏ, ướp gia vị, gập thành hình bán nguyệt, cho tinh bột vào trong rồi ninh.
► Pyeonsu: (Há cảo vỏ mỏng gập 4 góc)
Đây là món ăn vào mùa hè. Nhân bánh bao được làm từ thịt bò, dưa chuột, giá đậu
xanh, nấm pyogo v.v, thái lát bột mì đã nhào thành hình vuông, cho nhân vào giữa rồi
túm bốn góc và nặn lại, luộc trong nước canh rồi vớt ra.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
14
► Kyuah Sang
Nhân bánh bao gồm thịt bò, dưa chuột thái lát, nấm Pyogo nấu
chín kĩ. Nhào bột mì rồi tán mỏng, làm vỏ bánh hình tròn, cho
nhân vào nặn giống hình hải sâm, phủ lá cây trường xuân lên trên
rồi hấp.
► Junchi Mandu:
Cá trích hấp, thịt bò băm vừa đủ, ướp gia vị, nặn bánh bao thành hình viên, cho tinh
bột vào trong rồi đem hấp hoặc luộc trong nước canh thịt rồi vớt ra để ráo nước.
► Junchi Mandu: Tteok guk : (Canh bánh tteok)
► Tteok guk : (Canh bánh tteok)
Thịt bò, Tteok trắng được thái thành hình đồng xu dẹt, bỏ vào luộc, trứng thái sợi
và thịt xếp chồng lên nhau.
B. Món phụ -찬품류
(1) Guk/Thang : (canh / canh hầm)
Món canh trong cung đình,양지머리 (yangjimeori - thịt ngực bò),사태(satae - thịt
đầu gối bò), nội tạng để vào nồi đúc, đun lâu.
맑은국- Canh nước trong
►무국 (muguk - canh củ cải)
► 송이탕(songitang - canh nấm
►황볶기 탕 (쇠고기 국) (canh thịt
bò)
►곽탕(藿湯,미역국) (canh rong
biển)
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
15
songi)
►애탕(aetang)
► 봉오리탕(완자탕) (bongoritang -
canh nụ hoa hầm)
►초교탕(chogyotang - canh gà ri
hầm)
►호박꽃탕 (canh hoa bí ngô)
► 참외탕(chamoetang - canh bầu/bí
xanh)
►어알탕 (eoaltang - canh trứng cá
hầm)
► 청파탕(chongpatang - canh hành
xanh)
►북어탕(bugeotang - canh cá buk
eo)
곰국- Canh nước thịt bò
► 설농탕 (雪濃湯) (seonnongtang - canh ►곰탕(gomtang - canh nước
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
16
nước hầm bò) thịt bò hầm)
►가리비탕(garibitang - canh sò biển)
►잡탕(jabtang - canh tổng hợp)
►두골탕(dugoltang - canh xương thủ
hầm)
►토장국( tojangguk - canh tương
bần)
►오이냉국 (canh dưa chuột lạnh)
►육개장(yuggaejang - canh bò xé
phay cay)
► 연배추탕(yeonbechutang - canh
cải thảo ninh nhũn)
►냉국 (canh lạnh)
► 깨국탕(임자수탕) (imjasuthang -
canh nước vừng xay)
►미역냉국( canh rong biển lạnh)
(2)조치- Jochi : Om
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
17
Trong hoàng cung thời Joseon 찌개 (Om) rất được ưa chuộng, người ta thích
thưởng thức om tương ớt. Om(맑은 찌개 - om nước trong) có vị muối nhờ cho một
chút muối hoặc tôm muối vào, đậu phụ, bí ngô, củ cải đỏ, v.v bỏ vào có vị nhạt.
Nguyên liệu được đựng trong tô bằng đất nung, không đặt trực tiếp trên lửa , mà cho
vào một nồi cơm hoặc một nồi khác hầm cách thủy, rồi đun lại trên ngọn lửa lò than
một lúc, rồi bày lên bàn ăn.
► 게감정 (gegamjeong - om cua nhồi
gia vị)
► 병어감정(byeongeogamjeong - om
cá Byong Eo)
► 굴두부 조치(guldubu jochi - om đậu
& hào)
► 애호박젓국 조치(aehobagjeotguk
jochi - om bí non muối)
MyongNan muối)
► 오이감정(oigamjeong - om dưa
chuột)
► 절미된장 조치(jeolmidoenjang
jochi - om tương & gạo tấm)
► 명란젓 조치(myeongranjeot
jochi - om cá
►무조치(mujochi - om củ cải)
►생선조치 (om cá)
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
18
(3)전골과신선로 -Jeongol và Sinseollo (lẩu và nồi lẩu thập cẩm) :
전골 là món ăn gồm thịt và rau được nêm gia vị vừa đủ rồi đựng vào nồi bằng đồng,
đáy sâu đặc biệt đặt trên lò than để có thể nấu hay xào, ăn một cách thoải mái. Còn
sinseollo là nồi nấu lẩu thập cẩm có ống rỗng ở giữa.
전골틀(jeongoltheul)
신선로(shinseonlo)
► 도미면(domimyeon - mỳ cá diêu
hồng)
►두부전골( dubujeongol - lẩu đậu)
►낙지전골(nagjijeongol - lẩu bạch
tuộc)
(4)찜,선- Jjim (hấp), Seon (thái chỉ)
Món hấp được chế biến bằng cách ướp kĩ rau, thịt cùng các loại gia vị trong nước
và làm chín bằng hơi nước. Hấp như vậy vừa làm cho thịt bò, đuôi bò, 사태 (satae -
thịt đầu gối bò), sườn lợn, v.v được thấm gia vị đậm đà hơn trên ngọn lửa nhỏ liu diu
trong thời gian lâu, vừa làm cho rau, cá, cua, trai, hến, v.v được hầm chín từ từ bằng
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
19
hơi nước. 선(膳) là một loại ẩm thực món hầm, được làm từ rau, cá, đậu phụ, v.v…
Món này được chế biến từ các nguyên liệu thực vật chủ yếu là bí đỏ, dưa chuột, cà, cải
bắp, đậu phụ, v.v, và nguyên liệu từ động vật là thịt bò và thịt gà, cùng các loại rau
mùi khác được ninh nhừ.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
20
►생복찜(saengbokjjim - cá Bok Eo
tươi tẩm hấp)
► 부레찜(burejjim - bong bóng cá
tẩm hấp)
►도미찜(domijjim - cá diêu hồng tẩm
hấp)
►떡찜(ttokjjim - bánh tteok hấp)
►우설찜(useoljjim - lưỡi bò tẩm hấp)
►가리찜(garijjim - sò biển hấp)
►대하찜(daehajjim - tôm to hấp)
► 송이찜(songijjim - nấm Song I
hấp)
►죽순찜(juksunjjim - măng hấp)
►배추꼬리찜(bechukkorijjim -
cuống cải thảo hấp)
►사태찜 (sathaejjim - thịt đầu gối bò
hấp)
(5) Sengje - rau tươi trộn gia vị
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
21
Sengje trong cung đình được làm tương tự như món salad mà người dân thường ăn
với các nguyên liệu chủ yếu như dưa chuột, củ cải, hoa chuông…
(6) Namul (rau mầm trộn gia vị) :
Sengje Namul
Món rau mầm tươi cũng là một món ăn rất độc đáo trong cung. Nguyên liệu chủ
yếu là thực vật (củ cải đỏ, dương xỉ, dương xỉ diều hâu, hổ phách, chồi non của cây,
hoa chuông, măng non…) nên khi ăn món ăn này người ăn luôn có cảm giác sảng
khoái bởi vị tươi mát của nó.
(7) Jorigae, jo (Ninh, kho) :
Trong cung, loại thức ăn được ninh nhừ, hầm nhừ được gọi là Jorigae. Loại thức ăn
này có ý nghĩa như một món ăn phụ được làm chủ yếu từ cá như cá vàng, cá croaker,
sữa đậu đông và các loại rau. Nó có mặt trong bàn ăn cung đình với tác dụng tăng
cường khí chất, khí thể cho người ăn. Các món Jorigae thường được bảo quản trong
một thời gian dài rồi ăn cùng với Jangrorim (một món ăn được làm từ thịt bò) giúp
tăng cường sức lực, khí thể. Jo là một món ăn với ý nghĩa ban đầu tương tự như loại
món ăn được quay lên, nhưng theo nghệ thuật nấu ăn trong cung đình Hàn Quốc nó
được làm giống như loại thức ăn được hầm nhừ rồi sau đó người ta cho thêm bột để nó
đông lại thành một loại món ăn có dạng như soup. Món Jo được chế biến chủ yếu từ
trai biển, ốc bào ngư, hải sâm.
- Uyuk Jorigae
- Pyeonyuk Jorigae
- Jang dokdoki
- Jeonbok Jo
(8) Jeonyuhwa (bột rán) :
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
22
Các món chiên, rán trong cung được gọi chung bằng cái tên là Jeonyuhwa. Nó bao
gồm các món được làm chủ yếu từ cá thu, cá croaker như: Guljeon - hào rán với bột,
Daehajeon - tôm to chiên, Seujeon - tôm chiên. Khi làm món ăn này người ta còn tách
riêng lòng đỏ và lòng trắng trứng gà rồi cho vào chiên để làm món Hwasekjeon và
Hwangsekjeon
- Daehapjeon
- Seujeon
- Putgojujeon
- Yeongeunjeon
- Nokdubindae ttok
- Pajeon
(9) Gui, Jeok (Nướng, xiên nướng) :
Gui có thể được làm từ nhiều nguyên liệu, và nó cũng được làm hằng ngày như các
món Kim Gui, Sengseon Gui, Deodeok Gui, Bulgogi.
Ta có thể chia Gui thành nhiều loại tùy theo loại gia vị mà nó được tẩm như: Gui
muối, Gui tương ớt và Gui tẩm gia vị tổng hợp.
Jeok là một loại món ăn được làm từ các nguyên liệu chủ yếu như: thịt, rau, nấm.
Cá nguyên liệu này được tẩm gia vị rồi xiên tất cả vào que xiên lớn sau đó đem nướng
lên. Một số loại Jeok trong cung như: Doreup Jeok, Ttoksan Jeok, Pasan Jeok, Yuksan
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
23
Jeok, Bandeureumi Jeok cũng có phương pháp chế biến tương tự như phương pháp
chế biến thường ngày của người dân. Ngoài ra người ta còn dùng các nguyên liệu như
cá trắng nhỏ, tim, cật động vật để chế biến món Jeok trong cung.
- Gari Gui
- Neobi ani
- Po Gui
- Taksan Jeok
- Sengji Gui
- Daehap Gui
- Dodok Gui
- Eosan Jeok
- Songisan Jeok
- Hwayang Jeok
- Japnureunm Jeok
- Seopsan Jeok
- Kimji Jeok
(10) Hoe (Gỏi):
Hue là món gỏi cá hay thịt. Loại món ăn này không được nấu chín bằng nhiệt mà
người ta ăn sống với mù tạc, dung dịch bột ớt trộn giấm hay dung dịch giấm – xì dầu.
- Yuk hue : gỏi thịt bò
- Gaksek hue : gỏi tổng hợp
- Gap hue : gỏi lòng bò
- Minari hue : gỏi rau cần
- Sengseon hue : gỏi cá sống
- Eoje :
(11) Jang Gwa
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
24
Ban đầu, người ta gọi món ăn gồm những lát củ cải ướp
tương (củ cải được cho vào xì dầu, tương ớt, tương rồi bảo
quản trong một thời gian dài) là món Jang Gwa. Nhưng ở
trong cung món Jang Gwa được ướp với những nguyên liệu
riêng. Nguyên liệu chế biến món Jang Gwa chủ yếu là củ
cải, dưa chuột, lõi bắp cải, mùi tây.
(12) Pyeonyuk (Thịt luộc thái miếng) :
Nếu làm món Pyeonyuk từ thịt ở đầu bò, thịt ở
ngực bò hay thịt ba chỉ hoặc thịt vai của lợn là thích
hợp nhất. Pyeonyuk làm từ thịt bò nếu chấm với
nước xì dầu trộn giấm thì mùi vị rất phù hợp. Và để
có món Pyeonyuk làm từ thịt lợn thật ngon người ta
thường gói lẫn cả bắp cải muối và tôm tẩm muối.
(13) Jokpyeon (giò đông) :
Người ta làm món Jokpyeon bằng cách đun
sôi hỗn hợp gồm các phần thịt dai, gân, da bò
trong một thời gian khá lâu để cho chất gelatin
tan chảy ra. Sau đó người ta múc ra những cái
đĩa có hình vuông. Khi nó đông lại thì người ta
thái thành những lát mỏng rồi chấm với gia vị.
- Yongbong Jokpyeon
- Jok Jang Gwa
(14) Tuy Gak, Boo Gak, Ja Gak (Món lướt ván) :
Món Boo Gak sử dụng nhiều khoai tây, ớt, lá vừng, lá kim. Người ta phết gia vị
lên lá kim, tảo biển rồi cuộn lại cho lên vỉ để nướng hoặc đem chiên với dầu để tạo
thành một món ăn thêm.
(15) Po (Thịt xẻ miếng lớn) :
- Yak Po
- Jang Po
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
25
- Pyeon Po
- SengJi Po
- Eo Po
- Jeon Bok Sam
- Po Sam
(16) Sam (Món cuộn):
C.저장발효음식- Các món ăn lên men
(1) Kim chi
►Jeotgukji (Kim chi bắp cải có nước và nhiều cá muối)
Jeotgukji là món Kim chi cao cấp, vào vụ muối Kim Chi cho mùa đông, bắp cải
muối cùng củ cải, ngò tây, mù tạt, bạch tuộc nhỏ, bột ớt, cá đù vàng, hàu, sò vv… và
các loại gia vị khác được cho vào nước canh ức bò (cũng có thể hòa cùng nước cá
muối) rồi được ngâm cho chua. Bởi trong Jeotgukji có cá đù vàng nhỏ và nhiều loại
hải sản khác nên món Kim chi này có mùi vị khá nhẹ và thanh đạm.
► Seokbakji
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
26
Củ cải, cải bắp được thái thành từng lát mỗi chiều rộng khoảng 5cm được muối
chung cùng nhau sau đó được trộn cùng với nhiều loại gia vị khác được gọi là
Seokbakji, một loại kim chi khác thường có trong ẩm thực cung đình. Trong cung đình,
những món kim chi được dọn lên cho vua dùng tất cả đều phải được thái nhỏ vừa phải
và cân đối, bắp cải cũng chỉ chọn những loại có nhiều lá tươi ngon để muối riêng và
dọn lên cho nhà vua.
►Jangkimchi Jangkimchi là một loại canh kim chi được làm từ củ cải, cải bắp
muối cùng nhiều loại rau củ khác. Cải bắp và củ cải được thái lát chiều rộng khoảng
4cm sau đó được cho vào tương muối chung cùng nhau. Hành, tỏi, gừng xắt nhỏ, nấm
pyogo, lê, hạt dẻ vv… cũng được thái lát mỏng. Tất cả những nguyên liệu trên được
trộn lên cùng nhau rồi được đổ nước vào và đun chín.
► Songsongi
Kim chi songsongi được người bình dân gọi là kkakdugi (kim chi củ cải xắt khối
lập phương), nhưng vì các cung nữ trong cung thường không được phép phát âm mạnh,
há miệng quá rộng mà phải ăn nói nhỏ nhẹ, nên họ gọi nó là songsongi. Củ cải trắng
ngâm muối được xắt nhỏ thành những khối lập phương được trộn và đun lên cùng với
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
27
lõi bắp cải, hành, ngò tây, hàu hay sò và nhiều gia vị khác. Củ cải đun hơi sôi rồi được
dọn lên thì được gọi là sukkakdugi
(2) Jeotgal (Mắm cá muối)
Trong các loại Jeotgal thì tôm muối và cá trồng muối là những nguyên liệu thành
phần chủ yếu để làm các món Kim chi còn trứng cá pollack muối, mực ống muối, ruột
cá pollack muối, hàu ướp muối ớt, trai muối thì được dùng làm các món ăn phụ.
Jeotgal được dùng trong cung đình không phải là Jeotgal được muối trong cung mà là
do các vùng trong cả nước lựa chọn những loại ngon nhất, tốt nhất làm vật phẩm dâng
tiến lên nhà vua. Các loại Jeotgal được dùng chủ yếu trong cung đình là cá đù vàng
muối và tôm muối.
D.후식류- Các món tráng miệng
(1) Tteok
► Jjineun Tteok (Tteok hấp)
Bánh Tteok hấp thành từng lớp gồm có một số loại như: 백설기 - Baek Seolki
(Tteok bột gạo trắng), 콩설기(Tteok được phủ nhiều lớp đậu mỏng), Kam Seolki –
Kam Seolki (Tteok hồng vàng), 밤설기- Bam Seolki(Tteok hạt dẻ), 쑥설기- Ssuk
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
28
Seolki (Tteok ngải), 잡과병- Jap Kwabyeong (một loại Tteok được làm từ quả hồng
khô, táo tàu, hạt dẻ, hạt thông, quả óc chó, nhãn, nho khô…) v.v… Bánh Tteok nhiều
lớp này được làm bằng cách phủ lần lượt lên mỗi lớp bánh bột gạo hoặc bột gạo nếp,
đậu đỏ, đậu xanh, vừng… rồi đem hấp cách thủy. Tteok đậu đỏ hấp tiêu biểu nhất cho
loại bánh Tteok này. Người ta còn trộn thêm vào bột gạo mật ong và bột một số loại
thảo mộc khác. Còn bột khô phủ ngoài bánh có thể được thay thế bởi hạt dẻ, táo tầu,
hạt thông xay nhỏ tạo nên nhiều màu sắc trang trí đẹp mắt. Tteok hấp được thưởng
thức theo mùa như sau: mùa xuân với쑥설기- Ssuk Seolki (Tteok ngải),느티떡 (một
loại Tteok có lá cây zelkova); mùa hạ với수리치떡- Surichi Tteok (Tteok làm từ một
loại cây sống ở đầm lầy), 상치떡- Sangchi Tteok (Tteok rau diếp); mùa thu thì
có물호박떡- Mulhobak Tteok (Tteok bí đỏ già), 무떡 Mu Tteok (Tteok củ cải)… và
mùa đông thì có các loại호박고지떡 Hobakkoji Tteok (Tteok có những lát bí đỏ non)
hay cho táo tầu, hạt dẻ, hồng khô vào làm잡과병 -> chữa các bệnh vặt nhẹ.
백설기 - Baek Seolki 물호박떡 - Mulhobak Tteok 쑥설기- Ssuk Seolki
► Chineun Tteok (Tteok giã)
Bột gạo hay bột gạo nếp sau khi hấp chín được cho vào cối giã nhuyễn rồi mới
được dùng để làm một số loại Tteok như là : In Jeolmi, Heuin Tteok , Jeon pyeon,
…Trong khi giã gạo gạo làm Tteok người ta còn bỏ thêm cây ngải hay vỏ trong của
cây thông và từ đó sẽ có thêm các loại Tteok: 쑥절편 – Ssuk Jeolpyeon (nếu bỏ thêm
ngải),송기절편 Songki Jeolpyeon (nếu bỏ thêm vỏ trong của cây thông vào gạo)
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
29
In Jeolmi
► Bitneun Tteok (Tteok nặn, có hình khối)
- Danja: bột gạo nếp được trộn với nước và đem hấp, sau đó nhào lên và nặn hình
tròn hoặc cho vào nước sôi luộc. Người ta cũng có thể nặn Tteok hình hoa anh đào sau
khi giã nhuyễn bột và nặn với kích thước cân đối rồi rắc bột khô lên
- Kyeongtan: đây là loại Tteok được làm từ bột gạo nếp hoặc bột kê nhào nhuyễn
rồi nặn thành hình tròn và luộc chín sau đó rắc bột đậu tương, vừng… lên trên
- Songpyeon: lại được làm từ bột gạo tẻ nhào, sau đó cho thêm vào đậu tương,
vừng, hạt dẻ… rồi nặn như hình con trai, con sò. Khi hấp còn rắc thêm nhiều lớp lá
thông vào trong nồi hấp. Người ta cũng có thể cho ngải hay vỏ trong cây thông vào
trong bột gạo trong lúc giã để làm 쑥송편- Ssuk songpyon và 송기송편- Songki
Songpyeon.
Danja Kyeongtan Songpyeon
► Jijineun Tteok (Tteok rán)
Bột gạo nếp nhào nhuyễn rồi nặn thành nhiều hình thù sau đó được rán lên làm
thành các loại Tteok như: 화전- Hwanjeon (Tteok ngọt được trang trí bởi các cánh
hoa),주악- Juak,부꾸미- Bukkumi…
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
30
►Yaksik
Bột gạo nếp được ngâm nở sau đó đem hấp rồi được trộn lên cùng với dầu vừng,
tương, mật ong, đường, bột quế… và được rắc hạt dẻ, táo tàu hạt thông lên trên.
Yaksik Cheungpyeon Bonguri Tteok
►Cheungpyeon
Đổ rượu vào bột gạo rồi nhào nặn cho nhuyễn, ủ cho lên men rồi cho vào khung
Cheungpyeon và rắc hạt thông, táo tầu xắt nhỏ trang trí lên trên vào đem đi hấp. Trước
đây còn được gọi là Sultteok (Tteok rượu) hay기주떡- Kiju Tteok
►Bonguri Tteok (Tteok hình đỉnh núi)
Còn được gọi là두텁떡, 합병(盒餠), 후병(厚餠). Được làm từ đậu đỏ hấp, nêm
thêm đường, bột quế và được rắc bột khô lên trên. Khi cất giữ, rắc thêm bột đậu đỏ và
một thìa bột gạo nếp cùng với hạt dẻ, táo tầu, hạt thông rắc lên trên, rồi bên trên lại rắc
tiếp bột đậu đỏ tạo thành nhiều lớp để bảo quản.
(2) Kwaja (Bánh kẹo):
► Kangjeong (Một dạng bánh quy ngọt với dầu vừng và đậu)
Đây là loại bánh quy được làm từ: bánh bột gạo nếp xắt hình hạt gạo, rắc lên nền
Kangjeong khô rồi rưới nước đường hay mật ong lên. Hạt thông, bột quế cùng nhiều
loại bột khô khác cũng được rắc lên trên.
► Yumingkwa
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
31
Là loại kwaja được làm từ bột khô trộn với dầu vừng, mật ong nước gừng rồi nhào
nhuyễn lên và cho vào rán, khi bỏ ra cho thêm mật ong. Dựa vào kích thước to hay
nhỏ và hình dạng ta có các loại như: Daeyak Kwa, Mo Yakwa, Jung Yakwa, So
Yakwa…
KangjeongYumingkwa Suksilkwa
►Suksilkwa
Hoa quả đã được nấu chín đem đun với hạt hẻ, táo tầu, mật ong… cho đến khi cạn
nước rồi được nhào một lần nữa với mật ong.
►Kwapyeon
Là kwaja có vị giống nho, được làm từ sơri, củ cải, quả mơ trộn với mật ong, tinh
bột và đun cho đến khi cạn nước, sẽ được dạng cứng và mịn, phẳng như thạch rồi cắt
nhỏ thành hình vuông hay hình chữ nhật.
Kwapyeon Dasik Yuja Jeongkwa
►Dasik (Một loại kẹo có hoa văn, họa tiết dùng khi uống trà)
Bột ngũ cốc, thảo dược, phấn hoa… được trộn cùng mật ong rồi được đổ vào khuôn
làm thành nhiều hình đẹp mắt.
►Jeongkwa
Một dạng mứt được làm từ quả thanh yên, quả mộc qua, gừng, cây hoa chuông, ngó
sen, nhân sâm… được cho vào hỗn hợp dung dịch gồm mật ong, nước đường rồi đun
cho đến khi cạn nước.
►Yeotkangjeong
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
32
Là một loại kwaja được làm từ đậu tương rang, vừng, tía tô, lạc, hạt thông trộn
cùng mạch nha rồi được xắt thành nhiều phần nhỏ
E.차와화채- Trà và Chè
(1)차- Trà
Thời Joseon tôn sùng Nho Giáo mặc dù người dân thường nhìn chung chưa có thói
quen, tập tục thưởng thức trà .Thế nhưng trong cung đình, đặc biệt vào những dịp
trọng đại mang tính quốc gia, trà thường được dâng lên và những lễ nghi khi uống trà
cũng từ đó mà có. Trà được pha bởi nhân sâm, gừng, omicha, kugicha, thanh yên, táo
tầu, mộc qua … và hoa quả.
(2)화채- Chè
Chè được làm từ nhiều loại hoa quả phổ biến theo từng mùa như: dâu, quýt, sơri,
đào, dưa hấu, lê … tách nước hoa quả riêng rồi chế biến. Ngoài ra còn có loại được
làm từ các hạt ngũ cốc rang khô tán thành bột rồi cùng với phấn thông được cho vào
nước mật ong. Chè Ochima thì còn có hoa Jindalle thả nổi ở trên.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
33
Phần III. Kết luậnTrên đây là những tìm hiểu khái quát nhất của nhóm chúng tôi về ẩm thực cung
đình Hàn Quốc, từ những món ăn chính, đến các món phụ thường có, các món kim chi,
lên men, tteok cùng cả các món tráng miệng.
Ngôn ngữ và văn hóa có mối liên hệ mật thiết với nhau bởi vậy bên cạnh việc
nghiên cứu học tập ngoại ngữ thì việc khám phá tìm hiểu văn hóa của đất nước đó
cũng không kém phần quan trọng. Trong đó thì ẩm thực luôn là một phương diện thú
vị và mang nhiều nét đặc trưng cho văn hóa của một quốc gia. Ví dụ như, chỉ riêng
việc tổng hợp lại tên các món ăn ta cũng có thể thấy được nhiều điều thú vị: từ cách
đặt tên (chủ yếu là tên nguyên liệu + cách chế biến) đến khái niệm : các khái niệm
như찜 (chỉ các món gồm thịt, rau và nhiều loại gia vị được hầm cùng nhay hoặc được
đun cho tới khi xâm xấp nước), 탕 (là một loại canh có nhiều phần cái – gồm rau, thịt
và nhiều loại gia vị mà nước canh lại ít), 국( là các loại canh gồm thịt, cá, rau, gia vị
được đun sôi với nước)… qua đó, khi bắt gặp tên các món ăn chỉ cần nhìn vào các khái
niệm này ta cũng có thể đoán được món đó thuộc loại nào và có đặc điểm ra sao…
Chúng tôi thấy là như vậy, các món ăn cung đình đảm bảo được các yếu tố: đẹp
mắt, ngon, bổ, an toàn; được làm từ các nguyên liệu tốt nhất, cách nấu cầu kỳ và đa
dạng nên là nền tảng cho nền ẩm thực đầy đặc sắc của món ăn Hàn Quốc hiện đại....
Với những gì đã tìm hiểu và tổng hợp lại được chúng tôi mong sẽ giúp ích phần
nào cho những người những sinh viên, những người học tiếng Hàn Quốc và yêu mến
văn hóa Hàn như chúng tôi về ẩm thực Hàn Quốc nói chung và ẩm thực cung đình Hàn
Quốc nói riêng.
Phần IV : Tài liệu tham khảo1. http://www.asianabsolute.co.uk/directory/articles/royal-korean-cuisine.html
2. http://en.wikipedia.org/wiki/Korean_royal_court_cuisine
3. http://www.visitkorea.or.kr/ena/CU/CU_EN_8_1_1_3.jsp
4. http://www.food.co.kr/english/05_4.html
5. http://kin.naver.com
6.한국음식대관 –제 6과 :궁중의식생활 –사철의식생활.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
34
BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT
TRIỂN VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA BẢNG CHỮ CÁI TIẾNG HÀNGiáo viên hướng dẫn: Th.s Phạm Thị Ngọc
Sinh viên thực hiện: Đinh Thúy Hằng 2H.09
Tạ Thu Hà 2H.09
I. Phần mở đầu:
1. Mục đích nghiên cứu:
Trong xu thế phát triển và hội nhập như hiện hiện nay, các quốc gia đang
không ngừng giao lưu, trao đổi và hợp tác với nhau trên rất nhiều lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa, giáo dục vv... Do nhu cầu học và tìm hiều về ngôn ngữ và văn hóa
của các quốc gia đang ngày tăng lên nên không chỉ tiếng Anh, Nga, Pháp vv...mà
nhiều mà các thứ tiếng khác cũng được chú trọng và đưa vào giảng dạy nhiều hơn ở
các trường đại học. Trong đó không thể không kể đến tiếng Hàn Quốc, một ngôn ngữ
của quốc gia nằm ở khu vực Châu Á và không quá xa so với Việt Nam về mặt địa lý.
Song, ngôn ngữ của bất kì quốc gia nào cũng luôn có những nét tương đồng
và khác biệt với một ngôn ngữ của quốc gia khác. Đó chính là khó khăn của những
người nước ngoài nói chung và người Việt Nam nói riêng khi tiếp cận với tiếng Hàn
Quốc. Như chúng ta đã biết, học một ngôn ngữ đòi hỏi chúng ta sẽ phải đối mặt với rất
nhiều khó khăn: ngữ pháp, từ vựng, ngữ âm vv…Thế nhưng sẽ càng khó khăn hơn đối
với người học khi ngôn ngữ tiếng nước ngoài lại không cùng hệ chữ cái với ngôn ngữ
mẹ đẻ của mình. Hiện chúng em đang là sinh viên năm nhất khoa tiếng Hàn Quốc
trường đại học Hà Nội,thì khó khăn ban đầu của chúng em khi tiếp cận với ngôn ngữ
này cũng chính là hệ chữ cái tiếng Hàn khác hoàn toàn so với tiếng Việt. Bởi vậy, việc
trước tiên khi muốn học tốt tiếng Hàn là phải tìm hiểu và hiểu rõ được bảng chữ cái
của nó đồng thời nắm bắt những đặc điểm quan trọng để giúp chúng ta dễ dàng hơn
trong tiếp cận với tiếng Hàn.
Bởi những lí do trên cùng với mong muốn tìm hiểu về đặc điểm của bảng chữ
cái tiếng Hàn mà chúng em quyết định chọn để tài “Bước đầu tìm hiểu về quá trình
hình thành, phát triển và đặc điểm của bảng chữ cái tiếng Hàn” làm đề tài nghiên
cứu trong báo cáo khoa học này với mong muốn không chỉ bản thân có thêm hiểu biết
sâu hơn về bảng chữ cái tiếng Hàn Quốc mà với kết quả của báo cáo khoa học này sẽ
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
35
là tài liệu tham khảo bổ ích cho các bạn sinh viên đang học tiếng Hàn nói chung và
những ai quan tâm đến tiếng Hàn nói riêng. Hy vọng từ kết quả của báo cáo khoa học
này sẽ giúp mọi người có những hiểu biết sâu rộng hơn về bảng chữ cái tiếng Hàn để
học tiếng Hàn được tốt hơn.
2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu:
Do phạm vi nghiên cứu có giới hạn nên trong bài nghiên cứu này, chúng em
chỉ tập trung vào tìm hiểu sơ lược về lịch sử cùng sự phát triển và đặc điểm của bảng
chữ cái Hangeul. Là sinh viên năm thứ nhất, chúng em cũng chưa có đủ kinh nghiệm
và năng lực để tự mình làm một nghiên cứu chuyên sâu hơn nên phương pháp sử dụng
của chúng em ở đây là dựa trên những tổng hợp, phân tích các tài liệu về lịch sử, đặc
điểm ngôn ngữ mà chúng em thu thập được để tìm, nêu , liệt kê và đưa ra được những
đặc trưng cơ bản của bảng chữ cái tiếng Hàn. Mong muốn đơn giản của chúng em là
chỉ muốn tìm hiểu về tiếng Hàn Quốc cùng bảng chữ cái Hangeul.
3. Lịch sử nghiên cứu:
Về Hàn Quốc học nói chung và tiếng Hàn nói riêng đã được tập trung nghiên
cứu sâu rộng. Trong những năm gần đây, ngành Hàn Quốc học bắt đầu phát triển ở
Việt Nam với nhiều đề tài nghiên cứu của các nhà chuyên môn, của các giảng viên
trực tiếp giảng dạy bộ môn tiếng Hàn cũng như những sinh viên đang trực tiếp học tập
tiếng Hàn ở Việt Nam.
Trước khi chúng em bắt đầu tìm hiểu thì đã có rất nhiều những bài nghiên cứu
về đề tài này ra đời và cũng có những kết quả nhất định như các đề tài sau:
- “Vua Sejong và sự sáng tạo chữ Hangeul” của TS.Lê Đình Chỉnh Khoa
Phương Đông học, trường Đại học KHXH và NV Hà Nội.
- “Về sự sáng tạo chữ viết Hangeul Huấn dân chính âm và vai trò của nó
trong phát triển văn hóa giáo dục Korea” của GS.TS Lê Quang Thiêm Khoa Phương
Đông học, trường Đại học KHXH và NV Hà Nội.
Thực tế không chỉ có hai công trình nghiên cứu của hai nhà nghiên cứu trên về đề
tài này mà có nhiều công trình nghiên cứu liên quan khác nữa của các nhà ngôn ngữ,
các nhà nghiên cứu Việt Nam và Hàn Quốc. Nhưng do năng lực còn nhiều hạn chế nên
chúng em chưa thể tìm để đọc hết được các tài liệu nghiên cứu đó nên xin phép không
nêu ra trong báo cáo khoa học này. Từ các kết quả nghiên cứu trên chúng em chỉ mong
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
36
muốn tổng hợp, phân tích để nêu và đưa ra các đặc điểm chính của bảng chữ cái tiếng
Hàn.
II. Phần nội dung:
1. Lịch sử ra đời của chữ Hangeul:
1.1 Vua Sejong_người sáng tạo ra chữ Hangeul:
Vua Sejong (1418-1450) là vị vua thứ 4 của triều đại Choson (1392-1910).
Đây là vị vua được đánh giá là vĩ đại nhất trong lịch sử Hàn Quốc. Ông là học giả
ngôn ngữ rất siêu phàm và đặc biệt ông được biết đến là một người có rất nhiều kiến
thức về âm vị học.
Dưới triều đại Choson đã có nhiều lĩnh vực khoa học ra đời, nhanh chóng phát
triển và để lại những thành tựu có giá trị lớn như : Năm 1442, Hàn Quốc đã sáng chế
ra máy đo lượng mưa, đi trước phát minh của phương Tây khoảng 2 thế kỷ. Vào thời
gian này, nghề in của Hàn Quốc cũng phát triển mạnh mẽ. Năm 1403, Nhà nước cho
thành lập xưởng đúc chữ và con chữ bằng đồng đã ra đời gọi là chữ “kyemy”, đánh
dấu sự tiến bộ vượt bậc của nghề in trong lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, trong tất cả
những thành tựu được sáng tạo, thành tựu lớn nhất của vua Sejong là việc sáng tạo ra
chữ Hangeul – Bảng chữ cái tiếng Hàn.
1.2. Lịch sử ra đời của chữ Hangeul.
Sự ra đời của hệ thống Idu (chữ Idu giống chữ Nôm của người Việt và
chữ Kana của người Nhật Bản) trong thời kì hưng thịnh của vương quốc Silla (vào đầu
thế kỉ 8) đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ về văn hóa trong lịch sử Hàn Quốc. Hệ
thống chữ Idu cho phép viết các từ tiếng Hàn sang tiếng Trung Quốc. Các phương
pháp ra đời sau đó đã cho phép đọc tiếng Trung Quốc và viết các câu tiếng Hàn đơn
giản. Hệ thống chữ Idu cũng được các học giả Nhật Bản thời đó sử dụng vào hệ thống
viết tiếng Nhật có tên gọi là Manyokana.
Trước khi chưa có chữ viết thì người Hàn Quốc đã sử dụng Hanja để làm
ngôn ngữ của dân tộc mình, nhưng chỉ dừng lại ở giới quý tộc vì nó rất khó học và khó
viết. Thế nên đa phần người dân Hàn Quốc thời đó đều mù chữ và dẫn đến việc thiếu
hiểu biết, thiếu kiến thức.
Chính vì lí do đó,vua Sejong đã cùng các học giả trong Tập Hiền Điện đã
nghiên cứu để sáng tạo ra chữ tiếng Hàn. Trong hoàng gia lúc đó, một bộ phận quan
lại vốn là những quý tộc đã không những không hưởng ứng ý tưởng của Vua Sejong
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
37
trong việc chế tạo ra chữ hangeul mà còn có nhiều ý kiến chống đối ông. Thời điểm đó,
giai cấp thống trị và quý tộc cho rằng họ cần phải bảo vệ sự độc quyền của họ trong
học vấn bằng cách tiếp tục sử dụng hệ thống chữ Hán. Tuy nhiên, vượt qua những trở
ngại trên, vua Sejong vẫn cương quyết đẩy mạnh sự phát triển của bảng chữ cái
Hangeul. Và sự ra đời của bảng chữ cái này đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong
lịch sử dân tộc Hàn.
Trong thời kì Nhật Bản cai trị (1910-1945) việc sử dụng chữ Hangeul đã bị gián
đoạn. Sau năm 1945,chữ Hangeul đã được sử dụng trở lại.
2. Đặc trưng và ý nghĩa của bảng chữ cái Hangeul:
2.1. Đặc trưng và cấu tạo của chữ cái Hangeul.:
Khi mới sáng lập, không phải tên gọi ban đầu của bảng chữ cái là
Hangeul ( 한글 ) mà là Hunmin Jeongeum (훈민정음) nghĩa là Huấn dân chính âm,
tức dạy cho người dân phát âm đúng (âm xác thực dùng để dạy học). Tên gọi hiện nay
là Hangeul (한글 ) là tên gọi được vua Jusi Gyeong đưa ra vào năm 1912.
Về cấu trúc, Hangeul là một hệ thống các kí hiệu dựa trên biểu tượng của trời,
đất và con người và các cơ quan phát âm như lưỡi, môi, răng, cổ, họng… Những phụ
âm cơ bản vận dụng thuyết âm dương ngũ hành được tạo ra theo hình dáng của miệng,
những nguyên âm cơ bản thì thể hiện hình dáng và vận dụng thuyết thiên địa nhân.
Với các kí hiệu ‘ᆞ,ㅡ,ㅣ’ tượng trưng cho trời, đất và con người. Chữ cái tiếng Hàn
được tạo ra từ sự kết hợp của 3 chữ này thế nhưng điều gây ngạc nhiên chính là sự
phản ánh trong từng dáng vẻ của chữ, nét hài hòa của nguyên âm với đặc trưng quan
trọng của tiếng Hàn. Trong tiếng Hàn Quốc có nguyên âm ( nguyên âm dương tính)
tạo ra cảm giác sáng sủa và nhẹ nhõm và nguyên âm ( nguyên âm âm tính) thì mang
đến cảm giác ảm đạm và nặng nề thế nhưng vua Sejeong đã đặt tất cả các cảm giác này
vào trong chữ cái. Có nghĩa là ‘ㅏ’ có dáng vẻ của mặt trời mọc lên từ phía Đông nên
là nguyên âm sáng còn ‘ㅓ’ có dáng vẻ của mặt trời lặn về phía Tây là nguyên âm tối.
Mặt khác ‘ㅗ’ mang hình ảnh của mặt trời mọc lên từ đất nên là nguyên âm sáng còn
‘ㅜ’ mang dáng vẻ của mặt trời lặn xuống đất nên là nguyên âm tối. Ở đây âm ‘y’
được thêm vào và tạo thành các nguyên âm ‘ㅑ, ㅕ, ㅠ’. Có thể nói rằng đây đúng là
một hệ thống chữ cái nguyên âm rất hợp với đặc trưng của tiếng Hàn.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
38
Bảng chữ cái công bố đầu tiên bao gồm 28 con chữ bao gồm 7 kí hiệu ghi
nguyên âm, 17 kí hiệu ghi phụ âm và 4 kí hiệu phụ nhưng trong quá trình hình thành
và phát triển chỉ còn có 24 con chữ và cho đến nay là 21 nguyên âm ( 10 nguyên âm
đơn :ㅣ,ㅔ,ㅐ,ㅏ,ㅓ,ㅗ,ㅜ,ㅡ, (ㅚ,ㅟ); 11 nguyên âm đôi :ㅑ,ㅕ,ㅛ,ㅠ,ㅘ,ㅝ,
ㅢ,ㅖ,ㅒ,ㅙ,ㅞ ) và 19 phụ âm. (ㄱ,ㄲ,ㄴ,ㄷ,ㄸ,ㄹ,ㅁ,ㅂ,ㅃ,ㅅ,ㅆ,ㅇ,ㅈ,ㅉ,
ㅊ,ㅋ,ㅌ,ㅍ,ㅎ)
Cũng giống như tiếng Việt, tiếng Hàn về cơ bản chữ cái được kết hợp giữa phụ âm
và nguyên âm mà thành. Nguyên âm có dạng nằm dọc thì phụ âm được xếp ở vị trí bên
trái còn nguyên âm có dạng nằm ngang thì phụ âm được xếp ở vị trí bên trên. Nguyên
âm có dạng kết hợp cả nằm ngang và dọc được gọi là ‘nguyên âm đôi’ và đối với
trường hợp của nguyên âm đôi thì phụ âm được viết ở phía bên trên. Tiếng Hàn có
những trường hợp chữ cái chỉ được tạo ra từ một nguyên âm và lúc này thì ‘ㅇ’ được
viết ở vị trí của phụ âm . Cuối cùng là chữ có dạng ‘phụ âm + nguyên âm + phụ âm’ và
phụ âm cuối được gọi là ‘patchim’. Nó được viết ở phần dưới cùng của chữ và trong
trường hợp chữ có hai ‘patchim’ thì hai chữ cái này được viết ngang bằng nhau.
Các cách kết hợp giữa phụ âm và nguyên âm trong tiếng Hàn được cho bởi bảng
sau:
Nguyên âm Phụ âm + nguyên
âm
Phụ âm + nguyên âm + phụ
âm
(patchim ghép)
ㅇ
ㅇ ㅏ
ㅗ
ㅅ
ㅊ ㅏ
ㅗ
ㅊ ㅐ ㄷ ㅏ
ㄱ ㄹ ㄱ
2.2. Ý nghĩa của sự ra đời bảng chữ cái Hangeul:
Sự ra đời của bảng chữ cái Hangeul có ý nghĩa vô cùng to lớn. Nó đánh dấu
bước phát triển vượt bậc trong lịch sử về văn hóa và khoa học của Hàn Quốc. Sự xuất
hiện của chữ Hangeul đã đưa đất nước và người dân Hàn Quốc thoát khỏi nạn mù chữ,
thiếu hiểu biết. Đây là dấu ấn lịch sử đánh dấu thời điểm người dân Hàn Quốc đã có
thể ghi lại tiếng nói của mình, ngôn ngữ của mình bằng chính chữ viết do dân tộc mình
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
39
sáng tạo ra. Vì vậy, chúng ta không ngạc nhiên khi Hangeul là niềm tự hào, hãnh diện
to lớn của người dân Hàn Quốc. Và nó cũng là bộ chữ duy nhất trên thế giới có ngày
kỷ niệm của riêng nó, ngày 9/10.
3. Các yếu tố du nhập từ các nước Phương Tây trong Hangeul và phạm vi sử
dụng của Hangeul:
3.1. Yếu tố du nhập phương Tây trong Hangeul :
Ách thống trị của Nhật Bản ở Triều Tiên kết thúc cùng với thất bại của Nhật
Bản trong Đại chiến Thế giới II năm 1945, quân đội Mỹ kiểm soát miền Nam Triều
Tiên trong khi quân đội Liên Xô kiểm soát miền Bắc Triều Tiên. Do có sự thâm nhập
của người Mỹ vào Hàn Quốc và nhờ vào tính khoa học của chữ Hangeul dễ đưa âm
tiếng nước ngoài vào trong bảng chữ cái nên trong tiếng Hàn cũng bắt đầu xuất hiện
nhiều từ phiên âm hóa. Được gọi là “từ ngoại lai”. Các từ này thường được dùng để
thay thể hoàn toàn hoặc sử dụng song song, cùng nghĩa với tiếng Hàn.
Từ những từ chỉ sự vật cụ thể như 넥타이 (neck tie), 피아노 (piano),
비자 (visa)... đến những từ chỉ khái niệm trừu tượng 헤어스타일 (hair style),
다이어트 (diet)...và đến những từ thuộc lĩnh vực kĩ thuật cao như컴퓨터 (computer),
카메라 ( camera),인터넷 (internet)...
Tuy nhiên, vẫn có những từ ngoại lai được sử dụng song song cùng
nghĩa với tiếng Hàn như : 인터뷰 (interview) = 면접 (phỏng vấn), 파티 (party) =
잔치(buổi liên hoan),...
3.2. Phạm vi sử dụng Hangeul trên thế giới:
Cũng như nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới, tiếng Hàn ngày nay là một trong
20 ngôn ngữ có mặt ở nhiều quốc gia trên thế giới. Theo thống kê cho thấy có khoảng
gần 80 triệu người nói tiếng Hàn bao gồm 25 triệu người ở Cộng hòa dân chủ nhân dân
Triều Tiên, 48 triệu người ở Hàn Quốc, 1,9 triệu người ở Trung Quốc và nhiều người
thuộc nhiều quốc gia khác như Nhật Bản, Nga, Mỹ, Canada…Tháng 8/2009, Hiệp hội
Huấn dân chính âm, thành phố Bau-bau, đảo Buton của Indonesia vừa quyết định sử
dụng Haguel làm chữ viết chính thức để mô tả tiếng bản ngữ A Chi A Chi. Hiện nay
thành phố Bau-bau đã phổ biến sách giáo khoa dạy tiếng A Chi A Chi viết bằng
Hanguel cho khoảng 50 học sinh tiểu học vùng Solaolio. Đây cũng là đảo đầu tiên trên
thế giới sử dụng chữ Hanguel làm chữ viết chính thức của mình.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
40
III. Phần kết luận:
Để học tốt được tiếng Hàn Quốc thì việc hiểu và nắm rõ được nguồn gốc, quá
trình sáng lập bảng chữ cái cũng như cấu tạo, cách ghép và đặc trưng của nó sẽ là một
bước đi đầu tiên quan trọng giúp ta học tốt được tiếng Hàn. Hơn thế nữa, việc tìm hiểu,
nghiên cứu về bảng chữ cái tiếng Hàn còn giúp chúng ta có thêm một mảng kiến thức
mới đó chính là biết được lịch sử của đất nước Hàn Quốc đặc biệt là lịch sử hình thành
ngôn ngữ để ta thêm yêu đất nước, con người cũng như ngôn ngữ của đất nước Hàn
Quốc.
Bởi vậy,sau quá trình nghiên cứu, chúng em xen rút ra một số kết luận tổng
kết như sau:
Thứ nhất: Về lịch sử và ý nghĩa: Lịch sử hình thành nên chữ Hangeul gắn
liền với công lao to lớn, vĩ đại của vua Sejong – vị vua được đánh giá là vĩ đại nhất
trong lịch sử Hàn Quốc, những cố gắng, nỗ lực và niềm tin của ông đã đưa đất nước và
người dân Hàn Quốc thoát khỏi nạn mù chữ, thiếu hiểu biết, để người dân Hàn Quốc
đã có thể ghi lại tiếng nói của mình, ngôn ngữ của mình bằng chính chữ viết do dân
tộc mình sáng tạo ra.
Thứ hai: Về cấu trúc : Hangeul là một hệ thống các kí hiệu dựa trên biểu
tượng của trời, đất và con người và các cơ quan phát âm như lưỡi, môi, răng, cổ,
họng…nguyên âm và phụ âm kết hợp linh hoạt theo nguyên tắc nhất định để tạo thành
chữ thường có dạng “ phụ âm + nguyên âm (+ phụ âm)”.
Thứ ba: Nhờ tình khoa học, đa dạng và linh hoạt của bảng chữ cái mà xuất
hiện những từ được phiên âm hóa – từ ngoại lai.
Thứ tư: Được coi là ngôn ngữ khoa học nhất thế giới,hiện nay phạm vi sử
dụng tiếng Hàn Quốc đã vượt ra khỏi phạm vi quốc gia, được giảng dạy và sử dụng ở
rất nhiều quốc gia trên thế giới.
Trải qua quá trình lâu dài, với nhiều biến động du nhập thêm nhiều từ ngoại
lai, song không vì thế mà tiếng Hàn đánh mất đi bản sắc vốn có, mà còn tô đậm thêm
cho bản sắc dân tộc và là niềm tự hào của người dân nước Đại Hàn Dân Quốc.
VI. Tài liệu tham khảo:
1. Các nước trên thế giới : Hàn Quốc_Rob Bowden NXB Kim Đồng và NXB Thế
Giới
2. Vua Sejong và sự sáng tạo chữ Hangeul_TS.Lê Đình Chỉnh, khoa
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
41
3. Phương Đông học, trường Đại học KHXH và NV Hà Nội
4. http://korea.kr
5. http://vi.wikipedia.org
6. http://web.hanu.kr
7. http://hanquocngaynay.com
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
42
CÁC HÌNH THỨC PHỦ ĐỊNH TRONG TIẾNG HÀN QUỐC
Giáo viên hướng dẫn: Th.s Nguyễn Phương Dung.
Sinh viêni thực hiện: Lý Kiều Linh 3H09
Lê Tú Anh 3H09
I. Lời mở đầu.
1.1. Mục đích nghiên cứu:
Trong quá trình hội nhập và mở cửa, mối quan hệ hữu nghị, hợp tác, và phát triển
giữa Việt Nam và Hàn Quốc đang ngày càng có những bước phát triển tốt đẹp. Vì vậy
việc tìm hiểu lẫn nhau về văn hoá, phong tục, tập quán, ngôn ngữ… là rất cần thiết.
Hiện nay tại Hàn Quốc có rất nhiều trường đại học giảng dạy chuyên ngành tiếng Việt
Nam, và ở Việt Nam cũng không ít trường đại học đang đào tạo chuyên sâu về tiếng
Hàn Quốc. Là sinh viên đang theo học chuyên ngành tiếng Hàn Quốc thì việc nghiên
cứu khoa học về đề tài liên quan đến lĩnh vực này là một công việc cần thiết.
Bất kì ngôn ngữ nào trên thế giới cũng đều có những hình thức phủ định. Tuy nhiên
những biểu hiện và cách sử dụng của các hình thức phủ định ấy lại khác nhau. Ví dụ
trong tiếng Việt Nam, biểu hiện của hình thức phủ định là “không/đừng”, hay trong
tiếng Anh là “no/ not” thêm sau động từ. Tuy nhiên hình thức phủ định trong tiếng
Hàn Quốc lại có những đặc điểm riêng của nó. Trong tiếng Hàn Quốc hình thức phủ
định được phân chia rõ ràng trong cách sử dụng, tuỳ vào từng loại câu (trần thuật, nghi
vấn, đề nghị, mệnh lệnh,…), đối với từng loại từ (động từ, tính từ…)lại có những cách
biến đổi khác nhau. Rõ ràng so với tiếng Việt Nam thì hình thức phủ định trong tiếng
Hàn Quốc có nhiều điểm phức tạp, đáng lưu ý hơn. Vì vậy việc nắm rõ cách sử dụng
các hình thức phủ định trong tiếng Hàn Quốc là điều kiện cần thiết cho người sử dụng
để tránh gây hiểu lầm cho đối phương, thoả mãn được nhu cầu giao tiếp.
1.2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu về ngôn ngữ là một đề tài rộng mở. Bài nghiên cứu này chỉ đề cập đến
một trong những đặc điểm cần chú ý trong ngữ pháp tiếng Hàn Quốc là: Các hình thức
phủ định trong tiếng Hàn Quốc. Bằng phương pháp tổng hợp đưa ra những kiến thức
cơ bản nhất về các hình thức phủ định trong tiếng Hàn Quốc, bài viết đã nêu rõ ý nghĩa,
cách sử dụng, và những chú ý giúp người đọc hiểu rõ hơn, nắm bắt chắc hơn về các
hình thức phủ định cơ bản trong tiếng Hàn Quốc và tránh được các lỗi thường gặp.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
43
II. Các hình thức phủ định trong tiếng Hàn.
1.1.Khái niệm.
Phủ định là cách người sử dụng ngôn ngữ dùng khi muốn đưa ra một ý kiến
khác biệt, không nhất quán, trùng lặp với ý kiến mà người đó được biết thông qua giao
tiếp bằng lời nói, chữ viết, hình ảnh. Các hình thức phủ định đó có thể được chia ra
thành những dạng sau:
1.2.Phân loại các hình thức phủ định.
(1)동사 +지않다
안 + 동사
* Hình thức: 동사 +지않다 & 안 +동사.
* Ý nghĩa: Phủ định hành động hoặc trạng thái của sự vật, sự việc. Có thể dịch là:
không/ không phải…
* Cách sử dụng:
+ Hình thức phủ đinh này được sử dụng trong câu trần thuật và câu nghi vấn.
Ví dụ:
(1)교실이넓지않아요. --> Lớp học không rộng (câu trần thuật).
(2) 오늘 학교에 안 가요? --> Hôm nay bạn không đến trường à? –(câu
nghi vấn).
+ Cả ‘동사 + 지 않다’ và ‘안 + 동사’đều có thể đi với các động từ và tính từ.
Tuy nhiên có một số từ chỉ có thể kết hợp với ‘동사 + 지않다’mà không thể kết hợp
được với ‘안 +동사’:
Ví dụ: (3)아름답다 안아름답아요. (sai)
아름답지않나요. (đúng)
(4)공부하다 안공해요.(sai)
공부하지않아요.( đúng)
+“안” được dùng trong khẩu ngữ và người sử dụng thường là những người trẻ tuổi.
Còn “지않다” được dùng nhiều trong văn viết hoặc trong các buổi họp, hội nghị, báo
cáo... và người sử dụng là người lớn.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
44
+ ‘안’ không thể chen vào giữa tân ngữ và động từ vì vậy hình thức phủ định này
sẽ được sử dụng như sau:
Danh từ +하다 Danh từ +안하다
(5).이사하다 인사를안하다
Tân ngữ + động từ Tân ngữ +안 + động từ
Ví dụ: (6)밥을먹다 밥을안먹다.
+ Khi sử dụng hình thức ‘동사+ 지 않다’ ta chỉ cần lấy động và tính từ nguyên
thể bỏ ‘다’ rồi cộng với ‘지 않다’. Có một số trường hợp xuất hiện tiểu từ ‘가’/ ‘는’
đứng sau ‘지’ với mục đích nhấn mạnh ý và không làm thay đổi nghĩa của câu.
Ví dụ: (7).운동장이크다 운동장이 크지는않다.
+ Dạng phủ định ‘~지않다’ còn được sử dụng với ý nghĩa thông qua hình thức
phủ định nhưng câu lại mang ý nghĩa xác định lại nội dung của Vị ngữ trong câu.
Ví dụ: (8)이옷은예쁘지않아요?
--> Cái áo này không đẹp nhỉ ? (Người nói cho là vậy, hỏi lại ý kiến
người nghe để tìm sự đồng tình của người nghe).
(9).언제민수씨는학교에오지않았어요?
--> Hôm qua bạn Minsu không đến trường phải không?
(10)성호씨,매운음식을좋아하지않십니까?
--> Songho không thích đồ ăn cay nhỉ?
+ Phía sau’동사+지 않다 / 안 + 동사’ có thể kết hợp với thời thể ( hiện tại, quá
khứ, tương lai...)
Ví dụ: (11)오늘저넉에화씨가밥을안먹었어요.
---> Tối hôm nay Hoa đã không ăn cơm.
(12)그는오지않겠어요.
---> Người ấy chắc sẽ không đến đâu.
(2)동작동사 +지못하다
못+동작동사
* Hình thức: 동작동사 + 지못하다
못 + 동작동사
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
45
* Ý nghĩa: Biểu thị ý nghĩa khi chủ thể của hành động không có khả năng, điều
kiện làm được việc gì đó do hoàn cảnh hoặc yếu tố khách quan nào đó đưa đến, hoàn
toàn không phải do ý muốn chủ quan của chủ thể hành động.
* Cách sử dụng:
+ Hình thức phủ đinh này được sử dụng trong câu trần thuật và nghi vấn.
Ví dụ: (13).왜학교에못가요?
--> Vì sao bạn lại không thể đi đến trường vậy? (câu nghi vấn).
(14).어제밤에잠을못잤어요..
--> Đêm hôm qua tôi đã không thể ngủ được (câu trần thuật).
+ Cả ‘동작동사 +지못하다’ và ‘못+동작동사’đều được sử dụng với động từ thể
hiện ý không thể làm được việc gì. Tuy nhiên 2 hình thức này cũng có những lưu ý
khác nhau về cách sử dụng:
+ Giống như “안 ” ở trên “못” ở đây cũng không thể chen vào giữa tân ngữ và
động từ. Vì vậy hình thức phủ định này sẽ được sử dụng như sau:
Danh từ + 하다 Danh từ +못하다.
Ví dụ: (15).운전을하다 운전을못하다.
(16).공부를하다 공부를못하다.
Tân ngữ + 동작동사 Tân ngữ +못 +동작동사.
Ví dụ: (17).밥을먹다 밥을못먹다.
(18).친구를만나다 친구를못만나다.
+ Khi sử dụng ‘동작동사 +지못하다’ ta lấy động từ nguyên thể bỏ ‘다’ rồi cộng
với ‘ 지 못하다’. Khi sử dụng có trường hợp thấy sau ‘지’có thêm tiểu từ ‘가’/ ‘는’
nhằm nhấn mạnh ý của chủ ngữ và không làm thay đổi ý nghĩa của câu.
+ Hình thức phủ định này có thể kết hợp được với các thời thể ( hiện tại, quá khứ,
tương lai). Ví dụ: (19).너무바빠서친구를만나지못해요.
--> Vì tôi quá bận nên không thể gặp bạn bè (hiện tại).
(20).옆에있는집이너무시끄러워서잠을못잤어요.
--> Vì nhà bên cạnh quá ồn nên tôi đã không thể ngủ được (quá khứ).
(21).그친구가사고를내는바람에며칠학교에못가겠어요.
--> Vì bạn ấy bị tai nạn nên mấy ngày sẽ không thể đến trường được.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
46
+ Hình thức phủ định ‘동작동사 + 지못하다/못 + 동작동사’ khác hình thức phủ
định ‘동사 +지않다/안 +동사’ và điều đó được thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 1: Phân biệt sự khác nhau giữa ‘동작동사 +지못하다/못 +동작동사’ và
‘동사 +지않다/안 +동사’.
Hình thức
PĐ
PB theo
‘동사 +지않다/
안 +동사’
‘동작동사 +지못하다/
못 +동작동’
Ý nghĩa
Nói về 1 sự việc mà
chủ thể của hành động đã
không làm ( dù có điều
kiện và khả năng)
Nói về 1 sự việc mà chủ thể của
hành động (dù muốn) cũng không
thể làm được ( vì không có điều kiện
và khả năng)
Cách dùngDùng được với cả
động từ và tính từThường được dùng với động từ.
(3)동작동사 + (으)ㄹ수없다.
* Hình thức: 동작동사 + (으)ㄹ수없다
* Ý nghĩa: Nói về khả năng không thể làm được việc gì đó.
* Cách sử dụng:
+ Hình thức phủ định này được sử dụng trong câu trần thuật và nghi vấn.
Ví dụ: (22).그사람과연락할수없어요.
--> Tôi không thể liên lạc được với người ấy (câu trần thuật).
(23). 사장님을직접만날수없어요?
--> Tôi không thể trực tiếp gặp giám đốc được sao? (câu nghi vấn).
+ Chỉ có thể kết hợp được với động từ:
받침(o) +을수없다.
받침(x) +ㄹ수없다.
+ Ví dụ: (24).받다받을수없다.
(25).가다갈수없다.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
47
+ Có thể kết hợp với thời thể (hiện tại, quá khứ, tương lai).
Ví dụ: (26).그때교실에있어서전화를받을수없었어요. (quá khứ)
--> Vì lúc đó mình đang ở trong lớp nên đã không thể nhận điện thoại.
(27).그문제가너무어려워서풀수없어요
--> Vì bài tập này quá khó nên tôi không giải được.
(28).연심히공부하지않으면높은점수를받을수없을거예요.
--> Nếu như không chăm chỉ học thì bạn sẽ không thể nhận được
điểm cao.
+ So sánh với hình thức phủ định. ‘동작동사 + 지 못하다 / 못+ 동작동사’ thì 2
hình thức này tương đương với nhau về mặt ý nghĩa.
(4)동작동사 +지말다
* Hình thức: 동작동사 +지말다
* Ý nghĩa: Là hình thức phủ định được sử dụng với ý nghĩa bảo ai không được
làm gì hoặc khuyên bảo ai hãy đừng làm gì đó.
* Cách sử dụng:
+ Hình thức phủ định này chỉ sử dụng được với động từ.
Ví dụ: (29).이건물에서담패를피우지마세요.
--> Không được hút thuốc trong toà nhà này.
+ Hình thức phủ định này được dùng trong câu mệnh lệnh và câu cầu khiến:
Ở câu mệnh lệnh: ‘동작동사 + 지 마세요/ 동작동사+ 지
마십시요’.
không được làm gì/ đừng làm gì.
Ví dụ: (30).다른사람에게이야기하지마세요/마십시요.
--> Không được kể cho người khác đâu/ Đừng kể cho người khác.
Ở câu cầu khiến: ‘동작동사 +지맙시다’. hãy đừng làm gì.
Ví dụ: (31).모자를쓰지맙시다.
--> Chúng ta hãy đừng đội mũ.
+ Chú ý ‘지말다’ là một động từ bất quy tắc, vì vậy khi ‘ㄹ’ kết hợp với ‘ㅅ’ thì
‘ㄹ’ sẽ bị biến mất và lúc này cấu trúc sẽ thành ‘지마세요/지마십시요’.
+ Từ hình thức phủ định này ta có cấu trúc câu sau:
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
48
‘동작동사 + 지 말고…’. mang ý nghĩa khuyên bảo ai đó đừng làm việc
này mà hãy ... (vế thứ 2 thường là câu mệnh lệnh).
Ví dụ: (32).자지말고,일어나세요.
--> Đừng ngủ nữa mà hãy dậy đi.
‘명사 +지말다’ ---> mang ý nghĩa từ chối cái này, muốn cái khác.
Ví dụ: (33).주스말고,맥주를주세요.
--> Đừng lấy nước hoa quả, hãy lấy bia cho tôi.
(5)동사 + (으)ㄹ줄모르다
* Hình thức: 동사 + (으)ㄹ줄모르다
* Ý nghĩa: Là hình thức phủ định của “(으)ㄹ 줄 알다” với ý nghĩa thể hiện khi
chủ ngữ không biết phương thức, cách thức để làm một việc gì đó hoặc không ngờ
sự việc nào đó lại có tính chất như thế.
* Cách sử dụng:
+ Dùng hình thức phủ định này trong câu tường thuật và nghi vấn.
Ví dụ: (34). 차를운전할 줄 몰라요. -->Tôi không biết (cách thức ) lái ô tô (câu
trần thuật).
(35).한국음식을만들줄몰라요?
--> Bạn không biết (cách thức) làm món ăn Hàn Quốc à? (câu nghi vấn).
+ Khi dùng với động từ (동작동사), câu sẽ mang ý nghĩa “ không biết cách thức
hay phương thức để làm một việc gì đó”.
받침(o)
받침(x)
‘ㄹ’
+을줄모르다.
+ㄹ줄모르다.
+줄모르다.
Ví dụ: (36).테니스를칠줄몰라요. -->Tôi không biết chơi tennis.
(37).일본음식을만들줄몰라요. --> Tôi không biết làm món ăn Nhật
Bản.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
49
+ ‘상태동사 + (으)ㄹ 줄 몰랐다’ (thường kết hợp với thời quá khứ và thường đi
với 이렇다, 그렇다, 저렇다) ---> mang ý nghĩa “không biết rằng, không ngờ rằng
sự việc nói đến lại có tính chất nào đó”. ‘이렇게/그렇게/저렇게
+상태동사+줄몰랐다.’
Ví dụ: (38).돈이그렇게많이들줄몰랐어요.
--> Tôi không biết là tôi lại cầm nhiều tiền thế này.
(39).등산이이맇게힘들줄몰랐어요.
--> Tôi không biết là leo núi lại mệt thế này.
+ Hình thức phủ định”동사 + (으)ㄹ 줄 모르”và hình thức phủ định “(으)ㄹ 수
없다” khác nhau và điều đó được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2: So sánh sự khác nhau giữa hình thức phủ định”동사 + (으)ㄹ줄모르” và
hình thức phủ định “(으)ㄹ수없다”.
(으)ㄹ수없다 동사 + (으)ㄹ줄모르다.
Ý nghĩa
Không thể làm được việc gì
đó bởi không có điều kiện và
khả năng thực hiện
Không biết cách thức và
phương pháp làm việc gì đó
Cách sử
dụng
Chỉ có thể kết hợp được với
Động từ
Có thể kết hợp được với
động từ và tính từ
(6)명사 +이/가+아니다 B
* Hình thức: 명사 +이/가 +아니다
* Ý nghĩa: là hình thức phủ định của “이다”( là). Có nghĩa: không phải là/ không
là/ không…
* Cách sử dụng: + Được dùng trong câu tường thuật và câu nghi vấn.
Ví dụ: (40).저기가은행이아닙니까?
--> Đằng kia không phải là ngân hàng à? ( câu nghi vấn )
(41).이것은공첵이아닙나다.
--> Cái này không phải là quyển vở (câu trần thuật).
+ Dùng với danh từ nhằm mục đích phủ định danh từ đó.
받침(o) +이아니다
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
50
받침(x) +가아니다
Ví dụ: (42).사진이아닙니다. --> Không phải là bức ảnh.
(43).우유가아닙니다. --> Không phải là sữa.
(7)동작동사 + (으)면안되다 /동작동사 +아/어서도안되다.
* Hình thức: 동작동사 + (으)면안되다
동작동사 +아/어서도안되다
* Ý nghĩa: Là hình thức phủ định của ‘동사+ 아/어/여도 되다’ với ý nghĩa giới
hạn, không cho phép ai làm gì đó. Có thể dịch là “làm gì thì không được”.
* Cách sử dụng:
+ Hình thức này được sử dụng cả trong câu tường thuật, nghi vấn và câu mệnh
lệnh, đề nghị.
+ Sử dụng với động từ : 받침(o) + (으)면안되다
받침(x) +면안되다
+ Cấu trúc này tương đương với cấu trúc : 동작동사 +아/어도안되다.
Ví dụ: (44).길에서쓰레기를버리면안됩니다
=길에서쓰레기를버려서도안됩니다.
--> Ở trong lớp vứt rác thì không được.
(45).교실에서휴대폰을사용하면안됩니다.
= 교실에서휴대폰을사용해서도안됩니다.
--> Ở trong lớp sử dụng điện thoại di động thì không được.
III. Kết luận.
Tiếng Hàn Quốc là một ngôn ngữ có những biểu hiện ngữ pháp phong phú và
đa dạng. Điều này đã tạo ra những thuận lợi cho người sử dụng có thể linh hoạt hơn
trong việc vận dụng nó để biểu đạt ý muốn kiến của mình. Tuy nhiên cũng chính
những biểu hiện phong phú ấy khiến cho người học dễ bị nhầm lẫn khi sử dụng.
Không như tiếng Việt Nam hình thức phủ định của tiếng Hàn Quốc như đã đề cập ở
trên được chia thành nhiều dạng ứng với từng hoàn cảnh, điều kiện khác nhau. Chính
điều này đã khiến cho người học - đặc biệt là người mới làm quen với tiếng Hàn Quốc
gặp phải một số khó khăn trong việc hiểu rõ bản chất của cấu trúc và ý nghĩa dẫn đến
việc nhầm lẫn khi sử dụng. Chính vì vậy bài nghiên cứu trên đây đã tổng hợp một cách
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
51
cơ bản nhất những hình thức phủ định trong tiếng Hàn Quốc. Thông qua bài nghiên
cứu này người học và sử dụng tiếng Hàn Quốc có thể có một cái nhìn tổng quan và
khái quát hơn về các loại hình phủ định. Thêm vào đó bài nghiên cứu cũng đã tổng
hợp và chú ý những lỗi thường thấy ở người học, giúp người học có thể hiểu rõ hơn về
cách sử dụng cũng như tránh khỏi những nhầm lẫn vẫn thường hay mắc phải.
Các hình thức phủ định trong tiếng Hàn Quốc tuy đa dạng và phong phú
về mặt ý nghĩa cũng như cách thể hiện nên dễ gây ra nhầm lẫn khi sử dụng, xong nếu
nắm rõ được những đặc điểm cơ bản của chúng, ta sẽ thấy chúng thật dễ dàng. Hy
vọng bài nghiên cứu này sẽ giúp ích cho những người đang tìm hiểu về tiếng Hàn
Quốc - đặc biệt là những người mới học. Vì bài nghiên cứu này được thực hiện bởi
sinh viên năm thứ nhất nên khó tránh khỏi những thiếu xót, mong thầy cô và các bạn
đóng góp ý kiến để bài nghiên cứu được trở nên hoàn thiện hơn. Chúng tôi xin được
chân thành cảm ơn!.
IV. Tài liệu tham khảo.
+ Ngữ pháp cơ bản tiếng Hàn ( Tác giả: Lê Huy Khoa – NXB trẻ - XB năm
2008).
+ Các điểm trọng yếu trong ngữ pháp tiếng Hàn ( Tác giả ban biên soạn Hoàn
Vũ - NXB tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh- XB năm 2006 ).
+ Approach to the Korean Language ( Tác giả Alexander Arguelles và Jong-
Rok Kim – NXB Hollym Books – XB năm 2000 ).
+ Trang web: bonewso.net/ koreangrammar.
+ Trang web naver.com.
Chúng em xin được chân thành gửi lời cảm ơn đến cô giáo Nguyễn Phương Dung
đã giúp đỡ, hướng dẫn chúng em có thể hoàn thành bài nghiên cứu này!
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
52
CÁC QUY TẮC PHÁT ÂM TRONG TIẾNG HÀN QUỐC
Giáo viên hướng dẫn : Th.s Phạm Thị Ngọc
Sinh viên thực hiện : Hoàng Lệ Giang 2H09
Nguyễn Thùy Trang 2H09
I. Phần mở đầu
1 Mục đích ngiên cứu
Hiện nay, đất nước ta ngày càng phát triển, nhu cầu hội nhập với các nước trong và
ngoài khu vực ngày càng lớn nên việc tiếp cận với ngôn ngữ của các quốc gia trên thế
giới là vô cùng quan trọng. Đặc biệt, trong những năm gần đây, khi mà Hàn Quốc là
một nước đã và đang dành sự đầu tư lớn vào thị trường Việt Nam thì sự xuất hiện của
các công ty Hàn Quốc ở Việt Nam cũng trở nên nhiều hơn. Mặt khác, phim ảnh và âm
nhạc Hàn Quốc cũng đang tạo nên một làn sóng lớn trong lĩnh vực giải trí và nhận
được sự mến mộ nhiệt tình của một bộ phận không nhỏ các bạn trẻ. Chính vì lẽ đó mà
tiếng Hàn Quốc đã được nhiều người Việt Nam lựa chọn làm ngôn ngữ thứ hai của
mình.
Tuy nhiên, một thực trạng còn tồn tại đối với phần đa những người học tiếng Hàn
Quốc là vấn đề phát âm. Việc phát âm chuẩn sẽ giúp người nói có thể truyền đạt được
điều mình muốn nói đến người nghe một cách chính xác. Từ đó, sẽ tạo nên hiệu quả
cao trong giao tiếp. Tuy nhiên, để phát âm chuẩn được một ngôn ngữ không phải là
tiếng mẹ đẻ của mình quả thực không dễ dàng một chút nào. Nó đòi hỏi người đọc
phải nắm chắc các quy tắc cơ bản cần thiết cho quá trình luyện phát âm.
Xuất phát từ thực trạng trên nên chúng em làm báo cáo nghiên cứu khoa học này
với mục đích đưa ra các nguyên tắc cơ bản trong phát âm để giúp cho những người
mới học tiếng Hàn có thể hoàn thiện kỹ năng phát âm của bản thân
2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu:
Vì là sinh viên năm thứ nhất, lượng kiến thức tích luỹ được chưa nhiều nên báo cáo
nghiên cứu này của chúng em chủ yếu là sự tổng hợp kiến thức từ các tài liệu mà
chúng em thu thập được trong quá trình tìm hiểu về vấn đề phát âm tiếng Hàn Quốc.
Trong báo cáo này, chúng tôi chủ yêú tập trung làm rõ những vấn đề sau đây:
+ Cách phát âm nguyên âm và phụ âm trong tiếng Hàn Quốc.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
53
+ Cách phát âm받침 trong tiếng Hàn Quốc.
+ Các quy tắc phát âm trong trường hợp nối âm.
3. Lịch sử nghiên cứu:
- Lê Huy Khoa “ Các nguyên tắc phát âm và luyện phát âm cơ bản”.
4. Bố cục của báo cáo
Chương 1: Cách phát âm nguyên âm và phụ âm trong tiếng Hàn
1 Một số nét sơ lược về Hangul
2 Nguyên âm:
2.1 Nguyên âm đơn
2.2 Nguyên âm kép
3 .Phụ âm:
*Phân loại
*Lưu ý
Chương 2: Cách phát âm받침 trong tiếng Hàn
1 Quy tắc phát âm받침 đơn:
2 Quy tắc phát âm받침 đôi:
2.1 Trường hợp받침 đôi phát âm theo phụ âm trước.
2.2 Trường hợp받침 đôi phát âm theo phụ âm sau.
2.3 Trường hợp받침 đôi phát âm theo phụ âm trước hoặc phụ âm sau.
Chương 3: Các quy tắc phát âm khi gặp trường hợp nối âm.
1 Trường hợp âm cuối là phụ âm kết hợp với âm đầu là nguyên âm.
- Âm cuối là받침 đơn
- Âm cuối là받침 đôi
2Trường hợp các phụ âm kết hợp với nhau tạo thành cách phát âm mới.
2.1 Đồng hoá phụ âm.
2.2 Ngạc hoá.
2.3 Căng hoá.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
54
II. Phần nội dung
Chương 1: Cách phát âm nguyên âm và phụ âm trong tiếng Hàn
1 Một số nét sơ lược về Hangul
Hangul là bảng chữ cái của người Hàn Quốc do vua Sejong sáng tạo ra vào năm
1443 với mục đích tạo nên sự thuận tiện trong việc học, đọc, viết cho toàn dân. Khi
xây dựng bảng chứ cái này, vua Sejong đã dựa trên sự hài hòa của học thuyết âm
dương
- Một nét gạch ngang tượng trưng cho mặt đất ( tức là yếu tố âm)
- Một nét châm trong tượng trung cho mặt trời ( tức yếu tố dương)
- Một nét thẳng tượng trưng cho con người ( trung tố điều hòa cho cả âm và
dương)
Trước đây, khi mới được sử dụng, bảng chữ cái Hangul có 28 chữ cái nhưng trng
quá trình sử dụng chỉ còn 24 chữ cái.Qua nhiều quá trình biến đổi của lịch sự thì hiện
nay Hangul bao gồm 21 nguyên âm và 19 phụ âm cơ bản.
2 Nguyên âm:
Nguyên âm là những âm mà khi phát ra luồng khí từ thanh quản lên môi không bị
cản trở.
Tiếng Hàn có 21 nguyên âm trong đó có 10 nguyên âm đơn và 11 nguyên âm kép.
Nguyên âm đơn:ㅣ,ㅔ,ㅐ,ㅏ,ㅓ,ㅗ,ㅜ,ㅣ,ㅚ,ㅟ.
Nguyên âm kép:ㅑ,ㅕ,ㅛ,ㅠ,ㅘ,ㅝ,ㅢ,ㅖ,ㅒ,ㅙ,ㅞ.
2.1 Nguyên âm đơn:
Dựa vào hình dáng của môi và vị trí của lưỡi ta thì người ta phân loại cách phát
âm nguyên âm đơn như sau
Vị trí cấu
âmÂm dòng trước
Âm dòng
giữa
Âm dòng
sau
Phương
thức cấu âm
Không
tròn môiTròn môi Trong môi Tròn môi
Âm cao 이/i/ 위/wi/ 으/eu/ 우/u/
Âm chung 에/e/ 외/oe/ 어/eo/ 오/o/
Âm thấp 애/ae/ 이/a/
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
55
Ví dụ: - Nguyên âmㅗ phát âm có hình dáng môi tròn, hẹp lưỡi ở vị trí trung gian
- Nguyên âmㅓ phát âm có khuôn miệng mở rộng, cằm kép xuống phía dưới và
lưỡi đặt ở phía trước.
2.2 Nguyên âm kép:
Nguyên âm kép là nguyêm âm được tạo bởi 2 nguyên âm đơn.Chúng được chia làm
3 loại như sau:
- Nguyên âm kép có giới âm [j] gồm:ㅑ/ya/,ㅕ/yo/,ㅛ/yo/,
ㅠ/yu/,ㅖ/ye/,ㅒ/yae/.
- Nguyêm âm kép có giới âm [-w-] gồm:ㅘ/wa/,ㅝ/weo/,ㅟ/wi/,ㅙ/wae/,
ㅞ/we/,ㅚ/woe/.
- Nguyên âm kép có âm cuối là [-j] là ㅢ/-ji/.
Vì nguyên âm kép là sự kết hợp của 2 nguyên âm đơn nên cách phát âm của
nguyên âm kép cũng là sự tổng hợp từ cách phát âm của 2 nguyên âm đơn.
VD: Nguyên âm képㅕ =ㅣ+ㅓ
Khi phát âm nguyên âm kép thì phát âm bắt đầu từ vị trí của nguyên âmㅣ , nhưng
sau đó lại được phát âm bằng nguyên âm . Trong đó, ㅓ được phát âm đồng nhất với
nguyên âm đơn ㅓ, còn ㅣ được phát âm lại có chút khác biệt so với nguyên âm đơn
ㅣ.ㅓ được phát âm rõ ràng và kéo dài, ngược lạiㅣ thì được phát âm ngắn và không
rõ ràng nên tạo cảm giác liền mạch.
Tuy nhiên cần phải lưu ý với nguyên âmㅢ vì khi nguyên âmㅢ được đặt ở các vị
trí khác nhau thì sẽ cho ra các cách phát âm khác nhau:
Khi là âm tiết đầu tiên trong một từ thì được phát âm là /의/
VD:의사→ /의사/
Khi không là âm tiết đầu tiên của 1 từ thì có thể được phát âm là /ㅣ/
VD:회의→ /회이/
Khiㅢ của âm tiết bắt đầu bằng phụ âm thì được phát âm thành /ㅣ/
VD:무늬→ /무니/
Trợ từ 의 có thể phát âm là /에/
VD:나의옷→ /나에옷/
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
56
3 Phụ âm:
Phụ âm là những âm mà khi phát ra, luồng khí từ thanh quản lên môi bị cản trở
và bị tắc lại.
Tiếng Hàn quốc về gồm 19 phụ âm cơ bản làㄱ,ㄲ,ㄴ,ㄷ,ㄸ,ㄹ,ㅁ,ㅂ,ㅃ,ㅅ,ㅆ,ㅇ,
ㅈ,ㅊ,ㅉ,ㅋ,ㅌ,ㅍ,ㅎ.
*Về cơ bản phụ âm trong tiếng Hàn cũng như nguyên âm được phân loại dựa
trên 2 tiêu chí đó là phương thức cấu âm và vị trị cấu âm.
*Ngoài ra, dựa vào độ mạnh yếu của âm phát ra mà phụ âm còn có các chia ra các
loại như sau:
Âm môiÂm đầu
lưỡi
Âm mặt
lưỡi
Âm góc
lưỡi
Âm tắc ㅂ ㄷ,ㅅ ㅈ ㄱ
Âm bật hơi ㅍ ㅌ ㅊ ㅋ
Âm căng ㅃ ㄸ,ㅆ ㅉ ㄲ
*Lưu ý: Trường hợp phát âm phụ âmㄹ có những chú ý sau đây
- Khiㄹ nằm giữa 2 nguyên âm thì đầu lưỡi chạm vào hàm trên khi phát âm, giống
như “r” trong tiếng Anh.
Vị trí cấu âm
Phương
thức cấu âm
Môi Đầu lưỡi Mặt lưỡiGốc
lưỡiHầu
Lơiㅂ/p/
ㄷ/t/
ㅅ/s/ㅈ/tδ/ ㄱ/k/ ㅎ/h/
Căngㅃ/p'/
ㄸ/t’/
ㅆ/s’/ㅉ/tδ'/ ㄲ/k’/
Bật hơi ㅍ/p/ ㅌ/t/ ㅊ/tδ/ ㅋ/k/
Mũi ㅁ/m/ ㄴ/n/ ㅇ/η/
Lưu khí âm ㄹ/l,r/
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
57
- Khiㄹ nằm ở vị trí phụ âm cuối thì khi phát âm, lưỡi phải cong lên chạm nhẹ vào
hàm trên.
- Khi 2 phụ âmㄹ đi liền nhau thì lưỡi cong lên phát âm mạnh thành “l” như trong
tiếng Việt.
Chương 2: Cách phát âm đối với các từ có받침
1 Đối với받침 đơn:
Trong bảng chữ cái tiếng Hàn, có 7 phụ âm khi đứng ở vị trí của 받침 được phát
âm. Đó là:ㄱ,ㄴ,ㄷ,ㅁ,ㄹ,ㅂ,ㅇ.
Âm đại diện Ví dụ
ㄱ ㄱ,ㅋ,ㄲ 국 /kuk/ ,밖 /pak/ ,부엌/pu-ok/
ㄴ ㄴ 손 /sôn/ ,전 /chon/ ,산/san/
ㄷ ㄷ,ㅌ,ㅅ,ㅆ,ㅈ,ㅊ,ㅎ
닫 /tat/ ,같 /kat/ ,
씻/ssit/ ,있/it/
벚 /pot/ ,꽃/kkôt/ ,
좋/chôt/
ㅁ ㅁ 감 /kam/,곰 /kôm/ ,밤 /pam/
ㄹ ㄹ 쌀 /ssal/ ,발 /pal/ ,술 /sul/
ㅂ ㅂ,ㅍ 앞 /ap/ ,밥 /pap/ ,갑 /kap/
ㅇ ㅇ 장/chang/ ,병 /pyong/ ,맹 /meng/
2 Đối với받침 đôi:
받침 đôi là những받침 do 2 phụ âm kết hợp và tùy theo từng loại받침 lại có cách
phát âm riêng.
*Trường hợp những 받 침 đôi được phát âm theo phụ âm đứng trước bao gồm
các받침:ㄳ,ㄴㅈ,ㄽ,ㄾ,ㅄ,ㄶ,ㅀ
- “ㄳ” được phát âm thành “ㄱ” VD: 삯 → /삭/
- ‘ㄵ” được phát âm thành “ㄴ” VD: 앉 → /안/
- “ㄽ” được phát âm thành “ㄹ” VD: 곬 → /골/
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
58
- “ㄾ” được phát âm thành “ㄹ” VD: 핥 → /할/
- “ㅄ” được phát âm thành “ㅂ” VD: 값 → /갑/
- “ㄶ” được phát âm thành “ㄴ” VD: 많 → /만/
- “ㅀ” được phát âm thành “ㄹ” VD: 옳 → /올/
* Trường hợp những받 침 đôi được phát âm theo phụ âm đứng sau bao gồm
các받침:ㄻ,ㄿ
- “ㄻ” được phát âm thành “ㅁ” VD: 옮 → /옴/
- “ㄿ” được phát âm thành “ㅍ” VD: 읊 → /읖/
* Trường hợp những 받침 đôi được phát âm theo cả phụ âm đầu hoặc phụ âm
gồm 2받침:ㄺ,ㄼ
Đối với받침 kép “ㄺ”
-Nếu đứng cuối hoặc trước phụ âm /ㄹ/ thì được lược bỏ và chỉ phát âm /ㄱ/.
-Nếu có /ㄱ/ đứng sau 받침 kép/ㄺ/ thì /ㄹ/ được phát âm và /ㄱ/ của âm tiết sẽ
được biến thành âm căng /ㄲ/
-Nếu phía sau có nguyên âm thì phụ âm /ㄱ/ được phát âm nối sang.
VD: 닭 → 닥 읽고 → 익꼬 맑어요→ 말거요
Đối với받침 kép “ㄼ”
-Khi đứng cuối âm tiết hoặc trước phụ âm thì /ㅂ/ được lược bỏ và chỉ phát âm /ㄹ/
-Nếu phía sau có nguyên âm thì /ㅂ/ được phát âm nối sang.
-Trường hợp đặc biệt ‘밟다’ thì /ㄼ/ đứng cuối âm tiết hay trước phụ âm thì phát
âm là /ㅂ/. VD: 넓→ 널 짧은 → 짤븐 밟다
→ 밥따
Chương 3:QUY TẮC PHÁT ÂM KHI GẶP TRƯỜNG HỢP NỐI ÂM
1 Trường hợp âm cuối là phụ âm và âm đầu là nguyên âm.
1.1 Khi받침 đơn kết hợp với nguyên âm
Quy tắc: Ta nối받침 vào nguyên âm phía sau.
VD: 대학원→ /대하권/
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
59
군인 → /구닌/
1.2. Khi받침 đôi kết hợp với nguyên âm
Quy tắc: Tất cả các trường hợp xuất hiện 받침 đôi mà đằng sau là nguyên âm thì
đều phát âm theo phụ âm phía trước còn phụ âm sau thì được nối lên với nguyên âm
phía sau và đọc như bình thường.
VD: “앉으세요” → /안즈세요
“옮아요” → /올마요 /
Riêng đối với trường hợp받침 đôi mà có phụ âm sau là “ㅎ” thì “ㅎ” không phát
âm hoặc phát âm rất nhẹ nên khi đó ta nối phụ âm đấu của 받침 với nguyên âm đằng
sau.
VD: “싫어하다” → /시러하
2 Trường hợp các phụ âm kết hợp với nhau tạo thành cách phát âm mới.
2.1 Đồng hóa phụ âm
STT Các trường hợp đồng hóa Ví dụ
1
ㄱ +ㄴ/ㅁ→ /ㅇ/
( trong đó “ㄱ” đại diện cho các phụ âm:
ㄲ,ㅋ,ㄺ,ㄳ)
작년→ /장년/
국민→ /궁민/
2
ㄷ +ㄴ/ㅁ→ /ㄴ/
(trong đó ”ㄷ” đại diện cho các phụ âm:
ㄷ,ㅅ,ㅆ,ㅈ,ㅊ,ㅌ,ㅎ,)
맏물→/만물/
끝나다→/끈나다/
3
ㅂ +ㄴ/ㅁ→ /ㅁ/
( trong đó”ㅂ” đại diện cho các phụ âm:
ㅍ,ㄼ,ㅄ,ㄿ)
밥맛→/밤맏/
잡념→/잠념/
4 ㄹ +ㅁ/ㅇ→ /ㄴ/방락→/반락/
점락→/전락/
5 ㄱ +ㄹ→ /ㅇ/ + /ㄴ/ 국립→/궁닙/
6 ㅂ +ㄹ→ /ㅁ/ + /ㄴ/ 압류 →/암뉴/
7 ㄴ +ㄹ→ /ㄹ/ 안락 →/알락/ ;잘나다
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
60
→/잘라다/
8 ㄱ /ㅂ +ㄹ→ /ㄴ/막론→막논→망논
백리→백니→뱅니
2.2 Ngạc hóa
ST
TCác trường hợp căng hóa Ví dụ
1 ㄷ +이→/지/ 곧이곧대로→/고지곧대로/
2 ㄷ +ㅎ→/치/ 갇히다→/가치다/
3 ㅌ +이→/치/ 같이→/가치/
2.3 Căng hóa:
STT Các trường hợp căng hóa Ví dụ
1 ㄱ +ㄱ,ㄷ,ㅂ,ㅅ,ㅈ→ㄲ,ㄸ,ㅃ,ㅆ,ㅉ
학교→/학꾜/
각도→/각또/
작법→/작뻡/
작시→/작씨/
막장→/막짱/
2 ㄷ +ㄱ,ㄷ,ㅂ,ㅅ,ㅈ→ㄲ,ㄸ,ㅃ,ㅆ,ㅉ
벋가다→/벋까다/
걷다 → /걷따/
맏사위→/맏싸위/
걷잡다→/걷짭다/
3 ㅂ +ㄱ,ㄷ,ㅂ,ㅅ,ㅈ→ㄲ,ㄸ,ㅃ,ㅆ,ㅉ
갑각 → /갑깍/
겁데기→/겁떼기/
갑부 → /갑뿌/
갑상선→/갑쌍선/
껍질→ /껍찔/
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
61
4ㅅ+ㄱ,ㄷ,ㅂ,ㅅ,ㅈ→ㄲ,ㄸ,ㅃ,ㅆ,ㅉ
벗기다→/벗끼다/
벗다 → /벗따/
첫번째→/첫뻔째/
잣소이→ /잣쏘이/
잣죽 → /잣쭉
5 ㅈ +ㄱ,ㄷ,ㅂ,ㅅ,ㅈ→ㄲ,ㄸ,ㅃ,ㅆ,ㅉ
낮거리→/낮꺼리/
잦다 → /잦따/
맞바람→/맞빠람/
맞선 → /맞썬/
낮잠 → /낮짬/
Phần kết luận
Trên đây là những tổng hợp cơ bản nhất có liên quan đến quy tắc phát âm trong
tiếng Hàn Quốc của chúng tôi.. Chúng tôi đã cố gắng hệ thống những kiến thức thu
thập được qua các tài liệu thành các phần cụ thể, thuận tiện cho việc tìm hiểu và việc
học của các bạn sinh viên khoa tiếng Hàn cũng như những người mới học tiếng Hàn
Quốc.
Những vấn đề chúng tôi đã nghiên cứu căn tóm lại có những vấn đề như:
- Các quy tắc phát âm nguyên âm và phụ âm trong tiếng Hàn quốc
- Các quy tắc phát âm dành cho những trường hợp có
- Các quy tắc phát âm dành cho những trường hợp nối âm và sự biến đổi phát âm
theo các trường hợp cụ thể ( căng hóa, ngạc hóa, đồng hóa)
Việc tìm hiểu các quy tắc phát âm trong tiếng Hàn Quốc để có thể phát âm chính
xác là một điều vô cùng quan trọng, đặc biệt là trong giao tiếp. Bởi lẽ, việc phát âm
chuẩn không chỉ giúp người nói có truyền đạt ý của mình đến người nghe mà còn giúp
cho khả năng của chúng ta thêm tự tin hơn.
Như chúng tôi đã nói ở trên, việc phát âm chuẩn được tiếng Hàn Quốc là một điều
rất khó khăn đối với người học vì để nhớ được tất cả các quy tắc phát âm và vận dụng
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
62
được nó là không hề dễ dàng. Muốn phát âm chuẩn tiếng Hàn Quốc, thì bản thân mỗi
người phải cố gắng trau dồi và luyện tập trong một quá trình lâu dài. Trước hết phải
học thuộc các quy tắc phát âm cơ bản nhất và thường xuyên tập đọc. Khi đọc thì phải
lưu ý đến các trường hợp đặc biệt có liên quan đến các quy tắc phát âm, xác định xem
trường hợp đó rơi vào quy tắc nào và đọc đi đọc lại nhiều lần cho chính xác. Việc
thường xuyên nghe băng từ cấp đọ thấp đến cao (ban đầu là các từ sau đó đến các hội
thoại,…) cũng mang lại hiệu quả lớn đối với việc phát âm. Đặc biệt là nên tận dụng
các cơ hội được nói trong các giờ học trên lớp hoặc nói chuyện với người Hàn Quốc
để hoàn thiện hơn nữa về kỹ năng phát âm của bản thân.
Bài nghiên cứu khoa học này cùa chúng tôi còn chưa được thật sự hoàn chỉnh và
trọn vẹn nhưng nó sẽ giúp ích phần nào đó cho cho các bạn sinh viên đang theo học
tiếng Hàn có được khả năng phát âm tốt hơn. Chúng em cũng mong muốn nhận được
sự góp ý chân thành của thầy cô và các bạn sinh viên để báo cáo nghiên cứu khoa học
của chúng em được hoàn chỉnh hơn.
Các tài liệu tham khảo
- “Quy tắc ghép âm trong tiếng Hàn Quốc” (Lê Huy Khoa)-NXB Trẻ.
- “Ngữ pháp cơ bản tiếng Hàn (Thúy Liễu-Bích Thủy)- NXB Thanh niên.
- “Ngữ pháp tiếng Hàn dành cho người Việt (Lê Tuấn Sơn-Huỳnh Thị Thu Thảo)-
NXB Văn hóa thông tin.
- “Nghiên cứu so sánh đối chiếu âm Hán Hàn với âm Hán Việt “( Luận văn thạc sĩ
-Trần Thị Bích Phương)
- 한국한자어와베트남한자어비교연구 (Cô giáo Nguyễn Thị Ngọc)
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
63
CÁCH PHÁT ÂM CỦA MỘT SỐ받침
TRONG TIẾNG HÀN QUỐC
Giáo viên hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thu Ngân
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Vân 2H09
Nguyễn Thị Lan Anh 2H09
I.Đặt vấn đề.
1. Nêu ra mục đích của bài nghiên cứu.
Tiếng Hàn Quốc (Hangeul) có một hệ thống bảng chữ cái cùng với các cách phân
bố chữ cái riêng biệt. Giống với tiếng Việt, một đơn vị tiếng trong tiếng Hàn Quốc
được cấu tạo bởi phụ âm đầu, các nguyên âm và phụ âm cuối. Phụ âm cuối trong tiếng
Hàn được gọi là받침.Các받침 này được phát âm tương đối dựa trên một số quy tắc
nhất định.
Mục đích của bài nghiên cứu này là nêu ra một số các quy tắc phát âm các받침 đôi
và đơn trong tiếng Hàn Quốc.
2. Phương pháp nghiên cứu:
Nêu ra cách phát âm.
Lấy ví dụ để chứng minh.
Nêu ra một số lỗi sai thường gặp trong khi phát âm.
II.Giải quyết vấn đề.
1.Cách phát âm받침 đơn
Trong bảng chữ cái tiếng Hàn có tất cả 19 phụ âm:
ㄱ,ㄲ,ㄴ,ㄷ,ㄸ,ㄹ,ㅁ,ㅂ,ㅃ,ㅅ,ㅆ,ㅇ,ㅈ,ㅉ,ㅊ,ㅋ,ㅌ,ㅍ,ㅎ.
Nhưng khi các phụ âm trên đóng vai trò là받침 thì chỉ được phát âm như các phụ
âm: ㄱ,ㄴ,ㄷ,ㄹ,ㅁ,ㅂ,ㅇ.
Bảng chi tiết
받침 Phát
âm
Ví dụ
ㄱ,ㄲ,ㅋ ㄱ 먹다[먹다]
닦다[닥따]
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
64
키읔[키윽]
ㅅ,ㅆ,ㅈ,ㅊ,
ㄷ,ㅌ
ㄷ 웃다[욷:따]
꽃[꼳]있다[읻따]
솥[솓]
묻다[묻다]
젖[젇]
ㅂ,ㅍ ㅂ 덥다[덥다]
앞[압]
덮다[덥따]
ㄹ ㄹ 물[물]
알다[알다]
만들다[만들다]
ㅁ ㅁ 몸[몸]
힘들다[힘들다]
참다[참다]
ㄴ ㄴ 눈 [눈]
문[문]
운전하다[운전하다]
ㅇ ㅇ 강[강]
빵[빵]
민망하다[민망하다]
Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi một받침 kết hợp với một phụ âm khác ở
từ liền sau thì lại bị biến âm. Sau đây là một số trường hợp:
Khi theo sau받침 ‘ㄷ,ㅌ’ các là nguyên âm ‘ㅣ’ thì các받침 ‘ㄷ,ㅌ’được đọc
thành ‘ㅈ,ㅊ’
Ví dụ: 곧이 [고지] 밭이[바치] 미닫이 [미다지]
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
65
벼훑 [벼훌치] 땀받이 [땀바지]
Khi theo sau ‘ㄷ’ là ‘히’ thì ‘ㄷ’ sẽ được đọc là [치]
Ví dụ: 굳히다[구치다] 닫히다[다치다] 묻히다[무치다]
Khi các받침 ‘ㄱ’ (ㄲ,ㅋ), ‘ㄷ’ (ㅅ,ㅆ,ㅈ,ㅊ,ㅌ,ㅎ), ‘ㅂ’ (ㅍ) đứng trước các phụ âm
‘ㄴ,ㅁ’ thì sẽ được đọc lần lượt thành [ㅇ,ㄴ,ㅁ]
Ví dụ: 먹는[멍는] 짓는[진:는] 잡는[잠는]
국물[궁물] 있는[인는] 밥물[밤물] 깎는[깡는]
젖멍울[전멍울] 앞마당[암마당] 키읔만[키응만] 쫓는[쫀는]
붙는[분는] 놓는[논는]
Khi받침 ‘ㅁ,ㅇ’ đứng trước phụ âm ‘ㄹ’ thì ‘ㄹ’ được phát âm thành [ㄴ].
Ví dụ: 담력[담녁] 침력[침녁] 강릉[강능] 항로[항:노]
Khi받침 ‘ㄱ,ㅂ’ đứng trước phụ âm ‘ㄹ’ thì ‘ㄹ’ được phát âm thành [ㄴ].
Ví dụ: 막론[막논→ 망논] 백리[백니→뱅니]
협력[협녁→ 혐녁] 십리[십니→ 심니]
Khi받침 ‘ㄴ’ kết hợp với phụ âm ‘ㄹ’ thì phụ âm ‘ㄴ’ sẽ được phát âm thành [ㄹ]
Ví dụ: 난로[날로] 신라[실라] 천리[철리]
2. Một số cách phát âm받침 đôi
받침 đôi được tạo nên từ hai phụ âm đơn kết hợp với nhau, không có quy tắc nhất
định về cấu tạo cũng như cách phát âm.
Ví dụ:ㄳ,ㄼ,ㄽ,ㄾ, ㄺ,ㄵ...
Khi đứng ngay sau các받침 đôi là phụ âm ‘ㅇ’ thì받침 đó được phát âm theo
phụ âm trước của nó, phụ âm sau nối lên và thế chỗ cho ‘ㅇ’
Khi phụ âm đứng sau (trong받침) là ‘ㅅ’ gặp ‘ㅇ’ thì ‘ㅅ’ được phát âm như ‘ㅆ’
Ví dụ:앉아[안자] 닭을[달글] 젊어[절머]
핥아[할타]
읊어[을퍼] 넋이[넉씨] 없이[업:씨] 곬이[골씨]
Trường hợp đặc biệt:
Ví dụ: 넋없다[너겁따] 값어치[가버치] 닭앞에[다가페]
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
66
Trường hợp phụ âm đứng sau của받침 đôi là ‘ㅌ’ khi gặp nguyên âm ‘ㅣ’ thì
‘ㅌ’ được phát âm như ‘ㅊ’
Ví dụ: 벼흝이[벼흘치]
Trường hợp받침 ‘ㄺ,ㄼ,ㄵ’ khi đứng ngay sau nó là phụ âm ‘ㅎ’ thì [ㄱ,ㅂ,ㅈ] sẽ
lần lượt được phát âm là [ㅋ,ㅍ,ㅊ], phụ âm đứng trước phát âm như bình thường.
Ví dụ: 밝히다[발키다] 앉히다[안치다]
넓히다[널피다]
Các받침 ‘ㄳ’, ‘ㄵ’, ‘ㄼ,ㄽ,ㄾ’, ‘ㅄ’ được phát âm lần lượt như [ㄱ,ㄴ,ㄹ,ㅂ]
Ví dụ: 넋과[넉꽈] 앉다[안따 여덟[여덜]
외곬[외골] 핥다[할따] 값[갑]
없다[업:따]
Trường hợp받침 ‘ㄼ’ được phát âm như ‘ㅂ’
Ví dụ:밟다[밥:따] 밟소[밥:쏘] 밟지[밥:찌]
밟고[밥:꼬] 넓-둥글다[넙뚱글다] 넓-죽하다[넙쭈카다]
받침 ‘ㄺ,ㄻ,ㄿ’ được phát âm lần lượt như [ㄱ,ㅁ,ㅂ]
Ví dụ:닭[닥] 흙과[흑꽈] 맑다[막따] 늙다[늑따]
삶[삼:] 젊다[점:따] 읊고[읍꼬] 읊다[읍따]
Trường hợp받침 ‘ㄺ’ được phát âm là ‘ㄹ’ khi phụ âm đứng ngay sau nó là
‘ㄱ’, khi đó ‘ㄱ’ sẽ được phát âm thành ‘ㄲ’.
Ví dụ: 맑게[말께] 묽고[물꼬] 얽거나[얼꺼나]
받침 đôi có phụ âm đứng sau là ‘ㄱ’, ‘ㄷ’, ‘ㅂ’ khi gặp ‘ㄴ,ㅁ’ thì sẽ được
phát âm là ‘ㅇ,ㄴ,ㅁ’
Ví dụ:긁는[긍는] 흙만[흥만] 밟는[밤:는]
몫몫이[몽목씨] 읊는[음는] 깂매다[감매다]
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
140
Khi phụ âm ngay sau nó là ‘ㅇ’ thì ‘ㅎ’ biến mất, ‘ㄴ’, ‘ㄹ’ được nối lên thế chỗ cho
‘ㅇ’
Ví dụ:않은[아는] 닳아[다라] 싫어[시러] 많아[마:나]
3. Một số lỗi sai thường gặp trong khi phát âm받침.
Lỗi sai do chưa xác định đúng cách đọc받침.
Ví dụ: 따뜻하다 [따뜯하다] (X)
[따뜨타다] (O)
Lỗi sai do chưa xác định được quy tắc đồng hoá phụ âm.
Ví dụ: 박문관[박문관] (X)
박문관[방문관] (O)
Có những lỗi sai này chủ yếu là do một số nguyên nhân sau:
Có quá nhiều các quy tắc phát âm nên sinh viên khó có thể nhớ được toàn bộ.Thêm
vào đó trong mỗi trường hợp đều có những từ bất quy tắc nên mỗi khi gặp những từ lạ
mà có받침 đôi thì không biết phải phát âm như thế nào. Trong những trường hợp đó thì
chủ yếu sinh viên phát âm theo cảm tính của mình.
Do không phải sinh viên nào cũng có cơ hội được tiếp xúc với người Hàn Quốc
thường xuyên nên không chỉ riêng việc phát âm받침 mà còn về phát âm nói chung cũng
có trường hợp phát âm sai.
Muốn khắc phục những lỗi sai trong việc phát âm, điều quan trọng là phải luyện tập
thường xuyên. Có thể luyện nghe và nói theo băng hay xem những chương trình dạy nói
tiếng Hàn Quốc trên truyền hình cũng như trên mạng Internet…Ngoài ra, chúng ta cũng
nên tận dụng những giờ học với người Hàn Quốc hay những cơ hội được nói chuyện với
họ để nâng cao khả năng phát âm của bản thân…
III. Kết thúc vấn đề.
1. Nêu được ý nghĩa của đề tài:
Trong quá trình học tiếng Hàn Quốc, chúng ta sẽ gặp không ít những từ vựng
chứa받침 đơn hoặc받침 đôi, chính vì vậy, biết cách phát âm sao cho chính xác là yêu
cầu rất quan trọng, quyết định hiệu quả của việc học hay diễn tả được một cách rõ ràng ý
cần biểu đạt.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
68
2. Những mặt hạn chế của đề tài:
Do hạn chế về mặt kiến thức của sinh viên năm thứ nhất nên bài nghiên cứu
vẫn còn nhiều thiếu sót. Trong bài nghiên cứu mới chỉ nêu ra được một số quy tắc phát
âm, chưa nêu được ra hết các trường hợp bất quy tắc.
IV. Tài liệu tham khảo.
1. Internet (kbs.co.kr)
2. Sách dạy phát âm tiếng Hàn Quốc có liên quan.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
69
CẤU TRÚC CÂU ĐƠN THÌ HIỆN TẠI THƯỜNG TRONG
TIẾNG HÀN
Giáo viên hướng dẫn: .Th.s Nghiêm Thị Thu Hương
Học sinh thực hiện: Hoàng Thị Thùy Linh 2H_09
Cao Thị Thu Hương 2H_09
Hoàng Thị Vân Anh 2H_09
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Mục đích nghiên cứu
Trong những năm gần đây, Việt Nam ngày càng mở rộng, hợp tác giao lưu với nhiều
nước trên thế giới, trong đó có Hàn Quốc. Cùng với sự thiết lập quan hệ mạnh mẽ về
chính trị, kinh tế, văn hóa giữa hai nước Việt – Hàn, tiếng Hàn Quốc ngày càng trở nên
được yêu thích và phổ biến ở Việt Nam.
So với tiếng Việt, tiếng Hàn Quốc có khá nhiều sự khác biệt. Điều này vừa tạo ra sự
mới mẻ, vừa tạo ra sự khó khăn trong việc học và giảng dạy thứ ngôn ngữ này tại Việt
Nam. Đặc biệt trong việc tiếp cận với ngữ pháp ,người học thường gặp nhiều trở
ngại .Bài nghiên cứu này của chúng tôi xin được đề cập đến một vấn đề nhỏ trong ngữ
pháp của tiếng Hàn đó là “ Cấu trúc câu đơn thì hiện tại thường trong tiếng Hàn”.
"Câu đơn" luôn là điểm khởi đầu cho việc học bất kì ngôn ngữ nào. Bởi vậy viêc nắm
vững cấu trúc cùa câu đơn là vô cùng quan trọng .Nó là nguồn cội của tất cả các cấu trúc
ngữ pháp phức tạp sau này.
"Thì hiện tại thường" cũng là vấn đề ngữ pháp được đề cập đến đầu tiên khi học bất
kì một ngoại ngữ nào.
Do đó mục đích của chúng tôi khi làm bài nghiên cứu này là nhằm giúp đỡ những ai
khi mới bắt đầu học tiếng Hàn sẽ dễ dàng nắm vững được cấu trúc câu đơn thì hiện tại
thường. Khi nắm chắc cấu trúc này thì việc học các cấu trúc khác sẽ dễ dàng hơn.
2. Phương thức tiến hành và phạm vi nghiên cứu
Là sinh viên năm thứ nhất, chúng tôi cũng chưa có đủ kinh nghiệm và năng lực để tự
mình làm một nghiên cứu chuyên sâu hơn nên phương pháp sử dụng của chúng tôi ở đây
là: Dựa trên những nghiên cứu, tài liệu đã có từ trước chúng tôi thu thập lại, đọc và tổng
hợp một cách khoa học và có hệ thống phù hợp với đối tượng sinh viên và chủ yếu là
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
70
sinh viên năm thứ nhất đang theo học tiếng Hàn.
Trong bài nghiên cứu này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu “cấu trúc câu đơn thì
hiện tại thường trong tiếng Hàn” nên chúng tôi sẽ đi sâu vào các vấn đề:
+) Câu đơn tiếng Hàn dưới góc độ xem xét các thành phần câu và trật tự của nó.
+) Câu đơn tiếng Hàn dưới góc độ xem xét các dạng đuôi kết thúc.
+) Câu đơn tiếng Hàn dưới góc độ xem xét mục đích sử dụng.
Dưới đây là những gì chúng tôi tìm hiểu được.
PHẦN II: NỘI DUNG
1. Các khái niệm ngữ pháp cơ bản
Để giúp các bạn có thể hiểu được rõ khái niệm cơ bản về câu đơn thì hiện tại, chúng
tôi đã tìm hiểu và tổng hợp được một số khái niệm cơ bạn như sau:
- Khái niệm câu đơn:
Trong tiếng Việt câu đơn được hiểu là một câu có nòng cốt chính là một cụm chủ ngữ,
vị ngữ, hoặc một từ, một cụm từ chức năng thông báo, biểu cảm…
(www.bachkhoatoanthu.gov.vn)
- Khái niệm về thì:
Trong tiếng Việt, khái niệm về “thì” được hiểu là một khái niệm thuộc phạm trù ngữ
pháp, dùng để xác định rõ thời gian được nói đến trong câu. Tuy vậy tiếng Việt lại không
sử dụng ngữ pháp để biểu đạt thời gian mà chủ yếu dùng phương tiện từ vựng
(www.ngonngu.net). Đấy là điểm khác biệt so với một số ngôn ngữ như tiếng Anh và
tiếng Hàn.
Tiếng Anh bao gồm 12 thì cơ bản, bao gồm 4 thì hiện tại (hiện tại đơn, hiện tại tiếp
diễn, hiện tại hoàn thành, hiện tại hoàn thành tiếp diễn), 4 thì quá khứ (quá khứ đơn, quá
khứ tiếp diễn, quá khứ hoàn thành, quá khứ hoàn thành tiếp diễn), 4 thì tương lai ( tương
lai đơn, tương lai tiếp diễn, tương lai hoàn thành, tương lai hoàn thành tiếp diễn). Các thì
trong tiếng Anh được xác định rõ qua các dấu hiệu ngữ pháp rõ ràng trong câu sử dụng
(www.hocmai.vn).
Cũng như tiếng Anh, thì trong tiếng Hàn cũng được biểu thị trong câu bằng các dấu
hiệu ngữ pháp. So với thì trong tiếng Anh, tiếng Hàn chỉ được chia thành 5 thì cơ bản bao
gồm thì hiện tại thường, thì hiện tại tiếp diễn, thì tương lai và thì quá khứ ( Giáo trình
hướng dẫn học và thi năng lực tiếng Hàn Quốc – Ths. Nghiêm Thị Thu Hương)
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
71
Thì hiện tại thường được hiểu để diễn tả những việc làm, những hành động, trạng thái
đang diễn ra.
Câu đơn thì hiện tại thường là câu dùng để diễn tả những việc làm, hành động, trạng
thái của sự vật, sự việc đang diễn ra.
2. Câu đơn tiếng Hàn dưới góc độ xem xét các thành phần câu và trật tự của câu.
a) Câu đơn 2 thành phần: là dạng câu đơn hai thành phần: Chủ ngữ - Vị ngữ
Giống với tiếng Việt, câu đơn hai thành phần của tiếng Hàn cũng theo trật tự: chủ
ngữ + vị ngữ
VD: Câu tiếng Việt: Trời lạnh.
CN VN
Câu tiếng Hàn: 날씨가 춥습니다.
CN VN
b) Câu đơn 3 thành phần: Chủ ngữ + Bổ ngữ + Vị ngữ
Trong tiếng Việt, trật tự từ là: Chủ ngữ + Vị ngữ + Bổ ngữ
VD: Tôi ăn cơm
Chủ ngữ Vị ngữ Bổ ngữ
Trật tự từ trong câu tiếng Hàn thì ngược lại so với câu tiếng Việt: Chủ ngữ + Bổ ngữ
+ Vị ngữ VD: 저는 밥을 먹습니다.
Tôi cơm ăn
- Chủ ngữ, bổ ngữ
+) Trật tự từ trong câu đơn tiếng Hàn tương đối lỏng lẻo nên khó xác định được đâu là
chủ ngữ đâu là bổ ngữ của câu nên trong tiếng Hàn có sự xuất hiện của các tiểu từ bổ ngữ
을/를 và tiểu từ chủ ngữ이/가.
Trong tiếng Việt của chúng ta thì trật từ từ quy định vai trò của các danh từ trong câu.
VD: Câu 'Cô ấy yêu anh ấy' không bao giờ bị hiểu sai thành "Anh ấy yêu cô ấy"
bởi trật tự trước sau của từ trong câu đã quy định rõ nghĩa của câu.
Tuy nhiên, trong tiếng Hàn thì không như vậy. Vì cả "anh ấy" và "cô ấy" đều đứng
trước động từ "yêu" và trật tự từ trong câu đơn tiếng Hàn tương đối lỏng lẻo nên khó xác
định được đâu là chủ ngữ, đâu là bổ ngữ của câu. Chính bởi vậy, trong tiếng Hàn có tiểu
từ bổ ngữ을/를 và tiểu từ chủ ngữ이/가. Chức năng chính của các tiểu từ này là đứng
sau danh từ để phân biệt và chỉ ra thành phần ngữ pháp của danh từ đó ở trong câu.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
72
(+) Tiểu từ chủ ngữ이/가 :
Nếu danh từ làm chủ ngữ có pat-chim thì dùng tiểu từ chủ ngữ이
Nếu danh từ làm chủ ngữ không có pat-chim thì dùng tiểu từ chủ ngữ가
(+) Tiểu từ bổ ngữ을/를:
Nếu danh từ làm bổ ngữ có pat-chim thì dùng tiểu từ bổ ngữ을
Nếu danh từ làm bổ ngữ không có pat-chim thì dùng tiểu từ bổ ngữ를
VD: 아버지가신문을읽으십니다. Bố tôi đang đọc báo.
남동생이텔레비전을봅니다. Em trai tôi đang xem ti vi.
+) Vị trí của chủ ngữ và tân ngữ có thể đổi chỗ cho nhau tuỳ theo ý đồ của người nói.
Tuy nhiên, không phải trường hợp nào cũng có thể đổi chỗ được.
VD:
Trường hợp đổi được: 저는학교에가요.<=>학교에저는가요.
( Tôi đi học. )
Trường hợp không đổi được: 저는학생이아닙니다. <#> ?학생이저는
아닙니다. (Tôi không phải là học sinh.)
Lưu ý: Dù là câu có hai thành phần chủ ngữ và vị ngữ, hay câu có ba thành phần chủ
ngữ, vị ngữ và bổ ngữ thì động từ trong câu tiếng Hàn đều được đặt ở cuối câu.
-Vị ngữ : Tuỳ thuộc vào đặc điềm của động từ được sử dụng làm vị ngữ ,số lượng các
thành phần cần phải có trong một câu có thể thay đổi.
+ Xét vị ngữ trong câu đơn 2 thành phần: là nội động từ hoặc động từ "이다" thường
chỉ cần một chủ ngữ.
(+) Nội động từ: những động từ đã có đầy đủ ý nghĩa , thường chỉ tính chất hay trạng
thái,nó không cần danh từ bổ nghĩa cho nó. Ví dụ :đi ,đứng, chạy ,nằm, khóc ,cười, xấu,
đẹp, mới, cũ, tốt...
VD: 철수가자요. Cheolsu đang ngủ.
꽃이예쁩니다. Hoa đẹp.
날씨가춥습니다. Trời lạnh.
(+) Động từ "이다": chức năng liên kết chủ ngữ của câu với danh từ vị ngữ.nó cũng
biểu thị chủ ngữ của câu thuộc về hay được gộp vào danh từ vị ngữ.
VD: 이것은책입니다. Đây là quyển sách.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
73
오늘은일요일이에요. Hôm nay là chủ nhật.
나는김영수입니다. Tôi là Kim Yongsu.
+ Xét vị ngữ trong câu đơn 3 thành phần: là ngoại động từ, động từ있다,없다,
thường cần phải có cả chủ ngữ và bổ ngữ.
(+) Ngoại động từ: những động từ đòi hỏi phải có danh từ bổ nghĩa cho nó,để chỉ đối
tượng mà hành động đó tác động lên ,thường cần phải có cả chủ ngữ và bổ ngữ. Ví dụ:
ăn( cơm), học( tiếng Hàn), mua (áo)...
VD: 절수가밥을먹어요. Cheolsu đang ăn cơm.
나오코는음악을듣습니다. Naoko đang nghe nhạc.
(+) Đối với các câu kết thúc bằng động từ 있다,없다.
Động từ있다 biểu thị sự tồn tại,vị trí hay sự sở hữu.
VD:학생이교실에있어요. Học sinh ở trong lớp học.
도시에차가많이있습니다. Ở thành phố có nhiều xe cộ.
Dạng phủ định của있다 là없다.
VD:가방에책이없습니다. Sách không ở trong cặp.
하노이에바다가없어요. Ở Hà Nội không có biển.
3. Câu đơn tiếng Hàn dưới góc độ xem xét các dạng đuôi kết thúc
Trong tiếng Hàn, người ta phải chọn đuôi động từ dựa trên các yếu tố xã hội như địa
vị xã hội, tuổi tác, quan hệ gia đình của người nghe và mức độ thân sơ trong mối quan hệ
giữa người nói và người nghe.
a/ Đuôi kết thúc dạng kính ngữ thể hiện sự tôn trọng (으)시다
Là đuôi câu kính ngữ ở mức cao nhất, thể hiện sự tôn trọng tuyệt đối với chủ thể hoặc
với người nghe.
+) Đuôi kính ngữ (으)시다 dùng khi người nói thể hiện sự đề cao chủ ngữ là chủ thể
của câu.
VD:선생님께서외출중이십니다. Cô giáo đang ở ngoài.
그분이우리선생님이십니다. Vị kia là giáo viên của chúng tôi.
제오빠는얘기를재미있게하시지요? Anh trai tớ nói chuyện thú vị nhỉ?
+) Đuôi kính ngữ (으)시다 dùng khi người nói thể hiện sự rất tôn trọng với người
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
74
nghe với đối tượng người nghe là bề trên, người lớn tuổi, có địa vị cao hơn trong xã hội.
VD:할아버지,책을읽으십니까? Ông ơi, ông đang đọc sách ạ?
여러분,앉으십시오! Quý vị, xin mời ngồi!
선생님,다시한번설명하십시오! Cô ơi, xin cô hãy giảng lại một
lần nữa!
+) Đuôi kết thúc được hình thành thành bằng cách gắn thêm ‘-(으)시-’ vào gốc động
từ trước khi kết hợp với một đuôi từ nào như : -아(어/여)요, -ㅂ니다, -ㅂ니까? để thể
hiện sự tôn trọng với người nghe hoặc không muốn hạ thấp người nghe ( ngay cả khi
người nói là bề trên, có chức vụ cao hơn)
VD:부모님께서선물을드리세요. Hãy tặng quà cho bố mẹ.
제동생이학교에가세요. Em trai tôi đi đến trường.
듣고따라하십시오! Hãy nghe và làm theo!
Cách chia động từ: động từ nguyên thể sau khi bỏ다 đi
Nếu động từ có bat-chim thì cộng với (으)시
VD:한국말책이있으십니까? Anh có quyển sách tiếng Hàn nào không?
박사장님께서는돈이많으십니다. Giám đốc Pak có nhiều tiền.
앉으세오. Mời ngồi.
*Đối với động từ있다:
Ở nghĩa tồn tại있다 có hình thức tôn kính là '계십니다'.
VD:부모님이집에계십니다. Bố mẹ đang ở nhà.
Ở nghĩa sở hữu, hình thức tôn kính tương đương là '있으시다'.
VD: 어머니,돈이얼마나있으세요? Mẹ ơi, mẹ có bao nhiêu tiền?
Nếu động từ không có bat-chim thì cộng với시
VD:오빠,아버지께서회사에가셨습니다 . Anh ơi, bố đi đến công ty rồi.
공부하십시요! Hãy học đi!
b/ Đuôi kết thúc dạng phép lịch sự cao (공식) :습니다,ㅂ니다 ,습니까,ㅂ니까?
Là đuôi câu thể hiện sự lịch sự, trang trọng được sử dụng để thể hiện sự tôn trọng đối
với người nghe. Loại đuôi câu này thường được dùng trong những trường hợp người nói
và người nghe mới lần đầu gặp mặt hoặc không quen thân nhau lắm.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
75
VD:어머니가책을읽습니다. Mẹ tôi đang đọc sách.
저는아침 6시에일어납니다. Tôi thức dậy lúc 6 giờ sáng.
무엇을합니까? Cậu đang làm gì thế?
무엇을먹습니까? Cậu đang ăn gì thế?
Cách chia động từ: động từ nguyên thể sau khi bỏ다 đi:
Nếu có pat-chim thì thêm ~습니다/~습니까?
VD:영화가재미있습니다. Bộ phim thú vị.
영화가재미있습니까? Bộ phim có thú vị không?
Nếu không có pat-chim thì thêm ~ㅂ니다/ㅂ니까?
VD:주말에바쁩니다. Cuối tuần bận rộn.
주말에바쁩니까? Cuối tuần có bận không?
c/ Đuôi kết thúc dạng phép lịch sự vừa phải (비공식):아/어/여요,아/어/여요?
Là đuôi câu thường được sử dụng ở cấp độ phát ngôn thông thường ít mang tính nghi
thức, tạo cảm giác nhẹ nhành và chủ quan hơn. Loại đuôi câu này thường được sử dụng
trong các mối quan hệ thân mật, hay người nói có cảm giác đặc biệt gần gũi với người
nghe.
* Với những câu dùng ~ㅂ니다/~습니다 thì chuyển thành ~아요, ~어요,해요.
VD:밥을먹어요. Tôi đang ăn cơm.
그는회사에다녀요. Anh ấy đi làm.
저는한국어를공부해요. Tôi học tiếng Hàn.
* Với những câu dùng ~ㅂ니까?/ ~습니까? thì chuyển thành ~아요?, ~어요?,
해요?
VD: 어디에가요? Cậu đi đâu thế?
아버지는신문을읽어요? Bố đang đọc báo à?
교실이깨끗해요? Lớp học có sạch không?
Cách chia động từ: động từ nguyên thể sau khi bỏ다 đi:
- Thân động từ không có pat-chim và:
Kết thúc bằng하 ~>해요
VD:제친구가잘해요. Bạn tôi hát hay.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
76
Kết thúc bằng nguyên âm아 hoặc오 thì ghép với ~아요
VD:어머니가시장에가요. Mẹ đi chợ.
오빠영화를봐요. Anh xem phim.
Kết thúc bằng nguyên âm이 ~> ~여요
VD:그남자가커피를마셔요. Anh kia đang uống cà phê.
Kết thúc bằng nguyên âm으 ~> ~어요
VD:이옷을에뻐요. Cái áo này đẹp.
- Thân động từ có pat-chim và:
Kết thúc bằng nguyên âm아 hoặc오 thì ghép với ~아
VD:날씨가좋아요. Thời tiết tốt.
저는부모님에게서편지를받아요. Tôi nhận được thư từ bố mẹ
Kết thúc bằng các nguyên âm khác thì ghép với ~어요
VD:친구와같이밥을먹어요. Tôi ăn cơm cùng với bạn.
d/ Đuôi kết thúc dạng phép thân mật,gần gũi,xuồng sã(비공식): 아/어/여,아/어/여?
Đuôi kết thúc dưới hình thức bỏ요 được sử dụng dưới dạng thân mật, hoà đồng ở các
mối quan hệ thân thiết hoặc giữa bạn bè với nhau; đối với những đối tượng không cần
phải bày tỏ sự kính cẩn như trẻ em, người ít tuổi hơn hoặc cấp dưới.
VD:의자에앉아. Cậu ngồi xuống ghế đi.
등산을좋아해? Cậu thích leo núi không?
Cách chia động từ: động từ nguyên thể sau khi bỏ다 đi:
- Thân động từ không có pat-chim và:
Kết thúc bằng하 ~>해
VD: 오늘은영어를공부해? Hôm nay học tiếng Anh à?
축구를좋아해. Tớ thích bóng đá.
Kết thúc bằng nguyên âm아 hoặc오 thì ghép với ~아
VD:형은지금자. Anh trai bây giờ đang ngủ.
내일사진기를가져오? Ngày mai có cầm máy ảnh theo không?
Kết thúc bằng nguyên âm이 ~> ~여
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
77
VD:오늘은구름이껴? Hôm nay trời nhiều mây à?
번개가쳐? Có chớp hả?
Kết thúc bằng nguyên âm으 ~> ~어
VD:휴대폰을켜? Cậu tắt máy di động à?
그여자가에뻐? Cô gái kia đẹp không?
- Thân động từ có pat-chim và:
Kết thúc bằng nguyên âm아 hoặc오 thì ghép với ~아
VD:베트남에서겨울날씨가주워? Ở Việt Nam thời tiết mùa đông có
lạnh không?
이번시험은쉬워. Bài thi lần này dễ.
Kết thúc bằng các nguyên âm khác thì ghép với ~어
VD:오늘저녁에뭐먹어? Buổi tối hôm nay ăn gì thế?
공원에가서놀어. Đi đến công viên rồi chơi.
4. Câu đơn tiếng Hàn dưới góc độ xem xét mục đích sử dụng.
Câu đơn thì hiện tại thường trong tiếng Hàn thường được sử dụng trong các mục đích
chủ yếu như sau:
a/ Diễn đạt chân lí hoặc thói quen:
VD:건강이재일입니다. Sức khoẻ là trên hết.
수업이 7시15분에시작합니다. Tiết học bắt đầu lúc 7.15.
한국사름들이매운음식을좋아합 Người Hàn Quốc thích ăn đồ ăn
cay.
b/Diễn đạt sự diễn tiến của hành động ở hiện tại:
VD:지금한국어를공부해요. Bây giờ tôi đang học tiếng Hàn quốc.
아버지는신문을읽으십니다. Bố tôi đang đọc báo.
지금은그남자가전화를합니다. Bây giờ anh ta đang nói chuyện điện thoại.
*Chú ý:
Trong tiếng Hàn, thì hiện tại tiếp diễn dùng고있다 sau động từ và được dùng nhấn
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
78
mạnh một cách đặc biệt hành động đang xảy ra. Tuy nhiên, trên thực tế, do thì hiện tại
đơn cũng có thể diễn tả sự diễn tiến của hành động ở hiện tại nên người ta thương dùng
thì hiện tại đơn nhiều hơn.
c/ Trường hợp tính từ và động từ이다: diễn đạt trạng thái hiện tại của sự vật.
VD: 날씨가덥습니다 /더워요/더워. Trời nóng.
저는대학생입니다 /이에요 /이오. Tôi là sinh viên.
책은가방속에있습니다/있어요 /있어. Sách ở trong cặp.
d/ Diễn đạt hành động sắp diễn ra trong tương lai hoặc trạng thái hiện tại dưới quan
điểm hiện tại.
VD:내일은날씨가좋습니다 /좋아요 /좋아. Ngày mai thời tiết tốt.
다음주화요일은 16일입니다/이에요 /이오. Thứ ba tuần sau là ngày 16.
나는다음주에여행을떠납니다 /떠나요 /떠나 . Tuần sau tôi lên đường đi
du lịch.
PHẦN III: KẾT LUẬN
1. Trật tự từ trong câu tiếng Hàn được chia thành hai trường hợp: trường hợp câu chỉ
có hai thành phần nòng cốt chủ ngữ và vị ngữ, trường hợp câu có ba thành phần chủ ngữ,
vị ngữ và bổ ngữ. Trong cả hai trường hợp thì động từ đều đứng ở cuối câu.
2. Tùy vào hoàn cảnh sử dụng mà động từ đứng ở cuối câu của câu đơên thì hiện tại
thường sẽ có dạng kết thúc phù hợp: kính ngữ cao, dạng lịch sự, dạng thân mật (có hoặc
không có)
3. Mục đích sử dụng của câu đơn thì hiện tại thường gồm có: diễn tả chân lí, thói
quen, diễn tả sự diễn tiến của hành động, trạng thái hiện tại của hành động, đôi khi là diễn
tả một hành động sắp diễn ra trong tương lai dưới quan điểm của hiện tại.
PHẦN IV:TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Từ điển ngữ pháp tiếng Hàn – Lí Kính Hiển (NXB Văn hóa thông tin)
2. Các điểm trọng yếu trong ngữ pháp tiếng Hàn – Hoàn Vũ (NXB Tổng hợp TP Hồ
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
79
Chí Minh)
3. Giáo trình hướng dẫn học và thi năng lực tiếng Hàn Quốc (KLPT) – Nghiêm Thị
Thu Hương (NXB Giáo dục)
4. hanquocngaynay.com, hocmai.vn, ngonngu.net, bachkhoatoanthu.gov.vn
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
80
HANBOK – TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG HÀN QUỐC
Giáo viên hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Bích
Sinh viên thực hiện: Tạ Lệ Huyền 1H09
Nguyễn Thanh Hà 1H09
I. Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Hơn một thập niên về trước, nhiều người trên thế giới hầu như biết rất ít về Hàn Quốc.
Nhưng trong những năm gần đây văn hóa Hàn Quốc đang có sức lan tỏa lớn, ảnh hưởng
đến các nền văn hóa khác nhau của Châu Á, nhất là các khu vực Đông Á và Đông Nam Á
(sự ảnh hưởng này thông qua các bộ phim, xu hướng thời trang…). Là những sinh viên
khoa Hàn Quốc, Đại học Hà Nội và với lòng yêu mến đất nước, văn hóa Hàn Quốc,
chúng tôi chọn Hanbok-trang phục truyền thống của Hàn Quốc như bước đầu tiên khám
phá về nền văn hóa muôn màu muôn sắc của đất nước tươi đẹp này. Hàn Quốc có rất
nhiều nét văn hóa truyền thống đặc trưng. Bên cạnh các nét văn hóa: Hanguel-bảng chữ
cái tiếng Hàn Quốc, Kimchi và Bulgogi- các loại thực phẩm có lợi cho sức khỏe, nhạc tế
lễ Jongmyo và nhạc cụ truyền thống, nhân sâm, núi Seoroksan, Sesi-tập quán truyền
thống và các nghi lễ trưởng thành, …thì Hanbok là một trong những nét văn hóa tiêu biểu
của nền văn hóa truyền thống Hàn Quốc.
Là sinh viên năm nhất của khoa Hàn Quốc, ấn tượng đầu tiên đối với chúng tôi đó
là Hanbok-trang phục truyền thống từ bao đời nay của người Hàn Quốc. Qua các phương
tiện thông tin và quá trình tìm hiểu của bản thân, chúng tôi thấy rằng đi dọc bất cứ đường
phố nào của Hàn Quốc, người ta cũng có thể thấy trang phục của người Hàn Quốc ngày
nay rất đa dạng, từ quần jeans, các mốt thời trang “hot” đến những bộ complê may đo và
các mốt thiết kế sang trọng.Tuy nhiên, trong tất cả những bộ trang phục được chiêm
ngưỡng thì nổi bật nhất là Hanbok, một bộ trang phục dân tộc được người Hàn Quốc mọi
lứa tuổi mặc, đặc biệt là trong những ngày lễ hội truyền thống hay những buổi trình diễn
nhạc Hàn Quốc. Vì thế chúng tôi đã lựa chọn Hanbok làm đề tài nghiên cứu khoa học lần
này.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
81
Dưới con mắt nghiên cứu cứu và phê bình thì trang phục truyền thống của Hàn Quốc được
nhìn nhận và đánh giá từ nhiều góc độ phong phú. Với dung lượng có hạn của bài viết, chúng tôi
sẽ nêu ra những nét đặc trưng cơ bản nhất của loại trang phục truyền thống này. Đối tượng
nghiên cứu của bài nghiên cứu khoa học là Hanbok-trang phục truyền thống của Hàn Quốc. Bài
nghiên cứu này của chúng toi sẽ làm rõ về sự ra đời, sự phát triển và những nét đặc trưng của
Hanbok. Từ đó thấy được giá trị văn hóa của Hàn Quốc thông qua bộ Hanbok. Để thực hiện đề
tài này chúng tôi đã sử dụng phương pháp tổng hợp, khái quát và xử lí tài liệu, tiếp cận tư liệu
từ sách báo, truyền hình, internet, … sưu tầm hình ảnh có liên quan đến bài viết… Qua bài
nghiên cứu khoa học, chúng tôi mong muốn giúp mọi người có cái nhìn hệ thống hơn và hiểu rõ
hơn về trang phục truyền thống của Hàn Quốc. Đặc biệt đây sẽ là nguồn tư liệu cho những ai
muốn tìm hiểu về văn hóa trang phục Hàn Quốc.
3. Bố cục đề tài
Trong bố cục đề tài này chúng tôi sẽ nêu rõ về 3 phần nằm trong nội dung chính. Phần
1, chúng tôi sẽ khái quát chung về Hàn Quốc và trang phục truyền thống của Hàn Quốc.
Trong phần này chúng tôi sẽ nêu lên đặc điểm địa lí, khí hậu và sự ảnh hưởng của những
yếu tốt này đến trang phục đồng thời khái quát chung về trang phục truyền thống của
người Hàn Quốc. Phần 2 là những thông tin về lịch sử ra đời của Hanbok và sự phát triển
của trang phục này qua các thời đại. Cách phân loại, cách mặc Hanbok cũng như nét đặc
trưng và ý nghĩa của nó chúng tôi sẽ nêu rõ trong phần 3.
II. Phần nội dung
1. Khái quát chung về Hàn Quốc và trang phục truyền thống của người Hàn
Quốc
1.1. Địa lí
Bán đảo Hàn Quốc nằm ở phía đông của đại lục châu Á với chiều ngang kéo dài từ
124 độ tới 131 độ kinh Đông, chiều dài từ 33 độ đến 43 độ vĩ bắc. Lãnh thổ gồm có bán
đảo Hàn với hơn 3200 đảo lớn nhỏ ven bờ biển. Tổng diện tích là 222154km2 (bằng 675
diện tích Việt Nam). Bán đảo Hàn có phía bắc giáp với Trung Quốc và Nga, đối diện với
Nhật Bản qua một eo biển hẹp. Phía Bắc và phía đông của bán đảo Hàn có địa thế cao,
phía Tây và phía Nam thấp. Phần lớn các con sông đều chảy ra biển Tây và biển Nam. Ở
ven bờ biển Tây và biển Nam có các đồng bằng phì nhiêu màu mỡ. 70% diện tích lãnh
thổ là rừng núi, phía Tây dốc thoai thoải nhưng ngược lại ở phía Đông thì dốc dựng đứng.
Hàn Quốc nằm ở vùng khí hậu ôn đới và có 4 mùa rõ rệt. Mùa đông thì lạnh và khô;
màu hè nóng ẩm; mùa xuân ấm áp và mùa thu thì khí hậu mát mẻ nhưng có phần hơi
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
82
ngắn. Nhiệt độ bình quân trong năm từ 10 đến 16 độ. Nóng nhất là vào tháng 8, nhiệt độ
từ 23~270C, lạnh nhất vào khoảng tháng 1 từ -6~70C. Vào mùa đông, có khi nhiệt độ
xuống thấp tới -10~150C, mùa hè có khi nhiệt độ lên tới trên 300C. 1
Chính điều kiện tự nhiên và khí hậu của Hàn Quốc là một trong những nhân tố tác làm
cho trang phục Hàn Quốc trở lên đa dạng về chất liệu. Ở Hàn Quốc, có những vùng khác
nhau nổi tiếng về loại vải riêng của mình. Hansan, ở phía Nam tỉnh Ch'ungch'ong, đã dệt
nên loại vải gai trắng nổi tiếng đến mức đã được tiến cống sang nhà Đường trong suốt
thời Korkyo (918-1392). Vải làm bằng sợi gai dầu ở tỉnh Andong cũng từng rất được ưa
chuộng bởi tầng lớp thượng lưu. Chất liệu vải và kỹ thuật sản xuất phản ảnh rất rõ nét
văn hóa và xã hội Hàn Quốc. Do Hàn Quốc có nhiều loại hình thời tiết nên trang phục
của người dân xứ Hàn được làm từ cả dây gai dầu, sợi gai, cotton, muslin, lụa và sa-tanh.
Thời tiết lạnh hơn cần có chất vải dày hơn, những người ở miền Bắc thì áo thường có cả
lông nữa. Trong khi đó, trang phục mùa hè dùng những chất liệu mỏng hơn để gió có thể
lùa vào làm mát cơ thể. Vào mùa thu, rất nhiều phụ nữ sẽ mặc quần áo làm từ lụa tơ, bởi
khi đi lại, nó tạo nên tiếng động xào xạc tựa như họ đang bước trên lá khô vậy.
1.2. Trang phục truyền thống của người Hàn Quốc
Trang phục là một trong ba yêu cầu của đời sống vật chất (ăn, mặc, ở) đây là sản
phẩm văn hoá sớm nhất của xã hội loài người. Theo thời gian, trang phục cũng thay đổi
theo quá trình phát triển của lịch sử và là một trong những nét đặc trưng mang đậm cá
tính, phẩm chất, tinh hoa của dân tộc đó, để khi nhìn cách ăn mặc của họ chúng ta có thể
dễ dàng biết được họ thuộc quốc gia nào. Trang phục không chỉ đơn thuần là đồ để mặc
mà nó còn thể hiện cá tính của người mặc: dịu dàng, nhẹ nhàng hay thích sự phá cách,
mạnh mẽ. Trang phục khi đứng bên cạnh truyền thống được nâng lên một tầm cao mới.
Trang phục truyền thống ở đây có thể hiểu một cách khái quát là trang phục để mặc
nhưng chứa đựng bên trong đó là tinh thần dân tộc, linh hồn đất nước, cùng bao nét đẹp
tâm hồn của người dân đất nước đó. Bộ trang phục truyền thống mang đậm giá trị thiêng
liêng, cao quý đã được đúc kết qua bao biến động thăng trầm của lịch sử. Vì thế có thể
gọi trang phục truyền thống là quốc phục-biểu tượng trang phục của một quốc gia.
Hàn Quốc là một đất nước phát triển. Ở thành thị, hầu hết người Hàn Quốc đều ăn
mặc theo thời trang hiện đại của phương Tây. Những người lớn tuổi, đặc biệt là ở khu
1 Ban biên soạn giáo trình Hàn Quốc học, Lich sử Hàn Quốc, Nxb Đại học quốc gia Seoul, trang 11 và 12.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
83
vực nông thôn, vẫn còn ăn mặc quần áo truyền thống. Trang phục truyền thống của người
Hàn Quốc được gọi là Hanbok. Hanbok được làm để phù hợp với lối sống sinh hoạt của
người Hàn Quốc nhưng có thể coi đó là một biểu trưng cho văn hoá Hàn Quốc. Hanbok
được tạo nên bởi các đường sọc thẳng được tạo hình rất đẹp đẽ, không những thế còn che
lấp được những khuyết điểm của thể hình.
Hanbok dành cho nam giới bao gồm baji (cái quần), áo khoác hoặc vest tay ngắn và
turumagi (áo khoác ngắn). Hanbok của nữ bao gồm ch’ima (váy) và Jeogori (áo khoác
ngắn). Sự cấu thành nên một bộ Hanbok cũng có nhiều yếu tố, đó là yếu tố lịch sử, yếu tố
tự nhiên, yếu tố tôn giáo và yếu tố con người.
Một bộ Hanbok điển hình được may bằng vải trắng và thật rộng để được thoải mái và
mát mẻ. Bộ hanbok có thể mặc trong nhà rất thuận tiện. Với những người quen mặc
Hanbok hàng ngày, loại vải được chọn để may thường là vải bông hay vải lanh. Lụa là
loại vải vóc của hoàng gia, chỉ được sử dụng trong những ngày có lễ hội đặc biệt. Quần
áo mặc vào ngày lễ được trang trí thêm những đường viền đầy màu sắc ở tay áo của trẻ
con và phụ nữ.
Chẳng có gì khác thường khi ta thấy những cụ bà và cụ ông ở nông thôn mặc trang
phục truyền thống, cứ như họ vừa mới bước ra từ một bức ảnh chụp từ rất nhiều năm
trước đây. Một người đàn ông lớn tuổi điển hình thường có những cái cúc áo được làm
bằng hổ phách treo lủng lẳng trên áo, chân đi ủng cao su nhọn đầu mũi cong lên và đội
một cái mũ cao gọi là satkat đan từ lông bờm hoặc lông đuôi ngựa. Bên dưới chiếc nón
dường như trong suốt đó những người lớn tuổi thường để những bím tóc dài, quấn lại trên
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
84
đỉnh đầu của họ. Đó là trang phục ngày xưa còn ngày nay người Hàn mặc những bộ
Hanbok đơn giản hơn ở những phụ kiện nhưng lại cầu kì ở những đường thêu. Phụ nữ
không còn đội Cheomo (Một loại nón gần giống với nón quai thao của người con gái Việt,
nhưng chủ yếu được dùng che mặt) cũng như đeo dây tòn ten nữa, còn đàn ông cũng
không đội mũ Katsat nữa. Hanbok của nữ ngày nay càng độc đáo ở những đường thêu ở
vạt áo, tay áo và cổ áo. Người ta thêu lên đó đủ các hoa văn cũng như hình các con vật
quý. Càng ngày sự thay đổi về kiểu dáng, màu sắc, chất liệu vải càng phù hợp với người
mặc. Nhưng do sự phát triển của công nghiệp hoá, người Hàn không còn nhiều thời gian
để mặc những bộ Hanbok cầu kì và nó cũng không phù hợp với môi trưòng làm việc hiện
đại nữa. Ngày nay, Hanbok tuy được may bằng những chất liệu vải đẹp, độc đáo và khá
đắt nhưng hầu chỉ được người Hàn mặc khi có lễ hội hoặc vào những ngày đặc biệt.
Hanbok được truyền tụng từ đời này sang đời khác và được gìn giữ qua năm tháng. Nó
thể hiện niềm tự hào của dân tộc, đất nước Hàn Quốc.
2. Lịch sử ra đời và phát triển của Hanbok
2.1 Lịch sử ra đời của Hanbok
Theo truyền thuyết, năm 2333 trước công nguyên, một á thần tên là Tan-gun lập nên
một vương quốc gọi là Choson trên bán đảo Hàn Quốc. Người Hàn Quốc coi đó là năm
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
85
lập quốc của mình. Trong hơn 4000 năm kể từ đó, dân tộc Hàn là một mẫu mực về sự
kiên trì trong việc gìn giữ các giá trị văn hoá truyền thống nhưng vẫn thích ứng nhanh
chóng và tài tình với những biến đổi không ngừng của hoàn cảnh sống. Hanbok qua thời
gian cũng có nhiều cải tiến liên tục cho phù hợp với khí hậu và điều kiện sinh hoạt trong
từng thời kì lịch sử.
Mặc dù có một vài chi tiết của áo Hanbok ngày nay được xuất hiện từ thời xa xưa
song kiểu áo hai bộ phận (áo và váy hoặc quần) như ngày nay mới chỉ bắt đầu có từ thời
Tam quốc (năm 57 trước công nguyên – năm 668 sau công nguyên) khi các vương quốc
koguryo, paekche và shilla thống trị bán đảo Triều Tiên. Điều này đã được thể hiện rõ
ràng trên các bức tường đá tại các khu lăng mộ ở Susani; Ssangyeong-chong thời
Kugogyo từ thế kỷ IV đến thế kỷ VI. Qua nhiều khảo nghiệm, các nhà văn hoá đã rút ra
những nét chung trong trang phục trên nhiều bức hoạ đó. Phụ nữ mặc váy có nhiều màu
sắc sặc sỡ, áo dài qua hông, vạt bên phải áo gấp sang phía bên trái, cổ và đường viền tay
áo có hoa văn sắc sảo. Đặc biệt cũng ở thời kỳ này có giai đoạn phụ nữ còn mặc thêm
một chiếc quần dài bên trong váy và một áo khoác bên ngoài. Nam giới thì mặc áo dài
quá hông, tay dài và quần dài, trang phục cũng được trang trí với nhiều hoa văn. Ngoài ra
cả nam giới và nữ giới đều đi giày theo kiểu giày ống bây giờ. Kiểu mẫu như thế có thể
do ảnh hưởng của khí hậu và địa hình khắc nghiệt phương Bắc cùng cuộc sống du mục
với trung tâm là lưng ngựa tạo nên. Hơn nữa, theo các nhân tố địa lý và văn hoá, trang
phục này còn chịu nhiều ảnh hưởng của kiểu áo Trung Quốc. Tại vương quốc Paekche và
Shilla cùng thời đều có kiểu trang phục tương tự nhau. Phục chế theo các bức tường đất
được tìm thấy trong các ngôi mộ cổ cho thấy thời kì này phụ nữ mặc Jeogori có tay hẹp,
váy nhiều nếp gấp, có nơ buộc thắt lại ở ngực. Sau đó, áo choàng lụa kiểu Trung Quốc du
nhập vào Triều Tiên từ nước láng giềng này, dần dần được giới quý tộc và thượng lưu
chấp nhận từ năm 648 thời Shilla - vương quốc đã thống nhất bán đảo từ tam quốc thành
một quốc gia thống nhất năm 668 (với kinh đô là kyongju). Áo choàng này được mặc bên
ngoài bộ y phục truyền thống dân tộc. Phụ nữ quý tộc bắt đầu mặc quần – váy dài kín
người, áo choàng tay dài, được thắt lại bằng ruy băng ở eo. Còn đàn ông mặc quần ống
rộng, hẹp ở mắt cá chân và một áo choàng bó ở cổ tay và thắt ở eo. Như vậy, cấu thành
một bộ Hanbok nữ thời kỳ này gồm có: váy dài kín người bên trong (Ch’ima), áo khoác
ngắn (Jeogori) có một dải ruy băng thắt nơ ở ngực phía bên trái và áo choàng ( P’o ) mặc
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
86
bên ngoài trông rất thanh lịch. Còn đàn ông mặc Magoja (áo trên) và Joggi (áo và quần
dài rộng rãi, đồng bộ, mặc bên trong) với áo khoác ngắn Jeogori.
2.2 Sự phát triển của Hanbok.
Hanbok mà chúng ta biết tới ngày nay là kết quả của sự biến đổi, cải tiến ở nhiều
thời kì. Năm 935, Shilla suy tàn và được thay thế bằng vương triều mới – Koryo (thủ đô
là Keasong), cũng bắt đầu từ đây, cái tên Hàn Quốc (Korea) ra đời. Đạo Phật, đạo mà
thời Shilla coi là tôn giáo dân tộc tiếp tục phát triển cùng với nghề in và nhiều môn nghệ
thuật khác. Trong suốt triều đại Koryo, chi’ma được cải biến cho ngắn đi, cao hơn cả eo,
lại ôm khít ngực. Chogori cũng ngắn hơn và tay thì hơi cong một chút. Cùng thời gian
này, phụ nữ bắt đầu tết tóc vấn thành búi trên đầu, đàn ông thì cạo trọc đầu chỉ để lại một
chỏm tóc. Năm 1392, triều đại Choson bắt đầu. Triều đại này do Yi-song-gye (tên huý
của vua Taejo) _ một vị tướng cũ của triều Koryo dựng nên. Yi-song-gye đã dời đô từ
Keasong nơi ảnh hưởng của Phật giáo còn mạnh về Seoul năm 1394. Kể từ đây Khổng
giáo đã xâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống và được coi là quốc đạo. Chính những
nghi lễ, phong tục tập quán theo đạo Khổng đã quy định kiểu áo mà tầng lớp quý tộc,
thành viên hoàng tộc, giới thượng lưu, dân thường phải mặc trong các dịp lễ hội, cưới hỏi,
ma chay. Trong thời đại này, sự kiên định, trung thực của nam giới, sự trinh tiết của phụ
nữ đã trở thành chuẩn mực đạo đức trong xã hội và được phản ánh trong trang phục Hàn
Quốc. Hanbok của nam giới về cơ bản không thay đổi. Nhưng y phục nữ giới lại có sự
thay đổi lớn. Vào thế kỷ XV, phụ nữ bắt đầu mặc váy dài, xếp li và Chogori dài để hoàn
toàn che khuất những đường nét cơ thể. Dù vậy, theo thời gian, do yêu cầu của cuộc sống,
Chogori ngày càng trở nên ngắn hơn cho đến khi nó chỉ còn che vừa hết ngực, kiểu dáng
này cho đến ngày nay vẫn còn được duy trì. Do nhịp sống sinh hoạt bận rộn của thời hiện
đại Hanbok trở nên gây bất tiện cho người mặc. Vì thế, Hanbok đang ngày càng được cải
tiến cho đơn giản, phù hợp để trở thành trang phục trong cuộc sống hàng ngày của người
Hàn Quốc. Không giống như trước đây, phụ nữ Hàn Quốc thường bỏ ra rất nhiều thời
gian để làm những ruy băng buộc tóc đầy các hình trang trí, làm norigae (Norigae là
những tua tòn ten buộc dưới nơ áo của áo vét, có một đồ trang trí giống như hình khắc
của viên ngọc hay một con dao nhỏ bằng bạc có một cái vòng ở trên và một quả tua dài
bằng lụa) giày vải thêu mũi cong… Về cơ bản, các “phụ tùng” chủ yếu vẫn là mũ đội đầu,
khăn quấn, trâm cài đầu, chủng loại giầy dép có những đôi hài được thêu hoa trên nền lụa,
giầy làm bằng da, khi trời mưa thì có guốc gỗ, và cả giầy dép làm bằng rơm vài đồ trang
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
87
sức. Giống như áo dài của Việt Nam, Hanbok cũng không có túi nên người ta phải mang
theo túi hoặc ví lụa, khăn tay. Hiện nay, tất cả những thứ “phụ tùng” của Hanbok cải tiến
rộng, thoải mái và dễ giữ gìn. Vì thế người Hàn Quốc ngày nay, đặc biệt là nam giới mặc
trang phục truyền thống này khi họ đi làm về .
3. Nét đặc trưng của Hanbok
3.1 Phân loại Hanbok
Khác với áo dài, chiếc áo truyền thống Hàn Quốc phức tạp hơn nhiều. Hanbok
được may đo bằng các loại vải và màu sắc khác nhau tuỳ theo địa vị xã hội, theo hoàn
cảnh và theo tuổi của người mặc. Những tiêu chí này cũng khác nhau tuỳ theo thời đại
nữa. Vì thế khi phân loại Hanbok có thể chia theo thời đại để nói sẽ đủ hơn. Trong thời
đại tôn sùng đạo Khổng (Thời Choson 1392-1910). Đây là thời kì mà sự phân biệt đẳng
cấp hết sức khắt khe. Người nam đã mang chức tước, phẩm hàm, được mặc Hanbok dài,
có dải đeo, đội mũ vành lông đuôi ngựa, áo màu theo phẩm tước, đi giày ủng. Người nữ
tầng lớp lao động chỉ được phép mặc Hanbok hẹp, vải mộc với những quy định hết sức kì
quặc chỉ nhằm mục đích để mọi người dễ nhận biết qua y phục một hạng người đã bị
tước bỏ mọi quyền tối thiểu của con người. Yangban, một tầng lớp thượng lưu theo kiểu
cha truyền con nối, dựa trên học vị và quyền hành hơn là của cải thì mặc áo Hanbok màu
sáng may bằng vải lụa in hoa hoặc lụa trơn trong thời tiết lạnh và loại vải xếp nếp hoặc
những loại vải cao cấp là những chất liệu nhẹ trong thời tiết ấm áp. Trong khi đó thường
dân lại bị pháp luật giới hạn (và cũng do tình hình tài chính không cho phép) phải mang
áo bằng vải gai trắng và chỉ được mặc màu trắng, chỉ trong trường hợp đặc biệt mới có
thể mặc màu hồng nhạt, xanh nhạt, xám hay đen sẫm. Phụ nữ Yangban mặc váy quấn
rộng 12 P’ok (đơn vị độ dài của Hàn Quốc) và gấp vạt về phía bên trái trong khi thường
dân bị cấm mặc Ch’ima có độ rộng hơn 10 P’ok hoặc 11 P’ok, còn vạt bắt buộc phải gấp
về bên phải. Để một bộ Hanbok thêm hoàn chỉnh, người ta còn tìm tới những phụ kiện đi
kèm. Phụ nữ hay đội Cheomo, dân lao động Hàn Quốc thì đội dorongi (một loại nón
cứng) và bangkat (nón lá) để che mưa nắng khi làm việc ngoài đồng. Những phụ nữ quý
tộc thời Choson thường bỏ ra rất nhiều thời gian thêu những ruy băng buộc tóc đầy
những hình trang trí, những túi hay ví bằng lụa (pokjumoni) và norigae. Trang phục phụ
của đàn ông phần lớn gồm mũ bằng lông ngựa cứng (katsat thịnh hành từ thời Shilla cho
tới đầu thế kỉ này) và một dây lụa dài buộc quanh ngực. Vào những ngày lễ lớn chỉ
những người trong hoàng tộc hay những người có địa vị xã hội mới được mặc Hanbok
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
88
đậm màu và kèm nhiều phụ kiện. Còn người dân, những người không có địa vị và nghèo
khó chỉ được mặc những gam màu nhạt và không có phụ kiện cầu kì đi kèm. Sự phân biệt
màu sắc giữa người có tuổi và người trẻ trong hoàng tộc mới rõ ràng còn trong người dân
thì hầu như không có, bởi vì quanh năm họ chỉ mặc những bộ Hanbok màu trắng hoặc
màu nhạt.
Còn trong thời đại ngày nay sự phân biệt hoàng tộc và thường dân không còn tồn tại
nữa, cũng như không còn sự khinh miệt giữa người giàu và người nghèo. Do đó việc mặc
trang phục như thế nào không còn là quy định khắt khe nữa. Hanbok lúc này cũng có sự
thay đổi. Phụ nữ bắt đầu mặc váy dài, xếp li và Jeogori ngắn chỉ vừa đủ che hết ngực.
Những phụ kiện đi kèm cũng đơn giản hơn và không còn phải tự làm nữa mà có thể mua
ở chợ. Hanbok của nam giới cũng có sự thay đổi. Áo cũng ngắn hơn chỉ vừa đủ dài hơn
một chiếc áo sơ mi. Họ cũng không còn đội những chiếc mũ cứng vành lông đuôi ngựa
nữa. Người Hàn ngày nay ưa mặc trang phục phương Tây. Trang phục châu Âu thâm
nhập vào Hàn Quốc từ thời kì chiến tranh Triều Tiên (1950-1953). Trong thời kì công
nghiệp hoá những năm 1960, 1970 người ta coi Hanbok không còn phù hợp như trước
nữa. Tuy nhiên, Hanbok đã được cải tiến cho đơn giản, phù hợp để trở thành trang phục
trong cuộc sống hàng ngày của người Hàn Quốc.
Vào những ngày lễ lớn người Hàn Quốc vẫn ưa mặc những bộ Hanbok truyền thống
chưa bị cách tân quá nhiều. Hôn lễ phục và tang phục được coi là lễ phục. Trang phục
mặc trong ngày cưới là những bộ Hanbok thiết kế trang trọng và rực rỡ. Tang phục có
hình thức đơn giản, chỉ là bộ đồ xô gai để tỏ lòng thương tiếc người đã khuất. Vào ngày
tết nguyên đán, tết trung thu hay vào các ngày lễ lớn, người Hàn Quốc mặc những bộ
Hanbok đẹp nhất của mình, màu sắc rực rỡ tươi vui. Căn cứ vào màu sắc, biểu tượng của
váy áo người ta còn đoán biết được lứa tuổi, ước mong của người mặc. Chẳng hạn, người
phụ nữ trung tuổi mặc sơ mi xanh chuối và chân váy vàng hoặc màu xanh lá cây sáng.
Phụ nữ lớn tuổi hơn mặc áo màu xanh chuối nhạt hoặc màu xám sáng với chân váy màu
xanh lá sẫm… để thể hiện ước muốn sống lâu. Còn phụ nữ kết hôn, nếu mặc váy hồng là
ước muốn sinh con gái, màu tím là: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ là mong ước có cuộc sống
vợ chồng hoà hợp. Các cô gài trẻ thì mặc váy màu đỏ và áo khoác màu vàng với ống tay
áo kẻ sọc nhiều màu. Khi đính hôn mặc màu hồng, kết hôn mặc váy cưới, sau tuần trăng
mật mặc váy đỏ và áo xanh để chào bố mẹ chồng. Vào những dịp khác, họ có thể mặc
Hanbok với đủ màu sắc và chất liệu, bao gồm lụa thêu, vẽ hoặc mạ vàng. Hanbok được
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
89
may bằng gấm lụa hay satanh cho mùa đông, bằng lụa mỏng khi thời tiết ấm áp và bằng
vải sợi bông dệt bằng tay, hồ nhẹ cho mùa hè.
Có thể nói rằng sự đa dạng của Hanbok là một nét độc đáo. Sự khác nhau giữa
Hanbok của vua quan và người dân thường, giữa người giàu và người nghèo, Hanbok
mặc vào dịp tết, đám cưới, đám tang hay ngày thường đều có những ý nghĩa riêng. Việc
phân loại Hanbok chỉ là một cách giới thiệu sự đa dạng của Hanbok, còn vẻ đẹp thực sự
của nó ẩn chứa bên trong chính linh hồn dân tộc của nó.
3.2 Cách mặc Hanbok
Mỗi một loại trang phục truyền thống đều có một cách mặc riêng khác nhau. Áo
dài của Việt Nam, Kimono của Nhật Bản hay Hanbok của Hàn Quốc cũng vậy. Tôi nghĩ
rằng cách mặc Hanbok cũng giống như nét đẹp của Hanbok đều từ con người mà ra cả.
Trong phần này tôi trình bày cách mặc hanbok của người Hàn Quốc. Tuy nói về cách
mặc hanbok nhưng nó không chỉ có thế, ẩn sâu bên trong nó còn thể hiện tính cách và
tâm hồn người mặc nó. Theo giới tính mà có cách mặc hanbok khác nhau.
Cách mặc hanbok của nam giới:
Hanbok dành cho nam giới gồm có quần dài, áo ngắn, áo vét hoặc áo khoác tay ngắn.
Đặc điểm của từng loại như sau: áo ngắn tới hông, tay dài, có hai sợi dây buộc hai tà áo
lại phía bên trái. Quần của Hanbok thường có ống rộng để suông, do đó người ta dùng
một sợi dây để bó ống cho gọn gàng. Bên ngoài hanbok có thể mặc một chiếc áo vét kiểu
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
90
phương Tây hoặc là một chiếc áo khoác (hay còn gọi là áo choàng) có tay ngắn. Chiếc áo
này về kiểu dáng khá giống với áo ngắn mặc bên trong nhưng có màu sắc khác đi mà thôi.
Thứ tự mặc hanbok như sau:
Ban đầu người nam mặc áo ngắn trước, áo này thường có màu giống với màu quần.
Áo không có cúc như của Việt Nam mà được cột lại với nhau bằng hai sợi dây, cổ áo
hình chữ V ôm sát. Tiếp đó là mặc quần, do đặc điểm của quần mà người ta phải bó ống
của chúng lại. Cách bó ống được coi là một bước quan trọng và dường như là khó nhất
khi mặc Hanbok. Trước khi bó ống người ta đi một đôi tất trắng dài, khá dầy trông giống
như một chiếc giày. Khi làm vậy họ phải ngồi chứ đứng không làm được. Phương pháp
buộc ống quần gồm có 4 bước:
Bước 1: Dùng tay giữ lấy một đầu kia của ống quần kéo ra làm sao cho nó không bị
nhăn lại.
Bước 2: Từ từ lấy tay gập ống quần theo góc cạnh của nó tiếp giáp với chân từ phải qua
trái thành một vòng tròn nhỏ.
Bước 3: Dùng một sợi dây quấn quanh cổ chân, buộc chặt vòng tròn vừa quấn được
không cho nó tuột ra là được.
Bước 4: Dùng hai tay thắt chặt sợi dây lại và buộc ở mắt cá chân.
Như vậy là hoàn thành xong bước quan trọng nhất và người nam có thể khoác một
chiếc áo vét hoặc áo khoác là có thể diện bộ Hanbok ở bất cứ nơi đâu. Tuy có vẻ là đơn
giản nhưng nếu làm không đúng cách nó sẽ không được như vậy đâu, thậm chí người ta
có thể đánh giá một người nam tính cách như thế nào qua việc mặc hanbok, đặc biệt là ở
cách buộc túm ống quần lại.
Cách mặc hanbok của nữ:
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
91
Nếu như cách mặc Hanbok của nam quan trọng ở chỗ thắt ống quần ở eo chân, thì
bước quan trọng của Hanbok nữ chính là việc thắt hai dây của chiếc áo thành một cái nơ.
Nơ áo phải cân đối và có độ lệch vừa phải. Nếu như làm đúng cách chiếc nơ áo còn là
điểm nhấn cho bộ Hanbok. Một bộ hanbok nữ bao gồm: váy dài, áo ngắn, áo khoác bên
ngoài. Ngày trước người phụ nữ thường mặc một bộ đồ lót bên trong trước khi mặc
Hanbok, nhưng ngày nay thì ít người còn mặc như vậy nữa. Y phục bên trong gồm quần
lót trong, váy lót, sokjoksam, áo lót trong. Váy lót bên trong mặc hơi ngắn hơn váy ngoài
một chút, áo trong cũng làm bắng vải mỏng và màu nhạt được làm ngắn hơn áo ngoài
một chút.
Sở dĩ họ mặc một bộ đồ mỏng bên trong như vậy một phần là để giữ dáng áo cho
Hanbok, nhưng nguyên nhân sâu sa là do Hanbok là một tác phẩm văn hoá chịu nhiều
ảnh hưởng của đạo Khổng, đề cao sự kín đáo, tôn ty của người phụ nữ. Tiếp đó người
Hàn mặc một chiếc váy (Ch’ima) bên ngoài bộ quần áo lót bên trong. Đặc điểm của chiếc
váy này là cao tới tận ngực, chân váy dài sát gót chân, váy rộng. Bên ngoài người Hàn
mặc một chiếc áo ngắn gọi là jeogori. Jeogori có hai dải lụa dài buộc chặt vào nhau tạo
thành cái nơ, nơ có độ lệch vừa phải là đẹp. Jeogori thời Choson dài qua hông nhưng
jeogori ngày nay được cải tiến chỉ còn ngắn tới ngực và ôm khít ngực, vạt áo bên phải
gấp sang bên trái, cổ và đường viền tay áo thêu hoa văn. Những đường hoa văn này cũng
rất phong phú, có khi là những đường hoa mềm mại ở tay áo, có khi là năm đường viền
tượng trưng cho kim, thuỷ, hoả, thổ, mộc ở ống tay áo….Đây là một nét đặc trưng ảnh
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
92
hưởng của Khổng giáo. Ngoài ra ảnh hưởng của đạo Khổng còn trong cách người mặc
ngồi thế nào cho đúng. Phụ nữ mặc Hanbok khi ngồi co chân phải gập ra sau, còn chân
trái vắt lên phía trước, gập đầu gối giống như hình chữ ngũ, khác với đàn ông có thể
khoanh tròn một cách thoải mái. Như vậy một bộ hanbok nữ mặc đúng cách sẽ có 4 bước
sau:
Bước 1: Mặc một bộ đồ lót mỏng bên trong hoặc mặc áo lót bên trong sao cho vừa với
bộ hanbok.
Bước 2: Mặc váy dài (Ch’ima), chỉnh váy sao cho cân với ngực.
Bước 3: Mặc áo khoác ngắn ra bên ngoài Ch’ima, kéo vạt bên phải vào trong, vạt bên
trái cho ra ngoài.
Bước 4: Thắt nơ cho hanbok. Chiếc nơ nằm phía ngực bên trái của hanbok. Nó là một dải
lụa mỏng nên rất mềm mại, vì vậy người mặc có thể thắt những chiếc nơ theo ý mình một
cách dễ dàng.
Có thể nói rằng cách mặc hanbok của người Hàn Quốc phản ánh chính con người Hàn
Quốc: cẩn thận, tỉ mỉ và chính xác. Từ xưa tới nay cách mặc này vẫn không hề thay đổi.
4. Kết luận
Hàn Quốc cũng là đất nước có nhiều truyền thống văn hóa lâu đời, trang phục Hanbok
từ lâu đã được xem như trang phục rất trang trọng làm nên nét đẹp duyên dáng và kín đáo
của người phụ nữ Hàn. Mặc dù được cách tân khá nhiều, nhưng trang phục Hanbok vẫn
giữ nguyên được nét đẹp thuần khiết dịu dàng mà cũng rất đỗi đằm thắm và sang trọng.
Đó cũng là sức sống mà đến nay trang phục truyền thống của Hàn Quốc này vẫn luôn tạo
được ấn tượng rất riêng, mang nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Á Đông. Ngày nay,
Hanbok được bạn bè thế giới yêu thích và đón nhận. Ở Việt Nam, đã có những cô dâu
mặc Hanbok để chụp ảnh cưới. Có thể nói rằng trang phục truyền thống nói chung và
Hanbok nói riêng chắc chắn sẽ được bảo tồn và phát huy, được gìn giữ như chính linh
hồn của dân tộc Hàn.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
93
Tài liệu tham khảo
1. Ban biên soạn giáo trình Hàn Quốc học, Lịch sử Hàn Quốc, Nxb đại học Quốc
Gia Seoul.
2. Nguyễn Long Châu, Tìm hiểu về văn hóa Hàn Quốc.
3. Tạp chí nghiên cứu Đông Bắc Á.
Các wesite khác:
1. http://vi.wkipedia.org/wiki/hanbok
2. http://www.huflit.edu.vn/forum/index.php?topic=408.0
3. http://www.olympiavn.org/forumi/ndex.php
4. http://www.vietmot.net/forum/f450
5. http:good.times.webshots.com/photo
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
94
HÌNH TƯỢNG HỔ TRONG VĂN HÓA
VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐCGiáo viên hướng dẫn: Th.s Bùi Thị Bạch Dương
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thu Hiền 2H08
Bùi Thị Nhàn 2H08
Phạm Minh Hảo 2H08
Trần Thị Hường 2H08
Tô Thị Thanh Huyền 2H08
Đỗ Thị Thúy2H08
I Lời mở đầu:
Nói đến con hổ thì ai cũng hình dung ra được đó là một con thú có bốn chân, lông
vằn, tướng dữ tợn, là loài chuyên ăn thịt, nên người ta thường có ý kinh sợ khi nói đến từ
hổ.Nhưng khi nói đến từ Dần thì cảm giác sợ hãi lại không còn nữa và người ta liên
tưởng ngay đến năm Dần, tháng Dần hay người tuổi Dần.
Hổ được coi là con vật linh thiêng nhất trong thập nhị chi (mười hai chi). Nó tượng
trưng cho uy quyền, sự dũng mãnh. Người Việt Nam, Hàn Quốc nói riêng và người Châu
Á nói chung vốn rất ưu ái cho con vật này và luôn dành cho nó một sự sùng kính. Chẳng
thế mà dân gian vẫn gọi hổ là “Ông ba mươi”, là “Chúa sơn lâm”, là “Ngài”. Hay dùng
hổ để ví von bằng một sự tôn kính như nói về cha con cùng tài giỏi là “ Hổ phụ sinh hổ
tử”, nói về tướng võ oai phong là “ hổ tướng”…
Về mặt tâm linh, hổ thường được đặt ở trước cửa đình, chùa để canh giữ và trừ ma
quỷ. Nanh hổ được coi là thứ rất linh nghiệm. Những người đeo nó thường coi đó là một
lá bùa hộ mệnh. Nó giúp chủ nhân khoẻ mạnh và gặp nhiều may mắn.
Ở Việt Nam, Hình tượng con hổ ăn sâu vào đời sống nghệ thuật và ngôn từ. Từ tranh
dân gian đến thành ngữ, tục ngữ, câu đối...đều có những hình ảnh gợi đến hổ. Các thi sĩ
thời xưa cũng dành ưu ái trong thơ ca về loài vật này. Trong lịch sử, văn hóa Hàn Quốc,
hổ vừa được dân gian tôn làm “thần giám hộ”, vừa là biểu tượng của uy dũng và quyền
lực. Hổ còn giúp con người tránh được vận hạn và đem đến cho họ nhiều phúc lộc.
Trong khuôn khổ bài báo cáo khoa học này, chúng tôi tổng kết một số hình tượng về
loài vật đầy quyền năng này trong văn hoá Việt Nam và trong văn hóa Hàn Quốc, từ đó
đưa ra những so sánh cơ bản về hình tượng này giữa hai nền văn hóa.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
95
Hình tượng hổ trong văn hóa Việt Nam:
1. Hình tượng hổ trong điêu khắc, hội họa:
a) Trong điêu khắc:
Hổ trong tiềm thức của người Việt Nam là loài ác thú ăn thịt người đáng sợ đến nỗi
người dân tôn chúng lên thành “Ông” – Ông Kễnh, Ông Ba Mươi… Nhưng chính cái
dáng vẻ uy nghiêm, ngoại hình cường tráng, sự dũng mãnh, oai phong của chúa sơn lâm
lại trở thành một đề tài vô cùng hấp dẫn đối với các nghệ sĩ dân gian. Chính vì vậy hình
ảnh của hổ đã xuất hiện trong nghệ thuật điêu khắc từ rất sớm và được biến đổi linh hoạt
qua từng thời kì.
Ngay từ thời văn hóa đồ đồng Đông Sơn, con người đã đưa hình tượng hổ lên mặt
trống.
[ Cảnh săn mồi trên trống đồng Đô ng Sơn lưu phát hiện ở Kur (Đông Indonesia) ]
Trên mặt và tang trống đồng Đông Sơn lưu lạc đến miền Đông Indonesia xuất hiện
chú hổ mình vằn đang đuổi theo một con hươu, trong khi chính nó lại là mục tiêu của
người cầm cung đang ngắm bắn. Trên tang của chiếc trống này một con hổ mình vằn
khác cũng đang trong tư thế đuổi theo một con hươu sừng.
Trên chiếc trống đồng có hình hổ của gia đình Dương Phú Hiến, các đồ án hoa văn
được tạo bằng cách khắc chìm trên khuôn, vì vậy hình chim, hổ, đường tròn… đều nổi.
Hình hổ khá rõ ràng, mắt hổ được thể hiện bằng hình tròn có chấm ở giữa, trên thân có
chấm nhỏ tạo thành đường vằn ngang thân.
Ngoài ra người Đông Sơn còn thể hiện hình tượng hổ thông qua việc tạo ra những
khối kim loại. Ở vùng đất tổ Hùng Vương các nhà khảo cổ học đã từng phát hiện chiếc
thạp đồng Đông Sơn nổi tiếng tại khu mộVạn Thắng. Nắp thạp thể hiện bốn khối tượng
hổ cắp mồi rất sinh động : bốn chú hổ mỗi chú tha một con lợn, chú thì ngoạm ngang
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
96
mồm, chú thì vắt con mồi trên vai. Hình ảnh này vừa đơn sơ, ngộ nghĩnh, đáng yêu
nhưng vẫn làm toát lên những tư thế, động tác dữ dằn, oai phong của chúa sơn lâm.
Bước sang kỉ nguyên độc lập thời Ngô-Đinh hổ thường xuất hiện cùng với hoạt động
của con người với nhiều nội dung phong phú thậm chí rất lạ chẳng hạn hổ biến thành
phương tiện để cưỡi như ngựa, voi… có thể thấy sự độc đáo này trong các tác phẩm điêu
khác cổ ở đền vua Đinh (Ninh Bình).
Sang đến thời Trần hình tượng hổ xuất hiện rất phong phú-hổ được tạc khá hiện thực
về ngoại hình như bệ đa thờ của chùa Cát Quế hoặc bệ đá Chùa Bãi (Hà Nội) đặc biệt
hơn cả là khối tượng hổ đá được đặt tại lăng Trần Thủ Độ (Tam Đường – Thái Bình) là
một trong tứ linh trời của lăng, nó thật đáng yêu hiền lành trong tư thế khoan thai ngồi
nghỉ sau khi đã no mồi. Tuy vậy nó vẫn nghển cao đầu cảnh giác nghe ngóng sẵn sàng
quật đuôi lao về phía trước. Tác phẩm này đạt tới độ hiện thực trọn vẹn cả về ngoại hình
lẫn nội hàm của loài thú vừa hiền lành vừa uy nghiêm nhưng cũng rất nguy hiểm. Một
chiếc Thạp hoa nâu được bố cục xung quanh bằng ba con hổ ngồi ung dung chống hai
chân trước phô diễn bộ lông vằn vện làm toát lên sự khỏe đẹp dữ dằn.
Đến thời Hậu Lê hổ và người xuất hiện trong cuộc quyết đấu căng thẳng. Tác phẩm
điển hình là các bức chạm ở đình Thổ Tang (tỉnh Vĩnh Phúc). Tác phẩm này nói lên tinh
thần thượng võ của nhân dân ta.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
97
Chuyển sang thời Nguyễn thế kỉ XIX, chú hổ thời kì này xuất hiện với tinh thần, diện
mạo khá thực. Trên thềm chiếc Cao Đỉnh (đặt ở Đại Nội-Cố đôHuế) có đúc một con hổ
lớn ngồi vững vàng bên gốc cây Tùng dáng vẻ oai phong tượng trưng cho quyền lực tối
thượng của đấng Quân Vương (vua Gia Long).
b) Trong hội họa:
So với nghệ thuật điêu khắc hổ xuất hiện muộn hơn nhiều trong hội họa. Nổi bật hơn
cả là tác phẩm hội họa ‘Ngũ hổ” và “Độc hổ” của dòng tranh Hàng Trống nổi tiếng.
[ Tranh Ngủ hổ - một hiện vật của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam ]
Trong tranh Ngũ hổ, hình tượng của 5 con hổ được bố cục cân đối trên mặt giấy. Mỗi
con một dáng vẻ: Con thì đứng, con thì ngồi, con cưỡi mây lướt gió…Từ những dáng hổ
ngồi, hổ đứng, hổ cưỡi mây đến những ánh mắt, chòm râu, vẻ mặt, cùng khí thế toàn thân
đều toát lên sức sống mãnh liệt của loài “chúa sơn lâm”.
Để thổi hồn cho bức tranh, các nghệ nhân đặc biệt chú ý phối màu khi vẽ tranh ngũ
hổ.Màu sắc trong tranh cũng phải lộng lẫy, uy linh, giống với những bức tranh khác của
dòng tranh Hàng Trống, ngũ hổ được tạo bởi bản in những nét màu đen, sau đó người thợ
sẽ dùng bút lông để tô màu. 5 con hổ với những màu sắc khu biệt, rõ ràng nhưng lại rất
uyển chuyển. Trong quá trình tô màu, các nghệ nhân đã chuyển màu, tạo độ đậm, nhạt,
sáng, tối khác nhau. Vì vậy khi nhìn bức tranh ngũ hổ, người xem sẽ cảm nhận được
những khối thân chắc khỏe, những dáng ngồi, thế đứng đường bệ, oai phong đặc biệt,
những chiếc đuôi như đang ve vẩy hoặc uốn vồng lên để đập xuống đất mà bật chồm lên
của những chúa sơn lâm, những con mắt hổ như hừng hực nội lực của loài mãnh chúa.
Bức tranh hội đủ 5 sắc màu tượng trưng của ngũ hành, tương ứng với từng thế, dáng
của hổ. Ngồi uy nghi giữa tranh là ông hổ màu vàng, xung quanh là 4 ông với 4 màu sắc
khác nhau, đỏ, xanh, trắng, đen. Theo thuyết Âm dương Ngũ hành thì hành thổ là sự quy
tàng của bốn hành kia trong chu kỳ vận động của Ngũ hành. Đó là nguyên nhân cho việc
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
98
tạo màu trong tranh thờ ngũ hổ, là nguyên nhân để hổ vàng đứng giữa và lớn hơn cả.
Việc bố trí màu sắc của từng con hổ xung quanh hổ vàng cũng không phải là vô tình. Nếu
như trong tranh ngũ hổ của làng tranh Đông Hồ, màu sắc của 5 con hổ được bố trí theo
quan hệ tương khắc, thì ngũ hổ của Hàng Trống lại thể hiện sự tương sinh giữa các hành
Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Hình “năm ông Ba mươi” gợi cho người xem cảm giác về một lá bùa chú. “Ngũ hổ”
thể hiện sự sum vầy đầy đủ vì thế treo tranh ngũ hổ cảm thấy yên tâm vì được che chở.
Còn trong tranh “Độc Hổ” thì lại phổ biến nhất là Hắc Hổ và Bạch Hổ.
Trong tranh ngài hổ ngồi bệ vệ chống hai tay trên bàn đá xoay, mặt nhìn thẳng, hai
mắt mở to trừng trừng, bộ ria của ngài tua tủa như bàn chông, đuôi dựng đứng lên ngoe
nguẩy; các chi tiết phụ họa như thanh kiếm lệnh cắm bên cạnh hòm sắc “Pháp đại oai
linh” cùng lá cờ lệnh ngũ hành hài hòa với những đám mây ngũ sắc và chòm sao thất tinh
bên trên. Nhìn ngài thật rắn chắc oai nghiêm đầy sức răn đe.
Trong nghệ thuật tạo tình Việt Nam, qua bàn tay khéo léo của các nghệ nhân theo thời
gian chúa sơn lâm như dần thoát ra khỏi bản tính hung ác của mình, ngày càng trở nên
thân thiện, gắn bó với con người. Vì vậy khi chiêm ngưỡng những tác phẩm điêu khắc,
hội họa dân gian có nội dung chủ đạo là hổ, mỗi người xem đều không khỏi ngạc nhiên vì
chúng xuất hiện đáng yêu hơn là đáng sợ.
2. Hình tượng hổ trong phong tục, đời sống:
Người Vệt quan niệm ông hổ tượng trưng cho quyền uy và sức mạnh nên tượng hổ
bằng đá thường được đặt ở những nơi linh thiêng như đình chùa ,lăng tẩm ,nhà thờ họ.
Đó là tượng hổ ở lăng Trần Thủ Độ, lăng vua Hiến Tông..Ngoài việc được tạc bằng đá
hình hổ còn được chạm khắc thành các hoa văn trang trí ở đình chùa.Các hình chạm khắc
Từ muôn đời nay, đối với người Việt, hổ luôn được coi là hình tượng thiêng liêng ,cao
chủyếu là chạm nổi hay chạm lộng trên gỗ hay đá như hình hổ được chạm trên bệ đá tại
chùa Quế Hương.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
99
[ Tượng hình hổ 2000 năm tuổi được tìm thấy ở Hà Tĩnh ]
Thời xưa con hổ luôn đe doạ đến đời sống của con người nên ở một số địa phương
ở nước ta đã có tục thờ hổ.Tục thờ hổ ở nước ta có xuất xứ từ làng Thổ Tang- huyện
Vĩnh Tường -tỉnh Vĩnh Phúc. Đến thế kỉ 16, khi lưu dân đến Nam Bộ- nơi được mệnh
danh là vùng hoang dã “dưới sông sấu lội ,trên rừng cọp đua” thì việc thở hổ lại trở nên
cần thiết hơn bao giờ hết.Lúc bấy giờ ở nam bộ có rất nhiều miếu thờ những tượng hổ
bằng đá hay tranh ngũ hổ.
Vốn coi trọng con hổ nên người Việt Nam cho rằng năm Dần là năm tốt lành về mọi
mặt: mạnh mẽ về sức khoẻ, sung mãn về làm ăn,mở mang về học thức.Tuy nhiên người
Việt còn có một quan niệm cho rằng sinh con vào năm Dần, đặc biệt là sinh quý tử thì
đứa bé sẽ gặp nhiều may mắn và có những tài năng xuất chúng.
Hổ tượng trưng cho sức mạnh phi thường, cho thế lực oai phong lẫm liệt vì thế nếu bé
trai được sinh ra vào năm Dần nó sẽ mạnh mẽ và tài giỏi như hổ.Nhìn nhận về quan niệm
này cũng có người phản đối, có người đồng tình.tuy nhiên tôi xin đưa ra một số ví dụ
tham khảo sau đây để giúp các bạn có cách nhìn nhận cho riêng mình về vấn đề
này.Trong số những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, các bạn có biết những ai
cầm tinh con hổ không ạ? Người đầu tiên tôi muốn nhắc đến chính là chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại của chúng ta.Ngoài ra con rất nhiều nhân vật nổi tiếng khác cầm tinh con hổ
như vua Trần Nhân Tông, anh hùng Lý Tự Trọng, tổng bí thư Lê Hồng Phong…
Đó là quan niệm sinh con trai vào năm dần.Vậy nếu con gái sinh năm dần thì có được
coi là tốt lành không? Mọi người thường nói con gái sinh tuổi Dần rất cao số và ghê
gớm.Tuy nhiên có những nhận định cho rằng con gái tuổi Dần rất nhạy cảm,dễ xúc động
và trong tình yêu họ cũng rất nồng nàn ,mãnh liệt. Hi vọng sau những ý kiến trên đây các
bạn sẽ có một cách nhìn mới về con gái tuổi Dần được không ạ?
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
100
3. Hình tượng hổ trong văn học:
a) Trong thành ngữ, tục ngữ:
Hình tượng con hổ không chỉ xuất hiện trong những khía cạnh trên mà nó còn trở nên
gần gũi hơn với người Việt qua những câu tục ngữ, ca dao, trong lời ăn tiếng nói của dân
gian. Dân gian thường mượn chuyện con hổ để răn mình và nhắc nhở người.
Người xưa khuyên không nên đi vào chỗ nguy hiểm bằng câu: "Đừng vuốt râu hùm"
hoặc "Chớ thấy hùm ngủ vuốt râu / Đến khi hùm dậy đầu lâu chẳng còn". Người ta chê
thói bất công: "Mèo tha miếng thịt thì gào / hùm tha con lợn thì nào thấy ai", chê thói dựa
dẫm: "Cáo mượn oai hùm", tính keo kiệt: "Ki ca ki cóp cho cọp nó xơi", sự giả dối: "Bán
chó, buôn hùm", mạnh mồm nhưng nhát gan: "Miệng hùm gan sứa", tính chủ quan, nối
giáo cho giặc: "Thả hồ về rừng", cử chỉ xấu: "Mặt nhăn như hổ cù", ca ngợi lòng dũng
cảm, trí thông minh: "Vào hang bắt cọp", "Điệu hổ ly sơn", tinh thần đoàn kết: "Cọp dữ
không chống được sói bầy", sống có tình nghĩa: "Hùm dữ chẳng ăn thịt con", sống có
trước có sau: "Hùm chết để da, người chết để tiếng ", biết ân hận với tội lỗi: "Hùm giết
người hùm ngủ, người giết người thức năm canh", có cả câu thành ngữ ý ngược lại:
"Hùm nằm cho lợn liếm lông".
Ngoài ra một số thành ngữ, tục ngữ gốc Hán - Việt cũng nói về hổ như ca ngợi trí
dũng cảm, thông minh: "Bất nhập hổ huyệt yên đắc hổ tử" (không vào hang hổ làm sao
bắt được hổ con), sự liều lĩnh: "Bạo hổ bằng hà" (tay không đánh hổ, tay không vượt
sông), lòng trắc ẩn, khó lường: "Hoạ hổ họa hình nan họa cốt/Tri nhân tri diện bất tri
tâm" (vẽ con hổ thì dễ, vẽ xương hổ mới khó/nhìn thấy người, nhìn thấy mặt nhưng
không hiểu được lương tâm người ta), thói cơ hội: "Tọa sơn quan hổ đấu" (Ngồi trên núi
xem hổ đánh nhau chờ cơ trục lợi), nối được chí cha ông: "Hổ phụ sinh hổ tử" (hổ bố đẻ
hổ con), tính cách ăn uống của đàn ông và phụ nữ: "Nam thực như hổ, nữ thực như miêu"
(đàn ông ăn khỏe như hổ, phụ nữ ăn yếu như mèo).
b) Trong một số truyền thuyết, truyện cổ:
Hổ được xem như thế lực siêu nhiên, đại diện cho sức mạnh của con người, trợ giúp,
bảo vệ con người.
Tương truyền rằng, vào đời Hùng Vương có một người tên là Hùng An, ở huyện Siêu
Loại, thuộc Kinh Bắc, lấy vợ họ Nguyễn tên là Liễu, dòng dõi thần ở núi làng Yên Vĩ.
Một hôm, vợ chồng vào rừng hương Sơn kiếm củi, người vợ bị mãnh hổ cõng đi mất.
Chồng thương vợ, đi tìm khắp trong rừng mấy ngày liền không thấy. Bỗng nghe tiếng vợ
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
101
vẳng từ xa. Nhìn ra thì không thấy người mà chỉ thấy một con hổ cái nói tiếng người
( người đàn bà ấy đã hóa Hổ), rằng " Nhân duyên của chàng với thiếp chỉ có thế thôi!
Thiếp xin để lại cho chàng một đứa con". Nói rồi Hổ cái biến mất, để lại một cái bọc_ cái
bào thai. Được 14 tháng, bọc tự nức ra như một bông hoa nở. Một đứa con ra đời. Chú bé
có tướng mạo lạ kỳ: mặt vuông tai to được đật tên là Hùng Lang, con của Hùng An, lớ
lên văn võ đều giỏi khác thường. Giặc Ân kéo đến cướp nuớc, gây bao nhiêu tai học cho
dân ta. Hùng Lang sẵn có thang gươm báo mà thần đã trao cho Bố năm xưa, đem quân đi
đánh giặc, đanh đâu thắng đấy. Thắng trận, Hùng Lang về ở làng Yến Vĩ. Sau khi chết
được phong làm phúc thần của làng.
Trong Thoại Khanh Châu Tuấn, vai trò cọp còn lớn lao hơn nữa, xuất hiện giữa rừng
khuya, cọp cõng Thoại Khanh và mẹ chồng sang tận nước Tề để tìm chồng.
Truyền thuyết kể rằng, vua Gia Long trong những ngày sống trong rừng, hết cả lương
thực may mắn có thịt thú rừng do hổ tiếp tế. Biết ơn hổ, vua cho lập miếu thờ và ra lệnh
ai lỡ tay giết hổ bị phạt 30 trượng hoặc bắt sống thì thưởng 30 quan tiền. Vì vậy mà con
hổ còn được gọi là ông ba mươi.
Trong nhiều truyện kể dân gian, cọp đóng vai thần cứu tinh, như trong Tống Trân Cúc
Hoa được truyền tụng trong giới người Kinh lẫn người Thượng phía Bắc : Tống Trân bị
vua đày sang nước Tần mười năm ; vợ là Cúc Hoa chịu đựng nhiều gian truân, có lúc
tuyệt vọng lên núi Tản Viên toan quyên sinh. Sơn Thần thương tình biến thành mãnh hổ,
tình nguyện mang thư Cúc Hoa sang Tần. Tống Trân được thư vội về nước, kịp cứu Cúc
Hoa.
Truyện dân gian có “Ông Nghè hóa cọp” chế giễu những người “chưa đỗ ông Nghè đã
đe hàng tổng”. Giai thoại về bác Ba Phi ở Cà Mau (Nguyễn Long Phi, 1884-1964) còn có
chuyện bắt cọp xay lúa, xử án cọp. Trong truyện cổ tích “Trí khôn ta đây”, con hổ hiền
lành, dại dột, bị người lừa. Giai thoại “Con hổ có nghĩa” đã được đưa vào SGK cho thấy
hổ cũng là con vật có tình nghĩa, biết đền ơn xứng đáng người đã giúp đỡ mình. Tác
phẩm “Bí mật trên đồi Hổ táng” (1985) của nhà văn Bá Dũng cũng nhắc đến truyền
thuyết này. Còn bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ thì đã trở nên quá nổi tiếng.Có lẽ trong
số các bạn ngồi đây không ai là không biết.
c) Trong truyện:
Trong truyện Lục vân Tiên cọp xuất hiện ba lần : một lần cởi trói cho tiểu đồng và
đưa ra đại lộ ; một lần dưới dạng “du thần” đưa Vân Tiên ra khỏi hang Thương Tòng, nơi
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
102
Vân Tiên bị gia đình Thể Loan hãm hại ; lần cuối, cọp bắt hai mẹ con Thể Loan bỏ lại
trong hang Thương Tòng để “quả báo”, nhưng không… ăn thịt.
[ Cọp cứu người trong truyện Lục Vân Tiên ]
Trên cơ bản, cọp vẫn là ác thú ăn thịt người, vì vậy, trong truyện, Trịnh Hâm mới bắt
tiểu đồng trói vào gốc cây :
Trước cho hùm cọp ăn mày
Hại Tiên phải dụng mưu này mới xong
Vân Tiên ngồi những đợi trông
Trịnh Hâm về nói tiểu đồng cọp ăn
Trong truyện Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) đã trình bày cọp dưới hai diện mạo :
khuôn mặt tự nhiên là ác thú, nhưng lại không xuất hiện ; khuôn mặt xuất hiện, cứu tinh,
lại là một nhân vật hư cấu có suy tính khi hành động :
Sơn quân ghé lại một bên
Cắn dây mở trói cõng lên ra
Nhưng đây chỉ là một mặt trong tâm linh người Việt, khi đã chế ngự được thiên nhiên
và ác thú. Những truyện dân gian kể trên có lẽ đã thành hình khá muộn, đồng thời với
Lục vân Tiên, khi người đã bớt sợ cọp và ý thức vai trò của cọp trong việc bảo vệ mùa
màng và gia súc. Đọc Sơn Nam (1926-2008) chúng ta thấy người dân Nam Bộ không
những không sợ, mà có khi còn tỏ ra thân thiện Ông trích dẫn Gia Định thành Nhất
Thống Chí của Trịnh Hoài Đức
“Hồi thế kỷ XVIII, trẻ con, đàn bà cầm liềm cắt cỏ, cầm đòn xóc, cũng chống cự và
đuổi được cọp. Thái độ của người dân đối với cọp cũng lạ : vừa kính nể, coi như vị thần
nhưng cũng coi thường, nếu cần thì rủ nhau đi săn bắt, giết không nương tay”
Phạm Đình Hổ trong Vũ Trung tùy bút qua tục giết người tế thần Hổ, còn nhắc đến
thần Xương Cuồng có ghi vào sử sách như Mộc Tinh trong Lĩnh Nam Chích Quái. Tục tế
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
103
thần Hổ này có từ thời xa xưa trước Tây lịch (trước Công nguyên), khi quân nhà Tần của
Nhâm Ngao và Triệu Đà mới lấn chiếm và đô hộ đất Văn Lang.Cho dù phong tục hy sinh
nhân mạng để tế thần Hổ có là một ví dụ đơn lẻ, thì nỗi sợ cọp, kinh hãi hùm thiêng vẫn
là một tâm trạng có thật, kèm theo tư tưởng mê tín.
Trong “Truyện Kiều” có câu: “Trướng hùm mở giữa trung quân” để chỉ nơi ở của Từ
Hải. Xưa thường dùng da hùm làm thành cái màn lớn để chủ soái họp bàn với các tướng,
nên người sau quen dùng chữ "hổ trướng" để chỉ chỗ làm việc của các tướng soái. Từ Hải
được Nguyễn Du miêu tả “Râu hùm hàm én, mày ngài” để chỉ tướng mạo uy dũng phi
thường của bậc anh hùng. Thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám được mệnh danh là “Hùm thiêng
Yên Thế”. Các võ tướng ngày xưa có phù hiệu, ấn tín khắc hình đầu hổ, gọi là hổ phù.
Các đình chùa, miếu mạo thường chạm khắc hình hổ, thể hiện sự linh thiêng, bất khả xâm
phạm.
Còn bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ thì đã trở nên quá nổi tiếng. “Than ôi, thời oanh
liệt nay còn đâu!” là lời than thở của vị chúa sơm lâm sa cơ, song vẫn khát khao cháy
bỏng những ngày tháng tự do tung hoành.
III. Hình tượng hổ trong văn hóa Hàn Quốc:
1. Hình tượng hổ trong điêu khắc, hội họa:
a) Trong điêu khắc:
Giống như Việt Nam, ở Hàn Quốc hình tượng con hổ xuất hiện trong nghệ thuật dân
gian từ thời xa xưa. Tác phẩm lâu đời nhất còn truyền lại đến ngày nay la Pangutae
Amgagwoa được tạo ra từ cuối thời kì đồ đá mới.
Đây là bức tranh được người Hàn cổ trạm trổ trên các mảnh bia đá, vẽ một con báo
đốm cùng vói mười một con hổ, có thể thấy rõ bên trái của bức họa là con báo đốm, bên
phải của bức họa là hổ vằn. Theo tín ngưỡng của người xưa bức vẽ dường như là một lá
bùa hộ mệnh giúp những người đi săn tránh được tai ương.
[Hình bên trái: Pangutae Amgagwoa, bên phải: chachindo]
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
104
Tiếp sau đó là tác phẩm chachinto ( cuối thời paegje) và chogchang (thời jochon), hổ
trong hai tác phẩm này được khắc nổi trên đá và hiện lên như thần thánh có khả năng
chiir ra 12 phương vị (theo thuyết âm dương ngũ hành và tư tưởng phật giáo).
b) Trong hội họa:
Các nhà nghiên cứu Hàn Quốc đã tìm thấy nội dung về những bức tranh vẽ hổ trong
tư liệu thời koryeo nên có thể khẳng định rằng phần lớn những bức tranh được truyền lại
đến ngày nay được vẽ ra từ sau thời jochon.
Hình thức vẽ tranh rất đa dạng và tư thế của hổ luôn thay đổi linh hoạt, muôn hình
muôn vẻ. Mỗi tranh lại hàm chứa một ý nghĩa riêng, độc đáo.
Bức họa chanchinthaeng lấy gốc cây thong làm bối cảnh. Ở vị trí trung tâm là hình
ảnh của thần núi, đối diện với thần là một chú hổ đang hạ thấp mình, nũng nịu bên thần
như một chú mèo con. Trái với bản tính hung ác vốn có con hổ trong chanchinthaeng
hiện lên trong tư thế hiền lành, dễ thương, muốn sống yên bình dưới sự che chở của thần
núi.
Trong tác phẩm Jakhodo, hổ được vẽ với tính cách thật thà và vui tính, đang tươi cười
với đôi chim khách. Bức tranh mang ý nghĩa may mắn “Tân niên báo hỉ” nên thường
được treo trong nhà vào tháng Giêng âm lịch hàng năm.
Khác với dáng vẻ hiền lành của hổ trong tác phẩm Jakhodo, trong tranh Maenghodo
hổ có đôi mắt sang, mạnh mẽ với thân hình chuyển động uyển chuyển, long rậm, vằn đen
được vẽ rất tinh tế. Bức tranh thường được treo với ý nghĩa xua đuổi tà ma.
Giống như Maenghodo, tranh Pekhodo cũng được dùng để xua đuổi ma quỷ. Bức
tranh thể hiện một chúa sơn lâm oai phong, lẫm liệt với đôi mắt to, trừng trừng giận dữ,
cằm lớn, râu rậm, ngực nở nang cùng với một chân sau khẽ nâng lên làm lộ bộ móng
vuốt sắc nhọn.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
105
[Bức điêu khắc
chogchang được đặt tại
miếu thần kimyo]
[Bức họa chanchinthaeng,
thời hậu jochon, viện bảo tàng
phật giáo Moga]
[Bức họa Jakhodo]
[Bức họa Maenghodo-thế kỉ XIX] [Bức họa Pekhodo-thế kỉ XIX]
Có một điểm đáng chú ý là trong tranh dân gian Hàn Quốc xuất hiện một loạt hình vẽ
bộ ba hổ + thần núi + chim khách như jakhodo, hojakdo, taehojakdo…
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
106
[Bên trái: hojakdo-thế kỉ 18- viện mỹ thuật Hoam, bên phải: taehojakdo- thời hậu
jochon]
Trong tranh thần núi thường hóa thân thành một cây thông xanh tốt, đôi chim khách là
sứ giả giúp thần núi truyền tin đến hổ. Hổ hiện lên không phải như một con vật bình
thường mà được nhấn mạnh là một con vật linh thiêng – vật tổ.
Hình ảnh con hổ trong nghệ thuật tạo hình của người Hàn Quốc thật sinh động, đa
dạng, muôn vẻ. Với những tính cách khác nhau mỗi con hổ lại mang trong mình những ý
nghĩa riêng, độc đáo. Chính vì mang những ý nghĩa đó con hổ từ lâu đã trở thành một
phần không thể thiếu trong tín ngưỡng của người Hàn Quốc.
2. Hình tượng hổ trong phong tục, đời sống:
Với người Hàn Quốc, hổ được coi là linh vật, là thần giám hộ nên hình tượng con hổ
trở nên mật thiết với đời sống tín ngưỡng cũng như những phong tục tập quán của họ.
Chúng ta có thể nhận thấy điều đó qua bộ vật biểu cho năm phương gồm thanh long
(rồng xanh) án ngữ ở phương đông,phương nam có chu tước (chim sẻ đỏ),phương bắc có
huyền vũ (rùa đen), ở trung tâm là phượng hoàng và ở phía tây là bạch hổ.
Lý giải cho hình tượng bạch hổ nhiều nhà nghiên cứu cho rằng:màu trắng là màu
mang lại may mắn cho dân tộc Hàn nên cũng giống như chim ác là màu trắng,hươu trắng,
bạch hổ cũng mang lại những điều tốt lành cho người hàn.Bạch hổ tuy là con vật có thật
nhưng nó lại mang ý nghĩa ước lệ nhiều hơn.Người Hàn quan niệm rằng con hổ sau khi
trải qua nhiều thử thách ,thấu tận vần xoay của vũ trụ sẽ trút bỏ lốt vằn vốn có để trở
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
107
thành bạch hổ không bao giờ hại người.Bởi vậy mà trong tranh thờ hổ, hay ở bùa cũng
đều là hình tượng bạch hổ.Với tinh thần dũng mãnh, hình hổ trên các lá bùa được tin rằng
sẽ mang đến một niềm tin an lành ,hạnh phúc về tâm linh.
Cách đây hơn một trăm năm người Hàn cũng có một tục lệ khá đặc biệt liên quan đến
con hổ. Đó là tục phủ tấm da hổ hay chăn hình con hổ lên kiệu hoa của cô dâu với mong
muốn tránh những điều không may mắn cho cô dâu trên đường về nhà chồng.Còn chú rể
lại phải luôn giữ bên mình móng vốt của hổ.Móng vuốt hay da của hổ cũng được treo ở
trước cổng nhà để làm bùa và được treo ở doanh trại quân đội với dụng ý biểu dương sức
mạnh.
Hay trong tục cầu mưa cổ xưa người Hàn cũng sử dụng đầu hổ. Ngày 23 tháng 5 năm
1449 năm thứ 31 thời Sejong trong lễ cầu mưa được diễn ra ở lầu Khánh Hội, người ta
ném đầu hổ xuống sông- nơi được coi là chốn ngự trị của rồng.Ngưòi xưa quan niệm chỉ
co hổ mới có thể trị được Long Thần và lúc hai con giao chiến dữ dội chính là lúc mưa
được tạo ra.
3. Hình tượng hổ trong văn học:
Trong văn học Hàn Quốc con hổ ít xuất hiện trong thơ hay văn học hiện đại mà
thường có trong truyền thuyết hoặc truyện cổ tích.
Cứ liệu lịch sử lâu đời nhất liên quan đến hổ là thần thoại về Dangun, người sáng lập
Vương quốc Joseon cổ (nay là bán đảo Hàn Quốc). Thần thoại về Dangun được lưu trong
“Tam Quốc di sự”, tuyển tập thần thoại, truyền thuyết về ba vương quốc Goguryeo,
Shilla và Baekje, được biên soạn vào thế kỷ 13. Truyện kể rằng cả gấu và hổ đều muốn
trở thành người. Gấu, sau khi “cố thủ” 100 ngày trong hang, chỉ ăn cải cúc và tỏi như lời
răn dạy, đã được biến thành một người con gái. Còn hổ, vì không kham nổi thử thách, đã
vùng chạy ra ngoài, bỏ dở ước nguyện thành người của mình.
Chưa hết, cuốn “Thực lục vương triều Joseon” (biên niên sử từ thời Thái tổ Lee
Seong-gye năm 1392 đến thời vua Thuận Tông năm 1910) còn lưu tới 635 điển tích về
loài vật linh thiêng này.
Hình tượng con hổ mang hơi hướng thần thoại dường như vẫn phảng phất trong cuộc
sống con người thời hiện đại.
Trong truyện cổ tích “người vợ hổ”, hổ hiện thân là cô gái xinh đẹp và đã hẹn thề
cùng kết duyên vợ chồng với anh chàng thư sinh nghèo khổ. Nhưng do tội ác mà loài hổ
gây ra nên cô đã chấp nhận chết thay cho các anh trai mình. Trước khi chết, hổ không tiếc
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
108
thân mình đã lấy ruột của mình để chàng trai có được hiển vinh sau này. Câu chuyện này
đã phần nào bộc lộ rõ mối quan hệ giữa loài hổ và dân tộc Hàn. Hổ vừa là kẻ thù ( gây
nhiều tội ác), đồng thời cũng gắn bó với con người ( nhân cách hoá hình ảnh con hổ)
IV. Những nét giống và khác nhau về hình tượng hổ trong văn hóa Việt Nam và
Hàn Quốc:
1. Nét giống nhau:
a) Trong hội họa, điêu khắc:
Có thể nói, hình tượng con hổ trong hội họa Việt Nam và Hàn Quốc rất đa dạng,
phong phú. Như chúng ta đã tìm hiểu ở trên, từ tranh, ảnh cho đến điêu khắc, hình tượng
con hổ luôn được thể hiện vẻ quyền uy, dữ tợn nhưng cũng có lúc rất hài hước, đáng yêu.
Nếu như Việt Nam có tranh hổ Hàng Trống thì bên Hàn Quốc có tranh Minhwa. Hai
dòng tranh này đều thể hiện hình tượng hổ đầy sống động với những đường nét uốn lượn
tinh tế, những đường cong mềm mại, uyển chuyển, màu sắc lam, hồng, lục, vàng… tự
nhiên, nhẹ nhàng mà bắt mắt. Màu sắc và bố cục tranh ở đây tỷ lệ không theo đúng công
thức chuẩn mà chỉ để thuận mắt và ưa nhìn.
Trong điêu khắc, tượng hổ đều được làm từ chất liệu đá hay đẩt nung. Những bức
tượng chạm khắc hổ này được gán ghép với đời sống của người lao động bình dân nên
hình tượng hổ đa dạng, phong phú về đề tài. Nhiều bức chạm cho thấy hổ đã được con
người thuần hóa từ xưa. Do hổ có dáng vẻ uy nghiêm, oai hùng, thể hiện sự dũng mãnh,
diệt trừ cái ác, cái xấu xa và đặc biệt là biểu tượng của chiến thắng nên tượng hổ thường
được đặt ở trước lăng mộ, chính điện, chốn yên nghỉ của các vị vua, quan…
b) Trong phong tục, đời sống:
Trong văn hóa Việt Nam cũng như Hàn Quốc, hổ tượng trưng cho quyền uy, sức
mạnh oai phong lẫm liệt và nhiều phẩm chất cao quý, đẹp đẽ của con người. Trong lịch
sử, hổ vừa được dân gian tôn làm “thần giám hộ”, vừa là biểu tượng của uy dũng và
quyền lực. Hổ giúp con người tránh được vận hạn và đem đến cho họ nhiều phúc lộc.
Người ta còn coi hổ là giống vật thiêng biểu tượng cho điềm lành. Người Việt Nam và
Hàn Quốc từ xa xưa đã tạc tượng hổ đặt trước lăng mộ vua chúa bởi người ta tin rằng hổ
có thể bảo vệ được linh hồn họ. Hay vào tháng Giêng âm lịch, ta vẫn thường thấy mọi
người treo tranh hổ trong nhà để tránh điềm họa, cầu một năm mới may mắn, tốt lành.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
109
Ngoài treo tranh hổ, tạc tượng hổ, người Hàn và Việt đều có tục thờ hổ. Đặc biệt là
trong giới Phật giáo, họ treo những bức tranh hổ trong điện thờ và thường xuyên tiến
hành các buổi tế lễ.
Ngoài ra trong dân gian còn hay sử dụng bùa in hình hổ. Từ bao đời nay, bùa chú
thuộc quyền sở hữu của các pháp sư, các thầy cúng và cả thiền sư nữa. Không ai có ý
định giải thích, coi như đó là lĩnh vực không thể hiểu, là cánh cửa luôn luôn đóng giữa
thế giới hiện thực và thế giới vô hình. Những người " có quyền năng sử dụng chúng ",
nhìn chung cũng chỉ hiểu chức năng của từng loại, chứ không thể hiểu hẳn ý nghĩa của
từng loại, mặc dù họ hoàn toàn có thể nhập tâm vẽ ra từng lá bùa. Bùa chú nghĩa là hình
ảnh có tính ma thuật và các câu thần chú. Sự lồng ghép giữa hình ảnh có tính ma thuật và
thần chú càng khiến cho lá bùa có tính chất mê hoặc, buộc người ta phải chấp nhận hơn là
thắc mắc. Dân gian thường mang bùa hình hổ theo bên mình bởi đây là con vật biểu
trưng của tinh thần dũng mãnh tạo cho người ta niềm tin ‘tâm linh’ về sự an lành, được
bảo vệ khỏi mọi điềm gở trong đời sống.
[ Bùa Trấn trạch - Việt Nam ]
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
110
[ Bùa Bình an – Hàn Quốc ]
c) Trong văn học:
Trong văn học Việt Nam và Hàn Quốc, hình tượng hổ xuất hiện nhiều trong truyện
thiếu nhi như truyện cổ tích. Hình tượng con hổ trong các câu chuyện này hiện lên với
“tính cách” hiền lành, tốt bụng, trung thành, có tình cảm sâu nặng với con người. Các
“tính cách” này có vẻ đối lập với thực tế ngoài đời, tuy nhiên hình ảnh hổ trong truyện cổ
tích vẫn không mất đi vẻ oai phong, hùng tráng, nó vẫn khiến kẻ khác phải sợ hãi, khiếp
sợ. Như truyện “Kim Hyeon và cô gái hổ” của Hàn Quốc và truyện cổ tích “Nghĩa hổ”
của Việt Nam.
Truyện “Kim hyeon và cô gái hổ” kể về một cô gái đội lốt hổ hiền lành, tốt bụng, lại
hiếu thảo, sẵn sàng nhận tội thay các anh mặc dù cô không hề hại người.Cô còn giúp
người mình yêu có được vàng bạc và chức danh.
Truyện “Nghĩa hổ” kể về một con hổ trung thành, hết mực yêu quí chủ mình, lại luôn
lo lắng, quan tâm đến chủ. Khi chủ vắng nhà nó còn thay chủ chăm sóc gia đình, kiếm cái
ăn cho cả nhà. Khi chủ mất, nó biếng ăn biếng uống và đập đầu tự tử để được đi theo chủ.
Trong truyện cổ tích Việt Nam và Hàn Quốc, hình ảnh hổ được xây dựng với ý nghĩa
khuyên răn và đưa ra các bài học ý nghĩa trong cuộc sống là chính. Do đó hổ mang theo
những “tính cách” tốt đẹp của con người.
Chỉ bằng một vài nét khắc họa, chúng ta đã thấy được những điểm tương đồng về
hình tượng hổ trong văn hóa Việt Nam và Hàn Quốc. Dù nói gì đi chăng nữa thì con hổ
luôn là biểu tượng của quyền uy, sức mạnh, biểu tượng của sự dũng mãnh, hào hùng. Nó
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
111
bảo vệ con người trước các thế lực xấu xa, đe dọa các loài vật hung ác khác. Nó còn
mang ý nghĩa cầu chúc một năm mới đầy may mắn, tốt lành.
2. Nét khác nhau:
a) Trong hội họa, điêu khắc:
Trong nghệ thuật điêu khắc và hội họa, hình tượng hổ đều toát lên vẻ oai phong, lẫm
liệt của vị Chúa sơn lâm. Thế nhưng, khi nhìn các bức tranh hay tượng của Việt Nam, ta
chỉ thấy dáng vẻ dữ dằn, khiếp sợ của hổ, còn khi nhìn các tác phẩm mĩ thuật của Hàn
Quốc, ta lại dễ dàng bắt gặp hình ảnh những chú hổ gần gũi hơn, có khi quấn quýt bên
thần núi, đôi lúc lại cười thân thiện với đôi chim khách.
[ Tranh Minhwa Hàn Quốc ][ Tranh hổ dân gian Việt Nam ]
b) Trong phong tục, đời sống:
Nếu như người châu Âu cho rằng Sư tử là vua của muôn loài cầm thú, thì người châu
Á, Hổ là chúa tể của rừng xanh. Đối với người Việt cũng như người Hàn, Hổ là hình
tượng gần gũi trong tín ngưỡng và được coi là biểu tượng của sức mạnh. Tuy nhiên trong
quan niệm của mỗi dân tộc chúng ta lại tìm thấy những điểm khác biệt. Người Hàn Quốc
quan niệm rằng con hổ sau khi trải qua nhiều thử thách ,thấu tận vần xoay của vũ trụ sẽ
trút bỏ lốt vằn vốn có để trở thành bạch hổ không bao giờ hại người. Vì vậy mà Bạch Hổ
trở thành linh vật và luôn đem lại may mắn, hạnh phúc.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
112
[ Tranh Bạch hổ ] Tranh thờ Hắc hổ
Nhưng hình tượng Hổ trong tín ngưỡng của người Việt rất phong phú. Có khi chúng
ta bắt gặp những bức tranh tranh thờ Hắc hổ để trừ tà ma như thơ xưa đã ghi:
Trong nhà Hắc hổ trấn phù,
Sinh con sinh cái cho nuôi dễ dàng
(Truyện thơ Trinh Thử)
rồi lại có tượng khắc Bạch Hổ trong các ngôi chùa, đình linh thiêng. Đôi lúc lại là
tranh thờ ngũ hổ thần tướng:
[ Tranh Ngũ hổ ]
Và với người Việt từ lâu chúa sơn lâm đã được coi là biểu tượng của sức mạnh phi
thường, chống lại yêu ma, ác quái bảo vệ cuộc sống bình yên cho con người.
c) Trong văn học:
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
113
Trong văn học của người Việt Nam cũng như người Hàn Quốc, hình tượng con hổ đều
xuất hiện với sức mạnh của một vị chúa sơn lâm. Tuy nhiên cách thức và ý nghĩa của
hình tượng con Hổ khi đi vào trong văn học của mỗi nước có những nét khác nhau.
Nếu người Việt Nam bắt gặp hình ảnh của vị chúa tể rừng xanh rất nhiều trong ca dao
tục ngữ. Dân gian đã mượn những đặc tính của Hổ để so sánh với con người Có khi là
những lời khuyên răn: “ Đừng vuốt râu hùm”, đôi lúc là sự mỉa mai châm biếm: “ Cáo
mượn oai hùm” và đâu đó câu ca ngợi: “ Điệu hổ ly sơn”…Hay trong thế giới của những
câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết con người biến thành hổ để giúp dân trị ác.
Nhưng người Hàn Quốc đưa hình ảnh của chúa Sơn lâm vào trong các câu chuyện cổ
tích, thần thoại nhiều hơn. Người Việt tìm về cuội nguồn với truyền thuyết con Rồng
cháu Lạc, người Hàn Quốc lại tìm về với thần thoại Dangun.Ở đó cũng có hình tượng Hổ
xuất hiện. Và trong các các chuyện cổ tích để thể hiện mong ước mối quan hệ gắn bó với
con người, hổ được nhân cách hóa, hiện thân thành con người .
V. Kết luận:
Những điều trên có thể vẫn còn thiếu sót nhưng cũng đã phần nào chứng tỏ vị trí
quan trọng của loài vật linh thiêng này trong đời sống hai dân tộc Việt – Hàn. Điều thú vị
là cùng với thời gian, sự phát triển của đời sống và tôn giáo, con hổ đã trở thành một linh
thú mang rất nhiều nét tính cách của xã hội Nam, Bắc Á. Từ hội hoạ, điêu khắc, đến văn
thơ, rồi đời sống tâm linh… ta có thể thấy rằng, con người và loài hổ nói riêng và các loài
vật nói chung đã đang và sẽ tạo nên nét văn hóa vô cùng đặc sắc và đa dạng.
VI. Tài liệu tham khảo:
1. www.gahoemuseum.org/kongji/view.php?id=93&page=1&keyfield=&key=&total
=37&num=32
2. www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/lofiversion/index.php/t4015.html
3. www.baoangiang.com.vn/newsdetails.aspx?id=184&newsid=10917
4. vi.wikipedia.org/wiki/Tranh_Hàng_Trống
5. thethaovanhoa.vn/133N2010021005077999T133/nhung-con-ho-tren-mat-trong-
dong-dong-son.htm
222.255.28.205:81/Channel.aspx?rc=tapchivh&c=xuan2010&a=1792
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
114
HALLYU
VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ĐIỆN ẢNH HÀN QUỐC.Giáo viên hướng dẫn : Nguyễn Nam Chi
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Thanh Tâm 3H09
Hoàng Quỳnh Hương 3H09
Nguyễn Thị Phương Thanh 3H09
Phần I:Đặt vấn đề
Năm 1992, khi Việt Nam và Hàn Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, khán
giả Việt Nam bắt đầu có cơ hội thưởng thức những bộ phim truyền hình Hàn Quốc.
Những bộ phim đầu tiên được phát sóng như: “Hoa cúc vàng” (금잔화), “Cảm xúc”
(느낌), “Anh em nhà bác sĩ” (의가형제), “Người mẫu” (모델),…đã tạo nên cơn sốt
phim Hàn Quốc chỉ trong một thời gian ngắn nhờ nội dung nhẹ nhàng, lãng mạn, phù hợp
với văn hóa cũng như “khẩu vị” của khán giả Việt Nam. Bên cạnh đó, dàn diễn viên trẻ
đẹp với phong cách thời trang hấp dẫn, bối cảnh phim lãng mạn,... cũng góp phần tạo nên
sức thu hút lớn cho các bộ phim. Giới trẻ say mê, đua nhau bắt chước cách ăn mặc, cách
trang điểm, …của các diễn viên Hàn Quốc trong phim. Họ ngân nga theo các giai điệu
nhạc phim, mơ ước một lần được đặt chân đến những miền đất tươi đẹp đã xuất hiện
trong phim, được ăn thử các món ăn Hàn Quốc... Đặc biệt các bà, các cô, các chị cũng
say mê theo dõi từng bộ phim, thích thú, bàn luận say sưa về nội dung phim. Các sản
phẩm, hàng hóa có xuất xứ Hàn Quốc như mĩ phẩm, thời trang, thực phẩm, đồ điện tử, đồ
điện gia dụng,...cũng rất được ưa chuộng. Khán giả Việt Nam dần có ấn tượng về một đất
nước Hàn Quốc năng động, hiện đại với những nét văn hóa Á Đông khá vừa gần gũi vừa
lạ lẫm thông qua những bộ phim được trình chiếu trên màn ảnh nhỏ.
Tuy nhiên, trong thời gian trở lại đây bên cạnh phim truyền hình, phim điện ảnh
Hàn Quốc cũng rất phát triển, gây được sự chú ý đối với khán giả Việt Nam. Dù không
tạo được trào lưu mạnh mẽ, không tiếp cận gần gũi với khán giả bằng phim truyền hình
nhưng tính nghệ thuật và chuyên nghiệp của phim điện ảnh Hàn Quốc đã chiếm được
tình cảm của công chúng. Qua phim điện ảnh, những khía cạnh đa dạng trong xã hội Hàn
Quốc cũng đã lần lượt được phản ánh dưới góc nhìn nghệ thuật. Đó có thể là nỗi đau
chiến tranh Nam – Bắc Hàn, là tình yêu đồng tính, là những vấn đề bất cập trong xã hội
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
115
thường ít được đề cập trong các phim truyền hình. Thể loại tình cảm, hài lãng mạn – đề
tài thường gặp trong phim truyền hình, cũng được chú trọng và trở thành thể loại thế
mạnh của điện ảnh. Bên cạnh đó, cách thức dàn dựng phim công phu, chuyên nghiệp, sử
dụng những kĩ xảo ấn tượng và quá trình quảng bá phim rầm rộ cũng góp phần làm nên
thành công cho điện ảnh Hàn Quốc. Có thể nói, điện ảnh Hàn Quốc đã lớn lên, trưởng
thành trong gian khổ, có những nét đặc sắc riêng mà phim truyền hình không thể có,
được đánh giá cao và gặt hái được những thành công rực rỡ trên trường quốc tế. Nếu
phim truyền hình đã “mở đường” cho văn hóa Hàn Quốc du nhập vào Việt Nam, thì điện
ảnh lại góp phần nâng tầm cho văn hóa ấy. Những phim điện ảnh Hàn Quốc được trình
chiếu ở Việt Nam thời gian gần đây như “Quái vật sông Hàn” (괴물), “Cô nàng ngổ
ngáo” (엽기적인 그녀), “Sắc đẹp ngàn cân” (미녀는 괴로워), “Vợ tôi là gangster”
(조폭마누라), “Sóng thần ở Haeundae” (해운대),...đều có sức cạnh tranh mạnh mẽ với
phim Hollywood, phim Trung Quốc... và làm mưa làm gió tại các rạp chiếu phim trong
và ngoài Hàn Quốc.
Tất cả những kết quả đó đã góp phần tạo nên Hallyu (làn sóng Hàn Quốc) – một dấu
ấn của văn hóa Hàn Quốc thời kì hội nhập và phát triển. Thuật ngữ Hallyu còn bao gồm
một số lĩnh vực khác như: âm nhạc, thời trang, ẩm thực, du lịch...Hallyu đã giúp thương
hiệu “Hàn Quốc” nổi tiếng khắp thế giới, từ đó gián tiếp góp phần thúc đẩy nền kinh tế
Hàn Quốc phát triển mạnh mẽ. Vậy Hallyu thực chất là gì? Sức ảnh hưởng của nó như
thế nào, tại sao nó lại có được sức mạnh lớn đến như vậy? Và điện ảnh đã có đóng góp gì
đối với thành công của Hallyu? Những câu hỏi đó thật khó đối với những sinh viên năm
thứ nhất như chúng tôi. Nhưng bằng chính tình yêu với điện ảnh Hàn Quốc, với đất nước
xinh đẹp này đã thôi thúc chúng tôi đi tìm lời giải đáp cho những câu hỏi ấy. Chính vì thế
chúng tôi đã quyết định chọn đề tài cho bài báo cáo khoa học là điện ảnh thời Hallyu.
Chúng tôi mong rằng bài báo cáo khoa học này không những giúp giải đáp thắc mắc của
chính bản thân mà còn giúp tăng cường thêm những kiến thức bổ ích về điện ảnh nói
chung và nền điện ảnh Hàn Quốc nói riêng – mối quan tâm của chúng tôi nói tiêng cũng
như của nhiều bạn trẻ nói chung.
Bài báo cáo không chỉ trả lời các câu hỏi đặt ra ở trên mà còn tập trung tìm hiểu về
điện ảnh Hàn Quốc qua một số giai đoạn phát triển, những đề tài trong điện ảnh Hàn
Quốc và giới thiệu sơ qua một vài bộ phim tiêu biểu để người đọc có được những hiểu
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
116
biết sâu hơn về nền điện ảnh Hàn Quốc – vốn ít được biết đến hơn so với các bộ phim
truyền hình. Trên cơ sở đó, chúng tôi muốn đưa ra một vài nhận xét cá nhân về những thế
mạnh cũng như những mặt hạn chế của điện ảnh Hàn Quốc, đồng thời tìm ra một số bài
học kinh nghiệm cho nền điện ảnh nước nhà.
Phần II: Giải quyết vấn đề
CHƯƠNG 1: Tìm hiểu chung về khái niệm Hallyu (한류_ KOREAN WAVE)
Năm 1997, phim truyền hình Hàn Quốc lần đầu tiên được trình chiếu tại Trung Quốc.
Giống như ở Việt Nam, phim ảnh cũng như âm nhạc, thời trang,…Hàn Quốc đã gây nên
một cơn sốt mạnh mẽ trong xã hội Trung Quốc, cuốn khán giả Trung Quốc vào “trào lưu
chuộng Hàn Quốc”. Họ hâm mộ các diễn viên, ca sĩ Hàn Quốc; thích dùng đồ Hàn Quốc;
bắt chước các kiểu trang phục, trang điểm theo phong cách Hàn Quốc, hứng thú với văn
hóa truyền thống Hàn Quốc,...Trước sức ảnh hưởng mạnh mẽ ấy, các nhà báo, nhà nghiên
cứu văn hóa Trung Quốc đã quan tâm tìm hiểu và gọi tên trào lưu xuất hiện từ cuối
những năm 1990 này bằng một thuật ngữ là Hàn Lưu, hay trong tiếng Hàn Quốc là
Hallyu (Hangeul: 한류, Hanja: 韓流, English: Korean Wave). Nếu hiểu theo nghĩa đen,
Hallyu có nghĩa là “Làn sóng Hàn Quốc”. “Làn sóng”có lẽ là hình ảnh phản ánh chính
xác nhất tầm ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa Hàn Quốc đến các quốc gia, khu vực
khác: Đi đến đâu cuốn trôi đến đấy. Không chỉ gói gọn trong phim ảnh hay âm nhạc, khái
niệm Hallyu còn dần mở rộng trong rất nhiều lĩnh vực văn hóa, giải trí khác, ví dụ như
thời trang, du lịch, thể thao, ẩm thực, sản phẩm công nghệ cao, trò chơi điện tử... Làn
sóng này đã tấn công trước tiên vào khu vực châu Á, nơi người dân có thể tiếp nhận
những sản phẩm văn hóa Hàn Quốc dễ dàng hơn do có những nét tương đồng về lịch sử,
nhận thức, quan niệm văn hoá.
Không chỉ vậy, Hallyu đang dần lan toả tầm ảnh hưởng sang các châu lục khác.
Phim truyền hình “Nàng Dae Jang Geum” (대장금) không chỉ gây nên sốt trên toàn châu
Á mà còn rất thành công tại các nước châu Phi cũng như châu Âu. Một bộ phim truyền
hình khác là "Nấc thang lên thiên đường" (천국의계단) cũng đã thu được thắng lợi lớn
tại Hawaii khi được trình chiếu tại đây. Nền âm nhạc trẻ của Hàn Quốc cũng gây được sự
chú ý tại Mĩ và các nước châu Âu. Điển hình là ca sĩ Bi Rain được tạp chí “Time” danh
tiếng bình chọn là một trong 100 nghệ sĩ có ảnh hưởng nhất thế giới trong năm 2006.
Nhóm nhạc thần tượng DBSG được ghi vào sách kỉ lục Guinness vì có số lượng fan đông
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
117
nhất thế giới. Được biết Ai Cập của Châu Phi và Uzbekistan của Trung Á sẽ là những địa
điểm mới nhất mà Hallyu dậy sóng.
Tuy nhiên, không phải ngẫu nhiên mà trào lưu này lại được phổ biến rộng rãi đến
như vậy. Hallyu thành công được như hiện nay trước hết là do sự đầu tư sáng suốt của
Chính phủ Hàn Quốc dành cho lĩnh vực văn hóa – giải trí. Từ năm 1971, để truyền bá và
nâng cao hình ảnh Hàn Quốc ở các nước khác, chính phủ đã thành lập “Viện Thông tin
hải ngoại”. “Mấy chục năm trước, các nước xâm lược bằng kinh tế, quân sự nhưng ngày
nay, cạnh tranh bằng văn hoá mới là quan trọng” - ngài viện trưởng Viện Thông tin hải
ngoại đã phát biểu như vậy trên báo “Lao Động Việt Nam” năm 2007. Bên cạnh đó, còn
là cả một quá trình chọn lọc, đầu tư, chăm chút cho hình ảnh Hàn Quốc trước khi đem
quảng bá đến các nước ban. Ví dụ như trong phim truyền hình, nhà sản xuất đầu tư kĩ
lưỡng về nội dung, hình thức để các tác phẩm có thể đến được với mọi đối tượng và phù
hợp với thị hiếu của khán giả.
Nhưng trong thời gian gần đây, Hallyu cũng đã bắt đầu có dấu ấn thoái trào. Đó là sự
thiếu sáng tạo về mặt ý tưởng, đi theo những lối mòn, quá chú trọng về hình thức, số
lượng, chiều theo thị hiếu của số đông khán giả mà làm suy giảm chất lượng các tác
phẩm nghệ thuật,…Nếu không kịp thời sửa đổi thì có lẽ cơn sóng Hallyu sẽ không còn
tồn tại được lâu nữa. Tuy nhiên chúng ta vẫn không thể phủ nhận những thành quả lớn
lao mà Hallyu đã đạt được trong thời gian qua. Hallyu đã tạo được một dấu ấn riêng
quảng bá thương hiệu Hàn Quốc năng động hiệu quả, trở thành hình mẫu cho các quốc
gia khác trong khu vực học tập và noi theo. Và Việt Nam hoàn toàn có thể làm nên một
trào lưu của riêng mình, dựa trên những kinh nghiệm học tập được từ Hàn Quốc, đồng
thời vẫn có thể giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Đó là điều mà không chỉ những nhà làm
phim Việt Nam mong muốn mà đó cũng là mong muốn chung của toàn bộ đất nước Việt
Nam.
CHƯƠNG 2. Điện ảnh Hàn Quốc trước thời kỳ đổi mới (từ trước→1980)
Lịch sử điện ảnh Hàn Quốc trước kỳ thời đổi mới thể hiện qua các giai đoạn:
Thời
gianBối cảnh lịch sử Sự phát triển của điện ảnh
Trướ- Năm 1910 Nhật Bản
- Các hãng phim của Triều Tiên chủ yếu do
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
118
c- 1926 người Nhật điều hành. Phần lớn các bộ phim
trình chiếu được nhập từ châu Âu hoặc Mỹ.
- Điện ảnh nôi địa Triều Tiên gắn với ông chủ
của rạp “Dansung-sa” Park Sung-pil, người đã bỏ
tiền thực hiện phim Triều Tiên đầu tiên. Bộ phim
đó có lẽ là một chuyển thể của Xuân Hương
truyện (춘향전) được thực hiện vào năm 1921.
→ Điện ảnh chưa có nhiều khởi sắc.
1926
-1930
hoàn toàn thôn tính Triều
Tiên bằng “Hiệp ước sáp
nhập Nhật Bản - Triều Tiên”.
Dù vị Hoàng đế Triều Tiên
không ký kết vào văn bản này
nhưng trên thực tế Nhật vẫn
xâm lược và thôn tính Triều
Tiên.
1 thương gia người Nhật tên là Orajo Yodo đã
thành lập hãng phim Choson Kinema
Productions_hãng phim tiên phong của Hàn
Quốc thời kì này. Chính hãng phim này đã làm
phim “Arirang”(아리랑_1926)_bộphim đánh dấu
kỉ nguyên vàng của các bộ phim câm Triều Tiên.
Từ sau Arirang mà có tới 70 phim câm khác ra
đời.
→ Thời kỳ này được gọi là “Kỷ nguyên phim
câm”
1930
-1945
- Sự kiểm duyệt và đàn áp
ngày một ngặt nghèo của
Nhật khiến phim câm không
còn chỗ đứng.
- 1942, sau khi Thế chiến
thứ hai bùng nổ, việc sử dụng
tiếng Triều Tiên bị cấm tuyệt
đối trong điện ảnh.
- Số lượng phim ra đời trong thời gian này
giảm xuống còn 2 hay 3 phim/1 năm.
→ Nhiều tài năng của Triều Tiên rời sang làm
việc tại Thượng Hải_trung tâm điện ảnh của châu
Á thời đó.
- Bộ phim có tiếng đầu tiên của điện ảnh
Triều Tiên được sản xuất năm 1935, là một
chuyển thể khác của Xuân Hương truyện do Lee
Myeong Woo đạo diễn.
- Từ 1938, toàn bộ các phim sản xuất tại Triều
Tiên đều do người Nhật thực hiện.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
119
1945
-1955
- Sự đầu hàng vô điều
kiện của Nhật Bản.
- Sự sụp đổ của Đức- Phát
xít
→ sự phân chia Triều
Tiên thành hai vùng chiếm
đóng bắt đầu từ ngày 8 tháng
9 năm 1945.
+Hoa Kỳ chiếm phần
phía nam bán đảo (Hàn
Quốc).
+Liên Bang Xô viết
chiếm phía bắc vĩ tuyến
38(Triều Tiên).
- Chiến tranh Triều Tiên
bùng nổ(1950-1953).
- Công nghiệp điện ảnh Hàn Quốc phát triển
khá chậm chạp do chịu ảnh hưởng nặng nề của
chiến tranh, từ năm 1950 đến năm 1953 mỗi năm
chỉ có chừng 5 hoặc 6 bộ phim được sản xuất.
- Những bộ phim được lưu trữ thời gian trước
đó cũng lại bị chiến tranh phá hủy nhiều.
→ Đây là thời kỳ khá ảm đạm của điện ảnh
Triều Tiên.
1955
-1962
- Sau khi hiệp định đình
chiến được kí kết năm 1953,
tổng thống đầu tiên của Hàn
QuốcLeeSungMan(이승만)lê
n nhận chức và đã góp phần
khôi phục nền điện ảnh nước
này bằng việc miễn thuế cho
mọi bộ phim sản xuất trong
nước.
- Quá trình hồi phục và phát triển được đánh
dấu bằng một chuyển thể khác của Xuân Hương
truyện do Lee Kyu-hwan đạo diễn(이규환
감독_ 1955).
Bộ phim trong vòng 2 tháng nó đã thu hút
10% dân số Seoul đến xem (trên 200.000 người).
-1956 bộ phim Sijibganeun nal (시집가는날)
của Lee Byeong-il đã đem về cho Hàn quốc
những giải thưởng quốc tế đầu tiên
- 1959 sản lượng phim của nền điện ảnh Hàn
Quốc đã tăng gấp hơn 20 lần sản lượng trung
bình 10 năm trước đó.
-1961,“Hanyeo”(하녀)và“Obaltan”(오발탄)
ra đời và được đánh giá là 2 trong số những bộ
phim hay nhất trong lịch sử điện ảnh Hàn Quốc.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
120
→ Đây có thể coi là thời hoàng kim trong lịch
sử điện ảnh Hàn Quốc.
1962
-1979
- 1962,Bak Jeonghui lên
nắm chính quyền.
- Theo Luật điện ảnh năm
1963, một loạt các biện pháp
kiểm duyệt khắc nghiệt được
áp dụng đối với số lượng và
nội dung các phim sản xuất
trong nước.
- Điện ảnh cũng phải chịu sự cạnh tranh quyết
liệt với một loại hình giải trí mới_truyền hình.
- Năm 1979, lượng khán giả đến rạp phim
giảm chỉ còn 1/3 so với 10 năm trước đó (65 triệu
lượt người xem năm 1979 so với 173 triệu lượt
người xem năm 1969).
(Bảng được tổng kết từ “ Điện ảnh Triều Tiên” - http://www.wikipedia.org)
Qua một số giai đoạn điện ảnh Hàn Quốc nêu trên, chúng ta có thể thấy rõ sự phát
triển không đồng đều ở các giai đoạn, phát triển rồi sau đó lại gián đoạn. Các thành tựu
đạt được cũng chưa có gì đáng kể. Điện ảnh Hàn Quốc dường như vẫn còn rất xa lạ với
Thế giới. Một lí do lớn đã khiến nền điện ảnh này chưa thể phát triển mạnh mẽ chính là
chiến tranh. Nhưng đây mới là những bước khởi đầu và khởi đầu bao giờ cũng khó khăn.
Điện ảnh Hàn Quốc hứa hẹn còn nhiều đổi mới trong thời gian tiếp theo.
CHƯƠNG 3. Điện ảnh Hàn Quốc thời kỳ đổi mới (1980→ NAY)
A. Định nghĩa điện ảnh thời đổi mới
Để hiểu được những bước phát triển tiếp theo của điện ảnh Hàn Quốc thì đầu tiên ta
phải hiểu thế nào là điện ảnh thời đổi mới. Điện ảnh thời đổi mới đúng như tên gọi là thời
kỳ điện ảnh bắt đầu những bước chuyển mình lớn lao, đổi mới trên nhiều phương diện.
Đầu tiên là sự đổi mới về đề tài. Các đề tài trong phim đa dạng, phong phú hơn. Sau đó là
sự đổi mới về cách thức làm phim với nhiều kĩ xảo, kĩ thuật quay tiên tiến, hiện đại hơn.
Phim thời kì đổi mới được quảng bá một cách chuyên nghiệp hơn. Góp mặt vào bộ phim
không chỉ có những diễn viên chuyên nghiệp mà có cả những diễn viên nghiệp dư đến từ
các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau…
Còn rất nhiều sự đổi mới trong nền điện ảnh Hàn Quốc nữa để nó có được bước
nhảy vọt kì diệu khiến cả thế giới phải ngưỡng mộ như ngày hôm nay. Bây giờ chúng ta
hãy cùng đi vào chi tiết từng thời kì, giai đoạn để thấy rõ sự đổi mới trong đó.
B. Điện ảnh Hàn Quốc giai đoạn 1980-1999
I. Bối cảnh lịch sử
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
121
Sau những biến động liên tiếp đầu những năm 1980 gồm vụ ám sát Tổng thống Bak
Jeong Hui, cuộc Đảo chính ngày 12 /12 và vụ thảm sát Gwangju, Hàn Quốc bắt đầu quá
trình dân chủ hóa đời sống chính trị và xã hội, trong đó có nền công nghiệp điện ảnh.
Năm 1988, có hai biến cố lớn ảnh hưởng đến điện ảnh Hàn Quốc:
Tổng thống Roh Tae Woo ban hành hiến pháp mới cho phép bãi bỏ luật kiểm
duyệt chính trị cho điện ảnh.Điều này giúp các đạo diễn bắt đầu có cơ hội khai thác
những đề tài gai góc trong xã hội và gần gũi với cuộc sống hơn.
Quyết định ngừng áp dụng hạn chế nhập phim nước ngoài. Điều này dẫn tới
sự cạnh tranh gay gắt giữa phim nội địa và phim Hollywood, phim Hồng Kông vốn
đang thống trị nền điện ảnh khu vực thời bấy giờ.
Ngoài ra, Thế Vận hội mùa hè 1988 tổ chức tại Seoul là bước ngoặt trong thời kỳ bắt
đầu hội nhập, thúc đẩy Hàn Quốc mở cửa. Khi đó, người ta dễ dàng đi học và du lịch
nước ngoài hơn. Các nghiên cứu sinh bắt đầu trở về nước và mang theo những ý tưởng
mới. Trong thập niên 1990, Hàn Quốc đón nhận nhiều đổi mới và du nhập văn hoá khá
đa dạng trên nhiều lĩnh vực như điện ảnh, âm nhạc, thời trang,…
Năm 1997, khủng hoảng tài chính châu Á bùng nổ và ảnh hưởng trực tiếp đến nền
kinh tế Hàn Quốc. Không chỉ là tiền tệ, chứng khoán, cuộc khủng hoảng còn ảnh hưởng
lớn đến các lĩnh vực khác như chính trị, văn hoá và đặc biệt là giải trí. Và dĩ nhiên điện
ảnh không nằm ngoài ảnh hưởng đó.
II. Sự phát triển điện ảnh
Sự đổi mới về chính trị khi Hàn Quốc hoàn toàn tự chủ đã thúc
đẩy điện ảnh Hàn Quốc phát triển rất nhiều.Thập niên 1980 chứng
kiến sự trở lại rạp chiếu phim của công chúng và sự công nhận của
quốc tế đối với điện ảnh Hàn Quốc mà cao điểm là giải thưởng
“Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất” dành cho Kang Su Yeon tại Liên
hoan phim Venice 1987. Đa số các nhà phê bình phim đều cho
rằng tên tuổi xuất sắc nhất trong thời kỳ này là đạo diễn Im Kwon
Taek. Ông được xem là đạo diễn nổi tiếng nhất Hàn Quốc khi phim Mandala ra đời
(만다라_1981). Bộ phim đã giành Giải thưởng lớn tại Liên hoan phim Hawaii. Đây cũng
là bộ phim Hàn Quốc đầu tiên tham gia các liên hoan phim lớn ở châu Âu. Bộ phim
Sopyonje (서편제_1993) của ông đã làm sống lại nghệ thuật nhạc kịch truyền thống Hàn
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
122
Quốc được gọi là Pansori. Đến nay Im Kwok Teak đã làm đạo diễn cho khoảng 100 phim
và vẫn giữ vị trí nhất định trong nền điện ảnh Hàn Quốc.
Mặc dù đã có được những thành công bước đầu nhưng điện ảnh Hàn Quốc lại phải
đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt đến từ phim Hollywood và phim Hông Kông hiện
đang trong điện ảnh khu vực thời bấy giờ. Phim Hollywood khi đó chiếm tới 75% doanh
thu các rạp chiếu phim trong cả nước. Năm 1993, phim Hàn Quốc chỉ chiếm 16% số
phim chiếu ở rạp. Để cứu vãn tình thế, chính phủ buộc các rạp hát phải chiếu phim nội
địa 106 ngày trong một năm nhưng tình hình vẫn không sáng sủa hơn. Đây có lẽ là một
điểm quyết định cứu vãn nền điện ảnh nội địa. Để thúc đẩy phim nội địa phát triển thì
chính phủ ban hành chính sách quy định về số ngày bắt buộc phải chiếu phim nội địa
trong 1 năm. Nếu như không thực hiện được đủ số ngày quy định thì rạp đó sẽ bị phạt.
Đứng trước tình hình đó, các rạp chiếu phim phải không ngừng quảng cáo, giảm giá vé
xem phim,…để thu hút được khán giả đến với các bộ phim nội địa. Trên lý thuyết là vậy
nhưng ở thời điểm hiện tại phim Hàn Quốc vẫn chưa đủ sức cạnh tranh với phim Mỹ thời
bấy giờ nên mặc dù quy định đó đã được ban hành nhưng dường như cũng không thu
được kết quả như mong đợi.
Vậy chúng ta tự đặt ra một câu hỏi: Liệu việc mở cửa cho Hollywood vào Hàn Quốc
có khiến điện ảnh Hàn Quốc bị ảnh hưởng và thụt lùi hay không? Vì trên thực tế phim
Hollywood đa dạng, hấp dẫn hơn, hợp với thị hiếu mới của người dân Hàn Quốc hơn.
Dĩ nhiên trước một đối thủ đáng gờm như vậy thì những ảnh hưởng, thiệt hại sẽ là
rất lớn nhưng điều đó chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn mà thôi. Các đạo diễn Hàn
Quốc nhờ các bộ phim của Hollywood đã rút ra được nhiều bài học.
- Thứ nhất: Nó cho các nhà làm phim và nhà đầu tư ở Hàn Quốc thấy được nguồn lợi
từ điện ảnh là lớn đến mức nào. Và đây chính là chìa khoá giúp điện ảnh Hàn Quốc phát
triển.
- Thứ hai: Trong quá trình tiếp xúc với nhiều phim Hollywood, các đạo diễn nhận ra
được nhiều thiếu sót trong vấn đề kĩ thuât làm phim, diễn xuất của diễn viên. Từ những
trải nghiêm đó, họ rút ra bài học quý giá cho bản thân để làm phim tốt hơn. Chính phủ
cũng nhận thức rõ điều đó nên đã có những đãi ngộ với điện ảnh như viện trợ nhiều tiền
trợ cấp hơn, đầu tư cho đạo diễn, diễn viên đi học tại Mỹ nhằm trau dồi kinh nghiêm, tạo
cơ hội học tập, tiếp thu nền văn minh của kinh đô điện ảnh Thế giới
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
123
- Thứ ba: Nó giúp phim Hàn Quốc không chỉ được trình chiếu tại thị truờng nội địa
mà còn xuất khẩu đi các nước khác trong khu vực và trên khắp thế giới. Không những ở
việc phân phối phim mà trong lĩnh vực quảng bá, pr cho phim, Hàn Quốc cũng đã học
được từ Hollywood rất nhiều.
Tóm lại việc phim Hollywood tràn vào Hàn Quốc là một điều tích cực, là một yếu tố
quan trọng làm nên thành công cho điện ảnh Hàn Quốc như ngày nay. Hollywood nói
một cách thân thương theo tiếng Hàn là Tiền bối “선배” của điện ảnh Hàn Quốc. Tuy
thời kì này điện ảnh Hàn Quốc chưa có sự khơi sắc đặc biệt nhưng có thể nói nó là một
bước đệm vững chắc, bước khởi đầu cho sự phát triển rực rỡ sau này của điện ảnh Hàn
Quốc thời kỳ đổi mới.
C.Giai đoạn 1999 đến nay_Sự nở rộ của điện ảnh Hàn Quốc
Sau một thời gian trưởng thành, đây là giai đoạn thích hợp nhất để điện ảnh Hàn Quốc
bùng nổ. Thời điểm cuối thế kỷ 20, điện ảnh thế giới đã phải nhìn Hàn Quốc với một con
mắt khác. Một thời gian không quá dài_ chỉ hơn 11 năm nhưng cũng đã đủ để tạo nên
một thương hiệu cho điện ảnh Hàn Quốc. Chúng ta hãy cùng nhau đi vào từng đề tài
trong phim điện ảnh Hàn Quốc để thấy rõ sự đổi mới trong đó.
Vào nửa những năm 90, các đạo diễn mới tích cực hoạt động trên kịch trường, tạo
nên một sự chuyển giao thế hệ trong nền điện ảnh Hàn Quốc. Các đạo diễn đã thành danh
những năm 70-80 lui về khâu chế tác, sản xuất hoặc thậm chí là rút khỏi kịch trường do
không bắt kịp không khí thời đại.
I. Thể loại
1. Phim chiến tranh
Tại sao chúng tôi lại đưa ra đề tài chiến tranh trong phim điện ảnh Hàn Quốc đầu
tiên? Như chúng ta đã biết Hàn Quốc và Triều Tiên trước đây là một nước thống nhất
nằm trên bán đảo Triều Tiên. Nhưng cuộc nội chiến Nam-Bắc Hàn đã chia cắt một đất
nước độc lập thành hai miền, hai nhà nước với hai chế độ khác nhau. Hàn Quốc chịu sự
quản lý của quân đội Mỹ và đi theo chế độ tư bản. Triều Tiên nằm dưới sự quản lý của
Nga và theo chế độ xã hội chủ nghĩa. Hai đất nước với hai chế độ khác nhau đã dẫn đến
rất nhiều mâu thuẫn và đỉnh điểm là chiến tranh Triều Tiên(1950-1953) đã gây nên
những tổn thất đau thương đến tận bây giờ vẫn chưa thể hàn gắn được.
Chính mâu thuẫn về chính trị sâu sắc đó đã khiến chiến tranh Nam-Bắc trở thành
một đề tài nhạy cảm trong điện ảnh cả hai nước. Nhưng thời đại đã thay đổi. Đất nước
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
124
dân chủ hơn, con người tụ do hơn. Hàn Quốc chấp nhận nhìn vào sự thật khắc nghiệt,
dám đương đầu với nhũng vấn đề nổi cộm của xã hội. Và minh chứng cho điều này là
hàng loạt những phim có đề tài chiến tranh ra đời và đã gặt hái được nhiều thành công.
“Shiri” (쉬리_1999)
Năm 1999 có thể nói là năm đột phá của nền điện ảnh Hàn Quốc với sự ra đời của
“Shiri”. Kinh phí làm “Shiri” lên tới 8,5 triệu USD, lớn nhất trong lịch sử điện ảnh Hàn
Quốc cho đến thời điểm đó, được hỗ trợ hầu hết bởi hãng Samsung.
Đạo diễn: Kang Je Kyu
Diễn viên: Han Suk Kyu, Choi Min Sik, Kim Yoon Jin và Song Kang Ho.
Nội dung: Một nữ điệp viên Bắc Hàn được đưa sang Seoul để tìm hiểu nội tình cơ
quan tình báo Hàn Quốc, chuẩn bị cho một kế hoạch bí mật gây
ra cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc nhằm thống nhất đất nước.
Nhưng rồi cô lại có tình cảm với một nhân viên tình báo của
Nam Hàn và dẫn đến nhiều sự kiện rắc rối diễn ra khi anh ta
điều tra về âm mưu mà cô gái đang thực hiện.
Doanh thu: “Shiri” đã thành công vang dội về mặt thương
mại khi bán được tới 2 triệu vé chỉ tính riêng ở Seoul và trở
thành bộ phim ăn khách nhất lịch sử điện ảnh Hàn Quốc thời bấy giờ, vượt qua các bộ
phim bom tấn nổi tiếng của Hollywood cùng thời như “Titanic” hay “Ma trận”. “Shiri”
được gọi với cái tên: "Con cá nhỏ đánh chìm tàu Titanic”.
Vậy tại sao “Shiri” lại thành công đến vậy, tại sao lại coi “Shiri” như 1 cột mốc cho
điện ảnh thời kỳ đổi mới?
- Thứ nhất: Nội dung hấp dẫn.
Nội dung phim nói về đề tài chiến tranh Nam-Bắc Triều Tiên_một đề tài mới mẻ
trong lịch sử điện ảnh Hàn Quốc. Phim đi theo thể loại hành động gay cấn của Mỹ với
những cảnh đấu súng ở Yeo-eui Do (Seoul) hay những cuộc rượt đuổi trên cánh đồng
Daeun chỉ có thể thấy trong phim Hollywood. Người xem ngạc nhiên, ngỡ như mình
đang xem 1 bộ phim hành động của Hollywood vậy. Tuy nhiên ẩn chứa sâu xa trong đó
là tình yêu sâu nặng mang đậm chất Hàn Quốc. Những cảnh hành động của bộ phim có
phần ít ỏi nhưng những trường đoạn tình cảm lại khiến vô cùng xúc động. Tình yêu được
mô tả trong phim không đơn thuần là tình yêu nam nữ mà là tình yêu giữa các điệp viên
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
125
của Nam và Bắc Triều Tiên, là tình yêu giữa những người Nam và Bắc Triều Tiên_
những người yêu nhau sâu nặng nhưng vì hoàn cảnh xã hội mà không đến được với nhau..
- Thứ hai: Quảng bá cho phim.
“Shiri” tạo được tiếng vang lớn một phần cũng nhờ điều này. “Shiri” thời bấy giờ đã
được trình chiếu ở khá nhiều rạp và đã sử dụng các chiêu quảng cáo rầm rộ. Đây cũng là
một lý do khiến người dân kéo đến rạp xem nhiều hơn. Điều này cho đến tận bây giờ nó
vẫn là nguyên tắc được áp dụng cho hầu hết các bộ phim, chính là bí quyết của thành
công của một bộ phim.
“The Brotherhood of War”(태극기휘날리며_2004)
Đạo diễn: Kang Je-gyu _cũng là đạo diễn của “Shiri”.
Diễn viên : Jang Dong Gun, Won Bin, Lee Eun Joo.
Nội dung: Hai anh em ruột Jin Tae và Jin Suk hết mực yêu thương đùm bọc lẫn nhau.
Khi Jin Suk bị quân cảnh bắt đi lính, Jin Tae cũng tham gia quân
đội Hàn Quốc chống quân Bắc Hàn .Jin Tae luôn xung phong đi
đầu và lập được nhiều chiến công nhằm xin chỉ huy cho em trai
được trở về nhà... Và cuối cùng anh cũng cũng làm được điều đó.
Yong Shin, người yêu của Jin Tae bị nhân dân quy kết là thân
Cộng sản. Yong Shin bị xử bắn. Jin Tae rất bất mãn và đã gia
nhập quân đội Bắc Hàn, trở thành 1 anh hùng của họ. Jin Suk sau
đó đã tình nguyện ra mặt trận để thức tỉnh anh trai. Trong một
trận đánh, hai anh em gặp lại nhau. Họ muốn cùng nhau chạy về nhà, nhưng cả hai lúc
này đã bị thương rất nặng, không thể cùng chạy trốn được. Jin Tae quyết định ở lại cản
đường quân Bắc Hàn cho em mình được sống.
Câu chuyện vô cùng ý nghĩa về tình anh em khiến người xem phải rơi nước mắt.
Người anh sẵn sàng hy sinh tất cả, kể cả tính mạng vì người em.Tình cảm đó thật sâu sắc
và đáng quý biết nhường nào. Hơn thế nữa, xem phim, khán giả còn thấy rõ được sự khốc
liệt chiến tranh, thấy những gì mà chiến tranh đã gây ra và đồng cảm, thấm thía nỗi đau
với những người đi trước.
Doanh thu: 11.011.482 lượt người xem. Bộ phim chỉ với vốn đầu tư 13 triệu USD
nhưng có thể đóng góp cho nền kinh tế Hàn Quốc giá trị ước đoán khoảng 423 triệu USD
(từ tiền vé bán và những hệ quả tích cực khác). Bộ phim hiện nay vẫn được coi là 1 trong
những bộ phim ăn khách nhất, hay nhất Hàn Quốc trong mọi thời đại.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
126
Giải thưởng:- "Phim hay nhất" và "Đạo diễn xuất sắc nhất" tại Liên hoan phim Châu
Á-Thái Bình Dương 2005 tổ chức tại thủ đô Kuala Lumpur-Malaysia đầu tháng 10/2005.
- Jang Dong Gun đã giành được giải “Nam diễn viên chính xuất sắc” tại LHP Rồng
Xanh (Hàn Quốc) năm 2004.
Ngoài ra còn có một số bộ phim nổi tiếng khác có thể kể đến như:
“Silmido”(실미도_2003) của đạo diễn Kang Woo Suk hé lộ những âm mưu chính
trị đen tối giữa Triều Tiên và Hàn Quốc.
“Joint Security Area” (공동경비구역_2000) của đạo diễn Chan Wook Park đề
cao tình bạn đẹp giữa hai người lính ở hai chí tuyến khác nhau Nam- Bắc Triều Tiên.
“Những con người thời ấy”(그때 그사람들_2005) của đạo diễn Lim Sang Soo
thể hiện chân thật những vụ Scandal của tổng thống Park Chung Hee…
Để kỉ niệm 60 năm chiến tranh Triều Tiên vào năm nay 2010 thì đang có rất nhiều
phim được bấm máy, không chỉ có điện ảnh mà truyền hình cũng sẽ tham gia tích cực
vào đề tài này.
* Điện ảnh: - Into the gunfire(포화속으로) của đạo diễn Lee Jae Han. Bộ phim là
cuộc chiến giữa một đội quân gồm 71 sinh viên Hàn Quốc và quân đội chính quy của Bắc
Triều Tiên.
* Truyền hình:- Road no.1(로드 넘버원_16 tập) của đạo diễn Lee Jang Soo. Phim
xoay quanh chủ đề tình bạn và tình yêu trong cuộc chiến tranh Triều Tiên.
- Chiến hữu(전우_ 20 tập) được làm lại từ phim truyền hình phát sóng trên KBS
những năm 1975-1977 kể câu chuyện tình bạn xảy ra trong cuộc chiến.
Các nhà điện ảnh dự đoán 2010 là năm của phim chiến tranh và cổ trang.
2. Phim tâm lí xã hội hài tình cảm
Cuộc sống của con người ngày càng bận rộn. Để xua tan những mệt mỏi hàng ngày,
họ cần nhiều sinh hoạt giải trí hơn. Đối với điện ảnh, những bộ phim với đề tài chiến
tranh căng thẳng không còn thích hợp nữa. Khán giả muốn được xem những bộ phim
mang tính giải trí nhiều hơn, nhẹ nhàng hơn, mang tính hài hước, thực tế hơn. Nắm bắt
nhanh chóng thị hiếu khán giả mà các nhà làm phim bằng tài năng,sự sáng tạo của mình
đã thực hiện ngay những bộ phim với đề tài tình cảm hài và đã tạo được những tác phẩm
tên tuổi.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
127
Cô nàng ngổ ngáo (엽기적인그녀_2001)
Đây là bộ phim mở đầu cho trào lưu phim tâm lý xã hội vốn là thế mạnh của điện ảnh
Hàn Quốc sau này.
Đạo diễn: Kwak Jae Yong.
Diễn viên: Chun Ji Huyn, Jun Ji Hyun.
Nôi dung: Gyun Woo là một sinh viên đại học vô vọng, sở thích của cậu là trêu trọc
các bạn gái, uống rượu cùng bạn bè và tránh xa mẹ mình càng
nhiều càng tốt. Sau đó cậu ta gặp một cô gái say rượu trên tầu điện
ngầm, người cứ luôn miệng gọi cậu là “honey”, ói trên đầu một
hành khách và bỏ đi, Gyun Woo bị kẹt trong một mối quan hệ mà
chưa bao giờ muốn có và cũng là mối quan hệ lạ lùng nhất trong
cuộc đời cậu. Tuy nhiên, cậu đã rơi vào mối quan hệ tình cảm với
cô gái bí ẩn này.
Phim được giới trẻ yêu thích bởi nó phản ánh rõ nét cuộc
sống giới trẻ ẩn chứa những điều vô cùng thú vị mà điện ảnh Hàn Quốc chưa hề đề cập
đến trước đây. Chính nội dung nhẹ nhàng, hài hước rất mới đã giúp “Cô nàng ngổ
ngáo”đạt được những thành công.
Doanh thu: thu hút 4,852,845 người xem_ 1 con số cũng khá ấn tượng trong thời điểm
bấy giờ. Phim được yêu thích không chỉ ở Hàn Quốc mà lan ra cả các nước Đông Á và
Đông Nam Á. Theo kết quả điều tra tại Trung Quốc thì “Cô nàng ngổ ngáo” đã đứng đầu
bảng xếp hạng những biểu tượng văn hóa ăn khách nhất của “xứ sở kim chi”. Hơn thế
nữa, phim còn được Mỹ và Nhật mua bản quyền và phiên bản Cô nàng ngổ ngáo của Mỹ
và Nhật đều mang tên nguyên tác “My Sassy Girl”.
Từ đó ta có thể thấy mức độ thành công lớn đến chừng nào của Cô nàng ngổ ngáo.Sự
ra đời của bộ phim được coi như bước đột phá, cột mốc quan trọng của điện ảnh Hàn
Quốc trong thể loại tình cảm hài.
Friends(친구_2001)
Đạo diễn: Kwak Kyung-taek .
Diễn viên: Yu Oh Sung ,Jang Dong Gun, Seo Tae Wha, Jung
Wo Hyun, Kim Bo Kyeong.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
128
Nội dung: Phim nói về 4 cuộc sống của 4 người bạn thân chơi với nhau từ thuở bé rồi
lớn lên mỗi người 1 hoàn cảnh nhưng họ vẫn luôn là những người bạn tốt của nhau.
Bộ phim không chỉ nêu lên tình bạn đẹp giũa 4 nhân vật trong phim và dường như
còn chứa một cái gì đó mong muốn và ý thức về một xã hội độc lập, tự chủ hơn của
những người dân Hàn Quốc trong thời kỳ loạn lạc. Sự thành công của bộ phim không chỉ
nằm ở nội dung nhân văn mà còn ở chính chất giọng địa phương Kyeongsang được sử
dụng trong phim. Nó làm cho các nhân vật chân thật hơn, gần gũi với khán giả hơn. Chất
giọng địa phương Kyeongsang chính là nét đặc trưng, sức lôi cuốn riêng của bộ phim.
Doanh thu: Bộ phim đã kéo được 8,134,500 khán giả đến rạp.
Giải thưởng: Tại LHP Châu Á-Thái Bình Dương 46,Yu Oh Sung và Jang Dong Gun
đoạt giải thưởng "Nam diễn viên xuất sắc nhất" và "Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất" .
Ngoài ra còn có một số phim khác khá nổi tiếng, thu hút được đông đảo lượng khán
giả tới rạp, có thể kể đến như:
My wife is Gangster(조폭마누라_2001) của đạo diễn Cho Jin Gyu nói về cô gái
giang hồ phải đứng giữa sự lựa chọn giữa một bên là hạnh phúc gia đình, một bên là tình
nghĩa với đàn em để chiến đấu với thế lực thù địch.
200 Pounds Beauty(미녀는 괴로워_2006) của đạo diễn Kim Yong Hwa là câu
chuyện của 1 cô gái có tài năng nhưng thân hình quá khổ, đem lòng yêu 1 chàng trai hào
hoa.
Speed Scandal(과속스캔들_2008) của đạo diễn Kang Hyung Cheol nói về câu
chuyện nghịch lý của một người đàn ông 30 tuổi phát hiện ra mình có cả con cả cháu.
3. Phim cổ trang
Những năm 1990 chứng kiến một sự đổi thay lớn trong đề tài phim của Hàn Quốc.
Bên cạnh những đề tài tâm lý xã hội làm mưa làm gió trong các bộ phim thì đề tài cổ
trang tuy xuất hiện sau nhưng cũng đã để lại những ấn tượng vô cùng sâu sắc trong lòng
khán giả. Bộ phim truyền hình : Nàng Dae Chang Kum (대장금_2003) chính là phát
súng đầu tiên thành công mở đầu cho sự phát triển của dòng phim này. Đối với làn sóng
Hallyu thì phim truyền hình cổ trang dường như đóng góp công sức lớn hơn rất nhiều so
với phim điện ảnh. Tuy nhiên chúng ta cũng không thể phủ định rằng phim điện ảnh cổ
trang cũng đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển chung đó.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
129
Vậy chúng ta đặt ra câu hỏi tại sao mà phim cổ trang Hàn Quốc lại phát triển và được
yêu thích không chỉ bởi người lớn mà cả những trẻ em, thanh thiếu niên đến như vậy?
Như ta đã biết phim cổ trang theo nguyên tắc là phải dựa theo những sự kiện có thật trong
lịch sử. Chính vì thế đôi khi thể loại phim này khá cứng nhắc gây nhàm chán cho người
xem. Nắm bắt được điều này các nhà làm phim đã chọn con đường “bình dân hoá” các
nhân vật chính trong phim, họ đều xuất thân dân dã, không phải “con vua cháu quan” nên
các câu chuyện xung quanh họ sẽ phong phú, nhiều màu sắc hơn.Và thực tế đã chứng
minh được kết quả.
King And The Clown (왕의남자_2005)
Đây có thể nói là bộ phim gây được nhiều tiếng vang nhất trong thể loại cổ trang của
điện ảnh Hàn Quốc. Nói là phim cổ trang nhưng “King And The Clown” lại chỉ lấy bối
cảnh xưa để nói về một đề tài khá nhạy cảm, khá thời đại không chỉ ở Hàn Quốc mà trên
Thế giới, đó là vấn đề đồng tính. Đây có lẽ là nét phá cách, lôi kéo được sự chú ý của
khán giả.
Đạo diễn: Lee Joon ik.
Diễn viên: Gam Wu Seong, Jeong Jin Yeong, Kang Seong
Yeon, Lee Jun Ki.
Nội dung: Bộ phim xoay quanh mối tình tay ba giữa nhà vua
Yonsan- vị vua nổi tiếng tàn bạo trong lịch sử phong kiến Triều
Tiên, chàng hề Gong Gil có thân hình mảnh mai và chàng hề
Jang Saeng. Hai anh chuyên làm trò vui để kiếm tiền. Họ nghĩ ra cách mang chuyện cung
cấm dâm đãng của nhà vua Yonsan và sủng hậu Nok Su ra làm trò cười. Vì thế, họ bị bắt
vào cung và chuẩn bị mang đi xử trảm, song với tài trí thông minh, chàng hề Jang Saeng
đã giúp cả hai thoát khỏi tội chết. Jang Saeng xin với quan quân cho họ được diễn trò cho
vua xem. Không ngờ, khi xem những trò dung tục đó, vua và hoàng hậu lại rất vui..Cũng
từ đây, nảy sinh mối tình cảm đặc biệt giữa nhà vua và chàng hề Gong Gil. Những cuộc
tranh giành quyền lực đẫm máu trong cung, những đêm vui thác loạn, sự bạo ngược độc
đoán của vị vua đã khiến hai anh hề nhận ra cung điện không phải là nơi giành cho họ,
nhưng tất cả đã quá muộn.
Bộ phim hấp dẫn ở chỗ nó đề cập đến một vấn đề khá nhạy cảm trong xã hội, đó là
vấn đề đồng tính. Bên cạnh tiếng cười sảng khoái với những trò vui của hai anh hề thì lại
là một sự đau xót về một xã hội dưới sự cai trị của nhà vua đồi bại.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
130
Doanh thu: phim có kinh phí chỉ 5 triệu USD nhưng đã thu về hơn 70 triệu USD.
Theo thống kê, trong vòng một tháng sau khi công chiếu ,cứ bốn người sống ở Hàn Quốc
thì có một người đã vào rạp để thưởng thức bộ phim này.
Giải thưởng: “King And The Clown” nhận được rất nhiều giải thưởng từ liên hoan
phim trong nước: LHP Daejong lần 43, LHP Giải thưởng nghệ thuật Baeksang năm 2006,
LHP Chunsa 2006, Giải thưởng Điện ảnh Hàn Quốc năm 2006, Giải thưởng Rồng Xanh
năm 2006 ,Điện ảnh thế giới Cape Town Festival (CTWCF) năm 2006, LH Du Film
Asiatique De Deauville năm 2007 tại Pháp ở rất nhiều hạng mục.
4. Phim hành động
Nói đến phim Hàn Quốc thì thật là thiếu sót nếu không nói đến thể loại phim hành
động. Tuy không đuợc nổi bật như phim chiến tranh, tâm lý xã hội hay cổ trang nhưng
hành động Hàn Quốc cũng đang dần đổi mới,chứng tỏ ưu thế của nó trong nền điện ảnh
nước nhà.
Memories of Murder (살인의추억_2003)
Có thể nói đây là bộ phim hành động hiếm hoi không những nhận được sự yêu thích
nồng nhiệt từ phía khán giả mà còn được đánh gía cao về mặt nội dung từ giới phê bình
điện ảnh.
Đạo diễn: Bong Joon-ho.
Diễn viên:Song Kang Ho, Kim Sang Kyung, Kim Roe Ha, Park Hae Il, Byeon Hee
Bong.
Nội dung: Năm 1986, hai xác người phụ nữ được phát hiện ở thị trấn Gyunggi. Cả hai
đều bị cưỡng hiếp rồi bị bóp cổ cho đến chết với những hiện
trường và cách thức gây án giống hệt nhau. Đây là lần đầu tiên
trong lịch sử, cảnh sát Hàn Quốc phải đối mặt với một vụ án giết
người hàng loạt. Thám tử Park Doo Man được giao nhiệm vụ phải
tìm ra thủ phạm song cùng với người phụ tá thích dùng tay chân
hơn là đầu óc. Sau đó có khi Seo Tae Yoon, một cảnh sát chuyên
nghiệp từ Seoul xung phong chuyển về vùng quê này để gỡ rối cho
vụ án nhưng mọi việc lại càng trở lên tồi tề…
“Memories of Murder” không đơn giản là một bộ phim hình sự thuần túy. Nó không
tập trung vào câu hỏi “Ai là kẻ sát nhân?” mà muốn miêu tả quá trình điều tra vụ án,
những buồn vui mà những người tham gia điều tra vụ án phải trải qua trong quãng thời
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
131
gian ấy. Và trên hết bộ phim đã lột tả được hình ảnh của một vùng đồng quê Hàn Quốc
còn lạc hậu với cảm giác sợ hãi bao trùm lên khắp ngôi làng khi vụ án diễn ra.
Doanh thu: bộ phim đã thu hút đuợc 5.101.645 lượt người xem, cũng là bộ phim
đứng trong hàng top những phim ăn khách nhất Hàn Quốc.
Giải thuởng:. - Tại LHP Grand Bell Award năm 2003 ở Hàn Quốc, bộ phim giành
được giải bộ phim xuất sắc nhất, Bong Joon Ho và Song Kang Ho được nhận giải “Đạo
diễn xuất sắc nhất”và “Diễn viên chính xuất sắc nhất:
- Tại LHP quốc tế San Sebastian, đạo diễn Bong Joon Ho giành giải “Đạo diễn xuất
sắc nhất”.
- Bộ phim cũng được trình chiếu ở nhiều liên hoan phim quốc tế: LHP Cannes, LHP
quốc tế Hawaii, LHP quốc tế London, LHP quốc tế Tokyo.
Ngoài ra nhắc đến phim hành động ta không thể không nhắc đến các bộ phim:
Public Enemy 1-1 (강철중:공공의적 _ 2008) của đạo diễn Kang Woo Suk. Bộ
phim xoay quanh sự chiến đấu của một cảnh sát nghèo_ một cảnh sát đã chán nghề khi
những người tôi phạm anh bắt giờ đây đều làm ăn khấm khá và đặc biệt là tên trùm khét
tiếng chuyên đào tạo các cậu bé làm việc để làm việc phi pháp cho hắn. Anh quyết tâm
bắt giữ tên trùm này bằng được.
Gangster High (폭력써클 _ 2006) – đạo diễn Park Ki-hyeong. Bộ phim nói về
Sang-ho và các bạn của mình, Jae Gu và Chang Bae, thành lập một CLB bóng đá nam tên
là “Tigers”. Sang Ho gặp được Su Hee là người hoàn toàn trái ngược với mình. Sự khác
biệt giữa hai người lại kéo họ lại với nhau. Nhưng Su-hee lại thuộc về Jong-suk, thủ lĩnh
của một nhóm găngstơ tự gọi mình là “T&T”. Nhanh chóng sau đó, "Tigers" rơi vào ẩu
đả với T&T. Khi bạn bè của Sang-ho bị thương trầm trọng, Sang-ho đã đưa ra một quyết
định mà anh không thể sửa chữa.
5.Phim khoa học viễn tưởng
Những bộ phim viễn tưởng thường được biết đến ở những nền điện ảnh giàu có và
phát triển như Mỹ, Anh,…Để làm được thể loại phim viễn tưởng đòi hỏi vốn đầu tư rất
lớn, kĩ xảo điện ảnh chuyên nghiệp, có trường quay riêng. Chính vì vậy mà Hàn Quốc
chưa đủ sức làm những bộ phim hoành tráng như thế này ở thời kì trước. Nhưng khi xã
hội phát triển, nền điện ảnh đã có những bước tiến nhất định thì Hàn Quốc đã bắt đầu làm
phim viễn tưởng. Và những thử nghiệm mới mẻ trong thể loại phim viễn tưởng đã một
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
132
lần nữa giúp điện ảnh Hàn Quốc củng cố được vị trí đối với khán giả trong nước cũng
như quốc tế.
The Host (괴물_2006)
Đây là bộ phim viễn tưởng hiếm hoi không những nhận
được sự yêu thích của khán giả mà còn được các nhà phê bình
đánh giá cao về mặt nội dung.
Đạodiễn: BongJoon-Ho
Diễn viên : Song Kang-ho, Byeon Hee-bong, Park Hae-il, Bae
Doo-na, Ko Ah-sung
Nội dung: Năm 2000, một cơ sở nghiên cứu hóa chất của
Mỹ đặt tại Hàn Quốc đã tiến hành thải một số lượng hóa chất xuống cống, bất chấp việc
những chất thải này sẽ chảy ra sông Hàn. Sáu năm sau đó, người dân Hàn Quốc vẫn ung
dung sống bên dòng sông Hàn êm đềm mà không hề biết rằng một “Thảm hoạ biết đi”
sắp ập đến. Một con quái vật đang âm thầm sinh trưởng trong lòng sông và khi trưởng
thành, nó bắt đầu tìm kiếm thức ăn.
The Host không chỉ hấp dẫn người xem bởi kỹ xảo tuyệt vời mà ý chí, sự quyết tâm
và tình yêu thương của những thành viên trong một gia đình nghèo của Hàn Quốc trong
cuộc chiến với con quái vật để tìm lại đứa cháu yêu cũng khiến cho khán giả phải xúc
động. Bộ phim còn đặt ra 1 vấn đề cấp thiết hiện nay là việc phải bảo vệ môi trường. Nếu
không, trong tương lai, con người trên Trái đất sẽ phải đối mặt với những thảm hoạ khôn
lường, có thể sẽ còn ghê gớm hơn cả con quái vật này rất rất nhiều lần.
Doanh thu: Sau 3 tuần trình chiếu tại Mỹ đã thu về 1 triệu đô la. Phim có tới
13,019,740 người xem đứng vị trí đầu tiên trong top những bộ phim ăn khách nhất Hàn
Quốc.
Giải thưởng: Bộ phim nhận tổng cộng 18 giải thưởng tại các liên hoan phim: Giải
thưởng điện ảnh châu Á lần 1, LHP châu Á- Thái Bình dương, Giải thưởng Nghệ thuật
PaekSang, Giải thưởng Rồng Xanh, Fantasporto (Giải thưởng Điện ảnh Quốc tế Fantasy),
Grand Bell Award _Hàn Quốc, LHP quốc tế Sitges – Catalonian.
D-War (디워_2007)
D-War được xây dựng dựa trên một truyền thuyết của Hàn Quốc về loài rắn Buraki,
nhưng lại được quay hoàn toàn tại Los Angeles cùng sự góp mặt của các diễn viên Mỹ.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
133
Đạodiễn:ShimHyungRae.
Diễn viên :Jason Behr, Amanda Brooks, Robert Forster.
Nội dung : Nhân vật trung tâm của câu chuyện là phóng viên Ethan Kendrick (Jason
Behr), anh có nhiệm vụ phải điều tra một vụ thảm sát ở Los Angeles và phát hiện ra rằng,
cứ 500 năm, con rồng huyền thoại Buraki lại sống dậy và
đe dọa thế giới. Nhiệm vụ của Ethan chính là giải cứu
Sarah (Amanda Brooks), người có vai trò quan trọng trọng
việc giữ quả trứng rồng Buraki.
Bộ phim tuy không được đánh giá cao về nội dung từ
các nhà phê bình điện ảnh nhưng kĩ xảo tuyệt vời, hành
động gay cấn không thua kém gì một siêu phẩm Mỹ cũng đã thu hút được tới 8,420,000
khán giả tới rạp. Đây cũng là một con số mà nhiều bộ phim mong muốn.
6. Phim kinh dị
Chưa được nhắc tới nhiều nhưng phim kinh dị Hàn Quốc cũng được điện ảnh nước
này chú trọng phát triển. Theo thời gian số lượng cũng như chất lượng phim kinh dị Hàn
Quốc ngày càng cải thiện, thu hút được sự quan tâm của khán giả.
A Tale of Two Sisters(장화,홍련_2003)
Kịch bản dựa trên 1 truyền thuyết từ thời Joseon với tựa là
“Rose and Lotus” và đã từng được chuyển thể thành phim vào các
năm 1956, 1962, 1972.
Đạo diễn : Kim Jee Woon.
Diễn viên: Im Soo Jung, Moon Geun Yong, Yeom Jeong Ah,
Kim Kap Su.
Nội dung: Sau một thời gian dài vắng mặt, hai chị Su Mi và Su Yeon quay trở về ngôi
nhà lớn của gia đình ở quê hương. Tại đây, họ gặp lại người mẹ kế, một phụ nữ với thái
độ cư xử lạ lùng khiến cho cô em sợ chết khiếp, một ông bố yếu đuối và một bóng ma bí
ẩn…
Doanh thu: Bộ phim thu hút 2 triệu lượt khán giả tới rạp, một kỷ lục khó tin đối với
một bộ phim kinh dị gắn mác Hàn Quốc. Đây là phim kinh dị Hàn Quốc đầu tiên được
công chiếu ở Mỹ và đã đạt được doanh thu 72,541$. Hãng sản xuất Dreamworks cũng đã
mua bản quyền để dựng lại phim với giá 1 triệu đôla .
Giải thưởng:
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
134
- Tại International Fantasy Film Award (Fantasporto) năm 2004, bộ phim giành được
Giải phim hay nhất.
- Tại LHP Daejong lần thứ 41 năm 2004, Moon Geun Young đã giành được giải
thưởng Nữ diễn viên trẻ triển vọng.
- Tại LHP Quốc tế Pusan 2003, Im Soo Jung giành được giải nữ diễn viên mới xuất
sắc nhất.
Theo Korea.net, “A Tale of Two Sisters” là 1 trong những phim kinh dị thành công
nhất cho đến nay.Bộ phim đã mở đường cho trào lưu phim kinh dị Hàn Quốc và đã từng
được đánh giá là tác phẩm kinh dị Châu Á “kinh điển”. Nối tiếp thành công của phim,
các nhà sản xuất không ngừng khai thác đề tài hấp dẫn này và đã cho ra đời nhiều tác
phẩm mang đến nỗi ám ảnh cho khán giả.
Một số bộ phim kinh dị khác cũng rất đáng xem: Phone (폰_2002), Wising stairs
(여우계단_2003), The red shoes (홍분신_2005)…
II. Đánh giá chung
Dưới đây là Top 15 phim điện ảnh ăn khách nhất Hàn Quốc tính đến tháng 2/2009
(nguồn iuphimhan.com).
S
TTTên phim
Năm
ra đờiĐề tài Đạo diễn
Lượng
người xem
1The Host
(괴물)2006
Khoa
học viễn
tưởng
Bong Joon Ho13,019,7
40
2
The King
and The Clown
(왕의남자)
2005 Cổ trang Lee Joon Ik12,302,8
31
3
The
brotherhood of
War (태극기
휘날리며)
2004Chiến
tranhKang Je Gyu
11,746,1
35
4Silmido
(실미도)2004
Chiến
tranh
Kang
WooSeok
11,074,0
00
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
135
5 D-War(디워) 2007
Khoa
học viễn
tưởng
Shim Hyung
Rae
8,420,00
0
6
Speed
Scandal
(과속스캔들
)
2008Tâm lỹ
xã hội
Kang Hyung
Heo
8,156,07
2
7Friends(친구
)2001
Tâm lỹ
xã hội
Kwak Kyung
Taek
8,134,50
0
8
Welcome To
Dongmakgol
(웰컴투동막
골)
2005Chiến
tranh - Hài
Park Kwang
Hyun
8,008,62
2
9
May 18
(화려한
휴가)
2007Tâm lỹ
xã hộiKim Ji Hoon
7,280,00
0
1
0
The Good,
The Bad, The
Weird
(좋은놈,
나쁜놈,이상한
놈)
2008Hành
độngKim Ji Woon
7,038,64
2
1
1
Tazza: The
High Rollers
(타짜)
2006Tâm lỹ
xã hội
Choi Dong
Hoon
6,847,77
7
1
2
200 Pounds
Beauty
(미녀는괴로워)
2006Tâm lỹ
xã hộiKim Jong Wa
6,619,49
8
1
3Shiri (쉬리) 1999
Chiến
tranhKang Je Gyu
6,210,00
0
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
136
1
4
My Boss, My
Teacher
(투사부일체
)
2006Tâm lỹ
xã hội hài
Kim Dong
Won
6,105,43
1
1
5
Joint
Security Area
(공동경비구역)
2000Chiến
tranh
Park Chan
Wook
5,830,00
0
Nhìn vào bảng xếp loại này cũng như những phân tích ở trên chúng ta có được một số
nhận xét như sau.
Trong thời kỳ điện ảnh đổi mới đã có rất nhiều thể loại phim ra đời. Những đề tài của
các bộ phim cũng rất mới lạ, đột phá. Đây là thời kì nở rộ của phim Hàn Quốc không chỉ
là điện ảnh mà cả truyền hình, đóng góp cho làn sóng Hallyu đang phát triển ngày càng
mạnh mẽ trên toàn thế giới.
Đề tài tâm lý tình cảm xã hội có lẽ là đề tài chính nắm giữ điện ảnh Hàn Quốc thời kì
này và cho đến tận bây giờ. Hàng năm có rất nhiều bộ phim khai thác đề tài này ra đời
nhưng vẫn luôn nhận được sự đón nhận của khán giả.
Cuộc sống ngày càng phát triển. Con người ta giờ đây không chỉ muốn xem những bộ
phim giải trí thông mà dường như khẩu vị của người xem có vẻ khắt khe hơn. Những bộ
phim hấp dẫn, thu hút được nhiều khán giả thì chắc chắn phải có nội dung hay, nhân văn,
ý nghĩa chứ không đơn thuần là sự giải trí, xem rồi có thể quên ngay. Điều này được
minh chứng rõ ràng bằng bảng thống kê ở trên. Những bộ phim đứng ở top đầu đều là
những phim kinh điển, có thể có hoặc không được đầu tư nhiều về kinh phí nhưng lại có
nội dung nhân văn sâu sắc, ý nghĩa, được đánh giá cao từ phía các nhà phê bình và đều
giành được những giải thưởng rất cao tại các liên hoan phim trong và ngoài nước.
Nhìn vào bảng thống kê ta cũng có thể thấy sự cạnh tranh ác liệt giữa phim chiến
tranh và phim tâm lý xã hội. Trong top 15 phim ăn khách nhất, phim chiến tranh chiếm 5
phim và tâm lỹ xã hội chiếm 6. Từ đó cho thấy tình cảm của khán giả giành cho phim
chiến tranh vẫn là rất lớn. Phim chiến tranh tuy ít, chỉ đếm trên đầu ngón tay nhưng lại
được đầu tư kĩ lưỡng và rất chất lượng. Xem phim, khán giả biết được nhiều hơn về
những sự kiện trong lịch sử mà không được tận mắt chứng kiến, thấm thía nỗi đau của
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
137
những người dân thời bấy giờ, thêm khâm phục những người đi trước về sự dũng cảm,
lạc quan, tình yêu cao cả của họ với gia đinh, bạn bè, đất nước.
Trong thời gian tới, chắc chắn chúng ta sẽ tiếp tục được chứng kiến những bước nhảy
vọt của điện ảnh Hàn Quốc.
III. Nguyên nhân thành công của điện ảnh Hàn Quốc
Nền điện ảnh Hàn Quốc ra đời từ những năm đầu thế kỉ 19 nhưng chỉ mới thực sự
tạo được tên tuổi trong những năm trở lại đây. Đạo diễn Kim Sang Wook, giám đốc trung
tâm văn hoá Hàn Quốc tại Việt Nam đã nói “Chúng tôi đã phải vất vả bò từ đáy giếng lên
miệng giếng” để diễn tả quá trình phát triển của điện ảnh Hàn Quốc. Vậy nguyên nhân
nào đã giúp điện ảnh Hàn Quốc phát triển mạnh mẽ và có những thành quả rực rỡ đến
vậy?
1. Yếu tố chủ quan
Nguồn kịch bản phong phú
Kịch bản là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành bại của 1 bộ phim. Dù bộ
phim có đạo diễn, diễn viên nổi tiếng đến đâu, tiền đầu tư nhiều và ngoại cảnh đẹp đến
đâu mà kịch bản không hấp dẫn thì bộ phim đó cũng bị coi là không thành công. Và điện
ảnh Hàn Quốc đã từng bước khắc phục được điều đó. Thực tế, các biên kịch Hàn Quốc
dường như không bao giờ cạn nguồn sáng tạo vì họ biết khai thác triệt để mọi ngóc ngách
của cuộc sống, của diễn biến tâm lý và sự dằn vặt trong suy nghĩ của nhân vật, khiến
người xem phải suy ngẫm, dõi theo từng cảnh đời trên phim.
Phim Hàn Quốc không chỉ hấp dẫn ở thể loại phim tâm lý tình cảm lãng mạn mà còn
lôi cuốn khán giả ở nhiều thể loại phim khác nhau. Thể loại phim Hàn Quốc khá đa dạng
và không đi sâu vào bất cứ một lĩnh vực nào. Họ nhanh nhạy trong việc đi theo điện ảnh
Mỹ làm phim đa thể loại để tránh tâm lý nhàm chán cho khán giả. Hành động, tâm lý,
lãng mạn, hài hước, học đường, giả tưởng, lịch sử, kinh dị, hình sự, găng tơ… hầu như
đều được các nhà làm phim thể nghiệm khá thành công.
Kỹ thuật làm phim
Kỹ thuật quay phim cẩn thận, trau chuốt. Phải thừa nhận phim Hàn rất biết tận dụng
cảnh đẹp thiên nhiên, làm tăng hiệu quả truyền tải của phim. Những cảnh thể hiện diễn
biến tâm lý phức tạp bao giờ cũng được lồng ghép trong nền nhạc du dương. Lời thoại
luôn dừng ở mức độ vừa phải, nhường chỗ cho khoảng lặng để thiên nhiên lên tiếng. Một
tác phẩm điện ảnh Hàn Quốc có thể hội tụ được tất cả các lĩnh vực văn hoá khác trong
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
138
Hallyu, quảng bá hình ảnh đất nước Hàn Quốc đến với thế giới. Điện ảnh Hàn Quốc luôn
tận dụng để quảng bá hình ảnh đất nước: trang phục truyền thống Hanbok, các món ăn
truyền thống: kimbap, kimchi,…ngoại cảnh đều là những cảnh đẹp trên đất nước. Có lẽ
những ấn tượng về điện ảnh Hàn Quốc sẽ không sâu đậm đến vậy nếu không có sự hoà
hợp giữa các thành phần sáng tạo, hỗ trợ cho nhau để cùng toả sáng. Những khuôn hình
đẹp, trau chuốt có chọn lọc, diễn viên đẹp, trang điểm đẹp… ngôn ngữ điện ảnh phù hợp,
âm nhạc… thể hiện được chủ đề tư tưởng phim.
Diễn viên
Không thể không nhắc đến một yếu tố quan trọng quyết định thành bại của một bộ
phim, đó chính là diễn viên. Có thể nói các diễn viên Hàn Quốc thực sự rất tài năng trong
việc thể hiện đời sống nội tâm nhân vật. Họ thể hiện không chỉ qua lời nói, hành động mà
bằng cả những cử chỉ tinh tế nhất, một ánh mắt, một sự im lặng ngập ngừng... Ai cũng
hiểu truyền hình chỉ là bệ phóng, còn đích cuối cùng vẫn là điện ảnh, chỉ ở điện ảnh diễn
viên mới có thể thể hiện được tài năng thực sự và được đánh giá chính xác.
Diễn viên Hàn Quốc có sự hội tụ cả về sắc đẹp và tài năng. Đẹp mà không phải là
những “búp bê biết đi”, không phải chỉ diễn bằng vẻ đẹp ngoại hình mà biết sử dụng vẻ
đẹp hình thể để hỗ trợ cho việc biểu hiện nội tâm nhân vật. Ngày nay không chỉ có diễn
viên chuyên nghiệp mà còn có rất nhiều người nổi tiếng từ các lĩnh vực khác cũng tham
gia và thu hút được sự quan tâm của nhiều nguời.
Những tên tuổi lớn đã làm nên làn sóng hâm mộ rộng khắp mà chúng ta không thể
nào quên (tính từ bên trái sang, từ trên xuống): Ahn Sung Ki, Choi Min Sik, Song Kang
Ho, Jung Jae Young, Choi Jin Sil, Shin Ha Kyun, Jeon Do Yeon, Lee Byung Hun, Jang
Dong Gun, Jun Ji Hyun, Lee Mi Yeon, Cha Tae Hyun,…
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
139
Quảng bá cho phim
Thiết kế poster, quảng cáo quy mô trên các phương tiện thông tin đại chúng: tivi, báo
chí, đài, internet, tờ rơi… Tất cả các hoạt động quảng bá ấy cũng đóng góp không nhỏ
làm tăng doanh thu của bộ phim.
2. Yếu tố khách quan - Sự giúp đỡ từ chính phủ Hàn quốc
Ngoài ra, sự thành công của điện ảnh cũng không thể không kể đến sự quan tâm hỗ
trợ và giúp đỡ từ phía chính phủ Hàn Quốc. Từ việc áp dụng hệ thống hạn ngạch điện ảnh,
theo đó từ năm 1993 các rạp trên toàn quốc phải dành từ 106 đến 146 ngày trong một
năm chiếu phim nội địa đã giúp cho quá trình hồi sinh của nền điện ảnh Hàn Quốc.
“Từ năm 1998, hệ thống luật pháp của HQ có sự thay đổi, ví dụ như bãi bỏ hoàn toàn
việc cấp phép nhà nước đối với các tác phẩm văn học nghệ thuật. Ngoài thái độ tôn trọng,
chính quyền HQ còn tin tưởng vào tâm huyết và khả năng sáng tạo của văn nghệ sĩ, đề
cao trách nhiệm công dân của họ” ông Ryoo Jae Ky - Giám đốc Quỹ Trao đổi Văn hoá
Quốc tế Hàn Quốc (KOFICE) cho biết.
Vào giữa thập niên 90 thế kỉ trước, các nhà lãnh đạo của Hàn Quốc còn chọn mô hình
phát triển của điện ảnh Mỹ để hướng tới. Họ lựa chọn những người có năng khiếu và tố
chất để gửi sang Mỹ đào tạo. Hơn 300 người đã được chọn với tiêu chí còn trẻ (từ 18 đến
25 tuổi) và có chút căn bản tiếng Anh. Tất cả kinh phí do chính phủ Hàn Quốc tài trợ.
Chính phủ đầu tư với số tiền lớn, thành lập các uỷ ban phim nhằm phát triển điện ảnh,
có các chế tài nhằm khuyến khích, động viên, giúp đỡ diễn viên.
Đáng nói hơn cả là sự tham gia của các tập đoàn lớn đã làm nên những nền tảng căn
cơ cho ngành công nghiệp điện ảnh xứ Hàn. Các tập đoàn hay các nhóm công ty gia đình
Hàn Quốc háo hức hưởng ứng lời kêu gọi của quốc gia về “trách nhiệm đưa phim Hàn
Quốc ra nước ngoài”. Samsung, Hyundai và Daewoo, những “đại gia” trong ngành công
nghiệp sản xuất chế tạo, cũng bỏ tiền vào các dự án làm phim.
Ngoài ra, việc các đạo diễn, nhà sản xuất đứng ra thành lập các công ty phim tư nhân
đã tạo ra sự tự chủ, độc lập trong sản xuất phim điện ảnh.
IV. Ảnh hưởng
Điện ảnh đã góp phần không nhỏ vào sức ảnh hưởng của Hallyu, phổ biến hình ảnh
Hàn Quốc không chỉ trong phạm vi châu Á mà còn vươn ra toàn thế giới. Đất nước Hàn
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
140
Quốc hiện lên trên màn ảnh rộng thật tươi đẹp và năng động, với những nét văn hóa độc
đáo cùng những mặt trái, những nỗi niềm còn nhức nhối trong xã hội. Tất cả đã được thể
hiện sinh động và rõ nét qua nhiều góc độ khác nhau, gây ấn tượng mạnh mẽ đối với
người xem. Thông qua đó, thời trang, âm nhạc, các địa điểm thăm quan du lịch, ẩm thực,
lễ hội, ngôn ngữ, các sản phẩm công nghệ cao... của Hàn Quốc cũng được lăng-xê, gây
sốt theo thành công của bộ phim. Doanh thu từ điện ảnh cũng đóng góp không nhỏ cho
kinh tế Hàn Quốc. Không chỉ doanh thu phòng vé đơn thuần mà còn từ các lĩnh vực văn
hóa hóa (du lịch, âm nhạc, thời trang …) như đã đề cập đến ở trên. Nếu xét về mặt hiệu
quả kinh tế của làn sóng Hàn Quốc mà điện ảnh cũng đã góp một phần trong quá trình đó
thì hiệu quả tới sản xuất đạt 4.933,6 tỷ won; hiệu quả giá trị gia tăng đạt 1.713,9 tỷ won.
Năm 2009, xuất khẩu game của Hàn Quốc tăng từ 781 triệu USD (2007) lên 1 tỷ 93,86
triệu USD. Trong số các hiệu quả giá trị gia tăng thì du lịch được hưởng hiệu quả 338,5
tỷ won; game đạt 326,2 tỷ won. Đối với hiệu quả xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp
nội dung văn hóa và sản phẩm phát sinh thì game đạt 402,7 tỷ; công nghiệp xe hơi đạt
474 tỷ won. Đặc biệt đối với du lịch phát triển một cách mạnh mẽ. Khách du lịch thường
rất thích đến những nơi xuất hiện trong phim. Ví dụ điển hình như: sau “cơn sốt” phim
“Winter Sonata” lượng khách đến thành phố Joon Jeon_ nơi đóng phim tăng lên 16%.
Nắm bắt được tình hình này, chính quyền thành phố Seoul đã thiết kế “Bản đồ Hallyu
Seoul” như một phần trong chiến lược quảng bá du lịch Hallyu.
Một số địa điểm du lịch nổi tiếng trong phim( từ trái sang) : Đảo Cheju(체주도)
trong nhiều bộ phim tình cảm, Đảo Nami trong phim “Winter Sonata”, Cung
Changdeok(창덕궁) trong các bộ phim cổ trang, Suối Cheonggyecheon(청계천)…
Nhưng trên hết, từ một nền điện ảnh non trẻ, ít được biết đến, Hàn Quốc đã chuyển
mình mạnh mẽ trong thời kì hội nhập, trở thành một trong những cường quốc điện ảnh
của châu Á, ngày càng được những nhà phê bình phim cũng như khán giả trên thế giới
đánh giá cao. Năm 2002, bộ phim Oasis (오아시스) của đạo diễn Lee Chang Dong đã
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
141
giành giải hai tại Liên hoan phim Venezia. Năm 2004 bộ phim “Old Boy” (올드보이)
giành giải thưởng lớn tại Liên hoan phim Cannes, được bán cho nhiều nước và được tờ
nhật báo “ The Guardian” của Anh bình chọn là một trong 100 phim hay nhất của thập kỷ
qua, từ năm 2000 đến 2009. Đạo diễn nổi tiếng người Mĩ Quentin Tarantino đã phát biểu:
"Những bộ phim hấp dẫn nhất thế giới hiện đến từ Nhật Bản và Hàn Quốc".
Không chỉ gặt hái thành công tại những liên hoan phim quốc tế tổ chức tại nước ngoài,
Hàn Quốc còn tự tổ chức được những liên hoan phim quốc tế tại đất nước mình. Điều này
vừa chứng tỏ vị thế của điện ảnh Hàn Quốc với thế giới, cũng vừa là cơ hội học hỏi kinh
nghiệm với điện ảnh các nước khác. Tổ chức lần đầu tiên vào năm 1996, liên hoan phim
quốc tế Pusan dần trở thành liên hoan phim lớn nhất tại châu Á, với khoảng 200 đến hơn
300 phim từ số lượng quốc gia ngày một tăng (từ 31 quốc gia năm 1996 đến 73 quốc gia
năm 2005) tham dự. Bên cạnh đó còn có Liên hoan phim quốc tế Jeonju được tổ chức từ
năm 2000, chủ yếu dành cho các phim kỹ thuật số, phim độc lập và phim nghệ thuật.
Vào tháng 6 năm 2006, bộ phim Hollywood "The Lake House" với sự tham gia của
hai siêu sao Sandra Bullock và Keanu Reeves đã ra mắt trong sự mong đợi của nhiều
người. Kịch bản nguyên gốc của "The Lake House" chính là bộ phim nổi tiếng từng đạt
nhiều giải thưởng trong nước của điện ảnh Hàn Quốc "Il Mare" (시월애 - 2000). Được
biết, "The Lake House" chỉ là phim đầu tiên trong một loạt các bộ phim
“Made-in-Hollywood” với kịch bản được viết lại từ một bộ phim Hàn Quốc ăn khách.
Các phim tiếp theo sau là "My Sassy Girl" (엽기적인그녀), "My Wife is mafia" (조폭
마누라), "JSA" (공독경비구역 JSA) , "The Tale of Two Sisters" (장화,홍련) và "Old
Boy” (올드보이).
Một số sách viết về điện ảnh Hàn Quốc đã được xuất bản tại các nước khác như:
“New Korean Cinema” (Điện ảnh Hàn Quốc đổi mới) (2005), Traces of Korean cinema
from 1945-1959 (Chặng đường của phim điện ảnh Hàn Quốc từ 1945-1959, Korean
Film Archive (KOFA) – 2003), Korean Cinema: The new Hongkong (Điện ảnh Hàn
Quốc: Một Hồng Kông mới, Anthony C. Y. Leong, 2002)... Với những thành công gặt
hái được đó, điện ảnh Hàn Quốc đã trở thành hình mẫu cho những nền điện ảnh trẻ như
Việt Nam phải học tập.
V. Hạn chế của điện ảnh Hàn Quốc
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
142
Đối với nền điện ảnh của bất kì một quốc gia nào, sự xuất hiện của dòng phim thương
mại là không thể tránh khỏi. Trong sự phát triển của mình, điện ảnh Hàn Quốc cũng phải
chấp nhận cả sự góp mặt của dòng phim thương mại. Có năm đã có đến 180 bộ phim
thương mại nội dung na ná nhau ra đời, làm bão hoà giá trị nghệ thuật chung của nền điện
ảnh. Chúng ta biết rõ một quy luật rằng: “Có cung thì tất có cầu”. Số lượng khán giả thích
xem các dòng phim thương mại cũng không là ít. Những bộ phim thương mại có nội
dung nhẹ nhàng, cốt chuyện không có gì nổi bật, đặc sắc nhưng mang lại sự giải trí cao,
đem đến tiếng cười cho người xem. Những yếu tố đó hoàn toàn phù hợp với đại đa số
người dân trong xã hội ngày nay muốn xem những phim thị trường với mục đích giải trí
là chính. Nói như thế không có nghĩa là các phim có nội dung sâu sắc, mang tính nghệ
thuật cao không được khán giả đón nhận mà việc đón nhận là ít hơn so với dòng phim thị
trường. Chính vì thế Hàn Quốc cũng cần quan tâm và khắc phục vấn đề này nếu muốn
tiếp tục phát triển và đi lên chuyên nghiệp. Sự phát triển ở đây không chỉ đơn thuần là số
lượng mà quan trọng hơn là chất lượng.
Phim điện ảnh Hàn Quốc giờ đây bị phụ thuộc quá nhiều vào quảng cáo. Nếu không
quảng cáo thì doanh số của phim sẽ giảm hẳn. Nhiều bộ phim thực chất không hay nhưng
được quảng cáo rầm rộ nên thu hút được nhiều khách đến xem. Thực chất thì doanh thu
chủ yếu chỉ dựa vào môt phần của quảng cáo. Những bộ phim thực sự chất lượng dù là
không được quảng cáo rầm rộ nhưng nó vẫn thu hút được nhiều người xem. Tuy nhiên
việc quảng cáo quá sai thực tế cũng là điều mà điện ảnh Hàn Quốc cần lưu tâm và sửa đổi.
Thêm vào đó, việc diễn viên nổi tiếng đòi cát sê cao cũng dẫn đến việc nền điện ảnh
gặp khó khăn, chi phí sản xuất phim ngày càng tăng, một phần bởi mức tăng cát sê mà
diễn viên ngôi sao liên tục yêu cầu leo thang. Theo số liệu, chi phí sản xuất một bộ phim
(trong đó có quảng cáo) đã tăng từ 952.000 USD năm 1998; 3,5 triệu USD năm 2003; lên
khoảng 4 triệu USD năm 2004. Trong khi đó, trong 71 phim phát hành năm 2004, chỉ có
25 phim là đạt lợi nhuận. So với năm 2003, tỉ lệ phim đạt lợi nhuận đã giảm 32% trong
khi chi phí sản xuất tăng 13% và tiếp thị tăng 17%. Lối suy nghĩ quen thuộc rằng phim có
ngôi sao dễ đạt doanh thu cao đã làm vấn đề thêm phần phức tạp. Trước khi bỏ tiền vào
dự án sản xuất, giới đầu tư thường yêu cầu công ty sản xuất mời kéo ngôi sao. Trong khi
đó, số ngôi sao hàng top của điện ảnh Hàn Quốc thật ra không nhiều. Cho nên, nhà sản
xuất buộc phải giành giật ngôi sao bằng cách đề nghị cát sê cao hơn (so với công ty đối
thủ).
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
143
Những câu chuyện trên thật đáng buồn đã cho thấy thật ra điện ảnh Hàn Quốc vẫn còn
ở giai đoạn phát triển chứ chưa thật sự ở mức chuyên nghiệp toàn diện như Hollywood,
trong đó có hệ thống chia tỉ lệ doanh thu cũng như thang mức đánh giá giá trị thị trường
của diễn viên. Để theo kịp điện ảnh thế giới trong đó có kinh đô điện ảnh Hollywood thì
Hàn Quốc sẽ phải nỗ lực thật nhiều để có thể tạo ra một thị truờng điện ảnh chất lượng,
sạch sẽ và chuyên nghiệp hơn.
VI.Điện ảnh Hàn Quốc và bài học cho điện ảnh Việt Nam
Tuy có một số hạn chế nhất định nhưng phải thừa nhận điện ảnh Hàn Quốc chỉ trong
khoảng hơn 10 năm qua đã làm nên một điều kì diệu, đã tạo được một thương hiệu nhất
định trên kịch trường thế giới. Đã có thời điểm Hàn Quốc và Việt Nam ở cùng một xuất
phát điểm nhưng tại sao sau đó điện ảnh Hàn quốc lại vượt xa Việt Nam đến vậy? Chính
sự đổi mới, dám nghĩ dám làm đã khiến điện ảnh Hàn Quốc phát triển mạnh mẽ. Điện
ảnh Việt Nam nếu muốn phát triển, trước tiên là ở trong khu vưc có lẽ nên lấy điện ảnh
Hàn quốc là tấm gương học tập.
Điều cần làm trước tiên là củng cố hệ thống đào tạo những người làm điện ảnh trong
nước, đồng thời nên gửi những cán bộ trẻ tuổi đi du học để sau đó quay về nước làm việc.
Hiện nay vấn đề đào tạo trong ngành điện ảnh vẫn rất lạc hâu. Chính vì thế nên gửi diễn
viên, đạo diễn sang nước ngoài học tập và học hỏi , tiếp cận với nền văn minh điện ảnh
Thế giới. Từ những kiến thức được học, tích luỹ trong quá trình sinh sống mà họ trở về
giúp cho điện ảnh nước ngoài.
Nên tận dụng những nhà làm phim đến từ cộng đồng hải ngoại. Việt Nam, giống như
Hàn Quốc, có hàng triệu công dân đang sống khắp thế giới, đặc biệt nhiều người đang
làm trong ngành giải trí Mỹ. Chính vì thế phải tạo những đãi ngộ đặc biệt để họ quay trở
về, công hiến cho đất nước.
Trong các bộ phim phải sáng tạo, đổi mới về nội dung, tránh gây nhàm chán cho
người xem. Các nhà làm phim phải chấp nhận các yếu tố cởi mở, minh bạch, chấp nhận
rủi ro và có hứng thú, đam mê. Phải biết tận dụng “khả năng đại chúng và tính quốc tế”
của mình để đi trước một bước trên con đường hội nhập. Nhưng hoà nhập không có nghĩa
là hoà tan. Để không hoà tan cái của mình thì tự thân mình phải có nét dáng và bản lĩnh
riêng nên giải pháp đầu tiên phải giữ gìn, tôn vinh bản sắc của nền điện ảnh nước nhà.
Một bộ phim chạy theo “mốt” thời thượng, học đòi theo cách nghĩ, cách dàn dựng của
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
144
một số tác giả điện ảnh nước ngoài một cách dập khuôn, lười biếng thì đều không tìm
được được thiện cảm từ phía người xem cũng như giới phê bình.
Một điều đáng quí ở làn sóng Hàn là nó thể hiện cao độ lòng tự hào dân tộc của
người dân Hàn Quốc. Vậy chẳng lẽ lòng tự tôn dân tộc của ta lại không bằng họ hay sao?
Dĩ nhiên là không phải như vậy. Chỉ có điều chúng ta không biết cách thể hiện nó mà thôi.
Có bao giờ bạn tự hỏi tại sao xem qua một bộ phim, có thể chỉ là xem qua vài cảnh quay
cũng biết đấy là phim Hàn Quốc chưa? Đó là bởi vì trong những bộ phim Hàn Quốc luôn
có những yếu tố Hàn Quốc trong đó: từ những cảnh quay cho đến các vật dụng của diễn
viên như điện thoại, xe hơi, mỹ phẩm, đồ hộp,…Tất cả đều là của Hàn Quốc bởi họ muốn
tôn vinh đất nước mình như một cường quốc trên tất cả các lĩnh vực. Điều này hòan tòan
ngược lại với tâm lý chuộng hàng ngọai của người dân Việt Nam ta. Chỉ là một yếu tố
nhỏ nhưng chính vì biết kết hợp những yếu tố nhỏ này mà nứơc Đại Hàn đã tạo nên hiện
tượng Hallyu có sức ảnh hưởng mạnh mẽ như hiện nay. Ở Việt Nam không thiếu gì
những cảnh đẹp, những món ăn đặc trưng, âm nhạc của chúng ta cũng không thiếu những
tác giả nổi tiếng, chúng ta cần phải biết khai thác và tận dụng để tạo nên 1 bộ phim hay.
Điện ảnh Việt Nam cần những nhà hoạch định chính sách biết nhìn xa trông rộng.
Cần phải có những mục tiêu dài hơn, sau 5 năm, 10 năm, 20 năm. Và để thực hiện được
những mục tiêu đó thì cần phải làm những gì và làm như thế nào? Ở tầm vĩ mô như vậy
nếu không phải Nhà nước thì không có cá nhân hay tổ chức nào làm nổi.
Cần có một chiến lược nghiên cứu thị hiếu khán giả và quảng bá các tác phẩm điện
ảnh. Để có một chỗ đứng cho sản phẩm (dù là sản phẩm văn hoá) thì yếu tố quảng cáo là
điều không thể thiếu. Và cách quảng bá thế nào cho hiệu quả thì Việt Nam sẽ phải học từ
Hàn Quốc nhiều.
Chúng ta cũng cần phải đầu tư máy móc, thiết bị, trường quay hiện đại nhằm tạo ra
được những bộ phim không chỉ có nội dung hay mà còn có hình thức bắt mắt. Đây cũng
là một vấn đề nhức nhối trong điện ảnh Việt Nam. Hãng phim truyện Việt Nam là hãng
phim lớn nhất nước ta nhưng lại trực thuộc quyền quản lý của nhà nước. Nhà nước thì
không dám tài trợ nhiều kinh phí cho hãng ví thực chất điện ảnh Việt Nam vẫn chưa phát
triển. Các đoàn làm phim tư nhân thì lại có quy mô nhỏ, chưa đủ sức có nhiều vốn đầu tư.
Tất cả điều này dẫn tới việc máy móc, thiết bị phục vụ cho điện ảnh nước nhà rất lạc hậu
và thiếu thốn.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
145
Phát triển thị trường điện ảnh, có nghĩa là khuyến khích đầu tư xây dựng phát triển
hệ thống rạp. Rạp Việt Nam còn nhỏ, ít phòng chiếu, kém hiện đại. Hiện đại nhất Việt
Nam là rạp Mega Star với nhiều phòng chiếu hiện đại xem được những bộ phim 3D. Tuy
vậy đây cũng là rạp của nước ngoài đầu tư nên giá vé rất đắt, không phù hợp với mức
sống của người Viêt Nam.
Những bài học trên từ điện ảnh Hàn Quốc chúng ta hoàn toàn có thể làm được, để
giúp cho nền điện ảnh Việt Nam ngày càng phát triển, vì suy cho cùng, con người ở mọi
nơi muốn xem những bộ phim có chất lượng, hấp dẫn, bằng ngôn ngữ mẹ đẻ.
Phần III: Kết thúc vấn đề
Tuy còn tồn tại một số mặt hạn chế, nhưng không thể phủ nhận điện ảnh Hàn Quốc
dưới ảnh hưởng của Hallyu đã có những bước phát triển vượt bậc. Chỉ trong một khoảng
thời gian ngắn, khoảng hơn 10 năm trở lại đây, điện ảnh Hàn Quốc đã có được những
thành công trong nhiều thể loại, đề tài khác nhau; phục vụ, chiều lòng nhiều đối tượng
khán giả từ thanh thiếu niên, các bà nội trợ,... cho đến cả những nhà phê bình phim khó
tính. Văn hóa Hàn Quốc trở nên phổ biến hơn bao giờ hết. Cùng với nền kinh tế phát
triển, đứng thứ ba ở châu Á và đứng thứ 10 trên thế giới (theo thống kê GDP năm 2006),
văn hóa – giải trí nếu tiếp tục phát triển theo đà này sẽ giúp Hàn Quốc dần trở thành một
cường quốc trên thế giới. Điện ảnh Hàn Quốc ngày nay có thể nói là không còn thua kém
gì nhiều khi đem so sánh với điện ảnh Hollywood, châu Âu hay nền điện ảnh trong khu
vưc. Một sự thật đáng buồn rằng, phim Hàn Quốc cùng với phim Trung Quốc và phim
Hollywood đang lấn át vị trí của phim điện ảnh Việt Nam tại các phòng vé: suất chiếu,
phòng chiếu nhiều hơn, vé bán chạy, đem lại doanh thu cao hơn,…Khán giả Việt Nam
dần dần chuộng phim nước ngoài hơn phim nước mình, không hẳn là vì “sính ngoại”,
chạy theo trào lưu, mà thực sự phim Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thưởng
thức điện ảnh của khán giả trong nước, chưa kể đến bắt chước phim ảnh nước ngoài,
quảng bá phim rầm rộ, gây sốc trong khi nội dung, ý tưởng không có gì nổi trội. Đây là
một thực trạng đáng buồn của điện ảnh Việt Nam…Nếu biết nhìn ra và sửa đổi sớm thì
biết đâu vào một ngày nào đó trong tương lai, điện ảnh Việt Nam có thể hãnh diện sánh
vai cùng điện ảnh Hàn Quốc trong khu vực và trên Thế giới.
Bài nghiên cứu của chúng tôi có lẽ chưa đủ chuyên sâu, còn nhiều điểm hạn chế
nhưng cũng phần nào cho mọi người một cái nhìn tổng quan về điện ảnh Hàn Quốc thời
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
146
kì Hallyu. Chúng tôi rất mong nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ, đóng góp ý kiến từ phía
thầy cô, những người có kiến thức sâu về điện ảnh cũng như điện ảnh Hàn Quốc, bạn bè
để bài nghiên cứu khoa học này được hoàn thiện hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách: “Hàn Quốc đất nước con người”
Trang web: http://www.hanquocngaynay.com
http://www.vietnam.korean-culture.org
http://www.wikipedia.org
http:// www.hancinema.net
http://www.dienanh.net
http://www.krfilm.net
http://www.iuphimhan.com.
XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN!
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
140
HWANG JIN YI
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Bùi Thị Bạch Dương
Sinh viên thực hiện :Nguyễn Thị Mến 2H-07
Lý Thị Kim Dung 2H-07
I. Mở đầu
Hwang Jin Yi – hay còn được gọi với cái tên của gisaeng (kỹ nữ) là Myeongwol
(tạm dịch là Minh Nguyệt) là một trong những kỹ nữ nổi tiếng nhất triều đại Joseon
thế kỉ XVI với một nhan sắc vẹn toàn và một tài năng xuất chúng. Cuộc đời đầy trắc
trở và bí ẩn của nàng luôn là đề tài rộng lớn và hấp dẫn đối với các nhà văn, nhà thơ và
các nhà nghiên cứu hậu thế. Cuộc đời thực của nàng Hwang Jin Yi đã trở thành chủ đề
của rất nhiều tiểu thuyết nổi tiếng, nhiều bộ phim và nhạc kịch đương đại xứ Hàn, là
đại diện cho quyền bình đẳng nam nữ ở Hàn Quốc cho đến tận ngày nay. Qua bài báo
cáo này chúng tôi hy vọng có thể giúp bạn đọc hiểu rõ nét hơn về cuộc đời cũng như
tài năng của Hwang Jin Yi để thấy được phần nào về con người và xã hội phong kiến
Hàn Quốc xưa.
Bài báo cáo của chúng tôi bước đầu giới thiệu về cuộc đời Hwang Jin Yi, tập trung
đi sâu phân tích tài năng và sự nghiệp của người kỹ nữ bậc nhất Joseon này.
II. Nội dung
1. Hoàn cảnh xã hội và đôi nét về gisaeng (kỹ nữ)
Triều đại Joseon (1392-1905), xã hội Hàn Quốc chịu ảnh hưởng nặng nề của chế độ
phong kiến. Từ lối sống, phong tục, tập quán cho đến cách suy nghĩ của con người đều
mang nặng tư tưởng phong kiến mà trong đó nổi bật nhất là “tính lý học”.
“Tính lý học” được tiếp nhận từ cuối thời Goryeo, đã trở thành ý niệm thống trị ở
thời Joseon. “Tính lý học” coi trọng nam giới, ngược lại vị trí của người phụ nữ dần
mất đi. Điển hình tiêu biểu là tư tưởng trọng nam khinh nữ, tam tòng (tại gia tòng phụ,
xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử) tứ đức (công, dung, ngôn, hạnh). Khi nhìn vào
những luật lệ hà khắc trong xã hội Joseon xưa, ta có thể thấy được nỗi thống khổ,
những thiệt thòi mà người phụ nữ phải âm thầm chịu đựng. Người phụ nữ từ khi sinh
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
141
ra đã bị phân biệt đối xử, không được học hành như nam giới, chỉ được học thêu thùa,
khâu vá... Hơn nữa, người phụ nữ kết hôn rồi phải sống cuộc sống đầy vất vả, nhọc
nhằn, phục dịch chồng, gia đình nhà chồng như nô lệ. Đàn ông có thể năm thê bảy
thiếp, còn người phụ nữ ngay cả việc ghen tuông với các thê thiếp của chồng cũng là
điều cấm kỵ. Nếu đã kết hôn thì người phụ nữ luôn luôn phải phục tùng theo lời của
chồng, nhiều khi còn phải sống một mình đơn độc. Không những thể xác và tâm hồn
bị giày vò mà thậm chí còn phải chịu gánh nặng về kinh tế. Vì thế nên ở thời Joseon
xưa, có rất nhiều người phụ nữ đã tự tìm cho mình lối thoát bằng con đường tự sát
hoặc trở thành kỹ nữ.
Ở Hàn Quốc, cũng như những geisha của Nhật, gisaeng là những người có vị trí
thấp trong xã hội và phải chịu những đạo luật rất hà khắc. Trong khi gisaeng luôn phải
coi mình là một nghệ sĩ thực thụ thì xã hội chỉ đơn giản coi họ là những kỹ nữ mua vui.
Chính vì lẽ đó, một cuộc đấu tranh khắc nghiệt đã nổ ra – âm thầm nhưng dai dẳng –
giữa những người kỹ nữ tài sắc và định kiến của xã hội. Do vậy, mỗi gisaeng đều phải
khổ luyện để có thể trở thành một kỹ nữ tài năng. Bởi không chỉ cần có sắc đẹp, họ cần
phải có tài thì mới mong tồn tại được trong xã hội Hàn Quốc khi xưa. Vì thế họ là bậc
thầy về việc giữ gìn sức khỏe, chăm sóc sắc đẹp và kiên trì trong luyện tập đến mức
khó tin.
2. Cuộc đời nàng Hwang Jin Yi
Cuộc đời của Hwang Jin Yi là một chuỗi những thành công và cũng lắm cay đắng.
Câu chuyện về Hwang Jin Yi cũng là một bài học về sự cố gắng vươn lên và đạt tới
thành công của một người phụ nữ, giống như Dea Jang Geum. Hwang Jin Yi là con
của Hyeon Geum, một gisaeng mù. Cha của cô là một quý tộc thượng lưu. Vì bà
Hyeon Geum vốn là một gisaeng nên không được phép gả vào nhà quý tộc, phải sinh
con trong bí mật và sống rất khổ sở. Nhìn vào hoàn cảnh của mình, bà lo sợ, sau này
con gái mình sinh ra cũng sẽ gặp phải điều tương tự. Vì trong giới gisaeng có một điều
luật “con gái của gisaeng cũng fải trở thành gisaeng” nên bà đã nói dối rằng con mình
đã chết rồi đưa con lên một ngôi chùa ẩn cư, mong rằng không ai biết đến. Thế nhưng,
với dòng máu nghệ thuật của mẹ chảy trong huyết mạch, Hwang Jin Yi đã sớm bộc lộ
tài năng của mình, tự mình xin vào học trường đào tạo kỹ nữ. Chính từ đây, cuộc đời
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
142
cô đã rẽ sang một bước ngoặt mới – tiến đến con đường trở thành một gisaeng chân
chính.
Tình yêu đầu tiên của Hwang Jin Yi là Kim Eun Ho, một công tử con nhà quí tộc.
Dĩ nhiên, xã hội phong kiến thời đó không thể nào chấp nhận mối quan hệ này. Eun
Ho đã làm tất cả để bảo vệ tình yêu của mình nhưng không được và chàng đã ra đi khi
còn rất trẻ. Vì cái chết của người yêu, Jin Yi nuôi lòng căm thù. Nàng khổ luyện để trở
thành một gisaeng tài năng, bằng khả năng của mình trả thù giới quí tộc. Nàng không
ngại đi khắp nơi khắp chốn để học các điệu múa dân gian, chịu khổ cực để học hỏi
kinh nghiệm của các nghệ sĩ khác, thậm chí học từ chính kẻ thù của mình. Với cá tính
và sự sắc sảo của mình, Jin Yi đã trở thành một kỳ nữ và nổi danh khắp xứ Triều Tiên
vì tài năng và sắc đẹp của mình. Cả cuộc đời của nàng đã cống hiến trọn vẹn cho tình
yêu và niềm đam mê nghệ thuật.
Hwang Jin Yi bằng sắc đẹp tuyệt vời và sự thông minh, sắc sảo và tài năng nghệ
thuật vượt trội đã giành được tình cảm của nhiều người có vai vế trong xã hội.
Giữa một xã hội đầy những định kiến hà khắc và bất công với người kỹ nữ, bằng
tình yêu trong sáng, chân thành và mãnh liệt, chàng công tử Kim Eun Ho đã mang đến
cho Hwang Jin Yi cuộc sống thực sự có ý nghĩa, cảm giác được tôn trọng, là một con
người, một nghệ sĩ chân chính. Kim Eun Ho là chàng công tử con nhà giàu, bị vẻ đẹp
Kim Eun Ho (?-?) là con một gia đình quí tộc, bố là quan lại trong triều, mẹ là mẫu hình phụ nữ phong kiếnquí tộc điển hình
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
143
và tài năng của Jin Yi cuốn hút. Chàng cảm mến người con gái ấy bằng tình yêu trong
sáng của chàng trai trẻ mới bước vào đời. Chàng không khuất phục trước bất kỳ một
định kiến xã hội nào. Tiếc thay người ngăn cản chàng đến với Jin Yi lại chính là người
mẹ mà chàng tôn kính. Chữ hiếu và chữ tình không thể trọn vẹn đôi đường, chàng
không đủ sức lực để vượt qua, và đã ra đi quá sớm trong nỗi đau tình yêu dang dở.
Rời xa tình yêu đầu đời đầy mơ mộng với những xúc cảm ngây thơ trong sáng,
Hwang Jin Yi đã tìm thấy tình yêu ở Kim Jeong Han và Byeok Gye Soo bằng sự
kính trọng và cảm phục.
Trải qua nhiều mối tình nhưng Seo Kyung Deok mới là người mà Hwang Jin Yi
thực sự yêu. Seo Kyung Deok là một học giả có học vấn uyên thâm, không lung lay
trước sự mê hoặc của Hwang Jin Yi. Vì thế Hwang Jin Yi đã thực sự cảm phục,
ngưỡng mộ và xin làm học trò của vị hiền triết này. Hai người đã trở thành tri kỷ, cùng
nhau đàm đạo về thơ văn, về nghệ thuật và giành cho nhau những bài thơ đã trở thành
tuyệt tác.
3. Tài năng, sự nghiệp
Hwang Jin Yi không chỉ có nhan sắc tuyệt vời mà còn là một người rất đa tài, đã để
lại cho đời những kiệt tác nghệ thuật ở nhiều lĩnh vực như hội họa, ca hát, đàn, múa....
3.1 - Tài năng hội họa
Kim Jeong Han (?-?) là vị quan am đảm đương về âm nhạc trong triều, am hiểu về âm luật, có vốn kiến thứcsâu rộng về các bộ môn nghệ thuật như đàn, hát, múa...Ồng được coi là người giữ gìn âm nhạc truyền thống củaJoseon. Byeok Gye Soo (?-?) là nhà thơ – nhà văn, khanh tước quý tộc, tự nhận mình là “jeon ha jeong nam”(천하정남) có nghĩa là thiên hạ đệ nhất quân tử. Seo Kyung Deok (1489-1546) là một học giả có tiếng thời Joseon được nhiều người kính trọng và tôn sùng. Theo cuốn “High Top Gojeon siga” (High Top고전시가) của NXB Deuk San Dong Ah (득산동아).
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
144
Tuy hội họa không phải tài năng nổi bật nhất của Hwang Jin Yi nhưng nàng cũng
rất am hiểu về hội họa, thư pháp. Những tác phẩm của nàng không chỉ nổi bật bởi
những đường nét mềm mại mà còn toát lên được sự mạnh mẽ, cứng cỏi. Qua đó cũng
phần nào nói lên tính cách của nàng, vừa dịu dàng, nữ tính, vừa sắc sảo, kiên cường.
Trong cái xã hội ấy, tài năng của Hwang Jin Yi quả là một kỳ tích hiếm có.
3.2 - Tài năng đàn hát
Từ nhỏ, Hwang Jin Yi đã bộc lộ những năng khiếu về ca múa. Jin Yi có giọng hát
đẹp và trong trẻo. Khi nàng cất tiếng hát, giọng hát âm vang, du dương lay động đến
cả trời xanh, làm xao xuyến lòng người. Tiếng hát mượt mà của nàng khiến cho người
nghe bị cuốn hút, chìm đắm vào thế giới tình cảm của riêng nàng. Những âm vực cao
thấp, trầm bổng rõ ràng, tách bạch mà vẫn cho người nghe sự linh hoạt, hoà quyện,
gắn kết trong đó. Giọng hát của Jin Yi không chỉ dừng lại ở những âm thanh sáng, đẹp
đơn thuần mà còn mang đến cho người nghe cảm giác như được thoát khỏi chốn phàm
tục tầm thường, lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh. Để có được giọng hát đó, Jin Yi cũng
đã phải khổ luyện rất nhiều, phải nín thở ngâm mình dưới nước thật lâu để giữ hơi và
độ trong của giọng hát.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
145
Jin Yi được thừa hưởng năng khiếu đánh đàn và sự chỉ bảo tận tình của mẹ - một
kỳ nữ bậc thầy về đàn gayageum (một loại đàn 6 dây của Hàn Quốc). Khi nàng đánh
đàn, đó không phải là động tác dùng tay để gảy nên âm thanh mà là sự đánh thức linh
hồn cây đàn, truyền cảm hứng vào từng dây đàn, dùng tiếng đàn nói hộ lòng mình.
3.3 - Tài năng múa
Tài năng nghệ thuật của Hwang Jin Yi không chỉ dừng lại ở tiếng đàn du dương,
giọng hát mê đắm lòng người mà còn được thể hiện rõ nét qua từng điệu múa xuất
thần. Nàng múa mềm mại, uyển chuyển như cánh hoa bay trong gió. Khi nàng múa,
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
146
người xem như bị cuốn theo từng động tác xoay người, nhún chân nhẹ nhàng, khéo léo.
Những điệu múa đòi hỏi tài năng nghệ thuật bậc thầy như múa sếu, múa dao hay múa
trống đều được Jin Yi thể hiện rất thành công. Chẳng hạn như điệu múa dao, đòi hỏi
tinh thần tập thể rất cao, làm sao phối hợp được nhịp múa với bạn diễn của mình, làm
sao “dao múa” không bị rối vào nhau, bản thân mỗi “cây dao” mà kỹ nữ cầm cũng là
một nhạc cụ, hoà nhịp với bước chân của họ khi biểu diễn. Trong khi đó, múa sếu là
một điệu múa đơn, người múa phải học được dáng bay của chim sếu, khi múa, chân
nhảy lên thật cao khỏi mặt đất nhưng không được phép để cho người xem nhìn thấy
chân của mình… Khi ấy, người vũ nữ thực sự như đang bay…Quá trình luyện tập
cũng không hề dễ dàng. Để giữ lưng thẳng và dáng đẹp, nàng phải học đi dây trên
không, để học tư thế của một con chim khi đang bay, nàng phải treo mình trên dây, lơ
lửng trên không, cứ như thế từ sáng đến tối, cho đến khi nào không chịu được nữa thì
thả tay ra và rơi xuống đất.
Hwang Jin Yi là một nghệ sĩ thực thụ, luôn biểu diễn bằng cả tâm hồn và trái tim.
Có lẽ chính vì thế mà mỗi lời ca, điệu múa, bản nhạc của nàng đều là kết tinh nghệ
thuật chân chính, làm lay động tâm hồn con người suốt nhiều thế kỷ qua. Qua đó,
Hwang Jin Yi đã bộc lộ sự khao khát yêu thương của một trái tim chung thuỷ, mong
muốn được tôn trọng, thoát khỏi thân phận bị khinh rẻ trong một xã hội hà khắc. Đồng
thời cũng cho thấy niềm đam mê nghệ thuật cháy bỏng, ước muốn vươn tới đỉnh cao
của cái đẹp.
3.4 - Tài năng văn thơ
Trong xã hội phong kiến Joseon cổ khi “tính lý học” trở thành ý niệm thống trị thì
số phận người phụ nữ càng trở nên đau khổ, họ bị phân biệt đối xử, không được học
hành. Thế nhưng giữa cái xã hội hà khắc và đầy rẫy bất công ấy vẫn xuất hiện những
kỳ nữ am hiểu kinh thư, cho ra đời những tuyệt tác thơ văn không thua kém bất kỳ một
vị học giả quý tộc nào. Đó chính là Hwang Jin Yi. Nàng không những là bậc thầy về
nghệ thuật thi ca, tiếng thơ của nàng mang hơi thở mới cho thể loại Sijo. Thơ của nàng
tràn trề nữ tính, là tiếng lòng khao khát yêu thương, thuỷ chung son sắt của người phụ
nữ trong xã hội phong kiến. Có lẽ chính vì thế mà sức sống mãnh liệt trong mỗi tác
phẩm của nàng vẫn âm ỉ cháy cùng thời gian và trong tâm hồn mỗi người đọc.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
147
Sijo là thể thơ cổ của Hàn Quốc được hình thành trong quá trình phát triển một
hình thức thể hiện mới để truyền đạt những ý niệm nho giáo mà không thể biểu hiện
bằng những hình thức văn học cơ bản. Đây là thể thơ rất khó nên chỉ có tầng lớp quý
tộc và trí thức trong xã hội cũ mới có thể sáng tác được. Cũng giống như thể Đường
luật, Sijo đòi hỏi người sáng tác phải nắm vững và vận dụng tốt âm luật chặt chẽ của
nó. Một nhà thơ có tài năng thực sự là nhà thơ mà dù bị trói buộc trong cái âm luật
chặt chẽ ấy vẫn phải thể hiện được cái tôi, cá tính riêng, đồng thời thể hiện được cả nội
dung, tình cảm mà mình muốn gửi gắm. Hwang Jin Yi là một nhà thơ như thế. Vẫn với
những âm luật chặt chẽ nhưng Hwang Jin Yi không những bày tỏ được tâm sự, nỗi
lòng thầm kín, những tình cảm chất chứa trong sâu thẳm tâm hồn mà còn giành được
sự cảm thông, xót thương của biết bao thế hệ người đọc.
Thơ của Hwang Jin Yi hầu hết là tâm sự, là tình cảm của những người phụ nữ trong
xã hội xưa. Dường như màu sắc chủ đạo trong thơ của Hwang Jin Yi là màu của tình
yêu tha thiết, của ly biệt, màu của nỗi nhớ nhung cồn cào, da diết. Nếu như trong thơ
văn thời Goryeo, giây phút ly biệt nhanh chóng qua đi thì trong thơ của Hwang Jin Yi
(thơ trữ tình) những giây phút ấy cứ trải ra mãi, nhân vật trữ tình thường tự suy ngẫm
một mình, độc thoại nội tâm. Hình như nỗi buồn cứ nhẹ nhàng lan thấm... Khi trải qua
giây phút chia xa, hai người có thể thấu hiểu cho nhau cũng có thể oán hận nhau, đó
cũng chỉ là những thay đổi tình cảm hết sức tự nhiên của con người. Ta cũng có thể dễ
dàng bắt gặp trong thơ Hwang Jin Yi sự cảm thông, chia sẻ, nhưng cũng có thể thấy cả
sự trách móc, hờn dỗi được diễn tả khéo léo, tinh tế và rất tự nhiên của con người.
Dù màu sắc chủ đạo trong thơ của Hwang Jin Yi là màu ly biệt nhưng ở mỗi bài lại
thấy được cách thể hiện rất khác biệt, độc đáo và ấn tượng. Đôi khi là nỗi oán hận khi
phải chia xa, đôi khi là tình yêu dạt dào, tha thiết, đôi khi là sự thấu hiểu, cảm thông
khi phải xa cách nhau, nhưng đôi khi còn là sự hững hờ, lạnh nhạt với người yêu... Với
những chất liệu độc đáo và hình tượng như “mây, gió, núi, nước, trăng, cây, lá....”
Hwang Jin Yi đã điều khiển ngôn từ như một nghệ sĩ làm xiếc điêu luyện, thành thục,
khéo léo để cho chúng ta mỗi khi đọc những tác phẩm của nàng không hề cảm thấy sự
gượng gạo, khô cứng của từ ngữ do những quy tắc, âm luật gò bó của thơ cổ mà luôn
Sijo là thể thơ cổ chính thống của Hàn Quốc thời Joseon với âm luật rất chặt chẽ: 3 câu, 6 cụm, 12 âm bộ(3구, 6장, 12음보). Theo http://naver.com
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
148
thấy những hình ảnh mà nàng xây dựng lên vô cùng sống động, gợi tả, theo đó nội
dung thơ cũng rất dễ hiểu, tự nhiên và hàm xúc
Chúng ta hãy cùng phân tích một số tác phẩm tiêu biểu để thấy được nét độc đáo
riêng và tài năng văn thơ xuất chúng của Hwang Jin Yi.
a. ‘어져내일이야’ (Là chuyện của em mà)
아이고,내일인데그리워할줄을몰랐겠느냐?
있으라하면가겠냐만은제구태어
보내고나서그리워하는마음을나도모르겠구나.
Tác phẩm được viết bằng hình thức độc thoại nội tâm, diễn tả nỗi than phiền, trách
móc, sự hối hận, ăn năn sau khi người yêu ra đi. Thông qua những lời thơ đơn giản,
bài thơ đã vẽ nên một cách khéo léo, tinh tế những giằng xé, mâu thuẫn sâu bên trong
nội tâm người phụ nữ. Bên ngoài thì giả vờ mạnh mẽ, kiên cường nhưng bên trong lại
rất yếu đuối và cô đơn. Bằng những ngôn từ đơn giản nhưng nữ nhà thơ đã làm toát
lên được tấm chân tình mộc mạc mà cảm động của mình đối với người yêu.
b. ‘내언제무신하여’ (Sao anh lại không tin em)
내언제무신하여님을언제속였관대
월침삼경에온뜻이전혀없네.
추풍에지는잎소리야난들어이하리오
Tác phẩm đã thể hiện sự trách móc đầy chất thơ của cô gái đối với người mình yêu
thương. Sự hờn giận của cô gái được thể hiện qua bút pháp tinh tế và tràn đầy cảm
xúc. Ngoài việc giữ đúng luật cách của thể loại Sijo, bài thơ còn được lồng vào những
hình ảnh thiên nhiên rất sống động: đêm trăng tĩnh lặng nhưng lòng những người yêu
nhau lại xao động không yên, nghe tiếng lá rơi trong gió mà ngỡ như tiếng bước chân
người yêu quay về… Cách sử dụng hình ảnh tinh tế ấy cho chúng ta thấy nỗi nhớ
người yêu tha thiết, sâu sắc đến nhường nào.
Bằng tâm hồn nhạy cảm và bút pháp tinh tế, tác giả như truyền được cảm hứng cho
người đọc, trái tim người đọc như hoà cùng nhịp đập với trái tim thổn thức nhớ nhung
của người chờ đợi.
Đây là bài thơ đối đáp với bài thơ ‘마음이 어린 후이니’-(Trái tim dại khờ) của
Seo Kyung Deok gửi cho nàng.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
149
‘마음이어린후이니’ (Trái tim dại khờ)
마음이어린후이니하는일이다어리다
만중운산에어느님오랴마는
지는잎부는바람에행여긴가하노라.
Seo Kyung Deok đã lấy Hwang Jin Yi làm đối tượng sáng tác bài thơ này. Hình
ảnh núi phủ đầy mây là hình tượng khắc họa rõ nét nỗi nhớ nhung, sự chờ đợi, đồng
thời là nỗi buồn khi bị ngăn cản, chia cách, không được gặp người yêu. Bằng những
hình tượng rào cản như “mây cao”, “núi sâu”, ảo giác ở câu thơ cuối đã nhấn mạnh
mâu thuẫn trong nội tâm của nhân vật trữ tình, lý giải cho sự ngốc nghếch, dại khờ ở
câu thơ đầu.
c. ‘동짓달기다긴밤을’ (Đêm đông chí)
동짓달기다긴밤을한허리를버혀내어,
춘풍이불아래서리서리너엏다가,
어론님오신날밤이여든구뷔구뷔펴리라.
Hwang Jin Yi đã lấy bối cảnh sáng tác bài thơ là đêm đông chí, phải chăng tác giả
ngụ ý cho chúng ta thấy được nỗi cô đơn khi xa vắng, nỗi nhớ người yêu trải dài vô tận
trong đêm đông. Theo thiên văn học thì đêm đông chí là đêm dài nhất trong năm,
dường như bối cảnh đêm đông chí lại làm cho nỗi nhớ người yêu của người con gái
như mạch nguồn chảy mãi không ngừng. Đặc biệt các cụm từ như “서리서리
너헛다가”- “seo ri seo ri neo heos da ga”(cuộn lại) và “구뷔구뷔펴리라”- “goo buy
goo buy pyeo ri ra”(mở cong cong) ở phần giữa và cuối tác phẩm được gieo vần hiệu
quả và điêu luyện trong việc lột tả tâm trạng của người con gái tinh tế, nhạy cảm. Với
nghệ thuật miêu tả đậm tính hình tượng thậm chí là đối lập (đêm đông và chăn ấm) tác
giả đã diễn tả khéo léo, tinh tế tình yêu và nỗi nhớ da diết. Hơn nữa thủ pháp hình
tượng hoá thời gian trừu tượng bằng sự vật cụ thể đã đem đến cho độc giả ấn tượng
mới lạ và độc đáo. Đây chính là nét nổi bật, đặc biệt mà ta không thể tìm thấy ở bất kỳ
nhà thơ nào ngoài Hwang Jin Yi.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
150
Bằng những bộc bạch thầm kín, chân thành thốt lên từ tận đáy lòng, nhân vật trữ
tình thấy đêm đông đợi chờ sao dài thế mà những đêm gió xuân ở cạnh người yêu lại
ngắn ngủi đến vậy. Có lẽ chính vì vậy mà nàng đã ao ước cắt được đêm đông dài dằng
dặc này, để dành cho những đêm gặp gỡ sau này. Qua cái ước nguyện tưởng chừng
như ngây ngô, ngốc nghếch đó, độc giả lại cảm nhận được ẩn chứa bên trong đó là sự
chân thành tha thiết của một trái tim đang yêu, thổn thức vì nhớ mong, chờ đợi. Người
con gái trong bài thơ muốn phá vỡ khoảng thời gian chết lặng trong đêm đông chờ đợi,
quay trở lại những giây phút hạnh phúc khi ở cạnh người yêu.
d. ‘산은녯산이로되’ (Núi vẫn là núi xưa)
산은녯산이로되물은녯물이안이로되
주야에흘은이녯물이이실쏜
인걸도물가갓하야가고안이오노매라
Nhận thức thế giới mang tính lưỡng diện của Hwang Jin Yi được thể hiện qua
những từ ngữ lôi cuốn, hình tượng đã cho chúng ta thấy được phương diện đối lập mâu
thuẫn nhưng lại hoà hợp với nhau. Cấu trúc thơ “심층구조” (sim chueng goo jo) - đối
lập và hoà hợp giữa chủ thể và đối tượng mà những tác phẩm của Hwang Jin Yi thể
hiện đã so sánh người ra đi (đối tượng) là nước và cái tôi (chủ thể) khiêm nhường ở lại
là núi. Núi thể hiện cái tôi bất biến, ngụ ý về một tình cảm thụ động, đợi chờ, thuỷ
chung và trái lại hình tượng nước thể hiện tính biến hoá, bản chất hay thay đổi.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
151
Hwang Jin Yi làm xuất hiện hai hình ảnh đối lập; một là núi thụ động, thầm lặng,
một là nước luôn lay động, thay đổi. Núi là hình tượng thiên nhiên cố định, lặng lẽ và
bất biến. Đó là biểu tượng cho cái tôi của tác giả không bao giờ thay đổi. Trái lại
“nước” là biểu tượng cho trái tim của người con trai hay thay đổi, không bao giờ bình
lặng. Ngọn núi của bây giờ vẫn mãi là ngọn núi của ngày xưa nhưng nước của bây giờ
thì không phải là nước của ngày xưa nữa. Dòng nước thì ngày ngày đêm đêm chảy trôi
chẳng khi nào dừng lại nên khó có thể nào vương lại những giọt nước của ngày xưa.
Tác phẩm của Hwang Jin Yi không chỉ là những tuyệt tác nghệ thụât đặc sắc mà nội
dung những bài thơ của nàng còn ẩn chứa những lý luận triết học bậc thầy. Ở bài thơ
này tác giả dường như đã thoát khỏi tình cảm mang tính cá nhân để thể hiện cái nhìn
mang tầm rộng lớn về vụ trụ, về con người, dũng cảm thể hiện bản chất thực sự của
thơ và bày tỏ chân lý về cuộc sống. Sự am hiểu và việc thể hiện rất tự nhiên, khéo léo
cách nhìn thế giới, cuộc đời đầy tính triết học qua những bài thơ cổ với những quy tắc,
âm luật gò bó của Hwang Jin Yi là một điều hiếm thấy và là một điều đáng ngưỡng mộ
trong xã hội ngăn cản, kìm hãm sự phát triển tri thức của người phụ nữ.
Nàng Hwang Jin Yi đã được miêu tả trong nhiều tác phẩm văn chương đương đại
như tiểu thuyết của Hong Seok Jeong, Jeon Gyeong Rin hay “Na, Hwang Jin Yi” của
Kim Tak Hwan ( , _ ). Tiểu thuyết của Hong Seok Jeong là tiểu thuyết
Bắc Triều Tiên được giải thưởng của Nam Triều Tiên vào năm 2002. Còn bộ tiểu
thuyết 2 tập của Jeon Gyeong Rin thì đã trở thành Bestseller vào năm 2004.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
152
Trong mảng nghệ thuật thứ bảy, cuộc đời Hwang Jin Yi cũng được khai thác khá rõ
nét thông qua hai bộ phim. Bộ phim truyền hình 24 tập “Hwang Jin Yi” được hãng
KBS thực hiện năm với sự tham gia của diễn viên Ha Ji Won đã gây được tiếng vang
khá lớn, tỉ suất người xem cũng rất cao.
Đến năm 2007, bộ phim điện ảnh về Hwang Jin Yi do Song Hye Kyo thủ vai chính,
lại được ra mắt khán giả. Tuy không đạt được thành công vang dội như bộ phim truyền
hình nhưng cũng để lại trong lòng khán giả những ấn tượng sâu sắc về hình ảnh người
kỹ nữ tài hoa.
Cuộc đời của Hwang Jin Yi đã phá vỡ rào cản giai cấp cứng nhắc trong xã hội Hàn
Quốc xưa. Là biểu tượng của nghệ thuật và cá nhân, là chủ đề của vô số tiểu thuyết,
phim và nhạc kịch, Hwang Jin Yi vẫn là đại diện cho quyền bình đẳng nam nữ ở Hàn
Quốc cho đến ngày nay.
III. Lời kết
Bằng vẻ đẹp ngoại hình và tài năng tuyệt vời, Hwang Jin Yi đã rũ bỏ thân phận của
một kỹ nữ bị khinh rẻ để trở thành một kỳ nữ thực thụ, được tôn trọng và ngưỡng mộ
với những tác phẩm tuyệt vời.
Qua việc tìm hiểu cuộc đời thăng trầm, đau khổ nhưng cũng đầy vinh quang của
Hwang Jin Yi, chúng ta càng thêm cảm thông và thương xót cho số phận người phụ nữ
tài hoa bạc mệnh trong xã hội cũ với những định kiến hà khắc.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
153
Bài báo cáo của chúng tôi không đi sâu phân tích cuộc đời Hwang Jin Yi mà tập
trung chủ yếu để làm nổi bật rõ tài năng và sự nghiệp của nàng. Do vốn hiểu biết còn
hạn chế nên trong quá trình làm báo cáo chắc chắn còn nhiều thiếu sót về nội dung
cũng như phương pháp trình bày. Vì vậy, chúng tôi mong nhận được sự đánh giá và
đóng góp để bài báo cáo được hoàn thiện hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- http://www.naver.com
- Cuốn “Na, Hwang Jin Yi” của Kim Tak Hwan (나,황진이_김탁환)
- Cuốn “ High Top Go jeon si ga” của NXB Deuk San Dong Ah (High Top
고전시가_득산동아)
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
154
NHỮNG ĐIỀU CẤM KỊ TRONG VĂN HÓA HÀN QUỐC
Giáo viên hướng dẫn : Đặng Hồng Vân
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Phương Thảo 3H08
Nguyễn Thị Thúy Ngà 3H08
Nguyễn Thị Hiền 3H08
Nguyễn Thị Lan 3H08
Nguyễn Thị Lâm 3H08
Lưu Thị Anh 3H08
A. Đặt vấn đề
Có nhiều người hỏi chúng tôi rằng : “Tại sao bạn lại chọn ngành học ngoại ngữ mà
sao không học kinh tế hay tài chính ngân hàng- một ngành học đang thu hút rất nhiều
sự quan tâm của đông đảo giới trẻ?” Từ lâu chúng tôi vẫn luôn ao ước mình có vốn
hiểu biết rộng rãi về các nền văn hoá, đặc biệt là về văn hoá phương Đông. Và chúng
tôi bắt đầu quan tâm đến đất nước Hàn Quốc. Chúng tôi nuôi ước mơ được tìm hiểu về
nền văn hoá của xứ sở kimchi. Với chúng tôi học ngoại ngữ không hẳn chỉ là việc sử
dụng thành thạo những mẫu câu, hay phải có giọng điệu giống người Hàn mà điều
quan trọng là bạn phải hiểu được văn hoá ứng xử của họ, những phong tục tập quán
của họ. Người ta nói rằng, một người khi đi từ nước mình đến một đất nước khác
thường bị sốc văn hóa(culture shock). Đó là khi có những điều mà người ta nghĩ rằng
ở nước mình thì lại không đương nhiên ở nước ngoài, hoặc những điều mà người ta
cho là lạ lùng ở đất nước mình thì lại hoàn toàn không lạ lùng ở đất nước khác. Chính
vì thế mà chúng tôi chọn đề tài những điều cấm kị trong văn hoá của họ.
Chúng tôi làm bài báo cáo này với nội dung tìm hiểu về những điều cấm kị trong
nền văn hoá Hàn Quốc với phương pháp tìm hiểu, thống kê và phân tích. Vì chủ đề
khá rộng mà thời gian không nhiều và hiểu biết về nền văn hoá cũng như tài liệu tham
khảo hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình
của giáo viên hướng dẫn, chúng tôi mong rằng bài báo cáo này sẽ góp phần tạo thêm
niềm yêu thích cho các bạn đã, đang và sẽ học tiếng Hàn, trở thành một phương tiện
hữu ích trong việc nghiên cứu văn hoá Hàn Quốc.
B. Giải quyết vấn đề
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
155
I. Giải thích những khái niệm có liên quan
1. Khái niệm văn hóa.
Văn hóa là sản phẩm của con người, là hệ quả của sự tiến hóa nhân loại. Nhờ có
văn hóa mà con người trở nên độc đáo trong thế giới sinh vật và khác biệt so với
những con vật khác trong thế giới động vật
Năm 1871, E.B. Tylor đưa ra định nghĩa “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng
về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật
pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư
cách một thành viên của xã hội”. F. Boas định nghĩa “Văn hóa là tổng thể các phản
ứng tinh thần, thể chất và những hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu
thành nên một nhóm người vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ
với môi trường tự nhiên của họ, với những nhóm người khác, với những thành viên
trong nhóm và của chính các thành viên này với nhau”.
Theo nghĩa rộng thì “Văn hóa là một phức hệ- tổng hợp các đặc trưng diện mạo về
tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia
đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ
thuật, văn chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ
thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng…”.
Theo nghĩa hẹp thì “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi
phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc nhằm , văn
hóa là sản phẩm của con người được tạo ra trong quá trình lao động (từ lao động trí óc
đến lao động chân tay), được chi phối bởi môi trường(môi tự nhiên và xã hội) xung
quanh và tính cách của từng tộc người. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên khác biệt
so với các loài động vật khác; và do được chi phối bởi môi trường xung quanh và tính
cách tộc người nên văn hóa ở mỗi tộc người sẽ có những đặc trưng riêng.
Với cách hiểu này cùng với những định nghĩa đã nêu thì văn hóa chính là nấc thang
đưa con người vượt lên trên những loài động vật khác; và văn hóa là sản phẩm do con
người tạo ra trong quá trình lao động nhằm mục đích sinh tồn.
2. Khái niệm cấm kỵ.
“Cấm” là cấm chỉ, không cho phép làm bất kì việc gì. “Kỵ” là trạng thái tâm lý né
tránh do cảm thấy sợ hãi hay căm ghét của con người. Cấm kỵ ra đời từ rất sớm do
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
156
hiểu biết của con người về các hiện tượng thiên nhiên còn có những hạn chế mà con
người dễ nảy sinh tâm lý sợ hãi. Và muốn hưởng “phúc”, tránh “họa” con người phải
quan sát kĩ những hiện tượng thiên nhiên và dã quyết định được hành vi của mình:
việc nào có thể làm và việc nào không được phép làm vào những hoàn cảnh nào cho
phù hợp. Việc đó chính là nguồn gốc ra đời của “cấm kỵ”. Có thể nói: Cấm kỵ lá việc
có thể điều chỉnh những hành vi không văn minh, những hành vi không phù hợp với
phong tục, tập quán, thân phận, địa vị xã hội của người nói và người nghe.
Cấm kỵ khác với kiêng kỵ. Nếu như kiêng kỵ là những điều mà cá nhân chủ động
kiêng tránh thì cấm kỵ là những thúc ước, quy định của cộng đồng nhằm kiểm soát
hành vi cá nhân.
II. Những điều cấm kỵ
1. Những điều cấm kị trong giao tiếp.
Giao tiếp là hoạt động thường xuyên của con người, không chỉ giữa những người
cùng quốc tịch với nhau mà còn giữa những mọi người trên thế giới. Không chỉ riêng
Hàn Quốc mà với tất cả mọi nơi trên thế giới, ấn tượng ban đầu rất quan trọng. Khi
đến Hàn Quốc, để tạo ấn tượng tốt với đối phương, không nhất thiết bạn phải nói tiếng
Hàn như người bản địa, cũng không nhất thiết bạn phải hiểu cặn kẽ mọi sắc thái văn
hóa của dân tộc họ nhưng họ sẽ hài lòng nếu bạn có thể nói câu “an nhoong ha se yo”
hay “kam sa ham ni ta”, nếu bạn tỏ ra quan tâm đến những vấn đề quan trọng đối với
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
157
họ. Vì vâỵ, để có được hiệu quả giao tiếp tốt nhất khi giao tiếp với người Hàn quốc,
chúng ta nên lưu ý những điều cấm kị sau:
1.1Cấm kị trong lời nói
1.1.1Cấm kỵ dùng những lời nói hung họa (không tốt lành)
Ngạn ngữ Trung Quốc có câu “nói hung gặp hung, nói họa gặp họa”, Hàn Quốc
cũng chịu ảnh hưởng nhiều bởi Trung Quốc chính vì vậy họ xem nếu nói về những
điều rủi ro là không tốt, và coi đó là một điềm báo về một tai họa. Do đó, người Hàn
Quốc kỵ nhắc đến những từ ngữ không tốt lành: cái chết, điều này cũng tương tự như ở
Việt Nam. Ở Việt Nam(..dùng từ ngữ đương : mất, hi sinh, qua đời, từ trần…); không
lấy chuyện chết chóc ra đùa, những vật, hình tượng liên quan đến cái chết cũng bị kỵ :
quan tài (thọ khí ),bên cạnh đó người ta cũng tránh những từ nói liên quan trực tiếp
đến tai họa: họa, hại, chìm…
1.1.2 Cấm kỵ trong những từ ngữ không lịch sự
- Cấm những lời nói dung tục, cấm chửi bậy.
- Bộ phận sinh dục con người không được nhắc đến trực tiếp, quan hệ nam
nữ…hành vi đại tiểu tiện, những từ ngữ con vật dùng để mắng chửi cũng bị kỵ không
nhắc đến.
1.1.3. Cấm kị khi giao tiếp với người mới gặp.
Không giống với người Việt Nam, khi nói chuyện với người mới gặp, chúng ta
thường hỏi những câu cho rằng là rất bình thường, thể hiện sự quan tâm ví dụ như:
“ Bạn bao nhiêu tuổi?”, “bạn đã kết hôn chưa?”, “gia đình bạn có mấy
người?”…Nhưng thực ra, đối với người Hàn Quốc, họ cho rằng như thế là bất lịch sự.
Hiện nay, người Hàn quốc thường có quan điểm kết hôn muộn. Họ thường không
thích kể về những vấn đề tế nhị, riêng tư đó.
1.2. Cấm kỵ trong xưng hô.
Hàn Quốc vốn là một đất nước coi trọng lễ nghĩa, có phân biệt tôn ti trật tự rất rõ
ràng giữa những người lớn tuổi và người ít tuổi, giữa những người bề trên và người bề
dưới, điều này được thể hiện rõ ở cách xưng hô trong giao tiếp.
- Cấm gọi thẳng tên gọi trống không người lớn tuổi, người bề trên, những người lần
đầu tiên mới gặp.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
158
- Trong một gia đình,con cái, cháu chắt khi nhắc đến ông bà sẽ không bao giờ được
phép gọi thẳng tên cũng giống như người Việt Nam không bao giờ nhắc trực tiếp đến
tên người lớn tuổi, người bề trên khi xưng hô. Họ quan niềm rằng đấy là những tên tục
của người bề trên và nếu gọi trực tiếp là không tôn trọng người bề trên, không giữ
đúng lễ nghi của người bề dưới.
- Cấm dùng những lời nói không kính ngữ với người bề trên :
Chắc hẳn ai học tiếng Hàn đều biết một đặc điểm của ngôn ngữ Hàn Quốc là có sự
phân chia rất rõ ràng về hai dạng lời nói: lối nói kính ngữ và lối nói không kính ngữ.
Lối nói kính ngữ này được hình thành một cách có trật tự với những quy định về cả
mặt ngữ pháp và từ vựng rất nghiêm ngặt. Việc bạn sử dụng lời nói phù hợp với người
lớn tuổi, những người có địa vị cao hơn mình hoặc những lời nói lịch sự trong những
buổi giao tiếp lần đầu cũng là một yếu tố rất tốt để người khác nhìn nhận bạn là một
người lịch sự và biết giữ phép tắc.
Trong các sách dạy tiếng Hàn cho người nước ngoài họ cũng rất chú trọng người
học về lối nói kính ngữ nhằm giúp các bạn có cách giao tiếp đúng mực khi tiếp xúc với
người bản địa.
Có rất nhiều trường hợp bạn trẻ Hàn Quốc ngày nay sử dụng một cách bừa bãi lối
nói không kính ngữ mà vốn chỉ sử dụng cho bạn bè và người dưới nhưng với người
nước ngoài tuyệt đối bạn không nên làm theo họ. sử dụng lối nói than mật không kính
ngữ nhằm tạo mối quan hệ giữa những người giao tiếp trở nên gần gũi hơn cũng là một
điều tốt nhưng nếu bạn sử dụng không đúng mực nhất là khi bạn là người nước ngoài
học tiếng Hàn thì sẽ thể hiện sự không tôn trọng với người bạn đang giao tiếp cùng
mà còn với cả một nền văn hóa mà bạn đang nghiên cứu và học tập.
1.3. Cấm kỵ trong hành vi
1.3.1. Cấm kỵ trong cách cư xử
Không chỉ lời nói, cách cư xử cũng phản ánh rất nhiều việc bạn là một con người
có biết phép tắc lễ nghi hay không. Đặc biệt đối với một đất nước coi trọng lễ nghi như
Hàn Quốc, có rất nhiều hành động được người Hàn nhận thức rõ ràng và coi trọng như
những quy tắc mà những người biết cư xử đều tất yếu phải làm theo.
- Không hút thuốc trước mặt người lớn tuổi.
- Rót rượu cho người trên bằng một tay.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
159
- Không cởi tất trước mặt người khác.
- Người Hàn Quốc rất coi trọng danh dự. Nếu bạn lăng mạ hoặc chỉ trích ai đó
trước mặt người khác, cũng có nghĩa bạn đang làm mất danh dự của người đó. Đừng
bao giờ đối xử với họ như cấp dưới của bạn. Đối với những vấn đề nhạy cảm nên gián
tiếp đề cập đến và thông qua một người trung gian.
- Không nên có những hành động đụng chạm vào người khác, trừ khi đó là mối
quan hệ bạn bè hoặc ngang hàng, đặc biệt đối với người già, người khác giới và những
người bạn không thân thiết và không có họ hàng với mình. Tuy nhiên, tại Hàn Quốc,
những người bạn cùng giới tính cũng thường khoác tay nhau khi đi dạo.
- Không nên cười, nói to.
- Không nên chỉ trích người khác khi không có mặt họ.
- Tại Hàn Quốc, họ quan niệm bàn chân là một bộ phận không sạch sẽ vì vậy không
nên vô ý đụng chạm bàn chân vào người đối diện. Khi ngồi ở những chỗ đông người,
đàn ông nên chú ý đặt mũi giầy của mình chúc xuống và không nên vắt hai chân lên
nhau trước mặt người khác.
- Hành động xịt mũi nơi cộng cộng được xem là thiếu tế nhị.
- Không được chỉ ngón tay trỏ vào người đối diện. Bạn có thể vẫy tay ra hiệu với
một người ngang hàng hoặc nhỏ tuổi hơn mình, nhưng không nên đung đưa ngón tay
cái hướng về phía mình, người Hàn coi đây là hành động thô lỗ.
- Không được sờ lên đầu người khác.
- Khi lạy người lớn thì chỉ lạy bằng một tay vì lạy hai tay là lạy người chết.
- Ban đêm không được huýt sáo vì họ cho rằng sẽ có ma hiện lên.
1.3.2. Cấm kỵ trong bữa ăn
Cũng giống như người Việt Nam, bữa ăn của người Hàn Quốc là thời gian quây
quần đủ mọi thành viên trong gia đình và ở Hàn các gia đình nhiều thế hệ như ông bà
cha mẹ cùng chung sống với nhau là điều rất dễ gặp. chính vì thế sự phân biệt về lễ
nghi theo tuổi cũng được thể hiện khá rõ qua các quy tắc của một bữa ăn:
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
160
- Không được phép bắt đầu bữa ăn khi chưa có đầy đủ của người lớn tuổi (ông, bà,
cha mẹ…)
- Không đứng dậy trước người lớn khi ăn xong.
Bên cạnh đó, cũng có một số quy tắc được qui định trong bữa ăn như:
- Không bưng bát khi ăn cơm.
- Không ăn cơm cùng canh.
- Không ăn cơm bằng đũa.
Khi uống rượu với người lớn tuổi hay người mới gặp, chúng ta cũng cần phải chú ý
đến những hành động cử chỉ của mình. Lúc rót rượu cho người khác, chúng ta rót bằng
hay tay, tay phải nâng chai rượu, tay trái đỡ lấy tay kia; không được rót tràn, cũng
không vơi. Nếu chén của mình đã hết, mà chúng ta muốn uống tiếp, phải chú ý đến
chén của người khác có còn rượu hay không, rót cho người khác rồi mới rót cho mình.
Khi uống rượu, chúng ta không được uống thẳng mặt mà phải xoay người qua bên. Đó
là những điều tối thiểu chúng ta nên biết không chỉ trong văn hóa uống rượu mà rất
nhiều mặt của văn hóa giao tiếp.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
161
3.1.3 Cấm kỵ trong văn hóa quà tặng
Văn hóa quà tặng tồn tại từ cách đây lâu, có lẽ đã trở thành thông lệ ở mỗi quốc gia.
Gần đây, văn hóa quà tặng mang nhiều màu sắc hơn vì vậy chọn quà gì, trao và nhận
quà như thế nào, không phải là điều mà ai cũng biết. Đặc biệt là khi hai bên đang tạo
dựng quan hệ thì việc tặng quà hay nhận quà cần đậc biệt lưu ý. Về cơ bản cần chú ý
những việc sau:
- Trao và nhận quà bằng hai tay.
- Quà tặng bằng tiền có thể để trong phong bì. Quà tặng bằng tiền mặt rất phổ biến
trong các đám cưới, ngày lễ (dành cho trẻ em), sinh nhật, đám tang...
- Tránh tặng những món quà quá đắt tiền, vì điều này sẽ khiến người nhận phải chuẩn
bị một món quà giá trị tương đương để đáp trả bạn.
- Khi bạn được tặng quà, lúc đầu tốt nhất hãy nên từ chối, chỉ sau khi người tặng cứ
nhất định tặng quà cho bạn, lúc này bạn mới nên nhận, đây cũng chính là một nét trong
văn hóa tặng quà của người Hàn
- Không nên mở món quà ngay trước mặt người tặng. Tuy nhiên bạn cũng nên hỏi
xem liệu họ có muốn bạn mở quà ngay không.
2. Những điều cấm kỵ trong ngày lễ, sự kiện
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
162
2.1 Tết Nguyên Đán:
- Kiêng mặc quần áo màu trắng, đen. Năm mới là thời điểm mà mọi người mong
muốn những điều tốt lành nhất đến với bản thân, gia đình. Theo quan niệm của người
xưa, màu trắng và đen là màu của tang lễ, chết chóc, vì vậy những ngày đầu năm thì
phải mặc trang phục với những màu sắc sặc sỡ và thu hút sự chú ý, tạo nên sự phấn
khởi và vui vẻ để đón chào năm mới, như: màu hồng, đỏ, vàng, xanh…
- Kiêng khóc lóc, buồn tủi, nói những điều không vui. Điều này thật dễ hiểu, vì đây là
những hành động không hay mà bất cứ ai cũng không muốn làm vào dịp Tết. Nhưng
nếu bất đắc dĩ phải rơi vào hoàn cảnh không vui, chúng ta nên cố gắng kiềm chế để
hưởng thụ một năm mới trọn niềm vui bên người thân, bạn bè. Kiêng nói những điều
không vui vì khi nói nghĩa là chia sẻ với mọi người, làm họ chia sẻ và lo lắng với mình,
buồn theo mình, không tốt trong những ngày đầu năm.
- Kiêng nói to, cãi nhau, nói xấu hay mắng người khác. Đây là những việc tạo ra sự ồn
ào hỗn loạn và đem lại nỗi buồn cho người khác. Một điều nữa cần nói đến là trong
ngày Tết mọi người đặc biệt quan tâm đến cách ứng xử với hàng xóm láng giềng, bạn
bè và những người trong gia đình. Ai cũng tỏ ra vui vẻ, hồ hởi, thân tình trong không
khí ấm áp của mùa Xuân. Ai cũng ngại và sợ to tiếng hoặc xô xát thì quanh năm sẽ bị
xui xẻo. Do đó, khi Tết đến, mọi người trò chuyện và chơi đùa với nhau trong không
gian thân mật, hòa nhã, cùng chia sẻ niềm vui và chúc nhau một năm mới an khang
thịnh vượng, may mắn.
- Kiêng làm vỡ các đồ vật. Ông bà ta quan niệm, từ vỡ, bể là những từ tạo nên sự chia
cắt, đứt lìa, đó có thể là vật dụng trong nhà hoặc thậm chí là các mối quan hệ trong gia
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
163
đình và xã hội. Đó thật sự là những điều không tốt và không ai mong muốn xảy ra
trong đầu năm mới. Do đó, người già thường khuyên con cháu trong những ngày này
không được đánh vỡ bát đĩa, ấm chén.
- Kiêng vay mượn tiền bạc, đồ đạc. Chỉ trong hoàn cảnh túng thiếu hoặc cấp bách,
người ta mới nghĩ đến chuyện vay mượn tiền bạc hoặc đồ dùng của người khác. Và
đây là vấn đề khá tế nhị mà người Việt luôn quan tâm, chú ý để tránh làm mất lòng
nhau. Vì vậy mà người xưa quan niệm không nên vay tiền hoặc đồ đạc vào những
ngày đầu năm mới, điều đó có thể làm chúng ta rơi vào cảnh túng thiếu cả năm, không
may mắn.
- Là người Hàn Quốc, không ai ngủ vào đêm ba mươi.Vì có truyền thuyết nói rằng
đêm giao thừa ai mà không thức được thì đến sáng hôm sau lông mày sẽ bị bạc trắng.
Do vậy, việc đầu tiên bọn trẻ làm vào lúc thức dậy là đi soi gương.Và người ta còn nói
rằng nếu không cẩn thận thì đêm giao thừa sẽ bị con quỷ Ya kwangi (Có nơi gọi là
Ang koengi) đến nhà và xỏ giày đi mất. Nếu vậy thì năm đó người bị mất giày sẽ gặp
nhiều xui xẻo.
2.2 Hôn lễ
- Anh em họ hàng thân thích không được kết hôn với nhau (trong vòng 8 đời là
không được phép). Người cùng họ, cùng gốc gia đình cũng không được kết hôn với
nhau. Điều đó thực chất đã được khoa học chứng minh, vì nếu làm như vậy sẽ ảnh
hưởng đến thế hệ con cháu sau này.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
164
- Nếu như cùng là anh em một nhà, khi người em lấy chồng hoặc cưới vợ trước
người anh (chị) thì vào ngày cưới, người anh, chị đó không được đến dự đám cưới.
- Nếu như ngày cưới của mình đã được định rồi thì sẽ không được đi đám cưới của
người khác vì họ cho rằng phúc lộc của mình sẽ đến với người đó, sẽ không có việc
tốt đến với mình, mình sẽ không sống hạnh phúc.
- Luật pháp xưa cấm nhà trai và nhà gái khi có tang, kể từ tang cơ niên không được
làm lễ cưới gả .Tục cưới chạy tang thường được sử dụng trong trường hợp vạn bất đắc
dĩ. Vì một lí do nào đấy, hai họ có thể tổ chức cưới chạy tang. Khi đó, cô dâu và chú rể
không được “quan hệ” với nhau trong vòng 100 ngày.
2.3 Tang lễ:
- Trang phục trong tang lễ của người Hàn quốc chỉ cho phép mặc quần đen, nếu mà
không có thì phải mặc quần áo tối màu. Tuy nhiên người làm chủ tang lễ thì phải mặc
đỏ màu trắng.
- Đám tang trong ngày Tết : Ngày Tết Nguyên Đán là ngày vui của toàn dân tộc,
ngày mở đầu cho vận hội hanh thông của cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng. Gia
đình phải tạm gác mối sầu riêng để hoà chung với niềm vui toàn dân tộc. Vì vậy có tục
lệ cất khăn tang trong ba ngày Tết. Nhà có đại tang kiêng không đi chúc tết, mừng tuổi
bà con, xóm giềng, ngược lại bà con xóm giềng lại cần đến chúc Tết và an ủi gia đình
bất hạnh. Trường hợp gia đình có người chết vào ngày 30 hoặc mùng một Tết thì hiếm
nhưng không phải không có. Nếu ngày 30 tháng chạp mà gia đình có thể định liệu
được thì nên chôn cất cho kịp trong ngày đó, nếu để sang năm mới thì có nhiều điều
bất tiện. Đa số các gia đình kiêng để sang ngày mùng một đầu năm. trường hợp chết
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
165
đúng ngày mùng một Tết thì chưa phát tang vội nhưng phải chuẩn bị mọi thứ để sáng
mùng hai làm lễ phát tang.
3. Những điều cấm kỵ trong việc sử dụng màu sắc. con số
3.1. Con số .
Quan niệm về con số may mắn và con số không may đã hình thành trong suy nghĩ
của con người, qua nhiều thế hệ trở thành nét văn hóa trong đời sống của nhiều quốc
gia trên thế giới.... Nếu người phương Tây coi số 7 là bình an may mắn thì với người
Hàn Quốc, số 7 và số 3 là hai con số đầu bảng trong loạt dãy số may mắn. Một điều tra
xã hội học do một công ty Hàn Quốc cho biết, người ta kiêng con số 4 vì cách phát âm
chữ số 4 gần giống như phát âm chữ "tử". Với họ, các số 6, 8 và 9 tượng trưng cho sự
may mắn, an lành.
3.2. Màu sắc.
Màu sắc có ngôn ngữ riêng của nó mà chúng ta phải tự cảm nhận. Màu sắc có sức
mạnh làm tâm hồn chúng ta rung động. Màu sắc ngoài cái đẹp trời cho còn có một
chiều sâu kín đáo, chính cái điều kỳ diệu ấy làm rung động lòng người. Và trong từng
trường hợp, hoàn cảnh thì mỗi màu sắc lại có những điều cấm kỵ riêng.
3.2.1. Màu trắng
Đây là màu gợi lên sự thanh khiết, an toàn và mát dịu. Màu trắng còn được xem là
màu của sự vĩnh hằng, dài lâu và có thể được sử dụng trong cách bài trí nội thất để hy
vọng một sự trường tồn.
Nhưng vẫn có ý kiến cho rằng bản thân màu trắng vốn đã mang nhiều ý nghĩa trái
ngược nhau, tuỳ theo bối cảnh mà nó được sử dụng. Ví dụ như đối với người châu Á,
màu trắng lại là màu của tang tóc.
3.2.2. Màu đen
Đây là một màu của sự quý phái lẫn xa xỉ, và khởi thuỷ đây là một màu của giới tu
sĩ, biểu hiện sự khổ hạnh. Nhưng ngày nay, màu đen được dùng để nâng giá trị cho sản
phẩm. Màu đen cũng còn giúp bộc lộ ra cảm giác trang trọng . Nhưng trong một số
trường hợp máu đen biểu thị sự không may mắn.
3.2.3.Màu đỏ
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
166
Đây là màu của “một tín hiệu” vì theo lịch sử cho thấy, màu đỏ là màu của chiến
tranh và của quyền lực, từng được dành cho các vị hoàng đế ngày trước và cũng được
gán cho những người có thế lực.
Từ quan điểm đó mà ngày nay, màu đỏ đã được ưu tiên dành cho các nhãn hiệu
hàng hoá cao cấp, cả cho xe hơi thể thao.
Màu đỏ cũng biểu tượng cho tốc độ cao, sự năng động, lòng ham muốn và tình yêu.
Tuy nhiên, ở một góc độ khác, màu đỏ còn được xem là màu của sự dị biệt.
3.2.4. Màu xanh lá
Một thời gian dài trong quá khứ, màu xanh lá được xem như “cấm kỵ” vì đó từng là
màu của ma quỷ vào thời Trung cổ. Nhưng nay, màu này đã được chọn khá phổ biến
cho các sản phẩm tiêu dùng. Nhưng ngày nay, màu xanh lá còn là mùa xuân, mùa của
sự đổi mới và mang lại sức khoẻ dồi dào.
4. Những điều cấm kỵ trong phong thủy địa lý
4.1 Sơ lược về phong thủy:
Phong Thuỷ là một hiện tượng văn hoá, một loại thuật số chọn lành tránh dữ, một
dân tộc lưu truyền rộng rãi, một loại học vấn về hoàn cảnh và liên quan đến con người,
một tổng hợp về lý luận và thực tiễn. Theo từ điển Hán Việt, “phong” là gió, “thủy” là
nước. Phong thủy không phải là yếu tố đơn lẻ, mà là tổng hợp toàn bộ yếu tố về địa
hình địa thế xung quanh nhà ở, thôn xóm, thành phố hoặc mồ mả, hướng gió, dòng
nước, cùng tọa hướng, hình dáng, bố cục mặt bằng không gian xây dựng. Thuật phong
thủy hình thành rất sớm, có thể nói gần như cùng với sự ra đời của loài người. Ngay từ
thời thượng cổ con người đã chú ý đến ảnh hưởng của hoàn cảnh tự nhiên đối với nơi
cư trú của loài người, nên đã tiến hành lựa chọn một cách có chủ đích. Nguyên sơ của
phong thủy là những kinh nghiệm về sinh họat như khoét đá, đào hang, làm nhà... Từ
cuộc sống thực tế, phải chống chọi với thú dữ, chống lại cả sự tấn công của đồng lọai,
phải chống chọi với sự khắc nghiệt của thiên nhiên, con người đã biết chọn những vị
trí cư trú có núi non che chở bao bọc, lại gần sông ngòi, nguồn nước.. Phong Thuỷ có
thể chia làm hai phần lớn: âm trạch và dương trạch. Dương trạch là nơi người sống
hoạt động, âm trạch là mộ huyệt của người chết. Lí luận về phong Thuỷ, có hai trường
phái hình thể và trường phái lí khí. Phái hình thể nặng về hình thể sông núi mà luận
lành dữ. Phái lí khí lại nặng về âm dương, quái lí để luận lành dữ. Hạt nhân của Phong
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
167
Thuỷ là "sinh khí". Khái niệm của nó vô cùng phức tạp, đề cập đến long mạch, minh
đường, huyệt vị, dòng chảy, phương hướng v.v…
Hai chữ "địa lí" là danh từ áp dụng chung cho cả hai môn: địa mạch và địa dư
1-Địa mạch: Là môn địa lí phong thủy thuộc về địa linh, dùng vào việc đặt mồ mả
và nhà cửa; tức thuộc về tinh thần.
2-Địa dư: Là môn địa lí điền thổ, thuộc về địa lợi; thuộc về vấn đề vật chất.
Phong thủy ở Hàn Quốc xuất hiện từ thời tam quốc nhưng chỉ được phát triển từ
thời kì đầu triều đại choseon. Lúc bấy giờ, dương trạch phát triển và được ứng dụng
trong việc xây dựng nhà cửa, thủ phủ, cung điện vua chúa….Tuy nhiên sau trung kì
triều đại choseon, do sự du nhập của văn hóa Trung Hoa, dương trạch dần bị lấn át bởi
âm trạch.
Song, ngày nay, phong thủy đã nhanh chóng phát triển nghiêng về dương trạch, và
cũng đã thu hút sự quan tâm của các nước phương Tây. Dù ở phương Tây hay phương
Đông, nông thôn hay thành thị, người ta cũng quan tâm đặc biệt đến phương vị, hình
thái, cấu trúc nhà ở. Âm trạch tuy phát triển chậm hơn dương trạch nhưng được cho là
có ảnh hưởng lâu dài đến các đời con cháu, còn dương trạch thì ảnh hưởng đến những
người sinh ra hoặc sống một thời gian dài hay cư trú tại ngôi nhà đó.
4.2 Những điều cấm kỵ chủ yếu
Do sự du nhập của văn hóa Trung Hoa như đã nói ở trên, phong thủy Hàn Quốc
cũng tuân theo những quy tắc nhất định (tính tổng hợp, tính linh hoạt, tính quân bình,
tính ổn định, tính tâm linh) nhưng bên cạnh đó cũng có các nguyên tắc phong thủy
riêng, mang màu sắc địa phương. Do hạn chế về khuôn khổ bài thảo luận cũng như
giới hạn về tài liệu, và hiểu biết về lĩnh vực này…chúng tôi chỉ xin trình bày một số
điều cấm kỵ cơ bản:
4.2.1. Dương trạch:
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
168
4.2.1.1 Những điều kiêng kị khi xây nhà
Cũng giống như người Việt Nam, khi xây dựng nhà cửa, văn phòng,…người Hàn
quốc cũng cân nhắc kỹ lưỡng, xem xét cẩn thận. Họ xem tuổi tác có hợp không, tránh
những năm có vận xấu số. Tròn gia đình sẽ xem tuổi của tất cả mọi người. Tuổi người
cha là quan trọng nhất, nếu xấu thì cấm kị không làm. Nếu có tuổi của một trong
những người con không tốt, thì họ cũng vẫn làm vì cho rằng “vận con theo vận cha
mẹ”, nhưng họ vẫn tránh trường hợp này.
Khi chuyển nhà đi đâu cũng vậy, họ xem trước hướng đi của họ sẽ đi có những
điềm gì không tốt thì họ sẽ tránh. Và họ còn xem ngày nữa, ngày nào là ngày tốt, ngày
nào là ngày xấu.
- Không xây nhà có cửa ra vào nhìn ra đồi núi hoặc thung lũng là hung
- Tránh ngõ cụt
- Trước cửa chính không nên có cây cao hoặc cây to
- Trong nhà có cây cao hơn mái nhà thì không tốt
- Xung quanh nhà có nhà cao tầng là có hại, khí của chủ nhà sẽ bị áp đảo
- Không nên xây nhà trên mảnh đất hình tam giác
- Không nên sống trong ngôi nhà đã quá cũ nát và xuống cấp
- Đất có ao đầm không phải đất tốt
- Không nên ở trên tầng cao của chung cư
- Chung cư có không gian quá lớn và rộng không phải là tốt
- Không nên dựng hàng dào quây 2 nhà thành 1 nhà
4.2.1.2 Kiêng kị trong văn phòng, phòng học
-.Bàn làm việc không nên kê ngay phía dưới xà ngang
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
169
- Bàn làm việc không nên kê sát đối diện với cửa sổ
- Bàn làm việc không nên kê đối diện với gian bếp, gian vệ sinh, không đối diện
hoặc tựa lưng vào tường phòng ngủ gia chủ hoặc tường gian vệ sinh
- Bàn làm việc không kê ngay sát cửa phòng
…
4.2.1.3 Phòng ngủ: Giường kê phải hợp phong thủy để tránh gặp phải “tử khí” ảnh
hưởng đến sức khỏe và thậm chí cả tính mạng. Với người Hàn, có những điều cấm kị
cơ bản về cách bố trí giường ngủ sau:
- Phòng ngủ hình vuông là tốt nhất, tránh hình tam giác hoặc đa giác, dễ gây cảm
giác bất an.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
170
- Phòng ngủ nhất định phải có cửa sổ. Như vậy, ban ngày, có thể nhận được ánh
sáng và gió, tinh thần sẽ thoải mái, ban đêm, ngủ nhất định phải buông rèm, không cho
ánh sáng bên ngoài lọt vào để có giấc ngủ sâu.
- Thiết kế toàn bộ công trình không thể tách rời thiết kế phòng tắm. Không nên
thiết kế phòng ngủ ngay bên dưới phòng tắm của tầng trên . Nếu phòng ngủ quá gần
phòng tắm, hơi ẩm và khí từ phòng tắm được coi là không trong sạch và gây ảnh
hưởng không tốt đến cơ thể con người. Hơn nữa tiếng động của hệ thống thoát nước dễ
gây mất ngủ.
- Không gian phòng ngủ cần sự yên tĩnh và thoải mái vậy nên cần tránh xa cửa ra
vào và nơi nhiều người ra vào.
- Cửa phòng vệ sinh không được đối diện với cửa phòng ngủ, sẽ gây hại đến sức
khỏe.
- Khói và khí tỏa ra khi nấu ăn dễ gây ảnh hưởng không tốt đến những phòng chịu
ảnh hưởng. Điều này gây ảnh hưởng không tốt đến công việc trong phòng và cơ thể
người ở trong phòng đó. Bếp là nơi nấu nướng nên chắc chắn là nơi tỏa nhiệt. Tóm lại,
phòng ngủ đặc biệt là giường ngủ cần tránh kê sát tường bếp.
- Gương, với tính chất phản ánh sự vật, theo phong thủy được coi là có khả năng
chống hung sự và tránh tâm trạng xấu. Nhưng nếu treo gương ở đối diện của phòng
ngủ sẽ khiến cho vận khí trong phòng trở thành ác khí
-.Không nên đặt gương lớn đối diện giường ngủ. Vì khi vừa ngủ dậy, con người ở
trạng thái mông lung, dễ bị ảo giác và bị giật mình.
- Không kê gường ngủ ngay cạnh cửa ra vào vì làm mất cảm giác yên tĩnh, an toàn
- Không nên kê đầu giường gần cửa sổ, nơi mà các dòng khí lưu chuyển, vì như
vậy dễ xuất hiện các dòng khí xung đột. Hơn nữa khi ngủ, người nằm trên giường mà
không nhìn thấy cửa sổ ở phía trên thì sẽ gây mất cảm giác an toàn và bị căng thẳng.
- Trần nhà phải bằng phẳng và không có xà ngang. Nếu có xà ngang trên trần nhà
thì người nhìn dễ rơi vào cảm giác bất an vì lo lắng không biết trên đó có vật nặng gì
không.Đặc biệt phải tránh xà ngang phía trên đầu giường.
- Giường ngủ cách sàn nhà 50cm là phù hợp nhất. Phải giữ vệ sinh, không vứt
những đồ linh tinh dưới gầm giường. Phải giữ cho gầm giường sạch sẽ thì dòng không
khí mới có thể lưu chuyển tốt, hơi ẩm không ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
171
- Quá nhiều hoa và cây cảnh trong phòng sẽ khiến phòng nhiều âm khí. Hơn nữa,
vào ban đêm, cây thải khí CO2 và hấp thụ O2 nên không tốt cho sức khỏe.
4.2.1.4 Phòng bếp: Theo quan niệm của người phương Đông, khu vực đặt bếp
quyết định đến sự thành bại của gia chủ chứ không chỉ đơn thuần là một nơi để nấu
nướng.
- Không để thuốc lên bàn ăn vì như vậy thì sẽ phải uống thuốc thường xuyên
- Phải lau dọn bếp nấu hàng ngày. Người ta quan niệm lửa có nghĩa là tiền vậy nên
muốn kiếm được nhiều tiền thì nơi nấu nướng cần sạch sẽ. Đặc biệt, nếu để thức ăn
còn thừa dính trên bếp thì sẽ gặp vận xấu.
- Kiêng làm rơi bát ăn. Việc này đồng nghĩa với gia chủ bị hao tài
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
172
- Sử dụng bát cao cấp để đựng cơm và canh. Chiếc bát có ý nghĩa là thành công của
một người. Vì vậy ăn bằng một chiếc bát quá rẻ sẽ gây cảm giác hạ thấp thành công
của người đó và là hành vi phản cảm. Bát đựng thức ăn kèm thì chỉ cần sạch sẽ là được
nhưng bát đựng cơm và canh thì đơn giản và không có hoa văn được coi là loại cao
cấp
- Không để hàng hóa trên bàn ăn và bồn rửa bát. Vì bồn rửa bát là nơi nấu nướng
nên nếu đặt hàng hóa ở đó dễ gây mất tập trung cho người nấu khiến không thể toàn
tâm toàn ý nấu nướng, món ăn sẽ không được ngon còn nếu để đồ trên bàn ăn thì
người ăn không thể tập trung ăn sẽ có hại cho việc hấp thụ thức ăn.
- Dụng cụ bếp bằng thép không tốt vì chúng gây cảm giác lạnh, nghĩa là nó khiến
cho mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình lạnh nhạt đi
- Không để sàn bếp lạnh. Nên dùng một tấm thảm lớn trải trên sàn bếp. Màu đỏ
thẫm là tốt nhất.
- Hãy sắp xếp ghế ăn hợp lý. Nếu chỗ ngồi của các thành viên trong gia đình không
được sắp xếp một cách hợp lí có thể gây chia rẽ trong nhà. Người lớn thì nên ngồi ở
phía tây hoặc phía bắc còn người nhỏ tuổi nên ngồi phía nam
4.2.1.5 Cửa chính, cửa sổ
Nếu một người về nhà hàng ngày mà chung quanh toàn các bức vách bao vây sẽ
làm dội khí.
- Nếu cánh cửa mở ra nghịch chiều sẽ kềm chặt khí và vận may của người cư ngụ.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
173
- Một lối vào hẹp và tối dẫn vào nhà cũng cản sự vận khí và cản trở may mắn của
người cư ngụ.
4.2.2 Âm trạch: chọn vị trí, địa hình, địa vật xây cất mộ tổ tiên
Về cơ bản, người Hàn có xu hướng chọn vị trí thuận lợi để xây cất mộ tổ tiên và
không di rời nhưng một số trường hợp người ta lại di chuyển phần mộ tổ tiên đến
những nơi mà thầy địa lý nói là thuận lợi để con cháu hưởng nhiều phúc và thành đạt.
Việc xây cất mộ cho người chết cũng giống như việc xây nhà cho người sống, cũng
phải tránh những ngày xấu, giờ xấu, sao xấu…tránh nơi đất xấu…Tất nhiên cũng có
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
174
những tiêu chuẩn khác nhau và phức tạp nên thông thường người ta mời thầy phong
thủy về xem để có sự lựa chọn tốt nhất.
5. Những điều cấm kỵ trong văn hóa đặt tên
Khi đứa trẻ ra đời, việc đầu tiên và rất quan trọng đó là chọn cho bé một cái tên.
Bất cứ ông bố bà mẹ nào cũng muốn con mình có những tên đẹp, hay, ý nghĩa. Cái tên
ấy theo bé đi suốt cuộc đời. Tuy nhiên, việc đặt tên không phải là việc dễ. Trong văn
hoá của Hàn quốc, khi chọn một cái tên cho con, người ta thường chú ý đến những vấn
đề sau:
- Với suy nghĩ của người phương Đông, nếu như trong lịch sử, việc phạm uý tên
của vua hay hoàng tộc bị coi là tội thì cho đến bây giờ, người ta nên tránh đặt tên trùng
tên với người trên, tổ tiên. Cái tên là phương tiện để gọi một ai đó, để tiện cho việc
giao tiếp và xưng hô. Vì vậy, nếu đặt tên trùng với ông bà tổ tiên thì khi gọi tên cũng
đồng nghĩa với việc gọi trực tiếp tên của người bề trên.
- Đối với người Hàn quốc, việc giữ phép tắc lịch sự, lễ nghĩa, thái độ tôn trọng với
đối phương rất được coi trọng. Trong giao tiếp, chúng ta không được gọi thẳng tên, với
người lớn tuổi thì càng nên tránh.
- Bên cạnh đó, tên người Hàn quốc có ba chữ: đầu tiên là họ- kế thừa họ của bố,
hai chữ còn lại là tên. Dù Việt Nam hay Hàn quốc thì nên tránh đặt những cái tên khó
phân biệt nam, nữ. Trong hệ thống tên gọi của Hàn quốc, có những tên dành riêng cho
từng giới. Ví dụ như : Mi, suk, jong,…dành cho con gái; “Chol, Ung, Hyok,…”dành
cho con trai.
Điều quan trọng là việc xét đến nghĩa của cái tên. Bố mẹ nào cũng muốn con
mình có một cái tên ý nghĩa, mang một niềm hi vọng muốn con trở thành những người
thành đạt, có cuộc sống tốt như những người đã từng mang tên đó. Người Hàn quốc
thường dùng chữ Hán để đặt tên. Họ 100% là chữ Hán, tên đại đa số cũng là chữ Hán.
Nói chung, khi đặt tên, chúng ta nên chú ý đến văn hoá của đất nước mình. Việc
đặt tên cho con cái cũng thuộc vào phạm trù văn hoá. Ngày xưa, có thể người Hàn
quốc tuân thủ rất nghiêm ngặt những quy định khi đặt tên. Nhưng trong thời kỳ “xã hội
mở” này, những “ luật” đặt tên như họ và tên gồm ba chữ dần dần mất đi, có những
người rút ngắn bớt tên chỉ còn một chữ.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
175
III. Ảnh hưởng, tác dụng của những điều cấm kỵ trong văn hoá
1. Những điều cấm kị ảnh hưởng giúp ổn đinh tâm lý xã hội.
Người Việt Nam thường có câu: “Nhập gia thì tuỳ tục”. Khi con người tiếp xúc với
một môi trường mới tức là tiếp xúc với một nền văn hoá hoàn toàn khác hoặc chỉ một
số nét tương tự với văn hoá đất nước mình, chúng ta nên tôn trọng những tập tục mới
đó. Giả sử bạn đến nhà của người Hàn Quốc chơi, bạn có lung túng không biết phải
làm gì vì sợ mắc một số những điều không nên làm trong văn hoá, cuộc sống của họ.
Như vậy, cuộc trò chuyện diễn ra không tự nhiên, và có thể vô tình làm phật lòng chủ
nhà. Gia đình Hàn quốc là một ví dụ mang tính phạm vi hẹp để chúng tôi nói đến
phạm vi trong một xã hội. Khi chúng ta biết những điều cấm kị của trong văn hoá của
đất nước mình và đất nước khác, chúng ta có thể hoà nhập vào môi trường mới dễ
dàng hơn. Những điều cấm kị cho chúng ta biết nên làm gì và không nên làm gì, giúp
chúng ta ổn định tâm lý giải quyết những việc gặp phải trong sinh hoạt hằng ngày, nơi
công sở, nhà riêng,... một số lĩnh vực khác như trong xây dựng, văn hoá đặt tên cho
con cái, văn hoá trong các ngày lễ…Công việc sẽ suôn sẻ và tốt đẹp hơn.
2. Những điều cấm kị điều chỉnh hành vi giao tiếp.
Có câu nói :“Suy nghĩ tạo ra hành động”. Chính vì thế, khi nắm vững được những
điều cấm kị trong giao tiếp, chúng ta có thể tạo ra thái độ phù hợp với hoàn cảnh, đối
tượng và từ đó điều chỉnh hành vi giao tiếp, những hành vi không phù hợp với tập
quán, than phận , địa vị xã hội của người nói với người nghe. Như thế chúng ta mới
gây được ấn tượng ban đầu cho đối phương, giúp mọi việc tốt đẹp hơn.
3. Những điều cấm kị củng cố quần thể giao tiếp xã hội.
Cấm kị tạo ra các hệ thống yêu cầu biểu hiện những mặt như: môi trường giao tiếp,
điều kiện quần thể giao tiếp, và tố chất của người tiến hành giao tiếp trong quần thể đó.
Cấm kị điều chỉnh tâm lý, hành vi giao tiếp của cá nhân khiến cho tính cách, tâm
trạng thái độ, ngôn ngữ điều chỉnh quan niệm,…của cá nhân phù hợp hơn với tiêu
chuẩn bình thường cảu quần thể giao tiếp đó, chỉ những cá nhân đạt yêu cầu mới có
thể hoà nhập với quần thể giao tiếp và nhờ đó quần thể giao tiếp ngày càng được củng
cố phát triển.
4. Những điều cấm kị còn ảnh hưởng tới môi trường sống, con người.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
176
Cũng giống như Việt Nam, trong cuộc sống, con người rất tin vào những điều đi
ngược với quy luật của tự nhiên, những điều sẽ có thể ảnh hưởng tới cuộc sống. Trong
xây dựng chẳng hạn, do thời tiết lạnh nên hầu hết người Hàn xây nhà thấp, cửa hẹp
hơn. Hay những con số mang lại may mắn hay mang lại vận đen. Nếu biết những điều
cấm kị, con người có thể tránh được những điều không tốt cho mình, cho môi trường
sống của mình có tính ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp.
C. Phần mở rộng
Cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội, văn hóa cũng liên tục biến đổi. Sự
khác biệt về thời đại, hoàn cảnh, môi trường sống… tạo nên những thay đổi về cách
suy nghĩ, nhìn nhận vấn đề… của con người. Trong quá trình truyền đạt từ thế hệ này
sang thế hệ khác mà hiện nay có những phong tục và những quan niệm đã bị mất đi
hay được thay đổi theo chiều hướng để phù hợp với hoàn cảnh hiện tại hoặc cũng có
thể theo chiều hướng để có lợi cho một số đối tượng nhất định… Ngoài ra thì trên
cùng một đất nước nhưng phong tục văn hóa biến đổi vô cùng đa dạng. Có những
phong tục chung trên toàn quốc và mỗi vùng, mỗi nơi cũng có bản sắc riêng, đôi khi
chỉ sai khác chút ít nhưng cũng có khi hoàn toàn khác thậm chí là trái ngược nhau.
Cũng do hạn chế về thời gian và tài liệu, bài nghiên cứu của chúng tôi chưa thể
phân tích một cách chi tiết, cụ thể nhất, và còn nhiều mảng chưa thể đề cập tới như:
các điều cấm kỵ trong lễ về nhà mới, lễ thôi nôi, lễ mừng thọ, nghi lễ thờ cúng tổ tiên,
trong cách đi lại (xuất hành), trong thi cử, cách ăn mặc, …Nếu có thể mở rộng thêm
phạm vi thời gian cũng như nguồn tài liệu, chúng tôi hy vọng có thể nghiên cứu sâu
rộng hơn về những mảng đề tài tày, hơn nữa là có thể so sánh, đối chiếu với văn hóa
Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu, chúng tôi đã cũng đã tranh luận khá nhiều về
một câu hỏi. Đó là: Một xã hội mà muốn phát triển, muốn vươn xa thì phải hội nhập,
phải mở cửa, vậy thì liệu chúng ta có nên lưu giữ và phát triển những điều cấm kị hay
không? Liệu rằng chúng có cản đường hội nhập, phát triển của đất nước?
Câu hỏi này không đặt riêng cho một quốc gia, một dân tộc nào mà là câu hỏi
chung cho mọi quốc gia.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
177
Xét cho cùng thì mọi điều cấm kỵ hay kiêng kỵ đều hướng đến một cuộc sống tốt
đẹp, dễ chịu cho con người. Vì thế cho nên, chúng tôi đã thống nhất đi đến một kết
luận chung: Không nhất thiết phải tuân theo chúng một cách máy móc mà có thể cải
biến, sửa chữa cho phù hợp, miễn là không trái với luân lí, thuần phong mĩ tục, phản
khoa học, ảnh hưởng đến lợi ích chung và quyền lợi chính đáng của người khác. Như
thế không có nghĩa là khuyến khích xóa bỏ hay sửa chữa cả những gì được cho là
thuần phong mỹ tục- những phong phục chứa đựng màu sắc văn hóa đặc trưng của đất
nước. Những phong tục này không nên xóa bỏ mà nên giới thiệu với bạn bè quốc tế để
thông qua đó quảng bá văn hóa dân tộc.
Dù còn hay mất thì những điều cấm kỵ cũng phần nào phản ảnh đời sống văn hóa,
tinh thần của người xưa. Vì thế việc nghiên cứu, tìm hiểu về những điều cấm kỵ trong
văn hóa Hàn Quốc cũng là yếu tố quan trọng giúp hiểu rõ hơn về văn hóa con người
xứ sở kim chi. Nhìn từ góc độ của một người ngoại quốc, khi thâm nhập vào một nền
văn hóa khác, vấp phải sự giao thoa giữa hai nền văn hóa của hai quốc gia khác nhau
thì chúng ta cũng nên tôn trọng và tuân theo những chuẩn mực văn hóa của quốc gia
đó.
Thêm nữa, có những điều người ta không cho là cấm kỵ nhưng là những quy tắc
lịch sự tối thiểu hoặc không nên làm do trái với đạo đức, gây ảnh hưởng không tốt đến
người khác thì ta cũng nên tránh
D. Kết luận
Chúng ta đều biết rằng, để hiểu một nền văn hóa của nước mình không phải là điều
dễ nói gì đến một nền văn hóa mới. Để hòa nhập được vào môi trường mới, không chỉ
bằng ngôn ngữ- phương tiện giao tiếp cơ bản, mà còn cần đến yếu tố thứ hai là hiểu
biết về văn hóa, biết cách dùng ngôn ngữ làm công cụ và sử dụng nó một cách linh
hoạt, chính xác trong hoàn cảnh nào, với đối tượng nào cho phù hợp, mang lại tính
hiệu quả trong giao tiếp, mọi việc trong đời sống hằng ngày mà chúng ta gặp phải.
Không chỉ ở Việt Nam hay Hàn quốc có những điều cấm kị, mà tất cả các quốc gia
trên toàn thế giới đều có một hệ thống những điều cấm kỵ được dùng như chuẩn mực
ứng xử trong xã hội. Có những điều chung nhưng cũng có những điều riêng, là đặc
trưng của quốc gia, dân tộc, góp phần làm nên bản sắc văn hóa, dân tộc độc đáo. Qua
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
178
những hiểu biết về những điều cấm kị trong văn hóa Hàn quốc trong các lĩnh vực như:
giao tiếp, xây dựng, cách đặt tên, sử dụng con số, màu sắc, các ngày lễ, sự kiện diễn ra
trong mười hai tháng…, chúng tôi mong muốn đưa đến cho các bạn những kiến thức
cơ bản về văn hóa cần thiết khi bạn tiếp xúc với con người, môi trường mới- Hàn
Quốc. Nếu như chúng ta quan tâm đúng mực và nắm bắt được những điều cấm kị dù
là nhỏ nhặt đó, chúng ta có thể nhanh chóng hòa nhập vào với môi trường sinh hoạt và
những tập quán của người bản địa, xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp, lâu dài giữa
hai bên. Hơn nữa, chúng tôi cũng hy vọng rằng bài nghiên cứu sẽ là tài liệu tham khảo
hữu ích cho những ai quan tâm, muốn tìm hiều về đất nước Hàn Quốc,và được góp
phần dù vô cùng nhỏ bé vào việc thúc đẩy quan hệ hai nước Việt- Hàn. Bởi chúng tôi
tin rằng: Khi thực sự hiểu nhau thì chúng ta có thể trở thành những người bạn đồng
hành tuyệt vời cùng bước trên con đường phát triển đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kỷ yếu khoa học sinh viên lần thứ hai 2008- khoa Hàn quốc Đại học Hà Nội
2. Bách khoa những điều cấm kị- tác giả Phạm Minh Thảo- NXB Văn hóa thông
tin
3. SGK trung cấp hai trường Kyung Hee
4. Xã hội Hàn Quốc hiện đại- NXB Đại học Quốc gia Hà Nội- Việt Nam
5. Các trang web bằng tiếng Việt, Anh, Hàn
- http://cafe.naver.com/8goae.cafe?iframe_url=/ArticleRead.nhn%3Farticleid=70
- http://blog.daum.net/0226886688/304
- http://www.lyhocdongphuong.org.vn/
- http://my.opera.com
- http://phr1215.textcube.com/57
- http://www.reportshop.co.kr
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
179
NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ MỘT SỐ HƯỚNG GIẢI QUYẾT
TRONG QUÁ TRÌNH LÀM QUEN VÀ HỌC TẬP
TIẾNG HÀN QUỐC
Giảng viên hướng dẫn: Th.s Nghiêm Thị Thu Hương
Sinh viên thực hiện: Vũ Anh Thịnh 3H09
A. Đặt vấn đề:
Là sinh viên năm thứ nhất khoa Hàn Quốc, Đại học Hà Nội, điều quan tâm đúng
đắn nhất của tôi cũng như bao đồng môn là làm thế nào để học thật tốt chuyên ngành
của mình – tiếng Hàn Quốc.
Qua 360 tiết học và 03 kì thi tức là gần hết năm đầu làm quen với giảng đường đại
học, cá nhân tôi cũng như bao sinh viên khác vẫn chưa thỏa mãn được điều quan tâm
trên. Trong quá trình học và trải nghiệm tiếng Hàn cùng các giảng viên của mình,
chúng tôi đã có những buổi trao đổi với giảng viên Đào Vũ Vũ, một số lời khuyên của
giảng viên Đặng Hồng Vân, giảng viên Nguyễn Nam Chi và giảng viên Vũ Thanh Hải
cùng nhiều giảng viên khác đã trực tiếp tham gia giảng dạy khóa 09 trong khoa Hàn
Quốc đại học Hà Nội. Đặc biệt là những giờ học về phương pháp nghiên cứu khoa học
của trưởng khoa Hàn Quốc đại học Hà Nội, thạc sỹ Nghiêm Thị Thu Hương đã giúp
chúng tôi rất nhiều trong việc nhìn nhận những khó khăn cũng như tự trang bị phương
pháp học tập phù hợp cho mình. Nhưng khi được hỏi: “Bạn đã hài lòng với thành tích
học tập của mình chưa?” thì câu trả lời vẫn là: “Chưa!”. Thật khó trả lời là “rồi” bởi cứ
sau mỗi kì thi, nhất là kì thi giữa kì vừa qua, giảng viên Nguyễn Nam Chi và giảng
viên Vũ Thanh Hải lại chỉ ra rất nhiều lỗi cơ bản của chúng tôi dẫn đến thành tích học
tập còn chưa tốt. Ngoài ra, trong giờ học của giảng viên김이연, cá nhân tôi cùng một
số sinh viên khác còn chưa bắt kịp được với tiến độ học tập nên chất lượng học tập còn
nhiều hạn chế.
Sau buổi sinh hoạt chính trị nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong trường đại
học của khoa Hàn Quốc ngày 16 tháng 4 vừa qua, dưới sự chỉ đạo của khoa Hàn Quốc
và nhu cầu muốn đáp ứng phần nào mối quan tâm: “Phải làm gì để học tập tốt tiếng
Hàn Quốc?”, tôi đã mạnh dạn phát triển đề tài này.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
180
Trong suốt quá trình làm quen và học tập tiếng Hàn Quốc, tôi đã cố gắng tìm cách
phát triển phương pháp học tập của riêng mình, nhưng cứ mỗi bước thực hiện lại vấp
phải khó khăn. Chuyển hướng thì lại nảy sinh khó khăn mới. Cứ như thế nên đôi lúc
mới thấy thật chán nản. Tâm sự cùng các sinh viên khóa 09 khác thì mới thấy rằng còn
nhiều các khó khăn khác. Sau khi tổng hợp những khó khăn trên kết hợp với những gì
các giảng viên trang bị cho, có thể hệ thống lại theo dòng lôgic “5 không” sau: đầu tiên,
không học tốt tiếng Hàn là do còn chưa yêu quí nó (không yêu); không yêu quí tiếng
Hàn sao muốn hiểu tiếng Hàn đây, đó là còn chưa nói tiếng Hàn cũng không dễ hiểu
đối với một số sinh viên (không hiểu); không yêu, không hiểu thì tất yếu là khó nhớ
(không nhớ); không nhớ thì làm sao để sử dụng tốt tiếng Hàn (không dùng); và rồi
như trong nhà có một hũ vàng mà không biết, sinh viên không tận dụng những thuận
lợi sẵn có để có những bước tiến xa hơn trong học tập (không tận dụng).
Chi tiết thế nào là “5 không” xin được đề cập ở phần sau. Song song với việc làm
rõ những vấn đề trên, tôi mạnh dạn đề nghị một số phương án giải quyết mà sau quá
trình điều tra, tổng hợp và phân tích hứa hẹn có ích cho chính những sinh viên khóa 09
như tôi và biết đâu lại có thể giúp được các hậu bối khóa sau vượt qua được những khó
khăn mang tính truyền thống này. Ngoài ra, tôi còn một tham vọng nữa là sau khi nhìn
nhận rõ các vấn đề trong việc làm quen và học tập Tiếng Hàn Quốc, sinh viên khóa 09
sẽ thêm yêu và cố gắng chăm chỉ học tập chuyên ngành của mình để không bị mất đi
cơ hội học tập của bản thân cũng như phụ công dạy dỗ và tâm huyết của các giảng
viên trong khoa Hàn Quốc đại học Hà Nội.
B. Nội dung:
1. Không yêu
tiếng Hàn Quốc mà lại là sinh viên của khoa Hàn Quốc, đối với tôi đó là một điều
lạ lùng. Bởi nếu không yêu thích tiếng Hàn Quốc thì tại sao họ lại chọn khoa Hàn
Quốc? Đó là câu hỏi tôi đã có gắng đi tìm lời giải đáp. Và tôi đã tìm được gợi ý đầu
tiên từ giờ học đầu tiên của giảng viên Vương Thị Năm và nhiều giảng viên khác. Đối
với sinh viên khóa 09, các giảng viên đều có chung một câu hỏi: các em vào khoa Hàn
mình vì lí do gì? Tại sao em lại chọn khoa Hàn Quốc? Giảng viên Vương Thị Năm
còn nhấn mạnh:”Câu hỏi này sẽ còn được hỏi lại không dưới một lần!”. Chứng tỏ các
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
181
giảng viên rất quan tâm đến tâm lí tình cảm của sinh viên đối với Tiếng Hàn Quốc –
chuyên ngành sẽ theo sinh viên khóa 09 từ ngày nhập học cho đến khi tốt nghiệp. Tôi
tiến hành điều tra trong tập thể sinh viên khóa 09 đã cho thấy có một số lí do chính đáp
lại sự quan tâm của các giảng viên. Đồng thời từ đây tôi cũng tìm ra được một lí do
giải thích tại sao có sinh viên không yêu thích tiếng Hàn Quốc.
(Phiếu điều tra được bổ sung ở phần phụ lục)
1.1 Lí do chọn chuyên ngành tiếng Hàn Quốc
Lý do chọn chuyên ngành tiếng Hàn Quốc
39%
48%
5%
3%
5% Thuận lợi về cơ hội việclàm
Thích tiếng Hàn Quốc quacác hoạt động giải trí
Năng khiếu bản thân
Gia đình lựa chọn
Khác
Thật đáng mừng khi trong khoa Hàn Quốc, khoa 09 có 5% số sinh viên có năng
khiếu về ngoại ngữ. Họ có nhiều khả năng sẽ trở thành những sinh viên xuất sắc. Có lẽ
không cần bàn nhiều về họ vì có thể chắc rằng những sinh viên này đã có mối quan
tâm không nhỏ tới tiếng Hàn Quốc trước ngày nhập học. Với họ việc có một chế độ
học tập riêng là cần thiết để giúp họ phát huy tối đa khả năng của mình.
Điều đáng quan tâm hơn cả là 48% số sinh viên được hỏi, trả lời lí do của mình là
do yêu thích một diễn viên, một ca sĩ nào đó ở Hàn Quốc. Lí do này cũng không có gì
xấu và quá lạ. Vì rất nhiều thanh thiếu niên Việt Nam yêu thích “Hàn lưu”. Nhưng sẽ
là khó khăn nếu như vào khoa Hàn Quốc chỉ để thỏa mãn những sở thích tương tự như
thế này. Vì tiếng Hàn Quốc sẽ chỉ là một phần nhỏ trong mối quan tâm của họ. Các bài
giảng và nhịp độ học tập tuy không quá vất vả ở những năm đầu nhưng rất quan trọng
sẽ bị các sinh viên này bỏ qua hoặc xao lãng chỉ để tập trung vào những thần tượng
của mình. Thật tiếc là các bài giảng và tài liệu tiếng Hàn không có nhiều phần đề cập
đến vấn đề này, nên việc kết hợp việc học tiếng Hàn với sở thích của họ cần phải có sự
đầu tư, cải tiến dưới góc độ cá nhân. Số lượng sinh viên này tương đối lớn nên tôi xin
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
182
mạnh dạn đề nghị một dự án “giờ học Hàn lưu” để đáp ứng phần nào niềm mong mỏi
của những sinh viên này khi học tập tại khoa Hàn Quốc. Chi tiết dự án xin bổ sung sau
ở phần phụ lục.
Có 39% số sinh viên được hỏi, trả lời lí do của mình là học tiếng Hàn để có cơ hội
việc làm tốt trong tương lai. Những sinh viên này rất biết “lo xa”. Và có thể là những
sinh viên đã có ý thức nhiều hơn về việc học tập. Một điều thật tốt cho công việc học
tập của họ. Nhưng tương lai 4 năm nữa họ mới có thể thấy được những điều hiện tại
họ làm có kết quả ra sao, ngoài ra giảng viên Vương Thị Năm đã từng nói: không sợ
không có chỗ xin việc, nhưng lương thì có thể nhiều, ít, thậm chí là không lương!
Nghe mới thật đáng sợ làm sao! Có thể chính mục đích thực dụng, thực tế nêu trên lại
là vật cản khi những sinh viên này nhận thấy ở đâu đó có thể có nhiều cơ hội việc làm
hơn? Đối với họ yêu thích tiếng Hàn chỉ mang tính thực dụng.
3% số sinh viên được hỏi, trả lời lí do của mình là do gia đình lựa chọn. Có lẽ
những sinh viên này sẽ có thể yên tâm về kế hoạch tương lai. Vì tất cả đều do gia đình
một tay lo liệu, họ chỉ làm theo mà không cần quan tâm đến tiếng Hàn Quốc như thế
nào cũng được(!?) Nhưng biết làm sao khi có thể trong số họ từng ước mơ làm nhà
báo hay kĩ sư,... Thật khó để làm điều người khác sắp đặt trong khi lại muốn làm điều
mình mơ ước. Được bao bọc, lo lắng cho sự nghiệp và tương lai của mình quả là một
điều đáng để mơ ước, nhưng không vì thế mà thụ động và vô cảm với mọi thứ xung
quanh mới chính là mục đích chân chính để trở thành một sinh viên chân chính của
khoa Hàn Quốc. Dù sao thì cũng là chuyện đã rồi, việc cần làm bây giờ là làm sao để
học tập cho tốt, còn nếu không thì cần quyết định một cách dứt khoát rằng có ở lại
khoa Hàn Quốc trong 4 năm tới hay không?
Có 5% số sinh viên có những lí do khác. Quả thật phong phú và đặc biệt khi có
sinh viên trả lời muốn thành phiên dịch viên chuyên nghiệp, muốn được tìm hiểu văn
hóa Hàn Quốc,... Cá biệt còn có sinh viên trả lời là do điểm vào khoa Hàn Quốc thấp
nên đăng kí dự thi và trúng tuyển. Cũng không gì xấu vì giảng viên Vương Thị Năm
chia sẻ: việc chọn chuyên ngành tiếng Hàn Quốc đối với cô là hoàn toàn là tình cờ,
ngẫu nhiên. Số sinh viên này tuy không nhiều nhưng đã cho thấy một cái nhìn toàn
diện về sinh viên khóa 09, một tập thể đầy phức tạp và đa dạng. Tình cảm đối với tiếng
Hàn Quốc vì thế mà cũng không hề đơn điệu. Đó là sẽ thứ tình cảm nhiều chiều với độ
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
183
đậm nhạt khác nhau. Chính vì thế mà chỉ dựa vào lí do chọn chuyên ngành tiếng Hàn
Quốc mà ta đã có thể đánh giá được hết tình cảm của sinh viên khóa 09 với tiếng Hàn
Quốc.
Sau một quá trình tham gia học tập tại khoa Hàn Quốc, tôi còn tìm được một gợi ý
thứ hai cho việc đã là sinh viên khoa Hàn Quốc rồi mà còn chưa yêu thích tiếng Hàn
Quốc.
1.2 Công tác học tập trước khi vào khoa Hàn Quốc:
Do là năm thứ nhất đại học nên công tác học tập trước khi vào đại học có ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập thời gian này. Đặc biệt khi chuyên ngành của
chúng ta là tiếng Hàn Quốc. Ở các ngành khác, sinh viên sẽ không thể biết cụ thể mình
sẽ học gì và cho dù có biết cũng không có đủ điều kiện để chuẩn bị. Còn đối với ngành
ngoại ngữ thì đương nhiên tiếng nước ngoài rồi. Đã có dự định vào khoa Hàn Quốc,
nếu có thời gian chuẩn bị thì phải làm quen với tiếng Hàn Quốc là điều ai cũng biết.
Nhưng hay là ở chỗ ”nếu”, vì là “nếu” nên có sinh viên được làm quen với tiếng Hàn
trước ngày nhập học, số còn lại thì không có điều kiện đó.
Công tác học tập trước khi vào khoa Hàn Quốc
89%
11%
Đã học tiếng Hàn Quốc
Chưa học tiếng Hàn Quốc
1.2.1 Sinh viên đã học tiếng Hàn (chiếm 11%)
Số sinh viên này tuy không nhiều nhưng cũng rất đáng chú ý. Bởi họ có những khó
khăn mặc dù có thể cho là họ có một lợi thế nhất định khi tất cả sinh viên khóa 09 còn
đang ở vạch xuất phát. Không thể phủ nhận một điều là những sinh viên này có một
niềm yêu thích đặc biệt với tiếng Hàn vì trong thời gian học trung học không hề dễ
dàng mà họ vẫn dành phần nhiệt huyết và thời gian ít ỏi cho việc học tiếng Hàn. Hay
chí ít là sau kì thi đại học căng thẳng họ đã tiếp tục cố gắng trong học tập. Điều này
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
184
cũng chứng tỏ họ có một số điều kiện thuận lợi nhất định. Nhưng chính những điều
này lại khiến họ mắc một lỗi điển hình: chủ quan trong học tập, chỉ vì biết trước một
chút mà xao lãng, bỏ qua những phần quan trọng, không nắm rõ bản chất của vấn đề.
Theo kinh nghiệm của các giảng viên kể lại, những sinh viên này có nguy cơ chỉ đạt
kết quả trung bình còn thấp hơn cả những sinh viên vào khoa mới bắt đầu làm quen và
học tập tiếng Hàn. Làm quen và học tập tiếng Hàn trước khi vào khoa còn nảy sinh
một vấn đề nữa: đó là càng học càng thấy tiếng Hàn mới thật khó. Đôi khi còn xảy ra
xung đột kiến thức không cần thiết. Ví dụ như phát âm chẳng hạn. Do được học trước
nên kĩ năng phát âm cũng hình thành sớm hơn các bạn. Một số lỗi phát âm đã thành
thói quen, các giảng viên có sửa cũng thật khó. Các phần khác hầu như cũng tương tự.
Điều này là đặc trưng của chuyên ngành mà ai làm quen và học tập tiếng Hàn cũng
đều phải chấp nhận.
Có lợi thế về kiến thức là điều mơ ước của mỗi sinh viên ở bất kì ngành nào. Có
được điều này sẽ giúp sinh viên thấy trước và có nhiều thời gian để giải quyết các khó
khăn khác. Nhất là đối với sinh viên ngành ngoại ngữ, đó là còn là lợi thế về thời gian,
thứ mà không gì có thể đánh đổi được. Giống như việc anh lớn hơn em có một tuổi
thôi, nhưng cả đời em không thể bằng tuổi anh được chứ chưa nói gì đến việc hơn tuổi
anh. Mặt khác cũng chưa chắc chắn là cứ hơn tuổi thì thông minh hơn, thành công hơn
đâu nhé! Em dù có kém tuổi nhưng nếu chăm chỉ hơn trong việc học ngoại ngữ hơn
anh thì cũng sẽ thành công hơn anh. Việc có lợi thế về kiến thức phải là động lực để
tiếp tục tiến những bước xa hơn trong tương lai. Không chủ quan trong học tập và liên
tục cố gắng mới là người học tập chân chính.
Đối với nhóm sinh viên này không thể nói là họ không yêu thích tiếng Hàn Quốc
nhưng làm sao để yêu thích tiếng Hàn Quốc hơn nữa, yêu thích đến mức đó là động
lực, là “vũ khí bí mật” để vượt qua những khó khăn sắp tới trong quá trình làm quen
và học tập tiếng Hàn Quốc vẫn là một yêu cầu còn chưa được giải quyết. Điều này xin
được nghiên cứu trong thời gian tới.
1.2.2 Sinh viên chưa học tiếng Hàn (chiếm 89%)
Số sinh viên này chiếm phần lớn sinh viên khóa 09. Tất nhiên đầu tiên các sinh
viên này không có chút lợi thế nào mà còn có thêm một số khó khăn nữa. Điều đặc
biệt lưu ý là một kiểu khó khăn điển hình sau: Hầu hết sinh viên khi dự thi vào trường
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
185
đều phải học tiếng Anh trước đấy vì tiếng Anh là môn thi bắt buộc trong kì thi đại học.
Có những sinh viên 12 năm học tiếng Anh và đã giành những thành tích cao về tiếng
Anh thời trung học. Việc nhìn người khác chập chững học tiếng Anh là điều thật buồn
cười, cảm nhận được điều mình làm tốt hơn người khác mới quả thật là niềm động
viên trong công việc học tập. Nhưng giờ đây chính mình lại bắt đầu chập chững học
môn ngoại ngữ mới, một ngoại ngữ với chữ viết khác hoàn toàn với những ngôn ngữ
đã biết, giờ đây lại có người làm tốt hơn mình, ở cái vị trí mà mình từng nắm giữ bao
nhiêu năm qua. Vấp phải biết bao khó khăn khác trong học tập, trong cuộc sống bị xáo
trộn khiến tự mình không thể nào đạt được phong độ như xưa trong một thời gian ngắn.
Càng vội vàng lại càng lún sâu hơn trong mớ bòng bong. Đó có thể là lí do khiến
không ít sinh viên trượt dài trên con đường học tập sắp tới. Mọi háo hức về mọi thứ
tiếng mới, có thể còn là thứ tiếng mơ ước của các bạn sinh viên từ từ biến mất khỏi suy
nghĩ cũng như tình cảm của họ. Thế chỗ là sự nhàm chán, đôi khi còn là vô vị, nhạt
nhẽo, “phức tạp kiểu không đâu” của tiếng Hàn Quốc. Thực ra tiếng Hàn vốn vẫn thế,
cũng chẳng vô vị và nhạt nhẽo tí nào cả nhưng chính thành tích và khả năng học tập
của sinh viên khóa 09 khiến nó bị mang tiếng xấu ấy.
Vẫn biết một khởi đầu mới là không dễ dàng nhưng khởi đầu mới cũng chứa đựng
bao điều thú vị mà nếu kiên trì ta sẽ cảm nhận được hết. Tạo cho mình một tâm lí học
tập vững vàng là điều mà hẳn ai trong những sinh viên khóa 09 đã tự rèn luyện cho
mình suốt 12 năm học tập vừa qua. Nay điều này lại càng trở nên cần thiết hơn bao giờ
hết. Khó khăn mà không lùi bước là điều mà khoa Hàn Quốc sẽ dạy các sinh viên khóa
09 cho đến khi nhận bằng tốt nghiệp nên sinh viên khóa 09 hãy coi như là bài học đầu
tiên trong khóa học kéo dài 4 năm này. Điều tra mới biết quả là niềm yêu thích tiếng
Hàn Quốc cũng phụ thuộc rất nhiều vào khả năng học tập trên giảng đường đại học.
“Đã tốt nay còn tốt hơn” là điều mà tôi hằng mong mỏi các bạn sinh viên khóa 09 khi
nói về tình cảm đối với tiếng Hàn Quốc. Cho dù kết quả học tập còn chưa cao như các
bạn mong đợi nhưng đừng để điều đó ảnh hưởng đến tình cảm mà sinh viên khóa 09
dành cho tiếng Hàn Quốc.
Dựa trên 2 khía cạnh trên, ta có thể đánh giá việc sinh viên khóa 09 chưa yêu
thích tiếng Hàn Quốc là khó khăn đầu tiên gây ra việc chưa học tốt tiếng Hàn Quốc là
hoàn toàn có cơ sở. Có điều, đánh giá này hiển nhiên đến mức chẳng cần chứng minh,
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
186
nghiên cứu cũng có thể biết và chính vì thế nên cũng mấy ai nhắc đến. Yêu thích tiếng
Hàn Quốc đối với sinh viên khóa 09 là điều cơ bản. Mà đã là cơ bản và hiển nhiên thì
hay bị lãng quên và xem nhẹ. Bởi lẽ đó mà tôi xin được nhắc lại và cũng là để mở đầu
cho khó khăn tiếp theo.
Với khó khăn cơ bản và đầu tiên này thì việc giải quyết và thời điểm giải quyết
mang tính quyết định. Vì trái với yêu thích là ghét, ghét đi cùng với thành kiến. Một
khi đã có thành kiến xấu với tiếng Hàn Quốc thì khó lòng mà yêu thích nó được. Bởi
lẽ đó nên những buổi học đầu tiên trong khoa Hàn Quốc mới thật quan trọng, làm sao
để phô bày hết được vẻ quyến rũ, nét hấp dẫn và đáng yêu cùng những điểm mạnh của
tiếng Hàn Quốc là điều quan trọng. Tiếng Hàn Quốc ngay từ “cái nhìn đầu tiên” phải
là ngôn ngữ tuyệt vời nhất của các tân sinh viên và sau này sẽ là ngoại ngữ duy nhất có
vị trí trong lòng mỗi sinh viên khóa 09. Nói cách khác tiếng Hàn Quốc với nội lực của
một ngôn ngữ đứng hàng thứ 20 trên trên thế giới phải có sức mạnh “mê hoặc” cần và
đủ để kéo tinh thần sinh viên về phía mình. Có thế sau này sinh viên mới có thể ăn,
ngủ, chơi, học, yêu tiếng Hàn Quốc được. Tiền đề của tất cả những điều ấy bắt đầu từ
việc gây dựng chí ít cũng là cảm tình với tiếng Hàn Quốc, Chính vì vậy, dưới góc độ
cá nhân, tôi xin đề cử một dự án nghiên cứu: “한국어 사랑해!”. Để bồi dưỡng tình
cảm của sinh viên năm thứ nhất đối với tiếng Hàn Quốc qua các hoạt động điều tra,
tìm hiểu tình cảm sinh viên và giúp sinh viên hiểu và đánh giá tiếng Hàn Quốc trên
nhiều khía cạnh của cuộc sống, biến tiếng Hàn Quốc thành một chủ thể trữ tình, một
trong những mối quan tâm trong cuộc sống mỗi sinh viên năm thứ nhất qua các buổi
tiếp xúc trao đổi với các giảng viên, người Hàn Quốc và sinh viên khóa trên. Qua đó
bồi dưỡng tình yêu tiếng Hàn Quốc tạo tiền đề cho các hoạt động học tập khác. Chi tiết
kế hoạch nghiên cứu xin được bổ sung ở phần phụ lục.
Xin kết phần này bằng một chia sẻ về cách biểu hiện tình cảm trong tiếng Hàn
Quốc của giảng viên Nguyễn Nam Chi: đó là cách gọi 님, 남, 넘. 님 là để chỉ người
biểu thị thái độ kính trọng được dịch sang tiếng Việt tương đương “ngài, ông”. 넘
dùng để chỉ người mang sắc thái khinh thường, hạ thấp dịch sang tiếng Việt tương
đương với “mày, hắn”. Còn 남 dùng để chỉ người dưng tức là không yêu cũng chẳng
ghét, sắc thái nghĩa bình thường có thể dịch sang tiếng Việt tương đương là “anh”
trong “anh tôi”. Giải thích cho cả lớp xong, giảng viên Nguyễn Nam Chi mỉm cười
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
187
hỏi: “trong ba đại từ trên, các em có biết người Hàn Quốc gọi mình bằng đại từ gì thì
đáng sợ nhất không?” Đa số sinh viên trả lời là:넘. Lí do thì đã quá rõ rồi. Nhưng thật
bất ngờ, giảng viên Nguyễn Nam Chi mỉm cười lần nữa và trả lời là남. Vì남 là để chỉ
người dưng, gần như không quen biết, nên “nếu có chết thì họ cũng không cứu”,”thà là
để họ yêu hoặc ghét mình còn hơn là chẳng để ý gì đến mình”. Đối với tiếng Hàn
Quốc cũng vậy, sinh viên khóa 09 tuy có bộc lộ rõ tình cảm của mình người yêu,
người ghét nhưng còn hơn là chẳng để ý gì đến nó cả. Có điều khi đã có tình cảm với
tiếng Hàn Quốc rồi thì phải hướng tình cảm ấy về mặt tích cực, phục vụ vào công việc
học tập tiếng Hàn Quốc.
Với một tình yêu đặc biệt dành cho tiếng Hàn Quốc, nhiều sinh viên khóa 09 đã nỗ
lực không ngừng suốt thời gian qua để nâng cao kỹ năng tiếng Hàn – mục tiêu 2 năm
đầu học tập tại khoa Hàn Quốc. Thế nhưng trước một ngoại ngữ đầy quyến rũ và đáng
yêu như tiếng Hàn Quốc việc tiếp cận lại xem ra còn có nhiều khó khăn. Tiếng Hàn
Quốc đối với sinh viên khóa 09 thời điểm hiện tại có một vẻ đẹp vô cùng “bí ẩn”. Tại
sao lại nói là “bí ẩn”? Bởi vì đơn giản sinh viên khóa 09 chưa hiểu tiếng Hàn Quốc.
Tất nhiên sẽ càng khó hiểu hơn nếu là người chẳng có chút tình cảm hay quan tâm gì
đến tiếng Hàn Quốc. Đối với họ nhu cầu hiểu là không có.
2. Không hiểu
tiếng Hàn Quốc được thể hiện đặc sắc và giản dị nhất ở việc hiểu nghĩa câu tiếng
Hàn - đơn vị ngữ pháp trung gian được đặc biệt nhấn mạnh trong buổi sinh hoạt chính
trị hôm 16 tháng 4 vừa qua cũng như các buổi sinh hoạt trước đó về phương pháp học
tập. Bởi trong câu có từ và các cấu trúc ngữ pháp có liên quan, câu truyền tải một nội
dung trọn vẹn. Ở tiếng Việt, đơn vị ngữ pháp có chức năng tương đương lại không
phải là câu mà là phát ngôn. (Do trình độ và thời gian có hạn nên chưa tìm hiểu chính
xác để so sánh giữa hai ngôn ngữ, tạm thời dùng khái niệm câu tiếng Hàn để tương
đương với khái niệm phát ngôn trong tiếng Việt). Không hiểu câu tiếng Hàn tức là
không hiểu được nội dung chuyển tải. Điều đó khiến cho chức năng giao tiếp của ngôn
ngữ bị hạn chế thậm chí là bị triệt tiêu.
Cần phải giải thích rõ hơn: ở đây khái niệm “hiểu tiếng Hàn” với ý nghĩa sinh viên
có thể hiểu nội dung chuyển tải qua tiếng Hàn tương đương như qua tiếng Việt. Tức là
không chỉ ở đơn vị ngữ pháp là câu mà còn trên các đơn vị ngữ pháp khác nữa. Đây là
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
188
một yêu cầu không dễ đối với sinh viên năm đầu.
Sau khi điều tra và tổng hợp số liệu, kết quả cho thấy ở biểu đồ sau:
Sinh viên hiểu tiếng Hàn Quốc
64%
36%Hiểu
Không hiểu
Qua biểu đồ, ta có thể thấy trong khóa 09 có không ít sinh viên còn chưa tự tin với
việc hiểu nghĩa từ, các cấu trúc ngữ pháp và các bài khóa tiếng Hàn (chiếm 64%). Một
thời lượng tương đối thời gian cho việc làm quen và học tập tiếng Hàn Quốc đã trôi
qua, nhưng việc hiểu tiếng Hàn vẫn còn là một khó khăn thì quả là đáng tiếc. Thật ra
thì cũng không có gì lạ vì việc hiểu hay không hiểu tiếng Hàn đối với nhiều sinh viên
còn là một khái niệm mơ hồ và chỉ được làm rõ khi các giảng viên dịch bài. Đối với
những sinh viên có quan tâm, tìm hiểu thì việc làm thế nào để hiểu được tiếng Hàn
cũng không dễ. Một điều không cần chứng minh là: giữa tiếng Hàn và tiếng Việt có sự
khác biệt lớn trên nhiều mặt. Mặt khác, trong quá trình giảng dạy, giảng viên Vũ
Thanh Hải đã không dưới ba lần khẳng định: những ý diễn đạt, những từ tiếng Hàn
không phải tiếng Việt lúc nào cũng có. Có những khái niệm từ tiếng Hàn mà tiếng Việt
phải mất tới mấy câu mới giải thích được. Ấy thế mà đôi khi còn được hiểu một cách
vô cùng ngộ nghĩnh. Việc tự tìm hiểu của sinh viên còn nhiều khó khăn khi từ điển
Việt Hàn không đáng để đặt sự tin cậy. (Đây là ý kiến của không chỉ một mình giảng
viên Vương Thị Năm). Các nguồn tài liệu khác thì lại phải hiểu qua ngôn ngữ thứ ba
(thường là tiếng Anh).
Vì vậy việc hiểu tiếng Hàn của sinh viên khóa 09 chỉ dừng lại ở “chân lí” từ các
giảng viên. Tức là các giảng viên dịch câu đó, bài đó như thế nào thì được hiểu như
vậy. Sau này có gặp câu nào, bài nào tương tự thì áp dụng. Nghe có vẻ thụ động – một
trong những điều giảng viên Nghiêm Thị Thu Hương nói là cần tránh. Thực ra cũng
chẳng cần nhiều hơn vì lĩnh hội được hết chỗ kiến thức đó cũng đã đủ mệt rồi. Nhưng
có điều với khối lượng lớn kiến thức như vậy mà sau khi hiểu là phải nhớ hết thì quả là
đánh đố. Nếu không phải là người có năng khiếu thì việc liên tục phải nạp trên dưới
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
189
100 từ mới mỗi tuần như trong thời gian học sách trung cấp 경희 quá khó để có thể
“sống cho ra sống”. Mỗi tuần trôi qua là “ác mộng” vì tổng lượng từ lại tăng lên “đột
biến”. Nhưng trí nhớ thì lại thụt lùi. Quên nhiều vô kể, đôi lúc còn chẳng nhớ gì cả là
chuyện không hiếm. Có sinh viên than phiền là học tiếng Hàn cứ như là không học gì
vậy. Vì chưa kịp hiểu đã phải nhớ rồi, nhớ nhưng mà quên nhiều như thế thì tổng kết
lại là chẳng học được gì. Không hiểu tiếng Hàn làm cho các bước như ghi nhớ và sử
dụng tiếng Hàn trở nên bế tắc. Ấy là chưa kể đối với khóa 09, khoa còn có chương
trình đặc biệt “nặng” hơn các khóa trước đây. Trong năm thứ nhất, khóa 09 phải học
lượng kiến thức nhiều hơn. Chẳng biết khoa có yêu quí khóa 09 hơn hay không nhưng
công tác học tập của các sinh viên trong khóa thì cứ như “yêu quái” vậy. Vẫn phải
khắc phục để học tốt cho xứng đáng với “tình cảm” của khoa là điều mà mỗi sinh viên
khóa 09 đang làm.
2.1. Hiểu tiếng Hàn qua các bản dịch Hàn – Việt
Việc hiểu tiếng Hàn như đã đề cập ở trên phù thuộc hoàn toàn vào các bài dịch Hàn
Việt của các giảng viên. Nhưng hầu hết các bản dịch đều là dịch miệng chứ không có
văn bản ghi chép gì cả. Sinh viên phải tự ghi chép lại nhưng không thể tránh khỏi sai
sót, nhất là nhiều sinh viên chưa ý thức được sự quan trọng của các tài liệu “truyền
miệng” này của các giảng viên nên còn bỏ qua hoặc xem nhẹ, hiểu qua loa cho xong.
So sánh các bản ghi chép của các sinh viên sẽ thấy cách hiểu còn chưa đồng nhất. Có
sinh viên bản dịch từ kì trước đến kì sau mới biết là cách hiểu của mình có vấn đề.
Chẳng may chỗ sai sót đó có trong các kì thi thì có phải thật đáng tiếc hay không? Cho
nên để tạo sự đồng nhất về bản dịch tạo cách hiểu đúng đắn cho sinh viên năm thứ
nhất, tôi xin đề nghị dự án: “bản dịch các bài khóa và các đoạn hội thoại trong giáo
trình thực hành tiếng của sinh viên năm thứ nhất” dưới sự cố vấn của các giảng viên.
Chi tiết dự án xin bổ sung trong thời gian tới ở phần phụ lục.
2.2. Hiểu tiếng Hàn sau khi hiểu tiếng Việt
Trong quá trình thực hiện đề tài này, tôi đã tiến hành một phần của dự án nêu trên
và được trải nghiệm những khó khăn trong việc dịch Hàn Việt và đôi khi là ngược lại.
Có lẽ tôi cũng phần nào hiểu được những khó khăn mà các tiền bồi năm 3 trở đi gặp
phải. Một điều đáng lưu ý sau thời gian công tác đó là cá nhân tôi cảm thấy việc hiểu
tiếng Việt của mình có vấn đề. Tất nhiên tôi là người Việt nên việc hiểu tiếng Việt để
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
190
giao tiếp, sử dụng hằng ngày không thành vấn đề, nhưng đã vào học chuyên ngành
ngôn ngữ nên yêu cầu hiểu tiếng Việt giờ đây đã mức cao hơn. Qua tìm hiểu được biết
cách hiểu từ, câu, văn bản tiếng Việt của sinh viên nói chung, cũng như sinh viên khóa
09 khoa Hàn Quốc nói riêng còn hời hợt. Bằng chứng là đối với một câu tiếng Việt,
sinh viên khóa 09 chỉ hiểu nó chuyển tải nội dung gì chứ không biết cấu tạo ngữ pháp
của câu đó, câu đó thuộc loại câu nào? Các từ trong câu có tính chất biểu cảm ra sao?
Khi nào thì dùng câu như vậy? Các câu có ý nghĩa tương đương có tương đương sắc
thái biểu cảm hay không? Nếu có thì dựa vào tiêu chuẩn nào để đánh giá?... Đó là chưa
kể các đơn vị ngữ pháp khác nữa. Tất cả những khía cạnh nêu trên đều liên quan đến
đặc thù của ngành ngôn ngữ. Việc nắm được đặc thù ngành ngôn ngữ đã được giảng
dạy trong giờ phương pháp nghiên cứu khoa học của giảng viên Nghiêm Thị Thu
Hương nhưng vẫn cần thời gian để thấm nhuần. Dưới đây là biểu đồ thể hiện sự quan
tâm của sinh viên khóa 09 đối với đặc thù ngành ngôn ngữ.
Sinh viên khóa 09 với đặc thù ngành ngôn ngữ
53%47% Nắm được
Không nắm được
47% số sinh viên được hỏi trả lời là không nắm được đặc thù ngành ngôn ngữ, còn
53% số sinh viên còn lại trả lời là đã nắm được nhưng còn tùy mức độ.
Do chưa quan tâm xác đáng đến những đặc điểm của ngành ngôn ngữ mà sinh viên
chưa định hướng phương pháp học tập của mình cho phù hợp. Vì vậy mà thường bỏ
qua công tác trau dồi và nghiên cứu Tiếng Việt. Chính lí do đó mà cho dù có được bản
dịch Hàn Việt từ dự án nêu trên, sinh viên cũng không khai thác hết được tác dụng vốn
có của nó để trau dồi vốn từ cũng như kĩ năng tìm hiểu tiếng Hàn.
Để giải quyết khó khăn trên, đồng thời định hướng học tập cho sinh viên năm thứ
nhất, tôi đề xuất một đề tài nghiên cứu: “Đối chiếu ngôn ngữ Hàn – Việt trên nền kiến
thức của sinh viên năm thứ nhất”. Nghiên cứu dự định sẽ cung cấp đối chiếu ngữ pháp
tiếng Hàn với tiếng Việt theo sát giáo trình của sinh viên năm thứ nhất. Nghiên cứu sẽ
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
191
hoàn thành phần thô sau khi học bộ môn “ngôn ngữ học đối chiếu” của khoa ngữ văn
Việt Nam. Tất nhiên trước đó, dự án dịch Hàn Việt nêu trên đã đạt được một số kết
quả nhất định tạo tiền đề cho nghiên cứu này.
Việc tìm hiểu các bản dịch Hàn Việt ở mức độ phân tích, đối sánh giữa hai ngôn
ngữ Hàn Việt. Chủ yếu là chiều từ tiếng Hàn sang tiếng Việt sẽ xây dựng được một cở
sở tiếng Hàn vững chắc ngay từ năm đầu , hình thành được cái nền của thế giới quan
của tiếng Hàn thông qua tiếng Việt là điều cần thiết cho một phiên dịch viên tương lai.
Có được tình yêu tiếng Hàn Quốc và trình độ hiểu tiếng Hàn nhất định, giờ đây
sinh viên có thể vững vàng vượt qua thử thách bản thân: ghi nhớ - một trong những
khả năng khiến sinh viên ngành xã hội nói chung và nhất là sinh viên ngành ngoại ngữ
nói riêng sự khác biệt đến ngưỡng mộ.
3. Không nhớ
tiếng Hàn không phải bởi vì không muốn nhớ mà là bởi vì hay quên. Khả năng ghi
nhớ của mỗi cá nhân trước khi vào khoa Hàn Quốc có giới hạn nhất định. Nhưng sau
khi vào khoa Hàn Quốc, hiệu quả của khả năng ghi nhớ lại có sự chuẩn hóa mà ai cũng
phải tuân theo.
Số liệu xin được bổ sung sau.정말죄송합니다!
Cho nên việc rèn luyện khả năng ghi nhớ sao cho phù hợp với tiêu chuẩn chung là
điều mỗi sinh viên khóa 09 đang cố gắng thực hiện. Dưới góc độ cá nhân, tôi cho rằng
việc yêu quí và hiểu tiếng Hàn đã là những tiền đề cho việc ghi nhớ. Công việc là phải
ghi nhớ rất nhiều. Nhớ rồi quên, quên thì lại học cho nhớ rồi cứ lặp đi lặp lại quá trình
như vậy. Nghe có vẻ thật nhàm chán nhưng lại là điểm đơn giản nhất mà học ngoại
ngữ có được. “Không cần quá cầu kì trong cách hiểu vấn đề nhưng lại rất cầu kì trong
cách giải quyết vấn đề” - điểm mà khiến học ngoại ngữ nhìn bề ngoài thì đơn giản
nhưng thực tế thì đủ phức tạp để làm mỏi trí nghĩ của bất cứ ai. Tất nhiên là cũng có
trường hợp ngoại lệ.
Trong việc ghi nhớ ngoài khả năng của bản thân, tôi tin là nhất định còn có phương
pháp để ghi nhớ tốt hơn. Đáng mừng là sinh viên khóa 09 có trí nhớ khá tốt, không cần
yêu quí, không cần hiểu mà vẫn có thể nhớ được, thậm chí là có khả năng nhớ đáng
kinh ngạc (ý kiến cá nhân). Do là khó khăn của thiểu số sinh viên nên hiện không tiến
hành nghiên cứu sâu hơn.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
192
4. Không dùng
tiếng Hàn thể hiện ở tần suất sử dụng tiếng Hàn để thực hiện chức năng giao tiếp.
Học tiếng Hàn Quốc 2 năm đầu rất chú trọng kĩ năng ngôn ngữ. Đã là kĩ năng thì phải
chăm luyện tập mới có. Dưới đây là biểu đồ cho thấy mức độ sử dụng tiếng Hàn Quốc
của sinh viên khóa 09
Mức độ sử dụng tiếng Hàn Quốc của sinh viên khóa 0923%
77%
Sử dụng nhiều
Sử dụng ít
77% số sinh viên được hỏi cho rằng việc sử dụng tiếng Hàn của họ còn chưa nhiều.
Điều này khá đáng ngại vì nếu quả thực như vậy việc rèn luyện kĩ năng ngôn ngữ sẽ
gặp nhiều khó khăn.
Qua buổi sinh hoạt chính trị hôm 16 tháng 4 vừa qua, một giáo viên người Hàn
Quốc chia sẻ rằng giờ luyện nói của sinh viên lại biến thành giờ luyện nghe. Điều này
chứng tỏ sinh viên khóa còn quá ít sử dụng tiếng Hàn Quốc là xu thế chung. Giải thích
lí do chính cho hiện tượng trên, giảng viên Vương Thị Năm khẳng định là do trong
đầu chẳng có gì để sử dụng cả nên im lặng là trên hết. Điều này liên quan đến các khó
khăn nêu ở trên nên không phân tích lại ở phần này.
Đáng nói là tâm lí còn e ngại sử dụng tiếng Hàn với lí do sợ sai, sợ người khác cười.
Chính tâm lí này đã khiến sinh viên khóa 09 “yêu” tiếng Việt nhiều hơn. Bất kể là nói
chuyện với ai, giảng viên hay bạn học đều sử dụng tiếng Việt là trên hết. Thậm chí đối
với giáo viên người Hàn Quốc, sinh viên khóa 09 cũng muốn “Việt hóa” luôn. Cũng
có thiểu số sinh viên hăng hái trong việc sử dụng tiếng Hàn, nhưng thường bị chê cười
và cho là bị bất bình thường. Tệ hơn là khó hòa đồng với phần đông sinh viên còn lại.
Chính cái tâm lí của người Việt Nam “xấu đều còn hơn tốt lỏi” ấy đã kìm hãm sinh
viên khóa 09 sử dụng tiếng Hàn. Và tiếng Hàn vẫn chỉ là ngoại ngữ ngay cả với sinh
viên khoa Hàn Quốc chứ không thể trở thành nội ngữ được.
Để giải quyết vấn đề trên cần tạo một xu hướng mang tính phong trào. Tôi tiếp tục
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
193
đề nghị dự án: “công tác thúc đẩy việc sử dụng tiếng Hàn Quốc cho sinh viên năm thứ
nhất”. Dự kiến sẽ gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện nên xin bổ sung vào
phần phụ lục trong thời gian tới. Với tỉ lệ thành công chưa cao như hiện tại thì dự án
còn cần các giảng viên cố vấn và tạo điều kiện rất nhiều mới có thể có kết quả.
Chính sự thụ động trong việc sử dụng tiếng Hàn của sinh viên khóa 09 đã tạo nên
khó khăn tiếp theo.
Trích một phần trong dự án: “công tác thúc đẩy việc sử dụng tiếng Hàn Quốc cho
sinh viên năm thứ nhất”:
“...Đầu tiên là chuẩn bị kiến thức thật tốt thông qua việc làm cho sinh viên yêu,
hiểu và nhớ tiếng Hàn. Sinh viên lúc này sẽ có được khả năng sử dụng tiếng Hàn dưới
dạng còn tiềm ẩn. Sau đó là cho sinh viên biết được khả năng sử dụng tiếng Hàn của
người Việt tốt như thế nào. Khi nhìn các giảng viên của khoa ta nói chuyện một cách
rất tự nhiên với người Hàn Quốc, nhất là hai giảng viên Vũ Thanh Hải và Nguyễn
Nam Chi, tôi mê lắm. Vì hai giảng viên này tốt nghiệp từ chính khoa Hàn Quốc của
chúng ta. Cho nên chắc chắn sinh viên khóa 09 nếu học tập chăm chỉ và đúng cách
cũng có thể làm được như vậy. Sau đó là “mớm” (thuật ngữ của giảng viên Nguyễn
Nam Chi) cho sinh viên ý tưởng sẽ sử dụng tiếng Hàn trong cuộc sống hằng ngày bằng
các buổi giao lưu với người Hàn Quốc hoặc các hoạt động giải trí có liên quan có trợ
giảng. Nội dung hấp dẫn và sát với giáo trình là yêu cầu thứ hai, yêu cầu thứ nhất là
tạo cho sinh viên muốn được sử dụng tiếng Hàn và tự tin khi sử dụng nó...”
5. Không tận dụng
các điều kiện hiện có để làm quen và học tập tốt tiếng Hàn Quốc. Điều này thể hiện
sinh động ở sự việc sau: Trong chuyến đi thực tế dã ngoại hai ngày 3 và 4 tháng 4 vừa
qua, qua quan sát cho thấy chuyến đi có một số người Hàn Quốc cùng tham gia. Đặc
biệt tại nơi nghỉ của tập thể lớp XH09 còn có hai thầy cô và một thanh niên người Hàn
Quốc cùng ở. Như vậy là tập thể XH09 đã có điều kiện thuận lợi để thực hành tiếng
Hàn, nhưng lạ thay chẳng mấy sinh viên để ý đến điều đó. Thậm chí khi nói chuyện
với người Hàn Quốc, sinh viên XH09 còn sử dụng tiếng Việt và tiếng Anh lẫn lộn diễn
đạt ý của mình, tiếng Hàn cũng được tham gia nhưng chỉ là một vài từ thông thường
ngắn ngủi. Thế mà khi được hỏi về việc sinh viên có cảm thấy thiếu môi trường thực
hành tiếng Hàn hay không thì 100% sinh viên nói là thiếu. Vậy thế nào là đủ? Ngay cả
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
194
khi cơ hội xuất hiện trước mặt, sinh viên cũng đâu có nắm lấy. Không có đủ dũng cảm
nắm lấy cơ hội nhưng lại luôn đòi hỏi có nhiều cơ hội hơn.
Đúng là với sự sắp xếp của khoa, mỗi tuần khóa 09 có 02 giờ học với giảng viên
người Hàn Quốc là chưa nhiều nhưng để tận dụng tốt các giờ học đó vẫn còn là một
bài toán đau đầu.
Mặt khác, vấn đề tài liệu cũng rất nóng bỏng. Tài liệu cũng không đến nỗi hiếm
nhưng để dùng được phục vụ hiệu quả cho học tập thì quả thật chưa nhiều. Với các tài
liệu đươc khoa gợi ý, giảng dạy hằng ngày, sinh viên khóa 09 cũng đã cố gắng tận
dụng theo chỉ dẫn của các giảng viên. Nhưng còn thụ động và còn chưa sâu.
Sinh viên khóa 09 với việc nắm vững đặc điểm các nguồn tài liệu
50%50% Nấm đượcChưa nắm được
Qua kết quả điều tra trên ta có thể thấy sinh viên khóa 09 đã có ý thức nghiên cứu
và tận dụng tài liệu. Việc tìm thêm các tài liệu bên ngoài cũng đang được tiến hành. Sử
dụng tốt tài liệu là có thể tạo cho mình một phong cách học tập riêng có hiệu quả tốt
nhất cho bản thân.
Sau khi tận dụng tốt các điều kiện hiện có, sinh viên mới có thể học tập đạt hiệu
quả cao cũng như tận dụng những cơ hội từ bên ngoài.
Tuy là chưa cần thiết phải tạo thêm điều kiện cho đa số sinh viên, vì họ còn bận
xây dựng những “cái gốc”. Nhưng “mũi nhọn” của khoa Hàn Quốc cũng cần được
“gọt rũa” để xứng tầm với các khoa có giảng dạy tiếng Hàn Quốc của các trường đại
học khác trên toàn quốc nhằm tạo dựng uy tín cho không chỉ khoa Hàn Quốc của
chúng ta mà còn cho cả trường đại học Hà Nội. Đúng như nội dung của mục này,
chúng ta không thể không tận dụng điều kiện từ trường đem lại. Việc mở rộng hợp tác
đào tạo của khoa Hàn Quốc với các khoa Việt Nam học, trung tâm tiếng Việt cần được
cân nhắc và sớm có kế hoạch cụ thể. Nhìn thấy cơ hội là ở những nơi nói trên có một
lượng người Hàn Quốc đang học tập tiếng Việt có khả năng giúp ích nhiều cho công
tác đào tạo sinh viên của khoa ta, tôi tiếp tục mạnh dạn đề xuất một phần của dự án
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
195
“hợp tác đào tạo Việt – Hàn trong trường đại học Hà Nội” là tiểu luận: “xây dựng
khung chương trình hợp tác đạo tạo giữa khoa Hàn Quốc và các khoa có sinh viên
người Hàn Quốc đang học tập bộ môn tiếng Việt” và tiểu luận: “giáo trình học tiếng
Hàn với người Hàn Quốc đang học tiếng Việt của sinh viên năm thứ nhất”. Đây là 2 đề
tài tiểu luận ấp ủ tham vọng của tôi là có thể thành lập được một hệ thống đào tạo
tiếng Việt cho người Hàn Quốc có uy tín độc quyền của khoa Hàn Quốc, đại học Hà
Nội. (Nghe có vẻ mơ mộng của sinh viên năm thứ nhất). Cho dù thế nào đi nữa thì đây
cũng là dự án giúp nâng cao chất lượng học tập của nhóm sinh viên có thành tích tốt
của khóa 09, để các bạn học tốt hơn nữa, tránh tình trạng “ếch ngồi đáy giếng”, chủ
quan trong học tập.
Tất cả cũng vì một mục đính là làm sao để học tập thật tốt tiếng Hàn Quốc.
6. Bồi dưỡng tình yêu và nhân cách
là câu trả lời cho câu hỏi:”học tập thật tốt tiếng Hàn Quốc để làm gì?”. Cho dù là
học ngành nào thì mục đích cuối cùng ngoài kiến thức là đào tạo con người. Cho nên
học tiếng Hàn Quốc cũng không nằm ngoài mục đích trên. Một điều đáng lưu ý là
tiếng Hàn Quốc là ngành khoa học xã hội cho nên việc đào tạo con người càng cần
được chú trọng. Không chỉ giảng viên mà sinh viên cũng cần nắm được điều này.
Trước hết là sinh viên cần có ý thức là sau này phải trở thành một người tốt, có đầy đủ
những đặc điểm về tính cách được coi là tốt: có lòng yêu thương con người, khoan
dung, trung thực,... Và sẽ dùng kiến thức của mình để trở thành người có ích cho xã
hội.
Do là tiếng Hàn Quốc nên kết quả của việc đào tạo con người cũng có những đặc
thù mang đậm phong cách văn hóa Hàn Quốc. Từ dáng điệu, lời nói đến tính cách,
sinh viên khóa 09 sẽ mang trong mình “chất Hàn” được bồi đắp theo thời gian. Thật
may là có nhiều điểm tương đồng giữa hai nền văn hóa Việt Nam – Hàn Quốc cho nên
sẽ không gặp nhiều khó khăn trong việc mang văn hóa Hàn đến với cuộc sống Việt.
Nhưng cũng cần lưu ý là sinh viên phải “hòa nhập chứ không hòa tan”, chỉ nên học tập
một cách có chọn lọc các tinh hoa của văn hóa Hàn Quốc chứ không chỉ chạy theo một
cách mù quáng. Tất nhiên là còn tùy mức độ.
Khoa Hàn Quốc có thể là nơi duy nhất còn lại dạy và tạo điều kiện cho sinh viên
học cách sống tốt trước khi ra làm việc. Cho nên mỗi sinh viên khóa 09 cần phải biết
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
196
trân trọng chuyên ngành của mình như một trong những gì tốt đẹp mà tuổi trẻ có được.
Sinh viên thời này có nhiều điều kiện để học tập và phát triển hơn các tiền bối đi
trước. Cho nên tâm lí và tình cảm cũng có nhiều thay đổi hơn trước, kéo theo là cuộc
sống, cách sống cũng có nhiều phần khác trước. Nhưng dù thế nào thì đã là con người
phải biết yêu, biết trân trọng và tin tưởng vào cuộc sống. Và tiếng Hàn Quốc sẽ là
người dẫn đường thông thái không chỉ trên con đường tri thức mà còn cả trên con
đường dẫn đến hạnh phúc.
C. Kết luận
Làm quen và học tập tiếng Hàn mới thật nhiều khó khăn và dường như bao quát hết
cuộc sống của mỗi sinh viên khóa 09. Đó là khó khăn nhưng cũng là thuận lợi. Làm
sao để tiếp cận tốt tiếng Hàn nếu tiếng Hàn không phải là một phần cuộc sống của
chúng ta? Tuy việc giải quyết còn phụ thuộc nhiều vào các dự án đang thực hiện cũng
như trong tương lai nhưng một khi đã định hình được những khó khăn gặp phải, chắc
hẳn mỗi sinh viên khóa 09 đều đã tự có dự tính riêng cho mình. Việc giải quyết những
khó khăn này của khóa 09 có ý nghĩa với không chỉ khóa 09 mà còn có thể là kinh
nghiệm cho những khóa sau trên con đường làm quen và học tập tiếng Hàn Quốc. Nên
nhớ: Tiếng Hàn không tự nhiên tìm đến chúng ta nhưng tiếng Hàn lại có khả năng tự
nhiên chen vào cuộc sống của sinh viên khóa 09. Hãy yêu quí nó để rồi một ngày nào
đó khi tiếng Hàn đồng hành trên mỗi bước đường sự nghiệp, bạn sẽ không phải hối
hận rằng: giá như hồi năm thứ nhất mình không ghét tiếng Hàn đến thế! Và bạn sẽ nói
rằng: Cám ơn tiếng Hàn đã đồng hành trong suốt thời sinh viên tươi đẹp!
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
197
D. Phụ lục
*Các dự án đang trong quá trình xét duyệt hoặc đang thực hiện:
1. 한국어사랑해
2. Bản dịch các bài khóa và các đoạn hội thoại trong giáo trình thực hành
tiếng của sinh viên năm thứ nhất
3. Đối chiếu ngôn ngữ Hàn – Việt trên nền kiến thức của sinh viên năm thứ
nhất
4. Công tác thúc đẩy việc sử dụng tiếng Hàn Quốc cho sinh viên năm thứ
nhất
5. Hợp tác đào tạo Việt – Hàn trong trường đại học Hà Nội
Xây dựng khung chương trình hợp tác đạo tạo giữa khoa Hàn Quốc và các
khoa có sinh viên người Hàn Quốc đang học tập bộ môn tiếng Việt
Giáo trình học tiếng Hàn với người Hàn Quốc đang học tiếng Việt của sinh
viên năm thứ nhất
*Mẫu phiếu điều tra của các số liệu đã sử dụng (còn sơ sài)
*Bản đánh giá khả năng giao tiếp tiếng Hàn trong dự án: “Công tác thúc đẩy
việc sử dụng tiếng Hàn Quốc cho sinh viên năm thứ nhất”
*Các tài liệu còn được tiếp tục bổ sung trong thời gian tới
*Công tác viên: 01 sinh viên của lớp 3H09
Bản đánh giá khả năng giao tiếp tiếng Hàn
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
198
Trong dự án:Công tác thúc đẩy việc sử dụng tiếng Hàn Quốc cho sinh viên
năm thứ nhất
Sinh viên thực hiện:.......................................................................................
Công tác viên:.................................................................................................
Người giám sát:..............................................................................................
A. Tình huống sử dụng:
1. Tình huống (đã có sự chuẩn bị như yêu cầu):
Sinh viên thực hiện sẽ đóng vai một nhân viên mới vào làm tại một văn phòng.
Cộng tác viên đóng vai trưởng phòng giới thiệu nhân viên mới với các nhân viên
khác trong công ty.
*Thực hiện hội thoại theo sườn nội dung trang 43 sách trung cấp 1 경희 và trang
69 sách bài tập
2. Tình huống (chưa có sự chuẩn bị như yều cầu):
Sinh viên thực hiện đóng vai một người đi đường.
Cộng tác viên sẽ đóng vai người hỏi đường đến quán bia có cuộc hẹn với các đồng
nghiệp trong công ty.
*Sinh viên thực hiện sẽ chỉ đường cho cộng tác viên đến quán bia theo sơ đồ cho
trước.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
199
B. Yêu cầu:
Cộng tác viên đối thoại theo các tình huống và thực hiện đánh giá trên các tiêu chí
sau:
(thang đánh giá từ 1-5)
1. Khả năng phản xạ với câu hỏi ( có tìm được câu trả lời phù hợp không?)
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
2. Phát âm các từ trong câu có chính xác không?
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
3. Sử dụng ngữ pháp trong câu trả lời có chính xác không?
..........................................................................................................................................
............................................................................................................................................
4. Sử dụng ngữ điệu câu trả lời có đúng với văn cảnh không?
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
5. Câu nói/ câu trả lời có làm đứt đoạn không gian tiếp, môi trường giao tiếp không?
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
Đánh giá kết thúc
Xin chân thành cám ơn!정말감사합니다!
Hà Nội, ngày.....tháng.....năm 2010
Sinh viên thực hiện Công tác viên Người giám sát
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
200
PHIẾU ĐIỀU TRA
Về những khó khăn trong việc làm quen và học tập tiếng Hàn Quốc của sinh
viên khóa 09 khoa Hàn Quốc Đại học Hà Nội
( THÔNG TIN GHI TRÊN PHIẾU ĐIỀU TRA ĐƯỢC GIỮ KÍN)
I, Bạn là ai trong tập thể sinh viên khóa 09 chúng mình?
1. Bạn đang sống cùng ai?
Gia đình, hoặc anh chị một mình cùng bạn
2. Lý do chọn chuyên ngành tiếng Hàn Quốc?
Thuận lợi về cơ hội việc làm
Thích tiếng Hàn Quốc qua các hoạt động giải trí (phim ảnh, ca nhạc,...)
Năng khiếu bản thân (trước đây đã từng học chuyên ngữ, hoặc tham gia các kì
thi ngoại ngữ, đã có một quá trình học ngoại ngữ)
Gia đình lựa chọn
Các lí do khác (ghi rõ lí do):
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
3. Bạn đã từng học tiếng Hàn Quốc trước khi học tập tại khoa?
Có Không
4. Bạn yêu thích tiếng Hàn Quốc ở mức nào?
Ghét quá (-%) Ghét thôi (0%) Bình thường
(50%)
Yêu vậy thôi (80%) Ghét yêu (100%) Cao
hơn(>100%)
II, Các khó khăn thuộc nhóm ngoài ngôn ngữ:
1. Trong môi trường đại học, bạn thấy có ảnh hưởng như thế nào với chất lượng
học tập (ảnh thưởng tiêu cực, tích cực ở mặt nào: thời gian, môi trường,…):
2. Bạn cảm thấy khả năng ghi nhớ (nhớ từ mới, mẫu câu, bài khóa tiếng Hàn) như
thế nào? Bạn cảm thấy phần nào khó nhớ nhất?
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
201
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
3. Bạn có sử dụng tiếng Hàn nhiều không? Trong giờ học cùng các thầy cô người Hàn
Quốc, bạn cảm thấy có hiệu quả không? Nếu không hiệu quả thì theo bạn lí do tại sao?
Theo bạn có cần thiết phải tiếp xúc nhiều hơn người Hàn Quốc để thực hành tiếng
Hàn?
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
4. Khó khăn về phương thức giảng dạy của giảng viên:
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
5. Bạn đã nắm vững các tài liệu học tập (biết cấu trúc sách, phòng KH cybel nắm
vững được thuận lợi, khó khăn đối với hiệu quả học tập)
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
6. Khó khăn khác:
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
III. Các khó khăn thuộc nhóm trong ngôn ngữ:
1.Bạn cảm thấy khả năng dịch các bài khóa tiếng Hàn ra tiếng Việt như thế nào? (có
còn gượng không?):
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
2. Bạn có chắc rằng bạn đã hiểu nghĩa từ tiếng Hàn, các cấu trúc ngữ pháp và các
bài khóa tiếng Hàn đúng và đủ chưa? (hiểu tương đương tiếng Việt)
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
3. Theo bạn tại sao lại gặp khó khăn trong việc dịch hiểu tiếng Hàn – Việt, Việt –
Hàn?
Khó khăn đó có xuất phát từ sự khác biệt giữa 02 loại ngôn ngữ không?
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
202
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
4.Khó khăn khác:
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
IV. Giải quyết khó khăn:
1, Bạn đã làm những gì để giải quyết những khó khăn trên?
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
2, Bạn có thỏa mãn với thành tích học tập tiếng Hàn Quốc không?
Có Không
3, Bạn nghĩ mình sẽ làm gì để nâng cao thành tích của bản thân? Nêu suy nghĩ của
bạn?
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
203
SO SÁNH CÁC BIỂU HIỆN CHỈ KHẢ NĂNG TRONG
TIẾNG HÀN QUỐC
지못하다 , (으)ㄹ 수 있다/없다 và (으)ㄹ 줄 알다/ 모르다
Giáo viên hướng dẫn: Cô giáo Nguyễn Phương Dung
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Phương Thúy lớp 3h09
I. Mở đầu
1. Mục đích nghiên cứu
Trên thế giới có hơn 5000 ngôn ngữ khác nhau, mỗi ngôn ngữ đó đều có những đặc
điểm riêng biệt rất phong phú và đa dạng. Dựa trên các công trình nghiên cứu khoa
học về ngôn ngữ thì ngôn ngữ được chia thành những loại hình nhất định . Tiếng Hàn
Quốc thuộc loại hình ngôn ngữ chắp dính. Tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đẳng
lập. Chính sự khác biệt về loại hình ngôn ngữ đã gây không ít khó khăn cho người
Việt học tiếng Hàn Quốc và ngược lại. Vì có nhiều trường hợp một biểu hiện của tiếng
Việt không đồng nhất với một biểu hiện trong tiếng Hàn Quốc và ngược lại. 지
못하다 , (으)ㄹ 수 있다/없다 và (으)ㄹ 줄 알다/ 모르다 là một trong các trường
hợp điển hình. Vì trên thực tế khi dịch sang tiếng Việt thì chỉ có các từ rất chung
chung như có thể(không thể), có biết(không biết) nên nếu chỉ đơn thuẩn nhìn vào khái
niệm và cách sử dụng của các cấu trúc trên mà không có sự so sánh một cách tỉ mỉ thì
sẽ dễ dàng dẫn đến việc nhầm lẫn trong cách sử dụng các cấu trúc đó, chính vì vậy tôi
viết viết bài nghiên cứu này nhằm giúp các bạn phân biệt rõ điểm giống và khác nhau
giữa các câu trúc trên, tránh nhầm lẫn trong khi sử dụng. Hi vọng bài nghiên cứu của
tôi có thể trở thành một tài liệu nghiên cứu khoa học hữu ích và gần gũi với các bạn
sinh viên học tiếng Hàn Quốc, nhất là sinh viên năm thứ nhất như tôi
2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Trong bài nghiên cứu này, tôi chỉ đề cập đến một vấn đề rất nhỏ trong ngữ pháp
tiếng Hàn Quốc là các biểu hiện chỉ khả năng có thể hay không thể làm được một việc
gì đó. Vì mới chỉ là sinh viên năm thứ nhất, tôi chưa đủ kinh nghiệm cũng như năng
lực để tự nghiên cứu chuyên sâu nên phương thức nghiên cứu của tôi là dựa trên các
tài liệu nghiên cứu đã có từ trước, chọn lọc và tổng hợp một cách có khoa học và hệ
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
204
thống các kiến thức đó rồi so sánh, giúp các bạn nhận ra điểm giống và khác nhau
giữa các biểu hiện trên.
II. .Nội dung đề tài
2.1.Động từ hành động +지못하다 /못 +Động từ hành động:
a.Khái niệm: là hình thức được kết hợp với động từ hành động động, có ý nghĩa
phủ định. Cấu trúc này được sử dụng khi chủ ngữ, chủ thể của hành động không đủ
khả năng hay không thể thực hiện hành động do sự tác động của các yếu tố bên ngoài
vào chứ không phải là do ý chỉ chủ quan của chủ thể hành động.
b.Cách sử dụng:
Bảng 1: Cách sử dụng của hình thức지못하다 /못 +Động từ hành động
Hình thức Ví dụ
Động từ hành động +지못하다가다->가 지못합니다
만들다->만들지 못 합니다
못 + Động từ hành động가다->못 갑니다
만들다->못 만들습니다
c.Ví dụ: (1) - 지금 다리가 아파서 못 걸어요.
Vì bị đau chân(yếu tố bên ngoài tác động) nên tôi không thể đi bộ được.
(2)- 배가 아파서 아무것도 못 먹어요.
Tôi bị đau bụng( yếu tố bên ngoài tác động) nên không thể ăn được gì cả.
(3) -비가 너무 많아서 소 풍을 가 지 못 했습니다.
Vì trời mưa quá to ( yếu tố bên ngoài tác động) nên chúng tôi không thể đi dã
ngoại được.
2.2. Động từ hành động + (으)ㄹ 수 있다/없다:
a.Khái niệm: là cấu trúc được dùng để biểu hiện cho năng lực của chủ thể hay khả
năng xảy ra một hành động nào đó.
b. Cách sử dụng:
Bảng 2: Cách sử dụng của hình thức (으)ㄹ 수 있다/없다
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
205
Hình thức Cách sử dụng Ví dụ
Động từ hành động
không có batchim (받침)
가다->갈 수있다/없다
그리다->그릴수있다/없다ㄹ수 있다/없다
Động từ hành động có
batchim (받침) làㄹ만들다->만들수있다/없다
을 수
있다/없다
Động từ hành động có
batchim(받침)먹다->먹을 수있다/없다
c.Ví dụ:
(5)- 저는 운전면허증이 없지만 운전을 할 수 있습니다.
Tuy rằng tôi không có bằng lái xe nhưng tôi vẫn có thể lái xe được.
(6)- 이 버스를 타면 동대문에 갈 수 없습니다.
Nếu đi xe bus này thì không thể đi tới chợ동대문 được.
(7)-이 문제를 풀 수있는 사람은 머리가 아주 좋은 것 같아요.
Người có thể giải được bài toán này thì đầu óc chắc phải rất thông minh
(8)-음악을 듣기를 좋아하지만 노래를 할 수 없 습니다.
Tôi thích nghe nhạc nhưng tôi lại không thể hát được.
2.3. Động từ hành động + (으)ㄹ 줄 알다/ 모르다:
a. Khái niệm: là cấu trúc biểu thị việc biết hay không biết phương pháp, cách thức
thực hiện hành động hoặc không ngờ sự việc lại có tính chất như thế
b. Cách sử dụng:
Bảnh 3: Cách sử dụng của hình thức (으)ㄹ 줄 알다/ 모르다
Hình thức Cách sử dụng Ví dụ
Động từ hành động
không có batchim
(받침)
타다->탈 줄알다/
모르다ㄹ 줄 알다/ 모르다
Động từ hành động
có batchim (받침) làㄹ
만들다->만들 줄
알다/ 모르다
을 줄 알다/ 모르다 Động từ hành động 운전을 줄 알다/
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
206
có batchim(받침) 모르다
Lưu ý: Khi động từ tình thái kết hợp (으)ㄹ 줄 모르다 (thường kết hợp với
이렇게/그렇게/저렇게) lại có ý nghĩa người nói không biết, rất bất ngờ trước tính
chất của sự việc đã xảy ra.
VD: (9)-한국 생활이 이렇게 재미있을 줄 몰았습니다.
Tôi không biết là cuộc sống sinh hoạt ở Hàn Quốc lại thú vị đến thế.
(10)-김치가 맜있을 줄몰았습니다.
Tôi không biết là kimchi lại ngon đến vậy
c..Ví dụ:
(11)- 빵 을 구울 잘 알면 사 먹을 필요가 없어요.
Nếu đã biết(phương pháp, cách) nướng bánh mì rồi thì không cần phải mua về
ăn nữa.
(12).- 김치를 만들 줄 어떻게 알아요?
Làm thế nào mà cậu biết(phương pháp, cách)làm kimchi vậy?
(13) -자전거를타본적이 없으니까 탈줄모릅니다.
Vì chưa thử đi xe đạp bao giờ nên tôi cũng không biết(phương pháp, cách) đi xe
đap.
4.So sánh giữa các biểu hiện
4.1. Sự giống nhau
*Sự giống nhau giữa지못하다 (못 +Động từ hành động) và (으)ㄹ 수 없다
2 cấu trúc này có ý nghĩa và chức năng tương tự nhau, có thể thay thế được cho
nhau.
(14) -가방이 너무 무거워서 들 수 없습니 다.
= 가방이 너무 무거워서 들 지 못합니다.
Cái cặp này quá nặng nên tôi không thể xách được
(15) -머리가 너무 아파서 잠을 자지 못했습니다.
=머리가 너무 아파서 잠을 잘 수 없습니다.
Vì đau đầu quá nên tôi không thể ngủ được.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
207
4.2.Sự khác nhau
*Sự khác nhau giữa (으)ㄹ 수 있다/없다 và (으)ㄹ 줄 알다/ 모르다
Khi dùng ‘ (으)ㄹ 줄 알다/ 모르다’ thì chủ thể chủ yếu muốn nhấn mạnh vào
việc biết hay không biết cách thức, phương pháp thực hiện hành động.
Còn khi dùng (으)ㄹ 수 있다/없다 thì lại chủ yếu nhấn mạnh vào năng lực của
chủ thể, và các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực của chủ thể trong việc thực hiện hành
động mà việc biết(hay không biết) cách thức thực hiện hành động là một trong các yếu
tố ảnh hưởng đến năng lực của chủ thể. Như thế có thể nói là (으)ㄹ 수 있다/없다
có ý nghĩa rộng hơn, bao quát hơn so với (으)ㄹ 줄 알다/ 모르다.
(16)- 저 는 케이크를 만들 수 있지만 재료를 부족해서 지금 만들 지
못 해요.
( Tôi biết làm bánh nhưng mà thiếu nguyên liệu nên bây giờ tôi không thể làm
được)
Ở đây chủ thể biết cách làm bánh, có khả năng làm nhưng vì có hoàn cảnh bên
ngoài tác động vào (thiếu nguyên liệu) nên không thực hiện được việc làm bánh.
(17) Khi nói ‘저는 운전을 할 줄 모릅니다.’ thì có nghĩa là ‘운전을 하는
방법을 모른다.’ (Tôi không biết cách lái xe)
Tuy nhiên khi nói ‘저는 운전을 할 수 없습니다’( Tôi không thể lái xe
được) thì có nhiều yếu tố dẫn đến việc “ không thể lái xe” một trong số đó có thể là
‘운전을 하는 방법을 모른다.’ (Tôi không biết cách lái xe), và cũng có thể là do
yếu tố bên ngoài tác động “운전을하는 방법을 아는데 술을 마셔서 지금은
운전을 할 수 없습니다.” ( Tôi biết cách lái xe nhưng vì vừa uống rượu nên bây giờ
không lái xe được). Tuy nhiên không thể nói là “ 운전 을 하는 방법을 아는데
술을 마셔서 지금은 운전을 할 줄 모릅니다 .”
*Sự khác nhau giữa지못하다 (못 +Động từ hành động) và (으)ㄹ 수 없다
Nếu xét trên phương diện biểu hiện chỉ khả năng thì지못하다 (못 +Động từ hành
động) và (으)ㄹ 수 없다 giống nhau về bản chất nên qua ví dụ trên cũng dễ dàng
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
208
nhận thấy điểm khác nhau giữa지 못하다 (못 +Động từ hành động) và với (으)ㄹ
줄 모르다 .
III.KẾT LUẬN
Tiếng Hàn Quốc là loại hình ngôn ngữ chắp dính nên các biểu hiện ngữ pháp trong
tiếng Hàn Quốc vô cùng đa dạng, linh hoạt, thường gắn với các hoàn cảnh cụ thể khác
nhau. Nhưng cũng chính sự đang dạng và linh hoạt đó lại gây không ít khó khăn cho
người học tiếng Hàn Quốc trong việc hiểu rõ bản chất của các cấu trúc, biểu hiện ngữ
pháp. Bài nghiên cứu khoa học của tôi đã tổng hợp một cách chung nhất về khái niệm,
cách sử dụng của 3 biểu hiện chỉ khả năng cơ bản trong tiếng Hàn Quốc; đồng thời rút
ra được những điểm giống và khác nhau giữa các biểu hiện trên để giúp các bạn sinh
viên học tiếng Hàn Quốc có được nhận thức sâu hơn, tổng quan hơn về ý nghĩa của
các biểu hiện trên, tránh nhầm lẫn khi sử dụng. Tuy bài nghiên cứu của tôi còn chưa
thật hoàn chỉnh nhưng tôi hi vọng ít nhiều sẽ trở thành tài liệu giúp ích cho các bạn
sinh viên theo học tiếng Hàn Quốc nhất là sinh viên năm nhất như tôi.
IV.Tài liệu tham khảo
1. Ngữ pháp cơ bản tiếng Hàn ( Thuý Liễu - Bích Thuỷ)- NXB Thanh Niên
2. trang web naver.com
3. Giáo trình Tiếng Hàn chung cấp 1 của trường đại học Kyong Hee
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
209
SO SÁNH KIẾN TRÚC NHÀ Ở NGÀY XƯA CỦA
VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC
Giáo viên hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Ngọc Bích
Sinh viên thực hiện : Trần Quốc Đạt 2H-07
I, Giới thiệu vấn đề:
Việt Nam và Hàn Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày
22/12/1992. Vượt qua khoảng cách địa lý và thời gian, nhân dân hai nước Hàn-Việt từ
xa xưa đã có những mối quan hệ tốt đẹp với nhau. Mối thân tình tốt đẹp ấy cùng với
những nét tương đồng về lịch sử, địa lý càng củng cố thêm tình đoàn kết giữa hai dân
tộc. Quay ngược dòng lịch sử ta mới thấy Hàn Quốc và Việt Nam từng có một khoảng
thời gian rất dài là thuộc địa của các thế lực phương Bắc như Trung Quốc, Mông Cổ
nên ít nhiều hai nước đã chịu ảnh hưởng khá sâu sắc về văn hóa, xã hội, chính trị đến
lối sống, tư tưởng của văn hóa Trung Hoa. Nếu tìm hiếu, nghiên cứu về các công trình
kiến trúc, xây dựng nhà ở của người dân hai nước trong thời kỳ phong kiến ta mới thấy
nhà truyền thống ở cả Việt Nam và Hàn Quốc được xây dựng với những nguyên tắc,
đặc điểm khá giống nhau. Tuy nhiên trong mỗi công trình kiến trúc ở mỗi quốc gia vẫn
ẩn chứa bên trong nó những nét phác họa, dáng vẻ khác nhau mà không thể lẫn được.
Trong phạm vi của bản nghiên cứu này tôi muốn tập trung đi sâu vào việc so sánh,
đối chiếu những nét tương đồng và khác biệt trong kiến trúc nhà ở ngày xưa của người
dân Việt Nam và Hàn Quốc. Từ đó tôi cùng các bạn sẽ có một cái nhìn tổng quan, đầy
đủ để hiểu được một cách tường tận và sâu sắc về lối kiến trúc nhà ở của ông cha ta
thời trước của hai quốc gia. Đồng thời thông qua việc nghiên cứu này tôi cùng với mọi
người sẽ nhận thấy được cả hai quốc gia Việt Nam và Hàn Quốc nói riêng và các nước
trong khu vực châu Á nói chung luôn có sự trao đổi, giao thoa văn hóa nhằm mục đích
hiểu biết và học tập lẫn nhau.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
210
II, Giải quyết vấn đề:
1, Quá trình phát triển của nền kiến trúc nhà cổ của Việt Nam và Hàn Quốc
Kiến trúc nhà ở truyền thống của cả hai dân tộc Việt-Hàn từ xưa tới nay được cấu
thành tương tác bởi các nhân tố địa lý, môi trường, môi sinh và các hoàn cảnh kinh tế
xã hội, đặc biệt còn phải kể đến một nhân tố quan trọng đó là ảnh hưởng của sự giao
lưu văn hóa giữa các vùng, miền dân tộc, các quốc gia và cộng đồng quốc tế thể hiện
qua văn hóa vật chất lẫn lối sống, tập quán, thái độ ứng xử của con người trước hoàn
cảnh, trong đời sống thường nhật và cả trong đời sống văn hóa tâm linh.
Dưới góc độ lịch sử và địa lý không gian kiến trúc nhà ở truyền thống ở hai quốc
gia vốn từng chịu ảnh hưởng không nhỏ từ văn hóa của Trung Hoa lục địa. Nền kiến
trúc xây dựng nhà ở của Việt Nam và Hàn Quốc đều gắn liền với môi trường thiên
nhiên và hoàn cảnh, kinh tế-xã hội. Những công trình kiến trúc nhà ở ngày xưa hầu hết
đều được xây dựng trong thời kỳ phong kiến. Dù là công trình nhà ở to lớn, đồ sộ của
các bậc quan lại, giai cấp thống trị hay là các ngôi nhà nhỏ đơn sơ của những người
thường dân thì các nguyên vật liệu xây dựng đều được lấy từ trong thiên nhiên sẵn có
ở các địa phương đã được khai thác và sử dụng rộng rãi, phổ biến như: tranh, tre, nứa,
lá, gỗ, đá...sau này còn có những nguyên vật liệu khác như: gạch, ngói, sành, sứ...
Xong bên cạnh đó một điều mà chúng ta có thể nhận ra được nét tương đồng về
hình dáng của các ngôi nhà truyền thống ở hai quốc gia Việt-Hàn ấy là việc vận dụng
một cách thành thạo đến bài bản thuyết Âm Dương Ngũ Hành được các bậc tiền nhân
đi trước sử dụng rất nhiều và rộng rãi bên cạnh thuyết Phong Thủy địa lý để xây dựng
nên những công trình vĩ đại, trường cửu tồn tại cho đến tận ngày nay. Mặt khác việc sử
dụng các màu sắc trong kiến trúc lại được ứng dụng theo nguyên lý cơ bản của tự
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
211
nhiên. Có khoảng năm màu sắc cơ bản mà ở các nước phương Đông thường được mọi
người sử dụng như màu xanh tượng trưng cho phía Đông, màu trắng tượng trưng cho
phía Tây, màu đỏ tượng trưng cho phía Nam, màu đen tượng trưng cho phía Bắc, màu
vàng kim tượng trưng cho khu vực trung tâm. Đó là những màu sắc cơ bản mà mọi
người rất ưa chuộng. Thêm vào đó thuyết Âm Dương Ngũ Hành cũng được ứng dụng
rất phổ biến trong việc phân tích hình thái kiến trúc cùng với môi trường tự nhiên.
Theo đó ta cũng có thể nhận ra được sự ưa chuộng của cả hai dân tộc trong việc
trang trí kiến trúc bằng chạm trổ và điêu khắc (ảnh hưởng mạnh kiến trúc Trung Hoa)
trên các bộ phận kết cấu và chi tiết kiến trúc nhằm làm giảm nhẹ sức nặng, tạo sự
phong phú khi con người tiếp cận gần nhưng khi nhìn xa vẫn hoành tráng, ấn tượng
khỏe khoắn. Về tạo hình, chú trọng cái đẹp về tỷ lệ hài hòa, tỷ xích nhân văn nhằm
nhấn mạnh sức truyền cảm có sự thống nhất từ chi tiết đến tổng thể làm cho kiến trúc
vừa thuận mắt dễ coi, vừa gần gũi với tầm vóc người Châu Á.
Nói về bản sắc truyền thống trong kiến trúc nhà ở của Việt Nam chúng ta có thể
rút ra một số đặc điểm sau: Sự khiêm tốn và đơn giản về khối hình, kiến trúc thường
cân xứng, hướng nội nhưng hài hòa với khung cảnh thiên nhiên như muốn hòa nhập
hữu cơ theo quan điểm "nhất thể vũ trụ", "âm dương quân bình" và "thiên nhiên hợp
nhất".
Hệ thống kết cấu nhà ở của Việt Nam có quy định thống nhất về kích thước các chi
tiết của ngôi nhà như: khung cột, các loại xà..., tương quan về tỷ lệ và qua đó những
nghệ nhân trước đây đã sáng tạo ra một lối kiến trúc riêng biệt mà không thể lẫn với
kiến trúc nhà ở của các nước châu Á khác.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
212
Nền kiến trúc nhà ở của người Hàn Quốc xưa phát triển hưng thịnh và mạnh mẽ
sớm hơn rất nhiều so với Việt Nam (khoảng 5000 năm trước) hình dáng bên ngoài và
kết cấu bên trong của một ngôi nhà cổ của Hàn Quốc mang nhiều nét dáng dấp của lối
kiến trúc nhà của không chỉ Trung Quốc mà còn của Nhật Bản.
Lối kiến trúc, xây dựng nhà ở truyền thống của Hàn Quốc vẫn lưu giữ được kiểu
dáng kiến trúc đặc biệt được hình thành theo quan niệm, tư tưởng của người dân trên
bán đảo Triều Tiên. Điều này không chỉ khác với kiểu kiến trúc đa dạng trên thế giới
mà còn khác với cả Trung Quốc và Nhật Bản. Việc có được cái đặc trưng đặc biệt đến
như thế đó là vì việc hình thành nên tư tưởng, ý thức đặc biệt, ảnh hưởng của chế độ
xã hội, chính trị của Hàn Quốc đến mỗi người dân Hàn cũng như điều kiện khí hậu,
thổ nhưỡng trên mảnh đất mà mọi người Hàn đang sinh sống.
Thêm vào đó không cần phải nói đến các nước phương Đông và phương Tây theo
cái môi trường tự nhiên và điều kiện mang tính nhân văn thì lối kiến trúc nhà ở cũng
tạo nên rất nhiều sự khác biệt về các phương diện cũng như quá trình phát triển ở mỗi
quốc gia. Theo đó, lối kiến trúc nhà ở truyền thống của Hàn Quốc được hình thành và
phát triển như thế nào và dù chúng ta có ý thức được giá trị phân tích, đánh giá về lối
kiến trúc đó ra sao thì việc nhận ra được các nhân tố mang tính tự nhiên và nhân văn
ảnh hưởng đến nó là một điều hết sức cần thiết và quan trọng. Một trong hai nhân tố
này là nhân tố mang tính tự nhiên được phân chia thành các yếu tố khí hậu, địa lý, địa
chất và nhân tố mang tính nhân văn được chia thành các yếu tố tôn giáo, xã hội, lịch sử
và người ta cũng quyết định đi nghiên cứu cái tính chất đặc biệt đó của lối kiến trúc
xây dựng nhà ở truyền thống của Hàn Quốc.
2, So sánh, đối chiếu nhà truyền thống của người Hàn Quốc và Việt Nam
Theo quan niệm Phong Thuỷ xưa thì người Việt Nam quan niệm cho rằng khách
đến có thể mang theo họa phúc khó lường từ bên ngoài tác động vào nhà nên bố cục
ngôi nhà truyền thống luôn có không gian đệm (hàng hiên, bậc thềm, tiền sảnh) để
giảm Trực xung, rồi đến chỗ tiếp khách có bình phong che chắn tầm nhìn và ngăn
luồng di chuyển xuyên vào nhà sau.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
213
Thuyết Phong Thủy địa lý được ra đời trong thời kỳ thành lập nhà nước Choseon.
Thuyết Âm Dương Ngũ Hành nhằm để chỉ ra các phương hướng thì nó cũng được
người Hàn xưa ứng dụng trong việc xây cất nhà cửa để tránh những điều rủi ro và cầu
mong điều may mắn. Hình dáng bên ngoài của ngôi nhà thường được xây dựng theo
kiểu chữ Khẩu, Dung, Nhật, Nguyệt và người ta không chọn xây dựng ngôi nhà theo
hình các chữ có ý nghĩa không tốt như chữ Thi, chữ Công. Bởi vì chữ Thi có nghĩa là
xác chết không hay, chữ Công thì lại mang nghĩa là đổ vỡ và thất bại một cách bất
thường nên việc xây dựng nhà ở theo các chữ đó là điều cấm kị trong xây dựng nhà ở
của người Hàn Quốc xưa.
Trong xã hội phong kiến ở cả hai quốc gia luôn có sự tồn tại song song của hai giai
cấp: giai cấp thống trị (những người có quyền lực và tài sản lớn, tầng lớp thượng
lưu...) và giai cấp bị trị (những người lao động nghèo, thường dân...) nên kiểu kiến trúc
nhà ở của hai giai cấp này cũng vì thế mà khác nhau. Nếu như nhà ở của giai cấp
thống trị mái nhà thường được lợp bằng ngói, tường được xây cất chắc chắn thì nhà ở
của giai cấp bị trị mái lại được lợp bằng dạ, cỏ khô...còn tường được xây đắp bùn đất.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
214
Trong bố cục của ngôi nhà truyền thống Việt Nam và Hàn Quốc, sự phân định hợp
lý để đảm bảo tính thống nhất toàn nhà, đồng thời vẫn tạo được tiện nghi thoải mái cho
khách mà không xâm phạm vào nội khí dương trạch luôn được thể hiện rõ nét. Ðó là vì
nét đặc trưng văn hóa truyền thống Ðông phương luôn coi trọng tính ổn định và ngôi
thứ trong ngoài, trên dưới, trình tự từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ đại thể đến chi
tiết. Một điều mà ta dễ dàng có thể nhận thấy được đó là trong mỗi căn nhà truyền
thống của Việt Nam và Hàn Quốc đều có một phòng lớn nằm ở vị trí trung tâm của
ngôi nhà là nơi diễn ra các cuộc tiếp khách, nghỉ ngơi và tổ chức các sự kiện lớn.
Mặc dù đều là hai nước nằm trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, từng bị các
thế lực cát cứ phong kiến phương Bắc Trung Quốc, Mông Cổ xâm lược nên ít nhiều
chịu ảnh hưởng khá sâu sắc tư tưởng, quan niệm sống và văn hóa Trung Hoa. Thế
nhưng trong kiến trúc nhà truyền thống của người Việt Nam và Hàn Quốc lại có sự
khác biệt rõ rệt. Trong tiềm thức, suy nghĩ của người dân hai quốc gia khi xây dựng
một ngôi nhà phải tuân theo nguyên lý “phong thủy địa lý”. Theo nguyên tắc này thì
người Hàn Quốc cho rằng một ngôi nhà tọa lạc ở một vị trí đẹp là phải đảm bảo các
điều kiện sau: Phía trước ngôi nhà là một cái sân nhỏ và có một dòng sông để thuận
tiện cho việc đánh bắt và tưới tiêu. Phía sau tựa vào núi để ngôi nhà luôn ở thế vững
trãi được bảo vệ, che chở.
Trong khi đó cũng tuân theo quy luật này người Việt Nam lại cho rằng phía trước
ngôi nhà là phải có một cái sân nhỏ, có một mảnh vườn nhỏ, trước vườn là một cái ao
để thuận tiện cho việc nuôi và đánh bắt tôm cá làm thức ăn hàng ngày và tưới tiêu,
đằng sau nhà cũng là vườn. Hướng nhà chính bao giờ cũng quay về phía Nam, Đông
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
215
Nam để đón gió mát thổi từ hướng Nam nhất là khi nó đem được cái mát của hơi nước
từ mặt ao trước sân vào nhà. Lưng nhà ở phía Bắc không có cửa, hai hồi có cửa sổ
nhưng thường rất nhỏ để chống cái rét của gió mùa Đông Bắc.
Không gian sống trong mỗi căn nhà của người Việt được tận dụng ứng xử linh
hoạt, đa năng, biến hóa phong phú, vừa hòa nhập dễ dàng với thiên nhiên môi trường,
vừa thích ứng với hoạt động đời sống nông nghiệp kết hợp với thủ công nghiệp của
vùng nhiệt đới ẩm có gió mùa với các dạng không gian buồng phòng, hiên thoáng, sân
trong, sân ngoài... thật phong phú, sinh động và thích dụng.
Trong khi đó không gian trong kiến trúc của mỗi căn nhà truyền thống Hàn Quốc
cũng không quá lớn và khuôn viên của ngôi nhà được bố trí rất hợp lý và hài hòa nên
chính điều đó đã mang lại cho con người một cảm giác thật thoải mái và tận hưởng
được không gian sống thanh bình, thi vị. Hơn thế nữa trong căn nhà truyền thống của
Hàn Quốc ta có thể cảm nhận được những không gian sống khác nhau cùng tồn tại
dưới một mái nhà, với mái nhà có độ nghiêng khá lớn tạo nên những hình vòng cung
đặc sắc, trần nhà cao, xà nhà cũng rất to, cột nhà dày và khá to đã tạo cho con người có
cảm nhận được sống trong một không gian đầm ấm và thoải mái.
Triền mái của kiến trúc nhà ở truyền thống của Việt Nam thường được lợp bằng
mái ngói thẳng, không cong, nhưng hếch lên ở góc mái tạo sự thanh thoát lấy cảm
hứng từ mũi thuyền của nền văn hóa sông nước. Ngói lợp truyền thống của Việt Nam
là ngói mũi hài (ngói vảy rồng).
Ấn tượng ban đầu ở một ngôi nhà truyền thống Việt Nam ấy là cái mái lợp ngói ta
ngả màu rêu phong, ở giữa sống mái hơi thấp một chút rồi cong nhẹ, cao dần ở hai đầu
đỉnh mái được gọi là réo làm cho cái mái nhà trở nên “mềm” hơn, “dẻo” hơn. Cả ngói
chiếu, cả ngói lợp, lợp theo kiểu viên trên đè viên dưới thường dày tới 4 - 5 cm. Đó là
lý do làm cho trong nhà luôn mát hơn nhiều so với bên ngoài trời.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
216
Mái nhà truyền thống của Hàn Quốc lại là mái cong và chỉ hơi chếch ở góc mái.
Ngói lợp truyền thống của Hàn Quốc là ngói âm dương (ngói ống). Ở phần giữa mái
hiên thì hơi cong xuống còn ở hai phần đầu lại hơi chếch lên với những kỹ xảo lợp mái
hết sức tinh vi, tỉ mỉ. Như vậy kết cấu cơ bản của một mái nhà truyền thống của Hàn
Quốc bao gồm : cột, xà, hoành và vỉ kèo.
Người ta chia ra làm bốn loại mái nhà chủ yếu là: mái hình vòng cung, mái hình
con thuyền, mái lồi và mái xếp tầng.
Trong nghệ thuật kiến trúc nhà truyền thống của Hàn Quốc thì người ta rất chú
trọng tới việc tạo nên những đường cong mềm mại, thanh tú của cột nhà trước mái
hiên khiến cho nó mang một vẻ đẹp đặc biệt. Thêm vào đó người Hàn xưa rất thích
những cột nhà có độ cong chứ không chuộng cột nhà có đường thẳng.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
217
Thành phần chịu lực đứng trong kết cấu nhà truyền thống của Việt Nam là cột,
trước đây cột thường có tiết diện hình tròn hoặc vuông, làm bằng những vật liệu khác
nhau: gỗ, tre, gạch đá. Trong kiến trúc truyền thống, cột là một trong ba yếu tố cấu
thành vì kèo và tuỳ theo vị trí mà phân ra thành các cột cái, cột con, cột hiên. Trong
các vì kèo hoàn chỉnh, cột được kê trên tảng bằng đá và liên kết với nhau bằng địa thu
ở chân cột, bằng xà ở phía trên cột.
Mặc dù nghiên cứu này của tôi mới chỉ dừng lại ở việc so sánh những nét tương
đồng và khác biệt trong kiến trúc, xây dựng nhà ở truyền thống của hai dân tộc Việt-
Hàn nhưng thông qua đó chúng ta cũng đó được cái nhìn thực tế rất rõ nét về mối quan
hệ thân tình sâu sắc, có khá nhiều điểm tương đồng trong nghệ thuật kiến trúc của hai
quốc gia. Từ cách phân tích, so sánh cho thấy, trong các tư tưởng, quan niệm của
người xưa trong việc xây nhà cùng với việc tả lại kiến trúc mái nhà, cột nhà ta có thể
nhận ra một điều kiến trúc xây dựng nhà ở truyền thống cả của Việt Nam và Hàn Quốc
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
218
đều thiên về biến hóa và tỉ lệ, cái đẹp, cái khéo của tác phẩm kiến trúc truyền thống
của hai quốc gia chúng ta có thể tìm thấy khá rõ ở sự phân tích sâu sắc, tính hài hòa,
thống nhất và thanh thoát, gần gũi với con người thông qua tỉ lệ về cái đẹp, sự tinh tế
và uyển chuyển giữa các chi tiết với nhau, giữa các chi tiết với tổng thể, tổng thể với
con người, với cảnh quan.
III, Kết thúc vấn đề:
Đối với bất kỳ một dân tộc trong một thời kỳ nào thì nhà ở luôn là một nhu cầu
không thể thiếu được của con người “an cư rồi mới lạc nghiệp”.
Kiến trúc nhà ở truyền thống mang tính chất lịch sử và là những báu vật vô giá của
mỗi quốc gia vì vậy việc bảo tồn các ngôi nhà cổ còn xót lại đến ngày nay là một việc
làm hết sức cần thiết để lưu giữ những dấu vết lịch sử giúp chúng ta cũng như các thế
hệ con cháu đời sau có thể hiểu được kỹ hơn, sâu sắc hơn nền văn hóa lâu đời của dân
tộc cũng như học hỏi được những kinh nghiệm xây dựng, kiến trúc của ông cha ta đi
trước. Chỉ bằng những lối kiến trúc rất đơn sơ, nguyên vật liệu đơn giản dễ kiếm
nhưng ông cha ta đã xây dựng nên những công trình kiến trúc vĩ đại, bền vững theo
thời gian. Để rồi từ đó ta có thể dựa trên những nền tảng là những kinh nghiệm mà ta
học hỏi được từ những người đi trước để phát huy và phấn đấu hơn nữa. Có thể nói,
tính dân tộc trong kiến trúc nhà ở truyền thống của cả hai quốc gia được hình thành
bởi sự hài hòa nhất thể của ba yếu tố cơ bản là thiên nhiên, con người và xã hội. Nhờ
đó, những người đi trước ở hai đất nước đã dựng nên các công trình phù hợp với tỷ lệ
tầm thước của con người, gắn bó, hòa hợp với thiên nhiên và thể hiện rõ các bản sắc.
Kiến trúc hiện đại chỉ có thể tiếp nối con đường đó để phấn đấu có một nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Tìm hiểu kiến trúc nhà truyền thống của hai dân tộc Việt-Hàn chẳng những giúp ta
hiểu sâu sắc và toàn diện hơn về nghệ thuật xây dựng của hai quốc gia mà trên cơ sở
đó ta có thể so sánh với lối kiến trúc ngày nay để thấy được: ta đã tiếp thu lối kiến trúc
nhà ở ngày trước làm tiền đề để phát triển, xây dựng thành những mẫu nhà mới hiện
đại, to đẹp, rộng rãi hơn.
Là một sinh viên chuyên nghành tiếng Hàn Quốc chỉ một năm nữa thôi tôi cùng
với các bạn sẽ là những người cộng tác, làm việc với các bạn Hàn Quốc, sẽ mang
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
219
những kiến thức cùng những kinh nghiệm từng trải và tích lũy được sau bốn năm ở
giảng đường đại học để góp phần duy trì và phát triển mối quan hệ hữu nghị hợp tác
giữa Việt Nam và Hàn Quốc ngày một phát triển bền vững và đa dạng trên nhiều
phương diện. Đồng thời tôi cũng rất hy vọng các bạn trẻ Việt Nam và Hàn Quốc sẽ
luôn ý thức được rằng kiến trúc truyền thống dân tộc muốn được phát huy và tỏa sáng
thường phải là kết quả của một quá trình kế thừa liên tục các giá trị di sản cộng với sự
tìm tòi, khám phá và sáng tạo những biểu hiện mới của những tài năng lớn biết khai
thác và trân trọng các giá trị truyền thống trong sự năng động. Ngày nay, sẽ không có
kiến trúc nhà ở hiện đại, tiện nghi nếu như không có các công trình kiến trúc nhà
truyền thống của cha ông ta để lại thì chúng ta đâu có những tài liệu giá trị để thể tiếp
thu và học hỏi được những kinh nghiệm quý báu, đáng giá đó.
* Các tài liêụ đã tham khảo
1)http://kin.naver.com/qna/detail.nhn?한옥의구조
2) http://vi.wikipedia.org/wiki/Kiến_trúc_cổ_Việt_Nam
3) Trần Thị Quế Hà-“Nguồn gốc và quá trình phát triển cuả kiến trúc nhà ở dân
gian truyền thống người Việt“-Trang 1, trang 2.
4) “Hàn Quốc năng động-Tuyển chọn 9 bài viết hay trong cuộc thi tìm hiểu và viết
về Hàn Quốc“
5) “하노이 대학교 한국어과 역사 문화자료집 2“- 한국건축의 천통 게승/23,
한국전통건축의특성/25,전통사상에입각하여건축한다/29.
6)http://vietbao.vn/Nha-dat/Bo-tri-noi-that-trong-nha-truyen-thong-cua-nguoi-
Viet/45158052/496/
7)http://vi.wikipedia.org/wiki/Thức_kiến_trúc_cổ_Việt_Nam
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
220
SO SÁNH아/어서 VÀ (으)니까
Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Thu Ngân.
Sinh viên thực hiện: Lê Thị Kim Phượng 3h-09
Nguyễn Thanh Huyền 3h-09
I. Phần mở đầu
1.Vài nét về tiếng Hàn Quốc
Tất cả các dân tộc Hàn Quốc đều nói chung một ngôn ngữ là tiếng Hàn Quốc hay
là tiếng Triều Tiên.
Tiếng Hàn Quốc được xếp vào loại ngôn ngữ An-tai, trong đó bao gồm cả tiếng
Thổ Nhĩ Kì, tiếng Mông Cổ và tiếng Tunus-Mãn Châu.
Hangeul, bảng chữ cái tiếng Hàn Quốc được phát minh bởi vua Sejong vào thế kỷ
15, dựa chủ yếu vào ngữ âm học.
2. Mục đích nghiên cứu
Trong tiếng Hàn Quốc có nhiều cấu trúc ngữ pháp tương tự nhau và khó cho việc
học của người nước ngoài.Vì vậy chúng tôi đưa ra đề tài ngiên cứu: “so sánh아/어서
và (으)니까” với mục đích giúp cho việc phân biệt , sử dụng đúng아/어서 và
(으)니까.
II. Phần nội dung:
1. Một số sai lầm mắc phải khi sử dụng아/어서 và (으)니까.
Nhiều người nước ngoài học tiếng Hàn khi chưa nắm rõ về ngữ pháp thường sử
dụng nhầm lẫn giữa아/어서 và (으)니까.
-ví dụ: 밥을너무많이먹어서배가아팠어요.
(vì ăn quá nhiều cơm nên đã bị đau bụng).
Trong ví dụ trên dùng아/어서 là đúng.Không thể nói:
밥을너무많이먹으니까배가아팠어요.
내일시험은보니까일찍잠을자세요.
(vì mai thi nên hãy đi ngủ sớm).
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
221
Trong ví dụ trên dùng (으)니까 là đúng.Không thể nói:
내일시험은봐서일찍잠을자세요.
Tại sao lại như vậy?
2. So sánh아/어서 và (으)니까.
2.1. Giống nhau
-Mệnh đề trước là lý do, nguyên nhân cho mệnh đề sau
-ví dụ: 바람이심하게불어서나뭇잎이졌어요.
(vì gió mạnh nên lá rụng)
Trong ví dụ trên ta thấy: mệnh đề trước “gió mạnh” là nguyên nhân cho mệnh đề
sau “lá rụng”.
그분이한국에서오래살았으니까한국말을잘합니다.
(vì sống ở Hàn Quốc đã lâu nên anh ta nói tiếng Hàn giỏi)
Trong ví dụ này mệnh đề “sống ở Hàn Quốc đã lâu” là lý do cho mệnh đề “anh ta
nói tiếng Hàn giỏi”.
2.2. Khác nhau
Trong khi아/어서 biểu hiện một lý do thông thường , lý do mang tính khách
quan thì (으)니까 lại mang ý nhấn mạnh cảm súc, suy nghĩ mang tính chất cá nhân
của người nói.
-ví dụ: 배가아파서병원에갔습니다.
(vì đau bụng nên đã đến bệnh viện)
Trong ví dụ này chỉ thể hiện một lý do thông thường nên ta sử dụng아/어서.
제가잘못했으니까제가사과하겠습니다.
(tôi có lỗi nên tôi đã tạ lỗi).
Trong ví dụ này thể hiện ý nghĩa chủ quan của người nói.
Nếu như mệnh đề sau아/어서 không thể dùng với đuôi kết thúc mang ý
nghĩa yêu cầu, mệnh lệnh nhuung (으)니까 thì có thể sử dụng được.
-ví dụ:오늘을날씨가추우니까옷을많이입으세요.
(hôm nay trời lạnh nên hãy mặc nhiều áo vào)
Không thể nói được là:
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
222
오늘을날씨가추워서옷을많이입으세요.
Gốc động từ gắn trước아/어서 không có yếu tố biểu thị quá khứ và tương lai
còn với (으)니까 thì có thể sử dụng thì quá khứ hoặc tương lai.
-ví dụ: 내일은시험이보겠으니까오늘은일찍잠을자야해요.
(Ngày mai có bài thi nên hôm nay phải ngủ sớm)
Trong câu này, ta chỉ có thể sử dụng (으)니까 để biểu thị ý nghĩa của câu.
Trong trường hợp hai mệnh đề có mối quan hệ về trật tự trước sau thì dùng
아/어서.Trước아/어서 là động từ. Đuôi kết thúc của mệnh đề sau không bị giới
hạn.(có thể dùng bất cứ thời thể nào).
-ví dụ:시장에가서여러가지물건을삽니다.(tôi đi chợ và mua vài món đồ)
이의자에앉아서잠깐만기다리십시오.(bạn hãy ngồi vào ghế và chờ
trong giây lát)
Ta dùng (으)니까 Khi hai mệnh đề có tính liên tục về mặt thời gian, nói chung
mệnh đề trước là sự phát hiện hay sự xác nhận một tình huống để làm cơ sở nhận xét ở
mệnh đề sau.Lúc này chủ ngữ trước là người nói và chủ ngữ sau thường khác với chủ
ngữ trước.
-ví dụ:김선생님을만나보다니까아주좋은분이더군요.(khi tôi tiếp xúc với
cô Kim thì biết cô là người tốt)
집에가니까친구의편지가있었습니다.(lúc về đến nhà thì có 1 lá thư của
bạn).
III. Phần kết luận:
Khi đã hiểu rõ và phân biệt được아/어서 và (으)니까 thì việc sử dụng đúng
chúng không phải là một việc khó khăn.
Chúng tôi hy vọng rằng bài nghiên cứu nhỏ trên của chúng tôi sẽ giúp ích một
phần nào đó cho những bạn quan tâm tới tiếng Hàn Quốc.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
223
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HANBOK VÀ ÁO DÀI
QUA CÁC THỜI KỲ
Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thanh Hải
Sinh viên thực hiện : Vũ Vân Hải – 1H09
Trần Thị Minh Châu – 1H09
Phan Hương Giang – 1H09
Đinh Thanh Tú – 1H09
A – Đặt vấn đềHàn Quốc là đất nước mang trong mình nền văn hoá của 5000 năm lịch sử - một
khoảng thời gian dài để hính thành nên các đặc trưng văn hóa ổn định và lâu bền.
Khoảng 1000 năm sau khi Hàn Quốc xây dựng nền văn hoá của mính, Việt Nam cũng
bừng tỉnh đứng dậy vươn lên và thiết lập nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc. Nếu
như biểu tượng truyến thống nổi bật nhất của Hàn Quốc lá Hanbok thì Áo dài được coi
là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên tại sao Hanbok và áo dài lại được chọn là quốc phục và từ khi được sáng
tạo cho đến nay Hanbok và áo dài đã được giữ gìn và cải biến như thế nào thì không
phải ai cũng biết. Hơn nữa, các nền văn hoá trên thế giới vô cùng phong phú và đa
dạng nhưng không phải không có nét tương đồng. Bởi vì văn hoá có sức lan tỏa như
một làn sóng và để không bị cuốn theo làn sóng ấy một cách thụ động, con người đã
phải rất nỗ lực, đặc biệt là những người yêu chuộng nền văn hoá dân tộc. Vì thế ở các
thời kì khác nhau, các nhà văn hoá – những người yêu chuộng nền văn hoá dân tộc ấy
đã cố gắng giữ gìn bản sắc truyền thống văn hóa bằng cách cải tiến bộ trang phục
truyền thống cho phù hợp với thời đại. Xét về bình diện lịch sử, thật khó mà có thể đưa
ra một chuẩn mực quy chiếu đối sánh các biểu tượng văn hóa giữa các quốc gia do quá
trình hình thành lịch sử, điều kiện địa lý và bối cảnh xã hội. Tuy nhiên để giúp những
ai quan tâm đến sự phát triển của hai bộ trang phục truyền thống một cách tương đối
hệ thống thông qua các thời kì lịch sử, chúng tôi quyết đinh thực hiện nghiên cứu này.
Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi có đưa ra các mốc thời kì lịch sử của Hàn
Quốc và Việt Nam, gắn liền với đó là các đặc điểm của hai bộ trang phục tương ứng
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
224
với các thời kì. Đồng thời chúng tôi cũng phân tích chỉ rõ ra sự thay đổi về chất liệu,
kiểu dáng và màu sắc của hai bộ trang phục, cùng với một số hình ảnh minh họa để
mọi người dễ dàng hình dung ra sự thay đổi của hai bộ quốc phục này.
Cho đến nay, cũng đã có nhiều bài nghiên cứu về đề tài Hanbok và Áo dài, tuy
nhiên xét về bình diện lịch sử thì khá ít do điều kiện hình thành lịch sử của Hàn Quốc
và Việt Nam khác nhau quá nhiều. Bài nghiên cứu của chúng tôi có tham khảo và sử
dụng một số tư liệu nghiên cứu về Hanbok và Áo dài đã có trước đây. Hơn nữa chúng
tôi cũng đã chọn lọc và dịch một số tài liệu nước ngoài, sau đó tổng hợp những nội
dung điển hình, phân tích và sắp xếp các nội dung đó theo mốc giai đoạn lịch sử một
cách chi tiết, khoa học và dễ hiểu nhất.
Chúng tôi hi vọng bài nghiên cứu này sẽ giúp các bạn có cái nhìn tổng quan về sự
phát triển của hai bộ quốc phục dọc theo chiều dài lịch sử và tạo cho các bạn hứng thú
khi tìm hiểu về các nền văn hoá.
Tuy nhiên vẫn còn nhiều sơ sót trong quá trình nghiên cứu nên mong quý thầy cô
và các bạn góp ý để bài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
B – Giải quyết vấn đềI-Giới thiệu chung về Hanbok:
Áo dài là biểu tượng tiêu biểu, thể hiện được nét duyên dáng, đằm thắm không thể
trộn lẫn của người phụ nữ Việt Nam. Trải qua nhiều thời kì lịch sử, áo dài vẫn luôn là
lựa chọn số một để tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ Việt và thể hiện niềm tự hào dân
tộc sâu sắc.
Có thể nói áo dài đã kiến tạo nên các giá trị văn hóa Việt. Qua hình ảnh chiếc áo
dài thướt tha có thể thấy được những nét tính cách và cả quá trình lịch sử phát triển
của dân tộc Việt. Và có thể khẳng định được rằng áo dài Việt vẫn luôn mang trong
mình những nét truyền thống, góp phần tôn vinh những giá trị văn hóa lâu đời, những
nét hoài cổ trong cách sống của người dân Việt Nam, nhất là khi đất nước đang trên đà
phát triển, trong giai đoạn công nghiệp hóa- hiện đại hóa.
Nếu như Việt Nam đang từng bước đi lên thì Hàn Quốc lại được coi là đất nước có
nền kinh tế, công nghệ hiện đại phất triển tới chóng mặt với những tòa nhà cao chọc
trời, hệ thống tàu điện ngầm hiện đại và những công dân năng động, có sức sáng tạo
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
225
mãnh liệt và có tính kỉ luật cao. Thế nhưng, đằng sau vẻ nhộn nhịp sôi động ấy là một
Hàn Quốc của những hoài niệm cổ truyền thống. Như bất kì quốc gia nào trên thế giới,
người Hàn Quốc cũng mang trong mình một niềm tự hào dân tộc lớn lao, và không
ngừng gìn giữ, bảo tồn nững nét văn hóa đặc sắc, mà tiêu biểu là Hanbok- bộ trang
phục truyền thống của người dân xứ sở kim chi. Có thể thấy rằng. mỗi một thời kì lịch
sử trôi qua, cùng với những qui tắc luật lệ, phong tục tập quán hay những biến đổi xã
hội đã ảnh hưởng ít nhiều tới kiểu cách của Hanbok. Những biến đổi qua từng thời đại
của một dân tộc được in dấu trên những trang phục đời thường của dân chúng với các
tầng lớp xã hội khác nhau.
II- Sự phát triển của Hanbok và áo dài qua các giai đoạn lịch sử1. Năm 80 TCN- Thế kỉ XIV
a) Hanbok
Theo một số phục sức cơ bản thì Hanbok đã tồn tại từ rất lâu, nhưng mãi đến thời
Tam Quốc tại Triều Tiên (82TCN- 668 SCN), khi các vương quốc Goguryeo (37
TCN- 668 SCN), Baekje (18 TCN- 660 SCN), Shilla (57 TCN- 935 SCN) đô hộ bán
đảo Triều Tiên thì kiểu áo hai phần như ngày nay mới được định hình. Đây chính là
các chi tiết tả thực của những bức tranh tường của các nhà mồ Goguryeo từ thế kỉ thế
kỉ IV đến thế kỉ VI. Các nhân vật trang trí trên tường thường mặc áo vét có tay áo dài
và hẹp, có vạt trái đè lên vạt phải, mặc quần và đi hài. Bộ quần áo kiểu đó để đáp ứng
nhu ccầu cuộc sống của vùng phương Bắc-nơi có khí hậu khắc nghiệt, địa hình khó
khăn và cuộc sống chủ yếu trên lưng ngựa. Đồng thời do đặc điểm địa lí, có thể kiểu
trang phục này đã chịu ảnh hưởng của phong cách Trung Hoa. Những người Baekje và
Shilla cũng có những trang phục tương tự. Áo choàng dài lụa của quan lại được du
nhập và Triều Tiên từ thời Đương bên trung Hoa.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
226
Hanbok thời Tam Quốc Hanbok thời Shilla
Đến thời kì Vương Quốc Shilla thống nhất, trang phục của người Hàn Quốc vẫn
không thay đổi nhiều so với thời kì Tam Quốc. Những chiếc áo thụng tơ tằm của quan
lại triều đình nhà Đường ở Trung Quốc đưa sang đã được cải tiến để quan chức và
những người thuộc hoàng tộc mặc trùm ra ngoài trang phục dân tộc.
Trải qua nhiều triều đại, bộ đồ Chima và jeogori đã được cải biến nhiều. Đến năm
935, triều đại Goryeo thay thế triều đại Shilla. Tên gọi Hàn Quốc có từ đó. Đạo Phật
mà từ thời Shilla đã là quốc đạo nay phất triển rực rỡ cùng với hội họa và nghệ thuật,
đặc biệt là gốm tráng men màu ngọc bích. Trong thời Goryeo, váy chima được may
ngắn hơn, eo được kéo lên sát ngực và được buộc lại bằng một dải ruy băng rộng bản
dài. Áo jeogori cũng ngắn hơn và ống tay hơi lượn. Cùng lúc phụ nữ bắt đầu tết tóc
trên đỉnh đầu và đàn ông bắt đầu cạo đầu, chỉ để lại một chỏm mào giữa đầu.
b) Áo dài
Cho đến nay chưa ai rõ nguồn gốc đích thực của áo dài, nhưng người ta đã phát
hiện ra chiếc áo dài xuất hiện trước thời Hai Bà Trưng (40- 43 SCN) qua các hình khắc
trên mặt trống đồng Ngọc Lũ (5000 năm TCN)
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
227
Trang phục Việt cổ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ và trên kiếm đồng
Theo truyền thuyết, Hai Bà Trưng đã mặc áo dài hai tà giáp vàng, che lọng vàng,
trang sức thật lộng lẫy khi cưỡi voi xông trận đánh đuổi quân nhà Hán. Cũng tương
truyền, do tôn kính Hai Bà Trưng, phụ nữ Việt Nam tránh mặc áo hai tà mà thay bằng
áo tứ thân với bốn thân áo tượng trưng cho bốn bậc sinh thành (của hai vợ chồng). Vả
lại, khi đó kĩ thuật còn thô sơ, vải được dệt thành những mảnh nhỏ nên phải ghép bốn
mảnh lại mới may đủ một áo, nên gọi quen là áo tứ thân. Áo gồm hai mảnh đằng sau
chắp lại giữa sống lưng (gọi là sống áo), mép của hai mảnh được nối vào nhau và được
giấu vào phía trong, hai mảnh trước được thắt lên và để thòng xuống thành hai tà áo ở
giữa nên không phải cài khuy (cúc, nút) khi mặc. Bình thường gấu áo được vén lên,
chỉ có khi đại tang (tang chồng hay tang cha mẹ) mới thả xuống và mép vải để lộ ra
ngoài thay vì giấu váo trong. Đấy là hình ảnh chiếc áo dài tứ thân mộc mạc khiêm tốn.
c) So sánh
Đây là thời kì Hanbok được hình thành và đang trên đường định hình kiểu dáng.
Tiền thân của áo dài cũng bắt đầu xuất hiện.
2. Thế kỉ XIV- Thế kỷ XVIIa) Hanbok
Từ năm 1392, sau khi thời đại Joseon lên thay thế thời đại Goryeo thì bộ trang phục
truyền thống đã có sự thay đổi. Các vị vua thời đại này rất coi trọng lễ nghi, cũng như
sự tôn ti trật tự trong xã hội nên họ đã ban hành những quy định rất nghiêm ngặt về
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
228
cách ăn mặc của hoàng gia, quan lại, quý tộc và thương dân trong các nghi lễ khác
nhau. Giá trị xã hội trong thời kì này được đặt lên hàng đầu và thể hiện rõ nét qua cách
ăn mặc.
Trang phục Hanbok của đàn ông không có nhiều thay đổi nhưng Hanbok dành cho
phụ nữ trong thời kỳ này và đặc biệt là vào thế kỉ XV đã có rất nhiểu biến đổi. Phụ nữ
thời kỳ này bắt đầu mặc những chiếc áo jeogori dài và những chiếc váy chima dài gấp
nếp vào trong để che đi những đường nét cơ thể. Nhưng theo thời gian, váy chima
được kéo lên cao và được thắt lại ngay dưới cánh tay, độ dài rộng cũng thay đổi do áo
vet jeogori lúc này được thu lại khá ngắn, chỉ đủ để che phần ngực. Phụ nữ quí tộc
mặc váy quấn 12 pok (pok là chiều rộng miếng vải) và quấn sang bên trái. Trong khi
đó dân thường bị cấm mặc váy rộng hơn 10 hoặc 11 pok và phải quấn sang bên phải.
Bên trong hanbok phụ nữ thường mặc quần buộc túm, chiếc yếm một mảnh giống váy
một mảnh cao đến thắt lưng và một chiếc áo nhỏ hơn áo jeogori. Độ phồng của váy
cho phép mặc bất cứ loại quần áo nào bên trong. Một chiếc váy phồng rộng thậm chí
có thể trùm được quần áo mùa đông bên trong, mà vẫn có thể mặc váy khi mang thai.
Bộ Hanbok ngày nay chính là bắt nguồn từ trang phục Hanbok truyền thống theo
khuynh hướng Nho giáo từ triều đại Joseon. Thời này, những người thuộc tầng lớp quý
tộc Yangban đã thường mặc những bộ Hanbok có chất liệu vải phù hợp với từng mùa.
Tuy nhiên bị bó buộc bởi những luật lệ nghiêm khắc và lí do tài chính, những người
dân chỉ mặc những bộ quần áo làm bằng vải bông hoặc vải sợi gai. Vì thế những màu
cơ bản của Hanbok danh cho dân thường hầu hết đều có màu trắng, đôi khi là màu
hồng, màu xanh nhạt, màu xám, hoặc màu chì. Bên cạnh đó các vua triều đại này còn
ban hành những luật lệ cụ thể về màu sắc Hanbok đối với phụ nữ chưa kết hôn và đã
có gia đình.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
229
b) Áo dài
Trong giai đoạn này, tuy Việt Nam đã có nhiều loại vải như vải bông, vải gai, lụa,
lĩnh, sa, the… nghề thêu cũng đã phát triển nhưng phục trang thời kỳ này cũng không
thay đổi nhiều so với trước. Có chăng chỉ là về mũ mão và màu sắc cho các tầng lớp
mà thôi. Đàn bà thời kì này đã bắt đầu mặc áo tứ thân màu đen, trong lót vải trắng để
may viền và cổ áo rộng 3cm.
c)So sánh
TK XIV- TK XVII, trong khi Hanbok phát triển một cách hoàn chỉnh và lên đến
đỉnh cao thì áo dài (áo tứ thân) vẫn chưa có sự phát triển mạnh mẽ.
3. Thế kỷ XVII- Thể kỉ XX
a) Hanbok
Hanbok trong thời kì này vẫn tiếp tục duy trì và phát triển nhưng không được thay
đổi nhiều. Chỉ có áo vét jeogori là thay đổi về độ dài ngắn và tay áo, và nổi bật trong
thời kì này là Hanbok dành cho đàn ông giới quí tộc.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
230
b) Áo dài
Với bối cảnh lịch sử đầu thế kỉ XVII, trang phục áo dài tứ thân chịu ảnh hưởng bởi
quan niệm phong kiến đương thời. Điều này thể hiện qua kiểu dáng áo rộng, màu sắc
đơn giản, các hoạ tiết trang trí trên áo hầu như không có. Hơn nữa, áo dài tứ thân còn
phần nào thể hiện vai trò thứ yếu của người phụ nữ trong xã hội phong kiến thời kì bấy
giờ.
Với những phụ nữ tỉnh thành nhàn hạ hơn, muốn có một kiểu áo dài được cách tân
thế nào đó để giảm chế nét dân dã lao động và gia tăng dáng dấp trang trọng khuê các.
Thế là ra đời áo ngũ thân với cải biến ở chỗ vạt nửa trước phải nay được thu bé lại
thành vạt con; thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở trước vạt trước, áo ngũ thân che kín
thân hình không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống (vị chi thành bốn) tượng
trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước chính là thân thứ năm tượng
trưng cho người mặc áo. Cổ tay và thân áo trên thường ôm sát người, tà áo may rộng
từ sườn đến gấu áo chứ không chít eo. Cổ áo cao khoảng 2-3 cm. Vạt con nối lại với
hai vạt cả nhờ cổ áo và bâu đệm, và khép kín nhờ năm chiếc khuy tượng trưng cho
quan điểm về ngũ thường theo quan điểm Nho giáo và ngũ hành theo triết học phương
Đông.
Waryonggwan và
hakchangui năm 1863.
Bokgeon và
simui năm 1880.Bokgeon và
dopo năm 1880.
Min Sangho, 1899,
tranh sơn dầu của Hubert
Vos
Ảnh năm 1863 Ảnh năm 1863
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
231
Trong sách “Relation de la Nouvelle Mission des Péres de la Compagine de Jesus
au Royaume de la Cochinchine”, xuất bản tại Lille năm 1631, giáo sĩ Borri đã tả rõ về
cách ăn mặc của người Việt ở đầu thế kỉ XVII: “ Người ta mặc sáu cái áo dài, áo nọ
phủ lên áo kia, mỗi cái một màu… Phần dưới thắt lưng của mấy lớp áo ngoài được cắt
thành những dải dài. Khi đi lại, các dải này quyện vào nhau trông đẹp mắt… Đàn ông
cũng mặc năm sáu lớp áo dài lụa… để tóc dài và vấn khăn như đàn bà.”
Thật ra mấy lớp áo bên ngoài bị cắt thành các dải dài bên ngoài dưới thắt lưng mà
giáo sĩ Borri nhắc đến chỉ là các xiêm cánh sen, hoặc có nơi gọi là quầy bơi chèo, mà
người xưa mặc trước ngực hay dưới thắt lưng bên ngoài áo dài. Xiêm này có ba hoặc
bốn lớp dải lụa may chông lên nhau. Lớp dải trong cùng dài nhất. Rồi các lớp ngoài
ngắn dần.
Theo các nhà biên khảo Trần Thị Lai Hồng thì áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống
và khăn đội đầu cũng là quốc nhục của phái nam. Các bà các cô dùng màu sắc óng ả
dịu mát trong khi đàn ông con trai chỉ dùng màu đen, trắng hoặc lam thảm. Suy cứ này
có cơ sở vì từ chiếc áo dài ngũ thân trang trọng cho phụ nữ tỉnh thành chắc chắn phải
tồn tại bên đó một thứ áo trang trọng cho nam giới để cân xứng. Tuy nhiên theo sắc dụ
ban hành từ thời Chúa Nguyễn Vũ Vương thì sự quy định trang phục cho nam giới ít
gò bó và thoáng hơn, “ Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay,
cửa ống tay hoặc rộng hoặc hẹp tuỳ tiện, áo thì hai bên nách trở xưống phải khâu kín
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
232
liền không cho xẻ mớ. Duy đàn ông muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiền làm việc
thì cũng được.”
c) So sánh
Trên con đuờng phát triển, thế kỉ XVII- thể kỉ XX chính là lúc Hanbok hoàn thiện
về dánh vẻ cũng như vị trí trong xã hội. Trong khi đó áo dài Việt Nam đang tăng tốc
để dần hoàn thiện hơn.
4. Thể kỉ XX
a) Hanbok
Cho đến thời điểm này, phụ nữ bắt đầu mặc chogori dài và váy gấp phồng hoàn
toàn che kín các đường nét cơ thể. Tuy nhiên, theo thời gian, áo ngắn dần cho đến khi
nó che vừa kín ngực, điều đó đòi hỏi phải giảm độ phông của váy để có thể kéo được
tới sát nách. Và kiểuu trang phục này vẫn được ưa chuộng cho đến ngày nay.
Có thể nói Hanbok tồn tại qua những biến đổi chính trị, văn hoá, xã hội trong nhiều
thế kỉ qua chứng tỏ tinh thân tôn trọng truyền thống của người Hàn Quốc. Cho tới đầu
thế kỉ XX, khi những ảnh hưởng của phương Tây bắt đầu bám rể vào xã hội Hàn Quốc,
Hanbok không còn được sử dụng như trang phục hàng ngày nữa. Đến khoảng giữa thế
kỉ XX trở đi, với sự gia tăng mạnh của lối sống công nghiệp, hanbok thực sự trở nên
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
233
lỗi thời và bị lọai bỏ khỏi trang phục nghi lễ trong đời sống xã hội. Tuy nhiên vài chục
năm qua đã bắt đầu có sự thay đổi trong trang phục này. Những người coi trọng truyền
thống đã dùng bộ Hanbok cách tân làm trang phục hằng ngày của mình, hoặc mặc
trong đám cưới… Có nhiều nơi bán Hanbok thế hệ mới được thiết kế với những đường
nét đơn giản hơn xưa. Nó tạo cho người mặc cảm nhận sâu sắc về đặc trưng van hoá
Hàn Quốc, về sự thăng trầm của thời trang cũng như tạo cho họ một cảm giác thoải
mái.
Thiếu nữ mặc Hanbok trên đường phố Seoul (1911-1912)
b) Áo dài
Làn sóng văn hoá Tây Âu du nhập vào Việt Nam đã ảnh hưởng tới thị hiếu của
người dân, đặc biệt là quan niệm thẩm mĩ với áo dài. Điều này đã tạo ra một phong
trào cách tân về kiểu dáng biến chiếc áo dài trở thành một trang phục tôn vinh vẻ đẹp
của người phụ nữ.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
234
Năm 1939, một nhân vật có tên là Cát Tường tung ra kiểu áo dài mới gọi là áo dài
LeMur. Chiếc áo dài LeMur cải biến là tay áo không ráp theo lối thường trước đó, tức
là tay áo ráp ở khoảng giữa cánh tay, từ vai xuống khuỷu. Lối cải tiến của nhà may Cát
Tường thì tay áo được ráp từ vai như áo sơ mi hay áo ngắn. Vai áo hơi bồng. Cổ áo
được cắt rộng xuống, không còn như cổ áo Tàu nữa, mà là cổ áo hình trái tim, hay cổ
tròn, rồi kết ren quanh cổ, tuỳ theo màu áo. Ngực áo thêu hay gắn ren, Khuy áo cũng
được thay đổi, người ta dùng những loại khuy tròn và dẹt, hình những bông hoa… như
khuy dùng cho các loại áo ngắn. Nhưng kiểu áo này chỉ tồn tại đến khoảng năm 1943.
Vài năm sau khi áo dài LeMur xuất hiện, hoạ sĩ Lê Phổ đã cải biến chiếc áo này, loại
bỏ những đường nét Tây phương táo bạo để dung hoà với kiểu áo ngũ thân cũ tạo ra
kiểu áo cổ kín vạt dài ôm sát người để hai tà áo tự do bay lượn.
Thiếu nữ xưa với áo dài LeMur
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
235
Trong các thập niên 1930 và 1940, cách may áo dài vẫn không thay đổi nhiều, gấu
áo dài thường được may trên mắt cá khoảng 20 cm, thường được mặc với quần trăng
hoặc quần đen. Cổ áo dài thường may giống cổ áo Tàu. Phụ nữ ở vào tuổi trung niên
thì cổ áo may hở một khúc nhỏ phía trước khoảng bằng nửa gang tay để phô trương
những dây hột vàng được đánh như dây chuyền, gồm các hột vàng nhỏ, kết lại thành
một chuỗi.
Cũng trong thập niên 1930, khi áo dài nữ phục hai vạt xuất hiện thì áo dài nam
phục hai vạt cũng xuất hiện.
Khoảng thời điểm của năm 1910 đến năm 1950, chiếc áo dài được may hơi rộng,
không bó sát thân hình, vì phụ nữ phải mặc chiếc áo cánh ngắn tay bên trong, thông
thường gọi là áo “phin” hàng côtton, mỏng, sợ tơ vải rất thanh nhẹ gọi là áo “phin
nõn”. Chiếc áo ngắn đó có túi nhỏ bên hai vạt áo. Hàng áo dài thường là lụa, vải, còn
gấm là tơ dành cho những người giàu có. Người nghèo thì may áo dài bằng vải. Đến
khoảng năm 1950, sườn áo dài bắt đầu được may có eo.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
236
Thế nhưng áo dài được thay đổi nhiều nhất trong thập kỉ 60. Vì nịt ngực ngày càng
phát triển nên áo dài được may chít eo, nhiều khi rất chật để tôn ngực, áo dài cổ thuyền
và cổ tròn cũng được sáng tạo.
Từ thập kỉ 70-90, áo dài không thay đổi nhiều.
Áo dài thập kỉ
80
Bước vào thập niên 90, mốt áo dài lại được thay đổi lần nữa. Tà áo được may dài
hơn, cổ áo cao hơn, hàng may áo màu sắc cũng đẹp hơn, áo thêu và áo vẽ trở nên thịnh
hành… và người ta còn sáng chế ra kiểu mặc quần màu thường là cùng màu với hàng
áo, hoặc chọn một màu trong áo dài hoa đó.
Áo dài thập
kỉ 90
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
237
Nói đến quốc phục truyền thống của Việt Nam thì chính chiếc áo dài nữ phục mới
đậm nét hơn, được quy định bởi những văn bản pháp quy (sắc dụ của chú Nguyễn Vũ
Vương). Do đó, khi nói đến chiếc áo dài Việt Nam, người trong nước lẫn ngoài nước
thường nghĩ đến chiếc áo dài nữ phục.
b) So sánh
Quả thực, văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng khá nhiều đến quá trình phát triển
Hanbok và áo dài trong thế kỉ XX. Nhưng sự ảnh hưởng đó lại đi theo hai hướng khác
nhau. Nếu như văn hoá Tây phương khiến Hanbok không còn giữ được vị trí độc tôn
thì ngược lại, nó lại giúp cho áo dài có những bước phát triển đáng kể.
5. Hiện nay
Hanbok và áo dài không chỉ trở thành niềm tự hào của mỗi nước mà còn được thế
giới công nhận như những kiệt tác của loài người.
Xu thế thời trang luôn biến đổi, đặc biệt là trong thế kỉ XXI. Các nhà thiết kế với
lòng yêu mến văn hóa truyền thống và bộ óc sáng tạo đã ra sức cách tân Hanbok và áo
dài dựa trên những đường nét truyền thống, khiến cho chúng trở nên mới mẻ mà vẫn
giữ đuợc vẻ đẹp cổ điển sang trọng vốn có.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
238
Ngày nay, hanbok và áo dài không chỉ được bảo tồn và gìn giữ bởi công dân của
hai nước mà còn nhận được sự yêu thích của những người bạn nước ngoài.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
239
Áo dài nam và Hanbok nam
C. Kết luậnNhư đã trình bày ở trên, chúng ta có thể thấy rõ được sự thay đổi của hai bộ quốc
phục và những nỗ lực cách tân nghệ thuật hết sức đáng quý của các nhà văn hoá để lưu
giữ truyền thống dân tộc.
Đồng hành cùng lịch sử, Hanbok và áo dài có thể được coi là nhân chứng sống lịch
sử tiêu biểu cho quá trình đấu tranh giành nên độc lập tự do và quá trình thiết lập, phát
triển nhà nước hiện đại. Hai bộ quốc phục từ hoạ tiết, hình ảnh cho đến những đường
nét chấm phá tài hoa tinh tế đã thể hiện nét đẹp văn hoá dân tộc. Hanbok và áo dài cổ
nhắc ta nhớ về thời kì lịch sử oanh liệt hào hùng. Hanbok và áo dài hiện đại cho thấy
sự phát triển sôi động của xã hội.
Chúng tôi hi vọng bài nghiên cứu này sẽ giúp cho những ai có mối quan tâm đến
các nền văn hoá, đặc biệt là những bạn sinh viên năm nhất có cái nhìn rõ nét hơn về
trang phục truyền thống của dân tộc. Do hệ thống bài nghiên cứu được sắp xếp theo
quá trình hình thành phát triển của hai bộ trang phục gắn liền với các thời kì lịch sử
nên chúng ta dễ dàng thấy rằng ở mỗi thời kì thì kiểu dáng, màu sắc, chất liệu và phụ
kiến có sự thay đổi ở các mức độ khác nhau. Có thể thấy Hanbok xuất hiện và có sự
cải biến khá đều đặn ( hầu như ở thời đại nào cũng có thay đổi ít nhiều), còn áo dài
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
240
mặc dù xuất hiện sau nhưng có sự phát triển khác mạnh mẽ đã tạo nên những bước đột
phá lớn trong nghệ thuật. Vì thế không có gì khó hiểu nếu mỗi lần nhắc đến áo dài là
người ta nghĩ ngay đến đất nước Việt Nam xinh đẹp với những cô gái duyên dáng đằm
thắm và nhắc đến Hanbok thì trong ý nghĩ sẽ hiện lên một Hàn Quốc vừa cổ kính vừa
hiện đại với những cô thiếu nữ thanh tú, trang nhã.
Từ những nghiên cứu về văn hoá lịch sử, mỗi chúng ta đều tăng thêm niềm tự hào
tự tôn dân tộc. Những chứng vật lịch sử không bao giò mất ấy như nhắc nhở tất cả
chúng ta cần phải trân trọng và bảo tồn nên văn hoá dân tộc.
D. Tài liệu tham khảo1. Cơ sở văn hoá Việt Nam- Trần Ngọc Thêm
2. Bách khoa toàn thư Wikipedia
3. Korean cultural heritage2
4. Việt nam văn hoá sử- Đào Duy Anh
5. Lichsuvn.info
6. Tailieu.vn
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
241
TỪ TƯỢNG THANH - TỪ TƯỢNG HÌNH
TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG HÀN QUỐC
Giáo viên hướng dẫn : Lê Thị Hương
Sinh viên thực hiện : Hoàng Thiên Thanh 2H07
Phan Thu Trang 2H07
I/ MỞ BÀI:
Trong thời điểm toàn cầu hóa hiện nay, ngoại ngữ là một yêu cầu vô cùng cần thiết.
Dù làm bất cứ công việc gì, lĩnh vực gì, nếu như không có khả năng ngoại ngữ, chúng
ta sẽ dễ dàng vấp phải rất nhiều khó khăn và cản trở do bất đồng ngôn ngữ. Hiện nay,
trong điều kiện nước ta đã hội nhập, có rất nhiều doanh nghiệp, công ty Hàn Quốc
đang đầu tư và hoạt động tại Việt Nam, nhu cầu người Việt học tiếng Hàn Quốc và
người Hàn Quốc học tiếng Việt đang dần trở thành một nhu cầu thực sự cấp bách và
cần thiết. Chỉ cần lướt qua một hiệu sách, chúng ta cũng có thể dễ dàng tìm thấy vô
vàn các tài liệu tự học tiếng Hàn Quốc, từ điển Hàn - Việt, Việt - Hàn…. Tuy nhiên,
đó chỉ là những tài liệu tự học đơn thuần về tiếng Hàn, số lượng những tài liệu mang
tính chất chuyên sâu nghiên cứu về tiếng Hàn vẫn còn rất hạn chế. Chính vì vậy, khi
muốn tìm hiểu về tiếng Hàn Quốc, chúng ta vẫn còn gặp khá nhiều khó khăn. Thậm
chí, ngay cả khi đã sử dụng ngoại ngữ một cách khá trôi chảy, chúng ta vẫn có thể vấp
phải rất nhiều lỗi, ví dụ như: lỗi trong cách dùng từ, lối hành văn…Và một trong
những mảng đề tài có thể coi là khó khăn với người học ngoại ngữ, đó chính là từ
tượng thanh và từ tượng hình. Đây không chỉ là một rào cản đối với những người mới
học mà ngay cả những người đã đạt đến một trình độ nhất định cũng chưa chắc có thể
hiểu được và sử dụng được một cách linh hoạt, đúng đắn từ tượng thanh và từ tượng
hình, phù hợp với ngữ cảnh và tự nhiên. Không chỉ riêng trong tiếng Hàn Quốc mà
trong tất cả các thứ tiếng, từ tượng thanh và từ tượng hình luôn là một mảng đề tài cực
kì phong phú và đa dạng nhưng cũng không kém phần phức tạp. Từ tượng thanh và
tượng hình không có một quy phạm nhất định, biến đổi rất linh hoạt tùy theo cách sử
dụng của mỗi người, thậm chí người nói có thể thêm bớt, biến tấu làm cho câu văn trở
nên uyển chuyển, sinh động. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về mảng đề tài này, những
người học ngoại ngữ gặp không ít khó khăn bởi rõ ràng, trong cùng một hoàn cảnh,
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
242
cùng một tình huống, chỉ cần thêm hay bớt từ tượng thanh tượng hình, sắc thái biểu
đạt cũng sẽ trở nên khác nhau. Do đặc thù đa dạng và có thể biến đổi linh hoạt như vậy,
nên khi tìm hiểu về từ tượng thanh - từ tượng hình trong tiếng Hàn Quốc, chúng tôi chỉ
có thể đưa ra được những khái niệm chung nhất, những nhóm từ và những đối chiếu,
so sánh, liên hệ với tiếng Việt trong một giới hạn nhất định để giúp cho những ai đã,
đang và sẽ học tiếng Hàn Quốc có thể hiểu được những khái niệm cơ bản về từ tượng
thanh - từ tượng hình. Trong quá trình tìm hiểu về đề tài này, chắc chắn sẽ không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Trên tinh thần này, chúng tôi mong rằng những ai quan
tâm đến tiếng Hàn Quốc sẽ cùng đóng góp những ý kiến, góp ý sửa đổi, để bài báo
cáo này hoàn thiện hơn nữa, và trở thành một tài liệu hữu ích cho tất cả chúng ta.
II/ THÂN BÀI :
1. Khái niệm:
Trong cuộc sống, vô tình hay hữu ý, chúng ta đang sử dụng rất nhiều từ tượng
thanh và từ tượng hình. Nếu như không đi sâu tìm hiểu nghiên cứu, có lẽ chúng ta sẽ
chỉ nghĩ đó là những từ, cụm từ thêm vào làm cho câu văn hay lời nói của chúng ta
thêm phần sinh động mà thôi. Vậy từ tượng thanh là gì ? Từ tượng hình là gì ? Chúng
ta hãy cùng tìm hiểu khái niệm về hai loại hình từ đặc biệt này.
1.1. Từ tượng thanh là gì ?
Có thể nói, từ tượng thanh là những từ mô tả âm thanh của động vật hay của sự vật.
Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy rằng từ tượng thanh xuất hiện rất nhiều trong cuộc sống.
Đó là tiếng nói, tiếng khóc, tiếng cười, tiếng thở dài, tiếng động cơ, tiếng động vật kêu,
… Từ tượng thanh đảm nhận chức năng thể hiện tất cả những âm thanh ấy bằng ngôn
ngữ. Chỉ bằng lời nói, người nghe cũng có thể hình dung được những âm thanh ấy một
cách rõ ràng và sinh động.
VD : 엉엉 miêu tả tiếng khóc rất to .
그가거기앉아서아이처럼엉엉울고있었다.
난그를보자마자엉엉울어댔다.
꼬르륵 miêu tả tiếng bụng sôi (khi đói).
난수업중에그의배에서꼬르륵소리가나는것을들었다.
배가고파서뱃속에서꼬르륵소리가난다
멍멍 miêu tả tiếng chó sủa.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
243
그개는멍멍짖었다.
집에손님이들어오자개가멍멍짖어댔다.
1.2. Từ tượng hình là gì?
Từ tượng hình là những từ mô tả hình dáng, trạng thái hay sự chuyển động của
người hoặc vật. Nếu như từ tượng thanh gợi cho người nghe cảm giác về âm thanh
bằng ngôn ngữ, thì từ tượng hình lại khiến người nghe dễ dàng hình dung ra hình ảnh,
trạng thái của sự vật một cách rõ nét.
VD :아장아장 miêu tả bước đi của trẻ con.
우리는아기가아장아장걷는소리를어서듣고싶다.
아기가아장아장걸었다
반짝반짝 miêu tả ánh sáng lấp lánh.
별이반짝반짝빛나고있었다
물이햇빛을받아반짝반짝빛났다.
울긋불긋 miêu tả màu sắc sặc sỡ.
들에꽃이울긋불긋피었다
울긋불긋가을단풍이든나뭇잎들 .
2. Cấu trúc:
2.1. Nguyên âm âm tính và nguyên âm dương tính :
Từ tượng thanh và từ tượng hình trong tiếng Hàn có được chia ra làm hai dạng : từ
tượng thanh - từ tượng hình có nguyên âm âm tính và từ tượng thanh - từ tượng hình
có nguyên âm dương tính.
Từ tượng thanh - từ tượng hình có nguyên âm dương tính là những từ có các
nguyên âm là아,야,오,요. Còn từ tượng thanh - từ tượng hình có nguyên âm âm tính
là những từ có các nguyên âm như어,여,우,유,이,으. Tùy theo đó là từ tượng hình
- từ tượng thanh mang nguyên âm âm tính hay mang nguyên âm dương tính mà sắc
thái biểu đạt các sự vật, hiện tượng cũng trở nên khác nhau. Chúng ta hãy cùng tìm
hiểu các sự khác nhau giữa từ tượng thanh - từ tượng hình có nguyên âm âm tính và từ
tượng thanh - từ tượng hình có nguyên âm dương tính qua các ví dụ sau đây:
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
244
VD:
2.2. Mức độ biểu đạt:
Để thể hiện mức độ biểu đạt, từ tượng thanh và từ tượng hình được cấu thành bằng
hai hình thức sau:
Theo cách phát âm:
Khi âm phát ra thay đổi từ các âm đơn thành các âm bật hơi hay âm căng, sẽ
tạo cảm giác tăng dần về mức độ biểu đạt của từ.
Ví dụ : *ㄱㅋㄲ
가슬가슬까슬까슬(ㄱㄲ)
Từ tượng thanh - từ tượng hình có
nguyên âm âm tính
Từ tượng thanh - từ tượng hình có
nguyên âm dương tính
어정어정 miêu tả bước đi của
người lớn
뒷짐을지고어정어정거닐며
깊은생각에잠겼다.
껑충껑충 miêu tả bước nhảy dài và
đều, hoặc sự dâng lên từ từ
숲에서사슴이껑충껑충
뛰어다닌다.
들어물가가껑충껑충
뛰어올랐다
갱거루가껑충껑충뛰어요.
줄줄 miêu tả dòng nước chảy rất
đều
봉투가터졌는지생선국물이
줄줄샌다.
눈물이줄줄흐르다.
아장아장 miêu tả bước đi của trẻ con
아기는벌써아장아장걸음마를
시작하였다.
깡충깡충 miêu tả bước nhảy nhanh,
ngắn
và dồn dập
아이들이깡충깡충뛰어요.
그녀가신이나서침대위에서
깡충깡충뛰었다.
토끼가깡충깡충뛰어요.
졸졸
시냇물이졸졸흐르고있다
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
245
Để diễn tả sự sần sùi, thô ráp, trong tiếng Hàn Quốc, người ta có từ 가슬가슬,tuy
nhiên, để nhấn mạnh hơn vào mức độ biểu đạt của sự thô ráp, sần sùi ấy, có thể đọc
nhấn mạnh vào âmㄱ, tức là đọc가슬가슬 thành까슬까슬.
겨울이되니손등이가슬가슬해진다.
어느새아들의턱밑에는수염이까슬까슬돋았다.
쿨쿨꿀꿀 (ㅋㄲ),.
Khi diễn tả âm thanh tiếng ngáy khi ngủ của con người, tiếng Hàn Quốc miêu tả
bằng từ tượng thanh là쿨쿨. Tuy nhiên, để diễn tả âm thanh này được mạnh và rõ nét
hơn, người ta biến âmㅋ thànhㄲ, nghĩa là từ쿨쿨 thành꿀꿀.
쿨쿨코를골며자고있었다.
모든사람이잠에빠지고있는것같네!방에꿀꿀소리만들린다.
*ㄷㅌㄸ
가득가득가뜩가뜩.
Khi miêu tả sự đầy ắp, tràn trề, tiếng Hàn Quốc có từ tượng hình là가득가득. Tuy
nhiên, để có thể nhấn mạnh hơn cho ý nói về sự đầy ắp, tràn trề này, người ta đọc nhấn
mạnh ở chữㄷ thànhㄸ , tức là từ가득가득 đọc thành가뜩가뜩.
곳간을곡식으로가득가득채웠다
이삿짐이쪽마루에가뜩가뜩이쌓여있었다.
데굴데굴떼굴떼굴
Khi miêu tả hình ảnh một sự vật nào đó lăn tròn, tiếng Hàn Quốc cótừ데굴데굴,
nhưng để nhấn mạnh hơn, người ta đọc nhấn mạnh âmㄷ thànhㄸ, tức là từ데굴데굴
thành떼굴떼굴.
높이떴던야구공이데굴데굴굴러갔다.
축구공이떼굴떼굴굴러간다
*ㅂㅍㅃ
가분가분가뿐가뿐 (ㅂㅃ)
Khi diễn tả lời nói hay hành động, dáng điệu, cử chỉ mềm mại, nhẹ nhàng, uyển
chuyển, tiếng Hàn Quốc có từ 가분가분 .Tuy nhiên, nếu muốn làm tăng lên, muốn
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
246
nhấn mạnh hơn nữa vào sự nhẹ nhàng, uyển chuyển đó, người ta sẽ đọc nhấn mạnh ở
ㅂ thànhㅃ, tức là từ가분가분 thành가뿐가뿐.
걸음걸이가가뿐가뿐한것을보니기분이제법좋은모양이다.
마치 전설 속에 나오는 공주의 걸음걸이와도 같이 가분가분 걸어오는
눈이었다.
바삿바삭파삭파삭
Để diễn tả tiếng chân bước trên lá hay các vật khô, tiếng Hàn Quốc có từ바삭바삭.
Tuy nhiên, khi diễn tả ân thanh đó rõ ràng hơn, nhấn mạnh hơn, người ta đọc mạnh âm
ㅂ thành ㅍ, tức là바삭바삭 thành파삭파삭.
발밑에나뒹구는낙엽을밟으며걷노라니바삭바삭소리만들린다.
발밑에나뒹구는낙엽을밟으며걷노라니파삭파삭소리만들린다.
*ㅅㅆ
새근새슨쌔근쌔근
Khi diễn thở nhẹ nhàng, êm ái của em bé hay tiếng người ngủ say, tiếng Hàn Quốc
có từ새근새근.Nếu muốn nhấn mạnh hơn về mức độ, người ta đọc nhấn vào âmㅅ,
và trở thànhㅆ, tức là새근새근 thành쌔근쌔근.
아이는새근새근잠이잘들고있다.
그는분을참느라고쌔근쌔근어깨만들썩이고있었다 .
*ㅈㅉ
졸졸쫄쫄
Khi mô tả hình ảnh của những dòng nước nhỏ, chảy êm ái, liên tục, không ngừng,
tiếng Hàn Quốc có từ졸졸, nhưng khi muốn diễ đạt ở mức độ cao hơn, người ta có thể
đọc nhấn mạnh âm ㅈ thànhㅉ, tức là từ졸졸 thành쫄쫄.
계곡옆바위밑에꽤많은물이고였다가졸졸흐르는우물이있었다.
어디에선가쫄쫄물흐르는소리가들린다.
Khi nguyên âm오 đọc thành우 sẽ đem lại cho người nghe cảm giác mạnh hơn.
깡총깡총깡충깡충
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
247
Trong tiếng Hàn Quốc, để diễn tả bước nhảy của con thỏ, người ta có từ깡총깡총,
còn khi muốn diễn tả bước nhảy của con kanguroo, người ta lại dùng từ깡충깡충. Rõ
ràng ở đây, chỉ thay đổi một nguyên âm오 thành우 thôi nhưng cảm giác đem lại cho
người nghe cũng đã thay đổi. Bởi nguyên âm오 trong깡총깡총 đem lại cảm giác nhẹ
nhàng, giúp người nghe hình dung được bước nhảy nhẹ nhàng, nhanh nhẹn của con
thỏ bé nhỏ. Ngược lại, nguyên âm 우 trong 깡충깡충 lại đem đến cho người nghe
cảm giác về những bước nhảy di chuyển nặng nề của con kanguroo. Có thể nói, sự
thay đổi từ nguyên âm dương tính 오 thành nguyên âm âm tính 우 trong việc diễn tả
bước nhảy về sự di chuyển của hai con vật xuất phát từ sự cảm nhận mang tính trực
quan về dáng vẻ bề ngoài( hình dáng, kích cỡ, trong lượng …) của hai loài : thỏ và
kanguroo.
토끼는산으로향해깡총깡총뛰었다.
갱거루는깡충깡충뛰고있었다.
졸졸줄줄
Trong tiếng Hàn Quốc, khi diễn tả âm thanh nhỏ, nhẹ nhàng, liên tục của những
dòng nước nhỏ, người ta dùng từ졸졸, còn đối với những dòng nước lớn, người ta lại
sử dụng từ 줄줄. Cũng như trường hợp về miêu tả bước nhảy của con thỏ và con
kanguroo ở ví dụ trên, ở đây, sự thay đổi từ nguyên âm dương tính 오 thành nguyên
âm âm tính우 cũng góp phần đem đến cho người nghe cảm nhận khác biệt. Nếu như
nguyên âm 오 trong từ 졸졸 mang lại hình dung về âm thanh của những dòng nước
nhỏ chảy, liên tục nhưng nhẹ nhàng, yếu ớt , thì ngược lại, nguyên âm우 lại mang đến
hình dung về tiếng của những dòng nước lớn hơn, chảy liên tục, đều đặn. Ở đây, sự
khác biệt về tính chất của các loại dòng nước( dòng nước lớn hay nhỏ) đã dẫn đến sự
thay đổi trong cách miêu tả dòng nước đó là졸졸 hay là줄줄.
시냇물이졸졸흐르다.
내동생은상급생인데도아직코를줄줄흘리고다닌다.
포동포동푸둥푸둥
Trong tiếng Hàn Quốc, khi mô tả hình dáng tròn trịa, đầy đặn của con người, người
ta dùng từ 포동포동, nhưng nếu muốn nhấn mạnh hơn nữa , người Hàn Quốc có từ
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
248
푸둥푸둥, nghĩa là thay đổi từ nguyên âm dương tính 오 thành nguyên âm âm tính
우.Theo đó, ý nghĩa của hai từ cũng có sự thay đổi đôi chút, nếu từ nghĩa
포동포동 chỉ có nghiã là đầy đặn, tròn trịa thôi, thì từ 푸둥푸둥 lại có nghĩa mạnh
hơn, mang đến cho người nghe cảm nhận về hình ảnh béo tròn, có phần hơi ục ịch,
nặng nề của đối tượng được rõ ràng hơn.
우유살이포동포동오른아이들의귀여운얼굴
아기가푸둥푸둥하게살이많이올랐다.
Theo số lượng từ:
Để tạo cảm giác dồn dập, liên tiếp,, không ngừng, từ tượng thanh và từ tượng
hình có thể được biến đổi thành các từ nhiều âm tiết, có thể là từ láy hoặc từ ghép.
똑딱똑딱똑딱
Trong tiếng Hàn Quốc, khi diễn tả âm thanh của tiếng đồng hồ hay tiếng gõ, đập
khe khẽ các vật cứng, người ta có từ똑딱 , tương ứng trong tiếng Việt là từ “ tích tắc”
hay “cạch cạch” . Tuy nhiên, khi muốn nhấn mạnh hơn, nhằm tạo cảm giác âm thanh
nhanh hơn, gấp gáp hơn…, người ta có thể láy lại từ똑딱 thành똑딱똑딱. Rõ ràng là
ở đây, việc sử dụng phương thức láy lại từ 똑딱 có thể đem lại cho người nghe cảm
giác gấp gáp, dồn dập, liên tục, không ngừng nghỉ của âm thanh.
그가똑딱똑딱못을박는다.
조용한밤중에시계소리똑딱은잘들렸다.
와르르와르르와르르
Trong tiếng Hàn Quốc, khi diễn tả tiếng đổ trút xuống bất ngờ, đột ngột của sự vật
hay âm thanh ồn ào của con người khi đột nhiên đổ dồn về một phía nào đó, người ta
dùng từ와르르 ( tương ứng trong tiếng Việt là “ ào ào” hay “rầm rầm”…) .Nhưng nếu
muốn nhấn mạnh hơn, người ta có thể láy lại와르르 thành와르르와르르, tạo ra cảm
giác về một sự liên tiếp, dồn dập với cường độ mạnh hơn nữa với số lượng lớn, đột
ngột di chuyển đồng thời về cùng một phía . Có thể nói, phương thức láy đã đem đến
cho người nghe cảm giác về từ mạnh mẽ hơn.
돌무더기가와르르무너졌다.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
249
불이 나자 건물 안에 있던 사람들이 출입구 쪽으로 와르르 와르르
몰려나왔다.
2.3. Khi kết hợp với –거리다, -대다, -하다, các từ tượng thanh và từ tượng hình
sẽ trở thành động từ hoặc tính từ.
가물가물가물가물하다/가물대다/가물거리다
Trong tiếng Hàn Quốc, từ tượng hình 가물가물 vốn là từ dùng khi muốn diễn đạt
hình ảnh lập loè, le lói của các loại ánh sáng yếu ớt, nhỏ nhoi, hay diễn đạt hình ảnh
thấp thoáng, không nhìn thấy rõ ràng, liên tục của các vật ở vị trí xa. Nhưng khi thêm
đuôi –하다 vào sau 가물가, hay thêm đuôi –대다, -거리다 vào sau 가물 thì
가물가물 không còn là từ tượng hình nữa mà đã trở thành 동사 .Dưới đây là một vài
ví dụ:
촛불은스며드는바람에도꺼질듯가물거렸으나쉽사리꺼지지않았다.
아주죽었거나,빈사상태에있는것처럼가물대는형광등이어쩌다하나씩
있을뿐빛이들어올데라곤없었다.≪박완서,도시의흉년≫
똑딱똑딱하다 /똑딱대다 /똑딱거리다
Từ 똑딱똑딱 trong tiếng Hàn Quốc vốn là một từ tượng thanh, diễn tả âm thanh
của tiến đồng hồ hay là tiếng gõ, đập của những vật cứng. Nhưng khi thêm đuôi -하다
vào sau가뿐가뿐 hay –대다, -거리다 vào sau가뿐 ta lại được một동사.Dưới đây là
một vài ví dụ:
옆방에서못질을하는지내내똑딱거려잠을못잤다
시계가똑딱대는소리에잠을설쳤다.
연필이똑딱하며바닥으로떨어졌다.
2.4. Đối chiếu với tiếng Việt:
Tiếng Hàn Quốc có nhiều từ tượng thanh và tượng hình tương ứng với tiếngViệt
mà chúng ta có thể đem ra đối chiếu và so sánh. Dưới đây là một vài ví dụ.
Ví Dụ :
Âm thanh của tiếng đồng hồ :
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
250
-Trong tiếng Hàn Quốc : 똑딱똑딱 (단단한 물건을 잇따라 가볍게 두드리는
소리 / 시계나 작은 발동기, 똑딱선의 기관 따위가 잇따라 돌아가는 소리 (출저:
네이버국어사전) ).
VD:밤이면시계소리똑딱똑딱이유난스레크다.
-Trong tiếng Việt : “tích tắc ..tích tắc “.
Tiếng đồ vật bị vỡ :
-Trong tiếng Hàn Quốc : 쨍그랑 (얇은 쇠붙이나 유리 따위가 떨어지거나
부딪쳐맑게울리는소리-출저:네이버국어사전)
VD:잔이쨍그랑소리를내며바닥에떨어졌다
-Trong tiếng Việt : “choang”
Tiếng bụng sôi:
- Trong tiếng Hàn Quốc:꼬르륵(배속이나대통의진따위가끓는소리-출저:
네이버국어사전)
VD:하루중일아무것도못먹어서배속에서꼬르륵소리가나다.
- Trong tiếng Việt : “ùng ục”
Tiếng gõ cửa:
- Tiếng Hàn Quốc:똑똑(문을두드리는소리)
VD: 근선생님은문을똑똑두드린후에조용히들어갔다.
- Tiếng Việt : “Cốc cốc”
Tiếng còi xe
- Tiếng Hàn Quốc :빵빵(차등교통수단의경찰소리)
VD:밖에서차소리빵빵은자꾸들린데참시끄러운데.
- Tiếng Việt: “bim bim”, “bíp bíp”
Hình ảnh diễn tả sự lo sợ:
- Tiếng Hàn Quốc:벌벌 (너무무서워떨리는모양)
VD: 시험전에사람들이벌벌떨리는것은당연하지.
- Tiếng Việt : run “bần bật”
Hình ảnh miêu tả nụ cười:
- Tiếng Hàn Quốc :삥글삥글(미소지는모양)
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
251
VD: 그녀가한말도없이삥글삥글웃기만한다.
- Tiếng Việt: cười “tủm tỉm”
Hình ảnh làn khói:
-Trong tiếng Hàn Quốc : 모락모락(연기나 냄새, 김 따위가 계속 조금씩
피어오르는모양-출저:네이버국어사전)
VD:먼산등에서연기는모락모락보인다.
-Trong tiếng Việt: khói tỏa “nghi ngút”.
Hình ảnh mưa :
- Trong tiếng Hàn Quốc:부슬부슬( 눈이나비가성기게조용히내리는모양-
출저:네이버국어사전)
VD:밖에서봄비가부슬부슬내리고있다.
-Trong tiếng Việt : (mưa rơi )“lâm thâm”
Hình ảnh mây trôi:
-Trong tiếng Hàn Quốc : 뭉게뭉게 (연기나 구름 따위가 크게 둥근 모양을
이루면서잇따라나오는모양-출저:네이버국어사전)
VD: 산등성 머리 위에는 뭉게뭉게 눈같이 흰 구름이 눈이 부시게 피어올라
올뿐이다.
-Trong tiếng Việt : (mây trôi) “lững lờ”,”bồng bềnh”
3. Thống kê về từ tượng thanh tượng hình
3.1 Từ tượng thanh
3.1.1 Nhóm các từ về tiếng kêu động vật
3.1.1.1 Khác nhau về hình thái
TIẾNG HÀN QUỐC TIẾNG VIỆT
야옹
그고양이는전형적인야옹
소리를냈다.
고양이가나를보고야옹하고
울었다
tiếng mèo kêu : Meo meo
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
252
꼬끼오
수탉이꼬끼오하고운다
먼동이틀무렵어디선가닭이
꼬끼오하고홰치며우는것을들었다
음애
그는소가음매하고우는것처럼
소리질렀다.
어미소와떨어진송아지는
고삐에묶인채음매소리만내고
있다
tiếng gà trống gáy : “Ò Ó O O O”
tiếng bò kêu :” Bò bò bò”
3.1.1.2 Giống nhau về hình thái
Hình
tháiTIẾNG HÀN QUỐC TIẾNG VIỆT
AA 멍멍
낯선사람을보고개가
멍멍거린다.
깽깽
강아지가깽깽짖어대며자꾸
주인을따라가려한다.
꽥꽥
오리가꽤꽥소리를질렀다.
꿀꿀
돼지들이우리에서꿀꿀거린다
맴맴
여름에는매미가맴맴울어요.
왱왱
모기가왱왱날아다닌다.
Tiếng chó sủa : “gâu gâu”
Tiếng chó con kêu
Tiếng vịt kêu:“quác quác”
Tiếng lợn kêu: “ủn ỉn,eng
éc”
Tiếng ve kêu : “ve ve”
Tiếng bay nhanh của
những
loài côn trùng có cánh.
(ruồi, muỗi) : vo ve
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
253
구구
찍찍
Tiếng chim bồ câu hoặc
tiếng gà kêu : “cu cu “
Tiếng chim sẻ kêu
ABAB 개골개골
개구리가개골개골울고있었다
맹꽁맹꽁
장마철에는하루온종일
맹꽁이가맹꽁맹꽁울어댔다.
귀뚤귀뚤
귀뚤귀뚤우는귀뚜라미소리에
가을의고적함을느낀다
까악까악
꾀꼴꾀꼴
끼룩끼룩
Tiếng ếch kêu : “ ộp ộp “
Tiếng kêu của một loài
ếch nhỏ
Tiếng châu chấu kêu
Tiếng quạ kêu
Tiếng hót chim sơn ca,
chim vàng anh
Tiếng chim mòng biển kêu
3.1.2 Nhóm các từ về âm thanh của sự vật
3.1.2.1 Khác nhau về hình thái
TIẾNG HÀN QUỐC TIẾNG VIỆT
쨍그랑
잔을쨍그랑부딪치다
Tiếng rơi vỡ đồ vật bằng sứ hoặc bằng thủytinh
(얇은쇠붙이나유리따위가떨어지거나
부딪쳐맑게울리는소리. ‘쟁그랑’보다센
느낌을준다)
“Choang “
찌르릉
찌르릉찌르릉벨이울렸다
Tiếng chuông xe đạp kêu
(초인종이나전화벨따위가울리는소리.)
“Reng reng “
탁 Âm thanh phát ra khi hai vật đột ngột va chạm
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
254
문을탁닫다
탁자위에잔을탁내려놓다
với nhau (갑자기세게치거나부딪거나
차거나넘어지는소리)
퐁당
반지가물에퐁당빠졌다
개구리 한 마리가 연못으로
퐁당뛰어들었다
Âm thanh khi ném một vật nhỏ và cứng xuống
nước (작고단단한물건이물에떨어지거나
빠질때가볍게한번나는소리.)
“Tõm , tủm “
3.1.2.2 Giống nhau về hình thái :
HÌNH
THÁI
TIẾNG HÀN QUỐC TIẾNG VIỆT
AA 땅땅
도장을땅땅찍다.
씽씽
세찬겨울바람이씽씽
불어댄다.
차가씽씽달리다.
Tiếng va chạm giữa những vật
làm bằng kim loại, cứng với nhau
(작은쇠붙이나단단한물건이
잇따라세게부딪쳐울리는소리.)
바람이잇따라세차게스쳐
지나가는소리.
사람이나물체가바람을일으킬
만큼잇따라빠르게움직일때
나는소리
ABAB 보글보글
삐걱삐걱
사립문을삐걱삐걱흔드는
소리가났다.
갑자기 침대
밑에서스프링
소리가 삐걱삐걱 방을
울렸다
Tiếng nước sôi
“Ùng ục”
Tiếng cửa kêu
“cọt kẹt “
크고 단단한 물건이 자꾸 서로
닿아서갈릴때나는소리
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
255
3.1.3 Nhóm các từ thể hiện cảm xúc của con người:
3.1.3.1 Khác nhau về hình thái:
TIẾNG HÀN QUỐC TIẾNG VIỆT
화들짝
아이는천둥소리에화들짝
놀라쓰러졌다.
어머니는아들이합격했다는
소식을듣자마자화들짝놀라며
눈시울을붉혔다.
활딱
옷을활딱벗다
머리가활딱벗어지다
화뜰
Không có tương ứng
별안간호들갑스럽게펄쩍뛸듯이
놀라는모양.
남김없이시원스럽게벗거나벗어진
모양.
팔다리나몸이몹시심하게한번
떨리는모양.
2.1.3.2 Giống nhau về hình thái
HÌNH
THÁI
TIẾNG HÀN QUỐC TIẾNG VIỆT
AA 냠냠
아이들이과자를냠냠먹는다.
그아이는혼자서만떡을냠냠
먹었다.
엉엉
우리는서로부둥켜안고엉엉
소리내어울었다.
나는그의가슴에안겨
어린아이처럼서럽게엉엉울어
Tiếng nhai thức ăn, thể hiện
sự ngon miệng
(어린아이등이음식을
맛있게먹는소리.)
Tiếng khóc
(목을놓아크게우는
소리)
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
256
댔다.
하하
그의재치있는농담에모두
하하웃었다.
호호
그녀는호호웃으며말했다
히히
Tiếng cười lớn “haha”
(입을벌리고거리낌없이
크게웃는소리)
Tiếng cười của phụ nữ
(입을동그랗고작게
오므리고간드러지게웃는
소리.또는그모양.주로
여자의웃음소리를
나타낸다.)
Tiếng cười
마음에흐뭇하여멋없이
싱겁게자꾸웃는소리
ABAB 콜록콜록
콜록콜록기침을하다
새근새근
아기가새근새근잘잔다
Tiếng hắt xì hơi khi bị cảm
(감기나천식따위로가슴
속에서잇따라울려나오는
기침소리.)
Tiếng thở nhẹ nhàng của trẻ
con khi ngủ say.
(어린아이가곤히잠들어
조용하게자꾸숨쉬는소리.)
3.2 Từ tượng hình
3.2.1 Nhóm các từ tượng hình về con người :
3.2.1.1 Khác nhau về hình thái:
TIẾNG HÀN QUÔC TIẾNG VIỆT
꾀죄죄
그녀가 꾀죄죄한 채 밖에서
(Quần áo) lôi thôi, luộm thuộm, xộc xệch,
không gọn gàng, chỉnh tề.
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
257
나가곤한다.
엉거주춤
그녀는자꾸엉거주춤서있다.
무슨 일이 생긴 지 몰라서
앉지도 서지도 아니하고 그냥
엉거주춤하고있었다.
헐레벌떡
큰 소나기를 만난 사람들이
헐레벌떡 빌딩 속으로 뛰어
들어갔다.
(옷차림이나 모양새가 몹시
지저분하고궁상스러운모양)
Phấp phỏng, nhấp nhổm, đứng ngồi không
yên
(-아주 앉지도 서지도 아니하고 몸을
반쯤굽히고있는모양
- 이러지도 저러지도 못하고 망설이는
모양.)
Vội vàng, hối hả
(숨을가쁘고거칠게몰아쉬는모양.)
3.2.1.2. Gíông nhau về hình thái:
HÌNH
THÁI
TIẾNG HÀN QUỐC TIẾNG VIỆT
AA 퉁퉁
소녀가 잠을 많이 자서
눈두덩이가퉁퉁부었다 .
회사를 그만두고 집에
들어앉으니살이퉁퉁올랐다.
빼빼
의사가비대한 환자에게
염격하게 다이어트 시켰더니 빼빼
말랐다.
뻣뻣
한 사람은 도포에 갓을
썼는데, 수염이 뻣뻣하고 눈꼬리가
사나운 것이 꽤나 험상스레
Sưng vù lên hoặc bị căng
phồng lên.
(신체나 물체의 한
부분이 붓거나 부풀어서
도드라져 있는 모양, 또는
살이 쪄서 몸이 옆으로 퍼진
모양.)
gầy gò, gầy giơ xương
(살가죽이 쪼그라져 붙을
만큼야윈모양)
Râu hoặc tóc cứng đơ, xơ
cứng
(머리나 수염 등 물체가
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
258
보였다.
벌벌
밖에서낳씨가너무춰서그
노인이자꾸벌벌떨리고있었다.
살살
어린애가 약을 먹기 싫다며
고개를살살흔들었다.
굳고꿋꿋하다)
Run bần bật ( vì lạnh hoặc
do sợ hãi..)
Khẽ lắc đầu, thể hiện sự
không đồng ý, không hài lòng.
ABAB 뒤룩뒤룩
요즘길에서뒤룩뒤룩살이찐
사람들을많이볼수있다.
토실토실
첫돌을맞을때쯤어린아이는
토실토실살이올랐다.
후리후리
그는후리후리큰키에건강해
보였다.
깜박깜박
무슨 일이 생긴 지 몰라서
눈을깜박깜박 하네!
끄덕끄덕
그 아이는 너무 좋아하니
고개를끄덕끄뎍했다.
절레절레
아이는 싫다고 도리머리를
절레절레흔들었다.
Béo ục ịch
(군살이 처지도록 살이
몹시쪄서뚱뚱한모양.
Mô tả những em bé mũm
mĩm, bụ bẫm.
(보기 좋을 정도로 살이
통통하게찐모양)
Cao, cân đối
(키가크고늘씬한모양.)
Mắt “hấp ha hấp háy”
(눈이 자꾸 감겼다
뜨였다하는모양.)
Gật đầu lia lịa
(고개 따위를 아래위로
거볍게자꾸움직이는모양)
Lắc đầu quầy quậy
(머리를 좌우로 자꾸
흔드는모양)
ABA’B 허겁지겁
아이가 배가 고픈지 입을
Vội vàng, hấp tấp
(조급한 마음으로 몹시
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
259
넙적대며떡을허겁지겁먹는다.
허둥지둥
시험 시간이 모자라 허둥지둥
아무답에나표시를하고나왔다.
실쭉샐쭉
그 여자는 친구와 하찮은
일로 말다툼한 후 토라져서
실쭉샐쭉했다.
동생은 실쭉샐쭉 삐치기를
잘해서함께놀기가힘들다
허둥거리는모양)
Cuống quýt, vội vội vàng
vàng.
(정신을 차릴 수 없을
만큼 갈팡질팡하며
다급하게서두르는모양.)
(어떤 감정을 나타내면서
입이나 눈이 자꾸
실그러졌다 샐그러졌다
하며 움직이는 모양 또는
마음에 차지 아니하여서 좀
고까워 하는 태도를 자꾸
나타내는모양 )
3.2.2.Nhóm từ về sự vật:
3.2.2.1 Khác nhau về hình thái:
TIẾNG HÀN QUỐC TIẾNG VIỆT
괴발개발
의사가 처방전을 괴발개발
갈겨써서알아보기어려웠다.
어둠침침
흐리고 비 오는 하늘은
어둠침침하게 벌써 황혼에 가까운
듯한다.
흐리멍텅
머리속은 흐리머텅 술기운을
(Chữ viết) nguệch ngoạc, xiên xẹo, cẩu
thả
(고양이의 발과 개의 발이라는 뜻으로,
글씨를 되는대로 아무렇게나 써 놓은
모양을이르는말)
Âm u, tăm tối
(어둡고침침한모양)
Váng vất, phảng phất
(밝거나 똑똑하지 못하고 흐릿한
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
260
가시지못하고있었다. 모양 )
3.2.2.2. Gíông nhau về hình thái:
HÌNH THÁI TIẾNG HÀN QUỐC TIẾNG VIỆT
AA 꽁꽁
냉장고에서 꺼낸 뒤에
물이꽁꽁얼다.
술술
바람이 문 새로 술술
들어온다.
찰찰
물탱크가 찰찰 넘치고
있다.
척척
학생들이 어려운 화학
문제를척척풀었다.
컴컴
컴컴한 골목길에 혼자서
걸어가고망설하고있었다.
Đông cứng, cứng đơ
(물체가 매우 단단히 언
모양./힘주어 단단하게 죄어
묶거나꾸리는모양.)
(gió) thoang thoảng, thổi
nhè nhẹ.
(바람이 부드럽게 부는
모양.)
(N ước) đầy ăm ắp, tràn cả
ra ngoài
(적은 액체가 조금씩
넘쳐흐르는모양.)
Làm nhanh nhoay nhoáy,
thoăn thoắt, thuận lợi, dễ dàng.
(일이 거침없이 아주
잘되어가는모양)
Tối đen, tối om om.
(아주어두운모양)
ABAB 산들산들
산들산들 부는 봄바람도
상쾌하고 눈앞에 끝없이
펼쳐진 바다도 후련하기만
한다.
선들선들
선들선들한 바람이 불어
(Gío thổi) hiu hiu
(바람이 시원하고
부드럽게부는모양)
(Gío thổi) se se
(바람이 서늘하고
부드럽게부는모양)
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
261
조금 춥게 느껴지는 가을 해질
무렵였다.
보슬보슬
봄비가보슬보슬내린다.
부슬부슬
부슬부슬 처령하게
내리는가을비였다.
흔들흔들
바람이 불 때마다
나뭇잎이흔들흔들춤을춘다.
일 할때 마음은 흔들흔들
하면안되지!
Cơn mưa lâm thâm, li ti.
(비가 가늘고 성기게
내리는모양)
Cơn mưa lặng lẽ, lâm thâm.
(비가 가늘고 성기게
조용히내리는모양)
Phấp phới, đu đưa / (tâm
trí, lòng dạ) dễ bị xao động
-이리저리 자꾸 흔들리는
모양.
- 마음이나 생각 따위가
굳지 못하여 이리저리 자꾸
망설이는모양
ABA’B 우글쭈글
내가 금방 압고 나온 옷이
소나기에 젗어 우글쭈글하고
엉망이다.
울긋불긋
그녀는 울긋불긋 빛깔이
요란한옷을입었다
오락가락
장마철로 접어들면서
비가오락가락한다.
왜뚤삐뚤
Nhầu nhì, nhăn nhúm
Rực rỡ, sặc sỡ, loè loẹt
(짙고 옅은 여러 가지
빛깔들이 야단스럽게 한데
뒤섞여있는모양)
(Thời tiết ) thất thường, hay
thay đổi.
( 계속해서 왔다 갔다
하는모양.)
Ngoằn ngoèo, uốn lượn.
(이리저리비뚤어진모양)
Kỷ yếu khoa học sinh viên khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010 ___________________________________________________________________________
262
산허리는 길이 왜뚤삐뚤
나있다.
올록볼록
그녀는 올록볼록한
벽지로벽을장식하였다
Gồ ghề, lồi lõm.
(물체의 거죽이나 면이
고르지않게높고낮은모양)
III/ KẾT LUẬN:
Từ tượng thanh và từ tượng hình là một mảng từ vựng vô cùng bao la và rộng lớn.
Ngay cả trong tiếng mẹ đẻ của mình, chúng ta cũng khó có thể biết hết được tất cả
những từ tượng thanh, từ tượng hình. Tuy nhiên, hãy thử tưởng tượng rằng, nếu như
không có sự xuất hiện của từ tượng thanh, tượng hình trong đời sống ngôn ngữ của
con người, thì việc giao tiếp của chúng ta hẳn sẽ mất đi nét cuốn hút cũng như bao
dụng ý chứa đựng trong từng ngôn từ. Thật vậy, vai trò của từ tượng thanh và từ tượng
hình là vô cùng quan trọng. Chúng tô điểm, trang trí, và mang lại cho mỗi lời nói, mỗi
câu văn cái hồn, làm cho những thứ bình thường quanh chúng ta trở nên thú vị, phong
phú và đa dạng hơn. Do vậy, chúng ta lại càng cần phải tìm hiểu, và nghiên cứu về từ
tượng thanh, từ tượng hình, để mảng đề tài này không còn là một khó khăn, mà trở
thành một niềm yêu thích đầy hấp dẫn của mỗi người học ngoại ngữ. Càng có nhiều
hiểu biết, nhiều kiến thức về từ tượng thanh, từ tượng hình, chúng ta lại thấy yêu ngôn
ngữ của mình hơn, thấy được rõ nét hơn những tinh hoa, những nghệ thuật trong cách
sử dụng từ, cách cấu tạo từ, cũng như những nét thú vị đặc biệt trong lối tư duy, quan
niệm của mỗi dân tộc, mỗi đất nước. Trong khuôn khổ, phạm vi có hạn, trên đây,
chúng tôi mới trình bày được các khái niệm, cũng như đối chiếu từ tượng thanh và
tượng hình trong hai ngôn ngữ - tiếng Hàn Quốc và tiếng Việt thông qua một vài ví dụ
minh hoạ về một số lĩnh vực. Bài nghiên cứu này chắc chắn không thể tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong các bạn có thể tiếp tục nghiên cứu thêm về “ từ tượng thanh-
từ tượng hình trong tiếng Việt và tiếng Hàn Quốc”, để đóng góp cũng như bổ sung
thêm nhằm làm cho mảng đề tài thú vị và bổ ích này có thể hoàn thiện hơn, góp phần
tăng cường hiểu biết lẫn nhau về ngôn ngữ giữa hai dân tộc Việt Nam và Hàn Quốc.
Kỷ yếu khoa học sinh viên Khoa Tiếng Hàn Năm học 2009-2010
263