xỨ nghỆ - ĐẤt vÀ ngƯỜi xn dvn_03.pdf · việt, trong đó có sách vở và nghề in...

4
Tạp chí KH-CN Nghệ An SỐ 5/2015 [57] XỨ NGHỆ - ĐẤT VÀ NGƯỜI 1. Vài nét lịch sử nghề in khắc mộc bản Thời Lý (1010-1225), sử sách có nói đến nhà sư Lý Học làm nghề khắc bản kinh. Thời Trần (1226-1400), triều đình cũng quan tâm đến việc khắc bản in kinh sách. Các vua Trần trở thành các vị tổ của phái Trúc Lâm thiền viện ở Yên Tử (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh), đã giao trọng trách khắc bản kinh Phật cho Thiền sư Huyền Quang. Đặc biệt, bộ Kinh Đại Tạng do nhà Nguyên tặng, bổ sung thêm các Kinh do Việt Nam làm, cũng được in trong thời gian này. Nhà Trần mất, nhà Hồ lên thay. Giặc Minh mượn cớ khôi phục nhà Trần sang xâm lược nước ta đã tàn ác đốt phá hết các di sản văn hóa nước Việt, trong đó có sách vở và nghề in sách cũng bị thất truyền theo. Sau đó, Lê Lợi, lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến 10 năm thắng lợi, đánh đuổi quân Minh ra khỏi đất nước, dựng lên nhà Lê, mở ra một thời đại phát triển mới của nước ta về mọi mặt. Việc học được quan tâm, trường học được lập ở cả nước, các khoa thi kén chọn hiền tài được tổ chức thường xuyên, định kỳ, sách vở được in ấn ngày càng nhiều để đáp ứng cho nhu cầu dạy và học. Nghề khắc mộc bản và in sách cũng được quan tâm, phát triển. Hoàng giáp Lương Nhữ Hộc khi được triều đình cử đi sứ Trung Quốc đã học được nghề in khắc, rồi về truyền cho người dân quê hương mình ở hai làng Hồng Lục và Liễu Chàng (nay thuộc tỉnh Hải Dương). Triều đình đã cho in các bộ sách lớn, quan trọng ở Hồng Lục và Liễu Chàng, như Tứ thư, Ngũ kinh, Đại Việt sử ký toàn thư... Dân hai làng này đã tôn thờ Lương Nhữ Hộc thành vị tổ của nghề in khắc mộc bản của Việt Nam. Dân hai làng Lục - Liễu còn kéo nhau về Thăng Long lập làng nghề in khắc rất nổi tiếng như các phố Hàng Trống, Hàng Nón, Lý Quốc Sư, Hàng Bông, Hàng Gai… Nghề in khắc mộc bản được lập ra ở nhiều nơi trong nước, mà trung tâm là nơi đô hội, có Phật giáo và Nho giáo phát triển, từ Kinh đô, Tứ trấn cho đến Nghề khắc mộc bản in sách ở nước ta đã có từ lâu đời, có thể có từ khi người Việt học, sử dụng chữ Hán (thời Bắc thuộc) và khi đạo Phật truyền vào nước ta (thời Hán - Đường). Cha ông ta đã học được nghề làm giấy và khắc ván in từ người Trung Quốc. Đặc biệt, khi đạo Phật trở thành quốc đạo, kinh Phật trở thành nhu cầu của cả tầng lớp quý tộc lẫn bình dân, thì việc in khắc sách tất yếu phải có. Từ đó, nghề khắc mộc bản in sách ra đời ở nước ta và có những bước phát triển nhất định. NGHỀ KHẮC MỘC B ẢN VÀ KHO DI SẢN MỘC BẢN XỨ NGHỆ n Đào Tam Tỉnh Mộc bản Kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) được UNESCO công nhận là Di sản Tư liệu kí ức Thế giới Khu vực châu Á - Thái Bình Dương

Upload: others

Post on 22-Nov-2019

4 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Tạp chíKH-CN Nghệ An

SỐ 5/2015 [57]

XỨ NGHỆ - ĐẤT VÀ NGƯỜI

1. Vài nét lịch sử nghề in khắc mộc bảnThời Lý (1010-1225), sử sách có nói đến nhà

sư Lý Học làm nghề khắc bản kinh. Thời Trần(1226-1400), triều đình cũng quan tâm đến việckhắc bản in kinh sách. Các vua Trần trở thành cácvị tổ của phái Trúc Lâm thiền viện ở Yên Tử (naythuộc tỉnh Quảng Ninh), đã giao trọng trách khắcbản kinh Phật cho Thiền sư Huyền Quang. Đặcbiệt, bộ Kinh Đại Tạng do nhà Nguyên tặng, bổsung thêm các Kinh do Việt Nam làm, cũng đượcin trong thời gian này.

Nhà Trần mất, nhà Hồ lên thay. Giặc Minhmượn cớ khôi phục nhà Trần sang xâm lược nướcta đã tàn ác đốt phá hết các di sản văn hóa nướcViệt, trong đó có sách vở và nghề in sách cũng bịthất truyền theo. Sau đó, Lê Lợi, lãnh tụ của cuộckhởi nghĩa Lam Sơn, đã lãnh đạo cuộc khángchiến 10 năm thắng lợi, đánh đuổi quân Minh rakhỏi đất nước, dựng lên nhà Lê, mở ra một thờiđại phát triển mới của nước ta về mọi mặt. Việc

học được quan tâm, trường học được lập ở cả nước,các khoa thi kén chọn hiền tài được tổ chức thườngxuyên, định kỳ, sách vở được in ấn ngày càng nhiềuđể đáp ứng cho nhu cầu dạy và học. Nghề khắc mộcbản và in sách cũng được quan tâm, phát triển.

Hoàng giáp Lương Nhữ Hộc khi được triều đìnhcử đi sứ Trung Quốc đã học được nghề in khắc, rồivề truyền cho người dân quê hương mình ở hai làngHồng Lục và Liễu Chàng (nay thuộc tỉnh HảiDương). Triều đình đã cho in các bộ sách lớn, quantrọng ở Hồng Lục và Liễu Chàng, như Tứ thư, Ngũkinh, Đại Việt sử ký toàn thư... Dân hai làng này đãtôn thờ Lương Nhữ Hộc thành vị tổ của nghề in khắcmộc bản của Việt Nam. Dân hai làng Lục - Liễu cònkéo nhau về Thăng Long lập làng nghề in khắc rấtnổi tiếng như các phố Hàng Trống, Hàng Nón, LýQuốc Sư, Hàng Bông, Hàng Gai…

Nghề in khắc mộc bản được lập ra ở nhiều nơitrong nước, mà trung tâm là nơi đô hội, có Phật giáovà Nho giáo phát triển, từ Kinh đô, Tứ trấn cho đến

Nghề khắc mộc bản in sách ởnước ta đã có từ lâu đời, có thể

có từ khi người Việt học, sử dụngchữ Hán (thời Bắc thuộc) và khi

đạo Phật truyền vào nước ta (thờiHán - Đường). Cha ông ta đã họcđược nghề làm giấy và khắc vánin từ người Trung Quốc. Đặc biệt,khi đạo Phật trở thành quốc đạo,kinh Phật trở thành nhu cầu của

cả tầng lớp quý tộc lẫn bình dân,thì việc in khắc sách tất yếu phảicó. Từ đó, nghề khắc mộc bản in

sách ra đời ở nước ta và cónhững bước phát triển nhất định.

NGHỀ KHẮC MỘC BẢN VÀ KHO DI SẢN MỘC BẢN XỨ NGHỆ

n Đào Tam Tỉnh

Mộc bản Kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) được UNESCO công nhận là Di sản Tư liệu kí ức Thế giới Khu vực châu Á - Thái Bình Dương

Tạp chíKH-CN Nghệ An

SỐ 5/2015 [58]

XỨ NGHỆ - ĐẤT VÀ NGƯỜI

các trấn ở xa như xứ Thanh, xứ Nghệ… Qua vốndi sản mộc bản còn được lưu giữ đến nay đượcbiết đến như các bộ Kinh Phật ở chùa VĩnhNghiêm, các bộ Tứ thư, Ngũ Kinh ở Trường Lộc,Can Lộc… cho thấy đều là những bộ mộc bảnquý được khắc từ triều Lê.

Đến triều Nguyễn thì nghề in khắc mộc bảnđã lan rộng ra hầu hết các trấn, tỉnh trong cảnước. Đặc biệt là kho Mộc bản triều Nguyễnđược lưu giữ ở Cục Lưu trữ IV Đà Lạt là lớn nhấthiện nay ở nước ta.

2. Nghề khắc ván in ở xứ NghệXứ Nghệ (Nghệ An và Hà Tĩnh) là đất học, có

truyền thống hiếu học, khoa bảng cũng là mộttrung tâm có nghề in khắc mộc bản còn lưu giữđược một vốn di sản mộc bản khá quý hiếm. Quanghiên cứu, tìm hiểu mộc bản và một số nghệnhân từng làm nghề khắc mộc bản ở Nghệ An,bài viết xin mô tả lại cách thức khắc bản in vàphương pháp in mộc bản ở xứ Nghệ từ trướcCách mạng tháng Tám.

Nhân cụ Trần Hiêng tặng cho Thư viện tỉnhNghệ An hai bộ ván khắc in sách: Đại VươngTrần chính kinh và Cứu sinh thuyền chân kinh,được Thư viện tổ chức lễ giao nhận vào ngày20/4/2007. Cụ Phạm Huy xem truyền hình đưatin lễ giao nhận mộc bản đã viết thư cho Thư việnxác nhận là gia đình cụ đã trực tiếp khắc hai bộmộc bản này. Ngày 29/5/2007, chúng tôi đã vềlàng Phượng Lịch, xã Diễn Hoa, huyện DiễnChâu, tìm đến nhà cụ Phạm Huy. Cụ Huy lúc đóđã 79 tuổi, lưng còng xuống theo những nămtháng miệt mài trên những tấm ván khắc nhưngrất cởi mở khi được hỏi về công việc khắc chữcác bộ mộc bản in sách.

Đồ nghề khắc mộc bản của cụ Phạm Huy cónhiều loại công cụ như dao khắc, búa, kìm và cácloại đục khác nhau… Riêng hai con dao khắc chữđã lên men đen bóng của thời gian thì cất riêngtrong một cái hộp gỗ nhỏ sơn then (sơn đen) cổkính. Với hai con dao còn lại này, hai cha con cụđã khắc nên hàng vạn chữ Hán lên hàng ngàn tấmgỗ. Để khắc được những con chữ đẹp, tinh xảothì ngoài năng khiếu bẩm sinh, người thợ cònphải có tính kiên nhẫn hơn người, phải cần mẫnkhắc từng nét chữ, nếu nóng vội làm sai lệch mộtvài nét chữ thì cả tấm ván phải bỏ đi để khắc lại.Do vậy, nghề khắc chữ này khó mà truyền lại chonhiều người. Ở Diễn Châu, nghề này chỉ có haigia đình làm và đều cha truyền con nối.

Để có được một tấm ván khắc hoàn hảo, có thể inra 4 trang (khắc cả hai mặt gỗ) thì người thợ phải thựchiện các công đoạn sau:

Chọn cây gỗ làm nguyên liệu: Phải tìm được câygỗ thị đực nhiều năm tuổi (cổ thụ càng tốt), mặt gỗphải đảm bảo với diện tích đủ dư trang sách khi xẻra, gỗ có thớ mềm, mịn, dai, bền để nét chữ khắc cóthể in được nhiều lần mà ít mòn.

Cắt xẻ gỗ và bào mịn: Công việc này khá nặngnhọc. Khi xẻ gỗ, phải tính toán cho phù hợp với khổtrang sách định in. Xẻ dư số tấm theo số trang của bộsách để bổ sung, phòng khi khắc hỏng hoặc bị nhầmlẫn. Gỗ phải bào ngang thớ, để đảm bảo độ mịn,phẳng. Nếu bào dọc gỗ, mặt gỗ sẽ bị xước, không thểkhắc được chữ, do đó công đoạn này rất mất công, vìphải bào bằng tay trên mặt trơ của gỗ.

Viết chữ và in trên mặt gỗ: Viết chữ Nho lên giấybản (theo cụ Huy thì giấy bản được làng nghề ở vùngChín Nam - Nam Đàn sản xuất). Dùng bột nếp lọcphết kín lên mặt tấm ván, rồi dán mặt giấy dó có viếtchữ Nho lên cho chữ hằn nổi rõ lên trên mặt ván gỗcó miết bột. Như vậy là được một trang sách có chữngược hiện lên trên mặt tấm ván gỗ.

Khắc chữ: Dùng đục, tùy loại ở những nơi cần sửdụng, đục bớt phần gỗ dư ngoài chữ, rồi khắc từngchữ một cho đến hết trang và cả hai mặt chữ tấm vángỗ. Công đoạn này là khó khăn và tốn công nhất, đòihỏi người thợ phải có năng khiếu, tay nghề cao, kiêntrì, cần mẫn. Nét chữ có mềm mại, sắc sảo hay khônglà do ở người thợ khắc chữ có đẹp và có theo đượcnét chữ của người viết hay không. Người viết chữcũng phải viết chữ đẹp và thường còn phải giỏi cảchữ Nho nữa. Người viết chữ cũng phải học quatrường lớp, do thầy giỏi chữ Nho dạy. Bộ ván khắcTrần Đại Vương chính kinh khi in ra thấy chữ khắcrất sắc sảo, nét rõ ràng, hài hòa, chính là sự thăng hoatrong tay nghề của cả người khắc và người viết. Bộsách này do cha con cụ Phạm Căn, Phạm Huy ở làngPhượng Lịch, xã Diễn Hoa thực hiện. Cụ Căn viếtchữ, chỉ đạo khắc và cả hai cha con trực tiếp khắc trọnvẹn bộ sách này.

Để làm ra một bộ ván khắc in sách hết sức tốnkém. Một tấm ván gỗ khắc cả 2 mặt được 2 ngườihoàn thành trong 5 ngày và được chủ trả công bằng 1quan tiền (bằng 600 đồng tiền đồng tròn, lỗ vuôngxưa và bằng 40kg lúa). Tính thêm các chi phí khácngoài công khắc, thì 1 tấm ván khắc hoàn thiện trị giábằng 60kg lúa. Để hoàn chỉnh bộ Trần Đại Vươngchính kinh (gồm 18 tấm x 4 trang sách = 72 trang),gia đình cụ Trần Khắc Hinh (thân sinh cụ Trần Hiêng,

Tạp chíKH-CN Nghệ An

SỐ 5/2015 [59]

XỨ NGHỆ - ĐẤT VÀ NGƯỜI

người tặng mộc bản cho Thư viện)phải bán mất 2 con trâu mộng lớnmới đủ số tiền thực hiện.

Theo lời kể của cụ Phạm Huy thìnghề khắc ván in chữ do cụ PhạmVăn Mậu, quê ở làng Phượng Lịch,xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châutruyền dạy cho cụ Phạm Căn và HàChương. Cụ Mậu thi đậu Tú tài, lấyvợ và ở lại quê vợ làng Đại Phẩm,huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông.Cụ là hội viên Hội Hướng thiện đềnNgọc Sơn, Hoàn Kiếm, Hà Nội và làthành viên của Đông Kinh NghĩaThục. Khi Hội Hướng thiện vàtrường Đông Kinh Nghĩa Thục cóchủ trương phát triển Thiện đàn đã cửcác hội viên trí thức về các làng quêcủa mình để truyền bá cho Hội, xây dựng cácThiện đàn và tổ chức in sách để tuyên truyền,phát triển hội viên. Cụ Phạm Văn Mậu đãtruyền dạy nghề khắc ván in sách cho hai giađình: Cha con Phạm Căn, Phạm Huy và HàCương, Hà Quế ở xã Diễn Hoa, huyện DiễnChâu. Hai gia đình đã phát huy tốt nghề khắcván in và đã khắc rất nhiều bộ Kinh cho cácThiện đàn ở các địa phương xứ Nghệ, như VănThiện Đàn ở Sồng (xã Công Thành, huyện YênThành); Phượng Giang từ đường - Khởi ThiệnĐàn (làng Phượng Lịch); ở Cẩm Bào (xã DiễnTrường, do ông Phó Bạc đặt khắc); ở Đệ NhấtBút Trận (xã Diễn Nguyên, do ông Đoàn Lạcđặt)...

Ngoài ra, ở Nghệ Tĩnh còn có nhiều Thiệnđàn khác còn lưu nhiều mộc bản, kinh sách inván khắc, như Chỉ Thiện Đàn (xã Nam Cát,huyện Nam Đàn); Lạc Thiện Đàn trong Khu lưuniệm Tổng Bí thư Lê Hồng Phong, xã HưngThông, huyện Hưng Nguyên (do họ Lê lập ra);đền - chùa Nậm sơn, Nam Đàn...

Hai cha con cụ Phạm Căn, Phạm Huy đãkhắc hai bộ kinh Cứu sinh thuyền chân kinh vàTrần Đại Vương chính kinh hiện lưu tại KhoHán Nôm, Thư viện tỉnh Nghệ An đã thể hiệnđược tài hoa của nghề khắc ván mộc bản. CụPhạm Huy còn được Đảng và chính quyền tỉnhtrong phong trào yêu nước cách mạng Xô Viết(1930-1931) và kháng chiến chống Pháp mờitham gia khắc các con giấu của Pháp để đóngvào các giấy tờ dùng cho cán bộ hoạt động trong

lòng địch và các loại dấu khác dùng cho chính quyền.Làng Phượng Lịch có các di tích nhà thờ họ Phạm lànơi khắc in các tài liệu cách mạng, Thiện đàn là nơi cấtdấu tài liệu và đình làng là nơi đấu tranh với Pháp. ĐìnhPhượng Lịch đã được xếp hạng là Di tích Lịch sử -Cách mạng Quốc gia.

3. Di sản mộc bản quý hiếmDo nghề khắc ván in mộc bản công phu, có các công

đoạn kỹ thuật yêu cầu tay nghề của người thợ cao,không phải bất cứ ai cũng có thể làm được, việc tổ chứcin sách cũng rất tốn kém, nên chỉ những bộ sách quýcần thiết mới được tổ chức khắc ván in để lưu và sửdụng. Có những bộ sách các tác giả viết xong sau nhiềunăm mới được in và được tổ chức in trong nhiều nămmới hoàn thành. Bộ sách Hải Thượng y tông tâm lĩnhcủa Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-1791)gồm 66 quyển, sau khi viết xong phải 109 năm sau mớiđược tổ chức in (sau khi tác giả đã mất). Bộ sách nàyviết xong năm 1770, đến 1879 mới được ông Vũ XuânHiên và nhà sư Thanh Cao trụ trì ở chùa Đồng Nhân,huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh quyên góptiền tổ chức khắc in và đến năm Hàm Nghi nguyên niên(1885) mới in xong 55 quyển. Bộ sách vẫn còn nhiềuchỗ phải bỏ trống để chờ đính chính và bổ sung sau.Đến nay, bộ mộc bản Hải Thượng y tông tâm lĩnh cũngđã mất, không còn lưu giữ được.

Vốn sách được in mộc bản còn lại đến nay đều rất quýhiếm. Đó là các bộ sử ký của quốc gia, các bộ kinh Phật,các sách về Nho, Y, Lý, Số, kho tư liệu Ngự chế của triềuNguyễn... Vốn di sản mộc bản lại càng quý hơn, do khóbảo quản, dễ hư hỏng, mất mát, nên còn lại đến ngày naylà rất ít, trở thành vốn di sản quý của nhân loại.

Kho mộc bản quý hiếm tại đền Thiện, xóm Tây Lộc, xã Diễn Ngọc, huyện Diễn Châu

Chú thích (*) Tổng hợp về Mộc bản Phúc Giang Thư viện của

Thám Hoa Nguyễn Huy Oánh ở Trường Lưu:1. Bích kinh đại toàn: Tờ cuối cùng 81; Bản 1: 51

tờ = 102 trang, thiếu các trang: 4, 10, 19, 23, 25, 31-42, 44, 48, 52, 53, 58-63, 68-72, 75, 80; Bản 2: 51 tờ.

2. Tịch kinh đại toàn: Tờ cuối cùng 85; Bản 1: 74tờ = 148 trang, thiếu các trang: 2, 5, 7, 15, 37, 39, 55-57, 82; Bản 2: 59 tờ = 118 trang.

3. Lân kinh đại toàn: Tờ cuối cùng 108; Bản 1: 101tờ = 202 trang, thiếu các trang: 9, 10, 14, 16, 17, 22,23, 28, 29, 32, 38, 74, 80; Bản 2: 97 tờ.

4. Hy kinh đại toàn: Tờ cuối cùng 78; Bản 1: 64 tờ= 128 trang, thiếu các trang: 1-9, 13, 14, 19, 27, 33, 48,63, 64, 75-78; Bản 2: 61 tờ.

5. Tình lý đại toàn quyển hạ: Bản 1: 66 tờ = 132trang, thiếu các trang: 16, 17, 20, 29, 33, 44, 45, 59,62, 64; Bản 2: 63 tờ.

6. Tình lý đại toàn quyển thượng: Tờ cuối cùng 87;Bản 1: 68 tờ = 136 trang, thiếu các trang: 1, 4, 7, 8,15, 16, 19, 23, 28, 33, 34, 40, 46-48, 55, 57, 59, 62, 63,68, 71, 73, 75, 77, 78, 84, 86; Bản 2: 66 tờ.

7. Ba kinh đại toàn: Tờ cuối cùng 136; Bản 1: 108tờ = 216 trang, thiếu các trang: 3, 24, 25, 32, 35, 41,44-46, 49-51, 53, 54, 57, 60, 69, 73, 74, 77, 90, 93-95,97-99, 101, 103, 120, 123, 125-127, 130, 132; Bản 2:105 tờ.

8. Bích kinh đại toàn: Tờ cuối cùng 70; Bản 1: 24tờ = 48 trang, thiếu các trang: 1, 2-6, 8, 9, 11, 14, 16-18, 19-30, 32, 35, 37, 39, 43, 45-51, 54-57, 63-57; Bản2: 22 tờ.

9. Lễ kinh đại toàn: Tờ cuối cùng 100; Bản 1: 84tờ = 168 trang, thiếu các trang: 1, 17, 20-22, 30, 31, 40,41, 48, 49, 54-56, 75, 76, 82-84, 88, 92, 93, 95, 98, 99.

10. Thư viện quy lệ: Tờ cuối 6, còn 5 bản, thiếu 1 bản.11. Ngũ kinh toát yếu tự: còn 11 tờ.12. Tử đồ thuyết: có 3 tờ.13. Ngũ kinh toát yếu đại toàn: Trang tên sách.14. Ngũ kinh phàm lệ: 1 tờ.15. Quân phương vị: 1 tờ.16. Chu dịch ngũ tân: 1 tờ.17. Dịch kinh tự thuyết: 1 tờ.18. Dịch kinh cương lĩnh: 2 tờ.19. Dịch kinh đại toàn: 2 tờ.20. Tình lý toản yếu toàn thư: 1 tờ.21. Tình lý toản yếu bạt: 1 tờ.22. Tình lý toát yếu tự: 1 tờ.23. Gia bảo tổng quát: Trang tên sách.24. Tình lý toát yếu đại toàn: Trang tên sách.25. Chưa rõ tên vì mất chữ tên sách: 46 tờ.26. Bản bị hỏng mất đầu đuôi, mất trang...: 35 tờ.Tổng cộng các bản đẹp nguyên vẹn và đã chia =

673 bản.Số bị hỏng và chưa phân loại được, chưa chia = 81

tờ (khoảng 50 bản).

Hiện mộc bản ở Việt Nam đã được vinh danh là disản tài liệu quý hiếm của nhân loại. Di sản loại nàyhiện chỉ có ở một số nơi trong nước ta:

- Kho Mộc bản triều Nguyễn được cất giữ ở CụcLưu trữ Trung ương IV tại Đà Lạt (đã được UNESCOcông nhận là di sản tài liệu của nhân loại).

- Kho Mộc bản của chùa Vĩnh Nghiêm, Bắc Gianggồm 2.000 tấm đã được Chính phủ công nhận là Disản tài liệu Quốc gia đặc biệt và sẽ trình UNESCOcông nhận.

- Kho Phúc Giang Thư viện của Thám hoa NguyễnHuy Oánh (họ Nguyễn Huy), làng Trường Lưu, xãTrường Lộc, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh còn lưu giữ trên370 tấm mộc bản (gồm trên 20 tên sách)(*).

- Tại Nghệ An, hiện cũng có trên 450 tấm mộc bản:Đền và chùa Vân Sơn, xã Vân Diên, thị trấn Nam Đàncòn lưu trên 300 tấm (chưa rõ có bao nhiêu tên sách);Thiện đàn xã Diễn Ngọc, huyện Diễn Châu còn lưugiữ 95 tấm; Thư viện tỉnh Nghệ An có lưu trên 50 tấm(trong đó có 2 tên sách đầy đủ); đền Chỉ Thiện, xãNam Cát, huyện Nam Đàn có 10 tấm khổ lớn...

Vốn di sản Mộc bản của Nghệ An và Hà Tĩnh làkhá lớn và quan trọng. Mộc bản ở Chùa Vĩnh Nghiêmchỉ toàn là sách Kinh Phật, còn ở xứ Nghệ là sách vềgiáo dục, khoa bảng, Kinh Phật, Thần tích, Thiệnkinh. Trong đó, bộ mộc bản Trần Đại Vương chínhkinh viết về Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, đượclấy từ bản gốc ở đền Ngọc Sơn, Hoàn Kiếm, Hà Nội.Bộ mộc bản này gồm 18 tấm, 1 tấm khắc 4 trang cảhai mặt, khổ trang sách (11x20cm). Thư viện tỉnhNghệ An đã tổ chức in ra giấy dó, cụ Bùi Văn Chất -Phó Chủ nhiệm Câu lạc bộ Hán Nôm Nghệ An phiênâm, dịch thuật. Ván khắc và sách in, bản dịch đã đượctrưng bày trong Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - HàNội (năm 2010) tại Văn miếu Quốc tử giám và Thưviện Quốc gia Việt Nam. Mộc bản đền Nậm Sơn cóbộ Thần tích của đền, mà đền này là nơi thờ Mai HắcĐế và các tướng lĩnh của vua Mai, sẽ là nguồn tư liệurất quý cần khai thác tìm hiểu rõ. Mộc bản ở TrườngLưu là 20 tên sách phục vụ cho việc dạy và học tậpcủa Nho sinh xứ Nghệ, là vốn di sản đặc biệt khôngở đâu có được. Hiện Câu lạc bộ Hán Nôm Nghệ Anđã phối hợp với dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu tổchức in ấn, phiên âm số mộc bản trên để ngành Vănhóa - Thể thao - Du lịch Hà Tĩnh thực hiện Đề án Bảotồn, phát huy di sản mộc bản “Phúc Giang Thư viện”làng Trường Lưu, xã Trường Lộc, huyện Can Lộc,tỉnh Hà Tĩnh. Công việc bảo tồn và phát huy vốn disản mộc bản như trên cũng cần thiết được thực hiệnở tỉnh Nghệ An./.

XỨ NGHỆ - ĐẤT VÀ NGƯỜI

[60]SỐ 5/2015KH-CN Nghệ An

Tạp chí