dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · web viewvề...

130
MỘT SỐ ẢNH HƯỞNG CỦA SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TỚI MÔI TRƯỜNG VÀ SINH VẬT Sử dụng phân bón hoá học và hợp chất bảo vệ thực vật là chìa khoá thành công của cuộc cách mạng xanh, trong nền nông nghiệp, công nghiệp hoá (nông nghiệp đầu tư cao) để đảm bảo nhu cầu về lương thực, thực phẩm. Tuy nhiên, những năm gần đây có nhiều dấu hiệu đáng lo ngại do sự ảnh hưởng của phân bón hoá học, hoá chất bảo vệ thực vật đến môi trường và sức khoẻ con người. Vấn đề này không chỉ xảy ra ở các nước phát triển mà nó đang ngày trở lên nghiêm trọng ở các nước đang phát triển. Khi người nông dân áp dụng những công nghệ hiện đại (như giống mới, phân hoá học, hoá chất bảo vệ thực vật (HCBVTV), máy móc, thiết bị tưới tiêu....) Đã nảy sinh rất nhiều vấn đề môi trường: - Gây độc hại cho nguồn nước, cho đất bởi thuốc trừ sâu, N03-, do đó tác động xấu đến sức khoẻ con người, động vật hoang dại và suy thoái các hệ sinh thái. - Gây nhiễm độc lương thực, thực phẩm thức ăn cho gia súc bởi dư lượng thuốc trừ sâu, NO 3 - và chất kích thích sinh trưởng. - Gây xói mòn đất, giảm độ phì của đất do xu hướng sử dụng nhiều phân bón hoá học thay cho phân hữu cơ. - Gây mặn hoá thứ sinh do tưới tiêu không hợp lý. - Gây ô nhiễm không khí do sự khuyếch tán của HCBVTV. - Chặt phá rừng, mở rộng diện tích canh tác gây suy thoái nguồn nước ngầm, làm mất dần và có nguy cơ tuyệt chủng nhiều loài động vật hoang dã. - Xu thế tiêu chuẩn hoá, chuyên canh hoá tập trung vào một số giống cây, con mới đồng nhất về di truyền trong nông nghiệp dẫn đến sự thay thế dần và biến mất những giống loài truyền thống – cơ sở di truyền để cải tạo giống là nguồn gen dự trữ quan trọng trong tương lai. 1. Ô nhiễm môi trường từ phân bón hoá học: Nitrat (N0 3 - ) là yếu cần thiết cho sinh trưởng và phát triển của

Upload: others

Post on 10-Jan-2020

0 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

MỘT SỐ ẢNH HƯỞNG CỦA SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP

TỚI MÔI TRƯỜNG VÀ SINH VẬT

Sử dụng phân bón hoá học và hợp chất bảo vệ thực vật là chìa khoá thành công của cuộc cách mạng xanh,

trong nền nông nghiệp, công nghiệp hoá (nông nghiệp đầu tư cao) để đảm bảo nhu cầu về lương thực, thực phẩm.

Tuy nhiên, những năm gần đây có nhiều dấu hiệu đáng lo ngại do sự ảnh hưởng của phân bón hoá học, hoá chất

bảo vệ thực vật đến môi trường và sức khoẻ con người. Vấn đề này không chỉ xảy ra ở các nước phát triển mà nó

đang ngày trở lên nghiêm trọng ở các nước đang phát triển. Khi người nông dân áp dụng những công nghệ hiện

đại (như giống mới, phân hoá học, hoá chất bảo vệ thực vật (HCBVTV), máy móc, thiết bị tưới tiêu....) Đã nảy

sinh rất nhiều vấn đề môi trường:

- Gây độc hại cho nguồn nước, cho đất bởi thuốc trừ sâu, N03-, do đó tác động xấu đến sức khoẻ con người,

động vật hoang dại và suy thoái các hệ sinh thái.

- Gây nhiễm độc lương thực, thực phẩm thức ăn cho gia súc bởi dư lượng thuốc trừ sâu, NO3- và chất kích

thích sinh trưởng.

- Gây xói mòn đất, giảm độ phì của đất do xu hướng sử dụng nhiều phân bón hoá học thay cho phân hữu

cơ.

- Gây mặn hoá thứ sinh do tưới tiêu không hợp lý.

- Gây ô nhiễm không khí do sự khuyếch tán của HCBVTV.

- Chặt phá rừng, mở rộng diện tích canh tác gây suy thoái nguồn nước ngầm, làm mất dần và có nguy cơ

tuyệt chủng nhiều loài động vật hoang dã.

- Xu thế tiêu chuẩn hoá, chuyên canh hoá tập trung vào một số giống cây, con mới đồng nhất về di truyền

trong nông nghiệp dẫn đến sự thay thế dần và biến mất những giống loài truyền thống – cơ sở di truyền để cải tạo

giống là nguồn gen dự trữ quan trọng trong tương lai.

1. Ô nhiễm môi trường từ phân bón hoá học:

Nitrat (N03-) là yếu cần thiết cho sinh trưởng và phát triển của nhiều loài cây trồng, đồng thời nó cũng

được xem là mối đe doạ cho sức khoẻ con người và tính trong sạch của các nguồn nước tự nhiên. Tính trung bình,

khi bón phân đạm vào đất thực vật chỉ hấp thụ được khoảng 50 - 60%, số còn lại đi vào các nguồn khác.

Mặc dù thực vật rất cần nitơ nhưng ion NO3- gần như không bị đất hấp thụ và luôn tồn tại ở dạng linh động

dễ bị rửa trôi vào các nguồn nước. Một nghiên cứu vào năm 1972 ở Anh cho thấy có hiện tượng phú dưỡng ở cả

18 con sông nghiên cứu. Nhiều kết quả nghiên cứu bằng phương pháp nguyên tử đánh dấu đã khẳng định N-NH4

tronh nước có nguồn gốc từ nitơ bón vào đất. Như vậy nguồn gốc N03- trong nước là do phân bón vô cơ và hữu cơ

đậc biệt khi người nông dân bón không đúng lúc, bón thúc vào thời kỳ cây không cần và bón không đều.

Ô nhiễm nỉtat không phải là vấn đề mới, cách đây hàng trăm năm người ta đã ghi nhận nồng độ coa của nó

trong các giếng nước ăn nhưng phát hiện mới nhất là NO3- liên quan tới sức khoẻ cộng đồng thể hiện qua 2 loại

bệnh:

- Methaemoglobinaemia: Trè xanh ở trẻ sơ sinh.

Page 2: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

- Ung thư dạ dày ở người lớn.

Thực ra NO3- không độc, nhưng khi nó bị khử thành nỉtit(NO2-) trong cơ thể nó trở nên rất độc. NO3-

trong dạ dày bị các vi khuẩn khử thành NO2- và sâm nhập vào máu, nó phản ứng với haemoblobin chứa Fe2+

( đây là phân tử có chức năng vận chuyển O2 đi khắp cơ thể) tạo ra methaemoglobinaemia chứa Fe3+ có rất ít

năng lực vận chuyển O2 và trẻ sơ sinh rất mẫn cảm với bệnh này do trong dạ dày của chungs không đủ axit để

ngăn cản các vi khuẩn biến đổi NO3- thành NO2-.

Ung thư dạ dày cũng là bệnh liên quan tới hàm lượng NO3trong nước và do quá trình biến đổi từ NO3-

thành NO2 phản ứng với một loại amin thứ sinh xuất hiện khi phân huỷ mỡ hoặc prôtêin ở bên trong dạ dày tạo ra

hợp chất N – nitroso( chất gây ung thư). Vì tính chất nguy hiểm của NO3 đối với sức khoẻ cộng đồng nên châu Âu

qui định mức chuẩn cho nước uống là 50g NO3 -/m3, giá trị tối ưu không quá 25g NO3/m3.

2. Ô nhiễm môi trường do HCBVTV:

Việc sử dụng HCBVTV trong nông nghiệp đã làm nảy sinh nhiều vấn đề môi trường. Định hướng của

thuốc trừ sâu là diệt sâu hại, nhưng diễn biến thực tế của lại ảnh hưởng độc tới đất, nước, không khí, đại dương và

các sản phẩm nông nghiệp, động vật sức khoẻ con người đặc biệt những dư lượng của những chất do tính độc cao

như chlordane, DDT, picloram, zimazine...

Một đặc tính quan trọng của HCBVTV trong hệ sinh thái là tính khuyếch đại sinh học. Từ nồng độ sử

dụng nhỏ, sau khi vào hệ sinh thái thông qua chuỗi lưới thức ăn chất độc được tích luỹ với nồng độ cao dần qua

các bậc dinh dưỡng. Hầu hết các loại HCBVTV đều độc đối với người và động vật máu nóng, tuy nhiên mức độ

gây độc của mỗi loại thuốc có khác nhau, có loại thuốc gây độc cấp tính, có loại thuố có tính tích luỹ lâu trong cơ

thể sống, bền vững trong môi trường. Các kết quả nghiên cứu cho thấy có đến 90% HCBVTV không đạt mục đích

mà gây nhiễm độc đất, nước, nông sản. Việc sử dụng lặp lại nhiều lần cùng một loại thuốc ở nhiều nước đang phát

triển do được bao cấp, trợ giá dẫn đến hiện tượng quen thuốc buộc phải sử dụng các chủng loại HCBVTV khác có

độc tính cao hơn và càng xúc tiến rủi ro về môi trường cũng như nghề nghiệp.

Theo kết quả báo cáo của viện bảo vệ thực vật năm 1999, hiện nay trên thị trường Việt Nam có 270 loại

thuốc diệt côn trùng, 216 loại thuốc diệt nấm, 160 loại thuốc diệt cỏ, 12 loại thuốc diệt gậm nhấm và 26 loại thuốc

kích thích sinh trưởng. Điều đáng là 60% tổng số hoá chất trên được sử dụng phun cho rau quả mà phần lớn nông

dân lại không hiểu đầy đủ về tác dụng, tính năng của mỗi loại thuốc cho nên họ thường phun sai chủng loại, liều

lượng cũng như thời gian cho phép.

Ví dụ trung bình từ 1 đến 3 ngày họ lại phun thuốc kích thích tăng trưởng và thuốc trừ sâu cho dưa chuột

và đậu. Năm 1990 lượng HCBVTV được sử dụng là 10.300 tấn đến năm 1998 đã tăng lên 33.000 tấn. Rất nhiều vụ

ngộ độc do HCBVTV gây ra ở các quy mô và mức độ khác nhau. Để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do

HCBVTV nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đã chú ý đến việc quản lý sâu hại tổng hợp( IPM ) để

kìm dữ sâu bệnh ở mức chấp nhận được. IPM bao gồm việc sử dụng thuốc trừ sâu một cách có chọn lọc và dựa

trên việc áp dụng các biện pháp sinh học, tính đề kháng di truyền và thực tiễn quản lý thích hợp./.

ô nhiễm đất

Page 3: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Đất được hình thành từ đá qua quá trình phong hoá. Khi sự sống trên trái đất chưa xuất hiện, thì vòng đại

tuần hoàn địa chất là quá trình phong hoá đá đã dần dần hình thành phần không sống của hệ sinh thái đất (các chất

khoáng, các dạng nước, các chất khí) gọi là mẫu chất tạo tiền đề cho sinh vật phát triển. Kể từ khi có những sinh

vật đơn bào đầu tiên xuất hiện trên mẫu chất là lúc xuất hiện một vòng tuần hoàn mới – vòng tiểu tuần hoàn sinh

học.

Như vậy tự bản thân môi trường đất đã có cấu trúc, chức năng như là một hệ sinh thái, một mẫu hình của

hệ thống mở. Tuy nhiên sự tự điều chỉnh của hệ sinh thái đất có một giới hạn nhất định. Nếu sự thay đổi vượt quá

giới hạn này, hệ sinh thái đất sẽ mất khả năng tự điều chỉnh và hậu quả là đất bị ô nhiễm và thoái hoá. Sự ô nhiễm

môi trường đất là hậu quả của các hoạt động của con người, làm thay đổi các nhân tố sinh thái quá ngưỡng của các

quần xã sống trong đất. Muốn kiểm soát được ô nhiễm môi trường đất cần phải biết giới hạn sinh thái của các quần

xã sống trong đất đối với từng nhân tố sinh thái. Xử lý ô nhiễm tức là điều chỉnh và đưa các nhân tố sinh thái trở

về giới hạn sinh thái của quần xã sinh vật đất. Đây là nguyên lý sinh thái cơ bản được vận dụng vào việc sử dụng

hợp lý tài nguyên đất và bảo vệ môi trường. Bản chất của sự xác lập cân bằng là quá trình tự điều chỉnh năng

lượng và vật chất giữa 3 loại sinh vật: sinh vật sản xuất, sinh vật tiêu thụ và sinh vật phân huỷ. Thông thường tính

đa dạng sinh học của hệ sinh thái đất cao hơn so với hệ sinh thái nước, không khí nên khả năng tự lập lại cân bằng

của nó cũng cao hơn.

I. Khái niệm :

Sự ô nhiễm môi trường đất là do hậu quả các hoạt động cuả con người làm thay đổi các nhân tố sinh thái quá

ngưỡng sinh thái của những quần xã sinh vật sống trong đất.

II. Nguyên nhân :

Bình thường hệ sinh thái đất luôn tồn tại ở trạng thái cân bằng. Khi có mặt một số chất mà hàm lượng của

chúng vựot quá ngưỡng cho phép thì hệ sinh thái đất sẽ mất cân bằng, môi trường đất bị ô nhiễm và thoái hoá. Có

nhiều nguyên nhân gây ô nhiễm đất trong đó có một số nguyên nhân chính gây ô nhiễm đất ở Việt Nam là:

1. áp lực tăng dân số đòi hỏi nhu cầu lương thực, thực phẩm ngày càng tăng và phải đẩy mạnh khai thác độ phì

nhiêu của đất bằng cách:

- Tăng cường sử dụng hoá chất như phân vô cơ, thuốc trừ sâu diệt cỏ…vv.

- Sử dụng chất kích thích sinh trưởng làm giảm thất thoát và tạo thuận lợi cho thu hoạch.

- Mở rộng các hệ thống tưới tiêu.

2. Việc đẩy mạnh công nghiệp hoá và đô thị hoá không có kế hoạch quản lý môi trường đã làm ô nhiễm nặng nề

các vùng ven đô thị và khu công nghiệp. Các tác nhân chính gây ô nhiễm đất ở đây là không khí ô nhiễm, nước

thải, chất thải rắn của các cơ sở trên.

Page 4: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

3. Do hậu quả chiến tranh (thuốc diệt cỏ do Mỹ sử dụng ở miền Nam Việt Nam) đã gây ảnh hưởng lâu dài đến con

người, tự nhiên trên những vùng đất rộng lớn.

Như vậy nguyên nhân chính gây ô nhiễm đất ở Việt Nam là sử dụng không hợp lý phân bón, hoá chất bảo vệ

thực vật, chất kích sinh trưởng, chất thải không qua xử lý của các khu dân cư, đô thị và các khu công nghiệp, chất

độc trong chiến tranh…vv, gây ô nhiễm khá nghiêm trọng ở một số nơi. Tuy nhiên về quy mô vùng bị ô nhiễm

không lớn, chỉ xẩy ra ở ven một số thành phố lớn, khu công nghiệp làng nghề truyền thống không có công nghệ xử

lý chất thải độc hại và những vùng chuyên canh, thâm canh sử dụng phân bón, hoá chất bảo vệ thực vật không hơp

lý, không có sự quản lý chặt chẽ.

II. Các tác nhân gây ô nhiễm môi trường đất:

1. Tác nhân hoá học:

Loại ô nhiễm này được gây ra do một số nguồn: Chất thải công nghiệp, giao thông, chất thải sinh hoạt, đặc

biệt là việc sử dụng phân hoá học, hoá chất bảo vệ thực vật, các chất kích thích sinh trưởng…làm cho đất bị ô

nhiễm kim loại nặng, Nitơrát…ở Việt Nam ô nhiễm đất bởi kim koại nặng nhìn chung không phổ biến tuy nhiên

nhiều trường hợp cục bộ gần khu công nghiệp, đặc biệt ở các làng nghề tình trạng ô nhiễm kim loại nặng đang

diễn ra khá trầm trọng.

Bảng 1: Hàm lượng Pb trong bùn và trong đất tại xã Chỉ Đạo, Mỹ Văn, Hưng Yên. ( Nguồn: Lê Văn

Khoa-2002).

stt mẫu nghiên cứu hàm kượng chì (ppm)

1

2

3

4

Mẫu bùn trong ao chứa nước thải phá ắc quy

Mẫu đất lúa gần nơi nấu chì

Mẫu đất giữa cánh đồng

Mẫu đất gần làng

2166.0

387.6

125.4

2911.4

Hàm lượng chì lớn hơn 100 ppm được đánh giá là đất bị ô nhiễm.

2. Ô nhiễm đất do tác nhân vật lý:

a. Ô nhiễm nhiệt:

Khi nhiệt độ trong đất tăng sẽ gây ra những ảnh hưởng lớn đến khu hệ vi sinh vật đất phân giải chất hữu cơ

và nhiều trường hợp làm đất chai cứng, mất dinh dưỡng. Nhiệt độ trong đất tăng, dẫn đến hàm lượng mất O2 giảm

gây mất cân bằng và quá trình phân huỷ các chất hữu cơ sẽ diễn ra theo kiểu hô hấp kỵ khí, tạo ra nhiều sản phẩm

trung gian có mùi khó chịu và độc cho cây trồng, động vật như: NH3, H2S, CH4 và Alđêhyt.... Nguồn gây ô

Page 5: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

nhiễm nhiệt là do sự thải bỏ nước làm mát các thiết bị của các nhà máy. Nước này có thể làm nhiệt độ của đất tăng

từ 5- 150C gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đất. Ngoài ra nguồn ô nhiễm nhiệt còn do những đám cháy rừng,

phát nương đốt rẫy trong du canh làm nhiệt độ đất tăng đột ngột từ 15- 300C huỷ diệt nhiều sinh vật có ích trong

đất, đất trở nên chai cứng.

b. Ô nhiễm do các chất phóng xạ:

Do phế thải của những trung tâm khai thác các chất phóng xạ, trung tâm nghiên cứu nguyên tử, nhà máy điện

nguyên tử, các bệnh viện và những vụ thử vũ khí hạt nhân. Các chất phóng xạ thâm nhập vào đất, theo chu trình

dinh dưỡng tới cây trồng, động vật và con người. Sau mỗi vụ thử vũ khí hạt nhân chất phóng xạ trong đất tăng

lên10 lần và khi đi vào sinh vật nó cũng có hiện tượng khuyếch đại sinh học. Các chất phóng xạ (Sn90,I131Cs137)

xâm nhập vào cơ thể con người làm thay đổi cấu trúc tế bào, gây ra các bệnh di truyền, bệnh về máu, ung thư…

3. Ô nhiễm đất do tác nhân sinh học:

Do các phương pháp đổ bỏ chất thải mất vệ sinh, sử dụng phân bắc tươi, bùn ao tươi, bùn kênh dẫn chất thải

sinh hoạt bón trực tiếp vào đất. Hiện nay các vùng nông thôn miền Bắc Việt Nam tập quán sử dụng phân bắc và

phân chuồng tươi trong canh tác vẫn còn phổ biến. Chỉ tính riêng trong nội thành Hà Nội, hàng năm lượng phân

bắc thải ra khoảng 550.000 tấn và chỉ khoảng 1/3 số đó được xử lý. ở các vùng nông thôn phía Nam đặc biệt vùng

đồng bằng sông Cửu Long, phân tươi được coi là nguồn thức ăn cho cá. Tập quán sử dụng phân tươi, nước thải

bón, tưới trực tiếp cho đất đã gây ô nhiễm sinh học nghiêm trọng cho môi trường đất, không khí, nước, ảnh hưởng

đến sức khoẻ con người.

Bảng 2: Số lượng các loại vi trùng và trứng giun

đối tượng nghiên cứu vi trùng E-

Coli trong 100

gam đất

số trứng giun trong 50g phân hoặc

trong 1000ml nước

giun đũa giun tóc

1

2

3

4

5

6

7

8

Phân bắc tươi trộn tro bếp

Phân bắc đã ủ 2 tháng

Đất vừa tưới phân bắc

Đất tưới phân bắc sau 20 ngày

Đất vừa tưới phân tươi

Đất chỉ dùng phân hoá học

Nước mương khu trồng rau tưới phân bắc

Nước giếng khu trồng rau tưới phân bắc

107

105

105

105

105

102

450

20

31

12

22

13

5

3

3

7

16

7

10

5

1

( Nguồn: Trần Khắc Thi, 1996)

Page 6: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

IV. Biện pháp kiểm soát ô nhiễm đất.

Làm sạch cơ bản:

Mục đích chính là phòng ngừa sự nhiễm trùng đất có nguồn gốc từ phân, nước thải sinh hoạt, nước thải bệnh

viện.... Các ngồn này phải được sử lý trước khi thải ra môi trường để tránh làm nhiễm bẩn nước ngầm hoặc nước

bề mặt.

*Khử chất thải rắn: rác gia đình, phế liệu xây dựng, phế liệu công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp... đây là

môi trường thuận lợi cho ruồi, muỗi, các loài gặm nhấm phát triển. Ngoài ra chúng còn góp phần làm ô nhiễm môi

trường đất, nước, không khí... làm tổn hại đến chất lượng môi trường xung quanh. Các thiết bị xử lý thường dùng

một hay nhiều những kỹ thuật như: lựa chọn, đốt cháy, trộn phân, phun, nghiền, làm đặc.... ở các nước công

nghiệp phát triển, nhiều khu vực đất đai bị ô nhiễm nặng, người ta sử dụng các hệ thống cơ hoá lý nhằm ngăn ngừa

sự chuyển động của các chất gây ô nhiễm do rửa trôi, hoạt động mao quản và di chuyển khí.

Các hệ thống nhằm ngăn chặn sự chuyển động của các chất gây ô nhiễm do rửa trôi, hoạt động mao quản

và di chuyển khí:

Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững

Lĩnh vực kinh tế:

+ Giảm đều mức tiêu phí năng lượng và những tài nguyên khác thông qua các công nghệ mới và qua thay đổi lối

sống.

+ Thay đổi các hình thức tiêu thụ ảnh hưởng đến đa dạng sinh học của các nước khác.

+ Giảm hàng rào nhập khẩu hay chính sách bảo hộ mậu dịch làm hạn chế thị trường cho các sản phẩm của

những nước nghèo.

+ Sử dụng tài nguyên nhân văn, kỹ thuật và tài chính để phát triển công nghệ sạch và sử dụng ít tài nguyên

thiên nhiên.

+ Làm cho mọi người tiếp cận tài nguyên một cách bình đẳng.

+ Giảm chênh lệch về thu nhập và tiếp cận y tế.

+ Chuyển tiền từ chi phí quân sự và an ninh cho những yêu cầu phát triển.

+ Dùng tài nguyên cho việc cải thiện mức sống thường xuyên.

+ Loại bỏ nghèo nàn tuyệt đối.

+ Cải thiện việc tiếp cận ruộng đất, giáo dục và các dịch vụ xã hội.

+ Thiết lập một ngành công nghiệp có hiệu suất cao để tạo công ăn việc làm và sản xuất hàng hoá cho

thương mại và tiêu thụ.

Lĩnh vực nhân văn:

+ Ổn định dân số.

+ Giảm di cư đến các thành phố qua chương trình phát triển nông thôn,

Page 7: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

+ Xây dựng những biện pháp mang tính chất chính sách và kĩ thuật để giảm nhẹ hậu quả môi trường cuả đô

thị hoá.

+ Nâng cao tỷ lệ biết chữ.

+ Người dân tiếp cận dễ dàng hơn với dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu.

+ Cải thiện phúc lợi xã hội, bảo vệ tính đa dạng văn hoá và đầu tư vào vốn con người.

+ Đầu tư vào sức khoẻ và giáo dục của phụ nữ.

+ Khuyến khích sự tham gia vào những quá trình làm quyết định.

Lĩnh vực môi trường:

+ Sử dụng có hiệu quả hơn đất canh tác và cung cấp nước.

+ Cải thiện canh tác nông nghiệp và kĩ thuật để nâng cao sản lượng.

+ Tránh sử dụng quá mức phân hoá học và thuốc trừ sâu.

+ Bảo vệ nguồn nước bằng cách chấm dứt việc sử dụng nước lãng phí và nâng cao hiệu suất của các hệ thống

nước.

+ Cải thiện chất lượng nước và hạn chế rút nước bề mặt.

+ Bảo vệ đa dạng sinh học bằng cách làm chậm lại đáng kể và nếu có thể thì chặn đứng sự tuyệt diệt của các loài,

sự huỷ hoại nơi ở cũng như các hệ sinh thái.

+ Hạn chế tình trạng không ổn định của khí hậu, sự huỷ hoại tầng ozon do hoạt động của con người.

+ Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên cần thiết cho hoạt động sản xuất lương thực và chất đốt trong khi phải mở

rộng sản xuất để đáp ứng nhu cầu của tăng dân số.

+ Sử dụng nước tưới một cách thận trọng.

+ Tránh mở đất nông nghiệp trên đất dốc hoặc đất bạc màu.

+ Làm chậm hoặc chặn đứng sự huỷ hoại rừng nhiệt đới, hệ sinh thái san hô, rừng ngập mặn ven biển,

những vùng đất ngập nước và các nơi ở độc đáo khác để bảo vệ tính đa dạng sinh học.

Lĩnh vực kĩ thuật:

+ Chuyển dịch sang nền kĩ thuật sạch và có hiệu suất hơn, giảm tiêu thụ năng lượng và những tài nguyên thiên

nhiên khác để không làm ô nhiễm không khí, đất và nước.

+ Giảm phát thải CO2, giảm tỷ lệ khí nhà kính trên phạm vi toàn cầu nhằm hạn chế hiệu ứng nhà kính.

+ Cùng với thời gian phải giảm đáng kể sử dụng nhiên liệu hoá thạch và tìm ra những nguồn năng lượng

mới.

+ Loại bỏ sử dụng CFCs để tránh làm thương tổn đến tầng ozon bảo vệ trái đất.

+ Bảo tồn những kĩ thuật truyền thống với ít chất thải và chất ô nhiễm, những kĩ thuật tái chế chất thải phù

hợp với hoặc hỗ trợ các hệ tự nhiên.

+ Nhanh chóng ứng dụng những kĩ thuật đã được cải tiến cũng như những quy chế của chính phủ đã được

cải thiện và thực hiện những quy chế đó.

Page 8: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Phát triển bền vững được xem là một quá trình đòi hỏi đồng thời cả 4 lĩnh vực: kinh tế, nhân văn, môi

trường và kĩ thuật. Tuy nhiên thực hiện phát triển bền vững không giống nhau ở mỗi nước, tuỳ thuộc vào lịch sử,

chính quyền, thể chế chính trị, tài nguyên thiên nhiên.... Ví dụ ở vùng phụ cận Sahara, Châu Phi phát triển bền

vững có thể là cải thiện điều kiện nhân văn bằng cách nâng cao sức khoẻ và giáo dục cho người dân trong khi

Châu Âu lại có thể là hạn chế phát thải huỷ hoại tầng ozon, các khí nhà kính và gây ra mưa axit.... Trước khi bắt

đầu xác lập mục tiêu cho phát triển bền vững mỗi vùng, mỗi quốc gia, mỗi khu vực phải xác định được hiện mình

đang ở đâu.

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

Cũng như nhiều nước đang phát triển khác trên thế giới có thu nhập thấp với dân số đông, Việt nam đang đối đầu

với những vấn đề gay cấn do tài nguyên thiên nhiên bị xuống cấp và sự sa sút của chất lượng môi trường. Sau ba

mươi năm chiến tranh ác liệt, nhân dân và chính phủ Việt nam đã cố gắng nhiều để phát triển kinh tế, đồng thời

bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Chiến lược quốc gia về Môi trường và phát triển bền

vững đã được phác ra từ năm 1985, sau đó đã đề ra Chương trình hành động Quốc gia về Môi trường và Phát triển

bền vững, và đã được thực hiện từng mặt. Dựa trên Chương trình quốc gia, nhiều hoạt động đã được thực thi trên

phạm vi cả nước về các mặt pháp chế, công tác quản lý, giáo dục, nghiên cứu và thực nghiệm.

Sự chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang một nền kinh tế hướng theo thị trường đã đẩy nhanh

sự tăng trưởng kinh tế. Việc giải phóng sức sản xuất nông nghiệp, công nghiệp cũng như việc phát triển nền kinh

tế dịch vụ, việc mở cửa cho đầu tư nước ngoài và việc đẩy mạnh xuất khẩu và tham gia vào nền thương mại khu

vực và quốc tế, đã tạo nên thành tựu lớn về kinh tế và xã hội cho nhân dân ta, nền kinh tế tăng trưởng tương đối

nhanh, nhưng đồng thời nước ta cũng đang phải đối đầu với một số vấn đề gay cấn trong khi thực hiện mục tiêu

phát triển của mình là vấn đề môi trường. Các gay cấn đó về môi trường đặc biệt khó giải quyết, vì sự tăng trưởng

kinh tế và việc bảo vệ môi trường cho ngày nay và cho thế hệ mai sau, thường mâu thuẫn trực tiếp với nhau.

Hiện nay có nhiều vấn đề về môi trường mà Việt Nam đang phải đối đầu, trong đó những vấn đề nghiêm trọng

nhất là nạn phá rừng , sự khai thác quá mức tài nguyên sinh học, sự xuống cấp của tài nguyên đất, việc bảo tồn

nguồn nước ngọt kém hiệu quả, nạn thiếu nước ngọt và nạn ô nhiễm gia tăng, đó là chưa kể đến tác động lâu dài

của chiến tranh đến môi trường. Những vấn đề rắc rối nói trên đang ngày càng trầm trọng hơn do dân số tăng

nhanh và nạn đói nghèo còn chưa giải quyết được một cách cơ bản.

Bởi vậy điều cần thiết là phải đón trước những vấn đề về môi trường không thể tránh khỏi mà công cuộc phát triển

sẽ đem lại và phải có những biện pháp đề phòng để giảm nhẹ hậu quả bằng cách thực hiện một chiến lược môi

trường phù hợp với phát triển bền vững, thông qua việc sử dụng bền vững các tài nguyên thiên nhiên và lôi cuốn

được đại bộ phận nhân dân vào quá trình đó.

Công việc hợp tác với các nước phát triển và đang phát triển, nhất là các nước láng giềng là điều quan trọng, tạo sự

hỗ trợ mạnh mẽ về kinh nghiệm để giúp Việt Nam đối phó được thử thách về vấn đề môi trường trước tình hình

thay đổi nhanh chóng về kinh tế. Sau đây là những vấn đề cấp bách về môi trường cần được quan tâm đúng mức.

Page 9: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

I- Hiện trạng tài nguyên và môi trường

1- Sự giảm sút độ che phủ và chất lượng rừng là một vấn đề quan trọng

Rừng là nguồn tài nguyên sinh vật quý giá nhất của đất nước ta. Rừng không những là cơ sở phát triển

kinh tế xã hội mà còn giữ chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng. Rừng tham gia vào quá trình điều hoà khí hậu,

đảm bảo sự chu chuyển ô xy cà các nguyên tố cơ bản khác trên hành tinh chúng ta, duy trì tính ổn định và độ màu

mỡ của đất, hạn chế lũ lụt, hạn hán, ngăn chặn xói mòn đất và bờ biển, sụt lở đất đá, làm giảm nhẹ sức tàn phá

khốc liệt của các thiên tai, của sự biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn, bảo tồn nguồn nước mặt và nước ngầm, làm

giảm mức ô nhiễm không khí và nước .

Qua quá trình phát triển, độ che phủ của rừng ở Việt Nam đã giảm sút đến mức báo động. Chất lượng của rừng ở

các vùng còn rừng đã bị hạ thấp quá mức. Đất nước Việt Nam trải dài trên nhiều vĩ tuyến và độ cao, với địa hình

rất đa dạng, hơn 3/4 lãnh thổ là đồi núi, lại có khí hậu thay đổi từ điều kiện nhiệt đới ẩm phía Nam, đến điều kiện

ôn hòa ở vùng cao phía Bắc, đã tạo nên sự đa dạng về hệ sinh thái tự nhiên và sự phong phú về các lòai sinh vật

rừng. Những hệ sinh thái đó bao gồm nhiều lọai rừng như rừng ngập mặn, rừng tràm, rừng ngập nước ngọt, rừng

cây lá rộng đai thấp, rừng cây lá rộng nửa rụng lá, rừng rụng lá, rừng trên núi đá vôi, rừng hỗn giao lá rộng và lá

kim, rừng lá kim, rừng đai núi cao, rừng tre nứa v.v...

Trước đây tòan bộ đất nước Việt nam có rừng che phủ, nhưng chỉ mới mấy thập kỷ qua, rừng bị suy thóai nặng nề.

Diện tích rừng tòan quốc đã giảm xuống từ chỗ năm 1943 chiếm khoảng 43% thì đến năm 1990 chỉ còn 28,4%

tổng diện tích đất nước. Trong mấy năm qua diện tích rừng có chiều hướng tăng lên, 28,8% năm 1998 và năm

2000 theo số liệu thống kê mới nhất thì độ che phủ rừng toàn quốc lên đến là 33,2% (Niên giám Thống kê năm

2000) trong đó:

1- Kontum 63,7% 2- Lâm đồng 63,3% 3- Đắc Lắc 52,0%

4- Tuyên Quang 50,6% 5- Bắc Cạn 48,4% 6- Gia Lai 48,0%

7- Thái Nguyên 39,4% 8- Yên Bái 37,6% 9- Quảng Ninh 37,6%

10-Hà Giang 36,0% 11- Hoà Bình 35,8% 12- Phú Thọ 32,7%

13-Cao Bằng 31,2% 14- Lào Cai 29,8% 15- Lạng Sơn 29,3%

16-Lai Châu 28,7% 17- Bắc Giang 25,6% 18- Bình Phước 24,0%

19- Sơn La 22,0%.

Trên thực tế rừng tự nhiên vẫn còn bị xâm hại, và chỉ còn khoảng 10% là rừng nguyên thủy. Miền Bắc Việt Nam

đã chứng kiến sự sa sút lớn nhất về độ che phủ của rừng, giảm từ 95% rừng nguyên thuỷ đến 17% trong vòng 48

năm. Ở nhiều tỉnh miền núi, độ che phủ rừng tự nhiên, nhất là rừng già còn lại rất thấp, thí dụ ở Lai Châu chỉ còn

7,88%; ở Sơn La 11,95%; và ở Lao Cai 5,38%. Từ năm 1995 đến năm 1999 ở 4 tỉnh Tây Nguyên đã có hơn

18.500 ha rừng bị khai phá (Cục kiểm lâm, 1999). Diện tích rừng tự nhiên ở đây hiện nay vẫn liên tục giảm, khai

Page 10: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

thác vẫn vượt quá mức quy định, khái thác bất hợp pháp chưa ngăn chặn được. Rừng trồng không đạt chỉ tiêu.

Khuynh hướng suy giảm tài nguyên còn tiếp diễn (Báo các tổng kết chương trình “Sử dụng hợp lý Tài nguyên và

Bảo vệ Môi trường” Mã số KHCN 07 , tháng 12 năm 2001).

Theo đề tài KHCN 07-05 “ Nghiên cứu biến động môi trường do thực hiện qui hoạch phát triển kinh tế xã hội và

khai thác , sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên Tây Nguyên giai đoạn 1996-2010” thì từ năm 1996 đến năm

2000, ở các tỉnh Tây Nguyên trung bình mỗi năm diện tích rừng tự nhiên mất 10.000 ha (hơn cả diện tích rừng mất

đi trung bình hàng năm của kế hoạch 5 năm trước đó). Số liệu này có lẽ còn thấp hơn thực tế nhiều vì có nhiều nơi

rừng bị phá mà chính quyền không hề biết. Các xí nghiệp thực hiện việc khai thác gỗ theo chỉ tiêu pháp lệnh

thường làm vượt quá chỉ tiêu cho phép và không theo đúng thiết kế được duyệt. Từ năm 1996-1999 các tỉnh Tây

Nguyên đã khai thác vượt kế hoạch 31%. Trong lúc đó chỉ tiêu trồng vốn đã đặt thấp nhưng triển khai thực tế lại

đạt rất thấp và việc chăm sóc lại kém. Cho đến hết năm 1999 việc trồng rừng trong 4 năm chỉ mới đạt được 36%

số diện tích cần trồng trong 5 năm. Sự suy giảm về độ che phủ rừng ở các vùng này là do dân số tăng đã tạo nhu

cầu lớn về lâm sản và đất trồng trọt. Kết quả đã dẫn tới việc biến nhiều vùng rừng thành vùng đất hoang cằn cỗi.

Trong 10 năm qua, đất nông nghiệp tại Tây Nguyên tăng lên rất nhanh, từ 8,0% năm 1991 lên đến 22,6% năm 2000

(454,3 nghìn ha so với 1.233,6 nghìn ha, gấp 2,7 lần), trong lúc đó đất lâm nghiểp giảm từ 59,2% xuống còn 54,9%

đất tự nhiên (3,329 triệu ha so với 2,993 triệu ha), giảm 11%. So sánh trong cả nước thì trong vòng 10 năm qua Tây

Nguyên là vùng mà rừng bị giảm sút với mức độ đáng lo ngại nhất, nhất là ở Đắc Lắc. Sự suy giảm về độ che phủ

rừng ở các vùng này là do dân số tăng nhanh, nhất là dân di cư tự do, đã tạo nhu cầu lớn về lâm sản và đất trồng trọt.

Kết quả đã dẫn đến việc biến nhiều vùng có hệ sinh thái rừng tốt tươi, ổn định thành vùng mà hệ sinh thái bị đảo lộn,

mất cân bằng, dẫn đến lũ lụt, sụt lở đất, hạn hán và có nhiều khả năng thiếu nước trong mùa khô, kể cả nguồn nước

ngầm.

Trong giai đoạn từ 1990 đến nay, chiều hướng biến chuyển rừng cơ bản vẫn ở tình trạng suy thoái, còn xa mức ổn

định và đạt được hiệu quả bảo vệ môi trường. Một số diện tích rừng thứ sinh tự nhiên được phục hồi, nhưng nhiều

diện tích rừng già và rừng trồng chưa đến tuổi thành thục đã bị xâm hại, đốn chặt, "khai hoang". Từ năm 1999 đến

nay, cháy rừng đã được hạn chế mạnh mẽ và việc khai thác gỗ, săn bắt động vật hoang dã trái phép đã kiểm soát

được một phần. Tuy nhiên tình trạng mất rừng và săn bắt động vật hoang dã vẫn ở mức độ nghiêm trọng. Rừng

phòng hộ đầu nguồn trên lưu vực những con sông lớn ở nước ta vẫn đang bị phá hại, độ che phủ hiện nay chỉ còn

khoảng dưới 20% mà mức báo động là 30% (Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam năm 2000). Tuy diện tích

trồng rừng vẫn tăng lên hàng năm, nhưng với số lượng rất khiêm tốn, mà phần lớn rừng đựơc trồng lại với mục

đích kinh tế, sản xuất cây lấy gỗ ngắn ngày, chưa ưu tiên trồng rừng tại các khu vực đầu nguồn. Rừng phòng hộ ở

vùng hồ Hoà Bình đang ở mức báo động và đang suy giảm nghiêm trọng. Rừng phòng hộ các hồ chứa quy mô lớn

như Trị An, Thác Mơ, Đa Nhim, Đa Mi và Yali đang diễn ra tình trạng tương tự rừng phòng hộ lưu vực hồ Hoà

Bình trước kia mà chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn kịp thời. Rừng trên các vùng núi đá vôi, rừng ngập

mặn ven biển vẫn bị tiếp tục xâm hại chưa kiểm soát được.

Page 11: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Những sự mất mát về rừng là không thể bù đắp được và đã gây ra nhiều tổn thất lớn về kinh tế, về công ăn việc

làm và cả về phát triển xã hội một cách lâu dài. Những trận lụt rất lớn trong mấy năm qua ở hầu khắp các vùng của

đất nước, từ Bắc chía Nam, từ miền núi đến miền đồng bằng, nhất là các trận lụt vừa qua ở sáu tỉnh miền Trung, ở

Đồng bằng sông Cửu Long, và các trận lũ quét ở một số tỉnh miền Bắc và năm nay (9/2002) tại các tỉnh Hà Tĩnh

(Hương Sơn), Nghệ An... đã tàn phá hết sức nặng nề về nhân mạng, mùa màng, nhà cữa, ruộng vườn, đường sá...,

gây tổn thất hàng nghìn tỷ đồng, một phần quan trọng cũng do sự suy thoái rừng, nhất là rừng đầu nguồn bị tàn

phá quá nhiều. Trong những năm qua, hạn hán xẩy ra ở nhiều nơi mà chúng ta cho là ảnh hưởng của hiện tượng El

nino, nhưng cũng cần nói thêm rằng là các hoạt động phát triển kinh tế thiếu cân nhắc, nhất là phá rừng đã làm cho

hạn hán xẩy ra càng thêm nghiêm trọng hơn.

Hiện nay, diện tích đất trống đồi núi trọc hay đất chưa sử dụng cả nước, tuy đã giảm được chút ít, nhưng vẫn chiếm

diện tích khá lớn, hơn 10.027.000 ha , khoảng 30,5% diện tích tự nhiên. Những khu rừng còn lại ở vùng núi phía Bắc

đã xuống cấp, trữ lượng gỗ thấp và bị phân cách nhau thành những đám rừng nhỏ cách biệt nhau.

Nhận thức được việc mất rừng là tổn thất duy nhất nghiêm trọng đang đe dọa sức sinh sản lâu dài của những tài

nguyên có khả năng tái tạo, nhân dân Việt Nam đang thực hiện một chương trình rộng lớn về xanh hóa những

vùng đất bị tổn thất do chiến tranh và sữa chữa những sai lầm trong công cuộc "phát triển nhanh" của mình trong

những năm qua. Mục tiêu là trong vòng thế kỷ 21 phủ xanh được 40-50% diện tích cả nước, với hy vọng phục hồi

lại sự cân bằng sinh thái ở Việt Nam, bảo tồn đa dạng sinh học và góp phần vào việc làm chậm quá trình nóng lên

tòan cầu.

Một chương trình nữa về khoanh nuôi rừng và trồng rừng đang được thực hiện bằng cách xây dựng những vùng

rừng đệm và rừng trồng kinh tế để cung cấp gỗ củi và gỗ xây dựng cho nhu cầu trong nước. Trong những năm qua

việc trồng rừng còn chú ý nhiều đến việc trồng thuần một loài cây hay là trồng các lòai cây du nhập từ nước ngòai

mà chưa chú ý tạo ra những lọai rừng hỗn hợp các lòai cây bản địa, có giá trị kinh tế cao, phù hợp với điều kiện và

khí hậu địa phương.

Trong những năm qua Chính phủ, Bộ Nông nghịệp và Phát triển nông thôn và chính quyền địa phương đã quan

tâm nhiều hơn đến vấn đề bảo vệ rừng và trồng rừng, nên diện tích rừng bị phá huỷ có giảm so với những năm

trước, việc trồng rừng tăng nhanh hơn. Các chính sách hỗ trợ công tác bảo vệ và phát triển rừng như Quy định về

giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp (Nghị

định số 02/CP), Quy định về việc khoán bảo vệ rừng và phát triển rừng (Quyết định “202/TTg), Chỉ thị của Chính

phủ về việc tăng cường quản lý bảo vệ rừng (Chỉ thị 286/TTg) đã được quần chúng hoan nghênh và thực hiện.

Các văn bản pháp luật, các chính sách thích hợp của Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tạo

điều kiện cho sự phát triển nhanh và mạnh hơn về công tác bảo vệ thiên nhiên ở miền núi trong 10 năm qua. Kết

quả cụ thể là trong số 10.915.592 ha rừng hiện có của cả nước, có 7.956.592 ha đã được nhà nước giao và công

nhận quyền sử dụng đất hợp pháp cho các “Chủ rừng” (Hà Công Tuấn, 2001*) phân theo các đối tượng như sau:

- Doanh nghiệp nhà nước được giao 3.578.394 ha

Page 12: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

- Ban Quản lý rừng phòng hộ được giao 1.025.204 ha

- Ban Quản lý rừng đặc dụng được giao 1.126.979 ha

- Xí nghiệp Liên doanh được giao 15.116 ha

- Các đơn vị thuộc Lực lượng vũ trang đ. giao 204.764 ha

- Hộ gia đình và các đơn vị tập thể được giao 2.006.464 ha

Ngoài các hình thức giao đất , giao rừng, trong 10 năm qua một hình thức bảo vệ rừng khác cũng đã được tiến

hành ở miền núi là việc “nhận khoán bảo vệ rừng”. Đây là hình thức hợp đồng dài hay ngắn hạn giữa “chủ rừng”

với cá nhân, hộ gia đình, tập thể hay các cơ quan, đơn vị của nhà nước để tăng cường công tác bảo vệ rừng. Tới

nay đã có 918.326 ha rừng đã được nhận khoán quản lý bảo vệ và 214.000 ha rừng đã được các cộng đồng địa

phương quản lý theo hình thức truyền thống (Hà Công Tuấn, 2001**).

Thật khó mà ước tính được tổn thất về rừng và lâm sản hiện nay ở Việt nam. Theo thống kê thì năm 1991 có

20.257 ha rừng bị phá, năm 1995 giảm xuống còn 18.914 ha và năm 2000 là 3.542 ha. Tuy nhiên theo Báo cáo

hiện trạng môi trường Việt nam năm 2000 thì có thể ước định rằng tỷ lệ mất rừng hiện nay là khỏang 120.000 đến

150.000 ha/năm và rừng trồng hàng năm khỏang 200.000 ha và mục tiêu là trồng càng nhanh càng tốt để dạt

300.000 ha/năm.

Tuy nhiên theo kết qủa tổng kiểm kê rừng toàn quốc tháng 01/2001 thì đến năm 1990 cả nước có 745.000 ha rừng

trồng, và đến năm 2000 tổng diện tích rừng trồng của cả nước là 1.471.394 ha, như thế có nghĩa là trong 10 năm

qua, từ năm 1990 đến 2000 chúng ta chỉ trồng được có 726.394 ha thành rừng, trung bình đạt 72.639,4 ha/năm,

chiếm hơn 30% tổng diện tích trồng rừng hàng năm, một kết quả hết sức thấp so với mong muốn??.

Chương trình trồng 5 triệu hecta rừng trong những năm sắp tới đang được các địa phương tích cực thực hiện. Theo

kế họach của Bộ NNPTNT thì 2 triệu hec ta rừng sẽ được hồi phục và trồng dặm thêm, 2 triệu hec ta trồng mới và

1 triệu hec ta sẽ trồng các cây công nghiệp (Lê Huy Ngọ, 1999). Dù cho các chương trình trồng rừng có đạt được

sớm mà kết quả thành rừng thấp như trong 10 năm vừa qua thì cũng chưa thể bù đắp ngay được mức phá rừng hiện

tại và cũng khó đạt được mục tiêu đề ra là vào cuối thập kỷ này độ che phủ rừng đạt 43% diện tích tự nhiên cả

nước.

2- Chất lượng đất và diện tích đất trồng trọt trên đầu người giảm sút nghiêm trọng

Việt Nam có đất tự nhiên rộng hơn 32.924.061 hec ta, gồm nhiều loại đất. Về mặt kinh tế , tài nguyên đất có thể

chia ra thành các loại như sau: đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất dành cho các sử dụng đặc biệt và đất chưa sử

dụng.

T heo tổng kiểm kê đất đai năm 2000 (Báo nhân dân ngày 4/3/2001) các loại đất đó phân ra như sau:

* Tham khảo trong Báo cáo “Công tác Bảo vệ Thiên nhiên ở Miền núi trong 10 năm qua, những thuận lợivà khó khăn” của Vũ Văn Dũng.

Page 13: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Diện tích đất nông nghiệp là 9.345.346 ha, chiếm 28,4% diện tích tự nhiên, tăng 928.712 ha so với năm

1998;

Diện tích đất lâm nghiệp là 11.575.429 ha, chiếm 35,1% diện tích tự nhiên, tăng 1.190.347 ha so với năm

1995;

Diện tích đất chuyên dùng là 1.532.843 ha, chiếm 4,6% diện tích đất tự nhiên, tăng 155.493 ha so với năm

1998;

Diện tích đất ở là 443.178 ha, chiếm 1,8% diện tích tự nhiên, tăng 2.538 ha so với năm 1995;

Diện tích đất chưa sử dụng là 10.027.265 ha, chiếm 30,5% diện tích tự nhiên, giảm 640.312 ha so với năm

1998.

Tuy nhiên bình quân diện tích đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất ở, đất chuyên dùng trên đầu người vẫn giảm do

tỷ lệ tăng dân số cao.

Đa số diện tích chưa sử dụng nằm ở vùng đất trống, đồi núi trọc và các loại đất có vấn đề ở đồng bằng. Trong số

10.027.265 ha đất chưa sử dụng có 7.505.562 ha là đất đồi núi, 709.528 ha ở đồng bằng, 1.772.900 ha là sông suối,

núi đá. Phần lớn diện tích đất chưa sử dụng này nằm ở vùng địa hình dốc, đất khô cằn, rắn, chua, nghèo dinh

dưỡng.

Các dẫn liệu về sử dụng đất ở nước ta cho thấy: quỹ đất ít, chỉ số bình quân đất đai tính theo đầu người rất thấp và

có xu thế ngày càng giảm, đặc biệt đối với đất nông nghiệp:

Hiệu quả sử dụng đất thấp, mới đạt 1,6

Diện tích đất trồng một vụ còn chiếm 27% đất trồng cây hàng năm

Năng suất của đa số các cây trồng chính còn thấp.

Ơ Việt nam tuy đất nông nghiệp đã chiếm 28,4% diện tích đất tự nhiên, song bình quân đầu người rất thấp: năm

1991 là 1042 m2, năm 1995 là 1022 m2, năm 2000 là 1202 m2. Tỷ lệ này sẽ hạ thấp hơn nữa trong những năm sắp

tới do dân số còn tăng và đất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp lại rất hạn chế, (chỉ chiếm 25% đất nông nghiệp)

chủ yếu thuộc các vùng đồng bằng, phần còn lại là đất có nhiều nguy cơ bị thoái hoá, rửa trôi thuộc miền núi.

Tính riêng các tỉnh miền núi , tuy đất rộng người thưa nhưng đất nông nghiệp lại hiếm, và cũng không đồng đều.

Tỉnh Bình Phước có diện tích đất nông nghiệp cao nhất đạt 6280 m2/người vào năm 2000, 4 tỉnh Tây Nguyên đạt

2904 m2, 3 tỉnh Tây Bắc đạt 1781 m2, còn 11 tỉnh Đông Bắc thấp nhất chỉ đạt 1002 m2, thấp hơn bình quân diện

tích nông nghiệp trên đầu người cả nước trong cùng thời gian.

Thoái hoá đất

Việt Nam có gần 25 triệu ha đất dốc (76% diện tích đất tự nhiên) với nhiều hạn chế cho sản xuất nông nghiệp,

trong đó có hơn 12,5 triệu ha đất xấu và trên 50% diện tích đồng bằng là "đất có vấn đề". Cụ thể là 0,82 triệu ha

Page 14: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

đất phèn, 0,54 triệu ha đất cát, 2,06 triệu ha đất xám bạc màu, 0,5 triệu ha đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá, 0,24 triệu

đất ngập mặn, 0,47 ha đất lầy úng, 8,5 triệu ha đất có tầng mặt mỏng ở vùng đồi núi. Các loại đất có nhiều hạn chế

nói trên chiếm 14,13 triệu hay 42,8% đất tự nhiên cả nước .

Những quan trắc từ nhiều năm qua cho thấy : Thoái hoá đất là xu thế phổ biến đối với nhiều vùng đất rộng lớn,

đặc biệt là vùng đồi núi, nơi tập trung hơn 3/4 quỹ đất, nơi cân bằng sinh thái đã bị phá vỡ nghiêm trọng do không

có rừng che phủ. Mặn hoá, phèn hoá, lầy hoá trên quy mô diện tích hàng triệu ha vùng đồng bằng cũng là nguyên

nhân chủ yếu làm ngừng trệ khả năng sản xuất của đất. Tại nhiều vùng sự suy thoái đất còn kéo theo cả suy thoái

về hệ thực vật, động vật và môi trường địa phương và đồng thời làm cho diện tích đất nông nghiệp trên đầu người

giảm xuống đến mức báo động.

Trong thời kỳ đổi mới , cùng với những thành tựu về phát triển kinh tế – xã hội , những biến động về tài nguyên

đất ngày càng trở nên rõ rệt. Về môi trường đất , lượng phân bón dùng trên một hec ta gieo trồng còn thấp so với

mức trung bình thế giới (80 kg/ha so với 87 kg/ha), và mới chỉ bù đắp được khoảng 30% lượng dinh dưỡng do cây

trồng lấy đi. Mặt khác, sự mất cân bằng trong sử dụng phân hoá học đang là thực trạng phổ biến. Tình hình đó là

nguyên nhân của việc giảm độ phì nhiêu của đất và hiện tượng thiếu kali hoặc lưu huỳnh ở một số nơi, ảnh hưởng

tới năng suất cây trồng. Về hoá chất bảo vệ thực vật, trong danh mục 109 loại đang được sử dụng tại Đồng bằng

Sông Hồng, có những loại đã bị cấm sử dụng” Trong các vùng thâm canh, tần suất sử dụng thuốc khá cao, nhất là

đối với rau quả, cho nên dư lượng trong đất khá cao, kể cả trong sản phẩm (Báo cáo tổng kết chương trình “Sử

dụng hợp lý Tài nguyên và Bảo vệ Môi trương “ Mã số KHCN 07, tháng 12 năm 2001).

Tác động của việc thoái hoá đất làm cho nước ta đang đứng trước những thử thách lớn phải giải quyết nhiều vấn

đề nghiêm trọng về môi trường đất, nhằm đảm bảo sự an toàn lương thực và sự tồn tại của cả dân tộc với gần 100

triệu dân vào những năm 2010.

Nguyên nhân suy thoái đất ở nước ta rất phức tạp và thường bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và hậu

quả chiến tranh.

Về tự nhiên: Đa số diện tích là đồi núi mà độ che phủ rừng lại thấp , mưa tập trung vào một số tháng với lượng

mưa trên 20% dưới dạng mưa rào, tạo nên quá trình rửa trôi xói mòn đất mạnh; hạn hán, lũ lụt, bão tố xẩy ra

thường xuyên .

Về kinh tế xã hội: Nguyên nhân kinh tế xã hội ảnh hưởng đến suy thoái đất rất phức tạp . Sau đây là những nguyên

nhân chính:

Phương thức canh tác nương rẫy vẫn diễn ra ở miền núi;

Tình trạng chặt phá, đốt rừng bừa bãi do khai thác không hợp lý;

Việc chuyển dân lên trung du, miền núi định cư chưa được chuẩn bị tốt về quy hoạch, kế hoạch và

đầu tư;

Page 15: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Di dân tự do không được quản lý;

Việc quản lý đất đai chưa có hiệu lực;

Sức ép tăng dân số và tình trạng đói nghèo;

Kỷ thuật tiến bộ về nông lâm nghiệp chưa được phổ biến rộng rãi;

Dân trí còn thấp, việc thực thi pháp luật còn hạn chế.

Sự tàn phá của chiến tranh, nhất là chất độc hoá học.

Trong mấy năm qua, nhà nước đã có những biện pháp để đẩy mạnh việc trồng rừng, đặc biệt là trên các vùng đất

trống đồi núi trọc. Đã áp dụng những chiến lược để từng bước giảm bớt việc chặt phá rừng và đốt nương làm rẫy.

Cũng đã tiến hành một số biện pháp để duy trì và tăng thêm dộ phì của đất như canh tác theo đường đồng mức,

dùng phân bón hữu cơ và vô cơ , xây dựng hệ thống tưới tiêu nước, thau chua rửa mặn, sống chung với lũ và cải

tiến việc quản lý.

Nhìn chung việc sử dụng đất ở Việt Nam đã có những tiến bộ đáng kể trong mấy năm qua, đóng góp một phần

quan trọng trong việc cải thiện điều kiện sống cho nhân dân và cho việc ổn định và phát triển kinh tế nước nhà.

Điều cần lưu ý là chất lượng đất ở nhiều nơi, đặc biệt là ở miền Bắc và Cao nguyên Trung bộ đã suy giảm nghiêm

trọng, do thâm canh, đốt nương làm rẫy và phá rừng. Tất cả những hoạt động đó đã làm mất đi lớp đất mặt và các

chất dinh dưỡng trong đó nguyên nhân xói mòn và rửa trôi là chính. Bởi vậy tại nhiều vùng trên rẻo cao và trung

du có dân cư đông đúc, như ở một số tỉnh thuộc các vùng Tây Bắc và Đông Bắc nạn xói mòn đất và những vấn đề

về cuộc sống của dân địa phương sẽ khó khắc phục nếu không tìm được nguồn thu nhập khác thay thế và không

giảm nhẹ được sức ép về dân số.

Tại cao nguyên Tây Nguyên, nơi có nhiều tiềm năng về nông nghiệp, nhưng do bị mất rừng quá nhanh, tạo nên

mất cân bằng sinh thái mà đất đã bị xuống cấp, hiện đang bị chua hoá, hàm lượng chất dinh dưỡng bị suy thoái và

có nhiều nguy cơ bị thiếu nước vào mùa khô. Kết quả nghiên cứu đã cho biết : qua trồng chè ở vùng đất bazan, đất

bị mất khoảng 120 tấn khô/năm; chất dinh dưỡng bị mất như sau:

Chất hữu cơ 5.600 kg/ha/năm

Nitrogen 199,2 kg/ha/năm

Phốt pho 163.2 kg/ha/năm

Ca-Mg 33-24 kg/ha/năm

Đại bộ phận đất trồng trọt ở châu thổ sông Cửu Long, trong đó có tới 40% là vùng phù sa trẻ đã bị ảnh hưởng. Do

hàm lượng chất hữu cơ thấp, khả năng trao đổi ion thấp, độ a xít cao và bị nhiễm mặn theo mùa, mà việc canh tác

gặp nhiều khó khăn.

3- Hiện tượng thiếu nước ngọt và sự nhiễm bẩn nước ngọt ở nhiều nơi đã trở thành nhân tố quan trọng

Page 16: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Việt Nam là một trong những nước có tài nguyên nước phong phú trên thế giới. Lượng mưa bình quân nhiều năm

là 1960 mm. Mùa mưa kéo dài 6-7 tháng, tuy nhiên thời kỳ bắt đầu và kết thúc mùa mưa có sự khác nhau giữa các

vùng. Nhờ có mạng lưới sông ngòi dày nên nước được phân bố tương đối đều trong cả nước, đáp ứng được nhu

cầu nước khá đồng đều trong các khu vực. Tài nguyên nước mặt có thể khai thác để phục vụ nhu cầu sinh hoạt

hàng ngày của nhân dân cũng như làm thuỷ điện, nông nghiệp và phát triển giao thông vận tải.

Tiềm năng nước ngầm khoảng 48 tỷ m3/năm (131,5 triệu m3/ngày) và trữ lượng khai thác dự báo 6-7 tỷ m3/năm

(17-20 triệu m3 ngày).

Nhìn chung tài nguyên nước ngọt Việt nam tương đối cao, ước tính 64.000 m3/người/năm. Tuy nhiên, do hạn chế

về tài chính và kỷ thuật nên tài nguyên này còn chưa được bảo tồn và sử dụng tốt (Hiện trạng môi trường năm

2000).

Việc phá rừng mà hậu quả là việc bồi lắng ở mức độ cao do xói mòn đất đã làm giảm hiệu năng của những dòng

kênh và tuổi thọ của các hồ chứa. Năm 1991 hai công trình thuỷ điện quan trọng ở miền Trung là Đa Nhim và Trị

An đã không vận hành được bình thường vào mùa khô vì thiếu nước nghiêm trọng. Những hồ nhỏ hơn như Cấm

Sơn , Sông Hiếu, Bộc Nguyên ở miền Bắc đã bị bồi lắng trầm trọng sau 10 năm hoàn thành công trình.

Do độ che phủ của rừng đang giảm dần nên lụt lội và hạn hán trên nhiều vùng xẩy ra thường xuyên hơn, đặc biệt là

ở miền Bắc và miền Trung kể cả ở Tây Nguyên. Trong hai thập kỷ qua , tần suất hạn hán có chiều hướng gia tăng.

Ơ Đắc Lắc, trung bình ba năm xẩy ra một lần . Lũ quét-lũ bùn đá xuất hiện với tần suất cao hơn và mức độ ác liệt

hơn. Qua tính toán thử trên một số lưu vực cho phép dự báo nhiều lưu vực nhỏ ở Tây Nguyên đều có nguy cơ xẩy

ra lũ quét (Báo cáo tổng kết chương trình “Sử dụng hợp lý Tài nguyên và Bảo vệ Môi trương “ Mã số KHCN 07,

tháng 12 năm 2001). Nhiều vùng bị thiếu nước trầm trọng, nhất là Đồng Văn, Lai Châu, Hà Tĩnh và Quảng Trị, ở

đó vào mùa khô , nhiều nơi nhân dân phải đi 5-10 cây số để kiếm nước. Một số làng bản đã phải rời đi nơi khác vì

thiếu nước trong mùa khô.

Tình trạng ô nhiễm nước do nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp đã trở thành vấn đề quan trọng tại nhiều

thành phố, thị xã, đặc biệt là tại các thành phố lớn như Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Hà Nội, và tại các khu công

nghiệp. Ô nhiễm nước do hoạt động nông nghiệp cũng là vấn đề nghiêm trọng tại nhiều miền thôn quê, đặc biệt tại

châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long. Hiện tượng nhiễm mặn hay chua hoá do quá trình tự nhiên và do hoạt

động của con người đang là vấn đề nghiêm trọng ở vùng châu thổ sông Cửu Long.

Ơ một số vùng ven biển, nguồn nước ngầm đã bị nhiễm bẩn do thấm mặn hoặc thấm chua phèn trong quá trình

thăm dò hoặc khai thác (Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vinh). Trong mấy năm qua việc khai thác nước

ngầm quá mức đã làm giảm lượng nước, như ở thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Tây Nguyên. Việc khai thác

nước ngầm tại Hà Nội trong những năm qua đã làm giảm từ 29 cm đến 35 cm. Thành phần hoá học của nước

ngầm biến động theo xu hướng làm suy giảm chất lượng nước, chủ yếu do nguyên nhân tự nhiên. Nhiễm bẩn vi

sinh vật xẩy ra ở một số nơi, chủ yếu do nhiễm bẩn từ trên mặt đất.

Page 17: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Mặc dù Việt nam có tài nguyên nước phong phú, nhưng thực tế ở nhiều vùng vấn đề thiếu nước và nhiễm bẩn

nước do hoá chất nông nghiệp, công nghịệp, nước thải sinh hoạt đã trở thành vấn đề quan trọng và ngày càng gia

tăng.

Tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch hiện nay là khoảng 50%, trong đó đô thị chiếm 70% và nông thôn chỉ 30%. Từ

nay cho đến năm 2040, tổng nhu cầu nước ở Việt nam có thể chưa vượt quá 50% tổng nguồn nước, song vì có sự

khác biệt lớn về nguồn nước tại các vùng khác nhau và vào các mùa khác nhau và do nạn ô nhiễm gia tăng cho nên

nếu không có chính sách đúng đắn thì nhiều nơi sẽ bị thiếu nước trầm trọng.

4- Môi trường biển và vùng ven biển đã xuống cấp trầm trọng

Việt Nam có bờ biển dài hơn 3.260 km, với đặc điểm có nhiều vùng đất ngập nước và nhiều kiểu hệ sinh thái biển,

kể cả khoảng 100 hệ thống cửa sông lớn nhỏ, cùng với rừng ngập mặn và bãi bùn (khoảng 290.000 ha), những

đầm lầy ngập nước theo mùa, những đụn cát ven biển, những đầm phá nước mặn và nước lợ (khoảng 100.000 ha),

và nhiều rạn san hô gần bờ, thảm cỏ biển, và khoảng 10.000 đảo lớn nhỏ.

Biển và ven biển đem lại lợi ích kinh tế trực tiếp, như nông nghiệp, thuỷ sản, lâm nghiệp đồng thời đem lại lợi ích

gián tiếp cho con người. Các vùng đầm lầy có rừng ngập mặn và các cữa sông có ý nghĩa sinh thái đặc biệt, là chỗ

đẻ trứng, nuôi ấu trùng, nơi kiếm ăn cho nhiều loài có giá trị kinh tế như cá, ốc, tôm, cua và nhiều loài hai mãnh

vỏ... và là nơi cung cấp thực phẩm quan trọng cho người nghèo. Các đầm phá ven bờ là hệ sinh thái có sức sinh

sản cao do ở đây có hàm lượng chất dinh dưỡng cao hơn vùng biển, ngay cả trong mùa khô. Ơ đây có thể khai thác

nhiều loài động vật, nhất là cá, tôm, cua, ốc, hàu và rong câu. Những rạn san hô là nơi quy tụ nhiều chất dinh

dưỡng, nhiều loài sinh vật biển và là nơi ẩn nấp và sinh sản của nhiều loài hải sản quan trọng. Các đụn cát, rừng

ngập mặn và các rạn san hô cũng tạo nên vùng đệm, ngăn cản tác hại của lũ lụt, xói mòn đất, sóng bão.

Tài nguyên biển đa dạng là nguồn thực phẩm và là nguồn thu nhập quan trọng cho phần lớn nhân dân ở ven biển.

Trữ lượng các loài cá biển khoảng 3 triệu tấn; trữ lượng tôm he và tôm vỗ khoảng 57.330 tấn với khả năng khai

thác 20.000 tấn. Các loài cua, ghẹ, ngao đá, nghêu, sò huyết có khả năng khai thác lớn. Ngoài ra còn có các loài

đặc sản có giá trị như tu hài, vẹm xanh, điệp, hàu, bào ngư, ốc hương, tổ yến cũng là nguồn lợi lớn từ biển và ven

biển nước ta. (Hiện trạng môi trường Việt Nam năm 2000). Hàng năm lượng cá đánh bắt được lên tới hàng triệu

tấn, trong đó phần quan trọng dành cho xuất khẩu. Khoảng 80-90% sản lượng cá biển đánh bắt được là từ vùng

nước nông ven bờ. Nghề biển đã cung cấp khoảng 30% lượng đạm động vật cho nhân dân Việt nam.

Những hệ sinh thái biển và ven biển nước ta đang nhanh chóng bị xuống cấp hoặc bị biến đổi. Mặc dù trong chiến

tranh hàng loạt những vùng rừng ngập mặn ở phía Nam đã bị tàn phá, rồi đã được trồng lại, nhưng áp lực kinh tế

hiện thời đã biến rừng ngập mặn thành nơi cày cấy hoặc nuôi trồng thuỷ hải sản theo kiểu không bền vững.

Nghề đánh bắt cá ven bờ đang khai thác quá mức, các rạn san hô bị xuống cấp do những cách đánh bắt có tính huỷ

diệt, và bị cạy lên để nung vôi. Do phần lớn dân cư sinh sống ở vùng gần ven biển, việc sản xuất nông nghiệp và

việc phát triển công nghiệp đều tập trung ở vùng này như ở châu thổ sông Hồng, sông Cửu Long, nên tình trạng ô

Page 18: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

nhiễm công nghiệp và đô thị cùng nhiều hình thức phát triển khác trong vùng lưu vực sông là mối đe doạ nghiêm

trọng đối với tài nguyên ven biển và tài nguyên biển.

Trong những năm tới, dự kiến mức tăng trưởng trong hoạt động kinh tế, nhất là việc đẩy mạnh nông nghiệp, phát

triển tài nguyên nước và công nghiệp, xây dựng bến cảng, khai thác và vận chuyển dầu sẽ tăng thêm sức ép lên

vùng ven biển và tài nguyên biển.

Ngành du lịch sẽ nhanh chóng được mở rộng ở Việt nam, và cũng sẽ gây thêm sức ép lên nhiều vùng bờ biển quý

giá như vịnh Hạ long, Vũng Tàu và vùng bờ biển dài miền Trung.

5- Diện tích vùng đất ngập nước đã bị giảm đi nhanh vì hoạt động của con người

Việt Nam có vùng đất ngập nước đa dạng gồm những vùng cửa sông và châu thổ rộng lớn với nhiều rừng ngập

mặn, bãi bùn theo thuỷ triều, những vùng trồng lúa hoặc rừng tràm ngập nước theo mùa, nhiều đảo ven bờ, những

đầm phá nước lợ và nước mặn rộng lớn, những bãi ruộng muối và ao nuôi thuỷ sản, nhiều hồ đầm nước ngọt, hồ

chứa nước và vô số sông suối.

Đa số vùng đất ngập nước nằm ở phía nam đất nước, trong lưu vực sông Cửu Long với hệ thống sông ngòi và

kênh mương chằng chịt, và vùng đồng lúa rộng lớn, hoặc rừng ngập mặn, rừng tràm, bãi bùn theo thuỷ triều, ao

đầm nuôi tôm cá. Ơ miền trung, đa số đất ngập nước là các đầm phá ven biển và hồ chứa nước, còn ở miền Bắc lại

có rất nhiều hồ , đầm trong vùng lưu vực sông Hồng, những bãi triều và rừng ngập mặn trải dài suốt vùng bờ châu

thổ.

Ngoài chức năng sinh thái, đất ngập nước ở Việt nam đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, và khả

năng khai thác vùng này trong cả nước là rất cao.

Đất ngập nước Việt nam là nơi sinh sống của nhiều loài hoang dã. Đầm lầy ven biển là địa bàn khá quan trọng cho

các loài chim nước di trú và chỗ trú đông cho chừng 100 loài . Hàng đàn vịt và ngỗng trời, chừng hàng vạn con về

đây vào mùa đông kiếm ăn ở các đầm lầy lưu vực sông Hồng, mặc dù số lượng của chúng có giảm đi đáng kể

trong thập kỷ qua. Rừng ngập mặn và rừng tràm ở lưu vực sông Cửu Long là nơi sinh sống của nhiều loài chim

như các loài cò diệc, cốc, cò quắm, vịt trời và các loài chim nước khác và một số loài chim hiếm như sếu đầu đỏ,

cò ốc, già đẫy lớn và cò lạo Java. Những năm qua tại tỉnh Minh Hải và một số tỉnh lân cận đã có nhiều nơi chim

tập trung làm tổ tạo thành các sân chim, máng chim khá lớn.

Do nhu cầu lớn về sản lượng lương thực, nhiều vùng đất ngập nước rộng lớn đã bị tiêu nước để canh tác. Ơ lưu

vực sông Cửu Long, trong thời kỳ chiến tranh ước tính có khoảng 124.000 hec ta rừng ngập mặn (chiếm khoảng

40-50%) đã bị phá huỷ do chất độc hoá học, và sau đó rừng ngập mặn và rừng tràm lại tiếp tục bị chặt phá làm

than củi, gỗ xây dựng và để làm ao nuôi cá, tôm.

Vì rừng đất ngập nước có chức năng sinh thái quan trọng trong việc tạo nơi sinh sản và nuôi dưỡng nhiều loài

động vật nên việc mất rừng ở đây (rừng ngập mặn và rừng tràm) có ảnh hưởng nghiêm trọng hơn mất rừng ở vùng

cao hay rừng đầu nguồn về nhiều phương diện. Diện tích rừng ngập nước hiện nay chỉ còn khoảng 30% (gần 1,2

Page 19: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

triệu hec ta) của độ che phủ của loại rừng này vào những năm 1940. Phần lớn diện tích rừng tự nhiên còn lại và

rừng trồng sau ngày giải phóng lại bị phá huỷ để mở rộng tràn lan việc nuôi tôm theo kiểu không bền vững trên

vùng đất chua phèn của lưu vực sông Cửu Long. Do việc đắp bờ và quản lý kém và chưa thích hợp, các ao nuôi

tôm kiểu này chỉ dùng được thời gian ngắn. Riêng ở tỉnh Minh Hải, nơi đã từng có 50.000 hecta (54%) rừng ngập

mặn bị phá huỷ trong năm 1982 đến năm 1992, cái giá phải trả cho việc nuôi tôm quảng canh này lên tới 140 triệu

đô la Mỹ. Nếu cứ tiếp tục cách làm trên thì một thập kỷ nữa mức thiệt hại sẽ lên đến 249 triệu (WB) . Tình hình

tương tự cũng đang xẩy ra với các rừng tràm, nơi giàu tính đa dạng sinh học và các lâm sản hơn cả vùng rừng ngập

mặn ven biển.

Nói chung đất ngập nước Việt Nam đang gặp những mối nguy hại vì những lý do sau:

Dân số ngày càng tăng

Sự can thiệp của con người làm rối loạn hệ thống tự nhiên

Ô nhiễm nước do nước thải công nghiệp và sinh hoạt, đặc biệt do thuốc trừ sâu từ các vùng

nông nghiệp

Đánh bắt quá mức và các hoạt động phá huỷ sinh thái

Phá rừng ngập mặn và rừng tràm lấy gỗ củi, đốt than và làm ao nuôi tôm , nuôi trồng thuỷ

sản thíếu quy hoạch

6- Đa dạng sinh học đang giảm sút nhanh chóng

Ở Việt Nam do sự khác biệt lớn về khí hậu từ vùng gần xích đạo tới giáp vùng cận nhiệt đới, cùng với sự đa dạng

về địa hình đã tạo nên sự đa dạng về thiên nhiên và cũng do đó mà Việt Nam có tính đa dạng sinh học cao. Một

dải rộng các thảm thực vật bao gồm nhiều kiểu rừng phong phú đã được hình thành ở các độ cao khác nhau, như

các rừng thông chiếm ưu thế ở vùng ôn đới và cận nhiệt đới, rừng hỗn loại lá kim và lá rộng, rừng khô cây họ Dầu

ở các tỉnh vùng cao, rừng họ Dầu địa hình thấp, rừng ngập mặn chiếm ưu thế ở ven biển châu thổ Sông Cửu Long

và Sông Hồng, rừng tràm ở đồng bằng Nam bộ và rừng hỗn lọai tre nứa ở nhiều nơi.

Mặc dù có những tổn thất quan trọng về diện tích rừng trong một thời kỳ kéo dài nhiều thế kỷ, hệ thực vật rừng

Việt nam vẫn còn phong phú về chủng loại. Cho đến nay đã thống kê được 11.373 loài thực vật bậc cao có mạch,

và 2.393 loài thực vật bậc thấp (Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật), trong đó có 793 loài Rêu (Bryophyta), 2

loài Quyết trần (Psilotophyta), 57 loài Thông đất (Lycopodiophyta), 2 loài Cỏ Tháp bút (Equisetophyta), 664 loài

Dương xỉ (Polypodiophyta), 63 loài Thực vật Hạt trần (Gymnospermatophyta) và 9812 loài Thực vật Hạt kín

(Angiospermatophyta) (Nguyễn Nghĩa Thìn , 1997). Trong số các loài thực vật đã thống kê có gần 2000 loài cây

lấy gỗ, 3000 cây làm thuốc, hơn 100 loài tre nứa và khoảng 50 loài song mây. Theo dự đoán của các nhà thực vật

học số loài thực vật bậc cao có mạch ít nhất sẽ lên đến gần 20.000 loài, trong đó có nhiều loài đã được nhân dân ta

dùng làm nguồn lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thức ăn cho gia súc, lấy gỗ, tinh dầu và nhiều nguyên

Page 20: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

vật liệu khác. Chắc rằng trong hệ thực vật Việt Nam còn nhiều loài mà chúng ta chưa biết công dụng của chúng.

Cũng có thể có rất nhiều loài có tiềm năng là một nguồn cung cấp sản vật quan trọng - dược liệu chẳng hạn.

Hơn nữa hệ thực vật Việt Nam có mức độ đặc hữu cao. Tuy rằng hệ thực vật Việt Nam không có các họ đặc hữu

và chỉ có khoảng 3% số Chi là đặc hữu (như các Chi Ducampopinus, Colobogyne) nhưng số loài đặc hữu chiếm

khoảng 33% số loài thực vật ở miền Bắc Việt Nam (Pocs Tamas, 1965) và hơn 40% tổng số loài thực vật toàn

quốc (Thái văn Trừng, 1970). Phần lớn số loài đặc hữu này tập trung ở bốn khu vực chính: khu vực núi cao Hoàng

Liên Sơn ở phía Bắc, khu vực núi cao Ngọc Linh ở miền Trung, cao nguyên Lâm Viên ở phía Nam và khu vực

rừng mưa ở phần Bắc Trung Bộ. Nhiều loài là đặc hữu địa phương chỉ gặp trong một vùng rất hẹp với số cá thể

rất thấp. Các loài này thường rất hiếm vì rằng các khu rừng ở đây thường bị chia cắt thành những mảnh nhỏ hay bị

khai thác một cách mạnh mẽ.

Bên cạnh đó, do đặc điểm cấu trúc, các kiểu rừng nhiệt đới ẩm thường không có loài chiếm ưu thế rõ rệt nên số

lượng cá thể của từng loài thường hạn chế và một khi đã bị khai thác, nhất là khai thác không hợp lý thì chúng

chóng bị kiệt quệ. Đó là tình trạng hiện nay của một số loài cây gỗ quý như Gõ đỏ (Afzelia xylocarpa) Gụ mật

(Sindora siamensis) nhiều loài cây làm thuốc như Hoàng liên chân gà (Coptis chinensis), Ba kích (Morinda

officinalis)... thậm chí có nhiều loài đã trở nên rất hiếm hay có nguy cơ bị tiêu diệt như Thuỷ tùng (Glyptostrobus

pensilis) Hoàng đàn (Cupressus torulosa) Bách xanh (Calocedrus macrolepis), Cẩm lai (Dalbergia bariensis), Pơ

Mu (Fokienia hodginsii) v.v...

Hệ động vật Việt Nam cũng hết sức phong phú. Hiện đẫ thống kê được 275 loài thú, 830 loài chim, 258 loài bò

sát, 82 loài ếch nhái, 544 loài cá nước ngọt, 2.038 loài cá biển và thêm vào đó có hàng chục nghìn loài động vật

không xương sống ở cạn, ở biển và nước ngọt (Đào Văn Tiến, 1985, Võ Quý 1997, Đặng Huy Huỳnh, 1978, Viện

Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, 2000). Hệ động vật Việt Nam không những giàu về thành phần loài mà còn có

nhiều nét độc đáo, đại diện cho vùng Đông Nam Á.

Cũng như thực vật giới, động vật giới Việt Nam có nhiều dạng đặc hữu : hơn 100 loài và phân loài chim và 78 loài

và phân lòai thú là đặc hữu. Có rất nhiều loài động vật có giá trị thực tiễn cao và nhiều loài có ý nghĩa lớn về bảo

vệ như Voi, Tê Giác Java, Bò rừng, Bò tót, Trâu rừng, Bò xám, Nai cà tông, Hổ , Báo, Cu ly, Vượn, Voọc vá,

Voọc xám, Voọc mông trắng, Voọc mũi hếch, Voọc đầu trắng, Sếu đầu đỏ, Cò quắm cánh xanh, Cò quắm lớn,

Ngan cánh trắng, nhiều loài trĩ, cá sấu, trăn, rắn và rùa biển.

Theo tài liệu "Xem lại hệ thống các khu bảo vệ vùng Đông Dương - Mã Lai" của IUCN/CNPPA (Review of the

Protected Areas System in the Indo - Malayan Realm, MacKinnon, MacKinnon, 1986) thì Việt Nam khá giàu về

thành phần loài và có mức độ cao về tính đặc hữu so với các nước trong vùng phụ Đông Dương. Trong số 21 loài khỉ

có trong vùng phụ này thì ở Việt Nam có 15 loài, trong đó có 7 loài đặc hữu của vùng phụ (Eudey, 1987). Có 49 loài

chim đặc hữu trong vùng phụ, ở Việt Nam có 33 loài, trong đó có 13 loài đặc hữu của Việt Nam, so với Miến Điện,

Thái Lan, Mã Lai, Hải Nam, mỗi nơi chỉ có 2 loài, Lào một loài và Cam pu chia không có loài đặc hữu nào cả.

Page 21: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Khi xem xét về sự phân bố của các loài động vật nói chung và các loài chim và loài thú nói riêng ở trong vùng phụ

Đông Dương, chúng ta có thể nhận rõ rằng Việt Nam là một trong những vùng xứng đáng có ưu tiên cao về vấn đề

bảo vệ. Không những thế, hiện nay ở Việt Nam vẫn còn có những phát hiện mới rất lý thú. Chỉ trong 2 năm 1992

và 1994 đã phát hiện được ba loài thú lớn, trong đó có hai loài thuộc vùng rừng Hà Tĩnh là loài Sao la (Pseudoryx

nghetinhensis) và loài Mang lớn hay còn gọi là Mang bầm (Megamuntiacus vuquangensis), nơi mà trước đây

không lâu đã phát hiện loài trĩ cuối cùng trên thế giới, loài Gà lam đuôi trắng hay còn gọi là Gà lừng ( Lophura

hatinhensis). Năm 1994 một loài thú lớn mới thứ ba là loài Pseudonovibos spiralis ở Tây Nguyên, tạm gọi là lòai

bò sừng xoắn được công bố và năm 1997 một loài thú lớn mới nữa cho khoa học được mô tả, đó là lòai Mang

Trường Sơn (Muntiacus truongsonensis) tìm thấy lần đầu tiên ở Vùng Hiên, thuộc tỉnh Quảng Nam và đã chụp

được ảnh tại Pù Mát, Nghệ An. Cũng tại đây vào năm 1998 đã chụp được ảnh của một loài thỏ lạ mà từ trước đến

nay khoa học chưa biết là loài thỏ vằn (Nesolagus temminsi). Gần đây ba lòai chim mới được phát hiện ở Tây

Nguyên là loài khướu Ngọc Linh (Garrulax ngoclinhensis), lòai khướu vằn mào đen (Actinodura sodangorum) và

loài khướu Kong Ka Kinh (Garrulax konkakingensis). Một điều kỳ lạ nữa là loài rùa nước ngọt lớn nhất thế giới,

sống trong hồ Hoàn Kiếm giữa thủ đô Hà Nội mà nhân dân Việt Nam đã biết từ nhiều trăm năm về trước vừa được

công bố là một loài mới cho khoa học. Chúng ta tin rằng ở Việt Nam chắc chắn còn rất nhiều loài động, thực vật

chưa được các nhà khoa học biết đến.

Về mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ kiểu rừng rậm thường xanh đến kiểu rừng

rụng lá ở các độ cao khác nhau, từ đai thấp (lowlands), cận núi (sub-montane), núi (montane), cận núi cao (sub-

alpine), các kiểu rừng núi đất, rừng núi đá vôi, rừng ngập mặn, rừng tràm, rừng tre nứa....

Việt Nam cũng có vùng đất ngập nước khá rộng, trải ra khắp đất nước nhưng chủ yếu ở vùng đồng bằng Sông Cửu

Long và vùng đồng bằng Sông Hồng. Đây không những là vùng sản xuất nông nghiệp quan trọng của Việt Nam

mà còn là nơi sinh sống của 39 loài động vật được coi là những loài có nguy cơ bị tiêu diệt ở vùng Đông Nam Á

thuộc các nhóm thú, chim và bò sát (AWB, 1989). Ngoài ra Việt Nam còn có phần nội thuỷ và lãnh hải rộng

khoảng 226.000 km2 trong đó có hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ và nhiều rạn san hô phong phú.

Ở Việt Nam các rạn san hô phân bố rải rác suốt từ Bắc vào Nam của Biển Đông và càng vào phía Nam cấu trúc và

số lòai càng phong phú. Phần lớn các rạn san hô ở biển miền Bắc là những đám hẹp hoặc tạo thành từng cụm nhỏ,

độ sâu tối đa chỉ giới hạn trong vòng mươi mét . Ở phía Nam điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn cho sự phát triển

của san hô. Từ vùng bờ biển Đà Nẵng đến Bình Thuận có nhiều rạn san hô ở xung quanh các đảo và các bãi ngầm,

và xung quanh các đảo ở vịnh Thái Lan ở phía Tây nam. Các đảo và bãi ngầm thuộc quần đảo Hòang Sa và

Trường Sa có những bãi san hô rộng lớn và đa dạng nhất trong vùng biển Việt Nam. Các rạn san hô phía Tây nam

có cấu trúc đa dạng và có đỉnh cao đến 8-10 mét, và nằm ở độ sâu chừng 15 mét. Tại quần đảo Trường Sa các rạn

san hô có thể đạt tới độ sâu nhất là 40 mét và có đỉnh cao từ 5-15 mét. Cũng như rừng nhiệt đới, các rạn san hô là

nơi có tính đa dạng sinh học cao, chứa đựng nhiều lọai tài nguyên quý giá và có nhiều tiềm năng cho sự phát triển

khoa học và kinh tế trong tương lai.

Page 22: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có về sinh giới này, có thể đáp ứng những nhu cầu hiện tại và tương lai của nhân

dân Việt Nam trong quá trình phát triển, cũng như đã đáp ứng những nhu cầu ấy trong quá khứ. Nguồn tài nguyên

thiên nhiên này không những là cơ sở vững chắc của sự tồn tại của nhân dân Việt Nam thuộc nhiều thế hệ đã qua mà

còn là cơ sở cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam trong những năm sắp tới. Tuy nhiên thay vì bảo tồn nguồn tài

nguyên quý giá này và sử dụng một cách hợp lý, nhân dân Việt Nam dưới danh nghĩa phát triển kinh tế đang khai thác

quá mức và phí phạm , không những thế còn sử dụng các biện pháp huỷ diệt như các chất độc, kích điện .. .

Nhiều lòai hiện đã trở nên hiếm, một số lòai đang có nguy cơ bị diệt vong. Nếu biết sử dụng đúng mức và quản lý tốt,

nguồn tài nguyên sinh học của Việt nam có thể trở thành nguồn tài nguyên tái tạo rất có giá trị, thế nhưng nguồn tài

nguyên này đang suy thóai nhanh chóng.

II- Dân số và môi trường

Như đã trình bày ở trên nước ta đang phải đương đầu với một số vấn đề môi trường nghiêm trọng và những vấn đề

này lại đang ngày càng khó gỉai quyết do sự tăng nhanh dân số và đói nghèo.

Theo kết quả Tổng điều tra dân số gần đây nhất thì vào thời điểm 0 giờ ngày 1/4/1999 dân số Việt Nam là

76.327.919 người, trong đó nữ chiếm 38.809.372 người. Dân số thành thị cả nước chiếm 23,5% tổng dân số. Tính

từ cuộc điều tra dân số lần trước (1/4/1989), số dân nước ta tăng thêm 11,9 triệu người . Như vậy sau 10 năm , số

dân tăng thêm của nước ta đã tương đương với số dân của một nước trung bình (trên thế giới có khoảng 120 nước)

có số dân dưới 12 triệu người.

Tỷ suất tăng dân số bình quân nước ta từ năm 1989 đến 1999 là 1,7%, giảm 0,5% so với tốc độ tăng dân số của 10

năm trước. Dân số năm 2000 cả nước là 77.685,500 người (Niên giám thống kê năm 2000), tăng thêm khoảng

1,358 triệu người, tương đương dân số một tỉnh có số dân trung bình.

So sánh tỷ trọng dân số của các vùng trong tổng số dân của cả nước qua hai lần tổng điều tra dân số đã có sự thay

đổi như sau: tăng lên ở 3 vùng : Đông Nam bộ, Tây Nguyên và Tây Bắc và giảm đi ở các vùng còn lại, trong đó

Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng giảm nhiều nhất.

Mật độ dân số Việt Nam đã tăng từ 195ng/km2 năm 1989 lên 213 ng/km2 năm 1999, thuộc loại cao trên thế giới

và đứng hàng thứ ba ở khu vực Đông Nam Á (chỉ sau Singapore và Philippin) và đứng thứ 13 trong số 42 nước

thuộc khu vực châu Á và Thái Bình Dương. Những tỉnh có mật độ dân số cao (từ 500 ng/km2 trở lên) đều nằm

dọc theo hai con sông lớn là sông Hồng và sông Cửu Long. Hai vùng Tây Nguyên và Đông Nam bộ là địa điểm

chủ yếu thu hút các luồng dân di cư, còn các vùng Bắc Trung bộ, Đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải Nam

Trung bộ , Đồng bằng sông Hồng và Đông bắc là những vùng có mức xuất cư cao.

Trong 5 năm 1994-1999, có 1,2 triệu người từ khu vực nông thôn đã nhập cư vào thành thị để làm ăn sinh sống ổn

định, trong khi đó chỉ có 422.000 người di cư theo chiều ngược lại, nghĩa là luồng di cư nông thôn-thành thị cao

gấp 3 lần so với luồng di cư thành thị-nông thôn. Đó là chưa kể số người từ nông thôn ra kiếm ăn tại các thành thị

trong thời kỳ nông nhàn hay không đăng ký chính thức.

Page 23: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Nước ta là một nước nông nghiệp có dân số đông, mà cuộc sống và sự phát triển lại đang dựa chính vào khai thác

các nguồn tài nguyên thiên nhiên, mà tài nguyên lại đang cạn kiệt dần do đó mà khi chưa ổn định được dân số thì

mâu thuẫn giữa phát triển và môi trường là điều khó tránh khỏi. Vốn là một trong những quốc gia có bình quân đất

canh tác theo đầu người thấp nhất thế giới với gần 80% dân số làm kinh tế nông nghiệp, mà số dân vẫn gia tăng

nhanh , đặc biệt tại khu vực nông thôn và miền núi, do vậy mà bình quân đất canh tác theo đầu người đang giảm

dần. Đây là điều đáng lo ngại nhất

Do dân số tăng nhanh nên sản lượng lương thực quy ra thóc tính theo đầu người cũng chỉ ở mức thấp và tăng hàng

năm không nhiều (năm 1990 là 326,0 kg/ng, năm 1999 là khoảng 448,8 kg/ng). Để đảm bảo nhu cầu lương thực ,

cần phải thâm canh tăng vụ để tăng năng suất. Do đó việc sử dụng phân khoáng, chất kích thích hoá học và thuốc

trừ sâu diệt cỏ ngày càng tăng, trực tiếp đe doạ đến sự thoái hoá đất, nước ngầm, nước ao hồ, sông ngòi ,các hệ

sinh thái và đa dạng sinh học.

Vấn đề dân số đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm từ những năm 1960, nhiều chính sách dân số và

chính sách kinh tế xã hội có liên quan đến dân số đã được ban hành và thực thi. Nhờ thế mà nghèo khó đã giảm

mạnh trong 5 năm qua, nhưng do dân số tăng nhanh nên vẫn còn khoảng 1/5 dân nông thôn bị nghèo về lương

thực thực phẩm và gần 1/2 còn phải sống trong cảnh nghèo chung ( Hiện trạng môi trường năm 2000).

Nghèo khó và tăng dân số là tác nhân tàn phá môi trường nhưng cũng là hậu quả của chính sự tàn phá môi trường

ấy. Do nhu cầu cuộc sống, nhiều người nghèo đã buộc phải khai thác tài nguyên một cách bừa bãi, không theo quy

hoạnh, gây ra sự cạn kiệt nhanh chóng tài nguyên, gây ô nhiễm và suy thoái môi trường, làm cho năng suất cây

trồng và vật nuôi giảm, các điều kiện vệ sinh môi trường xấu đi. Điều này lại trở lại làm cho cuộc sống của con

người càng nghèo đói hơn và cũng vì thế mà khó có điều kiện để nâng cao kinh tế, xã hội, văn hoá và cải thiện môi

trường.

Do đông dân và cuộc sống khó khăn nên di dân tự do diễn ra khắp nơi, đã và đang gây ra những vấn đề bức xúc

như nạn phá rừng, sử dụng tài nguyên đất không hợp lý, săn bắt động vật bừa bãi, gây ô nhiễm môi trường, đó là

chưa nói đến sự gia tăng nhiều tệ nạn xã hội khó kiểm soát và cả những mâu thuẫn giữa các cộng đồng cùng chung

sống.

Bước vào thế kỷ 21, sức ép của gia tăng dân số nước ta vẫn còn là một thách thức lớn đối với sự phát triển kinh tế

xã hôi và cải thiện đời sống nhân dân và bảo vệ môi trường sống và tài nguyên thiên nhiên. Dự báo (theo phương

án trung bình) đến năm 2024 dân số nước ta sẽ là 100,491 triệu người. Như vậy nước ta sẽ phải đảm bảo cuộc

sống cho thêm 22 triệu người nữa, gần bằng dân số nước ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, trong khi đó tài

nguyên thiên nhiên lại có xu hường suy giảm. Điều này sẽ gây sức ép to lớn lên tài nguyên thiên nhiên vốn đã cạn

kiệt trên phạm vi toàn quốc như nạn phá rừng và đất ngập nước, suy thoái đất , thiếu nước và ô nhiễn nước, suy

thoái đa dạng sinh học, tất và cả những yếu tố đó có khả năng sẽ tạo nên sự mất cân bằng sinh thái trầm trọng khó

hồi phục và nạn ô nhiễm môi trường.

III- Ô nhiễm và suy thoái môi trường

Page 24: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

1- Phát triển đô thị và vấn đề môi trường

Hiện nay nước ta có 623 thành phố , thị xã, thị trấn, trong đó có 4 thành phố trực thuộc trung ương, 82 thành phố,

thị xã trực thuộc tỉnh. Tỷ lệ dân số trên tổng dân số năm 1986 là 19%; năm 1990 là 20%, năm 1999 là 23,5%; năm

2000 là 23,97%; dự báo đến năm 2010 sẽ là 33% và năm 2020 là 45%.

Môi trường ở nhiều đô thị ở nước ta đang bị ô nhiễm chất thải rắn chưa thu gom, nước thải chưa xử lý theo

đúng quy định. Trong khi đó khí thải, tiếng ồn, bụi... từ các phương tiện giao thông nội thị và mạng lưới sản xuất

quy mô vừa và nhỏ cùng với cơ sở hạ tầng yếu kém càng làm cho điều kiện vệ sinh môi trường ở nhiều đô thị đang

thực sự lâm vào tình trạng báo động. Hệ thống cấp thoát nước lạc hậu, xuống cấp, không đáp ứng được yêu cầu

ngày càng tăng. Mức ô nhiễm về bụi và các khí thải độc hại nhiều nơi vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần, đặc biệt

là tại một số thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, vượt tiêu chuẩn cho phép 2-3 lần.

Môi trường công nghiệp, đặc biệt ở các khu công nghiệp cũ, các ngành hoá chất, luyện kim, xi măng, chế biến

đang bị ô nhiễm do chất thải rắn, nước thải, khí thải và các chất thải nguy hại chưa được xử lý theo đúng quy định.

Các cơ sở công nghiệp trong nước chủ yếu có quy mô nhỏ, công nghệ sản xuất lạc hậu (chỉ có khoảng 20% xí

nghiệp cũ đã đổi mới công nghệ). Khoảng 90% cơ sở sản xuất cũ chưa có thiết bị xử lý nước thải. Hiện nay đã

hình thành gần 70 khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, nhưng chỉ có khoảng 1/3 trong số đó đã xây

dựng cơ sở hạ tầng kỷ thuật và rất ít khu có hệ thống xử lý nước thải tập trung.

2- Chất lượng môi trường nông thôn có xu hướng xuống cấp nhanh

Môi trường nông thôn đang bị ô nhiễm do các điều kiện vệ sinh và cơ sở hạ tầng yếu kém. Việc sử dụng không

hợp lý các loại hoá chất nông nghiệp cũng đã và đang làm cho môi trường nông thôn bị ô nhiễm và suy thoái.

Việc phát triển tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề và cơ sở chế biến ở một số vùng do công nghệ sản xuất lạc

hậu, quy mô sản xuất nhỏ, phân tán xen kẽ trong khu dân cư và hầu như không có thiết bị thu gom và xử lý chất

thải, đã gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Hiện nay Việt Nam có khoảng 1.450 làng nghề truyền thống, trong

đó 2/3 số làng tập trung ở vùng đồng bằng sông Hồng. Nhiều làng nghề khác đang trên đường phục hồi. Kết quả

điều tra mới đây cho biết (năm 2000) cho biết : điều kiện và môi trường lao động tại các làng nghề là đáng lo ngại

, 60-90% số người lao động tiếp xúc với bụi, hoá chất, độ nóng không có trang thiết bị phòng hộ. Tình trạng ô

nhiễm môi trường tại các làng nghề ngày càng gia tăng. Các chất thải rắn, lỏng, khí trong quá trình sản xuất không

được xử lý, không được thu gom, thải bừa bãi ra môi trường xung quanh ngay trong các khu dân cư đã làm ô

nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường ở các vùng nông thôn là vấn đề cấp bách. Điều kiện vệ sinh môi trường

nông thôn vẫn chưa được cải thiện đáng kể, tỷ lệ số hộ có hố xí hợp vệ sinh chỉ đạt 28-30% và số hộ ở nông thôn

được dùng nước hợp vệ sinh là 30-40%. (Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia năm 2000-2010).

Như đa trình bày ở trên sự tăng dân số, việc đẩy mạnh công nghiệp hóa , mở rộng đô thị, phát triển nông thôn,

nâng cao cuộc sống cho nhân dân, xây dựng hạ tầng cơ sở đang gây áp lực ngày càng nặng lên môi trường . Tài

Page 25: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

nguyên thiên nhiên, nhất là rừng, đất, nước mặt và nước ngầm, các hệ sinh thái tự nhiên ngày càng có nguy cơ bị

suy thoái, các loài động vật, thực vật hoang dã, các nguồn gen quý và đa dạng sinh học nói chung đang có nguy cơ

bị giảm sút nhanh chóng.

Trong giai đoạn đầu của công cuộc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, thử thách đối với công tác BVMT đang trở

nên phức tạp hơn và khó khăn hơn, đòi hỏi việc sử dụng các tài nguyên thiên nhiên và công tác quản ly môi trường

tốt hơn. Điều này lại phải có những chính sách, chiến lược, pháp chế rõ ràng. Cũng cần phải đẩy mạnh công tác

nghiên cứu, giáo dục, đào tạo, nâng cao ý thức cho mọi người dân về bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên.

Công việc này cũng đòi hỏi phải có những thiết bị kỷ thuật tốt hơn cho công tác quan trắc, kiểm soát và thông tin.

Tất cả những yếu tố này ở nước ta còn thiếu nghiêm trọng. Tình hình này có thể dẫn đến một số khó khăn trong

công tác quản lý môi trường và tài nguyên ở cấp trung ương và địa phương.

IV- Tình hình công tác quản lý môi trường

1- Phát triển hệ thống quản lý nhà nước về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường

Từ khi luật bảo vệ môi trường được ban hành ( 1994) , hệ thống quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ trung

ương đến các địa phương và các bộ/ngành đã hình thành và phát triển. Nhờ đó mà công tác bảo vệ môi trường trên

toàn quốc đã được triển khai. Nhiều mô hình tự quản về môi trường ở một số địa phương và cộng đồng dân cư đã

được tổ chức và phát huy tác dụng.

Tuy nhiên hệ thống tổ chức quản lý môi trường còn nhiều điều bất cập như: tổ chức cơ quan quản lý nhà nước về

môi trường ở cấp trung ương chưa tương xứng với nhiệm vụ đặt ra. Lực lượng quản lý ở địa phương quá mỏng,

thiếu hẳn tổ chức cần thiết ở cấp cơ sở như quận/huyện, phường/xã; tổ chức quản lý môi trường ở các bộ ngành

hiện thiếu hoặc yếu về chất lượng. Ơ nước ta số lượng các bộ của Cục Môi trường chỉ có 70 người, số cán bộ quản

lý ở các tỉnh trung bình 2-4 người, tính chung cả nước chỉ mới đạt tỷ lệ khoảng 4 người trên 1 triệu dân, trong khi

đó tại các nước lân cận tỷ lệ này cao hơn nhiều lần, như Trung Quốc : 20 người/ 1 triệu dân, Thái Lan 30 người,

Campuchia 55 người, và Malaysia 100 người.

2- Xây dựng chính sách , chiến lược và văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường

Chính sách , chiến lược và văn bản pháp luật về BVMT

Trong những năm qua nhiều văn bản pháp luật, chính sách liên quan đến bảo vệ môi trường đã được ban hành như

luật Bảo vệ môi trường, Nghị định 175 CP về "Hướng dẫn thi hành Luật BVMT, Nghị định 26/CP về "Xử phạt vi

phạm hành chích trong lĩnh vực BVMT" và nhiều chỉ thị, thông tư, tiêu chuẩn về lĩnh vực môi trường do Thủ

tướng chính phủ, các bộ/ngành và các địa phương đã được ban hành theo thẩm quyền.

Bên cạnh Luật BVMT, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh các hoạt động có liên quan

đến khai thác và quản lý tài nguyên thiên nhiên cũng được ban hành, như Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật

Khoáng sản, Luật Đất đai, Luật Tài nguyên nước, Luật Khoa học và Công nghệ, Quy định trách nhiệm và xử lý

các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BVMT cũng được đề cập và bổ sung ở nhiều bộ lụật khác , kể cả Bộ

Page 26: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

luật Dân sự và Bộ luật Hình sự sửa đổi (1999) . Đặc biệt năm 1998, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 36/CT-TW

về "Tăng cường công tác BVMT trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước". Tháng 7 năm 2000,

Chiến lược BVMT quốc gia 2001-2010 cũng đã được trình lên chính phủ.

Công tác kế hoạch hoá về BVMT

Kế hoạch hàng năm, 5 năm về BVMT của các bộ, ngành, địa phương đều được xem xét và thảo luận với Bộ

KHCN&MT để các nội dung nhiệm vụ BVMT phù hợp với nội dung kế hoạch chung của Nhà nước. Tuy vậy hiện

nay công tác lập kế hoạch về BVMT ở các bộ, ngành, địa phương còn rất yếu: công tác xây dựng kế hoạch BVMT

của các ngành, các cấp chưa có một phương pháp luận thống nhất, do đó nhiều kế hoạch đưa lên các cấp xét duyệt

chưa hợp lý, gây khó khăn trong khâu xét duyệt cũng như thực hiện.

Đầu tư cho công tác BVMT

Trong những năm 1991-2000, vồn đầu tư cho công tác BVMT từ ngân sách nhà nước vào khoảng 2.000 tỷ đồng

để thực hiện hơn 200 dự án, ước tính khoảng 150-200 tỷ đông/năm bao gồm cả công tác điều tra cơ bản, cải tạo,

BVMT. Hàng năm trung bình khoảng 2% kinh phí chi cho hoạt động BVMT của các địa phương được lấy từ vốn

sự nghiệp khoa học công nghệ.

Do vốn đầu tư cho lĩnh vực môi trường còn hạn chế và chưa được hoạch định thành một nguồn vốn riêng nên rất

khó có thể xác định, thống nhất việc quản lý sử dụng. Tác dụng và hiệu quả sử dụng vốn còn hạn chế , phân bổ

vốn còn dàn trải, quản lý và phân cấp quản lý vốn chưa chặt chẽ, chưa có cơ chế khuyến khích và huy động vốn từ

các thành phần kinh tế và trong nhân dân.

Vốn viện trợ nước ngoài cho môi trường có chiều hướng tăng từ sau năm 1995. Số dự án viện trợ về môi trường

trực tiếp cho các địa phương có tỷ lệ thấp, phần lớn tập trung ở các cơ quan trung ương.

Hợp tác quốc tế về BVMT

Trong thời gian qua nước ta đã tích cực tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc tế và khu vực nhằm hoà nhập với

sự nghiệp BVMT của cộng đồng quốc tế và nâng cao năng lực BVMT quốc gia.

Việt Nam đến nay đã phê chuẩn 13 công ước quốc tế về môi trường và đang nổ lực thực hiện cam kết và nghĩa vụ

của một nước thành viên.

Các công ước về môi trường mà Việt nam đã tham gia

STT Tên công ước Ngày VN là thành viên

1 Công ước liên quan đến bảo vệ di sản văn hoá và tự nhiên thế giói 19/10/1982

2 Công ước vê thông báo sớm các sự cố hạt nhân 29/9/1987

3 Công ước về hỗ trợ trong tường hợp sự cố hạt nhân hoặc cấp cứu về 29/9/1997

Page 27: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

phóng xạ

4 Công ước về vùng đất ngập nước có tầm quan trọng trong quốc tế, đặc

biệt là nơi cư trú của các loài chim nước RAMSAR

20/9/1989

5 Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tầu biển MARPOL 29/8/1991

6 Công ước về buôn bán quốc tế những loài động thực vật có nguy cơ bị

đe doạ (Công ước CITES)

20/1/1994

7 Nghi định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ôzon 26/1/1994

8 Công ước Viên về bảo vệ tầng ô zon 26/1/1994

9 Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển 5/7/1994

10 Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu 16/11/1994

11 Công ước về Đa dạng Sinh học 16/11/1994

12 Công ước về kiếm soát việc vận chuyển xuyên biên giới các chất thải

nguy hại và việc loại bỏ chúng ( Công ước Basel)

13/3/1995

13 Công ước chống sa mạc hoá 8/ 1998

3- Quan trắc môi trường và kiểm soát ô nhiễm

Đánh giá tác động môi trường (ĐTM)

Công tác ĐTM trong thời gian qua đã đáp ứng kịp thời về mặt thể chế, chính sách nhằm tăng cường biện pháp

khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế song song với BVMT. Quy trình thẩm định ĐTM không ngừng được cải

tiến và hoàn thiện. Với sự trợ giúp của các dự án do chính phủ Hà Lan và Canada tài trợ , nhiều đợt tập huấn nhằm

nâng cao kỷ năng thẩm định báo cáo ĐTM cho các cấp trung ương và địa phương đã được tổ chức thực hiện có kết

quả.

Tính đến tháng 6/2000, trên qui mô toàn quốc đã có 5.818 báo cáo ĐTM được thẩm định; 9.625 cơ sở đang hoạt

động đã lập "Bản kê khai các hoạt động sản xuất có ảnh hưởng đến môi trường" và 350 dự án lập "Bản đăng ký

đạt tiêu chuẩn môi trường". Ơ cấp trung ương đã có 570 báo cáo ĐTM được thẩm định. Ngoài ra Bộ KHCN&MT

cũng đã nhận xét về mặt môi trường cho 1.236 hồ sơ dự án ở giai đoạn xin cấp phép đầu tư.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác ĐTM cũng còn nhiều tồn tại cần được khắc phục như: sự phối hợp

giữa các cơ quan chức năng của nhà nước trong quá trình lập và thẩm định báo cáo ĐTM và cấp phép đầu tư chưa

tốt; nhiều công trình lớn mang tầm chiến lược như các chương trình quốc gia , các quy hoạch phát triển đã được

phê duyệt mà không thông qua thẩm định báo cáo ĐTM; kinh phí cho việc lập và thẩm định báo cáo ĐTM chưa

Page 28: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

được nhà nước quy định rõ; công tác giám sát sau thẩm định hầu như chưa được triển khai ở cấp trung ương và

còn yếu ở cấp điạ phương (Hiện trạng môi trường Việt Nam năm 2000) .

Quan trắc môi trường

Từ năm 1994, Bộ KHCN&MT đã bắt đầu xây dựng Mạng lưới các trạm quan trắc và phân tích môi trường quốc

gia và đến năm 1999 đã có 19 trạm được thành lập theo cơ chế phối thuộc giữa Bộ KHCN&MT và 8 bộ/ngành/địa

phương liên quan. Từ năm 1995 mạng lưới quốc gia đã tiến hành quan trắc thường xuyên các thành phần môi

trường nước lục địa, nước biển, không khí, đất, mưa a xit, phóng xạ trên địa bàn khoảng 40 địa phương, tỉnh,

thành. Kết qủa quan trắc đã được sử dụng cho báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia hàng năm và cung cấp cho

một số mục đích quản lý khác. Đã có 12 địa phương xây dựng được trạm quản trắc môi trường và nhiều địa

phương đã có kế hoạch quan trắc định kỳ để phục vụ các mục tiêu quản lý môi trương tại địa phương.

Kiểm soát ô nhiễm môi trường

Về công tác kiểm soát ô nhiễm môi trường trong thời gian qua đã đề xuất các phương án kiểm soát ô nhiễm các

vùng kinh tế trọng điểm; nghiên cứu đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường các vùng trọng điểm sản xuất thực

phẩm, nông nghiệp, thuỷ sản; định hướng quy hoạch vùng sản xuất an toàn và đề xuất quy trình kiểm soát ô

nhiễm.

Bộ KHCN&MT đã chủ trì phối hợp với các bộ, ngành và địa phương có liên quan khẩn trương triển khai Đề án xử

lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo tinh thần Chỉ thị 36/CT-TW.

Tiến hành kiểm kê, đánh giá nguồn thải trên phạm vi toàn quốc. Tiến hành thống kê, dự báo chất thải rắn nguy hại

và đề xuất quy hoạch tổng thể các cở sở xử lý chất thải rắn nguy hại trên cả nước; đánh giá tổng quan tình hình sử

dụng hoá chất và thuốc bảo vệ thực vật trong nông nghiệp ở nước ta.

Những khó khăn trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm là : hệ thống văn bản quy định pháp luật về quản lý chất thải,

kiểm soát ô nhiễm, khắc phục sự cố còn thiếu, chưa đồng bộ và chưa được tuân thủ một cách nghiêm minh; cơ sở

vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc xử lý chất thải còn rất thiếu; việc đầu tư kinh phí cho xây dựng bãi chôn lấp thất

thải đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh còn hạn chế.

Thanh tra nhà nước về môi trường

Hệ thống thanh tra nhà nước về BVMT đã được thành lập từ trung ương đến địa phương và hoạt động của các tổ

chức thanh tra các cấp đã từng bước đi vào nề nếp, mang lại hiệu quả bước đầu.

Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, trong vòng 3 năm gần đây (1977 đến 1999) , thanh tra môi trường các cấp đã

thanh tra được 17.741 cơ sở, trong đó xử phạt vi phạm hành chính về BVMT 6.510 cơ sở. Hàng năm thanh tra môi

trường các cấp đã giải quyết hàng nghìn đơn, thư khiếu nại. Năm 1999, thanh tra Cục Môi trường và thanh tra của

một số sở KHCN&MT đã buộc các cơ sở gây ô nhiễm làm thiệt hại tới môi trường và sức khoẻ nhân dân thực hiện

Page 29: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

đền bù với tổng số tiền là 1.367.320.000 đồng. Số lượng cơ sở bị xử phạt vi phạm hành chính về BVMT đã giảm

dần theo năm. Năm 1997 số cơ sở bị xét phạt về BVMT chiếm 47% số cơ sở thanh tra, năm 1999 chỉ có 23%.

4- Giáo dục, nâng cao nhận thức về môi trường

Vấn đề truyền thông và nâng cao nhận thức về môi trường cho nhân dân đã được đề cập đến tại hầu hết các quy

định luật pháp và chính sách của Đảng, Nhà nước. Nhiều hình thức hoạt động truyền thông và nâng cao nhận thức

về môi trường đã được thực hiện tại hầu khắp các vùng và qua các phương tiện truyển thông như báo chí, phát

thanh, truyền hình đạt những kết quả bước đầu. Tuy nhiên kiến thức và nhận thức về môi trường và phát triển bền

vững chưa được nâng cao cho các nhà ra quyết định, các nhà quản lý, các doanh nghiệp và cộng đồng. Các

chương trình giáo dục, nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường chưa được tiến hành rộng khắp, chưa phát huy được

vai trò của các đoàn thể, các tổ chức chính trị và xã hội, cũng như các phong trào quần chúng tham gia công tác

bảo vệ môi trường (Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia 2001-2010).

Các kiến thức phổ cập về môi trường chưa được đưa vào hệ thống giáo dục ở các cấp học, bậc học. Các thông tin

về môi trường, về chính sách, pháp luật chưa được cung cấp và phổ biến thường xuyên đến cộng đồng.

Tình trạng này còn kéo dài và sẽ tạo ra rất nhiều phức tạp, nhầm lẫn, sai sót trong việc giải quyết các vấn đề môi

trường ở tất cả các cấp, các ngành, các địa phương và cộng đồng.

Kết luận

Quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn công nghiệp hoá, đi theo là đô thị hoá, cùng với sự gia tăng

dân số nhanh trong điều kiện nền kinh tế còn nghèo và lạc hậu ở nước ta đã và đang gây ra áp lực ngày càng nặng

nề lên môi trường và tại nguyên thiên nhiên. Làm thế nào để đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao và hoài vọng

của nhân dân vào sự nghiệp phát triển của đất nước mà không tàn phá tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ được môi

trường trong lành, để xây dựng được một nền kinh tế mạnh từ một nền kinh tế còn yếu kém? Đây là nhiệm vụ to

lớn và đầy khó khăn. Để hoàn thành nhiệm vụ này , đòi hỏi phải có một chương trình lâu dài dựa trên những

nguyên tắc về sinh thái (bảo tồn) và kinh tế (phát triển).

Chúng ta cũng nhận thức được rằng tương lai và phúc lợi của nhân dân Việt Nam tuỳ thuộc vào khả năng sản xuất

của tài nguyên và môi trường Việt nam, và khi chúng ta làm cho nguồn tài nguyên thiên nhiên bị giảm sút, môi

trường bị suy thoái là chúng ta đã làm giảm khả năng, triển vọng và nguồn lực cho sự phát triển.

Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để có thể động viên được toàn thể nhân dân dựa vào sức mình để gìn giữ và khai thác

một cách bền vững tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống của chính họ, cho lợi ích của chính họ qua

nhận thức sâu sắc về tính chất quan trọng của nhiệm vụ đó. Để đạt được kết quả trên, cần thiết phải nâng cao nhận

thức cho nhân dân về môi trường, điều mà hiện nay chúng ta đang cố gắng thực hiện.

Như đã nói ở các phần trên, Việt nam đang đứng trước những khó khăn trong qúa trình phát triển, do những thảm

hoạ về sinh thái gây ra do sức ép dân số, do quy hoạch và quản lý còn kém hiệu quả. Bằng cách học tập kinh

nghiệm của các nước khác và phân tích các mẫu hình thất bại và thành công của quá trình phát triển của chính

Page 30: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

mình, nước ta đã chọn một cách phát triển mới, tập trung vào kế hoạch hoá gia đình, sớm ổn định dân số và sử

dụng tài nguyên thiên nhiên một cách khôn khéo hơn, để đạt được những mục tiêu phát triển trong đó vấn đề môi

trường đóng vai trò quan trọng.

Đây là nhiệm vụ chủ yếu và là một nhiệm vụ khó khăn, nhưng chúng ta lạc quan về triển vọng tương lai của mình,

bởi vì chúng ta tin chắc rằng những tai hoạ nói trên là không thể tránh khỏi, rằng tài nguyên cơ bản của đất nước

chúng ta còn có thể tái tạo, và bản thân dân tộc Việt nam có đủ sức, đủ ý thức kỷ luật và tài năng để đối phó với

những thách thức mới đang đe dọa mình.

I. KHÁI NIỆM VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG

"Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo

vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế xã hội quốc gia"

Phát triển bền vững là một mô hình chuyển đổi mà nó tối ưu các lợi ích kinh tế và xã hội trong hiện tại nhưng

không hề gây hại cho tiềm năng của những lợi ích tương tự trong tương lai (Gôdian và Hecdue, 1988, GS. Grima

Lino) [11].

Về nguyên tắc, phát triển bền vững là quá trình vận hành đồng thời ba bình diện phát triển: kinh tế tăng

trưởng bền vững, xã hội thịnh vượng, công bằng, ổn định, văn hoá đa dạng và môi trường được trong lành, tài

nguyên được duy trì bền vững. Do vậy, hệ thống hoàn chỉnh các nguyên tắc đạo đức cho phát triển bền vững bao

gồm các nguyên tắc phát triển bền vững trong cả “ba thế chân kiềng” kinh tế, xã hội, môi trường

Nói cách khác, muốn phát triển bền vững thì phải cùng đồng thời thực hiện 3 mục tiêu: (1) Phát triển có hiệu quả

về kinh tế; (2) Phát triển hài hòa các mặt xã hội; nâng cao mức sống, trình độ sống của các tầng lớp dân cư và (3)

cải thiện môi trường môi sinh, bảo đảm phát triển lâu dài vững chắc cho thế hệ hôm nay và mai sau.

- Môi trường bền vững: Khía cạnh môi trường trong phát triển bền vững đòi hỏi chúng ta duy trì sự cân bằng giữa

bảo vệ môi trường tự nhiên với sự khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con người nhằm mục

đích duy trì mức độ khai thác những nguồn tài nguyên ở một giới hạn nhất định cho phép môi trường tiếp tục hỗ

trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên trái đất.

- Xã hội bền vững: Khía cạnh xã hội của phát triển bền vững cần được chú trọng vào sự phát triển sự công bằng

và xã hội luôn cần tạo điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực phát triển con người và cố gắng cho tất cả mọi người cơ hội

phát triển tiềm năng bản thân và có điều kiện sống chấp nhận được.

- Kinh tế bền vững: Yếu tố kinh tế đóng một vai trò không thể thiếu trong phát triển bền vững. Nó đòi hỏi

sự phát triển của hệ thống kinh tế trong đó cơ hội để tiếp xúc với những nguồn tài nguyên được tạo điều kiện thuận

lợi và quyền sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt động kinh tế được chia sẻ một cách bình

đẳng. Khẳng định sự tồn tại cũng như phát triển của bất cứ ngành kinh doanh, sản xuất nào cũng được dựa trên

những nguyên tắc đạo lý cơ bản. Yếu tố được chú trọng ở đây là tạo ra sự thịnh vượng chung cho tất cả mọi người,

không chỉ tập trung mang lại lợi nhuận cho một số ít, trong một giới hạn cho phép của hệ sinh thái cũng như không

xâm phạm những quyền cơ bản của con người [3].

Page 31: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Mỗi mục tiêu phát triển có vị trí riêng của nó nhưng luôn được gắn một cách hữu cơ với mục tiêu khác. Sự

hoà nhập hài hoà hữu cơ này tạo nên sự phát triển tối ưu cho cả nhu cầu hiện tại và tương lai vì xã hội loài người.

II.3. Các nguyên tắc xây dựng xã hội phát triển bền vững

Hội nghị Thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển bền vững diễn ra ở Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992 và

Johannesburg (Nam Phi) năm 2002, khái niệm phát triển bền vững đã được cộng đồng thế giới thừa nhận và đưa ra

chương trình nghị sự 21 toàn cầu- chương trình về sự phát triển bền vững của thế giới trong thế kỷ XXI.

Có 9 nguyên tắc được đưa ra chỉ sự Phát triển bền vững như sau [2]:

(1). Tôn trọng và quan tâm đến đời sống cộng đồng.

- Nền đạo đức dựa vào sự tôn trọng và quan tâm lẫn nhau và Trái đất là nền tảng cho sự sống bền vững. Sự

phát triển không được làm tổn hại đến lợi ích của các nhóm khác hay các thế hệ mai sau, đồng thời không đe dọa

đến sự tồn tại của những loại khác.

- Bốn đối tượng cần thiết để thực hiện nguyên tắc này:

+ Đạo đức và lối sống bền vững cần phải được tạo ra bằng cách đối thoại giữa những người lãnh đạo tôn

giáo, những nhà tư tưởng, những nhà lãnh đạo xã hội, các nhóm công dân và tất cả những người quan tâm.

+ Các quốc gia cần soạn thảo bản tuyên ngôn chung và bản giao kèo về sự bền vững để tham gia vào nền

đạo đức thế giới và phải biết kết hợp những nguyên tắc của sự bền vững vào Hiến pháp và Luật pháp của nước

mình.

+ Con người nên thể hiện đạo đức này vào tất cả những hành vi cá nhân và tư cách nghề nghiệp ở tất cả các

hoạt động của cuộc đời.

+ Một cơ quan quốc tế mới cần được thành lập để theo dõi sự thực hiện nền đạo đức thế giới và hướng sự

quan tâm của quần chúng vào những điểm quan trọng của nó.

(2). Cải thiện chất lượng cuộc sống con người.

Mục tiêu của phát triển là cải thiện chất lượng cuộc sống con người. Con người có những mục tiêu khác

nhau trong việc phát triển, nhưng một số mục tiêu nói chung là phổ biến. Phát triển chỉ đúng vào nghĩa của nó khi

nó làm cho cuộc sống của chúng ta tốt hơn trong toàn bộ những khía cạnh này.

(3). Bảo vệ sức sống và tính đa dạng trên Trái đất.

Page 32: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Phát triển phải dựa vào bảo vệ: nó phải bảo vệ cấu trúc, chức năng và tính đa dạng của những hệ tự nhiên thế giới

mà loài người chúng ta phải phụ thuộc vào chúng. Để đạt được điều đó cần phải:

- Bảo vệ các hệ duy trì sự sống

- Bảo vệ tính đa dạng sinh học

- Bảo đảm cho việc sử dụng bền vững các tài nguyên tái tạo.

(4). Giảm đến mức thấp nhất sự khánh kiệt nguồn tài nguyên không tái tạo.

Sự khánh kiệt nguồn tài nguyên không tái tạo như khoáng sản, dầu khí và than phải được giảm đến mức

thấp nhất. “Tuổi thọ” của những tài nguyên không tái tạo có thể được tăng lên bằng cách tái chế.

(5). Tôn trọng khả năng chịu đựng của Trái đất.

Sức chịu đựng của các hệ sinh thái của Trái đất là rất có hạn, mỗi khi bị tác động vào, các hệ sinh thái và

sinh quyển khó có thể tránh khỏi những suy thoái nguy hiểm. Để đảm bảo cho việc sử dụng nguồn tài nguyên tái

tạo một cách bền vững, cần có 3 hoạt động:

Sự tăng dân số và tiêu thụ tài nguyên cần phải được đặt trong một giải pháp tổng hợp và hiện thực trong

quy hoạch và chính sách phát triển quốc gia.

- Cần tạo ra những sản phẩm mới để bảo vệ tài nguyên và tránh những lãng phí, thử nghiệm chúng và áp

dụng chúng.

- Hoạt động nhằm ổn định dân số phải dựa trên sự hiểu biết các nhân tố tương tác với nhau để xác định

KÍCH THƯỚC của gia đình.

- Muốn đứng vững trong khả năng chịu tải của Trái đất và điều kiện để cải thiện chất lượng cuộc sống của

con người, cần có những hoạt động nhằm quản lý và bảo vệ các hệ sinh thái bền vững.

(6). Thay đổi thái độ và hành vi cá nhân.

Để thay đổi thái độ và hành vi của con người cần phải có một chiến dịch thông tin do phong trào phi Chính

phủ đảm nhiệm được các Chính phủ khác khuyến khích.

Nền giáo dục chính thống về môi trường cho trẻ em và người lớn cần phải được phổ cập và kết hợp với

giáo dục ở tất cả các cấp.

Cần phải có những hỗ trợ hơn nữa để giúp đào tạo về phát triển bền vững.

(7). Giúp cho các cộng đồng có khả năng tự giữ gìn môi trường của mình.

Môi trường là ngôi nhà chung, không phải của riêng một cá nhân nào, cộng đồng nào. Vì vậy, việc cứu lấy

Trái đất và xây dựng một cuộc sống bền vững phụ thuộc vào niềm tin và sự đóng góp của mỗi cá nhân. Tuy nhiên,

những cộng đồng cần phải có được thẩm quyền, khả năng và kiến thức để hoạt động. Có 3 loại hoạt động:

- Các cộng đồng cần có sự kiểm soát hữu hiệu công việc của chính họ.

- Các cộng đồng phải được cung cấp nhu cầu thiết yếu của mình trong khi họ tiến hành bảo vệ môi trường.

- Giao quyền lực để giúp các chính quyền địa phương và các cộng đồng thực hiện được vai trò của mình

trong việc gìn giữ môi trường.

(8). Đưa ra một khuôn mẫu quốc gia cho sự phát triển tổng hợp và bảo vệ.

Page 33: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Để đạt tới một nền đạo đức cho lối sống bền vững, mỗi người cần kiểm tra lại phẩm chất của mình và thay

đổi thái độ.

Một xã hội muốn bền vững phải biết kết hợp hài hòa giữa phát triển và bảo vệ môi trường, phải xây dựng

được một sự đồng tam nhất trí và đạo đức cuộc sống bền vững trong các cộng đồng.

Một quốc gia muốn đạt tới tính bền vững cần phải bao gồm toàn bộ quyền lợi, phát hiện và ngăn chặn các

vấn đề trước khi chúng nảy sinh. Chương trình này phải thích ứng, liên tục đính chính phương hướng hoạt động

của mình để phù hợp với thực tế và những nhu cầu mới.

Hội đồng quốc gia cần phải có 4 thành phần:

- Phải có những tổ chức có quan điểm tổng hợp, nhìn xa trông rộng, quan hệ giữa các khu vực khi quyết

định.

- Tất cả các nước cần phải có một hệ thống toàn diện về luật môi trường nhằm bảo vệ quyền sống của con

người, quyền lợi của các thế hệ mai sau, sức sản xuất và sự đa dạng của Trái đất.

- Những chính sách kinh tế và cải tiến công nghệ để nâng cao phúc lợi từ một nguồn tài nguyên và duy trì

sự giàu có của thiên nhiên.

- Vấn đề kiến thức, dựa trên kết quả nghiên cứu và giám sát.

(9). Xây dựng khối liên minh toàn cầu.

Tính bền vững toàn cầu phụ thuộc vào sự liên minh vững chắc giữa tất cả các quốc gia nhưng mức độ phát

triển trên thế giới lại không đồng đều và các nước có thu nhập thấp hơn được giúp đỡ để phát triển bền vững và để

bảo vệ môi trường của mình. Cần thiết phải:

- Tăng cường luật pháp quốc tế.

- Giúp đỡ các nước có thu nhập thấp hơn xác định được những ưu tiên về môi trường.

- Xoay vòng các dòng tài chính.

- Tăng cường những cam kết và quyền lực quốc tế để đạt được sự bền vững.

Mục tiêu của quản lý môi trường

Mục tiêu cơ bản của công tác quản lý môi trường là phát triển bền vững, giữ cho được sự cân bằng giữa phát triển

kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường (BVMT). Nói cách khác, phát triển kinh tế xã hội tạo ra tiềm lực kinh tế để

BVMT, còn BVMT tạo ra các tiềm năng tự nhiên và xã hội mới cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội trong

tương lai [3].

Tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, hệ thống pháp lý, mục tiêu phát triển ưu tiên của từng quốc gia,

mục tiêu quản lý môi trường có thể thay đổi theo thời gian và có những ưu tiên riêng đối với mỗi quốc gia.

Theo Chỉ thị 36 CT/TW của Bộ Chính trị, Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, một số mục

tiêu cụ thể của công tác quản lý môi trường Việt Nam hiện nay là:

- Khắc phục và phòng chống suy thoái, ô nhiễm môi trường phát sinh trong hoạt động sống của con người.

- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về môi trường từ Trung ương đến địa phương, công tác nghiên

cứu, đào tạo cán bộ về môi trường

Page 34: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

- Hoàn chỉnh hệ thống văn bản luật pháp bảo vệ môi trường, ban hành các chính sách về phát triển kinh tế

xã hội phải gắn với bảo vệ môi trường, nghiêm chỉnh thi hành luật bảo vệ môi trường.

- Phát triển bền vững kinh tế và xã hội quốc gia theo 9 nguyên tắc của một xã hội bền vững do hội nghị

Rio-92 đề xuất. Các khía cạnh của phát triển bền vững bao gồm:

+ Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng.

+ Cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.

+ Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của trái đất.

+ Giữ vững trong khả năng chịu đựng của trái đất.

+ Thay đổi thái độ, hành vi và xây dựng đạo đức mới vì sự phát triển bền vững.

+ Tạo điều kiện để cho các cộng đồng tự quản lý lấy môi trường của mình.

+ Tạo ra một cơ cấu quốc gia thống nhất thuận lợi cho việc phát triển bền vững.

+ Xây dựng khối liên minh toàn thê giới về bảo vệ và phát triển.

+ Xây dựng một xã hội bền vững.

- Phát triển bền vững kinh tế, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, không tạo ra ô nhiễm và suy thoái

chất luợng môi trường sống, nâng cao sự văn minh và công bằng xã hội.

- Xây dựng các công cụ có hiệu lực quản lý môi trường quốc gia và các vùng lãnh thổ. Các công cụ trên

phải thích hợp cho từng ngành, từng địa phương và cộng đồng dân cư.

III.2. Sự tác động qua lại giữa môi trường và con người

                          

III.2.1. Tác động của các yếu tố môi trường tự nhiên đến con người                     

- Tích cực: Môi trường tự nhiên cung cấp nguyên liệu và không gian cho sản xuất xã hội. Con người sống

trên Trái đất cần có không khí để hít thở, nước và thực phẩm để nuôi dưỡng cơ thể, đất đai để xây dựng nhà của,

trồng cây, chăn nuôi và tiến hành các hoạt động sản xuất…Môi trường tự nhiên gắn liền với sự tồn tại của con

ngườivà là cơ sở để con người sống và phát triển

- Tiêu cực: Môi trường tự nhiên cung cấp tài nguyên cần thiết cho con người duy trì sự sống. Tuy nhiên, cũng phải

nói rằng môi trường tự nhiên cũng là nơi gây ra nhiều thảm họa cho con người (thiên tai), và các thảm họa này sẽ

tăng lên nếu con người gia tăng các hoạt động mang tính tàn phá môi trường, gây mất cân bằng tự nhiên

[17].                              

III.2.2. Tác động của con người đến môi trường tự nhiên

- Tích cực: Con người cải tạo môi trường tự nhiên thông qua việc cải tạo đất, nguồn nước, trồng cây xanh,

trồng rừng, bảo vệ các loài động thực vật quí hiếm. Tuy nhiên phần lớn hoạt động của con người điều mang lại tác

động tiêu cực cho môi trường tự nhiên [17].

- Tiêu cực [17]:

Page 35: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

+ Chặt phá rừng, chuyển đất rừng thành đất nông nghiệp làm mất đi nhiều loại động, thực vật quý hiếm,

tăng xói mòn đất, thay đổi khả năng điều hoà nước và biến đổi khí hậu...

+ Gây ô nhiễm môi trường do các loại chất thải sinh hoạt và công nghiệp

+ Các hoạt động của con người trên trái đất ngăn cản chu trình tuần hoàn nước, ví dụ đắp đập, xây nhà máy

thuỷ điện, phá rừng đầu nguồn... Việc này có thể gây ra úng ngập hoặc khô hạn nhiều khu vực, thay đổi điều kiện

sống bình thường của các sinh vật nước...

+ Gây mất cân bằng sinh thái thông qua việc: Săn bắn quá mức, đánh bắt quá mức. Săn bắt các loài động

vật quý hiếm như rái cá, sếu đầu đỏ, lợn rừng... có thể dẫn đến sự tuyệt chủng.

Vai trò của quản lí môi trường đối với sự phát triển bền vững

Thứ nhất, môi trường không những chỉ cung cấp “đầu vào” mà còn chứa đựng “đầu ra” cho các quá trình

sản xuất và đời sống.

Hoạt động sản xuất là một quá trình bắt đầu từ việc sử dụng nguyên, nhiên liệu, vật tư, thiết bị máy móc, đất đai,

cơ sở vật chất kỹ thuật khác, sức lao động của con người để tạo ra sản phẩm hàng hóa. Những dạng vật chất trên

không phải gì khác, mà chính là các yếu tố môi trường.

Các hoạt động sống cũng vậy, con người ta cũng cần có không khí để thở, cần có nhà để ở, cần có phương tiện để

đi lại, cần có chỗ vui chơi giải trí, học tập nâng cao hiểu biết,... Những cái đó không gì khác là các yếu tố môi

trường.

Như vậy chính các yếu tố môi trường (yếu tố vật chất kể trên - kể cả sức lao động) là “đầu vào” của quá trình sản

xuất và các hoạt động sống của con người. Hay nói cách khác: Môi trường là “đầu vào” của sản xuất và đời sống.

Tuy nhiên, cũng phải nói rằng môi trường tự nhiên cũng có thể là nơi gây ra nhiều thảm họa cho con người (thiên

tai), và các thảm họa này sẽ tăng lên nếu con người gia tăng các hoạt động mang tính tàn phá môi trường, gây mất

cân bằng tự nhiên.

Ngược lại môi trường tự nhiên cũng lại là nơi chứa đựng, đồng hóa “đầu ra” các chất thải của các quá trình hoạt

động sản xuất và đời sống. Quá trình sản xuất thải ra môi trường rất nhiều chất thải (cả khí thải, nước thải, chất

thải rắn). Trong các chất thải này có thể có rất nhiều loại độc hại làm ô nhiễm, suy thoái, hoặc gây ra các sự cố về

môi trường. Quá trình sinh hoạt, tiêu dùng của xã hội loài người cũng thải ra môi trường rất nhiều chất thải. Những

chất thải này nếu không được xử lý tốt cũng sẽ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Vấn đề ở đây là phải làm thế nào để hạn chế được nhiều nhất các chất thải, đặc biệt là chất thải gây ô nhiễm, tác

động tiêu cực đối với môi trường.

Thứ hai, môi trường liên quan đến tính ổn định và bền vững của sự phát triển KT-XH.

Page 36: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Phát triển KT-XH là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của con người qua việc sản xuất ra

của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng văn hóa. Phát triển là xu thế chung của từng cá nhân

cũng như của cả loài người trong quá trình sống. Giữa môi trường và sự phát triển có mối quan hệ chặt chẽ: Môi

trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi

trường.

Trong hệ thống KT-XH, hàng hóa được di chuyển từ sản xuất đến lưu thông, phân phối và tiêu dùng cùng với

dòng luân chuyển của nguyên liệu, năng lượng, sản phẩm, chất thải. Các thành phần đó luôn luôn tương tác với

các thành phần tự nhiên và xã hội của hệ thống môi trường đang tồn tại trong địa bàn đó.

Tác động của con người đến môi trường thể hiện ở khía cạnh có lợi là cải tạo môi trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh

phí cần thiết cho quá trình cải tạo đó, nhưng có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên hoặc nhân tạo.

Mặt khác, môi trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến sự phát triển KT-XH thông qua việc làm suy thoái

nguồn tài nguyên - đối tượng của sự phát triển KT-XH hoặc gây ra các thảm họa, thiên tai đối với các hoạt động

KT-XH trong khu vực.

Ở các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế khác nhau có các xu hướng gây ô nhiễm môi truờng khác nhau. Ví dụ:

- Ô nhiễm do dư thừa: 20% dân số thế giới ở các nước giàu hiện sử dụng 80% tài nguyên và năng lương của loài

người. Sản xuất công nghiệp phát triển mạnh, hoạt động của quá nhiều các phương tiện giao thông vận tải đã tạo ra

một lượng lớn chất thải độc hại vào môi trường (đặc biệt là khí thải). Hiện nay việc có được mua bán hay không

quyền phát thải khí thải giữa các nước đang là đề tài tranh luận chưa ngã ngũ trong các hội nghị thượng đỉnh về

môi trường, các nước giàu vẫn chưa thực sự tự giác chia sẻ tài lực với các nước nghèo để giải quyết những vấn đề

có liên quan tới môi trường. [10]

- Ô nhiễm do nghèo đói: Mặc dù chiếm tới 80% dân số thế giới, song chỉ sử dụng 20% tài nguyên và năng lượng

của thế giới, nhưng những người nghèo khổ ở các nước nghèo chỉ có con đường duy nhất là khai thác tài nguyên

thiên nhiên (rừng, khoáng sản, đất đai,...) mà không có khả năng hoàn phục. Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) về

môi trường họp vào tháng 1/2002 tại Trung Quốc đã cho rằng nghèo đói là thách thức lớn nhất đối với công tác

bảo vệ môi trường (BVMT) hiện nay. Do vậy, để giải quyết vấn đề môi trường, trước hết các nước giàu phải có

trách nhiệm giúp đỡ các nước nghèo giải quyết nạn nghèo đói. [10]

Như vậy, để phát triển, dù là giàu có hay nghèo đói đều tạo ra khả năng gây ô nhiễm môi trường. Vấn đề ở đây là

phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển và BVMT. Để phát triển bền vững không được khai thác quá

mức dẫn tới hủy hoại tài nguyên, môi trường; thực hiện các giải pháp sản xuất sạch, phát triển sản xuất đi đôi với

các giải pháp xử lý môi trường; bảo tồn các nguồn gen động vật, thực vật; bảo tồn đa dạng sinh học; không ngừng

nâng cao nhận thức của nhân dân về BVMT,...

Page 37: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Thứ ba, môi trường có liên quan tới tương lai của đất nước, dân tộc.

Như trên đã nói, BVMT chính là để giúp cho sự phát triển kinh tế cũng như xã hội được bền vững. KT-XH

phát triển giúp chúng ta có đủ điều kiện để đảm bảo an ninh quốc phòng, giữ vững độc lập chủ quyền của dân tộc.

Điều đó lại tạo điều kiện ổn định chính trị xã hội để KT-XH phát triển. BVMT là việc làm không chỉ có ý nghĩa

hiện tại, mà quan trọng hơn, cao cả hơn là nó có ý nghĩa cho tương lai. Nếu một sự phát triển có mang lại những

lợi ích kinh tế trước mắt mà khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, hủy hoại môi trường, làm cho các thế hệ sau

không còn điều kiện để phát triển mọi mặt (cả về kinh tế, xã hội, thể chất, trí tuệ con người...), thì sự phát triển đó

phỏng có ích gì! Nếu hôm nay thế hệ chúng ta không quan tâm tới, không làm tốt công tác BVMT, làm cho môi

trường bị hủy hoại thì trong tương lai, con cháu chúng ta chắc chắn sẽ phải gánh chịu những hậu quả tồi tệ [10].

III.4. Các nguyên tắc quản lý môi trường

Các nguyên tắc chủ yếu của công tác quản lý môi trường bao gồm:

- Hướng công tác quản lý môi trường tới mục tiêu phát triển bền vững kinh tế xã hội đất nước, giữ cân

bằng giữa phát triển và bảo vệ môi trường.

- Kết hợp các mục tiêu quốc tế - quốc gia - vùng lãnh thổ và cộng đồng dân cư trong việc quản lý môi

trường.

- Quản lý môi trường cần được thực hiện bằng nhiều biện pháp và công cụ tổng hợp thích hợp.

- Phòng chống, ngăn ngừa tai biến và suy thoái môi trường cần được ưu tiên hơn việc phải xử lý, hồi phục

môi trường nếu để gây ra ô nhiễm môi trường.

- Người gây ô nhiễm phải trả tiền cho các tổn thất do ô nhiễm môi trường gây ra và các chi phí xử lý, hồi

phục môi trường bị ô nhiễm. Người sử dụng các thành phần môi trường phải trả tiền cho việc sử dụng gây ra ô

nhiễm đó

III.5. Cơ sở khoa học của quản lý môi trường

III.5.1. Cơ sở triết học của quản lý môi trường

Nguyên lý về tính thống nhất vật chất thế giới gắn tự nhiên, con người và xã hội thành một hệ thống rộng

lớn "Tự nhiên - Con người - Xã hội", trong đó yếu tố con người giữ vai trò rất quan trọng. Sự thống nhất của hệ

thống trên được thực hiện trong các chu trình sinh địa hoá của 5 thành phần cơ bản [2]:

- Sinh vật sản xuất (tảo và cây xanh) có chức năng tổng hợp chất hữu cơ từ các chất vô cơ dưới tác động

của quá trình quang hợp.

- Sinh vật tiêu thụ là toàn bộ động vật sử dụng chất hữu cơ có sẵn, tạo ra các chất thải.

- Sinh vật phân huỷ (vi khuẩn, nấm) có chức năng phân huỷ các chất thải, chuyển chúng thành các chất vô

cơ đơn giản.

- Con người và xã hội loài người.

- Các chất vô cơ và hữu cơ cần thiết cho sự sống của sinh vật và con người với số lượng ngày một tăng.

III.5.2. Cơ sở khoa học - kỹ thuật - công nghệ của quản lý môi trường

Page 38: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo

vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế xã hội quốc gia. Các nguyên tắc quản lý môi trường,

các công cụ thực hiện việc giám sát chất lượng môi trường, các phương pháp xử lý môi trường bị ô nhiễm được

xây dựng trên cơ sở sự hình thành và phát triển ngành khoa học môi trường.

Nhờ sự tập trung quan tâm cao độ của các nhà khoa học thế giới, trong thời gian từ năm 1960 đến nay nhiều số

liệu, tài liệu nghiên cứu về môi trường đã được tổng kết và biên soạn thành các giáo trình, chuyên khảo. Trong đó,

có nhiều tài liệu cơ sở, phương pháp luận nghiên cứu môi trường, các nguyên lý và quy luật môi trường.

Nhờ kỹ thuật và công nghệ môi trường, các vấn đề ô nhiễm do hoạt động sản xuất của con người đang được

nghiên cứu, xử lý hoặc phòng tránh, ngăn ngừa. Các kỹ thuật phân tích, đo đạc, giám sát chất lượng môi trường

như kỹ thuật viễn thám, tin học được phát triển ở nhiều nước phát triển trên thế giới [5].

Tóm lại, quản lý môi trường cầu nối giữa khoa học môi trường với hệ thống tự nhiên - con người - xã hội đã được

phát triển trên nền phát triển của các bộ môn chuyên ngành [2].

III.5.3. Cơ sở kinh tế của quản lý môi trường

Quản lý môi trường được hình thành trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường và thực hiện điều tiết xã hội thông

qua các công cụ kinh tế [2].

Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động phát triển và sản xuất của cải vật chất diễn ra dưới sức ép của sự trao đổi

hàng hoá theo giá trị. Loại hàng hoá có chất lượng tốt và giá thành rẻ sẽ được tiêu thụ nhanh. Trong khi đó, loại

hàng hoá kém chất lượng và đắt sẽ không có chỗ đứng. Vì vậy, chúng ta có thể dùng các phương pháp và công cụ

kinh tế để đánh giá và định hướng hoạt động phát triển sản xuất có lợi cho công tác bảo vệ môi trường [2].

Các công cụ kinh tế rất đa dạng gồm các loại thuế, phí và lệ phí, cota ô nhiễm, quy chế đóng góp có bồi hoàn, trợ

cấp kinh tế, nhãn sinh thái, hệ thống các tiêu chuẩn ISO [5].

III.5.4. Cơ sở luật pháp của quản lý môi trường

Cơ sở luật pháp của quản lý môi trường là các văn bản về luật quốc tế và luật quốc gia về lĩnh vực môi trường.

Luật quốc tế về môi trường là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm quốc tế điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc

gia, giữa quốc gia và tổ chức quốc tế trong việc ngăn chặn, loại trừ thiệt hại gây ra cho môi trường của từng quốc

gia và môi trường ngoài phạm vi tàn phá quốc gia. Các văn bản luật quốc tế về môi trường được hình thành một

cách chính thức từ thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, giữa các quốc gia châu Âu, châu Mỹ, châu Phi. Từ hội nghị quốc

tế về "Môi trường con người" tổ chức năm 1972 tại Thụy Điển và sau Hội nghị thượng đỉnh Rio 92 có rất nhiều

văn bản về luật quốc tế được soạn thảo và ký kết. Cho đến nay đã có hàng nghìn các văn bản luật quốc tế về môi

trường, trong đó nhiều văn bản đã được chính phủ Việt Nam tham gia ký kết.

Trong phạm vi quốc gia, vấn đề môi trường được đề cập trong nhiều bộ luật, trong đó Luật Bảo vệ Môi trường

được quốc hội nước Việt Nam thông qua ngày 27/12/1993 là văn bản quan trọng nhất. Chính phủ đã ban hành

Nghị định 175/CP ngày 18/10/1994 về hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ Môi trường và Nghị định 26/CP ngày

26/4/1996 về Xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường. Bộ Luật hình sự, hàng loạt các thông tư, quy

Page 39: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

định, quyết định của các ngành chức năng về thực hiện luật môi trường đã được ban hành. Một số tiêu chuẩn môi

trường chủ yếu được soạn thảo và thông qua.

III.6. CÔNG CỤ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG

III.6.1. Khái niệm chung về công cụ quản lý môi trường

Công cụ quản lý môi trường là các biện pháp hành động thực hiện công tác quản lý môi trường của nhà nước, các

tổ chức khoa học và sản xuất. Mỗi một công cụ có một chức năng và phạm vi tác động nhất định, liên kết và hỗ trợ

lẫn nhau [1].

Công cụ quản lý môi trường có thể phân loại theo chức năng gồm: Công cụ điều chỉnh vĩ mô, công cụ hành

động và công cụ hỗ trợ. Công cụ điều chỉnh vĩ mô là luật pháp và chính sách. Công cụ hành động là các công cụ

có tác động trực tiếp tới hoạt động kinh tế - xã hội, như các quy định hành chính, quy định xử phạt v.v... và công

cụ kinh tế. Công cụ hành động là vũ khí quan trọng nhất của các tổ chức môi trường trong công tác bảo vệ môi

trường. Thuộc về loại này có các công cụ kỹ thuật như GIS, mô hình hoá, đánh giá môi trường, kiểm toán môi

trường, quan trắc môi trường. Công cụ quản lý môi trường có thể phân loại theo bản chất thành các loại cơ bản

sau:

Công cụ luật pháp chính sách bao gồm các văn bản về luật quốc tế, luật quốc gia, các văn bản khác dưới

luật, các kế hoạch và chính sách môi trường quốc gia, các ngành kinh tế, các địa phương.

Các công cụ kinh tế gồm các loại thuế, phí đánh vào thu nhập bằng tiền của hoạt động sản xuất kinh

doanh. Các công cụ này chỉ áp dụng có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường.

Các công cụ kỹ thuật quản lý thực hiện vai trò kiểm soát và giám sát nhà nước về chất lượng và thành

phần môi trường, về sự hình thành và phân bố chất ô nhiễm trong môi trường. Các công cụ kỹ thuật quản lý có thể

gồm các đánh giá môi trường, minitoring môi trường, xử lý chất thải, tái chế và tái sử dụng chất thải. Các công cụ

kỹ thuật quản lý có thể được thực hiện thành công trong bất kỳ nền kinh tế phát triển như thế nào [2].

III.6.2. Các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường

Các công cụ kinh tế được sử dụng nhằm tác động tới chi phí và lợi ích trong hoạt động của tổ chức kinh tế để tạo

ra các tác động tới hành vi ứng xử của nhà sản xuất có lợi cho môi trường. Các công cụ kinh tế trong quản lý môi

trường gồm [2]:

- Thuế và phí môi trường.

- Giấy phép chất thải có thể mua bán được hay "cota ô nhiễm".

- Ký quỹ môi trường.

- Trợ cấp môi trường.

- Nhãn sinh thái.

Việc sử dụng các công cụ kinh tế trên ở các nước cho thấy một số tác động tích cực như các hành vi môi trường

được thuế điều chỉnh một cách tự giác, các chi phí của xã hội cho công tác bảo vệ môi trường có hiệu quả hơn,

khuyến khích việc nghiên cứu triển khai kỹ thuật công nghệ có lợi cho bảo vệ môi trường, gia tăng nguồn thu nhập

phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường và cho ngân sách nhà nước, duy trì tốt giá trị môi trường của quốc gia.

Page 40: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

III.6.2.1. Thuế và phí môi trường

Thuế và phí môi trường là các nguồn thu ngân sách do các tổ chức và cá nhân sử dụng môi trường đóng góp. Khác

với thuế, phần thu về phí môi trường chỉ được chi cho các hoạt động bảo vệ môi trường.

Dựa vào đối tượng đánh thuế và phí có thể phân ra các loại sau:

- Thuế và phí chất thải.

- Thuế và phí rác thải.

- Thuế và phí nước thải.

- Thuế và phí ô nhiễm không khí.

- Thuế và phí tiếng ồn.

- Phí đánh vào người sử dụng.

- Thuế và phí đánh vào sản phẩm mà quá trình sử dụng và sau sử dụng gây ra ô nhiễm (ví dụ thuế sunfua,

cacbon, phân bón...).

- Thuế và phí hành chính nhằm đóng góp tài chính cho việc cấp phép, giám sát và quản lý hành chính đối

với môi trường [3].

- Phí dịch vụ môi trường : là một dạng phí phải trả khi sử dụng một số dịch vụ môi trường. Mức phí tương

ứng với chi phí cho dịch vụ môi trường đó. Bên cạnh đó, phí dịch vụ môi trường còn có mục địch hạn chế việc sử

dụng quá mức các dịch vụ môi trường [5].

Có hai dạng dịch vụ môi trường chính và theo đó 2 dạng phí dịch vụ môi trường là dịch vụ cung cấp nước sạch, xử

lý nước thải và dịch vụ thu gom chất thải rắn. Đối với một số nước nông nghiệp, dịch vụ cung cấp nước sạch và vệ

sinh môi trường nông thôn cũng là một vấn đề cần quan tâm nghiên cứu để có chính sách áp dụng phù hợp [5].

III.6.2.2. Cota gây ô nhiễm

"Côta gây ô nhiễm là một loại giấy phép xả thải chất thải có thể chuyển nhượng mà thông qua đó, nhà nước công

nhận quyền các nhà máy, xí nghiệp, v.v... được phép thải các chất gây ô nhiễm vào môi trường" [3].

III.6.2.3. Ký quỹ môi trường

Ký quỹ môi trường là công cụ kinh tế áp dụng cho các ngành kinh tế dễ gây ra ô nhiễm môi trường. Nội dung

chính của ký quỹ môi trường là yêu cầu các doanh nghiệp trước khi đầu tư phải đặt cọc tại ngân hàng một khoản

tiền nào đó đủ lớn để đảm bảo cho việc thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và công tác bảo vệ môi trường. Số tiền ký

quỹ phải lớn hơn hoặc xấp xỉ với kinh phí cần để khắc phục môi trường nếu doanh nghiệp gây ra ô nhiễm hoặc suy

thoái môi trường [5].

Ký quỹ môi trường tạo ra lợi ích, đối với nhà nước không phải đầu tư kinh phí khắc phục môi trường từ ngân sách,

khuyến khích xí nghiệp hoạt động bảo vệ môi trường. Xí nghiệp sẽ có lợi ích do lấy lại vốn khi không xảy ra ô

nhiễm hoặc suy thoái môi trường.

III.6.2.4. Trợ cấp môi trường

Trợ cấp môi trường là công cụ kinh tế quan trọng được sử dụng ở rất nhiều nước châu Âu thuộc Tổ chức Hợp tác

và phát triển kinh tế (OECD). Trợ cấp môi trường gồm các dạng sau [2] :

Page 41: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

- Trợ cấp không hoàn lại.

- Các khoản cho vay ưu đãi.

- Cho phép khấu hao nhanh.

- Ưu đãi thuế.

Chức năng chính của trợ cấp là giúp đỡ các ngành công nghiệp, nông nghiệp và các ngành khác khắc phục ô

nhiễm môi trường trong điều kiện, khi tình trạng ô nhiễm môi trường quá nặng nề hoặc khả năng tài chính của

doanh nghiệp không chịu đựng được đối với việc phải xử lý ô nhiễm môi trường. Trợ cấp này chỉ là biện pháp tạm

thời, nếu vận dụng không thích hợp hoặc kéo dài có thể dẫn đến phi hiệu quả kinh tế, vì trợ cấp đi ngược với

nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền.

III.6.2.5. Nhãn sinh thái

"Nhãn sinh thái là một danh hiệu của nhà nước cấp cho các sản phẩm không gây ra ô nhiễm môi trường trong quá

trình sản xuất ra sản phẩm hoặc quá trình sử dụng các sản phẩm đó"

IV. CÔNG TÁC QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

IV.1. Nội dung công tác quản lý nhà nước về môi trường của Việt Nam

Nội dung công tác quản lý nhà nước về môi trường của Việt Nam được thể hiện trong Điều 37, Luật Bảo

vệ Môi trường, gồm các điểm:

- Ban hành và tổ chức việc thực hiện các văn bản pháp quy về bảo vệ môi trường, ban hành hệ thống tiêu

chuẩn môi trường.

- Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường, kế hoạch phòng chống, khắc phục

suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường.

- Xây dựng, quản lý các công trình bảo vệ môi trường, các công trình có liên quan đến bảo vệ môi trường.

- Tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc, định kỳ đánh giá hiện trạng môi trường, dự báo diễn biến

môi trường.

- Thẩm định các báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án và các cơ sở sản xuất kinh doanh.

- Cấp và thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường.

- Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường, giải quyết các khiếu nại, tố

cáo, tranh chấp về bảo vệ môi trường, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.

- Đào tạo cán bộ về khoa học và quản lý môi trường.

- Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

- Thiết lập quan hệ quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

IV.2. Các hình thức cơ bản quản lý môi trường ở Việt Nam

IV.2.1. Khái niệm hình thức quản lý môi trường

Là các phương sách trong quản lý môi trường nhằm đem lại những lợi ích to lớn cho con người, tạo điều

kiện cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia [7].

Page 42: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Theo Arnstein (1969), các hình thức quản lý khác nhau nằm trong hai hình thức cơ bản là quản lý hành

chính nhà nước và quản lý cộng đồng. Ngoài ra đồng quản lý hay quản lý nguồn lợi dựa vào cộng đồng

(QLNLDVCĐ) là hình thức quản lý trung gian giữa hai hình thức trên.

IV.2.2. Quản lý nhà nước

Quản lý nhà nước là quản lý môi trường thông qua các công cụ luật pháp, chính sách về môi trường trên

phương diện quốc tế và quốc gia.

Qua tìm hiểu về hình thức quản lý Nhà nước, chúng tôi rút ra một số ưu và nhược điểm sau:

* Ưu điểm

- Quản lý môi trường trên phạm vi vĩ mô.

- Đánh giá được hiệu quả một cách tổng hợp.

- Định hướng được mục tiêu, chương trình hành động.

- Đảm bảo tính thống nhất giữa các tổ chức, cá nhân, giữa các ban ngành chức năng và giữa các địa

phương.

* Nhược điểm:

- Việc quản lý nhà nước chủ yếu dựa trên công cụ luật pháp, các chế tài vì thế việc thực hiện tỏ ra cứng

nhắc, chưa đồng bộ và phù hợp với nhu cầu của cộng đồng và quốc gia.

- Nhiều tổ chức, cá nhân khi vi phạm nhưng không nhận trách nhiệm. Tuy vậy, nhà nước vẫn chưa có biện

pháp xử lý hiệu quả, để lại những hậu quả nặng nề cho môi trường.

- Các hình thức xử lý vi phạm còn mang tính chiếu lệ, chưa đủ sức răn đe, ngăn ngừa.

- Việc quản lý môi trường chưa thực sự mang lại hiệu quả đối với chất lượng cuộc sống của người dân do

đó trong quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn, trở ngại như người dân tiếp tay, bảo vệ cho lâm tặc, …

- Nhận thức về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững của nhiều cấp ủy, lãnh đạo các cấp, các ngành,

doanh nghiệp và nhân dân chưa đầy đủ; ý thức bảo vệ môi trường nhìn chung còn thấp.

- Việc hoàn thiện cơ chế, chính sách và hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường còn chậm,

chưa đồng bộ. Đội ngũ cán bộ quản lý môi trường còn thiếu về số lượng, hạn chế về năng lực và trình độ chuyên

môn, nghiệp vụ. Trình độ khoa học - công nghệ bảo vệ môi trường, xử lý, giải quyết ô nhiễm môi trường còn thấp.

- Nguồn vốn đầu tư và chi thường xuyên cho bảo vệ môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu.

- Tình trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường diễn ra khá phổ biến. Nhiều vi phạm có tổ chức, tinh

vi, một số hành vi có dấu hiệu tội phạm.

IV.2.3. Quản lý tư nhân

Quản lý tư nhân (cá nhân, hộ gia đình) là hình thức quản lý thấp nhất về quy mô. Trong đó, mỗi cá thể là

một chủ thể được giao trách nhiệm quản lý chất lượng môi trường ở một khu vực trong một lĩnh vực nào đó. Ví dụ

như: Quản lý đất, quản lý rừng, quản lý nguồn lợi thủy sản,…

Page 43: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Nhưng nếu quá nhấn mạnh đến hình thức quản lý tư nhân lại dẫn đến những hậu quả xã hội khác. Như ở

Philippin người ta chỉ coi trọng quản lý rừng tư nhân và đã gây nên hậu quả xã hội: phân hoá giàu nghèo mãnh

liệt, Nhà nước mất quyền lợi, không kiểm soát được hoạt động sản xuất kinh doanh về rừng của tư nhân.

Hình 15. Sơ đồ ví dụ cho hình thức quản lý nguồn tài nguyên rừng ở nông hộ

Trên cơ sở phân tích sơ đồ trên chúng tôi nhận thấy hình thức này có những ưu điểm cũng như hạn chế sau:

* Ưu điểm:

- Phù hợp với chính sách hiện hành nên dễ thực hiện.

- Người nhận đất nhận rừng có chủ quyền trên mảnh đất của mình (có sổ đỏ) nên có điều kiện vay vốn

ngân hàng để đầu tư, phát triển, chủ động kế thừa, chuyển nhượng.

- Gắn được trách nhiệm với quyền lợi của người được nhận đất, nhận rừng.

- Phát huy được sự năng động của nông hộ trong việc quản lý phát triển rừng.

* Nhược điểm:

- Phân chia đất rừng cụ thể về mặt pháp lý đến từng hộ có nguy cơ làm mất truyền thống quản lý tài

nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng, dòng họ. Đây là tập quán truyền thống quý báu của người dân bản địa, họ

thường coi tài sản từ thiên nhiên là của cả cộng đồng, mọi người đều có quyền hưởng.

- Thời gian nhận đất nhận rừng khá dài (thường từ 20 - 50 năm) nên khi gia đình tách hộ sẽ có nguy cơ

phát sinh mâu thuẫn, xé lẻ rừng vốn diện tích đã nhỏ bé.

- Có khả năng phát sinh mâu thuẫn giữa các hộ trong phân chia lợi ích, phân chia các loại rừng giàu nghèo,

vị trí xa gần khác nhau. Trong một buôn vẫn có hộ không được nhận đất nhận rừng.

- Khó thúc đẩy các phương thức hợp tác trong quản lý, phát triển rừng.

- Trình độ các hộ khác nhau nên việc nhận thức và thực hiện việc quản lý phát triển rừng sẽ không đồng

đều.

- Dễ mất rừng do một số hộ quá khó khăn hoặc vì tham lợi trước mắt mà sang nhượng rừng trái phép cho

những người sản xuất nông nghiệp.

Page 44: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

IV.2.4. Quản lý cộng đồng

Quản lý cộng đồng (thôn, bản, nhóm hộ, nhóm người cùng hưởng lợi). Mặc dù cộng đồng không phải là

một chủ thể kinh tế, nhưng đây là một loại hình tập thể rất phù hợp với phong tục tập quán của người dân. công

đồng cũng là một chủ thể sở hữu tư liệu sản xuất. Hình thức này cũng có mặt mạnh, mặt yếu của nó. Đối với đồng

bào dân tộc Tây Nguyên, buôn làng có lịch sử phát triển và tồn tại khá bền vững. Họ đã từng gắn bó với nhau

trong sản xuất, đời sống, chống chọi với thiên nhiên và các thế lực thù địch khác để tồn tại và phát triển.

Quản lý rừng cộng đồng không phải là hình thức quản lý mới ra đời, mà nó vốn là loại hình quản lý cổ

truyền của người dân địa phương, cùng quản lý và cùng hưởng thụ. Hình thức này đã tạo nên các phương thức sử

dụng tài nguyên lâu bền và gắn liền với vốn kiến thức bản địa về hệ sinh thái rừng của người dân địa phương.

Quản lý rừng cộng đồng gắn liền với người dân địa phương miền núi. Kiểu quản lý này phổ biến và đã tồn tại

trong một thời gian rất dài, khi mà tài nguyên rừng đang còn dồi dào và khi Nhà nước chưa đủ sức quản lý ở

những vùng xa xôi.

Hiện nay, tại nhiều địa phương có những khu rừng cộng đồng cổ truyền hiện vẫn tồn tại và phát triển.

Sự tồn tại của một số khu rừng cộng đồng cho thấy bản thân hình thức quản lý rừng cộng đồng có những

ưu điểm nhất định. Vậy thì tại sao chúng ta không nghĩ đến việc tạo điều kiện để hình thức quản lý rừng cộng

đồng cùng tồn tại với hai hình thức quản lý rừng nhà nước và rừng tư nhân?

Trên thực tế, không phải bất cứ khu rừng nào Nhà nước cũng quản lý được (những khu rừng nhỏ, phân tán,

ít giá trị) và quản lý tư nhân cũng không thể phủ hết những phần rừng còn lại. Hiện tại, trong tổng số khoảng 10

triệu ha đất có rừng của cả nước, đã giao được 6 triệu ha cho tổ chức kinh tế (lâm trường, đơn vị kinh tế) và 2 triệu

ha cho nông hộ (năm 1998), cùng với khoảng 1 triệu ha rừng đặc dụng; số rừng/đất rừng còn lại (khoảng 1 triệu

ha) vẫn chưa có chủ quản lý.

Vậy thì, phần đất còn lại ai sẽ là người quản lý của những “khu rừng vô chủ” đó ? Nên chăng cùng với giao

rừng/đất rừng cho tư nhân hãy trao lại những khu rừng chưa có chủ này cho các cộng đồng vốn trước kia đã là

“chủ” của nó?

IV.2.5. Quản lý dựa vào cộng đồng

Về mặt lý luận, cộng đồng địa phương đóng vai trò rất quan trọng đối với quá trình thực hiện và giám sát

quá trình thực hiện các quy định của quy ước. Tuy nhiên, theo truyền thống, họ coi công tác bảo vệ và phát triển

môi trường là nhiệm vụ của các cơ quan chức năng đóng trên địa bàn. Đây cũng chính là lý do giải thích tại sao

việc thực hiện các quy ước bảo vệ và phát triển môi trường tại cộng đồng còn chưa thực sự có hiệu quả. Điều này

đòi hỏi phải có sự phối kết hợp nhịp nhàng giữa chính quyền các cấp, đoàn thể của địa phương để việc thực hiện

các quy định của quy ước thực sự có hiệu quả.

Những bài học kinh nghiệm

- Cách tiếp cận áp đặt “từ trên xuống” đã không tạo ra sự tham gia tích cực của cán bộ và người dân địa

phương vào việc quản lý tài nguyên cùng với sự quản lý yếu kém, sự thụ động trong việc lập kế hoạch và sự phụ

Page 45: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

thuộc về tài chính của chính quyền địa phương vào chính quyền trung ương là những nguyên nhân chính hạn chế

thành công của các chương trình, chính sách quản lý tài nguyên của chính phủ trong thời gian qua.

- Chính quyền địa phương cấp cơ sở cần được trao nhiều quyền hơn và cần được đảm bảo các điều kiện

cần thiết về các nguồn lực, khả năng tiếp cận thông tin và hành lang pháp lý thuận lợi để thực thi các quyền được

trao.

- Để sự tham gia thực sự có hiệu quả cần xác định sự hưởng lợi rõ ràng cho các bên có liên quan trong

quản lý tài nguyên, kể cả các cán bộ được trao quyền và người dân địa phương, có như vậy mới tạo ra động lực

cho sự tham gia.

- Người dân cần được thông tin đầy đủ về các chương trình dự án của chính phủ để họ có thể ra các quyết

định đúng đắn và phù hợp về việc tham gia của họ vào các chương trình chính sách này.

- Cần có cơ chế thích hợp cho việc kiểm tra, giám sát các hoạt động của các tổ chức và cá nhân được trao

quyền trong quá trình thực thi các nhiệm vụ được giao,t ừ đó đưa ra những biện pháp thích hợp nâng cao trách

nhiệm giải trình đối với cấp trên và cả đối với người dân địa phương của các cá nhân, tổ chức được trao quyền.

V. PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC MÔI TRƯỜNG

V.1. Giáo dục môi trường

"Giáo dục môi trường là một quá trình thông qua các hoạt động giáo dục chính quy và không chính quy nhằm

giúp con người có được sự hiểu biết, kỹ năng và giá trị tạo điều kiện cho họ tham gia vào phát triển một xã hội

bền vững về sinh thái".

Mục đích của Giáo dục môi trường nhằm vận dụng những kiến thức và kỹ năng vào gìn giữ, bảo tồn, sử dụng môi

trường theo cách thức bền vững cho cả thế hệ hiện tại và tương lai. Nó cũng bao hàm cả việc học tập cách sử dụng

những công nghệ mới nhằm tăng sản lượng và tránh những thảm hoạ môi trường, xoá nghèo đói, tận dụng các cơ

hội và đưa ra những quyết định khôn khéo trong sử dụng tài nguyên. Hơn nữa, nó bao hàm cả việc đạt được những

kỹ năng, có những động lực và cam kết hành động, dù với tư cách cá nhân hay tập thể, để giải quyết những vấn đề

môi trường hiện tại và phòng ngừa những vấn đề mới nảy sinh.

V.2. Truyền thông môi trường

Truyền thông được hiểu là một quá trình trao đổi thông tin, ý tưởng, tình cảm, suy nghĩ, thái độ giữa hai hoặc một

nhóm người với nhau.

"Truyền thông môi trường là một quá trình tương tác xã hội hai chiều nhằm giúp cho những người có liên quan

hiểu được các yếu tố môi trường then chốt, mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau của chúng và cách tác động vào các

vấn đề có liên quan một cách thích hợp để giải quyết các vấn đề về môi trường" [7].

Truyền thông môi trường không nhằm quá nhiều vào việc phổ biến thông tin mà nhằm vào việc chia sẻ nhận thức

về một phương thức sống bền vững và nhằm khả năng giải quyết các vấn đề môi trường cho các nhóm người trong

cộng đồng xã hội.

Mục tiêu của truyền thông môi trường nhằm:

Page 46: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Thông tin cho người bị tác động bởi các vấn đề môi trường biết tình trạng của họ, từ đó họ quan tâm đến

việc tìm kiếm các giải pháp khắc phục.

Huy động các kinh nghiệm, kỹ năng, bí quyết địa phương tham gia vào các chương trình bảo vệ môi

trường.

Thương lượng hoà giải các xung đột, khiếu nại, tranh chấp về môi trường giữa các cơ quan, trong nhân

dân.

Tạo cơ hội cho mọi thành phần trong xã hội tham gia vào việc bảo vệ môi trường, xã hội hoá công tác bảo

vệ môi trường.

Khả năng thay đổi các hành vi sẽ được hữu hiệu hơn thông qua đối thoại thường xuyên trong xã hội.

Truyền thông môi trường được thực hiện chủ yếu qua các phương thức sau:

Chuyển thông tin tới từng cá nhân qua việc tiếp xúc tại nhà, tại cơ quan, gọi điện thoại, gửi thư.

Chuyển thông tin tới từng nhóm qua hội thảo, tập huấn, huấn luyện, họp nhóm, tham quan, khảo sát...

Chuyển thông tin qua các phương tiện truyền thông đại chúng: báo chí, tivi, radio, pano, áp phích, tờ rơi,

phim ảnh,....

Tiếp cận truyền thông qua những buổi biểu diễn lưu động, tham gia hội diễn, các chiến dịch, tham gia các

lễ hội, các ngày kỷ niệm...

PHẦN III. KẾT LUẬN

Muốn phát triển bền vững thì trong phát triển phải tính đến yếu tố môi trường. Sự phân tích của các tác giả

theo 3 vấn đề tác động đến môi trường để chúng ta lựa chọn, xem xét cả trên bình diện quốc tế, quốc gia, vùng

lãnh thổ và từng địa phương. Suy cho cùng thì mỗi chúng ta cần phấn đấu cho một môi trường trong sạch, cho sự

phát triển bền vững của cả chúng ta và các thế hệ mai sau.

Quản lí môi trường là một lĩnh vực của khoa học môi trường, với mục tiêu là sự phát triển bền vững và làm

cho môi trường sạch và xanh nhằm đảm bảo chất lượng cuộc sống của người dân, hạn chế tối đa các tác động có

hại đối với môi trường do các hoạt động phát triển gây nên.

Công tác quản lý môi trường rất cần sự chung tay ủng hộ của các cơ quan đoàn thể và người dân, trong đó

vai trò không thể thiếu của những nhà khoa học nhằm đưa ra những giải pháp đúng đắn và tối ưu nhất.

Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền nâng cao ý thức giữ gìn bảo vệ môi trường đến tất cả các

đối tượng trong xã hội. Tăng cường nghiên cứu, áp dụng các thành tựu của khoa học kĩ thuật vào công tác quản lí

môi trường để nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, nguyên vật liệu cho các quá trình sản xuất và hạn chế tối đa

các tác động có hại đối với môi trường của các quá trình này.

2. Sự tác động của môi trường đến chất lượng dân số.

2.1. Môi trường tự nhiên:

Môi trường tự nhiên có ảnh hưởng lớn đến chất lượng dân số, ảnh hưởng đến cuộc sống của con người:

- Ảnh hưởng đến phương thức sống và lấy thức ăn:

Page 47: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

- Các yếu tố khí hậu có ảnh hưởng:

- Ảnh hưởng của môi trường địa hóa:

- Tác động của tài nguyên lên dân số:

Cạn kiệt tài nguyên:

- Tác động của ô nhiễm lên dân số:

Các hoạt động sinh sống và sản xuất của con người đã gây suy thoái và ô nhiễm môi trường, và ngược lại, môi

trường ô nhiễm đã tác động lên con người:

Ô nhiễm có thể làm giảm dân số cũng như giảm sự phát triển xã hội, kinh tế và công nghệ.

Ô nhiễm làm gia tăng tử vong và bệnh tật nên ảnh hưởng xấu lên kinh tế và xã hội.

Ô nhiễm có thể làm thay đổi thái độ của con người từ đó làm thay đổi luật lệ, cách thức khai thác và sử dụng tài

nguyên.

Ô nhiễm là vấn đề lớn, mang tính toàn cầu, tác hại trực tiếp đến sức khỏe. Sức khỏe và môi trường sống là hai vấn

đề liên quan mật thiết với nhau; còn sức khỏe cư dân là một bức tranh tổng hợp nhất về chất lượng môi trường.

2.1.1. Môi trường đất:

2.1.2. Môi trường nước:

Môi trường nước bao gồm mọi nguồn nước ở đại dương, biển, các sông, hồ, băng tuyết, nước

2.1.3. Môi trường không khí:

2.1.4. Diện tích đất rừng:

Giải pháp cho các vấn đề về rừng

Để bảo vệ và phát triển rừng cần tiến hành các giải pháp sau:

1- Bảo vệ nguyên trạng một số khu vực rừng đặc biệt có giá trị;

2- Khai thác sử dụng hợp lý tài nguyên rừng;

3- Hạn chế ô nhiễm môi trường;

4- Phòng chống cháy rừng;

5- Trồng và bảo vệ rừng;

6- Hạn chế, thay đổi mô hình tiêu thụ và giảm lãng phí gỗ rừng;

7- Phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là cho các cộng đồng địa phương có rừng;

Page 48: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

8- Hợp tác quốc tế, hỗ trợ nguồn tài chính bảo vệ rừng cho khu vực các cộng đồng nghèo, các quốc gia đang phát

triển, đền bù những thiệt hại kinh tế liên quan tới hạn chế khai thác rừng thuộc lãnh thổ của họ vì mục đích sinh

thái, môi trường.

2.1.5. Công tác bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học:

2.2. Môi trường xã hội.

2.2.1. Điều kiện sống:

Những yếu tố của môi trường sống luôn ảnh hưởng trực tiếp rất lớn đến cuộc sống, đến sự phát triển của con

người, đến chất lượng dân số của một quốc gia, một khu vực và của cả thế giới.

Môi trường xã hội là môi trường mà con người là nhân tố trung tâm, tham gia và chi phối môi trường.

Môi trường xã hội bao gồm: chính trị, kinh tế, văn hoá, thể thao, du lịch, giáo dục... xoay quanh con người và con

người lấy đó làm nguồn sống, làm mục tiêu cho mình.

Môi trường xã hội tốt thì các nhân tố cấu thành môi trường sẽ bổ trợ cho nhau, con người sống sẽ được hưởng đầy

đủ các quyền: sống, làm việc, cống hiến, hưởng thụ.

Kinh tế :

Đối với mỗi quốc gia, nền kinh tế luôn đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước, nâng cao

đời sống của người dân và nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của xã hội mỗi quốc gia. Hiện nay, Việt Nam

đang hướng nền kinh tế thị trường của mình theo hướng phát triển bền vững, phát triển nền kinh tế của quốc gia,

nâng cao đời sống của nhân dân, phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu sống của con người. Và nó là điều kiện để

giúp cho sự phát triển, nâng cao chất lượng dân số của Việt Nam.

Nền kinh tế thị trường đã có những tác động vô cùng to lớn đến đời sống của con người. Nền kinh tế phát triển

thúc đảy xã hội phát triển, nâng cao đời sống nhân dân, đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của con người. Nền

kinh tế phát triển cũng có tác động lớn đến chất lượng cuộc sống và chất lượng cuộc sống của người dân, mà chủ

yếu được thể hiện về mặt đáp ứng đày đủ, nâng cao cả về thể chất, trí tuệ và tinh thần trong cuộc sống của người

dân. Chúng ta có thể thấy rất rõ ảnh hưởng mà nền kinh tế tới người dân, cuộc sống của họ.

Trước tiên là nền kinh tế phát triển sẽ đáp ứng được các nhu cầu về thể chất cho người dân. Kinh tế phát triển đảm

bảo cho cuộc sống của người dân, đáp ứng nhu cầu về vật chất như ăn, uống, ở, đảm bảo đủ dinh dưỡng, sức khoẻ

được đảm bảo tránh được các bệnh tật…Chúng ta có thể thấy rõ lợi ích mà nền kinh tế đem lại, người dân không

bị thiếu đói, ăn uống đủ chất, điều kiện sống của người dân tăng lên…Theo đó là sự phát triển về chiều cao, cân

nặng, sức khoẻ, sức bền, sự khéo léo và điều thấy rõ nhất là tuổi thọ trung bình của người dân đã tăng lên khá cao

là 72 tuổi (so với năm 1998 là 65 tuổi). Chúng ta có thể thấy, nền kinh tế có ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống

người dân. Nhu cầu của người dân ngày càng cao, giờ nó không phải là cơm no áo ấm nữa mà là ăn ngon mặc đẹp.

Nếu như năm 1945, khi mà nước ta vừa giành được độc lập, đất nước còn nghèo nàn, lạc hậu, kinh tế nghèo nàn,

Page 49: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

cuộc sống của người dân vô cùng cực khổ, không có đủ lương thực thực phẩm để sống… Và hậu qủa khi đó là

hàng triệu người dân Việt Nam đã bị chết đói, hàng triệu người dân thì mù chữ…Tình hình đất nước khi đó vô

cùng khó khăn, để khắc phục tình hình đất nước, giúp người dân vượt qua khó khăn có được cuộc sống tốt hơn,

Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện “diệt giặc đói, giặc dốt”, cái đói cái dốt cũng đáng sợ như giặc ngoại xâm.

Thứ hai là tác động của nền kinh tế đến sự phát triển trí tuệ con người. Khi kinh tế phát triển, đời sống nhân dân

được đảm bảo và nâng cao hơn, con người được ăn uống đầy đủ, cuộc sống sung túc hơn…là yếu tố góp phần

nâng cao trí tuệ, trình độ văn hoá, khả năng làm việc và nâng cao tay nghề, trình độ khoa học kỹ thuật,…của con

người. Đặc biệt, sự phát triển kinh tế còn là động lực để nhà nước phát triển yếu tố con người. Nước ta đã thực

hiện tốt việc phổ cập giáo dục tiểu học, hướng tới phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở, số người được đoà tạo tay

nghề, có bằng đại học,…cũng ngày càng tăng lên. Điều này không chỉ góp phần thúc đẩy đất nước, xã hội phát

ttriển hơn mà còn cho thấy chất lượng dân số của Việt Nam cũng tăng lên.

Thứ ba, là sự phát triển về mặt tinh thần trong cuộc sống của người dân. Kinh tế thúc đẩy xã hội phát, nhu cầu của

con người ngày càng tăng cao, không chỉ có nhu cầu về vật chất mà còn cả nhu cầu về tinh thần (bao gồm: vui

chơi giải trí, văn hoá, thông tin, hoạt động xã hội…). Và nền kinh tế cũng đã góp phần không nhỏ để đáp ứng nhu

cầu đó của con người. Ngày nay con người có nhiều điều kiện và cơ hội hơn để phát triển, vui chơi, thư giãn, tham

gia các hoạt động xã hội một cách sôi nổi…Con người cũng có nhiều hình thức thư giãn hơn, góp phần làm cho

cuộc sống của con người thêm phong phú, sinh động hơn.

Nhưng nói đến nền kinh tế, ngoài các mặt mạnh mà nền kinh tế đem lại cho con người thì chúng ta cũng phải nói

tới điểm tiêu cực của nó với cuộc sống, xã hội. Sự phát triển nền kinh tế thị trường kéo theo sự phát triển cuả xã

hội, sự du nhập của những nền văn hoá khác nhau trên thế giới…đã ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống, nền văn

hoá dân tộc. Đó là lối sống thiếu lành mạnh, ỷ lại ở một bộ phận thanh thiếu niên, là sự tha hoá về đạo đức, là lối

sống thực dụng coi trọng đồng tiền, tệ nạn xã hội gia tăng…đã dần phá vỡ văn hoá truyền thống dân tộc, đến con

người Việt Nam, đến chất lượng dân số Việt Nam.

Giáo dục:

Nền giáo dục cũng có tác động rất lớn đến chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống. Nền giáo dục của mỗi nước

phản ánh sự phát triển của đất nước đó, phản ánh chất lượng cuộc sống, chất lượng dân số của đất nước đó. Một

nước có nền giáo dục phát triển thì người dân của nước đó cũng sẽ có trình độ, văn hoá cao.

Việt Nam được là một nước có nhiều thành tựu và mặt giáo dục. Từ xưa, cha ông ta đã rất coi trọng công tác giáo

dục, đào tạo nhân tài cho đất nước. Bằng chứng là các khoa thi kén chọn nhân tài cho đất nước đã được tổ chức từ

rất lâu, tù các triều đại nhà Lý, Lê, Trần…Rồi khi đất nước vừa giành được độc lập, chúng ta đã chủ trương xoá

nạn mù chữ “diệt giặc dốt”, nâng cao dân trí đất nước. Và đến bây giờ, nhà nước ta vẫn rất coi trọng công tác giáo

dục, đoà tạo con người thành những nhân tài cho đất nước. Hiện nay, việc giáo dục được thực hiện trên toàn quốc,

nâng cao tỷ lệ biết chữ, tỷ lệ đi học, phổ cập giáo dục tiểu học, nâng cao tỷ lệ người có bằng đại học, số người

được đào tạo nghề,…ngày một tăng cao hơn.

Page 50: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Nhưng nói đến nền kinh tế, ngoài các mặt mạnh mà nền kinh tế đem lại cho con người thì chúng ta cũng phải nói

tới điểm tiêu cực của nó với cuộc sống, xã hội. Sự phát triển nền kinh tế thị trường kéo theo sự phát triển cuả xã

hội, sự du nhập của những nền văn hoá khác nhau trên thế giới…đã ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống, nền văn

hoá dân tộc. Đó là lối sống thiếu lành mạnh, ỷ lại ở một bộ phận thanh thiếu niên, là sự tha hoá về đạo đức, là lối

sống thực dụng coi trọng đồng tiền, tệ nạn xã hội gia tăng…đã dần phá vỡ văn hoá truyền thống dân tộc, đến con

người Việt Nam, đến chất lượng dân số Việt Nam.

Giáo dục đã có ảnh hưởng lớn đến nâng cao chất lượng dân số. Khi con người được đào tạo, được giáo dục, có

kiến thức xã hội, tri thức thì đó sẽ là hành trang giúp con người sống tốt trong xã hội. Có kiến thức con ngưòi sẽ có

biết cách chăm sóc sức khỏe, chăm sóc bản thân và mọi người, biết cách bảo vệ bản thân mình khỏi các bệnh tật,

các tệ nạn trong xã hội. Giáo dục giúp nâng cao trình độ văn hoá của con người, trí tuệ của con người ngày càng

nâng cao hơn, con người có khả năng sáng tạo, có những phát chế, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật…để

nâng cao cuộc sống của mình, giúp con người có cuộc sống cao hơn. Ngoài ra, học tập cũng là cơ hội để con người

tiếp cận các nền văn hoá tiên tiến trên thế giới, làm phong phú thêm đời sống tinh thần của con người. Có trí tuệ,

kiến thức con người sẽ có nhiều cơ hội tham gia vào các hoạt động xã hội, hoạt động văn hoá nhiều hơn. Và nó

làm cho đời sống tinh thần của con người thêm phong phú, đa dạng hơn.

Văn hoá:

Môi trường mà con người sống và chịu ảnh hưởng có tác động không nhỏ đến chất lượng dân số. Nếu con người

sống trong một môi trường lành mạnh, phát triển, có điều kiện tốt để phát triển thì chất lượng dân số tại khu vực

đó sẽ cao hơn là nơi mà có điều kiện sống không được đảm bảo. Văn hoá mỗi nơi khác nhau và con người sẽ chịu

sự ảnh hưởng khác nhau từ các nền văn hoá khác nhau.

Nền văn hoá sẽ có tác động lớn đến nhận thức của người dân, cuộc sống của người dân, lối sống của người dân…

Văn hoá là nét đặc trưng của mỗi vùng, mỗi dân tộc. Văn hoá có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển thể chất, trí

tuệ và tinh thần của con người.

Về mặt thể chất: văn hoá là các thói quen sinh hoạt, ăn uống,…có ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất của con

người. Nếu thói quen ăn uống hợp vệ sinh, điều độ, đúng cách…, nếu thói quen sinh hoạt của con người là hợp lý,

tốt thì sẽ giúp con người có sức khoẻ, có thể lực tốt, tráng được bệnh tật. Chúng ta có thể thấy, nhiều dân tộc ở

nước ta có thói quen sống du canh du cư, đây là một thói quen không tốt. Nó không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống

của chính họ (cuộc sống không ổn định, kinh tế không phát triển, đời sống của người thêm khó khăn…)mà còn

ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội, đến môi trường (đốt nương làm rẫy, chặt phá rừng…làm thiên tai càng

ngày càng nhiều hơn…). Hay ở một số dân tộc lại có thói quen là tắm nước lạnh cho trẻ (dù trời lạnh giá, họ cho

rằng như vậy sẽ giúp trẻ tránh tà, bệnh tật…), điều này là hoàn toàn không tốt vì như vậy sẽ ảnh hưởng trực tiếp

đến sức khoẻ của trẻ…

Về mặt trí tuệ: văn hoá cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp sự phát triển trí tuệ của con người. Nền văn hoá tiên tiến, phát

triển sẽ giúp cho trí tuệ con người phát triển. Mỗi nền văn hoá có tác động khác nhau đến cuộc sống con người.

Page 51: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Văn hoá là vốn kiến thức giúp cho con người học hỏi những kinh nghiệm sống, đó thường là những tinh hoa đã

được đúc kết từ những kinh nghiệm của cha ông, lớp người đi trước. Nó là những bài học để giáo dục cho lớp thế

hệ đi sau.

Về mặt tinh thần: Ngày nay, khi nền kinh tế phát triển, xã hội phát triển, nền văn hoá Việt Nam cũng sẽ chịu sự tác

động, tiếp nhận những nền văn hoá khác nhau của những dân tộc khác. Nó làm cho văn hoá Việt Nam cũng có

nhiều thay đổi, con người cũng tiếp nhận những giá trị văn hoá đó, làm cho đời sống tinh thần của con người thêm

phong phú, đa dạng hơn. Con người có cơ hội tiếp cận các nền văn hoá tiên tiến, tiếp nhận các thành tựu văn hoá,

khoa học kỹ thuật làm cho đời sống tinh thân của nhân dân trở nên giàu có, và có nhiều cơ hội giao lưu với văn

hoá các nước, học hỏi nhiều điều hay để phục vụ nhu cầu sống, làm việc và học tập của mình.

Nhưng bên cạnh đó, văn hoá cũng có ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của người dân. Đó là những văn hoá,

những hủ tục, lối suy nghĩ lạc hậu, hay là những văn hoá phẩm du nhập vào nước ta…đã làm cho nền văn hoá của

ta bị phá vỡ, ảnh hưởng đến nhận thức, sự phát triển của con người. Ví như chúng ta có thể thấy tác hại mà những

văn hoá phẩm đồi truỵ, lối sống Tây phương du nhập vào nước ta…

2.2.2. Phong tục tập quán:

Dưới đây chúng xem xét những phong tục tập quán của vùng miền núi và đồng bào các dân

2.2.3. Một số yếu tố khác có tác động trực tiếp đến chất lượng dân số:

Việc xử lý rác thải:

Xây dựng nhà vệ sinh đạt tiêu chuẩn:

3. Một số giải pháp.

3.1. Giải pháp nâng cao chất lượng dân số:

Xác định những thách thức hiện hữu đặt ra cho dân số Việt Nam, đề án “Nâng cao chất lượng dân số Việt Nam

giai đoạn 2007 - 2020” đưa ra 7 giải pháp.

Đầu tiên là giải pháp về chính sách và tổ chức quản lý. Đó là các chính sách duy trì mức sinh hợp lý để có cơ cấu

dân số đảm bảo sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; xây

dựng và mở rộng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe gia đình và phúc lợi xã hội; kiểm soát tỉ lệ giới tính khi sinh; hỗ

trợ cá nhân, gia đình có các vấn đề về bệnh di truyền; nâng cao phúc lợi xã hội; đảm bảo các dịch vụ xã hội cơ bản

cho người di cư.

Giải pháp tiếp theo được đưa ra là nhóm các hoạt động truyền thông giáo dục, chuyển đổi hành vi để tạo sự cam

kết ủng hộ của các cấp Đảng uỷ, chính quyền, các tổ chức xã hội về chương trình nâng cao chất lượng dân số; tăng

cường tuyên truyền tư vấn, hỗ trợ nâng cao sức khỏe thể chất, trí tuệ và tinh thần cho các nhóm đối tượng đặc biệt;

triển khai các mô hình cung cấp dịch vụ và vận động để tăng sự chấp nhận sàng lọc sơ sinh tại cộng đồng; đào tạo,

cung cấp thiết bị cho các trung tâm tư vấn, dịch vụ dân số cấp tỉnh, thành phố.

Page 52: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Nâng cao tầm vóc, thể lực người Việt Nam và trình độ dân trí cũng là hai nhóm giải pháp để nâng cao chất lượng

dân số trong thời điểm hiện tại. Đây là giải pháp yêu cầu có sự phối hợp tích cực của hệ thống y tế chăm sóc sức

khoẻ bà mẹ, trẻ em, vị thành niên, người cao tuổi và sự tham gia của ngành giáo dục.

Bên cạnh đó, đề án đưa ra 3 giải pháp tiếp theo: Xây dựng và nâng cao đời sống văn hoá tinh thần; Tăng cường

các dịch vụ xã hội chủ yếu có ảnh hưởng tới chất lượng dân số; đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học ứng dụng

phục vụ nâng cao chất lượng dân số.

Ngoài những giải pháp chung cho vấn đề này, theo những phân tích ở trên, chúng ta cần xây dựng một giải pháp

riêng cho yếu tố môi trường với việc nâng cao chất lượng dân số.

Như đã nêu ở phần mở đầu, chất lượng môi trường có tác động qua lại với chất lượng dân số. Nâng cao chất lượng

môi trường nghĩa là nâng cao chất lượng dân số, và để nâng cao được chất lượng môi trường, điều đầu tiên là phải

nâng cao nhận thức của người dân.

Nhà nước ta đã ban hành luật bảo vệ môi trường nhằm giảm thiểu những tác hại, những rủi ro mà ô nhiễm môi

trường, phá hủy môi trường mang đến cho con người. Theo điều 6 chương I: những hoạt động bảo vệ môi trường

được khuyến khích, gồm các hoạt động như sau:

1. Tuyên truyền, giáo dục và vận động mọi người tham gia bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ

cảnh quan thiên nhiên và đa dạng sinh học.

2. Bảo vệ và sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.

3. Giảm thiểu, thu gom, tái chế và tái sử dụng chất thải.

4. Phát triển, sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; giảm thiểu khí thải gây hiệu ứng nhà kính, phá hủy tầng

ô zôn.

5. Đăng ký cơ sở đạt tiêu chuẩn môi trường, sản phẩm thân thiện với môi trường.

6. Nghiên cứu khoa học, chuyển giao, ứng dụng công nghệ xử lý, tái chế chất thải, công nghệ thân thiện với môi

trường.

7. Đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất thiết bị, dụng cụ bảo vệ môi trường; sản xuất, kinh doanh các sản phẩm thân

thiện với môi trường; cung cấp dịch vụ bảo vệ môi trường.

8. Bảo tồn và phát triển nguồn gen bản địa; lai tạo, nhập nội các nguồn gen có giá trị kinh tế và có lợi cho môi

trường.

9. Xây dựng thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, cơ quan, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thân thiện với môi

trường.

10. Phát triển các hình thức tự quản và tổ chức hoạt động dịch vụ giữ gìn vệ sinh môi trường của cộng đồng dân

cư.

Page 53: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

11. Hình thành nếp sống, thói quen giữ gìn vệ sinh môi trường, xóa bỏ hủ tục gây hại đến môi trường.

12. Đóng góp kiến thức, công sức, tài chính cho hoạt động bảo vệ môi trường.

Đây là những giải pháp để thực hiện công tác bảo vệ môi trường. Đồng thời, theo điều 7 chương I: những hành vi

bị nghiêm cấm:

1. Phá hoại, khai thác trái phép rừng, các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác.

2. Khai thác, đánh bắt các nguồn tài nguyên sinh vật bằng phương tiện, công cụ, phương pháp huỷ diệt, không

đúng thời vụ và sản lượng theo quy định của pháp luật.

3. Khai thác, kinh doanh, tiêu thụ, sử dụng các loài thực vật, động vật hoang dã quý hiếm thuộc danh mục cấm do

cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.

4. Chôn lấp chất độc, chất phóng xạ, chất thải và chất nguy hại khác không đúng nơi quy định và quy trình kỹ

thuật về bảo vệ môi trường.

5. Thải chất thải chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường; các chất độc, chất phóng xạ và chất nguy hại khác

vào đất, nguồn nước.

6. Thải khói, bụi, khí có chất hoặc mùi độc hại vào không khí; phát tán bức xạ, phóng xạ, các chất ion hoá vượt

quá tiêu chuẩn môi trường cho phép.

7. Gây tiếng ồn, độ rung vượt quá tiêu chuẩn cho phép.

8. Nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện không đạt tiêu chuẩn môi trường.

9. Nhập khẩu, quá cảnh chất thải dưới mọi hình thức.

10. Nhập khẩu, quá cảnh động vật, thực vật chưa qua kiểm dịch; vi sinh vật ngoài danh mục cho phép.

11. Sản xuất, kinh doanh sản phẩm gây nguy hại cho con người, sinh vật và hệ sinh thái; sản xuất, sử dụng nguyên

liệu, vật liệu xây dựng chứa yếu tố độc hại vượt quá tiêu chuẩn cho phép.

12. Xâm hại di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên.

13. Xâm hại công trình, thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động bảo vệ môi trường.

14. Hoạt động trái phép, sinh sống ở khu vực được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định là khu vực cấm do

mức độ đặc biệt nguy hiểm về môi trường đối với sức khỏe và tính mạng con người.

15. Che giấu hành vi huỷ hoại môi trường, cản trở hoạt động bảo vệ môi trường, làm sai lệch thông tin dẫn đến

gây hậu quả xấu đối với môi trường.

16. Các hành vi bị nghiêm cấm khác về bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật.

Cần thực hiện triệt để, ngăn chặn và có biện pháp xử lý kịp thời, đúng luật, có sức răn đe cho những kẻ hủy hoại

môi trường.

Page 54: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Trong khi thực hiện bảo vệ môi trường, cần có sự tham gia của toàn dân. Các cấp chính quyền chỉ đạo phải làm tốt

công tác của mình, tránh lạm dụng chức quyền tư lợi cá nhân, xử phạt nghiêm minh những cán bộ vi phạm. Đồng

thời, tuyên truyền, giáo dục, kêu gọi người dân cùng tham gia bảo vệ môi trường. Cùng với đó là việc hợp tác ký

kết chung bảo vệ môi trường giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ, vì bảo vệ môi trường là trách nhiệm chung,

không của riêng một cá nhân hay tổ chức nào, và vấn đề môi trường đang trở nên bức bách, là vấn đề của toàn cầu.

Yêu cầu cần có sự hợp tác giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ mới đảm bảo thực hiện được tốt, chất lượng môi

trường ngày một nâng cao.

DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

I. DÂN SỐ VÀ SỰ BÙNG NỔ DÂN SỐ

I.1. Dân số và sự bùng nổ dân số trên thế giới.

Dân số thế giới tăng trung bình 86 triệu người/năm, dự đoán đến năm 2025 dân số thế giới khoảng 8,3 tỉ và vào

năm 2050, dân số là 10 tỉ người. Nhìn chung dân số toàn thế giới trong vài chục năm gần đây tăng rất nhanh và tập

trung chủ yếu là ở các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển có kết cấu dân số trẻ vì lứa tuổi dưới 15

chiếm khoảng 40% tổng số dân. Với lực lượng trẻ tiềm tàng như vậy, dù có giảm tỉ suất sinh tới mức chỉ đủ để tái

sản xuất dân cư giản đơn (2 con/gia đình), số dân vẫn cứ tiếp tục tăng trong một khoảng thời gian dài trước khi đạt

tới sự ổn định.Một số nước đang phát triển có chiều hướng ổn định, nhưng cũng có những nước dân số tiếp tục

tăng cao-thường đi cùng với các hiện tượng như nghèo đói, hạn chế giới nữ, và mật độ di cân cao.

Ở các nước phát triển, dân số tăng chậm thậm chí có nước giảm. Các nước kinh tế phát triển thường có loại hình

kết cấu dân số già. Nguyên nhân chủ yếu là do mức gia tăng tự nhiên thấp và số người cao tuổi ngày càng nhiều

hơn.

Hậu quả, chất lượng dân số của các nước đang phát triển đã thấp ngày càng thấp hơn so với các nước phát triển.

Chất lượng dân số là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số, được đánh giá

qua một số tiêu chí như trình độ văn hóa, tuổi thọ trung bình và thu nhập bình quân đầu người, chất lượng sức

khỏe trẻ sơ sinh…

I.2. Đặc điểm dân số ở Việt Nam.

I.2.1. Dân số Việt Nam có quy mô lớn, mật độ dày, và đang tiếp tục tăng.

Page 55: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Nước ta là một nước đông dân, tính đến 0h ngày 1/4/2009, tổng số dân của là 85.789.573 người, trong đó nam

chiếm 42.482.549 người tương đương 49,5%, nữ chiếm 43.307.024 tương đương 50,5%. Với dân số hiện nay, Việt

Nam đông dân đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á và đứng thứ 14 trên thế giới.

I.2.2. Việt Nam có cơ cấu dân số trẻ.

Hiện số người 29 tuổi trở xuống chiếm 61,6% và số người 34 tuổi trở xuống chiếm 70% dân số cả nước. Cơ cấu

giới tính trẻ sơ sinh có những biểu hiện mất cân đối nghiêm trọng - hiện 115 bé trai / 100 bé gái (mức chuẩn của

thế giới là 106 bé trai/ 100 bé gái). Sự mất cân đối này còn diễn ra rất khác nhau ở các vùng khác nhau. Tuy nhiên,

do giảm sinh nhanh và tuổi thọ tăng, dân số nước ta đang trong quá trình già hóa. Dân số Việt Nam đang bước vào

thời kỳ quá độ chuyển từ dân số trẻ sang tình trạng dân số già.

I.2.3. Chất lượng dân số Việt Nam còn thấp.

Chất lượng dân số còn thấp cả về sức khỏe, dinh dưỡng, chỉ số chiều cao, cân năng,  và trình độ văn hóa, kỹ năng

sống..., nói chung là cả về thể lực, trí lực và tâm lực, chưa đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao cho

sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

III. MỐI QUAN HỆ GIỮA DÂN SỐ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Sự phát triển xã hội là sự phát triển của con người về thể trạng, nhận thức, tư tưởng,quan hệ xã hội, khả năng tác

động sâu sắc vào tự nhiên và về trình độ hưởng thụ những sản phẩm do con người làm ra. Các vấn đề như nhu cầu

về nước, thực phẩm, và năng lượng; tuổi thọ, sức khỏe, giáo dục, sự đa dạng văn hóa, các dân tộc, chủng tộc,

phong tục tập quán đều có ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững.

Dân số đông thì sức lao động nhiều, sản xuất nhiều của cải vật chất và cũng tiêu thụ nhiều của cải hơn. Dân số quá

thấp thì sức lao động không đủ, không thể có tồn tại và phát triển xã hội thì không thể phát triển bền vững được.

Mục tiêu đặt ra đối với quốc gia, lãnh thổ là đảm bảo dân số ổn định, phát triển kinh tế xã hội bền vững đảm bảo

chất lượng cuộc sống tốt cho cộng đồng.

Dân số và phát triển tác động qua lại chặt chẽ với nhau. Bước tiến của lĩnh vực này thúc đẩy, tạo thuận lợi cho lĩnh

vực kia. Giải quyết tốt dân số nhưng kinh tế xã hội không phát triển thì chất lượng cuộc sống cũng không được

đảm bảo. Ngược lại kinh tế xã hội phát triển nhưng dân số tăng quá cao thì tổng sản phẩm quốc nội theo đầu người

(GDP) sẽ sụt giảm và cuối cùng chất lượng cuộc sống vẫn cứ thấp. Vấn đề đặt ra cho toàn thế giới là việc lồng

ghép vấn đề dân số với phát triển để đảm bảo sự hài hòa.

III.1.Tác động tích cực của tình trạng gia tăng dân số đến sự phát triển bền vững.

Dân số là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế. Với số dân đông, quy mô dân số lớn, ngày càng lớn, là thị

trường tiêu thụ rộng lớn đồng thời cung cấp nguồn lao động dồi dào. Trong đó, nguồn lao động “trí tuệ cao” đặc

biệt quan trọng, bằng trí tuệ mà cụ thể là sự phát triển của khoa học công nghệ từng bước xây dựng nền nông

Page 56: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

nghiệp sinh thái, công nghiệp sinh thái, đô thị sinh thái, giảm lượng nguyên liệu và năng lượng tiêu dùng trong

sản xuất, nhiều “công nghệ sạch” mới đã và đang được phát triển thay vì ngăn chặn tận gốc, hay cố gắng làm

giảm hậu quả của ô nhiễm, đặc biệt là các công nghệ xử lý chất thải “cuốí đường ống". …tiến đến sự phát triển

bền vững.

Sự gia tăng dân số buộc con người phải mở rộng vùng phân bố, chuyển cư. Để thích nghi và tồn tại, con người cải

tạo môi trường sống theo hướng tích cực đã đóng góp không nhỏ vào sự phát triển bền vững như cải tạo các vùng

đất hoang mạc, vùng đất ngập mặn, vùng ven biển, phủ xanh đất trống đồi núi trọc….

III.2. Tác động tiêu cực của tình trạng gia tăng dân số đến sự phát triển bền vững

Các tác động tiêu cực của tình trạng gia tăng dân số hiện nay biểu hiện ở các khía cạnh

III.2.1. Sức ép lớn tới tài nguyên thiên nhiên và môi trường trái đất.

Tăng dân số dẫn đến sự khai thác quá mức các nguồn tài nguyên phuc vụ cho các nhu cầu nhà ở, sản xuất lương

thực, thực phẩm, sản xuất công nghiệp ... Tăng dân số ở các nước nghèo, làm cho các nước này đã nghèo lại càng

nghèo thêm vì cạnh tranh nguồn tài nguyên, nguy cơ của nghèo khổ và nạn đói. Tăng sức ép đối với vấn đề lương

thực thực phẩm, đất, nước …, gia tăng tác động tới nguồn tài nguyên thiên nhiên, và môi trường của các nước này.

Diện tích đất nông nghiệp trên đầu người ngày càng giảm. Sự khai thác quá mức nguồn tài nguyên đất, cùng với

việc lạm dụng phân bón hóa học, khai thác rừng bừa để đáp ứng được nhu cầu của dân cư trên trái đất dẫn đến đất

nông nghiệp bị xói mòn và hoang mạc hóa, tăng cường hiện tượng như rửa trôi, xói mòn, mặn hoá, phèn hoá, ô

nhiễm, bồi tụ không mong đợi, hạn hán, hoang hoá, úng lụt, thoái hoá hữu cơ, xói lở bờ sông, bờ biển… Đại

dương thế giới bị nạn khai thác cá bừa bãi phá hủy những rạn san hô. Nơi cư trú tự nhiên của nhiều loài động vật,

thực vật bị mất, đa dạng sinh học giảm súc do các hoạt động và nhu cầu của con người. Khan hiếm nguồn nước do

nhu cầu về nước của con người tăng do tăng dân số... Nhân loại đang làm thay đổi nhanh khí quyển và làm thay

đổi khí hậu.

III.2.2. Gia tăng nguồn chất thải và ô nhiễm môi trường.

Tăng dân số cùng với tăng lượng tiêu thụ vật chất tạo ra các nguồn thải tập trung vượt quá khả năng tự phân huỷ

của môi trường tự nhiên trong các khu vực đô thị, khu sản xuất nông nghiệp, công nghiệp. Mức độ ô nhiễm môi

trường đất, nước, không khí tăng do các chất do hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con người từ đó giảm sút chất

lượng cuộc sống.

III.2.3. Sự chênh lệch về tốc độ phát triển dân số giữa các nước công nghiệp hoá và các nước đang phát triển.

Sự chênh lệch về tốc độ phát triển dân số giữa các nước công nghiệp hoá và các nước đang phát triển gia tăng,

dẫn đến sự nghèo đói ở các nước đang phát triển và sự tiêu phí dư thừa ở các nước công nghiệp hoá. Nghèo đói

Page 57: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

hoặc xa hoa đều là bất bình đẳng. Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa các nước phát triển công nghiệp và các nước

kém phát triển dẫn đến sự di dân ở mọi hình thức. Áp lực di dân cũng làm dân số tăng nhanh làm gia tăng ô nhiễm.

Bùng nổ dân số thường xãy ra ở những nước nghèo vì trình độ dân trí chưa cao; các quan điểm truyền thống còn

chi phối đời sống xã hội ; GDP bình quân cho đầu người còn thấp. Với một lực lượng trẻ đông đảo như vậy, các

nước đang phát triển, bên cạnh việc có một nguồn nhân lực dồi dào, đang phải đối phó với nạn thất nghiệp cao,

đặc biệt trong thanh niên. Tại hầu hết các nước đang phát triển, do các vùng nông thôn không có đủ các dịch vụ và

cơ hội nên thanh niên phải kéo nhau tới các đô thị để tìm kế sinh nhai. Phần lớn họ là những người không được

học hành và không được đào tạo nghề nên chỉ có một số ít người có thể tìm được việc làm. Những thanh niên từ

nông thôn di cư ra thành phố hoặc từ các nước nghèo đang phát triển di cư sang các nước phát triển, ở khắp mọi

nơi đều phải đối đầu với nạn thất nghiệp nghiện rượu, nghiện ma tuý, thất vọng và trong một số trường hợp họ đã

tham gia vào những hoạt động tội ác hoặc tự tử. Trong khi đó, tại các nước phát triển lại xảy ra hiện tượng lão hoá

dân số. Hiện nay, 77% số người già tăng thêm mỗi năm là ở các nước đang phát triển, dự đoán tới năm 2015 con

số này sẽ là trên 80%. Bệnh tật nguy hiểm gia tăng, đặc biệt là căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS là một trong những

thách thức đang đặt ra cho loài người, nhất là thanh niên

III.2.4. Gia tăng nhanh quá trình đô thị hóa.

Sự gia tăng dân số đô thị và sự hình thành các thành phố lớn - siêu đô thị làm cho môi trường khu vực đô thị có

nguy cơ bị suy thoái nghiêm trọng. Nguồn cung cấp nước sạch, nhà ở, cây xanh không đáp ứng kịp cho sự phát

triển dân cư. Ô nhiễm môi trường không khí, nước tăng lên. Các tệ nạn xã hội và vấn đề quản lý xã hội trong đô

thị ngày càng khó khăn như lan truyền nhanh các dịch bệnh, thiếu giáo dục trong việc bảo vệ sức khỏe.

III.2.5. Gia tăng dân số ảnh hưởng đến nền kinh tế và suy giảm chất lượng cuộc sống.

Dân số tăng dẫn đến tranh việc làm, nhiều người thất nghiệp do dư thừa lao động. Sản lượng lương thực,

thực phẩm tăng không phù hợp với tỉ lệ tăng dân, các dịch vụ phục vụ đời sống tăng cả về khối lượng và chất

lượng, đòi hỏi nhà nước phải tăng chi phí phúc lợi sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế chung, làm thu nhập đầu người

tăng chậm hoặc không tăng. Tăng dân quá nhanh còn ảnh hưởng đến vấn đề y tế, giáo dục, bảo vệ bà mẹ và trẻ

em, trật tự an ninh xã hội.

Chất lượng cuộc sống là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa các điều kiện xã hội, sức khỏe, kinh tế và môi

trường mà chúng ảnh hưởng tới sự phát triển của môi trường và con người. Chất lượng cuộc sống phụ thuộc vào

trình độ phát triển xã hội, mức thu nhập, môi trường sống, quan hệ xã hội ... Chất lượng cuộc sống của từng người,

từng gia đình phụ thuộc trực tiếp vào việc làm ổn định, thu nhập trung bình đầu người, an sinh xã hội (học hành

của con cái, chăm sóc sức khỏe, an ninh khu vực ...).

Một số biểu hiện suy giảm chất lượng cuộc sống như năng lượng hấp thu theo đầu người ở các nước nghèo chỉ có

2.380 kcal/ngày chủ yếu từ thực vật; các nước giàu 3.380 kcal/ngày chủ yếu là động vật; 730 triệu người không đủ

Page 58: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

calo bù đắp cho hoạt động hàng ngày.Nhiều bệnh tật tràn lan, nhiều bệnh lạ mới xuất hiện : bệnh AIDS đang lan

tràn, sốt rét; bệnh giun sán, Ebola, bệnh tim, tai biến mạch máu não, ung thư, lao ... Tình trạng sức khỏe của trẻ em

và người già là yếu. Nhiều dân tộc trên thế giới, hệ thống y tế còn nghèo nàn, thu nhập thấp, nước uống an toàn và

vệ sinh thì kém, và bệnh tật, và sự ốm yếu không thể tránh khỏi. Hầu hết các khu vực đô thị ở các nước phát triển

và đang phát triển đều giống nhau, có nhiều người thất nghiệp, cao tuổi, hoặc vượt qua khả năng của các tổ chức

xã hội và y tế. Sự mất cân đối không chỉ giữa các khu vực, quốc gia mà thậm chí giữa các tộc người trong cùng

một quốc gia.

III.3. Những vấn đề bức xúc do sự tăng dân tồn tại ở Việt Nam.

Tất cả các dòng sông đều đã bị nhiễm bẩn, lượng nước lại giảm vì ô nhiễm, vì sử dụng không hiệu quả và

phân phối không hợp lý, khiến cho vào mùa khô có nhiều vùng bị khô kiệt trong khi nhu cầu nước đang gia tăng

hằng ngày. Toàn bộ vùng biển ven bờ đều đã bị ô nhiễm từ nhẹ đến trung bình, giảm diện tích rừng, suy thoái đa

dạng sinh học. Giảm diện tích đất trồng, suy thoái đất do lạm dụng phân bón hóa học, khai thác quá mức tài

nguyên đất trong sản xuất nông nghiệp. Ô nhiễm chất thải rắn diễn ra ở hầu hết các đô thị, ô nhiễm môi trường xã

hội, kinh tế đang phát triển, đang trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

IV. ĐỊNH HƯỚNG ĐIỀU CHỈNH DÂN SỐ THỰC HIỆN MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG.

IV.1. Khống chế gia tăng dân số tự nhiên, duy trì vững chắc xu thế giảm sinh nhưng vẫn đảm bảo thực

hiện tái sản xuất xã hội.

Đây là nhiệm vụ cấp bách và thường xuyên để hướng cho sự gia tăng dân số theo kế hoạch cho phù hợp

với sự phát triển kinh tế xã hội. Thực hiện chính sách kế hoạch hóa gia đình và xây dựng quy mô gia đình hợp lý

liên quan đến nhiều phạm vi kinh tế, xã hội, văn hóa. Cần thực hiện chính sách pháp luật tạo điều kiện để xây

dựng gia đình 1-2 con; tạo cơ hội để mọi thành viên trong gia đình đều được tôn trọng, xây dựng nếp sống văn hóa

gia đình; đẩy mạnh dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, phòng tránh thai, tư vấn sức khỏe tình dục.

IV.2. Ổn định các quá trình dân cư.

Định hướng đô thị hóa và di dân tốt hơn, phân bố hợp lí dân cư và lao động. Các dự án phát triển cộng

đồng nông thôn phải hướng tới đô thị hoá nông thôn, giảm các quá trình di cư. Điều đó đòi hỏi các dự án phải

hướng tới lợi ích của cộng đồng địa phương, thu hút sự tham gia rộng rãi của nông dân, đặc biệt là phát huy vai trò

của phụ nữ nông thôn. Cải thiện cuộc sống của người nghèo đô thị là cốt lõi của phát triển đô thị, không cần phải

song hành với phát triển nông thôn để kiểm soát được dòng di dân nông thôn - đô thị.Những người nông dân, ngư

dân thất nghiệp do côngnghiệp hoá sẽ dễ dàng được giải quyết việc làm tại các đô thị và khu công nghiệp. Dân cư

Page 59: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

còn được phân bố lại ở các vùng thưa dân nhưng giàu tiềm năng,nhằm tạo điều kiện khai thác tốt mọi nguồn tài

nguyên, tận dụng và điều hòa nguồn lao động giữa các vùng trong phạm vi cả nước.

IV.3. Nâng cao chất lượng dân số - nguyên tắc của phát triển bền vững.

Tái sản xuất dân cư là một trong những nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người. Dân số gắn với phát

triển kinh tế bền vững, đảm bảo công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi người dân là mục tiêu

của sự phát triển bền vững. Nâng cao chất lượng cuộc sống cần phải đảm bảo những mục tiêu sau:

Chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Phát triển về số lượng và nâng cao chất lượng dịch vụ chăm lo sức khỏe, chăm sóc

đời sống tinh thần. Đảm bảo sức khỏe là đảm bảo sự phát triển con người. Đặc biệt lưu ý đối với nhóm như trẻ em,

người già, người tàn tật, người dân tộc thiểu số. Sức khỏe phụ thuộc vào sự thay đổi môi trường, thay đổi khí hậu,

kể cả việc thay đổi đa dạng sinh học, tùy thuộc vào tình trạng nhân khẩu và cách cư xử của con người; các hoạt

động thương mại và du lịch quốc tế; biến chứng của y học hiện đại; sự thay đổi và thích nghi của vi sinh vật... do

vậy, chăm lo sức khỏe cộng đồng cần lưu ý đến việc phối hợp, điều chỉnh các yếu tố trên.

Tăng tuổi thọ là một chỉ tiêu quan trọng trong phát triển xã hội ở các nước phát triển và đang phát triển.

Tuổi thọ con người nói lên khả năng được sống trong cuộc sống lành mạnh lâu dài.

Rút ngắn khoảng cách giàu nghèo, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội như tạo việc làm, tăng thu nhập

trên đầu người; giảm bớt sự phân biệt nam nữ; nâng cao vị thế của người phụ nữ; thực hiện xóa đói giảm nghèo (ở

Việt Nam sự chênh lệch về giàu và nghèo gấp nhau 34.4 lần), vay vốn sản xuất, trợ giúp các đình chính sách. Đẩy

mạnh chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp tạo việc làm hơn là cho tiền của.

Cộng đồng nghèo đói là cộng đồng không có quyền lực thực sự. Cốt lõi của sự nghiệp xoá đói giảm nghèo là

thực hiện dân chủ tận gốc, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân lao động.

Phát triển giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục, nâng cao dân trí, trình độ phù hợp với yêu cầu phát triển.

Con người muốn tiến đến sự phát triển bền vững buột phải làm chủ tri thức khoa học. Nâng cao nhận thức về sự

cần thiết phải hạn chế dân số và ổn định tiêu thụ. Cần phải nâng cao hơn nữa về nhận thức cho người dân về mối

quan hệ khăng khít giữa dân số và môi trường, giữa dân số và chất lượng cuộc sống... Đặc biệt phải chú ý vai trò

của phụ nữ trong vấn đề này. Phụ nữ cần phải được nhận thức đầy đủ về những sự lựa chọn mà họ có được đối với

quy mô gia đình và phong cách sống trong chính môi trường của họ...

Cải thiện các điều kiện lao động và vệ sinh môi trường sống. Phòng ngừa ô nhiễm, hạn chế thấp nhất tình

trạng xã ra các chất thải có hại, đảm bảo các sản phẩm và quy trình sản xuất không gây ô nhiễm, bằng kinh tế,

bằng pháp luật, bằng khoa học kĩ thuật.

Phát triển đời sống văn hoá sinh thái - nhân văn theo hướng xây dựng một quan niệm mới về ý thức sinh

thái phù hợp với sự phát triển xã hội bền vững. Giải quyết tốt nạn ô nhiễm môi trường xã hội. Giáo dục ý thức sinh

thái cho mọi người, mọi thành viên xã hội. Phát triển bền vững là một lối sống, một nguyên tắc đạo đức mới, một

"đạo lý toàn cầu” mới. Do vậy, giáo dục truyền thông môi trường là một công cụ cực kỳ quan trọng của phát triển

Page 60: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

bền vững. Tuy nhiên, công cụ này chỉ thực sự sắc bén nếu những lựa chọn về giá trị được chuyển giao vào quá

trình hoạch định chính sách và ra quyết định.

IV.4. Cân đối hài hòa giữa dân số và khả năng chịu đựng của trái đất.

IV.4.1. Lí do

Cuộc sống của con người ở khắp mọi nơi đều phụ thuộc vào thiên nhiên. Con người sử dụng tài nguyên thiên

nhiên để tồn tại, phát triển và cải thiện điều kiện sống của mình. Sự thiếu hụt về tài nguyên cũng gây những khó

khăn to lớn, dẫn đến tình trạng bất an của xã hội, hỗn loạn về chính trị. Việc khan hiếm tài nguyên, nhất là tài

nguyên không thể phục hồi được đã gây nên những cuộc xung đột quyết liệt ở các nước. Do vậy, việc sử dụng

thiên nhiên phải duy trì được tính đa dạng và khả năng tái sinh của tài nguyên thiên nhiên. Chúng ta phải biết bảo

vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên.

Tình trạng nghèo khổ trên diện rộng và sự bất bình đẳng nghiêm trọng về xã hội kinh tế đều chịu tác động mạnh

mẽ của các nội dung dân số học như quá trình tăng dân số, kết cấu dân số, phân bố dân cư. Hình mẫu sản xuất và

tiêu dùng thiếu bền vững thì sẽ gây ra việc sử dụng tài nguyên không có kế hoạch và tác động xấu đến chất lượng

môi trường. Do vậy, sự phát triển bền vững là phải đảm bảo lồng ghép hài hòa giữa sự giữa dân số ổn định và phát

triển kinh tế xã hội bền vững.

Nếu dân số và mức tiêu thụ cứ tiếp tục gia tăng thì khả năng chịu đựng của môi trường sống ngày càng giảm thậm

chí không thể đáp ứng nổi. Khả năng chịu đựng được hiểu là một số lượng cá thể sống trong một vùng sử dụng

lượng thức ăn, nước uống, các tài nguyên khác và khoảng không gian đầy đủ do vùng đó cung cấp mà không gây

tổn hại nghiêm trọng đến hệ sinh thái. Như vậy, việc xác định những giới hạn chịu đựng của từng hệ sinh thái –

giới hạn có thể đứng vững đối với những đòi hỏi của con người mà không bị suy thoái một cách nguy hiểm. Giới

hạn đó không chỉ tính bằng số người mà còn phải tính cả số lượng vật dụng đã sử dụng và bỏ lãng phí đi. Mặt

khác, những tác động độc hại lên môi trường như là ô nhiễm cũng làm giảm bớt khả năng chịu đựng của trái đất.

Năng lực sản xuất và quay vòng của các hệ sinh thái có thể được tăng cường nhờ con người, nhưng sự tăng cường

đó không thể vượt quá giới hạn tự nhiên. Nhưng khả năng này có thể kéo dài nhờ tiến bộ khoa học và kĩ thuật. Để

dừng lại trong khả năng của trái đất có thể cung cấp một cuộc sống có chất lượng thực sự cho con người, điều chủ

yếu là hạn chế gia tăng dân số và mức tiêu thụ, nâng cao chất lượng cuộc sống.

IV.4.2. Các biện pháp.

Nâng cao nhận thức về sự cần thiết phải hạn chế dân số và ổn định tiêu thụ, ổn định dân số là điều chủ chốt và

trách nhiệm thuộc về mọi người, sử dụng quá mức và lãng phí các nguồn tài nguyên sẽ dồn loài người vào giới

hạn cuối cùng của sức chịu đựng của trái đất.

Kết hợp vấn đề dân số và tiêu thụ tài nguyên vào trong các chính sách và kế hoạch của nhà nước. Mục tiêu rõ ràng

là mức dân số ổn định đảm bảo sự phát triển bền vững.

Page 61: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế ở các nước có thu nhập thấp để tiến đến xã hội phát triển, phân phối công bằng đất

đai và tài nguyên, cải thiện mức sống, giảm bớt sự phân biệt nam nữ.

Ở các nước phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống nhưng giảm bớt tác động về môi trường, giảm mức tiêu thụ,

lãng phí và ô nhiễm các cấp, cải thiện đời sống của người dân nghèo nhất và giúp các nước nghèo phát triển.

Duy trì được càng nhiều càng tốt các hệ sinh thái tự nhiên và hệ sinh thái cải biến càng rộng càng tốt đáp ứng

nhiều nhu cầu khác nhau; chấm dứt tình trạng mất rừng, bảo vệ đất nông nghiệp, ngăn chặn suy thoái đất và tăng

cường sản lượng lâu dài bằng các biện pháp bền vững.

Tăng cường bảo vệ các loài vật hoang dã. Thu hồi các tài nguyên hoang dã một cách bền vững, bảo vệ nơi sinh

sống và các hệ sinh thái nuôi dưỡng tài nguyên đó.

Thực hiện di cư có quy hoạch, kế hoạch nằm trong phương hướng chiến lược tái phân bố dân cư và lao động –

giảm sức ép nơi quá đông dân, nhưng không được mang con bỏ chợ. Phát huy mặt tích cực, tạo hòa đồng với dân

cư nơi ở mới. Phải quản lý nhân khẩu từ đó quản lý được tài nguyên vì di cư tự phát có nguy hại là khai thác bừa

bãi, gây đảo lộn về giao thông, y tế, giáo dục.

Đô thị hóa là xu hướng tất yếu của quá trình phát triển kinh tế xã hội – là xu hướng chuyển đổi từ xã hội nông thôn

là phổ biến sang xã hội đô thị là phổ biến tại các nước phát triển và đang phát triển. Đô thị hóa phải tiến hành trên

cơ sở dữ liệu cụ thể, có phương án thực hiện một cách thấu đáo; phải được thực hiện một cách đồng bộ, có đầy đủ

các yếu tố đảm bảo cho dân cư có cuộc sống ổn định, được hưởng các quyền lợi về chăm sóc y tế, giáo dục, và văn

hóa.

Tìm các con đường phát triển kinh tế giảm được sử dụng năng lượng và vật liệu, giảm tạo ra chất thải, tăng tái sử

dụng chất thải:

+ Xác định các mẫu hình tiêu thụ cân bằng và có thể duy trì được trên thế giới.

+ Đẩy mạnh sản xuất có hiệu quả, giảm tiêu thụ lãng phí.

+ Xây dựng các chính sách khuyến khích chuyển sang mẫu hình bền vững trong sản xuất và tiêu thụ như

kích thích giá cả và các tín hiệu thị trường, phát triển và mở rộng việc dán nhãn môi trường ; giáo dục nâng cao

nhận thức cho công chúng, quảng cáo lành mạnh.

+ Khuyến khích việc chuyển giao các công nghệ thân môi trường cho các nước đang phát triển. Khoa học

công nghệ ngày càng có vai trò quan trọng và không thể thiếu trong quá trình phát triển. Công nghệ có thể tạo ra

các nguồn tài nguyên mới, năng lượng mới. Công nghệ sinh học hứa hẹn sẽ loại trừ nạn đói do ngày càng được thử

nghiệm và áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực nông nghiệp, chăn nuôi. Nhiều “công nghệ sạch” mới đã và đang được

phát triển thay vì ngăn chặn tận gốc, hay cố gắng làm giảm hậu quả của ô nhiễm đặc biệt là các công nghệ xử lý

chất thải “cuốí đường ống". Các hoạt động kinh tế địa phương đa dạng hoá trên cơ sở nguồn tài nguyên đa dạng

của địa phương có khả năng đáp ứng tốt hơn đối với các nhu cầu cơ bản của cộng đồng, tăng độ an toàn của

cộng đồng, của quốc gia và toàn cầu

Page 62: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

KẾT LUẬN

Dân số là mẫu số chung cho nhiều khía cạnh về môi trường. Môi trường và dân số là những vấn đề xuyên suốt mọi

lĩnh vực và mọi trình độ phát triển, sự tăng dân số sẽ làm tăng thêm sự căng thẳng về môi trường.

Dân số, sự phân bố về dân số, tốc độ tăng dân số... đã ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống. Dân số tăng

nhanh nhưng đất không tăng, sản lượng lương thực không đủ đáp ứng cho dân, dẫn đến đói nghèo, thất học, chăm

sóc y tế kém. Bất kỳ một đất nước nào cho dù tài nguyên có giàu đến đâu nhưng dân số càng nhiều thì chất lượng

cuộc sống cũng nhất định phải giảm thấp. Nhưng dân số lại là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế.

Như vậy, dân số vừa là phương tiện vừa là động lực của phát triển bền vững. Điều quan trọng nhất khi lồng ghép

vấn đề dân số với phát triển bền vững là việc đặt chúng vào mối quan tâm tổng thể trong chiến lược và chính sách

chung.

Phát triển bền vững không chỉ tăng trưởng kinh tế mà còn đảm bảo ổn định dân số,nâng cao chất lượng cuộc sống,

rút ngắn khoảng cách giàu nghèo, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội; xây dựng mẫu hình tiêu thụ bền vững phù

hợp với khả năng chịu đựng của môi trường;cân bằng phúc lợi kinh tế với phúc lợi sinh thái và phúc lợi nhân văn

hay phải đảm bảo hài hòa giữa ba yếu tố kinh tế - xã hội – môi trường. Phát triển bền vững buột phải con người

làm chủ tri thức khoa học, làm chủ khoa học công nghệ nhưng thách thức lớn nhất vẫn là ý thức sinh thái của con

người. Cần thay đổi cả thái độ, hành vi của con người nhất là về mặt tổ chức, hoạch định chính sách và chiến lược

phát triển bền vững trong đó có chiến lược phát triển dân số.

Sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên

Khái niệm tài nguyên (Resources)

Tài nguyên là các dạng vật chất được tạo thành trong suốt quá trình hình thành và phát triển của tự nhiên, cuộc

sống sinh vật và con người. Các dạng vật chất này cung cấp nguyên-nhiên vật liệu, hỗ trợ và phục phụ cho các nhu

cầu phát triển kinh tế, xã hội của con người.

Tài nguyên bao gồm tất cả các nguồn nguyên liệu, năng lượng, thông tin có trên trái đất và trong không gian vũ trụ

liên quan mà con người có thể sử dụng được để phục vụ cho cuộc sống và sự phát triển của mình

I.2. Khái niệm tài nguyên thiên nhiên

TNTN là nguồn của cải vật chất nguyên khai, được hình thành và tồn tại trong tự nhiên mà con người có thể sử

dụng để đáp ứng nhu cầu trong cuộc sống.

Nguồn TNTN luôn được mở rộng với sự phát triển của xã hội. TNTN có thể thu được từ môi trường tự nhiên,

được sử dụng trực tiếp (như không khí để thở, các loài thực vật mọc tự nhiên...) hay gián tiếp thông qua các quá

trình khai thác và chế biến (như các loại khoáng sản, cây lấy gỗ, đất đai...) để sản xuất ra những vật phẩm nhằm

thoả mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của xã hội loài người

I.3. Phân loại tài nguyên

Dựa vào một số tiêu chí, quan điểm, người ta có sự phân loại tài nguyên thiên nhiên theo những cách khác nhau.

- Theo quan hệ với con người: Tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên xã hội.

Page 63: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

- Theo phương thức và khả năng tái tạo: Tài nguyên tái tạo, tài nguyên không tái tạo.

- Theo bản chất tự nhiên: Tài nguyên nước, tài nguyên đất, tài nguyên rừng, tài nguyên biển, tài nguyên khoáng

sản, tài nguyên năng lượng, tài nguyên khí hậu cảnh quan, di sản văn hoá kiến trúc, tri thức khoa học và thông tin.

- Tài nguyên thiên nhiên được chia thành hai loại: tài nguyên tái tạo và tài nguyên không tái tạo.

+ Tài nguyên tái tạo (nước ngọt, đất, sinh vật v.v...) là tài nguyên có thể tự duy trì hoặc tự bổ sung một cách liên

tục khi được quản lý một cách hợp lý. Tuy nhiên, nếu sử dụng không hợp lý, tài nguyên tái tạo có thể bị suy thoái

không thể tái tạo được. Ví dụ: tài nguyên nước có thể bị ô nhiễm, tài nguyên đất có thể bị mặn hoá, bạc màu, xói

mòn v.v...

+ Tài nguyên không tái tạo: là loại tài nguyên tồn tại hữu hạn, sẽ mất đi hoặc biến đổi sau quá trình sử dụng. Ví dụ

như tài nguyên khoáng sản của một mỏ có thể cạn kiệt sau khi khai thác. Tài nguyên gen di truyền có thể mất đi

cùng với sự tiêu diệt của các loài sinh vật quý hiếm.

- Tài nguyên con người (tài nguyên xã hội) là một dạng tài nguyên tái tạo đặc biệt, thể hiện bởi sức lao động chân

tay và trí óc, khả năng tổ chức và chế độ xã hội, tập quán, tín ngưỡng của các cộng đồng người.

Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật đang làm thay đổi giá trị của nhiều loại tài nguyên. Nhiều tài nguyên

cạn kiệt trở nên quý hiếm; nhiều loại tài nguyên giá trị cao trước đây nay trở thành phổ biến, giá rẻ do tìm được

phương pháp chế biến hiệu quả hơn, hoặc được thay thế bằng loại khác. Vai trò và giá trị của tài nguyên thông tin,

văn hoá lịch sử đang tăng lên.

Trong phạm vi tiểu luận này, tôi chọn cách phân loại tài nguyên thiên nhiên theo bản chất tự nhiên, theo thiết nghĩ

chủ quan của bản thân, cách phân loại đó dễ hiểu, rõ ràng và thể hiện đúng bản chất của từng loại tài nguyên nên

quyết định lựa chọn nó.

II. Tình hình sử dụng tài nguyên thiên nhiên hiện nay

II.1. Tài nguyên nước

Nước là tài nguyên quan trọng nhất của loài người và sinh vật. Nước ở tự nhiên không ngừng vận động và chuyển

đổi trạng thái tạo nên chu trình nước trong tự nhiên. Nước bốc hơi rồi ngưng tụ thành hạt khi rơi thành mưa. Nước

mưa rơi xuống mặt đất một phần bốc hơi, một phần tích đọng ở các ao hồ, phần khác tạo nên dòng chảy bề mặt rồi

đổ ra biển. Toàn bộ năng lượng dùng trong chu trình nước tự nhiên đều do mặt trời cung cấp dưới dạng bức xạ.

Nước thông qua chu trình vận động của mình đã tham gia vào thành phần cấu trúc sinh quyển, đồng thời điều hòa

mọi yếu tố của khí hậu, đất đai và sinh vật

Nước cần cho nhu cầu sống của mọi cơ thể và chiếm tới 80 - 90% trọng lượng sinh vật sống trong môi trường

nước và 44% trọng lượng cơ thể con người.

Tài nguyên nước ở trên thế giới theo tính toán hiện nay là 1,39 tỷ km3, tập trung phần lớn ở biển và đại dương

(trên 97%) (1,348 tỷ km3), phần còn lại chứa trong khí quyển và thạch quyển. Trên 97% lượng nước của trái đất là

nước mặn, khoảng 2% là nước ngọt tập trung trong băng ở hai cực, 0,57% là nước ngầm, còn lại là nước sông,

hồ,... Lượng nước trong khí quyển chiếm khoảng 0,001%, trong sinh quyển 0,002%.

Page 64: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Lượng mưa trên trái đất phân bố không đều, phụ thuộc vào địa hình và khí hậu. Theo các vùng khí hậu trên thế

giới, ta có lượng mưa trung bình hàng năm như sau: hoang mạc dưới 120 mm, khí hậu khô 120 - 250 mm, khí hậu

khô vừa 250 -500 mm, khí hậu ẩm vừa 500 - 1000 mm, khí hậu ẩm 1000 - 2000 mm, khí hậu rất ẩm trên 2000

mm.

Con người ngày càng khai thác và sử dụng nhiều tài nguyên nước hơn. Lượng nước ngầm khai thác trên thế giới

năm 1990 gấp 30 lần lượng nước khai thác năm 1960.

I.1.1. Sử dụng tài nguyên nước

Các nguồn nước trên Trái đất đang bị ô nhiễm bởi các hoạt động của con người như ô nhiễm nước mặt, ô nhiễm

nước ngầm, nước biển bởi các tác nhân như thuốc trừ sâu, hóa chất, kim loại nặng, vật chất hữu cơ, các vi sinh vật

gây bệnh,...

Việt Nam là nước có lượng mưa trung bình vào loại cao, khoảng 2.000 mm/năm, gấp 2,6 lượng mưa trung bình

của vùng lục địa trên thế giới. Tổng lượng dòng chảy hằng năm trên các sông suối Việt Nam khoảng 853 km3

(tương đương 27.100 m3/s), trong tổng lượng dòng chảy phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam là 317 km3/năm chiếm

37% tổng lượng dòng chảy, phần còn lại sản sinh từ các nước láng giềng là 536 km3/năm chiếm 63%.

Hiện nay khoảng 25% nguồn nước cấp là nước ngầm, trong tương lai, chắc chắn tỷ lệ này sẽ được tăng lên. Về

chất lượng nước ngầm các vùng trên lãnh thổ đều đáp ứng các yêu cầu sử dụng, đặc biệt là cho nước sinh hoạt.

Ngoài dòng chảy phát sinh trong vùng nội địa, hàng năm lãnh thổ Việt Nam nhận thêm lưu lượng từ Nam Trung

Quốc và Lào, với số lượng khoảng 550 km3. Do vậy, tài nguyên nước mặt và nước ngầm có thể khai thác và sử

dụng ở Việt Nam rất phong phú, khoảng 150 km3 nước mặt một năm và 10 triệu m3 nước ngầm một ngày. Tuy

nhiên, do mật độ dân số vào loại cao, nên bình quân lượng nước sinh trong lãnh thổ trên đầu người là

4200m3/người, vào loại trung bình thấp trên Thế giới.

Tài nguyên nước ở nước ta được sử dụng chủ yếu phục vụ sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, cấp nước cho sinh

hoạt và thuỷ điện còn các nhu cầu khác sử dụng chưa nhiều:

II.1.1.1. Tài nguyên nước sử dụng cho nông nghiệp

Bao gồm nước tưới cho hơn 9 triệu ha đất nông nghiệp, cho chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Hiện nay, cả nước

có khoảng 80 hệ thống thủy nông lớn, vừa và nhỏ; 700 hồ đập lớn và vừa, 3.500 hồ đập nhỏ, 1.000 cống tưới tiêu

và 2000 trạm bơm loại lớn. Các công trình thủy lợi chủ yếu khai thác tài nguyên nước mặt.

Để đảm bảo ổn định và tăng sản lượng lương thực bình quân đầu người, cùng với việc tăng diện tích đất canh tác,

diện tích gieo trồng, thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất thì thuỷ lợi cũng là một biện pháp quan trọng đầu tiên. Dự

tính đến năm 2010 diện tích đất trồng lúa nước ta sẽ đạt 6,2 triệu ha (tăng 14% so với năm 1990) nhu cầu nước

tương ứng sẽ tăng 72% (khoảng 370 tỷ m3).

Trong chăn nuôi gia súc gia cầm nhu cầu nước uống cho động vật, nước vệ sinh chuồng trại là rất lớn. Dự kiến đến

năm 2010 nhu cầu nước sử dụng cho chăn nuôi cũng sẽ tăng khoảng 4 đến 5 lần so với năm 1990.

Thủy sản nước ngọt là một nguồn lợi lớn của nước ta. Hiện nay cả nước có trên 500 nghìn ha mặt nước, hồ chứa

sử dụng cho nuôi trồng thủy sản. Lượng nước sử dụng cho việc nuôi thả, thau rửa ao hồ mỗi năm dự tính khoảng

Page 65: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

40.000 m3 trên 1 ha. Tiềm năng phát triển thủy sản nước ngọt của nước ta là rất lớn, hiện nay mới chỉ sử dụng hết

khoảng 50%. Dự tính diện tích nuôi trồng thuỷ sản đến năm 2010 sẽ tăng lên 3 lần so với năm 1990.

Ngoài tài nguyên nước mặt, tài nguyên nước ngầm cũng đã được khai thác để tưới cho diện tích đất nông nghiệp,

cho chăn nuôi ở nhiều vùng. Đặc biệt cho việc tưới cao su, cà phê vào mùa khô ở các tỉnh vùng núi phía Bắc miền

Trung, Đông Nam bộ và Tây Nguyên.

II.1.1.2. Tài nguyên nước sử dụng sản xuất điện

Nước ta có tiềm năng thủy điện dồi dào, với hơn 2.000 sông suối lớn, nhỏ phân bố trên khắp lãnh thổ. Tổng tiềm

năng lý thuyết nguồn thủy điện nước ta khoảng 308 tỷ Kwh. Trữ năng kỹ thuật thuỷ điện trên toàn lãnh thổ Việt

Nam là 72 tỷ Kwh với công suất từ 10 MW trở lên, có khoảng 360 vị trí lắp đặt máy, tổng công suất 17.500 MW.

Ngoài ra chưa kể đến tiềm năng thủy điện nhỏ. Hiện nay sản lượng điện do thủy điện phát hàng năm khoảng 23,8

Kwh chiếm 51% tổng sản lượng điện phát ra của cả nước. Hiện nay nước ta có những nhà máy thủy điện lớn và

vừa: Thác Bà, Hoà Bình, Trị An, Đa Nhim, Thác Mơ, Vĩnh Sơn, Yali, Đa Mi, Đại Ninh và Sông Hinh, với tổng

công suất 18,62 tỷ Kwh cấp vào lưới điện quốc gia. Ngoài ra còn 13 công trình đang lập báo cáo khả thi để đưa

vào xây dựng trong những năm sắp tới với công suất là 6.229 MW và tổng lượng điện phát là 27,6 tỷ KWh; 6 công

trình đề xuất nghiên cứu với công suất là 1.258 MW và tổng lượng điện phát là 5,54 tỷ KWh; các trạm thuỷ điện

nhỏ với công suất là 1.000 MW và tổng lượng điện phát là 2 tỷ KWh.

II.1.1.3. Tài nguyên nước sử dụng trong sản xuất công nghiệp và dân cư

Sử dụng nước cho sinh hoạt được xem xét ở hai khu vực là thành thị và nông thôn. Nước ta có khoảng hơn 600 đô

thị các loại và gần 100 khu công nghiệp tập trung với dân số khoảng 19 triệu 900 nghìn người, chiếm 25% dân số

cả nước (năm 2002). Tỷ lệ dân số thành thị được sử dụng nước sạch còn thấp mới chỉ đạt khoảng dưới 70%. Năm

1998, tổng lưu lượng cấp nước của 190 nhà máy là 2,6 triệu m3 ngày, trong đó nước ngầm khoảng 30%. Định

hướng cấp nước đô thị của Bộ Xây dựng dự kiến đến năm 2010 là 8,8 triệu m3 ngày, đến năm 2020 là 15,94 triệu

m3 ngày. Hiện nay, tiêu chuẩn định lượng nước cấp cho dân số đô thị còn thấp (từ 40-50 lít /người/ngày), lượng

nước máy bị thất thoát còn lớn (60-70%) do hệ thống hạ tầng cấp nước xây dựng từ lâu, chắp vá, xuống cấp

nghiêm trọng và quản lý kém.

Ở khu vực nông thôn, nơi có khoảng 75% dân số cả nước sinh sống. Trong số đó mới chỉ có 42% dân số được sử

dụng nước sạch cho sinh hoạt, số còn lại phải sử dụng những nguồn nước hồ, ao, sông, suối,… không đảm bảo vệ

sinh.

Việt Nam hiện cũng thuộc số các quốc gia thiếu nước, với mức bình quân chỉ đạt 4.400 m3/người/năm (bao gồm

cả nước mặt và nước ngầm), thấp hơn rất nhiều so với mức bình quân của thế giới là 7.400 m3/người/năm.

Việt Nam có 2360 con sông, có chiều dài trên 10km, trong đó có 9 hệ thống sông lớn có diện tích lưu vực trên

10.000km2. Tổng lượng nước hàng năm chảy qua các sông, suối tới 835 tỷ m3, trong đó có 313 tỷ m3 sản sinh

trên lãnh thổ Việt Nam còn lại 522 tỷ m3 từ lãnh thổ các nước ngoài chảy vào nước ta. Tài nguyên nước dưới đất

có trữ lượng động thiên nhiên toàn lãnh thổ khoảng 1500m3/s. Nguồn tài nguyên nước ngọt tính theo đầu người ở

nước ta hiện nay vào loại trung bình thấp so với thế giới và tiếp tục bị suy giảm do dân số tăng nhanh. 

Page 66: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Do đặc điểm địa lý nước ta kéo dài theo phương kinh tuyến, địa hình bị chia cắt mạnh đã tác động trực tiếp tới sự

ảnh hưởng của các chế độ gió mùa, là nguyên nhân gây ra sự phân bố rất không đồng đều về TNN theo thời gian

và không gian. Hàng năm lượng nước tập trung trong 3-4 tháng mùa mưa chiếm tới 70-75%, chỉ riêng một tháng

cao điểm trong mùa mưa có thể chiếm tới 30%. Trong khi về mùa khô, lượng nước chỉ chiếm 25-30%. Chính sự

phân bố không đều này là nguyên nhân gây ra lũ, úng, lụt và các đợt hạn hán nghiêm trọng. Thiên tai, lũ lụt, bão,

úng ngập, hạn hán, chua phèn, xâm nhập mặn thường xuyên là mối đe doạ đối với sản xuất và đời sống dân cư

nhiều vùng của nước ta. Do vậy, việc điều hoà phân phối nguồn nước, khai thác mặt lợi của nước và giảm thiểu tác

hại do nước gây ra cần phải được quản lý thống nhất theo lưu vực sông.

Tuy nhiên, hiện nay, vấn đề suy thoái tài nguyên nước lưu vực sông diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Suy thoái tài

nguyên nước ngọt trên lưu vực sông được biểu hiện ơ sự suy giảm sút về số lượng và đặc biệt là chất lượng. Trong

những năm qua, sự tăng nhanh về dân số và khai thác quá mức tài nguyên nước, các tài nguyên đất và rừng đã làm

suy kiệt nguồn nước; việc phát triển đô thị và công nghiệp nhưng không có biện pháp quản lý chặt chẽ và xử lý

các chất thải lỏng, thải rắn theo yêu cầu cũng đã làm ô nhiễm nguồn nước, cho nên suy thoái tài nguyên nước đã

trở thành khá phổ biến đối với các lưu vực sông, vì vậy Việt Nam được quốc tế xếp vào loại các quốc gia có tài

nguyên nước ngọt suy thoái.

Trước yêu cầu sử dụng nước còn tiếp tục gia tăng trong khi tài nguyên nước ngọt ngày càng cạn kiệt và suy thoái,

cần phân tích rõ các nguyên nhân, đặc biệt là các nguyên nhân về quản lý để có các giải pháp ngăn chặn và giảm

thiểu suy thoái đang phát triển nghiêm trọng này

Mặt khác, do sự phân bố không đều giữa các mùa trong năm, giữa các vùng địa lý nên tình trạng khan hiếm nước

cục bộ vẫn xẩy ra ở một số thành phố lớn, ở các tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên vào các tháng

mùa khô.

Tình trạng sử dụng dư thừa nước gây lũ lụt vào mùa mưa, thiếu nước vào mùa khô là 2 vấn đề quan trọng nhất

trong việc sử dụng nguồn tài nguyên này. Do vậy, cần sử dụng có hiệu quả, đảm bảo cân bằng nước, chống gây ô

nhiễm nguồn nước.

II.1.2. Nguyên nhân cạn kiệt tài nguyên nước

Báo cáo của LHQ cũng đưa ra một số nguyên nhân khiến nguồn tài nguyên nước ngọt đang cạn kiệt:

- Sự tăng trưởng dân số và kinh tế ở châu Á cũng như ở nhiều quốc gia đang phát triển khác là một nhân tố quan

trọng dẫn đến tình trạng khan hiếm nguồn nước. Theo ước tính của LHQ, dân số thế giới năm 2050 sẽ đạt tới 9 tỷ

người, như vậy nhu cầu sử dụng nước sẽ tăng lên mà việc tiếp cận với nguồn nước sạch ngày càng khó hơn.

- Tốc độ đô thị hóa quá nhanh, tốc độ phát triển kinh tế cao và sự thay đổi trong cách ăn uống của người dân bị đô

thị hóa cũng là nguyên nhân hút cạn dần nguồn nước.

- Nhu cầu nước dùng cho nông nghiệp tăng cao, càng làm cạn kiệt nguồn nước. Hoạt động nông nghiệp của thế

giới hiện sử dụng 70% lượng nước khai thác, trong khi đó 60% lượng nước này bị sử dụng không hiệu quả. Do

tình trạng và nhu cầu tưới tiêu của nông nghiệp lại không ngừng tăng lên cùng với sự phát triển dân số.

Page 67: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

- Rác thải gây ô nhiễm, khí hậu biến đổi và ô nhiễm môi trường từ nhiều nguồn khác cũng khiến nguồn nước sạch

khan hiếm dần. Có những dự báo cho rằng, khí hậu toàn cầu ấm dần lên nên lưu lượng nước nhiều con sông ở

châu Á và châu Phi có thể giảm từ 15-50%. Hơn nữa, nước băng tan không bổ sung cho nguồn nước ngọt, mà

thường chảy ra biển thành nước mặn.

- Ngoài ra, nguồn nước khan hiếm còn do nhiều nguyên nhân khác, chẳng hạn như một số nghiên cứu cho thấy,

khoảng 60% lượng nước thất thoát từ hệ thống ống dẫn nước hoặc chứa nước. Ngày càng xảy ra nhiều sự cố do vỡ

đường ống nước, gây ra tình trạng khan hiếm nước ở nhiều nơi trên thế giới. Hơn nữa, trong nhiều lĩnh vực khác

của cuộc sống nhu cầu sử dụng nước tăng lên gấp nhiều lần. Chẳng hạn như trong khai thác mỏ, sản xuất nhiên

liệu sinh học...

II.1.3. Một số biện pháp thiết thực bảo vệ tài nguyên nước

Để bảo vệ và phát triển bền vững nguồn tài nguyên nước ngọt, giảm thiểu khó khăn về suy thoái tài nguyên nước

ngọt cho các lưu vực sông, trong đó Chiến lược tài nguyên nước của mình, các quốc gia đều coi trọng các biện

pháp công trình và phi công trình.

Biện pháp công trình

Xây dựng các hồ chứa thượng lưu để điều tiết nguồn nước vận hành theo quy trình hợp lý đồng thời xây dựng các

công trình khai thác lấy nước mặt, nước dưới đất ở trung lưu và hạ lưu các lưu vực sông nhằm đáp ứng cho các

nhu cầu sử dụng nước và duy trì dòng chảy môi trường; trong điều kiện cần thiết và cho phép thì còn phải xây

dựng các công trình chuyển nước lưu vực để giải quyết cho những vùng khan hiếm nước mà các nguồn nước trong

lưu vực không đáp ứng được. Đến nay trên toàn thế giới, các hồ chứa có tổng dung tích điều tiết được 6.000 tỷ m3,

chiếm 14% tổng lượng dòng chảy. Ở Việt Nam tổng dung tích điều tiết của hồ chứa đã và đang xây dựng cho đến

nay đạt gần 30 tỷ m3, chiếm 9% tổng lượng dòng chảy nội địa.

Phát triển các hệ thống thu gom và xử lý các loại chất thải. Đối với sông nội đô cần tăng cường nạo vét, làm cống

hộp lớn để chuyển tải và dẫn thêm nguồn nước sạch ở sông hồ vào nhằm pha loãng và đẩy nguồn nước bẩn này

đến những trạm xử lý; đẩy mạnh việc xây dựng các trạm xử lý nước tải và chất thải rắn tập trung và phân tán.

Đẩy mạnh trồng rừng, nâng cao độ che phủ và sử dụng hợp lý tài nguyên đất nhằm điều hoà nguồn nước, giảm lũ,

tăng lưu lượng mùa kiệt.

Biện pháp phi công trình

Tại Hội nghị Thượng đỉnh Jonhannesburg - Nam Phi 2002, nước đã được xếp vị trí hàng đầu trong phát triển. Liên

hợp Quốc lấy ngày 22-3 hàng năm là ngày quốc tế về nước để mọi người và các cơ quan chức năng nâng cao nhận

thức và trách nhiệm đối với việc quản lý bảo vệ và phát triển bền vững nguồn tài nguyên nước. Công tác quản lý

tài nguyên nước ở Việt Nam trong những năm qua đã được quan tâm và đạt được nhiều tiến bộ, tuy nhiên do tính

chất phức tạp và mới mẻ nên đang được tiếp tục hoàn thiện.

Về tổ chức: Giữa tháng 3/2007, Chính phủ đã quyết định hợp nhất nhiệm vụ quản lý lưu vực sông vào chức năng

quản lý tài nguyên nước ngọt. Đây cũng là xu thế tổ chức của Thế giới và các nước ASEAN trong việc tách quản

lý ra khỏi sử dụng, gắn việc quản lý số lượng với chất lượng, gắn quản lý nước mặt với nước dưới đất. Trách

Page 68: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên nước thuộc về Bộ Tài nguyên và Môi trường nhưng vẫn cần phải có sự phối

hợp liên ngành nhất là các ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, ngành điện cấp thoát nước, thuỷ sản với

ngành tài nguyên và môi trường.

Về quy hoạch: Hiện nay, quy hoạch thuỷ lợi, thuỷ điện, cấp nước…đã được Bộ NN&PTNT, Bộ Công nghiệp, Bộ

Xây dựng…và các Bộ liên quan xây dựng, đã và đang được triển khai mạnh mẽ. Để quản lý tổng hợp lưu vực

sông, cần sớm hoàn chỉnh và trình duyệt chính thức quy hoạch các lưu vực sông trọng điểm bao gồm quy hoạch

phát triển và quy hoạch bảo vệ nhằm hài hoà lợi ích giữa thượng lưu, hạ lưu, giữa các đôi tượng sử dụng nước để

việc sử dụng được tiết kiệm, đạt hiệu quả và bền vững.

Trước thực trạng suy thoái tài nguyên nước ngọt ở lưu vực sông đang gia tăng thì quy hoạch bảo vệ càng phải

được coi trọng và cần được đầu tư thực hiện quy hoạch bảo vệ với tỷ trọng thảo dáng so vơi tổng nguồn kinh phí

đầu tư cho phát triển. Việc quản lý thực hiện quy hoạch tổng hợp lưu vực sông ngoài ngành chủ quản thì các

ngành khai thác sử dụng nước và các địa phương liên quan đều có nhiệm vụ tham gia với tinh thần cộng tác vì

mục tiêu phát triển bền vững.

Về các văn bản và chính sách: Các Bộ, ngành chức năng cần nhanh chóng hoàn thiện các văn bản liên quan đến

quản lý của ngành mình. Riêng về chính sách phí ô nhiễm, cần có lộ trình nâng dần càng sớm càng tốt để tạo

nguồn kinh phí cho xử lý nước.

Về thuế tài nguyên nước ở Việt Nam cũng cần đánh giá lại mức thu cho phù hợp.

Về sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên nước: Đối với việc tiết kiệm nước trong nông nghiệp: Kinh nghiệm chỉ đạo

của Cục quản lý Tưới tiêu và Cấp nước nông thôn ở Trung Quốc cho thấy: trong chương trình hoàn chỉnh và hiện

đại hoá các hệ thống thuỷ nông ở Trung Quốc đã tăng thêm được 6,67 triệu ha, được tưới và tiết kiệm hàng năm

được 20 tỷ m3 nước. Ở Việt Nam nếu thực hiện theo chương trình này thì có thể sẽ nâng cao thêm được diện tích

tưới tiêu và tiết kiệm được rất nhiều nước.

Các ngành sử dụng nước khác nhau cũng cần có chương trình sử dụng nước tiết kiệm. Riêng đối với thuỷ điện, cần

có quy trình vận hành hợp lý để vừa đảm bảo yêu cầu ngành điện và phục vụ các yêu cầu sử dụng nước ở hạ lưu

cũng như duy trì động thái của dòng chảy.

II.2. Tài nguyên đất

II.2.1. Đặc điểm của tài nguyên đất:

Khái niệm Đất của Đacutraev:

Đất là một hợp phần tự nhiên được hình thành dưới tác động tổng hợp của năm yếu tố đá mẹ, khí hậu, địa hình,

sinh vật và thời gian.

Trên quan điểm sinh thái, đất không phải là một khối vật chất trơ mà là một hệ thống cân bằng của một tổng thể

gồm các thể khoáng nghiền vụn, các chất hữu cơ và những sinh vật đất. Thành phần vật chất của đất gồm: các hạt

khoáng (40%), các chất mùn hữu cơ (5%), không khí (20%) và nước (35%).

Chức năng cơ bản của đất là:

Page 69: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

- Là môi trường (địa bàn) để con người và sinh vật trên cạn sinh trưởng và phát triển, địa bàn lọc và cung cấp

nguồn nước cho con người,địa bàn cho các công trình xây dựng.

- Là địa bàn để cho các quá trình biến đổi và phân hủy các phế thải khoáng và hữu cơ. Nơi cư trú cho các động vật

và thực vật đất.

II.2.2. Sử dụng và bảo vệ tài nguyên đất

Sự sử dụng đất tùy thuộc vào điều kiện địa lý, khí hậu, đặc trưng của tập đoàn cây trồng, vào trình độ phát triển xã

hội và vào mục đích kinh tế của con người . Theo tài liệu của Tổ chức Lương Nông Thế giới (FAO) thì diện tích

của phần đất liền của các lục địa là 13.400 triệu ha, trong số này có

- 1.500 triệu ha (11%) là đất canh tác.

- 3.200 triệu ha (24%) là đồng cỏ chăn nuôi gia súc.

- 4.100 triệu ha (31%) là diện tích rừng và đất rừng.

- 4.400 triệu ha (34%) còn lại là diện tích đất dùng vào các việc khác (dân cư, đầm lầy, đất ngập mặn...). Diện tích

đất có thể dùng cho canh tác được đánh giá vào khoảng 3.200 triệu ha, hiện mới khai thác khoảng 1.500 triệu ha.

Diện tich đất toàn cầu và quy mô sử dụng đất trên trái đất được tóm tắt ở bảng sauDiện tích và sử dụng đất trên thế giới

TT Hệ sinh thái Diện tích (x 10 km2)

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

Rừng mưa nhiệt đới

Rừng nhiệt đới theo mùa

Rừng thường xanh vùng khí hậu ôn hòa

Rừng rụng lá vùng khí hậu ôn hòa

Rừng Taiga

Rừng cây gỗ, cây bụi

Savan

Đồng cỏ nhiệt đới

Đồng cỏ vùng khí hậu ôn hòa

Sa mạc, bán sa mạc

Sa mạc khắc nghiệt

Đất canh tác

Đất lúa

Đầm lầy, đầm phá

Tundra

Pha tạp

7,11

7,105

7,306

6,834

7,013

7,173

10,695

2,115

10,467

12,001

12,575

15,776

1,45

2,101

6,947

15,210

Tổng số 130,428

(Nguồn : Bouwman, 1998)

Tỷ lệ phần trăm (%) diện tích các loại đất trên thế giới (FAO, 1990)

Page 70: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Loại đất Tỷ lệ %

Tuyết, băng, hồ

Đất hoang mạc

Đất núi

Đất đài nguyên

Đất podzon

Đất nâu rừng

Đất đỏ

Đất đen

Đất màu hạt dẻ

Đất xám

Đất phù sa

Các loại đất khác

11,5

8,7

16,3

4,0

9,2

3,5

17,1

5,2

8,9

9,4

3,9

3,2

Qua bảng trên cho thấy những loại đất xấu (4 loại đầu) chiếm tới 40,5%. Hiện trạng sử dụng đất của thế giới theo

FAO nhu sau :

- 20% diện tích ở vùng quá lạnh, không sử dụng được

- 20% diện tích ở vùng quá khô, hoang mạc không sử dụng được

- 20% diện tích ở vùng quá dốc không canh tác nông nghiệp được

- 20% diện tích đồng cỏ

- 10% diện tích ở vùng tầng đất mảng

- 10% diện tích đang trồng trọt

Hiện nay, tài nguyên đất thế giới đang bị suy thoái nghiêm trọng do xói mòn, rữa trôi, bạc màu, nhiễm mặn, nhiễm

phèn và ô nhiễm đất, biến đổi khí hậu. Trong đó, 10% đất có tiềm năng nông nghiệp đang bị sa mạc hóa.

Như vậy, có thể nói con người đã sử dụng đất vào rất nhiều những mục đích khác nhau chứ không đơn thuần là sử

dụng trong nông nghiệp. Đất tham gia vào tất cả mọi hoạt động sống của con người từ định cư, sinh sống, đến vui

chơi, giải trí…Tuy nhiên, nhìn vào con số thống kê, ta có thể thấy việc sử dụng đất chưa đạt hiệu quả như mong

muốn. Hiện nay, tài nguyên đất TG đang bị suy thoái nghiệm trọng do nhiều lí do khác nhau, trong đó 10% đất có

tiềm năng nông nghiệp đang bị sa mạc hoá. Một lượng lớn đất có thể dùng cho canh tác còn chưa được sử dụng,

trong khi đó, quỹ đất dúng choi nông nghiệp thì ngày càng bị cắt xén để dùng vào các mục đích khác như xây

dựng đường sá, giao thông, xây dựng nhà cửa, công xưỡng …Đó đang là vấn đề rất bất cập.

Ở nước ta, diện tích đất tự nhiên có khoảng 33 triệu ha (xếp thứ 58/200 nước), trong đó có 22 triệu ha đất phát

triển tại chỗ và 11 triệu ha đất bồi tụ. Bình quân đất tự nhiên theo đầu người rất thấp: 0,444 ha/người (2001), bằng

1/6 mức bình quân của thế giới. Bình quân diện tích nông nghiệp chỉ khoảng 0,12 ha/người. Tuy nhiên, chúng ta là

một trong những quốc gia xuất khẩu gạo đứng hàng đầu trên thế giới, điều đó chúng tỏ rằng chúng ta đang sử dụng

quỹ đất nông nghiệp có hiệu quả và đã đạt được những thành công nhất định.

Page 71: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Đa số diện tích chưa sử dụng nằm ở vùng đất trống đồi núi trọc. Đây cũng là đối tượng khai hoang mở rộng diện

tích đất nông lâm nghiệp trong nước ta. Trong tổng số diện tích đất chưa sử dụng thì khoảng 8 triệu ha có thể sử

dụng cho lâm nghiệp, chỉ có gần 3 triệu ha có thể sử dụng cho nông nghiệp. Như vậy, trong tương lai diện tích đất

nông nghiệp tối đa cũng chỉ có khoảng 12 triệu ha. Khi ấy bình quân diện tích đất nông nghiệp trên đầu người ở

nước ta với tỷ lệ tăng dân số như hiện nay, thì vẫn không vượt qua ngưỡng 1.300 m2.

II.2.3. Nguyên nhân thoái hóa tài nguyên đất và những biện pháp khắc phục

- Rửa trôi, xói mòn, suy kiệt dinh dưỡng đất, hoang hoá (Ninh Thuận, Bình Thuận) và khô hạn, cơ cấu cây trồng

nghèo nàn, đất mất khả năng sản xuất ở trung du, miền núi (Tây Nguyên). Do lượng mưa tập trung lớn vào mùa

mưa (đến 80%), mất rừng, đốt nương làm rẫy, canh tác không hợp lý trên đất dốc.

- Mặn hóa, phèn hoá: khoảng 3 triệu ha, tập trung chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long

- Bạc màu do di chuyển cát: khoảng 0,5 triệu ha ở đồng bằng ven biển miền Trung.

- Ngập úng, ngập lũ, lầy hóa có diện tích khoảng 1,4 triệu ha

Ô nhiễm môi trường đất, nước và bùn do nước thải xung quanh đô thị, các khu công nghiệp và những nơi sử dụng

thuốc trừ sâu diệt cỏ, những nơi bị rải chất diệt cỏ, chất độc màu da cam trong chiến tranh.Sự suy giảm diện tích đất bình quânđầu người ở Việt Nam

Năm Dân số (tr người) Diện tích đất NN (tr ha) Bình quân/ng (ha/ng)

1940 20,2 5,2 0,26

1955 25,1 4,7 0,19

1975 47,6 5,6 0,12

1980 53,7 7,0 0,13

1985 59,7 6,8 0,11

1990 65,7 7,1 0,105

1995 74,0 7,0 0,095

Chiến lược bảo vệ đất cho cuộc sống bền vững:

- Bảo vệ những vùng đất tốt nhất cho nông nghiệp.

- Cải thiện việc bảo vệ đất và nước.

- Giảm nhẹ tác động của việc trồng trọt lên đất đã bạc màu.

- Khuyến khích những phương thức sản xuất kết hợp với chăn nuôi.

- Hạn chế sử dụng hóa chất trong nông nghiệp .

- Đẩy mạnh biện pháp phòng trừ sâu bệnh tổng hợp.

Đối với vùng đồi núi, để chống xói mòn trên đất dốc phải áp dụng tổng thể các biện pháp thủy lợi, canh tác nông –

lâm. Đất nông nghiệp vốn đã ít, nên chúng ta cần có biện pháp quản lý chặt chẽ:

II.3. Tài nguyên rừng

II.3.1. Đặc điểm tài nguyên rừng

Page 72: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Rừng là hệ sinh thái có độ đa dạng sinh học cao nhất ở trên cạn, nhất là rừng ẩm nhiệt đới. Ngoài ý nghĩa về tài

nguyên động thực vật, rừng còn là một yếu tố địa lý không thể thiếu được trong tự nhiên, có vai trò cực kỳ quan

trọng trong việc tạo cảnh quan và tác động mạnh mẽ đến các yếu tố khí hậu, đất đai. Chính vì vậy, rừng không chỉ

có chức năng trong phát triển kinh tế - xã hội mà còn có ý nghĩa đặc biệt trong bảo vệ môi trường.

Hiện nay rừng được đánh giá là hệ sinh thái đa dạng và giàu có nhất trên cạn, đặc biệt là rừng ẩm nhiệt đới. Năng

suất trung bình của rừng trên thế giới đạt 5 tấn chất khô/ha/năm, đáp ứng 2 - 3% nhu cầu lương thực phẩm cho con

người.

Rừng có vai trò to lớn về môi trường và phát triển, là nguồn cung cấp nguyên vật liệu cần thiết cho con người.

Rừng cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, dược liệu, du lịch, giải trí...Rừng là

"lá phổi xanh" hấp thụ CO2, tái sinh oxy, điều hòa khí hậu cho khu vực.

Rừng Việt Nam có nguồn tài nguyên sinh vật đa dạng. Có thể nói nước ta là trung tâm thu nhập các luồng thực vật

và động vật từ phía bắc xuống, phía tây qua, phía nam lên và từ đây phân bố đến các nơi khác trong vùng. Ðồng

thời, nước ta có độ cao ngang từ mực nước biển đến trên 3.000 m nên có nhiều loại rừng với nhiều loại thực vật và

động vật quý hiếm và độc đáo mà các nước ôn đới khó có thể tìm thấy được:

- Về thực vật, theo số liệu thống kê gần đây thì có khoảng 12.000 loài thực vật, nhưng chỉ có khoảng 10.500 loài

đã được mô tả (Hộ, 1991- 1993), trong đó có khoảng 10% là loài đặc hữu; 800 loài rêu; 600 loài nấm... Khoảng

2.300 loài cây có mạch đã được dùng làm lương thực, thực phẩm, làm thức ăn cho gia súc. Về cây lấy gỗ gồm có

41 loài cho gỗ quí (nhóm 1), 20 loài cho gỗ bền chắc (nhóm 2), 24 loài cho gỗ đồ mộc và xây dựng (nhóm 3)...,

loại rừng cho gỗ này chiếm khoảng 6 triệu ha. Ngoài ra rừng VN còn có loại rừng tre, trúc chiếm khoảng 1,5 triệu

ha gồm khoảng 25 loài đã được gây trồng có giá trị kinh tế cao.

Ngoài những cây làm lương thực, thực phẩm và những cây lấy gỗ ra, rừng Việt Nam còn có những cây được sử

dụng làm dược liệu gồm khoảng 1500 loài trong đó có khoảng 75% là cây hoang dại. Những cây có chứa hóa chất

quý hiếm như cây Tô hạp (Altingia sp.) có nhựa thơm có ở vùng núi Tây Bắc và Trung bộ; cây Gió bầu (Aquilaria

agalocha) sinh ra trầm hương, phân bố từ Nghệ tỉnh đến Thuận Hải; cây Dầu rái (Dipterocarpus) cho gỗ và cho

dầu nhựa...

- Về động vật cũng rất đa dạng, ngoài các loài động vật đặc hữu Việt Nam còn có những loài mang tính chất tổng

hợp của khu hệ động vật miền nam Trung Hoa, Ấn Ðộ, Mã Lai, Miến Ðiện. Hiện tại đã thống kê được khoảng 774

loài chim, 273 loài thú, 180 loài bò sát, 80 loài lưỡng cư, 475 loài cá nước ngọt và 1.650 loài cá ở rừng ngập mặn

và cá biển; chúng phân bố trên những sinh cảnh khác nhau, trong đó có nhiều loài có giá trị kinh tế cao, có ý nghĩa

khoa học. Nhiều loài quý hiếm có tên trong Sách đỏ của thế giới.  

Điều kiện tự nhiên khí hậu và các nhân tố khác đã tạo cho cây rừng sinh trưởng và phát triển quanh năm, thảm

thực vật rừng phong phú đa dạng với nhiều kiểu rừng. Theo các nhà Lâm nghiệp, người ta chia ra các kiểu rừng

sau : (Báo cáo về hiện trạng môi trường Việt Nam năm 1994, Cục Môi trường).

Các loại rừng chính ở Việt Nam

*. Rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới

Page 73: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Còn gọi là rừng mưa nhiệt đới, rừng nhiệt đới ẩm, kiểu rừng này thường gặp trên các vùng núi cao, dưới 800 m ở

phía Bắc, cao trên 1000 m ở phía Nam, là kiểu rừng hỗn loài thuộc họ quen thuộc ở vùng nhiệt đới như họ Đậu

(Papilionoideae), họ Dầu (Dipterocarpaceae), chúng phát triển tươi tốt thành nhiều tầng với nhiều năm tuổi khác

nhau.

*. Rừng khộp

Còn gọi là rừng thưa nhiệt đới, rừng nhiệt đới rụng lá, thường thấy ở miền Nam tại các vùng có độ cao dưới 1000

m. Thành phần gồm cây rụng lá xen lẫn cây thường xanh ở mức độ khác nhau.

*. Rừng lá kim

Ở các vùng cao trên 1000 m ở phía Nam thích hợp với các loài thực vật lá kim (Tùng, Bách, Thông 2 lá, Thông 3

lá) đã tạo nên những cánh rừng bạt ngàn trên cao nguyên Lâm Đồng. Tùy theo độ cao và chế độ ẩm cụ thể mà

rừng thông có thể xen lẫn với cây lá rộng của rừng Khộp hay của rừng thường xanh Á nhiệt đới.

*. Rừng thường xanh lá rộng Á nhiệt đới

Thường gặp ở các vùng núi cao trên 800 m ở phía Bắc, phần lớn gồm các cây hiện diện thuộc họ Dẻ (Fagaceae),

họ Long Não (Lauraceae), họ Thạch Nam (Ericaceae)... và các cây Tre, Nứa (họ Poaceae). thực vật phụ sinh phát

triển mạnh, thường là Phong lan (Orchidaceae), ráng đuôi phụng, ráng tổ rồng (Polypodiaceae) và các cây Thảo

quả (họ Zingiberaceae). Ở vùng rừng này, người ta thường trồng những cây thuốc như: Đỗ Trọng (họ

Eucommiaceae), Quế (họ Lauraceae), Nhân sâm (họ Araliaceae)...

*. Rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới trên núi đá vôi

Thành phần thực vật trên núi đá vôi khá phong phú, chủ yếu là rừng thường xanh, cây rụng lá chiếm tỷ lệ nhỏ. Các

loài cây đặc hữu của vùng này gồm : Nghiến (họ Tilliaceae), cây Kim giao (họ Podocarpaceae), cây Trai ly (họ

Clusiaceae)... là những loại gỗ quí, thường chúng có đặc điểm chung là ưa Calci, chịu hạn, ít chịu chua.

*. Rừng ngập mặn ở Việt Nam

Việt Nam có bờ biển dài 3200 km với nhiều cửa sông giàu phù sa, nên rừng ngập mặn sinh trưởng tốt, đặc biệt là

bán đảo Cà Mau (tỉnh Cà Mau).

II.3.2. Khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên rừng

Năm 1945, Việt Nam có 13,3 triệu ha rừng, chiếm 43,8% diện tích đất đai, đến những năm đầu thập niên 1990

diện tích này đã giảm tới con số 7,8 triệu ha với độ che phủ chỉ còn 23,6% tức là đã ở dưới mức báo động (30%).

Tốc độ mất rừng ở Việt Nam trong những năm 1985 - 1995 là 200.000 ha/năm. Trong đó, 60.000 ha do khai

hoang, 50.000 ha do cháy và 90.000 do khai thác quá mức gỗ và củi. Trên nhiều vùng trước đây là rừng bạt ngàn

thì nay chỉ còn là đồi trọc, diện tích rừng còn lại rất ít, chẳng hạn như vùng Tây Bắc chỉ còn 2,4 triệu ha, Tây

Nguyên chỉ còn 2,3 triệu ha.

Rừng miền Đông Nam Bộ còn lại khá hơn song đang bị tập trung khai thác. Rừng ngập mặn ven biển trước năm

1945 phủ một diện tích 400.000 ngàn ha nay chỉ còn gần một nửa (200.000 ha) chủ yếu là thứ sinh và rừng trồng.

Diện tích đất trống đồi núi trọc đang chịu xói mòn nặng lên đến con số 13,4 triệu ha.

Page 74: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến làm mất rừng trên thế giới và Việt Nam, tập trung chủ yếu vào nhóm các

nguyên nhân sau: mở rộng diện tích đất nông nghiệp, nhu cầu lấy củi, chăn thả gia súc, khai thác gỗ và các sản

phẩm rừng, phá rừng để trồng cây đặc sản và cây công nghiệp, cháy rừng…

Diện tích rừng chúng ta tăng nhưng chất lượng rừng không tăng và ngày càng suy giảm. Bên cạnh đó, tình trạng

phá rừng ngày càng tăng, xuất hiện dưới những hình thức mới như “phá rừng chờ quy hoạch”, phá rừng để trồng

cây công nghiệp,... đang diễn ra ở một số địa phương hiện nay.

Các vấn đề bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng Việt Nam gồm một số nội dung sau:

- Trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc.

- Bảo vệ rừng phòng hộ, các vườn quốc gia và các khu dự trữ tự nhiên

- Khai thác hợp lý rừng sản xuất, hạn chế khai hoang chuyển rừng thành đất nông nghiệp, hạn chế di dân tự do.

- Đóng cửa rừng tự nhiên.

- Thành lập một hệ thống hoàn chỉnh các khu rừng tự nhiên được bảo vệ:

- Bảo vệ rừng trong một hệ thống các khu vực bảo vệ là một mấu chốt của việc làm kế hoạch sử dụng đất.. Trong

đó ưu tiên bảo vệ đối với các hệ sinh thái rừng già. Các khu bảo tồn phải được bao quanh bằng những vùng đệm

rộng rãi hoặc rừng biến cải được quản lý hoặc rừng trồng.. Theo các nhà môi trường, diện tích đất có rừng đảm

bảo an toàn môi trường của một quốc gia tối ưu > 45% tổng diện tích.

- Duy trì lâu dài và đầy đủ diện tích những khu rừng biến cải: phải duy trì rừng biến cải để bảo vệ hệ hổ trợ sự

sống và đa dạng sinh học, đồng thời cung cấp sản lượng bền vững về gỗ và các lâm sản khác.

- Tăng thêm diện tích rừng trồng: việc trồng cây là rất quan trọng vừa để cải thiện môi trường vừa giảm nhẹ áp lực

khai thác lên các khu rừng biến cải biến

- Nâng cao khả năng quản lý rừng bền vững: phải chấm dứt tình trạng khai thác rừng không bền vững, đặc biệt là

đối với những khu rừng nhiệt đới.

II.4. Tài nguyên biển

Biển và đại dương giới chiếm 71% diện tích Trái đất với độ sâu trung bình 3.710m, tổng khối nước 1,37 tỷ km3.

II.4.1. Đặc điểm tài nguyên biển Việt Nam

Vùng biển Việt Nam chiếm phần lớn diện tích biển Đông, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với diện

tích khoảng 1 triệu km2. Biển Việt Nam được phân chia thành 5 vùng chính: Vùng biển Vịnh Bắc Bộ, vùng biển

Trung Bộ, vùng biển Đông Nam Bộ, vùng biển Tây Nam Bộ và vùng biển Giữa Biển Đông.

Các hệ sinh thái biển và ven biển có giá trị dịch vụ cực kỳ quan trọng như điều hoà khí hậu, dinh dưỡng trong

vùng biển thông qua các chu trình sinh địa hoá; đồng thời còn là nơi cư trú, sinh đẻ và ương nuôi ấu trùng của

nhiều loài thuỷ sinh vật không chỉ vùng bờ, mà còn từ ngoài khơi vào theo mùa trong đó có nhiều loài đặc hải sản.

Đến nay, trong vùng biển nước ta đã phát hiện được chừng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh

thái điển hình. Các loài sinh vật đó thuộc về 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau, trong đó có 3 vùng biển:

Móng Cái- Đồ Sơn, Hải Vân- Đại Lãnh và Đại Lãnh- Vũng Tàu có mức độ đa dạng sinh học cao hơn các vùng

khác. Trong tổng số loài được phát hiện có khoảng 6.000 loài động vật đáy; 2.038 loài cá (hơn 100 loài cá kinh tế);

Page 75: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

653 loài rong biển; 657 loài động vật phù du; 537 loài thực vật phù du; 94 loài thực vật ngập mặn; 225 loài tôm

biển; 14 loài cỏ biển; 15 loài rắn biển; 12 loài thú biển; 5 loài rùa biển và 43 loài chim nước.

II.4.2. Khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên biển.

Hiện nay, con người khai thác rất nhiều nguồn tài nguyên biển để phục vụ cho sự phát triển kinh tế và xã hội như

các nguồn lợi hóa chất và khoáng chất chứa trong khối nước và đáy biển, nguồn lợi nhiên liệu hóa thạch, sinh vật

biển,...nhưng đồng thời cũng tác động xấu đến môi trường, khai thác quá mức tài nguyên sinh học, gây ô nhiễm

biển từ các hoạt động khai thác dầu khí, vận tải biển, đổ chất thải độc hại và chất thải phóng xạ xuống biển, đưa

nước thải từ đất liền ra biển,...

Tại các vùng biển Việt Nam hình thành nhiều ngư trường với sản lượng thủy sản lớn, phục vụ các nghề khai thác:

nghề lưới rê, nghề câu vàng, nghề lưới kéo đáy đơn... Từ năm 2000-2005, tổng trữ lượng khai thác thủy sản biển

đạt khoảng 4 triệu tấn, trong đó trữ lượng cá nổi khoảng 2,8 triệu tấn, chiếm khoảng 70% tổng trữ lượng. Tuy

nhiên, một vấn đề đặt ra là hiện nay tại những vùng ven bờ đã và đang bị tận dụng khai thác quá mức, làm cho

nguồn lợi thủy sản có nguy cơ bị cạn kiệt. số lượng ngư dân trực tiếp khai thác hải sản tăng bình quân 23.155

người/năm. Điều này đồng nghĩa với việc cạnh tranh trong khai thác ven bờ với cường độ cao, ráo riết hơn, hơn

nữa để tăng sản lượng ngư dân này dùng mọi biện pháp để đánh bắt: Giảm kích thước mắt lưới, tăng cường độ

khai thác hoặc dùng những biện pháp khai thác mang tính hủy diệt, như: Sử dụng chất nổ, chất độc, xung điện…

Sự suy giảm nguồn lợi cá đã ảnh hưởng nghiêm trọng và trực tiếp đến hiệu quả đánh bắt của các loại nghề khai

thác hải sản. Tỷ lệ cá tạp, cá con trong các mẻ lưới ngày càng cao, chiếm 40-95% sản lượng đánh bắt, tùy theo loại

ngành nghề khai thác, kéo theo doanh thu các hoạt động khai thác có xu hướng thấp dần.

Biển còn là nguồn năng lượng được khai thác trong vận tải biển, chạy máy phát điện và nhiều lợi ích khác.

II.5. Tài nguyên sinh học

Tài nguyên sinh học hay đa dạng sinh học là tất cả các loài động vật, thực vật và vi sinh vật sống hoang dại, tự

nhiên trong rừng, trong đất và trong các vực nước. Sự phát sinh và phát triển của chúng trên trái đất đã đóng góp

cho sự tiến hóa của sinh quyển, đồng thời lại là nguồn sống của con người.

Theo tài liệu mới nhất thì chúng ta đã biết và mô tả 1,74 triệu loài và dự đoán số loài có thể lên đến 14 triệu loài.

Trong số 1,7 triệu loài đã mô tả có 4.000 loài vi khuẩn, 80.000 loài nhân thật (Protista gồm động vật nguyên sinh,

tảo), 1.320.000 loài động vật, 70.000 loài nấm và 270.000 loài thực vật.

Đa dạng loài lớn nhất là ở vùng rừng nhiệt đới. Mặc dù rừng nhiệt đới chỉ chiếm 7% diện tích mặt đất và khoảng

2% diện tích bề mặt hành tinh, chúng chứa hơn 1/2 loài trên thế giới.

Nhóm ngành Số loài mô tả Số loài dự đoán

Vi khuẩn 4.000 1.000.000

Protista 80.000 600.000

Động vật 1.320.000 10.600.000

Nấm 70.000 1.500.000

Thực vật 270.000 300.000

Page 76: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Tổng 1.744.000 14.000.000

II.5.1. Sử dụng và bảo vệ tài nguyên sinh học Việt Nam

Nước ta rất phong phú và đa dạng động thực vật hoang dã đặc trưng cho vùng nhiệt đới gió mùa.

Theo các tài liệu đã công bố, hệ thực vật nước ta gồm khoảng 10.084 loài thực vật bậc cao có mạch, khoảng 800

loài rêu và 600 loài nấm, trong đó có tới 2.300 loài đã được nhân dân sử dụng làm lương thực và thực phẩm, dược

phẩm, làm thức ăn gia súc, lấy gỗ, tinh dầu, các nguyên vật liệu khác hay làm củi đun.

Hệ thực vật Việt Nam có độ đặc hữu cao. Phần lớn số loài đặc hữu này (10%) tập trung ở bốn khu vực chính: khu

vực núi cao Hoàng Liên Sơn ở phía Bắc, khu vực núi cao Ngọc Linh ở miền Trung, cao nguyên Lâm Viên ở phía

Nam và khu vực rừng mưa ở Bắc Trung Bộ.

Nước ta rất phong phú và đa dạng động thực vật hoang dã đặc trưng cho vùng nhiệt đới gió mùa. Theo các tài liệu

đã công bố, hệ thực vật nước ta gồm khoảng 10.084 loài thực vật bậc cao có mạch, khoảng 800 loài rêu và 600 loài

nấm, trong đó có tới 2.300 loài đã được nhân dân sử dụng làm lương thực và thực phẩm, dược phẩm, làm thức ăn

gia súc, lấy gỗ, tinh dầu, các nguyên vật liệu khác hay làm củi đun.

Hệ thực vật Việt Nam có độ đặc hữu cao. Phần lớn số loài đặc hữu này (10%) tập trung ở bốn khu vực chính: khu

vực núi cao Hoàng Liên Sơn ở phía Bắc, khu vực núi cao Ngọc Linh ở miền Trung, cao nguyên Lâm Viên ở phía

Nam và khu vực rừng mưa ở Bắc Trung Bộ.

Tình trạng hiện nay của một số loài gỗ quí như Gõ đỏ, Gụ mật, nhiều loài cây làm thuốc như Hoàng Liên chân gà,

Ba kích,... Thậm chí có nhiều loài đã trở nên rất hiếm hay có nguy cơ tuyệt chủng như Hoàng đàn, Cẩm lai, Pơ

mu,...

Khu hệ động vật cũng hết sức phong phú. Hiện đã thống kê được 275 loài và phân loài thú, 828 loài chim, 180 loài

bò sát, 80 loài ếch nhái, khoảng 500 loài cá nước ngọt và 2.000 loài cá biển và hàng vạn loài động vật không

xương sống ở cạn, ở biển và nước ngọt.

Động vật giới Việt Nam có nhiều loài là đặc hữu: hơn 100 loài và phân loài chim và 78 loài và phân loài thú là đặc

hữu. Có rất nhiều loài động vật có giá trị thực tiễn cao và nhiều loài có ý nghĩa lớn về bảo vệ như voi, Tê giác, Bò

rừng, Hổ, Báo, Voọc vá, Voọc xám, Trĩ, Sếu, Cò quắm.

Trong vùng phụ Đông Dương (phân vùng theo địa lý động vật) có 21 loài khỉ thì ở Việt Nam có 15 loài, trong đó

có 7 loài đặc hữu của vùng phụ này. Có 49 loài chim đặc hữu cho vùng phụ thì ở Việt Nam có 33 loài, trong đó có

11 loài là đặc hữu của Việt Nam; trong khi Miến Điện, Thái Lan, Mã Lai, Hải Nam mỗi nơi chỉ có 2 loài, Lào 1

loài và Campuchia không có loài đặc hữu nào.

Hiện nay chúng ta đã phát hiện hơn 300 loài san hô cứng ở vùng biển Việt Nam, trong đó có 62 loài là san hô tạo

rạn, phù hợp với điều kiện trong vùng. Về các nhóm ở nước mặn, chúng ta đã thống kê được 2.500 loài thân mềm,

giáp xác 1.500 loài, giun nhiều tơ 700 loài, da gai 350 loài, hải miên 150 loài, 653 loài tảo biển cũng đã được xác

định.

Page 77: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Sự đa dạng thành phần loài và sự suy giảm số lượng loài thực vật, động vật

Các biện pháp bảo vệ tài nguyên sinh học

+ Ban hành “Sách đỏ Việt Nam, Quy định khai thác và bảo vệ tài nguyên sinh học, sử dụng và bảo vệ tài

nguyên đất hợp lý

+ Xây dựng và mở rộng hệ thống vườn quốc gia và các khu bảo tồn thiên nhiên. Năm 1986 cả nước có 87 khu với

7 vườn quốc gia. Đến năm 2007 cả nước có 30 vườn quốc gia, 65 khu dự trữ thiên nhiên và bảo tồn loài - sinh

cảnh, 6 khu được UNECO công nhận là khu dự trữ sinh quyển của thế giới. Ban hành "Sách đỏ Việt Nam": Để bảo

vệ nguồn gen động - thực vật quí hiếm khỏi nguy cơ tuyệt chủng, đã có 360 loài thực vật và 350 loài động vật

thuộc loại quí hiếm được đưa vào "Sách đỏ Việt Nam". Trong "Sách đỏ Việt Nam" cũng đã qui định danh sách 38

loài cá nước ngọt và 37 loài cá biển, 59 loài động vật không xương sống cần được bảo vệ.

+ Để đảm bảo sử dụng lâu dài các nguồn lợi sinh vật, Nhà nước đã ban hành các qui định trong khai thác: Cấm

khai thác gỗ quí, khai thác gỗ trong rừng cấm, rừng non, gây cháy rừng; Cấm săn bắn động vật trái phép; Cấm

dùng chất nổ đánh bắt cá và các dụng cụ đánh bắt cá con, cá bột; Cấm gây độc hại cho môi trường nước

II.6. Tài nguyên khoáng sản

II.6.1. Khái niệm chung

Luật khoáng sản 20.3.1996 định nghĩa:

Khoáng sản là tài nguyên trong lòng đất, trên mặt đất dưới dạng những tích tụ tự nhiên khoáng vật, khoáng chất có

ích ở thể rắn, thể lỏng, thể khí, hiện tại hoặc sau này có thể được khai thác. Khoáng vật, khoáng chất ở bãi thải của

mỏ mà sau này có thể được khai thác lại, cũng là khoáng sản.

Khoáng sản là tài nguyên hầu hết không tái tạo được, là tài sản quan trọng của quốc gia, phải được quản lý, bảo vệ,

khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,

phát triển bền vững kinh tế - xã hội trước mắt và lâu dài, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Khoáng sản có thể tồn tại

ở trạng thái rắn (quặng, đá), lỏng (dầu, nước khoáng,…), oặc khí (khí đốt).

Thực vật Thú Chim Bò sát,

lưỡng cư

Nước

ngọt

Nước

mặn

Số lượng loài đã biết 14.500 300 830 400 550 2000

Số lượng loài bị mất dần 500 96 57 62 90

Trong đó, số lượng loài

có nguy cơ tuyệt chủng

100 62 29

Page 78: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Khoáng sản cũng có thể hiểu là nguồn nguyên liệu tự nhiên có nguồn gốc vô cơ hoặc hữu cơ, tuyệt đại bộ phận

nằm trong lòng đất và quá trình hình thành có liên quan mật thiết đến quá trình lịch sử phát triển của vỏ trái đất

trong thời gian dài từ hàng ngàn năm đến hàng chục, hàng trăm triệu năm.

II.6.2. Phân loại khoáng sản:

Khoáng sản rất đa dạng cả về nguồn gốc và chủng loại, được phân loại theo nhiều cách:

- Theo dạng tồn tại: rắn, khí (khí đốt, He,...), lỏng (dầu, nước khoáng,...)

- Theo nguồn gốc: nội sinh (sinh ra trong lòng trái đất), ngoại sinh (sinh ra trên bề mặt trái đất).

- Theo thành phần hoá học:

Khoáng kim loại: gồm kim loại thường gặp có trữ lượng lớn (nhôm, sắt, crom, magiê,..) và kim loại hiếm (vàng,

bạc, bạch kim, thuỷ ngân, ..)

Khoáng phi kim loại: gồm các loại quặng photphat, sunphat, clorit..., các nguyên liệu dạng khoáng: cát sỏi, thạch

anh, đá vôi,.. và dạng nhiên liệu (than, dầu mỏ, khí đốt,..) Nước cũng được coi là một dạng khoáng (nước biển,

nước ngầm chứa khoáng...).

- Theo chức năng sử dụng, khoáng sản được phân ra làm 3 nhóm lớn:

Khoáng sản kim loại: Nhóm khoáng sản sắt và hợp kim sắt (sắt, mangan, crom, vanadi, niken, molipden, vonfram,

coban); Nhóm kim loại cơ bản (thiếc, đồng, chì, kẽm, antimoan); Nhóm kim loại nhẹ (nhôm, titan, berylly); Nhóm

kim loại quý hiếm (vàng, bạc, bạch kim); Nhóm kim loại phóng xạ (uran,thori)và nhóm kim loại hiếm và đất hiếm

Khoáng sản phi kim loại: Nhóm khoáng sản hoá chất và phân bón: apatit, photphorit, barit, fluorit, muối mỏ, thạch

cao, S (pirit, prontin,…), spectin; Nhóm nguyên liệu sứ gốm, thuỷ tinh chịu lửa, bảo ôn: sét – kaolin, magnezit,

fenspat, diatomit… Nhóm nguyên liệu kỹ thuật: kim cương, grafit, thạch anh, mica, tan, atbet, zeolit. Vật liệu xây

dựng: đá macma và biến chất, đá vôi, đá hoa, cát sỏi

Khoáng sản cháy: than (than đá, than nâu, than bùn) dầu khí (dầu mỏ, khí đốt, đá dầu).

Trong 100 năm trở lại đây, loài người đã lấy đi từ trong lòng đất một lượng khổng lồ các khoáng sản: 130 tỷ tấn

than, 38 tỷ tấn dầu,... Nhu cầu sử dụng một số kim loại thông dụng cho toàn thế giới năm 1990 như sau: sắt 1.300

triệu tấn, đồng:12 triệu tấn, nhôm: 85 triệu tấn,...

II.6.3. Tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam

Một số loại khoáng sản chính của Việt Nam:

- Quặng sắt: trữ lượng gần 1800 triệu tấn, phân bố rải rác từ Bắc Bộ đến Nam Trung Bộ. Mỏ sắt lớn nhất ở

Việt Nam là mỏ Thạch Khê (Hà Tĩnh), trữ lượng ước tính trên 500 triệu tấn

- Quặng đồng: trữ lượng trên 1 triệu tấn. Các mỏ lớn ở Việt Nam là mỏ đồng Sinh Quyền (Lào Cai) và mỏ Tạ

Khoa (Sơn La)

- Quặng nhôm (Quặng bauxit): chủ yếu ở Tây Nguyên, ước tính trữ lượng tới 4 tỷ tấn. Ngoài ra còn có ở Đông

Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ

- Quặng thiếc: Trữ lượng tới 70 nghìn tấn, các mỏ lớn ở Cao Bằng, Tuyên Quang, Lâm Đồng, Hà Tĩnh

- Quặng crôm: Trữ lượng 10 triệu tấn, lớn nhất là mỏ crôm Cổ  Định (Thanh Hoá)

Page 79: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

- Quặng titan: Phân bố chủ yếu ở ven biển miền Trung Việt Nam

- Các quặng kim loại khác như: vàng, chì, kẽm, mangan, niken, đất hiếm, phân bố rải rác nhiều nơi như: mỏ

chì kẽm Chợ Đồn, chợ Điền Việt Bắc;  mỏ mangan Cao Bằng; mỏ niken ở Sơn La; mỏ vàng ở Bồng Miêu (Quảng

Nam); mỏ vàng ở Bắc Lạng (Bắc Cạn) và các mỏ có trữ lượng hàng chục đến hàng trăm tấn ở Trung Bộ

- Quặng apatit (làm phân bón): trữ lượng trên 1 tỷ tấn, mỏ lớn nhất là mỏ ở Cau Đường (Lào Cai), mỏ Quỳ

Châu (nghệ An)

- Đá vôi: Trữ lượng rất lớn, các dãy núi đá vôi phân bố nhiều ở Bắc, Trung Bộ và Kiên Giang. Trữ lượng được

đánh giá trên 10 tỷ tấn

- Đá quý: mỏ rubi ở Quỳ Hợp (Nghệ An) và mỏ rubi, saphia Lục Yên (Yên Bái)

- Dầu mỏ, khí đốt: Trữ lượng dầu mỏ được thăm dò tới hàng trăm triệu tấn, chủ yếu ở phần thềm lục địa phía

Nam Việt Nam như các mỏ Bạch Hổ, Đại Hùng, Rồng, Nam Côn Sơn, bể Cửu Long … Ngoài ra còn có  nhiều mỏ

khí đốt ở đồng bằng Bắc Bộ

- Than đá: Trữ lượng 3,5 tỷ tấn tập trung ở vùng Quảng Ninh

- Than nâu: Trữ lượng hàng trăm tỷ tấn tập trung ở vùng đồng bằng Bắc Bộ

- Nước ngầm dưới đất: Trữ lượng 130 triệu mét khối nước/ngày

- Nguyên liệu xi măng: chủ yếu tập trung ở các tỉnh miền Bắc, miền Trung và Hà Tiên. Trữ lượng đánh giá

được 18 tỉ tấn đá vôi, 1,6 tỉ tấn đất sét, 0,2 tỉ tấn phụ gia, dư thừa để sản xuất 29 triệu tấn xi măng/năm.

- Cát thủy tinh: phân bố dọc theo bờ biển từ Quảng Ninh đến Bình Thuận. Trữ lượng được đánh giá 2,6 tỉ tấn,

đủ cho sản xuất trong nước và xuất khẩu.

II.6.4. Khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên khoáng sản

 Việt Nam là quốc gia có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng, phong phú với gần 5.000 mỏ và điểm quặng của

khoảng 60 loại khoáng sản khác nhau. nhưng phần lớn là mỏ nhỏ, phân tán nên khó khăn trong quản lí khai thác.

Khoáng sản trong tự nhiên có nguồn gốc từ vô cơ hay hữu cơ, đại đa số nằm trong lòng đất. Sự hình thành của nó

có liên quan đến các quá trình địa chất trong suốt hàng triệu năm.Việc khai thác KS là hết sức tốn kém, nhưng vì

lợi nhuận kết quả là nguồn tài nguyên này bị suy giảm một cách nhanh chóng. Đối với nước ta, tài nguyên thiên

nhiên rất đa dạng và phong phú. Đặc biệt là than đá, dầu và khí đốt...Ngành công nghiệp khai khoáng đã đóng góp

trên 100 sản phẩm. Giá trị sản xuất công nghiệp khoáng sản từ năm 1995 đến năm 1999 tăng liên tục từ 27- 40

nghìn tỉ đồng, chiếm 26% giá trị sản xuất công nghiệp và 5-6% GDP cả nước

Cơ chế thị trường tạo điều kiện thuận lợi cho ngành công nghiệp khai khoáng phát triển mạnh mẽ. Theo số liệu

của Tổng cục Thống kê trong giai đoạn 1990 - 1999 sản lượng than khai thác tăng gấp hơn hai lần (năm 2002 cả

nước đạt 15,8 triệu tấn, gấp hơn 3 lần) so với năm 1990; dầu thô tăng hơn 5 lần (năm 2002 đạt 16,6 triệu tấn, gấp 6

lần) so với năm 1990. Sản lượng các loại khoáng sản khác cũng tăng gấp nhiều lần so với năm 1990 như: apatít đạt

hơn 680 ngàn tấn, gấp 2,5 lần; quặng crôm đạt 59 ngàn tấn, gấp 13 lần; đá các loại đạt 19.172 ngàn m3… . Ngoài

ra còn có hàng trăm mỏ khoáng sản kim loại như sắt, thiếc, crômit, đồng, niken, kẽm, chì, magan, antimon,

vonfram, vàng… và các khoáng sản phi kim loại như đá quý, đá vôi, đá ốp lát, cát, thủy tinh và vật liệu xây dựng

Page 80: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

đang được tiến hành đầu tư khai thác. Công nghiệp khai thác mỏ phát triển đã góp phần quan trọng trong việc cung

cấp đủ nguyên liệu, nhiên liệu cho hoạt động sản xuất của các ngành kinh tế quốc dân, xuất khẩu tăng nguồn thu

ngoại tệ cho đất nước. Tuy nhiên, hiện nay ở nhiều nơi việc khai thác khoáng sản bừa bãi, không phép, gây lãng

phí tài nguyên và ô nhiễm môi trường làm cạn kiệt các tài nguyên khác.

Giá trị của tài nguyên có thể được bảo toàn và nâng cao hơn nếu chúng ta có được những công nghệ tiên tiến. Phụ

thuộc công nghệ bên ngoài sẽ dẫn đến chảy máu tài nguyên khi chúng ta không có cách nào khác hơn xuất khẩu tài

nguyên thô. Giá trị sản xuất công nghiệp khoáng sản:

Ngành sản xuất 1995 1996 1997 1998

Khai thác than 1677,2 1929,8 2229,1 2209,8

Khai thác dầu khí 10844,6 12466,9 14238,6 17641,6

Quặng kim loại 236,1 282,5 172,3 110,7

Đá và các mỏ khác 1161,8 1288,4 1673,7 1696,4

Than cốc, dầu mỏ 343,2 208,7 83,5 86,0

Sản phẩm khoáng sản phi kim 9200 10120 12222,8 13934,0

Sản xuất sản phẩm kim loại 3428,0 4085,9 3999,8 4239,8

Tổng 26890,9 30382,2 34619,8 39918,3

Các ngành công nghiệp trong cả

nước

103374,7 118096,6 134419,7 150684,6

Tỷ lệ ngành khoáng sản/công

nghiệp, %

26,00 26,00 26,00 26,00

Các biện pháp bảo vệ:

- Quản lí chặt việc khai thác. Tránh lãng phí tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường từ khâu khai thác - vận chuyển

- chế biến. Xử lí những trường hợp vi phạm luật

- Điều tra chi tiết, qui hoạch khai thác và chế biến khoáng sản, không xuất thô các loại nguyên liệu khoáng, tăng

cường tinh chế và tuyển luyện khoáng sản

- Đầu tư kinh phí xử lý chất ô nhiễm phát sinh trong quá trình khai thác và sử dụng khoáng sản như: xử lý chống

bụi, chống độc, xử lý nước thải...

- Hạn chế tổn thất tài nguyên và tác động tiêu cực đến môi trường trong quá trình thăm dò, khai thác chế biến.

- Than đá, dầu mỏ và khí đốt,... dần dần sẽ khai thác hết. Việc giải quyết sản xuất năng lượng cho tương lai sẽ

bằng cách sử dụng nhiều hơn năng lượng hạt nhân. Dự báo đến năm 2020 năng lượng hạt nhân sẽ chiếm 60 - 65%

cấu thành năng lượng của thế giới.

II.7. Tài nguyên khí hậu

II.7.1. Khái niệm chung

Page 81: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

"Tài nguyên khí hậu và cảnh quan bao gồm các yếu tố về thời tiết khí hậu (khí áp, nhiệt độ, độ ẩm, bức xạ mặt

trời, lượng mưa...) địa hình, không gian trống..."

Các yếu tố khí hậu có vai trò to lớn trong đời sống và sự phát triển của sinh vật và con người. Tác động của khí

hậu đến con người trước hết thông qua nhịp điệu của chu trình sống: nhịp điệu ngày đêm, nhịp điệu mùa trong

năm, nhịp điệu tháng và tuần trăng. Các nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy tình trạng sức khoẻ, tốc độ phát

triển của sinh vật phụ thuộc vào thời điểm của các chu trình sống trên. Cường độ và đặc điểm của bức xạ mặt trời

có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của sinh vật và tăng trưởng sinh khối.

Khí hậu thời tiết có ảnh hưởng mạnh mẽ tới tình trạng sức khoẻ con người, tạo ra sự tăng độ tử vong ở một số

bệnh tim mạch, các loại bệnh tật theo mùa v.v... Trong giai đoạn phát triển hiện nay của nền kinh tế và giao lưu xã

hội, khí hậu, thời tiết đang trở thành một dạng tài nguyên vật chất quan trọng của con người. Khí hậu thời tiết thích

hợp tạo ra các khu vực du lịch, nuôi trồng một số sản phẩm động thực vật có giá trị kinh tế cao (hoa, cây thuốc,

các nguồn gen quý hiếm khác.)

Ðịa hình cảnh quan là một dạng tài nguyên mới; nó tạo ra không gian của môi trường bảo vệ, môi trường nghỉ

ngơi. Ðịa hình hiện tại của bề mặt trái đất là sản phẩm của các quá trình địa chất lâu dài (nội sinh, ngoại sinh). Các

loại hình thái chính của địa hình là đồi núi, đồng bằng, địa hình Karst, địa hình ven bờ, các kho nước lớn (biển,

sông, hồ). Mỗi loại hình thái địa hình chứa đựng những tiềm năng phát triển kinh tế đặc thù. Thí dụ phát triển du

lịch, phát triển nông, lâm, công nghiệp v.v...

Bức xạ mặt trời

Tổng năng lượng và vật chất của mặt trời đi đến trái đất được gọi là bức xạ mặt trời. bức xạ mặt trời là nguồn năng

lượng chính của tất cả các quá trình trong khí quyển. Bức xạ mặt trời quy định chế độ nhiệt và chế độ ánh sáng của

lớp vỏ địa lý.

Nhiệt độ không khí

Nhiệt độ không khí được xác định bằng dụng cụ đo trong điều kiện cân bằng nhiệt hoàn toàn, giữa các dụng cụ với

khí quyển xung quanh hoặc với mặt đất.

Lượng mưa

Là lượng nước ở thể lỏng hoặc thể rắn rơi xuống mặt đất hoặc vật thể ở mặt đất từ mây hoặc từ các chất kết tủa

trong không khí dưới dạng mưa, tuyết, mưa đá, sương,...

Bốc hơi và độ ẩm không khí

Do sự bốc hơi từ bề mặt thủy quyển, bề mặt lục địa và do sự thoát hơi nước của thực vật đã tạo nên một khối

lượng hơi nước lớn trong khí quyển. Độ ẩm không khí được xác định thông qua sư chênh lệch nhiệt độ giữa hai

nhiệt kế: nhiệt kế khô và nhiệt kế ướt đặt trong lều khí tượng.

II.7.2. Sử dụng và bảo vệ tài nguyên khí hậu

Các loại tài nguyên khí hậu (nhiệt, độ ẩm của khí quyển, năng lượng gió...) cũng không bị mất, nhưng thành phần

khí quyển có thể bị thay đổi do sự ô nhiễm từ nhiều nguồn khác nhau. Trong sinh quyển, nguồn nước dự trữ cũng

hầu như không đổi, nhưng trữ lượng của nước ngọt trong vùng khác nhau có thể bị thay đổi.

Page 82: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Do hoạt động của tự nhiên và của con người như núi lửa, cháy rừng, khai thác khoáng sản, giao thông vận thải,

khai thác lâm sản và các hoạt động sản xuất công nghiệp,...đã thải vào môi trường tự nhiên một lượng lớn chất thải

tác động xấu đến tài nguyên khí hậu.

Các chất gây nguy hiểm nhất đối với sức khoẻ con người và khí quyển trái đất đã được biết đến gồm:

Cácbon đioxit (CO2): CO2 với hàm lượng 0,03% trong khí quyển là nguyên liệu cho quá trình quang hợp để sản

xuất năng suất sinh học sơ cấp ở cây xanh. Thông thường, lượng CO2 sản sinh một cách tự nhiên cân bằng với

lượng CO2 được sử dụng cho quang hợp. Hai loại hoạt động của con người là đốt nhiên liệu hoá thạch và phá rừng

đã làm cho quá trình trên mất cân bằng, có tác động xấu tới khí hậu toàn cầu.

Ðioxit Sunfua (SO2): Ðioxit sunfua (SO2) là chất gây ô nhiễm không khí có nồng độ thấp trong khí quyển, tập

trung chủ yếu ở tầng đối lưu. Dioxit sunfua sinh ra do núi lửa phun, do đốt nhiên liệu than, dầu, khí đốt, sinh khối

thực vật, quặng sunfua,.v.v... SO2 rất độc hại đối với sức khoẻ của người và sinh vật, gây ra các bệnh về phổi khí

phế quản. SO2 trong không khí khi gặp oxy và nước tạo thành axit, tập trung trong nước mưa gây ra hiện tượng

mưa axit.

Cacbon monoxit (CO): CO được hình thành do việc đốt cháy không hết nhiên liệu hoá thạch như than, dầu và một

số chất hữu cơ khác. Khí thải từ các động cơ xe máy là nguồn gây ô nhiễm CO chủ yếu ở các thành phố. Hàng

năm trên toàn cầu sản sinh khoảng 600 triệu tấn CO. CO không độc với thực vật vì cây xanh có thể chuyển hoá

CO => CO2 và sử dụng nó trong quá trình quang hợp. Vì vậy, thảm thực vật được xem là tác nhân tự nhiên có tác

dụng làm giảm ô nhiễm CO. Khi con người ở trong không khí có nồng độ CO khoảng 250 ppm sẽ bị tử vong.

Nitơ oxit (NOx): NOx (N20,NO2) là loại khí gây hiệu ứng nhà kính, được sinh ra trong quá trình đốt các nhiên liệu

hoá thạch. Hàm lượng của nó đang tăng dần trên phạm vi toàn cầu, hàng năm khoảng từ 0,2 -,3%. Một lượng nhỏ

NOx khác xâm nhập vào khí quyển do kết quả của quá trình nitrat hoá các loại phân bón hữu cơ và vô cơ. NOx

xâm nhập vào không khí sẽ không thay đổi dạng trong thời gian dài, chỉ khi đạt tới những tầng trên của khí quyển

nó mới tác động một cách chậm chạp với nguyên tử oxy.

Clorofluorocacbon ( CFC): CFC là những hoá chất do con người tổng hợp để sử dụng trong nhiều ngành công

nghiệp và từ đó xâm nhập vào khí quyển. CFC 11 hoặc CFCl3 hoặc CFCl2 hoặc CF2Cl2 (còn gọi là freon 12 hoặc

F12) là những chất thông dụng của CFC. Một lượng nhỏ CFC khác là CHC1F2 (hoặc F22), CCl4 và CF4 cũng

xâm nhập vào khí quyển. Cả hai hợp chất CFC 11 và CFC 12 hoặc freon đều là những hợp chất có ý nghĩa kinh tế

cao, việc sản xuất và sử dụng chúng đã tăng lên rất nhanh trong hai thập kỷ vừa qua. Chúng tồn tại cả ở dạng sol

khí và không sol khí. Dạng sol khí thường làm tổn hại tầng ôzôn, do đó là sự báo động về môi trường, những dạng

không sol khí thì vẫn tiếp tục sản xuất và ngày càng tăng về số lượng. CFC có tính ổn định cao và không bị phân

huỷ. Khi CFC đạt tới thượng tầng khí quyển chúng sẽ được các tia cực tím phân huỷ.

Mêtan (CH4): Mêtan là một loại khí gây hiệu ứng nhà kính. Nó được sinh ra từ các quá trình sinh học, như sự

men hoá đường ruột của động vật có guốc, cừu và những động vật khác, sự phân giải kỵ khí ở đất ngập nước,

ruộng lúa, cháy rừng và đốt nhiên liệu hoá thạch. CH4 thúc đẩy sự ôxy hoá hơi nước ở tầng bình lưu. Sự gia tăng

Page 83: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

hơi nước gây hiệu ứng nhà kính mạnh hơn nhiều so với hiệu ứng trực tiếp của CH4. Hiện nay hàng năm khí quyển

thu nhận khoảng từ 400 đến 765x1012g CH4

Một số chất khác:

- Các hợp chất flo.

- Các chất tổng hợp (ête, benzen).

- Các chất lơ lửng (bụi rắn, bụi lỏng, bụi vi sinh vật), nitrat, sunfat, các phân tử cacbon, sol khí, muội, khói, sương

mù, phấn hoa.

- Các loại bụi nặng, bụi đất, đá, bụi kim loại như đồng, chì, sắt, kẽm, niken, thiếc, cađimi...

- Khí quang hoá như ozôn, FAN, FB2N, NOX, anđehyt, etylen...

- Chất thải phóng xạ

Tiến hành các biện pháp thiết thực để bảo vệ tài nguyên khí hậu như:

Ngăn chặn việc khai thác bừa bãi các loại rừng đầu nguồn, rừng tự nhiên và rừng ngập mặn. Rừng là giải pháp hữu

hiệu nhất nhằm cải thiện chế độ mưa, chế độ ẩm và nhiệt độ của địa phương, đem lại điều kiện sinh thái thuận lợi

cho sản xuất và con người.

Trồng mới các loại rừng, xây dựng cơ cấu rừng hợp lý cho từng vùng, tạo các kiểu rừng có kết cấu nhiều tầng để

khai thác tối đa điều kiện không gian và nhanh chóng phủ đất, che bóng cho mặt đất, chống xói mòn, mức che phủ

phải đạt trên 50% diện tích đất.

Củng cố và xây dựng các hồ chứa nước góp phần hạn chế dòng chảy, phân phối, điều hoà nước và làm tăng độ ẩm

đất. Ðó là giải pháp điều tiết khí hậu rất có hiệu quả.

Quy hoạch hợp lý việc phát triển giao thông vận tải, phát triển công nghiệp, hạn chế tối đa việc giải phóng bừa bãi

các chất thải vào môi trường, đặc biệt là các chất khí thải gây hiệu ứng nhà kính từ việc đốt các nhiên liệu hoá

thạch như xăng dầu, than đá...

Tổ chức phòng chống thiên tai có hiệu quả, xây dựng và củng cố hệ thống dự báo về lụt, bão, cháy rừng..., tiến

hành các biện pháp phòng chống kịp thời, chu đáo sẽ hạn chế được rất nhiều ảnh hưởng xấu của thiên tai.

II.8. Tài nguyên năng lượng

II.8.1. Khái niệm chung

Năng lượng là một dạng tài nguyên vật chất, xuất phát từ hai nguồn chủ yếu là năng lượng mặt trời và năng lượng

lòng đất. Năng lượng là nền tảng cho nền văn minh và sự phát triển của xã hội. Con người cần năng lượng cho sự

tồn tại của bản thân mình và phần quan trọng là để sản sinh ra công cho mọi hoạt động sản xuất và dịch vụ.

Dạng năng lượng thiên nhiên đầu tiên được con người sử dụng là năng lượng mặt trời dùng để soi sáng, sưởi ấm,

phơi khô lương thực, thực phẩm, đồ dùng. Năng lượng dầu mỏ thay thế dần vị trí của than đá trong thế kỷ XX và

từng bước chia sẽ vai trò của mình với năng lượng hạt nhân.

Các dạng năng lượng mới ít ô nhiễm như năng lượng mặt trời, nước, gió, thủy triều, năng lượng vi sinh vật thu

nhận được với những phương tiện và công nghệ tiên tiến cũng đang mở rộng phạm vi hoạt động của mình.

II.8.2. Năng lượng mặt trời

Page 84: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Tiềm năng năng lượng mặt trời ở Việt Nam: Tiềm năng năng lượng mặt trời được phản ánh qua số giờ nắng.

Trung bình năm ở nước ta có khoảng 1400 - 3000 giờ nắng. Ở phần trên đã nêu chi tiết phân bố số giờ nắng

trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Theo bản đồ khí hậu về phân bố số giờ nắng có thể thấy sự phân bố của tiềm

năng năng lượng mặt trời theo thứ tự giảm dần như sau:

- Lớn nhất là vùng đồng bằng duyên hải cực Nam Trung Bộ và một phần lãnh thổ phía Đông của Nam Bộ.

- Đại bộ phận khu vực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ

- Phần lớn đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, vùng núi thấp và vừa ở sườn phía Tây Hoàng Liên Sơn.

- Ít nhất là sườn phía Đông Hoàng Liên Sơn và phần lớn khu vực Đông Bắc.

Việc sử dụng năng lượng ở nước ta được phân ra theo các khu vực như sau:

Dân dụng 67%

Công nghiệp 22%

Giao thông 7%

Nông nghiệp và các khu vực khác 4%

Trước đây, người ta sử dụng năng lượng mặt trời chủ yếu trong việc phơi, sấy lúa, gạo và các sản phẩm nông

nghiệp cần bảo quản khô, hay trong công nghiệp chế biến thủy hải sản dùng để hong khô cá, tôm…hay lợi dụng để

làm nước mắm, nước tương…Ngày nay, năng lượng mặt trời được sử dụng trong một số lĩnh vực cộng nghệ cao

như: tấm pin năng lượng mặt trời, điện năng lượng mặt trời, các thiết bị sử dụng nhờ năng lượng mặt trời…

II.8.3. Năng lượng gió

Tiềm năng năng lượng gió phụ thuộc vào tốc độ gió trung bình V và hệ số năng lượng mẫu k. Do sự phân hóa

của tiềm năng năng lượng gió phụ thuộc chủ yếu vào sự phân hóa của tốc độ gió trung bình, nên nói chung

sự phân bố của năng lượng gió tương tự như sự phân bố của tốc độ gió trung bình.

Phân bố tổng năng lượng gió trung bình năm trên lãnh thổ Việt Nam là: Tiềm năng năng lượng gió tăng

lên từ đất liến ra ngoài khơi; và có khuynh hướng giảm khi càng gần xích đạo. Tiềm năng lớn nhất tại các đảo

phía Đông lãnh thổ, tổng năng lượng năm W > 4000kwh/m2, trên các đảo xa bờ. Tại các đảo phía Nam giảm

dần chỉ từ 400 - 900kwh/m2.

Ở vùng ven biển có tiềm năng đáng kể. Trên bờ biển thoáng của Bắc Bộ và Trung Bộ, tiềm năng W từ 800 -

1000kwh/m2, ven biển phía Đông Nam Bộ - từ 600 - 800kwh/m2 và giảm đi ở ven biển phía Nam và phía Tây.

Ở đồng bằng Bắc Bộ, theo chiều từ trung du ra biển, tiềm năng W tăng từ 250 đến 800 - 1000kwh/m2. Trên

dải đồng bằng hẹp Trung Bộ, ở những nơi mà dãy Trường Sơn hạ xuống thấp, tiềm năng khá phong phú,

khoảng 700 - 800kwh/m2, có nơi tới 1000kwh/m2. Những khu vực bị ảnh hưởng hưởng bởi sự che chắn của

khối núi đồ sộ Trường Sơn như phía Tây Quảng Nam - Quảng Ngãi, chỉ vài ba trăm kwh/m2.

Page 85: dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc... · Web viewVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ

Ở đồng bằng Nam Bộ, phân bố tiềm năng năng lượng gió đồng đều hơn, khoảng 300 - 450kwh/m2 và tăng lên

đến 500 - 600kwh/m2 khi ra gần tới biển. Ở trung du và núi thấp W nhỏ có giá trị dưới 200kwh/m2. Vùng núi

Đông Bắc Bắc Bộ tiềm năng lớn hơn vùng núi Tây Bắc và vùng núi phía Bắc. Ở Tây Nguyên, mặc dầu gió

không mạnh, nhưng do hệ số năng lượng mẫu k lớn nên tiềm năng tương đối khá, trên cao nguyên thoáng, W có

thể đạt 600kwh/m2.

Phân bố năng lượng gió trung bình năm là một thông tin ban đầu quan trọng đối với mục đích sử dụng và phương

thức khai thác nguồn tiềm năng này với điều kiện cụ thể của từng địa phương.

Kế hoạch phát triển nguồn điện đến năm 2010 của Tổng Công ty điện lực Việt Nam có nêu: Chú trọng phát

triển thủy điện nhỏ, điện mặt trời, điện gió ở những vùng xa xôi, hẻo lánh.

Phát triển, khai thác sử dụng năng lượng tái tạo, trong đó có năng lượng gió được đề cập đến trong

chính sách phát triển nông thôn, miền núi phục vụ xóa đói, giảm nghèo.

II.8.4. Năng lượng thủy triều

Nói chung, dao động mực nước triều ở biển Việt Nam không thuộc loại lớn, không phải là nơi công suất

nhiều triển vọng để xây dựng các nhà máy điện thủy triều lớn như các địa điểm khác trên thế giới. Tuy nhiên,

vùng biển nước ta có một hệ thống vùng vịnh ven biển có thể tận dụng khai thác năng lượng thủy triều.

II.8.5. Các giải pháp về năng lượng của loài người

- Việc đầu tư triển khai công nghệ chống ô nhiễm môi trường trong các nhà máy nhiệt điện chạy bằng than, dầu có

tác động giảm thiểu các chất thải ra môi trường

Việc tăng giá năng lượng như giá điện, giá xăng dầu, than cũng có thể là một biện pháp để giảm sự lãng phí năng

lượng, khuyến khích đầu tư cho các công nghệ sạch, các dạng năng lượng khác.

- Tăng cường đầu tư nghiên cứu phát triển các nguồn năng lượng mới, năng lượng tái sinh theo hướng hạ giá thành

sản xuất sao cho chúng có thể cạnh tranh các nguồn năng lượng truyền thống.

- Nghiên cứu các qui trình sản xuất, thiết bị sản xuất để tiết kiệm năng lượng. Nghiên cứu sử dụng năng lượng

sạch trong một số lĩnh vực dễ gây ra tác động xấu đến môi trường như giao thông, sinh hoạt,...