dudumanman.files.wordpress.com€¦  · web viewt h Ị n h t h Ế t h a n h p h o n g - nhĩ...

1951
► THỊNH THẾ THANH PHONG (HOÀN) T H Ị N H T H Ế T H A N H P H O N G - Nhĩ Nhã - | Zinnia | Giang sơn này có ngươi thì sẽ có ta Thịnh Thanh hai chữ mãi chẳng phân ly

Upload: others

Post on 21-Sep-2020

3 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

► THỊNH THẾ THANH PHONG (HOÀN)

► THỊNH THẾ THANH PHONG (HOÀN)

T H Ị N H T H Ế T H A N H P H O N G

- Nhĩ Nhã -

| Zinnia |

Giang sơn này có ngươi thì sẽ có ta

Thịnh Thanh hai chữ mãi chẳng phân ly

CHUYỆN NGÀY XƯA CỦA SÓI XÁM VÀ ĐẦU GỖ.

Giọng kể ăn theo những câu chuyện cổ tích mà người kể từng được nghe.

Trong quá trình “kể chuyện em nghe” có dựa theo những gì đã xảy ra trong “Hoàng Bán Tiên” của Nhĩ Nhã đại nhân.

 

.::.

Ngày xửa ngày xưa, tại một vương quốc nọ, có một quốc vương tên là Viên Lạc trị vì đất nước. Ông có hai vị hoàng tử một là Thần Quý, một là Thịnh Nhi. Nhưng vì một nguyên nhân nào đó các bạn cứ đi đọc Hoàng Bán Tiên sẽ biết, ông vô cùng căm ghét thằng con trai thứ hai ấy. Vì vậy, từ bé nó đã phải sống trong lãnh cung cùng mẫu thân Tề Linh của mình.

Năm tháng qua đi, thằng bé ngày một bị căm ghét hơn, không những chỉ có tía nó là ghét nó mà ngay cả má nó và những osin trong cung cũng chẳng ưa gì nó. Nó lớn trong đói rét, đắng cay và tủi nhục.

Một ngày trời không đẹp lắm, mẫu thân thằng bé ngủm củ tỏi thế là nó bị người ta đá ra ngoài cung. Hơn nữa còn bị người xấu mưu hại khiến nó thành kẻ mù lòa. May nhờ một vị bồ tát tên là Ngao Kim Long đã cứu vớt cuộc đời bèo nhèo hơn cá kèo của nó. Ngao Kim Long bồ tát đã chạy chữa khắp nơi nhưng vẫn không tài nào trị cho nó khỏi mù. Ông luôn đau đáu trong lòng vì điều ấy. Song, một ngày trời xanh rất xanh, nắng vàng giăng giăng khắp mọi nơi, hai con người bất phàm đã xuất hiện ngoài cửa nhà ông. Đó không phải ai khác mà chính là chàng dzất đệp chai, à quên, rất đẹp trai Tư Đồ và ý trung nhân xinh đẹp – tài giỏi – kawaii của chàng, Hoàng Bán Tiên. Dựa vào những kiến thức mà Kawaii Tiên Tiên đọc được trong sách thì nhóc Ngao Thịnh nhà chúng ta không phải bị mù thường mà là có kẻ mất nết đã ếm bùa nhóc, khiến nhóc mù. Ôi đúng là ở hiền gặp lành! Đời thằng nhỏ từ đây sẽ được thấy lại ánh sáng nhờ vào bàn tay quỷ khóc thần sầu của Kawaii Tiên Tiên. Kawaii tiên sinh đã dùng bàn tay vàng của mình, nhổ cây trâm phong bế thị giác sau đầu nhóc Thịnh ra. Và từ đó, ánh sáng đã về lại thảo nguyên xưa.

Ngao Kim Long bồ tát gửi gắm nhóc Thịnh cho Kawaii tiên sinh và Handsome đại hiệp, mong họ có thể chăm nom và bảo hộ nhóc. Hai người thấy nhóc mặt tròn trịa hiền lành ngu ngơ ngoan ngoãn đáng yêu nên đã nhận lời, đưa nhóc về Black Cloud Farm.

Người ta vẫn kháo nhau rằng, trước mọi cơn bão, trời thường rất quang đãng. Vì thế, trước khi máu nhuộm kinh thành, soán triều đổi vị thì cuộc sống của nhóc có thể nói khá là suông sẻ.

Khi đến động, à không, đến Black Cloud Farm, nhóc đã gặp được Đầu Gỗ Tương Thanh.

Lại nói về cái tên đầu gỗ này thì cũng chẳng có gì nhiều để mà nói cả, bởi nói nhiều quá thì cần gì mọi người đi đọc HBT và TTTP nữa chứ. Phải không nào. Cái gì cũng vậy, phải úp úp mở mở thì mới hay. Đó là nghệ thuật câu khách đó. Há há há.

E hèm. Xin lỗi, mình kích động quá!

Tương Thanh là ai nào. Đương nhiên là người của Black Cloud Farm rồi. Y là một người lãnh tính lãnh tình, hiếm khi nói chuyện lại chẳng thích giao du với ai. Mọi người ở Black Cloud Farm đều gọi y là đầu gỗ cả.

Lúc ấy, Ngao Thịnh và Đầu Gỗ đã gặp nhau.

Tại sao lại là Đầu Gỗ với Ngao Thịnh chứ không phải là Sói Xám và Đầu Gỗ hả?

Ừ thì lúc bấy giờ cái đuôi sói của nhóc Thịnh vẫn chưa có lòi ra ấy mà.

Hai người gặp nhau. Song lại chẳng ưa gì nhau. Gặp thì hoặc là thờ ơ coi như không khí  (áp dụng cho đầu gỗ) hoặc là liếc hấy bĩu môi khinh rẻ (cái này thì thằng trời đánh kia  nó làm).

Bẵng đi một thời gian. Thân phận hoàng tử của Ngao Thịnh bị bại lộ. Kawaii tiên sinh và Handsome đại hiệp đã đề cử Tương Thanh đi theo trợ giúp Ngao Thịnh, quay về hoàng cung mà tranh lại ngôi vị, báo thù rửa hận.

Trên đường đi, thằng nhóc luôn thiếu thốn tình thương bỗng sinh ra ái cảm với Đầu Gỗ. Nhưng, nó lại dùng những cách rất chi là muốn quăng dép vô mặt nó mà bày tỏ khiến Tương Thanh càng lúc càng chẳng ưa gì nó. Và cũng bắt đầu từ đây, bản tính lang sói của nó đã được bộc lộ.

Người được cử ra đón tiếp hai người chính là Hạ Lỗ Minh *tung hoa*, một kẻ bên phe đối lập với Sói Xám và Đầu Gỗ.

Trong quá trình hồi cung, Hạ Lỗ Minh thường xuyên tăm tia Đầu Gỗ, khiến Sói Xám vô cùng bực mình. Vì quá ư là bực mình mà hắn càng có những hành động thiếu đạo đức với Đầu Gỗ, chẳng hạn như cưỡng thổi sáo cho hắn nghe, cưỡng ôm, cưỡng hôn. Nhiều lần, Đầu Gỗ muốn thẳng tay mà chưởng chết hắn, song y không thể cô phụ những gì Tư Đồ đã cậy nhờ.

Một ngày kia, Sói Xám rỉ tai Đầu Gỗ, bảo là muốn đoạt được ngôi vị thì phải trừ khử đi thế lực nhà họ Hạ. Vì thế hắn muốn Đầu Gỗ đi lừa tềnh chàng Lỗ Minh. Đầu Gỗ thề phải giữ sạch danh tiết, tuyệt không thể làm chuyện trái đạo lý. Song, tình hình nguy kịch, Đầu Gỗ không thể làm gì khác đành nhắm mắt đưa chân, quăng mình vào miệng cọp.

Đầu Gỗ giả vờ yếu đuối, sắm vai kẻ vì phận yếu thế cô không người tựa nương mà nói chuyện với chàng Lỗ Minh. Điều này, khiến Hạ Lỗ Minh đau xót vô vàn, chàng thề sẽ không bao giờ để Đầu Gỗ phải chịu ủy khuất như thế nữa. Vì thế chàng đã vùng dậy làm phản. Kết quả là cả gia tộc chàng bị bắt rồi mang ra tru di. Chàng  mờ mịt chẳng hiểu là vì sao nhưng rồi Đầu Gỗ đã nói cho chàng nghe sự thật rằng mình không phải là phu tử trói gà không chặt, mà là Tương Thanh đỉnh đỉnh đại danh của Black Cloud Farm. Hạ Lỗ Minh sững sờ đau khổ khi biết mình bị phản bội, bị lừa dối. Từ đó chàng bỏ quên đời mình đi theo gánh hát rong…A No No No. Nhầm nhầm. Phải là chàng bỏ xứ mà đi biệt tâm biệt tích.

Sau đấy, Viên Lạc bị Ngao Thịnh chọc cho lăn đùng ra chết. Còn hoàng huynh Thần Quý cũng đã chết héo xác từ đời nào. Ngao Thịnh mượn thời cơ đó mà lên ngôi hoàng đế, đổi tên nước thành Thịnh Thanh, từ đó mở ra một triều đại hùng mạnh.

Và theo lẽ thường thì Đầu Gỗ sẽ làm hoàng hậu. Sói Xám và Đầu Gỗ sẽ sống hạnh phúc bên nhau hết đời. Rồi sau nữa thì mình bảo là “Câu chuyện đến đây là hết rồi.”

Nhưng, (cũng vì chữ nhưng ấy mà mình mới ngồi đây viết những dòng tào lao này cho các bạn.) ai đâu ngờ, lời xưa đã chứng minh cho tình này dang dở, Thanh đau buồn quá khi luôn nghĩ rằng mình đã làm chuyện tổn thương đến một người. Y đành cất bước bỏ ra đi. Mong rằng tội lỗi mình gây ra có thể được giảm bớt.

Song, thằng Sói Xám kia nó chẳng cam lòng để “vợ – làm – cách – nào – cũng – phải – cưới – cho – bằng – được” bỏ hắn đi. Hắn đã thề với lòng sẽ chờ y trở lại để hắn có thể khiến y yêu hắn và đồng ý ở lại bên hắn.

Cũng vì lời thề đó mà bộ ba của “Bộ tứ thần toán hệ liệt” được bắt đầu.

Và chúng ta lại được gặp nhau ở đây (blog mình) để cùng nhau hồi hộp theo dõi chuyến hành trình thú vị gay cấn của Sói Xám và Đầu Gỗ cùng những người bạn của mình.

Các bạn hãy đón xem không thường xuyên tại kênh SILENCE thuộc tập đoàn Zinnia Media nhé!

Hết.

Văn án

Ngao Thịnh lúc bé đã là một chú sói con, đến khi trưởng thành lại là một tên ác lang độc đoán tàn nhẫn. Hắn làm hoàng đế quyết đoán, thô bạo.

Đại thần khuyên nhủ: “Hoàng Thượng, trị quốc phải nhân từ.”

Ngao Thịnh khinh thường: “Bạo quân vẫn tốt hơn hôn quân.”

Tương Thanh là một khối băng trôi, hỉ nộ bất biến, vui buồn không nhìn ra. Y chẳng qua chỉ cho con sói kia một chút ôn nhu, ấy vậy hắn lại mê luyến đến bất chấp tất cả, bám lấy y không buông.

Khi ấy, giữa ngôi vị hoàng đế và Tương Thanh, chỉ có thể chọn một, Ngao Thịnh đã chọn đế vị, bởi ngoài việc phải làm hoàng đế, hắn căn bản không có cơ hội để lựa chọn.

Vì thế, Ngao Thịnh đăng cơ, Tương Thanh rời đi.

Sau khi lên ngôi, Ngao Thịnh vận dụng hết toàn lực, chỉ vì mong tìm được Tương Thanh về. Hắn đã làm hoàng đế, đã có quyền lựa chọn.

Đại thần can gián: “Hoàng Thượng, trong thiên hạ mỹ nhân nhiều vô số.”

Ngao Thịnh cười nhạt: “Ta không có hứng thú với đám mỹ nhân ấy.”

Đại thần nhíu mày: “Hoàng Thượng, lễ nghi…”

Ngao Thịnh lạnh lùng cười: “Tìm không được Thanh về, ta liền bồi táng các ngươi cùng hai chữ lễ nghi.”

Tiết tử

 

Cả đời này, Ngao Thịnh chỉ nhớ rõ hơi ấm bàn tay của hai người, một là của mẫu thân hắn, một là của Tương Thanh.

Lúc còn thơ ấu bị giam tại lãnh cung, Ngao Thịnh thấy bọn thái giám ăn điểm tâm, hắn rất đói, muốn đến xin một ít. Mẫu thân đã tát vào miệng hắn hai mươi cái, đến khi môi sưng máu chảy mới dừng lại, đoạn bà lại xoa đầu, nói với hắn rằng “Con là đấng bề trên, là một hoàng tử, tương lai phải làm hoàng đế, cho dù có chết đói thì cũng phải mặc kệ, không được phép lựa chọn.” Ngao Thịnh nhớ rõ đôi tay của mẫu thân, đôi bàn tay này có thể khiến hắn đau đớn, đồng thời cũng có thể làm dịu đi cơn đau ấy.

Lớn lên, khi lao vào tranh giành ngôi vị hoàng đế, Ngao Thịnh trở nên tàn nhẫn độc ác, tất cả mọi người đều xem hắn như một tên sói lang. Hoàng đế muốn giết hắn, đại thần chống đối hắn, huynh đệ mưu hại hắn, hắn kiên cường chống đỡ, bởi vì hắn vẫn mãi khắc ghi lời dạy của mẫu thân: hắn là hoàng tử, chỉ có thể hoặc trở thành hoàng đế, hoặc thí mạng. Trong giấc ngủ hằng đêm, hắn mang theo cơn phẫn nộ cùng lệ khí đi vào ác mộng, đầu đau như muốn nổ tung, thì người kia đã dùng đôi tay mềm mại ấy xoa đầu hắn, khiến hắn nhớ đến mẫu thân. Ngao Thịnh nhớ rõ đôi bàn tay đó, khắc sâu vào tâm khảm hình bóng con người kia. Tương Thanh. Hai bàn tay ấy đã giúp hắn leo lên vương vị, nhưng đồng thời, ngoài ngôi cửu ngũ chí tôn, cũng đã mang đi tất cả.

Tương Thanh ra đi, mai danh ẩn tích.

 Ngao Thịnh đăng cơ, sửa quốc hiệu thành Thịnh Thanh.

 Các đại thần tấu rằng: “Thế là không hợp lễ pháp.”

 Ngao Thịnh buông lời: “Lôi ra ngoài, GIẾT.”

01 | xa nơi đại mạc

Năm thứ hai Thịnh Thanh, tại biên ngoại, khi trời vừa chớm thu.

 .

.

Trên đường, những chiếc xe nặng nề phát ra từng tiếng kẽo kẹt, đi kèm với dàn chuông nhạc leng keng được treo lủng lẳng quanh thân đội đà mã. Một thương đội đi từ xa xa tới, ra khỏi Thiện Thiện phủ (một huyện thuộc tỉnh Tân Cương TQ), băng qua con sông nhỏ, thẳng hướng đến duyên thành đại mạc.

 Ra vào đại mạc, mọi người thường đeo chuông cho gia súc như một chủ ý. Ngựa và la đeo chuông đồng vì đi đường rất khá, cái đầu lại cứ hay lúc lắc khiến chuông luôn ngân vang những chuỗi âm thanh thoát. Trên những chặng đường dài xa xôi thăm thẳm, âm thanh trong trẻo kia có thể làm vui lòng người lữ khách.

Lạc đà thì mang chuông sứ, bởi đặc điểm của chuông sứ là tiếng vang nhỏ, vừa ngắt quãng vừa âm trầm. Tuy khó có thể tạo nên nhịp điệu bài bản nào, nhưng lại hay ở chỗ thâm thúy, sâu lắng. Đường xa gió bụi, ngẫu nhiên rung tiếng y nhiên xua tan cảnh quạnh hiu.

Mặc khác, trâu bò cũng được đeo huân sứ kiểu hình hồ lô sáng màu, dây đeo được xỏ qua lỗ nhỏ phía trên đỉnh. Huân vốn là một loại nhạc khí, chính cái lỗ nhỏ nằm ở trên đỉnh đã tạo âm thanh. Khi ở gần nghe như tiếng gió thoảng, lúc xa rồi lại như tiếng nhạc véo von.

Trong khi đó, chuông bạc chỉ dành cho loài sơn dương chuyên kéo xe cho nữ nhi con nhà có tiền, và thường thì được trang bị thêm một cỗ kiệu tinh xảo. Tiếng chuông bạc trong trẻo mềm mại, lại có vần có điệu, như ngầm nói rằng: Trong kiệu kia là một con nhà quan hiền lành yếu đuối, những tên thất phu biết khéo mà tránh xa.

Ngoài ra, còn có một loại nữa là chuông ngọc, nhưng chỉ dùng làm đồ trang sức cho phận má hồng.

 Thương đội có quy mô rất lớn, đoàn người kéo dài non nửa dặm. Trong cái nóng hừng hực của sa mạc nghe đủ cả mọi loại âm thanh, tựa như tiếng gió rít gào…chậm rãi truyền đi, vang vọng đến nơi quanh năm gần như tĩnh mịch này chút sự sống. Một vài kẻ lỡ bước đi ngang, nghỉ chân bên đường, dừng tai lắng nghe chút thanh âm hiếm hoi trong chốn đại mạc lắm tịch liêu.

Thương đội vốn tụ hợp ở cửa thành Thiện Thiện phủ, sau mới cùng đi đến duyên thành, tổng cộng có khoảng bốn, năm trăm người. Chuyến lữ trình đông đúc thế là vì bởi có người của quan phủ theo bảo hộ. Tuyến đường từ Thiện Thiện phủ đến duyên thành gần đây thường có thổ phỉ mai phục, chuyên cướp giết đoàn ngựa thồ của thương đội, tình hình rất phức tạp. Bọn cướp hoành hành ở đây không chỉ xuất thân từ vùng núi Đông Bắc, mà còn có cả người Hồ vùng Tây Vực nằm sâu trong đại mạc, người Hán thường ghép chung vào mà gọi là thổ phỉ.

Phần đông đám thổ phỉ không biết nói tiếng Hán. Nhiều năm sống trên lưng ngựa đã tạo cho chúng dáng người cao lớn, tính cách dã man. Chúng thường cầm trường đao xông thẳng vào thương đội, giết sạch nam nhân, cướp lấy hàng hóa, nữ nhi và trẻ em. Suốt nửa năm nay, không biết đã có bao đại án xảy ra, khiến lòng người hoang mang lo sợ, quan phủ chỉ còn cách phái quan binh đi bảo hộ thương đội.

 Thương đội đã đi suốt đêm, vừa lúc khởi hành ai cũng đều nơm nớp lo sợ nhưng trong suốt lộ trình đến giờ vẫn đều bình an. Hiện tại đang là ngày nắng chói chang, thêm nửa canh giờ là đã có thể ra khỏi sa mạc, tiến vào đường lớn, mọi người bớt được phần nào lo lắng.

Đối mặt với hiểm nguy, nỗi âu lo vốn chỉ dành cho những người lớn chán ngắt, bọn trẻ nhỏ thì vẫn cứ vô tư ngóng đông ngóng tây. Giữa mã đội là một cỗ kiệu nhỏ màu đỏ do sơn dương kéo, màn nhung được vén qua, bên trong là một nữ hài tử tuổi chừng mười ba, mười bốn, đang ghé đầu ra ngoài thích thú ngắm nhìn phong cảnh. Đi trong sa mạc nóng cháy, phần lớn ai cũng mặt xám mày tro, chỉ mỗi nha đầu này là một thân tiên diễm đỏ rực, áo thêu hoa xinh đẹp, tóc búi cao hai bên buộc bằng lụa đỏ, cổ còn đeo trang sức lấp lánh.

 Nha đầu chừng mười ba tuổi thì đã bắt đầu xem xét nam nhân, cô bé này cũng không ngoại lệ. Nó ngồi chống cằm, giương mắt nhìn dòng người đi quanh mình. Người đánh xe cho con bé là một thiếu niên khoảng mười lăm tuổi. Bất chợt, nó giục cậu: “Tam tiểu tử, nhanh lên, chúng ta đi lên trước xem thử đi.”

 Thiếu niên được gọi là Tam tiểu tử kia bất đắc dĩ làm theo, đánh xe chạy lên trước, cậu tò mò quay đầu lại hỏi: “Tiểu thư, cô muốn tìm cái gì?”

 Tiểu cô nương có chút không kiên nhẫn đáp: “Ai nha, nghe người ta nói nam tử Trung Nguyên rất đẹp, theo ta thì chẳng có chỗ nào bằng người ở thôn mình hết.” Con bé nói chuyện thanh âm không nhỏ, một vài nam nhân người Hán đi bên cạnh nghe thấy, xoay mặt nhìn, chỉ thấy cô nhóc này mũi thẳng, mắt sâu, mi cao, biết ngày là người Tây Vực.

 “Tiểu muội muội.” Một người Hán trêu chọc: “Sao nào, muốn gả chồng rồi hả?”

 Tiểu nha đầu không câu nệ tiểu tiết, liền mạnh mẽ gật đầu, thoải mái trả lời: “Cha ta nói, mười lăm tuổi ta sẽ lập gia đình, còn hai năm nữa, ta muốn tìm được người như ý.”

 “Thế nào mới được cho là như ý?” Người bên ngoài đều hùa vào buông lời.

 “Uhm… Mắt đẹp này, người cao dáng chuẩn này, da thì không được đen đúa quá…” Lời còn chưa dứt, tiểu nha đầu đột nhiên ngẩn người nhìn chằm chằm phía trước, đoạn lại đánh bùm bụp vào lưng Tam tiểu tử: “Mau chạy lên trước coi!”

 Tam tiểu tử ngớ ra rồi thúc roi cho sơn dương chạy lên, bất thình lình tiểu nha đầu lại giữ lấy tay Tam tiểu tử mà hét: “Dừng! Dừng lại đi!”

 Tam tiểu tử thắng cương, quay đầu lại nhìn con bé: “Tiểu thư, cô làm sao vậy?”

 “Ngươi nhìn đằng trước đi!” Tiểu nha đầu chỉ tay về phía một người đằng xa “Người đó đó!”

 Tam tiểu tử nhìn theo hướng được chỉ, liền thấy một người đang cưỡi hắc mã. Dưới góc độ này cả hai chỉ nhìn được dáng người của đối phương, tuy gầy nhưng tầm vóc cao ráo, rõ ràng là một nam nhân. Y vận y phục thanh sắc, khoác áo choàng đen, quàng một dải lụa trắng quanh cổ, che gần nửa gương mặt, mái tóc đen dài buông xuống lưng, nhẹ nhàng lay động theo làn gió thoảng. Tam tiểu tử tuy chưa thấy được diện mạo người ta thế nào nhưng cũng đoán được người có dáng vóc như thế thì phần nhiều đều đến từ Giang Nam Trung Nguyên. Đại mạc quanh năm khô hạn, những người nơi đây tóc thường cháy vàng, gió lốc có thổi qua thì cũng chẳng nhào nặn ra được bao nhiêu tiêu sái, tuấn dật. Nam tử kia là một thân lữ khách, ngồi trên lưng ngựa, nhịp bước ung dung, trên chiếc yên còn đeo một túi nước cùng tay nải, không có binh khí.

“Anh ta là ai nhỉ?” Tam tiểu tử tò mò: “Nơi này người độc thân lữ hành cũng không nhiều, hơn nữa anh ta còn không mang binh khí…”

 “Cần gì biết anh ta là ai chứ!” Tiểu nha đầu nói: “Ngươi không thấy anh ta trông rất được mắt sao?”

Tam tiểu tử thở dài, quay đầu liếc xéo cô nhóc: “Tiểu thư à, cô cũng quá bản lĩnh rồi đó! Như vậy mà cũng nhìn ra con người ta đẹp hay xấu sao?”

 “Không thèm nói với ngươi!” Tiểu nha đầu cũng liếc lại: “Chúng ta đến đó đi, coi anh ta trông thế nào nha!”

 Tam tiểu tử thở dài, nói thầm, Nha đầu này đúng là hết thuốc chữa, dám ra đường tìm nam nhân. Nhưng cũng chẳng có biện pháp nào khác, cậu chỉ biết thúc dây chạy lên trước, tiểu nha đầu ngồi bên mành xe, mở to hai mắt nhìn, lo lắng nghĩ, nhìn sơ thì đúng là được mắt đấy nhưng nếu mặt xấu xí hù chết người thì phải làm sao nga?!

 Nghĩ chưa ra thì xe đã chạy đến nơi, tiểu nha đầu nhìn được rõ hơn một phần, có chút thất vọng. Không phải người nọ xấu xí gì, mà là nhìn không được rõ ràng, khăn choàng của y che hết một nửa gương mặt mất rồi.

Tiểu nha đầu chun mũi bất mãn liếc mắt lần nữa… Lúc này, phía trước thổi đến một trận gió, làm phấp phới bay một phần khăn lụa trắng, hé ra đôi mắt của người nọ.

 Tiểu nha đầu há to miệng, tán thưởng: “Đôi mắt thiệt đẹp!”

Thanh âm không nhỏ, người nọ cũng nghe thấy, liền quay sang nhìn tiểu nha đầu.

 Con bé lập tức đỏ mặt, dù sao cũng là nữ hài nhi, mặt cũng không được dày lắm. Đoạn, nha đầu lại liếc mắt ngắm nhìn, chỉ thấy đôi con ngươi của y rất trong, to vừa đủ, sâu cũng vừa đủ, mũi rất thẳng, mặt mày thanh tú, người cũng thanh gầy… quan trọng là, đối phương có đôi mắt đẹp nhất mà nó từng được thấy.

 Tiểu nha đầu nhìn đến ngây người, người nọ cũng nhìn ngây người, bất quá y không phải vì con bé, mà là chuyện đang xảy đến phía sau, xa xa là đại mạc mờ mịt.

 Con bé chỉ thấy đôi mày người nọ khẽ cau lại, nhịn không đặng, hít sâu một hơi cảm thán, khi nam nhân này nhíu mày trông rất đẹp, rất có khí khái.

Tuy có nhìn người trước mặt đến mê mẩn, tiểu nha đầu vẫn cảm nhận được mặt đất đang rung chuyển, đoạn quay đầu lại nhìn, chỉ thấy xa xa, nơi đất trời giao làm một, khói bụi bốc lên cuồn cuộn.

 Chốc sau thì nghe tiếng đoàn thương nhân hô hét tán loạn: “CƯỚP! CƯỚP ĐANG ĐẾN!” Trong lúc nhất thời, người lẫn ngựa loạn hết cả lên, mọi người đều vội vàng muốn trốn chạy nhưng vì quá đông nên không như ý, chỉ khiến tất cả cùng dính chặt vào nhau, hơn nữa, lũ gia súc vì sợ hãi mà hí loạn ầm ĩ.

 Mười mấy tên nha dịch mặt mũi trắng bệch ra. Họ vốn đinh ninh rằng cướp chỉ có vài ba tên, nhưng khi nhìn khí thế cuồn cuộn gió bụi kia thì chúng ít nhất phải có cả trăm người, xong rồi, phen này chết chắc rồi, chẳng còn mạng đâu mà về với vợ con.

 Nha dịch tuy sợ hãi, nhưng vẫn còn giữ được chút nghĩa khí, rút đao che chắn cho đoàn thương nhân, quay đầu hét về phía người ngựa: “NHANH TÌM CHỖ NẤP ĐI!”

 Đám gia súc có linh tính, nổi xung thiên lên, nhiều người ngay cả hàng hóa cũng không cần, chỉ mong bảo toàn được mạng sống. Cỗ kiệu của tiểu nha đầu kia do sơn dương kéo, chúng vừa thấy ngựa, la nổi điên thì liền sợ hãi, chỉ biết chôn chân tại chỗ, rên ra tiếng, Tam tiểu tư ra sức quất roi cỡ nào thì lũ dê núi vẫn không động đậy.

 Tiểu nha đầu nhìn trận khói bụi đang tiến lại gần, cùng đoàn người đằng đằng sát khí cầm giáo cầm mác sắc nhọn trong tay,quát tháo ầm ĩ, đến mức chết điếng mà trơ ra chờ chúng đang hùng hồn xông đến, khí thế đối nghịch hoàn toàn với vẻ run rẩy của nhóm nha dịch trước mắt.

 Lúc này, trong tầm mắt lại xuất hiện một thân ảnh khác, mới kia, ca ca trông rất gầy, mắt rất đẹp đã phi ngựa chắn trước mặt nhóm nha dịch, bình tĩnh trấn an: “Đừng hoảng, cẩn thận, coi chừng giẫm phải người khác.”

 Vài tên nha dịch há miệng thở dốc, quay mặt nhìn nhau, rồi lại nhìn người vừa xuất hiện, tuy đối phương đã che mặt, nhưng nhìn ra được là còn rất trẻ, mi thanh mục tú. Nói đoạn y lấy từ trong tay nải ra một thứ gì đấy, một đầu cầm trong tay, còn đầu kia thì vung xuống đất, nhóm nha dịch thấy rất rõ ràng, đó là một sợi roi thép rất dài, đầu cầm có hình lăng trụ.

 Người nọ kéo roi thép, nhẹ nhàng chỉnh lại khăn trắng, nói với bọn nha dịch: “Còn đứng ngẩn ra đó làm gì? Còn không mau đi?”

Giọng nói không tỏ vẻ uy quyền, nhưng lại trầm thấp, lạnh lùng, khiến vài người theo bản năng mà gật đầu như giã chày, lên ngựa đi cứu giúp những người bị xô ngã, song thỉnh thoảng vẫn bất giác quay đầu nhìn người nọ.

 Tiểu nha đầu thẫn thờ, nhìn y giục ngựa chạy về phía bọn cướp, cô nhóc mau mắn gọi lại: “Này, huynh làm gì vậy?”

 Người nọ như không nghe thấy, thúc ngựa tung vó chạy thẳng vào bọn cướp.

 Mọi người trong thương đội choáng váng nhìn, những kẻ lỡ chân cũng ngẩn mặt trông theo, chỉ thấy chàng thanh niên quấn khăn trắng lao vào đám thổ phỉ, cát vàng tung bụi mù dưới gót mãnh mã. Đoạn, y lại vung tay điều khiển roi thép. Lúc ấy, gió cát hòa vào làm một, máu văng khắp nơi, rơi rớt nào là đầu người, nào là cẳng tay cẳng chân…

 Trong nháy mắt, bọn cướp đã đại bại, mặt đất mới vừa rung chuyển nay đã hiền hòa lại như trước, mọi người trong đội buôn không vội trốn chạy, chỉ chôn chân nhìn, đến thở mạnh cũng không dám.

 Đại khái qua một nén nhang sau, quang cảnh xung quanh mới trầm xuống… Bụi mù đã bị gió đại mạc thổi tan, trên mặt đất chỉ còn lại đàn ngựa thương tích của bọn cướp, thi thể trải đầy, hòa cùng màu vàng của cát là sắc máu đỏ thẫm.

 Vài nha dịch hai chân mềm nhũn ngả ngồi ra đất mà hô gào: “Quỷ thần thiên địa ơi!”

 Đến khi cảm giác được mọi chuyện, tiểu nha đầu mới thấy cả người mình đã ướt đẫm rồi nhanh lao ra khỏi cỗ xe, băng qua mặt đất đỏ những máu tươi, chạy đến phía trước.

 “Ai! Tiểu thư!” Tam tiểu tử sợ hãi, liền vội vàng nhảy xuống xe đuổi theo.

 Tiểu nha đầu chạy đến nơi, thấy mặt đất chất đầy xác người, trong vũng máu lợn cợn tay chân đứt đoạn. Nó nhìn chung quanh nhưng lại không tìm thấy được người nọ, chỉ còn biết dõi mắt ngóng vọng bốn phía, bỗng lại trông thấy phía dưới con dốc dài, bên cạnh bờ đầm nhỏ, một người một ngựa đang đứng. Roi thép bị ném sang một bên, người nọ vén khăn trắng trên vai, cúi người rửa tay.

 “Này!” Tiểu nha đầu vội lao đến, nhưng vì cát mềm, chạy vài bước tiểu nha đầu đã ngã sấp, càu nhàu vài câu lại cố sức ngoi dậy, liền thấy người nọ đã đứng lên cho ngựa uống nước. Con bé cuối cùng đã thấy rõ diện mạo của y mà ngây người ra… Thật lâu sau mới đột nhiên hỏi: “Này, tiểu ca tuấn tú ơi, huynh đã có nương tử chưa? Huynh lấy ta nhé?”

 Người nọ hơi sửng sốt, quay đầu lại nhìn tiểu nha đầu, dẫn ngựa đi tới, xoa đầu nó mà nói: “Mau về nhà đi.” Đoạn lại phi thân lên ngựa, lấy từ trong tay nải một chiếc khăn lụa trắng khác, choàng qua cổ che hết một nửa khuôn mặt, thúc ngựa, rời đi…

 .

.

 Nửa tháng sau, một tốc kí gửi từ đại mạc đến kinh thành, dâng lên tận tay hoàng đế Ngao Thịnh.

 Ngao Thịnh nhìn thật lâu, gập lại rồi hỏi tổng binh dâng kí” “Phía tây tổng cộng đóng bao nhiêu nhân mã?”

 “Tổng cộng có hơn ba mươi vạn ạ.” Tổng binh đáp: “Chia thành ba nhóm, một do Lạc Phường tướng quân thống lĩnh mười hai vạn Lạc gia quân, một do Tề Mật tướng quân chỉ huy mười vạn quân Tây Bắc, còn lại tám vạn kỵ binh dưới tay Khổng Di Phi.”

 Ngao Thịnh gật gù ra lệnh: “Ngươi phân phó Lạc Phường điều ra ba vạn bộ binh, và Khổng Di Phi cấp hai vạn kỵ binh, dẹp sạch tất cả mã tặc, sơn tặc vùng đại mạc.”

02 | Phong Ba khách điếm 

Duyên thành là một thị trấn trọng yếu ở phía bắc, đồng thời cũng là đầu mối thông thương then chốt giữa Tây Vực và Trung Nguyên, tương tự như những thành trấn ở vùng biên cương, mang nét đặc trưng của cả hai vùng Tây Trung. Dân cư Duyên thành có cả người Trung Nguyên và dị tộc, nhiều nhất là người Hồ vùng Tây Vực, chiếm đa số vẫn là dân tộc Khương và Đột Quyết.

.

.

            Phong Ba khách điếm, một khách điếm bình thường tọa trên đường cái Duyên thành, không quá xa hoa đắt đỏ, bên trong đa số đều là những thương nhân dừng chân ghé lại. Chủ quán là đôi phu phụ, ngườichồng thì trung thực còn ả vợ lại lả lơi, chua ngoa, vô cùng tương phản.

            Giờ cơm giữa trưa, trong điếm ồn ả tiếng người, lớn giọng nhất là tiếng tiểu nhị í ới gọi món, nghe ra mùi thô lỗ của cường đạo Tây Bắc.

            Mụ chủ thường buông lơi uống rượu cùng khách quan, cổ áo thì khoét sâu khoét rộng để lộ ra phần ngực trắng mịn. Mụ luôn đứng ở cửa, phất phơ tay áo lấy gió, hai má cứ hồng mọng lên. Khách khứa tới lui ngả ngớn bỡn cợt mụ, còn mụ lại cứ giả vờ đoan trang nũng nịu, nhảy dựng lên mà mắng vài tiếng. Nhưng làm thế chỉ tổ tăng thêm hứng thú của bọn khách hạ lưu. Ông chồng thì lại bình tĩnh đứng nhìn, đôi lúc cười cườt qua chuyện, coi như không nghe, không thấy và không biết.

            Mụ đứng phẩy tay áo, vừa định xoay người vào trong thì thấy một người cưỡi ngựa tấp vào đứng dưới hiên. Tuy không trông rõ mặt mũi người ta thế nào nhưng vẫn theo quán tính mà chèo kéo: “Ái chà, khách quý khách quý, mời vào bên trong, dừng chân hay nghỉ trọ a?”

            Người xuống ngựa là một nam tử còn trẻ tuổi, choàng một chiếc khăn trắng che hơn nửa mặt, chỉ để hé ra đôi mắt đen trong đến lạ. Nam tử nhìn thoáng qua mụ ta, tháo tay nải xuống, đáp ngắn gọn: “Nghỉ trọ.”

            “Được, được, xin mời vào trong a.” Người làm ăn thường có mắt nhìn người rất tốt. Người trẻ tuổi này dùng khăn che mặt, một là vì quá xấu không dám cho người ta thấy, hai là không muốn để lộ chân tướng. Mụ chủ cười đon đả đưa khách vào trong, mời vào chiếc bàn sạch sẽ, cho khách nhân ngồi quay lưng ra phía ngoài, như vậy sẽ không ai có thể nhìn thấy bộ dáng của y.

            Y chỉ gật đầu, buông lời: “Cảm tạ.”

            “Khách quan muốn ăn gì a?” Mụ cười hỏi: “Trong tiệm có thịt bò mới chuyển đến, cậu muốn dùng thử một chén mì thịt bò không? Còn có bánh bao thịt nóng hổi thơm ngon!”

            Y đưa túi nước sang cho mụ, từ tốn đáp lời: “Một bát mì thịt bò, gói thêm năm cái bánh bao cùng một ít thịt khô, à, làm phiền đong cho tôi một túi rượu.”

            “Có ngay.” Mụ lại ha ha cười, tiếp túi nước từ tay y, rồi xoay người đi về phía nhà bếp, vừa đi vừa hét: “Một bát mì thịt bò đặc biệt!”

            Rất nhanh, tiểu nhị đã mang bát mì thịt bò ra, đặt lên bàn cho y: “Khách quan, dùng chậm rãi!”

            Y gật đầu, đưa tay kéo khăn lụa trắng, mặc nó buông rũ trước ngực.

            Chốc lát sau, mụ chủ mang bánh bao, thịt khô, thêm cả một bầu rượu ra. Từ xa đã nhìn thấy khăn trắng buông rũ nên mụ có chút tò mò, thầm nghĩ không biết nam nhân này có bộ dạng thế nào.

           “Khách quan, những thứ ngài cần đây.” Mụ chủ đặt mọi thứ lên bàn, y chỉ thoáng gật đầu, tiếp tục cúi mặt ăn mì.

           Mụ tăm tia y rồi thầm nghĩ, tiểu tử này diện mạo thật tuấn tú, mặt mày trắng trẻo, sạch sẽ, thanh thanh sảng sảng, không thô kệch cũng chẳng quá mức sắc sảo, thật là một mỹ nam tử, hơn nữa tuổi còn trẻ, nhắm chừng cũng chỉ hơn đôi mươi một tí.

            “Tiểu huynh đệ, cậu gọi những thứ này…không phải là muốn vào sa mạc chứ?” Mụ hỏi.

            Người nọ nhẹ gật đầu, tiếp tục ăn.

            Mụ lại nhìn những tên đàn ông trong tiệm, rặt một lũ khi ăn mì mà nhìn cứ như trư ăn, làm vung vãi hết cả ra bàn, rơi luôn xuống đất, nói chuyện thì giọng ồm ồm, thô lỗ chết được. Trong khi vị công tử này lại nhã nhặn, tư thế cầm đũa rất đẹp, mụ thích, tay nắm đũa hơi cao, móng tay cắt tỉa gọn gàng, bàn tay thon dài, đầy đặn, nói chung là…đẹp.

            Đương lúc mụ đang mải miết ngắm nhìn thì chợt nghe thấy tiếng ai đó hét to: “Ông chủ, ta nói, bà vợ ông cứ nhìn ngắm tên mặt trắng kia mà chảy cả nước dãi, ông cứ thế mặc kệ chẳng quản sao?”

            Theo sau, là một trận cười khả ố vang lên, ông chủ cũng ngẩng đầu lên nhìn, còn mụ lại đỏ mặt mắng: “Mấy người muốn chết hả, toàn ăn nói lung tung, ăn nhiều như vậy mà cũng không làm các người nghẹn chết à?!”

            Mụ càng tức giận thì những người chung quanh càng khoái chí.

            “Bà chủ à, bà năm nay cũng đã ba mươi…Nữ nhân ba mươi như mãnh hổ, tên thư sinh này sao chịu được, đừng dọa người ta nha!”

            “Ha ha…”

            “Câm ngay đi!” Mụ chủ nhấc chân đạp cho đại hán vừa nói một cước: “Cái miệng phía trên của lão không phải là dùng để ăn cơm sao, cớ gì nói chuyện bốc mùi quá!”

            Bên này vừa đánh vừa mắng, giọng của mụ chủ một tiếng cao một tiếng thấp, nhưng mọi người lại chỉ lưu ý người trẻ tuổi kia, y vẫn bình tĩnh, mặt không chút biểu cảm, cúi đầu chậm rãi ăn mì. Một khắc sau, mì vơi dần, y bưng bát lên uống một ngụm canh rồi lại nhã nhặn đặt xuống, bỏ vài phân bạc vụn lên bàn, cầm lấy tay nải, thuận tiện kéo khăn che mặt.

            “Khách quan ăn xong rồi à?” Mụ chủ hỏi, thấy y như muốn chuẩn bị lên đường.

            Y lại gật đầu, thấp giọng nói: “Mì rất ngon.” Nói xong xoay người bỏ đi.

            Mụ ở phía sau lớn tiếng cười chào: “Có thời gian lại đến a!”

            Y không đáp lời, một đường đi thẳng ra ngoài, hành động đó khiến những người trong điếm có chút phật ý. Mọi người ra đường bôn ba, ít nhiều gì cũng nên mở lòng với người khác, người này tuổi còn trẻ mà không biết cách hành xử tí nào!

            Gần cửa ra vào có hai tên áp tiêu ngồi, thấy y đi qua, đưa chân ra nhằm ngáng chân làm y ngã, nhưng đến khi y đã ra khỏi khách điếm rồi mà chúng vẫn chẳng cảm giác có gì xảy ra…đành thu chân về, buồn bực hỏi —— hắn bước ra khi nào mà mình không biết?

            Một vài vị khách trong điếm lại thấy rất rõ, khi người nam nhân này đi ra cửa, lúc sắp bước ngang qua chân của hai tên kia, cước bộ không đổi nhưng hai chân đã lăng không, rời đi mà chẳng hề chạm đất. Một chiêu thức tuy nhẹ nhàng nhưng lại vô cùng khó, phải là người có nội lực cao mới có thể thi triển. Mọi người trong lòng hiểu rõ….Vị công tử này võ nghệ không phải hạng xoàng.

            Y đi tới nơi cột ngựa, vừa định nhảy lên thì có hàng loạt tiếng bước chân rầm rầm rộ rộ từ ngã tư truyền đến. Sau đó, hai đoàn ngựa thồ cùng hai đội bộ binh tiến vào, trong nháy mắt đã bao vây cả khách điếm.

            Ở vùng Tây Bắc xa xôi này, kẻ giang hồ nào mà lại không mang trên lưng vài mạng người, khi nhìn quan binh vây lấy toàn bộ khách điếm, ai cũng tưởng họ đang hướng về mình, đều rút đao rút kiếm thủ thế….Nhưng đợi nửa ngày, lại không thấy quan binh tiến vào.

            Kế tiếp, chỉ thấy dẫn đầu binh đoàn là một người vận quan phục thống lĩnh xoay lưng xuống ngựa, đi đến trước mặt người kia, đoạn lại quỳ một chân xuống: “Thuộc hạ tham kiến Thanh phu tử, Thịnh thiếu gia muốn mời Thanh phu tử quay về kinh thành.”

            Người nọ không ngừng cước bộ, thản nhiên thốt ra một câu: “Quan gia nhìn nhầm người rồi.” đoạn lại nắm dây cương rời đi.

            Vị thống lĩnh kia cũng không lùi bước, đi theo sau cố thuyết phục: “Thanh phu tử, thuộc hạ đã xem qua hình của ngài trên cáo thị, không chỉ riêng Duyên thành, mà còn tất cả quan viên Tây Bắc cũng đều nhận được cáo thị, Thanh phu tử, ngài nên quay về vẫn hơn!”

            “Tránh ra.” Y khẽ nhíu mày: “Chắc ông biết, ta lỡ tay giết ông thì chẳng phải đền mạng, còn ông sơ suất làm ta bị thương thì sẽ phải tự biến mình thành tội phạm, tịch biên gia sản?”

            Lời vừa dứt thì vị thống lĩnh liền đứng lại, có chút khó xử, kiễng chân quỳ xuống: “Cung tiễn Thanh phu tử.”

            Y không để ý tới, lên ngựa thúc cương rời đi.

            Trong khách điếm, mọi người hai mặt nhìn nhau, mụ chủ cùng chồng mụ cũng trợn tròn mắt nhìn người kia, đoạn lại liếc mắt ra cửa. Vị thống lĩnh này họ Phùng, là tướng quân phòng giữ Duyên thành, bình thường hắn rất ngạo mạn, thường diễu võ giương oai, không may đi đâu gặp hắn thì chỉ có thể trách mệnh mình không tốt.

            “Phùng thống lĩnh, vị tiểu ca ca kia là ai thế?” Mụ chủ tò mò đến gần hỏi han.

            Phùng thống lĩnh trừng mắt nhìn mụ: “Ít lắm điều đi, đúng rồi, người ấy lúc nãy đã ăn gì?”

            Mụ nhún vai đáp: “Một bát mì.”

            “Bát đâu?” Phùng thống lĩnh hỏi.

            “Sao cơ?” Mụ trưng ra vẻ mặt khó hiểu.

            “Bát mì người ấy vừa ăn đâu rồi?” Phùng thống lĩnh phất tay ra lệnh: “Đem đến cho ta!”

            Mụ lấy từ trên khay bát mì có vành màu lam, vẫn còn sót lại chút nước dùng, mang lên cho Phùng thống lĩnh: “Y ăn một bát mì thịt bò.”

            “Bao nhiêu tiền?” Phùng thống lĩnh hỏi tiếp.

            “Một…. Một, à hai phân bạc, thêm cả mấy cái bánh bao, thịt khô, một bầu rượu.” Mụ sợ hãi đem bạc dâng lên cho Phùng thống lĩnh.

            Phùng thống lĩnh vẫy tay gọi thuộc hạ. Một người tiến đến mang theo một hộp gỗ, Phùng thống lĩnh đổ phần nước dùng trong bát đi, lấy khăn lau khô rồi lại bỏ cả bát lẫn đũa vào trong hộp gỗ, khóa lại cẩn thận, thuộc hạ kia tiếp nhận, xoay người phóng lên ngựa, thúc roi chạy đi. Phùng thống lĩnh lấy ra năm lượng bạc ném cho mụ chủ: “Sau này nếu người ấy lại đến ăn, chẳng những không được thu bạc, mà còn phải mang những món ngon nhất ra tiếp đãi, ngân lượng cứ đến chỗ ta mà lấy, cái bát đó, ta mua!” Nói xong, liền ra lệnh cho binh sĩ lên ngựa hồi phủ.

            Mụ ngơ ngốc cầm ngân lượng đứng tại chỗ, xoay mặt nhìn tướng công nhà mình: “Ông ơi, chuyện này là thế nào?”

            Ông chồng vẫn như cũ, bình tĩnh gảy bàn tính, buông ra một câu: “Đúng là đàn bà, hỏi ít thôi, không phải có bạc là được rồi sao, làm việc đi.”

            Mụ bĩu môi, lắc lư xoay người vào điếm, nhưng đám khách vẫn tiếp tục đàm luận chuyện vừa xảy ra, tò mò không biết thân phận của người đó là thế nào.

.

.

            Y là ai?

            Đương nhiên chính là Tương Thanh.

            Từ sau khi rời khỏi kinh thành, Tương Thanh không có nơi để đi, Giang Nam là Thất Tinh Thủy Trại, Thục Trung là Hắc Vân Bảo, Mạc Bắc là Tu La Bảo…Đều là bằng hữu, y không thể ngu ngốc đến đó để làm liên lụy họ, dù sao những người ấy đều phải trải qua bao sóng gió mới đổi được những ngày bình an. Không có nơi đến, Tương Thanh đành phải lang bạt khắp Tây Bắc và Trung Bắc, nhưng việc khiến y không lường trước được là con sói Ngao Thịnh kia lại thông tri khắp tất cả tỉnh thành, chỉ cần thấy y thì như thấy Thái Thượng Hoàng, ăn cơm, ở trọ không cần trả tiền, lâu lâu lại có quan nha địa phương chạy đến trước mặt, nói với y, Ngao Thịnh muốn gặp y, mời y quay lại kinh thành…Nơi nào y cũng có thể đến, chỉ trừ kinh thành.

            Cho ngựa chạy đến khi chạng vạng, Tương Thanh cũng đến được biên giới đại mạc, lúc này, thái dương đã chậm rãi khuất mình sau đường chân trời.

            Tương Thanh xuống ngựa, ở đây bốn phía không một bóng người, xung quanh chỉ có vài gốc đại thụ cháy khô. Y cột ngựa vào cây, gom củi nhóm lửa, uống rượu trong túi, ngắm nhìn mặt trời lặn chốn đại mạc…Ngoại trừ đôi chút tịch mịch thì xem chừng mọi thứ cũng không tệ lắm.

.

.

            Cách đó mấy ngàn dặm, trong hoàng thành, Ngao Thịnh mặc long bào, ngồi trên bàn đá trong hậu viện, dùng một chiếc bát có vành màu lam, cùng đôi đũa gỗ ăn mì thịt bò, vừa ăn vừa ngẩng đầu nhìn trăng treo trên bầu trời, tay kia nắm một vài phân bạc vụn.

            Thái giám đứng một bên, có chút bất đắc dĩ nhìn hoàng đế ăn mì.

            “Khụt khà khụt khịt” ăn xong bát mì, Ngao Thịnh buông đũa xuống, trầm mặc thật lâu sau mới nói: “Thanh không thích ăn tiêu.”

.

.

            Ba ngày sau, quan phủ vùng Tây Bắc đưa ra một lệnh cấm hết sức vớ vẩn: “Tất cả tửu quán, khách điếm ở Tây Bắc khi nấu mì thịt bò đều không được bỏ tiêu vào.”

03 | dị tộc 

 

            Màn đêm mỗi lúc một thăm thẳm, rượu mang bên mình cũng đã vơi, nhưng Tương Thanh không hề thấy buồn ngủ, chỉ ngồi tựa vào gốc cây khô, nhìn lửa bập bùng. Mọi âm thanh vọng lại từ bốn phía đều trở nên cô tịch. Có lẽ chuyện hay nhất ở sa mạc là không hề có bất kì tiếng côn trùng nào rả rích xáo động. Tương Thanh đưa tay lấy mảnh ngọc bội đeo trên cổ ra nhìn. Mảnh ngọc có chút hơi ấm, có thể là do y đã đeo bên người một thời gian dài. Thân ngọc tuyền một màu trắng đục, góc trái có một điểm nhỏ đỏ tựa máu đào, ở giữa là chữ “Thịnh”, vô cùng đơn giản.

            Mảnh ngọc này vốn thuộc về Ngao Thịnh. Khi hắn còn là thái tử thì ngẫu nhiên được ban tặng. Nguyên bản nó lớn gấp đôi bây giờ, là một khối toàn vẹn có tên ngọc Uyên Ương, vì thân ngọc một nửa xanh, một nửa trắng, hai bên trái phải có điểm một mắt đỏ nên được gọi là uyên ương, vốn là vật trân bảo vô giá. Nhớ rõ năm ấy là sinh nhật của Ngao Thịnh, hắn mang ngọc tặng y, y không nhận. Ngao Thịnh khi đó còn nhỏ, thấy Tương Thanh chẳng bằng lòng đón lấy bèn nóng nảy đập vỡ ngọc.

 

            Nghĩ đến đây, Tương Thanh cười khổ, khe khẽ lắc đầu, chớp mắt đã rời đi hoàng cung được ba năm, Ngao Thịnh cũng đã hai mươi tuổi, để làm một vị hoàng đế thì đúng là còn trẻ thật.

            Sau chuyện đó, y nhặt khối ngọc vỡ kia lên, mang ra một cửa hàng ngọc khí, cho người ta tạc thành hai mảnh nhỏ, phần màu xanh khắc chữ “Thanh”, còn màu trắng thì khắc chữ “Thịnh”.

            Tương Thanh đem ngọc đến cho Ngao Thịnh, để mỗi người giữ một mảnh, Ngao Thịnh lúc này mới không còn hờn giận, bất quá mảnh ngọc khắc chữ “Thanh” kia nên là của y, vậy mà hắn lại mặt dày đoạt đi, và buộc y phải đeo miếng có chữ “Thịnh” trên cổ.

           Khi cầm lấy túi rượu thì chợt thấy bên trong đã hết sạch, Tương Thanh nhìn trời, thời gian cũng đã quá nửa đêm, gió sa mạc thổi qua, rất lạnh. Nghĩ một chốc y liền đứng lên, thu dọn đồ đạc, dẫu sao quay về khách điếm vẫn hơn. Lúc này, một con gió từ sâu trong đại mạc lại thổi đến…nhẹ nhàng lướt qua mặt.

            Tương Thanh khẽ nhíu mày, mang theo trong gió là mùi máu tươi.

            Khuất sâu trong đại mạc, sao lại có mùi máu tươi truyền đến? Hơn nữa theo kinh nghiệm của Tương Thanh, mùi máu có thể bị gió cuốn đi xa như vậy, khẳng định không phải chỉ là một hai cỗ thi thể.

            Tương Thanh nhanh chóng dập tắt lửa, nhảy lên ngựa, đi lần theo mùi máu tàng trong gió. Ngựa chạy đi khoảng một nén nhang, Tương Thanh lại nhíu mày, vì mùi máu này có chút quái dị, ngửi kĩ thì không hoàn toàn giống với máu người.

            Phía trước cách đó không xa là một dốc núi cao, Tương Thanh nghe thấy một vài âm tất tất tác tác. Thấy ngựa vẫn bình tĩnh, y nghĩ thầm đây hẳn không phải là thú dữ. Y đến trước dốc núi, phía sau là bồn địa đang nhấp nháy ánh lửa, đoán chắc bên ấy có người nên bèn xoay người xuống ngựa. Tương Thanh đi lên đỉnh dốc, nghiêng tai nghe ngóng, quả thật vọng ra tiếng người. Cẩn thận quan sát thì thấy bên trong có rất nhiều người. Tương Thanh nhíu mày, hơn nửa đêm, trong bồn địa sa mạc hoang vắng, cớ gì lại tụ tập quá nhiều người? Đang tự vấn, đột nhiên lại nghe hai tiếng “sưu sưu” vang lên.

            Tương Thanh ngẩng đầu, chỉ thấy sâu trong bồn địa, hai chùm pháo hoa được bắn lên, nháy mắt đã xé gió lao đi rồi mất hút ở phía chân trời. Tương Thanh nhận ra đó là tên lệnh thường dùng ở Tây Vực…Lên tới giữa không trung sẽ vỡ ra, chiếu sáng bốn phía.

            Quả nhiên lại nghe thấy tiếng “ba ba” giòn vang, khói lửa tung tóe, đốm lửa lan rộng, cùng lúc đó, bên trong bồn địa truyền đến từng đợt kèn lệnh.

            Những tiếng kèn dài, trầm thấp thế này Tương Thanh đã từng nghe qua. Đó gọi là “Khâm”[1], một loại pháp khí thổi ra tiếng, được xem như một chiếc kèn to có miệng lớn. Trước kia khi theo Tư Đồ cùng nhau trốn chạy, y đã từng thấy một nhóm đạt ma đại sư thổi trong ngày hội chùa. Sao nơi đây cũng có loại âm thanh này?

            Tương Thanh cẩn thận bước gần đến để thăm dò. Lúc nhìn vào bồn địa, y chỉ biết ngây ra. Cảnh tượng bên trong quả thật dọa người.

            Bên trong đầy những người là người, tất cả đều vận y phục trắng, đội khăn trùm đầu. Những người xếp thành hàng ở hai bên thì thổi khâm, phần giữa đứng hơn mấy trăm người, ai cũng ôm một con rắn. Trên thân rắn bôi một lớp chất dính đen sậm, rắn được vắt ngang qua vai mỗi người, tùy thích uốn éo thân mình bóng lưỡng. Phía trước đoàn người là thần đàn, một hắc y nhân đứng trên ấy, đội khăn trùm đầu màu đen và đặc biệt bế trên tay một con rắn khổng lồ. Tương Thanh đoán chừng con rắn kia phải dài ít nhất hai ba trượng, miệng há rộng, trông rất ghê rợn. Rắn không ngừng vặn vẹo, còn hắc y nhân kia tuy bị vải đen trùm phủ nhưng mắt miệng tay chân đều có thể động đậy. Hắn hé răng, cắn phập xuống đầu rắn, hút một ngụm máu, sau lại rùng mình, bày ra các vũ bước quái dị, miệng không ngừng lẩm bẩm. Dưới thần đàn, nhóm người vận áo chùng trắng cũng làm tương tự, tựa như đang thực hiện một nghi lễ nào đấy. Nếu ban ngày nhìn thấy cảnh tượng này sẽ nghĩ nó rất buồn cười nhưng bấy giờ đang là đêm khuya thanh vắng, sâu trong hoang mạc, cộng thêm mùi máu tươi, thật sự quỷ dị nói không nên lời.

            Tương Thanh nhìn chốc lát, chợt nhớ lại những tà môn dị phái trên giang hồ, chưa từng thấy qua nhóm người nào lại ăn mặc kì lạ như vậy.

            Nhóm người bên dưới ca múa một trậm ầm ỉ, rắn quấn trên người đã chết, bị ném sang một bên, sau đó hắc y nhân kia lại nói gì đấy, Tương Thanh cẩn thận lắng nghe mới rõ nhóm người này không phải là người Hán mà là dị tộc. Bên trong đại mạc tồn tại không ít tiểu tộc, có thói quen quái dị, Tương Thanh tuy không hiểu nghi thức này là gì nhưng lại nghĩ chúng không lên quan đến mình. Vừa lúc xoay người định rời đi thì bỗng nghe hắc y nhân phía sau hô to: “Thịnh Thanh diệt vong!”

            Những người dưới thần đàn cũng cất cao giọng lặp lại: “Thịnh Thanh diệt vong….”

            Tuy rằng lời nói lọng ngọng, nhưng quả thật là tiếng Hán, Tương Thanh cũng rành mạch nghe được bốn tiếng này, chẳng lẽ dị tộc muốn làm phản?

            Tương Thanh quyết định lưu lại, xem thử đến tột cùng chúng đang mưu đồ gì, nhưng phía sau, ngựa của y lại bị bò cạp cắn, kinh sợ hí vang.

            Tương Thanh sửng sốt, nhóm người bên dưới bỗng lặng hẳn đi, lại nghe tên hắc y nhân kia lầm bầm vài tiếng. Bất chợt cảm thấy có tia sát khí truyền vào trong gió, y vội kéo lại khăn che mặt, nhảy khỏi đỉnh dốc, nhưng hắc y nhân kia đã phi thân bay qua khỏi dốc cao, khai triển song chưởng tựa như một con hắc điểu lao đến y.

            Nhác thấy công phu người này không tồi, Tương Thanh định nghiêng người né tránh, nhưng lại muốn thử xem tên hắc y nhân thuộc môn phái nào nên y vội tiếp chiêu nghênh chiến.

            Hắc y nhân nương theo ánh trăng cùng đóm lửa chưa dập để nhìn rõ Tương Thanh hơn, phát hiện y là người Hán, hơn nữa thân thủ cũng khá, liền thu chưởng thối lui từng bước, nhìn Tương Thanh: “Ngươi là ai?”

            Tương Thanh nghe hắn nói tiếng Hán khá chuẩn, có chút khàn, hắn như cố tình dùng không đúng giọng của mình nhằm che đậy chuyện gì khác. Bên cạnh đó, công phu của hắn kỳ dị, không phải võ công Trung Nguyên. Vùng Tây Vực này người có thể nói chuẩn tiếng Hán, đương nhiên là người thường xuyên tham gia vào sinh hoạt của khu người Hán, người này đã có tâm phản loạn, tất có thân phận nào đó.

            Nghe hắc y nhân kia hỏi, Tương Thanh thầm nghĩ cách đáp trả, khôn khéo đáp: “Là người biết rõ thân phận của ngươi.”

            Hắc y nhân rõ ràng chấn động, Tương Thanh nhíu mày, nghĩ rồi nói tiếp: “Thân phận hai mang của ngươi, những gì ngươi bí mật làm, ta đều rõ.”

            Nghe Tương Thanh nói, hắc y nhân liền cau mày đánh giá Tương Thanh rồi cười lạnh: “Thật ra ngươi là ai?”

            Tương Thanh thấy bộ dáng bình tĩnh của hắn, đành đánh cuộc một phen: “Hắn nói rất đúng, ngươi quả nhiên là phản tặc!”

            “Hắn?” Hắc y nhân di chuyển, âm thầm rút đao sau lưng, lạnh lùng nói: “Thật ra ngươi do ai phái tới?”

            Tương Thanh lui ra sau từng bước, y đã nghe thấy tiếng chân người đang đi lên từ dưới bồn địa. Chỉ trong chốc lát nữa, nhiều người sẽ kéo đến, khó có cơ hội thoát thân, nên trước phải chọn thời cơ thích hợp mà lui. Y khôn khéo tung hứng lời hắn: “Người rất thân với ngươi.”

            Hắc y nhân sửng sốt, nghi ngờ hỏi lại: “Ngươi là người của đại ca ta?”

            Tương Thanh bỗng thấy mờ mịt, nói nửa ngày cũng không moi được thông tin gì. Nếu chỉ biết là hắn có huynh đệ thì có ích lợi chi? Trong lòng y khó tránh khỏi có chút ảo nảo, thầm nói nếu bản thân có được cái tính mồm năm miệng mười của Mộc Lăng thì tốt rồi, nói vài câu là có thể đào ra cả lịch sử tổ tông mười tám đời nhà người ta. Đáng tiếc về lĩnh vực này thì y lại dốt đặc.

            Hắc y nhân thấy Tương Thanh im lặng, thầm nghĩ mình đã đoán đúng, liền cười ha hả: “Tên vô dụng kia đúng là hết thuốc chữa. Ngươi về mà nói với hắn, hắn tình nguyện làm cẩu nô tài dưới chân Ngao Thịnh thì đó là chuyện của hắn, không liên quan đến ta. Ta không vô dụng như hắn, ngay cả di huấn của tổ tông cũng quên!”

            Tương Thanh lại tiếp tục khó hiểu. Không nói lời nào so với việc nói còn tốt hơn, đoạn lại suy đoán, huynh trưởng của tên này tự dâng mình làm nô tài cho Ngao Thịnh, chẳng lẽ là kẻ có chức vị? Di huấn của tổ tông? Là người của dị tộc đã suy vong? Nhà có hai huynh đệ, lại giữ chức vụ trong triều…Như vậy có điều càng thuận tiện.

            Hắn lại thấy Tương Thanh vẫn không nói gì, chợt cảm giác có chút kỳ quái, đột nhiên hỏi: “Ngươi thật sự là người của đại ca ta?” Lúc này, nhóm bạch y nhân dưới chân núi đã chạy lên, ai cũng trang bị binh khí trên tay.

            Tương Thanh nhìn trường đao trong tay họ, lại cau mày, thấp giọng hỏi: “Binh khí của Thịnh Thanh, các ngươi đều là người trong quân đội?”

            Hắc y nhân chấn động, trừng mắt nhìn Tương Thanh: “Ngươi không phải là người của đại ca ta? Ngươi là ai?!”

            Tương Thanh nói thầm, ngươi hiểu được quá muộn rồi, lúc này manh mối đã được nhiều, lại thấy khí thế dọa dẫm đang vây hãm mình của đám bạch y nhân, y liền thả người lao ra khỏi đám người, chạy xuống phía chân núi.

            “Đứng lại!” Hắc y nhân đuổi theo, Tương Thanh cước bộ không ngừng, tay phóng ám tiễn. Hắc y nhân không lưu ý, bị ám tiễn làm bị thương một bên mặt, vệt rách dài hiện ra trên khăn trùm, máu cũng theo đó mà tuôn trào. Lúc này, Tương Thanh đã phi thân lên ngựa, thúc cương chạy đi.

            Rất nhiều kẻ mặc áo chùng trắng định đuổi theo nhưng đều bị hắc y nhân ngăn lại. Tương Thanh lướt ngựa đi xa, quay đầu lại chỉ thấy đám người kia còn đứng tại chỗ, máu vẫn không ngừng chảy trên mặt hắc y nhân nọ, y nhủ thầm: “Cho ngươi lưu chút ký hiệu, về sau dễ phân biệt.”

            Thấy thân ảnh Tương Thanh biến mất trong đại mạc, hắc y nhân mới tháo khăn trùm đầu xuống, dùng tay áo lau vết máu bên mặt, cau mày.

            “Đại nhân?” Lúc này, một tên áo trắng mới tiến lên, thấp giọng hỏi gã hắc y: “Kẻ vừa rồi là ai?”

            Hắc y nhân thở dài, lắc đầu: “Xem ra tình thế có biến, các ngươi đều cẩn thận làm việc, còn nữa, phái người đi thăm dò xem người kia là ai.”

            “Vâng” Đám bạch y nhân đều tản đi, gã hắc y xoay người, nhặt ám tiễn bạc rơi dưới đất lên, thấy trên mặt tiễn khắc hình chim ưng, âm trầm vẽ ra tia cười.

.

.

            Bên trong hoàng thành, cũng là một bầu trời đêm như thế.

            Ngao Thịnh nằm trên giường, trở mình vài lần, trên mặt gối đặt một khối ngọc xanh biêng biếc.

04 | phòng bị

            Sau khi ra khỏi đại mạc, Tương Thanh vội tìm một khách điếm nghỉ chân. Lúc đã nằm trên giường, y bắt đầu cân nhắc mọi việc. Đám người ăn mặc quái dị này nhìn hết sức thần bí, lại có tâm phản loạn, ắt hẳn chúng là dị tộc. Từ cuộc đối thoại vừa nãy, xem ra tên hắc y nhân cầm đầu kia là kẻ có địa vị, lại còn có một ca ca đang làm quan. Nói không chừng chính hắn cũng có một chức quan nào đấy. Mặt khác, những người đó dùng binh khí của đại quân Thịnh Thanh, cũng là của quân chính quy vùng Tây Bắc. Tây Bắc đóng quân tổng cộng có ba bộ phận: Lạc Phường Lạc gia quân, Tề Mật tây bắc quân, còn có nhóm kỵ binh của Khổng Di Phi. Lực lượng nhân mã này đều đóng tại những trạm kiểm soát trọng yếu ở vùng này, nếu đám người kia thật sự trà trộn vào đây thì mọi chuyện càng đáng lo ngại hơn.

            Nghĩ đến đó, Tương Thanh quyết định sáng mai phải đi thăm hỏi tình hình. Nếu đúng chỉ có một nhóm nhỏ phản động thì không khó giải quyết, nhưng nếu quy mô quá lớn thì phải nhanh cấp báo cho Ngao Thịnh biết. Nhưng rồi khi nghĩ đến việc truyền tin, Tương Thanh lại thấy phiền lòng. Hay là cậy nhờ người khác, không được, tự mình đi vẫn hơn, nhưng…thôi, quên đi, cứ điều tra rõ ràng hẵng tính sau.

            Thôi không suy nghĩ nữa, xoay người, ôm gối, ngủ.

.

.

            Sáng sớm hôm sau, kẻ cả đêm mộng thấy mình ôm Tương Thanh ngủ bị tiếng gõ chuông của thái giám lay tỉnh, nghe thấy ngoài cửa giọng thái giám nơm nớp lo sợ bẩm trình: “Hoàng Thượng, đã đến giờ lâm triều!”

            Ngao Thịnh ngồi dậy, gật gật đầu rồi rời giường mặc y phục.

            Nhóm thái giám, cung nữ đều rất sợ Ngao Thịnh. Nói thế nào thì một số tên nô tài có tuổi khi Ngao Thịnh còn bé đều từng khi dễ hắn. Đến khi hắn lớn, lại thấy hắn hỉ nộ vô thường. Bất quá Ngao Thịnh dù có quái gở đến đâu, đối văn võ trọng thần có đôi khi nói giết liền giết, nhưng lại không mấy khi khó dễ đám hạ nhân. Tuy vậy tất cả chúng đều nom nớp lo sợ lúc hầu hạ hắn. Ngao Thịnh cũng biết việc này và đây chính là thứ hắn muốn, đồng thời cũng là điều mà mẫu thân đã dạy hắn – Muốn để người khác e sợ con quả thật không khó, chỉ cần đừng cho người khác biết con đang nghĩ gì trong đầu. Nhưng đồng thời, muốn người khác yêu con cũng muôn phần khó khăn…Có đôi khi thật tâm cho đi, lại sẽ không nhận được thật tâm hồi báo.

            Trong lúc dùng điểm tâm, Ngao Thịnh theo thường lệ gọi vài ảnh vệ đến hỏi han: “Thanh vẫn còn ở phương Bắc sao?”

            Ảnh vệ đáp: “Vâng, hai ngày này đều ở Duyên thành, chưa từng rời đi.”

            Ngao Thịnh gật đầu, đứng dậy vào triều.

            Mỗi ngày lâm triều kỳ thật cũng không có gì đổi mới, có thiên tai thì quyên tiền cứu giúp, địa phương nào thu hoạch bội mùa thì làm lễ chúc mừng….Ngao Thịnh đặc biệt hỏi một chút tình hình Tây Bắc thì nghe đại thần đáp: “Tổng thể mà nói đều rất thái bình, bất quá sát biên giới phương Bắc có một ít ngoại tộc những ngày gần đây đều đang thao binh diễn mã, mở rộng binh lực, đặc biệt bộ tộc Dã Lũng, xem chừng là có dã tâm…. Không biết chúng ta có nên tìm một công chúa đi hòa thân?”

            Ngao Thịnh nghe xong khẽ nhíu mày, cười nhạo: “Trẫm thì chẳng có công chúa nào, không bằng các khanh hỏi những ngoại tộc ấy có nha đầu nào đẹp không, trẫm cho các khanh nạp làm tiểu thiếp, cũng coi như là hòa thân.”

            Các đại thần xấu hổ cắm mặt xuống đất, lại nghe Ngao Thịnh thản nhiên nói tiếp: “Dâng nữ nhi cho chúng cũng vô dụng. Mau ra lệnh cho tướng lĩnh Mạc Bắc cùng Trung Bộ chấn chỉnh tinh thần quân sĩ, mấy ngoại tộc du mục ấy dù có lợi hại thì cũng có được bao người? Cứ đơn giản đem quân đánh, chết hết là yên chuyện.”

            Các đại thần liếc mắt nhìn nhau, rồi cúi đầu hành lễ: “Hoàng Thượng thánh minh…”

            Ngao Thịnh nói thầm, ta nếu dâng nữ nhi sang cho chúng thì liệu các ngươi có dám không gọi ta là thánh minh sao? Một câu thánh minh này thật chẳng đáng mấy đồng.

            “Còn có việc gì không?” Ngao Thịnh nhìn quét qua đám văn võ bá quan, thấy các đại thần cũng không hé môi, xem ra là hết chuyện rồi nên bèn đứng lên, nhưng vừa xoay người đã đột nhiên dừng lại, nói: “Đúng rồi, thí võ năm nay hãy mở nhiều hơn vài khoa, giảm bớt quy định điều kiện gì đấy đi, tạo cơ hội cho những người tập võ không chạy sang Hắc Vân Bảo và Tu La Bảo nữa, đồng thời cũng đưa những người đó vào triều nhậm chức.”

            “Hoàng Thượng.” Một vị quan thuộc Lại bộ[1] ra khỏi hàng tấu trình “Năm nay mọi chuyện tốt hơn trước, Hắc Vân Bảo cùng Tu La Bảo từ năm trước đã không thu nhận đệ tử.”

            Ngao Thịnh gật đầu, cười lạnh: “Một tên Tư Đồ đã đủ phiền, lại còn thêm một Tần Vọng Thiên…Các khanh cũng nên có chút ý chí phấn đấu một chút, đừng có lúc nào cũng nghĩ phải làm sao để lấy bạc của dân. Tốt xấu gì cũng hãy dành chút tinh lực lo nghĩ những chuyện đứng đắn, đừng để một ngày nào đó chiến tranh xảy ra, lại phải cùng những tên giang hồ thảo khấu sung quân một lượt.” Nói xong xoay người đi, thái giám hô: “Bãi triều.”

            Quần thần tán đi.

            “Tướng gia.” Thái thú Vương Sâm gọi lại tả thừa tướng[2] Quý Tư.

            “Vương Thái Thú, có việc gì sao?” Quý Tư năm nay hơn năm mươi tuổi, là một văn nhân gầy ốm, dáng dong dỏng cao, có chòm râu dài, tư thái làm người nhã nhặn, lễ độ, lại trung thực nên Ngao Thịnh có phần trọng vọng ông.

            Vương Sâm năm nay cũng không trẻ, tầm bốn mươi thì mới nhậm chức Thái Thú, là một võ quan, khi Ngao Thịnh còn trong thời kì khó khăn ông vẫn trung thành đi theo, vốn là người có đôi mắt tinh tường. So với văn quan, Ngao Thịnh tựa hồ ưu đãi võ quan hơn, đại khái có thể vì hắn cũng là người luyện võ.

            “Theo ý tứ của Hoàng thượng, có phải là muốn chúng ta phái binh xuống tây bắc?” Vương Thái Thú hỏi.

            Quý Tư vuốt râu, ra chiều gật gù: “Gần đây sát biên giới phía bắc, bộ tộc Dã Lũng đang có phần lớn mạnh, ta đoán Hoàng Thượng muốn lúc bọn họ còn chưa ổn định, sớm ra tay dẹp loạn?”

            “Umm…” Vương Thái Thú suy nghĩ một chút, đoạn lại nói: “Tả tướng, không bằng lần này hãy để Hi nhi đi? Nó đi theo Linh lão tướng quân, cũng từng qua chinh chiến, tôi muốn nó học hỏi thêm kinh nghiệm, tốt nhất là có thể một mình đảm đương những chuyện như thế này.”

            Quý Tư tán thành: “Tốt lắm, Hi nhi là một nhân tài, chi bằng hãy tiến cử với Hoàng thượng.”

            “Hiện tại, tôi chuẩn bị tìm Hoàng Thượng, chuyện đó… Tả tướng, ngài cùng đi với tôi có điều tiện hơn.” Vương Thái Thú có chút xấu hổ: “Thật lòng, Hoàng thượng… quá lợi hại, ta một mình đi gặp người, tôi lại chẳng dám nói gì mất thôi.”

            “Ha ha….” Quý Tư lắc đầu: “Lợi hại mới tốt, đi, cùng đi thôi!”

            Dứt lời, hai cựu thần đi ra khỏi đại điện, hướng về phía thư phòng Ngao Thịnh.

            Đi qua đoạn hành lang gấp khúc, cả hai bỗng nghe thấy có tiếng ẩu đả, liếc mắt ra hiệu cho nhau, liền chuyển hướng không đi thư phòng mà ra thẳng hoa viên. Quả nhiên, vừa đặt chân vào đã thấy vài binh sĩ bị đánh bay ra ngoài, Ngao Thịnh đứng giữa sân, lắc đầu: “Các ngươi không có tiền đồ gì cả, không bằng cả cao thủ đại nội.”

            Các binh sĩ đồng loạt quỳ xuống nhận sai, thầm trách cứ, võ công của người không phải là học từ Hắc Vân Bảo sao, người bình thường ai đánh thắng được người.

            Ngao Thịnh vài năm nay đều khổ luyện võ công Tương Thanh đã dạy cho hắn, còn phái người tìm về không ít tàn tịch bí kiếp võ học, hắn vốn thông minh, nên học rất nhanh. Bây giờ, phải thừa nhận rằng công phu của hắn rất xuất chúng, đừng nói chỉ ở trong cung, thậm chí ra giang hồ, cũng không mấy người vượt qua hắn.

            Ngao Thịnh mặc áo khoác vào, ngẩng đầu nhìn hai người vừa đến: “Vào đi, đứng đấy làm gì?”

            Thái thú và tả tướng cùng đi đến, hành lễ với Ngao Thịnh.

            Ngao Thịnh nhìn hai quan lão trước mặt, cuối cùng tầm mắt rơi xuống Vương thái thú: “Khanh muốn để Vương Hi đi Tây bắc ư?”

            Vương Thái Thú hít sâu một hơi, liếc nhìn người bên cạnh, vui thầm vì đã mời tướng gia đi cùng bằng không dù có ngồi ê mông ở đây cũng không làm được trò trống gì.

            “Hoàng Thượng thật là thần cơ diệu toán.” Vương Thái Thú nhanh hành lễ với Ngao Thịnh: “Hi nhi nó…”

            “Trẫm thấy thế cũng được.” Ngao Thịnh cắt ngang lời ông: “Cứ như vậy đi, ngày mai khanh bảo Vương Hi đến đây, trẫm có chuyện muốn phân phó cậu ta làm.” Nói đoạn lại nhìn hai người: “Còn chuyện gì nữa không?”

            “Hết…hết rồi.” Hai vị cựu thần cáo từ xong liền nhanh chóng rời khỏi hoa viên, hoan hoan hỉ hỉ hồi phủ.

            Sáng ngày kế, Vương Hi sau khi gặp Ngao Thịnh, liền chuẩn bị hành lý, thống lĩnh hai mươi vạn tinh binh, chậm rãi tiến đến Tây Bắc.

.

.

            Tương Thanh mấy ngày nay đều dò hỏi chung quanh doanh trại. Đầu tiên, tướng lĩnh trông giữ ba quân đều không có huynh đệ tỷ muội bên cạnh nên y cũng thoáng yên tâm. Ít nhất người y cần tìm không phải là kẻ trực tiếp có binh quyền trong tay. Về phương diện khác, y còn phát hiện kí hiệu Thịnh Thanh trên binh khí đã dùng được từ hai năm trước, đó là khi Ngao Thịnh vừa đăng cơ, hiện tại mọi thứ đã đổi khác. Sau khi dò hỏi thì thấy, trong các thống lĩnh quân đội tây bắc thì Lạc Phường và Khổng Di Phi đều do Ngao Thịnh mới điều tới, bởi vậy quân trang cũng mới. Cho nên trong doanh trại của hai vị tướng quân này không thể tìm ra thứ binh khí cũ kĩ ấy. Trong thời gian này, y cũng điều tra được, chỉ có quân của Tề Mật mới dùng những binh khí xưa cũ đó….Nói cách khác, nhóm bạch y nhân kia có thể đã trà trộn trong quân doanh của Tề Mật.

            Đến giờ ăn, Tương Thanh đi đến một tiểu lâu nhỏ, vừa ăn vừa nghĩ cách lẻn vào để tìm hiểu kĩ càng hơn về đại doanh của Tề Mật. Nhưng ngẫm lại, có đi vào cũng vô dụng thôi. Đêm đó y không nhìn được diện mạo của tên hắc y nhân kia, làm thế chẳng khác nào vẽ đường cho chúng tìm được y.

            Đang nghĩ ngợi, lại thấy đường xá náo loạn. Tương Thanh ngước nhìn, chỉ thấy nha dịch địa phương đang nói gì đấy với những tiểu thương, khiến họ nhanh chóng thu dọn đồ đạc, rút lui khỏi ngã tư đường.

            “Aiii, có phải là có quân binh đến?” Vài thực khách gần đấy nhỏ giọng nghị luận.

            “Hẳn là vậy, hay lại sắp có đánh nhau?”

            “Không biết nữa, tân hoàng rất thánh minh, sau khi người đăng cơ, cuộc sống của chúng ta đã tốt hơn rất nhiều.”

            “Phải a, nhưng tôi cũng không muốn đánh nhau đâu, tháng sau vợ tôi sinh rồi!”

            Tương Thanh nghe được có chút khó hiểu, nhẹ nhàng vỗ vai thực khách bên cạnh hỏi: “Vị đại ca này, các vị đang nói đến chuyện gì vậy?”

            Mấy thực khách kia quay đầu lại nhìn Tương Thanh, trố mắt ra hỏi ngược lại: “Huynh đài không biết gì sao? Từ xứ khác tới à?”

            Tương Thanh gật đầu: “Đã xảy ra chuyện gì?”

            “Ai…Không phải phía tây có tộc Dã Lũng gì đấy đang tác loạn sao, nên mới có chuyện tăng thêm quân từ hoàng thành đến, nghe nói có khoảng hai mươi vạn đại quân” Thực khách giải thích với Tương Thanh: “Tiểu ca à, huynh nếu là người xứ khác, không có chuyện gì quan trọng thì đừng ở đây lâu, mau quay về thì tốt hơn!”

            Tương Thanh khẽ nhíu mày: “Dã Lũng tộc?”

            “Huynh không biết Dã Lũng tộc?” Thực khách kia cười cười: “Xem chừng huynh vừa tới Duyên thành phải không?”

            “Phải, tôi mới đến được mấy ngày.” Tương Thanh mang bầu rượu còn chưa mở nắp của mình sang, mời các vị thực khách một chén, còn bảo tiểu nhị mang đến một vài món nhấm: “Các vị đại ca, chúng ta vừa ăn vừa nói chuyện, các huynh có thể kể cho tôi nghe một ít sự tình của tộc Dã Lũng này chăng?”

            Các thực khách đương nhiên rất thích tán chuyện, nay lại có món ngon rượu thơm, liền đáp ứng Tương Thanh.

            “Dã Lũng tộc vốn là một dị tộc sống du mục chỉ có mấy trăm người. Họ sống du canh du cư trong đại mạc, dựng lều làm nhà, nuôi ngựa và lạc đà, rất đỗi bình an. Nhưng rồi vài năm trước, có một tên tiểu tử của Dã Lũng tộc, tên là Dã Lũng Kì. Tiểu tử này dũng mãnh thiện chiến, có dũng có mưu, dã tâm cũng không nhỏ. Đầu tiên, hắn đánh cướp hàng hóa của thương nhân qua đường, tích góp từng chút một tài sản. Sau đó hắn lại thống lĩnh tất cả nam nhân Dã Lũng, bắt đầu chinh chiến trong đại mạc, thu nạp hết những tộc du mục khác làm thủ hạ của mình, thế lực dần dần mở rộng. Mới chừng một hai năm mà đã thu thập được khoảng hơn một vạn con ngựa, bắt đầu tấn công một số quận thành nhỏ phía tây, trước đánh cướp địa bàn của ngoại tộc. Sau nhiều trận thắng, đã thâu tóm mọi tiểu quốc, thành lập nên một Dã Lũng quốc, như hổ rình mồi, có thể ngày một ngày hai tấn công Thịnh Thanh ta.” Thực khách lắc đầu: “Phía nam và phía bắc đều rất khó đánh vào, duy chỉ mỗi chỗ phía tây này là có sơ hở, nên hoàng thượng mới phái người đến trấn thủ.”

            Tương Thanh sau khi nghe xong liền gật gật đầu hỏi: “Dã Lũng Kì năm nay bao nhiêu tuổi?”

            “Chắc chừng ba mươi cũng nên….” Mấy thực khách suy đoán: “Nghe nói hắn rất lợi hại.”

            “Dã lũng tộc có thói quen gì đặc thù không?” Tương Thanh tiếp tục thăm dò: “Tỷ như hiến tế linh tinh gì đấy.”

            “Aaa, dã lũng tộc hình như là cúng bái xà thần.” Một thực khách khác nói: “Nghe nói rất tín phụng thằn lằn thì phải.”

            Khi nói chuyện, chợt nghe thấy tiếng vó ngựa sầm sập bên ngoài, có rất nhiều quân mã vào thành, xuyên qua đường cái Duyên thành đến biên giới tây bắc, lần này bọn họ chuẩn bị đóng quân ngoài thành, Duyên thành như bị vây tắc.

            Binh mã hùng hổ đi ngang, chợt có một chiến mã chạy ra khỏi đội ngũ, đứng ở ngoài cửa tửu lâu. Một người vận hắc y, đội mũ bạc lập tức nhảy xuống ngựa, cầm trên tay một hộp gỗ, vội chạy vào khách điếm đến thẳng bàn Tương Thanh.

            Tương Thanh khẽ nhíu mày, vừa định đứng lên, lại nghe người kia hô hào: “Thanh phu tử, huynh coi như không biết ta sao? Ta là Vương Hi đây mà!”

            Tương Thanh sửng sốt, quay đầu lại cẩn thận xem xét, thầm hồi tưởng… Người trẻ tuổi này là Vương Hi, cùng tuổi với Ngao Thịnh. Khi Ngao Thịnh còn là thái tử, cha hắn cũng chính là Vương thái thú rất có mắt nhìn người nên đã giúp Ngao Thịnh không ít. Vương Hi và Ngao Thịnh cũng có thể xem như là bạn.

            Ba năm không gặp, Vương Hi đã trưởng thành, không còn tính trẻ con nữa, thay vào đó là có được vẻ uy vũ của một đại tướng quân, Tương Thanh đột nhiên có chút thất thần… Không biết Ngao Thịnh trưởng thành rồi sẽ trông thế nào, có phải đã cao hơn y rồi không…Trước kia vẫn chỉ mới là một tiểu hài nhi mười mấy tuổi đầu thôi.

            “Thanh phu tử, Hoàng thượng bảo ta đưa cho huynh vật này.” Vương Hi trao hộp gỗ trên tay cho Tương Thanh: “Ta hạ trại gần đây, huynh nếu tiện đường thì cứ đến chơi, có một số việc ta cũng muốn xin chủ ý của huynh.” Nói xong liền cáo từ dẫn binh đi.

            Tương Thanh ngẩn ra nhìn hộp gỗ, không nặng cũng không nhẹ, chẳng biết Ngao Thịnh lại giở trò quỷ gì. Đợi đến khi y mở nắp hộp ra nhìn, chỉ thấy có vài thứ tròn vo — bánh lão bà[3]…

            Tương Thanh nhanh chóng đóng nắp hộp, lại tốn hơi thừa lời mắng, tiểu tử chết tiệt!

.

.

            Trong hoàng thành, Ngao Thịnh ngồi sau long án, vừa xem tấu chương vừa ăn bánh lão công….

05 | bắt được

            Đợi Vương Hi đi rồi, Tương Thanh ngẫm nghĩ một lát mới ôm hộp gỗ rời khỏi khách điếm. Y quyết định phải thăm dò các vị tướng lĩnh của ba tập doanh trại, còn về phần phải làm thế nào, sự xuất hiện của Vương Hi chính là cơ hội không tồi mang đến cho y.

            Tương Thanh cưỡi ngựa đi tới phụ cận đại doanh Vương Hi, tìm một vòm cây to cao, ngồi nấp mình theo dõi. Quả nhiên đến chiều, các tướng lĩnh phụ trách ba phân đội, Lạc Phường, Tề Mật và Khổng Di Phi đều mang theo phó tướng cùng những thành viên trọng yếu đến lều của Vương Hi.

            Tương Thanh gật đầu, thầm nói, người càng nhiều càng tốt, nếu kẻ đó không ở bên trong, sẽ không có gì phải lo lắng. Vạn nhất thật sự trà trộn vào doanh ngũ, thử một lần liền có thể tóm được! Nghĩ vậy, y liền nhảy khỏi chạc cây, đi đến trước cửa trại.

 

            “Đứng lại!” Hai thủ vệ vội chắn đường Tương Thanh: “Ngươi là ai?”

            Tương Thanh cũng không nói nhiều, lấy ngọc bội ra cho cả hai nhìn. Hai người liếc mắt nhìn nhau, nhanh mở cửa cho Tương Thanh tiến vào.

            Vào đại doanh, Tương Thanh trước hết liền đi xem xét khắp nơi, cảm thấy vài năm nay Vương Hi đã học được không ít thứ. Đại doanh an bài nhiều lớp công thủ, vô cùng chặt chẽ, thỏa đáng, hắn thật xứng với hai từ nhân tài. Lần này Ngao Thịnh phái hắn đến, quả đã chọn rất đúng người.

            Bên trong quân trướng, Vương Hi cùng ba vị tướng lĩnh và những người thân cận hàn huyên vài câu coi như chào hỏi, lúc sau bắt đầu truyền đạt ý chỉ của Ngao Thịnh.

            Nói được một nửa bỗng có một người tiến vào thì thầm vài lời với Vương Hi. Vương Hi chợt kinh hãi, tạm thời dừng hội nghị lại: “Các vị, xin ngồi chờ ta giây lát, ta có chút việc phải đi trước.” Nói xong liền chạy xộc ra khỏi lều.

            Những người có mặt đều há hốc mồm ra, thầm nghĩ phải chăng là chuyện quân cơ đại sự nên mới khiến Vương Hi ngay cả thánh chỉ của hoàng thượng cũng không tuyên đọc đã vội chạy đi? Tất cả tò mò, chuyển mắt nhìn ngoài phía cửa lều. Bên ngoài kia là Tương Thanh với một thân tiêu sái, Vương Hi vừa bước ra liền trông thấy người, ngay cả những vị khách bên trong cũng nhìn thấy y rõ mồn một.

            “Thanh phu tử, nghe nói huynh có việc tìm ta?” Vương Hi đến trước mặt Tương Thanh, vội hỏi.

            “Giúp ta một việc.” Tương Thanh đáp.

            Vương Hi gật đầu: “Là việc gì?”

            Tương Thanh nhìn vào bên trong lều, lại nhỏ giọng phân phó Vương Hi: “Bảo các vị tướng lĩnh kia quay về điều tra xem trong quân doanh của họ, những ai mang cấp bậc cao hơn bậc úy[1], trong nhà có bao nhiêu huynh đệ mà ca ca có quân hàm cao hơn so với đệ đệ và đều là dị tộc. Sau đó viết lại đầy đủ tên tuổi cùng gia thế của những người đó cho ta.”

            “Sao…” Vương Hi có chút sửng sốt, đoạn lại khôi phục vẻ bình tĩnh: “Được, nhưng ta có thể hỏi huynh vì sao không?”

            Tương Thanh không đáp, lại hỏi: “Khi Ngao Thịnh điều cậu dẫn binh đến đây, có nghiêm túc nói với cậu về quân tình tây bắc?”

            Vương Hi thở dài: “Thanh phu tử, sao huynh có thể gọi thẳng tên họ của hoàng thượng?”

            Tương Thanh xấu hổ, lại hỏi tiếp: “Hắn có khỏe không?”

            “Hoàng Thượng rất tốt, đã cao hơn ta rồi, công phu cũng giỏi hơn ta.” Vương Hi nhanh đáp: “Khi ta sắp đi, Hoàng Thượng từng nói tây bắc quân đóng quân đã một thời gian dài, đặc biệt là nhân mã của Tề Mật, nên cẩn thận điều tra rõ ràng, mặt khác…”

            “Sao?” Tương Thanh thấy dáng vẻ muốn nói lại thôi của Vương Hi, liền truy vấn.

            “Mặt khác, Hoàng Thượng rất mong nhớ huynh.” Vương Hi thành thật trả lời: “Nói huynh nếu có thời gian thì hãy quay về gặp người.”

            Tương Thanh gật gật đầu: “Để sau đi, đừng quên làm giúp ta.” Nói xong liền phi thân bay đi.

            Vương Hi vẫn đứng lặng nhìn, thở dài lắc đầu rồi lẩm bẩm: “Huynh chỉ biết hỏi Hoàng Thượng có tốt không, cũng không thèm hỏi thăm ta sống có vất vả không, ta tốt xấu gì cũng