€¦ · web viewsau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các...

50
Trong cuộc sống của loài người, có nhiều mối dây liên kết diễn tả qua chữ “đồng”, như đồng môn, đồng hương, đồng đạo, đồng nghiệp…, nhưng có lẽ hai mối dây liên kết được người Cộng sản đề cao nhiều nhất là đồng bào và đồng chí, không những tại Việt Nam mà ở toàn thể các nước phe xã hội chủ nghĩa. Ta hãy nghe lại một đoạn trong lá thư của ông Hồ Chí Minh viết vào tháng 10-1944: “Toàn quốc đồng bào! Toàn thể đồng chí! Tháng 8 năm 1942, tôi vâng lệnh Đoàn thể đi cầu ngoại viện. Chẳng may gặp sự hiểu lầm ở ngoài, làm cho đồng bào, đồng chí lo phiền cho tôi hơn một năm giời. Vậy, một mặt thì tôi phải thừa nhận vì tôi hành động không đủ khôn khéo để đồng bào, đồng chí phải phiền lòng, một mặt thì tôi rất cảm ơn lòng thân ái của đồng bào, đồng chí đối với tôi. Trong sự rủi lại có sự may. Nhân dịp ở ngoài mà tôi hiểu rõ tình hình thế giới và chính sách của các hữu bang, trước hết là Trung Quốc. Nay tôi mang về cho đồng bào, đồng chí một món quà cực kỳ quý báu, tức là lòng đồng tình sốt sắng của 450 triệu đồng bào Trung Quốc đối với 25 triệu đồng bào Việt Nam về cái tin Trung Quốc sẽ tích cực giúp đỡ cuộc dân tộc giải phóng của chúng ta….” (HCM toàn tập, t.3). Ngoài ra, ông Hồ còn vô số thư gởi đồng bào các giai tầng, các sắc tộc và các tôn giáo. Sau cuộc chia đôi đất nước, ông ta lại luôn nói về đồng bào miền Nam. Tác giả Phạm Thị Thắng, trong bài “Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà”, có kể câu chuyện như sau: “Năm 1962, đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, do giáo sư Nguyễn Văn Hiếu dẫn đầu đến thăm Bác. Hôm đó đoàn tặng Bác rất nhiều quà quý… Khi nhận quà, Bác rất xúc động, một đồng chí trong Ban bí thư Trung ương thưa với Bác: “Thưa Bác, Bác có quà gì tặng miền Nam không ạ?”. Tất cả mọi người hồi hộp chờ đợi xem Bác tặng quà gì cho miền Nam. Bác vẫn đứng im nhìn mọi người âu yếm, rồi Bác nói: “Bác chẳng có cái gì để tặng cho đồng bào miền Nam cả. Bác chỉ có cái này”. Bác đặt tay lên ngực của mình, nơi con tim đang đập và nói: “Quà Bác tặng cho đồng bào và chiến sĩ miền Nam đây! Hình ảnh miền Nam yêu quý luôn luôn trong trái tim tôi”. Ngỡ như lãnh tụ CS họ Hồ chỉ có hai tâm tình sâu đậm là tình đồng chí và tình đồng bào! Thế nhưng chính con người ấy lại đã ra tay tàn độc đối với các đồng chí thân thiết: nào thủ tiêu những người từng là cộng tác viên đắc lực hay từng vào sinh ra tử với mình như chiến hữu Lâm Đức Thụ, đại biểu Dương Bạch Mai, đại tướng Nguyễn Chí Thanh… nào tống vào tù đại công thần đã đem cả cuộc đời hi sinh chiến đấu dựng lên đảng và nhà nước cộng sản: người hùng Điện Biên Phủ tướng Đặng Kim Giang, nhà cách mạng tiền bối kiêm thư ký riêng Vũ Đình Huỳnh, viện trưởng viện triết học Mác-Lênin Hoàng Minh Chính... nào đày đọa cho đến chết những nhà trí thức uyên bác đã theo mình về nước làm cách mạng: tiến sĩ Trần Đức Thảo, luật sư Nguyễn Mạnh Tường... hay những văn nhân nghệ sĩ đã từng phục vụ chế độ và tô hồng xã hội cộng sản trong nhóm Nhân văn Giai phẩm. Chưa kể biết bao đồng chí và đồng đảng CS đã là nạn nhân của chính lãnh tụ tàn độc có một không hai này. Còn đối với đồng bào ruột thịt miền Bắc thì Hồ Chí Minh đã ra lệnh tàn sát trực tiếp và gián tiếp nửa triệu điền chủ và nông dân trong cuộc Cải cách Ruộng đất (trong đó có bà Cát Hanh Long là đại ân nhân của đảng), đối với đồng bào ruột thịt miền Nam thì hàng vạn vạn dân thường đã chết trong cái gọi là “cuộc chiến tranh giải phóng”, đặc biệt trong cuộc tổng công kích tết Mậu Thân mà chính Hồ Chí Minh phát động. Đang khi đó, bên các “nước anh em”, Lênin, Stalin và Mao Trạch Đông cũng mở những cuộc đại thanh trừng đối với các đồng chí thân thiết, đại tàn sát đối với các đồng bào thân yêu mà con số nạn nhân phải tính là hàng chục triệu (nói chung, các lãnh tụ CS đã đưa về chín suối 100 triệu đồng bào của mình). Chưa nói đến chuyện cùng chung lý tưởng Cộng sản, nhưng các đồng chí Đệ III Quốc tế đánh nhau chí tử với các đồng chí Đệ IV Quốc tế, các đồng chí Liên Xô đánh nhau chí tử với các đồng chí Trung Hoa, với các đồng chí Nam Tư; đến lượt các đồng chí Trung Hoa đánh nhau chí tử với các đồng chí Việt Nam, các đồng chí Việt Nam lại đánh nhau chí tử với các đồng chí Khmer đỏ…. Những kẻ kế tục Hồ Chí Minh cho đến hôm nay cũng không làm gì khác. Điển hình là Lê Đức Thọ và phe cánh đã thủ tiêu các đồng chí như đại tướng Lê Trọng Tấn năm 1986, đại tướng Hoàng Văn Thái cũng năm 1986, thượng tướng Đinh Đức Thiện (em ruột của Thọ) năm 1987, trung tướng Phan Bình cũng năm 1987… Mới đây là thượng tướng Phạm Quý Ngọ cũng bất ngờ qua đời, mà dư luận cho rằng đã bị các đồng chí thủ tiêu để bịt đầu mối, chỉ một ngày sau khi có quyết định sẽ điều tra và khởi tố việc Ngọ nhận 1.5 mỹ kim từ Dương Chí Dũng. Ngoài ra còn bao nhiêu cuộc thanh trừng nội bộ, thủ tiêu đồng chí chưa bị lộ trong đảng Cộng sản. Đó là chưa kể vô

Upload: others

Post on 27-Dec-2019

1 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

  Trong cuộc sống của loài người, có nhiều mối dây liên kết diễn tả qua chữ “đồng”, như đồng môn, đồng hương, đồng đạo, đồng nghiệp…, nhưng có lẽ hai mối dây liên kết được người Cộng sản đề cao nhiều nhất là đồng bào và đồng chí, không những tại Việt Nam mà ở toàn thể các nước phe xã hội chủ nghĩa. Ta hãy nghe lại một đoạn trong lá thư của ông Hồ Chí Minh viết vào tháng 10-1944: “Toàn quốc đồng bào! Toàn thể đồng chí! Tháng 8 năm 1942, tôi vâng lệnh Đoàn thể đi cầu ngoại viện. Chẳng may gặp sự hiểu lầm ở ngoài, làm cho đồng bào, đồng chí lo phiền cho tôi hơn một năm giời. Vậy, một mặt thì tôi phải thừa nhận vì tôi hành động không đủ khôn khéo để đồng bào, đồng chí phải phiền lòng, một mặt thì tôi rất cảm ơn lòng thân ái của đồng bào, đồng chí đối với tôi. Trong sự rủi lại có sự may. Nhân dịp ở ngoài mà tôi hiểu rõ tình hình thế giới và chính sách của các hữu bang, trước hết là Trung Quốc. Nay tôi mang về cho đồng bào, đồng chí một món quà cực kỳ quý báu, tức là lòng đồng tình sốt sắng của 450 triệu đồng bào Trung Quốc đối với 25 triệu đồng bào Việt Nam về cái tin Trung Quốc sẽ tích cực giúp đỡ cuộc dân tộc giải phóng của chúng ta….” (HCM toàn tập, t.3). Ngoài ra, ông Hồ còn vô số thư gởi đồng bào các giai tầng, các sắc tộc và các tôn giáo. Sau cuộc chia đôi đất nước, ông ta lại luôn nói về đồng bào miền Nam. Tác giả Phạm Thị Thắng, trong bài “Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà”, có kể câu chuyện như sau: “Năm 1962, đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, do giáo sư Nguyễn Văn Hiếu dẫn đầu đến thăm Bác. Hôm đó đoàn tặng Bác rất nhiều quà quý… Khi nhận quà, Bác rất xúc động, một đồng chí trong Ban bí thư Trung ương thưa với Bác: “Thưa Bác, Bác có quà gì tặng miền Nam không ạ?”. Tất cả mọi người hồi hộp chờ đợi xem Bác tặng quà gì cho miền Nam. Bác vẫn đứng im nhìn mọi người âu yếm, rồi Bác nói: “Bác chẳng có cái gì để tặng cho đồng bào miền Nam cả. Bác chỉ có cái này”. Bác đặt tay lên ngực của mình, nơi con tim đang đập và nói: “Quà Bác tặng cho đồng bào và chiến sĩ miền Nam đây! Hình ảnh miền Nam yêu quý luôn luôn trong trái tim tôi”. Ngỡ như lãnh tụ CS họ Hồ chỉ có hai tâm tình sâu đậm là tình đồng chí và tình đồng bào!

Thế nhưng chính con người ấy lại đã ra tay tàn độc đối với các đồng chí thân thiết: nào thủ tiêu những người từng là cộng tác viên đắc lực hay từng vào sinh ra tử với mình như chiến hữu Lâm Đức Thụ, đại biểu Dương Bạch Mai, đại tướng Nguyễn Chí Thanh… nào tống vào tù đại công thần đã đem cả cuộc đời hi sinh chiến đấu dựng lên đảng và nhà nước cộng sản: người hùng Điện Biên Phủ tướng Đặng Kim Giang, nhà cách mạng tiền bối kiêm thư ký riêng Vũ Đình Huỳnh, viện trưởng viện triết học Mác-Lênin Hoàng Minh Chính... nào đày đọa cho đến chết những nhà trí thức uyên bác đã theo mình về nước làm cách mạng: tiến sĩ Trần Đức Thảo, luật sư Nguyễn Mạnh Tường... hay những văn nhân nghệ sĩ đã từng phục vụ chế độ và tô hồng xã hội cộng sản trong nhóm Nhân văn Giai phẩm. Chưa kể biết bao đồng chí và đồng đảng CS đã là nạn nhân của chính lãnh tụ tàn độc có một không hai này. Còn đối với đồng bào ruột thịt miền Bắc thì Hồ Chí Minh đã ra lệnh tàn sát trực tiếp và gián tiếp nửa triệu điền chủ và nông dân trong cuộc Cải cách Ruộng đất (trong đó có bà Cát Hanh Long là đại ân nhân của đảng), đối với đồng bào ruột thịt miền Nam thì hàng vạn vạn dân thường đã chết trong cái gọi là “cuộc chiến tranh giải phóng”, đặc biệt trong cuộc tổng công kích tết Mậu Thân mà chính Hồ Chí Minh phát động. Đang khi đó, bên các “nước anh em”, Lênin, Stalin và Mao Trạch Đông cũng mở những cuộc đại thanh trừng đối với các đồng chí thân thiết, đại tàn sát đối với các đồng bào thân yêu mà con số nạn nhân phải tính là hàng chục triệu (nói chung, các lãnh tụ CS đã đưa về chín suối 100 triệu đồng bào của mình). Chưa nói đến chuyện cùng chung lý tưởng Cộng sản, nhưng các đồng chí Đệ III Quốc tế đánh nhau chí tử với các đồng chí Đệ IV Quốc tế, các đồng chí Liên Xô đánh nhau chí tử với các đồng chí Trung Hoa, với các đồng chí Nam Tư; đến lượt các đồng chí Trung Hoa đánh nhau chí tử với các đồng chí Việt Nam, các đồng chí Việt Nam lại đánh nhau chí tử với các đồng chí Khmer đỏ….

Những kẻ kế tục Hồ Chí Minh cho đến hôm nay cũng không làm gì khác. Điển hình là Lê Đức Thọ và phe cánh đã thủ tiêu các đồng chí như đại tướng Lê Trọng Tấn năm 1986, đại tướng Hoàng Văn Thái cũng năm 1986, thượng tướng Đinh Đức Thiện (em ruột của Thọ) năm 1987, trung tướng Phan Bình cũng năm 1987… Mới đây là thượng tướng Phạm Quý Ngọ cũng bất ngờ qua đời, mà dư luận cho rằng đã bị các đồng chí thủ tiêu để bịt đầu mối, chỉ một ngày sau khi có quyết định sẽ điều tra và khởi tố việc Ngọ nhận 1.5 mỹ kim từ Dương Chí Dũng. Ngoài ra còn bao nhiêu cuộc thanh trừng nội bộ, thủ tiêu đồng chí chưa bị lộ trong đảng Cộng sản. Đó là chưa kể vô vàn đồng chí chết trong trận chiến Biên giới 1979, trận chiến Gạc Ma 1988 mà đã bị chôn vùi ký ức, bị đục bia tưởng niệm, bị cấm cản truy điệu…

Còn cái gọi là “cuộc chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam” thực chất chỉ là cuộc tàn sát đồng bào (theo kế hoạch của Mao: đánh Mỹ cho tới người Việt cuối cùng để mở rộng đế quốc Tàu đỏ), khiến gần 4 triệu dân Việt ở cả hai miền phải tan thây. Rồi cái gọi là cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa (mà theo Nguyễn Phú Trọng thì tới cuối thế kỷ này chưa chắc đã thành công) thực chất chỉ là cuộc hăm dọa đồng bào tận mức, bóc lột đồng bào tận xương và đàn áp đồng bào tận lực.

Hăm dọa đồng bào miền Nam tận mức qua chính sách kỳ thị ngụy quân ngụy quyền, chủ trương cải tạo tư sản, chương trình di dân kinh tế, kế hoạch chỉnh trang đô thị, khiến hàng triệu người phải điêu đứng cuộc sống vốn an lành, phải liều mạng vượt biên vượt biển ra hải ngoại.

Bóc lột tận xương hàng triệu đồng bào công nhân trong các công ty xí nghiệp quốc doanh lẫn tư doanh, qua bàn tay của các chủ nhân nội quốc lẫn ngoại quốc được đảng o bế, của các công đoàn lao động được đảng điều khiển. Bóc lột hàng vạn đồng bào xuất khẩu lao động ra nước ngoài qua việc tước đoạt gia sản của họ để làm tiền ký quỹ, qua việc bỏ mặc thân phận của họ cho các đại gia cá mập nước ngoài. Bóc lột hàng triệu đồng bào nông dân qua điều khoản Hiến pháp chết tiệt và điều luật Đất đai trời đánh: “Đất đai thuộc về toàn dân do Nhà nước đại diện sở hữu”, qua những cuộc cấu kết giữa bộ máy nhà nước và tập đoàn kinh doanh (VN hoặc ngoại quốc) để đẩy các thường dân vô tội đến cảnh khốn cùng, xuống hố tuyệt vọng. Ta hãy nghe Nhóm phóng viên RFA tường trình trong bài “Đất Quảng Trị tràn ngập người Trung Quốc” ngày 03-03-2014: “Thời gian gần đây, hầu như mọi mảnh vườn ở làng Hà Tây, xã Triệu An, huyện Triệu Phong đều lâm vào nạn xâm lăng một cách trắng trợn của người Tàu và nhà cầm quyền địa phương. Nghĩa là khi người Tàu đến đây, việc đầu tiên họ làm là tìm đến các cơ quan, các quan chức để bằng mọi giá liên kết, đút lót và mua chuộc bằng được các quan chức này. Để rồi sau đó là những hành động xâm lăng…. Thay vì thỏa thuận với nhân dân để mua đất, người Tàu lại mua chuộc và biến quan chức địa phương thành tay sai của họ, các quan chức địa phương nghiễm nhiên trở thành con rối trong cuộn dây giật của người Tàu. Thay vì bảo vệ cuộc sống đồng bào và bảo vệ quyền lợi quốc gia, các quan chức địa phương lại bằng mọi giá bảo vệ người Tàu, xem họ như những quan thầy. Và bất chấp nỗi tủi nhục, đau khổ của nhân dân, họ hết dùng thủ đoạn này chuyển sang thủ đoạn khác để biến đất canh tác, đất vườn của nhân dân thành công trình của người Tàu”.

Page 2: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Số 191 Trang

vọng. Ta hãy nghe Nhóm phóng viên RFA tường trình trong bài “Đất Quảng Trị tràn ngập người Trung Quốc” ngày 03-03-2014: “Thời gian gần đây, hầu như mọi mảnh vườn ở làng Hà Tây, xã Triệu An, huyện Triệu Phong đều lâm vào nạn xâm lăng một cách trắng trợn của người Tàu và nhà cầm quyền địa phương. Nghĩa là khi người Tàu đến đây, việc đầu tiên họ làm là tìm đến các cơ quan, các quan chức để bằng mọi giá liên kết, đút lót và mua chuộc bằng được các quan chức này. Để rồi sau đó là những hành động xâm lăng…. Thay vì thỏa thuận với nhân dân để mua đất, người Tàu lại mua chuộc và biến quan chức địa phương thành tay sai của họ, các quan chức địa phương nghiễm nhiên trở thành con rối trong cuộn dây giật của người Tàu. Thay vì bảo vệ cuộc sống đồng bào và bảo vệ quyền lợi quốc gia, quan chức địa phương lại bằng mọi giá bảo vệ người Tàu, xem họ như những quan thầy. Và bất chấp nỗi tủi nhục, đau khổ của nhân dân, họ dùng thủ đoạn này đến thủ đoạn khác để biến đất canh tác, đất vườn của nhân dân thành công trình của người Tàu”.

Đàn áp tận lực toàn thể đồng bào qua nền pháp chế hà khắc, bóp nghẹt mọi quyền tự do; qua những chủ trương chính sách vừa duy ý chí, vừa thậm ngu dốt, vừa vô hiệu quả; qua hệ thống cai trị vừa gian manh, vừa tham nhũng, vừa tàn bạo; qua bộ máy công an (và trợ thủ như dân phòng, côn đồ, đoàn thanh niên CS…) chỉ biết vâng lời mù quáng, hành hung tàn nhẫn, cướp đoạt thẳng tay. Sự mù quáng này sẽ càng gia tăng qua chế độ chính ủy cho ngành công an vừa được thành lập, sự tàn nhẫn này sẽ thêm tầm mức nhờ pháp lệnh mới ban hành cho phép bắn bỏ kẻ bị gọi là chống nhân viên công lực. Đàn áp tận lực toàn thể đồng bào qua hệ thống tư pháp gồm những điều tra viên, công tố viên và quan tòa chỉ biết cúi đầu tuân lệnh cấp trên từ trung ương hay địa phương, đặc biệt trong các vụ án chính trị xét xử các công dân yêu nước, hoặc chỉ biết nhắm mắt vâng lệnh đồng tiền đút lót trong nhiều vụ án kinh tế, hình sự… Rồi còn đàn áp đồng bào qua chủ trương trấn dẹp mọi cuộc biểu tình, xuống đường đòi công lý quyền lợi, đòi tự do dân chủ, đòi tưởng niệm tử sĩ, đòi chống lại ngoại xâm, bằng những cách thức hoặc tàn nhẫn hoặc thâm độc, đê tiện hoặc lố lăng…

Thật ra, đối với người Cộng sản, chỉ có một dây liên kết quan trọng, đó là đồng lõa. Nghĩa là cùng chung tay làm chuyện bất lương, chung sức thực hiện tội ác, thường là đối với đồng bào bị trị của mình. Và bao lâu còn chia sẻ quyền lực lẫn chia chác quyền lợi với nhau, còn bao che cho nhau sai lầm lẫn tội lỗi (trước quốc dân lẫn quốc tế), thì còn song hành sánh bước, thì còn đồng chí đồng rận, thì còn tình quốc tế vô sản. Bằng chứng là lãnh tụ các nước cộng sản chỉ kết thân với nhau hay với lãnh tụ các nước độc tài, ôm hôn nhau thắm thiết khi gặp gỡ, bênh vực và bốc thơm nhau tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc, viện trợ cho nhau tài lực vật lực bóc lột từ đồng bào của mình, đàn áp chính quốc dân đang tố cáo hay phản đối mưu đồ xâm lược của “nước lớn đại huynh”… để giúp nhau củng cố ngai quyền lực, ghế thống trị. Còn nếu tranh chấp quyền lợi, rắp tâm tố cáo lẫn nhau, hoặc tiểu đồng chí hết chịu nổi đại đồng chí thì thanh toán, thủ tiêu trong nội đảng, giữa hai đảng (như bao thí dụ trưng dẫn trên kia) hay rộng hơn thì gây chiến giữa hai quốc gia, hai dân tộc mà có thể đã từng thề thốt với nhau là “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, từng đề cao với nhau chuyện “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, từng xưng tụng với nhau đặc tính “sơn thủy tương liên, văn hoá tương thông, lý tưởng tương đồng, vận mệnh tương quan”.

Bất biết nghĩa đồng bào, tình đồng chí, một chỉ quan tâm đến mối đồng lõa, đó là bản chất của những con người cai trị, của những chính đảng lãnh đạo đặt quyền lợi của mình lên trên quyền lợi dân tộc, và dùng quyền lực của mình không phải để phục vụ mà là để bóc lột quốc gia đất nước. Và lịch sử nhân loại đã cho thấy Cộng sản chính là mẫu hình đặc trưng, tiêu biểu cho thực thể này. BAN BIÊN TẬP

Trg 01Không có đồng bào, không có có đồng chí, chỉ có đồng lõa !!!

Trg 03Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 08-04-2006.-Khối Tự do Dân chủ 8406.

Trg 05Tuyên bố vận động thành lập Văn Đoàn Độc Lập Việt Nam. -62 nhà thơ, nhà văn, dịch giả…

Trg 06Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo phẫn nộ với cách hành xử của…-Thanh Quang, RFA.

Trg 07Thông cáo về việc tự do tôn giáo trong nhà tù.-Chu Mạnh Sơn.

Trg 08Không có con đường dễ đến dân chủ.

-Martin Wolf. Trg 10Thuyết trình về nhân quyền

VN tại Hội nghị Thượng đỉnh...-Đặng Xương Hùng.

Trg 12“Gián điệp Dân chủ“-Trịnh Hữu Long.

Trg 14Trung Quốc đang có âm mưu gì ở Hà Tĩnh và Quảng Trị?.-Nguyễn Hữu Quý.

Trg 16Đất Quảng Trị tràn ngập người Trung Quốc. -Nguyễn Xuân Nghĩa.Trg 17Tổ quốc ở Trường Sa (thơ). -Nguyễn Việt Chiến.Trg 18Vạch trần trò lừa đảo mang

tên „Gói 30.000 tỷ hỗ trợ thị...“ -Phan Châu Thành.

Trg 21Bụt ăn ba, ma ăn bảy!-Minh Diện.

Trg 22Khủng hoảng tại Ukraine. -Nguyễn Xuân Nghĩa.Trg 25Trông người lại nghĩ đến ta.

-Song Chi.Trg 27Chuyện kể năm 2000: Cuốn

tiểu thuyết về thân phận con...-Phạm Đình Trọng.

Trg 28Ba quả lừa đầu năm. -Bùi Tín.

Trg 29CSVN ngu xuẩn trong điều thiện nhưng khôn lanh trong...-Nguyễn Chính Kết.

Trg 30Ý chí quyết tử của những người giữ đất.

-Phạm Chí Dũng.Trg 31Các thông báo của Ban Vận

động thànhlập Hiệphội Dân oan TƯỞNG NIỆM CÁC ANH

HÙNG TỬ SĨ ĐẢO GẠC MA 14-03-1088

Vừa là thùng rác vừa là anh em (Babui - DCVonline.net)

GIẢI NHÂN QUYỀN VIỆT NAM 2008

GIẢI TRUYỀN THÔNG LIÊN MẠNG 2011TRONG SỐ NÀY

2

Page 3: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Việt Nam, 8-4-2006Kính gửi Đồng bào Việt Nam ở

trong và ngoài Nước,Chúng tôi, ký tên dưới đây, đại

diện cho hàng trăm nhà đấu tranh Dân chủ ở quốc nội và tất cả mọi người Dân nào đang khao khát một nền Dân chủ chân chính cho Quê hương Việt Nam hôm nay, đồng thanh lên tiếng :

I. Thực trạng của Việt Nam1- Trong cuộc Cách mạng tháng

8-1945, sự lựa chọn của toàn Dân tộc ta là Độc lập Dân tộc, chứ không phải là chủ nghĩa xã hội. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 2-9-1945 chẳng nhắc đến một từ nào về chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản cả. Hai nguyên nhân chính làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng ấy là Khát vọng Độc lập Dân tộc và Khoảng trống quyền lực lúc bấy giờ ở Việt Nam (thực dân Pháp đã bị quân Nhật đảo chính cướp quyền từ ngày 9-3-1945 và quân Nhật đã đầu hàng phe Đồng minh ngày 15-8-1945).

Rõ ràng mục tiêu của cuộc cách mạng ấy đã bị đảng Cộng sản Việt Nam đánh tráo. Và dĩ nhiên, Quyền Dân tộc tự quyết cũng hoàn toàn bị thủ tiêu. Đã có ít nhất 2 cơ hội lịch sử rất thuận lợi là năm 1954 ở miền Bắc và năm 1975 trên cả nước, để Dân tộc khẳng định Quyền tự quyết của mình. Nhưng tất cả đều đã bị đảng Cộng sản Việt Nam tráo trở không thực hiện. Vì một khi nền chuyên chính vô sản đã được thiết lập, thì theo Lênin, chức năng đầu tiên của nó chính là : bạo lực và khủng bố trấn áp !

2- Tiếp đến, ngày 2-9-1945 tại Hà Nội, ông Hồ Chí Minh, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã trịnh trọng tuyên bố với Dân tộc và với Thế giới rằng : “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo Hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được ; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời nói bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập nǎm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là : mọi Dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp nǎm 1791 cũng nói : “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi ; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được…”. (trích Tuyên Ngôn Độc Lập 2-9-1945).

Thế nhưng, tất cả những quyền thiêng liêng ấy của dân tộc đều bị chà đạp thô bạo ngay sau đó, khi mà chính quyền cộng sản được dựng lên.

3- Đến tháng 2-1951 Tuyên ngôn của đảng Lao động Việt Nam (nay là đảng Cộng sản Việt Nam) kỳ đại hội lần thứ 2, đã viết: “Chủ nghĩa của Đảng là chủ nghĩa Mác–Lênin”. Và trong Điều Lệ, phần Mục Đích và Tôn Chỉ còn khẳng định rõ ràng hơn : “Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Ǎngghen - Lênin - Xtalin và tư tưởng Mao Trạch Đông, kết hợp

với thực tiễn cách mạng Việt Nam làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng…”.

Kể từ đó, nhất là ở miền Bắc sau năm 1954, rồi cả nước sau ngày 30-4-1975 thì bóng ma của chủ nghĩa cộng sản đã luôn đè ám lên đầu, lên cổ toàn Dân Việt Nam. Chính cái bóng ma ấy chứ không phải là cái gì khác đã triệt tiêu hầu hết những quyền con người của Nhân dân Việt Nam. Và hôm nay, nó vẫn đang tạm đô hộ, chiếm đóng lên cả 2 mặt tinh thần và thể chất của toàn Dân tộc Việt Nam.

II. Qui luật phổ biến toàn cầu1- Lịch sử đã minh định rằng

mọi quyền tự do, dân chủ ở bất cứ một chế độ độc đảng toàn trị nào, dù cộng sản hay không cộng sản, cũng đều bị chà đạp không thương tiếc, chỉ khác nhau ở mức độ mà thôi. Bất hạnh thay là cho đến nay, Dân tộc Việt Nam vẫn thuộc về một trong số ít các Quốc gia trên thế giới còn bị cai trị bởi chế độ độc đảng toàn trị cộng sản. Điều này thể hiện cụ thể tại Điều 4 của Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện hành, rằng : “Đảng cộng sản Việt Nam... theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.” Chính vì điều này mà các quyền tự do, dân chủ của Nhân dân đã hoàn toàn bị triệt tiêu, may ra chỉ còn vài mẩu vụn mà thôi !

2- Chính hệ thống quyền lực không hề chấp nhận cạnh tranh và không hề chấp nhận bị thay thế

Số 191 Trang 3

Page 4: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

này đã thúc đẩy mạnh mẽ đà thoái hoá, biến chất của toàn bộ hệ thống ấy. Vì chẳng có qui luật và nguyên tắc cạnh tranh công bằng nào trên chính trường, nên sau những kỳ bầu cử thì toàn Dân không thể chọn được những con người và những lực lượng chính trị xứng đáng nhất. Bộ máy lãnh đạo, quản lý và điều hành do vậy ngày càng hư hỏng, rệu rã từ trung ương xuống cơ sở địa phương. Hậu quả là Việt Nam hôm nay trở thành Quốc gia bị tụt hậu quá xa so với các Nước trong khu vực và thế giới. Quốc nhục này và các quốc nạn khác khó bề tẩy xóa. Vấn đề của mọi vấn đề, nguyên nhân của mọi nguyên nhân chính vì đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo Đất nước ! Thực tiễn đã xác minh rằng bất kỳ Nước nào đã bị rơi vào quỹ đạo của chủ nghĩa cộng sản thì đều điêu tàn thê thảm cả. Liên Xô, cái nôi cộng sản, cùng với các Nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu khác, đã dũng cảm vượt qua chính mình để quay lại tìm đường đi đúng cho Dân tộc họ.

3- Chúng ta đều hiểu rằng : không ai có thể sửa được lịch sử, nhưng có thể bẻ chiều lịch sử. Và điều quan trọng hơn là qua những bài học của lịch sử, định hướng tốt cho tương lai. Con đường hôm qua của Dân tộc ta đã bị những người Cộng sản Việt Nam chọn một cách vội vàng, thiếu chín chắn và áp đặt cho cả Dân tộc một cách khiên cưỡng. Con đường ấy thực tế đã chứng minh là hoàn toàn sai lạc. Vì vậy Dân tộc ta hôm nay phải chọn lại con đường cho mình. Và chắc chắn cả Dân tộc cùng chọn sẽ tốt hơn một người hay một nhóm người nào đó. Đảng cộng sản Việt Nam cũng chỉ là một bộ phận của Dân tộc, nên không thể mạo danh Dân tộc để chọn thay ! Trước Dân tộc và lịch sử suốt hơn nửa thế kỷ qua (1954–2006), Đảng cầm quyền ấy đã tiếm danh chứ không chính danh chút nào! Bởi lẽ các cuộc bầu cử thực sự tự do hoàn toàn vắng bóng ở Việt Nam.

Từ thực trạng và qui luật trên

đây, với ý thức trách nhiệm của Công dân trước vận mệnh Đất nước, chúng tôi xin được phép giãi bày cùng toàn thể Đồng bào Việt Nam trong và ngoài Nước :

III. Mục tiêu, phương pháp và ý nghĩa cuộc đấu tranh

1- Mục tiêu cao nhất trong cuộc đấu tranh giành tự do, dân chủ cho Dân tộc hôm nay là làm cho thể chế chính trị ở Việt Nam hiện nay phải bị thay thế triệt để, chứ không phải được “đổi mới” từng phần hay điều chỉnh vặt vãnh như đang xảy ra. Cụ thể là phải chuyển từ thể chế chính trị nhất nguyên, độc đảng, không có cạnh tranh trên chính trường hiện nay, sang thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng, có cạnh tranh lành mạnh, phù hợp với những đòi hỏi chính đáng của Đất nước, trong đó hệ thống tam quyền Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp phải được phân lập rõ ràng, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và trải nghiệm của Nhân loại qua những nền dân chủ đắt giá và đầy thành tựu.

Mục tiêu cụ thể là thiết lập lại các quyền cơ bản của toàn Dân sau đây :

- Quyền Tự do Thông tin Ngôn luận theo Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị của Liên Hiệp Quốc được biểu quyết ngày 16.12.1966, Việt Nam xin tham gia ngày 24-9-1982, điều 19,2 : “Mọi người có quyền tự do ngôn luận, quyền nầy bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức truyền miệng, bằng bản viết, bản in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua bất cứ phương tiện truyền thông đại chúng khác tuỳ theo sự lựa chọn của mình”. Nghĩa là các đảng phái, tổ chức, cá nhân có quyền thông tin ngôn luận qua báo chí, phát thanh, truyền hình và các phương tiện truyền thông đại chúng khác mà không cần đợi phép của nhà cầm quyền.

- Quyền Tự do hội họp, lập hội, lập đảng, bầu cử và ứng cử theo Công ước Quốc tế về các

Quyền Dân sự và Chính trị, điều 21 : “Mọi Công dân… đều có quyền và cơ hội để (a) tham gia vào việc điều hành các công việc xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua những đại diện được họ tự do lựa chọn”; (b) bầu cử và ứng cử trong các cuộc bầu cử định kỳ chân thực, bằng phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín nhằm đảm bảo cho cử tri tự do bày tỏ ý nguyện của mình”. Nghĩa là các đảng phái thuộc mọi khuynh hướng cùng nhau cạnh tranh lành mạnh trong một nền dân chủ đa nguyên, đa đảng chân chính.

- Quyền Tự do hoạt động Công đoàn độc lập và Quyền Đình công chính đáng theo Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, được Liên Hiệp Quốc biểu quyết ngày 16-12-1966, điều 7 và 8 : “Các Quốc gia thành viên của Công ước công nhận quyền của mọi người được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi…, quyền của mọi người được thành lập và gia nhập Công đoàn mà mình lựa chọn, chỉ phải tuân theo quy chế của Tổ chức đó để thúc đẩy và bảo vệ các lợi ích kinh tế và xã hội của mình… (với) quyền đình công…”. Các công đoàn này phải là những tổ chức duy nhất hoạt động độc lập, không có những loại Công đoàn tay sai của nhà cầm quyền.

- Quyền Tự do Tôn giáo theo Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, điều 18 : “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền tự do này bao gồm tự do có hoặc theo một Tôn giáo hoặc Tín ngưỡng do mình lựa chọn, tự do bày tỏ Tín ngưỡng hoặc Tôn giáo một mình hoặc trong tập thể với nhiều người khác, một cách công khai hoặc thầm kín dưới hình thức thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền đạo”. Các Tôn giáo này phải hoạt động độc lập, chứ không thể bị biến thành công cụ cho nhà cầm quyền.

2- Phương pháp của cuộc đấu tranh này là hòa bình, bất bạo

Số 191 Trang 4

Page 5: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

động. Và chính Dân tộc Việt Nam chủ động thực hiện cuộc đấu tranh này. Tuy nhiên, chúng ta rất cảm ơn sự ủng hộ nhiệt tình và ngày càng hiệu quả của tất cả những bạn bè trên thế giới. Thông qua những phương tiện thông tin hiện đại và qua sự giao lưu quốc tế ngày càng rộng mở, chúng ta sẽ tìm mọi cách giúp Đồng bào kiện toàn nhận thức. Và một khi Nhân dân đã có nhận thức đúng và rõ thì nhất định sẽ biết hành động thích hợp và hiệu quả.

3- Ý nghĩa của cuộc đấu tranh này là làm cho chính nghĩa thắng phi nghĩa, tiến bộ thắng lạc hậu, các lực lượng dân tộc đang vận dụng đúng quy luật của cuộc sống và xu thế của thời đại thắng những tà lực đang tìm cách đi ngược lại những xu thế và quy luật ấy. Đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn đồng hành cùng Dân tộc hay không là tùy ở mức độ đảng ấy có khách quan, công bằng, sáng suốt và khiêm tốn chấp nhận các nguyên tắc bình đẳng của cuộc cạnh tranh lành mạnh hay không, chỉ có thể chế chính trị độc đảng ấy là dứt khoát phải bị chốn táng vĩnh viễn vào quá khứ. Từ đó, Dân tộc sẽ tìm được những con người tốt nhất, những lực lượng chính trị giỏi nhất sau mỗi kỳ bầu cử để lãnh đạo Đất nước. Nguyên tắc “lẽ phải toàn thắng” sẽ được thiết lập và cuộc sống cá nhân sẽ trở nên tốt hơn, xã hội sẽ trở nên nhân bản hơn và Đồng bào sẽ sống với nhau thân thiện hơn.

Chúng tôi mong ước Tuyên ngôn này thúc đẩy được sự đóng góp tích cực của Đồng bào trong ngoài Nước và sự ủng hộ của Bạn bè Quốc tế. Chúng tôi chân thành cảm ơn và kêu gọi các Cơ quan Liên Hiệp Quốc, các Quốc hội, Chính phủ, Tổ chức Quốc tế và Bạn bè trên toàn thế giới tiếp tục ủng hộ cách nhiệt tình và hiệu quả cho cuộc đấu tranh đầy chính nghĩa này, góp phần đưa Tổ quốc Việt Nam sớm sánh vai cùng các Nước văn minh, đạo đức, thịnh vượng, tự do trong cộng đồng Nhân loại hôm nay.

Đồng tuyên bố tại Việt Nam

ngày 08 tháng 4 năm 2006

Sau năm 1975, kết thúc một thời kỳ lịch sử kéo dài hơn trăm năm, đất nước cần một cuộc phục hưng dân tộc căn bản, mà nền tảng là phục hưng văn hóa. Tiếc thay công cuộc cần thiết và nghiêm trang ấy đã không diễn ra như mong đợi. Trái lại văn hóa Việt Nam ngày càng suy thoái nghiêm trọng, lộ rõ nguy cơ đánh mất những giá trị nhân bản căn cốt nhất, uy hiếp đến cả sự tồn vong của dân tộc.

Những người viết văn tiếng Việt không thể nói rằng mình hoàn toàn không có phần trách nhiệm về thực trạng đó. Một trong những chức năng quan trọng nhất của văn học là thức tỉnh lương tri và bồi đắp đạo đức xã hội. Trong bước ngoặt lớn này của lịch sử, văn học VN đã không làm đúng được vai trò của mình.

Văn chương Việt Nam yếu kém có nguyên nhân chủ quan trước tiên thuộc chính người cầm bút là sự thờ ơ đối với trách nhiệm xã hội, vô cảm trước thời cuộc, quan trọng hơn nữa là thiếu độc lập tư duy, từ đó mà tự hạn chế năng lực sáng tạo.Về mặt khách quan, một xã hội như chúng ta đang có, trong đó các quyền tự do cơ bản của con người thực tế bị vi phạm trầm trọng, đương nhiên đè nặng lên tâm lý sáng tạo của người cầm bút, làm mờ nhạt và tắt lụi các tài năng. Quyền tự do sáng tác và tự do công bố tác phẩm đang là đòi hỏi sống còn của từng nhà văn và của cả nền văn học. Không có những quyền tự do tối

thiểu đó thì không thể có một nền văn học đàng hoàng.

Một thể chế tổ chức đời sống văn học nặng tính quan liêu và bao cấp càng làm nặng nề thêm tình

hình, đồng thời lại không tạo được mối liên kết lành mạnh giữa những người viết để nâng đỡ và thúc đẩy nhau trong công việc, hỗ trợ nhau trong khó khăn.

Trước tình cảnh kéo dài và nay đã trở nên cấp bách đó, chúng tôi, những người cầm bút ký tên dưới đây, quyết định vận động thành lập một tổ chức độc lập của các nhà văn viết bằng tiếng Việt ở trong nước và ngoài nước, lấy tên là Văn đoàn độc lập Việt Nam, với mong muốn góp phần tích cực xây dựng và phát triển một nền văn học Việt Nam đích thực, nhân bản, dân chủ, hiện đại, hội nhập với thế giới, có thể đóng vai trò tiền phong đúng như nó phải có trong sự nghiệp phục hưng văn hóa, phục hưng dân tộc mà lịch sử đang đòi hỏi.

Hoạt động của Văn đoàn độc lập Việt Nam nhằm vào những nhiệm vụ cụ thể sau đây:

- Đoàn kết tương trợ giữa những người viết văn tiếng Việt trong và ngoài nước;

- Tạo điều kiện nâng cao về nghề nghiệp, thúc đẩy sáng tạo cá nhân, khuyến khích đổi mới trong sáng tác và nghiên cứu phê bình văn học và ngôn ngữ;

- Bảo vệ mọi quyền lợi vật chất và tinh thần chính đáng, hợp pháp của hội viên, đặc biệt là quyền tự do sáng tác và công bố tác phẩm, cũng như quyền tự do tiếp cận tác phẩm văn học của mọi người.

Văn đoàn độc lập Việt Nam là một tổ chức của xã hội dân sự, ái hữu nghề nghiệp, hoàn toàn độc lập đối với mọi hệ thống tổ chức và thiết chế trong và ngoài nước.

Điều lệ và Chương trình hành động cụ thể của Văn đoàn sẽ được

Số 191 Trang 5

Page 6: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

hình thành và công bố trong quá trình vận động. Mọi liên lạc xin gửi về email [email protected]  Hà Nội ngày 3-3-2014  TM Ban vận động

Nguyên Ngọc  Ban vận động thành lập VĐĐL VN: 1- Nguyên Ngọc, nhà văn (trưởng ban). 2- Bùi Chát, nhà thơ. 3- Bùi Minh Quốc, nhà thơ. 4- Bùi Ngọc Tấn, nhà văn. 5- Chân Phương, nhà thơ, dịch giả (Hoa Kỳ). 6- Châu Diên, nhà văn, dịch giả. 7- Dạ Ngân, nhà văn. 8- Dư Thị Hoàn, nhà thơ. 9- Dương Thuấn, nhà thơ. 10- Dương Tường, nhà thơ, dịch giả. 11- Đặng Tiến, nhà nghiên cứu phê bình (Pháp). 12- Đặng Văn Sinh, nhà văn. 13- Đoàn Lê, nhà văn. 14- Đoàn Thị Tảo, nhà thơ. 15- Đỗ Lai Thúy, nhà nghiên cứu phê bình văn học. 16- Đỗ Trung Quân, nhà thơ. 17- Giáng Vân, nhà thơ. 18- Hà Sĩ Phu, nhà văn. 19- Hiền Phương, nhà văn. 20- Hoàng Dũng, nhà nghiên cứu ngôn ngữ. 21- Hoàng Hưng, nhà thơ, dịch giả. 22- Hoàng Minh Tường, nhà văn. 23- Lê Hoài Nguyên, nhà thơ. 24- Lê Minh Hà, nhà văn (CHLB Đức). 25- Lê Phú Khải, nhà văn. 26- Lưu Trọng Văn, nhà văn. 27- Mai Sơn, nhà văn, dịch giả. 28- Mai Thái Lĩnh, nhà nghiên cứu triết học, văn hóa. 29- Nam Dao, nhà văn (Canada). 30- Ngô Thị Kim Cúc, nhà văn. 31- Nguyễn Bá Chung, nhà thơ (Hoa Kỳ). 32- Nguyễn Duy, nhà thơ. 33- Nguyễn Đức Dương, nhà nghiên cứu ngôn ngữ. 34- Nguyễn Đức Tùng, nhà thơ, nhà phê bình văn học (Canada). 35- Nguyễn Huệ Chi, nhà nghiên cứu văn học. 36- Nguyễn Quang Lập, nhà văn. 37- Nguyễn Quang Thân, nhà văn. 38- Nguyễn Quốc Thái, nhà thơ. 39- Nguyễn Thị Hoàng Bắc, nhà thơ (Hoa Kỳ). 40- Nguyễn Thị Thanh Bình, nhà văn (Hoa Kỳ). 42- Phạm Đình Trọng, nhà văn. 43- Phạm Nguyên Trường, dịch giả. 44- Phạm Vĩnh Cư, nhà nghiên cứu văn học, dịch giả. 45- Phạm Xuân Nguyên, nhà phê bình văn học, dịch giả. 46- Phan Đắc Lữ, nhà thơ. 47- Phan Tấn Hải, nhà văn

(Hoa Kỳ). 48- Quốc Trọng, tác giả kịch bản điện ảnh. 49- Thùy Linh, nhà văn. 50- Tiêu Dao Bảo Cự, nhà văn. 51- Trang Hạ, nhà văn, dịch giả. 52- Trần Đồng Minh, nhà nghiên cứu văn học. 53- Trần Huy Quang, nhà văn. 54- Trần Kỳ Trung, nhà văn. 55- Trần Thùy Mai, nhà văn. 56- Trịnh Hoài Giang, nhà thơ. 57- Trương Anh Thụy, nhà văn (Hoa Kỳ). 58- Võ Thị Hảo, nhà văn. 59- Vũ Biện Điền, nhà văn (Nhật Bản). 60- Vũ Thế Khôi, nhà nghiên cứu văn học, dịch giả. 61- Vũ Thư Hiên – nhà văn (Pháp). 62- Ý Nhi,

nhà thơ. Tình trạng công an trong nước

tiếp tục đàn áp người bất đồng chính kiến cùng tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo diễn ra ở huyện Lấp Vò, Đồng Tháp vừa rồi khiến nhiều cư sĩ PGHH chân chính tại Miền Tây vốn đã phẫn nộ giờ càng phẫn nộ.

Cách nay hơn 3 tuần kể từ khi công an huyện Lấp Vò, Đồng Tháp đánh đập dã man nhóm đạo hữu và thân hữu của PGHH lúc đó đang hướng về ấp Hưng Nhơn, xã Long Hưng, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp để thăm gia đình bên vợ tù nhân chính trị Nguyễn Bắc Truyển sau khi LS Bắc Truyển lâm nạn, thì hiện công luận ngày càng lo ngại cho số phận của 3 người trong nhóm này gồm nhà hoạt động Bùi Thị Minh Hằng, cư sĩ Nguyễn Văn Minh và blogger Thúy Quỳnh tiếp tục bị giam giữ và tuyệt thực phản đối. Từ Chợ Mới, An Giang, cư sĩ Võ Văn Bửu cho biết: Đi trong chuyến hôm rồi có tôi. Phải nói là công an thật là dã man, khủng bố quá mạnh tay đối với chúng tôi. Khi chúng tôi đi còn khỏang 4-5 cây số nữa tới nhà vợ anh Nguyễn Bắc Truyển thì họ chận dọc đường họ đánh, dùng cây họ đánh; rồi họ lục túi lấy tiền, lấy điện thọai và bắt chúng tôi đem về đồn công an. Đánh xong họ bắt mà còn vu oan cho chúng tôi gây trật tự công cộng. Thực ra vấn đề gây rối trật tự công

cộng là do chính họ. Chúng tôi đang chạy xe trên đường đâu có mắc mớ gì tới họ đâu?

Cư sĩ Võ Văn Bửu nhân tiện lưu ý rằng công an không phải chỉ đánh đập LS Nguyễn Bắc Truyển khi họ vô bắt anh ở nhà vợ là chị Bùi Thị Kim Phượng, mà cả chân dung Đức Thầy, tức Đức Hùynh Giáo Chủ, thờ ở trên, họ lấy liệng xuống nền nhà khiến tín đồ PGHH chân tu vốn phẫn nộ lâu nay, giờ càng thêm phẫn nộ. Cư sĩ Võ Văn Diêm, bào đệ của tu sĩ Võ Văn Thanh Liêm trụ trì Quang Minh Tự ở xã Long Điền

A, quận Chợ Mới, tỉnh An Giang, bày tỏ phẫn nộ:

Tôi nhận xét trên thế gian này, người ta thường nói đến loài quỷ dữ. Nhưng quỷ cũng chưa phải tàn nhẫn như vậy. Cái này là do nơi đảng độc tài, độc quyền, bá chủ, không coi nhân dân, người đạo ra gì. Đảng làm như vậy, tôi cũng cầu cho họ tiếp tục tàn ác càng nhiều, thì dân chúng mới có thể thấy rõ được bộ mặt của đảng CS. Và nếu đảng hành ác mãi, thì ngày gần đây, tôi tin là đảng không còn ở trên cõi thế gian này nữa.

Theo cư sĩ Trần Văn Kiệm ở Đồng Tháp, thì thoạt đầu, khi nghe VN được vào Hội đồng Nhân quyền LHQ, ông mừng lắm. Nhưng có điều là cuối cùng, ông nhấn mạnh, giới cầm quyền VN “nói một đường mà làm một nẻo”. Cư sĩ Trần Văn Kiệm nhận xét về tình cảnh của các tín đồ PGHH chân chính: Tôi cho rằng ở thế gian, đất nước này không thể nào yên ổn với nhà cầm quyền; chúng tôi đi đâu cũng bị dòm ngó, đi đâu cũng bị theo sau lưng. Rồi tới chừng bị đánh đập, hành hung thì chúng tôi còn bị sách nhiễu dọc đường. Đồng đạo chúng tôi đi đâu đều bị họ theo sát sau lưng, không bao giờ buông tha. Vừa rồi LS Nguyễn Bắc Truyển xuống nhà vợ thì bị bắt, bị đánh đập rồi thả về Sàigòn. Còn nhóm đồng đạo xuống thăm thì bị chận đường, hành

Số 191 Trang 6

Page 7: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

hung một cách quá khắc nghiệt. Họ muốn diệt vong tôn giáo chúng tôi.

Cư sĩ Võ Văn Bửu nêu lên câu hỏi rằng trong giai đọan này, ông không biết lý do nào mà VN, dù đã vào ngồi trong ghế của Hội đồng Nhân quyền LHQ rồi, nhưng họ vẫn tiếp tục đàn áp nhân dân, đàn áp tôn giáo càng khắc nghiệt hơn. Cư sĩ V.V. Bửu không giấu được bực tức: Trong giai đọan này, chúng tôi quả thật không còn gì để nói nữa ! Tại vì tôi nghĩ sau khi VN ngồi vào cái ghế Nhân quyền, đã là thành viên Nhân quyền quốc tế thì lẽ ra VN phải có tiến bộ phần nào về nhân quyền. Nhưng thật sự ra, tôi thấy VN chưa hề tiến triển mà lại càng tồi tệ hơn trước đây.

Cư sĩ Trần Văn Kiệm cũng bày tỏ tâm trạng tương tự: Tôi không biết nguyên nhân nào mà đất nước bình yên rồi nhưng dân tộc giống nòi, tôn giáo không yên vui. Chúng tôi bị họ quật ngã, không được tự do tu hành. Rồi chùa chiền họ lấy mà không bao giờ trả lại, mà lại còn gây khắc nghiệt đủ điều. Mới vừa rồi công an huyện Lấp Vò, Đồng Tháp, hăm đốt nhà tín đồ Đặng Thành Tân ở xã Long Hưng B, gọi báo cho biết là “nếu hành đạo mãi thì tao đốt nhà mày”.

Trước tình cảnh của tín đồ PG HH như vậy, cư sĩ Trần Văn Kiệm thắc mắc rằng sao cùng giống nòi dân tộc mà họ lại đối xử với các đạo hữu và thân hữu PGHH khắc nhiệt như vừa rồi ? Không cho đồng đạo của ông được tự do tín ngưỡng trong khi, theo lời cư sĩ Trần Văn Kiệm, “trên đài thì họ nói nghe ‘ngon’ quá rằng ‘cán bộ vì nước quên thân vì dân phục vụ’”. Họ “nói một đường, làm một nẻo” như vậy khiến cư sĩ Trần Văn Kiệm thấy lời cố Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu “thật chính xác vô cùng”, đó là “Đừng tin những gì CS nói mà hãy nhìn kỹ những gì CS làm”.

TỰ DO NGÔN LUẬNBán nguyệt san ra ngày 1

và 15 mỗi thángIN VÀ TẶNG TẠI VN

Địa chỉ liên lạc:[email protected]

Muốn đọc tờ báo trên mạng, xin mời ghé:

http:// www.tdngonluan.com www.tudodanchuvietnam.net

http://tudongonluan.atspace.comhttp://www.viet.no

Trong trang mạng thứ 1 và thứ 3 trên đây, Quý vị có thể tìm thấy nhiều tài liệu đấu tranh cho dân chủ tại

Việt Nam

Thành lập các Xã hội Dân sự độc lập là

quyền chính đáng của nhân dân để xây dựng

và phát huy dân chủ.Kính gửi:

- Hội đồng Giám mục Việt Nam- Ủy ban Công lý Hòa bình- Các Linh mục, Tu sỹ và Cộng đồng Dân Chúa- Những người yêu chuộng Công lý – Hòa bình - Sự thật- Các ban ngành hữu trách Tên tôi là Ant – Fx CHU MẠNH SƠN,

Sinh ngày 08-01-1989. Nơi sinh hoạt tôn giáo : Họ đạo Diệu Ốc, Giáo xứ Đức Lân, Giáo hạt Đông Tháp, Giáo phận Vinh. Đăng ký hộ khẩu thường trú : xã Phúc Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An Đã từng là tù nhân lương tâm khi bị chính quyền khép vào tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” thuộc điều 88 Bộ luật Hình sự nước CHXHCNVN. Bị bắt ngày 02-08-2011. Tòa phúc thẩm TANDTC tuyên mức án 30 tháng tù giam và 1 năm quản chế. Hết án vào ngày 02-02-2014.

Trải qua 2 nhà tù, từ trại tạm giam Nghi Kim, thuộc xã Nghi

Kim, TP Vinh trong thời gian điều tra vụ án và sau đó thi hành án tại trại giam Phú Sơn 4, thuộc tỉnh Thái Nguyên.

Tôi nhận thấy là : “Trong nhà tù, mọi tù nhân bị tước mất quyền Tự do Tôn giáo” dù chưa có án hay đã có án. Tôi nhận thấy rằng :

1- Nhu cầu về Tôn giáo – Tín ngưỡng là khát khao xuất phát từ bản tính con người tìm kiếm tâm linh. Niềm tin Tôn giáo chân chính đưa con người tới Chân – Thiện – Mỹ. Chính vì thế quyền Tự do Tôn giáo được cộng đồng quốc tế nhìn nhận là quyền căn bản của con người theo điều 18 Công ước Quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị năm 1966, cùng nhiều văn kiện khác cũng bảo vệ nhu cầu tìm kiếm tâm linh chân chính như một quyền

hợp pháp của công dân :Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín đáo, dưới các hình thức như thờ phụng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng. 2. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ. 3. Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác. 4. Các quốc gia thành viên Công ước cam kết tôn trọng quyền tự do của các bậc cha mẹ, và của những người giám hộ hợp pháp nếu có, trong việc giáo dục về tôn giáo và đạo đức cho con cái họ theo ý nguyện của riêng họ. (Trích điều 18 Công

Số 191 Trang 7

Page 8: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

ước Quốc tế về Quyền dân sự và chính trị năm 1966)

2- Việt Nam đã tham gia vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc và cam kết tôn trọng quyền Tự do Tôn giáo.

3- Dù tất cả mọi người đang bị giam giữ trong môi trường “lao tù” dù có tội hay không có tội thì chỉ bị hạn chế về quyền công dân và không thể giới hạn các quyền căn bản của con người. Mục đích của việc thi hành án là nhằm giúp các Tù nhân sống có ích hơn cho gia đình và xã hội. Để đạt được mục đích việc thi hành án cần nhiều yếu tố và niềm tin tôn giáo đóng góp một phần không thể thay thế.

4- Riêng đối với tôi, là người theo đạo Công giáo, Giáo lý Hội thánh Công giáo buộc những tín hữu Công giáo “phải xưng tội 1 năm ít là 1 lần” và “rước lễ trong mùa Phục sinh”. Trong khi đó, nhiều nước tiến bộ trên thế giới cũng đã thực hiện việc để các Giám mục hay Linh mục tuyên úy đến để giúp các tù nhân tĩnh tâm, xưng tội, rước lễ hàng năm. Cũng vậy, đối với những tù nhân có niềm tin tôn giáo khác, chúng tôi được biết nhu cầu tìm hiểu đạo, giữ đạo, thực hành giáo lý, tín điều,... của họ là nhu cầu chính đáng, cần thiết, được nhà nước tôn trọng và bảo vệ.

Với những lý do trên, tôi cũng như bao người thiết nghĩ rằng: việc tạo điều kiện để các tù nhân được đưa các ấn phẩm tôn giáo vào buồng giam như: sách Kinh thánh, các sách Giáo lý,... và được gặp các Chức sắc, nhà Tu hành Tôn giáo, Linh mục Tuyên úy – người có nhiệm vụ hướng dẫn tù nhân “Cải tà Quy chính” để sống “tốt đạo đẹp đời” và hơn thế họ được tham dự các nghi lễ tôn giáo vào các ngày được ấn định như : Lễ Giáng sinh, Lễ Phục sinh, Lễ Phật đản, Lễ Khai đạo, Tết Nguyên đán,… đó là điều cần thiết và hữu ích. Điều đó thể hiện sự nhân bản, tôn trọng nhân quyền, đảm bảo lợi ích của tù nhân cách thiết thực và là bằng chứng nhà nước Việt Nam thực hiện đúng các cam kết quốc tế đã ký kết.

Tôi thiết nghĩ rằng : một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh phải đặt nền tảng trên các quyền căn bản của con người và những cơ chế phù hợp. Tôi kính mong Hội đồng Giám mục Việt Nam can thiệp để Lời Chúa dẫn soi hết tất cả mọi thành phần Dân Chúa trong mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

Tôi chân thành cảm ơn !Phúc Thành, 27-2-2014Người làm đơnAnt - Fx CHU MẠNH SƠNNhững người đồng ý kiến: Nhiều

Linh mục tại Nghệ An và tại vài nơi khác đã ký tên vào.

Những thứ cần thiết cơ bản là các công dân đích thực, những người bảo vệ tử tế, các thị trường thích hợp và các luật công bằng

Ukraine có thể trở thành một nền dân chủ tự do ổn định? Câu trả lời cho câu hỏi này phải là: có. Ukraine  sẽ có trở thành một nền dân chủ tự do ổn định? Câu trả lời cho câu hỏi đó là: chúng ta không biết. Chúng ta biết rằng những nước

khác đã đến đích. Nhưng chúng ta cũng biết rằng nền dân chủ bỏ phiếu phổ thông là một cái cây mềm yếu, đặc biệt trong những năm đầu của nó. Những gì đã xảy ra đối với các nền dân chủ non trẻ ở, chẳng hạn, Ai Cập, Thái Lan, Nga và Ukraine nhấn mạnh chân lý đó. Nền dân chủ là mong manh bởi vì nó là một trò chơi phức tạp và, trong những khía cạnh quyết định, không tự nhiên.

Điểm xuất phát của tôi là, chính phủ có trách nhiệm giải trình đối với những người bị cai trị là hình thức duy nhất thích hợp cho những người trưởng thành. Tất cả các hình thức khác của chính phủ coi con người như trẻ con. Trong quá khứ, khi hầu hết người dân còn mù chữ, chủ nghĩa gia trưởng như vậy đã có thể được biện minh. Điều đó không còn đúng nữa. Khi dân cư ngày càng nắm được thông tin hơn, thì các chính phủ coi nhân dân của họ theo cách này sẽ ít có thể được chấp nhận. Tôi kỳ vọng (hoặc hy vọng) rằng, trong dài hạn, điều này sẽ

đúng ngay cả với Trung Quốc.Bằng chứng phù hợp với sự lạc

quan này. Theo Polity IV database (Cơ sở dữ liệu chính thể IV), gần như 100 nước bây giờ là các nền dân chủ (ít nhiều chưa hoàn hảo). Con số này bằng hai con số của năm 1990. Trong năm 1800, đã chẳng có nền dân chủ nào. Số của các chế độ chuyên quyền thực sự cũng đã giảm đột ngột, từ khoảng 90 trong năm 1990 xuống khoảng 20 bây giờ. Đáng tiếc, đã có sự gia tăng từ khoảng 20 lên trên 50 về số các chế độ anocracy [giữa autocracy - chuyên quyền và democracy - dân chủ], các chế độ mà sự cai quản của nó là hết sức bất ổn, không hiệu quả và tham nhũng. Các chế độ như vậy có thể hoặc là các chế độ chuyên quyền đang sụp đổ hoặc các nền dân chủ thất bại. Chúng cũng dễ bị tổn thương đối với việc nổ ra xung đột vũ trang hay chiếm quyền bằng vũ lực.

Số 191 Trang 8

Page 9: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Thế cột trụ của một nền dân chủ ổn định và thành công là những  gì? Câu trả lời ngắn gọn là: một nền dân chủ đòi hỏi một bộ đôi kiềm chế: giữa những người dân và giữa nhân dân và nhà nước. Những sự kiềm chế này dựa vào bốn đặc tính, tất cả bốn đều cần thiết.

Trước nhất, các nền dân chủ cần các công dân. Các công dân không chỉ là những người tham gia vào đời sống công, tuy họ cũng làm việc đó. Trên hết, các công dân chấp nhận rằng sự trung thành của họ đối với các quy trình mà họ chia sẻ phải áp đảo sự trung thành đối với phe chính trị của riêng họ. Các công dân hiểu ý tưởng về một “đối lập trung thành.” Họ chấp nhận tính chính đáng của chính phủ được vận hành bởi và thậm chí cho những đối thủ của họ, tin chắc rằng sẽ có thể đến lượt họ [nắm quyền]. Suy ra, các công dân không sử dụng quá trình chính trị để phá hủy năng lực của các đối thủ của mình  để hoạt động một cách yên bình. Họ chấp nhận tính chính đáng của người bất đồng quan điểm và thậm chí sự phản đối om sòm. Họ loại trừ chỉ việc sử dụng vũ lực. Tất nhiên, một số đối thủ là không thể chấp nhận được – trước hết tất cả những người không chấp nhận tính chính đáng của quá trình dân chủ. Một nước thiếu những công dân như vậy bị đầu độc liên miên trên bờ vực của sự tan rã thậm chí nội chiến.

Thứ hai, các nền dân chủ cần những người bảo vệ (guardian), một từ được dùng bởi cố Jane Jacobs trong cuốn sách tuyệt vời của bà, Systems of Survival (Các Hệ thống Sống sót). Những người bảo vệ giữ các vị trí quyền lực chính trị, hành chính, pháp lý hay quân sự. Những gì biến họ thành những người bảo vệ, với tư cách trái với bọn kẻ cướp, là, họ sử dụng vị trí của mình không vì mối lợi vật chất cá nhân, mà phù hợp với các quy tắc khách quan hoặc để ủng hộ quan niệm phúc lợi chung. Viktor Yanu-kovich, tổng thống bị lật đổ của Ukraina, là một thí dụ tốt về một  sự tương phản với điều này mà ta có

thể hình dung ra. Thế nhưng những động cơ của ông ta để tìm kiếm quyền lực cũng đã là những động cơ thúc đẩy truyền thống. Suốt lịch sử, quyền lực và sự giàu có đã gắn với nhau. Ý tưởng rằng hai thứ phải tách biệt ra đã và, ở nhiều nơi, vẫn là cách mạng. Ông Yanukovich thay vào đó đã tin vào quyền của ông ta để cướp bóc và bắn. Đó không phải là cơ sở cho tính chính đáng dân chủ.

Thứ ba, các nền dân chủ cần các thị trường. Với các thị trường chúng ta dứt khoát không muốn nói đến sự lạm dụng quyền lực của nhà nước để biến tài sản nhà nước thành của cải tư, như đã xảy ra khắp phần lớn Liên Xô trước đây. Các doanh nhân mà xây dựng vận may của mình trên sự trộm cắp như vậy không hề chính đáng (hợp pháp) hơn các chính trị gia đã giúp đỡ họ.

Các thị trường hoạt động đúng đắn được hỗ trợ bởi một nhà nước hoạt động tốt cung cấp những trụ cột cốt yếu của nền dân chủ ổn định. Thứ nhất, chúng ủng hộ sự thịnh vượng. Một xã hội có khả năng bảo đảm một mức sống tử tế và an toàn phải chăng cũng chắc là một xã hội ổn định. Đây rồi sẽ là một xã hội của các công dân tin cậy lẫn nhau và tin vào tương lai kinh tế của mình. Thứ hai, các thị trường làm lỏng sự liên quan giữa thịnh vượng và quyền lực. Chúng làm cho có thể đối với nhân dân để coi kết quả của các cuộc bầu cử là quan trọng, nhưng không như vấn đề sống chết đối với hoặc chính họ hay gia đình họ. Điều này hạ nhiệt của chính trị từ cháy bỏng xuống mức có thể chịu được.

Cuối cùng, mặc dù tất cả sự phức tạp này, dẫu thiết yếu, để các hệ thống là hữu hiệu, các nền dân chủ cần các luật được chấp nhận, bao gồm nhất là các luật hiến pháp (cho dù đôi khi không thành văn). Luật, được ban hành và thi hành phù hợp với các thủ tục được chấp nhận, tạo hình các quy tắc của trò chơi chính trị, xã hội và kinh tế. Một nước mà thiếu pháp trị thì liên miên ở trên bờ vực của hỗn loạn

hoặc của sự bao ngược, số phận bất hạnh của nước Nga hàng thế kỷ.

Dân chủ như thế hơn việc bỏ phiếu rất nhiều. Nó chắc chắn không phải là “1 người lớn, 1 phiếu, 1 lần”. Nó cũng chẳng phải, xét từ góc độ đó, là “một người lớn, một phiếu gian lận, nhiều lần”. Nó là một mạng lưới phức tạp của các quyền, nghĩa vụ, quyền lực và ràng buộc. Dân chủ hoặc là sự bày tỏ chính trị về các cá nhân tự do hoạt động cùng nhau, hoặc chẳng là gì cả. Những người mà đã thắng một cuộc bầu cử không có quyền làm như họ thích. [Nếu họ làm thế thì] Đó không phải là một nền dân chủ thật, mà là chế độ độc tài được bầu.

Những người ngoài có thể giúp một dân tộc trên đường tới dân chủ? Có, họ có thể. Vai trò kinh tế và chính trị hữu ích của EU ở trung và đông Âu đã chứng tỏ điều đó. Có thể hình dung được những bước thụt lùi? Có, Hungary đang cho thấy chính điều đó. Các láng giềng xấu có thể làm tàn lụi những hy vọng? Có, cả điều có cũng có thể.

Quả thực chúng ta đã thấy nhiều thất bại dọc con đường đến dân chủ. Ai Cập là một thất bại nổi bật: nó có thể thiếu quá nhiều điều kiện cần cho thành công. Ngày nay, chúng ta có thể thấy rằng Ukraina đã tạo ra cơ hội thứ ba của nó từ 1991. Nhưng nước này sẽ cần rất nhiều sự giúp đỡ. Phương tây đã cung cấp sự giúp đỡ như vậy cho những nước khác. Nhưng bản thân nước này cũng cần chuyển sang những quy tắc khá mới của trò chơi xã hội: nó phải sinh ra các công dân thực, những người bảo vệ lương thiện, các thị trường thích hợp và các luật công bằng. Một sự thay đổi cách mạng như vậy là có thể? Tôi không biết. Nhưng một thứ tôi hoàn toàn chắc chắn. Rất đáng thử.

Nguyễn Quang A dịch.CÁC CỰU TÙ NHÂN LƯƠNG

TÂM TIẾP TỤC BỊ SÁCH NHIỄU VÀ KHỦNG BỐ

Anh Nguyễn Bá ĐăngKhoảng 12h ngày 13-3-2014, lực

lương công an huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương gồm 4 xe không rõ bao

Số 191 Trang 9

Page 10: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

nhiêu người, đã ập vào gia đình anh Nguyễn Bá Đăng, một cựu tù nhân lương tâm mới ra tù năm 2013. Lực lượng này đã dùng số đông ép anh Đăng lên xe giải về đồn công an huyện Nam Sách mà không hề có một lệnh bắt hay giấy tờ gì.

Tại đây anh bị lực lượng an ninh tỉnh Hải Dương và an ninh huyện Nam Sách thay nhau thẩm vấn suốt từ chiều ngày 13, đêm 13 và cả ngày 14-3-2014. Mãi khoảng 5h chiều 14-32014 anh mới được thả về. Anh Đăng cho biết: Cơ quan an ninh đã in ra khoảng chục bài do anh viết trên Facebook và yêu cầu anh ký tên, anh đã không hợp tác. Sau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày 14-3-2014 (kỷ niệm biến cố Gạc Ma) và quy cho anh tội “tổ chức biểu tình”, ép anh ký nhận tội. Anh không ký vào.Vậy là họ buộc phải thả anh về.

Với tư cách là một công dân Việt Nam tôi cực lực phản đối hành động bắt giữ người trái phép của lực lương công an huyện Nam Sách, công an tỉnh Hải Dương đối với anh Đăng.

Thanh Hóa ngày 14/3/2014Mục sư Nguyễn Trung Tôn

Luật sư Phan Thanh HảiVào lúc 8 giờ 15 phút ngày 14- 03-

2014 CA phường 25 quận Bình Thạnh, Sài Gòn, đã đến nhà của vợ chồng anh Ba Sài Gòn (Phan Thanh Hải) đòi khám xét nhà và giấy phép kinh doanh tạp hóa (bán lẻ nhỏ hàng xóm) trong lúc anh Hải đang ngồi thiền tịnh trong nhà trong 05 ngày nay. Được biết anh Ba Sài Gòn còn thiền tịnh đến 10 ngày .

Trong thời gian qua, 2 vợ chồng Anh Hải thường bị sách nhiễu phải dời nhà 2 lần vì công an địa phương đe dọa chủ nhà cho anh Hải thuê (kiểu cách thường dùng đối với nhiều nhà đấu tranh dân chủ). Tình hình rất căng thẳng khi công an đòi vào xét nhà nhưng chị Nguyễn Thị Liên vợ của Ba SG không cho vào..... Hiện nay số điện thoại của chi Liên vợ anh Hải cũng không liên lạc được !!

Xin các anh chị em dân chủ hãy đến nhà Anh Ba SG tại khu chợ Văn Thánh số 26/B4 đường D1 để xem tình hình các nhân viên công an thực hiện việc khám xét có đúng qui trình pháp luật hay tùy tiện.

Trương Minh Đức tường trình

Thưa các Quý vị và các bạn,Tôi tên là Đặng Xương Hùng,

cựu Lãnh sự Việt Nam tại Genève (2008-2012), cựu Vụ Phó Bộ Ngoại giao, đã quyết định ly khai với đảng Cộng sản Việt Nam từ 18-10-2013. Tôi xin cảm ơn UN Watch đã cho tôi cơ hội để đề cập đến tình trạng phi dân chủ và vi phạm nhân quyền ở Việt Nam. Đây cũng là lý do dẫn đến việc tôi quyết định ly khai.

Tôi sẽ trình bày quan điểm của cá nhân tôi, một góc nhìn từ bên trong về thực trạng Nhân quyền Việt Nam. Tôi sẽ cố gắng đưa ra những nhận xét và dẫn chứng để lý giải câu hỏi mà - từ lâu - tôi đã đặt ra cho chính mình:

+ Tại sao không có dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam? 

+ Phải làm gì để mang lại dân chủ và nhân quyền cho VN?

Một chế độ dân chủ cần hội tụ đủ hai yếu tố: Cơ chế dân chủ và Tư tưởng dân chủ. Chỉ khi nào có một người lãnh đạo có tư tưởng dân chủ thì cơ chế dân chủ mới có cơ hội hình thành. Việt Nam thiếu cả hai nhân tố đó. Tức là các nhà lãnh đạo đương thời ở Việt Nam không hề có tư tưởng dân chủ, dẫn đến việc họ xây dựng ở Việt Nam một chế độ PHI DÂN CHỦ, không tôn trọng nhân quyền.

Tôi vào đảng Cộng sản năm 1986. Lúc đó đảng đang có những cố gắng đổi mới. Lúc bức tường Berlin sụp đổ, đã có một vài nhân vật có tư tưởng dân chủ xuất hiện như Trần Xuân Bách, Nguyễn Cơ Thạch, Trần Quang Cơ. Nhưng họ nhanh chóng bị loại ra khỏi guồng máy lãnh đạo. Những tư tưởng dân chủ vừa nhen nhóm đã bị dập tắt.

Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ, đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục theo đuổi chủ nghĩa Mác-Lênin một cách mù quáng, khước từ việc tiếp thu những tư tưởng dân chủ và nhân quyền đã

trở thành phổ quát, từ đó họ đã đưa

đất nước và dân tộc Việt Nam đến tình trạng khủng hoảng toàn diện như hiện nay. Từ đây tôi cũng lý giải được câu hỏi: “Tại sao Việt Nam không có nhân quyền?”. Chính đảng Cộng sản là cội nguồn phát sinh mọi suy vong của đất nước. Trước tình hình Việt Nam ngày càng nguy cấp, tôi không thể tiếp tục im lặng mà phải công khai bày tỏ thái độ: dứt khoát từ bỏ đảng CS. Lúc này đây, tôi muốn hô to với thế giới bên ngoài rằng: 

- Đất nước chúng tôi đang lâm nguy!

- Đồng bào tôi đang bị đàn áp dưới chế độ Cộng sản!

- Hãy quan tâm đến tình hình nhân quyền và dân chủ của VN!

Về thực trạng ở Việt Nam, tôi có những nhận xét, kết luận như sau:

+ Chế độ hiện tại là chế độ độc tài, đảng trị, phục vụ quyền lợi của những người cầm quyền. Điều 4 Hiến pháp -được sửa đổi và có hiệu lực từ 1-1-2014- quy định đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền tại Việt Nam, đồng thời là chính đảng duy nhất được phép hoạt động. Chủ nghĩa Mác-Lênin coi luật pháp chỉ là công cụ đàn áp của giai cấp thống trị. 

+ Hệ thống bộ máy nhà nước được xây dựng và tổ chức nhằm mục tiêu cơ bản là bảo vệ sự cai trị của đảng lên toàn xã hội, coi nhẹ nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của công dân. Do đó, Nhà nước Việt Nam không có thái độ tôn trọng quyền của người dân. Những lãnh đạo Cộng sản hiện nay đã trở thành những nhà tư bản đỏ. 

Lực lượng công an, cảnh sát được xây dựng hùng hậu. Thay vì tập trung vào nhiệm vụ chính là bảo đảm an ninh và trật tự xã hội, phần lớn họ lại đổ nhiều công sức vào việc theo dõi, trấn áp và ức hiếp nhân dân. Trong thể chế xã hội chủ nghĩa, công an là công cụ bảo vệ sinh mạng của chế độ –nên họ được dung túng như một lực lượng kiêu binh. Tôi rất tâm đắc với khuyến nghị của một quốc gia trong kỳ kiểm điểm định kỳ vừa rồi là Việt Nam nên đào tạo kiến thức về nhân

Số 191 Trang 10

Page 11: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

quyền cho lực lượng công an.Lực lượng quân đội được quy

định trong Hiến pháp là phải trung thành với Đảng rồi mới đến Nhà nước và Nhân dân. 

Các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp (Quốc hội, Chính phủ, Tòa án) đều là bộ máy của đảng, phục vụ mục đích cai trị của đảng. Tôi đã từng phát biểu rằng Quốc hội Việt Nam chỉ là một chi bộ của đảng. Vừa rồi, trước những đòi hỏi chính đáng và thiết tha của trí thức và nhân dân, Quốc hội vẫn bỏ phiếu thông qua sửa đổi Hiến pháp với tỷ lệ 98%. Các đại biểu Quốc hội không thể làm khác được vì họ đều là đảng viên.

+ Các quyền cơ bản của con người không được tôn trọng

Không có bầu cử tự do: Trên nguyên tắc, 5 năm một lần, người dân bầu đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Trong thực tế, họ chỉ được bầu ra những người mà đảng đã lựa chọn từ trước. Không ai có quyền được tự ứng cử. Gần đây, có luật sư Cù Huy Hà Vũ đã cố tự ra ứng cử, nhưng đã bị loại ngay và hiện nay ông đang nằm trong tù. Do vậy, bầu cử chỉ là hình thức. Bản thân tôi đã từng bỏ phiếu thay cho cả gia đình. Có trường hợp, vì để lấy thành tích thi đua, nên có ông tổ trưởng dân phố đã bỏ thay cho những gia đình vắng mặt. 

Tự do ngôn luận, bày tỏ ý kiến cá nhân đang bị đe dọa nghiêm trọng nhất: Chính quyền đang áp dụng những chính sách đàn áp tàn bạo lên những người bất đồng chính kiến. Bên cạnh những bản án tù dài hạn, họ đẩy mạnh hình thức sử dụng bạo lực, kể cả việc sử dụng côn đồ để hành hung đối phó, sách nhiễu những nhà bất đồng chính kiến.

Theo các danh sách do các tổ chức nhân quyền tự tìm kiếm và chúng tôi tìm hiểu, hiện có khoảng khoảng 250 người bị chính quyền giam giữ vì các hoạt động xuất phát từ lương tâm. Con số thực cao hơn nhiều vì kiểm kê thiếu sót và vì có những trường hợp bắt giam với những lý cớ ngụy tạo để che giấu lý do chính trị.

Chính quyền thường sử dụng các điều 79, 87, 88, 258 trong Bộ luật hình sự để bắt giam, xử án một cách tùy tiện các nhà đấu tranh dân chủ. Gần đây, họ lại chuyển sang bắt giam các nhà bất đồng chính kiến bằng những lý do khá ấu trĩ. Bắt giam Luật sư Cù Huy Hà Vũ vì tội quan hệ bất chính (với bằng chứng là bao cao su), bắt giam Luật sư Lê Quốc Quân về tội trốn thuế. Họ bắt giam cả những thanh niên mới 20 tuổi như Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha chỉ vì họ bày tỏ lòng yêu nước, chống lại Trung Quốc.

Có nhiều tù nhân lương tâm đang mắc bệnh hiểm nghèo và trong tình trạng hấp hối nhưng vẫn tiếp tục bị giam giữ. Điển hình là 3 ba trường hợp:

- Ông Vi Đức Hồi bị kết án hoàn toàn không có lý do chính đáng, bị kỷ luật biệt giam sáu tháng vì phản đối giám thị cai tù đánh một tù nhân lương tâm khác là Paulus Lê Sơn. Sau 6 tháng biệt giam, ông Vi Đức Hồi tiếp tục bị gia hạn kỷ luật. Hiện nay ông Hồi đang bị biệt giam, trong lúc bệnh tim và cao huyết áp của ông ấy luôn trong tình trạng cấp cứu.

- Ông Đinh Đăng Định, sau một thời gian bị giam giữ đã phát bệnh ung thư. Khi đưa đi khám, bệnh ung thư của ông Định đã vào thời kỳ cuối. Các bác sĩ điều trị cho hay nếu được điều trị sớm hơn vài tháng, ông Định đã có thể cứu được. Hiện nay ông Đinh Đăng Định đang trong tình trạng hấp hối, không còn ăn uống được. Mãi đến vài ngày gần đây ông Định mới được "hoãn thi hành án trong 12 tháng" để trị bệnh ung thư ở giai đoạn cuối.

- Linh mục Nguyễn Văn Lý đã bị bịt miệng tại toà và xử mức án 8 năm. Đã bị tai biến mạch máu não và tê liệt, nhưng vẫn tiếp tục bị giam giữ.

Về tự do báo chí: theo bảng xếp hạng năm 2013, của tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới, trên tổng số 180 nước trên thế giới, Việt Nam đứng thứ 174, Trung Quốc (175), Bắc Triều Tiên (179), Sudan (172), Iran (173), Somalia (176), Syria

(177).Chính quyền đã gia tăng đàn áp,

kiểm duyệt thông tin, tăng cường kiểm soát Internet, hạn chế tự do báo chí với nhiều vụ bắt giữ và xét xử bất công. Bộ máy nhà nước Việt Nam rất sợ sự thật.

Việt Nam vẫn là nhà tù đứng hàng thứ hai trên thế giới đối với các blogger và công dân mạng, hiện có 34 blogger đang bị giam giữ. Tháng 09-2013, đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến thêm một bước trong việc đàn áp quyền tự do thông tin, với việc ban hành nghị định 72, 174 cấm các trang blog và trang mạng xã hội tổng hợp và chia sẻ các thông tin thời sự. 

+ Không có ai (cơ chế, tổ chức) nào đứng ra bảo vệ người dân

Tình trạng dân oan: Do không được ai đứng ra bảo vệ, người dân phải tự lo lấy, tự đấu tranh; những tiếng kêu cứu của họ rơi lạc vào sự thờ ơ của giới lãnh đạo. Tình trạng chiếm đoạt đất đai của các nhóm lợi ích, hậu quả của liên minh tiền-quyền, đã đẩy người dân bị mất đất vô cớ, hình thành nên tầng lớp dân oan ngày một đông đảo. Khi xẩy ra phong trào người dân đứng lên đòi lại đất đai thì chính quyền lại đàn áp ngày càng thô bạo, như vụ Đoàn Văn Vươn, Hải Phòng và vụ nông dân Văn Giang, Hưng Yên.

Tình trạng tham nhũng: Việt Nam là một trong những nước tham nhũng hàng đầu trên thế giới. Những vụ tham nhũng liên quan đến các quan chức cao cấp vừa bị phanh phui. Việc xét xử Dương Chí Dũng Vinalines đã tiết lộ liên hệ đến không chỉ cấp Thứ trưởng Bộ Công an Phạm Quý Ngọ, mà còn dính líu đến những quan chức lãnh đạo cao cấp hơn nữa.

Những chính sách sai lầm của lãnh đạo Việt Nam đã đẩy đất nước vào cuộc khủng hoảng toàn diện. Cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, đạo đức con người. Cái xấu xa đang dần lấn át cái tốt đẹp trong xã hội Việt Nam. Quan thì rất giàu, dân lại nghèo khó; đất nước thì không mạnh, xã hội thì suy đồi, hạnh phúc thì xa vời.

Số 191 Trang 11

Page 12: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Để thay cho lời kết luận về tình hình vi phạm nhân quyền ở Việt Nam hiện nay, tôi xin dẫn một nhận xét của ông Benjamin Ismail, Giám đốc phụ trách khu vực Châu Á - Thái Bình Dương thuộc tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới: “[…] Hà Nội không thể tiếp tục lừa bịp Liên Hiệp Quốc và thế giới kiểu này nữa. Hơn ai hết, họ hiểu rõ những gì họ đang làm và những chính sách đàn áp tàn bạo mà họ đang thực hiện.”

Những suy tư và nhận định vừa trình bày đến quí vị không chỉ xuất phát từ một cá nhân đơn lẻ mà là của đông đảo nhân dân Việt Nam và ở ngay cả trong hàng ngũ các nhà lãnh đạo Việt Nam. Nhưng, do hoàn cảnh, họ chưa thể lên tiếng được. Tuy nhiên, niềm hy vọng vẫn mạnh hơn nỗi sợ hãi.

Người dân Việt Nam mong muốn một chế độ chính trị văn minh và lành mạnh, trong đó các quyền con người và các quyền công dân được tôn trọng và bảo vệ để Việt Nam hòa nhập vào với cộng đồng văn minh nhân loại. Ngay thời điểm này, tôi chỉ có một ước mơ cháy bỏng: chính quyền đương nhiệm Việt Nam hãy nghĩ đến tương lai của quốc gia. Việt Nam vẫn có thể làm như Miến Điện: bắt tay xây dựng thể chế dân chủ đa nguyên, thực hiện tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc.

Tất nhiên, để thực hiện được khát vọng này, ngoài những nỗ lực bền bỉ của phong trào đấu tranh đòi dân chủ và nhân quyền tại VN ngày một dâng cao, còn cần sự quan tâm và hỗ trợ cộng đồng quốc tế. 

Những buổi kiểm điểm Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc như vừa qua và những cuộc hội thảo quốc tế như hôm nay chắc chắn có tác động tích cực lên chính quyền Việt Nam. Theo những tín hiệu mới nhất mà tôi nhận được, họ đã bắt đầu hiểu rằng thời đại mà các chế độ độc tài có thể đàn áp một cách vô tội vạ những người chỉ có tội công khai bày tỏ chính kiến đã qua rồi.

Tôi xin chân thành cảm ơn UN Watch, cảm ơn sự chú ý lắng nghe

của toàn thể quý vị.Đặng Xương Hùng

https://www.facebook.com/dang.xuonghung

Theo thông tin công khai thì Bộ

Công an Việt Nam hiện nay có hai Tổng cục an ninh, đó là Tổng cục an ninh I (đối ngoại) và Tổng cục an ninh II (nội địa). Riêng Tổng cục an ninh I gồm có tới 5 Cục bảo vệ chính trị, đó là A35, A36, A37, A38, A39. Chính các đơn vị thuộc Cục bảo vệ chính trị nói trên, và Tổng cục an ninh II là những đơn vị trực tiếp đàn áp các nhà đấu tranh trong nước, đồng thời phá rối cộng đồng người Việt hải ngoại. Cơ quan công khai của các đơn vị này đóng ở 15 Trần Bình Trọng, 44 Yết Kiêu, 58B Trần Nhân Tông (đều ở Hà Nội), và nằm trong sở công an các tỉnh thành, cũng như nhiều địa chỉ bí mật khác trên toàn quốc…

Sau năm 1975, hàng loạt các viên tình báo (gián điệp) chiến lược gạo cội nổi tiếng của Miền bắc Việt Nam đã công khai lộ diện như: Ông Hai Trung (Phạm Xuân Ẩn), ông Ba Quốc (Đặng Trần Đức), ông Sáu Trí (Nguyễn Đức Trí), ông Tư Cang (Nguyễn Văn Tào), ông Mười Nho (Nguyễn Xuân Mạnh), ông Ba Minh (Nguyễn Văn Minh), ông Ba Lễ (Nguyễn Văn Lễ) và một số người khác. Nhưng những ai thận trọng hơn thì cho rằng, còn có nhiều nhân vật quan trọng giấu mặt khác vẫn đang hoạt động trong lòng cộng đồng người Việt hải ngoại dưới vỏ bọc là quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) di tản, tị nạn…

Câu chuyện gián điệp ở Việt Nam đã có từ rất xa xưa, điển hình là chuyện Trọng Thủy–Mỵ Châu thời An Dương Vương. Đó có lẽ là một truyền thuyết, nhưng những hậu quả bi thương của vụ án “ăn cắp nỏ thần” mãi mãi là một bài học lớn đối với những ai không biết cảnh giác với đối phương.

Đối với Phong trào Đấu tranh Dân chủ Việt Nam, khi vẫn chỉ đang ở giai đoạn hình thành, nhưng rất nhiều nhà đấu tranh đã bị bắt bớ, bị thủ tiêu bí mật, cũng như bị xử tù, mà họ không hề biết rằng: Họ đã bị những chiếc “vòi bạch tuộc” an ninh Cộng sản,

dùng những viên gián điệp giấu mình dưới đủ mọi hình dạng vỏ bọc để tấn công khủng bố họ.

Hầu hết các thành viên đấu tranh trong nước đều vì lý do bị chế độ ngược đãi mà đứng lên đấu tranh,

một số khác từng là dân oan đi đòi quyền lợi, lâu dần trở thành nhà đấu tranh lúc nào không hay. Chỉ một số ít nào đó là những người xuất phát từ ý thức về trách nhiệm của cá nhân mình trước vận mệnh của đất nước, hiểu rõ bản chất thối nát tàn bạo của chế độ Cộng sản mà lên tiếng. Vì vậy họ không phải là những nhà đấu tranh chuyên nghiệp, hoặc còn lâu mới đến độ chuyên nghiệp. Thế nhưng họ vẫn đang phải đối mặt với một lực lượng công an hùng hậu, trang bị hiện đại, huấn luyện bài bản, sẵn sàng ra tay với những đòn xảo quyệt. Đó là một khó khăn vô cùng lớn đối với những thành viên đấu tranh ôn hòa.

Để đàn áp Phong trào Đấu tranh Dân chủ Việt Nam, ngoài việc công an dùng các gián điệp công nghệ, trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại để nghe lén, phá sóng điện thoại, dùng hacker tấn công các trang báo phi Cộng sản trên mạng Internet, xâm nhập các máy tính cá nhân, mở trộm email v.v.., ta có thể liệt kê thêm những dạng gián điệp khác của họ như sau:

Hàng ngày các nhân viên an ninh mặc thường phục được tỏa đi khắp nơi để theo dõi, canh gác và trực tiếp trấn áp, bắt bớ các nhà đấu tranh. Họ sẵn sàng tiếp xúc, dụ dỗ, kết thân, hòng lung lạc tinh thần các nhà đấu tranh. Đó là những loại gián điệp nửa công khai “đánh gần”. Lực lượng này chủ yếu sử dụng nhân viên công an an ninh cấp huyện, quận và tỉnh, thành phố.

Thứ hai, đó là những loại gián điệp nằm vùng. Loại này trực thuộc các Tổng cục an ninh, dưới vỏ bọc làm công việc cụ thể nào đó ngoài ngành công an, chuyên thu thập tin tức mới từ địa phương. Phương thức này chủ yếu họ áp dụng trong các ngành “nhạy cảm” như Du lịch, Ngoại giao, Văn hóa, Truyền thông. Loại gián điệp này nếu như được lệnh, sẽ sẵn sàng tuyên bố “đấu tranh dân chủ” sau đó gia nhập các tổ chức đấu tranh trong nước nhằm phá hoại từ bên trong…

Số 191 Trang 12

Page 13: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Thứ ba, Một lực lượng gián điệp (tạm gọi là Lực lượng Hòa nhập), được “đánh” vào các nước Âu, Mỹ, sang các nước láng giềng như Lào, Campuchia, Thái Lan. Điều này thì chắc chắn nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã làm từ ngay sau ngày 30-04-1975. Những nhân viên gián điệp này, dưới vỏ bọc là làm những công việc, ngành nghề chính thức cho nhà nước Cộng sản Việt Nam và cho cả tư nhân. Họ sẽ móc nối với những tên chỉ điểm, cò mồi mà công an Việt Nam tuyển dụng từ nhiều nguồn, nhưng nhiều nhất là từ tù hình sự, có mức án nhẹ, hợp lý hồ sơ rồi giả dạng làm người tị nạn, người lao động. Hai dạng gián điệp này sẽ cùng nhau xâm nhập vào các tổ chức đấu tranh chống Cộng ở nước ngoài.

Những viên công an chính hiệu, và cả những tên “chim mồi” chỉ điểm hiện nay đang lén lút xâm nhập, tham gia đấu tranh và phá rối Phong trào Đấu tranh Dân chủ, chính là những tên gián điệp dân chủ. Chúng đang hiện diện cả ở trong nước và nước ngoài, giữa cộng đồng người Việt.

Sẽ có người ngỡ ngàng vì cụm từ “Gián điệp Dân chủ”. Đây là một loại hình gián điệp không mới, nó chỉ mới đối với những ai bàng quan mất cảnh giác, thiếu thận trọng trong việc kết bạn quan hệ đấu tranh.

Chuyện công an Việt Nam bắt bớ hàng loạt nhà đấu tranh ở Hà Nội, Hải Phòng treo biểu ngữ hồi tháng 07 và tháng 08-2008. Rồi chuyện họ bắt cóc các nhà hoạt động đấu tranh chính trị từ Campuchia đem về Việt Nam xét xử như các nhà sư Tim Sakhom, Thích Trí Lực, gần đây là vợ chồng anh chị Phạm Bá Huy, Phạm Thị Phượng tại Bang Kok Thái Lan, đặc biệt là vụ mất tích tại Phnompenh năm 2007 của Lê Trí Tuệ, thành viên Khối 8406, đảng viên đảng Thăng Tiến. Tất cả là các nạn nhân trực tiếp điển hình của những tên gián điệp dân chủ.

Vậy làm cách nào để đề phòng và kịp thời phát hiện được những kẻ luôn xưng là anh em đấu tranh dân chủ, nhưng lại sẵn sàng cầm dao đâm lén sau lưng chúng ta? Đây là một việc vô cùng khó, nhưng không phải là không làm được. Chính xác hơn là các nhà đấu tranh không thể không làm…

Đối với những nhà đấu tranh đang còn hoạt động bí mật thì họ sẽ biết những nguyên tắc căn bản nhất, đó là: hoạt động theo nhóm, chỉ nên biết những người trực tiếp có trách nhiệm quan hệ và liên lạc với mình, chỉ tiếp xúc làm việc với người thứ ba khi

được một đồng đội đủ tín nhiệm giới thiệu v.v…

Đối với những nhà đấu tranh công khai. Khi đã quyết định công khai hóa hoạt động đấu tranh của mình, một nhà đấu tranh công khai trong nước và cả ở hải ngoại muốn cho sự lên tiếng của mình có sức mạnh thuyết phục, họ cần phải công khai họ tên, địa chỉ email, bút danh (nếu có), thậm chí là cả địa chỉ nơi mình sinh sống. Nhiều người sẽ nói: Như thế thì sẽ rất nguy hiểm cho người đấu tranh, khác nào “lạy ông tôi ở bụi này”, Điều đó đúng, nhưng đấu tranh chống Cộng không hề là một trò chơi, tham gia đấu tranh là chấp nhận hy sinh mất mát, thậm chí là nguy hiểm đến tính mạng. Vậy việc công khai danh tính chỉ là chuyện hết sức bình thường…

Đối với những nhà đấu tranh ở hải ngoại đang khá an toàn trong sự bảo vệ của xã hội dân chủ, lại không dám công khai danh tính, thậm chí viết bài cũng phải dùng hết bút danh này đến bút danh khác (xin hiểu đây không phải là một lời chỉ trích). Những người ấy rõ ràng là không được sự tín nhiệm của cộng đồng. Nếu họ đấu tranh thật, thì những việc làm của họ cũng sẽ không đem lại bất cứ một hiệu quả đáng kể nào…

Ở trong nước, chính sự công khai tên tuổi mình của các nhà đấu tranh, lại là việc trang bị cho họ một chiếc “áo giáp” bảo vệ hữu hiệu. Khi một người đã công khai danh tính thì các đài phát thanh, các báo và các thành viên đấu tranh người Việt sẽ biết đến họ. Nếu họ bị bắt bớ, đánh đập, hay khủng bố tinh thần thì ngay lập tức công luận sẽ lên tiếng đấu tranh bảo vệ lẽ phải cho họ, đó là điều hết sức quý báu.

Một ai đó tự nhận mình là người đấu tranh công khai, cái gì cũng tỏ ra hiểu biết, gặp nhà đấu tranh nào cũng thân mật trao đổi sôi nổi. Nhưng họ lại không hề có một hành động đấu tranh gì trên thực tế, như đấu tranh trực diện với chính quyền địa phương mình sinh sống, viết bài, phát biểu trên các đài phát thanh, thì hẳn là những đối tượng ấy “có vấn đề”.

Nhưng ngay cả trong trường hợp ai đó có một vài bài viết ở dạng “nửa nạc nửa mỡ” vô thưởng vô phạt, và cũng có đôi lần phát biểu trên các đài phát thanh hải ngoại theo những dạng bài viết nêu trên, thì chúng ta cũng cần phải có thời gian kiểm chứng. Vì báo chí tự do trên mạng Internet có thể đăng bất cứ bài viết nào, của bất cứ ai gửi đến cho người biên tập. Tương tự, các đài phát thanh tiếng Việt ở hải ngoại cũng có

thể phát đi lời phát biểu mang tính chung chung của một ai đó, là chuyện bình thường. Dư luận sẽ không vì những bài viết và lời phát biểu như vậy làm thước đo đánh giá một người có thực sự dấn thân đấu tranh hay không.

Vì gián điệp của công an Việt Nam rất giỏi trong việc phá hoại, nếu các nhà đấu tranh dân chủ mất cảnh giác và không đầu tư tìm hiểu về các thủ đọan tinh vi của an ninh công an Việt Nam, thì dễ mắc mưu của họ. Trong trường hợp này, người viết thích mượn câu: Benefit of the doubt (lợi ích của sự nghi ngờ), nhưng theo nghĩa thuần tiếng Việt. “Lợi ích của sự nghi ngờ” không phải là đi đâu, gặp ai ta cũng lo lắng, ngờ vực. Nghi ngờ để tồn tại, nghĩa là biết đặt câu hỏi: Tại sao?

“Lợi ích của sự nghi ngờ” như vậy không phải là sự đa nghi như tính cách của nhân vật Tào Tháo. Chính “lợi ích của sự nghi ngờ” giúp cho một nhà đấu tranh dân chủ có sự nhận biết chính xác hơn về nhiệt huyết và những nỗ lực của các đồng đội đấu tranh cùng với mình.

Con người không thể sống thiếu lòng tin. Nhưng đối với một người đấu tranh, khi tin một cách vô thức, thì đồng nghĩa với việc họ vô ý thức, thiếu trách nhiệm đối với sự an toàn của chính bản thân mình, kế đến là cho đồng đội của mình nữa. “Lợi ích của sự nghi ngờ” chính là biết chọn nơi chính xác để mình gửi gắm lòng tin. Lòng tin vì vậy, cần phải có sự kiểm định.

Một viên gián điệp dân chủ bình thường, sẽ không bao giờ dám lên tiếng đấu tranh dõng dạc mạnh mẽ với nhà cầm quyền CSVN, kẻ đó sẽ không dám thẳng thắn vạch ra những bất công của xã hội Cộng sản, tuyên bố chế độ Cộng sản là thối nát, phản dân chủ. Người đó sẽ không bao giờ dám xưng tên họ thật, đăng hình ảnh cá nhân công khai kèm theo các bài viết đấu tranh (nếu có) của mình. Đó chính là một điểm dễ nhận thấy ở những kẻ đội lốt đấu tranh.

Có hai mục tiêu mà công an an ninh của CSVN chú trọng dùng gián điệp đội lốt “đấu tranh” tấn công. Mục tiêu thứ nhất đó là đánh vào “diện”, tức là tập trung vào mặt trận tuyên truyền nhằm hạ uy tín của các tổ chức đấu tranh chống Cộng chân chính và có thực lực. Điều này thì những cây bút khoác áo chống Cộng của họ ở hải ngoại thực hiện là tốt nhất, vì ít có ai sẽ đặt vấn đề nghi ngờ một vài nhân vật tị nạn Cộng sản, với những hàm là sĩ quan, thậm

Số 191 Trang 13

Page 14: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

chí tướng tá hoặc nhân viên cao cấp của chế độ VNCH.

Mục tiêu thứ hai là họ sẽ đánh vào “điểm”. Gián điệp dân chủ sẽ chỉ tập trung tấn công vào những tổ chức nào thực sự chống Cộng, đặc biệt là tổ chức đó có thể tạo ra những mối đe dọa lâu dài cho chế độ CS ở trong nước. Cũng trong kỹ xảo đánh “điểm” nhằm vào cá nhân, gián điệp của công an sẽ chỉ tìm cách bắt cóc thủ tiêu, đầu độc, hoặc dùng báo chí bôi nhọ thanh danh của những nhà đấu tranh có nhiều nhiệt huyết, có trình độ học vấn, có kiến thức chuyên môn tốt. Chính vì vậy mới có chuyện những nhà đấu tranh như Lê Trí Tuệ (bị bắt cóc thủ tiêu), Tim Sakhom, Thích Trí Lực, gần đây chúng ta biết thêm các ông Huỳnh Bửu Châu, Lý Thara, Đỗ Văn Nhàn v.v.., bị bắt cóc đem về Việt Nam cầm tù, trong khi hàng chục, hàng trăm người tị nạn khác vẫn sống bình an tại Campuchia từ vài năm đến hàng chục năm trời là một ví dụ điển hình. Như vậy rất cần cảnh giác với một ai đó xưng mình là người đấu tranh, cứ lăng xăng phô trương là đã giúp đỡ người tị nạn này người tị nạn khác. Đó chỉ là màn kịch của những viên gián điệp dạng chỉ điểm “chim mồi”, nhằm bịt mắt những người nhẹ dạ cả tin. Một người thực tâm giúp đời, giúp người thì sẽ không bao giờ khoe khoang công trạng của cá nhân mình…

Có lẽ nhân đây cũng phải kể đến một đòn ly gián khác mà công an an ninh Việt Nam thực hiện ở trong nước. Họ chỉ cần làm một “thao tác” vô cùng đơn giản bằng cách đàn áp một nhà đấu tranh N nào đó thật nặng nề tàn bạo, có thể tống giam và kết án thật cao. Nhưng đối với một vài người khác, họ lại chỉ theo dõi, ngăn cản, hoặc gọi hỏi thẩm vấn chiếu lệ. Như vậy, nếu chỉ nhận định một cách sơ sài, nhiều người sẽ cho rằng anh A, chị B có thể “có vấn đề” vì tại sao công an lại không đàn áp họ nặng nề như những người đấu tranh khác…

Thủ đoạn của công an an ninh Việt Nam thực sự là khó lường!

Trở lại chuyện gián điệp dân chủ. Gián điệp của công an Việt Nam cũng đều là con người cả. Họ đã có những thành công trong việc “chui sâu, leo cao” vào chế độ VNCH, một phần cũng là vì đặc thù của thời chiến, nên VNCH dễ mắc sai lầm trong khâu tuyển chọn nhân sự. Chính sự dễ dãi ấy đã vô tình nâng cao tầm vóc của những viên gián điệp bình thường lên thành những siêu nhân thượng thừa. Thực tế, trên bình diện tình báo quốc tế, cơ quan phản gián của Việt Nam

nói chung, chưa được xếp hạng, chưa có tên tuổi…

Điều đặc thù trong lĩnh vực đấu tranh chính trị giai đoạn hiện nay có tính chất hoàn toàn khác thời chiến, cho nên gián điệp dân chủ của công an không dễ gì chui vào hàng ngũ đấu tranh lâu dài mà không bị phát hiện vì lý do sau: Đã là người tham gia đấu tranh Dân chủ thì nhất thiết là phải làm việc, phải lên tiếng. Chính từ những việc làm, lời phát biểu, bài viết của một người, người ta rất dễ dàng nhận ra họ có phải là người đấu tranh thật sự hay không. Đó là trở ngại lớn không dễ gì vượt qua được của một viên gián điệp Dân chủ.

Ngay từ lúc này, các nhà đấu tranh Dân chủ cũng cần có kế hoạch để đoán nhận và sáng suốt nhận diện những tổ chức, và đảng phái “ma” của chế độ CSVN do lực lượng công an trực tiếp thiết kế sắp được ra đời. Nếu việc xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp 1992 thành hiện thực, thì có thể chế độ đảng trị ở Việt Nam sẽ tung ra hàng loạt những tổ chức chống Cộng rởm, thành lập các đảng “đối lập” bù nhìn, hòng lũng đoạn môi trường chính trị của Việt Nam. Hiện tượng này đã xảy ra trong mấy chục năm ở Việt Nam, và chỉ chấm dứt vào năm 1988, khi hai đảng bị ép làm bù nhìn là đảng Dân Chủ và đảng Xã Hội tuyên bố giải thể. Có lẽ, ĐCSVN đã có kế hoạch “Đa nguyên, Đa đảng”, nhưng bên cạnh những tổ chức, đảng phái của người Việt đấu tranh chống Cộng ôn hòa chân chính, sẽ có những đảng phái “ma” xuất hiện, và chúng vẫn là cánh tay biến hình của ĐCSVN…

Nếu công an Việt Nam, dưới sự chỉ đạo “tài tình”, “sáng suốt” theo kiểu Mafia của ĐCSVN, tức là sẽ lập ra các đảng (tạm gọi là vệ tinh) của họ, họ sẽ phải đối diện với việc “lộng giả thành chân” của các đảng vệ tinh ấy. Chuyện quyền lực, nhất lại là quyền lãnh đạo ở cấp chính phủ, sẽ là một sự cám dỗ khó lòng cưỡng nổi của một đảng phái. Trong lịch sử Việt Nam đã từng xảy ra nhiều lần, cảnh người thân ruột thịt trong gia đình các triều đại Phong kiến giết hại nhau để giành ngai vàng. Vậy một đảng chống Cộng mà các vị trí lãnh đạo vẫn là các đảng viên ĐCSVN giấu mặt, hoặc giả dạng trở cờ, thì với bản chất tham quyền cố vị, họ sẽ sẵn sàng loại bỏ ĐCSVN

(thật) để lên nắm quyền. Như vậy, nếu công an Việt Nam “chế tạo” ra các đảng phái đối lập, thì các đảng đó sẽ là chiếc “thòng lọng” mà ĐCS VN tạo ra để tự thắt cổ chính mình.

Một đúc kết từ quá trình sụp đổ của chế độ Cộng sản ở Đông Âu cho ta thấy: Trong quá trình tiếp xúc để đánh phá, đàn áp các nhà đấu tranh ôn hòa chống chế độ, có nhiều cán bộ công an an ninh của Cộng sản đã quay sang bí mật hợp tác với các lực lượng đấu tranh, hoặc họ cố tình làm trái lệnh cấp trên để hỗ trợ cho phong trào đấu tranh. Đây sẽ là một quy luật tất yếu sẽ xảy ra đối với trường hợp Việt Nam. Chính vì vậy, việc đấu tranh tuyên truyền giác ngộ chính lực lượng công an an ninh của Cộng sản là điều nên làm. Chúng ta kiên quyết, nhưng mềm dẻo, thay vì quyết liệt đối đầu với cá nhân mỗi viên công an, vô tình biến họ thành kẻ thù trực tiếp của bản thân mình.

Chúng ta luôn xác định rằng: Không bao giờ, và mãi mãi không bao giờ ĐCSVN chịu hoàn trả quyền lực về lại cho người chủ của đất nước, là nhân dân Việt Nam. Mọi nỗ lực theo phương châm “hòa hợp hòa giải” chỉ là sự hài hước hiện đại, vì ai đó đã mắc lừa ngón đòn chính trị ranh ma của ĐCSVN. Chỉ khi nào sức mạnh đấu tranh của toàn dân Việt Nam biến ĐCSVN trở thành thiểu số không còn được phép nắm quyền, hoặc họ hoàn toàn bị nhân dân loại bỏ, thì đất nước Việt Nam mới có thể bắt tay vào việc xây dựng một nền chính trị Đa nguyên Đa đảng đúng nghĩa.

Vì những điều trên, nếu bất kỳ ai đang tham gia đấu tranh ôn hòa chống chế độ độc tài CSVN mà mất cảnh giác với lực lượng công an an ninh Việt Nam, thì chắc chắn họ sẽ bị công an trấn áp, lung lạc, và làm “mờ mắt” với những đòn tinh vi xảo quyệt mà nhiều người sẽ không hình dung ra được!

Hy vọng rằng bài viết này cũng là

một tiếng nói cảnh báo kịp thời cho những nhà đấu tranh nào đang xem thường năng lực đàn áp, phá hoại, khủng bố giấu mặt của tình báo gián điệp, dưới tên gọi rất thân thiện: An ninh nhân dân VN.

  1. Đâu chỉ là tài nguyên, khoáng sản

Số 191 Trang 14

Page 15: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Việc Trung Quốc trúng thầu và thâu tóm hơn 90% các công trình trọng điểm quốc gia trải dài khắp mọi miền đất nước Việt Nam thì ai cũng biết. Mới đây, khoảng giữa tháng 1-2014, các báo của Nhà nước còn cho biết: 60% doanh nghiệp phía Bắc có người Trung Quốc đứng sau lưng. 

Lâu nay, người ta hay dùng danh từ “xâm lược” để chỉ về một cuộc chiến tranh quân sự, do nước A thực hiện đối với nước B, thì hôm nay, cần được nghĩ khác. Theo tư duy này, ta có thể khẳng định: Trung Quốc đã và đang xâm lược Việt Nam một cách toàn diện. Theo đó, không chỉ hàng ngày, hàng giờ, họ đang gặm nhấm, lấn dần từng tấc đất nơi biên giới (mặc dù giữa hai nước đã cắm mốc), tấc biển ngoài khơi xa, mà họ còn xâm lược rất thành công về kinh tế, chính trị, và đặc biệt là về ngoại giao… Việc Việt Nam không chính thức kỷ niệm 40 năm Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa (19-01-197419-01-2014), 35 năm ngày Trung Quốc xâm lược Việt Nam (17-02-1979 17-02-2014) cho thấy cuộc xâm lược của Trung Quốc đối với Việt Nam đã và đang hết sức thành công, không hề tốn một viên đạn mà thực hiện được mục tiêu một cách, ngoạn mục, mỹ mãn…

Câu hỏi được đặt ra ở bài này là: tại sao Bắc Kinh lại “ưu tiên” để cắm chốt ở Hà Tĩnh và Quảng Trị?

a. Đối với cảng Cửa Việt, Quảng Trị

Ngày 14-02-2014, đài VOA, trong bài viết có tựa đề “Báo động: Người Trung Quốc lại sắp lập căn cứ ở Quảng Trị”, tác giả là Blogger Lê Anh Hùng, cho biết: 

“Công ty Cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam (một công ty sản xuất thức ăn gia súc, thuỷ sản và chăn nuôi hàng đầu Việt Nam, trước đây thuộc tập đoàn C.P. Group của Thái Lan, nhưng đã bị Trung Quốc thâu tóm kể từ năm 2011) sắp được giao 96,1ha đất, kéo dài hơn 2km dọc theo bờ biển và chỉ cách cảng Cửa Việt chưa đầy 1km”(1).

Cũng trong bài viết này, về vị trí chiến lược và sự nhạy cảm của cảng Cửa Việt, tác giả dẫn lời nhà văn Xuân Đức, một người con của tỉnh Quảng Trị, đã viết về thời kỳ chống Mỹ như sau: “… cuộc chiến trên cảng Cửa Việt và sông Cửa Việt nói riêng đã trở thành quyết chiến điểm khốc liệt nhất có ý nghĩa quyết định sự thành bại của cả chiến trường Miền Nam”.

b. Đối với cảng Vũng Áng, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh

Tháng 4-2006, Khu Kinh tế Vũng Áng được thành lập, theo Wikipedia có diện tích tự nhiên 227,81 km2 (22.781 ha). Các hoạt động kinh tế được ưu tiên phát triển tại khu kinh tế Vũng Áng bao gồm: dịch vụ cảng biển, công nghiệp luyện kim gắn với lợi thế về tài nguyên và nguồn nguyên liệu (mỏ sắt Thạch Khê, mỏ titan,...).

Đáng chú ý là khu kinh tế Vũng Áng đang được đầu tư Dự án nhà máy gang thép Formosa Hà Tĩnh (2) là một trong những dự án trọng điểm và lớn nhất của Tập đoàn Formosa (tiền thân là của Đài Loan, nhưng đã nhượng lại 100% cổ phần cho Trung Quốc?!) với tổng mức đầu tư 15 tỷ USD (gồm hai giai đoạn), nằm trên diện tích trên 3.300ha, trong đó diện tích đất liền là hơn 2.000 ha và diện tích mặt nước trên 1.200 ha.

Với quy mô lớn như vậy, thì người Trung Quốc có thể ăn nằm tại khu vực này khoảng 25 đến 30 năm, vừa để đầu tư xây dựng công trình vừa để khai thác vận hành nhà máy, vậy là đủ để một thế hệ người Tàu lấy vợ, lập thành phố người Tàu tại khu vực Kỳ Anh, Hà Tĩnh; sâu xa hơn, có thể là lực lượng địa phương sau này trong mưu đồ chia cắt Việt Nam thành hai miền.

Tháng 10-2013, đài RFA đăng bài “Một Hà Tĩnh đầy ắp người Trung Quốc”, báo động tình trạng cát cứ của người Trung Quốc tại Vũng Áng, mà hậu quả về an ninh xã hội tại nơi này qua ý kiến của một người dân được bài báo trích đăng là: 

“…Bây giờ, phần đông gia đình đã bán hết đất cho người Tàu; đất thì không còn nữa mà con cái thì nghiện ngập, hư hỏng. Như vậy, chỗ an thân cũng không còn mà niềm hy vọng vào tương lai cũng bị đứt gãy. Điều này phải xem lại âm mưu của người Trung Quốc”.

Và đây là nhận định tổng quát của bài báo, khi tác giả nghe từ một phụ nữ: “Có thể nói rằng có đến 70% thanh niên hư hỏng, nghiện nập. Và bà tỏ ra hoài nghi sự có mặt của những người Trung Quốc. Bà nghĩ rằng họ đến Kỳ Anh mua đất làm ăn không đơn thuần, họ có ý đồ không tốt và họ rất nguy hiểm”.

Nhưng đáng chú ý nhất, báo động đỏ cho tình hình tại Vũng Áng, phải là một comment (của một người địa phương nơi đây) trong bài: “Nhà văn Phạm Xuân Nguyên: Cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung là một sự thật lịch sử không thể xóa bỏ”, đăng trên blog Dân Quyền (Diễn đàn XHDS) hôm 14-02-2014, toàn văn

như sau:“Cảm ơn nhà văn Phạm Xuân

Nguyên đã nói lên những suy nghĩ của tôi và bạn bè tôi – những người đã chiến đấu có người đã anh dũng hy sinh, có người bị thương…. trong cuộc chiến chống Tàu cướp nước 2-1979, tại Bắc Luân (Quảng Ninh), ở Trung đoàn 288 Quân khu 3.

Tôi cũng rất đau lòng khi vùng đất quê Kỳ Anh (Hà Tĩnh) của anh Nguyên và chúng tôi đã được cầm quyền ĐCSVN bán cho Trung Quốc hơn 80 km2 thành khu căn cứ riêng mà chỉ có chức sắc Tỉnh ủy Hà Tĩnh và Đảng TƯ mới có thể được Tàu cho vào, còn chủ tịch tỉnh lấy chức danh đó cũng không được vào [? – NHQ]. Trung Quốc xây tường và nhà cao tầng dọc đường quốc lộ 1 từ Kỳ Anh đến Cẩm Xuyên hơn 20 km, chiếm hoàn toàn biển phía Đông đường Quốc lộ 1, để làm gì cũng không ai được biết.

Dân Kỳ Anh (Hà Tĩnh) mất đất, không việc làm. Trai thì cờ bạc, đề đóm, chích choác ma túy. Gái thanh niên, trung niên cặp nón, ô… môi son, má phấn, mắt xanh mỏ đỏ, vẫy gọi khách đi xe bắc Nam, công khai làm điếm vì không có việc làm. Đất ở, đất ruộng, cả mồ mả cha ông… nay ĐCSVN bán cho Tàu rồi. Trai Tàu lấy vợ Kỳ Anh, là mơ ước của gái Kỳ Anh ngày nay, vì đi làm điếm còn khổ hơn. Người Trung Quốc ở Kỳ Anh không cần theo luật CHXHCNVN là đi xe máy họ không cần đội mũ, mà công an còn cười chào thân thiện. Người Kỳ Anh mà đi xe máy không đội mũ thì chỉ có đi theo ông Trịnh Xuân Tùng - Hà Nội” (4).

Rõ ràng, Trung Quốc đang thực hiện cuộc di dân rất âm thầm, nhưng quyết liệt và hiệu quả vào lãnh thổ Việt Nam một cách hợp pháp, có sự tiếp tay của quan chức Việt Nam ở cấp cao, thông qua chính sách đầu tư xây dựng và khai khoáng.

Vũng Áng quả là một vị trí lý tưởng không chỉ để khống chế Việt Nam về mặt đường bộ, mà toàn bộ đường biển đi vào Vịnh Bắc Bộ. Một nguy cơ không thể không được báo động!

2. Tam giác căn cứ quân sự Du Lâm - Vũng Áng - Cửa Việt

Số 191 Trang 15

Page 16: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ, thì rất có thể thông qua tam giác căn

cứ quân sự Du Lâm - Vũng Áng - Cửa Việt, Trung Quốc dễ dàng chia cắt VN cả về đường biển và đường

bộ, thậm chí chia VN thành hai miền.Căn cứ hải quân Du Lâm (5) của

Trung Quốc, được Bách khoa toàn thư Wikipedia giới thiệu: là căn cứ tàu ngầm, nằm ở thành phố Tam Á, ở cực Nam trên đảo Hải Nam, “là một mối lo an ninh cho các nước ASEAN cũng như Ấn Độ”. Theo bản đồ (kèm theo), từ Du Lâm đến Vũng Áng và Cửa Việt của Việt Nam, có chiều dài đường chim bay khoảng 320-350 km, trong khi khoảng cách giữa Vũng Áng đến Cửa Việt theo QL1A là 190 km. Ba đỉnh này tạo thành một tam giác, và với lực lượng hùng mạnh về tàu ngầm và tàu chiến mặt nước, Trung Quốc rất dễ dàng chia cắt hai miền của Việt Nam ở khu vực Vũng Áng và tỉnh Quảng Bình. Kể cả đường bộ và đường biển.

Phải chăng việc cấm người Việt Nam ra vào Vũng Áng và Cửa Việt, bộc lộ ý đồ Trung Quốc muốn xây dựng hai vị trí này thành căn cứ quân sự bí mật của họ, phục vụ cho việc chia cắt Việt Nam bằng lực lượng hải quân khi chiến sự xảy ra. Đây chính là đáp án trả lời cho câu hỏi: tại sao Bắc Kinh lại “ưu tiên” để cắm chốt ở Hà Tĩnh và Quảng Trị.

(Nên nhớ, Quảng Bình, nơi nằm giữa Vũng Áng và Cửa Việt, là vùng đất hẹp nhất trên dải đất hình chữ S của Việt Nam, bề rộng chỉ hơn 40 km tính từ bờ biển đến biên giới Việt-Lào).

3. Vũng Áng - Cửa Việt và việc thực hiện “đường lưỡi bò”

Ta dễ dàng nhận thấy phần lớn chiều dài về phía Nam của “đường lưỡi bò” nằm trên lãnh hải chủ quyền của Việt Nam và Philippin; trong khi, do khu vực Quần đảo Trường Sa gồm nhiều đảo nhỏ, biển nông, luồng tàu hẹp… cho nên, theo bản đồ trên đây, ta thấy luồng vận chuyển của các tàu viễn dương quốc tế chỉ đi trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (đường màu trắng mờ).

Liệu Trung Quốc có thể khống chế

diện tích theo “đường lưỡi bò” mà họ đã tuyên bố hay chăng? Tất nhiên, chỉ với điều kiện Trung Quốc khống chế được Việt Nam. Xin dẫn một đoạn về tham vọng của Mao Trạch Đông: “Chủ tịch Mao Trạch Đông (còn) khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và Singapo… Một vùng như Đông Nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản… xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy… Sau khi giành được Đông Nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…” (Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua, NXB Sự Thật, 1979).

Như vậy, tham vọng chia cắt Việt Nam một lần nữa như đã nói trên, không phải là không có căn cứ. Với bọn Bá quyền Đại Hán Bắc Kinh, thì mọi việc đều có thể. 

4. Vài lời kết1- Không phải ngẫu nhiên mà

Trung Quốc thực hiện đầu tư lớn vào hai vị trí Vũng Áng, Kỳ Anh, Hà Tĩnh và cảng Cửa Việt, tỉnh Quảng Trị. Thời gian đầu tư dài, trên một dải đất hẹp nhất của Việt Nam, đủ điều kiện để Trung Quốc thay người Việt ở hai địa phương này bằng người Tàu. Rất có thể có nguy cơ đến một thời điểm thích hợp (sau 15-25 năm), Trung Quốc sẽ phát động chiến tranh và chia đôi Việt Nam một lần nữa để mưu chiếm toàn bộ Biển Đông.

2- Nếu vẫn tiếp tục để Trung Quốc lộng hành và không kiểm soát được họ tại hai địa điểm nói trên thì đó là sai lầm mang tính lịch sử. Nhân dịp 35 năm ngày xảy ra chiến tranh Trung Quốc xâm lược Việt Nam (17-02-197917-02-2014), việc để Trung Quốc bất ngờ phát động và xâm lược trên toàn cõi biên giới phía Bắc đêm 16 rạng sáng ngày 17-02-1979, mà phía Việt Nam không hề hay biết, là bài học cảnh giác, nếu như còn muốn Việt Nam tồn tại như một quốc gia độc lập, mà không muốn bị chia cắt một lần nữa hoặc tự biến thành một tỉnh của Trung Quốc.

Ngày 16/02/2014Ghi chú:(1) Báo động: Người Trung Quốc

lại sắp lập căn cứ ở Quảng Trị. http:// www.voatiengviet.com/content/nguoi-trung-quoc-lai-sap-lap-can-cu-o-quan g-tri/1848385.html. (2) Khởi công xây dựng Nhà máy gang thép Formosa Hà Tĩnh. http://dantri.com.vn/kinh-doa nh/khoi-cong-xay-dung-nha-may-gan g-thep-formosa-ha-tinh-669405. htm. (3) Một Hà Tĩnh đầy ắp người Trung Quốc. http://www.rfa.org/vietna mese/ in_depth/ha-tinh-pro-swar-chi-102320 13065235.html. (4) Nhà văn Phạm Xuân Nguyên: Cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung là một sự thật lịch sử không thể xóa bỏ. https: //diendanxa hoidansu.wordpress.com/2014/02/14/nha-van-pham-xuan-nguyen-cuoc-chi en-tranh-bien-gioi-viet-tru ng-la-mot-su-that-lich-su-khong-the-xoa-bo/ (5) Căn cứ hải quân Du Lâm. http://vi. wikipedia.org/wiki/C%C4%83n_c%E1%BB%A9_h%E1%BA%A3i_qu%C3%A2n_Du_L%C3%A2m. Tác giả gửi trực tiếp cho   BVN . http://boxitvn.blo

gspot.de/2014/02/trung-quoc-ang-co-am-muu-gi-o-ha-tinh.html#more

Thêm một lần nữa, ba chữ “người Trung Quốc” làm nhức nhối một vùng đất Việt Nam, đặc biệt là những vùng duyên hải Việt Nam đang bị thâu tóm, xâu xé và chảy máu bởi những kẻ bên ngoài đóng vai nhà đầu tư nhưng thực chất, bên trọng họ ẩn chứa những mối nguy cho dân tộc. Tỉnh Quảng Trị, cũng giống như những tỉnh nghèo khác, lại bị người Trung Quốc tràn ngập xứ đất này và cũng như nhiều nơi khác, họ lại đóng vai nhà đầu tư cùng hàng loạt hành tung bí ẩn, khó hiểu và ngạo mạn, bất chấp của họ.

Những vùng đất trong tầm ngắm của Trung Quốc (TQ)

Nếu như những năm cuối của thập niên 2010, nhân dân đã bức xúc vì người Trung Quốc tràn lan ở những vùng miền núi trọng yếu,

Số 191 Trang 16

Page 17: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

vùng chiến lực quân sự của Việt Nam như Tây Nguyên Trung phần Việt Nam, các nông trường dọc theo dãy Trường Sơn, các cửa khẩu phía Bắc và những tỉnh lị cận biên giới như Bình Dương, Tây Ninh, Long An, An Giang, Cà Mau… Thì hiện tại, mức độ tràn lan của họ kinh khủng gấp trăm lần trước đây.

Nếu như ở những nơi này, người Trung Quốc có được đặc quyền đặc lợi là tha hồ khai thác, được hoạt động bí mật, người Việt Nam không được vào khu vực hoạt động của họ và họ chỉ đóng một mức thuế tượng trưng… Thì hiện tại, mức độ tràn lan của người Trung Quốc trên đất Việt Nam đã đi vào chỗ không thể kiểm soát được nữa và nhân dân càng lúc càng thấy lo ngại cho sự tung hoành của họ. Mọi vùng đất duyên hải đều có mặt người TQ.

Một người dân ven biển Quảng Trị than thở: “Quá nguy hiểm chứ, bên phía cửa Việt, cửa Tùng, nó lấy danh nghĩa đầu tư kinh tế. Vậy mà bên phía chính quyền nó làm lơ, không đấu tranh là chết luôn.”

Theo người này nói, thời gian gần đây, hầu như mọi mảnh vườn ở làng Hà Tây, xã Triệu An, huyện Triệu Phong đều lâm vào nạn xâm lăng một cách trắng trợn của người Tàu và nhà cầm quyền địa phương. Nghĩa là khi người Tàu đến đây, việc đầu tiên họ làm là tìm đến các cơ quan, các quan chức để bằng mọi giá liên kết, đút lót và mua chuộc bằng được các quan chức này. Để rồi sau đó là những hành động xâm lăng.

Hành động xâm lăng của người Tàu được thực hiện theo con đường đầu tư kinh tế trá hình. Người này khẳng định đó là xâm lăng và bán nước chứ không phải đầu tư gì cả. Vì một khi đầu tư kinh tế đích thực, biểu hiện đầu tiên của việc đầu tư phải là thiện chí, thuận mua vừa bán và không có những hành tung đen tối.

Đằng này, thay vì thỏa thuận với nhân dân để mua đất, người Tàu lại mua chuộc và biến quan chức địa phương thành tay sai của họ, các quan chức địa phương nghiễm

nhiên trở thành con rối trong cuộn dây giật của người Tàu. Thay vì bảo vệ nhân dân và bảo vệ quyền lợi quốc gia, bảo vệ lợi ích quốc dân, các quan chức địa phương lại bằng mọi giá bảo vệ người Tàu, xem họ như những quan thầy và bất chấp nỗi tủi nhục, đau khổ của nhân dân, họ hết dùng thủ đoạn này chuyển sang thủ đoạn khác để biến đất canh tác, đất vườn của nhân dân thành công trình của người Tàu.

Những dự án “tắc kè đổi màu”Một người dân khác ở Quảng Trị

nói: “Tức là hồi giờ nó làm ở miền Bắc, giờ nó làm ở miền Trung. Nhưng cái đó cũng phụ thuộc bên mình mà. Thế chiến lược của thằng Trung Quốc là nó đánh giữa miền Trung để nó cắt đôi miền Nam và miền Bắc ra.”

Theo một người dân khác, chuyện thu hồi đất, phù phép diện tích đất của người dân trở thành nơi xây dựng cho người Trung Quốc có những bước đi và lộ trình của nó chứ không phải là ngẫu nhiên. Cũng như ở những tỉnh khác, dường như cơ quan cầm quyền địa phương đã có chung một công thức: lấy đất của dân nhân danh công trình phúc lợi xã hội, dự án nhà nước. Và theo luật nhà đất cũng như luật dân sự hiện hành, việc thu hồi đất của nhân dân để xây dựng công trình nhà nước, công trình mang tính phúc lợi xã hội là hợp lý, mức đền bù theo giá nhà nước qui định.

Có thể là một nơi mỗi khác, thủ đoạn của quan chức địa phương sẽ dích dắc cho phù hợp vùng miền, nhưng việc đầu tiên bao giờ cũng là ra thông báo, sau đó họp dân một cách tượng trưng, đưa những tay chân vào phát biểu thể hiện sự nhất trí để lôi kéo nhân dân, sau đó đến lệnh thu hồi đền bù. Và tất cả chuỗi thông báo, lệnh thu hồi đền bù này đều nhân danh lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc. Chính vì sự nhân danh như thế, nhân dân khó bề chống đối hoặc không đồng ý.

Và khi đất đã bị thâu tóm về tay nhà cầm quyền, lúc đó dự án sẽ đổi màu như một con tắc kè. Ban đầu nó mang màu xanh của niềm hy

vọng nhân dân, sau đó nó chuyển dần sang màu tía rồi lộ nguyên màu đỏ của sức mạnh độc tài, thâu tóm và lừa bịp nhân dân. Thay vì xây dựng công trình phúc lợi cho xã hội, người ta bắt đầu bán cho Trung Quốc và người Trung Quốc lại xây dựng thành những mật khu mà người Việt Nam không thể nào biết được bên trong nó chứa những gì và nó có lợi ích hay độc hại, nguy hiểm cho an ninh quốc gia gì không. Nói chung là nhân dân mù tịt trước những mật khu của người Tàu ngay trên quê hương mình.

Một người dân khác nói thêm là mức độ nguy hiểm của các mật khu Trung Quốc mà trên danh nghĩa đó là những công trình kinh tế trọng điểm, những công trình đầu tư nước ngoài triệu đô tưởng chừng như đơn giản nhưng thực tế, nó mang lại một tai biến lớn cho dân tộc.

Sở dĩ gọi là tai biến bởi ông này quan niệm rằng não trạng của cả dân tộc cũng giống như bộ não của một con người, một khi nhồi nhét quá nhiều chất độc, hoặc là nó tạo khối u, hoặc là nó tắc nghẽn động mạch và một ngày nào đó, mạch máu bùng vỡ, làm cho não bộ bị tê liệt, nhẹ thì tàn tật suốt đời, nặng thì tử vong.

Tình trạng các công trình người Tàu xuất hiện ở các vùng duyên hải miền Trung là một tình trạng đầu độc đúng nghĩa. Hoặc là các thương nhân Tàu sẽ vung tiền, kéo hàng loạt thanh niên, đặc biệt là những cô gái mới lớn, con nhà nghèo rơi vào nghề bán dâm vì mê túi tiền của họ và bị họ gài bẫy để rồi hàng loạt cô gái phải sa chân vào con đường mại dâm.

Số 191 Trang 17

Page 18: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Về phần nam thanh niên, bởi học

hành dang dở, thất nghiệp kéo dài nên khi có một công việc nào nhanh hái ra tiền, họ sẽ bất chấp để kiếm tiền. Và chuyện kết bè kết nhóm, tổ chức băng đảng để buôn bán ma túy và chèo kéo những thanh niên đồng lứa vào đường dây, sau đó giới thiệu cho những ông trùm người Tàu để mở rộng thị trường ma túy đang là ung nhọt nhức nhối ở Quảng Trị.

Một lần nữa, người TQ lại thành

công trong chiến dịch bành trướng của họ trên đất Quảng Trị.

Số 191 Trang

TỔ QUỐC Ở TRƯỜNG SA (Tưởng nhớ những chiến sĩ hy sinh ở đảo đá Gạc Ma 14-03-1988)

Các con đứng như tượng đài quyết tửThêm một lần Tổ quốc được sinh ra

Dòng máu Việt chảy trong hồn người ViệtĐang bồn chồn thao thức với Trường Sa

Khi hy sinh ở đảo đá Gạc MaHọ đã lấy ngực mình làm lá chắnĐể một lần Tổ quốc được sinh ra

Máu của họ thấm vào lòng biển thẳmCờ Tổ quốc phất lên trong mưa đạn

Phút cuối cùng đảo đá hóa biên cươngHọ đã lấy thân mình làm cột mốc

Chặn quân thù trên biển đảo quê hươngHọ đã hóa cánh chim muôn dặm sóngHướng về nơi đất mẹ vẫn mong chờNếu mẹ gặp cánh chim về từ biểnCon đấy mà, mẹ đã nhận ra chưa!Có nơi nào như Đất nước chúng ta

Viết bằng máu cả ngàn chương sử đỏKhi giặc đến vạn người con quyết tửCho một lần Tổ quốc được sinh ra

Biển mùa này sóng dữ phía Hoàng SaCác con mẹ vẫn ngày đêm bám biển

Mẹ Tổ quốc vẫn luôn ở bên taNhư máu ấm trong màu cờ nước ViệtBiển Tổ quốc đang cần người giữ biểnMáu ngư dân trên sóng lại chan hòaMáu của họ ngân bài ca giữ nướcĐể một lần Tổ quốc được sinh raViệt Nam ơi! dưới bão táp mưa sa

Người thắp sáng một niềm tin bền bỉNhững giếng dầu trụ vững giữa khơi xa

Dầu là máu thắp trên thềm lục địaSớm mai này nắng ấm ở Trường SaTiếng gà gáy bình yên trên ngực đảo

Tiếng trẻ nhỏ đến trường nơi sóng bãoThêm một lần Tổ quốc được sinh ra

Nguyễn Việt Chiến, 21.6.2011

18

Page 19: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Mười lý do làm gói 30 nghìn tỷ đồng “hỗ trợ” BĐS thất bạiGói tài chính 30 ngàn tỷ đồng có

tên và mục đích “đẹp đẽ” là Hỗ trợ thị trường bất động sản (BĐS) với đối tượng hay phân khúc cụ thể là căn hộ cho người có thu nhập thấp của chính phủ Việt Nam sau gần 9 tháng chật vật triển khai nay mới giải ngân được trên 800 tỷ đồng, tức chưa được vẻn vẹn 3% tổng dự kiến. Tình hình hiện nay là cả người hỗ trợ và người là đối tượng được hỗ trợ đều không đạt được mong muốn, vì một bên không “giải được nó” và một bên không “sờ được nó”, còn bên trung gian thực hiện nó thì vẫn loay hoay vì không biết khớp chính sách hỗ trợ mơ hồ với nhu cầu thực ra sao… Thế nên, một số chuyên gia đã thẳng thắn đánh giá là nó thất bại và dự đoán là nó sẽ thất bại trước cả khi nó kết thúc, còn đa số qua gần 1000 đài báo của đảng vẫn ra rả ca ngợi nó, kỳ vọng vào nó, thổi nó lên chín tầng mây đỏ sao vàng...

Tôi thì biết nó đã thất bại. Tại sao vậy? Sau đây là mười (10) lý do chính, theo tôi, làm cho nó đã, đang và sẽ chắc chắn thất bại:

Thứ nhất, về lý thuyết kinh tế XHCN, trong nền kinh tế “định hướng” XHCN này thì việc triển khai gói tài chính như thế chính là một “định hướng XHCN” trên thị trường (cũng như các gói cứu trợ doanh nghiệp nhà nước, hỗ trợ tái cấu trúc ngân hàng hay giải quyết nợ xấu qua VAMC…)!

Ở đây, nó được định hướng là để giúp cho người nghèo, tức người có thu nhập thấp, nhưng lý thuyết kinh tế định hướng XHCN thì “đảng ta” dự kiến đến cuối thế kỷ mới có thể hoàn thiện, hiện nay chưa có, nên Chính phủ không biết đưa ra chính sách triển khai thế nào, thôi thì cứ quyết liệt vừa làm vừa sửa, đến cuối thể kỷ mới hoàn thiện chính sách thì “đảng ta” cũng không thể khiển trách chính phủ được.

Tóm lại, đảng ta và chính phủ ta coi người có thu nhập thấp là những con chuột bạch bị bệnh “ví lép kinh niên” và đang thí nghiệm đại trà một loại thuốc làm nở ví bằng vay nợ chính phủ để mua những căn hộ con con chất lượng thấp… Vì là thí nghiệm nên xác suất thành công bằng zero cũng là bình thường mà.

“Đảng ta” còn cả trăm năm nữa để thí nghiệm các ý tưởng cao đẹp của mình trên đầu dân đen đã thành chuột trắng từ lâu…

Thứ hai, về lý thuyết kinh tế thị trường, gói kích cầu BĐS đó chỉ là một cách can thiệp thị trường bằng quyết định chính trị (quyết định mị dân, lừa dân, sẽ bàn đến ở lý do sau), hoàn toàn phi kinh tế.

Thay vì đưa ra các chương trình làm sao giúp người thu nhập thấp có thu nhập cao dần lên để mua được nhà trả góp (cho họ có cần câu cá) - vốn là nhiệm vụ của các chính phủ, thì bằng Gói hỗ trợ này chính phủ “ta” lại hứa (vẫn mới chỉ hứa thôi) cho họ có ngay con cá bự nhất là mua được nhà mà không phải cố gắng nhiều, làm họ hy vọng vào cơ hội “tay không bắt giặc” mà đảng và chính phủ vẽ ra, mà bỏ qua con đường căn cơ tất yếu phải đi lên giàu có bằng lao động và gia tăng thu nhập từng bước - như con em họ phải học từng lớp từ vỡ lòng đến lớp 12 mới vào đại học được.

Sự can thiệp hành chính dưới mưu đồ chính trị này đi ngược bản chất thị trường tự do, nên nó sẽ bị thị trường đào thải, dù đảng ta có “quyết tâm chính trị” “quyết liệt” đến đâu…

Thứ ba, về mục đích công khai của Gói hỗ trợ, có thật là và tại sao lại phải hỗ trợ người có thu nhập thấp mua nhà? Trong các xã hội bình thường (và không “ưu việt” như XHCN), người có thu nhập thấp thì không thể mua nhà, họ phải chấp nhận ở nhà thuê thôi, rồi tập trung và cố gắng làm việc sao cho có thu nhập cao hơn (thu nhập trung bình thấp và trung bình) nhưng ổn định và tích lũy để có thể mua nhà trả góp dài hạn. Rồi khi vươn lên có thu nhập cao hơn và tích lũy nhiều hơn nữa, họ có thể mua hẳn căn hộ cao cấp hay nhà phố, biệt thự… Đó là một trật tự và một sự công bằng cơ bản và tất yếu của xã hội.

Nhưng, bản chất XHCN là đảo ngược trật tự xã hội loài người như Marx đã đề ra, mà cụ thể ở đây có lẽ là khuyến khích người nghèo và cái nghèo, nên phải giúp người nghèo mua được nhà ngay bằng thu nhập thấp, tức là lại vẫn “tay không bắt giặc”, như đảng ta đã tay mượn liềm, tay mượn búa (thực ra là trong bụng giắt dao cài súng và vai khoác dây

thừng) mà cướp được cả đất nước này. Đó gọi là “đốt cháy giai đoạn”, không cần vươn lên có thu nhập trung bình và thu nhập khá, thu nhập cao của người nghèo, là giúp người nghèo sẽ có nhà ngay và… mãi mãi có thu nhập thấp.

Mục đích trên, vì thế tưởng là tốt đẹp và nhân đạo, nhưng thực chất nó đi ngược quá trình vươn lên giàu có của mỗi người nên nó sẽ tước mất cơ hội giàu có (bằng phấn đấu tự thân) của mỗi người. Vì nó đi ngược tự nhiên nên nó không chỉ bất khả thi, khó thực hiện mà còn vô cùng tàn độc với dân. Tàn độc ở chỗ nó mãi mãi chỉ là lời hứa của “đảng ta” thôi, vì không khả thi, nhưng “đảng ta” đã bắt dân phải mang ơn mình vì lời hứa đó rồi…

Thứ tư, về mục đích thực, gói tài trợ trên đảng rất biết là không khả thi như trên, nhưng vẫn triển khai rầm rộ, vì mục đích thực của “đảng ta” chỉ là muốn có một động tác PR mị dân thật hoành tráng, như đa số các động tác “vì dân” khác của họ, chỉ để chứng tỏ “đảng ta” và chính phủ “ta” vì là Cộng sản nên rất biết “chia sản” cho dân, rất quan tâm đến người nghèo, người có thu nhập thấp, mà thôi. Vì thế, nó phải được tuyên truyền thật nhiều, thật ầm ĩ, nhưng phải được giải ngân thật chậm, thật khó. Có như thế, mục đích thật của gói là để mị dân, tức là lừa dân nghèo ăn bánh vẽ, mới có hiệu quả cao. Nếu giải ngân nhanh vèo thì còn gì để khoe khoang rằng tôi đang bận “chia sản” cho người nghèo nữa!

Khổ nỗi, dân ta vốn sống bằng bánh vẽ của “đảng ta” suốt 70 năm qua rồi, nên thêm một cái bánh vẽ nữa, là rất cần thiết cho cả hai – cả đảng và dân. Chẳng thế mà “đảng ta” đã rêu rao qua gần một nghìn loa báo đài của mình về một cái bánh khác đang được vẽ cho bất động sản cỡ 180-200 nghìn tỷ đồng (do Thứ trưởng Bộ XD Nguyễn Trần Nam công bố cuối năm 2013), và gần đây (đầu năm 2014) là cái bánh mới vẽ khác nhỏ hơn một chút (chỉ 100 nghìn tỷ đồng thôi), tất cả đều lớn hơn cái bánh vẽ ban đầu còn chưa nuốt được đến ba bẩy lần.

Các Cụ ta bảo: nói điêu cũng có năm bảy đường, nhưng nói điêu, tức nay gọi là “nổ”, cỡ như “đảng ta” quen làm, thì chỉ có là bọn sống bằng nghề… đánh đĩ! Nước Pháp có cô gái từng làm nghề đó được người Pháp đúc tượng và tôn vinh là anh hùng dân tộc vì xả thân chống giặc ngoại xâm, còn “đảng ta” đã đưa giặc Tàu vào khắp nước, và bắt dân ta phải tôn

Số 191 Trang 19

Page 20: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

vinh “đảng ta” là anh hùng dân tộc và đúc tượng vài kẻ đầu đảng, nay đã bổ sung thêm và phát triển rực rỡ chức năng đánh đĩ như trên, chắc là dân ta sẽ còn phải đúc thêm nhiều tượng lắm để tôn thờ và biết ơn đảng!

Thứ năm, về chiến lược quản trị xã hội, đó còn là một đòn gió để đảng và chính phủ cùng gần một nghìn loa đài báo của mình lái dư luận xã hội vào hành động “cao thượng” đó của mình, tức là ra khỏi các vấn đề nhức nhối trong nền kinh tế, chính trị, xã hội khác. Đồng thời, trong chính thị trường bất động sản –vấn đề nhức nối nhất là của các nhà đầu tư/đầu cơ bất động sản – là của các nhóm lợi ích, của người giàu mới nổi– và gói cứu trợ này thực chất là để cứu họ và cho người giàu và các nhóm lợi ích đang ôm và bế tắc.

Thực ra, cuối cùng thì đảng ta đang muốn ngấm ngầm tự cứu mình, vì hơn ai hết đảng biết rõ ai đang chìm trong đó, không phải là những người dân có thu nhập thấp –họ đã được tham gia thị trường BĐS đâu mà cứu họ ở đó? Vì thế, gói cứu trợ đó đúng là một mũi tên bắn nhiều đích của “đảng ta”, và ở đích nào đảng cũng bắn chết dân.

Các Cụ đã nói: với tà quyền thì dân là bia đời, quả không sai. Ở Việt nam hôm nay, đâu đâu dân cũng là bia tập bắn và bắn thật, bắn chơi… của “đảng ta” mà thôi.

Thứ sáu, về định lượng ảo tưởng của gói hỗ trợ. Thực tế xã hội VN hôm nay, nếu hỗ trợ người dân có thu nhập thấp để mua nhà thì cần có ít nhất trên 1 triệu căn hộ giá rẻ khoảng 500 triệu đồng để bán trả dần, tức cần Gói hỗ trợ trên 500 nghìn tỷ đồng mới tạm đáp ứng nhu cầu. Gói 30 nghìn tỷ là quá nhỏ, chỉ đáp ứng 30/500 tức khoảng 6% nhu cầu thì không thể giải quyết được vấn đề hay mục tiêu “đẹp đẽ” mà gói hỗ trợ đưa ra. Vì thế, cái định lượng không tương xứng mục tiêu của nó làm nó trở thành trò hề ngay từ khi nói ra (nhưng “chiên gia” của đảng không ai dám nói ra), và sẽ thất bại. Mặt khác, nó gián tiếp chỉ ra  mục tiêu thực của “đảng ta” là cái khác: đó chỉ là bánh vẽ thôi, vẫn chỉ là “cho trẻ con ăn cứt gà” gói trong cờ đỏ sao vàng gọi là kẹo thần dược của đảng cho dân. Loại “kẹo” này các đảng Cộng sản khác ở Đông Âu và Liên xô cũ đã dùng nhiều rồi, góp phần làm dân họ ngộ độc suýt chết – nhưng người bị báo tử lại là… các đảng Cộng sản.

Ví dụ: Ở Balan những năm 70-80 thế kỷ trước, đảng và chính phủ Cộng sản Balan có chương trình 5 năm

(sau kéo dài thành 10 năm cũng… càng toi) cung cấp 1 triệu căn hộ cho người lao động và dồn hết toàn lực có thể của toàn đất nước Balan (khá giàu mạnh lúc đó) vào đó. Kết quả sau hơn chục năm cũng rất quyết liệt, chỉ có gần 200 nghìn căn hộ chất lượng vô cùng bậy bạ (so với Châu Âu) được hoàn thiện, còn trên 800 nghìn căn hộ đã giải ngân nhưng bốc hơi ngay trên giấy.

Cựu Thứ trưởng Bộ TNMT sau này là ông Đặng Hùng Võ, lúc đó vẫn đang đi buôn lậu và lên “soái” ở Balan chắc còn biết rõ hơn tôi?

“Túm” lại là, 1 triệu căn hộ cho dân “đen” chả thấy đâu, chỉ thấy các quan “đỏ” đâu đâu cũng có villas và biệt thự xa xỉ hoành tráng, kiểu như ông Truyền cựu Thanh tra chính phủ “ta” có 5-6 biệt thự khắp nơi vậy, hay “biệt thự nhỏ” của Ianukovich ở Ucraina - “chuyện nhỏ”!

Nhưng hàng vạn chuyện nhỏ đã thành chuyện lớn: hàng chục triệu người dân Balan (được hứa sẽ có căn hộ giá rẻ và trả dần) đã xuống đường và tham gia Công đoàn Đoàn Kết… đã lật đổ những kẻ “đánh đĩ to mồm”, hứa một đằng làm một nẻo là đảng Cộng sản và chính quyền Cộng sản… Tiếc là “đảng ta” cố tình không học bài học mà lịch sử các đảng CS đã thành ma để lại, mà vẫn cứ giở trò ma đó với dân ta hôm nay…

Kết quả sẽ “thành công” thế nào thì cái “đỉnh cao trí tuệ” đã tự biết rồi, nên đang cố tự mình học võ Tầu làm ve sầu thoát xác mà thôi. Nhưng khó “thoát xác” lắm, không thoát được đâu, “ve sầu Cộng sản” ơi, các bác tự biết thế mà!

Thứ bảy, về công cụ triển khai, là hệ thống các ngân hàng thương mại của nhà nước.

Vấn đề ở đây là, các ngân hàng nhà nước VN hôm nay vốn là các công cụ của “đảng ta” để “Cộng sản”, tức để làm các trò ma tài chính, để cướp phá và rút ruột nền kinh tế quốc gia cho các nhóm lợi ích và các doanh nghiệp nhà nước, nay phải triển khai gói hỗ trợ này, dù nó chỉ nhỏ tí nhưng vẫn là phải “chia sản” cho người khác, thì họ loay hay quá, không biết làm sao, vì ngược với chức năng “Cộng sản” cho đảng và cho mình của họ?!

Nói luôn thế này cho vuông: Các ngân hàng nhà nước VN chỉ cho “vay” khi người vay “tự nguyện đồng ý” để lại cho họ một số “phần trăm” đáng kể ngoài phí dịch vụ ngân hàng công khai, thường lên đến 5-10-15%.

Ví dụ, bạn ký vay và sẽ phải trả cả gốc lẫn lãi 1 tỷ đồng thì bạn chỉ nhận

được khoảng 800-900 tr. đồng thôi, nếu không thì… bạn sẽ không đáp ứng yêu cầu và thủ tục vay dài dài, có thể trong vòng nhiều năm tới, cho tới khi… bạn “hiểu ra” và “tự nguyện cảm ơn” họ bằng 10-15% khoản vay mà họ sẽ tự cắt ngay cho mình trước khi chuyển “100%” tiền vay cho bạn!

Sự thể còn khó khăn hơn nhiều khi đối tượng gói vay này là người dân có thu nhập thấp hay các nhà kinh doanh phát triển nhà cho người có thu nhập thấp –tức là những người này không thể và không bao giờ chấp nhận cái “phần trăm tự nguyện cảm ơn đó” (nghe như đảng bắt dân biết ơn “giải phóng” dân tộc ấy nhỉ? Mẹ (đĩ) nào thì con (đĩ) ấy mà!). Vì như thế, thà không vay còn hơn. Đó là một lý do “kỹ thuật” chính làm gói này không thể giải ngân. Trên thế giới này có con đĩ nào cho khách “xài” miễn phí đâu, trừ ở VN, và khi khách đó là quan “đỏ” hay ma cô!

Điều đó cũng giải thích cho ai thắc mắc: sao vẫn có 3% gói tài trợ đã được giải ngân đó thôi? Đó chỉ như là gái đĩ phải chiều ma cô hay phải tận tình phục vụ ông chủ/ người nhà ông chủ mà thôi.

Thứ tám, phản ứng không mặn mà của đối tượng gói tài trợ. Tại sao? Vì đó đâu phải yêu cầu của họ!

Nếu chúng ta nhớ lại thì không hề có một đề xuất nào của cá nhân cụ thể hay hội đoàn những ngừoi có thu nhập thấp yêu cầu chính phủ tài trợ để họ mua nhà (chất lượng thấp)! Nếu có thì… họ đã phải vào tù rồi, vì “đảng ta” cấm dân oan khiếu kiện về BĐS, mà đây là một đòi hỏi về BĐS như thế!

Thực chất, nguồn gốc của gói “cứu trợ” này xuất phát từ chính phủ “ta” sau khi thị trường BĐS sa lầy mấy nay với mấy trăm ngàn căn hộ của các nhóm lợi ích đỏ bị “tồn kho”, và để cứu vãn/xoay chuyển tình hình đó. Thế cho nên các căn hộ trung cấp mới bị ngưng hoàn hiện, bị chia nhỏ ra, bị “hạ công năng” để thành các căn hộ “giá rẻ” cho người thu nhập thấp.

Vẫn là bài lừa muôn thuở đã thành tinh: “đảng ta” chỉ mượn danh người nghèo để cứu mình và bè lũ tham nhũng sân sau của mình mà thôi, ở đây là trong bất động sản. Các chính sách kinh tế xã hội khác của “đảng ta” trong các lĩnh vực khác (như “cứu” ngân hàng, “hỗ trợ” nông nghiệp, “tài trợ” xuất khẩu, “giảm” nợ xấu…) cũng là theo nguyên tắc đó: treo đầu dê bán thịt chuột chết, vì thịt dê đảng chỉ dành cho đảng.

Một nguyên nhân quan trọng khác

Số 191 Trang 20

Page 21: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

làm người thu nhập thấp thờ ơ với gói hỗ trợ “hào phóng” của đảng cho mình là vì đại đa số dân ta đã mất niềm tin vào “đảng ta”, vào những lời hứa, những cái bánh vẽ của đảng rồi. Những viên kẹo lừa của đảng để lừa dân, dù liên tục được đảng thay đổi bao bì và mùi vị, và đưa qua tay nhiều kẻ “trung gian” khác nhau, thì dân vẫn “ngửi ra” đó là những bánh vẽ được điều khiển từ xa bằng điều 4 Hiến pháp, luôn vì một mục đích duy nhất là bảo vệ ngai vua cai trị hà khắc của đảng chứ không phải vì dân.

Dân ta sau 70 năm Cộng sản cai trị đã trở nên như con trẻ, có thể cảm nhận được, “ngửi ra” được ai thực sự yêu mình, ai muốn ăn thịt mình… Mà cái “mùi” của “đảng ta” thì nó rất đặc trưng và ai ai cũng muốn tránh xa, đó là mùi gian gian… Cái gói 30 ngàn tỷ này với dân, cũng bốc lên mùi gian đối đó!

Thứ chín, do sự bất lực và thờ ơ của các nhà phát triển BĐS (land-developers), vốn cũng là đối tượng được  hỗ trợ của gói tài chính này. Trong khi thị trường BĐS đang khó khăn mà có hỗ trợ đầu vào là ưu đãi của gói 30 nghìn tỷ này, và đảm bảo đầu ra vì giá rẻ (cho người có thu nhập thấp), thì tại sao các nhà phát triển BĐS lại cũng không mặn mà với nó – tức là trên chính lãnh địa của họ, làm cho việc triển khai của gói tài trợ vẫn và thêm tắc?

Đó là vì, đến nay thị trường BĐS VN còn rất méo mó, chưa có các nhà đầu tư và phát triển BĐS đích thực, chỉ có các nhà đầu cơ BĐS là các sân sau của các quan đỏ và các nhóm lợi ích, ít tiền hay nhiều tiền mà thôi.

Đầu cơ là họ chỉ kinh doanh bằng cách “chạy được” dự án từ chính quyền, giải tỏa đất với giá ăn cướp của dân, thổi giá đất lên vài chục lần rồi bán đi phần lớn thu lời ngay, xong và thắng to. Phần đất ít ỏi còn lại sẽ phải cõng giá đất đã thổi lên và phần đã bán đi, được đem thế chấp ngân hàng để vay tiền cho dự án phát triển BĐS, rồi vay cả tiền thuê người phát triển dự án với giá trời ơi, nên khi thị trường đóng băng và rơi tự do, họ phủi tay, họ đẩy nợ nần sang các ngân hàng đang ôm cái xác nhà khô và đất không bán được, còn các nhà thầu thì bị chiếm dụng vốn (cách nói khác của từ quỵt nợ)…

Thị trường BĐS VN toàn những “nhà đầu tư” từ đảng ra như thế thì lấy ai phát triển các dự án căn hộ cho người thu nhập thấp đây?

Thứ mười, do nguồn gốc số tiền của gói tài trợ 30.000 tỷ đồng.

Về phương diện chính sách tài

chính của đảng, gói tài trợ chỉ là công cụ để đảng thêm một lý do biện minh, thêm một đầu ra cho chính sách in tiền vô hạn độ của đảng ta hiện nay, thông qua phát hành trái phiếu chính phủ…

Bắt đầu chỉ là hứa tài trợ 30 ngàn tỷ, rồi hứa 100 ngàn tỷ, rồi hứa 200 ngàn tỷ… nhưng trái phiếu thì phát hành thật, để in tiền bù vào chỗ khác. Có vô vàn lỗ hổng trong nền kinh tế “định hướng” này mà chính phủ “ta” chỉ biết một cách là in tiền ra trám lại. Hàng năm ước tính chính phủ “ta” phát hành khoảng 350-500 nghìn tỷ đồng (năm 2013 ước tính tổng trái phiếu CP khoảng 400 nghìn tỷ đồng) nên rất cần “lý do chính đáng” cho việc đó, và gói cứu trợ BĐS cho người thu nhập thấp là một lý do “chính đáng”, thậm chí “cao đẹp”. Còn nếu nó sẽ không giải ngân được thì là do… khủng hoảng kinh tế Mỹ làm ảnh hưởng thị trường BĐS VN mà thôi! Cuối cùng thì tiền in ra sẽ bốc hơi hết, đúng cho mục đích thực (ẩn) mà nó phải được in ra.

Giống như trên 800 nghìn căn hộ ở Balan những năm 80 bị bốc hơi ngay trên giấy, góp phần để lại món nợ khổng lồ của chính phủ Balan với phương Tây hồi đó cho nhân dân Balan trả…, chính phủ VN cũng chỉ vay nợ con cháu tương lai để mị dân hôm nay hòng yên vị vơ vét thêm ngày nào hay ngày ấy. Đồng tiền in ra đã bất minh thế thì làm sao làm được điều thiện mà hàng nghìn loa báo đài của đảng rêu rao ầm ĩ về nó?

*Thế cho nên, tôi bị điếc tai, nhàm

mắt vì nghe đọc về cái gói 30 nghìn tỷ đồng “hỗ trợ bất động sản cho người có thu nhập thấp” của “đảng ta” này quá! Đành phải bỏ mấy tiếng gõ ra bài này để chỉ ra sơ sơ mười (10) lý do trên làm nó chắc chắn sẽ không thể thành công. 

Tôi chỉ buồn là, trò ma này dân Đông Âu cũ đã bị Cộng sản lừa (tất cả Đông Âu và Liên Xô cũ, không chỉ Balan), thế mà họ vẫn trơ mặt diễn lại! Tôi cũng chẳng dám mong là dân ta sẽ không bị lừa, vì chỉ có bị lừa đau và mãi thì dân ta mới nhìn ra muôn-mặt-lừa-đảo của Cộng sản chăng? Lịch sử “Cộng sản” của nước mình và của các dân tộc khác còn tươi rói mà dân ta không nhìn ra, vẫn cố say sưa tin vào lời hứa “chia sản” của họ kiểu gói kích cầu này, thì nghe chừng gói hỗ trợ tiếp “đảng ta” sẽ nổ ra là “1 triệu căn hộ cho người không có thu nhập nhưng vẫn theo đảng đến cùng” quá?! (Để đi ăn cướp cùng đảng).

Nhưng lịch sử thế giới cũng đã chỉ

ra: mỗi cú lừa của các đảng Cộng sản đối với dân tộc họ sẽ là một dây thòng lọng treo lên cổ họ, và sau đó, vào một ngày “đẹp trời”, nhân dân sẽ tóm những đầu đây kéo họ ra ánh sáng mà xét xử, như những ngày đẹp trời băng giá trên quảng trường Độc Lập và trên khắp đất nước Ucraina vừa qua.

Với dân tộc Việt Nam ta, đảng Cộng sản VN đã tự khoác lên cổ mình quá nhiều dây thòng lọng rồi đó. Chỉ còn đợi “một ngày đẹp trời” dân ta sẽ đứng lên cầm chắc lấy những đầu dây kéo họ ra quảng trường Độc Lập của Việt Nam, và xét xử.

danlambaovn.blogspot.comBộ trưởng Bộ Xây dựng CS

Trịnh Đình Dũng nói gì về gói 30.000 tỷ hỗ trợ bất động sản?

Trước một số quan điểm trái chiều về việc có nên hỗ trợ 30 nghìn tỷ đồng cho thị trường bất động sản (BĐS) hay để rơi tự do, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trịnh Đình Dũng đã tham gia buổi đối thoại “Dân hỏi Bộ trưởng trả lời” phát sóng trên kênh Đài truyền hình VN tối 14/4/2013 xung quanh vấn đề này.

Theo Bộ trưởng, ngành BĐS luôn tác động lớn tới nền kinh tế. Vì vậy, một nền kinh tế thị trường phát triển cần phải phát triển các thị trường một cách đồng bộ, trong đó có thị trường BĐS. Thị trường BĐS liên quan đến một loạt lĩnh vực như ngành sản xuất vật liệu xây dựng, cung ứng hạ tầng cho các khu công nghiệp, tạo ra thu nhập cho một khối lượng lớn người lao động… từ đó thực hiện các mục tiêu kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do đó, Nghị quyết Quốc hội đã yêu cầu cần phải làm ấm thị trường BĐS.

Để tháo gỡ khó khăn cho thị trường thì cần phải có các giải pháp đồng bộ, trong đó có giải pháp về cấu trúc lại sản phẩm BĐS, về nguồn lực BĐS. CP đưa ra gói 30 nghìn tỷ đồng, trong đó yêu cầu ngân hàng dành cho những người nghèo, cán bộ, công chức được vay tiền để cải thiện về nhà ở, có thể là mua, thuê hay thuê mua.

“Gói này tuy nhỏ nhưng rất quan trọng để không thu tiền sử dụng đất đối với các dự án nhà ở xã hội. Không chỉ 30 nghìn tỷ đồng, Chính phủ đang tập trung thực hiện giai đoạn II dự án 167 về hỗ trợ nhà ở cho người nghèo với khoảng trên 500 nghìn hộ nghèo được hỗ trợ về nhà. Chính phủ còn thực hiện gói hỗ trợ dành cho khoảng 70 nghìn người có công, hay 60 nghìn hộ nghèo khu vực bắc trung bộ, nơi thường xuyên xảy ra bão lũ… Các gói này chắc chắn sẽ tạo điều kiện tăng trưởng nền kinh tế từ việc quyết được nhà ở cho người nghèo.” – Bộ trưởng

Số 191 Trang 21

Page 22: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

khẳng định. Bộ trưởng còn cho biết, việc người

nước ngoài mua nhà ở Việt Nam cũng là một trong những giải pháp tháo gỡ thị trường BĐS. Bộ Xây dựng đang trình soạn thảo trình Chính phủ nhằm đề xuất những giải pháp tích cực trong việc mua nhà dành cho đối tượng này, cố gắng trình trong năm 2013.

Dân Trí online 15-04-2013“Việt Nam được quốc tế ghi

nhận là một trong những quốc gia đi đầu về xóa đói giảm nghèo. Việc thực hiện “Chiến lược Toàn diện về Tăng trưởng và Xoá đói Giảm nghèo” trên cơ sở Chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội 2001-2010 đã góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo quốc gia) trên toàn quốc từ 58,1% năm 1993 xuống còn 14,8% năm 2007 và 7,8% năm 2013, giúp Việt Nam trở thành một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới đạt Mục tiêu Thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo. Việt Nam đã đạt trước thời hạn 5/8 Mục tiêu Thiên niên kỷ, được Liên hợp quốc nhìn nhận là hình mẫu của quốc tế trong lĩnh vực này.” (Trích Phát biểu của Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc tại phiên Rà soát Định kỳ Phổ quát về quyền con người (UPR) chu kỳ II của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, Geneva, ngày 5 tháng 2 năm 2014). Bài dưới đây cho thấy lời lẽ của Hà Kim Ngọc chỉ là một sự lừa gạt vô liêm sỉ.

Một giọng hát dân ca nỉ non của chương trình “Ngày mai tươi sáng” hoặc “Lá rách, lá lành” đưa tới một làng quê hẻo lánh nào đó ở miền Nam, miền Trung, miền Bắc, và ống kính camera chĩa vào những mái nhà lụp xụp, những xó bếp lạnh tanh, những mâm cơm không một mẩu thịt, cá, những cảnh đời lam lũ làm thuê làm mướn, bắt ốc mò cua sống lay lắt, phiêu dạt ngay trên chính nơi chôn rau cắt rốn của mình. Cảnh nghèo đói như một bức tranh toàn những gam màu xám xịt gây xúc động lòng người ngày nào

cũng hiện lên trên màn ảnh nhỏ.Rồi như một kịch bản viết sẵn,

những cuộc vận động hướng về người nghèo được phát động, nhân danh hội này, hội nọ đứng ra tổ chức quyên góp tiền bạc. Người ta sục vào trụ sở doanh nghiệp, nhà riêng doanh nhân vận động đóng

góp. Với lợi thế của mình, nhiều nhà báo trở thành cộng tác viên tiếp thị hiệu quả. Những trang báo lăng-xê nhà tài trợ, đặc biệt TV trở thành một sân chơi hấp dẫn mời gọi các đại gia mở “tấm lòng vàng”. Những buổi truyền hình trực tiếp với sự xuất hiện của các vị lãnh đạo cấp cao, đại gia nối gót nhau lên sân khấu rót tiền vào “Qũy xóa đói giảm nghèo” như nước. Có những vị chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc doanh nghiệp nhà nước trương tấm bảng ủng hộ cả chục tỷ, trăm tỷ dù đang làm ăn thua lỗ, có những công ty tư nhân ủng hộ vài trăm triệu trong khi nợ đầm đìa. Mỗi lần thiên tai bão lụt xảy ra không biết bao nhiêu cuộc quyên góp mang chủ đề “lá lành đùm lá rách” xoáy vào lòng trắc ẩn của mọi người. Theo số liệu đăng tải trên báo chí, chỉ riêng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, từ năm 2006-2012 đã thu được hàng chục ngàn tỷ đồng cho quỹ xóa đói giảm nghèo.  Nhưng số tiền đó so với tiền Nhà nước đã bỏ ra để thực hiện chính sách nhân đạo ấy thì chẳng thấm vào đâu. Nhân ngày “Thế giới chống đói nghèo” Bộ trưởng Bộ lao động thương binh và xã hội Phạm Thị Hải Chuyền phát biểu trên TV: “Dù kinh tế khó khăn, nhiều chính sách phải cắt giảm, nhưng riêng nguồn lực cho xóa đói, giảm nghèo không giảm mà còn tăng. Cụ thể nếu tính bình quân giai đoạn 2008-2012 nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước khoảng 90.000 tỷ đồng/ năm, thì sau Đại hội XI của Đảng, tức từ năm 2011-2013, nguồn lực dành cho hộ nghèo tăng lên 120. 000 tỷ đồng/năm”. Cụ thể hơn, theo

số liệu của Bộ tài chính, từ năm 2005 đến 2012, chi từ ngân sách cho xóa đói giảm nghèo là 734.000 tỷ đồng. Nếu tính cả nguồn vốn cho vay ưu đãi lãi suất bằng 0, mỗi năm 20.000 tỷ, thì trong vòng 7 năm kể trên, Nhà nước còn phải bủ lỗ thêm 50.000 tỷ đồng, tổng cộng 784.000 tỷ đồng, chiếm hơn 12% tổng ngân sách. Ứơc tính cả hai khoản tiền từ ngân sách nhà nước và “xã hội hóa” dành cho xóa đói giảm nghèo lên tới gần 6 tỷ đôla mỗi năm.

Nhẽ ra với khoản kinh phí khổng lồ đó, Việt Nam xóa sạch đói nghèo lâu rồi, nhưng oái oăm thay, nghèo vẫn hoàn nghèo. Trong bài “Chính sách xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc thiểu số: Thực trạng và giải pháp”, đăng trên Tạp chí Cộng Sản ngày 27-11-2013, tác giả Minh Nhật thừa nhận : 38 % người dân tộc thiểu số vẫn thuộc diện đói nghèo. Còn cả nước, theo báo TuanVietnam.net, hiện có từ 500 ngàn đến 3 triệu hộ nghèo đói.  Vậy tiền xóa đói giảm nghèo đi đâu ? Hỏi ai, hỏi chỗ nào trong hàng chục nhóm chính sách, hàng trăm chương trình xóa đói giảm nghèo, như “Nhóm chính sách giảm nghèo toàn diện”, “Nhóm chính sách nâng cao đời sống nhân dân mang tầm quốc gia”, “Nhóm chính sách theo vùng”, “Chương trình 135”, “Chương trình giảm nghèo nhanh”, “Chương trình giảm nghèo bền vững” v.v... Hỏi ai, hỏi chỗ nào khi mỗi nhóm chính sách, mỗi chương trình ấy lại đẻ ra những nhóm đề tài nghiên cứu và mỗi nhóm đề tài lại đẻ ra những dự án to nhỏ rút tiền từ Quỹ xóa đói giảm nghèo? Trả lời phỏng vấn của báo Đại Đoàn Kết ngày 29-9-2013, ông Đỗ Mạnh Hùng, Phó chủ nhiệm Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội, cho biết trước năm 2011, số tiền bình quân chi cho mỗi hộ nghèo một năm là 180 triệu đồng chia từ nguồn quỹ 90 ngàn tỷ đồng /năm, từ năm 2011 đến nay, đã tăng lên 240 triệu đồng. Thế có nghĩa là mỗi tháng một hộ nghèo được từ 15 triệu đến

Số 191 Trang 22

Page 23: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

20 triệu đồng, và nếu bình quân mỗi hộ 4 khẩu, thì riêng khoản hỗ trợ của nhà nước đã có thu nhập từ 3,7 triệu đến 5 triệu đồng, bằng 3,2 đến 4 lần lương tối thiểu cán bộ công nhân viên và gấp từ 7 đến 10 lần mức chuẩn nghèo ở thành thị. Nhưng thực tế không phải như vậy. Bộ máy quản lý các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo đã ngốn gần hết tiền dành cho người nghèo mất rồi. Trên báo TuanVietnam.net, nhà báo Lê Nguyễn Huy Hậu dẫn lời Thứ trưởng Bộ kế hoạch đầu tư Đặng Huy Đông : “Mỗi năm người nghèo tiếp cận chỉ khoảng 10-15 triệu đồng/hộ. Có nghĩa, cứ mỗi 1 đồng người nghèo được nhận thì 10 đồng được trả cho bộ máy quản lý”. Cũng theo thứ trưởng Đặng Huy Đông, tỷ lệ chi cho hành chính sự nghiệp chiếm hơn 63% tổng số tiền giảm nghèo huy động được, còn mức đầu tư phát triển chỉ chiếm 36%, cụ thể số tiền chi phí để vận hành bộ máy xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện ở mức 75.600 tỷ đồng/ năm tương đương 3,5 tỷ đôla. Nhà báo Lê Nguyễn Huy Hậu đã ví von một cách hài hước : Bộ máy xóa đói giảm nghèo mỗi năm ngốn hết 77 cái sân vận động Mỹ Đình, Hà Nội! (Tổng chi phí xây dựng sân Mỹ Đình 63 triệu đô la)

Qũy xóa đói giảm nghèo được sử dụng đầu tư rất quy mô, nào là phát triển vùng, phát triển nông nghiệp, phát triển việc làm, xây dựng cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật, dạy nghề, xuất khẩu lao động, bệnh viện, trường học v.v… Người ta bảo phải trao cho người nghèo “cái cần câu chứ không cho con cá”. Rất hợp lý, đúng nguyên tắc. Chỉ có điều “cần câu” nhiều nhưng quá đắt và người nghèo lại không câu được cá. Muốn được chọn là hộ nghèo có khi người nghèo phải hối lộ bộ máy quản lý, muốn học nghề phải trả học phí, và nếu muốn đi xuất khẩu lao động phải thế chân hàng ngàn đôla. Thực tế người nghèo chỉ tiếp cận được từ 4% đến 6% số tiền từ quỹ xóa đói giảm nghèo, lại phải gánh các khoản chi phí cho việc đào tạo, cấp vốn, hỗ trợ việc làm, giáo

dục… thì thử hỏi vác sao nổi “chiếc cần câu” mà câu cá? “Người ta sắm “cần câu” là để “câu những con cá bự trong ao nhà nước” chứ đâu phải để trao cho người nghèo”. Đại biểu Quốc hội Ksor Phước đã từng nói thẳng với báo chí như vậy.

Bộ máy quản lý chương trình xóa đói giảm nghèo phình ra bao nhiêu, bụng người nghèo tóp lại bấy nhiêu. Có địa phương còn sử dụng Quỹ xóa đói giảm nghèo vào những chương trình khác như dự án nông nghiệp, nông thôn mới, nước sạch, cơ sở hạ tầng, khi những chương trình này đã được chi tiền từ nguồn ngân sách khác. Đại biểu Quốc hội Nguyễn Lâm Thành của tỉnh Lạng Sơn đã ví von chuyện đó như trong một bàn tiệc 4-5 người ăn một con gà, nhưng một con gà đó lại được viết hóa đơn thanh toán thành 4-5 con gà (báo Đầu Tư).

Phương ngôn có câu : “Bụt ăn ba ma ăn bảy!” Phải chăng việc xóa đói giảm nghèo ở nước ta nó cũng tương tự như câu phương ngôn ấy, nên dù tiền bạc đổ ra như nước mà vẫn không xóa được đói nghèo? Đáng buồn hơn là ngay cả thời bao cấp hình ảnh đói nghèo cũng không phơi ra như hiện nay. Người nghèo lang thang bàn vé số dạo, lượm ve chai, đi ăn xin nhan nhản khắp phố chợ, tệ nạn trộm cướp tăng vọt một phần do đói nghèo. Không biết bạn suy nghĩ thế nào, bản thân tôi cảm thấy vô cùng nhức nhối mỗi khi thấy trên TV xuất hiện cái chương

trình “Lục lặc vàng”, hoặc “Vượt lên chính mình”. Hàng trăm người dân nghèo xác xơ đứng phơi nắng, phơi rét hò hét, vỗ tay reo để cổ vũ cho người cùng cảnh thực hiện những kịch bản thô thiển không một chút nhân văn. Họ đâu biết một cặp bò, hoặc vài triệu bạc mà một số ít người nghèo may mắn nhận được chỉ bằng một phần trăm, phần ngàn số tiền người ta bỏ ra làm chương trình quảng cáo đó ? Và không ít kẻ làm giàu từ việc phơi bày cảnh ngộ nghèo khó của nhân dân như vậy.

Tờ báo TuanVietnam.net viết : “Có lẽ đã đến lúc Quốc hội cần mở một cuộc điều tra cụ thể và toàn diện về hiệu quả và tính hợp lý của chương trình xóa đói giảm nghèo. Ngay cả khi Việt Nam được Liên Hợp Quốc đánh giá là một trong những quốc gia có tiến bộ vượt bậc trong việc thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ, thì cũng không thể biện minh cho sự lãng phí và thiếu hiệu quả quá lớn nguồn vốn như hiện nay. Bởi vì để đạt được thành tích đó, có vẻ như Việt Nam đang đánh đổi cả sự phát triển về kinh tế lẫn ổn định chính trị, khi chỉ số nợ công của Việt Nam theo nhiều dự báo đã lên đến 95% GDP”. Điều tra ai, điều tra thế nào khi “Tiêu cực, tham nhũng nhìn vào đâu cũng thấy, sờ vào chỗ nào cũng có” (Lời Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng).

Điều tra ai, điều tra thế nào khi những kẻ có chức quyền “Ăn của

Số 191 Trang

Ngoài các nguyên nhân thuộc về địa dư chiến lược của một quốc gia nằm giữa hai khu vực Đông-Tây của Âu Châu, yếu tố kinh tế có góp phần dẫn tới cuộc khủng hoảng tại Ukraine và còn giải thích nhiều khó khăn sắp tới của người dân sau ba tháng đầy biến động vừa qua. Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu về hồ sơ kinh tế đó với chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa qua cuộc trao đổi do Vũ Hoàng thực hiện sau đây.

Một hồ sơ phức tạpVũ Hoàng: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Sau đúng ba tháng

biến động khiến gần 90 người bị thiệt mạng trong các cuộc biểu tình đổ máu, Ukraine đã vừa qua khúc quanh khi Tổng thống Viktor Yanukovych bị truất phế và truy nã trong khi Quốc hội xứ này cố xây dựng hệ thống lãnh đạo mới cho tương lai. Hôm Thứ Hai 24, các giới chức vừa được trao nhiệm vụ lâm thời cho giai đoạn chuyển tiếp lập tức nói đến nhu cầu 35 tỷ Mỹ kim để tránh cho xứ sở một vụ khủng hoảng kinh tế nữa. Thưa ông, 35 tỷ đôla là tương đương với 20% Tổng sản lượng của Ukraine, tức là một con số không nhỏ. Vì sao lại có chuyện đó, và yếu tố kinh tế có là một phần của lý do khủng hoảng tại Ukraine hay chăng?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Chúng ta mở ra một hồ sơ thuộc loại phức tạp nhất thế giới, và ngoài các bài toán

23

Page 24: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

dân không từ một cái gì, từ tiền Bảo hiểm y tế của thương binh đến liều vắcxin của trẻ con” (Lời Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan).

Và ai là người có bàn tay sạch để phanh phui 94% nguồn vốn dành xóa đói giảm nghèo rơi vào đâu? nguyên Tổng thanh tra CP Trần Văn Truyền chăng? nhất thế giới, và ngoài các bài toán nan giải thuộc về địa dư, lịch sử và chính trị, thì kinh tế có góp phần quyết định về sự thịnh suy của Ukraine sau cuộc cách mạng vừa qua.

Vũ Hoàng: Trước hết, xin ông trình bày cho khán thính giả về bối cảnh của hồ sơ Ukraine.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Ukraine có số phận hẩm hiu từ tên nước, nguyên ngữ là "biên vực", vì lãnh thổ là biên địa của các Đế quốc lớn ở chung quanh, với người dân đang xây dựng ý thức dân tộc thì bị giằng xé giữa hai sức hút ở hai ngả Đông và Tây.

Có diện tích gấp hai Việt Nam với dân số chỉ bằng phân nửa và lợi tức cao gấp đôi, Ukraine thật ra là quốc gia giàu tài nguyên và có trình độ dân trí cao. Khi bị Liên Xô thôn tính sau Thế chiến I, xứ này trở thành Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Ukraina của Liên bang Xô viết và đã hứng chịu mọi tai họa bi thảm trong gần 30 năm, như bị Stalin bỏ đói rồi bị Hitler tàn sát. Từ sau Thế chiến II, Ukraine mới là nước Cộng hoà giàu thứ nhì của Liên Xô, với nông nghiệp và công nghiệp thuộc hàng tiên tiến, theo tiêu chuẩn Cộng sản. Hai lãnh tụ Liên Xô là Nikita Kruschev và Leonid Brezhnev đều xuất thân hay tốt nghiệp từ Ukraine. Tuy nhiên, 70 năm dưới chế độ Cộng sản cũng di hại về tư tưởng và môi sinh cho một vùng đất trù phú. Đến nay nét tiêu cực đó vẫn còn, nhất là ở khu vực tiếp giáp với nước Nga, tại miền Đông.

Khi Liên Xô bắt đầu tan rã thì dân Ukraine tuyên bố độc lập, vào Tháng Tám năm 1991. Sau đó kinh tế bị khủng hoảng mất 10 năm để ra khỏi chế độ tập trung quản lý, mức

sống sụt phân nửa và dân số sút giảm vì môi sinh bị hủy hoại. Mãi đến năm 2000 thì kinh tế Ukraine mới ổn định và tăng trưởng khả quan là 7% một năm. Nhưng chỉ được tám năm là bị hiệu ứng khủng hoảng toàn cầu năm 2008 nên lại suy sụp mất hơn 15% với thất nghiệp tăng vọt hơn 9%.

Qua năm 2010, tình hình đã khá hơn, với đà tăng trưởng là hơn 4%, thì khủng hoảng chính trị lại xuất hiện và Ukraine không thể cải cách cơ chế kinh tế nên bị nguy cơ vỡ nợ cuối năm ngoái. Chính là nguy cơ ấy mới dẫn tới biến động từ ngày 21 Tháng 11 vừa qua cho đến tuần này.

Vũ Hoàng: Nếu có thể tóm lược thì hai chục năm qua Ukraina chỉ có bảy năm tốt đẹp. Nhưng thưa ông vì sao lại có chuyện Ukraine không thể cải cách cơ chế kinh tế nên bị nguy cơ vỡ nợ?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Tôi thiển nghĩ rằng đấy mới là bài học kinh tế đáng chú ý nhất khi ta nói về trường hợp của Ukraine.

Sau khi giành lại độc lập, Ukraine có cải cách về hình thức trên nền tảng vẫn xã hội chủ nghĩa. Việc tư nhân hóa hệ thống doanh nghiệp nhà nước chỉ là xẻ thịt các cơ sở quốc doanh và tạo cơ hội làm giàu cho một số tài phiệt tham nhũng. Họ cấu kết với hệ thống chính trị để bảo vệ đặc lợi và duy trì sự lệ thuộc vào kinh tế Nga vì đã từng hội nhập vào kinh tế Xô viết. Đấy là hiện tượng chung của các nước chuyển hướng theo kinh tế thị trường mà không cải tổ chính trị cho dân chủ, Trung Quốc hay Việt Nam cũng có tệ nạn đó.

Vì nạn gian lận trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 2004 mà cuộc Cách mạng màu Da Cam bùng nổ. Nhờ đó, Ukraine có một Hiến pháp và chính quyền tương đối dân chủ hơn mà chưa cải thiện kinh tế và diệt trừ nạn tham nhũng nên có gây bất mãn cho dân chúng. Trong bối cảnh chính trị bất lợi đó, có hai biến cố xảy ra. Thứ nhất là hậu quả của Tổng suy trầm năm 2008 và thứ hai là vì cuộc Cách mạng Da Cam và xu hướng thân Âu Châu của chính

quyền mới mà đầu năm 2009, Nga gây sức ép về giá khí đốt do Nga bán cho Ukraine và qua lãnh thổ Ukraine cho các nước Âu Châu. Bên trong, hai lãnh tụ Cách mạng Da Cam lên làm Tổng thống là ông Viktor Yuschenko và Thủ tướng là bà Yulia Timoshenko lại bất hòa và không chấn chỉnh nổi hệ thống quản lý vĩ mô nên khủng hoảng kinh tế lên tới cao điểm năm 2009 rồi mới giảm.

Vũ Hoàng: Như ông vừa trình bày thì qua năm 2010, Ukraine còn bị một vụ khủng hoảng chính trị với hậu quả là những khó khăn kinh tế kéo dài cho đến năm ngoái. Câu chuyện rắc rối này là như thế nào?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Vì sự phân hoá giữa Tổng thống Yus-chenko và Thủ tướng Timoshenko mà ông Viktor Yanukovich, nhân vật thân Nga đã thất cử năm 2004, lại thắng và lên làm Tổng thống từ cuộc bầu cử năm 2010. Khi lên cầm quyền sau một cuộc bầu cử tương đối trong sạch, ông Yanukovich lại có ý thâu tóm quyền lực, sửa lại Hiến pháp 2004, mà không nhân đà phục hồi kinh tế để cải tổ cơ chế vì ỷ vào hậu thuẫn của các tài phiệt và vây cánh được ban phát quyền lợi. Khủng hoảng chính trị xuất phát từ đó và triệt tiêu luôn thành quả kinh tế của hai năm 2010 và 2011. Qua năm 2013 thì kinh tế lại lụn bại. Đấy là bối cảnh của ba tháng biến động vừa qua.

Khi đó, ta nhớ là mỗi khi Ukraine gặp khó khăn kinh tế, như trong các năm 1998, 2008, 2010 hay 2013, thì Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF đều có dự án yểm trợ tài chính để giải quyết yêu cầu về chi thu, với điều kiện là phải cải cách cơ chế kinh tế. Mà ngần ấy dự án viện trợ đều bị gián đoạn vì các chính quyền nối tiếp tại Ukraine đều không tuân thủ điều kiện của IMF.

Với lãnh đạo Ukraine thì IMF đòi họ làm một cuộc giải phẫu đau đớn mà không có thuốc mê, trong khi Liên bang Nga lại viện trợ cho họ như người cung cấp nha phiến. Sự chọn lựa sau cùng thuộc về người dân Ukraine.

Số 191 Trang 24

Page 25: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Thuốc bổ và thuốc độcVũ Hoàng: Ông vừa nêu một

nhận xét thấm thía. Thế thì bên dưới những thống kê và tính toán của tầng lớp lãnh đạo, quần chúng Ukraine nghĩ sao về thuốc bổ và thuốc độc, và họ muốn gì?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Tôi xin nêu vài chi tiết sau đây để chúng ta suy luận về ý dân.

Ta biết Ukraine là biên địa Đông-Tây của Âu Châu. Phía Tây từng là lãnh thổ của các Đế quốc Ba Lan hay Hung Áo và người dân tự nghĩ mình thuộc về Âu Châu, trong khi các tỉnh phía Đông, và phía Nam nếu kể cả Odessa và bán đảo Crimea được ông Krushchev trả cho Ukraine từ năm 1954, thì thiên về nước Nga, đa số người dân nơi đây nói tiếng Nga. Sự giằng xé ấy đã có từ cả trăm năm và các tỉnh phía Tây, nhất là Lviv ở sát Ba Lan, là cái nôi của chủ nghĩa dân tộc Ukraine, theo tinh thần đề cao ngôn ngữ và nghệ thuật Ukraine, và biệt lập với nước Nga. Khi Liên Xô tan rã năm 1991 thì cuộc vận động cho độc lập của Ukraine xuất phát tại đây.

Nhưng từ khi trở thành nước Cộng hoà Xô viết năm 1922, miền Đông của Ukraine mới là nơi giàu có vì tập trung hệ thống công nghiệp Xô viết. Cho đến ngày nay, tình trạng đó vẫn còn, với kết quả là lợi tức bình quân của người dân ở tỉnh công nghiệp hóa nhất miền Đông lại cao gấp đôi lợi tức người dân ở Lviv là tỉnh kỹ nghệ nhất miền Tây. Cũng vậy, đa số đại doanh nghiệp có tầm cỡ của Ukraine đều ở tại miền Đông, trong khi các doanh nghiệp loại trung bình và nhỏ thì phá sản dần từ mấy năm qua và tầng lớp gọi là "trung lưu" bị thiệt hại nhất là ở miền Tây.

Nói vắn tắt thì dân miền Tây lại nghèo hơn dân miền Đông. Nhưng họ nghèo mà không hèn vì từ 20 năm nay vẫn đấu tranh để ra khỏi quỹ đạo của Nga, trở thành một quốc gia độc lập trong hệ thống chính trị dân chủ của Âu Châu. Trong khi ấy, ta không quên rằng cơ quan IMF, hay các nước Tây

phương, lại đặt ra những điều kiện cải cách khắt khe về kinh tế lẫn chính trị như đòi giải phẫu mà chẳng có thuốc mê.

Ngược lại, cần nói thêm cho công bằng, là dân miền Đông nói chung cũng chẳng muốn xé đôi xứ sở để thành một tỉnh của Nga. Đám tài phiệt và các đại gia ở trên cùng, tại thủ đô Kiev và các tỉnh miền Đông, có thể muốn trục lợi cho mình nhờ làm ăn với tài phiệt Nga chứ họ chẳng thể chủ trương sát nhập vào Liên bang Nga vì sẽ lập tức bị phản đối.

Vũ Hoàng: Khi ấy ta mới trở lại biến động ngày nay vì nó khởi đi từ một quyết định của ông Yanukovich vừa bị truất phế. Phải chăng biến động bùng nổ cũng vì sự chọn lựa Đông Tây đó?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi lại xin nhắc về bối cảnh quốc tế của vụ này dù là nó khá rắc rối.

Là một nạn nhân chết kẹt giữa Nga và Đức, Ba Lan rất thông cảm với hoàn cảnh Ukraine nên từ năm 2009 đã đề nghị Liên hiệp Âu châu mở ra kế hoạch gọi là "Kết ước Miền Đông" để lôi kéo các nước Đông Âu và Trung Âu về phía Âu Châu, trong đó dĩ nhiên là có Ukraine. Các nước Âu Châu tiến hành kế hoạch đó và thương thảo Hiệp định Hợp tác Ngoại thương với Ukraine. Năm ngoái, Quốc hội Ukraine cũng bỏ phiếu ủng hộ việc thương thuyết này.

Phía bên kia, Tổng thống Vladimir Putin của Nga thì có kế hoạch khác. Là thiết lập Liên minh Quan thuế Âu Á làm lực đối trọng với Liên hiệp Âu châu. Do Nga lãnh đạo, Liên minh này gồm các nước Đông Âu trong quỹ đạo Xô viết cũ qua tới Trung Á và Viễn Đông, kể cả Trung Quốc và Việt Nam, với tiêu chí hình thành là vào năm 2015. Trong một chương trình hồi Tháng Chín năm 2012, chúng ta đã đề cập tới chuyện này.

Cơ sự bùng nổ hồi Tháng 11 năm ngoái, khi Tổng thống Viktor Yanukovich đơn phương từ chối ký kết Hiệp định Ngoại thương đã bàn thảo và chuẩn bị ký kết vào ngày 21

tháng đó tại Vilnius. Vào lúc cùng quẫn đó, Liên bang Nga lại hứa viện trợ cho Ukraine 15 tỷ đôla. Vì vậy, sinh viên đã trước tiên biểu tình phản đối rồi các lãnh tụ đối lập đều tham gia với sự ủng hộ của các nước Âu Châu và cả Hoa Kỳ.

Nhưng từ thủ đô Kiev cuộc biểu tình đã lan rộng qua năm sáu tỉnh khác vì người dân không chỉ phản đối sự chọn lựa của Yanukovich mà còn bất mãn về nạn tham ô, chuyên quyền và về tình hình kinh tế. Khi Chính quyền Yanukovich ra lệnh đàn áp và có máu đổ trong tiếng súng nổ thì biểu tình bạo động đã biến thành cách mạng. Quốc hội Ukraine nhân danh Hiến pháp 2004 và còn đi xa hơn bản Hiếp pháp để truất phế và truy nã Tổng thống, với lá phiếu ủng hộ của đảng cầm quyền của chính ông Yanukovich.

Vũ Hoàng: Thưa ông, kết quả là chính quyền lâm thời đang đối diện với nguy cơ khủng hoảng kinh tế và cần 35 tỷ đôla để giải quyết những yêu cầu tài chính cấp bách nhất vì dự trữ ngoại tệ của Ukraine bị hao hụt và xứ này có thể vỡ nợ. Rồi đây thì tình hình sẽ ra sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi thiển nghĩ rằng các nước trong cuộc, từ Liên bang Nga đến Âu châu đều muốn tránh một cuộc khủng hoảng, nội chiến và xung đột ngay giữa Âu Châu. Âu Châu cũng khôn ra mà không đòi Ukraine phải làm một cuộc giải phẫu, dù là có thuốc mê cho đỡ đau. Người ta cần ổn định thị trường và trấn an dân chúng trong khi lãnh đạo Ukraine phải làm một cuộc cách mạng thật về chính trị để có một chế độ dân chủ và lành mạnh hơn.

Không mấy ai lạc quan về tình hình Ukraine trong những ngày tháng tới, riêng tôi thì có khi lại nói ngược. Tôi chú ý đến một hiện tượng không có trong các biến động từ 1991 đến nay, đó là sự hình thành của xã hội dân sự. Khi chính quyền nhiều nơi tan rã, không còn công an hay cảnh sát và cả lãnh đạo địa phương, người dân tự động đứng ra lo việc cứu thương, chữa cháy, bảo vệ trật tự, tính mạng và

Số 191 Trang 25

Page 26: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

tài sản của cả khu phố. Khi nói đến viện trợ và cải cách kinh tế, có lẽ nên chú ý đến việc xây dựng xã hội dân sự từ dưới lên. Chính quyền tương lai của Ukraine sẽ từ đấy mà ra.

Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này. 

Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN khối Đông Âu vào cuối thập niên 80, đầu 90 của thế kỷ XX, làn sóng cách mạng hoa lài khởi đầu là Tunisia, lan sang các nước khác, làm sụp đổ hàng loạt chế độ độc tài tại Bắc Phi, Trung Đông năm 2010-2011, thắng lợi từ cuộc biểu tình chống chính phủ của người dân Ucraine mới đây… đã cho thấy trong thời đại ngày nay, không 1 chính phủ độc tài, đi ngược lại quyền lợi, nguyện vọng của nhân dân nào có thể tồn tại vĩnh viễn.

Cho dù đó là một quốc gia hùng mạnh, đứng đầu khối XHCN trên toàn thế giới như Liên Xô hay mấy chục năm cai trị độc quyền bằng bàn tay sắt của các ông Tổng thống ngồi lâu hơn cả Vua: Zine al Abidine Ben Ali (cựu Tổng thống Tunisia), Hosni Mubarak (cựu Tổng thống Ai Cập), Bashir al-Assad (Cựu Tổng thống Syria), Muammar al-Gaddafi (lãnh tụ Lybia)…

Xu hướng chung không thể cưỡng lại trên toàn cầu là hướng đến một mô hình thể chế chính trị tự do dân chủ, đa nguyên, đa đảng, pháp trị.

Ngay như Myanmar, quốc gia với chế độ quân phiệt cực kỳ hà

khắc, từng đàn áp đẫm máu nhiều cuộc nổi dậy đòi dân chủ của nhân dân với hàng ngàn sinh viên, nhà sư và những người chống đối đã bị giết, hàng nghìn người khác bị cầm tù…, và vì vậy, Myanmar đã bị phương Tây cấm vận suốt nhiều năm liền. Thế nhưng, chỉ trong vòng 3 năm nay, kể từ khi Tổng thống Thein Sein lên cầm quyền, Myanmar đã có những bước chuyển biến rõ ràng, nhanh chóng và dứt khoát về phía dân chủ đến mức thế giới phải ngỡ ngàng.

Tuy nhiên, trước những biến động dữ dội đó trên thế giới, vẫn có những chế độ độc tài trụ lại được, và từ nhà cầm quyền cho đến số đông người dân vẫn như đang đứng

ngoài thời cuộc. Trong đó có chế độ độc tài do đảng CS lãnh đạo ở VN.

Khi nhìn sang Ba Lan, Đức trước đây hay Myanmar và bây giờ là Ucraine, không ít người Việt đã từng tự hỏi mình, hỏi nhau không biết bao nhiêu lần: Bao giờ sẽ tới VN? Và kịch bản nào cho VN, khi biến động có thể xảy ra, vào một ngày nào đó?

Từ trước đến nay chúng ta vẫn thường lo ngại nhất những điều sau:

Một, khi người dân không còn chịu đựng nổi phải đứng dậy đòi tự do dân chủ, nhà cầm quyền sẽ sử dụng bạo lực để đàn áp, sẽ có đổ máu. Điều này hoàn toàn có thể. Nhà nước độc tài nào cũng muốn giữ quyền lực đến cùng. Bảo vệ chế độ là bảo vệ tính mạng, quyền lợi, tài sản ăn cướp được của đất nước, của nhân dân sau bao nhiêu năm, không chỉ cho đời mình mà còn cho đời con, cháu, chắt, chút… Chưa kể, một chế độ có quá nhiều ân oán, nợ máu với nhân dân như chế độ Cộng sản, tất phải sợ bị trả thù, vì vậy họ càng phải cố giữ.

Nhưng thật ra nhà cầm quyền VN có dám đi đến cùng trong việc đàn áp người dân không, nếu đó là cả một đám đông chừng vài trăm ngàn người trở lên?

Đừng quên VN không phải là TQ. VN hiện nay chỉ là một nước nghèo, còn đang phải đi vay, đi xin xỏ sự giúp đỡ của các nước khác, VN sẽ không dám hạ lệnh tắm máu nhân dân để sau đó hứng đòn trừng phạt, cấm vận của thế giới.

Cho dù núp dưới danh nghĩa quyết định của tập thể, cả đám lãnh đạo cao nhất cũng không dám ra lệnh cho quân đội nã súng bắn xả hoặc cho xe tăng nghiền nát người dân như Trung Quốc trong vụ Thiên An Môn. Lỡ cuộc nổi dậy thành công, họ sẽ trốn đi đâu được để tránh lệnh truy nã về tội ác giết người hàng loạt, như gương nhãn tiền mới đây nhất của cựu Tổng thống Ucraine Viktor Yanukovych? Chạy sang Trung Quốc, Bắc Triều Tiên hay Cuba chăng?

Ở các quốc gia độc tài nào thì đám an ninh, công an/cảnh sát đa phần cũng là đám tệ hại sẵn sàng nã súng bắn vào nhân dân nếu cần. Ở VN cũng vậy thôi. Đó là cái đám được nhà cầm quyền nuôi béo, cưng chiều, để trở thành “thanh kiếm và lá chắn bảo vệ chế độ”, chỉ biết “còn đảng còn mình”. Nhưng quân đội thì không phải lúc nào cũng thế. Những người lính đa số xuất thân từ tầng lớp nông dân, dân nghèo, không được hưởng nhiều bổng lộc của chế độ và cũng không có điều kiện để ăn hối lộ, kiếm chác như đám an ninh, công an nên nhìn chung lương thiện hơn.

Cứ nhìn lại diễn biến của phong trào cách mạng hoa lài ở các nước Bắc Phi, Trung Đông hay phong trào biểu tình chống chính phủ ở Ucraine thì thấy không phải ở quốc gia nào quân đội cũng sẵn sàng bắn vào người dân, và còn tùy theo diễn biến của phong trào.

Giai đoạn đầu, quân đội có thể sẽ tuân lệnh nhà cầm quyền. Hy sinh, đổ máu là chuyện sẽ có. Nhưng nếu người dân chọn phương pháp ôn hòa và thông minh, đánh vào tình cảm, lương tri của người lính, kiểu như nhiều cuộc cánh mạng nhung trên thế giới đã từng thực hiện, người biểu tình mang theo cả trẻ em, người già với những

Số 191 Trang 26

Page 27: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

khẩu hiệu “Chúng tôi/chúng ta là nhân dân”, những cánh hoa hồng… hay như người biểu tình Ucraine giơ những tấm gương trước ngực cho cảnh sát nhìn thấy hình ảnh mình trong đó, mặt hầm hầm, trang bị vũ khí tận răng, đối đầu với đám đông tay không, chắc chắn họ phải chùn tay, lưỡng lự.

Và nếu người đấu tranh cương quyết không lùi bước, khiến phong trào ngày càng lớn mạnh, lan rộng, tình hình chuyển biến, quân đội chắc chắn phải nghĩ đến “hậu vận” của mình. Đám quan chức thì có tiền chạy sang nước khác, còn người lính chạy đi đâu trốn đây?

Sự lo ngại thứ hai: khi có biến động xảy ra, Hà Nội có cầu cứu Bắc Kinh và Bắc Kinh có đem quân sang can thiệp để cứu đàn em?

Nếu nhìn vào hoàn cảnh của Ucraine trong mối quan hệ địa chính trị, văn hóa, lịch sử với Nga, chúng ta thấy có sự tương đồng so với VN và TQ. Chính quyền của cựu Tổng thống Ucraine, Viktor Yanukovych, ai cũng biết, chọn con đường thân Nga bất chấp nguyện vọng khác hẳn của người dân, cũng giống như nhà cầm quyền VN.

Và nếu Nga không dễ gì để mất Ucraine vào tay các nước châu Âu thì Trung Cộng cũng chẳng bao giờ muốn có một VN với một chế độ dân chủ, thoát ra khỏi vòng ảnh hưởng của Bắc Kinh và thân phương Tây, ngay sát bên cạnh. Nhưng khi biến động xảy ra, Putin có sẵn sàng cứu Viktor Yanukovych không, chúng ta đã thấy. Hoặc khi Myanmar quyết định đi theo con đường dân chủ, tách dần khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc, Bắc Kinh cũng đành chịu.

Thêm nữa, tình hình chung ở các chế độ độc tài là khi chế độ đó còn mạnh thì đám đông từ quan đến dân sẽ sợ hãi, hết lòng trung thành, ca ngợi, nhưng một khi chế độ đó sụp đổ thì sẽ không có ai động đậy một ngón tay để khôi phục lại, sẽ không có ai nuối tiếc. Trái lại, những kẻ hôm nay hết mực trung thành, ca ngợi chế độ, chửi bới, bôi nhọ, thậm chí đàn áp người yêu nước, ngày

mai sẽ quay ngoắt lại phủ nhận quá khứ, tung hô chế độ mới hơn ai hết.

Trong những giây phút sa cơ thất thế, trước khi bị xử bắn như cả hai vợ chồng nhà lãnh đạo Roumania, Nicolae Ceauşescu, bị lôi ra khỏi chỗ ẩn nấp cho tới khi bị treo cổ như cựu Tổng thống Iraq, Saddam Hussein, hay vẫn đang phải chạy trốn như cựu Tổng thống Ucraine, Viktor Yanukovych… những con người từng một thời quyền sinh quyền sát trong tay đó có lẽ đều có một suy nghĩ chung: Giá như được làm lại, giá như còn cầm quyền, họ sẽ bớt tham lam, bớt tàn ác hơn, chịu khó lắng nghe nguyện vọng của nhân dân, chịu chia sẻ bớt quyền lực cho những cá nhân, đảng phái đối lập thì có lẽ không đến nỗi bị một kết cục như thế.

Nhưng có ai đang ở trên đỉnh cao quyền lực, hưởng hết mọi của cải trong nhân dân mà nghĩ được như vậy đâu? Còn quyền là còn hưởng, còn đàn áp, mặc kệ lợi ích của đất nước, khát vọng của nhân dân.

Nhà cầm quyền VN hôm nay cũng vậy thôi.

Cũng có thể họ tự tin vì người dân VN đa số hoặc vẫn chưa nhận ra, hoặc vẫn sợ hãi, hoặc thờ ơ không quan tâm đến chuyện chính trị; phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ thì còn quá yếu, chưa có một cá nhân, tổ chức, đảng phái nào đủ mạnh để có thể đối mặt với họ. Nhưng như đã nói, với xu hướng chung của thế giới là đều đi đến một thể chế, mô hình chính trị tự do, dân chủ, đa nguyên, đa đảng, pháp trị, đảng và nhà nước Cộng sản VN chắc chắn sẽ bị đào thải, không sớm thì muộn.

Đảng Cộng sản đã cầm quyền quá lâu, quá đủ để chứng minh với nhân dân có thực sự là một đảng vì dân vì nước hay không, cái công nếu có của đảng đối với đất nước, dân tộc so với tội như thế nào; đảng Cộng sản có thực sự muốn thay đổi, muốn đồng hành cùng thế giới tiến bộ và với nhân dân, hay chỉ muốn bảo thủ đến cùng vì quyền lợi của đảng, của các phe nhóm; và đảng đã

bỏ qua bao nhiêu cơ hội cải cách ra sao để đến hôm nay VN trở thành một quốc gia lạc hậu hàng chục, hàng trăm năm ngay cả so với các nước láng giềng, nhìn vào đâu cũng thấy tình hình nát bét…

Sự kiên nhẫn đến mức nhẫn nhục của nhân dân đối với đảng Cộng sản đã quá đủ, họ không còn có lý do gì để biện minh được nữa.

Chỉ có điều, càng chậm trễ thì cái hậu quả nặng nề mà đảng Cộng sản để lại cho đất nước và nhân dân, từ kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, môi trường, đạo đức xã hội, kể cả sự mất mát về lãnh thổ lãnh hải… sẽ càng lớn, quá trình xây dựng lại từ con số âm ấy sẽ càng lâu, càng vất vả bội phần.

Và điều cuối cùng là về phía những ai đang trên đường đấu tranh đòi lại tự do dân chủ, đòi lại quyền làm người cho mình và cho người khác, phong trào dân chủ ở nước ta hiện nay đã quá yếu ớt, manh mún, lại bị nhà cầm quyền sử dụng mọi chiêu trò thâm độc để đánh phá, bôi nhọ, gây chia rẽ, nên đừng vô tình mắc bẫy mà tự mình lại xoay sang bất hòa, đánh lẫn nhau…

Mỗi người tùy theo vị trí, khả năng, tính cách của mình sẽ chọn cách đấu tranh khác nhau, có người mạnh mẽ dứt khoát đến cùng nhưng cũng có người ôn hòa, có người dùng ngòi bút, có người dấn thân, có người tuyên bố ly khai đảng Cộng sản, có người âm thầm phía sau hỗ trợ… nhưng có lẽ, tất cả đều chung mục đích mong muốn một tương lai tốt đẹp hơn cho VN với một mô hình thể chế chính trị khác. Sự thông cảm, hiểu biết, chia sẻ, gắn kết với nhau là vô cùng quan trọng.

Và có lẽ đã đến lúc tập hợp thành những tổ chức khác nhau cùng đấu tranh (trên thực tế điều này cũng đang diễn ra) để từng người không cảm thấy cô đơn, mệt mỏi, không bị nhà cầm quyền dễ dàng sách nhiễu, cô lập, bức hại cách này cách khác.

Nếu không, VN sẽ mãi mãi đứng ngoài cuộc những sự biến chuyển của thế giới, mãi mãi “nhỡ tàu” như

Số 191 Trang 27

Page 28: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

từ trước cho đến nay Trích

KỊCH BẢN UKRAINA CHO VIỆT NAM của TS Nguyễn

Thanh GiangViệt Nam cũng đang chất chứa

trong lòng nhiều yếu tố Ukraina khuếch đại

…….Chọn hướng ưu tiên ở phía Hoa Kỳ

hay Trung Quốc đang là mâu thuẫn dễ dẫn đến xung đột ngày càng lớn giữa nhân dân Việt Nam, đại đa số đảng viên CSVN với một bộ phận lãnh đạo ĐCSVN….

Rước Trung Quốc vào Tây Nguyên khai thác Bauxite đã là tội lỗi tầy đình thời Nông Đức Mạnh. Sao lại tiếp tục bán rừng đầu nguồn cho họ và kéo họ vào Khu kinh tế Vũng Áng-Formosa, Nhiệt điện, Xi măng Hải Phòng… để mọc lên nhan nhản những làng Trung Quốc, những phố đèn lồng đỏ ở Hà Tĩnh, Quảng Trị, Bình Dương …?

……..Tệ đến mức, khi Trung Quốc đã

ngang ngược thành lập thành phố Tam Sa trên đảo Hoàng Sa và trên biển của ta, Quốc hội yêu cầu cho nghe báo cáo tình hình thì ông Chủ tịch Quốc hội dám trâng tráo tuyên bố “Biển Đông không có gì mới”.

Càng tệ haị hơn khi TBT ĐCSVN chủ trương mở đường cho Trung Quốc vào Việt Nam dẹp loạn. (Văn bản ký kết giữa Nguyễn Phú Trọng với Hồ

Cẩm Đào ngày 15-10-2011)…… Say sưa phô trương sức mạnh

bạo lực nhà nước, công an–tòa án–nhà tù, hơn nửa thế kỉ cầm quyền, nhà nước độc tài Cộng sản Việt Nam đã vô cùng cần mẫn và tùy tiện tống hàng ngàn người dân Việt Nam lương thiện của nhiều thế hệ nối tiếp nhau vào ngục tù.

Đầu tiên nhà nước độc tài man rợ đó tống vào tù những đại công thần đã mang cả cuộc đời chiến đấu hi sinh dựng lên nhà nước Cộng sản: Tướng Đặng Kim Giang. Nhà cách mạng lứa tiền bối dựng lên đảng Cộng sản Việt Nam, dựng lên nhà nước Cộng sản Việt Nam Vũ Đình Huỳnh. Nhà triết học Cộng sản Hoàng Minh Chính... Rồi lần lượt đến những trí thức, nhà văn, nhà báo con đẻ của chế độ Cộng sản. Nhà văn Vũ Thư Hiên, nhà báo Hoàng Thế Dũng, nhà báo Trần Thư, đạo diễn điện ảnh Huy Vân, nhà báo, nhà văn Bùi Ngọc

Tấn... bỗng trở thành những người tù không án ròng rã gần chục năm trời trong nhà tù Cộng sản mà từ lúc bước chân vào ngục tối đến khi ra khỏi cổng nhà tù vẫn không biết bị tù về tội gì. 

Qua đi thời hồng hoang không pháp luật, tù không án, tù theo lệnh tùy hứng của kẻ độc tài như từ trên trời rơi xuống, đến thời luật Cộng sản, luật chỉ để bảo vệ sự thống trị của đảng Cộng sản và chỉ để khoe mẽ, vênh váo làm sang với thế giới văn minh, còn bộ máy công quyền thì vẫn hành xử mông muội, ngồi xổm lên pháp luật, tùy tiện bắt người, đánh người, giết người và tùy tiện làm án.

Làm án theo lệnh của quyền lực độc tài từ bóng tối ban ra, làm án theo kịch bản của công an, theo lớp lang dàn dựng của cơ quan cảnh sát điều tra và quan tòa. Với cách làm án mờ ám, bất lương đó, bất kì người dân lương thiện, trung thực, khẳng khái nào sống đúng Hiến pháp và pháp luật cũng đều có thể bị tù vì những tội danh vu vơ, mơ hồ “tuyên truyền chống nhà nước”, “lợi dụng các quyền tự do, dân chủ” hoặc đi tù mút mùa vì tội danh cụ thể: trốn thuế, nhưng mang rõ dấu ấn dàn dựng, áp đặt của cơ quan cảnh sát điều tra và tòa án tạo dựng lên tội. 

Những tội danh vu vơ, những bản án được dàn dựng sống sượng đã tống vào tù ngục nhiều trí thức chân

chính như bác sĩ Phạm Hồng Sơn, luật sư Nguyễn Văn Đài, nhà báo Nguyễn Vũ Bình, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, luật sư Lê Thị Công Nhân, nhà giáo Vũ Hùng, giáo sư Phạm Minh Hoàng, tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, luật sư Lê Công Định, luật sư Lê Quốc Quân, luật sư Phan Thanh Hải,... Biến nhiều công dân ưu tú có ý thức về quyền làm người, có lương tâm với cuộc đời, có trách nhiệm với vận mệnh đất nước thành những người tù lương tâm, người tù thời đại như trái tim yêu nước Vi Đức Hồi, nhà doanh nghiệp Trần Huỳnh Duy Thức, kĩ sư Nguyễn Tiến Trung, nhà báo tự do Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, những phụ nữ trung hậu Phạm Thanh Nghiên, Tạ Phong Tần, Bùi Thị Minh Hằng,...

Muốn bắt ai cũng được, muốn bỏ tù ai cũng được. Cần có án thì tạo dựng ra án. Không có tội thì tạo dựng ra tội. Mọi tiếng nói khác biệt, mọi đòi

hỏi tự do dân chủ, mọi đòi hỏi quyền làm người đều trở thành án hình sự, đều bị tống vào tù ngục.  Với bộ máy công cụ bạo lực nhà nước khổng lồ không cần hành xử theo pháp luật, thẳng tay tiêu diệt mọi tiếng nói trung thực nhưng khác biệt chính kiến, đảng Cộng sản và nhà nước độc tài của đảng tưởng rằng sẽ ngạo nghễ tồn tại đến vô cùng và những người lãnh đạo Cộng sản “ghế trên ngồi tót sỗ sàng” thì hả hê bắt dân tụng niệm: Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm!

Nhà tù Cộng sản là nơi giam cầm khát vọng làm người của người dân Việt Nam, nơi giam cầm trí tuệ và khí phách Việt Nam cũng là nơi thể hiện đầy đủ bộ mặt man rợ, mất tính người nhất của nhà nước độc tài Cộng sản. Nhà nước độc tài Cộng sản càng tùy tiện tống nhiều trí tuệ và khí phách Việt Nam vào tù thì sự man rợ Cộng sản càng được trí tuệ và khí phách Việt Nam khắc ghi vào lịch sử, khắc ghi vào thời gian.

Chín năm trong nhà tù Cộng sản cho nhà văn Vũ Thư Hiên viết tự truyện Đêm Giữa Ban Ngày ghi lại sự tàn bạo, man rợ của thể chế Cộng sản. Thể chế Cộng sản là đêm đen lạc lõng giữa ánh sáng rực rỡ của văn minh loài người thời công nghiệp hóa, toàn cầu hóa.

Miệt mài chăm chỉ viết báo tô hồng thể chế Cộng sản, tô hồng xã hội Cộng sản, nhà báo Bùi Ngọc Tấn bỗng bị bắt rồi trở thành người tù không án trong nhà tù Cộng sản. Năm năm trong nhà tù Cộng sản cho nhà báo Bùi Ngọc Tấn thấy sự man rợ Cộng sản đã khinh rẻ, đã đầy đọa, đã sỉ nhục con người như thế nào. Con mắt quan sát sắc sảo của nhà báo Bùi Ngọc Tấn và cảm hứng sáng tạo mạnh mẽ của nhà văn Bùi Ngọc Tấn đã biến hiện thực 5 năm ngục tù Cộng sản thành tiểu thuyết tư liệu lịch sử Chuyện Kể Năm 2000.

Năm 2000 chấm dứt một thế kỉ chủ nghĩa Cộng sản đưa loài người vào chém giết, hận thù, máu và nước mắt. Chủ nghĩa Cộng sản rồi sẽ qua đi như một cơn ác mộng của loài người. Nhưng sự khinh bỉ con người của Cộng sản, máu và nước mắt Cộng sản gây ra cho con người thì phải khắc vào thời gian, ghi lại cho mai sau sau để cảnh tỉnh loài người. Vì thế Chuyện Kể Năm 2000 cũng là Chuyện Kể Năm 3000, Chuyện Kể Năm 4000...

Nhà văn Vũ Thư Hiên, nhà văn Bùi Ngọc Tấn đã phải để lại những năm tháng quí giá của cuộc đời trong ngục tù man rợ Cộng sản để có Đêm

Số 191 Trang 28

Page 29: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Giữa Ban Ngày, Chuyện Kể Năm 2000. Những Vi Đức Hồi, Nguyễn Xuân Nghĩa, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Cù Huy Hà Vũ, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Quốc Quân... những trí tuệ và tâm hồn đó đang sống, đang quan sát, đang ghi nhận, đang nhận mặt thể chế Cộng sản và nhà tù Cộng sản để rồi sẽ có thêm những Đêm Giữa Ban Ngày, Chuyện Kể Năm 2000 chân thực, sinh động về số phận bi thảm của con người trong thể chế Cộng sản, trong ngục tù Cộng sản. 

Nhà nước độc tài Cộng sản ỷ vào sức mạnh bạo lực nhà nước, vận hành tối đa công suất bộ máy công cụ bạo lực khổng lồ công an–tòa án–nhà tù càng hung hãn tù đày nhiều tâm hồn, trí tuệ Việt Nam thì sự tàn bạo, mất tính người của độc tài Cộng sản càng được những tâm hồn trí tuệ Việt Nam trong lao tù Cộng sản khắc ghi vào lịch sử, khắc ghi vào thời gian.

Nhà văn Vũ Thư Hiên và nhà văn Bùi Ngọc Tấn trước tôi một thế hệ và hơn tôi một cuộc chiến tranh. Khi người lính Vệ quốc đoàn Vũ Thư Hiên và anh đội viên Thanh niên xung phong Bùi Ngọc Tấn đi vào cuộc chiến tranh chống Pháp thì tôi còn là đứa bé ê a đọc sách Tân Quốc Văn. Nhưng cuộc đời các anh và trang sách về cuộc đời ngục tù của các anh đã thức tỉnh tôi và thức tỉnh hàng triệu người Việt Nam về thể chế Cộng sản. Không biết tự lúc nào anh Vũ Thư Hiên và anh Bùi Ngọc Tấn đã trở thành người anh thân thiết của tôi. 

Dù cách xa hàng chục ngàn kilomet nhưng hằng ngày tôi vẫn gặp anh Vũ Thư Hiên trong thế giới phẳng tin học. Mới mấy tháng trước anh Bùi Ngọc Tấn và chị Nguyễn Thị Ngọc Bích, vợ anh Tấn vào Sài Gòn, tôi cùng anh chị đến nhà con gái anh Vũ Thư Hiên để được nói chuyện và nhìn thấy anh Hiên trên màn hình laptop. Mới mấy ngày trước, tôi lại được gặp anh Tấn, chị Bích ở Sài Gòn và anh Tấn đã tặng tôi bản in mới nhất tập tiểu thuyết của đời anh, tập tiểu thuyết về hiện thực cái ác Cộng sản, về thân phận con người, về sự khinh bỉ, sỉ nhục, đày đọa, vật hóa con người của nhà nước Cộng sản.

Chuyện Kể Năm 2000 được nhà xuất bản Thanh Niên ở Hà Nội phát hành đầu tiên tháng 02 năm 2000 liền bị cơ quan văn hóa của nhà nước độc tài Cộng sản ra lệnh thu hồi và tiêu hủy. Một việc làm của quyền lực độc ác mà tối tăm. Độc ác và tối tăm như nhà nước độc tài Cộng sản Việt Nam giam cầm những tâm hồn, trí tuệ và khí phách Việt Nam. Làm sao có thể giam cầm được sự thật, giam

cầm được lẽ phải? Làm sao có thể giam cầm được tâm hồn, trí tuệ và khí phách? 

Thời tin học, không quyền lực nào thu hồi, tiêu hủy được thông tin đã được tin học hóa, sản phẩm của thế giới thật, thế giới vật thể đã trở thành sản phẩm của thế giới ảo, thế giới phi vật thể. Lệnh thu hồi tiêu hủy của nhà nước độc tài Cộng sản với Chuyện Kể Năm 2000 là sự giới thiệu, sự quảng cáo, tôn vinh lớn nhất cho Chuyện Kể Năm 2000. Vì có lệnh thu hồi và tiêu hủy của nhà nước độc tài Cộng sản mà Chuyện Kể Năm 2000 lại được xuất bản với số lượng lớn, phát hành rộng chưa từng có dưới nhiều hình thức. Chuyện Kể Năm 2000 tràn ngập trên các trang web. Chuyện Kể Năm 2000 được in đi in lại với số lượng lớn ở trong nước, ngoài nước.

Cuối năm 2013 lại có người ở phía Nam đứng ra tổ chức in Chuyện Kể Năm 2000. “Tập sách này được thực hiện bởi những người yêu quí Chuyện Kể Năm 2000 / Tháng 12-2013 / 100 bản. Không bán”. Anh chị Bùi Ngọc Tấn  - Nguyễn Thị Ngọc Bích vào Sài Gòn nhận sách do người in ấn tặng để tặng lại những người đang đấu tranh giành lại những giá trị làm người đã bị nhà nước độc tài Cộng sản tước đoạt.

Phạm Đình Trọngdanlambaovn.blogspot.com

Các cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam gần đây đều nói đến niềm tin của nhân dân đối với đảng CS đã giảm sút đến mức báo động và ý định của lãnh đạo là khôi phục niềm tin ấy, coi đó là “vấn đề cực kỳ hệ trọng, có quan hệ đến sự tồn vong của chế độ”, như Tổng bí thư Nguyễn Phú trọng từng nhấn mạnh.

Cuối năm năm 2013, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng công khai tuyên bố đã giao cho Bộ Ngoại giao và Bộ Giáo dục lên phương án kỷ niệm 35 năm cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới (tháng 2 và tháng 3-1979) và đưa cuộc chiến tranh chống xâm lược ấy vào nội dung giáo dục trong môn sử của các trường phổ thông, nhưng sau đó lời hứa đó đã rơi vào câm lặng. Một quả lừa to đùng xúc phạm lòng yêu nước của toàn dân, xúc phạm anh linh hàng chục ngàn chiến sỹ và nhân dân bỏ mình vì Tổ quốc.

Trong thông điệp dài đầu năm 2014 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tô đậm ý định dân chủ hóa và xây dựng nền pháp trị nghiêm minh, coi đó là “cặp song sinh trong một thể chế chính trị hiện đại”. Thật là quý hóa khi những lời vàng ngọc ấy được thốt ra từ miệng một người đứng đầu chế độ độc đảng. Ông cũng đưa ra một phương châm tuyệt vời: “Người dân có quyền làm tất cả những gì luật pháp không cấm và xử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ quan Nhà nước và cán bộ viên chức chỉ được làm những gì luật pháp cho phép”. Phương châm vàng ngọc này rất nên được kẻ thật đẹp treo cao tại cổng các cơ quan công quyền, các trụ sở Ủy ban nhân dân, Công an nhân dân, Tòa án nhân

dân, trại giam các cấp… để thực hiện thật đúng, thì sẽ là hạnh phúc cho toàn dân. Nhưng thực tế người ta vẫn làm trái ngược thông điệp này khi giở trò hành hung vợ chồng anh Nguyễn Bắc Truyển, khủng bố chị Bùi Minh Hằng, chị Nguyễn Thị Thúy Quỳnh và anh Nguyễn Văn Minh khi 3 người này đến thăm vợ chồng anh Truyển ở Đồng Tháp, và vẫn bỏ tù anh Lê Quốc Quân với một bản án kinh tế “trốn thuế” thô bạo, bất chấp sự can thiệp của thế giới văn minh. Vậy thì luật pháp Việt Nam có điều khoản nào cấm công dân không được yêu nước,

Số 191 Trang 29

Page 30: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

chống bành trướng, thương yêu đùm bọc nhau trong cơn hoạn nạn, và Nhà nước VN có cho phép tòa án xử theo luật rừng công dân của mình hay không? Hoá ra bản thông điệp đầu năm hay ho đẹp đẽ đến tuyệt đỉnh của ông Nguyễn Tấn Dũng chỉ là một quả lừa to đùng nữa của ngài thủ tướng hay sao ?

Và quả lừa thứ 3 nữa là lời hứa ngày 5-2-2014 tại Geneva của chính quyền Việt Nam là sẽ thật sự cải tiến, thúc đẩy việc tôn trọng nhân quyền, thì chính những chiến sỹ nhân quyền của Việt Nam khi trở về nước đã bị hành hung và trả thù, khi nhà báo tự do Phạm Chí Dũng được Human Rights Watch mời sang Thụy Sỹ bị chặn lại một cách thô bạo ở sân bay. Và tại Hải Phòng công an đã phá đám, gây rối loạn lễ tang của Cụ Nguyễn Thị Lợi, thân mẫu của cô Phạm Thanh Nghiên, một chiến sỹ nhân quyền - dân chủ yêu nước chống bành trướng Trung Quốc kiên cường. Một quả lừa to đùng nữa cho nhân dân VN, cho toàn thế giới về thực thi và cải thiện nhân quyền của nhà nước độc đảng chuyên nói một đàng làm một nẻo.

Sự bất quá tam. Ba quả lừa to đùng đầu năm là quá đáng, quá nhiều rồi, quá sức chịu đựng của nhân dân và công luận.

Khôi phục niềm tin bằng những quả lừa hoành tráng liên tiếp từ đầu năm như thế thật là một thái độ nguy hiểm, tự mình giáng những tảng đá xuống chân mình, vì “dối trá không thể đi xa” là câu châm ngôn dân dã rất thâm thúy và chuẩn xác.

Bằng việc cướp chính quyền, CSVN đã điều hành đất nước gần 70 năm nay tại Miền Bắc và gần 40 năm tại Miền Nam. Suốt thời gian lâu dài như vậy, CSVN không làm cho đất nước phát triển, đi lên, trái lại chỉ làm cho đất nước tụt hậu. Thật vậy, VN đã tụt hậu nhiều mặt, khiến Việt Nam

thua xa hàng mấy chục năm so với những nước trước đây đã từng thua VN như Thái Lan, Đại Hàn, Phi Luật Tân... Điều đó chứng tỏ đảng CSVN không có khả năng điều hành và phát triển đất nước. Quá khứ tương đối đơn giản mà điều hành đất nước không tốt, thì tương lai phức tạp hơn rất nhiều −với xu thế toàn cầu hoá và phải đối phó với chủ trương bành trướng và xâm lược rất thâm độc của Trung Cộng− làm sao CSVN có thể đưa đất nước đi lên được? 

CSVN đi từ thất bại này đến thất bại khác, nhưng để đánh lừa dân chúng, lúc nào chúng cũng tuyên bố chúng thành công. Chẳng hạn, khi phản bội hiệp ước đình chiến vào tết Mậu Thân 1968, chúng bất thần tấn công Miền Nam, dù bị thất bại chua cay đến nỗi Hồ Chí Minh quá buồn và chết năm 1969, nhưng CSVN vẫn tuyên bố chúng chiến thắng. Chúng cũng phét lác như vậy sau cuộc chiến với Trung Cộng năm 1979 tại các tỉnh biên giới: dù hậu quả sau đó là Việt Nam bị mất đi hàng chục ngàn cây số vuông lãnh thổ, CSVN vẫn tuyên bố là chiến thắng vẻ vang.

Hiện nay, kinh tế đang bị tuột dốc thê thảm, CSVN vẫn rêu rao rằng: tuy thế giới bị khủng hoảng kinh tế, nhưng Việt Nam vẫn tăng trưởng GDP ở mức cao so với thế giới và châu Á (năm 2012 là 5,25%; năm 2013 là 5,42%). Số nợ xấu của các ngân hàng thương mại theo số liệu của quốc tế lên tới 10-15%, nhưng theo CSVN thì chỉ là 5-7%. Theo một số chuyên gia kinh tế thì số nợ của nhà nước CSVN lên tới 95% GDP, nhưng theo công bố của nhà nước CSVN thì chỉ là 48,4% GDP.

Chúng luôn luôn phét lác và tìm cách lường gạt mọi người khi cần, miễn sao có lợi cho chúng. Kể cả khi sự thật không thể che dấu được nữa, chúng vẫn cứ tiếp tục phét lác không hề ngượng ngùng hay xấu hổ. Ngay cả trên bình diện ngoại giao quốc tế, để đạt được một lợi thế, nếu cần,

chúng sẵn sàng hứa hay cam kết bất cứ điều gì, nhưng khi đã đạt được mục đích, chúng sẵn sàng vi phạm tất cả những gì đã hứa hay cam kết, cho dù chữ ký của chúng chưa ráo mực.Tiêu chuẩn đạo đức của chúng là: bất cứ việc làm hay lời nói nào có lợi cho đảng, cho độc quyền cai trị của đảng thì đều là tốt, là đạo đức, là lẽ phải, là

hợp pháp, là sự thật cho dù có bất lợi cho dân tộc hay có trái với sự kiện tới đâu. Ngược lại, điều gì dù có lợi cho dân tộc hay có phù hợp với sự kiện tới đâu nhưng hễ bất lợi cho đảng, thì cũng đều là tội lỗi, là sai trái, là dối trá, là bất hợp pháp, là vi phạm pháp luật... Yêu nước nhưng bất lợi cho đảng thì trở thành phản quốc. Bán nước nhưng có lợi cho đảng thì vẫn được đảng coi là có công. Có biết như thế ta mới hiểu được tại sao CSVN lại đàn áp dã man những người biểu tình chống Trung Cộng xâm lược, kết án nặng nề những người dám nói sự thật về những sai trái của đảng… Những vụ án xử các nhà đấu tranh dân chủ từ xưa tới nay, mà mới nhất là vụ xử Lê Quốc Quân, Trương Duy Nhất, v.v... đã chứng tỏ điều ấy. 

Đối với người cộng sản, đảng mới là hiến pháp, là luật pháp... Còn những luật quốc tế, kể cả những luật lệ hay hiến pháp do chính chúng ban hành cũng chỉ là mớ văn bản tuỳ nghi sử dụng: những trường hợp nào văn  bản ấy có lợi cho đảng thì nó được coi là có giá trị pháp lý, còn trường hợp nào bất lợi cho đảng thì nó chỉ là mớ giấy lộn.

Dù thất bại hoàn toàn trong việc điều hành và phát triển đất nước, dù tự chứng tỏ mình không có khả năng lãnh đạo, đảng CSVN không bao giờ chịu từ chức, không bao giờ chấp nhận một ai khác lên cầm quyền thay thế mình. Dù biết rằng chế độ cũng như cách cai trị của mình chỉ làm đất nước tụt hậu cách thê thảm, CSVN không bao giờ chấp nhận thay đổi chế độ hay cải thiện cách điều hành đất nước. Trước những sự việc xảy ra trên thế giới, chắc chắn chúng phải nhận thấy rằng tất cả những quốc gia theo chế độ CS -kể cả Tàu Cộng- đều là những nước tụt hậu rất nhiều mặt so với những nước tự do dân chủ và hầu hết những nước này trên thế giới đã thay đổi chế độ. Những nước độc tài nào đã thay đổi thành dân chủ đều trở nên tiến bộ hơn, người dân thoải mái hạnh phúc hơn. Tại sao đảng CSVN lại cố chấp, quyết tâm giữ cho được cái chế độ chết tiệt mình đang theo mà ai cũng cho là dở?

Trong quá khứ cũng như hiện nay, đối với việc phát triển đất nước, CSVN luôn chọn theo cách ngu xuẩn nhất. Chúng rất khôn lanh và quỷ quyệt trong việc cướp chính quyền, bảo vệ quyền lực, tham nhũng, rút ruột các công trình và chiếm đoạt tài sản của người dân mà thôi. Nếu so sánh với những chế độ độc tài khác như chế độ phong kiến, quân phiệt...

Số 191 Trang 30

Page 31: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

thì chế độ cộng sản là chế độ tệ hại nhất, nhưng chúng lại tự bảo vệ quyền lực và quyền lợi mình cách hữu hiệu hơn tất cả những chế độ độc tài khác. Và nếu so sánh với những quốc gia cộng sản khác thì đảng CSVN là đảng mưu mô và thâm độc hơn cả trong việc tự bảo vệ ngai vàng quyền lực. Chúng sẵn sàng bán nước, sẵn sàng biến Việt Nam thành một tỉnh của Trung cộng, bất chấp sau đó người dân sẽ phải đau khổ và nhục nhã thế nào dưới ách thống trị của một nước ngoại bang còn tệ hại hơn tất cả các nước ngoại bang khác như Pháp, Nhật, v.v... 

Những thảm trạng của người dân Việt Nam hiện nay như bị cướp đất, cướp nhà, bị bán ra ngoài làm nô lệ tình dục, nô lệ lao động, những người yêu nước bị thủ tiêu, bị vào tù, bị tra tấn, bị đàn áp, bị khủng bố… đã làm cho nhiều người rùng mình. Nhưng những thảm trạng ấy sẽ không thấm vào đâu so với những thảm trạng trong tương lai khi đất nước đã trở thành một tỉnh hay một huyện của Trung cộng. Hãy xem đảng cộng sản Trung Quốc đối xử ra sao với những người dân hiền lành của họ, chẳng hạn như những học viên Pháp Luân Công, để suy ra cách chúng sẽ đối xử với người dân Việt Nam, nhất là với những người yêu nước, sau khi CSVN dâng lãnh thổ lãnh hải của mình cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc này. Chẳng lẽ chúng từng mổ sống biết bao học viên Pháp Luân Công −là người cùng dân tộc với họ− để lấy nội tạng xuất khẩu, thì chúng sẽ không đối xử như thế với những người VN yêu nước khi những người này đã trở thành dân của chúng?

Trước cách cai trị của CSVN, có thể kết luận một cách tóm gọn là: CSVN rất dại dột và ngu xuẩn trong điều thiện, trong việc phát triển đất nước, nhưng lại rất khôn lanh, quỷ quyệt trong điều ác, trong việc bảo vệ quyền lực và quyền lợi riêng của chúng. Và đó cũng chính là lý do tại sao cho tới nay người dân VN vẫn chưa thực hiện được những cuộc cách mạng như ở Ukraina, hay ở các nước Ai Cập, Tunisia, Lybya, v.v…

Houston, ngày 7/3/2014Nguyễn Chính Kết (8406)Những người quyết tửBắc Giang - một địa phương có

truyền thống xung đột đất đai giữa người dân với chính quyền, lại vừa vụt hiện một dấu hiệu quyết tử giữ đất, sau đúng hai năm từ cuộc nổi dậy của người nông dân Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng.

Tiếp nối truyền thống o ép và đàn

áp dân như đã từng dẫn đến cái chết cho ít nhất một người khiếu kiện và xử tù những người khiếu kiện khác cách đây ba năm, một lực lượng hùng hậu lên đến 137 nhân mạng đã kéo đến khu Lê Duẩn, thị trấn Chũ thuộc huyện Lục Ngạn để cưỡng chế đối với một gia đình không hề nằm trong phần đất phải giải tỏa.

Tại đây, đoàn cưỡng chế trên đã gặp phải sức kháng cự hết sức bất ngờ và quyết liệt của hai anh em Vi Văn Tùng và Vi Văn Thế. Những quả bom xăng tự chế từ bình gas đã được người giữ đất chuẩn bị thật chu đáo để dón tiếp các vị khách không mời. Sau hai năm từ thời điểm nổ ra vụ Cống Rộc ở huyện Tiên Lãng, Hải Phòng, suýt chút nữa người ta đã chứng kiến hình ảnh Đoàn Văn Vươn tái hiện ở Bắc Giang cùng cảnh sắc máu đổ giữa những con người từng là đồng bào của nhau.

Câu chuyện trên không khỏi nhắc công luận nhớ lại vụ ba anh em ruột ở Hà Bắc, Trung Quốc, cùng tự thiêu vào giữa năm 2011 như một tâm thế tuyệt vọng trước hành vi cưỡng chế đất bất chấp của chính quyền.

Một bài điều tra mới đây của báo Dân Trí cho thấy năm 2007, chính quyền huyện Lục Ngạn đã tống đạt chủ trương thu đất để thực hiện dự án xây dựng công trình “Đường nội thị thị trấn Chũ, tuyến Khí tượng - BV Đa khoa Lục Ngạn” với chiều dài 1,7km. Tuy nhiên, điều khiến nhiều hộ dân kinh ngạc và phẫn nộ là con đường mới không hề đi qua phần đất của họ nhưng họ lại nhận được thông báo phần đất của gia đình họ cũng sẽ bị thu hồi để “làm đường”.

Cho đến năm 2013, đường mới được hoàn thiện. Lúc này, 17 hộ dân thuộc khu Lê Duẩn liên tục nhận được những thông báo của chính quyền về việc thu hồi đất của gia đình họ dù những phần đất này cách xa con đường mới. Mỗi hộ bị thu hồi hàng trăm mét vuông.

Nhưng đáng công phẫn hơn, các hộ dân ở đây xác quyết rằng chính quyền huyện Lục Ngạn thu hồi những phần đất không hề liên quan đến dự án làm đường để phân lô bán nền với giá cao hơn nhiều so với giá đền bù giải phóng mặt bằng cho các hộ dân.

Căn nguyên của những bức xúc trên xuất phát từ những lập lờ trong các quyết định, thông báo của chính quyền huyện Lục Ngạn. Theo đó, toàn bộ các quyết định, thông báo và các văn bản liên quan của UBND Lục Ngạn từ năm 2007 đến cuối năm 2013 gửi các hộ dân đều ghi rõ, việc thu hồi đất là để “thực hiện dự án đầu

tư xây dựng công trình đường nội thị thị trấn Chũ”. Tuy nhiên, đến thông báo ngày 31-12-2013, các thông báo thu hồi đất lại được “bổ sung” thêm mục đích thu hồi đất là để “thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình đường nội thị thị trấn Chũ và hạ tầng kỹ thuật khu dân cư”.

Tình thế biến hóa của các văn bản trên đã là một minh chứng không thể minh bạch hơn về thói xảo trá của những kẻ đang tuyên xung là “công bộc của dân”.

Những kẻ dung dưỡngHai anh em Vi Văn Tùng và Vi

Văn Thế đang bị cơ quan cảnh sát điều tra địa phương “củng cố hồ sơ để khởi tố vụ án”. Điều đó cũng có nghĩa là lại 1 lần nữa, tương lai của những người dân khiếu kiện và chống cưỡng chế là 4 bức tường đen đúa và tăm tối trong trại giam,cùng các án tù có thể không hề nhẹ nhàng với tội danh “chống người thi hành công vụ”.

Nhưng hệ lụy nhân quả của trời đất chưa hề kết thúc. Tình cảnh đau đớn của người dân luôn bị nhân gấp đôi: một do thái độ hành xử vô lối của chính quyền, và tiếp nối là những kẻ được xem là “công bộc”, ngoài thói quen vun vén tài sản trên máu xương đồng bào, đã không tích góp được bất kỳ kinh nghiệm xương máu nào trong cuộc đối mặt và cả đối đầu với dân chúng.

Hai ngàn bài viết phẫn uất sôi sục trên phần lớn báo chí trong nước về số phận “người nông dân nổi dậy” Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng vào đầu năm 2012 cuối cùng đã chẳng mấy có tác dụng, bởi chính thái độ coi thường dân của rất nhiều quan chức vô cảm. Thậm chí, viên đại tá có tên là Đỗ Hữu Ca, giám đốc Công an Hải Phòng và là tác giả của giai thoại được xem là “trận đánh đẹp” vào gia đình Đoàn Văn Vươn, còn được phong hàm tướng sau sự việc đau buồn đó.

Làng Trịnh Nguyễn, tỉnh Bắc Ninh vào khoảng giữa năm 2013. Đỗ Thị Thiêm, một phụ nữ nông dân chống cưỡng chế đất đai, bị băng trắng phủ kín cả phần ngực và hai bên sườn. Chị đã bị những kẻ giấu mặt tạt axit. Nhiều dân làng Trịnh Nguyễn phải náu mình đòi công lý dưới gầm cầu vượt đã không hề hoài nghi về việc nhóm thủ ác đối với chị Thiêm được chủ đầu tư và cả công an địa phương sai khiến.

Giai tầng nông dân, vốn chiếm đến 60% dân số trong độ tuổi lao động ở Việt Nam, đang lâm vào tình trạng bức bách về kế sinh nhai. Trên khắp mọi vùng đất nước vẫn hàng

Số 191 Trang 31

Page 32: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

ngày lê thê hình ảnh những đoàn dân oan lũ lượt kéo nhau đi đòi quyền lợi bị đánh cắp. Cảnh nạn phân tầng và phân hóa xã hội ở Việt Nam mới đắng chát làm sao! Trong khí buốt tê tái lòng người cùng nỗi bất an cùng cực cho tương lai vẫn siết lấy buồng tim những người nông dân mất đất.

Không khí trì trệ không chỉ não trạng mà cả hành vi trong Đảng càng khiến cho các nhóm lợi ích thừa cơ tung hoành. Vào đầu tháng 10-2013, hàng loạt vụ cưỡng chế đã dồn dập xảy ra ở Văn Giang (Hưng Yên) và Trịnh Nguyễn thuộc Bắc Ninh. Không chỉ hiện diện sắc phục công an, hình ảnh tái hiện của những nhóm côn đồ càng khiến lớp dân oan sôi máu.

Cùng tắc biến. Mục ruỗng tư tưởng chế độ đã biến thành hành vi “hồi tố” từ dân chúng. Tháng 9-2013, một nông dân Thái Bình là Đặng Ngọc Viết đã xả súng bắn chết ba quan chức điều hành quỹ đất của tỉnh này. Suy thoái kinh tế kéo dài và bế tắc kéo theo những mầm mống khủng hoảng xã hội đang mau chóng lộ diện và có thể bùng nổ trong vô thức. Phần lớn sự lộ hình này đến từ nông thôn miền Bắc - những địa phương có truyền thống cách mạng trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và cả khởi nghĩa nông dân.

Người dân Việt đang tự hỏi sẽ còn xảy ra bao nhiêu vụ Đoàn Văn Vươn và Đặng Ngọc Viết nữa ở nông thôn miền Bắc và dắt dây vào khu vực miền Trung và Nam bộ.

Sẽ phải trả giáMột khi “sở hữu đất đai toàn dân”

vẫn chưa có gì tiến hóa trong kỳ họp Quốc hội cuối năm 2013, các nhóm lợi ích vẫn ung dung trục lợi với sự “bảo kê” mới từ bản tân Hiến pháp về cơ chế thu hồi đất.

Trái ngược với mong mỏi của người dân về quyền sở hữu đất cần được quy định trong luật, Hiến pháp 2013 vẫn cho rằng: vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân nên không đặt vấn đề trưng mua vì tổ chức, cá nhân chỉ có quyền sử dụng, không có quyền sở hữu; đặc biệt là vẫn thu hồi đất đối với các dự án kinh tế xã hội.

Một khi Hiến pháp mới vẫn được sao y trọn vẹn tinh thần của “bản gốc” năm 1992, tất nhiên sẽ chẳng có một cuộc đổi thay tinh thần nào cho người dân, cho dù từ đầu năm 2013 đến nay đã có quá nhiều và quá đủ ý kiến từ dân chúng cho rằng nhân dân phải có quyền định đoạt - sở hữu về mảnh đất của chính mình, chứ không thể mãi mãi chỉ vay mượn khái niệm “quyền sử dụng” - một cái cớ để bất cứ một nhóm lợi ích nào cũng có thể

lợi dụng nhằm đẩy đuổi dân ra khỏi nơi chôn rau cắt rốn.

Cho tới thời điểm này, việc giải quyết khiếu tố đất đai vẫn hết sức nóng bỏng ở Việt Nam, với khoảng 80% đơn thư khiếu tố thuộc về lĩnh vực đất đai và hơn 70% trong số đơn thư đó nhằm tố cáo rất nhiều sai phạm của các chính quyền địa phương về công tác bồi thường, cưỡng chế giải tỏa, tái định cư…

Nhưng ngược chiều với tuyên ngôn “công an và thanh tra là bạn của dân”, nhiều vụ khiếu kiện đất đai đã bị quy chụp cho cái mũ “tụ tập mang màu sắc chính trị” và đã bị đàn áp nặng nề.

Trong tận cùng tâm não của mình, dường như Đảng và Quốc hội vẫn chưa nhận ra những sự kiện Ô Khảm ở Trung Quốc vào cuối năm 2011 và Tiên Lãng ở Việt Nam vào đầu năm 2012 đã có thể quá đủ để cấu thành một bài học nhãn tiền cho những gì có tính quả báo thời nay.

Bởi một khi không có ai rút ra được bài học nào từ lịch sử, lịch sử sẽ bắt một ai đó phải trả giá.

Tất cả đang và sẽ phải trả giá, trả giá cho ngày hôm nay và gần như không thể khác cho cả tương lai những tháng năm sắp tới, đối với sự vô cảm quan chức mà xã hội đã lên án quá dày dặn nhưng lại chưa một quan chức trơ lì nào bị kết án.Không thể nói khác hơn, một quy luật tâm lý xã hội đã hình thành: Não trạng và cách hành xử vô cảm đến mức bất chấp của giới quan chức đã tiếp biến với hành động phản kháng mang tính bất chấp không kém của dân chúng. Nếu vào năm 1997, người dân Thái Bình nổi dậy nhưng chỉ đến mức bắt giữ cán bộ chính quyền trong một thời gian ngắn, còn đến năm 2012 gia đình Đ.V.Văn Vươn đã chống trả quyết liệt lực lượng cưỡng chế đất đai tuy chỉ bằng tư thế thụ động, thì nay tâm thế sợ hãi đã biến thành hành vi trả thù chủ động của người dân. Tín hiệu hỗn loạn xã hội cũng từ đó mà nảy nở, mà bùng phát.

Khó có thể khác hơn, nạn thu hồi đất vô lối và thói cai trị dân chúng bằng bạo lực ở nhiều địa phương đang dẫn đến triển vọng bùng nổ phản kháng của nông dân. Không còn là những phản ứng tích tụ ngấm ngầm nhưng không dám bộc phát như những năm trước, giờ đây hành

động phản kháng đã có dấu hiệu vượt qua tâm lý sợ sệt và lằn ranh pháp luật, chĩa thẳng mũi công kích vào những cán bộ chính quyền cận kề nhất. Đó cũng là nhận thức “hồi tố”, một dạng tâm lý rất nguy hiểm trong lịch sử xã hội Việt Nam mà không ít lần đã dẫn đến những xáo trộn tự phát và kinh khủng, dẫn tới những cuộc khởi nghĩa có tổ chức của nông dân ở khắp mọi nơi.

Nhà nước Việt Nam đương đại đã từ lâu bỏ quên lời dạy “lấy dân làm gốc” của Nguyễn Trãi. Trong lúc nhiều quan chức cao cấp vẫn ung dung hưởng thụ, tâm lý hồi tố tự phát nơi dân nghèo lại đang có chiều hướng phát lộ ngay trước mắt ở một số vùng nông thôn miền Bắc và miền Trung - những nơi mang sắc thái dã man nhất của các nhóm lợi ích và hành xử mang tính côn đồ và lưu manh nhất của một số viên chức chính quyền.

Giờ đây, rất nhiều nông dân và cả trí thức Việt Nam đang biểu lộ phản ứng có tính đối đầu với lực lượng công quyền. Tâm lý thù ghét người giàu và giới quan chức cai trị ngày càng ăn sâu vào não trạng của lớp nông dân mất đất, bị nghèo hóa và bị đẩy vào cảnh bần cùng. Mối dắt dây liên tục và hầu như không tránh khỏi như thế sẽ có thể khiến cho chế độ cầm quyền lâm vào ngõ cụt chỉ trong

3-4 năm nữa, một khi khủng hoảng kinh tế công khai trưng diện cái thảm cảnh quay quắt của nó.

Khi đó, xã hội và cả nền chính trị VN sẽ cùng dắt tay nhau xuống hố…

THÔNG BÁO SỐ 8ngày 13-02-2014

1- Sáng ngày 13-02-2014, bà Lê Hiền Đức cùng Luật sư và một số dân oan miền Bắc đã đến trụ sở Bộ Nội vụ để tìm hiểu Bộ này đã giải quyết như thế nào về đơn của bà Lê Hiền Đức và ông Nguyễn Xuân Ngữ về thành lập HHDOVN.

Trước Tết Nguyên đán, ông Tạ Tấn –chuyên viên Vụ Tổ chức phi chính phủ– Bộ Nội vụ đã tiếp ông Nguyễn Xuân Ngữ, và cho biết đã nhận được những thư này, Bộ Nội vụ sẽ trả lời bằng văn bản sau Tết

Số 191 Trang 32

Page 33: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Nguyên đán. Nhưng đến nay chúng tôi vẫn chưa nhận được văn bản trả lời nào của Bộ Nội vụ. Sáng nay, Ông Tạ Tấn tiếp tục ra tiếp bà Lê Hiền Đức và các dân oan. Ông Tạ Tấn chia sẻ sự cảm kích với bà Lê Hiền Đức và bà con dân oan, mặc dù rất lạnh, nhưng bà con vẫn có mặt tại Hà Nội để đến làm việc với Bộ Nội vụ. Ông tiếp tục hứa sẽ tham mưu cho Bộ trưởng trả lời sớm nhất cho bà Lê Hiền Đức, ông Nguyễn Xuân Ngữ. Bà Lê Hiền Đức yêu cầu trả lời sớm trước 22-02-2014, để dân oan có đủ thời gian thông báo cho bà con và các tổ chức trong, ngoài nước để chuẩn bị thành lập HHDOVN vào ngày 03-03-2014.

2- Luật sư của bà con dân oan đã gửi công văn đề nghị Bộ Nội vụ trả lời bằng văn bản những vấn đề sau:

a. Việc lập Hiệp hội Dân oan Việt Nam có bị pháp luật cấm hay không? Trong trường hợp bị cấm, nêu rõ điều khoản cụ thể nào của văn bản pháp luật nào quy định cấm?

b. Trong trường hợp Hiệp hội Dân oan Việt Nam  không bị luật cấm thành lập, và có thể áp dụng Nghị định 45/2010/NĐ-CP để thành lập Ban vận động Hiệp hội dân oan Việt Nam, xác định cơ quan nào có thẩm quyền công nhận Ban vận động này?

c. Trong trường hợp Bộ Nội vụ chưa thể làm rõ được vấn đề thành lập của Hiệp hội Dân oan Việt Nam, cần trao đổi thêm với các cơ quan, ban ngành có liên quan, đề nghị Bộ Nội vụ cũng có văn bản thông báo cho Luật sư và những công dân này.

3. Dân oan Văn Giang, Hưng Yên cho biết vào ngày 10-02-2014, tại địa bàn xã Phụng Công, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, lực lượng thi công của Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Đô thị Việt Hưng làm lễ thi công, cho máy ủi, máy xúc đến ủi khu vực đất của bà con xã Phụng Công. Bà con ra giữ đất nhưng đã bị một số côn đồ mang dao, kiếm ra đe dọa và dùng 3 khẩu súng hoa cải bắn vào người dân,

khiến cho 5 người bị thương, trong đó 4 người bị thương nhẹ và đã được sơ cứu, còn 1 người đang cấp cứu trong bệnh viện Việt Đức vì viên đạn nằm ở vị trí nguy hiểm chưa thể mổ lấy ra được.

4- Ban vận động HHDOVN và dân oan Việt Nam kịch liệt phản đối những hành vi bạo lực, côn đồ đối với dân oan xã Phụng Công, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên và bày tỏ tình đoàn kết, tương trợ, thăm hỏi đến những dân oan bị thương. Ban vận động HHDOVN yêu cầu Công an tỉnh Hưng Yên và Bộ Công an nhanh chóng khởi tố vụ án hình sự mang tính giết người, côn đồ này, điều tra truy tìm bằng được những thủ phạm đã đe dọa và bắn những dân oan này, làm rõ kẻ chủ mưu đứng đằng sau những tên côn đồ này để truy cứu trách nhiệm trước pháp luật, không để những hành vi bạo lực tiếp tục tiếp diễn. Ban vận động HHDOVN và toàn thể dân oan Việt Nam sẽ sát cánh với những dân oan Văn Giang, Hưng Yên trong cuộc đấu tranh giữ đất, tìm công lý.

Chúng tôi đề nghị các phương tiện thông tin báo chí Việt Nam đưa tin đầy đủ về sự kiện nghiêm trọng này, không bỏ rơi số phận của những dân oan Việt Nam, không im lặng đáng sợ, không chấp nhận cái ác và bạo lực hoành hành công khai đối với Đồng bào mình

Thay mặt Ban vận động thành lập “Hiệp hội Dân oan Việt Nam”

Nguyễn Xuân Ngữ

THÔNG BÁO SỐ 9ngày 28-02-2014

Dân Luận: Người làm ra văn bản trả lời có vẻ không hiểu pháp luật, hoặc cố tình diễn giải sai pháp luật.

Ở điểm số 1, pháp luật không hề quy định rằng người dân không được phép tự quyết định Ban Vận Động thành lập hội. Pháp luật chỉ quy định rằng Ban Vận Động hội phải được cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực chính mà hội dự kiến hoạt động công nhận. Thay vì chỉ cho người dân cơ quan A, cơ quan B là cơ quan quản lý ngành / lĩnh vực mà ông bà định hoạt động đó, đến đó yêu cầu họ công nhận Ban Vận Động thành lập

hội đi, thì người ra văn bản sổ toẹt bằng câu “tự quyết định thành lập Ban Vận Động” là trái pháp luật.

Ở điểm số 2, kết luận công dân đề nghị thành lập Hội Dân oan là không phù hợp với quy định của pháp luật lại càng khiên cưỡng. Chẳng có lý do gì để nói Hiệp hội Dân oan này không phải là tổ chức tự nguyện của công dân, không có mục đích kết hợp, không nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thành viên, của cộng đồng, góp phần phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, có tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật. Bảo vệ người dân bị oan ức, vạch mặt các quan chức tham nhũng lạm quyền không phải là vì lợi ích phát triển đất nước sao?

Hoan hô Hiệp hội Dân oan Việt Nam với những bước đi bài bản, hợp lý và đúng pháp luật. Trái ngược là hình ảnh của những quan chức Việt Nam, những người đáng lẽ phải hiểu biết pháp luật hơn là những người nông dân mất đất kia.

Việt Nam, ngày 28-02-20141. Ngày 28-02-2014, chúng tôi đã

nhận được văn bản của Bộ Nội vụ trả lời về việc thành lập Ban vận động Hiệp hội dân oan Việt Nam. (nguyên văn như sau):

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa VNĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bộ Nội VụSố 599/BNV-TCPCPV/v trả lời công dân

Hà Nội ngày 28-02-2014Kính gửi:

- Ông Nguyễn Xuân Ngữ, - Địa chỉ: phòng C9 nhà 41 đường Tăng Nhơn Phú, phường Phước Long, quận 9, Tp Hồ Chí Minh.

Bộ Nội vụ nhận được thông báo ngày 31 tháng 12 năm 2013 của ông Nguyễn Xuân Ngữ về việc thành lập Ban Vận động Hiệp hội Dân oan Việt Nam. Căn cứ quy định pháp luật có liên quan, Bộ Nội vụ trả lời như sau:

1- Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội quy định: “Muốn thành lập hội, những người sáng lập phải thành lập ban vận động thành lập hội. Ban vận động thành lập hội được cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực chính mà hội dự kiến hoạt động công nhận”. Như vậy, việc công dân tự quyết định thành lập Ban Vận động thành lập hội, thông báo đến cơ quan quản lý nhà nước là trái quy định của pháp luật nêu trên;

Số 191 Trang 33

Page 34: €¦ · Web viewSau đó họ lại đưa ra một bài viết có nội dung kêu gọi các lực lượng quần chúng trong nước xuống đường biểu tình vào ngày

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

2- Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP quy định: “Hội được quy định trong Nghị định này được hiểu là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, được tổ chức và hoạt động theo Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan”. Vì vậy, việc công dân đề nghị thành lập Hiệp hội Dân oan Việt Nam là không phù hợp với quy định của pháp luật.

Trên đây là ý kiến của Bộ Nội vụ gửi ông Nguyễn Xuân Ngữ và đề nghị ông thực hiện đúng quy định của pháp luật./.

TL. Bộ trưởngVụ trưởng Vụ Tổ chức phi chính phủ(Ký tên và đóng dấu)Nguyễn Tiến Thành

2- Chúng tôi phản đối văn bản này của Bộ Nội vụ, vì có nội dung cấm công dân thực hiện quyền tự do lập hội trái Hiến pháp 2013 và trái Thông điệp đầu năm 2014 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

3- Chúng tôi sẽ chính thức có bản khiếu nại đến Bộ Nội vụ trong thời gian tới. Chúng tôi sẽ đề nghị Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và các Đại biểu Quốc hội đã thông qua Hiến pháp 2013 có những biện pháp để đảm bảo những quyền tự do dân chủ của công dân, trong đó có quyền tự do lập hội, kiên quyết loại trừ ra khỏi bộ máy nhà nước những quan chức không hiểu biết Hiến pháp và có hành vi cản trở những quyền tự do dân chủ này, khiến Hiến pháp 2013 không được thực thi nghiêm chỉnh, làm giảm uy tín của Quốc hội và Chính phủ.

Thay mặt những người định thành lập “Hiệp hội Dân oan Việt Nam”,

Nguyễn Xuân Ngữ

Số 191 Trang 34