dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van... · web viewnhư...
TRANSCRIPT
LỜI NÓI ĐẦU Trong những năm qua cùng với sự phát triển mạnh mẽ của Khoa học - công
nghệ và toàn cầu hoá nền kinh tế quốc tế thì yếu tố con người ngày càng được quan
tâm chú trọng như là yếu tố chính của sự phát triển ở bất kỳ quốc gia nào.
Để ứng dụng Khoa học – Công nghệ đó một cách hiệu quả thì nguồn nhân
lực có trình độ chuyên môn cao, kỹ năng tốt, khả năng nhạy bén, kỹ thuật điêu
luyện là vấn đề được quan tâm đầu tư… Để nâng cao hơn nữa khả năng thích
ứng của người lao động khi làm việc với công nghệ.
Vì thế phải đặt vấn đề phát triển con người và nguồn nhân lực trong một
cái nhìn toàn diện.
Ngày nay không thể quan niệm đơn thuần nguồn nhân lực là lực lượng lao
động với nghĩa đơn giản là những người làm công ăn lương, những người nông
dân… Mà cuộc sống ngày nay đòi hỏi phải nhìn nhận nguồn nhân lực một cách
bao quát, bao gồm tất cả mọi người thuộc mọi tầng lớp xã hội và nghề nghiệp
khác nhau, mọi địa vị xã hội từ thấp đến cao nhất từ người làm nghề lao động
cao nhất như: Nông dân, công nhân, người làm công việc chuyên môn, người
làm khoa học, người làm nhiệm vụ quản lý, nhà kinh doanh, người chủ doanh
nghiệp, giới nghệ sĩ, người hoạch định chính sách, quản lý… tất cả đều nằm
trong tổng thể của cộng đồng xã hội, mọi cá nhân đều có nhu cầu đào tạo, phát
triển và có điều kiện để tự phát triển.
Là một đơn vị hành chính sự nghiệp, UBND huyện Vị Xuyên đã và đang
chú trọng đầu tư mạnh cho việc nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực
bằng các chương trình đào tạo, phát triển nguồn nhân lực tại đơn vị.
Đối với UBND huyện Vị Xuyên, hay các tổ chức khác, các nghiệp vụ của
quản trị nhân lực không phải lúc nào cũng được quan tâm một cách đầy đủ và
mức độ quan tâm là giống nhau, với đặc thù là cơ quan nhà nước, các nghiệp vụ
được triển khai có sự khác biệt với doanh nghiệp. Do có sự tương tác giữa con
người với nhau rất lớn nên công tác quản trị nhân lực được lãnh đạo UBND và
phòng Nội vụ rất quan tâm.
Tổ chức có tồn tại được hay không, phát triển hay lụi tàn, thành công hay
thất bại đều được quyết định bởi những người làm trong tổ chức đó, máy móc dù
có hiện đại, cơ sở vật chất có đầy đủ khang trang nhưng không có con người thì
tất cả vẫn chỉ là những vật vô chi, không tự tạo ra giá trị bởi thế con người mới
chính là yếu tố cấu thành nên tổ chức, vận hành tổ chức và quyết định sự thành
bại của tổ chức.
Trong quá trình thực tập tại phòng Nội vụ huyện Vị Xuyên, tôi nhận thấy
đây là vấn đề hay và quan trọng, do đó tôi đã quyết định lựa chọn đề tài: “Hoàn
thiện công tác đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là
người dân tộc thiểu số ở huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang” làm đề tài cho báo
cáo thực tập tốt nghiệp của mình.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi đã có những thuận lợi là được
tiếp thu kiến thức cơ bản trong quá trình học tại trường Đại học Nội vụ Hà Nội,
sự giúp đỡ của các thầy cô giáo và Khoa Tổ chức và Quản lý nhân lực đã tạo
điều kiện cho tôi tham gia đợt thực tập, được học hỏi và quan sát thực tế, để vận
dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn một cách linh hoạt và có hệ thống
hơn. Qua bài báo cáo này tôi xin chân thành cảm ơn sự phối hợp chặt chẽ giữa
nhà trường, cơ quan và gia đình, sự quan tâm giúp đỡ của các thầy cô giáo trong
trường, các bác, các cô chú, anh chị cùng toàn thể cán bộ, nhân viên trong cơ
quan đã nhiệt tình chỉ bảo hướng dẫn, tạo mọi điều kiện tốt nhất trong thời gian
tôi thực tập tại phòng Nội vụ.
Trong quá trình thực tập, bản thân tôi cũng đã cố gắng tìm hiểu thực tế để
hoàn thành bài báo cáo xong vì thời gian thực tập không được nhiều, nên bản
báo cáo thu hoạch của tôi cũng không tránh khỏi những khuyết điểm nhất định.
Do đó, tôi mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô và các
bạn để bài báo cáo của tôi được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 19 tháng 05 năm 2013
SINH VIÊN
Nguyễn Thị Liền
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Nội dung viết tắt Chữ viết tắt
Cán bộ, công chức CBCC
Đào tạo, bồi dưỡng ĐTBD
Dân tộc thiểu số DTTS
Hội đồng nhân dân HĐND
Ủy ban nhân dân UBND
Nhân lực NL
Cán bộ, công nhân viên CBCNV
Khoa học xã hội và nhân văn KHXH&NV
Ban chấp hành BCH
MỤC LỤCLỜI NÓI ĐẦU
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
A. PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.............................................................................................................2
2. Lịch sử nghiên cứu..........................................................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................4
3.1. Mục đích nghiên cứu...................................................................................................4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................................4
4. Phạm vi nghiên cứu.........................................................................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................................5
6. Ý nghĩa của nghiên cứu..................................................................................................6
7. Kết cấu bài báo cáo.........................................................................................................6
B. PHẦN NỘI DUNG...........................................................................................7
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG CÁN BỘ CÔNG CHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ LÀ NGƯỜI
DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở HUYỆN VỊ XUYÊN, TỈNH HÀ GIANG...................8
1.1. Khái niệm.......................................................................................................................8
1.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức.................................................................................8
1.1.2. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.............................................9
1.2. Mục tiêu và vai trò của công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC............................10
1.2.1. Mục tiêu....................................................................................................................10
1.2.2. Vai trò........................................................................................................................11
1.3. Vai trò của đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số và
sự cần thiết của đào tạo, bồi dưỡng CBCC chính quyền cấp xã là người dân tộc
thiểu số..................................................................................................................................12
1.3.1. Vai trò của đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số.12
1.3.2. Sự cần thiết phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã là
người dân tộc thiểu số.......................................................................................................14
1.4. Nội dung, hình thức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã
là người dân tộc thiểu........................................................................................................15
1.4.1. Nội dung...................................................................................................................15
1.4.2. Hình thức đào tạo....................................................................................................17
1.5. Nguyên tắc và yêu cầu đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức.......................................................................................................................................18
1.5.1. Nguyên tắc................................................................................................................18
1.5.2. Yêu cầu.....................................................................................................................19
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ
CÔNG CHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
Ở HUYỆN VỊ XUYÊN, TỈNH HÀ GIANG.......................................................22
2.1. Tổng quan về huyện Vị Xuyên...............................................................................22
2.1.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện...........................22
2.1.2. Một số yếu tố đặc thù của các xã trên địa bàn huyện ảnh hưởng đến chất
lượng đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số......................24
2.2. Đặc điểm về đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người dân tộc
thiểu số ở các xã trên địa bàn huyện..............................................................................30
2.2.1. Số lượng....................................................................................................................30
2.2.2. Về chất lượng..........................................................................................................32
2.3. Quy trình đào tạo cán bộ, công chức.....................................................................36
2.3.1. Xác định nhu cầu đào tạo......................................................................................36
2.3.2. Xác định mục tiêu đào tạo....................................................................................38
2.3.3. Lựa chọn đối tượng đào tạo..................................................................................39
2.3.4. Xây dựng chương trình đào tạo...........................................................................40
2.3.5. Lựa chọn phương pháp đào tạo...........................................................................42
2.3.6. Xác định chi phí cho đào tạo, bồi dưỡng...........................................................42
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức là
người dân tộc thiểu số.......................................................................................................43
2.4.1. Cơ sở vật chất của huyện phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức.............................................................................................................................43
2.4.2. Đội ngũ giảng viên.................................................................................................44
2.4.3. Nguồn kinh phí........................................................................................................45
2.5. Đánh giá về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức là người dân....46
2.5.1. Kết quả đạt được.....................................................................................................46
2.5.2. Những tồn tại...........................................................................................................47
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP, KHUYẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CHÍNH
QUYỀN CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở HUYỆN VỊ XUYÊN,
TỈNH HÀ GIANG...............................................................................................52
3.1. Mục tiêu của huyện về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã là người dân tôc thiểu số ở huyện.........................................................52
3.1.1. Mục tiêu chung........................................................................................................52
3.1.2. Mục tiêu cụ thể........................................................................................................52
3.2. Quan điểm về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là
người dân tộc thiểu số ở huyện Vị Xuyên....................................................................53
3.2.1. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức chính quyền cấp xã là người dân tộc
thiểu số phải quán triệt, nhận thức sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng;
chính sách, pháp luật của Nhà nước...............................................................................53
3.2.2. Thường xuyên bám sát quan điểm chỉ đạo của huyện...................................54
3.2.3. Đảm bảo yêu cầu của việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước
ta, sự bình đẳng giữa các dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc..............55
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác ĐTBD cán bộ, công
chức chính quyền cấp xã là người DTTS ở huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang......55
3.3.1. Giải pháp đối với UBND huyện Vị Xuyên về công tác đào tạo bồi dưỡng
đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số..................................55
3.3.2. Giải pháp đối với đội ngũ giảng viên.................................................................58
3.4. Một số khuyến nghị...................................................................................................58
3.4.1. Khuyến nghị đối với UBND huyện về việc đào tạo, bồi dưỡng CBCC
chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số..............................................................58
3.4.2. Khuyến nghị đối với giảng viên về việc đào tạo, bồi dưỡng CBCC chính
quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số.........................................................................59
3.4.3. Hoàn thiện bộ máy chuyên trách công tác QTNL ở phòng Nội vụ.............60
C. PHẦN KẾT LUẬN.........................................................................................62
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................64
PHỤ LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết cán bộ là khâu then chốt trong toàn bộ hoạt động của
Đảng. Đảng là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Đối với Đảng ta Bác Hồ đã
chỉ rõ “ Cán bộ là cái gốc của công việc”, “ muôn việc muốn thành công hay
thất bại là do cán bộ tốt hay kém”. Xét cho cùng ở mỗi địa phương, cán bộ là
người đề ra chủ trương đường lối, đồng thời cũng là người tổ chức thực hiện,
việc đề ra chủ trương đúng là rất quan trọng điều đó tác động trực tiếp đến sự
phát triển kinh tế xã hội của địa phương, và người đề ra chủ trương đường lối đó
không ai khác chính là cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ cấp xã.
Cấp xã là một cấp trong hệ thống chính quyền các cấp ở nước ta, bộ phận
cấu thành quan trọng của hệ thống chính trị ở cơ sở, năng lực, hiệu lực và hiệu
quả hoạt động của chính quyền cấp xã tác động trực tiếp đến việc phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, góp phần đảm bảo sự ổn định và phát triển của đất
nước. Chính quyền cấp xã không thể đảm nhận được vai trò nếu thiếu đi nhân tố
có ý nghĩa quyết định đó là đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã.
Đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp nắm bắt mọi
chủ trương, đường lối chính sách của đảng, pháp luật của nhà nước; là cầu nối
giữa dân với Đảng, giữa dân với nước. Bên cạnh đó đội ngũ này còn có vai trò
rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát triển kinh tế xã hội. Ở
những vùng dân tộc và miền núi đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền xã là
người dân tộc thiểu số có vai trò hết sức quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt trong
tình hình hiện nay.
Nhận rõ được tầm quan trọng đó, trong những năm qua Đảng và Nhà nước
ta luôn quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đặc biệt là
đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số và coi
đây là nhiệm vụ cấp bách và quan trọng.
Hội nghị Trung ương 5 khóa IX đã ra quyết định về đổi mới và nâng cao
chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn, Nghị quyết đã xác 2
định xây dựng đội ngũ chính quyền cấp xã là một trong những vấn đề cơ bản
nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng chính trị cơ sở.
Văn kiện Đại hội 7, BCH Trung ương khóa IX đã đặt ra mục tiêu cụ thể về
phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo nâng cao mức sống của đồng bào các dân
tộc “xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại chỗ có phẩm chất và năng lực
đáp ứng yêu cầu của địa phương, củng cố hệ thống chính trị cơ sở trong sạch
vững mạnh”.
Vị Xuyên là một huyện miền núi của tỉnh Hà Giang, gồm 18 dân tộc khác
nhau cùng sinh sống, trong đó dân tộc thiểu số chiếm 87%, dân tộc Tày và dân
tộc Dao chiếm tỷ lệ cao trong các dân tộc. Đội ngũ cán bộ, công chức đặc biệt là
đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số đã có
nhiều đóng góp trưởng thành trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực
sự là nòng cốt hướng dẫn đồng bào các dân tộc xóa đói giảm nghèo, tổ chức xây
dựng cuộc sống từng bước tạo ra những tiền đề cần thiết để phát triển kinh tế xã
hội của tỉnh Hà Giang
Tuy nhiên bên cạnh những việc đã làm được, thực tế hiện nay đội ngũ cán
bộ, công chức của huyện đến nay vẫn còn trong tình trạng phát triển không đồng
đều về cả mặt số lượng cũng như chất lượng, điều này đã tác động không nhỏ
đến việc phát triển kinh tế, xã hội của huyện. Qua quá trình công tác tại địa
phương cho thấy: Đối với một huyện miền núi như huyện Vị Xuyên để thực
hiện thắng lợi các chủ trương đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước,
phát triển kinh tế xã hội, giữ vững ổn định an ninh trật tự an toàn xã hội. Một
trong những vấn đề cấp bách và quan trọng hiện nay đặt ra là phải đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cãn bộ, công chức chính quyền cấp xã là
người dân tộc thiểu số. Do đó Tôi đã chọn đề tài “Hoàn thiện công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số ở
huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang” để làm bài báo cáo thực tập của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Vấn đề nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC chính quyền
cấp xã là người dân tộc thiểu số từ trước đến nay đã được một số cá nhân và tập 3
thể nghiên cứu, có thể kể đến một số đề tài nghiên cứu như:
Công tác phát triển cán bộ Đảng viên dân tộc thiểu số ở nước ta, do
PGS.TS Trịnh Công Nghĩa nghiên cứu;
Phát triển cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh Miền núi phía Bắc trong giai
đoạn hiện nay, do GS Nguyễn Viết Thịnh nghiên cứu;
Phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số trong cả nước, một số giải
pháp, kiến nghị, do GS.TS Trịnh Văn Thành nghiên cứu;
Công tác đào tạo, phát triển cán bộ dân tộc thiểu số, do PGS.TS Nguyễn
Đình Tề nghiên cứu;
Chiến lược đào tạo, phát triển cán bộ, Nguyễn Khắc Thái, Nguyễn
Trọng Điều;
Bồi dưỡng tuyển chọn cán bộ DTTS ở các tỉnh miền núi phía Bắc, do tập
thể giảng viên trường KHXH&NV nghiên cứu.
Các đề tài nghiên cứu ở trên đây đã đề cập đến vấn đề nâng cao hiệu quả
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số ở nhiều góc độ khác nhau.
Tuy nhiên các đề tài mới chỉ tập trung nghiên cứu ở tầm vĩ mô chứ chưa có đề
tài nào tập chung nghiên cứu vào một huyện cụ thể. Với đề tài này tôi sẽ đi sâu
nghiên cứu về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là
người dân tộc thiểu số ở huyện Vị Xuyên, qua đó đề xuất một số giải pháp cụ
thể vào trong công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC chính quyền cấp xã là người
dân tộc thiểu số ở huyện Vị Xuyên.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số và thực trạng
của công tác đào tạo, bồi dưỡng, qua đó đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm
góp phần hoàn thiện công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC chính quyền cấp xã là
người dân tộc thiểu số ở huyện Vị Xuyên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích cơ sở lý luận về đào tạo, bồi dưỡng CBCC chính quyền cấp xã là 4
người dân tộc thiểu số dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng
và các Quy định của Nhà nước ta.
Phân tích thực trạng đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã là người dân tộc
thiểu số và hoạt động của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ này tại huyện
trong những năm gần đây. Trên cơ sở đó chỉ ra những ưu điểm, những hạn chế,
và tìm ra nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế đó, đồng thời rút ra một số
bài học kinh nghiệm của công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC chính quyền cấp xã
là người dân tộc thiếu số ở huyện Vị Xuyên.
Trên cơ sở phân tích, nghiên cứu để đưa ra những quan điểm và chỉ ra các
giải pháp, khuyến nghị để hoàn thiện công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC chính
quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số ở huyện Vị Xuyên.
4. Phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về mặt thời gian nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu trong
khoảng thời gian từ năm 2010 đến nay.
Về không gian: Nghiên cứu tại 8 xã trên địa bàn huyện Vị Xuyên
5. Phương pháp nghiên cứu
Có nhiều phương pháp để nghiên cứu đề tài báo cáo nhưng do đặc thù của
đề tài và đặc thù của đơn vị tôi thực tập nên tôi đã lựa chọn các phương pháp sau
để nghiên cứu đề tài:
Phương pháp thu thập thông tin: Trong thời gian thực tập ở phòng Nội vụ
tôi đã tìm hiểu, thu thập thông tin về tổ chức qua nhiều phương tiện như: trên
mạng internet; qua các báo cáo tổng kết của anh chị, cô chú trong phòng; qua
các Quy định pháp luật về CBCC, các Quyết định, các công văn của cơ quan để
tham khảo viết báo cáo, và tham khảo một số giáo trình Quản trị nhân lực.
Phương pháp so sánh, phân tích và tổng hợp: Đây là phương pháp được áp
dụng nhiều nhất trong quá trình viết báo cáo, để mà viết một bài báo cáo hoàn
chỉnh, đúng quy định, đúng về mặt nội dung, pháp lý thì tôi đã áp dụng phương
pháp này. Trong quá trình viết báo cáo tôi đã tìm hiểu và đọc tài liệu sau đó tôi
phân tích các loại tài liệu liên quan đến vấn đề tôi đang nghiên cứu, đó là những
tài liệu, tư liệu và số liệu, sau đó tổng hợp lại để có cái nhìn tổng quát, trên 5
nhiều khía cạnh về công tác ĐTBD CBCC trên lý thuyết cũng như thực tế tại cơ
quan. Và một số Báo cáo tổng kết, Báo cáo về số lượng và chất lượng đội ngũ
CBCC cấp xã. Từ đó có sự so sánh, phân tích và tổng hợp lại để đưa ra những
đặc điểm về thực trạng đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu
số ở huyện, ưu điểm, tồn tại, nguyên nhân và một số giải pháp, khuyến nghị.
Phương pháp đánh giá: Đánh giá quá trình ĐTBD CBCC chính quyền cấp
xã là người DTTS ở huyện Vị Xuyên nhiệm kỳ 2008 - 2013. Xem lại những gì
đã đạt được và những gì chưa đạt được trong thời gian qua, đề ra những giài
pháp nhằm khắc phục.
6. Ý nghĩa của nghiên cứu
Bài báo cáo cung cấp những luận cứ khoa học giúp các nhà làm công tác
cán bộ hoạch định chính sách cán bộ, đào tạo cán bộ và chỉ đạo công tác đào tạo,
bồi dưỡng CBCC chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số. Các giải pháp
đưa ra trong bài báo cáo cũng có thể áp dụng nhằm phát triển công tác đào tạo,
bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực CBCC chính quyền cấp xã là người dân tộc
thiểu số ở huyện Vị Xuyên nói riêng và tỉnh Hà Giang nói chung.
7. Kết cấu bài báo cáo
Ngoài phần mở đầu và kết luận bài báo cáo gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số
Chương 2: Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số ở huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà
Giang
Chương 3: Giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người dân tộc
thiểu số ở huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang.
6
B. PHẦN NỘI DUNG
7
CHƯƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÁN BỘ CÔNG CHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC
THIỂU SỐ Ở HUYỆN VỊ XUYÊN, TỈNH HÀ GIANG
1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức
Tại điều 1 của pháp lệnh CBCC năm 1998 quy định như sau: Cán bộ, công
chức là công dân Việt Nam trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước bao gồm:
a) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các
cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội;
b) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao nhiệm vụ thường
xuyên trong tổ chức chính trị xã hội;
c) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ
thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được
vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước, mỗi ngạch
thể hiện chức và cấp về chuyên môn nghiệp vụ có chức danh tiêu chuẩn riêng;
d) Thẩm phán, Tòa án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân;
e) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà không
phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng làm việc trong
các cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân mà không phải là sĩ quan chuyên
nghiệp.
Theo luật CBCC của Quốc Hội khóa 12 – kỳ họp thứ 4 số 22/2008/QH
ngày 03/11/2008 quy định:
“Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức
vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong các cơ quan của Đảng cộng sản Việt Nam,
nhà nước tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc
tỉnh ( sau đây gọi chung là cấp tỉnh) ở huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc
8
tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt Nam, nhà nước, tổ
chức chính trị xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện trong cơ quan đơn vị
thuộc quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng cộng
sản Việt Nam, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị
sự nghiệp công lập) trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối
với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì
lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập thep quy định
của pháp luật”.
1.1.2. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì “đào tạo” là dạy dỗ, rèn luyện để trở nên
người có hiểu biết, có nghề nghiệp, có đủ khả năng để thực hiện công việc.
Đào tạo còn được hiểu là quá trình tác động đến con người, làm cho người
đó lĩnh hội và nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo…một cách có hệ thống nhằm
chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân
công lao động nhất định, góp phần của mình vào việc phát triển xã hội, duy trì
và khai hóa nền văn minh của loài người.
Như vậy đào tạo được xác định như là quá trình làm biến đổi hành vi con
người một cách có hệ thống thông qua việc học tập, việc học tập này có được là
kết quả của việc giáo dục, hướng dẫn, phát triển và lĩnh hội kinh nghiệm một
cách có kế hoạch. Trong thực tế chúng ta thường sử dụng thuật ngữ như: Đào
tạo nghề, đào tạo cán bộ, công chức…
Bồi dưỡng là quá trình cập nhật hóa kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc hậu, bổ
túc nghề nghiệp, đào tạo thêm hoặc củng cố các kỹ năng nghề nghiệp theo các
chuyên đề. Các hoạt động này nhằm tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội
để củng cố và mở mang một cách có hệ thống những tri thức, kỹ năng chuyên
môn, nghề nghiệp sẵn có để lao động có hiệu quả hơn9
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức là những hoạt động có tổ chức được
thực hiện trong khoảng thời gian xác định nhằm đem đến sự thay đổi trong hành
vi nghề nghiệp của con người
Đào tạo, bồi dưỡng CBCC là công tác xuất phát đòi hỏi khách quan của
công tác cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ CBCC đáp ứng yêu cầu quản lý trong
từng giai đoạn
Như vậy đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức có thể được hiểu là tổng thể
các hoạt động học tập mà tổ chức cung cấp cho người lao động. Các hoạt động
này có thể diễn ra trong giờ hành chính, vào ban ngày, buổi tối, hay vào các
ngày nghỉ tùy theo, nó có thể chỉ diễn ra vài giờ, cũng có thể trong vài năm để
bù đắp những thiếu hụt về kiến thức, năng lực, trình độ chuyên môn chuẩn bị
cho những sự thay đổi của tổ chức trong tương lai.
1.2. Mục tiêu và vai trò của công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC
1.2.1. Mục tiêu
Ngay từ những ngày đầu xây dựng đất nước, chúng ta đã chú trọng tới công
tác ĐTBD đội ngũ cán bộ mà trước hết là giáo dục ý thức phục vụ nhân dân,
phục vụ Đảng, Nhà nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là các bộ lãnh đạo và
quản lý ở các cấp vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức trong sáng về
lối sống, có trí tuệ, kiến thức, năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân
dân”. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010
cũng đề ra mục tiêu “Xây dựng đội ngũ các bộ có phẩm chất và năng lực đáp
ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước”, mục tiêu cụ thể là:
“Đến năm 2010, đội ngũ CBCC có số lượng hợp lý, chuyên nghiệp, hiện đại.
Tuyệt đại bộ phận CBCC có phẩm chất tốt và đủ năng lực thi hành công vụ, tận
tụy phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân”. Nhiệm vụ đặt
ra cho công việc đào tạo, bồi dưỡng CBCC đến 2010 là đảm bảo đội ngũ cán bộ
nhà nước đạt trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng hành chính, tin
học và ngoại ngữ theo tiêu chuẩn chức danh và ngạch bậc đảm nhiệm, có đủ
năng lực xây dựng chính sách và tổ chức, điều hành thực thi công vụ theo yêu 10
cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tóm lại có thể phân thành ba mục tiêu cơ bản là:
ĐTBD nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, chức danh CBCC đã được
quy định.
ĐTBD nhằm giúp cá nhân và tổ chức thay đổi và đáp ứng những nhu cầu
trong tương lai của tổ chức.
ĐTBD nhằm giúp cho cá nhân và tổ chức thực hiện công việc tốt hơn, hiệu
quả hơn.
ĐTBD không chỉ khắc phục những hụt hẫng về năng lực công tác của
CBCC mà còn liên quan đến việc xác định và thỏa mãn các nhu cầu phát triển
khác như phát triển đa kỹ năng, tăng cường năng lực làm vịêc để cán bộ đảm
nhận thêm trách nhiệm, tăng cường năng lực công tác toàn diện và chuẩn bị cho
đề bạt, bổ nhiệm lên vị trí cao hơn với trách nhiệm nặng nề hơn trong tương lai
của CBCC.
1.2.2. Vai trò
Việc đào tạo, bồi dưỡng CBCC có vai trò hết sức quan trọng:
Thứ nhất: Nó chuẩn bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp cho việc thực hiện
nhiệm vụ của CBCC
Thứ hai: Góp phần xây dựng đội ngũ CBCC chuyên nghiệp có đủ năng lực
để xây dựng nền hành chính tiên tiến hiện đại
Thứ ba: Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực trong tổ chức các cơ
quan hành chính nhà nước là một công cụ phát triển chức nghiệp với vai trò chủ
yếu sau:
Hoàn thiện chất lượng dịch vụ cung cấp cho nhân dân
Tăng số lượng dịch vụ được cung cấp
Giảm chi phí hoạt động
Giảm những sai lệch đáng có
Tăng sự hài lòng của công dân với tổ chức nhà nước
Tạo cho CBCC cập nhật chính mình, mục tiêu để đưa ra bồi dưỡng công
chức vào trong hoạt động quản lý hành chính và được thể chế hóa bằng văn bản
11
pháp luật của Nhà nước cũng rất đa dạng, phong phú. Có những mục tiêu mang
tính chất chung, nhưng cũng có nhiều nước gần đây mới có luật công vụ (hay
công chức) nên việc đưa mục tiêu bồi dưỡng cũng nhằm đạt được các mục tiêu
của công cuộc cải cách nền hành chính Nhà nước
Bồi dưỡng để công chức thực hiện tốt các văn bản pháp luật mới
Cung cấp những kỹ thuật về công nghệ mới
Học tiếng nước ngoài
Tạo đội ngũ công chức chuyên môn, kỹ năng để thực thi công vụ tốt hơn,
nhằm thực hiện cải cách hành chính
Phát triển nhân lực để hoạch định và thực thi chính sách công
Trung thành với Chính phủ trong việc thực thi chính sách
Thực hiện dịch vụ định hướng khách hàng theo hệ thống tiêu chuẩn
Áp dụng kỹ năng quả lý mới
Hoàn thiện đạo đức công chức nhằm chống tham nhũng
Tạo cơ cấu để cơ cấu lại tổ chức bộ máy nhà nước nói chung và nền hành
chính nói riêng
Từ những vai trò trên, theo tôi công tác đào tạo, bồi dưỡng NNL là cần
thiết cho sự thành công của tổ chức và sự phát triển chức năng của con người.
Việc ĐTBD NNL không chỉ thực hiện bên trong tổ chức, mà còn bao gồm một
loạt những hoạt động khác được thực hiện từ bên ngoài, như: học việc, học nghề
và hành nghề. ĐTBD NNL còn là quá trình gia tăng, biến đổi đáng kể về chất
lượng của NNL và sự biến đổi này được biểu hiện ở việc nâng cao năng lực và
động cơ của người lao động.
Tóm lại, ĐTBD NNL là điều kiện quyết định để một tổ chức có thể tồn tại
và đi lên cùng với sự gắn bó, tính chuyên nghiệp của người lao động và sự thích
ứng giữa người lao động với công việc hiện tại cũng như trong tương lai
1.3. Vai trò của đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số và sự cần thiết của đào tạo, bồi dưỡng CBCC chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số
1.3.1. Vai trò của đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã là người dân tộc
thiểu số
Ở nước ta chính quyền cấp xã, phường, thị trấn là cơ quan cơ sở, cấp thấp 12
nhất trong chính quyền địa phương, chính quyền cấp xã có vai trò đặc biệt quan
trọng không chỉ trong cơ cấu quyền lực nhà nước mà còn là yếu tố chi phối
mạnh mẽ đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của các cộng đồng dân
cư và toàn thể người dân trong địa bàn; là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân, là mắt xích quan trọng trong cơ chế thực hiện quyền lực nhân dân,
mọi chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước đều phải được thực
hiện ở cấp xã.
Đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã đóng vai trò quan trọng trong xây dựng
và hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp xã, trong hoạt động thi hành nhiệm vụ,
công vụ. Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy chính quyền cấp xã nói riêng và hệ
thống chính trị nói chung xét đến cùng được quyết định bởi phẩm chất, năng lực
và hiệu quả công tác của đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã.
Hội Nghị Trung ương 3 khóa VIII đã khẳng định: Cán bộ là nhân tố quyết
định sự thành công của cách mạng; cán bộ có vai trò cực kỳ quan trọng, hoặc
thúc đẩy, hoặc kìm hãm tiến trình đổi mới; cán bộ nói chung có vai trò quan
trọng, cán bộ chính quyền cơ sở nói riêng có vị trí chính trị cơ sở. CBCC cấp xã
là nơi trực tiếp đem chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước giới thiệu cho
dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời nắm bắt tình hình triển khai thực hiện
chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước; phản ánh cho Đảng và
Nhà nước để có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Nói
cách khác đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ
với quần chúng nhân dân.
Đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã là lực lượng nòng cốt trong quản lý và
tổ chức công việc của chính quyền cấp xã. Nhiệm vụ của họ là thực thi công vụ
mang tính tự quản theo pháp luật. Họ có vai trò trực tiếp bảo đảm kỷ cương
phép nước tại cơ sở, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ, quyền của con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm trật tự xã hội, ngăn chặn các
hành vi vi phạm của pháp luật. Thông qua hoạt động của đội ngũ CBCC chính
quyền cấp xã nhân dân được quyền làm chủ và trực tiếp thực hiện quyền tự quản
của mình.13
Đối với cán bộ cấp xã là người dân tộc thiểu số, ngoài những vai trò trên họ
là người có cùng tiếng nói, có cùng phong tục tập quán. Họ là những người con
của đồng bào dân tộc, sinh ra và lớn lên gắn với đồng bào nơi đây từ nhỏ, họ
hiểu cuộc sống vất vả cơ cực của người dân nên họ nắm được tâm tư, tình cảm,
lối sống, ý chí, nguyện vọng và tập quán của đồng bào mình, vì vậy họ càng có
vai trò quan trọng khi ở những vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh
sống. Bên cạnh đó họ còn có vai trò to lớn trong việc xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc, vừa là lực lượng nòng cốt, vừa là tấm gương trong các hoạt động văn
hóa – xã hội, tương thân, tương ái tạo nên một khối đại đoàn kết vững chắc ở địa
phương có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống.
1.3.2. Sự cần thiết phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC chính quyền
cấp xã là người dân tộc thiểu số
Hiệu lực hiệu quả của bộ máy nhà nước nói chung, của hệ thống chính trị
Nhà nước nói riêng suy cho cùng được quyết định bởi phẩm chất năng lực
CBCC nhà nước, đến lượt mình, phẩm chất của đội ngũ CBCC ngoài khả năng
và tinh thần tự học tập lại phụ thuộc rất nhiều vào công tác ĐTBD thường xuyên
kiến thức và kỹ năng thực hành cho họ. Trong điều kiện đội ngũ cán bộ công
chức nước ta hiện nay đa số được đào tạo trong thời kỳ cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp, chưa được chuẩn hóa theo quy định chức danh, chưa đáp ứng được
đầy đủ yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới. Đặc biệt trong điều kiện
khoa học công nghệ và thông tin phát triển như vũ bão, thâm nhập vào tất cả các
lĩnh vực của đời sống kinh tế và xã hội, việc ứng dụng khoa học công nghệ, nhất
là công nghệ tin học và hiện đại hóa nền hành chính, thì công tác đào tạo, bồi
dưỡng CBCC trở nên cần thiết hơn bao giờ hết, vấn đề nâng cao chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng CBCC đặc biệt là đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã là người
dân tộc thiểu số là vấn đề được quan tâm giải quyết thiết thực. Muốn đưa được
chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với
nhân dân, giúp dân hiểu và thực hiện thì đội ngũ CBCC ở cơ sở phải nắm bắt
được nội dung và cách thức tổ chức thực hiện, như vậy mới có thể tuyên truyền 14
và vận động nhân dân địa phương làm theo. Để làm tốt được vai trò này, đòi hỏi
phải nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC ở cơ sở.
Thực tế hiện nay cho thấy chất lượng đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã là
người dân tộc thiểu số ở các địa phương trong cả nước nói chung, đặc biệt là ở
những vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số nói riêng vẫn
còn trong tình trạng phát triển không đồng đều về cả số lượng và chất lượng.
Chất lượng đội ngũ nguồn nhân lực thấp nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá
trình phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương. Huyện Vị Xuyên cũng là một
trong những huyện miền núi, do đó kinh tế - xã hội chưa thực sự phát triển nên
cuộc sống của người nông dân còn gặp nhiều khó khăn, bên cạnh đó điều kiện
địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó khăn nên hoạt động đào tạo, bồi dưỡng
CBCC còn chưa thực sự được chú trọng, chính vì vậy chất lượng của đội ngũ
CBCC chính quyền cấp xã là người DTTS hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu
đòi hỏi của sự phát triển.
Từ thực tế trên cho thấy việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC chính
quyền cấp xã là người DTTS có ý nghĩa rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay,
chính vì vậy đòi hỏi các cơ quan, tổ chức cần xây dựng các kế hoạch, tiến hành
đẩy mạnh các hoạt động đào tạo, để góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ
CBCC chính quyền cấp xã là người DTTS tại địa phương.
1.4. Nội dung, hình thức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC chính quyền cấp
xã là người dân tộc thiểu
1.4.1. Nội dung
Trong quyết định số 874-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 20 tháng
11 năm 1996 xác định: “Đối với CB chính quyền cơ sở cấp xã, phường nội
dung đào tạo chủ yếu là: Về lý luận chính trị, cập nhật đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và nhà nước; những kiến thức cơ bản về công vụ, pháp
luật hành chính”.
Tại điều 4 Quy chế đào tạo, bồi dưỡng CBCC được ban hành kèm theo
Quyết định số 161/2003/Q Đ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 04 tháng 8
năm 2003 đã xác định nội dung đào tạo, bồi dưỡng như sau:15
Lý luận chính trị
Kiến thức pháp luật, kiến thức và kỹ năng quản lý nhà nước
Kiến thức kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ
Kiến thức tin học, ngoại ngữ và các kiến thức bổ trợ khác
Theo Quyết định số 03/2004/QĐ-TTg ngày 07 tháng 01 năm 2004 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt định hướng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng CBCC xã,
phường, thị trấn đến năm 2010 đã xác định như sau: Đối với cán bộ chính quyền:
Chủ tịch, phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch, phó Chủ tịch UBND cần đào tạo:
Trình độ trung cấp lý luận chính trị, trung cấp quản lý nhà nước và trung
cấp chuyên môn nghiệp vụ (đối với cấp xã ở vùng đồng bằng và đô thị)
Trình độ học vấn kết hợp với chương trình quản lý nhà nước và chuyên
môn nghiệp vụ (đối với xã, thị trấn miền núi, vùng sâu, vùng dân tộc, hải đảo)
Quyết định số 40/2006/QĐ-TTg ngày 15 tháng 02 năm 2006 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng CBCC giai
đoạn 2006 - 2010 đã xác định nội dung đào tạo đối với nguồn CBCC như sau:
Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng trang bị kiến thức quy định tiêu chuẩn cho cán bộ
chuyên trách bao gồm: Trình độ học vấn, trình độ lý luận chuyên môn nghiệp vụ
Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng trang bị kiến thức kỹ năng nghiệp vụ cho
Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã
Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng trang bị trình độ chuyên môn sơ cấp trở lên cho
công chức cấp xã
Đào tạo, bồi dưỡng trang bị kiến thức tin học cho các đối tượng cán bộ
chuyên trách xã, đặc biệt ưu tiên đối với Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, công
chức cấp xã; thực hiện đào tạo tiếng dân tộc cho cán bộ chuyên trách cấp xã
công tác tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống
Đào tạo, bồi dưỡng về đạo đức CBCC cho cán bộ chuyên trách và không
chuyên trách; xây dựng tinh thần sống và làm việc theo pháp luật, thái độ tôn
trọng nhân dân, phục vụ nhân dân
Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kỹ năng hoạt động cho
đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2009 – 201416
Từ những quy định của Đảng và nhà nước ta về nội dung đào tạo, bồi
dưỡng CBCC cấp xã nói chung và theo tiêu chuẩn cụ thể đối với CBCC cấp xã
theo Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/1/2004 của Bộ trưởng Bộ nội vụ,
chúng ta thấy rằng nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã chưa được đề cập
một cách cụ thể. Như vậy muốn xác định được nội dung cụ thể phải căn cứ vào tiêu
chuẩn cụ thể từng chức vụ, chức danh, vào chủ thể đào tạo và đối tượng đào tạo.
a) Đối với vị trí chức danh: Nội dung đào tạo được thực hiện theo Quyết
định số 34/2006/QĐ- TTg ngày 08 tháng 02 năm 2006 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt đề án đào tạo, bồi dưỡng CBCC xã, phường, thị trấn người dân
tộc thiểu số đến năm 2010. Tại điều 1 quy định nội dung đào tạo theo từng đối
tượng đối với CBCC xã người dân tộc thiểu số như sau:
Đối với CBCC đang giữ các chức danh chủ chốt dưới 45 tuổi đạt trình độ
theo tiêu chuẩn chức danh quy định thì: Đào tạo, đào tạo bổ sung kiến thức về lý
luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ;
Đối với CBCC dưới 35 chưa tốt nghiệp Trung học cơ sở, Trung học phổ
thông: Đào tạo văn hóa gắn với đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị;
Đối với nguồn CBCC cấp xã là người DTTS: Đào tạo văn hóa gắn với đào
tạo chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị theo tiêu chuẩn chức danh CBCC
quy định cho những người dưới 30 tuổi đã hoàn thành nghĩa vụ trong các lực
lượng vũ trang, thanh niên xung phong, DTTS chưa có người làm CBCC cấp xã
quy hoạch chuẩn bị bổ sung, thay thế cho CBCC cấp xã.
b) Đối với nguồn tuyển dụng: Ngoài những kiến thức về văn hóa chuyên
môn nghiệp vụ mà các trường đã đào tạo. Các đối tượng là nguồn CBCC cấp xã
là người DTTS còn được bồi dưỡng các kiến thức theo tiêu chuẩn chức danh,
công việc được bố trí, các kiến thức về ngoại ngữ, tin học…
1.4.2. Hình thức đào tạo
Theo quy định tại Điều 22 của Quy chế đào tạo, bồi dưỡng CBCC (ban
hành kèm theo Quyết định số 161/QĐ/2003/QĐ-TTg ngày 04 tháng 8 năm 2003
của Thủ tướng Chính phủ) thì các hình thức cơ bản tổ chức đào tạo, bồi dưỡng
CBCC là tập trung, bán tập trung, tại chức.17
a) Đào tạo tập Trung: Bao gồm cả tập trung dài hạn và tập trung ngắn hạn,
thời gian từ 6 tháng đến 1 năm; đối với lớp dài hạn, thời gian từ 2 đến 3 năm.
Học viên theo học sẽ không phải đảm nhận công việc ở cơ quan và tập trung
theo học liên tục theo thời gian đã quy định. Hình thức này thường áp dụng cho
các đối tượng CBCC trẻ, dự nguồn trong nguồn quy hoạch
b) Đào tạo tại chức: Học viên vừa tham gia khóa học, vừa đi làm. Mỗi
năm tập trung 3- 4 đợt, mỗi đợt 1-3 tháng. Hình thức này thường áp dụng cho
các đối tượng lớn tuổi, không có điều kiện đào tạo tập trung và cho cả CBCC
đang công tác.
1.5. Nguyên tắc và yêu cầu đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức
1.5.1. Nguyên tắc
Mục đích của đào tạo, bồi dưỡng CBCC là phát triển kỹ năng nhằm nâng
cao năng lực thực thi, do đó cần có các phương pháp đào tạo linh hoạt và mang
tính ứng dụng nhiều hơn. Khi xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng CBCC
cần đặc biệt chú trọng đến đầu ra của đào tạo đó là công chức sẽ học và áp dụng
được gì sau đào tạo. Vì vậy việc áp dụng những nguyên tắc đào tạo người lớn có
vai trò hết sức quan trọng, các nguyên tắc đó bao gồm:
Bản thân học viên phải muốn học: Người lớn sẽ không học được gì chỉ vì
do ai đó nói rằng họ cần phải học. Công chức phải có mong muốn một điều gì
đó mỗi khi quyết định các hoạt động tham gia đào tạo
Học viên sẽ họ tốt chỉ khi nào họ cảm thấy cần học: Họ muốn biết xem
việc học tập sẽ giúp họ như thế nào, ngay lập tức chứ không phải 10 năm sau -
họ muốn học điều gì đó từ mỗi buổi học để khi mỗi buổi học kết thúc họ có cảm
giác nhận được điều gì đó có ích. Vì vậy, phần lớn học viên sẽ không kiên trì
với việc học quá nhiều lý thuyết và những kiến thức cơ bản. Họ sẽ học tốt nếu
chương trình học tập trung thẳng vào những điều họ muốn học.
Học thông qua làm việc: Thực tập ngay điều họ đã học được và duy trì
thường xuyên việc sử dụng nó họ sẽ nhớ các kiến thức học lâu hơn. công chức
phải có cơ hội áp dụng ngay những điều họ được học khi trở lại làm việc trước 18
khi họ quên đi hoặc chủ động gạt khỏi bộ nhớ khi không được sử dụng.
Học qua việc giải quyết những vấn đề hiện thực: Nếu nội dung học tập
không xuất phát từ vấn đề thực tế, gần với cuộc sống sẽ không làm cho họ quan
tâm
Kinh nghiệm tác động đến việc học tập: Họ luôn liên hệ việc học tập với
những điều họ đã biết, nếu kiến thức mới không phù hợp với kiến thức cũ họ có
thể phản đối hoặc bỏ qua. Họ thường học dựa trên kinh nghiệm cũ. Vì vậy để
thuyết phục họ chấp nhận một thông tin, hoặc kỹ năng mới cần trình bày chúng
theo cách liên hệ đến điều mà học viên đã biết.
Hoc tốt hơn trong môi trường không chính thức: Nếu môi trường học tập
quá giống một lớp học, các học viên sẽ học không tốt, họ có thể cảm thấy ức chế
có cảm giác mình đang trong tình trạng là trẻ con.
Học tốt hơn nếu có sự đa dạng trong giảng dạy: Họ học tốt hơn nếu một ý
tưởng được trình bày theo nhiều kiểu khác nhau, hay thông tin đến với họ qua
nhiều kênh. Vì vậy trong các khóa đào tạo công chức nên kết hợp nhiều phương
pháp giảng dạy khác nhau như: Thuyết trình, thảo luận nhóm, làm việc theo tổ,
phát huy sức mạnh tập thể. Tất nhiên, các phương pháp được áp dụng sẽ tùy
theo nội dung và mục tiêu đào tạo.
Sự hướng dẫn chứ không phải điểm số: Nên áp dụng các phương pháp
đánh giá tế nhị hơn là dùng điểm số ví dụ như trắc nghiệm để tự đánh giá. Sự tán
dương và hướng dẫn một cách chân thành từ giảng viên giúp các học viên chống
lại những tiêu cực trong học tập.
Như vậy để có thể đem lại kết quả cao trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ CBCC, chúng ta cần nắm vững và tuân thủ theo các nguyên tắc trên một
cách chặt chẽ. Bên cạnh đó cần phải nắm được tâm lý của các học viên.
1.5.2. Yêu cầu
Đào tạo, bồi dưỡng và phát triển cán bộ là một hoạt động rất cần thiết đối
với các tổ chức cơ quan, doanh nghiệp. Xong hoạt động này cần nhiều chi phí,
thời gian và tốn nhiều công sức cho nên cần phải có kế hoạch không thể tràn lan,
không có phương pháp khoa học điều đó sẽ dẫn đến sự lãng phí về thời gian, 19
tiền bạc nên chúng ta phải thực hiện tốt các yêu cầu sau:
a) Phải xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng CBCC dựa trên cơ sở kế
hoạch chung của nhà nước, kế hoạch đặt ra của cơ quan nhà nước và doanh
nghiệp cho chúng ta biết các mục tiêu phấn đấu và cần phải đạt được của các tổ
chức. Kế hoạch bồi dưỡng cán bộ công chức cho chúng ta biết tình trạng thừa
thiếu nhân lực về số lượng và chất lượng của nguồn nhân lực hiện tại cũng như
trong tương lai, từ đó có thể biết được thực trạng và đưa ra các giải pháp cho
nguồn nhân lực.
20
Kế hoạch hóa nguồn NL
Dự báo nhu cầu So sánh giữa nhu cầu và khả năng
Khả năng sẵn có về NL
Xác định sự dư thừa hay thiếu hụt về số lượng và chất lượng
nguồn NL
-Hạn chế tuyển dụng;
-Về hưu sớm
Tuyển từ thị
trường
Đào tạo và
phát triển
Bổ trợ sắp xếp
b) Đào tạo, bồi dưỡng và phát triển cần đánh giá tính khả thi về tài chính,
khả thi về tài chính và khoa học phù hợp với cơ quan đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực và phải có tầm quan trọng tương xứng với chi phí bỏ ra. Khả thi
về thời gian là chương trình đào tạo phải phù hợp không được làm xáo trộn tổ
chức ảnh hưởng đến hoạt động của các tổ chức. Khả thi về mặt nhân lực là dự
tính số học viên, đối tượng đi học không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình
thường của cơ quan nó đảm bảo chất lượng của khóa lãnh đạo.
Nhận xét:
Qua những phân tích nói trên, có thể thấy được vai trò đặc biệt quan trọng
của đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã là người DTTS. Đây là lực lượng nòng
cốt, trực tiếp tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt động diễn
ra tại cơ sở. Nếu đội ngũ này được đào tạo tốt và sử dụng đúng cách góp phần
thắng lợi trong thực hiện các hoạt động tại cơ sở. Vì thế, việc đào tạo, bồi dưỡng
CBCC chính quyền cấp xã người DTTS là vấn đề mang tính thời sự, luôn được
quan tâm. Ngày nay, trong sự nghiệp cách mạng của thời kỳ mới, Đảng và Nhà
nước ta đã đề cập đến chiến lược mục tiêu, tiêu chuẩn cụ thể cho từng CBCC.
Bên cạnh đó, những quan điểm, định hướng đào tạo, bồi dưỡng CBCC cũng
được đặt ra. Trên cơ sở đó, các cấp, các ngành, các địa phương thực hiện quy
hoạch và xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã phù hợp với quy định chung và điều
kiện thực tế của địa phương, đồng thời cần phải lựa chọn được nội dung và
phương pháp đào tạo phù hợp với đặc điểm đội ngũ CBCC tại địa phương.
21
CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ
CÔNG CHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC
THIỂU SỐ Ở HUYỆN VỊ XUYÊN, TỈNH HÀ GIANG
2.1. Tổng quan về huyện Vị Xuyên
2.1.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện
Huyện Vị Xuyên nằm ở vị trí địa lý 22˚34’20”- 23˚2’30” vĩ Bắc, 105˚30’-
104˚43’ kinh Đông, là một huyện miền núi vùng thấp, nằm bao quanh thị xã Hà
Giang, có diện tích tự nhiên là 151.980 ha. Phía Bắc giáp huyện Quản Bạ; phía
Nam giáp huyện Bắc Quang; phía Đông Nam giáp huyện Na Hang tỉnh Tuyên
Quang; phía Đông giáp huyện Bắc Mê; phía Tây Nam giáp huyện Ma li pho tỉnh
Vân Nam (Trung Quốc); phía Tây Nam giáp huyện Hoàng Su Phì. Toàn huyện
có 5 xã giáp gianh với tỉnh Vân Nam Trung Quốc (Lao Chải, Xín Chải, Thanh
Đức, Thanh Thủy, Minh Tân) đường biên giới qua 5 xã dài 36km.
Tuy là vùng thấp của tỉnh, nhưng địa hình của huyện Vị Xuyên cũng rất đa
dạng và phức tạp. Phía Tây và phía Tây Bắc của huyện phần lớn là những dãy
núi đá cao, nhiều vực sâu, rừng già. Với diện tích là 2.251 ha, chiếm 1,86% diện
tích đất tự nhiên của huyện. Độ cao trung bình là 1.600m, có nhiều đỉnh cao từ
1.500 đến 2.000m, điển hình là đỉnh Tây Côn Lĩnh cao 2.431m. Phần đất còn lại
của huyện là những dải đồi núi đất nối nhau liên tiếp, đan xen với núi đá vôi là
những cánh rừng già, xen kẽ với những dãy núi là những thung lũng tương đối
bằng phẳng tại thành những cánh đồng lúa nước, đây chính là vùng trọng tâm để
phát triển kinh tế nông lâm nghiệp của huyện
Hệ thống sông, suối trên địa bàn huyện Vị Xuyên cũng rất phong phú, có
dòng sông Lô bắt nguồn từ Trung Quốc chạy qua các xã: Thanh Thủy, Thanh
Đức, Phương Tiến, Phương Độ, Thị xã Hà Giang, xã Đạo Đức, thị trấn Việt
Lâm, qua huyện Bắc Quang xuôi về Tuyên Quang rồi hợp lưu với sông Hồng tại
Việt Trì. Ngoài sông lô còn có sông Miện và nhiều suối lớn, nhỏ được phân bố
đều trên địa bàn huyện. Đây là nguồn nước tưới tiêu rất thuận lợi đáp ứng được
22
nhu cầu để phát triển sản xuất nông nghiệp và khai thác, sử dụng thủy điện nhỏ
phục vụ cho đời sống sinh hoạt của nhân dân trong huyện.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng khá phong phú và đa dạng, trên rừng có
nhiều loại lâm thổ sản có giá trị, các loại gỗ quý như: Đinh, Trai, Nghiến…và
nhiều song mây, tre nứa, vầu và hàng trăm loại dược thảo khác. Tài nguyên rừng
đã mang lại cho nhân dân các dân tộc huyện Vị Xuyên một nguồn lợi đáng kể.
Tuy nhiên hiện nay nguồn tài nguyên này đã dần bị cạn kiệt do tình trạng khai
thác bừa bãi không có kế hoạch tu dưỡng và bảo vệ.
Điều kiện tự nhiên của huyện đã tạo ra nhiều thuận lợi cho con người, xong
cũng gây ra không ít khó khăn, do địa hình phức tạp, núi non hiểm trở. Những
thuận lợi và khó khăn đó vừa là thách thức vừa là sự rèn luyện để tạo nên những
tính cách vô cùng quý giá rất đặc trưng cho con người vị xuyên bao đời nay gắn
bó với mảnh đất biên cương nơi có vị trí chiến lược quan trọng, được coi là “trấn
biên” của tổ quốc, để cùng cộng đồng các dân tộc Việt Nam bảo vệ xây dựng
quê hương, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, cuộc sống ấm no.
Vị Xuyên là nơi sinh sống của 18 dân tộc anh em, bao gồm: Tày, Nùng,
Dao, H’mông, Giáy, Ngạn…Trong đó đồng bào Tày chiếm 47% tổng số dân của
huyện, đồng bào Dao chiếm 20,36%, H’mông chiếm 12,05%, Nùng chiếm
6,18%, đồng bào Kinh chiếm 13,34%. Sự đan xen giữa các dân tộc đã góp phần
làm phong phú thêm nét văn hóa truyền thống cho đồng bào nhân dân huyện Vị
Xuyên. Đây được coi là lợi thế lớn để huyện phát triển nghành du lịch.
Về mặt hành chính, hiện nay huyện có 2 thị trấn (thị trấn Vị Xuyên, thị trấn
Việt Lâm) và 24 xã: Lao Chải, Xín Chải, Thanh Đức, Thanh Thủy, Minh Tân,
Thuận Hòa, Phong Quang, Tùng Bá, Phương Tiến, Đạo Đức, Linh Hồ, Ngọc
Linh, Trung Thành, Bạch Ngọc, Ngọc Minh, Quảng Ngần, Thượng Sơn, Cao
Bồ, Phú Linh, Kim Linh, Kim Thạch, Việt Lâm, Thị trấn Việt Lâm, Thị trấn Vị
Xuyên.
Với thế mạnh là một huyện động lực, có diện tích rộng, dân số đông
(82.730 triệu người) lực lượng lao động dồi dào có tiềm năng về đất đai, tài
nguyên khoáng sản, thủy điện,có của khẩu Quốc Gia và khu kinh tế cửa khẩu 23
Thanh Thủy, có thị trường Trung Quốc mở rộng, điều đó đã tạo ra nhiều thế
mạnh để huyện phát triển kinh tế, thương mại và du lịch.
Trong những năm qua kinh tế của huyện tăng tương đối ổn định, các chỉ
tiêu vượt kế hoạch, giá trị tăng trưởng đạt trên 17%, trong đó công nghiệp xây
dựng tăng 43,1%; thương mại dịch vụ tăng 27,7%, Nông lâm ngư nghiệp tăng
29,8%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 13,3 triệu đồng, tăng 2,3 triệu so với
năm 2010; thu ngân sách trên địa bàn đạt sấp xỉ 490 tỷ đồng; tổng số quý thóc
đạt trên 49 nghìn tấn, tăng 3,2939 tấn so với năm 2010. Lương thực bình quân
đạt 499,7 kg/người/năm (tăng 26kg so với năm 2010); giá trị hàng hóa xuất khẩu
đạt 9,3 triệu USD; cơ sở hạ tầng tiếp tục đầu tư phát triển, sản xuất công nghiệp
- tiểu thủ công nghiệp và các dịch vụ khác đều tăng.
Từ những kết quả đạt được, qua đây cho thấy nền kinh tế của huyện đã có
nhiều chuyển biến tích cực, và chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công
nghiệp xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp.
Về lĩnh vực giáo dục đã hoàn thành nhiệm vụ năm học 2011 - 2012 và Kế
hoạch năm học 2012 – 2013. Các chương trình mục tiêu Quốc gia về Y tế, dân
số kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc bảo vệ bà mẹ và trẻ em… được triển khai
thực hiện tốt. Thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án về giảm nghèo, giải
quyết việc làm, đào tạo nghề, trợ giúp người nghèo. Đời sống của đồng bào các
dân tộc được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 29,76%... Để có
được kết quả đó là do Đảng bộ huyện luôn quán triệt, vận dụng sáng tạo và thực
hiện tốt Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, đồng thời tiếp tục triển khai thực
hiện“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đặc biệt trong
giai đoạn hiện nay, năng lực, trình độ, kinh nghiệm chỉ đạo của đội ngũ cán bộ
đã có bước chuyển biến theo hướng cụ thể, sâu sát cơ sở, tập trung vào những
vấn đề trọng tâm, trọng điểm, do đó đã tạo ra bước phát triển theo hướng bền
vững và tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế trên địa bàn huyện
cùng phát triển.
2.1.2. Một số yếu tố đặc thù của các xã trên địa bàn huyện ảnh hưởng
đến chất lượng đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số
a) Điều kiện tự nhiên
Vị Xuyên là một huyện Miền núi của tỉnh Hà Giang, địa hình hiểm trở, 24
nằm kề sát biên giới. Toàn huyện hiện có 24 xã, phân bố bao quanh thị xã Hà
Giang và trung tâm huyện Vị xuyên. Phía Đông bao gồm các xã: Kim Linh. Kim
Thạch, Phú Linh; phía Đông Nam: Ngọc Minh, Ngọc Linh, Linh Hồ, Bạch
Ngọc; phía Tây là các xã: Thanh Đức, Thanh Thủy, Xín Chải, Lao Chải, Phương
Tiến, thị trấn Vị Xuyên, Đạo Đức, Cao Bồ; phía Tây Nam: Việt Lâm, thị trấn
Việt Lâm, Quảng Ngần, Thượng Sơn; phía Nam: xã Trung Thành; phía Bắc:
Minh Tân, Tùng Bá, Phong Quang,Thuận Hòa.
Thị trấn Vị Xuyên nằm giữa trung tâm của huyện, liền kề với các xã: Đạo
Đức, Trung Thành, Việt Lâm và thị trấn Việt Lâm. Do nằm dưới thung lũng của
đỉnh Tây Côn Lĩnh nên địa hình của thị trấn và các xã liền kề tương đối bằng
phẳng. Thị trấn Vị Xuyên có vị trí quan trọng, các tổ chức cơ quan hành chính
đầu não của huyện được đặt tại trung tâm thị trấn Vị Xuyên, vì vậy nó có ý
nghĩa lớn về mặt kinh tế, chính trị và xã hội. Là cầu nối trực tiếp giữa huyện và
các xã trên địa bàn với nhau. Với diện tích đất tự nhiên rộng, địa hình bằng
phẳng đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở hạ tầng như:
Đường giao thông liên thôn, đường quốc lộ 2, các cơ sở đào tạo. tính đến nay
toàn thị trấn đã có 5 trường học (trường Trung tâm dạy nghề,trường chính trị,
trường bổ túc văn hóa,trường Trung học phổ thông, trường Nội trú dân tộc,
trường Tiểu học) các cơ sở này là nơi trực tiếp thực hiện việc đào tạo con em
đồng bào dân tộc, hoạt động này nhằm tạo tiền đề cho việc hình thành “ Nguồn”
CBCC dự bị trong tương lai. Bên cạnh đó đây còn là nơi phục vụ hoạt động đào
tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ CBCC cơ sở, cũng như CBCC cấp huyện. giúp họ
trang bị lý luận cũng như nâng cao trình độ kiến thức chuyên môn.
Do có đỉnh Tây Côn Lĩnh chạy qua, cùng với sự kiến tạo của các dãy núi
đá vôi nên địa hình các xã của huyện bị chia cắt mạnh. Đặc điểm này đã ảnh
hưởng đến vị trí địa lý của các xã, có những xã phân bố ở những dãy núi với độ
cao trên 1.500m, có xã lại nằm gọn dưới thung lũng lòng chảo, bốn bề là núi đất
xen kẽ với núi đá vôi. Địa hình bị cắt xẻ mạnh đã hình thành nên nhiều vực sâu
với núi đá gồ ghề, điều đó đã gây ra nhiều khó khăn cho việc xây dựng hệ thống
giao thông. Ở một số xã vùng 3 như: Thuận Hòa, Minh Tân, Lao Chải, Tùng Bá, 25
Bạch Ngọc, Ngoc Minh, Kim Linh, Thượng Sơn…hệ thống giao thông đi lại rất
khó khăn, do được xây ven theo các dãy núi nên đường khá dốc và gồ ghề, mỗi
khi mùa mưa đến lại xảy ra hiện tượng sạt lở, xói mòn đất. Nhiều đoạn đường bị
hư hỏng nặng, có đoạn bị gãy, tạo thành khe, điều đó đã gây ảnh hưởng đến việc
đi lại của người dân. Đường giao thông đi lại khó khăn, điều kiện khoảng cách
quá xa về mặt địa lý có những xã cách xa trung tâm thị xã đến 90km, trung tâm
huyện 60km, do đó việc đi lại học hành của đội ngũ CBCC chính quyền cơ sở là
rất khó khăn. Bên cạnh đó việc liên kết mở những lớp đào tạo, bồi dưỡng đến
các thôn bản cũng không hề dễ dàng.
Những khó khăn về mặt điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng của đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số.
b) Kinh tế
Kinh tế ở các xã trên địa bàn huyện chủ yếu tập trung phát triển vào nông
nghiệp, và lâm nghiệp, (lao động nông thôn trong lĩnh vực nông nghiệp và lâm
nghiệp chiếm hơn 80%) một bộ phận nhỏ tập trung vào sản xuất kinh doanh.
Nền sản xuất nhỏ lẻ, mang tính “tự cung tự cấp” sản xuất nông nghiệp chỉ nhằm
mục đích phục cho cuộc sống gia đình. Phương thức sản xuất của đồng bào vẫn
mang tính truyền thống, việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất
còn chậm, hiệu quả thấp. Điều đó có ảnh hưởng đến năng suất chất lượng sản
xuất. Mặc dù diện tích đất trông trọt lớn, nhưng sản lượng thu được lại không
cao, theo thống kê năm 2012, tổng sản lượng nông nghiệp ở các xã trên bàn chỉ
đạt khoảng 12060 triệu tấn
Sản xuất kinh tế chủ yếu là nông nghiêp, vì vậy trong những năm qua kinh
tế của các xã trên địa bàn huyện vẫn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo còn
cao. Trong tổng số 24 xã thì có đến 1.700 hộ nghèo đói, chiếm gần 20% so với
toàn tỉnh, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho đời sống nhất là nhà ở còn nghèo
nàn, vẫn còn trên 24% nhà lợp tranh tre, vách nứa, nhà tạm. Thu nhập bình quân
của mỗi hộ gia đình cũng chỉ đạt từ 1.200 - 1.500 nghìn đồng/tháng/hộ gia đình.
Kinh tế gia đình khó khăn, mức lương, mức phụ cấp thấp, nguồn kinh phí
hỗ trợ ở cơ sở ít, nên việc đầu tư cho những khóa đào tạo, bồi dưỡng của đội ngũ 26
CBCC chính quyền cơ sở là người dân tộc thiểu số còn hạn chế. Hơn nữa kinh tế
gia đình tập trung chủ yếu là sản xuất nông nghiệp nên ngoài những giờ hành
chính, những ngày nghỉ đội ngũ CBCC lại trở về phụ giúp gia đình lao động sản
xuất, thế nên họ không có đủ thời gian để theo học các lớp đào tạo, bồi dưỡng và
gần như họ không mấy mặn mà với nó. Có những trường hợp CBCC đăng ký
theo học nhưng chỉ học được một thời gian các học viên lại bỏ dở giữa trừng,
với lý do họ không cân đối đủ thời gian, không có đủ nguồn kinh phí. Sự khó
khăn về kinh tế chính là nguyên nhân trực tiếp làm ảnh hưởng đến chất lượng
của đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số.
c) Phong tục tâp quán
Vị Xuyên là một huyện tập chung nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, với 18
dân tộc anh em cùng chung sống, điều đó đã tạo nên sự phong phú đa dạng về
phong tục tập quán. Sự phong phú về nền văn hóa đã tạo điều kiện thuận lợi để
huyện phát triển ngành du lịch, tuy nhiên bên cạnh đó nó cũng gây ra không ít
khó khăn ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã
là người dân tộc thiểu số
Các xã trên địa bàn huyện tuy phân bố rải rác, chủ yếu tập trung ven theo
các dãy núi và thung lũng, nhưng trong một xã lại tập trung rất nhiều đồng bào
dân tộc cùng sinh sống, có xã có tới 7- 8 cộng đồng dân tộc. Với mỗi dân tộc lại
mang đến những nét văn hóa, phong tục, tập quán, ngôn ngữ khác nhau, thể hiện
cái riêng của từng dân tộc.
Đồng bào người Tày sống định cư lâu năm ở huyện, họ là dân tộc chiếm tỷ
lệ cao nhất trong tổng số 18 dân tộc anh em. Dân tộc Tày sống trong những nếp
nhà sàn, cộng đồng người Tày thường sống tập trung ở những vùng đất bằng
phẳng, có địa thế cao, gần với nguồn nước. Hoạt động kinh tế chủ yếu tập trung
vào nông nghiệp, cây lúa nước được coi là cây trồng chính của đồng bào, ngoài
ra họ còn trồng các loại cây hoa màu khác như: Ngô, khoai, sắn, đỗ tương...Bên
cạnh đó họ còn tập trung phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm: Trâu, bò, dê,
gà… Trong một gia đình người Tày thường gồm có từ 2 - 3 thế hệ, người đàn
ông trong gia đình đóng vai trò là trụ cột nên mọi việc lớn nhỏ trong gia đình 27
đều phải được thông qua.
Đồng bào người Tày sống rất tình cảm, gần gũi và thân thiện, họ luôn đề
cao “tình làng nghĩa xóm” và họ luôn đặt “cái lý” đi đôi với “cái tình”. Đời sống
của họ cũng rất bình dị và đời thường chính vì vậy văn hóa của họ thường mang
nét gần gũi với đời sống sản xuất, với thiên nhiên. Vào mỗi độ tết đến xuân về
người dân lại tổ chức các lễ hội truyền thống của đồng bào mình, trong đó có:
Lễ hội Lồng tồng, xuống đồng và lễ hội cầu mưa. Các lễ hội này được tổ chức
vào những ngày đầu năm (thường là vào mùng 5 tết) lễ hội cầu mưa có ý nghĩa
lớn đối với đồng bào người Tày, thông qua lễ hội họ gửi gắm những lời nguyện
cầu đến thần linh, họ cầu cho mưa thuận, gió hòa mùa màng bội thu, cầu cho
người dân trong vùng làm ăn thuận lợi.
Đồng bào Tày còn nổi tiếng với những điệu hát then, hát cọi, hay những
câu đối đáp giao duyên. Chỉ có những dịp hội hè, lễ tết hay dịp cưới hỏi người
Tày mới có thời gian ngồi hát quay quần bên nhau, họ cùng nhau tâm sự và chia
sẻ về cuộc sống thường ngày.
Trước đây đồng bào người Tày vẫn hay quan niệm: “Người đàn ông là
người trụ cột trong gia đình, vì vậy họ mới có quyền ra quyết định, mới có
quyền tham gia việc làng, việc hội, còn người phụ nữ thì chỉ ở nhà lo sản xuất,
và chăm sóc con cái” bên cạnh đó họ vẫn còn tưởng “trọng nam khinh nữ” họ
cho rằng con gái là con của nhà người ta, khi lớn lên đi theo chồng, con trai mới
là con của mình. Những quan niệm cổ hủ đó đã ảnh hưởng đến nhiều mắt trong
đó có giáo dục, trong những năm trước tỷ lệ nữ giới tham gia học các lớp học
phổ thông chính quy cũng như bổ túc văn hóa luôn thấp hơn tỷ lệ nam giới. Tuy
nhiên trong những năm gần đây tư tưởng và những định kiến lạc hậu đó đã bị
bãi bỏ hoàn toàn.
Đồng bào người Dao, họ sống tập chung ở lưng chừng núi hay thung lũng,
nhà của đồng bào người Dao thường là nhà sàn hoăc nhà đất, cũng có thể là nửa
nhà sàn, nửa nhà đất. Đồng bào người Dao thường sống thành cộng đồng, nguồn
sống của họ chủ yếu dựa vào các sản phẩm nông nghiệp mang tính tự cung, tự
cấp như: lúa, ngô, khoai, sắn. Họ tập trung phát triển sản xuất nông nghiệp, 28
ngoài cây lúa nước họ còn trồng thêm các loại cây lấy gỗ như: Cây keo, cây mỡ,
cây thông…và các loại cây công nghiệp: Cây chè, thảo quả…Công cụ sản xuất
của đồng bào Dao còn thô sơ, kỹ thuật công tác còn lạc hậu. Bên cạnh đó họ
còn phát triển một số nghề thủ công như: Làm giấy, nhuộm chàm, đúc bạc, đúc
công cụ lao động (dao, cuốc, xẻng…)
Tín ngưỡng của người Dao là tín ngưỡng đa thần “vạn vật hữu linh” mang
dấu ấn của Nho giáo và Đạo giáo chính thống. Tư tưởng Nho giáo được thể hiện
rõ trong các phân định tôn ti trật tự, thứ tự ở mỗi gia đình,mỗi dòng họ. Đạo
giáo ảnh hưởng bao trùm đến hầu hết các phong tục được thể hiện qua lễ đặt tên
cho con trai và lễ cấp sắc cho thầy cúng, người Dao quan niệm khi chết thì chết
về thể xác còn linh hồn mãi mãi bất diệt “quay về với tổ tiên”.
Công việc hằng ngày của đồng bào người Dao chủ yếu là phát nương làm
rẫy và trồng rừng, đây là những công việc vất vả, đòi hỏi phải có sức khỏe, có
nhiều người cùng làm, chính vì vậy mà con em đồng bào khi lớn lên họ đều chỉ
ở nhà để lên nương phụ giúp bố làm việc, chính vì vậy mà tỷ lệ theo học của con
em đồng bào dân tộc Dao không cao, điều này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng
của đội ngũ CBCC trong tương lai. Trong gia đình người Dao, người đàn ông
được coi là trụ cột, họ là lao động chính.
Người H’mông sống trong những ngôi nhà trình tường, họ thường sống ở
các đỉnh núi cao, địa hình dốc, đất đai lại cằn cỗi nên người H’mông đã lựa
chọn trồng loại các loại cây lương thực như: Ngô, khoai, sắn...Ngô được coi là
thực phẩm chính trong bữa ăn của người H’mông. Ngoài việc phát triển nông
nghiệp người H’mông còn biết phát triển thêm một số nghề truyền thống như:
Trồng bông, xe đay, dệt vải, người phụ nữ H’mông rất khéo léo trong việc xe
đay, dệt thổ cẩm.
Đồng bào H’mông có rất nhiều nét phong tục tập quán, trong đó tục “bắt
vợ” được coi là nét văn hóa điển hình nhất. Tục bắt vợ được tiến hành khi tình
yêu giữa chàng trai và cô gái H’mông đã chín muồi, họ hiểu nhau và yêu nhau
qua những lần đi làm rẫy hay những lần xuống chợ. Tục bắt vợ của đồng bào
người Mông đến nay vẫn còn tồn tại, và ngày nay nó không mang một chút tính 29
chất nào của sự cướp đoạt, nó thể hiện tình yêu mãnh liệt, sự dũng cảm của
người con trai H’mông và nâng cao nhân cách của người con gái. Bên cạnh đó
nó còn khẳng định tự do hôn nhân và tuyên chiến với những hủ tục thách cưới
đòi hỏi của nhà gái. Vơi ý nghĩa đó tục “bắt vợ” của người H’mông được trở
thành một tục được đồng bào H’mông lưu giữ và làm theo.
Phong tục tập quán là nét đẹp truyền thống thể hiện nét văn hóa đặc trưng
riêng của từng dân tộc. Tuy nhiên không phải lúc nào những phong tục tập quán
đó cũng đem lại hệ quả tích cực, nếu hiểu sai và vận dụng sai nó sẽ gây ra những
mặt tiêu cực gây ảnh hưởng đến đời sống văn hóa của đồng bào. Vì vậy cần có
những giải pháp bảo tồn và phát huy những nét văn hóa đẹp của đồng bào, đồng
thời cần loại bỏ những hủ tục lạc hậu ra khỏi đời sống. Để làm được điều đó đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã phải có năng lực, có trình chuyên môn, bản lĩnh
chính trị vững vàng. Trước đòi hỏi đó cần phải tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ CBCC DTTS cấp xã góp nâng cao chất lượng để đáp ứng tình hình hiện nay.
d) Tâm lý tự ti, mặc cảm, tư tưởng dựa dẫm, thiếu ý chí vươn lên
Đặc điểm này bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên, phong tục tập quán, lịch sử
của người DTTS ở huyện Vị Xuyên. Người dân tộc nơi đây có lối sống thẳng
thắn, trung thực, trong học tập họ có thái độ nghiêm túc, ham học hỏi. Tuy nhiên
về mặt tâm lý họ luôn mặc cảm. tự ti do khả năng về ngôn ngữ, khả năng tiếp
thu chậm, do đó người DTTS thường rất ngại va chạm với bên ngoài, họ ngại
tham gia các hoạt động xã hội. Bên cạnh đó một số người còn có tư tưởng dựa
dẫm, ỷ lại vào chính sách dân tộc của Đảng, các chế độ ưu tiên của Nhà nước
nên họ không có ý chí vươn lên, tự phấn đấu mà chỉ thấy lợi trước mắt.
2.2. Đặc điểm về đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người dân
tộc thiểu số ở các xã trên địa bàn huyện
2.2.1. Số lượng
Bảng thống kê số lượng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người dân
tộc thiểu số ở các xã trên địa bàn huyện tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2012.
STT Chức Tổng Dân tộc Giới tính Độ tuổi Số 30
danh số đảng
viênKinh DTTS Nam Nữ <30 31-
44
45-
50
>50
1 CB 276 48 228 185 43 40 92 71 25 225
2 CC 295 97 198 143 55 50 79 56 13 174
3 Tổng 571 145 426 327 98 90 171 127 38 399
Trong năm 2012 toàn huyện có 576 cán bộ công chức chính quyền cơ sở.
Trong đó cán bộ hoạt động chuyên trách có 276 người: công chức 198 người.
Trong tổng số 276 cán bộ hoạt động chuyên trách thì có 228 cán bộ là
người dân tộc thiểu số (chiếm 82,6% tổng số cán bộ toàn huyện) trong đó có
185 nam và 43 nữ; số cán bộ là đảng viên có 225 người (chiếm 96,68%)
Về cơ cấu tuổi: Dưới 30 tuổi có 40 người (chiếm 17,51%); tử 31 đến 44
tuổi có 92 người (chiếm 40,36%); từ 45 tuổi đến 50 tuổi có 71 người (chiếm
31,14%)
Công chức có 295 người, trong đó số có 97 công chức là người người kinh
(chiếm 32,88%); 198 công chức là người dân tộc thiểu số (chiếm 67,11%) trong
đó có 143 nam và 55 nữ; số công chức là đảng viên có 174 người (chiếm
87,87%).
Về cơ cấu tuổi: Dưới 30 tuổi có 50 người (chiếm 25,25% trong tổng số
công chức DTTS ở huyện); từ 31 đến 44 tuổi có 79 người (chiếm 39,89%); trên
50 tuổi có 13 người (chiếm 6,56%).
Qua đây có thể thấy rằng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là
người DTTS làm việc tại UBND xã chiếm số lượng rất cao, đa số họ là đều là
cán bộ, công chức trẻ có độ tuổi từ 30 đến 44 tuổi, số cán bộ công chức trên 50
tuổi chiếm tỷ lệ rất ít, chỉ chiếm khoảng 12, 26 % tổng số cán bộ công chức dân
tộc thiểu số ở huyện
Với số lượng đông, đội ngũ cán bộ trẻ tuổi điều đó sẽ tạo ra sự năng động,
linh hoạt và sáng tạo trong công việc, với sức trẻ của mình họ sẽ thể hiện được
31
sự nhiệt huyết trong nghề nghiệp. Tính ham học hỏi, khả năng thích ứng nhanh
và sự sáng tạo trong công việc là đặc điểm nổi bật nhất mà đội ngũ cán bộ công
chức trẻ mang đến cho tổ chức; số lượng cán bộ trên 50 tuổi chiếm tỷ lệ thấp
điều đó tạo nên tính ổn định trong cơ cấu bộ máy của tổ chức, số cán bộ về hưu
ít nên quá trình tuyển dụng, luân chuyển hay thuyên chuyển vị trí cán bộ công
chức hàng năm diễn ra ít, điều đó góp phần đảm bảo công việc của tổ chức được
thực hiện liên tục, đồng bộ.
Xét về mặt giới tính có sự chênh lệch khá lớn giữa tỷ lệ nam và nữ, trong
đó: Số cán bộ công chức là nam chiếm tỷ lệ cao hơn nữ, tuy nhiên điều đó
không làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả công việc, ngược lại đặc điểm
này sẽ góp phần tạo nên tính đoàn kết, sự tương trợ giữa các thành viên trong tổ
chức, thể hiện được nét đẹp văn hóa trong công sở.
2.2.2. Về chất lượng
Chất lượng đội ngũ cán bộ công chức chính quyền cấp xã được thể hiện
thông qua các tiêu chí sau: Trình độ văn hóa; trình độ chuyên môn nghiệp vụ;
trình độ lý luận chính trị, trình độ Quản lý Nhà nước.
a) Trình độ văn hóa
Qua thực tế điều tra cho thấy trình độ Văn hóa của đội ngũ cán bộ, công
chức chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số trong những năm gần đây đã
có nhiều chuyển biến tích cực. Đại đa số cán bộ, công chức đã hoàn thành các
chương trình đào tạo ở bậc: Tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông. Đặc
biệt ở các xã vùng 3 số cán bộ, công chức hoàn thành các chương trình bổ túc
văn hóa chiếm tỉ lệ tương đối cao với 18,6%, số cán bộ, công chức có trình độ
học vấn cấp 1 đã giảm rõ rệt.
Bảng tổng hợp chất lượng trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số ở huyện Vị Xuyên.
32
Chức danh
Trình độ
Ccán bộ Tỷ lệ % Công chức Tỷ lệ %
Tiểu học 6 2.6% 2 1.0%
Trung học cơ sở 10 4.4% 4 2%
Trung học phổ
thông
212 92.98% 192 96.97%
Tổng 228 100% 198 100%
( Nguồn: Phòng Nội Vụ huyện Vị Xuyên)
Qua bảng thống kê cho thấy: tổng số cán bộ dân tộc thiểu số cấp xã của
toàn huyện là 228 người. Trong đó cán bộ có trình độ văn hóa tiểu học là 6
người (chiếm 2,6% trên tổng số cán bộ công chức cấp xã toàn huyện); trung học
cơ sở 10 người (chiếm 4,4%); trung học phổ thông 212 người (chiếm 92,98%).
Công chức cấp xã là 198 người trong đó công chức có trình độ tiểu học là
02 người (chiếm 1%); trung học cơ sở là 04 người (chiếm 2%); trung học phổ
thông 192 người (chiếm 92,97%)
Nhìn chung số cán bộ, công chức có trình độ trung học phổ thông chiếm tỷ
lệ cao, tuy nhiên ở một số xã vùng sâu, vùng xa vẫn còn có một số cán bộ, công
chức chỉ mới học xong tiểu học cấp 1, theo bảng thống kê có 06 người (chiếm
3,6% tổng số cán bộ, công chức chính quyền cấp xã trên toàn huyện). Thực
trạng đó cũng nhiều ảnh hưởng đến chất lượng công việc do họ chưa hoàn thành
các chương trình đào tạo cơ bản nên sự nhận thức, khả năng tiếp thu và khả
năng xử lý công việc cũng bị hạn chế, bên cạnh đó khả năng ứng dụng khoa học
và công nghệ vào trong công việc cũng gặp nhiều khó khăn, khả năng nhận biết
về những thay đổi của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cũng bị hạn
chế.
Trình độ học vấn là cơ sở giúp cho cán bộ, công chức có thể nhận thức
nhanh và chính xác và đúng các chủ chương, đường lối, chính sách của đảng và
pháp luật của nhà nước, là điều kiện để họ có thể tiếp thu được những vấn đề
33
khoa học, kỹ thuật và công nghệ cơ bản cũng như diễn biến xảy ra trên địa bàn
về mọi mặt từ đó có phương hướng giải quyết phù hợp để ứng xử. Đối với các
xã vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số thì việc nâng cao trình độ học vấn
cho đội ngũ cán bộ, công chức lại có vai trò quan trọng. Do đó với tổng số cán
bộ, công chức mới chỉ hoàn thành chương trình tiểu học và trung học cơ sở cần
phải tiếp tục tham gia các khóa học bổ túc văn hóa tại các cơ sở trường học ở địa
phương.
b) Về trình độ chuyên môn.
Đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số có
số lượng đông. Tuy nhiên số cán bộ công chức chưa qua đào tạo chuyên môn
vẫn còn tương đối cao.
Bảng thống kê về trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ công chức chính
quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số ở huyện Vị Xuyên:
Chức danh
Trình độ
Cán bộ Tỷ lệ% Công chức Tye lệ %
Chưa qua đào tạo 85 37,28% 14 7,07%
Sơ cấp 4 1,75% 12 6,06%
Trung cấp 73 32,02% 136 68,69%
Cao đẳng 3 1,32% 14 7,07%
Đại học 63 27,63% 22 11,11%
Tổng 228 100% 198 100%
( Nguồn: Phòng Nội vụ huyện Vị Xuyên)
Số cán bộ công chức chưa qua trình độ độ đào tạo chuyên môn là 99 người
(chiếm 23,23% trong tổng số CBCC dân tộc thiểu số toàn huyện) trong đó có 85
cán bộ và 14 công chức, so với năm 2010 tỷ lệ số CBCC chưa qua đào tạo
chuyên môn tăng 75,1%, và có phần giảm hơn so với năm 2011 khoảng 1,64%.
Cán bộ, công chức dân tộc thiểu số có trình độ sơ cấp là 16 người, trong đó
có 4 cán bộ và 12 công chức (chiếm 3,7%); trình độ trung cấp 209 người (chiếm
49,6%); trình độ cao đẳng là 17 người (chiếm 3,99%); trình độ đại học là 85
34
người (chiếm 19,8%)
35
Có thể rằng trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số ở huyện Vi Xuyên trong những
năm qua đã không ngừng được nâng lên. Trong tổng số 426 cán bộ, công chức
thì đã có 327 người có trình độ chuyên môn từ sơ cấp trở lên ( chiếm 76,76%
trong tổng số cán bộ, công chức DTTS toàn huyện). Tuy nhiên tỷ lệ cán bộ công
chức chưa qua đào tạo vẫn còn chiếm tỷ lệ khá cao, số lượng này tập trung chủ
yếu ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng Dân tộc thiểu số, trong đó điển hình như
xã: Thanh Đức, với 10 cán bộ hoạt động chuyên trách thì chỉ có 01 cán bộ đã
qua đào tạo chuyên môn. Trước thục trạng nói trên đặt ra cho người làm công
tác quản lý là phải nhanh chóng có giải pháp nhằm nâng cao trình độ chuyên
môn cho đội ngũ cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số để đáp ứng nhu
cầu đòi hỏi của xã hội
c) Trình độ lý luận chính trị
Trình độ lý luận của đội ngũ cán bộ, công chức DTTS được thể hiên thông qua
bảng thống kê sau:
Chức danh
Trình độ
Cán bộ Tỷ lệ % Công chức Tỷ lê %
Chưa qua đào tạo 54 23,68% 131 66,16%
Sơ cấp 32 14,03% 30 15,15%
Trung cấp 140 61,40% 37 18,69%
Cao cấp 2 0,89%
Tổng 228 100% 198 100%
( Nguồn: Phòng Nội Vụ huyện Vị Xuyên)
Qua bảng số liệu trên có thể thấy: Cả cán bộ và công chức đều có số người
đã được đào tạo, và số người chưa qua đào tạo lý luận chính trị, trong đó:
Đối với đội ngũ cán bộ hoạt động chuyên trách: Số cán bộ chưa qua đào tạo
là: 54 người (chiếm 23,68% trong tổng số cán bộ DTTS của huyện); cán bộ có
trình độ lý luận chính trị sơ cấp là 32 người (chiếm 14,03%); trình độ trung cấp
140 người (chiếm 61,40%); trình độ cao cấp là: 02 người (chiếm 0,89%).36
Đối với đội ngũ công chức: Trong tổng số 198 công chức thì có 131 công
chức chưa qua đào tạo (chiếm 66,16% tổng số công chức DTTS ở toàn huyện);
công chức có trình độ lý luận sơ cấp là: 30 người (chiếm 15,15%); trình độ trung
cấp là: 37 người (chiếm 18,69%).
Như vậy có thể thấy số lượng cán bộ, công chức là người DTTS chưa qua
đào tạo còn chiếm tỷ lệ tương đối cao (chiếm 43,42% ), số lượng chưa qua đào
tạo chủ yếu tập trung ở đội ngũ CBCC cao tuổi, và một số CBCC trẻ. Để có thể
xây dựng được một tổ chức vững mạnh, có đầy đủ năng lực, phẩm chất, chính trị
thì đòi hỏi phải nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ CBCC, trước
những đòi hỏi đó việc đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, công chức
DTTS là rất cần thiết, và phải được tiến hành nhanh chóng.
d) Trình độ quản lý nhà nước
Chức danh
Trình độ
Cán bộ Tỷ lệ % Công chức Tỷ lệ %
Chưa qua đào tạo 18 7,90% 110 55,55%
Sơ cấp 103 45,17% 63 31,82%
Trung cấp 105 46,05% 25 12.62%
Cao cấp 2 0,87%
Tổng 228 100% 198 100%
( Nguồn: Phòng Nội vụ huyện Vị Xuyên)
Đa số cán bộ, công chức DTTS cấp xã chưa được đạo tạo kiến thức quản lý
nhà nước mà chủ yếu là bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước. Tính đến cuối
năm 2012, có 408 cán bộ, công chức là người DTTS được bồi dưỡng kiến thức
quản lý nhà nước. Tỷ lệ CBCC chưa qua đào tạo vẫn chiếm tỷ lệ cao (chiếm
30,04%). Như vậy để có thể thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, và là đội ngũ tiên
phong thì việc đào tạo, bồi dưỡng CBCC người DTTS là rất quan trọng.
2.3. Quy trình đào tạo cán bộ, công chức
2.3.1. Xác định nhu cầu đào tạo
Việc xác định nhu cầu đào tạo chủ yếu được áp dụng với CBCC trực tiếp
37
thông qua nhận xét, quyết định, ý kiến của cán bộ phụ trách đào tạo của đơn vị
trực thuộc và căn cứ vào phiếu xác định nhu cầu đào tạo.
Xác định nhu cầu đào tạo của Sở được tiến hành theo phương pháp sau:
Hàng năm vào quý IV, cán bộ phụ trách đào tạo gửi phiếu xác định nhu
cầu đào tạo cho các phòng, ban trong huyện. Sau đó thủ trưởng các đơn vị,
phòng, ban căn cứ vào:
Nhu cầu đào tạo đối với CBCNV của phòng, ban mình: căn cứ vào tình
hình thực hiện công việc, mức độ hoàn thành công việc, phòng, ban xem còn
yếu ở mảng nào để cần đào tạo.
Định hướng của huyện năm sau và tình hình thực tế của phòng, ban mình.
Ngoài ra căn cứ vào nhu cầu đào tạo của cá nhân CBCC như học tại chức,
học tập tại các trường Đại học trong và ngoài nước thì cá nhân làm đơn cụ thể để
được xét duyệt.
Các thủ trưởng đơn vị sẽ xác định nhu cầu đào tạo của đơn vị mình. Sau đó cán
bộ phụ trách nhân lực căn cứ vào các phiếu đó và tình hình của huyện để xác định
nhu cầu đào tạo cụ thể đưa vào kế hoạch đào tạo trình UBND phê duyệt.
Để xác định nhu cầu đào tạo, trước mỗi khóa đào tạo của năm, toàn bộ lao
động trong huyện được đánh giá năng lực dựa trên các mặt trình độ học vấn, đào
tạo, kết quả hoàn thành nhiệm vụ, kỹ năng, kinh nghiệm, các trưởng đơn vị đánh
giá. Sau khi trưởng đơn vị đưa ra kết luận chung, phiếu đánh giá được gửi về
Phòng Nội vụ, trình lên UBND ra quyết định cuối cùng. Nếu CBCNV không đủ
năng lực đào tạo theo yêu cầu thì sẽ đưa vào kế hoạch đào tạo năm
38
Phiếu đánh giá năng lực
Họ và tên:
Vị trí công tác hiện tại:
Ngày sinh:
Kết quả đánh giá
1. Tự đánh giá
1.1 Về đào tạo
………….
1.2 Về kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao
………….
1.3 Về kỹ năng, kinh nghiệm công tác
………..
2. Đánh giá của trưởng đơn vị
………
Ngày…tháng…năm Người đánh giá
Phương pháp xác định nhu cầu đào tạo về cơ bản là thực hiện theo đúng
các bước căn bản, nhằm xác định được đối tượng cần đào tạo, số lượng bao
nhiêu, làm việc ở phòng, ban nào.
2.3.2. Xác định mục tiêu đào tạo
Mục tiêu đào tạo của huyện chỉ đưa ra chung chung, không có mục tiêu cụ
thể cho từng đối tượng hay cho từng thời kỳ nhất định.
Với khóa đào tạo kèm cặp cử nhân mới ra trường: Mục đích để CBCC hội
nhập nhanh với môi trường làm việc, nâng cao trình độ, kiến thức, kỹ năng làm
việc, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt, phát triển đội ngũ công nhân viên lành mạnh.
Với đào tạo nâng bậc cán bộ, công chức: Khuyến khích, động viên tạo điều
kiện cho CBCC hăng hái học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, Đáp ứng nhu cầu
của huyện, xây dựng đội ngũ CBCC lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Đảm
bảo quyền lợi và chế độ nâng lương, nâng bậc theo đúng quy định của Nhà nước.39
Với khóa đào tạo nâng cao trình độ thì mục đích là nâng cao chất lượng đội
ngũ nhân lực thông qua số lao động cao đẳng, đại học… nhằm đáp ứng nhu cầu
công việc, nâng cao năng suất lao động.
Với đào tạo sử dụng trang thiết bị máy móc mới, an toàn : Trang bị cho
CBCC và cán bộ quản lý kiến thức cần thiết.
Với các khóa đào tạo đột xuất, thuyên chuyển công tác để cho người CBCC
nâng cao trình độ, kỹ năng, đáp ứng nhu cầu công việc mới một cách tạm thời.
Trong mỗi thời kỳ, giai đoạn khác nhau, cùng một khóa học đào tạo cần có
những mục tiêu cụ thể, rõ ràng cho phù hợp. Việc xác định mục tiêu đào tạo
không rõ ràng sẽ ảnh hưởng đến việc xác định nội dung chương trình giảng dạy
cũng như hiệu quả học tập của đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là
người DTTS.
2.3.3. Lựa chọn đối tượng đào tạo
Việc lựa chọn đối tượng đào tạo thì căn cứ vào phiếu đánh giá chất lượng
cán bộ, công chức hàng năm, căn cứ vào sự đánh giá chủ quan của lãnh đạo các
phòng ban, bộ phận trực thuộc, gửi danh sách lên Phòng Nội vụ lập danh sách
tổng hợp để lãnh đạo phê duyệt.
Những đối tượng được lựa chọn cho đi đào tạo đáp ứng đủ năng lực đào
tạo: Theo nhu cầu của huyện hay bên ngoài, hoặc chưa đáp ứng nhu cầu công
việc cụ thể với từng đối tượng.
Lựa chọn chương trình đào tạo quyết định đến chất lượng hiệu quả của
công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Tuỳ theo đối tượng khác nhau mà
ta có các cách lựa chọn khác nhau, cụ thể như:
Xét kết thúc thời gian thử việc đối với lao động tốt nghiệp đại học, cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp:
CBCC bậc Đại học, mới tốt nghiệp ra trường được bố trí làm công việc
đúng ngạch nhất thiết phải có báo cáo kết thúc thời gian thử việc.
CBCC bậc Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp mới tốt nghiệp ra trường
được bố trí làm công việc đúng ngạch nhất thiết phải có báo cáo kết quả kết thúc
thời gian thử việc. Kết luận đánh giá bản báo cáo này lãnh đạo huyện quyết 40
định, thông qua báo cáo của cán bộ đào tạo.
Việc đánh giá kết quả trong thời gian làm việc do lãnh đạo huyện quyết
định. Báo cáo kết thúc thời gian thử việc phải kèm theo biên bản xét duyệt của
đơn vị.
Xét cử CBCC đi thi cao học, tại chức vào các trường cao học gồm những
đối tượng sau:
Là những người lao động giỏi, xuất sắc, thật sự có nhiều cống hiến đối với
đơn vị, ít nhất là ba năm trước khi đi học không vi phạm kỷ luật lao động từ khiển
trách trở lên; và có thể phát huy được kiến thức đã học vào công việc và quản lý
sau này.
Phải học nghề chuyên môn huyện cần, không tự tìm nghề theo sở thích,
làm nghề gì học nghề đó, trường hợp ngược lại huyện không bố trí công việc
mới theo bằng cấp đã học.
Có thâm niên công tác trong ngành ít nhất 36 tháng. Khuyến khích xét giảm
thời gian còn 24 tháng đối với lao động có thành tích đặc biệt xuất sắc.
Xin học đúng nghề đang làm.
Có cam kết.
Được Sở nhất trí cử đi học sau khi cân nhắc lực lượng lao động để đảm bảo
việc cử người đi học không ảnh hưởng đến công tác của đơn vị.
Trình độ chuyên môn đã được nâng lên so với bậc đang hưởng.
2.3.4. Xây dựng chương trình đào tạo
a) Căn cứ vào chỉ tiêu của huyện và nhu cầu thực tiễn cán bộ, công chức
mà Phòng đưa ra chương trình cụ thể cho từng năm, sau đó chương trình đó
được đưa lên cấp trên trình duyệt nếu được chấp nhận thì chương trình được bắt
đầu tiến hành. Thực tế việc xây dựng chương trình đào tạo được tiến hành qua
các bước sau:
Xác định số lượng được đi học;
Xác định thời gian học, nội dung môn học;
Báo cáo với cấp trên duyệt, nếu được duyệt thì tiến hành chương trình đào
tạo;41
Cuối mỗi khoá học tiến hành kiểm tra để biết kết quả học tập của người học
viên.
Ví dụ: Năm 2010 do yêu cầu của cán bộ, công chức muốn nâng cao trình
độ để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của công việc, vì vậy để đáp ứng
mong muốn của người lao động, đồng thời để theo kịp sự phát triển ngày càng
mạnh mẽ của đất nước cho nên Phòng đã đưa ra một vài chỉ tiêu cho phù hợp.
Chỉ tiêu cụ thể như sau:
Số lượng người tham gia khoá học: 13 người;
Khoá học kéo dài 10 ngày;
Chi phí huyện đưa xuống : 35 triệu đồng;
Kế hoạch này được đưa ra cho cán bộ đào tạo lập kế hoạch chi tiết, sau đó
kế hoạch này lại được trình duyệt, kết quả của khoá đào tạo này có 3 người đạt
qua cả vòng thi lý thuyết và vòng thi nghiệp vụ, những người đạt này một trong
số họ có thể cán bộ phòng đào tạo sẽ xuống kiểm tra lại, con số không đạt phải
chờ đợi đến chỉ tiêu sau.
b) Đội ngũ giáo viên giảng dạy.
Ở các xã, thị trấn chưa có đội ngũ chuyên viên về mảng này nhưng việc lựa
chọn đội ngũ giáo viên cho từng chương trình đào tạo có những quy định tương
đối cụ thể, nghiêm ngặt;
Đào tạo, kèm cặp cử nhân mới ra trường
Yêu cầu: Đội trưởng, cán bộ, phải gương mẫu trong quá trình kèm cặp
CBCN thuộc bộ phận mình quản lý. Phải có trách nhiệm xây dựng đề cương
hướng dẫn. Sau thời gian kèm cặp, trình độ của người được kèm cặp phải nâng
lên về mọi mặt (trình độ, nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp, ý thức tổ chức, kỷ luật,
văn hóa tổ chức…). Đảm bảo vệ sinh, an toàn lao động trong quá trình hướng
dẫn.
Với cán bộ, giảng viên thuê bên ngoài: huyện thuê những giảng viên từ các
trường chính trị hoặc từ những trường đại học chính quy có trình độ, chuyên
môn, có kinh nghiệm giảng dạy. Giáo viên được thuê về giảng dạy chịu trách
nhiệm trong việc biên soạn đề cương và được lãnh đạo thông qua. Trong quá 42
trình giảng dạy, các giáo viên được xem xét bởi sự nhiệt tình cũng như khả năng
truyền đạt, nội dung giảng dạy có phù hợp hay không. Nhìn chung, với việc lựa
chọn kỹ như vậy, các giảng viên được mời về nhìn chung có chất lượng tốt.
Trong thực tế, công tác lựa chọn giáo viên giảng dạy chi tiết, có quy định
trách nhiệm cụ thể, về căn bản đội ngũ giáo viên giảng dạy đáp ứng được yêu
cầu nhưng việc giảng dạy bởi cán bộ, công chức có kinh nghiệm trong huyện,
chủ yếu là kiêm nhiệm nên khả năng sư phạm không được đào tạo chuyên
nghiệp, kiến thức kinh nghiệm truyền đạt nhiều khi mang tính chủ quan nên có
nhiều kiến thức, quan điểm lạc hậu, không phù hợp. Các giáo viên thuê ngoài thì
không có quá trình tham gia và tiếp cận thực tế với Phòng để xây dựng chương
trình và cách giảng dạy cho phù hợp hơn.
2.3.5. Lựa chọn phương pháp đào tạo
Lựa chon phương pháp là yếu tố rất quan trọng quyết định đến các yếu
tốkhác của kế hoạch đào tạo. Các phương pháp đào tạo hiện nay được áp dụng:
Phương pháp kèm cặp, chỉ dẫn: Áp dụng nhiều thường với cán bộ, công
chức mới và được kèm cặp bởi những cán bộ, công chức có trình độ chuyên
môn cao, nhiều kinh nghiệm làm việc. Áp dụng phương pháp này phù hợp, tiết
kiệm chi phí, tuy nhiên hình thức này phụ thuộc nhiều vào việc tuyển dụng và
chất lượng nhân lực.
Cử đi học các trường chính quy: Hàng năm cán bộ, công chức tùy theo nhu
cầu tự đào tạo và theo quy hoạch của huyện được cử đi học tại các trường ĐH
thường là học tại chức dài hạn hoặc học cao học.
Thực tế, các hình thức đào tạo còn ít, đơn giản, là những phương pháp
mang tính truyền thống. Hình thức đào tạo thì tiến hành dưới hình thức học tập
trung tại một nơi, học viên ghi chép lý thuyết đơn thuần nên học còn nhàm chán.
Các khóa học ngắn hạn học viên không tiếp thu được nhiều kỹ năng lý thuyết
thực hành.
2.3.6. Xác định chi phí cho đào tạo, bồi dưỡng
Hàng năm, phòng xây dựng kế hoạch đào tạo, căn cứ vào các yếu tố trong
đào tạo để hạch toán, dự tính chi phí cho mỗi khóa đào tạo sau đó trình lên lãnh 43
đạo phê duyệt. Chi phí cho đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực được trích ra
từ quỹ đầu tư và phát triển. Chi phí này thay đổi hàng năm phụ thuộc vào quỹ
đầu tư và phát triển hoặc nguồn vốn từ UBND tỉnh cấp về. Những năm gần đây
kết quả sản xuất kinh doanh trong tỉnh tăng lên qua các năm do đó chi phí dành
cho đào tạo cho các đơn vị sự nghiệp cũng tăng lên. Nhìn chung, với hình thức
đào tạo khác nhau thì việc dự tính chi phí là khác nhau. Điều đó, cho thấy huyện
cũng đã chú trọng đến việc tính toán cho chi phí đào tạo và phát triển. Tuy
nhiên, quỹ chi cho đào tạo phát triển vẫn còn eo hẹp nên các số lượng đối tượng
được cử đi đào tạo còn ít, chủ yếu là do cán bộ công nhân viên tự nguyện nâng
cao bồi dưỡng kiến thức của mình. Đây cũng là một hạn chế trong công tác đào
tạo, bồi dưỡng CBCC của huyện nói chung và ở các xã, thị trấn nói riêng.
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công
chức là người dân tộc thiểu số
2.4.1. Cơ sở vật chất của huyện phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức
Cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy là những công cụ cơ bản có ảnh
hưởng đến chất lượng đào tạo. Nó bao gồm các yếu tố như: Diện tích mặt bằng,
ánh sáng, hội trường, phòng học, phòng thư viện, ký túc xá, phòng làm việc, và
các khu sinh hoạt khác phục vụ cho hoạt động học tập và giảng dạy.
Hiện nay các cơ sở đào tạo của huyện Vị Xuyên về cơ bản vẫn chưa đáp
ứng được được đầy đủ các cơ sở vật chất trang thiết bị. Toàn huyện hiện chỉ có
01 trường đào tạo, bồi dưỡng chính trị, do trường có diện tích hẹp nên diện tích
hội trường phục vụ cho việc giảng dạy cũng nhỏ, chỉ chứa được khoảng 150
người. Các công trình khác như: Ký túc xá, căng tin, phòng ăn uống, nghỉ ngơi
phục vụ cho đội ngũ giảng viên và các học viên chưa được đầu tư xây dựng. Các
trang thiết bị như máy quay, máy trình chiếu chưa được đưa vào phục vụ quá
trình giảng dạy. Tất cả những yếu tố đó đã gây ra những tâm lý không tốt cho cả
giảng và các học viên dẫn đến hiệu của việc dạy và học thu được không cao.
Do diện tích không gian lớp học trật hẹp, các trang thiết bị phục vụ cho quá
trình giảng dạy không đầy đủ nên việc mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho 44
CBCC DTTS với số lượng đông, và thời gian dài sẽ gặp rất nhiều khó khăn, vì
vậy đa phần khi tổ chức các lớp này huyện đều liên kết hoặc mượn cơ sở của
trường Trung cấp chính trị và trường Trung cấp Quân sự ở Hà Giang. Đối với
những xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới đường đi lại gặp rất nhiều khó khăn,
lại cách xa tâm thành phố, có những xã cách xa đến gần 100km chính vì vậy
điều này đã ảnh hưởng đến sĩ số của các học viên. Việc mượn các cơ sở đào tạo
đôi khi còn gặp rất nhiều bất tiện, nhiều khi để kịp thời gian trả hội trường lớp
học buộc các giảng viên phải co ngắn nội dung lại, giảm thời gian đào tạo đi,
điều này ảnh hưởng đến chất lượng bài giảng, kết quả thu được không cao.
2.4.2. Đội ngũ giảng viên
Vai trò của người thầy trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng là hướng dẫn,
trao đổi thông tin một cách hiệu quả nhất và nhiệm vụ của các học viên là trao
đổi kinh nghiệm, cùng nhau bàn bạc, thảo luận để tìm ra biện pháp để giải quyết
vấn đề một cách tối ưu. Do vậy đạo đức, trình độ kinh nghiệm công tác, xử lý
tình huống của đội ngũ giảng viên có vai trò quan trọng quyết định đến chất
lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng CBCC DTTS cấp xã.
Thực tế hiện nay đội ngũ giảng viên của huyện vẫn còn tương đối mỏng về
số lượng, đa phần đội ngũ giáo viên ở các cơ sở đào tạo đều là cán bộ giảng viên
kiêm chức, họ là những cán bộ có kinh nghiệm, có thâm niên công tác, họ vừa
làm việc ở trong các cơ quan tổ chức, vừa phụ trách vai trò đứng trên bục giảng
đào tạo, hướng dẫn các học viên. Bên cạnh đó còn có đội ngũ số giảng viên
chính thức được tổ chức tuyển dụng hoặc hợp đồng dài hạn, họ là đội ngũ có
trình độ chuyên môn, có nghiệp vụ sư phạm. Đối với đội ngũ cán bộ giảng viên
kiêm chức họ có vai trò rất quan trọng, đội ngũ này vừa phụ trách việc xây dựng
các chương trình đào tạo, vừa tiến hành tổ chức thực hiện, vừa trực tiếp đánh giá
được chất lượng của khóa đào tạo; thông qua các bài giảng trên lớp họ biết được
việc xây dựng các chương trình đào tạo có áp dụng đúng đối tượng không? Nội
dung, hình thức và phương thức truyền đạt như vậy có đem lại hiệu quả cao
không? Tuy nhiên hiện nay ở huyện việc khuyến khích và thu hút đội ngũ này
tham gia giảng dạy cũng gặp nhiều khó khăn, do ngoài giờ trên lớp đội ngũ này 45
còn phải làm việc ở cơ quan, nhiều lúc họ bận đi công tác đột xuất nên họ không
bố trí đủ thời gian, điều này đã ảnh hưởng đến việc sắp xếp lịch học và ảnh
hưởng đến tâm lý của các học viên.
Đối với đội ngũ giảng viên chính thức, có số lượng ít, phần lớn lại là giảng
viên trẻ nên còn thiếu kinh nghiệm trong công tác giảng dạy. Do đó đa phần khi
tiến hành mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng với số lượng học viên đông, thời gian
dài huyện đều liên kết với các trường trên tỉnh và mời các giảng viên ở các
trường dưới Hà Nội lên giảng dạy. Số lượng giảng viên ít, trình độ chuyên môn
còn tồn tại nhiều bất cập, địa điểm học tập xa tất cả những yếu tố đó đã ảnh
hưởng rất lớn đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC chính quyền cấp
xã là người dân tộc thiểu số ở huyện Vị Xuyên.
2.4.3. Nguồn kinh phí
Một chương trình đào tạo được đánh giá là tốt, là phù hợp và có tính khả
thi cao khi nó hội tụ đầy đủ các yếu tố sau: Đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất,
số lượng học viên và nguồn kinh phí. Trong 4 nhân tố trên thì kinh phí được coi
là yếu tố cuối cùng quyết định đến việc triển khai áp dụng chương trình đào tạo.
Khi kinh phí đáp ứng đủ thì hoạt động đào tạo mới được tiến hành liên tục và
đồng bộ, ngược lại nếu thiếu kinh phí sẽ làm cho chương trình đào tạo bị giãn
đoạn, ảnh hưởng đến hiệu quả đào tạo.
Trong những năm qua hoạt động đào tạo đội ngũ CBCC chinh quyền cấp
xã là người DTTS ở huyện Vị Xuyên đã được UBND và Phòng Nội vụ huyện
quan tâm chú trọng, nhiều khóa đào tạo đã được mở với số lượng học viên đăng
ký tham gia đông, tuy nhiên do nguồn kinh phí của huyện còn hạn hẹp vì vậy mà
hoạt động đào tạo trong năm vẫn còn bị giãn đoạn, có nhiều chương trình đào
tạo được xây dựng nhưng do không đủ kinh phí nên kế hoạch đào tạo đành bỏ
dở. Một số nội dung đào tạo được tiến hành nhưng nguồn kinh phí lên quá cao
nên buộc các cơ sở đào tạo phải chia nhỏ thành nhiều lớp thay phiên nhau đào
tạo, điều này đã gây ra sự thiếu đồng bộ, khó khăn trong quản lý.
Nhiều chương trình đào tạo buộc phải liên kết với các trường có đội ngũ
giảng viên giàu kinh nghiệm nên chi phí đầu tư rất cao, do đó khi tham gia khóa 46
đào tạo các học viên cũng phải chịu một khoản chi phí tương đối cao, điều đó
cũng gây ra nhiều khó khăn cho các học viên. Do không đủ kinh phí theo học
nên tỷ lệ học viên đăng ký tham gia khóa đào tạo cũng giảm, sĩ số học viên
không đủ bắt buộc các cơ sở đào tạo phải hoãn nội dung chương trình đào tạo đó
lại và thay thế bằng một chương trình khác. Việc hoãn lại nội dung đào tạo, dẫn
đến tỷ lệ số học viên chưa qua đào tạo sẽ tăng cao qua các năm, do cộng thêm cả
số dư của những năm trước, bên cạnh đó còn tốn kém nguồn kinh phí đã bỏ ra.
Số lượng học viên chưa qua đào tạo tăng cao, nguồn kinh phí của huyện lại hạn
hẹp vì vậy khi tiến hành xây dựng chương trình đào tạo sẽ gặp rất nhiều khó
khăn.
Như vậy có thể thấy rằng hiệu quả công tác đào tạo chịu ảnh rất lớn bởi
các yếu tố: Vật lực, nhân lực và tiền lực.
2.5. Đánh giá về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức là người dân
tộc thiểu số
2.5.1. Kết quả đạt được
Trong những năm qua cùng với sự quan tâm của tỉnh và của huyện, sự chỉ
đạo sát sao của các cấp các ngành, cùng với sự nỗ lực cố gắng của các cơ sở đào
tạo, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là người
dân tộc thiểu số đã thu được những kết quả đáng kể. Từ năm 2010 đến năm
2012 đã có 684 cán bộ, công chức được đào tạo về trình độ chuyên môn, trình
độ lý luận chính trị, trình độ quản lý nhà nước và trình độ tin học.
Chương trình đào tạo 2010 2011 2012
Lý luận chính trị 11 28 20
Chuyên môn nghiệp vụ 109 102 150
Quản lý nhà nước 7 9 18
Tin học 83 65 20
Tổng 210 209 265
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc
thiểu số trong giai đoạn 2010- 2012 đã có nhiều chuyển biến tích cực về số
47
lượng, cơ cấu đào tạo và nội dung đào tạo.
Số lượng cán bộ, công chức được đào tạo luôn tăng theo các năm, số lượng
cán bộ đăng ký tham gia vào các khóa học đào tạo cũng tăng lên rõ rệt. trong
lĩnh vực chuyên ngành họ đăng ký theo học nhiều nhất vào các ngành như: Công
tác xã hội, kinh tế nông nghiệp, kinh tế nhà nước, luật và quản lý đất đai; cơ cấu
đào tạo đã được đa dạng hóa, việc đào tạo trình độ lý luận chính trị, chuyên môn
nghiệp vụ, tin học cũng được chú trọng; chương trình đào tạo, nội dung đào tạo,
hình thức đào tạo, bồi dưỡng ngày càng phong phú, đa dạng. Hình thức đào tạo
được lựa chọn phù hợp với tường đặc điểm của từng đối tượng học viên, điều
đó đã tạo ra nhiều cơ hội học tập cho học viên.
Về số lớp và số lượng: Đã tổ chức được 133/133 lớp đào tạo, bồi dưỡng,
đạt 100% kế hoạch trong đó có 87 lớp đào tạo chuyên môn, 20 lớp quản lý nhà
nước, 10 lớp tin học, 20 lớp đào tạo trình độ lý luận trị. Huyện đã liên kết được
với 07 cơ sở đào tạo ở trung ương trong đó có các trường như: Trường Đại học
Kinh tế Quốc Dân, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, trường Khoa học xã hội và
Nhân văn, trường Học viện tài chính, Đại học luật, trường Đại học Nông lâm
Thái Nguyên và 03 trường tại tỉnh Hà Giang: Trường Chính trị, trường Quân sự
và trường học nghề.
Trong tổng số 59 cán bộ, công chức được đào tạo về trình độ lý luận chính
trị thì có 10 cán bộ hoạt động chuyên trách bao gồm các chức danh: Chủ tịch,
Phó chủ tịch, phó Chủ tịch hội nông dân; và 49 công chức.
2.5.2. Những tồn tại
Bên cạnh những kết quả đạt được như đã nêu trên, thì công tác đào tạo bồi
dưỡng cũng bộc lộ những hạn chế:
Thứ nhất: Việc đầu tư cơ sở vật chất trang bị phục vụ cho việc giảng dạy và
học tập tuy có nhiều cố gằng nhưng chưa được tương xứng với yêu cầu nâng cao
chất lượng giảng dạy, học tập, thực hành, thực tập của nhà trường với các học
viên, điều kiện ăn, ở sinh hoạt văn hóa, thể dục thể thao của Cán bộ giáo viên và
các học viên còn gặp nhiều khó khăn
Thứ hai: Công tác quản lý tổ chức đào tạo, bồi dưỡng có mặt còn bất cập, 48
các lớp đào tao, bồi dưỡng cho CBCC cấp xã trong một huyện do nhiều cơ sở
đào tạo cùng thực hiện trong năm dẫn đến chồng chéo, gây lẵng phí. Nguồn
kinh phí phân bổ cho các CBCC người DTTS chưa đáp ứng được các yêu cầu
thực tế, chỉ tiêu phân bổ của một số loại hình bồi dưỡng thường đến muộn,
không được thực hiên trong kế hoạch công tác của năm
Thứ ba: Số lượng CBCC được đào tạo tăng, tuy nhiên chất lượng đào tạo
cán bộ vẫn còn chưa đáp ứng được so với yêu cầu, việc học đi đôi với hành ở
một số cơ sở còn hạn chế, CBCC nhiều lung túng khi vận dụng những kiến thức
đã được học vào gải quyết những công việc cụ thể ở cơ sở.
Thứ tư: Một số chính sách đối với cán bộ, công chức DTTS tuy được triển
khai song vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu hiện nay, nguồn
kinh phí còn hạn hẹp, mức trợ cấp đối với các cán bộ, công chức DTTS còn
thấp, chưa hợp lý để họ vượt qua khó khăn, yên tâm học hành. Nhiều học viên
có hoàn cảnh kinh tế khó khăn không đủ tiền ăn học đã bỏ dở giữa chừng, nhất
là các học viên ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.
Thứ năm: Tuy nội dung và phương pháp đào tạo đã có nhiều thay đổi
nhưng chưa cụ thể rõ ràng:
Nội dung bài giảng vẫn thiếu tính thực tế nên chưa đem lại hiệu quả cho
công tác ĐTBD cao. Phương hướng đào tạo, bồi dưỡng vẫn còn theo cách dạy
truyền thống, thầy giảng, trò nghe, với cách học đó đã tạo nên tính ỷ lại cho các
học viên, họ không chủ động, tự giác nghiên cứu, tìm tòi.
Phương pháp giảng bài của một số giáo viên vẫn còn gò bó, thiếu linh hoạt
đã xảy ra tình trạng “cháy giáo án”, ngược lại có một số giáo viên giảng dạy lại
không truyền đạt tập trung vào trọng tâm, không “ đánh chúng” điều này đã ảnh
hưởng đến chất lượng bài kiểm tra của chất lượng bài kiểm tra của các học viên.
Nguyên nhân của những tồn tại:
Một là: Một bộ phận không nhỏ của các cấp lãnh đạo chưa nhận thức được
đầy đủ tính vai trò và tính cấp thiết của công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC
chính quyền cấp xã là người DTTS, do đó thiếu sự quan tâm của các cấp lãnh
đạo về công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC là người DTTS.49
Hai là: Công tác lập quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng CBCC chính
quyền cấp xã là người DTTS chưa được thực hiện thường xuyên, thiếu tính đồng
bộ, thiếu tính khoa học. Công tác quản lý quy hoạch cũng chưa có sự hợp lý
giữa CBCC là người DTTS với người kinh
Về đào tạo, bồi dưỡng việc cử CBCC đi học chỉ được cấp xã tiến hành khi
có giấy báo nhập học của các cơ sở đào tạo,bồi dưỡng, do đó chính quyền cấp xã
thiếu tính chủ động trong công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC.
Do chưa gắn công tác đào tạo với quy hoạch và sử dụng CBCC nên trong
thời gian qua, nhiều đối tượng đã được đào tạo nhưng không được đề cử bổ
nhiệm, trong khi đó nhiều đối tượng khác thậm chí chưa qua đào tạo, bồi dưỡng
lại được cân nhắc vào các vị trí công tác cao hơn, điều này đã ảnh hưởng không
nhỏ đến tâm lý của những đối tượng đã được đào tạo và cả những đối tượng
chưa được đào tạo, họ cho rằng mặc dù đã được đào tạo nhưng nếu không thuộc
diện quy hoạch thì cũng không có được vị trí công tác.
Ba là: Bản thân các đối tượng được đưa đi đào tạo, bồi dưỡng chưa thực sự
coi trọng tự đào tạo để nâng cao năng lực công tác. Một số bộ phận nhỏ họ nghĩ
rằng tham gia đào tạo chỉ để kiếm được một vị trí cao hơn trong tổ chức, họ
không quan tâm đến nội dung đào tạo, mà họ họ chỉ quan tâm đến kết quả cuối
cùng mà họ nhận được sau khóa học đấy, chẳng hạn như: (giấy chứng nhận,
bằng cấp, chứng chỉ).
Thứ tư: Các cơ sở đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức DTTS cấp xã chưa
đồng bộ, điều kiện giảng dạy, chất lượng chuyên môn quản lý và các giảng viên
ở các cơ sở đào tạo ở huyện còn thấp so với mặt bằng chung của toàn tỉnh nên số
chất lượng đào tạo còn thấp.
Nhận xét:
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn luôn coi trọng công tác
đào tạo, giáo dục chính trị - tư tưởng, phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ
đảng viên, trong đó đào tạo CBCC là một nội dung, phải xây dựng đội ngũ
CBCC đủ năng lực và phẩm chất để đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền
Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. 50
Được Đảng giáo dục rèn luyện và trải qua thực tiễn đổi mới đội ngũ CBCC
chính quyền cấp xã là người DTTS ở huyện Vị Xuyên đã trưởng thành và tiến
bộ nhiều mặt. Nhận thức về lý luận chính trị, đường lối chính sách, hiểu biết
pháp luật, nghiệp vụ công tác đã được nâng lên một bước. Nhiều đồng chí đã
trưởng thành, thích ứng với yêu cầu, thách thức trong quá trình đổi mới, ứng phó
với tích cực trước những tình huống chính trị - xã hội phức tạp của những năm
vừa qua. Sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh, chính trị, và trật tự an
toàn trên địa bàn xã có sự đóng góp to lớn của đội ngũ CBCC người DTTS ở
cấp xã. Tuy nhiên qua phân tích thực trạng về trình độ năng lực, trình độ lý luận
cũng như chuyên môn nghiệp vụ, cho thấy đội ngũ CBCC người DTTS cấp xã ở
huyện Vị Xuyên vẫn còn những hạn chế, bất cập về trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, tỷ lệ CBCC người DTTS chưa qua đào
tạo vẫn còn cao. So với yêu cầu của công tác quản lý có thể thấy rằng đội ngũ
CBCC người DTTS cấp xã vẫn còn thiếu và yếu, có sự chênh lệch giữa trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ cũng như lý luận chính trị giữa CBCC người kinh và
CBCC người DTTS. Đây là khó khăn trong việc tiếp thu lĩnh hội kiến thức,
nâng cao nhận thức và khả năng vận dụng pháp luật để giải quyết công việc của
cán bộ, công chức người DTTS cấp xã.
Qua điều tra thực tế cho thấy, đội ngũ CBCC ở huyện Vị Xuyên được hình
thành từ nhiều nguồn khác nhau, phần lớn chưa được qua đào tạo một cách
chính quy, có hệ thống, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức là người DTTS
công tác ở cấp xã. Một số cán bộ ở cấp có trình độ học vấn chưa qua chương
trình học phổ thông trung học. Một số khác thì được đào tạo một cách vội vã,
chưa chú trong chất lượng. Do trước đây chưa đưa pháp luật vào giảng dạy trong
các trường chuyên nghiệp như là một môn học chính khoá vì vậy có một đội ngũ
CBCC tuy đã được đào tạo cơ bản ở một số chuyên ngành nhưng lại chưa được
trang bị một vốn kiến thức pháp luật và kiến thức pháp lý hành chính Nhà nước
tối thiểu vì vậy trong công tác quản lý điều hành cũng gặp không ít khó khăn.
Trong thời kỳ đổi mới, đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã là
người DTTS ở huyện Vị Xuyên đã có nhiều chuyển biến năng động và sáng tạo 51
trong việc thực thi pháp luật, trong quá trình cải cách hành chính, mở rộng dân
chủ tại cơ sở, chất lượng hoạt động ngày càng được nâng cao, phần nào đã đáp
ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của người CBCC ở vùng miền núi Vị Xuyên.
Với trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ công chức cấp xã ở huyện Vị
Xuyên như đã nêu trên thì công tác đào tạo còn gặp nhiều khó khăn đặc biệt là
trong điều kiện mà nền kinh tế thị trường nước ta đang có nhiều biến đổi, đòi hỏi
CBCC phải đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ mới.
Trong thời gian qua, các cấp ủy Đảng và Chính quyền huyện Vị Xuyên đã
và đang tiến hành thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC chính
quyền cấp xã là người DTTS. Điều này đã đem lại những chuyển biến tích cực:
Đội ngũ CBCC cơ sở ngày càng được trẻ hóa và được nâng lên về trình độ, kiến
thức, năng lực lãnh đạo, quản lý. Việc đào tạo đội ngũ CBCC cũng như việc bố
trí, sử dụng sau đào tạo đã dần đi vào nề nếp và được thực hiện một cách khoa
học hơn. Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, công tác đào tạo, bồi
dưỡng CBCC cấp xã cần được tiếp tục đổi mới, phát huy những ưu điểm, khắc
phục những mặt hạn chế. Để làm được điều đó thì việc đánh giá đúng thực trạng
đội ngũ CBCC cấp xã; thực trạng các quy định của pháp luật về đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ CBCC cấp xã và nêu lên nguyên nhân của những thực trạng trên
là căn cứ rất quan trọng để chúng ta có thể đề ra phương hướng, các giải pháp
nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ CBCC chính quyền cấp xã là người DTTS trong thời gian tới
52
CHƯƠNG 3.
GIẢI PHÁP, KHUYẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
Ở HUYỆN VỊ XUYÊN, TỈNH HÀ GIANG
3.1. Mục tiêu của huyện về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã là người dân tôc thiểu số ở huyện
3.1.1. Mục tiêu chung
Tiến hành ĐTBD theo tiêu chuẩn chức vụ, chức danh công chức bao gồm
đào tạo cán bộ quy hoạch, cán bộ, công chức trẻ, nữ; đào tạo nâng cao và bồi
dưỡng các kỹ năng, đảm bảo đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị
vững vàng, tinh thông nghiệp vụ, để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
chuyên nghiệp, có năng lực thực thi công vụ hiệu quả góp phần thúc đẩy quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng nông thôn mới ở nông thôn mới
cơ sở.
3.1.2. Mục tiêu cụ thể
Trong năm 2010 UBND huyện đã đặt ra mục tiêu cụ thể như sau: Đào tạo,
bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, quản lý hành
chính nhà nước, lý luận chính trị cho CBCC chính quyền cấp xã là người DTTS
theo tiêu chuẩn chức danh đảm nhiệm, phấn đấu đến năm 2020 đạt:
Về văn hóa: 100% cán bộ chuyên trách giữ chức vụ qua bầu cử có trình độ
tốt nghiệp THCS trở lên, trong đó 60% tốt nghiệp THPT.
Về chuyên môn nghiệp vụ: 100% cán bộ chuyên trách giữ chức vụ qua bầu
cử và công chức chuyên môn được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ
theo chức danh quy định, trong đó 50% có trình độ trung cấp trở lên.
Về lý luận chính trị: 100% cán bộ chuyên trách giữ chức vụ qua bầu cử và
công chức chuyên môn được đào tạo, bồi dưỡng đạt trình độ sơ cấp trở lên,
trong đó 40% có trình độ trung cấp.
Về quản lý hành chính nhà nước: 100% cán bộ chủ chốt được đào tạo, bồi
dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà nước. 53
Về tin học văn phòng: 100% CBCCđược bồi dưỡng kiến thức về tin học
văn phòng.
Đảm bảo 100% cán bộ, công chức sau khi đào tạo, bồi dưỡng phải làm
việc tốt hơn so với trước ; 100% được đào tạo, bồi dưỡng trước khi bầu giữ các
chức vụ, bổ nhiệm vào ngạch và được bồi dưỡng kỹ năng hàng năm.
50% cán bộ chủ chốt cấp xã có trình độ Đại học chuyên môn và cao cấp
chính trị; cán bộ, công chức trẻ, nữ cấp xã cơ bản đạt trình độ trung cấp chuyên
môn và trung cấp h môn và trung cấp chính trị.
Đảm bảo 95% CBCC sau khi đào tạo được tuyển dụng, bố trí vào đúng vị
trí chuyên môn đã được đào tạo;
3.2. Quan điểm về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
là người dân tộc thiểu số ở huyện Vị Xuyên
3.2.1. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức chính quyền cấp xã là người
dân tộc thiểu số phải quán triệt, nhận thức sâu sắc quan điểm, chủ trương
của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra ,nhiều quan điểm
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khóa VIII chỉ rõ: “Cán bộ lãnh
đạo phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức toàn diện, trước hết về đường lối
chính trị, về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội.; được bố trí điều động
theo nhu cầu và lợi ích của đất nước”. Đảng đề ra nhiệm vụ: “Nhà nước chăm lo
đào tạo, bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ, giáo dục đạo đức cho cán bộ chính
quyền các cấp, xây dựng phong cách và phương thức công tác của CBCC phù
hợp với đạo đức cách mạng và đáp ứng yêu cầu tăng cường khối đại đoàn kết
dân tộc”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định: “Đẩy
mạnh đào tạo, bồi dưỡng CBCC với nội dung sát hợp”. Pháp lệnh CBCC quy
định rõ: “Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý CBCC xây dựng quy hoạch,
kế hoạch và tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng để tạo nguồn và nâng cao trình độ
năng lực cán bộ, công chức”. Những quan điểm chỉ đạo, định hướng công tác
đào tạo CBCC do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nêu ra cần phải 54
quán triệt là:
Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học.
Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng.
Tăng cường đào tạo tập trung,đồng thời mở nhiều hình thức đào tạo, bồi
dưỡng khác.
Đào tạo, bồi dưỡng toàn diện: chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; kiến thức quản
lý nhà nước; kỹ năng thực hành công vụ; đạo đức và trách nhiệm công vụ, trình
độ tin học, ngoại ngữ.
Tăng cường đào tạo cán bộ nữ, cán bộ nguồn, cán bộ trẻ.
Đào tạo theo quy hoạch.
3.2.2. Thường xuyên bám sát quan điểm chỉ đạo của huyện
Trên cơ sở những quan điểm chung của Đảng, chủ trương của Nhà nước.
Huyện đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo trực tiếp về lãnh đạo xây dựng đội
ngũ cán bộ DTTS đến năm 2020. Tại Nghị quyết số 08/NQ/HVX ngày 14 tháng
01 năm 2008 của huyện Vị Xuyên về lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số đến năm 2020 nêu rõ:
Xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS là nhiệm vụ thường xuyên, là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở và các tổ chức kinh tế, xã hội; là trách
nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương; nòng cốt là các cơ
quan làm công tác tổ chức cán bộ các cấp.
Công tác cán bộ DTTS, phải vừa quan tâm hơn nữa về việc tạo nguồn,
tuyển dụng từ con em cán bộ và gia đình cách mạng là người DTTS; vừa coi
trọng công tác quản lý, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử
dụng cán bộ công chức người DTTS đương chức. Nhằm đảm bảo tính kế thừa,
chuyển tiếp vững vàng, liên tục của đội ngũ cán bộ DTTS ở các cấp, các ngành,
địa phương, đơn vị, trong đó phải coi trọng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là
người DTTS tại chỗ.
Phải triển khai đồng bộ các biện pháp gắn với việc ban hành các chính sách
vừa phù hợp với khả năng ngân sách của huyện; vừa tạo ra động lực mạnh, đảm 55
bảo thực hiện các mục tiêu về xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS trong thời gian
tới. Vừa chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS; vừa quan tâm nâng cao trình
độ dân trí và đào tạo tay nghề cho người lao đồng là đồng bào DTTS, nhất là đối
với tầng lớp thanh thiếu niên; gắn với giải quyết việc làm, coi đây là một trong
những cách tạo nguồn cán bộ DTTS lâu dài.
3.2.3. Đảm bảo yêu cầu của việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng,
Nhà nước ta, sự bình đẳng giữa các dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết các
dân tộc
Trong tình hình hiện nay phải tích cực đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ,
công chức dân tộc thiểu số, đồng thời tăng cường khối đại đoàn kết giữa cán bộ
dân tộc thiểu số và cán bộ người Kinh công tác ở miền núi. Đó là điều kiện mấu
chốt để thực hiện chính sách dân tộc của Đảng đối với chính quyền cấp xã ở
vùng núi, đối với đội ngũ CBCC thì việc đưa chính sách dân tộc và miền núi của
Đảng và Nhà nước vào đời sống của đồng bào là nhiệm vụ hết sức nặng nề. Đối
với các xã vùng đồng bào DTTS, do trình độ dân trí thấp, để đưa được đường lối
của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào thực tế cuộc sống thì đội ngũ CBCC phải
làm tốt công tác tuyên truyền, động viên, tổ chức cho đồng bào thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Công tác tuyên
truyền, động viên phải đặt mục tiêu là không ngừng củng cố khối đại đoàn kết
dân tộc. Vì vậy, phải đào tạo được đội ngũ CBCC đáp ứng được yêu cầu trên,
điểm quan trọng là người CBCC sau này phải tạo được lòng tin với đồng bào,
thì mọi việc sẽ được đồng bào nghe theo và thực hiện một cách nghiêm chỉnh.
Mặt khác, việc đào tạo, bồi dưỡng CBCC người DTTS phải luôn gắn bó chặt
chẽ với công tác dân tộc, bảo đảm sự bình đẳng giữa các dân tộc, xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc.
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác ĐTBD cán bộ, công
chức chính quyền cấp xã là người DTTS ở huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang
3.3.1. Giải pháp đối với UBND huyện Vị Xuyên về công tác đào tạo bồi
dưỡng đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số
Nhanh chóng ĐTBD đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã là người DTTS 56
chưa có trình độ chuyên môn, trình độ chính trị. Tiến hành thống kê, rà soát, sắp
xếp bố trí lại đội ngũ CBCC theo tiêu chuẩn chức danh; công khai danh sách
CBCC không đạt tiêu chuẩn và không đủ điều kiện để tiếp tục đào tạo. UBND
huyện xem xét việc giải quyết chế độ theo quy định. Kiên quyết thực hiện chế
độ, chính sách tinh giảm biên chế của Chính phủ, của Tỉnh đối với cán bộ
chuyên trách, công chức không đạt tiêu chuẩn, sức khỏe hạn chế, năng lực trình
độ yếu kém…
Cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng CBCC nhất là đào tạo tin học, ngoại
ngữ và trình độ lý luận chính trị vì CBCC có đủ yêu cầu này ở các xã còn ít.
Xây dựng, củng cố lại hệ thống chính sách ĐTBD CBCC. Quan tâm đổi
mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo, tập trung đào tạo đối tượng
cán bộ chủ chốt theo hướng lồng ghép, kết hợp đào tạo chuyên môn với đào tạo
văn hóa, lý luận chính trị, quản lý nhà nước.
Nâng cao nhận thức về công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC chính quyền cấp
xã là người dân tộc thiểu số và coi đây là nhiệm vụ lâu dài. Muốn nâng cao nhận
thức về công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC là người DTTS cần phải xây dựng
chương trình và kế hoạch hành động để quán triệt trong toàn thể cán bộ từ cấp
ủy, chính quyền đảng viên đến quần chúng nhân dân, để họ thấy được tầm quan
trọng của công tác cán bộ và công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC người DTTS ở
cấp xã.
Duy trì hình thức đào tạo tại chức, tổ chức lớp tại trung tâm huyện, đáp ứng
tốt nhất nhu cầu đào tạo cán bộ cho cơ sở.
Cải tiến cách thức, lề lối làm việc hiện nay để tăng cường trách nhiệm của
từng cá nhân trong cơ quan.
UBND huyện cần có những chính sách thiết thực, khuyến khích con em
đồng bào DTTS về công tác và làm việc tại địa phương. Thông báo công khai,
rộng rãi việc tuyển dụng sinh viên tình nguyện, tạo nguồn, con cán bộ, diện
chính sách được đào tạo từ trình độ từ trung cấp chuyên môn nghiệp vụ trở
lên...để bổ sung vào các chức danh còn thiếu và thay thế số CBCC không đạt
tiêu chuẩn. Ưu tiên tuyển chọn con cán bộ, diện chính sách, công nhân, nông 57
dân ở tại địa phương đã tốt nghiệp trung học phổ thông có nguyện vọng vào làm
việc tại các xã, phường. Áp dụng các hình thức ĐTBD dài hạn, ngắn hạn, định
kỳ cho cán bộ chủ chốt, công chức chuyên môn để cập nhật những chính sách
mới, kiến thức, kinh nghiệm công tác, giúp họ tốt nhiệm vụ.
Tăng cường đầu tư, hiện đại hóa giảng đường, phòng học, thư viện, ký túc
xã, cơ sở vật chất, phục vụ sinh hoạt, nhà làm việc của đội ngũ CB, giảng viên,
nhân viên của các cơ sở đào tạo. Tăng cường đầu tư các trang thiết bị, phương
tiện giảng dạy, học tập theo yêu cầu và lộ trình hiện đại hóa, chú trọng trang
thiết bị nghe nhìn, máy vi tính, đèn chiếu điện tử và các thiết bị khác.
Đầu tư nâng cấp trụ sở làm việc của UBND cấp xã, các cơ sở đào tạo trong
tỉnh, bảo đảm đáp ứng đủ nơi làm việc, đủ nơi đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện
cung cấp đồng bộ các phương tiện, thiết bị cơ bản phục vụ công việc như: máy
vi tính, máy photocopy, máy in...từng bước đưa công nghệ thông tin vào công
tác quản lý ở cơ sở.
Chú trọng công tác khen thưởng, quan tâm tổ chức thực hiện các chế độ
chính sách đối với CBCC và cán bộ không chuyên trách ở xã, phường. Chú
trọng bồi dưỡng Bí thư chi bộ, trưởng thôn, làm nòng cốt cho đội ngũ cán bộ cơ
sở.
Huyện cần xây dựng nội dung chương trình đào tạo phù hợp với trình độ
văn hóa của từng đối tượng CBCC. Đồng thời nội dung đào tạo chỉ nên tập
chung đào tạo những nội dung mà đối tượng cần, theo yêu cầu hoạt động của
từng vị trí chức danh, công việc nhiệm vụ của đối tượng học xong phải vận dụng
được khi thực hiện nhiệm vụ được giao.
Xây dựng đội ngũ giảng viên chuyên ngành cho các cơ sở đào tạo đội ngũ
CBCC đảm bảo đủ về số lượng, có năng lực, có trình độ chuyên môn nghiệp vu,
có phương pháp sư phạm, có phẩm chất, có kinh nghiệm về công tác đào tạo.
Huyện cần có chính sách cụ thể để thu hút, khuyến khích những cán bộ trí
thức, cán bộ khoa học giỏi, cán bộ có bề dày kinh nghiệm thực tiễn tham gia làm
giảng viên kiêm chức ở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC.
Cần xây dựng cơ cấu lại đội ngũ cán bộ giảng viên, bổ xung cán bộ quản lý 58
là người DTTS cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CBCC là người DTTS.
3.3.2. Giải pháp đối với đội ngũ giảng viên
Cần phải tiến hành điều tra, khảo sát, đánh giá đội ngũ giáo viên và cán bộ
quản lý để có kế hoạch đào tạo và tuyển dụng đáp ứng yêu cầu về số lượng, chất
lượng và cơ cấu đào tạo.
Trên cơ sở giáo viên hiện có cần tiến hành đánh giá phân loại để có kế
hoạch đào tạo phát triển đảm bảo cơ cấu ngành nghề, khuyến khích thu hút
người có học vấn cao có khả năng đáp ứng yêu cầu đào tạo.
Đào tạo nghiệp vụ sư phạm và bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề để bổ
sung giáo viên cho các trung tâm chưa đủ giáo viên và cơ cấu.
3.4. Một số khuyến nghị
3.4.1. Khuyến nghị đối với UBND huyện về việc đào tạo, bồi dưỡng
CBCC chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số
Nội dung và phương pháp đào tạo cần thay đổi sát với tình hình thực tế
hơn, theo hướng chuyển sang học tập theo nhu cầu của mỗi người. Chương trình
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC cần hướng vào các vấn đề thiết thực đặt ra từ
quy trình thực thi công vụ.
Nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần được xác định phù hợp với
từng đối tượng
Cần xây dựng kế hoạch đào tạo, phát triển cụ thể hơn nữa: Chương trình
đào tạo, mục tiêu đào tạo cho từng quý, năm.
Đề nghị huyện phê duyệt dự án đào tạo, bồi dưỡng CBCC tham gia các
khóa đào tạo nghiệp vụ để CBCC nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Trong quá trình ĐTBD cần giám sát, kiểm tra thường xuyên, tránh đi học chỉ là
đối phó, chỉ để lấy bằng, gây ảnh hưởng lớn tới chất lượng đào tạo.
Cần hình thành những chính sách hợp lý khuyến khích cán bộ, công chức
đi học, có những hỗ trợ tài chính cho người tham gia khóa ĐTBD để họ yên tâm
công tác.
Vì vậy, phương pháp ĐTBD đối với họ không thể giống như đối với sinh
viên. Đối với đối tượng này chỉ nên định hướng nội dung học tập, nghiên cứu, 59
nêu vấn đề, tình huống và hướng dẫn, gợi mở, đối thoại để rèn luyện phương
pháp, kỹ năng giải quyết vấn đề, xử lý tình huống. Để việc học tập có kết quả,
đạt chất lượng cao, sau mỗi bài học, cụm chuyên đề nên cho học viên đi nghiên
cứu, khảo sát thực tế, thực tập rút kinh nghiệm với thời gian thích hợp. Nội dung
đi nghiên cứu, khảo sát thực tế phải sát với nội dung bài học, có giảng viên
hướng dẫn, sau đợt nghiên cứu, thực tập học viên phải có bài thu hoạch.
Xây dựng chương trình đào tạo riêng, phù hợp với đặc điểm phong tục tập
quán, trình độ, kỹ năng, đặc điểm công việc, thời gian và điều kiện kinh tế của
đội ngũ CBCC là người DTTS để họ có điều kiện tham gia các khóa học.
Làm tốt công tác quy hoạch cán bộ cơ sở. trên cơ sở quy hoạch cán bộ và
căn cứ vào tiêu chuẩn, nhu cầu đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã để xây
dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù hợp. Tiếp tục thực hiện tốt quy chế đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, xã, thị trấn.
3.4.2. Khuyến nghị đối với giảng viên về việc đào tạo, bồi dưỡng CBCC
chính quyền cấp xã là người dân tộc thiểu số
Giảng viên là người trực tiếp hướng dẫn, truyền tải những cái mới tới
người học thông qua các giờ lên lớp. Do đó, giảng viên nên thường xuyên kiểm
tra, sát hạch giữa các khóa đào tạo hay khi kết thúc khóa đào tạo đối với học
viên. Đây sẽ là cách dễ dàng nhất để người giảng viên có thể nắm bắt được quá
trình tiếp thu kiến thức của học viên đối với khóa đào tạo.
Thông qua đó, giảng viên cũng như UBND huyện có thể xem xét, đánh giá
được chính xác mức độ phù hợp, khả năng tiếp thu, nhận thức của người học
viên để có thể đưa ra được những giải pháp, phương pháp mới cho những
chương trình đào tạo NNL tiếp theo.
Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và giảng viên đáp ứng yêu cầu của
chương trình:
Hàng năm cần thực hiện đào tạo lại đối với đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ
giảng dạy, bổ sung kiến thức mới, hiện đại và nâng cao trình độ về chuyên môn,
nghiệp vụ, phục vụ cho yêu cầu cải tiến phương pháp giảng dạy và nâng cao
chất lượng đào tạo.60
Tuyển chọn bổ sung vào đào tạo giảng viên, phần lớn sẽ là sinh viên mới
tốt nghiệp ĐH, trẻ, khoẻ, kiến thức hiện đại, có triển vọng phát triển tốt, tạo điều
kiện thâm nhập thực tế thời gian từ 2 đến 4 năm có thể trở thành giảng viên có
trình độ tốt, vững vàng trên bục giảng.
Tăng cường đội ngũ giảng viên là người dân tộc thiểu số tham gia giảng
dạy ở các cơ sở đào tạo, bởi vì cán bô, giảng viên là người dân tộc thiểu số họ sẽ
có cùng ngôn ngữ, có sự am hiểu phong tục tập quán nên điều đó sẽ rất thuận lợi
trong quá trình quản lý, giảng dạy và kết quả đạt được sẽ cao hơn.
Đổi mới phương thức đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, cần rèn
luyện tính tư duy chủ động học hỏi và sáng tạo cho các học viên. Trong nội
dung giáo trình giảng dạy, giảng viên nên cắt giảm phần lý thuyết đưa tình
huống thực hành vào hơn để học viên giải quyết như vậy học viên sẽ hiểu bài
hơn.
3.4.3. Hoàn thiện bộ máy chuyên trách công tác QTNL ở phòng Nội vụ
Do khối lượng công việc lớn cùng với số lượng CBCC xã, thị trấn lớn. Vì
thế, số lượng CBCC của phòng Nội vụ là chưa đủ để đảm nhiệm hết mọi công
việc, cùng với đó là sự phân công công việc kiêm nhiệm nhiều, cùng với tính
chất công việc hay phải đi công tác nên việc bổ sung thêm nhân lực là điều cần
thiết. Giải pháp để hoàn thiện bộ máy chuyên trách:
Trước nhất, cần tuyển chọn thêm cán bộ thực hiện công tác có đầy đủ năng
lực và kỹ năng thực hiện công tác đào tạo, được đào tạo đúng chuyên môn,
chuyên ngành và có kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
Thứ hai, tổ chức cho cán bộ đào tạo tham gia các khóa học định kỳ để hỏi
thêm kiến thức, thông tin về đào tạo như: sử dụng công nghệ thông tin vào công
tác đào tạo; tiêu chuẩn hóa mới về đào tạo; phương pháp đào tạo mới…
Thứ ba, cử các cán bộ đi học về chuyên môn tại các trường chuyên nghiệp,
các lớp nâng cao chuyên môn tại các trung tâm uy tín.
Thứ tư, UBND huyện có thể tổ chức các buổi họp trao đổi thông tin giữa
các cán bộ đào tạo, các trưởng đơn vị, phòng ban, lãnh đạo cấp cao hoặc chuyên
gia về thực hiện công tác đào tạo.61
Thứ năm, tổ chức định kỳ việc kiểm tra kiến thức về QTNL, Luật lao động…
Bằng thi viết hoặc vấn đáp, nhằm kịp thời bổ sung những kiến thức, kỹ năng trống
cho họ, giúp họ có thể đảm nhận được tốt nhất vị trí công việc được giao.
Nhận xét:
Quá trình đào tạo, bồi dưỡng CBCC chính quyền cấp xã người DTTS phải
dựa trên những mục tiêu, quan điểm của Đảng và phải xuất phát từ thực tiễn để
xây dựng mục tiêu và quan điểm mới phù hợp với điều kiện của địa phương. Từ
mục tiêu và những quan điểm, từ thực tiễn của đội ngũ CBCC chính quyền cấp
xã người DTTS ở huyện Vị Xuyên và yêu cầu của công tác cán bộ trong sự
nghiệp đổi mới đòi hỏi phải có hệ thống các giải pháp mang tính khả thi nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo. Các giải pháp này có mối liên hệ mật thiết với
nhau, không tách rời nhau. Do đó, trong quá trình thực hiện phải tiến hành đồng
bộ và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành tạo nên sự nhất quán.
62
C. PHẦN KẾT LUẬN
63
Sau gần 02 tháng tiến hành khảo sát, thực tập tại phòng Nội vụ huyện Vị
Xuyên, có thể khẳng định rằng tôi đã học hỏi được nhiều điều bổ ích và thực sự đã
thấy mình trưởng thành hơn rất nhiều. Bài báo cáo này được viết trên cơ sở nhận
thức của bảm thân tôi về công tác đào tạo và bồi dường nguồn nhân lực, từ cơ sở lý
luận chung đến bài học về thực tiễn. Từ đó có thể nhận thấy rằng nâng cao chất
lượng đào taoh và bồi dưỡng nguồn nhân lực là một trong những nhiệm vụ tất yếu
trong công cuộc cải cách hành chính nhà nước, giúp người lao động hành chính
nâng cao trình độ, trí thức và hoàn thành công việc của mình sau đào tạo.
Nhìn lại quá trình quá trình thực tập cũng như hoàn thành báo cáo, bản
thân tôi đã cố gắng rất nhiều, tuy nhiên với kinh nghiệm chưa được chuyên sâu,
thời gian tìm hiểu thực tế chưa nhiều nên bài báo cáo này không tránh khỏi
những vấn đề vướng mắc, thiếu sót, tôi rất mong nhận được những đóng góp của
các thầy cô giáo và các bạn để bài báo cáo của tôi được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của
các thầy cô giáo trong Khoa Tổ chức và Quản lý nhân lực, trường Đại Học Nội
vụ Hà Nội; Lãnh đạo phòng Nội vụ, đặc biệt là các anh chị, cô chú trong phòng
Nội vụ huyện Vị Xuyên đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành tố đợt thực
tập tốt nghiệp này.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 19 tháng 05 năm 2013
SINH VIÊN
Nguyễn Thị Liền
64
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Trần Thị Kim Dung, (2009) “Giáo trình quản trị nhân lực”,
Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
2. Ths. Nguyễn Văn Điềm – PGS.TS Nguyễn Ngọc Quân (Đồng chủ
biên), (2010), “Giáo trình quản trị nhân lực”, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc
dân, Hà Nội.
3. Nghị định 06/2010/NĐ-CP ngày 25 tháng 10 năm 2008 của Chính phủ
quy định những người là công chức
4. TS. Nguyễn Hữu Thân, “Quản trị nhân sự”, Nhà xuất bản Thống kê,
Hà Nội.
5. Quốc Hội khóa XII, (2011), “Luật viên chức, luật CBCC”, Nhà xuất
bản Lao Động – Xã Hội.
65
PHỤ LỤC