vai trÒ cỦa quan hỆ sẢn xuẤt trong nỀn kinh …cdtm.edu.vn/portals/0/khdn/bantinkh/ban...

56
MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ TỔ CHỨC ĐÀO TẠO NGẮN HẠN THEO ĐỊA CHỈ TẠI CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO Th.s Nguyễn Tiền Tiến Đào tạo theo địa chỉ là định hướng mới và đang trở thành một phương thức hoạt động thường xuyên của giáo dục nghề nghiệp, thể hiện rõ nét nhất của quan điểm đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội. Định hướng đào tạo theo địa chỉ được thể hiện rõ nét trong Chỉ thị số 56/2008 ngày 03/10/2008 về Nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục đại học năm học 2008 – 2009, trong đó nhiệm vụ này được triển khai ở tầm vĩ mô cũng như đối với từng cơ sở đào tạo. Chỉ thị ghi rõ nhiệm vụ đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp: “Khuyến khích các trường ký kết các văn bản thoả thuận hợp tác trực tiếp với các doanh nghiệp để đặt hàng hỗ trợ đào tạo, nghiên cứu khoa học, tạo cơ sở thực tập cho sinh viên, tiếp nhận sinh viên khi ra trường”. Đào tạo theo địa chỉ bao gồm đào tạo dài hạn và đào tạo ngắn hạn. Đào tạo dài hạn là hình thức đào tạo theo hợp đồng giữa địa phương và nhà trường, có sự chấp thuận từ phía Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đào tạo ngắn hạn là hình thức đào tạo theo hợp đồng giữa nhà trường với địa phương hoặc các tổ chức sử dụng lao động để bồi dưỡng nghề nghiệp và cấp chứng chỉ đào tạo. Bài viết này chỉ trình bày một số ý kiến về tổ chức đào tạo ngắn hạn theo địa chỉ tại các cơ sở đào tạo. Kết quả của đào tạo theo địa chỉ sẽ đáp ứng được nhu cầu của các tổ chức sử dụng lao động cả về số lượng và chất lượng lao động; cung - cầu lao động phù hợp, tiết kiệm được thời gian, công sức và tiền bạc cho xã hội; hạn chế được lãng phí lao động do phải tìm kiếm, chờ đợi việc làm của những người sau khi tốt nghiệp ra trường; các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chủ động hơn trong việc tạo nguồn đào tạo. Tuy nhiên, đào tạo theo địa chỉ gặp hiện nay tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp gặp một số khó khăn nhất định. Trước hết, đây là hoạt động mới mẻ của những cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Thông thường thì các tổ chức có nhu cầu tuyển dụng lao động sẽ tìm đến cơ sở giáo dục nghề nghiệp đặt hàng. Cơ sở giáo dục nghề nghiệp đón nhận nhu cầu một cách thụ động và vì thế các đơn đặt hàng theo kiểu này không nhiều. Do không chủ động nên cơ sở giáo dục nghề nghiệp sẽ khó khăn trong việc xây dựng chương trình, chuẩn bị nguồn lực để đào tạo. Thời gian thực hiện các đơn đặt hàng vì thế bị kéo dài.

Upload: doanquynh

Post on 27-Mar-2018

213 views

Category:

Documents


1 download

TRANSCRIPT

Page 1: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ TỔ CHỨC ĐÀO TẠO NGẮN HẠN THEO ĐỊA CHỈ TẠI CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO

Th.s Nguyễn Tiền Tiến

Đào tạo theo địa chỉ là định hướng mới và đang trở thành một phương thức hoạt động thường xuyên của giáo dục nghề nghiệp, thể hiện rõ nét nhất của quan điểm đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội. Định hướng đào tạo theo địa chỉ được thể hiện rõ nét trong Chỉ thị số 56/2008 ngày 03/10/2008 về Nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục đại học năm học 2008 – 2009, trong đó nhiệm vụ này được triển khai ở tầm vĩ mô cũng như đối với từng cơ sở đào tạo. Chỉ thị ghi rõ nhiệm vụ đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp: “Khuyến khích các trường ký kết các văn bản thoả thuận hợp tác trực tiếp với các doanh nghiệp để đặt hàng hỗ trợ đào tạo, nghiên cứu khoa học, tạo cơ sở thực tập cho sinh viên, tiếp nhận sinh viên khi ra trường”.

Đào tạo theo địa chỉ bao gồm đào tạo dài hạn và đào tạo ngắn hạn. Đào tạo dài hạn là hình thức đào tạo theo hợp đồng giữa địa phương và nhà trường, có sự chấp thuận từ phía Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đào tạo ngắn hạn là hình thức đào tạo theo hợp đồng giữa nhà trường với địa phương hoặc các tổ chức sử dụng lao động để bồi dưỡng nghề nghiệp và cấp chứng chỉ đào tạo. Bài viết này chỉ trình bày một số ý kiến về tổ chức đào tạo ngắn hạn theo địa chỉ tại các cơ sở đào tạo.

Kết quả của đào tạo theo địa chỉ sẽ đáp ứng được nhu cầu của các tổ chức sử dụng lao động cả về số lượng và chất lượng lao động; cung - cầu lao động phù hợp, tiết kiệm được thời gian, công sức và tiền bạc cho xã hội; hạn chế được lãng phí lao động do phải tìm kiếm, chờ đợi việc làm của những người sau khi tốt nghiệp ra trường; các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chủ động hơn trong việc tạo nguồn đào tạo.

Tuy nhiên, đào tạo theo địa chỉ gặp hiện nay tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp gặp một số khó khăn nhất định. Trước hết, đây là hoạt động mới mẻ của những cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Thông thường thì các tổ chức có nhu cầu tuyển dụng lao động sẽ tìm đến cơ sở giáo dục nghề nghiệp đặt hàng. Cơ sở giáo dục nghề nghiệp đón nhận nhu cầu một cách thụ động và vì thế các đơn đặt hàng theo kiểu này không nhiều. Do không chủ động nên cơ sở giáo dục nghề nghiệp sẽ khó khăn trong việc xây dựng chương trình, chuẩn bị nguồn lực để đào tạo. Thời gian thực hiện các đơn đặt hàng vì thế bị kéo dài.

Để thực hiện được nhiệm vụ của Ngành và phát huy được hiệu quả của đào tạo theo địa chỉ, đòi hỏi các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải đổi mới phương thức hoạt động tìm kiếm nguồn đào tạo.

- Trước hết, đào tạo theo địa chỉ phải trở thành hoạt động thường xuyên trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, phải có định hướng rõ ràng từ ban lãnh đạo trường và được xây dựng cụ thể thành chỉ tiêu kế hoạch hàng năm. Sau đó, phải giao nhiệm vụ rõ ràng cho bộ phận tạo nguồn đào tạo.

- Tiếp theo, là phải thay đổi trong hoạt động tìm kiếm nguồn đào tạo. Một mặt, phải chủ động xây dựng các chương trình giáo dục, bồi dưỡng mà cơ sở giáo dục nghề nghiệp có khả năng; chủ động chuẩn bị sẵn sàng các nguồn lực để đào tạo; chào hàng các chương trình giáo dục, bồi dưỡng đến các tổ chức sử dụng lao động.

- Mặt khác, quan trọng hơn là phải xây dựng được mối quan hệ gắn bó với các tổ chức sử dụng lao động. Trải qua một thời gian đào tạo, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đều đã có mối quan hệ nhất định với các tổ chức sử dụng lao động. Tuy nhiên, phải thường xuyên củng cố để mối quan hệ đó trở nên gắn bó mật thiết, quan hệ giữa tổ chức sử dụng lao động và cơ sở giáo dục nghề nghiệp thực sự trở thành quan hệ hợp tác, cùng có lợi trong quá trình phát triển. Đồng thời, phải tiếp cận và hình thành mối quan hệ với các tổ chức mới thành lập, một xu thế biến đổi tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Từ mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với tổ chức sử dụng lao động, cơ sở giáo dục nghề nghiệp sẽ cùng tổ chức sử dụng lao động phát hiện ra nhu cầu đào tạo cần thiết cho mỗi tổ chức.

Page 2: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

- Sau khi thống nhất được nhu cầu cần đào tạo với tổ chức sử dụng lao động, bộ phận tạo nguồn đào tạo sẽ chủ động trao đổi, đặt hàng với các Khoa/ Bộ môn xây dựng chương trình, lựa chọn nội dung đào tạo. Để chương trình, nội dung có tính thực tiễn cao, đào tạo được những kiến thức, tay nghề cần thiết cho người lao động thì trong quá trình xây dựng, bộ phận tạo nguồn đào tạo phải thường xuyên trao đổi với tổ chức sử dụng lao động.

- Để tổ chức đào tạo có chất lượng và phù hợp với điều kiện vừa làm vừa học của người lao động thì phải bố trí lịch giảng dạy thật sự hợp lý, có tính linh hoạt, đồng thời phải biết tận dụng tối đa điều kiện máy móc thiết bị hiện có của tổ chức sử dụng lao động để người học thực hành, thí nghiệm, giải quyết được khó khăn hiện nay của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp là thiếu máy móc thiết bị thực hành.

- Kết thúc mỗi khoá đào tạo, cơ sở giáo dục nghề nghiệp và tổ chức sử dụng lao động phải từng bước kiểm tra, đánh giá. Đánh giá đúng kết quả đào tạo sẽ tạo niềm tin cho tổ chức sử dụng lao động mở rộng hình thức này đồng thời giúp cho cơ sở giáo dục nghề nghiệp điều chỉnh, cải tiến nội dung, hình thức đào ngày càng hoàn thiện hơn. Muốn thiết lập được mối quan hệ gắn bó mật thiết với tổ chức sử dụng lao động, bộ phận tạo nguồn đào tạo theo hình thức này phải bố trí đủ số lượng, có khả năng trao đổi với tổ chức sử dụng lao động về nhu cầu đào tạo; phải xây dựng kế hoạch tạo nguồn đào tạo cụ thể với các điều kiện đảm bảo, trong đó quan trọng nhất là đảm bảo về kinh phí, được nhà trường đồng ý, phê duyệt để thực hiện.

Là một việc làm mới mẻ và khó khăn nhưng nếu tổ chức tốt hoạt động đào tạo theo địa chỉ sẽ là một trong những cơ sở tin cậy để một cơ sở giáo dục nghề nghiệp phát triển vững chắc, đáp ứng nhu cầu xã hội, thực hiện phương châm học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với xã hội.

TRIỂN VỌNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG EU Trương Thị Thanh Thuỷ

EU hiện là một thị trường rộng lớn và đâỳ tiềm năng đối với các nước Châu Á, trong đó có Việt Nam. Đây cũng là thị trường chính của thuỷ sản Việt Nam hàng chục năm qua và có nhiều triển vọng cho việc đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong thời gian tới. Điều này được minh chứng qua các nhân tố sau:

Thứ nhất : Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Cộng đồng Châu Âu từ năm 1990. Hiệp định hợp tác với EU ngày 17 – 7 19995, tạo cơ hội thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ mối qua hệ hợp tác với các quốc gia thành viên và cả cộng đồng trên mọi lĩnh vực hỗ trợ phát triển khoa học kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực, văn hoá xã họi, đầu tư kinh tế thương mại và đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương mại thế giới WTO.

Thứ hai : Việc ngành thuỷ sản Việt Nam đáp ứng yêu cầu cao của EU về vệ sinh an toàn thực phẩm đã giúp sản phẩm thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang EU không những ngày càng tăng mà còn có chỗ đứng vững chắc ở các thị trường đòi hỏi khắt khe khác như Mỹ, Nhật Bản và Canađa.

Thứ ba : Do sản lượng thuỷ sản khai thác tự nhiên ngày càng giảm vì những quy định liên quan đến bảo vệ nguồn lợi và môi trường, nên EU ngày càng phụ thuộc vào thuỷ sản nhập khẩu. Chính vì vậy, thương mại cũng sẽ được ưu tiên trong chinha sách hỗ trợ của EU, giúp các nước phát triển hiểu rõ hơn về WTO, các hàng rào kỹ thuật trong thương mại hoặc kiểm dịch động vật. Ngành thuỷ sản Việt Nam có thể được lợi rất lớn do EU ưu tiên hổ trợ trong lĩnh vực kiểm dịch động vật. Ngoài ra EU còn dành quỹ hổ trợ thông qua quỹ tín thác Châu Á, Quỹ đầu tư Châu Á. Việt Nam là một trong 178 nước dược hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập( GSP) với mức thuế thấp hơn 3,5% so với mức thúe thông thường. Được hưởng GSP, thuế xuất khẩu thuỷ sản sang EU không những sẽ giảm, mà việc xem xét mức thuế sẽ được thực hiện sau 3- 5 năm chứ không phải hàng năm như trước đây với số lượng mặt hàng nhiều hơn. Hiện nay, tỷ lệ mặt hàng thuỷ sản được hưởng GSP lên tới 80%. Bên cạnh đó, người tiêu dùng EU ngày càng tiêu dùng nhiều thuỷ sản hơn, vì họ cho rằng thuỷ sản là loại thực phẩm sạch

Page 3: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

và bổ dưỡng. Đây là tín hiệu tốt cho xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào EU, hằng năm Việt Nam xuất khẩu hàng trăm nghìn tấn hàng thuỷ sản gồm tôm, cá ngừ, nhuyễn thể hai mảnh vỏ và nhiều mặt hàng cá đông lạnh các loại.

Thứ tư : Nếu trước đây rất khó thực thi các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm vì giữa các nước khác nhau có những quy định khác nhau, thì bây giờ EU chỉ có một cơ quan quản lý duy nhất là cục quản lý ATTPEU, một khuôn khổ luật pháp duy nhất và một cơ chế duy nhất là luật chung về thực phẩm để có thể đảm bảo nếu xảy ra rủi ro liên quan đến an toàn thực phẩm thì chỉ trong vòng 1 giờ đã được đệ trình lên cục quản lý an toàn thực phẩm EU. Nếu biện pháp đề xuất được đa số thành viên cục quản lý an toàn thực phẩm EU ủng hộ, thì sản phẩm có mới nguy cơ đó sẽ bị triệu hồi khỏi các kênh phân phối trên thị trường. Với những quy định mới này là hoàn toàn có lợi, thứ nhất nó dễ áp dụng, không phải nghiên cứu quá nhiều văn bản; thứ hai là mọi vấn đề rõ ràng hơn, các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm đã được hệ thống hoá và đảm bảo tính logic; thứ ba là không một nước thành viên nào được quyền đặt ra thêm quy định riêng đối với hàng nhập khẩu.

Như vậy với các nhân tố nêu trên cùng với nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản có xu hướng tăng mạnh ở các nước châu Âu, hàng trăm doanh nghiệp Việt Nam đã đáp ứng yêu cầu và được phép xuất khẩu vào thị trường EU sẽ tạo mọi nhiều cơ hội hơn để tăng cường xuất khẩu sang khối thị trường này. Hiện EU là thị trường có mức tăng trưởng mạnh của thuỷ sản Việt Nam. Trong tương lai, mức tăng trưởng này có khả năng tiếp tục tăng mạnh. Sự cạnh tranh với mức giá rẻ của các mặt hàng đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh thực phảm là yếu tố qyết định giữ vững thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường EU. Có thể khẳng định triển vọng xuất khẩu thuỷ sản của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường này là rất tốt và ổn định trong các năm tới.

Tài liệu tham khảo: - Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường EU năm 2007- 2008 - Xu hướng tiêu thụ thuỷ sản của EU năm 2008- 2009

THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ DU LỊCH VÀ VIỆC SỬ DỤNG LAO ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP DU LỊCH TRÊN ĐỊA

BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Phạm Tường Hưng Tổ Bộ Môn Du Lịch - Khoa QTKD

Đà Nẵng là thành phố có bờ biển dài và đẹp, được mệnh danh là một trong những nơi có bãi biển đẹp nhất hành tinh. Trong những năm qua, chính quyền thành phố ra sức xây dựng Đà Nẵng trở thành thành phố du lịch và là điểm đến khá lý tưởng cho du khách trong và ngoài nước. Với lợi thế về điều kiện địa lý, tiềm năng về tài nguyên du lịch nên trong thời gian qua chính phủ và địa phương đã quyết tâm nâng cấp, xây dựng mới cơ sở hạ tầng, quy hoạch nhiều tuyến điểm du lịch, tạo tiền đề thu hút nhiều nhà đầu tư du lịch trong và ngoài nước. Chính vì thế, hệ thống khách sạn nhà hàng, các điểm tham quan, khu nghỉ mát lại mọc lên sang sát bên nhau. Những doanh nghiệp (DN) này đã và đang thu hút một lực lượng lao động (LĐ) có trình độ tay nghề khá đông, ước tính khoảng từ 5000 đến 7000 LĐ trong tương lai.

Trước nhu cầu của thị trường LĐ như thế, nhiều gia đình trong và ngoài thành phố mong muốn cho con em theo học “nghề du lịch” với kỳ vọng có được công ăn việc làm ổn định. Nắm bắt được tình hình trên, trong những năm qua, trên địa bàn thành phố đã mọc lên rất nhiều cơ sở đào tạo nghề du lịch kể cả công lập lẫn tư thục với các loại hình đào tạo rất đa dạng. Sự phát triển về số lượng cơ sở đào tạo

Page 4: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

như thế đã tạo ra một tín hiệu lạc quan cho người học trong việc lựa chọn trường lớp và nghiệp vụ chuyên môn phù hợp với nguyện vọng của mình, mặt khác làm sáng sủa bộ mặt của thành phố du lịch miền trung. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, không ít cơ sở dạy nghề vẫn còn một số tồn tại nhất định.

Thứ nhất, vì chúng ta không có bất kỳ tiêu chuẩn nào, do vậy việc đầu tư, quy hoạch của các cơ sở đào tạo nghề du lịch còn tùy tiện không dựa trên các tiêu chuẩn thông lệ quốc tế, không thể nói mức độ đầu tư hay phát triển ở các cơ sở là tốt hay xấu. Chính vì vậy, đã tạo kẽ hở cho nhiều người trục lợi. Không ít cơ sở đào tạo có quá nhiều cán bộ kinh tế và cán bộ trái ngành khác nghề nhưng lại thiếu cán bộ có kinh nghiệm đào tạo nghề du lịch, có kiến thức kỹ thuật. So với hai đầu đất nước thì đội ngũ giảng viên nghề du lịch ở thành phố Đà Nẵng vừa yếu lại vừa thiếu cả về trình độ chuyên môn nghiệp vụ lẫn kinh nghiệm thực tế trong công tác điều hành tổ chức phục vụ du lịch. Thêm vào đó, điều kiện và cơ hội học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, tiếp thu những kiến thức và kỹ năng hiện đại còn hạn chế do nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan. Một số cơ sở dạy nghề lại mời những nhân viên đang làm việc ở một số khách sạn đến giảng dạy cho học viên với hình thức truyền đạt kiến thức và kỹ năng theo kinh nghiệm thực tế tại đơn vị họ đang làm việc, chứ không dựa trên một chuẩn mực chung mang tính khoa học nào cả. Đây chính là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự bất cập và chênh lệch về trình độ nhận thức, kỹ năng nghiệp vụ của học viên ở các cơ sở dạy nghề. Bênh cạnh đó, rất nhiều giảng viên còn cứng nhắc và thiếu linh động trong phương pháp đào tạo, cụ thể là chỉ dừng lại ở việc “hướng dẫn học viên thực hành nghiệp vụ một cách máy móc”, chưa quan tâm đến việc “định hướng cho họ phương pháp học thực hành có hiệu quả”, từ đó không kích thích tính sáng tạo cho người học, hay nói cách khác người học luôn ở trạng thái “thầy đặt đâu, trò ngồi đấy”. Chính phương pháp đào tạo như thế nên dẫn đến hệ quả là nhiều học viên trở nên nhàm chán trong học tập, khi tiếp xúc với công việc thực tế lại bị bế tắc trong xử lý tình huống.

Thứ hai, theo quy định, học sinh có 70% thời gian thực hành nghề nghiệp, nhưng hiện nay những văn bản quan tâm đến nội dung các vấn đề về thực hành nghề nghiệp bao gồm: chương trình, giáo trình hướng dẫn thực hành, các tiêu chuẩn thiết bị, tiêu chuẩn tiêu chí nâng cao kỹ năng nghề, tiêu chuẩn về cơ sở vật chất, tiêu chuẩn về kỹ năng nghề…còn khá hạn chế. Do thiếu kiến thức kỹ thuật cho nên việc xây dựng chương trình đảm bảo liên thông không đạt hiệu quả mà chỉ có lý thuyết suông. Việc hiểu về liên thông không có căn cứ khoa học dẫn đến không thể xây dựng được chương trình liên thông ở các bậc cao hơn.

Thứ ba, việc đào tạo nghề du lịch chưa định hướng theo nhu cầu của thị trường, nên mức độ vận dụng kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp mà học viên được học ở nhà trường vào công việc thực tế còn ít, trái lại những kiến thức và kỹ năng “sơ đẳng “ mà thị trường cần vừa thiếu lại vừa yếu.

Thứ tư, việc đào tạo kỹ năng sống ít được các cơ sở dạy nghề quan tâm và chú trọng, tuy nó không liên quan trực tiếp đến thao tác chuyên môn nghiệp vụ, nhưng nó góp phần chuẩn hoá nhân cách, giúp học viên có thái độ đúng đắn với công việc mình đang làm, là cơ sở hình thành đạo đức nghề nghiệp và tác phong trong công việc. Đây chính là yếu tố tạo ra giá trị tăng thêm trong phục vụ cho khách hàng.

Thứ năm, điều kiện giảng dạy và thực hành của giảng viên và học viên còn bất cập xuất phát từ nhiều lý do: Hạn chế về năng lực đầu tư; thiếu biện pháp và thiếu hiểu biết về kỹ thuật nên các thiết bị được đầu tư chủ yếu là mua sắm theo ý đồ từng đơn vị nên chất lượng kém, thiếu sự đồng bộ về số lượng và chủng loại từ đó dẫn đến thiếu tính thực tế. Yêú tố này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo tay nghề cho học viên.

Đó là thực trạng về đào tạo của các cơ sở dạy nghề du lịch, còn thực trạng về việc sử dụng LĐ của các DN du lịch thì sao? Qua quá trình tiếp xúc trực tiếp với các DN, chúng tôi nhận thấy rằng nhiều DN du lịch trên địa bàn thành phố muốn tuyển dụng nhân viên đã qua đào tạo nghiệp vụ, song phần lớn họ đều cho rằng đa số trình độ tay nghề của ngưòi LĐ chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế của công việc tại đơn vị, do vậy

Page 5: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

muốn sử dụng được thì phải đào tạo lại. Ngoài ra, trình độ ngoại ngữ của họ vẫn còn yếu, kỹ năng giao tiếp còn hạn chế. Thực trạng này dưới một giác độ nào đó phản ánh được hệ quả của phương pháp đào tạo ở các cơ sở dạy nghề hiện nay. Tuy nhiên, những tồn tại trên các nhà tuyển dụng cũng phải gánh một phần trách nhiệm của mình.

Chủ trương xã hội hoá kinh doanh du lịch là một việc làm rất đúng của nhà nước ta trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Tuy nhiên, để chính sách xã hội hoá kinh doanh du lịch gắn liền với mục tiêu phát triển bền vững của ngành du lịch địa phương nói riêng và kinh tế của thành phố nói chung, đòi hỏi chính quyền địa phương, các cơ quan hữu quan cần thắc chặt hơn nữa khâu kiểm tra, đánh giá, thẩm định và cấp phép kinh doanh cho các DN du lịch trên địa bàn thành phố. Có như vậy mới loại bỏ dần những đơn vị kinh doanh cơ hội, manh mún, nhỏ lẻ. Vì đây chính là những yếu tố gây xáo trộn rất lớn về thị trường LĐ trong ngành du lịch cả về số lượng lẫn trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Một thực tế mà chúng ta thấy là do quy mô kinh doanh của một số DN còn hạn chế, nên khả năng chịu sự tác động bởi tính thời vụ và sự cạnh tranh không ngang sức giữa các DN lớn nhỏ khác nhau là vấn đề không thể tránh khỏi, từ đó ảnh hưởng ít nhiều đến tính bền vững của DN. Với tình thế trên một số DN nhỏ lẻ không có nhu cầu sử dụng LĐ lâu dài, thậm chí họ ‘không cần tuyển dụng LĐ được đào tạo qua trường lớp” mà chỉ tuyển dụng những LĐ phổ thông có ngoại hình dễ nhìn và sẵn sàng chấp nhận được trả một mức lương thấp. Chính làn sóng LĐ phổ thông này đã làm mất đi không ít cơ hội làm việc của những LĐ lành nghề, làm cho mặt bằng thu nhập của nhân viên phục vụ du lịch tại Đà Nẵng trở nên thấp xuống. Thực trạng trên một mặt ảnh hưởng đến tinh thần và thái độ cống hiến của nhân viên đối với doanh nghiệp, mặt khác làm nhiều học viên đang theo học ở các cơ sở đào tạo nghề du lịch trở nên hoang mang, lo lắng, mất niềm tin về tương lai của nghề mà mình đang theo đuổi.

Vậy để phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn LĐ trong lĩnh vực du lịch, có khả năng đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, theo chúng tôi các cơ sở dạy nghề, các DN du lịch và cơ quan hữu quan của thành phố Đà Nẵng cần phải quan tâm đến những việc sau:

Một là, phát triển hệ thống đào tạo nghề du lịch có khả năng cung cấp cho xã hội một đội ngũ LĐ đông đảo, có trình độ cần thiết theo một cơ cấu thích hợp, có khả năng thích ứng nhanh với mọi biến đổi của môi trường có trình độ toàn cầu hóa ngày càng cao, đồng thời phải thường xuyên cập nhật các kiến thức và kỹ năng cần thiết cho đội ngũ LĐ trong du lịch của thành phố. Ngoài việc nâng cao tính năng động, chủ động của các cơ sở dạy nghề du lịch, các hoạt động đào tạo gắn liền với địa chỉ sử dụng, gắn với nhu cầu thực tiễn, nghĩa là phải chuyển từ "có gì dạy nấy" sang dạy nghề phải gắn với nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội, đồng thời vừa tạo điều kiện, vừa tạo sức ép đối với đội ngũ cán bộ giảng dạy phải tự nâng cao trình độ lý thuyết và tay nghề, buộc các cơ sở đào tạo cũng như các giáo viên trực tiếp tham gia đào tạo, bồi dưỡng phải tính toán hiệu quả của công tác đào tạo; thực hiện những hình thức khuyến khích vật chất đối với giáo viên có trình độ cao.

Hai là, phải có chế tài đối với các nhà tuyển dụng, bằng cách nào đó để các DN cần tuyển dụng LĐ phải đặt yêu cầu trước với các cơ sở đào tạo nghề và phải có đóng góp với nơi đào tạo LĐ cho mình, chỉ có thế các DN mới trở thành người "cấy trồng", "thâm canh" chứ không phải là người "hái lượm" như không ít DN hiện tại. Mặt khác, DN cần quan tâm đến đời sống của người LĐ, trả lương hợp lý theo vị trí công việc họ đảm nhiệm, xây dựng văn hoá DN. Vấn đề tạo môi trường làm việc thân thiện giữa cấp trên và cấp dưới cũng là điều rất quan trọng. Và chỉ có như vậy thì dòng chảy LĐ trong nghề du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng mới ổn định, xã hội mới phát triển hài hoà.

Page 6: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA

Phạm Thị HoaBộ môn Lý luận chính trị

Đối với chủ nghĩa duy vật lịch sử, thì “quan hệ sản xuất” là một trong những khái niệm cơ bản, góp phần phản ánh cấu trúc và logic vận động của các hình thái kinh tế - xã hội. Lênin cho rằng: “Chỉ có đem những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất (QHSX) và đem những QHSX vào trình độ của những lực lượng sản xuất (LLSX) thì ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”. [1.163].

QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất). Trong quá trình sản xuất nảy sinh nhiều mối quan hệ, nhưng ở đây ta chỉ xét ba mối quan hệ cơ bản mà C.Mác coi đó là ba mặt của QHSX. QHSX gồm ba mặt cơ bản sau đây:

- Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất: Nói lên rằng trong quá trình sản xuất, người lao động đang sử dụng những TLSX đó của ai, và ai là người có quyền định đoạt TLSX đó. Trong QHSX, quan hệ sở hữu đối với TLSX đóng vai trò quyết định vì nó quyết định bản chất của QHSX.

- Quan hệ trong tổ chức quản lý và phân công lao động: Nói lên địa vị và vai trò của các tập đoàn khác nhau, nói lên sự trao đổi giữa các tập đoàn xã hội với nhau. Tuy phụ thuộc vào quan hệ sở hữu đối với TLSX, nhưng trong thực tế quan hệ trong tổ chức, quản lý và phân công lao động cũng có vai trò rất quan trọng. Ngay cả khi chế độ sở hữu chưa có gì thay đổi, nhưng nếu có một phương thức quản lý hợp lý thì sản xuất vẫn có bước phát triển.

- Quan hệ phân phối sản phẩm lao động: Là cách thức phân phối kết quả sản xuất cho những quan hệ với quá trình đó, điều đó phụ thuộc vào quan hệ của họ đối với TLSX, nhưng nếu phân phối công bằng sẽ thúc đấy quá trình sản xuất phát triển.

Ba mặt nói trên quan hệ hữu cơ với nhau, không tách rời nhau. Trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với những quan hệ khác. Bản chất bất kỳ QHSX nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề TLSX chủ yếu trong xã hội giải quyết như thế nào.

QHSX có vai trò to lớn trong sự phát triển xã hội. Khi QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX tạo thành quy luật thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Cùng với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, QHSX phù hợp đã thúc đẩy xã hội loài người lần lượt phát triển qua năm hình thái kinh tế - xã hội: Công xã nguyên thủy (Cộng sản nguyên thủy), Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến, Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa.

Vậy QHSX có vai trò như thế nào trong sự phát triển nền kinh tế trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay?

Ở nước ta, nền kinh tế trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được Đảng ta xác định từ Đại hội VII: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa” và được tiếp tục khẳng định qua các Đại hội VIII, IX và X.

Do điểm xuất phát đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) của nước ta còn thấp cả về LLSX và QHSX, nên việc xây dựng từng bước QHSX mới để thúc đẩy sản xuất phát triển và xã hội phát triển là một yêu cầu tất yếu. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH tính đan xen tác động lẫn nhau trong QHSX thể hiện ở chỗ sự tồn tại của nhiều QHSX: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã phát huy tác dụng và đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển.

Page 7: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

Trong các thành phần kinh tế trên, Đảng ta đã xác định kinh tế nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước phải thực sự nắm giữ những ngành, những lĩnh vực kinh tế trọng yếu, mũi nhọn phải đi đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu qủa. Kinh tế nhà nước phải không ngừng tăng cường, cũng cố và phát triển làm chỗ dựa để nhà nước thực hiện có hiệu lực chức năng điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế theo định hướng XHCN. Cùng với kinh tế hợp tác (nòng cốt là hợp tác xã) dần dần trở thành nền tảng của nền kinh quốc dân và chế độ xã hội mới. Đối với kinh tế tập thể, đây là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tập thể về TLSX. Kinh tế tập thể phát huy được sức mạnh tập thể mà từng cá nhân không thể có được. Kinh tế tập thể sẽ không ngừng củng cố và phát triển, cùng với kinh tế nhà nước sẽ trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Phải đổi mới kinh tế tập thể làm cho nó trở nên đa dạng phong phú hơn, có như thế mới huy động vốn dưới nhiều hình thức và làm ăn có hiệu quả hơn.

Một đất nước vừa phát triển theo định hướng XHCN lại vừa thừa nhận sự tồn tại và phát triển của thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa. Điều đó không phải là nghịch lý, vấn đề đặt ra ở đây chúng ta sử dụng nó như thế nào để nhanh chóng phát triển LLSX mà vẫn xây dựng đất nước theo định hướng XHCN. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước được Đảng ta chủ trương áp dụng rộng rãi phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước để phát triển LLSX theo định hướng XHCN. Đối với các thành phần kinh tế khác, Đảng ta xác định cần có sự hướng dẫn, hướng kinh tế cá thể, tiểu chủ theo lợi ích thiết thân và nhu cầu phát triển, từng bước đi vào làm ăn hợp pháp một cách tự nguyện, hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp nhà nước hay hợp tác xã. Mặt khác, khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân đi vào con đường liên doanh với nhà nước, bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp, tạo mối quan hệ hợp tác cùng có lợi cho chủ và thợ. Để thực hiện công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước, chúng ta cần sử dụng kinh tế tư bản nhà nước như một công cụ hữu hiệu, bắt nhà tư bản phải cày trên “mảnh đất vô sản” biến thành phần kinh tế tư bản nhà nước thành “một trợ thủ đắc lực cho CNXH”. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế mới xuất hiện trong những năm gần đây ở nước ta, sự phát triển của thành phần kinh tế này cho phép chúng ta tranh thủ được khối lượng to lớn từ nước ngoài về vốn, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm tổ chức quản lý kinh tế, mở rộng thị trường nước ngoài, giải quyết việc làm, trong nước, góp phần khai thác và sử dụng hiệu quả hơn tiềm năng kinh tế ở nước ta.Vì thế, chủ chương của nhà nước là tạo điều kiện thuận lợi cho thành phần kinh tế này phát triển; hướng vào xuất khẩu.

Như vậy, chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần của Đảng ta thật sự khơi dậy tiềm năng của các thành phần kinh tế. Tính tích cực chủ động sáng tạo của của nhân dân được phát huy, sản xuất, kinh doanh phát triển và đã thật sự thúc đẩy LLSX phát triển, đời sống nhân ổn định và phát triển. Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ: “Nếu CNH, HĐH tạo nên LLSX cần thiết cho chế độ mới thì việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống QHSX phù hợp”.

Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và phát triển QHSX chúng ta cũng có những thiếu sót, đúng như Đại hội VIII của Đảng ta đã đánh giá: “Trong thời gian qua việc lãnh đạo QHSX, vừa có phần lúng túng, vừa có phần buông lỏng, chậm tháo gở các vướng mắc về cơ chế, chính sách, để tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò trong nền kinh tế quốc dân. Việc thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là chậm, chưa quan tâm tổng kết thực tiễn, chưa kịp thời chỉ ra phương hướng, biện pháp đổi mới kinh tế hợp tác xã để hợp tác xã ở nhiều nơi tan rã hoặc chỉ còn hình thức, cản trở sản xuất phát triển. Chưa giải quyết tốt một số chính sách để khuyến khích kinh tế tư nhân phát huy tiềm năng, đồng thời chưa quản lý tốt thành phần kinh tế này, quản lý liên doanh với nước ngoài còn nhiều sơ hở”. [4.65-66]. Vì thế, để phát triển QHSX khai thác tốt vai trò của QHSX đối với sự phát triển kinh tế ở nước ta, cần phải có những giải pháp thích hợp.

Những giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của QHSX trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta

Page 8: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

Thứ nhất, việc xây dựng QHSX ở nước ta phải xuất phát từ thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước, từ nhận thức tính quy luật từ nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn và những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.

Thứ hai, trong xây dựng hoàn thiện QHSX mới cần chú trọng cả ba mặt: Chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối:

- Về sở hữu, vẫn sẽ phát triển theo hướng còn tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân và thực hiện công bằng xã hội nên phải từng bước xác lập và phát triển chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu một cách vững chắc, tránh nóng vội xây dựng ồ ạt mà không tính đến hiệu quả như trước đây.

- Về quản lý, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của người lao động và toàn thể nhân dân.

- Về phân phối, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện đa dạng hoá các hình thức phân phối. "Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”. Cơ chế phân phối này vừa tạo động lực kích thích các chủ thể kinh tế nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời hạn chế những bất công trong xã hội. Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.

Thứ 3, phải duy trì tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta, tức là phải thực hiện tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.

Tóm lại: Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện trình độ tư duy, và vận dụng của Đảng ta về quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây cũng chính là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

-----------------------------------------1. V.I.Lênin- Toàn tập, tập 4. Nxb tiến bộ Mát- xcơ va, 1974. (tiếng việt)2. Phan thanh Phố- Xây dựng QHSX trong thời kỳ đẩy mạng CNH, HĐH. Tạp chí cộng sản, số 2, 1998.3. Trương Hữu Hoàn. Tìm hiểu tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về quy luật phù hợp của QHSX với LLSX. Tạp chí triết học, số 3, 1994.4. Đảng cộng sản Việt Nam- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 19915. Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI. VII. VIII, IX và X.6. Tạp chí triết học các số 2008.

SỬ DỤNG HÌNH TƯỢNG VĂN HỌC ĐỂ MINH HỌATRONG BÀI GIẢNG ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG

Page 9: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Trần Đình BìnhBộ môn Lý Luận Chính Trị

1. ĐẶT VẤN ĐỀ.       Trong giai đoạn hiện nay, việc dạy và học học phần Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng trong các trường cao đẳng, đại học, góp phần bồi dưỡng niềm tin, ý thức trách nhiệm của sinh viên với Đảng và dân tộc. Đồng thời, sinh viên sẽ vận dụng những hiểu biết của mình về những chủ trương của Đảng trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội vào hoạt động nghề nghiệp và cuộc sống.      Để nâng cao hiệu quả dạy và học đối với học phần Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đã có nhiều phương pháp, nhiều sáng kiến kinh nghiệm được áp dụng, trong đó việc sử dụng hình tượng văn học để minh họa trong bài giảng là một việc làm cần thiết. Văn kiện Đại hội lần thứ VI (12/1986) của Đảng đã khẳng định “không một hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được văn học và nghệ thuật trong việc tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người trong quá trình phát triển của cách mạng"( Trích Báo cáo Chính trị Đại hội VI).       Hình tượng văn học sở dĩ có sức thuyết phục cao là vì trong quá trình sáng tạo hình tượng, nhà văn nắm bắt được bản chất trong nhiều sự vật, hiện tượng đồng loại để rồi từ đó làm nổi bật những nét bản chất trong muôn vàn sự vật hiện tượng đồng loại, và rồi thể hiện những nét bản chất ấy qua một hình tượng cụ thể. Sự thể hiện quy luật đời sống qua cái đơn nhất làm cho hình tượng vừa có tính khái quát vừa có tính cụ thể. Mặt khác nhà văn bao giờ cũng tái hiện đời sống dưới ánh sáng lợi ích và lý tưởng của một giai cấp, của một thời đại nhất định. Khi xây dựng hình tượng họ biểu hiện trong đó một thái độ, một cảm xúc riêng, nghĩa là họ hiện thân vào hình tượng.  Các ngành khoa học khác phản ánh hiện thực khách quan bằng các khái niệm, phán đoán, những tiền đề định lý hoặc công thức. Qua hình tượng phản ánh của các tác phẩm văn học đó, người đọc hình dung được cuộc sống một cách cụ thể, cảm tính. Dưới ngòi bút của những nhà văn thực sự tài năng thì một nhân vật là một điển hình. Đối với độc giả, mỗi điển hình là một “người lạ quen biết”.

2. SỬ DỤNG MINH HỌA. Trong quá trình giảng dạy, bản thân đã sử dụng một vài hình tượng văn học tiêu biểu trong các

tác phẩm mà sinh viên đã được học ở chương trình phổ thông để minh họa. Sau đây là một vài ví dụ cụ thể.    Ví dụ 1: Khi nói về tình hình giai cấp và sự phân hoá giai cấp trong xã hội Việt Nam do sự tác động bởi chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (Chương I: Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng – Xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của thực dân Pháp). Để minh họa người nông dân Việt Nam, do tác động của chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân pháp và chính sách bóc lột của chính quyền tay sai, giảng viên có thể minh họa số phận những nhân vật: chị Dậu (Tác phẩm Tắt Đèn - Ngô Tất Tố); Chí Phèo (Tác phẩm Chí Phèo - Nam Cao)…những người nông dân Việt Nam bị bần cùng không những về cuộc sống vật chất mà cả tâm hồn. Chính sách bóc lột của thực dân Pháp và chính quyền tay sai đã làm cho gia đình chị Dậu rơi vào cảnh khốn cùng, phải bán cả con gái và ổ chó để lấy tiền nộp sưu cho chồng, còn Chí Phèo từ một anh thanh niên nông thôn biết tự trọng nhân cách đã trở thành kẻ chuyên “rạch mặt ăn vạ” lúc nào không hay.

Ví dụ 2: Một trong những khó khăn của cách mạng Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, đó là nạn đói, một bức tranh nông dân trong những năm bị cái đói hoành hành của một phần tư đất nước, cứ như rõ mồn một (Tác phẩm Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân). Nhân dân lao động bị đói, tiều tuỵ đáng thương cứ hiện lên trước mắt. “Cái đói đã tràn về” trẻ con vì đói “chúng ngồi ủ rũ không buồn nhúc nhích”. Một cọng rau cho đỡ đói cũng không, đâu tới hạt cơm hạt thóc... bởi thế những góc

Page 10: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

tường, phố chợ người đói nằm “la liệt như ngã rạ” càng kinh tởm và đớn đau khi có “cái mùi gây gây của xác người chết”. Nhân vật Tràng qua trang viết của nhà văn Kim Lân hiện lên với đầy đủ những gì chân thật nhất của người nông dân - người nông dân bị đói khát: “Chiếc áo vắt trên vai, dường như mỏi mệt, vật vã của buổi chiều đè nặng trên cái lưng to của hắn”.

Ví dụ 3: Nói về quan điểm sang tác, tư tưởng của tầng lớp trí thức trước và sau cách mạng tháng Tám, giảng viên có thể gợi lên cho sinh viên thấy diễn biến tâm lý của người nông dân: Chị Dậu, Chí Phèo, Tràng (Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân) cũng là diễn biến tâm lý của nhà văn, đại diện cho tầng lớp trí thức trước và sau cách mạng. Nếu như sự bế tắc trong tư tưởng của tầng lớp trí thức tiểu tư sản trước cách mạng về con đường giải phóng nỗi thống khổ cho chính mình, cho thân phận của người nông dân và dân tộc được thể hiện bằng hành động phản kháng của Chí Phèo đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình và tiền đồ của chị Dậu tối đen như mực. Ngược lại, dù trong những ngày đói khổ sau cách mạng tháng Tám, bà cụ Tứ (mẹ Tràng), Tràng và thị vợ mới “nhặt” được, sau những bữa ăn cháo cám, Tràng nhớ lại lá cờ đỏ và đoàn người đói đi phá kho thóc Nhật mà “hắn” mới gặp hôm nào. Với Tràng, hạnh phúc muộn màn đến bất ngờ, lòng anh chứa chan hy vọng về một sự đổi đời. Tâm trạng của các nhân vật này trong từng tác phẩm, đã nói lên sự thay đổi trong quan điểm sáng tác của của nhà văn trước những thay đổi hiện thực của cuộc sống.

Ví dụ 4: Minh hoạ về quan điểm của Đảng xây dựng nền “văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, “bản sắc dân tộc” bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống, bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm. Đó là lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết với cá nhân gia đình - làng xã - Tổ quốc…Tuy nhiên trong thời kỳ mở cửa hội nhập hiện nay, những giá trị đó đã dần mai một, thay vào là những thói ích kỷ, chạy theo đồng tiền, chức vị, phủ nhận những giá trị truyền thống. Tác phẩm “Mùa lá rụng trong vườn” của nhà văn Ma Văn Kháng (1982), là một trong những tác phẩm "tiền trạm" của đổi mới mà ở đó chứa đựng nhiều dự báo sáng suốt. Trong gia đình ông Bằng xuất hiện hai con người nổi loạn muốn hê tung tất cả, phủ định sạch trơn mọi chuẩn mực đạo đức truyền thống là Cừ và Lý. Họ chỉ biết chạy theo dục vọng cá nhân, chạy theo đồng tiền, thoát ly truyền thống, phá vỡ mọi chuẩn mực đạo đức xã hội… Chỉ khi đến được “miền đất hứa” thì Cừ mới tỉnh ngộ và  nhận ra rằng “Mỗi người chỉ có thể thuộc về một dân tộc nhất định”, “Phá vỡ đạo đức thì gặp ngay hung bạo. Khinh rẻ giá trị tinh thần thì đời sống trống rỗng, hoang tàn”… Như người đi vào đường hầm, càng vào sâu càng bế tắc, Cừ đã chọn cái chết nơi đất khách quê người để chuộc lỗi lầm của mình. Bản tính Lý là người thích quyền hành, thèm sai khiến người khác, tự coi mình là quan trọng, là hơn người. Sự “năng động, tháo vát” của chị bị lãnh đạo xí nghiệp lợi dụng triệt để. Lý nhầm  tưởng những hành động “đi cửa sau” của mình là thức thời, năng động phù hợp với xu thế thời đại. Chị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn hoá vừa thiếu một người tri kỷ, định hướng nâng đỡ về tinh thần, lại chịu tác động mạnh mẽ những mặt trái của kinh tế thị trường, khiến chị không cưỡng lại được sự cám dỗ vật chất, lối sống vị kỷ, thực dụng, bản năng.

3. Ý NGHĨA VÀ TÁC DỤNG- Trước hết cần phải khẳng định rằng việc sử dụng hình tượng văn học trong dạy học học phần

Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam góp phần khắc sâu sự kiện lịch sử và bản chất của sự kiện lịch sử;

- Cũng cố những nhận định, lý luận của Đảng về những vấn đề của cách mạng Việt Nam: về xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; Nghệ thuật vì nhân sinh…;

- Góp phần giáo dục tình cảm, niềm tin cho sinh viên. Sử dụng những hình tượng văn học để minh họa một kết luận trong bài giảng Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tác động tích cực đến tâm lý, tình cảm của người học, đây cũng là một biện pháp để góp phần giáo dục cho sinh viên. “Thiếu tình cảm của con người thì không bao giờ và cũng không thể có những tìm tòi của con người về chân lý” (Lênin);       - Kích thích làm tăng sự hứng thú để tạo điều kiện đạt hiệu quả cao trong dạy học học phần;       - Tiếp tục phát triển khả năng khả năng thưởng thức, cảm thụ nghệ thuât và văn hóa đọc cho sinh

viên.

Page 11: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

     4. MỘT SỐ YÊU CẦU CƠ BẢN. Việc sử dụng hình tượng văn học vào dạy và học học phần Đường lối cách mạng của Đảng

phải phù hợp với những yêu cầu sau:       - Rèn luyện kỹ năng có liên quan đến việc sử dụng các kiến thức đã học, ở đây là thưởng thức, cảm thụ văn học;      - Sự phù hợp với trình độ, yêu cầu, điều kiện của sinh viên. Những hình tượng văn học được vận dụng phải nằm trong khung chương trình văn học mà học sinh đã được học ở cấp II, cấp III;

- Phải bám sát những yêu cầu giáo dục và giáo dưỡng trong bài giảng Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với học sinh chứ không quá sa đà vào nghiên cứu tác phẩm văn học, không biến giờ dạy thành những buổi nói chuyện về văn học sử, làm loãng nội dung và nhiệm vụ của bài học;      - Hình tượng điển hình phải phản ánh, minh họa một kết luận, một vấn đề cơ bản (đoạn văn nào trong tác phẩm cần trích đọc, đoạn hội thoại nào của nhân vật cần trích dẫn), có sức hấp dẫn, thuyết phuc để có tác dụng giáo dục cao, gây hứng thú đối với sinh viên.      - Để việc sử dụng hình tượng văn học vào hoạt động dạy và học đạt được kết quả cao, cần phải có sự chuẩn bị có kế hoạch chu đáo, như lập bảng thống kê các tác phẩm văn học có hình tượng điển hình phù hợp với nội dung các bài giảng trong học phần.      Những yêu cầu trên, được đúc rút từ kinh nghiệm bản thân, chỉ là cơ sở ban đầu cho việc xây dựng, hình thành các biện pháp sư phạm sáng tạo và vận dụng phù hợp vào điều kiện dạy và học đối với học phần Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tài liệu đã tham khảo:1. UBKHXH&NV - Văn học - cuộc sống - nhà văn.HN.19782. Phương Lựu (chủ biên) - Lý luận văn học.HN.19973. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986)4. Bộ GDĐT - Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Việt Nam. HN.20085. Giáo khoa ngữ văn lớp 8, 9 và 12 - NXBGD.

PHÂN BIỆT THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI GIỮA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ TOÀ ÁN

Th.s Đặng Xuân Trường Trưởng Bộ môn Cơ bản

Theo hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.2 mục 1 Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP ngày 31/7/2003 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (TANDTC) hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại: "Khi được nguyên đơn cho biết bằng văn bản sẽ khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết hoặc khi được Toà án thông báo về việc nguyên đơn đã nộp đơn kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ tranh chấp mà trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của nguyên đơn hoặc thông báo của Toà án bị đơn không phản đối (được coi là các bên có thoả thuận mới lựa chọn Toà án giải quyết vụ tranh chấp thay cho thoả thuận trọng tài)..." thì mặc dù trước đó các bên đã có thoả thuận trọng tài, nhưng hiện tại vụ tranh chấp sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân.

Hiện nay, đang có 2 quan điểm hoàn toàn khác nhau đối với hướng dẫn trên đây của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao:

Page 12: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

- Quan điểm thứ nhất cho rằng, hướng dẫn trên đây của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao không phù hợp với quy định tại điều 5 Pháp lệnh trọng tài thương mại là "Trong trường hợp vụ tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu".

Quan điểm này cho rằng, nếu vụ tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài, mà thoả thuận đó không thuộc trường hợp bị vô hiệu, thì nếu một bên khởi kiện vụ án tại Toà án, còn bên kia không có ý kiến bằng văn bản (dù có nhận được hay không thông báo của nguyên đơn hoặc của Toà án về việc nguyên đơn đã nộp đơn kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ tranh chấp), Toà án sẽ vẫn không không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp này.

- Quan điểm thứ hai cho rằng, hướng dẫn trên đây của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân dân tối cao là phù hợp với thực tiễn, không trái pháp luật. Quan điểm này cho rằng, nếu vụ tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài, mà thoả thuận đó không thuộc trường hợp bị vô hiệu, nhưng sau đó nếu một bên khởi kiện vụ án tại Toà án; còn bên kia (khi nhận được thông báo của nguyên đơn hoặc của Toà án về việc nguyên đơn đã nộp đơn kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ tranh chấp) không phản đối (bằng văn bản) thì Toà án có quyền thụ lý vụ án để giải quyết. Nếu đương sự có ý kiến bằng văn bản không đồng ý với việc khởi kiện đó của nguyên đơn (không đồng ý để Toà án giải quyết vụ tranh chấp) thì Toà án phải thực hiện đúng quy định tại điều 5 Pháp lệnh Trọng tài thương mại và hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 mục 1 Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là "...khi có người khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại thì Toà án yêu cầu người khởi kiện cho biết trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thoả thuận trọng tài hay không. Đồng thời Toà án phải kiểm tra, xem xét các tài liệu gửi kèm theo đơn kiện để xác định vụ tranh chấp đó các bên có thoả thuận trọng tài hay không. Nếu có căn cứ cho thấy vụ tranh chấp đó các bên đã có thoả thuận trọng tài thì Toà án căn cứ vào quy định tương ứng của pháp luật tố tụng để trả lại đơn kiện cho người khởi kiện. Trong trường hợp sau khi thụ lý vụ án Toà án mới phát hiện được vụ tranh chấp đó các bên đã có thoả thuận trọng tài, thì Toà án căn cứ vào quy định tương ứng của pháp luật tố tụng ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, trả lại đơn kiện và các tài liệu gửi kèm theo đơn kiện cho đương sự"

Qua nghiên cứu, chúng tôi hoàn toàn nhất trí với quan điểm thứ nhất. Bởi lẽ, trên thực tế, các bên khi tham gia giao dịch thường lường trước khả năng có thể có tranh chấp phát sinh và cùng nhau thỏa thuận một điều khoản về trọng tài hoặc đưa điều khoản mẫu về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài của một tổ chức trọng tài nào đó vào hợp đồng (ví dụ: Mọi tranh chấp phát sinh giữa hai bên trước hết được giải quyết thông qua việc thương lượng, hoà giải. Nếu thương lượng, hoà giải không thành sẽ đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Thái Bình Dương (PIAC) và tuân theo quy tắc tố tụng trọng tài của PIAC). Do đó, thỏa thuận trọng tài chính là cơ sở pháp lý ràng buộc các bên về việc các bên đã thống nhất lựa chọn trọng tài là cơ quan giải quyết tranh chấp. Như vậy, chỉ khi nào cả hai bên có một thỏa thuận lại về việc lựa chọn Tòa án thì Tòa án mới có thẩm quyền đứng ra giải quyết vụ tranh chấp. Còn nếu một bên tự đứng ra khởi kiện yêu cầu tòa giải quyết (bên khởi kiện có thông báo về việc này cho phía bên kia hoặc Toà án có thông báo cho phía bên kia về việc nguyên đơn đã nộp đơn kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ tranh chấp ) thì mặc dù phía bên kia không trả lời thì Tòa án cũng không được thụ lý để giải quyết vì lẽ sự "im lặng" của phía bên kia cũng là một câu trả lời rằng: Hai bên đã thỏa thuận từ đầu lựa chọn trọng tài để giải quyết thì chỉ có cơ quan trọng tài mới có quyền đứng ra giải quyết vụ tranh chấp giữa hai bên (trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận rằng im lặng là đồng ý). Như vậy, qua hướng dẫn của TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp lệnh Trọng tài thương mại chúng tôi nhận thấy Tòa án đang "ôm thêm việc" cho mình và có thể gây phức tạp thêm cho việc xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp. Do đó, TANDTC nên hướng dẫn thực hiện đúng tinh thần quy định tại điều 5 Pháp lệnh trọng tài thương mại là: "Trong trường hợp vụ tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu" và Tòa án chỉ được thụ lý giải

Page 13: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

quyết vụ tranh chấp nếu cả hai bên tranh chấp có một thỏa thuận mới từ bỏ việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và quay qua lựa chọn Tòa án là cơ quan sẽ đứng ra giải quyết vụ tranh chấp giữa hai bên.

MÃ SỐ MÃ VẠCH VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG

Trương Bích Ngọc Khoa Quản trị kinh doanh

1. Mã số mã vạch là gì?Mã số mã vạch (MSMV)là một trong các công nghệ nhận dạng và thu thập dữ liệu tự động, có

thể đưa vào áp dụng trong đa ngành công nghiệp. Trên thế giới, MSMV đã được đưa vào áp dụng đại trà từ hơn 30 năm nay trong bán lẻ cũng như trong suốt chuỗi cung ứng sản phẩm và trong các ngành kinh tế khác như: Quốc phòng, y tế, giao thông vận tải, thể thao và truy tìm nguồn gốc…Mã số mã vạch của hàng hóa:

MSMV của hàng hóa bao gồm 2 phần: Mã số của hàng hóa và mã vạch phần thể hiện mã số bằng vạch để cho máy đọc.

- Mã số hàng hóa: Là một dãy con số dùng để phân định hàng hóa, áp dụng trong quá trình luân chuyển hàng hóa từ người sản xuất, qua bán buôn, lưu kho, phân phối, bán lẻ tới người tiêu dùng. Mã số hàng hóa được xem như là “thẻ căn cước” của hàng hóa, giúp ta phân biệt được nhanh chóng và chính xác các loại hàng hóa khác nhau.

Mã số hàng hóa có các tính chất sau: + Nó là con số duy nhất đặc trưng cho hàng hóa. Mỗi loại hàng hóa được nhận diện bởi một dãy

số và mỗi dãy số chỉ tương ứng với một loại hàng hóa.+ Bản thân dãy số chỉ là một dãy số đại diện cho hàng hóa, không liên quan đến đặc điểm của

hàng hóa, nó không phải là số phân loại hay chất lượng của hàng hóa- Mã vạch của hàng hóa: Là một nhóm các vạch và khoảng trống song song đặt xen kẽ, dùng

để thể hiện mã số dưới dạng máy quét (scaner) có thể đọc được. Mã vạch có tính chất: Chỉ thể hiện các con số (từ 0 đến 9) với chiều dài cố định (13 hoặc 8 con

số)2. Tình hình sử dụng mã số mã vạch ở Việt Nam:

Ở Việt Nam mới bắt đầu đưa công nghệ MSMV vào áp dụng từ năm 1995 đến nay, phần lớn phục vụ cho hàng xuất khẩu và để phục vụ cho bán lẻ tại các siêu thị và cửa hàng tự chọn. Từ chỗ lúc đầu chỉ có hơn 40 doanh nghiệp sử dụng MSMV đến nay ta đã có hàng vạn mặt hàng mang mã số 893 của quốc gia Việt Nam đang lưu thông trên thị trường trong và ngoài nước. Ngoài lĩnh vực kinh doanh thương mại, ở Việt Nam MSMV đã bắt đầu đưa vào áp dụng trong các ngành khác như: Trong hàng không để quản lí hành lí và hàng hóa, trong y tế để quản lí khám bệnh…Hơn nữa, MSMV cũng đang được nghiên cứu triển khai áp dụng trong quản lí nhân sự (thẻ nhận dạng), trong truy tìm nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa và trong một số lĩnh vực khác như quản lí hậu cần, hoạt động hải quan.

Tính đến giữa năm 2008 đã có 7755 cơ sở của Việt Nam đăng kí sử dụng MSMV tại Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng. Trong những năm gần đây, hàng năm có khoảng 1000 doanh nghiệp mới đăng kí sử dụng MSMV. Tốc độ tăng trưởng số doanh nghiệp đăng kí sử dụng MSMV hàng năm của Việt Nam là khá cao so với một số nước trong khu vực. Tổng số cơ sở sử dụng MSMV trên toàn thế giới tính đến nay có khoảng hơn 1 triệu doanh nghiệp. Không phải sản phẩm nào cũng

Page 14: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

cần sử dụng MSMV, những hàng hóa phần lớn là hàng tiêu dùng, thực phẩm bán lẻ…Và các vật phẩm trong chuỗi cung ứng sản phẩm cần nhận dạng và thu thập dữ liệu tự động mới cần gắn MSMV để quét nhận dạng và ghi nhận thông tin dữ liệu. Ví dụ đối với các sản phẩm xây dựng như xi măng, sắt thép không nhất thiết phải in MSMV trên bao bì và sản phẩm. Do đó việc đăng kí sử dụng MSMV là tự nguyện, không bắt buộc. Tuy nhiên, khi muốn sử dụng MSMV đầu 893, cần phải đăng kí sử dụng MSMV tại Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, theo đúng các qui định của Bộ Khoa học-Công nghệ tại “Qui định về việc cấp, sử dụng và quản lí MSMV” ban hành kèm theo quyết định số 15/2006/QĐ-BKHCN.3. Để sử dụng mã số mã vạch cần tiến hành các bước:

- Đăng kí với Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng để được cấp mã số doanh nghiệp.- Sử dụng mã số doanh nghiệp để lập mã địa điểm toàn cầu và các mã số cho sản phẩm và các

đơn vị đóng gói giao nhận, vận chuyển của cơ sở mình theo đúng các tiêu chuẩn Việt Nam hiện hành- Thể hiện mã số thành mã vạch và gắn trên vật phẩm theo đúng qui định về chất lượng mã

vạch và vị trí ghi mã vạch.- Quét mã vạch và kết nối với phần mềm quản lí trong máy tính để thu thập dữ liệu và xử lí

thông tin dữ liệu theo yêu cầu thực tế.4. Việc sử dụng mã số mã vạch có lợi cho doanh nghiệp:

- Mở rộng được thị trường do đáp ứng nhu cầu bạn hàng, tức là bán hàng được vào siêu thị và các thị trường cao cấp khác.

- Thỏa mãn được nhu cầu của khách hàng: Cung cấp đúng loại hàng, đúng chất lượng, đúng thời gian, qua đó nâng cao được uy tín của doanh nghiệp.

- Có được thông tin chính xác do thu thập các dữ liệu tự động để ra các quyết định chính xác trong quản lí, sản xuất và kinh doanh

- Tiết kiệm được các chi phí không cần thiết trong khâu hậu cần và bán hàng. Sử dụng ít nhân lực và tốn ít thời gian trong khâu kiểm kê tính toán

- Có điều kiện để hội nhập thương mại toàn cầu và quảng bá thương hiệu.5. Việc các doanh nghiệp sử dụng mã số mã vạch có lợi cho người tiêu dùng:

Việc sử dụng MSMV để bán lẻ giúp thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng do: Được phục vụ văn minh, được tính tiền nhanh và chính xác. Căn cứ vào cấu trúc của mã số, người tiêu dùng có thể nhận biết và truy tìm được nguồn gốc xuất xứ hàng hóa khi cần thiết. Tuy nhiên, nhiều sản phẩm của Việt Nam có in MSMV nhưng chất lượng mã vạch không đảm bảo về kích thước, mật độ và các yêu cầu khác về chất lượng nên trong thực tế cũng không sử dụng được. Khi mã vạch không quét được thì người bán hàng phải gõ mã số trên bàn phím của máy tính để tính tiền, điều này có thể dẫn đến sai sót và khách hàng phải chờ đợi lâu.

GIỚI THIỆU VỀ TIÊU CHUẨN IS0 9001 PHIÊN BẢN MỚI NĂM 2008

Ths. Nguyễn Tri Vũ

Hiện nay, hầu hết các chương trình giáo dục của Trường Cao đẳng Thương mại đều có học phần về quản trị chất lượng, cả bậc trung cấp chuyên nghiệp và cao đẳng. Các học phần này có dẫn chiếu và giới thiệu cho người học về Tiêu chuẩn ISO 9000 nhằm mục đích trang bị kiến thức cơ bản về hệ thống quản lý chất lượng để vận dụng vào thực tiễn công tác sau khi ra trường. Nay, với sự ra đời của bộ tiêu chuẩn mới ISO 9001:2008, Bản tin Khoa học gửi đến bạn đọc, chủ yếu là HSSV những thông tin tóm tắt về tiêu chuẩn này để tham khảo.

Page 15: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

Sơ lược về Bộ tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 được Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế công bố năm 1987. Đây là bộ

tiêu chuẩn về hệ thống chất lượng; nó không phải là tiêu chuẩn hay qui định kỹ thuật về sản phẩm. Sự ra đời của nó đã tạo ra một bước ngoặt trong hoạt động tiêu chuẩn và chất lượng trên thế giới nhờ nội dung thiết thực và sự hưởng ứng rộng rãi, nhanh chóng của nhiều nước, đặc biệt là các doanh nghiệp.

Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 là phương tiện hiệu quả giúp các nhà sản xuất tự xây dựng và áp dụng hệ thống đảm bảo chất lượng ở cơ sở mình, đồng thời cũng là phương tiện mà bên mua có thể căn cứ vào đó tiến hành kiểm tra người sản xuất, kiểm tra sự ổn định của sản xuất và chất lượng sản phẩm trước khi ký hợp đồng. ISO 9000 đưa ra các chuẩn mực cho một hệ thống chất lượng và có thể áp dụng rộng rãi trong các lĩnh vực sản xuất , kinh doanh và dịch vụ. ISO 9000 hướng dẫn các tổ chức cũng như các doanh nghiệp xây dựng một mô hình quản lý thích hợp và văn bản hoá các yếu tố của hệ thống chất lượng theo mô hình đã chọn.

Triết lý của ISO 9000 về quản lý chất lượng là ''nếu hệ thống sản xuất và quản lý tốt thì sản phẩm và dịch vụ mà hệ thống đó sản xuất ra sẽ tốt''. Các doanh nghiệp và tổ chức hãy “viết ra những gì cần làm; làm những gì đã viết; chứng minh là đã làm và soát xét, cải tiến”.

ISO 9000 có 8 nguyên tắc: 1) Hướng vào khách hàng; 2) Sự lãnh đạo; 3) Sự tham gia của mọi người; 4) Cách tiếp cận theo quá trình; 5) Cách tiếp cận theo hệ thống đối với quản lý; 6) Cải tiến liên tục; 7) Quyết định dựa trên sự kiện; 8) Quan hệ hợp tác cùng có lợi.

Tính đến nay, ISO 9000 đã trải qua 4 lần công bố, bổ sung và thay thế là vào các năm 1987, 1994, 2000 và gần đây nhất là ngày 14/11/2008. Trong đó, ISO 9001:2000 đã thay thế cho bộ 3 tiêu chuẩn ISO 9001, 9002 và 9003 (năm 1994). ISO 9001:2000 có tiêu đề là Hệ thống quản lý chất lượng - Các yêu cầu, không gọi là Hệ thống đảm bảo chất lượng như lần ban hành thứ nhất và thứ hai. Tiêu chuẩn ISO 9004:2000 cũng đồng thời được ban hành trên cơ sở soát xét lại tiêu chuẩn ISO 9004:1994. ISO 9004:2000 được sử dụng cùng với ISO 9001:2000 như là 1 cặp thống nhất các tiêu chuẩn về hệ thống quản lý chất lượng. ISO 9004:2000 đưa ra các chỉ dẫn về đối tượng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ở một phạm vi rộng hơn.

Phiên bản năm 1994

Phiên bản năm 2000

Phiên bản năm 2008

Tên tiêu chuẩn

ISO 9000:1994 ISO 9000: 2000 ISO 9000: 2005 HTQLCL – Cơ sở & từ vựng

ISO 9001: 1004 ISO 9001: 2000(bao gồm ISO 9001/ 9002/ 9003)

ISO 9001: 2008Hệ thống quản lý chất lượng (HTQLCL) – Các yêu cầu

ISO 9002: 1994ISO 9003: 1994ISO 9004: 1994 ISO 9004: 2000 Chưa có thay đổi HTQLCL - Hướng dẫn

cải tiến ISO 10011: 1990/1

ISO 19011: 2002 Chưa có thay đổi Hướng dẫn đánh giá HTQLCL/ Môi trường

Mặc dù việc chứng nhận theo tiêu chuẩn ISO 9001 là không bắt buộc nhưng ước tính đến nay đã có hơn một triệu chứng chỉ ISO 9001 đã được cấp cho các tổ chức thuộc các lĩnh vực tư nhân hoặc nhà nước cho sản xuất và dịch vụ (kể cả giáo dục đào tạo) tại khoảng 175 quốc gia và nền kinh tế.Những nét mới của Tiêu chuẩn ISO 9001:2008

Page 16: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

Trên cơ sở những tiến bộ về quản lý chất lượng, những kinh nghiệm đã đạt được, Tiêu chuẩn ISO 9001:2008, Quality management system - Requirements (Hệ thống quản lý chất lượng - Các yêu cầu), là bản hiệu đính toàn diện nhất bao gồm việc đưa ra các yêu cầu mới và tập trung vào khách hàng. (Tiêu chuẩn ISO 9004:2000, Hệ thống quản lý chất lượng - Hướng dẫn cải tiến, cũng đang được hiệu đính và dự kiến sẽ được công bố vào năm 2009.)

So với phiên bản năm 2000, ISO 9001:2008 có sự tinh chỉnh, gạn lọc hơn là thay đổi toàn diện. Nó không đưa ra các yêu cầu mới nào, vẫn giữ nguyên các đề mục, phạm vi và cấu trúc của tiêu chuẩn. Nó vẫn thừa nhận và duy trì 8 nguyên tắc ban đầu của ISO.

ISO 9001:2008 chủ yếu là làm sáng tỏ các yêu cầu đã nêu trong ISO 9001:2000 nhằm khắc phục những khó khăn trong việc diễn giải, áp dụng và đánh giá. Nó cũng có một số thay đổi hướng vào việc cải tiến nhằm tăng cường tính tương thích (nhất quán) với tiêu chuẩn ISO 14001:2004 về hệ thống quản lý môi trường. Những điểm tiến bộ mới của phiên bản 2008 là:- Nhấn mạnh sự phù hợp của sản phẩm;- Cải thiện tính tương thích với các tiêu chuẩn khác;- Làm rõ hơn các quá trình bên ngoài;- Diễn đạt rõ hơn các yêu cầu: 6.4 Môi trường làm việc; 8.2.1 Đo lường sự thỏa mãn của khách

hàng; - Bổ sung tầm quan trọng của rủi ro;- Quy định chính xác hơn các yều cầu: Tầm quan trọng của rủi ro; 5.5.2 Đại diện lãnh đạo; 6.2.2

Hiệu lực của các năng lực đã đạt được; 8.5.2. Hiệu lực của các hành động khắc phục; 8.5.3 Hiệu lực của các hành động phòng ngừa.

Theo thông báo chung của ISO và Diễn đàn công nhận quốc tế (IAF), tiêu chuẩn mới không yêu cầu các tổ chức đã áp dụng ISO 9001:2000 phải có nhiều điều chỉnh cho HTQLCL đã được xây dựng để có thể phù hợp với các yêu cầu trong ISO 9001:2008. Việc chuyển đổi theo tiêu chuẩn mới cũng là một cơ hội tốt cho các tổ chức nhìn nhận lại thực trạng áp dụng các yêu cầu của ISO 9001:2000, từ đó thực hiện các hoạt động cải tiến nhằm nâng cao hiệu quả của HTQLCL. Các tổ chức đã áp dụng HTQLCL theo ISO 9001:2000 có hai tiếp cận để lựa chọn cho chuyển đổi chứng nhận: TUÂN THỦ hay CẢI TIẾN HIỆU QUẢ. Thời hạn để các tổ chức chuyển đổi từ ISO 9001:2000 sang ISO 9001:2008 tối đa là 24 tháng (đến ngày 14/11/2010).

TUÂN THỦ nghĩa là thực hiện đúng và đầy đủ các yêu cầu của ISO 9001:2008. Cách tiếp cận này phù hợp với các tổ chức đã hoàn toàn thỏa mãn với hiệu quả của việc áp dụng HTQLCL hiện tại, hoặc với các tổ chức mới chỉ quan tâm đến việc được chứng nhận mà chưa thực sự coi trọng các giá trị về quản lý và cải tiến chất lượng mà HTQLCL có thể mang lại. Áp dụng ISO 9001:2008 theo cách tiếp cận CẢI TIẾN HIỆU QỦA thích hợp với các tổ chức mà hiệu quả của HTQLCL còn thấp. Trong trường hợp này, chuyển đổi theo ISO 9001:2008 không chỉ là để tuân thủ mà còn quan trọng hơn là áp dụng HTQLCL một cách thực chất, trên cơ sở thực hiện tốt yêu cầu về cải tiến và nâng cao hiệu quả. Quá trình này đòi hỏi tổ chức phải thực hiện tốt nhiều việc hơn so với cách tiếp cận tuân thủ.

Việc lựa chọn tiếp cận thứ nhất hay tiếp cận thứ hai cho dự án chuyển đổi HTQLCL theo ISO 9001:2008 là quyết định của mỗi tổ chức, phụ thuộc vào tình trạng của hoạt động quản lý chất lượng, nhu cầu nội bộ và mong muốn của lãnh đạo tổ chức.

Để hiểu rõ hơn về ISO 9001:2008, các chuyên gia và tổ chức có thể nghiên cứu “Tài liệu giới thiệu và hỗ trợ: Hướng dẫn các yêu cầu về tài liệu theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008” của Tiểu ban kỹ thuật ISO/TC176/SC2 (thuộc Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế) theo địa chỉ http://www.iso.org/iso/iso_catalogue/management_standards/iso_9000_iso_14000/iso_9001_2008.htm

Việc tham khảo tài liệu này không chỉ hữu ích cho các đơn vị chuẩn bị hoặc đang xây dựng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008, mà còn cung cấp nhiều thông tin có giá trị

Page 17: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

cho các tổ chức đang áp dụng HTQLCL mong muốn có những điều chỉnh cho phù hợp với các yêu cầu của tiêu chuẩn mới.Tại Việt Nam, Ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia TCVN/TC 176 đang tiến hành soát xét lại TCVN ISO 9001:2000, dự kiến phiên bản tiêu chuẩn quốc gia mới nhất TCVN ISO 9001 sẽ được công bố trong năm nay.

PHÂN BIỆT HAI PHƯƠNG PHÁP HẠCH TOÁN HÀNG TỒN KHO:KÊ KHAI THƯỜNG XUYÊN & KIỂM KÊ ĐỊNH KỲ

SV Nguyễn Thị Thương - Lớp: KT1.2

Đặt vấn đề: Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp lựa chọn và áp dụng 1 trong 2 phương pháp hạch toán hàng tồn kho (theo nguyên tắc năm tài chính): phương pháp kê khai thường xuyên (KKTX) & phương pháp kiểm kê định kỳ (KKĐK). Việc lựa chọn phải thích hợp và phải thực hiện nhất quán trong niên độ kế toán. Vậy, lựa chọn phương pháp hạch toán hàng tồn kho có ảnh hưởng lớn đến tổ chức công tác kế toán của doanh nghiệp. Để xem xét sự ảnh hưởng của 2 phương pháp này đến tổ chức công tác kế toán của doanh nghiệp, chúng ta cần phân biệt 2 phương pháp hạch toán hàng tồn kho.

I/ Hàng tồn kho:- Uỷ ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC) là một tổ chức độc lập có mục tiêu nhằm đạt được sự thống nhất trong các nguyên tắc kế toán mà các doanh nghiệp và các tổ chức trên thế giới sử dụng để lập Báo cáo tài chính. Uỷ ban này đã xây dựng được hệ thống các chuẩn mực kế toán cơ bản có thể vận dụng ở các quốc gia khác nhau trên cơ sở tiêu chuẩn hoá và hài hoà đáp ứng xu hướng toàn cầu hoá hiện nay đặc biệt là hài hoà và thống nhất trong việc lập và trình bày các báo cáo tài chính. Vì vậy có nhiều quốc gia quan tâm đến việc nghiên cứu, xây dựng và công bố các chuẩn mực kế toán quốc gia trên cơ sở vận dụng chuẩn mực kế toán quốc tế xem xét chuẩn mực kế toán quốc tế về hàng tồn kho IAS 2 là căn cứ để có thể so sánh với chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS 2) và những quy định kế toán hàng tồn kho hiện nay từ đó có những phương hướng hoàn thiện. * Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS02):

Hàng tồn kho là:- Những tài sản được giữ để bán trong kỳ sản xuất kinh doanh bình thường- Đang trong quá trình sản xuất kinh doanh dở dang- NVL, công cụ dụng cụ để sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ. Hàng tồn kho bao gồm:- Hàng hoá mua về để bán: hàng tồn kho, hàng mua đang đi đường, hàng gửi đi bán, hàng gửi đi gia công chế biến.- Thành phẩm tồn kho và thành phẩm gửi đi bán.- Sản phẩm dở dang: sản phẩm chưa hoàn thành và sản phẩm hoàn thành chưa làm thủ tục nhập kho thành phẩm.- NVL, công cụ dụng cụ tồn kho, gửi đi gia công chế biến và đã mua đang đi trên đường.- Chi phí dịch vụ dở dang.

Đối chiếu IAS 02 & VAS 02:

Theo kế toán quốc tế IAS 02 Theo kế toán Việt Nam VAS 021. Phương pháp đánh giá hàng nhập: - Giá gốc hàng tồn kho gồm: Tổng chi phí mua gồm:

1. Phương pháp đánh giá hàng nhập: - Đối với nguyên vật liệu, hàng hoá mua ngoài: Giá nhập = giá mua + chi phí mua + chi phí 

Page 18: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

+ Giá mua ghi trên hoá đơn + Các chi phí mua + Giảm giá thương mại Chi phí chế biến gồm: + Chi phí trực tiếp liên quan đến sản xuất sản phẩm. + Chi phí sản xuất chung: Định phí và biến phí - Phân bổ chi phí sản xuất chung + Phân bổ biến phí dựa trên tình hình sử dụng thực tế máy móc thiết bị. + Phân bổ định phí dựa trên năng suất trung bình của thiết bị sản xuất

(thuế nhập khẩu, hao hụt trong định mức…) - Đối với thành phẩm, sản phẩm dở dang thì chi phí bao gồm: + Chi phí nguyên liệu trực tiếp + Chi phí nhân công trực tiếp + Chi phí sản xuất chung: được phân bổ trên khối lượng sản xuất thực tế chứ không dựa trên cơ sở năng suất hoạt động bình thường

2. Đối tượng lập dự phòng:Chủ yếu là các loại hàng tồn kho dùng để bán. Các loại tồn kho dùng để sản xuất chỉ lập dự phòng khi bán các thành phẩm sản xuất ra từ các loại vật tư đó giảm sút trên thị trường.

2. Đối tượng lập dự phòng:Toàn bộ các loại vật tư, sản phẩm hàng hoá tồn kho.

III/ Phân biệt

1/ Phương pháp kê khai thường xuyên(KKTX):a) Nội dung:- Theo dõi thường xuyên, lên tục, có hệ thống;- Phản ánh tình hình nhập, xuất, tồn của hàng tồn kho;- Trị giá hàng tồn kho cuối kỳ = trị giá hàng tồn kho đầu kỳ + trị giá hàng nhập kho trong kỳ - trị giá hàng xuất kho trong kỳ.b) Chứng từ sử dụng: - Phiếu nhập kho, phiếu xuất kho;- Biên bản kiểm kê vật tư, hàng hoá. 2/ Phương pháp kiểm kê định kỳ (KKĐK):a) Nội dung:- Không theo dõi, phản ánh thường xuyên, liên tục;- Chỉ phản ánh hàng tồn đầu kỳ và cuối kỳ, không phản ánh nhập - xuất trong kỳ;- Trị giá hàng xuất kho trong kỳ = trị giá hàng tồn kho đầu kỳ + trị giá hàng nhập kho trong kỳ - trị giá hàng tồn kho cuối kỳ. (cuối kỳ mới tính được)(cuối kỳ kiểm kê, xác định hàng tồn kho; sau đó, kết chuyển trị giá hàng xuất trong kỳ)b) Chứng từ sử dụng: chứng từ sử dụng như pp KKTX ;- Tuy nhiên, cuối kỳ kế toán nhận chứng từ nhập xuất hàng hoá từ thủ kho, kiểm tra và phân loại chứng từ theo từng chủng loại, từng nhóm hàng hoá, ghi giá hạch toán và tính tiền cho từng chứng từ.c) TK sử dụng:

Page 19: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

Phương pháp KKTX Phương pháp KKĐKSố TK Bên Nợ Bên Có Bên Nợ Bên Có

151

-hàng mua đang đi đường cuối kỳ chưa về nhập kho

-trị giá hàng mua đang đi đường về nhập kho hoặc chuyển thẳng giao cho khách hàng.- trị giá hàng mua đang đi đường kỳ trước phát hiện thiếu hụt ở kỳ này.

-kết chuyển trị giá hàng mua đang đi đường cuối kỳ.

-kết chuyển trị giá hàng mua đang đi đường đầu kỳ sang TK611.

152(153)

-trị giá thực tế NVL, ccdc nhập kho;-trị giá thừa phát hiện khi kiểm kê.

-trị giá thực tế xuất kho;-thiếu hụt khi kiểm kê;-chiết khấu TM được hưởng khi mua

-kết chuyển trị giá NVL, công cụ dụng cụ cuối kỳ.

-kết chuyển trị giá NVL, công cụ dụng cụ đầu kỳ sang TK611.

154

-chi phí trong kỳ liên quan đến sản xuất sản phẩm (đối với DN sx sản phẩm)

-giá thành thực tế sản phẩm nhập kho hoặc chuyển bán;-trị giá NVL, hàng hoá gia công xong nhập lại kho.

-kết chuyển chi phí sản xuất kinh doanh dở dang cuối kỳ.

-kết chuyển chi phí sản xuất kinh doanh dở dang đầu kỳ sang TK631.

155

-trị giá thành phẩm nhập kho;-trị giá thành phẩm phát hiện thừa khi kiểm kê.

-trị giá thực tế thành phẩm nhập kho;-trị giá thành phẩm thiếu hụt khi kiểm kê.

-kết chuyển trị giá thành phẩm tồn kho cuối kỳ.

-kết chuyển trị giá thành phẩm tồn kho đầu kỳ sang TK632.

156

-trị giá hàng hoá mua vào(1561);-chi phí mua hàng hoá (1562);-trị giá hàng hoá phát hiện thừa khi kiểm kê;-trị giá hàng hoá bị người mua trả lại nhập kho.

-xuất kho giao đại lý hoặc bán cho khách hàng;-trị giá hàng hoá phát hiện thiếu hụt khi kiểm kê;-các khoản chiết khấu TM, giảm giá hàng mua, hàng mua trả lại.

-kết chuyển trị giá hàng tồn kho cuối kỳ.

-kết chuyển trị giá hàng tồn kho đầu kỳ.

157

-hàng hoá, thành phẩm gửi bán cho khách hàng hoặc gửi đại lý.

-hàng hoá, thành phẩm gửi bán và được xác định là đã bán.

-kết chuyển trị giá hàng hoá, thành phẩm gửi đi bán cuối kỳ .

-kết chuyển trị giá hàng hoá, thành phẩm gửi đi bán đầu kỳ sang TK611 hoặc TK632

611(khôngcó số dư)

-trong kỳ, hàng mua nhập kho: Nợ TK611 Nợ TK1331 Có TK111,112...-Chi phí mua hàng tính vào trị giá mua

-cuối kỳ, kiểm kê xác định số lượng, trị giá thực tế hàng tồn kho cuối kỳ:Nợ TK156 Có TK611

Page 20: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

(Nợ TK611) -căn cứ vào kết quả, xác định tổng trị giá hàng xuất bán: Nợ TK632 Có TK611

d/ Sổ kế toán:- Là các tờ sổ theo mẫu quy định, dùng để ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo

đúng phương pháp của kế toán trên cơ sở số liệu của chứng từ kế toán.- Các doanh nghiệp khác nhau về loại hình, quy mô và điều kiện kế toán sẽ hình thành 1 hình

thức tổ chức sổ kế toán khác nhau : sổ Nhật ký - Sổ cái, sổ Nhật ký chung và sổ cái, sổ Nhật ký chứng từ…

V/ Ưu điểm và hạn chế:* Đối với phương pháp kê khai thường xuyên:- Ưu điểm:

+ Xác định, đánh giá về số lượng và trị giá hàng tồn kho vào từng thời điểm xảy ra nghiệp vụ.

+ Nắm bắt, quản lý hàng tồn kho thường xuyên, liên tục, góp phần điều chỉnh nhanh chóng kịp thời tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của DN.

+ Giảm tình trạng sai sót trong việc ghi chép và quản lý (giữa thủ kho và kế toán).- Nhược điểm: tăng khối lượng ghi chép hằng ngày, gây áp lực cho người làm công tác kế

toán. Tuy nhiên, nhược điểm này được khắc phục khi doanh nghiệp tin học hoá công tác kế toán.

* Đối với phương pháp kiểm kê định kỳ::- Ưu điểm: giảm khối lượng ghi chép cho người làm công tác kế toán.- Nhược điểm:

+ công việc kế toán dồn vào cuối kỳ.+ công việc kiểm tra không thường xuyên trong tình hình nhập, xuất kho là liên tục sẽ gây

hạn chế chức năng kiểm tra của kế toán trong quản lý.+ khó phát hiện sai sót nếu khi kiểm kê hàng thực tế nhập kho không trùng với ghi sổ kế

toán.V/ Kết luận:

- Dựa vào ưu, nhược điểm của mỗi phương pháp hạch toán hàng tồn kho, DN có thể phân tích sự ảnh hưởng của mỗi phương pháp đến tổ chức công tác kế toán của DN, từ đó đưa ra quyết định lựa chọn phương pháp hạch toán thích hợp, mang lại hiệu quả trong công việc. - Phương pháp KKTX thường áp dụng cho các đơn vị sản xuất (công nghiệp, xây lắp…) và các DN thương mại kinh doanh các mặt hàng có giá trị lớn như xe hơi, máy móc…

+ Theo phương pháp này người làm công tác kế toán có thể giúp chủ DN biết được mặt hàng nào đang được tiêu thụ nhanh chóng để kịp thời mua thêm hàng nhập kho dự trữ và bán hàng, hay mặt hàng nào bị ứ đọng, khó tiêu thụ để nhanh chóng tìm giải pháp tiêu thụ hàng, thu hồi vốn; vì DN kinh doanh các mặt hàng có giá trị lớn, nếu để ứ đọng hàng nhiều sẽ dẫn đến ứ đọng vốn lớn, kinh doanh không đạt hiệu quả.

+ Quá trình hoạt động giữa kế toán, thủ kho và phòng kinh doanh được diễn ra liên tục thông qua việc giao nhận các chứng từ. - Phương pháp KKĐK thường áp dụng ở các DN kinh doanh mặt hàng có giá trị thấp, số lượng lớn, nhiều chủng loại, quy cách…như các nguyên phụ liệu để may mặc (kim, chỉ, khuy áo,…) và các đơn vị sản xuất ra 1 loại sản phẩm, hàng hoá nào đó vì trong trường hợp này mới tính được tương đối chính xác giá thành.

+ Vì các mặt hàng có nhiều chủng loại và có giá trị thấp nên nếu lựa chon phương pháp KKTX sẽ mất nhiều thời gian của công tác kế toán và có thể không mang lại hiệu quả vì độ chính xác không cao;

Page 21: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

+ Theo phương pháp này khối lượng công việc kế toán dồn vào cuối kỳ lớn nên có thể gặp nhiều sai sót và khó điều chỉnh;

+ Trong kỳ, chủ DN không thể nắm bắt tình hình tồn, nhập, xuất kho hàng hoá của DN thông qua kế toán dẫn đến chậm trễ khi đưa ra các quyết định.

- Lựa chon phương pháp thích hợp giúp công tác kế toán được hoạt động thuân lợi hơn, mang tính chính xác cao hơn và một phần giúp DN kinh doanh đạt hiệu quả dựa trên các báo cáo của kế toán.

* Tài liệu tham khảo: - Chuẩn mực kế toán quốc tế số 02 ( IAS 02 ) - Chuẩn mực kế toán hàng tồn kho ( VAS 02 )

MỘT VÀI ỨNG DỤNG CỦA MAPLE TRONG GIẢNG DẠY TOÁN CAO CẤP

Huỳnh Ngọc TuấnBộ môn Cơ bản

Maple là một hệ thống tính toán trên các biểu thức đại số và minh họa toán rất mạnh mẽ được phát triển bởi các nhà nghiên cứu của Đại học Waterloo (Canada) từ năm 1980 và được thương mại hoá bởi công ty Warterloo Maple Inc.(http://www.maplesoft.com), phiên bản Maple đầu tiên ra đời năm 1980, đến nay đã phát triển đến phiên bản 13 (2009) và ngày càng hoàn thiện hơn. Maple có cách cài đặt đơn giản, chạy được trên tất cả các hệ điều hành, cấu trúc linh hoạt dễ sử dụng, đặc biệt có trình trợ giúp Help nên tạo điều kiện cho người dùng dể sử dụng. Từ phiên bản 7 Maple đã cung cấp các công cụ trực quan, các gói lệnh tự học đối với toán phổ thông và đại học. Với ưu điểm đó thì Maple trở thành sự lựa chọn sử dụng của nhiều nước trên thế giới.

Một số tính năng cơ bản của Maple như sau:- Là một hệ thống tính toán trên các biểu thức đại số;- Có thể thực hiện hầu hết các phép toán cơ bản trong chương trình toán học phổ thông và

đại học;- Cung cấp các công cụ minh họa hình học thuận tiện như: Vẽ đồ thị tĩnh hoặc động của các

đường, các mặt được cho bởi các hàm tùy ý trong nhiều hệ trục tọa độ khác nhau;- Ngôn ngữ lập trình đơn giản và mạnh mẽ có khả năng tương tác với các ngôn ngữ khác như

Latex, Word, HTML,...- Một công cụ biên soạn giáo án và bài giảng điện tử, thích hợp với các lớp học tương tác

trực tiếp;- Một chương trình trợ giúp hiệu quả cho giảng viên và sinh viên trong việc dạy và học.Trong nội dung của bài viết này, chúng tôi không có tham vọng trình bày hết những ưu việt của

Maple, chỉ trình bày một số vấn đề mà chúng tôi gặp trong quá trình giảng dạy môn Toán cao cấp tại trường Cao đẳng Thương mại.

Khi giảng dạy đến vấn đề hàm số, giới hạn của hàm số và xây dựng bài toán tích phân Riemann. Rõ ràng sẽ chẳng có hệ thống máy nào có thể thay giảng viên trình bày để sinh viên hiểu được bản chất của hai vấn đề này, nhưng nếu không có máy thì người giảng viên cũng rất khó khăn trong việc trình bày các vấn đề trên một cách tới nơi, tới chốn.

1. Hàm số và giới hạn của hàm số:a. Hàm số

Page 22: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

Hiện tại cách giảng dạy chung của các trường phổ thông là lấy cái đích cuối cùng là vẽ được đồ thị hàm số (rất nặng nề, thiếu đi tính thực tế vì lớp hàm số có thể khảo sát và vẽ được đồ thị rất ít).

Do đó, khi dạy vấn đề này nên lấy hàm số khởi điểm nhẹ nhàng và dễ hiểu, minh họa đơn giản vì hiện tại trong thực tế thì mọi hàm số đều vẽ được bằng máy.

Bây giờ chúng ta thử xét một hàm số mà đối với các bước “khảo sát” sẽ ngán ngẩm khi gặp

nó như: .

Nhưng đối với máy tính thì việc tính toán các điểm rất đơn giản và muốn bao nhiêu điểm đều có thể được. Chẳng hạn kết quả tính toán được cho như bảng sau:

Nếu dùng máy chúng ta có một hệ thống tọa độ thì nó cũng sẽ tạo cho chúng ta một hình dạng chung của đồ thị. Và đồ thị được vẽ như sau( nhờ máy):

b. Giới hạn của hàm sốMột vấn đề nan giải là người giảng viên làm sao trình bày cho sinh viên cảm nhận được

bản chất của giới hạn mà không nhất thiết phải đi quá sâu vào các định nghĩa khô khan và khó hiểu. Với Maple, giảng viên có thể minh họa cho sinh viên nhìn thấy bản chất của vấn đề.

Ví dụ: Xét giới hạn của hàm số , chỉ cần với lệnh sau, sinh viên sẽ nhìn

thấy quá trình tiến tới giới hạn của hàm số trên.>picts:=[seq(plot([x*sin(1/x)*piecewise(x<-1/i,1,x<=1/i,0,1),x,-x],x=-0.5..0.5,

color=[red,blue,blue],discont=true,numpoints=1000),i=3..100)]:display(picts,insequence=true);

Page 23: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

2. Bài toán xây dựng tích phân RiemannTổng của tích phân Riemann là một khái niệm khá mơ hồ đối với những người mới tiếp

xúc lần đầu. Việc minh họa nó bằng tổng diện tích của các hình chữ nhật đã giảm đi phần nào tính trừu tượng của nó, tuy nhiên hiện nay nếu không có sự hỗ trợ của máy thì một giảng viên cũng chỉ có thể minh họa đến hình vẽ sau đây. Giả sử xét tổng Riemann của hàm số sau:

>with(student):Middebox(sin(x^2+x-1)-cos(x^2-x+1)-3,x=-3..3,15);

Với hình vẽ này thì sinh viên khó có thể hình dung được rằng khi lấy một phân hoạch đủ mịn thì diện tích hình thang cong bằng tổng của một số hình chữ nhật lộn xộn trên. Để thấy được điều này thì ta cần đưa ra một dãy hình vẽ minh họa để thấy được quá trình xấp xỉ hình thang cong, máy tính là công cụ lý tưởng nhất cho ta thực hiện ý tưởng trên bằng cách lấy bề rộng phân hoạch bước sau bằng ½ bước trước, như thế chỉ cần qua 3 bước thì chúng ta thấy rất rõ quá trình xấp xỉ một cách hoàn hảo.

>middlebox(sin(x^2+x-1) - cos(x^2-x+1) + 3, x=-3..3,30);middlebox(sin(x^2+x-1) - cos(x^2-x+1) + 3, x=-3..3,60);middlebox(sin(x^2+x-1) - cos(x^2-x+1) + 3, x=-3..3,120);

Page 24: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

Để thuyết phục hơn chúng ta có thể đưa ra hàng loạt các ví dụ khác mà nếu không có máy tính và phần mềm trợ giúp thì ta khó thực hiện được điều này.

Như vậy, Maple là một công cụ rất hữu ích cho những người học toán, dạy toán và làm toán nói chung. Nhờ có nó, chúng ta có thể đỡ vất vả hơn rất nhiều, công việc lao động trí óc sẽ đạt được năng suất cao hơn, hiệu quả hơn.

ỨNG DỤNG PHẦN MỀM MICROSOFT EXCEL VÀO GIẢI BÀI TOÁN QUY HOẠCH TUYẾN TÍNH

Th.s. Trần Thị HòaKhoa Kế toán – Tài chính

Mục tiêu của việc giải bài toán quy hoạch tuyến tính (QHTT) là tìm được phương án tối ưu và vận dụng phương án đó vào thực tiễn. Tuy nhiên, trong thực tế công việc này lại khá phức tạp, gây không ít khó khăn và lúng túng cho những đối tượng quan tâm đến nó. Tại sao chúng ta không“trút gánh nặng” này cho Excel nhỉ? Bài viết này nhằm giới thiệu cách sử dụng phần mềm ứng dụng Microsoft Excel để giải bài toán QHTT và rút ra các ý nghĩa kinh tế của chúng.

Để giải bài toán QHTT dựa trên phần mềm ứng dụng Microsoft Excel cần thực hiện theo trình tự sau:

1. Các bước thực hiệnBước 1: Lập mô hình bài toán (nếu bài toán chưa lập mô hình)1;Bước 2: Vận dụng phần mềm ứng dụng Microsoft Excel để giải bài toán QHTT dựa trên mô

hình ở bước 1;Bước 3: Kết luận phương án tối ưu và giá trị của hàm mục tiêu (nếu có).Tất nhiên, để thực hiện được bước 2 bạn cần phải có một máy tính có cài đặt sẳn phần mềm

này.2. Ứng dụng Microsoft Excel để giải bài toán QHTT Để hiểu rõ việc giải bài toán QHTT dựa trên phần mềm ứng dụng Excel, chúng ta hãy cùng

nhau xem xét ví dụ sau:Công ty “Hoa Đà Lạt” cần trồng 4 loại hoa Cúc, Hồng, Lan, Huệ trên 3 mảnh vườn khác nhau.

Biết rằng diện tích đất hiện có ứng với mỗi mảnh vườn là 40 ha, 60 ha, 80 ha. Diện tích đất phải trồng mỗi loại hoa theo kế hoạch là: Cúc: 50 ha, Hồng: 70 ha, Lan: 30 ha, Huệ: 30 ha. Ngoài ra, do tính chất của các loại đất trồng khác nhau, nên hoa Hồng không thể trồng được trên mảnh đất thứ nhất, và hoa Huệ không thể trồng được trên mảnh đất thứ ba. Biết thu hoạch (Lợi nhuận) ước tính của từng loại hoa trên từng loại đất trồng như sau (trăm ngàn đồng/ha):

1 Nên đưa bài toán về dạng chính tắc trước khi thực hiện bước 2

Page 25: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

HoaĐất

Cúc(50)

Hồng(70)

Lan(30)

Huệ(30)

40 10 - 8 960 6 9 12 1280 15 10 10 -

Yêu cầu: Lập kế hoạch trồng hoa sao cho công ty thu được lợi nhuận nhiều nhất.Giải:Bước 1: Lập mô hình bài toán- Tổng diện tích đất = 40 + 60 + 80 =180 = 50 + 70 + 30 + 30 = Tổng diện tích trồng hoa- Gọi xij là số ha mảnh vườn i trồng loại hoa j, với i= 1, 2, 3 và j = 1, 2, 3, 4 tương ứng là Cúc, Hồng, Lan, Huệ.

f = 10 x11 + 8x13 + 9x14 + 6x21 + 9x22 + 12x23 + 12x24 + 15x31 + 10x32 + 10x33 -> Maxx11 + x13 + x14 = 40

x21 + x22 + x23 + x24 = 60x31 + x32 + x33 = 80x11 + x21 + x31 = 50 x22 + x32 = 70x13 + x23 + x33 = 30x14 + x24 = 30xij 0,

Bước 2: Ứng dụng Excel để giải bài toán QHTT dựa trên mô hình ở bước 1.- Khởi động Exel- Nhập dữ liệu vào bảng tính:+ Cột A là giá trị có thể có của các biến. Trong ví dụ này ta có 10 biến cần tìm từ x11 đến x33

+ Cột B là công thức tính biểu thức vế trái của các ràng buộc+ Cột C là giá trị vế phải của các ràng buộc+ Cột D là công thức tính hàm mục tiêu

Ban đầu ta cho giá trị tuỳ chọn vào cột. Trong ví dụ này, các số liệu như ở bảng 1 Bảng 1

A B C D1 1 =A1+A3+A4 40 =10*A1+8*A3+9*A4+6*A5+9*A6+12*A7+12*A8

+15*A9+10*A10+10*A112 0 =A5+A6+A7+A8 603 1 =A9+A10+A11 804 1 =A1+A5+A9 505 1 =A6+A10 706 1 =A3+A7+A11 307 1 =A4+A8 308 19 110 111 1

Page 26: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

Bảng 2 (Kết quả sau khi nhập dữ liệu)A B C D

1 1 3 40 1012 0 4 603 1 3 804 1 3 505 1 2 706 1 3 307 1 2 308 19 110 111 1

- Dùng Solver để giải bài toán+ Từ Menu Tool chọn Solver2, xuất hiện hộp hội thoại Solver Parameters:

Set Target Cell: $D$1 Chọn địa chỉ hàm mục tiêu.Equal To: Max Chọn mục tiêu tối ưu (Max hoặc Min).By Changing Cells: $A$1:$A$11 Chứa các biến cần tìm x =(x11, x12, x13,....,x33,…) Cần cho các biến 1 giá trị khởi động nào đó

Chẳng hạn x11 = x13 =....= x33 =1; x12 = 0Subject to the Constraints: Chứa các ràng buộc, nhấn nút Add để chọn. + Hộp hội thoại Add Constraints:

2 Nếu trong menu Tool không có Solver thì vào menu Tool, chọn Add - Ins, xuất hiện hộp hội thoại Add - Ins, chọn mục Solver Add - Ins.

Page 27: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

Cell Reference: $A$1:$A$11 Hộp bên tay tráiChọn dấu >= Hộp ở giữaConstraint: 0 Hộp bên tay phải+ Nhấn nút Add để chọn thêm các ràng buộc, hộp hội thoại Add Constraints:

Cell Reference: $B$1:$B$7 Hộp bên tay tráiChọn dấu = Hộp ở giữaConstraint: $C$1:$C$7 Hộp bên tay phải+ Nhấn OK, trở lại hộp hội thoại Solver Parameters:

+ Nhấn nút Solver, xuất hiện hộp hội thoại Solver Results:

+ Chọn Keep Solver Solution, nhấn OK. Khi đó kết quả bài toán QHTT sẽ được hiển thị như sau:

A B C D1 10 40 40 20002 0 60 60

Page 28: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

3 0 80 804 30 50 505 0 70 706 30 30 307 30 30 308 09 4010 4011 0

Bước 3: Kết luận Bài toán có phương án tối ưu x = (10, 0, 0, 30, 0, 30, 30, 0, 40, 40, 0, 0) và

fmax = 2000 trăm ngàn đồng = 200 triệu đồng.Vậy kế hoạch trồng các loại hoa trên từng loại đất được phân bổ như sau:

Đơn vị tính: ha Hoa

ĐấtCúc(50)

Hồng(70)

Lan(30)

Huệ(30)

40 10 0 0 3060 0 30 30 080 40 40 0 0

Với kế hoạch trồng hoa như trên thì công ty “Hoa Đà Lạt” thu được lợi nhuận nhiều nhất, giá trị lợi nhuận đạt đến 200 triệu đồng.

Như vậy, vận dụng phầm mềm Excel để giải bài toán QHTT không những làm cho bài toán QHTT trở nên đơn giản hơn rất nhiều mà còn mang ý nghĩa kinh tế sâu sắc, biến các con số “khô khan” trong mô hình toán học đi vào thực tiễn cuộc sống.

CHUYỂN ĐỔI BẢNG MÃ TRONG VĂN BẢN WORD

Nguyễn Văn HàBộ môn Cơ bản

Ngày nay, việc sử dụng máy tính để soạn thảo, xử lý văn bản đã trở nên phổ biến. Tuy nhiên, đôi lúc người dùng có thể gặp một vài rắc rối nhỏ làm cho công việc trở nên chậm chạp, khó khăn.

Bài viết này nhằm giới thiệu với bạn đọc cách xử lý tình huống chuyển đổi bảng mã trong văn bản Word từ font này sang font khác một cách dễ dàng, nhanh chóng nhờ phần mềm Unikey.

1. Khái niệm bảng mã và font chữ

Bảng mã là cách biểu diễn các ký tự của một loại chữ viết thông qua con số (trong máy tính). Trong soạn thảo văn bản chúng ta thường gặp các bảng mã như: Unicode, Vietware_X, Vietware_F, TCVN3_ABC...

Font là tập hợp hoàn chỉnh các chữ cái, dấu câu, các con số và các ký tự đựơc biệt theo một kiểu loại, định dạng, hình dáng và kích cỡ phù hợp và có thể phân biệt khác nhau. Tương ứng với các bảng mã dùng để soạn thảo văn bản có những font chữ khác nhau (xem bảng dưới đây):

Page 29: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

Bảng mã Font

Unicode Time new roman, Arial...

Vietware_ X VN* (VNtime new roman, Vnarial, ...)

Vietware _F SVN* (SVNtime new roman, SVNarial,...)

TCVN3_ ABC .Vn* (.Vntime, .VnArial…)

Khi người dùng sử dụng bảng mã này (chẳng hạn TCVN3_ABC) thì không thể đọc được file sử dụng bảng mã khác (như Unicode) và ngược lại. Vì vậy, có lúc chúng ta copy về máy tính của mình 1 file mà không thể đọc được. Đó là do bảng mã không phù hợp.2. Thực hiện chuyển đôi bảng mã

Trong Unikey cho phép chúng ta thực hiện chuyển đổi văn bản từ bảng mã này qua bảng mã khác từ Clipboard hoặc File. Tuy nhiên với file văn bản thì Word chưa hỗ trợ được cho nên trong nội dung bài viết này chúng tôi chỉ trình bày cách thực hiện chuyển đổi bảng mã từ Clipboard (khi hiện Copy (Ctrl +C) hoặc Cut (Ctrl + X) thì dữ liệu được lưu vào bộ nhớ tạm gọi là Clipboard)

Ví dụ cần chuyển một đoạn văn bản Font chữ .Vntime qua Font chữ Times new roman ta thực hiện như sau:

Bước 1: Bôi đen đoạn văn bản cần chuyển đổi (đoạn văn có Font .Vntime)

Bước 2: Gõ tổ hợp phím CTRL + C (thực hiện copy)

Bước 3: Kích chuột phải trên biểu tượng Unikey trên thanh Taskbar

( giao diện tiếng việt và tiếng anh)

- Chọn mục Công cụ ... (Tookit..) hoặc tổ hợp phím Ctrl + Shift + F6

Hình 1. Chọn công cụ để thực hiện chuyển đổi

Hình 1 a Hình 1 b

Page 30: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

Hình 2. Thực hiện chọn bảng mã nguồn, đích.

Bước 4: (Hình 2 a - 2b)- Nguồn (Source) chọn bảng mã nguồn- Đích (Destination) chọn bảng mã đích- Chuyển mã Clipboard (Convert Clipboard): đánh dấu chọn- Kích chọn nút “Chuyển mã” (Convert) để thực hiện Xuất hiện thông báo thành công “Successfully converted RTF Clipboard”Bước 5: Quay lại văn bản thực hiện dán CTRL +VBước 6: Thực hiện thay đổi lại Font cho đoạn văn vừa thực hiện cho phù hợp với bảng mã

đích.Sau khi thực hiện định dạng của văn bản mới có thể bị thay đổi chúng ta cần kiểm tra lại

văn bản của mình. Mặt khác, trong quá trình thự hiện có thể gặp một số trục trặc nên trước khi thực hiện để an toàn ta nên thực hiện sao chép từ file gốc thêm một file khác và thực hiện trên file này. Chúc mọi người thành công!

PHÍ PHỤC VỤ TRONG NGÀNH DU LỊCHNGUYỄN THỊ THÚY QUỲNH

KHOA QTKD

Nhiều khách du lịch thắc mắc không hiểu ý nghĩa của hai dấu cộng sau những con số trong bảng giá của một số khách sạn, nhà hàng. Đó chính là giá chưa cộng thuế giá trị gia tăng và phí phục vụ mà khách hàng phải trả cho doanh nghiệp. Vậy phí phục vụ trong ngành du lịch (hay những người trong ngành thường dùng thuật ngữ service charge) là gì ?

PHÍ PHỤC VỤ TRONG NGÀNH DU LỊCHI. KHÁI NIỆM

Theo Thông tư liên bộ Tài chính – Tổng cục du lịch số 88: Phí phục vụ trong ngành Du lịch là khoản tiền thưởng của khách cho cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch, khách sạn do chất lượng phục vụ tốt, đồng thời là biểu hiện thiện cảm của người được phục vụ về thái độ phục vụ của các nhân viên phục vụ.II. Ý NGHĨA, MỤC ĐÍCHPhí phục vụ trong ngành du lịch được xem là đòn bẩy kinh tế nhằm:

+ Khuyến khích nhân viên nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng

Hình 2 a Hình 2 b

Page 31: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

+ Nâng cao hiệu quả kinh doanh+ Thực hiện nghĩa vụ nộp thuế với Ngân sách Nhà nước

III. ĐIỀU KIỆN, PHẠM VI VÀ MỨC THU PHÍ PHỤC VỤ1) Điều kiện: Những đơn vị thuộc ngành Du lịch kinh doanh các loại nghiệp vụ: lữ hành, vận chuyển khách, khách sạn, vui chơi giải trí...

- Có chất lượng phục vụ tốt, được khách hàng hài lòng và tự nguyện trả thưởng thêm ngoài giá dịch vụ.

- Thực hiện niêm yết giá công khai.- Hạch toán rõ ràng khoản tiền thưởng thêm của khách hàng.

2) Phạm vi: Các đơn vị kinh doanh thuộc ngành Du lịch được phép thu kinh phí phục vụ trên giá các dịch vụ sau:

- Cho thuê buồng ngủ;- Phục vụ ăn, uống;- Cho thuê phương tiện vận chuyển có người phục vụ;- Các dịch vụ: giặt là, may đo, cắt uốn tóc, thẩm mỹ...;- Tắm hơi;- Lữ hành, hướng dẫn du lịch, hướng dẫn tổ chức vui chơi giải trí;- Các dịch vụ khác.

3) Mức thu phí phục vụCác đơn vị kinh doanh du lịch được phép thu không quá 5% trên giá bán các dịch vụ IV. NỘI DUNG SỬ DỤNG PHÍ PHỤC VỤ:

Phí phục vụ là khoản tiền trả thêm ngoài giá dịch vụ đã quy định nhưng được cộng vào tổng số tiền dịch vụ mà khách hàng thực trả. Đơn vị phải hạch toán riêng khoản tiền phí phục vụ, giá dịch vụ, hàng hoá ngay trên từng hoá đơn dịch vụ và kê khai nộp thuế doanh thu theo thuế suất của ngành nghề kinh doanh.Trên hóa đơn:Giá chưa thuế: APhí phục vụ: A*5%VAT: 10% * 1.05ATổng cộng: A( 1.05 + 10%*1.05)Kê khai:N111 A( 1.05 + 10%*1.05)C511 1.05AC333 10% * 1.05A(Từ khi chính phục phê duyệt biện pháp giảm giá nhằm kích cầu du lịch, thuế giá trị gia tăng đối với sản phẩm ngành du lịch được giảm từ 10% xuống còn 5%)

Khoản phí dịch vụ thu được sau khi nộp thuế doanh thu theo Luật định được phân phối như sau:

- Thưởng cho các cá nhân, tập thể có chất lượng phục vụ tốt- Tham quan học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ - Cải thiện điều kiện lao động nhưng không quá 50% quỹ lương thực hiện. Khoản chi này được coi là chi phí hợp lý, hợp lệ khi xác định lợi tức chịu thuế và không

tính vào mức khống chế các quỹ xí nghiệp theo chế độ phân phối lợi nhuận hàng năm.Số tiền còn lại sau khi nộp thuế doanh thu và trích thưởng nói trên, được hạch toán vào thu

nhập của đơn vị để xác định lợi tức chịu thuế và nộp thuế lợi tức theo quy định. Riêng đối với đơn vị kinh doanh thua lỗ thì không được trích chi cho các khoản quy định trên mà phải hạch toán chung vào thu nhập để giảm lỗ.

Page 32: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

Theo quy định toàn bộ khoản thu về phí phục vụ phải đưa vào doanh thu để tính thuế doanh thu, tuy vậy trên thực tế việc thu và sử dụng khoản phụ phí phục vụ còn tuỳ tiện, một số cơ sở thu chưa đúng, hạch toán chưa rõ ràng, sử dụng chưa hợp lý. Ở Việt Nam, không phải cơ sở kinh doanh du lịch nào cũng tách phí phục vụ ra ngoài giá công bố cho khách, mà nhìn chung thì chủ yếu những khách sạn, resort cấp hạng cao mới thực hiện cách tính như trên. Vậy phải chăng, tách phí phục vụ riêng sẽ dễ làm cho khách hàng hiểu sai về phí phục vụ và tiền tip ?

PHÍ PHỤC VỤ VÀ TIỀN TIPNhư đã giới thiệu phần trên, phí phục vụ trong ngành du lịch là tiền thưởng của khách dành

cho nhân viên phục vụ, vậy phí phục vụ có phải là tiền tip không ? Xin trả lời là KHÔNG.

Văn hóa Việt Nam không có phong tục cho tiền tip đối với nhân viên phục vụ như một số nước khác. Tiền típ là khoản tiền khách hàng tự nguyện cho người phục vụ và số lượng tùy thuộc vào khả năng của khách hàng cũng như mức độ hài lòng của họ về sự phục vụ của nhân viên đó và hoàn toàn không bắt buộc. Còn phí phục vụ được pháp luật cho phép các doanh nghiệp tính tỉ lệ % trên doanh thu, được ghi trong hóa đơn và chịu cả thuế giá trị gia tăng. Như vậy tiền tip là tiền của riêng nhân viên và phí phục vụ thì được doanh nghiệp “nhận hộ” nhân viên.

Theo tôi các khách sạn không thể hiện cách tính phí phục vụ không có nghĩa là họ không quan tâm đến “sự cho phép của pháp luật về khoản phí này” và nếu có tính thì khoản tiền này không phải nhận hộ cho nhân viên mà là nhận cho doanh nghiệp hay nói cách khác là doanh

nghiệp chiếm luôn phần phí phục vụ của nhân viên. Còn đối với những doanh nghiệp thực hiện đúng mục đích của việc thu phí này, khoản phí phục vụ mới đúng nghĩa là tiền thưởng của khách hàng cho nhân viên và nhân viên được nhận khoản tiền này hàng tháng (ngoài tiền lương cố định) nhiều hay ít tùy thuộc vào số lượng khách đến với doanh nghiệp, do đó khuyến khích họ làm việc tích cực hơn, tạo ra tiêu chuẩn đồng bộ trong phục vụ của nhân viên để mang lại hài lòng, thu hút khách quay trở lại và đến với doanh nghiệp, qua đó mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp cũng như tăng thuế nộp cho Nhà nước. Đối với khách hàng, đôi khi họ cần lời giải thích từ khoán phí phục vụ này, một số người sẽ cảm thấy khó chịu khi bị tính thêm phí vào giá vì chẳng khác gì bắt họ thưởng tiền cho nhân viên mà có khi họ không hài lòng về chất lượng phục vụ, nhưng mặt khác lại những khách còn cho thêm nhân viên tiền tip ngay cả khi họ đã phải trả phí phục vụ. Thường thì các doanh nghiệp khi đã công khai tính phí phục vụ sẽ ra quy định nếu nhân viên được nhân tiền tip từ khách thì số tiền đó sẽ được hưởng chung cho ca phục vụ, bởi lẽ sự hài lòng của khách không chỉ do cá nhân nhân viên đó mang lại mà là sự nỗ lực của cả một tập thể

Tài liệu tham khảo:Thông tư số 88 liên bộ Tài chính – Tổng cục du lịch: Hướng dẫn việc thu và sử dụng phí phục vụ trong ngành du lịch

Page 33: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

Let's Do Business: I Made a Sweetheart Deal Last MonthThere are many special terms in the world of business. The following story is about a sweetheart deal which I made last week. I made the deal with a friend, and we both made a profit. I had started a small company several years ago. I worked hard to make it successful. It was a sign-making business. It was a small company, not a blue chip company. It was not known nationally for the quality of its signs. It did not make millions of dollars in profits. And it was private. It was not a public company with shares traded on the stock market. Still, I worked hard building up my business. I did not work only a few hours each day -- no banker’s hours for me. Instead I spent many hours each day, seven days a week, trying to grow the company. I never cut corners or tried to save on expenses. I made many cold calls. I called on possible buyers from a list of people I had never seen. Such calls were often hard sells. I had to be very firm. Sometimes I sold my signs at a loss. I did not make money on my product. When this happened, there were cut backs. I had to use fewer supplies and reduce the number of workers. But after several years, the company broke even. Profits were equal to expenses. And soon after, I began to gain ground. My signs were selling very quickly. They were selling like hotcakes. I was happy. The company was moving forward and making real progress. It was in the black, not in the red. The company was making money, not losing it.My friend knew about my business. He is a leader in the sign-making industry – a real big gun, if you know what I mean. He offered to buy my company. My friend wanted to take it public. He wanted to sell shares in the company to the general public. My friend believed it was best to strike while the iron is hot. He wanted to take action at the best time possible and not wait. He offered me a ball park estimate of the amount he would pay to buy my company. But I knew his uneducated guess was low. My company was worth much more. He asked his bean-counter to crunch the numbers. That is, he asked his accountant to take a close look at the finances of my company and decide how much it was worth. Then my friend increased his offer. My friend’s official offer was finally given to me in black and white. It was written on paper and more than I ever dreamed. I was finally able to get a break. I made a huge profit on my company, and my friend also got a bang for the buck. He got a successful business for the money he spent.

Có rất nhiều thành ngữ, thuật ngữ chuyên biệt trong lĩnh vực kinh doanh, mà với vốn tiếng Anh cơ bản đôi khi người dịch sẽ gặp không ít khó khăn, mẫu chuyện nhỏ sau nhằm giúp bạn đọc trau dồi thêm vốn từ của mình.

Câu chuyện sau kể về một thoả thuận mua bán không chính thức mà tôi và một người bạn đã tiến hành hồi tuần trước, cả đôi bên đều có lợi.

Cách đây vài năm, tôi đã khởi nghiệp từ một công ty khá nhỏ. Tôi đã làm việc cần mẫn để công ty thành công như hôm nay. Đó là một công ty chuyên về thiết kế. Một công ty nhỏ thôi chứ chẳng phải công ty có tên tuôi trên thương trường. Nó cũng chẳng nổi danh gì mấy trên toàn quốc trong việc thiết kế. Cũng không phải là một công ty doanh thu bạc triệu đô la. Một công ty tư nhân, không có cổ phần, không cổ phiếu bán trên thị trường.

Tôi đã làm việc cật lực để gầy dựng sự nghiệp. Tôi không chỉ làm ngày vài giờ như kiểu làm theo giờ hành chính. Thật vậy, một ngày tôi làm việc nhiều giờ, một tuần làm cả bảy ngày. Cố gắng để công ty phát triển. Tôi không bao giờ bán rẻ mẫu mã của mình mà không quan tâm đến chất lượng, hay cắt giảm chi phí của sản phẩm. Tôi có thể gọi điện cho bất kỳ khách hàng nào trong danh mục tôi có, cho dù họ không mong đợi cú điện thoại của tôi, kể cả cho những khách hàng khó có cơ may bán được. Tôi đã phải rất vững tin. Đôi khi tôi chấp nhận bán lỗ những mẫu mã của mình. Những lúc như thế, tôi cắt giảm chi phí, giảm số lượng nhân công. Vài năm sau,

Page 34: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

công ty đã hoà vốn. Lợi nhuận, chi phí đã bằng nhau. Chẳng bao lâu sau, công ty đã bắt đầu có dấu hiệu tiến triển. Mẫu mã được bán rất nhanh, bán đắt như tôm tươi. Tôi rất vui mừng vì công ty đã có một bước tiến đáng kể. Nó đã bắt đầu có lãi chứ không còn lỗ vốn nữa. Một anh bạn đã biết chuyện ăn nên làm ra của tôi. Anh ta là người đứng đầu trong ngành công nghệ thiết kế, một nhân vật tai to mặt lớn đấy. Bạn biết chuyện gì xảy ra không, anh ta ngỏ lời mua công ty tôi đấy. Anh bạn tôi muốn đưa công ty lên sàn chứng khoán, bán cổ phần công ty cho công chúng. Bạn tôi tin rằng đây là thời khắc đúng đắn. Anh ta ước chừng một cái giá để mua công ty tôi. Nhưng tôi biết, trả thế là còn quá rẻ, công ty của tôi đáng giá hơn nhiều. Anh ta đã hỏi chuyên gia tài chính của mình và cân nhắc tính toán cụ thể. Và sau khi tham khảo ý kiến, giá mua đã được tăng lên. Cuối cùng chúng tôi cũng đã thống nhất giá cả trên giấy trắng mực đen. Quả thực, tôi cũng gặp vận may. Tôi đã thu được một khoản lợi nhuận khổng lồ. Và anh bạn tôi cũng thu được một món đáng đồng tiền bát gạo.Vocabularysweetheart deal thoả thuận mua bán không chính thứcsign-making business công ty chuyên về thiết kếblue chip company công ty có tên tuôi trên thương trườngbanker’s hours giờ hành chínhcut corners bán rẻ mà không quan tâm đến chất lượngcold calls cuộc điên thoại người nghe không mong đợihard sells khó có cơ may bán đượcat a loss cắt giảm chi phícut backs cắt giảm chi phíbroke even hoà vốngain ground dấu hiệu tiến triểnselling like hotcakes bán đắt như tôm tươiin the black có lãiin the red lỗ vốnbig gun một nhân vật tai to mặt lớntake it public đưa lên sàn chứng khoánto strike while the iron is hot thời khắc đúng đắnball park estimate ước chừng một cái giábean-counter chuyên gia tài chínhcrunch the numbers cân nhắc tính toán cụ thểin black and white trên giấy trắng mực đenget a break gặp vận maybang for the buck một món đáng đồng tiền bát gạo

Nguồn www.voa.specialTừ điển encyclopediaTừ điển chuyên ngành Kinh Tế

Page 35: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌCMÔN GIÁO DỤC THỂ CHẤT TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

Lê Đức DoanhBộ môn Cơ bản

Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước ta trong giai đoạn mới, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công tác phát triển con người toàn diện. Giáo dục thể chất và hoạt động thể dục thể thao (TDTT) giữ một vai trò quan trọng trong việc phát triển con người toàn diện, có đạo đức, có trình độ nghiệp vụ chuyên môn, có đầy đủ sức khỏe và nâng cao tầm vóc thể chất, trình độ văn hóa thể chất dân tộc.

Những năm qua, giáo dục nói chung, giáo dục thể chất nói riêng ở nước ta có nhiều chuyển biến tích cực và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ đất nước trong giai đọan công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải đổi mới mục tiêu giáo dục, trong đó có giáo dục thể chất (GDTC).

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 Khóa VIII 1996 có đoạn: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học tự nghiên cứu của học sinh, nhất là sinh viên Cao đẳng và Đại họcI. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC (PPDH) MÔN HỌC GIÁO DỤC THỂ CHẤT1. Mục tiêu, nhiệm vụ của việc đôi mới PPDH môn học Giáo dục thể chất.

Chương trình môn học Giáo dục thể chất trước đây đã đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ trong đó có hai mục tiêu cơ bản là:

- Truyền thụ kiến thức, kỹ năng cơ bản các môn học TDTT;- Rèn luyện thể lực, góp phần củng cố kỹ năng, kỹ xảo, nâng cao sức khỏe cho sinh viên.Trong đó mục tiêu truyền thụ kiến thức, kỹ năng là trọng tâm, rèn luyện thể lực chỉ là

nhiệm vụ thứ yếu. Vì thế, trong quá trình lên lớp, mọi họat động diễn ra đều tập trung vào việc truyền thụ kiến thức, củng cố nâng cao kiến thức kỹ năng. Thời gian dành cho việc luyện tập nâng cao thể lực quá ít, lượng vận động quá nhẹ chưa đủ để làm biến chuyển thể lực của người tập. Kết quả học tập của sinh viên thấp, bài tập ít có tác dụng rèn luyện thể lực cho sinh viên. Đến nay, hai mục tiêu, nhiệm vụ này phải được coi trọng như nhau. Một trong các đặc trưng cơ bản của môn học Giáo dục thể chất là thực hành, là luyện tập, học đi đôi với hành. Thông qua luyện tập để hình thành, củng cố, nâng cao kỹ năng. Luyện tập là hoạt động cơ bản của dạy học thể dục.

Trong quá trình luyện tập với các bài, các động tác khác nhau, với lượng vận động hợp lý sẽ có tác dụng, ảnh hưởng không nhỏ tới việc rèn luyện thể lực cho sinh viên. Khi các em được luyện tập thì các kỹ thuật, kỹ năng, kỹ xảo động tác cũng được hình thành, củng cố và nâng cao.

Quá trình tập luyện kỹ thuật và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo của sinh viên là một quá trình đòi hỏi phải có thời gian, thời gian nhiều hay ít tùy thuộc vào động tác, bài tập khó hay dễ và phải luyện tập lặp lại nhiều lần, tập với số lần cần thiết thì kỹ thuật, kỹ năng, kỹ xảo mới được hình thành, mới có tác dụng rèn luyện thể lực, nâng cao sức khỏe. 2. Điều kiện cơ sở vật chất và những ảnh hưởng khách quan

Mặc dù trong mấy năm gần đây, sân tập, trang thiết bị, dụng cụ dùng cho giảng dạy, luyện tập từng bước được cải thiện một phần, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện đổi mới PPDH môn học Giáo dục thể chất ở Trường Cao đẳng Thương mại. Tuy nhiên, so với nhu cầu chuyên môn, chuyên ngành đào tạo thì thầy dạy và trò tập vẫn còn thiếu sân bãi, dụng cụ rất nhiều, việc sắp xếp lịch học còn chồng chéo giữa các lớp và các môn học như Giáo dục quốc phòng còn chung một địa điểm và thời gian học, điều này ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình thực hiện các bài tập của học sinh và sinh viên. Chính vì những nguyên nhân trên đòi hỏi giáo viên phải đổi mới PPDH,

Page 36: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

cải tiến phương pháp để lên lớp, sắp xếp các nội dung cũng như cấu trúc của một tiết học hợp lý và khoa học, nhằm sử dụng tối đa sân tập, trang thiết bị, dụng cụ hiện có để tổ chức hoạt động dạy học một cách có hiệu quả nhất.

II. HIỆN TRẠNG VỀ VIỆC DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC THỂ CHẤT TẠI TRƯỜNG CĐ THƯƠNG MẠI

Một là: Điều kiện về sân bãi tập luyện, trang thiết bị dụng cụ còn thiếu rất nhiều nên rất khó khăn cho việc đổi mới PPDH.

Hai là: Chương trình môn học Giáo dục thể chất hiện nay với mục tiêu kiến thức là quan trọng nhất. Xuất phát từ mục tiêu đó, giáo viên khi lên lớp đã giảng giải, phân tích các động tác một cách tỉ mỉ. Điều này rất cần thiết, nhưng vì sử dụng thời gian quá nhiều để giảng giải, phân tích nên sinh viên không có nhiều thời gian để luyện tập, khi đã luyện tập ít thì việc rèn luyện kỹ năng, rèn luyện thể lực cũng chưa đạt yêu cầu. Mặt khác, xuất phát từ những yếu tố khách quan lẫn chủ quan, nên chương trình môn học còn cứng nhắc chưa đáp ứng được sở thích của sinh viên.

Ba là: Trong quá trình lên lớp, vẫn có giáo viên thực hiện các bước lên lớp một cách cứng nhắc, tuần tự đi từ bước này sang bước khác, làm cho giờ học nhàm chán, nặng nề. Chưa kết hợp và giải quyết hài hòa giữa các bước lên lớp, nội dung giảng dạy chưa đồng bộ, cách đánh giá và thang điểm không thống nhất, còn mang nhiều cảm tính và chủ quan.

Bốn là: Các hình thức lên lớp thì đơn điệu, phần lớn giáo viên chỉ sử dụng phương pháp dòng chảy điều này không kích thích được tính tự giác tích cực của học sinh, sinh viên.

Năm là: Khâu tổ chức chưa tính toán hết, nên trong giờ học mất nhiều thời gian tập hợp cũng như luân chuyển đội hình làm ảnh hưởng không nhỏ đến thời gian luyện tập của sinh viên.

Sáu là: Chưa tận dụng hết những dụng cụ và điều kiện sân tập để tổ chức cho sinh viên luyện tập.

Bảy là: Phần lớn sinh viên chưa ý thức rõ tầm quan trọng của việc học môn GDTC cho nên sinh viên còn xem nhẹ môn học này.

Với những hiện trạng trên, làm cho chất lượng giờ dạy chưa thật đạt yêu cầu. Thực tế và mục tiêu còn có một khoảng cách cần được khắc phục nhằm thực hiện có chất lượng mục tiêu rèn luyện kỹ năng và rèn luyện thể lực, góp phần nâng cao thể chất cho sinh viên.

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI PPDH MÔN HỌC GIÁO DỤC THỂ CHẤT TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI

Đổi mới PPDH là một yêu cầu khách quan và cần thiết trong chương trình giáo dục. Đổi mới PPDH không phải là gạt bỏ, thay thế PPDH hiện có mà vận dụng một cách sáng tạo các phương pháp hiện có để đạt mục tiêu của môn học. Riêng môn Giáo dục thể chất không chỉ đổi mới về phương pháp mà còn phải đổi mới về cách sắp xếp nội dung một tiết học, đổi mới về tổ chức lên lớp... nghĩa là phải đổi mới toàn diện ở mọi hoạt động trên lớp.

Thứ nhất: Đổi mới quan điểm dạy học, lấy sinh viên làm trung tâm trong quá trình dạy học:

- Học sinh, sinh viên phải hiểu rõ và ý thức được tầm quan trọng của môn học. Từ đó học sinh, sinh viên tự rèn luyện, tự trau dồi phẩm chất đạo đức và hình thành nhân cách của mình;

- Hướng dẫn sinh viên tham khảo, đọc tài liệu phân tích kỹ thuật động tác, luyện tập ngoại khoá;

- Sử dụng câu hỏi, nêu tình huống có vấn đề để sinh viên tổ chức thảo luận, tổ chức khám phá, tổ chức luyện tập trước;

- Để sinh viên thường xuyên tham gia kiểm tra, tự kiểm tra, tự đánh giá.Thứ hai: Đổi mới nội dung, chương trình:- Lược bỏ những nội dung mà các em đã được học ở chương trình trung học phổ thông gây

tâm lý nhàm chán trong sinh viên;- Lược bỏ những nội dung lý thuyết không quan trọng để thay vào đó là những nội dung

thực hành;- Tăng cường những môn thể thao tự chọn mà sinh viên ham thích. Nên đưa một số môn

thể thao như Bóng rổ và Bóng đá để kích thích sự vận động liên tục cho sinh viên khi tham gia học tập và tập luyện.

Page 37: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

Thứ ba: Đổi mới cách đánh giá, hình thức thi:- Kết quả đánh giá thi kết thúc học phần nên có hai giao viên tham gia chấm thi và đánh giá

để mang tính công bằng và khách quan hơn. Phải có thang điểm rõ ràng cho học sinh và sinh viên biết để từ đó học sinh, sinh viên có tinh thần phấn đấu trong học tập và rèn luyện;

- Tiến hành nhiều hình thức kiểm tra, thi: Tự luận, trắc nghiệm, vấn đáp, sử dụng đề mở...Khi kiểm tra thực hành nên kiểm tra cả thành tích lẫn kỹ thuật thực hiện động tác;

- Có thang điểm (ở nội dung thực hành) phù hợp cho từng đối tượng, trình độ, sức khỏe của sinh viên.

Thứ tư: Thay đổi PPDH:- Khi giáo viên sử dụng nhóm phương pháp dùng lời nói (phương pháp giảng giải, quy nạp,

phát vấn, đàm thoại, mệnh lệnh) để truyền thụ kiến thức cho sinh viên, nếu dạy động tác, kỹ thuật mới, giáo viên cần nói ngắn gọn, dễ hiểu, dùng thuật ngữ chính xác, xoáy vào trọng tâm, vào những yếu lĩnh kỹ thuật quan trọng;

- Các động tác bổ trợ không nhất thiết phải phân tích mà chỉ cần làm mẫu và tổ chức cho sinh viên tập luyện ngay;

- Khi giáo viên sử dụng nhóm phương pháp trực quan (làm mẫu, cho xem tranh ảnh, biểu đồ, phim....) chú ý đến vị trí làm mẫu, chọn hướng làm mẫu để sinh viên có thể nhìn rõ, nhìn thấy biên độ, góc độ động tác;

- Tăng cường sử dụng tranh ảnh, biểu đồ... giúp cho sinh viên nắm được kỹ thuật một cách nhanh hơn mà không tốn thời gian và có thể tự so sánh giữa động tác của mình với tranh ảnh kỹ thuật;

- Sắp xếp nội dung tập luyện một cách hợp lý, mỗi buổi học (thường 2 tiết) nên có 2 đến 3 nội dung;

- Kết hợp ôn tập, học mới, tập luyện, kiểm tra không nhất thiết phải thành một mục riêng;- Luân chuyển giữa các nội dung một cách hợp lý, đưa ra lượng vận động và cường độ vận

động phải thích hợp với trình độ và thể trạng của sinh viên;- Mạnh dạn áp dụng các phương pháp, các hình thức lên lớp như: Dòng chảy, phân nhóm,

phân nhóm xoay vòng. Tuỳ theo từng bài mà giáo viên áp dụng phương pháp, hình thức cho linh hoạt.

- Mạnh dạn sử dụng phương pháp trò chơi, thi đấu....- Sử dụng các phương tiện dạy học một cách hợp lý, hiệu quả.

VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC THỂ CHẤT TRONG TRƯỜNG HỌC HIỆN NAY

Nguyễn Thị Hạnh Bộ môn Cơ Bản

Giáo dục thể chất là một trong mục tiêu giáo dục toàn diện của Đảng và Nhà nước ta, và nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục thể chất được hiểu là: “Quá trình sư phạm nhằm giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, hoàn thiện về thể chất và nhân cách, nâng cao khả năng làm việc, và kéo dài tuổi thọ của con người”.

Giáo dục thể chất cũng như các loại hình giáo dục khác, là quá trình sư phạm với đầy đủ đặc điểm của nó, có vai trò chủ đạo của nhà sư phạm, tổ chức hoạt động của nhà sư phạm phù hợp với học sinh với nguyên tắc sư phạm. Giáo dục thể chất chia thành hai mặt tương đối độc lập: Dạy học động tác (giáo dưỡng thể chất) và giáo dục tố chất thể lực. Trong hệ thống giáo dục nội dung đặc trưng của giáo dục thể chất được gắn liền với giáo dục, trí dục, đức dục, mỹ dục và giáo dục lao động.

Page 38: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH …cdtm.edu.vn/Portals/0/KHDN/BantinKH/ban thao so 6.doc · Web viewChị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn

Giáo dục thể chất là một lĩnh vực thể dục thể thao (TDTT) xã hội với nhiệm vụ là: “Phát triển toàn diện các tố chất thể lực, và trên cơ sở đó phát triển các năng lực thể chất, bảo đảm hoàn thiện thể hình, củng cố sức khoẻ, hình thành theo hệ thống và tiến hành hoàn thiện đến mức cần thiết các kỹ năng và kỹ xảo quan trọng cho cuộc sống”. Đồng thời chương trình giáo dục thể chất trong các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp nhằm giải quyết các nhiệm vụ giáo dục đó là: “Trang bị kiến thức, kỹ năng và rèn luyện thể lực cho học sinh sinh viên”.

Nội dung chương trình giáo dục thể chất trong các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp được tiến hành trong cả quá trình học tập của sinh viên trong nhà trường bằng các hình thức:

* Giờ học thể dục thể thao chính khoá: Là hình thức cơ bản nhất của giáo dục thể chất được tiến hành trong kế hoạch học tập của

nhà trường. Vì việc đào tạo cơ bản về thể chất, thể thao cho học sinh sinh viên là nhiệm vụ cần thiết, nên trước hết phải có nội dung thích hợp để phát triển các tố chất thể lực và phối hợp vận động cho học sinh sinh viên. Đồng thời, giúp các em có trình độ nhất định để tiếp thu được các kỹ thuật động tác TDTT.

Với mục tiêu chính của việc đào tạo cơ bản về thể chất và thể thao trong trường học là: “Xúc tiến quá trình đào tạo năng lực đạt thành tích trong thể chất và thể thao của học sinh sinh viên, phát triển các tố chất thể lực, phát triển năng lực tâm lý, tạo ý thức tập luyện TDTT thường xuyên, giáo dục được đức tính cơ bản và lòng nhân đạo cho học sinh”.

Bản thân giờ học TDTT có ý nghĩa quan trọng nhiều mặt đối với việc quản lý và giáo dục con người trong xã hội. Việc học tập các bài tập thể dục, các kỹ thuật động tác là điều kiện cần thiết để con người phát triển cơ thể một cách hài hoà, bảo vệ và củng cố sức khoẻ, hình thành năng lực chung và chuyên môn.

* Giờ học ngoại khoá - tự tập: Là nhu cầu và ham thích trong khi nhàn rỗi của 1 bộ phận học sinh sinh viên với mục đích

và nhiệm vụ là góp phần phát triển năng lực, thể chất một cách toàn diện, đồng thời góp phần nâng cao thành tích thể thao của học sinh sinh viên. Giờ học ngoại khoá nhằm củng cố và hoàn thiện các bài học chính khoá và được tiến hành vào giờ tự học của học sinh sinh viên, hay dưới sự hướng dẫn của giáo viên TDTT, hướng dẫn viên. Ngoài ra còn các hoạt động thể thao quần chúng ngoài giờ học bao gồm: Luyện tập trong các câu lạc bộ, các giải thi đấu trong và ngoài trường được tổ chức hàng năm, các bài tập thể dục vệ sinh chống mệt mỏi hàng ngày, cũng như giờ tự luyện tập của học sinh sinh viên, phong trào tự tập luyện rèn luyện thân thể. Hoạt động ngoại khoá với chức năng là động viên lôi kéo nhiều người tham gia tập luyện các môn thể thao yêu thích, góp phần nâng cao sức khoẻ phục vụ học tập và sinh hoạt.

Tác dụng của giáo dục thể chất và các hình thức sử dụng TDTT có chủ đích áp dụng trong các trường học là toàn diện, là phương tiện để hợp lý hoá chế độ hoạt động, nghỉ ngơi tích cực, giữ gìn và nâng cao năng lực hoạt động, học tập của học sinh sinh viên trong suốt thời kỳ học tập trong nhà trường, cũng như đảm bảo chuẩn bị thể lực chung và chuẩn bị thể lực chuyên môn phù hợp với những điều kiện của nghề nghiệp trong tương lai.