vỊ thẾ nam bỘ - qlkh.hcmussh.edu.vnqlkh.hcmussh.edu.vn/resources/docs/subdomain/qlkh/dong bac...

12
VTHNAM BTRONG QUAN HKINH T- THƢƠNG MẠI VIT - NHT Nguyn Tiến Lc Trong lch squan hVit Nam - Nht Bn, Nam BVit Nam có mt vthế rt quan trng. Trong thi kMu dch Châu n thuyn (cui thế kXVI đầu thế kXVII), phía Nam Vit Nam, tức là Đàng Trong là khu vực có quan hbuôn bán vi Nht Bn ln nht ca Vit Nam và cĐông Nam Á. Vào cuối thế kXIX đầu thế kXX, khi Vit Nam trthành thuộc địa ca thc dân Pháp, trong quan hvi Nht Bn, chyếu là quan hthương mi, thì Nam B(Cochinchine) chiếm vtrí áp đảo vslượng và kim ngạch thương mại vi Nht, so vi Trung B(An Nam) và Bc B(Tonkin); và trong thi khin nay ktsau Đổi mi, nht là trong thi k“làn sóng đầu tư” lần th1, Nam Blà nơi Nhật Bn quan tâm đầu tư nhiều nhất, nơi các doanh nhân Nhật Bn chn sinh sng và hoạt động nhiu nhất, nơi mà khách du lịch Nht Bn la chn tham quan nhiu nhất…. Còn trong thi khin nay, ktnăm 2001, vị thế đó của Nam Bđã bắt đầu thay đổi. Trong bài viết này, tác gila chn nhng thi ktiêu biu trong quan hkinh tế - thương mại Vit - Nht để chng minh cho nhận định trên, đặc bit mun lý gii những thay đổi gần đây trong quan hkinh tế - thương mại Vit - Nhật và đưa ra một vấn đề ln: Liu Nam Bcó giđược vthế như trước đây trong quan hệ kinh tế - thương mại vi Nht Bn hay không? Trước hết, chúng ta hãy xem xét mt cách cthvthế ca Nam Btrong các thi kchyếu ca quan hkinh tế - thương mại Vit - Nht . 1. Đàng Trong là khu vực buôn bán ln nht ca Nht Bn Thi Châu n thuyền” (thế kXVI-XVII) Sau mt thi gian dài ni chiến, cui thế kXVI, Nht Bn thng nhất dưới quyn lc ca dòng hTokugawa. Các Shogun chtrương ổn định tình hình trong nước, tăng cường giao lưu và quan hthương mại với nước ngoài, trong đó đặc bit coi trng quan hthương mi với các nước Đông Nam Á. Chính sách đó do những nguyên nhân sau đây: Mt là, sau mt thi gian dài ni chiến, đất nước thng nht, xã hi thái bình, nhu cu Tiến sĩ, Trung tâm Nghiên cứu Nht Bn

Upload: others

Post on 30-Aug-2019

0 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

VỊ THẾ NAM BỘ

TRONG QUAN HỆ KINH TẾ - THƢƠNG MẠI VIỆT - NHẬT

Nguyễn Tiến Lực

Trong lịch sử quan hệ Việt Nam - Nhật Bản, Nam Bộ Việt Nam có một vị thế rất quan

trọng. Trong thời kỳ Mậu dịch Châu ấn thuyền (cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII), phía

Nam Việt Nam, tức là Đàng Trong là khu vực có quan hệ buôn bán với Nhật Bản lớn nhất

của Việt Nam và cả Đông Nam Á. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX, khi Việt Nam trở

thành thuộc địa của thực dân Pháp, trong quan hệ với Nhật Bản, chủ yếu là quan hệ thương

mại, thì Nam Bộ (Cochinchine) chiếm vị trí áp đảo về số lượng và kim ngạch thương mại

với Nhật, so với Trung Bộ (An Nam) và Bắc Bộ (Tonkin); và trong thời kỳ hiện nay kể từ

sau Đổi mới, nhất là trong thời kỳ “làn sóng đầu tư” lần thứ 1, Nam Bộ là nơi Nhật Bản

quan tâm đầu tư nhiều nhất, nơi các doanh nhân Nhật Bản chọn sinh sống và hoạt động

nhiều nhất, nơi mà khách du lịch Nhật Bản lựa chọn tham quan nhiều nhất…. Còn trong

thời kỳ hiện nay, kể từ năm 2001, vị thế đó của Nam Bộ đã bắt đầu thay đổi. Trong bài viết

này, tác giả lựa chọn những thời kỳ tiêu biểu trong quan hệ kinh tế - thương mại Việt - Nhật

để chứng minh cho nhận định trên, đặc biệt muốn lý giải những thay đổi gần đây trong quan

hệ kinh tế - thương mại Việt - Nhật và đưa ra một vấn đề lớn: Liệu Nam Bộ có giữ được vị

thế như trước đây trong quan hệ kinh tế - thương mại với Nhật Bản hay không?

Trước hết, chúng ta hãy xem xét một cách cụ thể vị thế của Nam Bộ trong các thời kỳ

chủ yếu của quan hệ kinh tế - thương mại Việt - Nhật .

1. Đàng Trong là khu vực buôn bán lớn nhất của Nhật Bản “Thời Châu ấn

thuyền” (thế kỷ XVI-XVII)

Sau một thời gian dài nội chiến, cuối thế kỷ XVI, Nhật Bản thống nhất dưới quyền lực

của dòng họ Tokugawa. Các Shogun chủ trương ổn định tình hình trong nước, tăng cường

giao lưu và quan hệ thương mại với nước ngoài, trong đó đặc biệt coi trọng quan hệ thương

mại với các nước Đông Nam Á. Chính sách đó do những nguyên nhân sau đây:

Một là, sau một thời gian dài nội chiến, đất nước thống nhất, xã hội thái bình, nhu cầu

Tiến sĩ, Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản

hưởng thụ tăng cao thôi thúc các thương nhân tăng cường buôn bán với nước ngoài để đáp

ứng nhu cầu mới của xã hội. Mặt khác, ở Nhật đã hình thành các thành phố thương mại lớn

như Edo, Kyoto, Sakai, Osaka, Hirado... tầng lớp thương nhân giàu có và cả các daimyo

tham gia hoạt động thương mại cũng xuất hiện ngày càng nhiều, có khả năng tham gia vào

các hoạt động thương mại quốc tế.

Hai là, lúc bấy giờ Nhật Bản là nước sản suất vàng, bạc, đồng nhiều nhất Đông Á.

Theo tính toán của Iwao, đương thời, ngoại trừ Nhật Bản, toàn thế giới chỉ sản xuất được

390 đến 420 tấn bạc, nhưng có lúc, Nhật Bản sản xuất được 30%-40 % lượng bạc của toàn

thế giới. Nhờ đó, Nhật Bản có tiền và cũng là hàng để trao đổi với các nước, có thể mua bán

được khối lượng hàng lớn và quý của các nước.

Ba là, đây là thời kỳ đại hàng hải, các thuyền buôn lớn của các nước phương Tây ồ ạt

sang châu Á buôn bán. Nhờ đó mà người Nhật đã nhanh chóng tiếp thu kỹ thuật đóng tàu,

kỹ thuật hàng hải và mua của người phương Tây các kỹ thuật phục vụ hàng hải. Điều này

cho phép thương nhân người Nhật có khả năng buôn bán lớn ở nước ngoài.

Bốn là, xưa nay, bạn hàng lớn nhất của Nhật Bản vẫn là Trung Quốc nhưng giữa thời

nhà Minh, triều đình đã ban hành chính sách hải cấm (Haijin), mậu dịch giữa Nhật Bản và

Trung Quốc bị đình trệ. Người Nhật phải tìm thị trường mới để mua các sản phẩm cùng

chủng loại và chất lượng với sản phẩm Trung Quốc, nhất là tơ lụa và đồ gốm sứ. Đương

thời chỉ có thị trường Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam mới đáp ứng được điều đó. Điều

này giải thích tại sao vào thời kỳ này, Nhật tập trung buôn bán với khu vực Đông Nam Á.

Biểu 1: Số lượng Châu ấn thuyền Nhật Bản đến các cảng Đông Nam Á (đầu thế kỷ XVII)

Năm An

Nam Tonkin Cajiam

Thuận

Hoá Cochinchina

Cham

Pa Cambodia Siam Luson

1604 4 3 1 1 1 5 4 4

1605 3 2 1 5 4

1606 2 1 1 3 4 3

1607 1 1 4 4 4

1608 1 1 1 1

1609 1 1 1 6 3

1610 1 3 1 3 2

Năm An

Nam Tonkin Cajiam

Thuận

Hoá Cochinchina

Cham

Pa Cambodia Siam Luson

1611 2 3 1 2

1612 1 3 2 1

1613 1 6 1 3 1

1614 1 7 2 3 4

1615 5 1 5 5

1616 1 4 1

1617 2 5 1 1

1618 3 7 2 1 3

1619 3 1 1

1620 5 1 2

1621 1 2 1 4

1622 1 2 2

1623 2 2 2 3 1

1624 2 2 1 2

1625 1 1 2

1626 1

1627 1 1 2

1628 2 2 2 3

1629 1 1 1

1630 1

1631 1 1 1 1 2

1632 2 3 4

1633 3 2 1 1 2

1634 3 2 2

Tổn

g

cộng

14 36 1 1 69 5 43 56 53

Nguồn: Iwao Seiichi, Shuinsen boeki-shi no kenkyu, Yoshikawa Kobunkan, 1985 (Tác giả

biên tập lại)

Trước hết, xin xác định lại các địa danh trong Biểu 1: An Nam, Thuận Hoá,

Cochinchina, Champa đều là những bộ phận khác nhau của Đàng Trong, còn Cijam thì theo

nhiều nhà nghiên cứu, là do đọc chệch chữ Chiêm, tức là Chiêm Thành, cũng là một bộ

phận của Đàng Trong. Cambodia là Campuchia, Siam là Thái Lan và Luzon là Philippines.

Trong việc buôn bán với Đông Nam Á thì Nhật Bản trung tâm buôn bán tấp nập nhất

với Đàng Trong. Theo Biểu 1, từ 1604 đến 1634 có đến 273 Châu ấn thuyền của Nhật đến

buôn bán với các nước Đông Nam Á, trong đó có 116 lượt thuyền đến buôn bán với Việt

Nam, trong đó có 80 thuyền buôn bán với Đàng Trong, trong khi đó chỉ có 56 thuyền đến

Thái Lan, 53 thuyền đến Philippines và 43 lượt thuyền đến Campuchia. Như vậy, Châu ấn

thuyền Nhật Bản đến buôn bán với Việt Nam chiếm gần một nửa số lượng thuyền buôn với

toàn khu vực Đông Nam Á và lượng thuyền đến Đàng Trong chiếm hơn 70% của toàn Việt

Nam.

Vào thời kỳ này, các thương cảng của Đàng Trong mà trung tâm là Hội An đã phát huy

lợi thế của mình bằng cách gom hàng từ các nơi về bán lại cho thương nhân Nhật hoặc

khuyến khích các thương thuyền từ Đông Nam Á tới đặt thương điếm buôn bán. Nhờ vậy

khi đến Hội An, thương nhân Nhật không chỉ mua tơ lụa, một mặt hàng quan trọng mà có

thể mua được hầu như tất cả các đặc sản ở Đông Nam Á. Ví dụ, vào thời gian này, có nhiều

người Nhật sinh sống ở Campuchia nhưng họ không đặt thương điếm ở đó mà đặt các

thương điếm ở Hội An, rồi mua hàng, đem sang Campuchia bán. Trong bài nghiên cứu gần

đây, ThS. Dương Văn Huề đã suy luận rằng, có nhiều bằng chứng , ngoài Hội An, các

thương nhân Nhật Bản đã đến buôn bán ở Sài Gòn, Đồng Nai vào thời kỳ nay.

Ngoài ra, qua một số thống kê khác, Iwao Seiichi còn chỉ ra rằng, lượng tiền trung

bình mà Châu ấn thuyền mang vào buôn bán với Giao Chỉ và Tonkin là hơn 700 quan (ryo)/

thuyền, nhiều hơn gấp đôi so với lượng tiền mang vào buôn bán với các nước Đông Nam Á

khác (300 - 350 quan/thuyền).

Thời kỳ Châu ấn thuyền tuy không dài trong lịch sử Nhật Bản nhưng đó là một trong

những thời kỳ “hoàng kim” trong quan hệ kinh tế - thương mại của Nhật đối với khu vực

Đông Nam Á. Trong thời kỳ đó, Đàng Trong có vị thế quan trọng nhất. Các cảng Đàng

Trong tiếp nhận số lượng Châu ấn thuyền Nhật Bản nhiều nhất và lượng tiền buôn bán cũng

nhiều nhất. Ngoài ra, Hội An, thương cảng lớn nhất của Đàng Trong lúc bấy giờ, còn đóng

vai trò trung tâm buôn bán của Nhật với Đông Nam Á.

Trong quá trình buôn bán, do yếu tố địa lý và thương mại, người Nhật lưu lại ở các

cảng lâu ngày nên đã lập nên các phố Nhật (Nihon machi), để lại dấu ấn giao lưu kinh tế và

văn hoá tốt đẹp giữa Nhật với Đông Nam Á.

2. Thời kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: Nam Bộ chiếm vị trí áp đảo về kinh tế

- thƣơng mại với Nhật Bản

Trong một thời gian dài hàng thế kỷ, do chính sách sakoku (tỏa quốc) của Nhật Bản và

chính sách đóng cửa của các triều đình phong kiến Việt Nam, quan hệ kinh tế - thương mại

của Nam Bộ nói riêng và Việt Nam nói chung với Nhật Bản bị đình đốn.

Vào nửa sau thế kỷ XIX, khi Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược còn Nhật Bản mở

cửa, duy tân, công nghiệp hóa đất nước thì quan hệ kinh tế-thương mại giữa hai nước được

nối lại. Như chúng ta đã biết, vào năm 1860, khi Pháp mở cảng Sài Gòn thì lúa gạo trở

thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Nam Bộ; và như đã nói trên, Nhật Bản đang trong

quá trình công nghiệp hóa, thiếu lương thực nên rất cần nhập lúa gạo. Trong bài viết gần

đây, tác giả đã chỉ rõ vị thế của gạo Nam Bộ trong quan hệ thương mại Việt-Nhật vào cuối

thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Hàng của Việt Nam xuất sang Nhật chủ yếu là gạo và trong mặt

hàng gạo xuất khẩu chủ yếu là gạo Nam Bộ.

Biểu 2: Xuất khẩu của toàn Đông Dương sang Nhật (Đơn vị: 1000yên)

Năm Gạo Bông sợi Khoáng vật Than đá

1917 2.332 628 2.367 1.725

1918 50.003 533 1.785 2.759

1920 14.438 131 46 4.703

1921 13.780 1.436 182 3.445

1922 12.275 922 n.a 3.522

1923 5.901 616 n.a 3.256

1924 13.469 489 322 3.293

1925 43.743 976 520 2.698

1926 19.330 152 104 3.841

1927 25.159 907 325 5.235

1928 11.563 94 469 5.212

Nguồn: “Futsuryo Indoshina to boeki jijo”. 1941, Furoku, p.16.

Qua biểu 2 cho chúng ta thấy rõ hàng xuất khẩu chiến lược của Việt Nam sang Nhật là

gạo, sau đó là than đá, rồi đến khoáng vật mà chủ yếu là kẽm và sợi bông. Về gạo, chúng ta

khó có khả năng thống kê một cách chính xác hàng gạo của Nam Bộ sang Nhật, bởi vì việc

xuất khẩu gạo của Nam Bộ thường thông qua hai thương cảng lớn là Hồng Kông và

Singapore rồi từ đó tái xuất sang Nhật. Tuy nhiên điều có thể khẳng định được là gạo của

Nam Bộ chiếm áp đảo trong tổng số hàng gạo nhập của Nhật, vì Bắc Bộ và Trung Bộ không

có gạo xuất khẩu còn gạo Campuchia là không đáng kể.

Mặt khác, theo thống kê của Hiệp hội phát triển ngoại thương Nhật thì kim ngạch nhập

khẩu gạo Nam Bộ chiếm trung bình từ 60% đến 90% tổng kim ngạch nhập khẩu từ Nam Bộ

vào Nhật. Năm 1918 Nhật nhập gạo của Đông Dương với kim ngạch là 50triệu/55,4 triệu

yên, năm 1925 nhập 43,7triệu/48,7 triệu yên. Cũng cần nói thêm, vào đầu thế kỷ XX, kim

ngạch nhập khẩu gạo Sai Gòn chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng kim ngạch nhập ngũ cốc của

Nhật: năm 1918 tổng kim ngạch nhập khẩu ngũ cốc của Nhật là 141,3 triệu yên, năm 1919:

270,4 triệu yên, năm 1925: 293 triệu yên. Ở Nhật, có một thời từ “Saigon-mai” (Gạo Sài

Gòn) trở thành một từ lưu hành phổ biến trong đời sống nhân dân. Tuy nhiên, do không có

Hiệp ước thương mại trực tiếp, việc nhập khẩu gạo Nam Bộ vào Nhật không ổn định, tùy

thuộc vào nhu cầu của Nhật, năm nhiều năm ít.

Vào những năm 1930-1940, khi Nhật bắt đầu hướng về “phương Nam”, đưa tầm quan

trọng của Đông Nam Á lên hàng quốc sách (kokusaku). Nhật hết sức coi trọng vai trò của

Việt Nam trong quan hệ với Đông Nam Á. Trong những năm 1937-1939, Nhật quan tâm

đến việc chặn con đường viện trợ của Anh - Mỹ cho quân Tưởng qua Bắc Việt Nam. Từ

năm 1940, Nhật rất quan tâm đến mối quan hệ kinh tế - thương mại với Việt Nam. Trong

Quyết nghị của Chính phủ Nhật ngày 3 tháng 9 năm 1940 cũng đã xác nhận: Phải nỗ lực ký

kết Hiệp định thương mại với Đông Dương, yêu cầu Đông Dương phải đáp ứng các tiện

nghi đặc biệt cho việc thành lập và kinh doanh các xí nghiệp của Nhật, phải ưu tiên xuất

khẩu cho Hoàng quốc các nguyên liệu quan trọng và cần thiết. Nguyên liệu quan trọng và

cần thiết mà Nhật Bản đề cập trước hết là gạo Nam Bộ.

Biểu 3: Xuất khẩu của Nhật sang Đông Nam Á ( đơn vị: 1000 yên).

Năm Tổng

ngạch Việt Nam Indonesia Malaysia Philippines Thái Lan

1932 1.409.992 2.343 100.251 25.600 22.361 8.541

1933 1.861.046 3.680 157.488 46.271 24.051 18.124

1934 2.171.924 2.654 158.415 63.620 36.461 28.084

1935 2.499.073 4.020 143.041 51.494 48.058 40.258

1936 2.692.976 4,697 129.495 61.747 51.840 43.028

1937 3.175.418 4,623 200.050 72.340 60.348 49.351

1938 2.689.667 3.181 104.145 22.870 32.599 39.269

1939 3.576.342 1.981 137.802 22.430 24.743 26.023

Nguồn: Nanyoken Boeki Tokeihyo, T., 1943. (Tác giả có biên tập lại).

Biểu 4: Nhập khẩu của Nhật từ Đông Nam Á ( đơn vị 1000 yên)

Năm Tổng

ngạch Việt Nam Indonesia Malaysia Philippines Thái Lan

1932 1.431.460 5.691 40.409 28.961 9.764 11.198

1933 1.971.220 9.640 55.710 44.544 14.185 12.256

1934 2.282.530 10.620 63.464 70.624 18.891 1.540

1935 2.472.236 15.010 78.178 78.975 23.949 5.458

1936 2.763.681 20.151 113.546 96.016 26.266 8.757

Năm Tổng

ngạch Việt Nam Indonesia Malaysia Philippines Thái Lan

1937 3.783.117 27.011 153.450 134.067 45.194 13.571

1938 2.663.337 20.300 88.249 100.968 35.630 4.950

1939 2.917.640 26.651 71.741 115.839 49.117 5.405

Nguồn: Nakyoken Boeki Tokeihyo, T., 1943.(Tác giả có biên tập lại).

Nhìn vào các biểu thống kê trên, chúng ta thấy rằng vào những năm 1940, Việt Nam

nhanh chóng trở thành bạn hàng lớn nhất của Nhật ở Đông Nam Á. Theo các biểu 3 và biểu

4, năm 1940, Nhật xuất sang Việt Nam tổng kim ngạch khoảng 2,5triệu yên và nhập từ Việt

Nam 97,8 triệu yên, trong khi đó xuất sang Indonesia là 173,3 triệu yên và nhập về 125,3

triệu yên. Nhưng đến năm 1942 tình hình xuất nhập khẩu của Nhật với 2 nước này hoàn

toàn biến đổi ngược lại. Nhật xuất sang Việt Nam 143,3 triệu và nhập về 223,9 triệu yên,

trong khi chỉ xuất sang Indonesia chỉ có 15,7 triệu yên và nhập về 127,5 triệu yên. Năm

1943, tổng kim ngạch buôn bán với Việt Nam của Nhật cũng vượt lên trên Indonesia. Các

biểu thống kê thương mại cho chúng ta thấy trong thời kỳ 1940-1945 và đặc biệt là những

năm 1942, 1943, xuất nhập khẩu của Nhật với Việt Nam chiếm vị trí số 1 ở Đông Nam Á.

Trong những năm 1940, cùng với việc tăng nhanh kim ngạch thương mại giữa Nhật

Bản và Đông Dương, cơ cấu sản phẩm thương mại giữa hai nước cũng thay đổi lớn. Sau đây

chúng ta sẽ phân tích các biểu thống kê để hiểu cụ thể hơn về sự biến đổi đó.

Biểu 5: Sản phẩm nhập từ Đông Dương (Tính theo kim ngạch. Đơn vị: 1000 yên)

Năm Tổng

ngạch Lúa gạo

Dƣợc

phẩm Sơn, sơn dầu Khoáng vật Tạp hoá

1942

1943

1944

1945

223 984 132 260 22 275

311

133 516 95 259 13 348

n.a

63 925 17 620

27 n.a

1 012 817 110 n.a

16 924 12 056

560 n.a

1 905 83 25 5

Nguồn: Khu vực thịnh vượng chung Nam phương.

Biểu 6: Sản phẩm chủ yếu của Nhật xuất sang Đông dương (tính theo kim ngạch. Đơn vị:

1000 yên)

Năm Tổng

ngạch Ngũ cốc Sợi Vải, lụa Giấy Kim loại Máy móc

1942

1943

1944

1945

144 379 97 034 21 760 1 898

5 005 4 452 1 095

n.a

25 205 12 873 4 201

n.a

70 978 43 655 5 693 1 078

6 927 2 985 2 492 319

6 410 3 191 1 049

49

6 284 9 468 3 414 112

Nguồn: Khu vực thịnh vượng chung Nam phương.

Theo biểu 5 và biểu 6, chúng ta thấy, biểu hiện rõ nhất của sự biến đổi đó là sự tăng

nhanh kim ngạch nhập khẩu lương thực, chủ yếu là lúa gạo mà chủ lúa gạo Nam Bộ. Năm

1942, tổng ngạch nhập khẩu lúa gạo từ Đông Dương, chủ yếu là Nam Bộ lên tới 133,5 triệu

yên, năm 1943 là 95,2 triệu yên. Về mặt số lượng, theo tính toán của J. Gaultier thì năm

1940 là 468.000 tấn, 1941 lên tới 585.000 tấn, năm 1942 là 973.908 tấn, năm 1943 là

1.023.471 tấn, 1944 là 498.525 tấn. Nếu như những năm 1930 tỷ lệ xuất khẩu lúa gạo sang

Hồng Kông là 39%, sang Singapore là 7%, sang Trung Quốc là 6%, sang Pháp là 14 % thì

những năm 1940 xuất khẩu lúa gạo cho Nhật chiếm 80% tổng ngạch xuất khẩu lúa gạo của

Đông Dương. Ngoài lúa gạo ra, Nhật còn nhập một số lượng lớn ngô của Đông Dương.

Theo những thống kê mà ta biết được, năm 1942 là 124.000 tấn, 1943 là 98.000 tấn. Và

điều khẳng định chắc chắn rằng, gạo Nam Bộ chiếm tỷ lệ áp đảo về số lượng và kim ngạch

trong quan hệ thương mại với Nhật Bản.

Lúc bấy giờ Đông Dương gần như là nơi duy nhất Nhật có thể tiến hành nhập khẩu các

mặt hàng chiến lược quan trọng. Đặc biệt lúa gạo Nam Bộ là mặt hàng tối quan trọng, đảm

bảo lươg thực cho quân đội trong chính sách Đại Đông Á của Nhật Bản.

Điều đáng tiếc là mặc dầu Nam Bộ chiếm vị thế quan trọng trong quan hệ thương mại

Việt - Nhật trong thời kỳ này, tuy nhiên, đó là thời kỳ “thương mại phi thương mại”, quan

hệ thương mại mang tính chất cướp đoạt. Và trên thực tế, quan hệ thương mại kiểu đó đã

gây ra những hậu quả nghiêm trọng về sinh mệnh, kinh tế và xã hội cho Việt Nam.

3. Nam Bộ trong quan hệ thƣơng mại Nhật - Việt sau Đổi mới

Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, đặc biệt sau năm 1954, khi Việt Nam bị chia cắt

thành hai miền và trong bầu không khí “chiến tranh lạnh” bao trùm khắp thế giới, quan hệ

Việt - Nhật có nhiều khó khăn. Chỉ sau khi Việt Nam thống nhất (1976), đặc biệt là sau khi

Việt Nam thực thi chính sách Đổi mới, hơn nữa sau khi “vấn đề Campuchia” được giải

quyết (1991), Nhật Bản tái viện trợ cho Việt Nam(1992) thì quan hệ kinh tế - thưong mại

Việt - Nhật được khôi phục và phát triển nhanh chóng.

Biểu 8: Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam (Đơn vị: 100 triệu yên)

Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007

Kim ngạch 0.6 0.8 1.6 1.0 1.0 2.5 4.6 10.8 9.7

Tính đến 2007, kim ngạch đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam đạt hơn 9 tỷ USD , đứng thứ 4

sau Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan nhưng kim ngạch thực hiện đứng vị trí thứ 1 gần 5 tỷ USD.

Biểu 9: Thương mại Nhật Bản với Việt Nam 2000 – 2007. Đơn vị 100 triệu USD

Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007

Xuất

khẩu

23.0 21.8 25.0 29.8 35.5 40.7 47.0 61.2

Nhập

khẩu

25.8 25.1 24.4 29.1 35.4 43.4 52.3 61.4

Xuất

siêu

2.8 3.3 -0.6 -0.7 -0.1 2.7 5.3 0.2

Tổng 48.8 46.9 58.9 70.9 84.1 99.3 122.6

Biểu 7: Viện trợ ODA của Nhật Bản cho Việt Nam (Đơn vị: 100 triệu yen)

Loại/Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006

Cho vay 1,012.81 709.04 743.14 793.30 793.30 820.00 908.20 950.78

Viện trợ không hoàn

lại 46.41 80.67 83.65 52.37 56.50 49.14 44.65 30.97

Hỗ trợ kỹ thuật 60.74 74.32 79.09 67.08 55.77 57.11 56.51 52.75

ngạch

Qua các biểu 7, 8, 9 chúng ta thấy rằng, quan hệ thương mại Nhật -Việt ngày càng phát

triển nhanh chóng, cán cân xuất – nhập khẩu tương đối cân bằng .Việt Nam nhập từ Nhật

Bản máy móc, thép, hàng điện tử, Nhật Bản nhập của Việt Nam hàng thủy sản, hàng dệt

may, dầu thô. Nhật Bản là bạn hàng thứ 2 của Việt Nam sau Trung Quốc và đứng trên Mỹ,

Singapore, Đài Loan.

Khi so sánh vị thế của hai miền Nam, Bắc Việt Nam trong quan hệ kinh tế - thương

mại với Nhật Bản thì theo nghiên cứu của Seki Mitsuhiro, trong thời kỳ “làn sóng đầu tư

thứ nhất” thì phía Nam chiếm ưu thế. Tuy nhiên, từ năm 2000 trở đi, phía Bắc dần khắc

phục những điểm bất lợi và phát huy những thế mạnh của khu vực nên nhìn toàn cục trong

một thời gian dài thì vị thế hai miền tương đối cân bằng nhau trong quan hệ kinh tế-thưong

mại với Nhật. Theo thống kê của JETRO thì đầu tư của Nhật Bản từ năm 1988 đến năm

2006, ở miền Bắc là 45%, miền Trung là 10% và miền Nam là 45%. Trong những năm gần

đây thì Nhật đầu tư hơn 70% vào miền Bắc. Theo phân tích của Ngài Tổng Lãnh sự Mizuki

Ikuo là do: thứ nhất, phần lớn những công ty Nhật đều là những công ty lớn; thứ hai, bởi vì

khu vực phía Bắc gần với Trung Quốc, nơi mà có nhiều công ty Nhật đầu tư; thứ ba ở miền

Bắc có nhiều không gian rộng lớn hơn miền Nam và cuối cùng là có nhiều thuận lợi hơn

cho những doanh nhân Nhật khi họ thuơng thuyết với chính quyền Trung ương. Cũng cần

nói thêm rằng, hạ tầng cơ sở, một lĩnh vực mà trước đây phía Bắc yếu kém hơn nhiều so với

phía Nam, thì nay được cải thiện rõ rệt. Hơn nữa, các công ty Nhật Bản đầu tư vào Việt

Nam, dù quy mô khác nhau nhung đều đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao mà điều này

thì miền Bắc, nơi có truyền thống học hành, nơi có nhiều trường đại học hơn là một ưu thế.

Và nữa, nguồn nhân lực ở miền Bắc giá vẫn rẻ hơn, cũng là một lợi thế .

Tuy nhiên, liệu xu hướng tập trung đầu tư ra phía Bắc của Nhật Bản có phải là một xu

hướng lâu dài và bền vững hay không? Đó là vấn đề cần nghiên cứu sâu hơn. Khu vực phía

Nam, vẫn có những ưu thế riêng trong quan hệ với đối tác Nhật Bản. Người Nhật có lịch sử

đầu tư ở khu vực Nam Bộ lâu đời hơn khu vực phía Bắc. Họ đầu tư vào nhiều lĩnh vực: du

lịch, tài chính, chứng khoán, bất dịch động sản…những lĩnh vực mà phía Nam vấn có vị thế

cao hơn nhiều so với phía Bắc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

1. Adachi Hiroaki, Senzenki Nihon to Tonan Ajia (Nhật Bản và Đông Nam Á thời tiền

chiến), Yoshikawa Kobunkan, Tokyo, 2002.

2. Đô thị cổ Hội An, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991

3. Hikita Yasuyuki: Nampo Kyoeiken (Khối thịnh vượng chung Nam phương), Taga

Shuppan, Tokyo, 1995.

4. Kimura Hiroshi - Nguyen Duy Dung - Furuta Motoo, Nihon - Betonamu Kankei wo

manabu hito no tameni (Sách dành cho những người học tập, nghiên cứu về quan hệ Nhật -

Việt), Sekai Shisosha, Kyoto, 2000.

5. Iwao Seiichi: Nihon Rekishi – 14 - Sakoku (Lịch sử Nhật Bản - Quyển 14 - Bế quốc),

Chuo Koronsha, Tokyo, 1966

6. Iwao Seiichi: Shinpan Shuinsen boeki-shi Kenkyu(Nghiên cứu về lịch sử mậu dịch Châu

ấn thuyền-Bản mới), Yoshikawa Kobunkan, Tokyo, 1985

7. Nagazumi Yoko, Shuinsen (Châu ấn thuyền), Yoshikawa Kobundo, Tokyo, 2001

8. Nguyễn Tiến Lực, Quan hệ thương mại Việt - Nhật trong những năm 1929-1939, Nghiên

cứu Lịch sử, Số 6, 2000, Hà Nội.

9. Nguyễn Tiến Lực, Các cuộc thương thuyết thương mại Nhật - Đông Dương, Nghiên cứu

Lịch sử, số 4, 2001, Hà Nội.

10. Nguyễn Tiến Lực, Tình hình xuất khẩu “gạo Sài Gòn” vào thị trường Nhật Bản- Nhìn từ

góc độ lịch sử, Đồng bằng sông Cửu Long:Thực trạng và giải pháp trở trở thành vùng

trọng điểm kinh tế 2006-2020, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM 2006.

11. Nihon Boeki Shikokai, JETRO Boeki Toshi Hakusho (Sách trắng về thương mại và đầu

tư của JETRO), T., 2002.

12. Sakurai Kyohiko - Kikuchi Seiichi, Kinsei Nichi - Etsu Koryu-shi (Lịch sử giao lưu

Nhật - Việt thời Cận thế), Kashiwa Shobo, Tokyo, 2002

13. Seki Mitsuhiko, Tình hình đầu tư của Nhật Bản vào Nam Bộ Việt Nam, Hitotsubashi

Daigaku, 2003

14. Trần Huy Liệu - Nguyễn Khắc Đạm - Nguyễn Lương Bích: Xã hội Việt Nam trong thời

Nhật-Pháp, NXB.Văn Sử Địa, Hà Nội, 1957, tr. 270.

15. Trịnh Tiến Thuận, Quan hệ Việt Nhật cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, LA Tiến sĩ, Đại

học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội, 2002.

16. Tư liệu của Bộ Ngoại giao Nhật Bản về quan hệ Nhật Bản - Đông Nam Á trên

Website:mofa.go.jp

17.Tư liệu của TTX Việt Nam về quan hệ Việt - Nhật trên trang Website:vnagency.com.vn