toÀn vĂn sƯu tẬp cÁc tÁc phẨm
TRANSCRIPT
1
THÁNH GIOAN THÁNH GIÁ
TOÀN VĂN SƯU TẬP CÁC TÁC PHẨM
2
phần giới thiệu tổng quát
3
ĐÔI LỜI CỦA NGƯỜI DỊCH
Kitô giáo là linh đạo của Đức Kitô. Chính Ngài là
Đường, là Sự Thật và Sự Sống. Chính Ngài nối kết Đất
với Trời, nối kết con người với Thiên Chúa. Định
hướng duy nhất ấy có nhiều nẻo, nhiều lối, có thể gọi
là những lối thiêng, những linh hạng hay linh hạnh
khác nhau. Thánh Gioan Thánh Giá được xem là lý
thuyết gia của linh hạnh Dòng Cát Minh Cải tổ, hay
đúng hơn, Dòng Cát Minh Têrêxa.
SỰ THANH TẨY TẬN CÕI LÕNG
Đường nên thánh của Dòng Cát Minh Têrêxa
nhấn mạnh sự thanh tẩy tận cõi lòng, tận ba tài năng
bên trong của con người là trí năng, ký ức và ý chí. Từ
ngày du nhập Việt Nam, năm 1861, các nữ tu Cát
Minh đã diễn tả các khái niệm này bằng những cách
nói dễ hiểu là trí hiểu, trí nhớ và lòng muốn, thêm
một yếu tố thứ tư là tưởng tượng được gọi là trí vẽ.
Trong bản dịch này, chúng tôi vẫn giữ lại các thuật
ngữ trí hiểu và lòng muốn, còn trí tưởng tượng thì
nhiều chỗ được gọi là óc sáng tạo vẽ vời. Riêng khái
niệm trí nhớ theo học thuyết Thánh Gioan Thánh Giá,
không phải là một ký ức vô hồn vô cảm về những
4
chuyện đã qua nhưng đậm tính hiện sinh, với sự dấn
thân của người trong cuộc, từ tiếc nhớ quá khứ, âu lo
hiện tại tới ước vọng tương lai. Vì thế, chúng tôi đề
nghị dịch là “dạ nhớ”.
Để diễn ý nhớ mãi không quên , ta thường nói
“ghi lòng tạc dạ”. Giữa hai từ lòng và dạ thì dạ
nghiêng về chức năng ghi nhớ nhiều hơn lòng.
Nước trong chảy lòng phiền chẳng rửa
Cỏ xanh thơm dạ nhớ khó quên (Chinh Phụ
Ngâm, câu 29-30)
Vào Google, gõ “tấc dạ”, “bùi ngùi tấc dạ” hay
“tấc lòng thành”, ta có thể tìm thấy hàng trăm minh
họa. Đây là một kiểu nói đã được biết đến trong kinh
Cảm tạ niệm từ của Giáo phận Đàng Ngoài, và kinh lễ
Giáng sinh của Giáo phận Đàng Trong (xem sách kinh
Qui Nhơn, 2008, tr.178) và cả nơi bản dịch Các Giờ
Kinh Phụng Vụ ngày nay: “Cả tấm thân con cùng là
tấc dạ những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn
hở reo mừng” (Tv 83/84,3).
5
VIỆC PHIÊN DỊCH - NGUYÊN BẢN VÀ CÁC
BẢN DỊCH ĐỐI CHIẾU
Chúng tôi chân thành cám ơn thầy Biển Đức
Phạm Văn Tiến thuộc Đan viện Xitô Châu Sơn, đã dịch
hết các tác phẩm lớn của thánh Gioan Thánh Giá từ
bản dịch tiếng Pháp sang tiếng Việt. Các bản thảo
chép tay của thầy hiện được giữ tại Đan viện Cát
Minh Sàigòn. Trong thời gian đầu, khi dịch Đường Lên
Núi Cát Minh quyển 1 và 13 chương đầu của quyển 2,
chúng tôi đã tham khảo bản dịch của thầy và đã được
động viên nhiều do gương sáng cần cù làm việc của
thầy.
Chúng tôi sử dụng bản văn Tây Ban Nha, ấn bản
1993 của Editorial De Espiritualidad, đối chiếu với
những bản dịch tiếng Anh và tiếng Pháp, với hai
bản tiếng Anh của E. Allison Peers (Image Book,
New York 1961) và Kieran Kavanaugh – Otilio
Rodriguez (ICS Publications, Washington DC,
1991), và hai bản tiếng Pháp của cha Cyprien de la
Nativité de la Vierge (Edition Bibliothèque
Européen, 1961) và của Mẹ Marie du Saint
Sacrement (Les éditions du Cerf, Paris, 1997).
Việc phiên dịch toàn bộ đã xong khoảng năm
2000 và năm 2003 quyển Ca Khúc Tâm Linh đã được
xuất bản với tựa đề Khúc Linh Ca. Các phần khác
6
chưa xuất bản vì việc hiệu đính chưa xong. Công việc
bị gián đoạn hơn mười lăm năm, nhưng cũng là cơ
may để các dịch giả có thời gian để cảm nghiệm thêm
giáo huấn của tác giả. Nhờ đó, nay duyệt lại, chúng
tôi có thể mạnh dạn gạt bỏ bớt những từ nối dư thừa
và khi cần cũng chấm câu lại ngắn gọn cho sáng rõ, dễ
hiểu. Một số từ ngữ theo triết học kinh viện có thể
khá xa lạ với nhiều độc giả ngày nay. Chúng tôi cố
gắng chuyển sang những từ và những cách nói gần
gũi hơn để độc giả có thể hiểu và theo dõi được ý
tưởng của tác giả dễ dàng hơn. Tuy nhiên đó chỉ là
những tiểu tiết rải rác không đáng kể, xét trên toàn
bộ tác phẩm chúng tôi cố bám sát nguyên bản của tác
giả.
Thánh Gioan Thánh Giá trích Thánh Kinh như
một diễn giả nhắc lại theo trí nhớ, không sát mặt chữ
như chúng ta ngày nay. Để đáp ứng nhu cầu người
đọc ngày nay, một số chỗ khá xa nguyên bản, chúng
tôi ghi lại nguyên văn lời Thánh Kinh ở cuối trang để
tiện đối chiếu. Để bạn đọc dễ theo dõi tư tưởng của
tác giả và tiện tra cứu ở mục lục, người dịch mạn
phép thêm vào đầu mỗi chương một tựa đề ngắn có
đánh dấu hoa thị (*).
7
Do nhu cầu của các đan viện Cát Minh và của
dòng Nam Cát Minh Têrêxa, chúng tôi làm một công
việc vượt sức mình. Chúng tôi cố gắng tối đa để đóng
góp một bản dịch hữu ích. Tuy nhiên do khả năng và
điều kiện hạn chế, công việc này còn nhiều sai sót.
Ước mong các thế hệ sau sẽ có những người nghiên
cứu tường tận hơn có thể chỉnh sửa hoặc làm lại một
bản dịch tốt hơn.
NHỮNG DẪN NHẬP CỦA CHA LUCIEN MARIE
DE SAINT JOSEPH
Những ấn bản ngoại ngữ đƣợc nhắc đến trên đây
đều có phần dẫn nhập tổng quát vào Thánh Gioan
Thánh Giá và phần giới thiệu riêng từng tác phẩm
của ngài.
Chúng tôi chọn dịch các dẫn nhập của cha Lucien
Marie de Saint Joseph, ocd, trong ấn bản tiếng
Pháp của cha Cyprien de la Nativité de la Vierge
(Edition Bibliothèque Européen, 1961). Theo
chúng tôi, phần giới thiệu của cha Lucien Marie có
cung cách thích hợp với độc giả Việt Nam hơn
phần giới thiệu của các vị khác. Chúng tôi xin chân
thành cám ơn Cha Nguyễn Quốc Lâm và Thầy Thế
Tâm Nguyễn Khắc Dƣơng đã giúp dịch phần dẫn
nhập tổng quát của cha Lucien; và cám ơn anh
Mạc Tƣờng đã giúp thực hiện bài dẫn nhập tổng
8
quát thứ hai của hai tác giả Kavanaugh và
Rodriguez.
Tiếp nối rất nhiều dẫn nhập của nhiều tác giả xƣa
nay, chúng tôi chỉ xin thêm một ý nhỏ:
Trong khoa học vật lý, thay vì hệ thống đếm bằng
mƣời số, ngƣời ta đã khám phá ra hệ thống hai số
1-0, triển khai thành kỹ thuật số, đem áp dụng vào
mọi lãnh vực và giúp nhân loại ngày nay tiến vƣợt
bực về mặt kỹ thuật.
Trên đƣờng tâm linh, Thánh Gioan Thánh Giá
cũng rút gọn tất cả vào hai chữ Todo y Nada, để
đạt đƣợc Tất cả phải đi qua Không gì cả. Chắc hẳn
hệ thống nhị phân của đức tin, với cặp biện chứng:
đón nhận-buông bỏ, nhận-cho, mất-đƣợc, lặp đi lặp
lại liên tục dệt nên cuộc sống, rồi ra cũng sẽ đem
lại bƣớc tiến nhảy vọt cho mọi kinh nghiệm tâm
linh đông tây kim cổ và sẽ tạo nên điều tƣơng tự
với bƣớc tiến nhảy vọt nói trên trong khoa vật lý.
TRÌNH TỰ CÁC TÁC PHẨM
Bản dịch sẽ đƣợc in thành 5 quyển theo thứ tự
truyền thống:
1. THƠ, CHÂM NGÔN VÀ LỜI KHUYÊN
2. ĐƢỜNG LÊN NÖI CÁT MINH
3. ĐÊM DÀY
4. CA KHÚC TÂM LINH
9
5. NGỌN LỬA TÌNH NỒNG – và thƣ tín.
Nếu độc giả cảm thấy hơi hụt hẫng khi tiến vào các
tác phẩm chính bắt đầu với quyển I Đƣờng Lên
Núi Cát Minh, thì có thể tạm gác lại và đọc ngay
vào những Ca Khúc Tâm Linh, sau đó sẽ quay lại
đọc quyển I Đƣờng Lên Núi Cát Minh.
Chúng tôi xin đƣợc bày tỏ nơi đây lòng biết ơn
cách riêng đối với Thầy Thế Tâm đã đƣa chúng tôi
đến với Thánh Gioan Thánh Giá, đối với tất cả
những vị đã góp phần giúp đỡ chúng tôi về linh
hạnh Cát Minh, về tiếng Tây Ban Nha cũng nhƣ đã
góp ý và đã khích lệ cho việc dịch thuật này.
Qui Nhơn, ngày 07-3-2016
Nguyễn Uy Nam và Lm Trăng Thập Tự
10
NGỢI CA LÕNG THƯƠNG XÓT
Xin ngợi ca lòng Chúa thương xót đã thương cho anh em chúng tôi có thể hoàn tất bản dịch các tác phẩm của Cha thánh Gioan Thánh giá. Phần chính văn của tác phẩm đã được anh Giuse Nguyễn Uy Nam dịch xong trước năm 2000.
Tôi đã khởi sự việc phiên dịch này từ trước năm 1990 với phần Thơ, các Châm ngôn và Đường Lên Núi Cát Minh quyển I và 13 chương đầu của quyển II. Năm 1998, anh Nguyễn Uy Nam tiếp tục phần còn lại của Đường Lên Núi Cát Minh vừa làm việc trao đổi cảm nhận tâm linh và kinh nghiệm dịch thuật, cách riêng là khi phải chuyển những câu văn phức tạp rất dài của tác giả thành những câu ngắn gọn cho độc giả Việt Nam có thể dễ hiểu hơn. Chúng tôi cố gắng hết sức để làm sao vừa sát nguyên bản vừa giúp cho bạn đọc Việt Nam hiểu được và hiểu đúng ý tác giả. Tới quyển Đêm Dày, ngọn bút của anh Nam càng lúc càng nhanh và bay bổng. Cái bay bổng ấy cho thấy dịch giả được cuốn hút vào cảm nghiệm tâm linh của tác giả, tuy nhiên đôi khi có thể bay bổng quá đà, thiếu chính xác do đi chưa hết lộ trình kinh nghiệm của tác giả. Lúc ấy chính bản thân tôi cũng chưa có được cái nhìn tổng hợp và kinh nghiệm căn bản về con đường tâm linh của tác giả, cách riêng là chưa có sự bình an nội tâm để hiểu đúng toàn bộ
11
bản dịch. Cả đến sau khi đã khấn lần đầu trong dòng Cát Minh, về lại Việt Nam, tôi vẫn còn loay hoay với kinh nghiệm của Đường Lên Núi Cát Minh. Mùa hè năm 2001, tôi qua được cuộc thi sơ khởi này, và được đưa vào kinh nghiệm Đêm Dày Cát Minh. (mà không biết mình đang ở trong kinh nghiệm ấy), Bề trên lại yêu cầu tôi ngưng mọi bận tâm về bản dịch tác phẩm Cha Thánh Gioan để tập trung vào kinh nghiệm của Mẹ Thánh Têrêxa. Cuối 2005, tôi bắt đầu yêu thích con đường của vị Thánh nữ này thì lâm bệnh và năm 2007 tôi rời khỏi Dòng.
Tại nhà hưu dưỡng Tòa Giám mục Qui Nhơn,
tôi được hồi phục và tham gia phần nào vào đôi việc
mục vụ hợp với khả năng của tôi. Trước cảnh vừa
nghỉ ngơi vừa làm việc tại nhà hưu dưỡng, tôi được
ơn bình an ngày càng rõ nét hơn, và năm 2016 tôi đã
có thể dành thời gian để hoàn tất công việc anh Nam
đã làm xong từ 17 năm trước.
Chính cái lao đao dai dẳng nhiều chục năm của
bản dịch này cũng là một minh họa cho cảm nghiệm
Cát Minh mà tôi đã nhận được. Có một việc Chúa
muốn tôi làm, đó là dịch tác phẩm Thánh Gioan cho
độc giả người Việt. Đó là một việc vượt ngoài khả
năng tôi, do tôi không có khiếu ngoại ngữ, thiếu sự
trầm lắng cho nên bị đánh lừa chạy theo nhiều
12
chuyện trước mắt cách quá đáng khiến mất hết thời
giờ. Tuy nhiên Thiên Chúa vẫn rộng lòng thương xót
và cứu giúp. Dù bị những điều tốt giả đánh lừa do
thiếu kinh nghiệm và thiếu khiêm tốn, tôi vẫn còn
được Chúa gìn giữ cho một lương tâm ngay thẳng và
một tấm lòng trong sạch. Chúa không khắt khe gạt bỏ
những điều tốt chủ quan mà tôi đã sa đà cách lệch
lạc. Chúa đã gửi đến một người anh em giàu khả
năng ngoại ngữ và Việt ngữ để làm giúp tôi phần
chính yếu. Tiếp đến, còn một trở ngại vô cùng lớn, ấy
là làm sao hiểu đúng được tác giả muốn nói gì để
“dịch” không trở thành “diệt”, để bản dịch không
phản bội ý của tác giả. Để giải quyết khó khăn này,
Thiên Chúa đã đưa tôi vào vườn hồng Cát Minh, vừa
được nhởn nhơ thưởng thức theo sở thích của tôi
vừa phải rướm máu vì gai góc khi với tay hái những
bông hoa đẹp.
Tiếp đến là vấn đề thời giờ để thực hiện. Ngay
tại ngôi nhà dành cho các Linh mục cao niên nghỉ
dưỡng, tôi vẫn còn ôm đồm đủ thứ việc. Thế nhưng
dần dần Chúa đã dạy tôi biết loại bỏ những cái thừa,
những cái phụ, những cái không cần thiết. Thời giờ
của tôi dần dần trở nên thoáng đãng, tôi được thảnh
13
thơi để đầu tư công sức hoàn thành một công việc
dang dở.
Cuối cùng, còn một khó khăn không ngờ trước,
tôi không ngờ tốc độ lão hóa có thể nhanh đến thế.
Quên, sót, lầm lẫn, mất sự minh mẫn. Tuy nhiên,
chính ở đây, công việc Chúa giao cho tôi lại trở thành
phương thuốc cứu chữa. Chính sự bình an nội tâm
được gây dựng và phát huy trên lộ trình Gioan Thánh
giá, chính sức hút của Đấng chí ái luôn trả lại cho tôi
vừa đủ sự sáng suốt để làm xong công việc phải làm.
Có một người anh em giáo dân say mê hoàn
tất bản dịch bộ tác phẩm này trong một thời gian kỉ
lục, rồi sau đó bình an suốt gần hai mươi năm ngồi
chờ người anh em Linh mục ì ạch làm nốt phần việc
còn lại.
Đó cũng là một sự kiện đầy an ủi và hứa hẹn.
Lối thiêng của Thánh Gioan Thánh Giá không dành
độc quyền cho các đan nữ mà cho nhiều người khác,
từ phu nhân Ana Peñolosa cho đến các trí thức Việt
Nam thời nay. Có nhiều người trong số họ bắt gặp
nơi Thánh Gioan Thánh Giá toàn những điều mới.
Thế nhưng những người khác sẽ gặp được ở đây điều
14
chính mình đã thoáng thấy suốt nhiều năm mà chưa
định hình được.
Trái tim quảng đại
Chẳng bao giờ nghĩ đến dừng lại
Khi nó còn có thể vƣợt qua
Trừ khi là quá khó.
Không gì làm nó thỏa mãn
Và đức tin của nó lên cao đến độ
Nếm đƣợc một điều gì đó tôi không rõ
Ngƣời ta vừa tình cờ tìm đƣợc.
(Điều tình cờ gặp đƣợc)
Không chỉ những trí thức cao niên, lịch sử còn
cho biết có một bé gái từ 3 tuổi đã biết bỏ ý riêng, bỏ
công cuộc riêng của mình để làm theo ý Thiên Chúa
và công cuộc riêng của Ngài. Rồi 12 năm sau, cô đã
được nhận vào dòng Cát Minh và khám phá ra ở đó
bản minh giải cho bài thơ cô đã sống từ thuở nhỏ. Cô
đã ngây ngất với những chỉ dẫn của thánh Gioan
Thánh Giá và trở thành môn đẹ kiệt xuất của Thánh
nhân suốt 9 năm sống đời đan tu. Cô hoàn tất đời
mình mới 24 tuổi, được tôn phong là bậc thầy về đời
sống tâm linh trong Hội thánh Công giáo. Đó là chị
Thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu.
15
Sự kiện này mở ra một hy vọng và một định
hướng để ta vươn tới đáp ứng nhu cầu khẩn cấp của
thời đại này: chúng ta có thể, và hơn nữa, chúng ta
cần tìm cách hướng dẫn con em chúng ta ngay từ ấu
thơ biết yêu mến Chúa và vì tình yêu mến Chúa mà
thoát khỏi mọi lôi cuốn lệch lạc để lớn lên như những
người con tự do của Thiên Chúa.
Qui nhơn, ngày 02.02.2017
LM Trăng Thập Tự
16
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ
THÁNH GIOAN THÁNH GIÁ
Kieran Kavanaugh, ocd và Otilio Rodriguez, ocd
Mạc Tường dịch
Lm Trăng Thập Tự hiệu đính
Sinh tại Tây Ban Nha năm 1542, nhờ gƣơng cha
mẹ, từ bé Gioan đã biết đƣợc tầm quan trọng của tình yêu
hy sinh. Cha cậu đã từ bỏ hết của cải, địa vị, sự thoải mái
và từ bỏ cả gia đình thƣợng lƣu khi lấy con gái của một
ngƣời thợ dệt. Sau khi cha cậu qua đời, mẹ cậu bồng bế cả
gia đình nghèo khổ đi lang thang tìm việc làm kiếm sống.
Tấm gƣơng hy sinh này sẽ đƣợc Gioan noi theo trên
đƣờng mến yêu Thiên Chúa.
Cuối cùng, gia đình cũng tìm đƣợc việc làm nhƣng
Gioan vẫn bữa no bữa đói giữa thành phố giàu có bậc nhất
Tây Ban Nha. Lên mƣời bốn, Gioan đƣợc nhận vào chăm
sóc bệnh nhân tại một bệnh viện chuyên khoa về các
chứng nan y và bệnh tâm thần. Vƣợt lên trên cảnh nghèo
khổ ấy, Gioan đã học biết phải tìm kiếm cái cao đẹp và
17
hạnh phúc không phải trên trần gian nhƣng nơi Thiên
Chúa.
Gioan đã gia nhập dòng Cát Minh và đƣợc Thánh
nữ Têrêxa Avila yêu cầu cộng tác với phong trào cải tổ
của bà. Bà xác tín rằng nhà Dòng cần trở về với nếp sống
cầu nguyện ban đầu. Gioan ủng hộ điều ấy. Tuy nhiên,
nhiều tu sĩ Cát Minh cảm thấy cuộc cải cách này đang đe
dọa họ. Họ đã bắt ông nhốt vào một phòng giam chật hẹp,
tăm tối. Ông bị họ đánh đập mỗi tuần ba lần. Chỉ có một
cửa sổ nhỏ cao gần trần nhà. Trong nơi ẩm thấp, tối, lạnh
và vắng vẻ, khó mà chịu nổi, tình yêu và đức tin của ông
lại nhƣ lửa bừng bừng cháy sáng. Ông không còn gì
nhƣng chính Thiên Chúa đã đem đến cho ông niềm vui
lớn nhất ngay giữa phòng giam chật chội.
Sau chín tháng, Gioan đã phá đƣợc khóa cửa và
trốn thoát, chỉ đem theo những bài thơ huyền giao đã viết
ở phòng giam. Ông dùng một sợi dây thừng làm bằng dải
mền, leo qua cửa sổ. Không biết mình đang ở đâu, ông đã
đi theo một con chó để tìm đƣờng và đến đƣợc một đan
viện. Các nữ tu giấu ông trong bệnh xá của đan viện để
che mắt những kẻ săn đuổi. Ông đã đọc và giải thích
những bài thơ của ông cho các nữ tu. Từ đó cuộc đời của
ông đƣợc dành cho việc chia sẻ và giải thích kinh nghiệm
của ông về tình yêu Thiên Chúa.
Cuộc sống đói nghèo và bị ngƣợc đãi lẽ ra đã biến
ông thành một ngƣời hay chỉ trích cay đắng. Thay vào đó
nó đã sinh ra một nhà thần bí nhân hậu, ngƣời sống theo
niềm tin rằng "Có ai đã từng thấy ngƣời nào bị ép buộc
phải yêu mến Thiên Chúa cách bất đắc dĩ?" và "Ở đâu
không có tình yêu, bạn hãy gieo tình yêu vào đó và bạn sẽ
gặt đƣợc tình yêu."
18
Gioan để lại cho chúng ta nhiều tác phẩm với
những lời khuyên thực tế về sự trƣởng thành tâm linh và
về cầu nguyện mà ngày nay vẫn còn hợp thời: Đƣờng Lên
Núi Cát Minh, Đêm Dày, Ca Khúc Tâm Linh và Ngọn Lửa
Tình Nồng.
NHỮNG NĂM ĐẦU ĐỜI
Vào một ngày tháng không rõ, năm 1542, Gioan de
Yepes đã chào đời tại một thị trấn nhỏ có tên là
Fontiveros. Thị trấn nằm trên đất đá cằn cỗi tại cao
nguyên Castilla, giữa Madrid và Salamanca. Với dân số
khoảng 5.000 ngƣời, thị trấn bao gồm một số cửa hàng dệt
nhỏ. Cha của Gioan, Gonzalo de Yepes, con trai của một
gia đình giàu có buôn tơ lụa ở Toledo, đã dừng lại ở
Fontiveros trên cuộc hành trình kinh doanh đến Medina
del Campo, và đã gặp Catalina Alvarez, một cô thợ dệt
nghèo và khiêm nhƣờng. Mặc dù không môn đăng hộ đối,
hai ngƣời đã yêu nhau và kết hôn vào năm 1529. Gia đình
Gonzalo thấy bị xúc phạm khi ông kết hôn với một cô gái
nhà nghèo, nên đã tƣớc quyền thừa kế của ông. Bị tƣớc
mất những bảo đảm tài chính, ông đã phải thích ứng với
công việc cực nhọc của giới nghèo, cụ thể là mua bán
hàng dệt. Giữa hoàn cảnh khó khăn, cả Gonzalo và
Catalina đã tìm thấy sức mạnh trong tình yêu tha thiết
dành cho nhau. Họ có ba ngƣời con trai: Francisco, Luis,
và ngƣời trẻ nhất, Gioan (sau này sẽ là Thánh Gioan
Thánh Giá). Khi Gioan chƣa đƣợc hai tuổi, ông bố đã qua
đời, kiệt sức từ nỗi khổ đau khủng khiếp của một căn bệnh
lâu dài. Nghèo túng, ngƣời góa phụ trẻ khổ đau nhƣng can
đảm đã không quản đƣờng xa vất vả đã lặn lội đến thăm
các thành viên giàu có của gia đình chồng, hy vọng có thể
xin họ giúp đỡ nhƣng họ đã từ chối. Bà quay lại
19
Fontiveros, xoay xở một mình. Trong thời gian này anh
trai của Gioan là Luis chết, có lẽ do thiếu dinh dƣỡng. Bà
Catalina thấy buộc lòng phải tìm nơi khác. Bà bỏ ngôi nhà
nhỏ, dọn đến Arévalo, nhƣng ở đây cũng chẳng có gì khá
hơn. Cuối cùng bà đến Medina del Campo, trung tâm
thƣơng mại nhộn nhịp của Castilla, tiếp tục làm nghề dệt
...
Tại đây Gioan theo học tại một trƣờng dành cho trẻ
em nghèo. Cậu đƣợc hƣởng nền giáo dục tiểu học, đƣợc
học giáo lý Kitô giáo căn bản, và có cơ hội trở thành một
ngƣời học nghề, tập mua bán hoặc làm một nghề nào đó.
Trƣờng học ở đây giống một trại mồ côi, các em đƣợc
nhận thức ăn, quần áo, và chỗ ở. Thời gian này, vị linh
mục giám đốc trƣờng đã chọn Gioan giúp lễ tại La
Magdalena, một tu viện gần đó của các nữ tu dòng Thánh
Augustinô. Cậu bé phụ việc, túc trực trong phòng thánh
suốt bốn giờ vào buổi sáng và buổi chiều mỗi khi bề trên,
các giáo sĩ, hoặc những ngƣời giữ đồ thánh cần cậu. Gioan
có vẻ không nhiệt tình gì đối với các chƣơng trình học
nghề - nghề mộc, nghề may, nghệ thuật điêu khắc và hội
họa. Thay vào đó, sự dịu dàng và kiên nhẫn của cậu lại có
thể là một nguồn an ủi đầy tình thƣơng dành cho ngƣời
bệnh. Ông Alonso Alvarez, quản trị viên của bệnh viện
cho những ngƣời nghèo ở Medina đang bị bệnh dịch hạch
và các bệnh truyền nhiễm khác, đã nhận ra điều đó nơi
Gioan và đã đƣa cậu vào làm y tá phục vụ ở bệnh viện.
Ông cũng cung cấp cho cậu có cơ hội để nghiên cứu thêm.
Ở tuổi 17, cậu theo học trƣờng các cha Dòng Tên, học ngữ
pháp, hùng biện, tiếng Latin và Hy Lạp. Nhà thơ tƣơng lai
đã tiếp xúc với tiếng Latin và văn chƣơng cổ điển Tây Ban
Nha, tiếp xúc với nhiều thứ nhƣng chƣa đƣợc sâu lắm, vì
20
dòng Tên đòi hỏi tiêu chuẩn cao, đòi phải làm nhiều bài
tập, đọc sách, và nghị luận. Làm quen với hình ảnh cổ
điển, cậu học sinh có năng khiếu học về kỹ thuật văn học
và tự mở lòng ra thế giới xung quanh. Những năm làm
việc tại bệnh viện và nghiên cứu đòi hỏi trách nhiệm và sự
siêng năng, đã bổ sung cho kinh nghiệm ít ỏi đầu đời của
Gioan.
ƠN GỌI CÁT MINH
Khi Gioan học xong, ông Alonso đề nghị cậu trở
thành linh mục tuyên úy cho bệnh viện. Nhƣ thế, cậu cũng
có thể giúp mẹ và anh trai thoát khỏi cảnh đói nghèo của
họ. Các tu sĩ dòng Tên, đánh giá cao năng khiếu trí tuệ và
lòng đạo đức của cậu, cũng đã gợi ý để Gioan đi theo
Dòng Tên. Nhƣng thật đáng ngạc nhiên, năm 1563, ở tuổi
21, Gioan đã bƣớc vào tập viện Dòng Cát Minh mới đƣợc
thành lập tại Medina. Điều đƣa đến quyết định bất ngờ
này có lẽ là tinh thần chiêm niệm và lòng sùng kính của
Dòng Cát Minh dành cho Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Với
tên dòng là Tu huynh Gioan Thánh Matthias, Gioan đã trải
qua thời gian nhà tập, nghiên cứu luật Dòng Cát Minh và
linh hạnh nguyên thủy của Dòng. Trong quyển Những Tu
Sĩ Tiên Khởi, một tác phẩm Cát Minh thời trung cổ nói về
tinh thần Dòng mà Gioan đã cân nhắc nhiều trong thời
gian nhà tập, có lời giáo huấn sau đây:
“Cuộc sống này có một mục đích kép. Một phần
chúng ta sẽ đạt đƣợc nhờ ơn Chúa giúp, qua những cố
gắng và việc thực hành nhân đức của chúng ta. Đây là việc
dâng lên Thiên Chúa một trái tim thuần khiết, thoát khỏi
mọi vết nhơ tội lỗi thực sự. Chúng ta đạt đƣợc điều ấy khi
chúng ta nên hoàn thiện và sống trong suối Cơ-rít, tức là
ẩn mình trong đức ái mà bậc Khôn ngoan đã nói: "Tình
21
yêu khoả lấp mọi lỗi lầm" (Cn 10,12). Thiên Chúa ƣớc
mong cho Êlia tiến xa trên đƣờng ấy khi Ngài bảo ông:
"Ngƣơi hãy ẩn mình nơi thung lũng Cơ-rít" (1V 17,3-4).
Phần kia của mục đích cuộc sống đƣợc ban cho chúng ta
nhƣ là món quà miễn phí của Thiên Chúa: đó là, không
phải chỉ sau khi chết, nhƣng ngay trong cuộc sống trên
trần thế này, hãy nếm thử trong lòng và cảm nghiệm trong
tâm hồn sự hiện diện mãnh liệt của Thiên Chúa và vị ngọt
ngào của vinh quang trên trời. Nhƣ thế chính là uống tận
nguồn mạch tình yêu của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa
đã hứa cho Êlia nơi những lời này: "Ngƣơi sẽ uống nƣớc
suối." Chính trong nhãn giới của mục đích kép ấy mà
ngƣời tu sĩ dấn thân sống đời ẩn sĩ và ngôn sứ.”
Rồi cuối năm 1564, sau thời gian tập viện, Gioan
Thánh Matthias đã đến Salamanca học triết học và thần
học. Cảnh quan của làng Đại học này với các nhà thờ và
nhà thờ Chính tòa, cung điện và cơ ngơi các lãnh chúa
chắc hẳn khiến lòng Gioan rộn ràng. Trƣờng đại học
Salamanca đang ở thời hoàng kim của nó, với những giáo
sƣ có uy tín cao, với số lƣợng sinh viên đông đảo đến từ
khắp các miền xứ Tây Ban Nha, trổi vƣợt về khoa Kinh
thánh và thần học, với nhiều trƣờng phái tƣ tƣởng. Nó
đƣợc xếp vào hàng ngũ các trƣờng đại học lớn của
Bologna, Paris, và Oxford. Ở đó bạn sẽ gặp những giáo sƣ
nổi tiếng thời ấy nhƣ Tu huynh Luís de León, ngƣời đã
dạy thần học trên bục giảng của Durando; Mancio de
Corpus Christi, một ngƣời xứng đáng kế nhiệm Vitoria và
Melchor Cano, ngƣời giữ chức giảng sƣ thần học, quan
trọng nhất trong các trƣờng đại học; Augustinô Juan de
Guevara, ngƣời đã có những bài giảng và giải thích đƣợc
cho là kỳ diệu; Gregorio Gallo, tiếp nối vai trò của
22
Domingo Soto, ngƣời đã tiếp nhận chức giáo sƣ Kinh
thánh; và Cristóbal Vela, ngƣời trình bày về Scotus. (Các
chi tiết về những vị trên đây, có thể xem tại
https://es.wikipedia.org)
Tên của Gioan xuất hiện trên các hồ sơ trúng tuyển
vào các trƣờng học thuật trong ba năm. Hiện nay ngƣời ta
vẫn còn giữ đƣợc thông tin về những khóa học ở đó và tên
của những vị chủ chốt trong ban giáo sƣ thời ấy. Tôn sƣ
Enrique Hernández, tác giả của một luận thuyết về triết
học, dạy các lớp triết học tự nhiên; Francisco Navarro giữ
chức trƣởng khoa ngành đạo đức; Hernando Aguilera,
ngƣời đã sáng chế ra một thiên thể kế, vẫn giữ chức
trƣởng khoa thiên văn học; Francisco Sanchez dạy ngữ
pháp, mãi đến nay vẫn đƣợc coi là một tác giả thế giá về
vấn đề này; Tôn sƣ Martin de Peralta ngƣời đã quảng diễn
Summulas (một quyển nhập môn về luận lý học); và Juan
de Ubredo giữ chức trƣởng khoa âm nhạc. Quy chế nhà
trƣờng đại học quy định dùng các tác phẩm của Aristotles
cho các khóa học thuật, nhƣng điều này chỉ có nghĩa là
đầu niên học ngƣời ta có đọc một văn bản của nhà hiền
triết; rồi sau đó giảng viên có thể giải thích nó cách rất tự
do hoặc cũng có thể hoàn toàn gác nó sang một bên. Tuy
nhiên ta không rõ Gioan đã theo lớp học thuật nào.
Niên khóa 1567-1568, Gioan đã đăng ký học thần
học. Ta không giữ đƣợc hồ sơ về những khóa học ông đã
theo. Có lẽ ông đã làm phụ khảo bộ môn chính, mỗi ngày
một giờ rƣỡi, bắt đầu từ sáng sớm. Tại đây, Mancio de
Corpus Christi, dòng Đa Minh, giải thích Tổng luận Thần
học của Thánh Tôma Aquinô. Ông này theo phƣơng pháp
và phong cách của trƣờng phái Đa Minh do Vitoria và
Cano khởi xƣớng. Nó nhấn mạnh sự trở về nguồn (Kinh
23
thánh, các Giáo Phụ và Thánh Tôma Aquinô) đồng thời
cũng quan tâm đáp ứng các chủ đề mới và những vấn nạn
đƣơng đại. Khoa thần học này đƣợc thể hiện bằng ngôn
ngữ chừng mực và trực tiếp. Liệu Gioan có tham dự giáo
trình của Gaspar Grajal về Kinh thánh hay không? Đó là
một vấn đề còn phải nghiên cứu. Vào thời điểm ấy tại các
trƣờng đại học đã có một cuộc tranh luận sôi nổi về việc
giải thích Kinh thánh. Những ngƣời thuộc trƣờng phái
kinh viện, kiên quyết trung thành với truyền thống Kinh
thánh của thế kỷ trƣớc, đã phản đối nhóm “duy sách
thánh” là những ngƣời dùng các phƣơng pháp khoa học và
khoa nghiên cứu ngôn ngữ lúc ấy đang phát triển để tìm
nghĩa đen của Kinh thánh. Grajal nổi bật trong nhóm “duy
sách thánh” và sau đó, do những ý tƣởng của ông, ông đã
bị tòa Tòa án dị giáo tống giam một thời gian. Bên cạnh
việc học tại Đại học, cũng nhƣ tất cả các tu sĩ khác, các
sinh viên Cát Minh còn phải học ở nhà với các bậc thầy
trong Dòng của họ, đặc biệt là Gioan Baconthorp (c. 1290-
1348, cháu của Roger Bacon), một ngƣời từng dạy tại Đại
học Cambridge.
Chúng ta đƣợc biết rằng Tu huynh Gioan nổi bật
với "tài năng xuất sắc" của anh, bằng chứng anh đƣợc bổ
nhiệm làm giám học đang khi còn là sinh viên. Với chức
vụ này, anh phải đứng lớp hàng ngày, bảo vệ các luận đề,
và giải quyết các vấn nạn đƣợc nêu lên. Thế nhƣng có một
số lý do khiến ngƣời tu sĩ Cát Minh trẻ chói sáng này
không hài lòng. Liệu bầu khí học tập theo đuổi kiến thức
có dễ biến thành chuyện theo đuổi sự tự tôn, tìm kiếm hƣ
danh, chức vụ, sự tiến thân và các phần thƣởng? Gioan bắt
đầu phân biện tự hỏi liệu có nên gắn bó sống chết với các
hệ thống tƣ tƣởng quen thuộc và miễn cƣỡng chấp nhận
24
rằng mọi chiêm nghiệm và nghiên cứu cuối cùng đều khập
khiễng? Liệu đây có phải là điều anh đã tìm kiếm khi khấn
dòng? Trong mọi trƣờng hợp, chân trời của anh nằm ở chỗ
khác; anh thấy mình thƣờng chú tâm đến cuộc sống hoàn
toàn chiêm niệm của các tu sĩ Carthusians. Mặc dù Gioan
vẫn thích thú với việc học, cuộc sống chiêm niệm đã từng
thu hút anh đến với dòng Cát Minh lúc đầu giờ đây đang
đấu tranh để giành lại chỗ đứng ƣu tiên.
BƯỚC THEO LÝ TƯỞNG TÊRÊXA
Giữa lúc khủng hoảng ơn gọi nhƣ thế, năm 1567,
Tu huynh Gioan đã đƣợc thụ phong linh mục và đến
Medina dâng thánh lễ đầu đời. Ở đó, khi trời chớm sang
thu, Gioan đã có cuộc gặp gỡ định mệnh với Mẹ Têrêxa
Chúa Giêsu. Bà đến thành phố này để xây dựng một cộng
đoàn thứ hai cho những nữ tu sẽ tuyên khấn sống đời Cát
Minh theo phong cách chiêm niệm mới mà bà đã phát
triển tại Avila. Tại đây, bà Mẹ Bề trên kiên quyết này
đang cân nhắc liệu có thể đem nếp sống mới mở rộng áp
dụng cho các nam tu sĩ chăng? Đƣợc nghe biết về những
phẩm chất đặc biệt của cha Gioan, bà đã sắp xếp để gặp
gỡ và trao đổi với cha. Lúc ấy bà đã 52 tuổi; cha Gioan
25. Gioan bảo rằng cha khao khát đƣợc sống cô tịch và
cầu nguyện hơn và cha đang có ý chuyển sang dòng
Carthusians. Bà đã chỉ ra cho cha thấy rằng cha có thể có
đƣợc tất cả những điều đang tìm kiếm mà không cần phải
rời bỏ “Dòng của Đức Mẹ". Với lòng nhiệt thành đặc
trƣng và sự thân thiện, bà đã sôi nổi trình bày cho cha thấy
kế hoạch thích nghi nếp sống mới cho các nam tu sĩ. Tu
huynh Gioan lắng nghe, phấn khởi, tìm đƣợc sự nhiệt tình,
và nhìn thấy một tƣơng lai mới mở ra trƣớc mắt. Cha hứa
sẽ tham gia công cuộc của Têrêxa, nhƣng với một điều
25
kiện – là đừng để cha phải chờ đợi quá lâu. Sự háo hức
của thành viên trẻ tuổi mới thu nạp đƣợc và sự kiện cha
không muốn bị trì hoãn khiến Mẹ Têrêxa rất vui mừng. Về
sau, Gioan đã viết một khảo luận hƣớng dẫn ngƣời ta làm
thế nào để đạt đƣợc hiệp nhất với Thiên Chúa cách nhanh
chóng. Năm sau, vào tháng Tám, với một nhóm nhỏ, Mẹ
Têrêxa lên đƣờng từ Medina đi Valladolid, để thành lập
một đan viện mới. Tu huynh Gioan, nay đã học xong,
cùng đi với họ để tìm hiểu thêm về nếp sống Cát Minh
mới.
Ý tƣởng của Têrêxa là lập ra cộng đoàn nhỏ, ngƣợc
lại với tu viện Nhập Thể bà đã sống trƣớc đây ở Avila, nơi
có đến 180 nữ tu sống. Ý tƣởng ấy nằm trong bối cảnh
một phong trào cải cách rộng lớn đang lan khắp Tây Ban
Nha thế kỷ XVI. Tinh thần cuộc cải cách Tây Ban Nha
này đƣợc đánh dấu bằng một số đặc điểm chung: sự trở về
nguồn, về với quy luật ban đầu và về với tinh thần vị sáng
lập; sống đời cộng đoàn, thực hiện đức nghèo khó, nhịn
ăn, thinh lặng và giữ luật nội vi; hơn nữa, quan trọng nhất
là đời sống cầu nguyện. Dân chúng dùng nhiều kiểu nói
khác nhau để chỉ các cộng đoàn mới có những đặc điểm
ấy: cải cách, tuân thủ, lắng đọng, chân trần, ẩn sĩ, chiêm
niệm. Cái tên "chân trần" đã trở thành phổ biến khi nói
đến các nữ tu và tu sĩ của Têrêxa vì họ mang dép chứ
không mang giày. Những cố gắng cải cách đời tu đã bắt
đầu vào thế kỷ XV để đáp ứng với những biến động trong
đời tu gây ra bởi trận Dịch hạch đen. Những nỗ lực ban
đầu dẫn đến khuynh hƣớng chống duy trí, nhấn mạnh về
tình cảm, nghi lễ bên ngoài, tôn sùng, và cầu nguyện cộng
đoàn lớn tiếng. Thế nhƣng việc đọc kinh cầu nguyện lâu
giờ ngày này qua ngày khác đã trở nên tẻ nhạt và máy
26
móc. Nó khiến ngƣời ta khao khát một điều gì khác, muốn
có nhiều thời gian hơn cho việc cầu nguyện nội tâm. Kết
quả thực tế là một thực hành mới đã phát triển trong nhiều
tu viện Phan Sinh. Lối thực hành này đƣợc gọi là "hồi
tâm, lắng đọng” và những ngƣời đi theo đƣợc gọi là
“recogidos” (những ngƣời "trầm lắng”). Linh hạnh này
bận tâm trƣớc hết đến việc hiệp nhất với Thiên Chúa trong
tình yêu và giúp thực hiện điều ấy bằng cách tìm nuôi
dƣỡng mình qua Kinh thánh và các tác phẩm tâm linh cổ
điển. Những tác phẩm này, do các tác giả nhƣ Augustinô,
Grêgôriô Cả, Bernarđô và Bonaventura hồi ấy vừa đƣợc
ấn hành bằng máy in mới phát minh. Một tu sĩ Phan Sinh
thời ấy là Francisco de Osuna trình bày linh hạnh này
trong quyển Tập đánh vần tâm linh số 3. Quyển sách này
đã tạo cảm hứng cho Têrêxa và đƣa bà vào con đƣờng cầu
nguyện nội tâm. Osuna dạy rằng để tiến trên đƣờng tâm
linh, cần phải thực hành việc hồi tâm bắt chƣớc Chúa
Giêsu Kitô, Đấng đã vào sa mạc một mình để cầu nguyện
riêng với Chúa Cha. Osuna giải thích rằng nhờ sự hồi tâm
này, còn gọi là tâm nguyện, ta rời xa mọi ồn ào của nhân
thế và vào tận bên trong bản thân mình. Têrêxa đã qua
một thời dao động và phải kiên trì nhiều năm đấu tranh để
có thể dành hai giờ mỗi ngày cho tâm nguyện. Thế nhƣng
những ơn huyền giao Thiên Chúa bắt đầu ban cho Têrêxa
đã dạy bà nhiều hơn mọi sách bà có đƣợc. Chỉ nhờ cầu
nguyện với Chúa Giêsu Kitô bà mới có thể vào tận bên
trong lâu đài nội tâm. Ở đó bà càng tiến vào những mức ở
lại sâu thẳm nhất, sự hiện diện của Chúa càng dâng cao.
Chính sự hiện diện với Chúa Kitô làm cho việc cầu
nguyện của Têrêxa tốt đẹp, từ giai đoạn đầu, qua mức giữa
và đến tận đỉnh cao nhất. "Đừng bao giờ lìa bỏ Chúa Kitô,
Ngài luôn là bạn đồng hành của ta, chính nơi Ngài, con
27
ngƣời và Thiên Chúa nên một." Bà đã cảnh báo nhƣ thế
với những nhà thần học đang đến với bà để tìm hiểu về
chiêm niệm. "Chính nhờ Ngài mà mọi ơn lành đến với
chúng ta. Ngài đang luôn luôn nhìn bạn. Làm sao bạn có
thể không hƣớng đôi mắt tâm hồn lên nhìn Ngài?” Cũng
thế, các cộng đoàn của bà sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu
không có Chúa Giêsu Kitô ở giữa. Họ phải là những cộng
đoàn nhỏ, lúc đầu chỉ có 12 nữ tu, qui tụ quanh Đức Kitô
nhƣ những ngƣời bạn của Ngài. Không có phân biệt giai
cấp. Những phân biệt giai cấp lộ rõ trong nội vi các nữ tu
thời ấy, do tầng lớp quý phái điều hành, tiêu biểu nhƣ
trƣờng hợp đan viện Nhập thể. Têrêxa nhấn mạnh: Trong
Chúa Giêsu Kitô tất cả chúng ta đều bình đẳng, và bề trên
là ngƣời đầu tiên có phiên lau quét sàn nhà.
Đến lúc này Mẹ Têrêxa đã viết hai cuốn sách của
riêng bà: quyển thứ nhất tựa đề Đời tôi, viết cho các vị
linh hƣớng của bà, trong đó bà cẩn thận phân tích tất cả
các giai đoạn của sự cầu nguyện và giải thích nhiều ơn
huyền giao Thiên Chúa đã ban cho bà, minh chứng rằng
Đấng Cao Cả ban ơn không mệt mỏi; quyển thứ hai tựa đề
Đƣờng Hoàn Thiện, viết cho các nữ tu của bà, trong đó bà
nêu rõ nếp sống và lối cầu nguyện họ sẽ thực hiện trong
cộng đoàn, không chỉ để thánh hóa bản thân, nhƣng còn vì
Giáo hội, một Giáo hội đang đau khổ và bà đau khổ vì
Giáo hội không kém gì những lúc suy nghĩ về những đau
khổ của Chúa Kitô. Đối với Têrêxa, những đau khổ của
Giáo hội cũng chính là đau khổ của Chúa Kitô.
Thế đó, Gioan Thánh Matthias có bao nhiêu điều
để học hỏi từ ngƣời nữ tu khiêm tốn, giản dị và tuyệt vời
này. Về phần bà, khi đã nhận biết rõ hơn về ngƣời tu sĩ bé
nhỏ nọ, bà rất kinh ngạc. "Mặc dù ngài có tầm vóc nhỏ, tôi
28
tin rằng trong mắt Thiên Chúa, ngài rất lớn lao", bà viết
vào thời điểm đó. Gioan đã nói về những kỳ diệu của
Thiên Chúa và những mầu nhiệm về sự tốt lành của Ngài
cách rõ ràng và chói sáng đến nỗi nhóm bắt đầu gọi cha là
“kho tài liệu về Thiên Chúa”.
Giữa Mẹ Bề trên và vị tu sĩ đầu tiên của bà cũng có
nhiều khác biệt. Bà thú nhận đã lắm lúc bực mình với cha
Gioan. Bà mong muốn các cộng đoàn nam tu sĩ mới của
bà có nhiều ngƣời thông thái để họ có thể là những vị
hƣớng dẫn tốt không chỉ qua kinh nghiệm của cùng một
nếp sống nhƣng còn qua kiến thức của họ. Chính Têrêxa
đã phải khổ sở nhiều do những sự thiếu hiểu biết không
đáng có của các cha giải tội, nên bà đã quan tâm tìm cách
tránh cho các nữ tu của mình những chuyện tƣơng tự. Vào
thời điểm ấy, cha Gioan có xu hƣớng nhấn mạnh những
giới hạn của việc học. Mẹ Têrêxa thì nghĩ một chuyên gia
phải là một ngƣời có trình độ, phải biết rất nhiều về một
cái gì đó; còn cha Gioan dƣờng nhƣ không nghĩ rằng một
chuyên gia cần phải biết nhiều về một điều gì đó, nhƣng
một chuyên gia là ngƣời biết những sai lầm mà ngƣời ta
có thể mắc phải và biết phải làm thế nào để tránh đƣợc
chúng. Têrêxa sợ rằng khổ hạnh và việc đền tội có thể
khiến sinh viên đại học lánh xa cộng đoàn tu sĩ mới của
bà, cho nên bà nhấn mạnh đến một nếp sống cân bằng,
trong đó các nhân đức Kitô giáo nhƣ bác ái, từ bỏ và
khiêm nhƣờng cần đƣợc quan tâm nhiều hơn các khổ chế.
Vào thời ấy, khổ hạnh đƣợc coi là có liên quan chặt chẽ
với sự thánh thiện, và Gioan, mặc dù công nhận quan
điểm của Têrêxa, nhƣng vẫn nghiêng về phía khổ hạnh, cả
các tu sĩ cải tổ khác cũng nghĩ thế, họ coi khổ hạnh là con
đƣờng của nam tính. Về sau, trong các tác phẩm của ngài,
29
Gioan cũng bàn đến khổ hạnh với một thái độ hoài nghi
nhất định. Ông nêu rõ làm sao, cùng với rất nhiều điều tốt
đẹp khác, cuối cùng các khổ chế lại có thể phá hỏng đời
sống tinh thần. Têrêxa nghĩ rằng niềm vui Kitô hữu phải
thấm nhuần các cộng đoàn của bà; các nữ tu đã dành thời
gian để giải trí với nhau mỗi ngày, ca hát và làm thơ tặng
nhau. Không có lý do gì để họ phải ảm đạm. Têrêxa nồng
nhiệt khuyên rằng: "Hãy niềm nở, dễ chịu, và làm hài lòng
những ngƣời mà bạn gặp gỡ, nhờ vậy mọi ngƣời sẽ nói
chuyện với bạn và mong muốn theo cách sống và hành
động của bạn." Gioan cần phải có thời gian để quen với
điều ấy. Việc đọc kinh Thần vụ trong các cộng đoàn của
Têrêxa đơn giản hơn nhiều so với ở đan viện Nhập Thể.
Nhờ đó họ có thể dành đƣợc một giờ ban sáng và một giờ
ban chiều cho việc tâm nguyện. Nhƣ các ẩn sĩ thuở đầu
trên núi Cát Minh, hằng ngày các nữ tu sống chủ yếu
trong thinh lặng và cô tịch, một mình trong các tu phòng
của họ, lao động chân tay kéo sợi để góp phần nuôi sống
chính mình. Thế nhƣng công việc hàng ngày của các nam
tu sĩ của Têrêxa lại khác, bà muốn họ chăm lo nghiên cứu,
giảng dạy và cử hành các bí tích.
Têrêxa ghi lại rằng, sau đó, từ giữa tháng Tám đến
tháng Mƣời, Têrêxa hăng hái chu toàn vai trò của bà nhƣ
một giáo viên đối với cha Gioan, mặc dù bà thú nhận bà
cảm thấy rằng Tu huynh Gioan quá tốt, bà đã có thể học
đƣợc nhiều từ nơi cha hơn là cha học đƣợc nơi bà. Kết
thúc thời gian "tập viện" ngắn gọn dƣới sự hƣớng dẫn của
Mẹ Bề trên, Gioan Thánh Matthias rời Valladolid với một
nhiệt huyết mới theo tinh thần Têrêxa, bắt đầu làm việc để
biến đổi cái trang trại nhỏ Têrêxa vừa mua lại thành một
tu viện cho các tu sĩ đầu tiên của Dòng. Nó nằm trong một
30
nơi hẻo lánh gọi là Duruelo, giữa Avila và Salamanca.
Đến cuối tháng Mƣời Một, Tu huynh Gioan đã biến ngôi
nhà nhỏ với mái hiên, căn phòng chính, góc tƣờng, gác
xép, và nhà bếp nhỏ thành tu viện đầu tiên dành cho các tu
sĩ Cát Minh cải tổ. Vào ngày 28 tháng 11 năm 1568, với
một phó tế trẻ và Tu huynh Antonio de Heredia (ngƣời đã
từng là Bề trên tại Medina), trong sự hiện diện của vị giám
tỉnh, Tu huynh Gioan Thánh Matthias ôm lấy cuộc sống
mới, hứa sẽ sống mà không giảm nhẹ Quy luật Cát Minh
cổ đại. Lúc đó ngài đã đổi tên dòng thành Gioan Thánh
Giá. Mùa xuân sau đó cha giám tỉnh bổ nhiệm Tu huynh
Antonio làm Bề trên và Tu huynh Gioan làm giám sƣ tập
viện, đến mùa thu thì có hai tập sinh đến. Sau đó cơ sở đã
trở thành quá nhỏ, cho nên tháng Sáu 1570 cộng đoàn đã
chuyển đến gần thị trấn Mancera de Abajo. Cũng trong
năm ấy, Gioan đến Pastrana để giúp tổ chức một tập viện
khác, rồi lại chuyển đến Alcalá de Henares để thiết lập
một học viện cho các tu sĩ mới gần trƣờng đại học nổi
tiếng của Alcalá. Ông trở thành Giám đốc đầu tiên của học
viện, hƣớng dẫn sinh viên học tập và phát triển tâm linh.
Rồi sau đó, cũng ngay từ đầu, Gioan dấn thân vào một
nhiệm vụ cấp bách trƣớc mắt, linh hƣớng. Với Kinh thánh,
với kinh nghiệm riêng, và nắm vững cả triết học và thần
học, ngài bắt đầu suy nghĩ về sự phát triển tâm linh, quan
sát đƣờng lối của nhân loại, để nhận rõ ra đƣờng lối của
Thiên Chúa.
Công cuộc của ngài bây giờ đã phải mở rộng.
Têrêxa vừa đƣợc cha Pedro Fernández, kinh lƣợc, gửi đi
làm Bề trên tại đan viện Nhập Thể ở Avila, đã đƣợc phép
mời Tu huynh Gioan Thánh Giá làm cha giải tội và linh
hƣớng lành nghề cho số lƣợng đông đảo các nữ tu ở đó.
31
Đó là một cộng đoàn bị áp lực với nhiều vấn đề kinh tế và
xã hội. Đức Giáo hoàng Piô V đã ký thác việc cải cách của
họ cho các tu huynh dòng Đaminh. Theo lệnh ngài, Cha
Fernández, dòng Ða Minh đã đến giải quyết các vấn đề
của dòng Cát Minh ở Castilla, với tƣ cách kinh lƣợc. Một
cha Đa Minh khác, Francisco Vargas, lo cho dòng Cát
Minh ở Andalusia. Những vị kinh lƣợc này có quyền hành
rất lớn. Họ có thể thuyên chuyển tu sĩ từ nhà này sang nhà
khác, và từ tỉnh dòng này sang tỉnh dòng khác, hỗ trợ các
Bề trên trong chức vụ của họ, và đề cử các bề trên khác từ
dòng Ða Minh hoặc dòng Cát Minh. Họ đƣợc quyền thực
hiện mọi hành vi cần thiết để "thăm viếng, sửa đổi và cải
cách cả các bề trên lẫn các thành viên của tất cả các nhà
của các tu sĩ nam và nữ." Với một sự tôn trọng lẫn nhau
sâu sắc cũng nhƣ với sự lịch thiệp và khôn khéo, cha
Fernández đã tạo cho mẹ Têrêxa những điều kiện thuận
lợi để giải quyết các công việc.
Vào cuối tháng năm 1572, Gioan Thánh Giá đến
Avila và bƣớc vào thế giới nữ tu, một thế giới đã trở thành
lĩnh vực đặc biệt của ngài trong tác vụ tâm linh. Tác vụ
này bao gồm cả việc linh hƣớng cho chính Mẹ Têrêxa.
Trong những năm này, qua những cuộc trò chuyện sâu sắc
và cởi mở ngài nhận đƣợc từ Mẹ nhiều không kém những
gì ngài đã cho. Có lần, vào Chúa nhật lễ Chúa Ba Ngôi hai
vị nói chuyện ngây ngất đến nỗi không những đƣợc xuất
thần mà ngƣời ta còn thấy hai vị đƣợc nâng cao lên khỏi
mặt đất. Vào ngày 18 tháng 11 năm 1572, trong khi cha
Gioan đang linh hƣớng, thánh nữ Têrêxa bất ngờ nhận
đƣợc ơn hôn phối tâm linh. Bà đạt tới mức ở lại thứ bảy và
là mức cuối cùng trên hành trình tâm linh của bà. Tại tâm
điểm của lâu đài nội tâm, bà đã đạt tới trạng thái cao nhất
32
của sự kết hiệp thân mật với Thiên Chúa. Kinh nghiệm
của những năm ấy, khi đƣợc đứng ở một vị trí rất đặc ân,
vị linh mục giải tội đã có thể thấy công cuộc của Thiên
Chúa nơi Têrêxa, đã để lại trong các tác phẩm sau này của
Gioan những dấu vết sâu đậm hơn lúc đầu ngƣời ta đã có
thể mƣờng tƣợng. Ngoại trừ Kinh thánh, Mẹ Têrêxa đã
cung cấp một nguồn ánh sáng lớn hơn tất cả những sách
mà Tu huynh Gioan đã học đƣợc. Bản thân mẹ đã không
tiếc lời ca ngợi những ân điển nơi vị linh hƣớng của bà.
Trong một lá thƣ, bà mô tả ngài nhƣ là một "ngƣời của
Thiên Chúa, của cõi trời" và khẳng định rằng trong khắp
cả Castilla bà đã không tìm thấy đƣợc vị linh hƣớng nào
nhƣ ngài. Hai vị đã ở Avila nhƣ thế đó, Têrêxa và Gioan:
vừa rất giống nhau, vừa rất khác nhau, để rồi có thể bổ
sung cho nhau trong các tác phẩm của họ. Tác vụ linh
hƣớng của Gioan lan rộng cả thành phố, với một đám
đông ngƣời, kể cả những ngƣời nổi tiếng là tội lỗi. Cha đã
cố gắng dành thời gian cho tất cả mọi ngƣời, cả những trẻ
em nghèo. Nhớ lại thời thơ ấu của mình, cha đã quy tụ trẻ
em lại, dạy cho chúng biết đọc, biết viết.
XUNG ĐỘT THẨM QUYỀN TÀI PHÁN
Vua Philip II đã xen mình cách kỳ cục vào chuyện
cải cách các dòng tu, dẫn đến một chuỗi những hiểu lầm
và một đêm dày cho ngƣời tu huynh thấp bé. Cha
Fernández đã thi hành quyền hạn của mình cách thận
trọng và hài hòa với tỉnh dòng Cát Minh Castilla. Đang
khi đó ở phía nam, cha Francisco Vargas yêu cầu các tu sĩ
cải tổ xây thêm cơ sở ở Sevilla, Granada và La Peñuela
(tất cả đều thuộc tỉnh dòng Andalusia), một việc làm đi
ngƣợc với những lệnh truyền công khai của Bề trên Tổng
33
quyền không cho mở rộng các tu viện cải tổ tại khu vực
đó. Tại tu nghị dòng đƣợc triệu tập tại Piacenza (Italia)
tháng năm 1575, dòng Cát Minh đã có một số quyết định
mạnh mẽ về tất cả những gì họ nghe nói đã diễn ra ở Tây
Ban Nha, đặc biệt là ở Andalusia. Thật không may là cả
hai vị giám tỉnh từ Castilla và Andalusia, là những ngƣời
có thể nêu rõ một số ánh sáng về những chuyện ấy, đều
vắng mặt. Vì vậy, các pháp lệnh quy định rằng những
ngƣời đã đƣợc đặt làm bề trên "ngƣợc với sự vâng phục
cần có đối với bề trên trong dòng, cũng nhƣ những ai đã
nhận những trách vụ hoặc đã sống trong những tu viện
hoặc những nơi mà các bề trên ấy đã cấm đều phải rời
khỏi chức vụ, với sự giúp đỡ của thế quyền nếu cần."
Những ai chống lại sẽ đƣợc coi là bất tuân, nổi loạn và
ngoan cố, và đáng bị trừng phạt nặng nề. Cha Jerónimo
Tostado đƣợc bổ nhiệm làm kinh lƣợc của Dòng đi Tây
Ban Nha, với đầy đủ quyền hạn để thực hiện các quyết
định của tu nghị.
Trong một tông sắc vào tháng Tám năm trƣớc, theo
yêu cầu của dòng Cát Minh, Đức Giáo hoàng Grêgoriô
XIII đã tuyên bố chấm dứt sự kinh lƣợc của các cha Đa
Minh và ra lệnh từ ấy các tu sĩ Cát Minh cần đƣợc kinh
lƣợc bởi Bề trên Tổng quyền và các đại diện của ngài, giữ
nguyên hiệu lực những gì đã đƣợc các vị kinh lƣợc trƣớc
đây thiết lập. Thế nhƣng nhà vua không hài lòng. Tại sao
vấn đề này đã không đƣợc trình bày cho ông để đƣợc ông
chấp thuận trƣớc đã? Sứ thần của Đức Thánh Cha là cha
Nicolás Ormaneto, làm việc chặt chẽ với nhà vua, đã nhận
đƣợc sự đảm bảo rằng với tƣ cách sứ thần ngài vẫn có
quyền kinh lƣợc và cải cách các dòng tu. Cha Ormaneto
chỉ định Jerónimo Gracian (một linh mục học thức xuất
34
thân từ đại học Alcalá, đã gia nhập dòng Cát Minh cải tổ
và trở thành một cộng tác viên gần gũi với Mẹ Têrêxa
trong nhiều công cuộc của Mẹ) làm kinh lƣợc mới cho
dòng Cát Minh ở Andalusia.
Sau khi Mẹ Têrêxa mãn nhiệm kỳ viện trƣởng tại
đan viện Nhập Thể, cha Gioan đƣợc lệnh của sứ thần tiếp
tục ở lại đan viện này, có lẽ vì những việc ngài đã làm
đƣợc ở đó rất tốt. Theo quan điểm của tu nghị Piacenza,
Gioan ý thức rằng việc ngài hiện diện ở đó gây nhiều căng
thẳng nên ngài tìm cách xin thuyên chuyển. Thật ra, ngài
đã bị các tu sĩ Cát Minh bảo thủ bắt giữ vào tháng Giêng
năm 1576, nhƣng rồi đã đƣợc thả ra do sự can thiệp của sứ
thần. Dù vì lý do gì, ngài đã vẫn ở đó, và khi sứ thần
Ormaneto qua đời vào tháng 6 năm 1577, Gioan đã không
còn ai bảo vệ và sự hiện diện của ngài tại Avila ngày càng
gây bực bội cho những ngƣời nghĩ rằng nó trái với quyết
định của tu nghị Piacenza. Rồi điều phải đến đã đến sớm.
Đêm 02 tháng 12 năm 1577, một nhóm tu sĩ Cát Minh,
thƣờng dân và cả ngƣời có vũ trang đã đột nhập vào nhà ở
của vị linh hƣớng, bắt Tu huynh Gioan và dẫn đi. Theo
lệnh của Tostado, họ chở ngài đi bằng xe bò, bị còng tay
và bịt mắt thƣờng, theo một lộ trình bí mật, đến tu viện ở
Toledo, tu viện đẹp nhất của Dòng tại Castilla, nơi có gần
85 tu sĩ sống. Họ đọc to cho Gioan nghe các văn kiện của
tu nghị Piacenza và theo đó ngài bị tố cáo là nổi loạn và
ngoan cố. Ngài phải thuận phục hoặc phải bị trừng phạt
nặng. Nhƣng vị tu sĩ bị tố cáo lập luận rằng các văn kiện
của tu nghị không áp dụng đối với ngài vì ngài đã ở đan
viện Nhập Thể theo lệnh của quyền bính hợp pháp, và
ngài xác tín mình không bị buộc phải từ bỏ nếp sống mà
35
ngài đã chấp nhận cùng với Têrêxa. Thế là, theo hiến
pháp, ngài bị bỏ tù.
Thoạt đầu những kẻ tố cáo nhốt ngài trong phòng
giam tu viện, nhƣng sau hai tháng, sợ ngài trốn thoát, họ
đƣa ngài đến một nơi khác, một căn phòng hẹp và tối tăm,
chỉ có đôi chút không khí và ánh sáng lọt qua một khe nhỏ
trên cao ở vách tƣờng. Căn phòng chỉ rộng hai mét, dài ba
mét. Cha Gioan ở đó một mình, không có gì ngoài quyển
sách nguyện, qua những tháng mùa đông lạnh thấu xƣơng
và mùa hè nóng nhƣ thiêu đốt. Thêm vào đó còn bị đánh
đòn, chỉ ăn bánh mì chay, uống nƣớc lã, chỉ có một bộ đồ
mặc suốt tháng này qua tháng khác mà không đƣợc giặt –
rồi còn rận. Mẹ Têrêxa đã viết thƣ cho nhà vua và xin nhà
vua hãy vì tình yêu của Thiên Chúa mà truyền phóng thích
Tu huynh Gioan lập tức. Giữa cảnh thiếu thốn ấy, Tu
huynh Gioan tìm sự cứu trợ bằng cách tự soạn trong tâm
trí những bài thơ của ngài, để lại cho hậu thế một số đoạn
thơ trữ tình vĩ đại bậc nhất văn học Tây Ban Nha - trong
đó có phần lớn bài Ca Khúc Tâm Linh. Những câu thơ này
gợi cho thấy rằng trong phòng giam chật chội, bị tƣớc lột
hết mọi tiện nghi trần thế, ngài đã rất cảm động chỉ với
một số tia sáng từ Thiên Chúa. Những cái chật chội vây
quanh thành vô nghĩa, ý thức của vị tu huynh vƣơn rộng.
"Đấng Chí Ái của em, là những núi". Cũng chính nơi đây,
giữa sự trống rỗng tối tăm, một tổng hợp tâm linh bắt đầu
trổ hoa. “Đức tin và tình yêu sẽ dẫn bạn qua những nẻo
đƣờng bạn chẳng biết, đến tận nơi Thiên Chúa ẩn mình”
(CaB 1,11). Mọi thứ khác đều qua đi, nhƣng không ai có
thể tƣớc đoạt đƣợc đức tin và tình yêu của ngài, và chính
những điều này đem Thiên Chúa lại cho ngài.
36
Nhờ một ngƣời cai ngục mới tốt bụng và khoan
dung hơn, Gioan xin đƣợc ít giấy mực để ghi lại những bài
thơ của ngài. Nhờ những lúc đƣợc ra khỏi phòng giam,
ngài đã quen dần với khung cảnh xung quanh tu viện. Rồi,
vào một đêm tháng Tám oi bức, sau khi bị giam giữ chín
tháng, hốc hác tiều tụy đến gần chết, Gioan quyết chọn
cuộc sống. Ngài đã thực hiện một cuộc trốn thoát nguy
hiểm mà nhờ những khoảnh khắc ngắn ngủi đƣợc ra khỏi
phòng giam ngài đã phác họa đƣợc. Ngài phát hiện ra một
cửa sổ nhìn xuống sông Tajo, và bên dƣới cửa sổ là đỉnh
của một bức tƣờng. Tất nhiên, cửa phòng giam bị khóa.
Lợi dụng lúc ngƣời canh giữ vắng mặt, ngài đã nới lỏng
các ốc vít của bộ khóa. Đang khi các tu sĩ có vẻ đã ngủ và
tu viện rất yên ắng, ngài đẩy mạnh vào cánh cửa phòng
giam và bộ khóa bung ra. Nhờ đó ngài đã rời khỏi phòng
giam và lần mò trong bóng tối để tới chỗ cửa sổ ấy. Ngài
dùng dải vải của hai khăn trải giƣờng cũ bện thành một sợi
dây, cột vào một cái móc đèn, và trốn thoát qua cửa sổ
phía trên cao của bức tƣờng. Các bức tƣờng rào bao quanh
tu viện và khắp cả khu vƣờn, do đó, ngài đã đi vòng quanh
trên bức tƣờng rào ấy cho đến khi đến một chỗ mà ngài
nghĩ là sát vệ đƣờng. Ngài nhảy xuống khỏi tƣờng rào, rơi
vào một tình huống khó xử. Ngài đã nhảy nhằm vào trong
sân các nữ tu Dòng Phanxicô của tu viện Conception sát
liền nhà dòng Cát Minh. May thay, trong một góc vƣờn
các nữ tu, ngài thấy những viên đá trên tƣờng có thể dùng
làm nấc thang trèo qua tƣờng để đến đƣợc các nẻo đƣờng
của thành phố và tự do. Phải nói cuộc vƣợt ngục của ngài
thật kỳ diệu. Đi một lúc, ngài đã có thể tìm thấy đƣợc nơi
trú ẩn, trƣớc hết là tại nhà các nữ tu của Mẹ Têrêxa tại
Toledo và sau đó, nhờ họ giúp đỡ, ngài đã tới đƣợc bệnh
viện Santa Cruz gần đó và đƣợc bí mật chăm sóc. Vị sứ
37
thần mới, cha Felipe Sega, không giống nhƣ ngƣời tiền
nhiệm. Ông tỏ ra không hài lòng với Têrêxa, và đặc biệt là
các tu huynh của bà mà con số lúc ấy đã hơn 300. Với sự
giúp đỡ của Tostado, ông đã tìm cách lập lại một thứ trật
tự nào đó. Gần nhƣ tuyệt vọng, tháng 10 năm 1578, các tu
sĩ cải tổ đã triệu tập một tu nghị tại Almodóvar del
Campo, phía tây nam Toledo, bất chấp những nghi ngờ về
tính hợp pháp của nó. Họ tuyên bố rằng đơn giản họ chỉ
muốn thực hiện những gì họ đã nhất trí trong một tu nghị
trƣớc đã đƣợc cha Gracian triệu tập năm 1576, thời
Ormaneto vẫn còn sống. Vị Tu huynh vƣợt ngục, Gioan
Thánh Giá, đã đƣợc bổ nhiệm làm đại diện của El
Calvario, một tu viện nằm trong miền núi thanh vắng gần
Beas ở Andalusia. Ở đây, ngài sẽ đƣợc an toàn hơn so với
bất kỳ nỗ lực nào muốn bắt lại ngài.
Khi Sega nghe biết về tu nghị Almodóvar ông
tuyên bố nó vô hiệu, kể nhƣ không có. Ông giận dữ tống
giam Gracian và những ngƣời khác. Ông đặt các tu sĩ và
các nữ tu cải tổ dƣới thẩm quyền xét xử của vị giám tỉnh
thuộc dòng Cát Minh bảo thủ. Thế nhƣng nhà vua đã có
kế hoạch khéo léo tìm cách giảm sự cuồng nhiệt của Sega:
ông lập một ủy ban nghiên cứu những cáo buộc chống lại
cải tổ. Trong tháng 4 năm 1579, ủy ban đạt quyết định, bổ
nhiệm Angel de Salazar, một cựu giám tỉnh của dòng Cát
Minh bảo thủ, phụ trách các tu sĩ và nữ tu của Mẹ Têrêxa.
Mẹ Têrêxa vui mừng về việc bổ nhiệm này, và cha
Gracian ca ngợi cha Salazar là một ngƣời nhẹ nhàng và
kín đáo mà mối quan tâm chính là để an ủi những ngƣời
sầu khổ và thúc đẩy hòa bình.
NHÀ THƠ VÀ CHA LINH HƯỚNG
38
Cha Gioan đã cảm thấy an ủi và bình an khi một
năm và mấy tháng trƣớc đó1, ngài đến để đảm nhận chức
vụ mình tại El Calvario, một nơi có vẻ đẹp ngoạn mục, xa
những xung đột và các mối đe dọa về quyền tài phán.
Ngài không hề quan tâm đến quá khứ và chẳng nói gì về
thời gian bị tù. Ngài không thù oán, chẳng than phiền
cũng không tự hào về những gì đã phải chịu đựng. Hơn
bao giờ hết, giờ đây ngài có thể lắng nghe thiên nhiên qua
các giác quan của mình: những bông hoa, những làn gió
huýt sáo, đêm, bình minh, các dòng suối cuồn cuộn, tất cả
đều nói chuyện với ngài. Thiên Chúa hiện diện khắp nơi.
Nhƣng chƣa đầy một năm, ngài đã phải chuyển về
thành phố một lần nữa, lần này đến thị trấn đại học Baeza
để làm Giám hiệu trƣờng đại học mới dành cho các tu sĩ
Têrêxa ở phía nam. Dù không thể cạnh tranh với những
nơi nhƣ Salamanca hay Alcalá, trƣờng đại học Baeza đã
có một uy tín nhất định và đã có những đóng góp quan
trọng về nghiên cứu Kinh thánh. Trong thời gian làm
Giám hiệu cho đại học Cát Minh (1579-1582), Gioan
hƣớng dẫn sinh viên nghiên cứu, quen thuộc với giới giáo
sƣ tại trƣờng đại học. Sử liệu để lại cho thấy họ thƣờng
xuyên tham khảo ý kiến và nói chuyện lâu với ngài về
Kinh thánh. Những năm sau khi trốn thoát, Gioan đã một
lần nữa đảm nhận sứ vụ linh hƣớng, không chỉ cho các tu
sĩ mà còn cho các nữ tu. Ngài thƣờng xuyên vƣợt các
ngọn núi để đến Beas, một thị trấn nhỏ của vùng
Andalusia điển hình với những ngôi nhà nhỏ quét vôi, có
lƣới tản nhiệt phía trƣớc cửa sổ lớn và ban công với nhiều
loại cây có hoa. Thị trấn này quan trọng trong cuộc sống
1 Trƣớc sự kiện Đức Giáo hoàng Grêgôriô XIII ký đoản sắc tách dòng Cát Minh cải
tổ khỏi dòng Cát Minh nguyên thủy (22 Tháng Sáu 1580) sẽ nói dƣới đây.
39
của Gioan, vì ở đây ngài đã gặp Ana de Jesús, một nữ viện
trƣởng lúc đầu không nhận ra chiều sâu và linh hạnh của
ngài. Trong một bức thƣ gửi Ana, đáp lại lời bà than phiền
rằng không có cha linh hƣớng, Mẹ Têrêxa nêu rõ suy nghĩ
của mình về Tu huynh Gioan Thánh Giá:
“Con ạ, mẹ thực sự ngạc nhiên với phàn nàn vô lý
của con, khi con đang có Cha Gioan Thánh Giá ở với con.
Ngài là một ngƣời của Thiên Chúa, là ngƣời của trời cao.
Mẹ có thể nói với con rằng kể từ khi ngài ra đi, thì khắp cả
Castilla mẹ đã chẳng tìm thấy ai nhƣ ngài. Cũng chẳng ai
khác có thể truyền cảm hứng cho những ngƣời có rất
nhiều nhiệt tình muốn đến thiên đàng. Con khó mà hiểu
mẹ đã cảm thấy lẻ loi nhƣ thế nào khi thiếu vắng ngài.
Con nên xét lại mà coi, con còn có một kho tàng lớn lao
biết bao nơi vị thánh ấy, và tất cả những chị em trong tu
viện nên gặp gỡ ngài và cởi mở tâm hồn của họ với ngài,
họ sẽ thấy đƣợc bổ ích đến ngần nào và thấy mình đƣợc
tiến nhanh trên đƣờng tâm linh và hoàn thiện biết bao, bởi
vì Thiên Chúa đã ban cho ngài một ân huệ đặc biệt để
phục vụ mục tiêu ấy” [Tháng 12 năm 1578].
Mẹ Têrêxa tiếp tục ca tụng sự thánh thiện, lòng tốt,
kinh nghiệm và sự hiểu biết của cha Gioan. Nữ tu Ana de
Jesús đã sớm nắm đƣợc lời của Mẹ Têrêxa qua kinh
nghiệm riêng của chị. Gioan chia sẻ những bài thơ của
mình với các nữ tu, và qua những buổi nói chuyện dành
cho họ, ngài bắt đầu minh giải bài Ca Khúc Tâm Linh.
Trong thời gian vị tu sĩ thánh thiện làm Hiệu trƣởng tại
Baeza, các tu sĩ Cát Minh cải tổ, nhờ sự can thiệp của nhà
vua, đã giành đƣợc sự độc lập về quyền tài phán. Năm
1580, Tòa Thánh cho phép họ thiết lập một tỉnh dòng tự
trị, trực thuộc Bề trên Tổng quyền của Dòng. Mãi đến
40
năm 1593, sau khi cả hai thánh Têrêxa và Gioan đều đã
qua đời, họ mới có đƣợc sự độc lập hoàn toàn, khi Đức
Giáo hoàng Clêmentê VIII ban cho dòng Cát Minh cải tổ
những quyền hạn và đặc ân nhƣ các Dòng tu khác. Năm
1582, Tu huynh Gioan đƣợc bầu làm Bề trên một tu viện
tiếp giáp với vùng Alhambra, với toàn cảnh nổi bật của
miền Sierra Nevada và nhìn ra thành phố Granada thú vị
với dấu vết kỳ lạ của nền văn hóa Hồi giáo còn sót lại
khắp mọi nơi. Ở đây, ngoài việc lãnh đạo cộng đoàn,
Gioan còn thiết kế và xây dựng một kênh thoát nƣớc mới
và một tòa nhà tu viện mới, về sau đã trở thành một mô
hình cho các tu viện cải tổ. Đồng thời, tác vụ linh hƣớng
của ngài không dành riêng cho các tu sĩ nam nữ mà còn
cho cả giới giáo sĩ và những giáo dân đến gõ cửa tu viện
tìm kiếm sự giúp đỡ. Ngài khởi đầu công việc của một nhà
văn, bắt đầu viết những tác phẩm kinh điển về mặt tâm
linh. Năm 1585, tại tu nghị ở Lisbon, Gioan đƣợc bầu làm
phó giám tỉnh Andalusia. Chức vụ này buộc ngài phải
thƣờng xuyên đi lại. Ngài đã chăm sóc tất cả các nhà của
tu sĩ và nữ tu ở Andalusia, viếng thăm chính thức mỗi nơi
ít nhất một lần một năm. Ngài thành lập bảy tu viện mới.
Tất cả những việc này đã đƣa ngài đến Córdoba, Málaga,
Caravaca, Jaén, và các thành phố nổi tiếng khác ở phía
nam của Tây Ban Nha.
NHỮNG NĂM CUỐI CÙNG
Mùa hè năm 1588, cha Gioan đã đƣợc bầu làm ủy
viên thứ ba của hội đồng cố vấn, phụ giúp cha tổng đại
diện Cát Minh cải tổ, cha Nicolás Doria, và phải quay về
Segovia miền Castilla, và với tƣ cách ấy, ngài cũng là Bề
trên ở đó. Tại nhiệm sở mới, một cảnh quan tuyệt vời của
Segovia và phụ cận, ngài lại dành nhiều giờ cho việc lao
41
động tay chân, thiết kế một phần bổ sung cho tu viện,
kiếm đá để làm, và lo xây dựng. Ngài không còn viết nữa,
nhƣng dành nhiều thời gian hơn cho việc cầu nguyện,
thƣờng đến một hang động trong vƣờn nơi có thể nhìn
thấy các vùng nông thôn và dễ đƣợc cô tịch để chiêm
niệm thật sâu. Ngài đã đẩy tác phẩm mới nhất của ngài,
Ngọn Lửa Tình Nồng, tới một kết thúc nhanh đến bất ngờ,
thú nhận rằng ngài không muốn giải thích gì thêm về hơi
thở của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn, "bởi tôi thấy rõ
mình không biết nói gì về điều ấy, mà nếu tôi có nói lên
điều gì thì cũng chẳng bằng không nói ra”. Cha Gioan tiếp
tục chức vụ linh hƣớng của ngài, không bao giờ tránh
những ngƣời đến xin giúp đỡ. Những công việc quản trị
Dòng vẫn luôn đƣợc ngài quan tâm chu đáo. Thế nhƣng
chuyện này lại nhen nhúm một xung đột khác, lần này là
giữa các tu sĩ cải tổ với nhau. Cuộc đụng độ bắt đầu khi
Nicolás Doria triệu tập một tu nghị đặc biệt vào tháng 6
năm 1590 nhằm thực hiện hai thay đổi gây tranh cãi. Việc
thứ nhất là, ngài muốn khƣớc từ quyền tài phán đối với
các nữ tu, đáp lại sự chống đối của Mẹ Ana de Jesús ngƣời
phản đối kế hoạch của ngài. Cha Doria hy vọng sửa đổi
đƣợc hiến pháp của Mẹ Têrêxa để hƣớng dẫn các nữ tu
qua một cơ chế hội đồng chứ không phải qua một tu sĩ
đƣợc chỉ định cho việc này. Thứ hai, ngài đề nghị trục
xuất cộng tác viên gần gũi của Thánh nữ Têrêxa, là Cha
Jerónimo Gracian, khỏi dòng Cát Minh cải tổ. Tu huynh
Gioan đã lên tiếng phản đối cả hai thay đổi. Trong tu nghị
năm sau, những vị cố vấn khác đã đƣợc bầu lên để hỗ trợ
Doria, Gioan không còn một chức vụ nào. Chuyện này trở
thành vấn đề cho ngƣời khác hơn cho Gioan. Khi hay tin,
một số ngƣời đã phản đối mạnh mẽ. Thế nhƣng Gioan lại
nhìn những chuyện ấy một cách khác, nhƣ ngài vẫn
42
thƣờng làm, và nói lên ý nghĩ của mình trong một lá thƣ
gửi cho nữ tu Bề trên ở Segovia:
“… Đừng để những gì xảy đến cho cha khiến con
muộn phiền bởi lẽ điều đó chẳng gây muộn phiền gì cho
cha. Điều khiến cho cha hết sức đau lòng là ngƣời ta đã đổ
lỗi cho ngƣời không có lỗi. Không phải nhóm nam giới ấy
thực hiện những điều đó mà là chính Thiên Chúa, vì Chúa
biết điều gì phù hợp với chúng ta. Ngài sắp đặt mọi sự vì
thiện ích của chúng ta. Con chớ nghĩ gì khác ngoài việc
Chúa an bài mọi sự. Và ở đâu không có tình yêu, con hãy
đặt tình yêu vào đó và con sẽ gặt hái đƣợc tình yêu…” [ngày 06 tháng bảy năm 1591].
Dƣờng nhƣ để trả đũa, Doria gửi Gioan Thánh Giá
về lại Andalusia, đến một tu viện hẻo lánh tên là La
Peñuela, một nơi cô quạnh nhƣ Duruelo hoặc El Calvario.
Tuy nhiên, Gioan lại tranh thủ thời gian ở đấy để chuẩn bị
cho sứ vụ Mexico, ngài sẽ phải dẫn một nhóm 12 tu sĩ tới
đó. Ngài sống hạnh phúc trong cô tịch, nhƣng lại có
những kẻ xúc xiểm bắt đầu quấy rầy sự yên ổn của các
bạn bè ngài, những ngƣời ngài đang giúp linh hƣớng, và
phá vỡ sự im lặng đầy ấn tƣợng của La Peñuela. Tu huynh
Diego Evangelista, vốn oán giận vị cựu bề trên của mình
đến cay nghiệt, đang hăm dọa tìm cách thu thập thông tin
chống lại vị tu sĩ linh hƣớng để vận động trục xuất ngài
khỏi nhóm cải tổ. Tu huynh Diego sẽ chẳng bao giờ có
thời gian để tiến xa trong dự định ấy. Giữa tháng chín,
Gioan bắt đầu bị sốt nhẹ do chân bị sƣng. Nghĩ rằng chẳng
có gì nghiêm trọng, ngài không bận tâm, nhƣng rồi nó cứ
kéo dài buộc ngài phải đi Ubeda điều trị vì tại La Peñuela
không có sẵn phƣơng tiện y tế. Khi đƣợc chọn giữa Baeza
và Ubeda, ngài đã chọn Ubeda, "ít ra tại Baeza ngƣời ta
43
biết rõ về tôi, còn ở Ubeda chẳng ai biết tôi." Và đó là
cuộc hành trình cuối cùng của đời ngài.
Bề trên tu viện Ubeda, Tu huynh Francisco
Crisostomo, chẳng hân hoan gì khi tiếp đón ngƣời bệnh.
Học thức cao và nổi tiếng là một nhà giảng thuyết, Tu
huynh Crisostomo có điểm yếu của mình, trong đó có một
xu hƣớng là keo kiệt và cứng nhắc. Ngài thấy ngay một tu
sĩ bệnh tật sẽ là một phiền toái và một khoản chi phí lớn,
và ngài đã để lộ sự bực tức; ngài cũng chẳng quan tâm gì
tới ngƣời đã đƣợc cho là thánh. Bệnh của cha Gioan càng
lúc càng tồi tệ. Chân cha bị lở loét và căn bệnh viêm
quầng lây lan đến lƣng cha với một khối u bằng nắm tay
mới phát. Ngày 13 tháng 12, Tu huynh Gioan Thánh Giá
biết rằng thời giờ chẳng còn mấy, cha đã mời cha Bề trên
đến, xin ngài tha thứ cho tất cả những phiền toái cha đã
gây ra. Điều ấy đã khiến vị Bề trên thay đổi cách sâu xa.
Ngài đã xin cha Gioan tha thứ và rời khỏi phòng trong
nƣớc mắt, hoàn toàn biến đổi. Các nhân chứng cho biết về
sau Tu huynh Francisco Crisostomo đã chết trong hƣơng
thơm thánh thiện. Đêm ấy, khi các tu sĩ bắt đầu đọc những
lời cầu nguyện cho những ngƣời hấp hối, Tu huynh Gioan
Thánh Giá nài xin: "Đừng, xin hãy đọc một số câu của
sách Diễm ca", rồi thốt lên: "Ôi, những lời châu ngọc!".
Đến nửa đêm, không chút đớn đau, dằn vặt, ngài qua đời,
khi đang lặp đi lặp lại lời thánh vịnh: "Trong tay Ngài, lạy
Chúa, con xin phó thác linh hồn con." Những ơn ngài đã
xin cho những năm cuối đời, giờ đây ngài đã nhận đƣợc:
đƣợc chết khi không làm bề trên, đƣợc chết ở một nơi
không ai biết đến, và đƣợc chết sau khi đã phải chịu nhiều
đau khổ.
44
CHÂN DUNG MỘT VỊ THÁNH
Những sự kiện chính trên đây trong cuộc đời ngắn
ngủi của Thánh Gioan Thánh Giá chƣa vẽ nên hình ảnh
đầy đủ về tính cách và linh hạnh riêng của ngài. Ngài đã
sớm quen với sự túng thiếu, đến sau thì bị hiểu lầm và bị ở
tù, rồi những bách hại phải chịu lúc cuối đời, tất cả lẽ ra
đã sản sinh ra một kẻ yếm thế hay chỉ trích cay cú; nhƣng
thay vào đó, lại là một ngƣời đƣợc thanh luyện và đƣợc
khai sáng. Những sự kiện nhìn bề ngoài thật buồn nhƣng
bên trong biến thành những hoa trái đầy lòng yêu ngƣời và
cảm thông sâu sắc với những ai đau khổ. Cùng với những
điều ấy là một cái nhìn rõ ràng hiếm có về vẻ đẹp nơi các
thụ tạo của Thiên Chúa và về sự thân mật với Thiên Chúa
Ba Ngôi mà Gioan đã nhận ra là chỉ có thể mô tả đƣợc
phần nào qua những ẩn dụ về cuộc sống của vinh quang.
Trƣớc tiên, về ngoại hình thể lý, Tu huynh Gioan Thánh
Giá là một ngƣời thấp bé, chỉ cao một mét rƣỡi. Mỗi khi
nhắc đến ngài, Thánh Têrêxa hầu nhƣ luôn thấy phải dùng
thêm từ “bé nhỏ”. Khi mô tả về cảnh tù tội của ngài, bà
viết: "Trong chín tháng ngài đã ở trong một nhà tù nhỏ
đến nỗi, dù nhỏ bé nhƣ ngài, cũng không có đủ chỗ để
ngài đi qua đi lại". Ngài tuy gầy gò, nhƣng khuôn mặt trái
xoan xƣơng xẩu với vầng trán rộng và hói, đã tạo nên một
diện mạo đáng kính. Mũi hơi khoằm, đôi mắt ngài đen và
lớn. Tƣơng ứng với hình ảnh ấy của Tu huynh Gioan là
chiếc áo dòng nâu đã cũ và một chiếc áo choàng trắng thô
dƣờng nhƣ làm bằng lông dê.
Từ thơ ấu đã phải chịu cảnh nghèo, cả đến khi đã là
một tu sĩ cũng nghèo, cho nên ngài thấy khó mà làm ngơ
trƣớc cảnh những ngƣời khác phải khốn khó về vật chất.
Với những ngƣời đến xƣng tội, ngài không tự giới hạn vào
45
việc tìm kiếm lợi ích tâm linh cho họ, nhƣng còn tìm cách
giúp đỡ khi họ cần. Đôi khi ngài chia sẻ cho họ bằng quỹ
từ thiện ít ỏi của tu viện, đôi khi ngài đi xin những ngƣời
sùng đạo khác bố thí cho họ. Có lần, thấy một linh mục
đến xƣng tội mặc tấm áo chùng đã sờn rách, ngài đã xin
mấy nhà hảo tâm một số tiền để mua cho vị linh mục ấy
một chiếc áo mới. Ngài đau lòng khi chứng kiến cảnh
nghèo khó của nhiều nữ tu tại đan viện Nhập thể, những
ngƣời không có các nguồn lực vật chất để thụ hƣởng
những thứ tốt đẹp từ gia đình. Một ngày nọ, khi vào đan
viện làm phận vụ linh hƣớng, ngài thấy một nữ tu lau sàn
nhà đi chân trần, không phải vì bà có ý đền tội nhƣng vì
bà không có giày. Ngài liền ra phố, hỏi xin một số ngƣời
từ thiện cho tiền, và quay lại cho ngƣời nữ tu để bà có thể
mua giày. Rồi đến năm 1584, một năm khô hạn và thiếu
đói ở Andalusia, là Bề trên tu viện Granada, cha Gioan đã
làm hết sức có thể để giúp đỡ hoặc thực phẩm hoặc tiền
bạc cho tất cả những ngƣời nghèo đến gõ cửa tu viện. Với
những ngƣời xuất thân từ dòng dõi sang trọng ngài đã
giúp cách bí mật bởi vì, mặc dù thiếu thốn, họ thƣờng xấu
hổ không dám xin cách công khai. Đi đâu ngài cũng tìm
ngƣời nghèo và cả các bệnh nhân. Giờ đây ngài hiểu sâu
sắc hơn những buồn khổ của các bệnh nhân ngài từng gặp
hồi còn thanh niên khi làm việc trong bệnh viện tại
Medina. Ngài cũng chịu đau để có thể biết đồng cảm với
ngƣời bệnh cách tinh tế nhất, để biết cách chăm sóc cho
họ, an ủi họ, và cho họ niềm hy vọng. Ngài đã không cho
phép chuyện tiền nong xen vào nỗi ƣớc mong tìm cách
giúp cho các tu huynh bị bệnh sự chăm sóc tốt nhất có thể.
Có lần ngài đã xin một bác sĩ tìm bất cứ cách nào để giúp
một anh em trợ sĩ đang chịu đau đớn quá sức. Vị bác sĩ
đáp rằng ông có biết một thứ thuốc rất tốn kém và chẳng
46
giúp gì hơn là chỉ giảm sự đau đớn đƣợc phần nào. Mặc
dù cộng đoàn rất chật vật, Gioan vẫn gửi tiền mua loại
thuốc ấy để lo cho ngƣời anh em đang bệnh nặng ấy, và
ngài đã làm nhƣ vậy một cách hạnh phúc. Khi đến một tu
viện, sau khi viếng Thánh Thể, bao giờ ngài đến thăm các
bệnh nhân trƣớc hết.
Ngài rất bén nhạy trƣớc nỗi buồn hoặc sự chán nản
của ngƣời khác và tha thiết muốn an ủi những ngƣời tự ti
mặc cảm, ngài biết cách vận dụng tính hài hƣớc. Các nhân
chứng đã kinh ngạc kể về khiếu hài hƣớc của ngài và cho
biết ngài rất vui khi làm đƣợc cho ngƣời khác cƣời. Họ
thích thú chờ đợi sự có mặt của ngài. Là Bề trên, ngài có
trách nhiệm kêu gọi ngƣời khác đóng góp, nhƣng ngài
không muốn làm nản lòng bất cứ ai. Ngài cho rằng “nếu
ngƣời ta bị bề trên đối xử khắc nghiệt thì sẽ trở nên rụt rè
không dám dấn thân đảm nhận những việc đòi hỏi nhân
đức cao." Ngài cũng không nghĩ mình có giải đáp cho mọi
vấn đề. Cách của ngài là tham khảo ý kiến những ngƣời
khác trong cộng đoàn, một phƣơng cách quản trị giúp tạo
đƣợc bầu khí thanh thản. Là một vị thánh cũng không khỏi
những sai lầm, là Bề trên cũng vậy. Có lần khi nhìn lại
mình cuối chặng đƣờng đời, cha Gioan đã nói: "Khi tôi
nhớ lại những sai lầm ngốc nghếch đã mắc phải khi làm
Bề trên, tôi đỏ mặt.”
Nhu cầu của con ngƣời không chỉ có vật chất và
tâm lý; mà còn có những nhu cầu nổi bật về tâm linh nữa.
Trong lời giáo huấn thƣờng ngày, cha Gioan thƣờng chỉ ra
rằng chúng ta càng yêu mến Thiên Chúa thì càng mong
ƣớc cho tất cả mọi ngƣời đều yêu mến phụng thờ Ngài và
niềm mong ấy càng gia tăng, ta càng quyết chí phấn đấu
cho mục đích ấy, cả trong lời cầu nguyện lẫn trong mọi
47
việc làm khác có thể có đƣợc. Công việc ngài ƣa thích
nhất là làm linh hƣớng, qua đó ngài có thể giúp mỗi ngƣời
vƣợt thoát khỏi những căn bệnh về đạo đức và tinh thần
của họ. Trong việc này, ngài không hề tiếc chính mình,
quả là ngài có một nhận thức hết sức đặc biệt về định
mệnh cao cả của chúng ta. Từ các giáo sƣ đại học đến
những bà vợ khiêm nhƣờng thất học của những ngƣời
chăn cừu, dân chúng mọi tầng lớp đều cảm thấy tòa giải
tội của ngài thật lôi cuốn. Trƣờng hợp chị trợ sĩ khiêm tốn,
Catalina de la Cruz đã trải nghiệm là một trƣờng hợp điển
hình qua loại câu hỏi chị đã hỏi ngài: "Tại sao khi con đi
ra vƣờn bọn ếch lại nhảy xuống nƣớc?" Thấy ngay đây là
dịp để đƣa ra một bài học tâm linh, Gioan trả lời rằng đó
là vì chúng cảm thấy đƣợc an toàn khi lặn sâu xuống hồ và
"đó cũng là những gì con phải làm, trốn thoát khỏi mọi thụ
tạo và ẩn mình trong Thiên Chúa." Những ngƣời tội lỗi
cũng thấy mình có thể đến với ngài mà không sợ hãi. Ngài
thƣờng bảo: "Một cha giải tội càng thánh thiện ngƣời ta
càng ít sợ”. Khi linh hƣớng cho ngƣời khác, Gioan tập
trung vào sự hiệp thông với Thiên Chúa trong đức tin, đức
cậy và tình yêu, đƣợc nhiều ngƣời gọi là “cuộc sống
hƣớng về Thiên Chúa”. Cuộc sống này có tính cách vừa
chủ động vừa thụ động, bao trùm hết tất cả, từ những bƣớc
đầu tiên trong đời Kitô hữu đến những thành tựu cao nhất
trên hành trình huyền giao. Giữa một thời đại đang nhìn
sự khắc kỷ tu thân nhƣ một phần hấp dẫn và cần thiết trên
đƣờng tu đức, giáo huấn khổ hạnh của ngài lại nêu rõ đức
tin, đức cậy và tình yêu mới là con đƣờng nên thánh khi
bƣớc theo Đức Kitô.
Ngài quan tâm sâu sắc nhất đến những ngƣời phải
đau khổ trong đời sống tâm linh. Nhu cầu khẩn thiết của
48
những linh hồn đang phải vất vả đấu tranh nội tâm khiến
ngài viết nên Đƣờng Lên Núi Cát Minh và Đêm Dày.
Những mô tả mãnh liệt của ngài về những phiền não của
đêm dày có thể khiến một số ngƣời hoảng sợ, nhƣng khi
trình bày những đau khổ dƣới dạng cùng cực của chúng
nhƣ thế ngài chỉ mong giúp tất cả mọi ngƣời hiểu rằng đó
là chuyện ai cũng có thể trải qua. Ngài muốn mọi ngƣời
đƣợc bình thản hiểu rằng dù chúng cay nghiệt đến đâu, thì
bàn tay dịu dàng của Thiên Chúa vẫn còn đó, Ngài sẽ dọn
sạch mọi rác rƣởi của mê thích để chúng nhƣờng chỗ cho
ánh sáng thần linh. Với ngài, đau khổ không phải là một
bất hạnh nhƣng là một giá trị khi ngƣời ta chịu đau khổ
với và cho Chúa Kitô. Không một chi tiết nào trong cuộc
sống của Gioan cho thấy ngài nghĩ mình là một chuyên
gia nên cần đƣợc ƣu tiên trong việc sử dụng thời giờ. Ngài
đã dự phần vào tất cả những nhiệm vụ khác nhau cần thiết
để giữ cho cuộc sống cộng đoàn đƣợc chạy đều. Ta gặp
ngài tại ca triều, tại tòa giải tội, lo nhà bếp, tƣới vƣờn, làm
cỏ, trang trí bàn thờ, thiết kế bản vẽ kiến trúc, tham gia
việc xây dựng, thăm ngƣời bệnh, và dĩ nhiên, viết. Dù nhỏ
ngƣời và mảnh khảnh, dƣờng nhƣ ngài vẫn bị thu hút làm
những việc chân tay nặng nhọc. Phải chăng đó là cách
ngài phản đối quan niệm của nhóm Thiên khải là những
ngƣời chủ trƣơng rằng các tôi tớ của Thiên Chúa không
nên làm lao động chân tay? Cả ở Granada và Segovia,
trong thời gian xây cất tu viện, ngài tham gia ra mỏ đá,
khai thác đá đem về xây dựng. Tại Beas, khi không phải
linh hƣớng cho các nữ tu, ngài làm việc nhà giúp họ, dựng
những vách ngăn, xếp gạch xây tƣờng và chà sàn nhà.
Ngài nhận thấy các thụ tạo có thể trở thành nô lệ,
rơi vào tăm tối và đau khổ đến mức nào. Nhƣng những thú
49
vui giả dối của những ngƣời dính bén với thụ tạo không
sao sánh đƣợc với niềm vui của ngƣời siêu thoát khỏi thụ
tạo. Nhìn thấy nơi thụ tạo đâu đâu cũng đầy dấu vết của vẻ
đẹp, sức mạnh, và sự khôn ngoan đầy yêu thƣơng của
Thiên Chúa, Gioan không dễ cầm lòng trƣớc sự quyến rũ
của thiên nhiên. Tiếc nhớ cảnh thôn dã cô tịch và trữ tình
của El Calvario, sau khi thành lập trƣờng đại học Baeza,
ngài mua lại một thửa đất trong vùng, tôn tạo nó thành nơi
cho ngài và anh em Cát Minh trẻ thoát khỏi cái rộn ràng ô
hợp của thành phố. Nhiều khi ngài đƣa các tu sĩ đến vùng
núi, để thƣ giãn. "Để họ khỏi rơi vào cám dỗ muốn lìa bỏ
tu viện vì phải cầu nguyện trong cô tịch quá lâu giờ ở đó",
nhƣ ngài đã từng có lần nhận xét; và đôi khi, là để mỗi
ngƣời có thể sống cả ngày ở đó "cầu nguyện trong cô
tịch." Tại Segovia có một hang động ngài rất ƣa thích, do
thiên nhiên tự đào sâu xuống, vách thì cao lên vô tội vạ lại
nhìn ra một khoảng bầu trời tuyệt vời với dòng sông và
quang cảnh chung quanh. Ngài ngày càng yêu hang động
im lặng này và bất cứ lúc nào có thể ngài đều đến đó.
Những lá thƣ của cha Gioan lộ rõ sự nồng ấm ngài vẫn
thƣờng chia sẻ với những ngƣời khác. Cách riêng anh trai
của ngài là Francisco dƣờng nhƣ vẫn là một niềm hạnh
phúc đặc biệt cho ngài. Mỗi lần giới thiệu Francisco ngài
thƣờng nói: "Tôi có thể giới thiệu với bạn đây là anh tôi,
kho tàng giá trị nhất tôi có đƣợc trên đời này." Khỏi cần
nói, cả Thánh nữ Têrêxa cũng thế, đã gợi lên nơi ngài một
sự ngƣỡng mộ đặc biệt. Đến nỗi ngài vẫn giữ một bức
chân dung của thánh nữ bên mình. Song song với vẻ bên
ngoài rất giản dị của Tin mừng là cả một linh hồn bừng
cháy, hệt nhƣ Thánh nữ Têrêxa. Về sự sống thân mật với
Thiên Chúa, có lần tại Granada Ngài đã thừa nhận: "Thiên
Chúa thông ban mầu nhiệm Ba Ngôi cho kẻ tội lỗi này
50
cách lạ lùng đến nỗi nếu Ngài không bổ sức cho sự yếu
đuối của tôi bằng một sự trợ giúp đặc biệt, tôi sẽ không
thể nào sống nổi!" Choáng ngợp trƣớc nhận thức về sự tốt
lành của Thiên Chúa, ngài vẫn thƣờng thốt lên: "Ôi, chúng
ta có một Thiên Chúa tốt lành biết bao!" Ngài ít cần ngủ,
cho nên thƣờng dành nhiều thời giờ ban đêm để cầu
nguyện, đôi khi quỳ tại bậc cấp bàn thờ trƣớc Thánh Thể;
có những lúc khác ngài quỳ dƣới tán cây trong vƣờn, và
lắm khi ngay tại cửa sổ tu phòng, từ đó ngài có thể nhìn ra
trời và tất cả các vùng nông thôn. Trong những năm cuối
cuộc đời ngắn ngủi, ngài bị hút vào trong Thiên Chúa sâu
xa đền độ thƣờng phải khó khăn lắm mới can dự đƣợc vào
các vấn đề thông thƣờng, phải kín đáo nhấn các khớp
ngón tay vào tƣờng mới có thể chú tâm vào câu chuyện
đang trao đổi.
Kinh nghiệm của ngài về Thiên Chúa luôn bắt rễ từ
đời sống Giáo hội, đƣợc nuôi dƣỡng bởi các bí tích và
phụng vụ. Các nhân chứng về cuộc đời ngài đều nói rằng
ngài cử hành Thánh Lễ rất sốt sắng. Thánh Lễ thƣờng là
dịp cho những ơn lành đặc biệt. Khi cử hành ngài có thể bị
mất hút trong Thiên Chúa đến độ không còn ý thức về
thực tế xung quanh. Nỗi đau khổ lớn nhất của ngài khi bị
cầm tù tại Toledo là bị tƣớc mất Thánh Thể. Bí tích Thánh
Thể là "tất cả vinh quang của ngài, tất cả hạnh phúc ngài,
và khiến ngài vƣợt khỏi mọi chuyện trần thế." Đặc ân duy
nhất ngài đã chấp nhận khi làm bề trên tại Segovia là sống
gần Thánh Thể.
Các lễ và các mùa phụng vụ không chỉ là những kỷ
niệm bên ngoài; đó là những dịp để tâm linh đƣợc biến đổi
từ bên trong theo tinh thần của mầu nhiệm đang cử hành.
Vào ngày trƣớc lễ Giáng sinh ngài thƣờng cùng với các tu
51
sĩ tổ chức một loại đi kiệu á phụng vụ để nhớ lại Mẹ
Maria và Thánh cả Giuse đã phải đi tìm chỗ trọ cho Hài
nhi thánh ra đời. Hơn bao giờ hết, mùa Giáng sinh khiến
tim ngài đập rộn rã với tình yêu dành cho Chúa Hài đồng
Giêsu. Một Giáng sinh nọ, nhìn thấy tƣợng Chúa Hài đồng
đặt nằm trên đệm, ngài thốt lên: "Lạy Chúa, nếu tình yêu
là để giết con, thì nay đã đến giờ rồi!" Một lễ Giáng sinh
khác, với tình yêu nồng nàn, ngài đã ẵm lấy tƣợng Chúa
Hài đồng trong tay và bắt đầu nhảy múa với niềm vui xuất
thần. Quả thật, sắc mặt ngài dƣờng nhƣ tƣơng ứng với
phụng vụ của Giáo hội. Có lần vào Tuần Thánh ngài đồng
cảm với Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô mãnh liệt đến độ
dƣờng nhƣ không thể rời tu viện để đi giải tội cho các nữ
tu. Trong những ngày lễ ngài yêu thích, ngoài lễ Chúa Ba
Ngôi và lễ Thánh Thể, là những ngày lễ kính Đức Trinh
Nữ. Khi ngƣời ta hỏi, sau chín tháng thiếu thốn mọi thứ
trong phòng giam, vào Đêm Vọng Đức Mẹ Lên Trời, ngài
đã suy nghĩ gì? Ngài đáp: "Tôi đã nghĩ rằng ngày mai là lễ
Đức Mẹ và sẽ là dịp đem cho tôi niềm vui tuyệt vời đƣợc
dâng lễ." Viễn cảnh về hình ảnh Mẹ Thiên Chúa đã đem
lại tình yêu và sự sáng suốt cho tâm hồn ngài. Một lần,
đang khi giảng dạy cho các nữ tu tại Caravaca, ngài nhìn
thấy hình ảnh Đức Mẹ và không giấu nổi lòng mình yêu
mến Mẹ, ngài đã thốt lên: "Hạnh phúc biết bao nếu tôi
đƣợc sống một mình trong sa mạc với hình ảnh ấy!” Kinh
thánh là quyển sách ngài trìu mến hơn hết, đã giúp ngài
tiến sâu vào cuộc sống mật thiết với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Ngài thích rút lui vào những nơi ẩn khuất của tu viện với
quyển Kinh thánh. Hồi ở Lisbon, các tu huynh khác rủ
ngài đi thăm một ngƣời đƣợc in năm dấu thánh nổi tiếng ở
thành phố đó, nhƣng ngài đã từ chối. Giữa dòng đời cuồn
cuộn, ngài vẫn ngồi yên trên bờ đọc Kinh thánh đang khi
52
thiên hạ đi xem hiện tƣợng lạ. Nhờ đọc Kinh thánh và
sống gần Thiên Chúa, Gioan nhận ra rằng lòng tin tƣởng
trìu mến nơi Chúa Quan Phòng là giải đáp thích đáng nhất
cho những khắc khoải âu lo của cuộc sống. Ngài ghi nhận
rằng đang khi Thiên Chúa, nhƣ một ngƣời mẹ yêu thƣơng
đứa con bé bỏng, muốn bồng ẵm đƣa chúng ta đi nhanh,
thì chúng ta lại vùng vẫy, khóc lóc, đòi xuống tự đi bộ và
chẳng đi tới đâu cả. Một số ngƣời tƣởng rằng khi làm bề
trên một tu viện nghèo hẳn ngài sẽ quan tâm nhiều về nhu
cầu vật chất. Họ mong thấy ngài phải lo lắng. Thế nhƣng
ngài vẫn giữ thói quen trông chờ mọi sự nơi bàn tay Chúa,
nhờ đó trong thực tế ngài đã góp phần đem lại một không
khí an bình và tĩnh lặng. Đó cũng là cách phản ứng của
ngài khi bị bách hại. Ngài nhìn thấy bàn tay Chúa ở đó và
yêu cầu những ngƣời khác đừng nói gì lỗi bác ái với kẻ
bắt bớ ngài, nhƣng hãy nghĩ rằng “chỉ một mình Thiên
Chúa đang điều động tất cả." Ngài viết rằng phải tin cậy
vào Thiên Chúa mãnh liệt đến độ dù cả thế giới có sụp đổ
cũng không nên hốt hoảng. Ngài nói: Nhờ thanh thản
hứng chịu mọi sự ta sẽ gặt đƣợc nhiều phƣớc lành, và giúp
cho những ngƣời đang chịu nghịch cảnh có thể nhận định
đúng và biết chọn lựa đúng. Nhờ hoàn toàn tin tƣởng vào
Thiên Chúa nhƣ thế, trong cơn bệnh cuối đời, ngài luôn
đƣợc bình an. Khi Bề trên nhắc tới tất cả những gì đã phải
chịu đựng, ngài đáp lại bằng những lời lẽ đáng chú ý nhƣ
sau: "Thƣa Cha, đây không phải là lúc để nghĩ về điều đó,
vì chỉ là do công lao của máu Chúa Giêsu Kitô, Chúa
chúng ta, mà con hy vọng sẽ đƣợc cứu”.
NIÊN BIỂU TIỂU SỬ
53
1529 Hôn lễ tại Fontiveros của Gonzalo de Yepes
và Catalina Alvarez, cha mẹ của Gioan.
1530 Francisco, con trai đầu, chào đời.
1532-1540 Luis, con trai thứ hai, chào đời; không
rõ năm nào.
1542 Gioan (Juan de Yepes) chào đời; không rõ
ngày tháng.
1545 Don Gonzalo chết.
1545-1546 Doña Catalina đƣa ba đứa con đi
Toledo mong đƣợc phía gia đình chồng giúp đỡ. Một
ngƣời anh em rể nhận nuôi Francisco, nhƣng cả một năm
vợ ông đã nhục mạ cháu liên tục. Doña Catalina không
chấp nhận đƣợc nên đã đƣa các con về Fontiveros.
1547 Luis chết.
1548-1551 Cả nhà chuyển đến Arévalo. Tại đây
Francisco cƣới Ana Izquierdo.
1551 Cả nhà chuyển đến Medina del Campo.
1551-1558 Gioan theo học trƣờng Giáo Lý. Cố
gắng theo học các ngành nghề khác nhau. Phục vụ nhƣ
chú giúp lễ tại La Magdalena.
1556 Thánh Inhaxiô Loyola chết. Charles V thoái
vị (+ 1559). Philip II lên ngôi.
1559-1563 Gioan học các môn nhân văn và có lẽ cả
triết học với các tu sĩ Dòng Tên, đồng thời khiêm tốn phục
vụ tại bệnh viện ở Medina.
1562 Thánh Têrêxa khởi đầu cuộc cải cách tại đan
viện Thánh Giuse ở Avila.
54
1563 Công đồng Trentô kết thúc. Gioan bƣớc vào
tập viện Dòng Cát Minh tại Santa Ana ở Medina và năm
sau thì khấn dòng.
1564-1568 Gioan theo học Đại học Salamanca: ba
năm trong chƣơng trình học thuật và một năm về thần học.
1567 Những tháng đầu năm: Tổng quyền Dòng Cát
Minh, cha Juan Bautista Rossi (Rubeo) thăm Castilla, cho
phép Têrêxa thành lập các tu viện Cát Minh cải tổ cho các
tu sĩ và nữ tu cả những nơi khác ngoài Avila.
1567 Tháng Tƣ: Gioan đƣợc tu nghị tỉnh dòng họp
tại Avila đặt làm giám học. Tháng Bảy: thụ phong linh
mục tại Salamanca. Tháng Tám: dâng lễ mở tay tại
Medina. Tháng Chín-Tháng Mƣời: cuộc gặp gỡ đầu tiên
với Thánh Têrêxa, ngƣời đã thuyết phục đƣợc Gioan ủng
hộ công cuộc của bà.
1568 Gioan kết thúc chƣơng trình thần học tại
Salamanca và đồng ý tham gia cộng đoàn đầu tiên của các
tu sĩ Cát Minh cải tổ. Tháng Tám: ngài cùng đi với Mẹ
Têrêxa đến Valladolid và ở lại mấy tháng để học nếp sống
của cộng đoàn cải tổ tại đó. Tháng Mƣời: chuyển đến
Duruelo để sửa một ngôi nhà thành một tu viện. Ngày 28
tháng 11: khánh thành ngôi nhà đầu tiên của các tu sĩ cải
tổ tại Duruelo; Gioan đƣợc bổ nhiệm làm phó Bề trên và
phụ trách các tập sinh.
1569 Mùa Chay: Thánh Têrêxa thăm Duruelo.
1570 Tháng Sáu: Duruelo không đƣợc tốt cho sức
khỏe. Cộng đoàn dời đến Mancera de Abajo. Cuối năm
Gioan thăm Pastrana để thống nhất các tiêu chí đào tạo.
55
1571 Tháng Giêng: ngài cùng Mẹ Têrêxa đi Alba
de Tormes để lập cơ sở cho các nữ tu tại đó. Ngài trở
thành Giám hiệu trƣờng Đại học ở Alcalá de Henares.
Thăm Pastrana lần nữa.
1572 Tháng Năm: Tại Avila, theo yêu cầu của
Têrêxa, Tu huynh Gioan Thánh Giá trở thành đại diện và
cha giải tội tại tu viện Nhập Thể. Ngài vẫn ở đó đến năm
1577, chỉ vắng mặt ngắn hạn vài lần.
1574 Tháng Ba: ngài đồng hành với Mẹ Têrêxa
trong việc lập tu viện ở Segovia và quay về vào cuối tháng
Tƣ.
1575 Đi Medina để phân định tâm linh cho một nữ
tu cải tổ. Tháng Năm: Tổng tu nghị Dòng tại Piacenza
(Italia) quyết định sát nhập lại các tu sĩ Cát Minh cải tổ
vào Dòng.
1576 Tháng Giêng: Tu huynh Gioan và một bạn
đồng hành bị các tu sĩ Cát Minh bảo thủ bắt giữ lần đầu.
Nhờ sự can thiệp của sứ thần, cả hai đƣợc thả ra. Ngày 9
Tháng Chín: Các tu sĩ Cát Minh cải tổ họp tại Almodóvar
del Campo. Tu huynh Gioan có tham dự. Cha Gracian chủ
trì. Lễ Giáng sinh: Gioan tham dự buổi Phê bình châm
biếm do Têrêxa đề xuất và đánh giá, với chủ đề "Hãy tìm
chính con trong Ta”.
1577, ngày 02 tháng 6: Thánh Têrêxa bắt đầu viết
Lâu Đài Nội Tâm tại Toledo. Sứ thần Ormaneto qua đời.
Vị kế nhiệm ngài không mặn mà gì với các tu sĩ Cát Minh
cải tổ. Ngày 2 tháng 12: Gioan bị bắt cóc ở Avila; giữa
ngày 4 và ngày 8 ngài đƣợc đƣa đến Toledo, nơi ngài bị
giữ chín tháng trong phòng giam tu viện.
56
1578 Tháng Tám: trong tuần bát nhật sau lễ Đức
Mẹ Hồn Xác Lên Trời, khoảng 2-3 giờ sáng, ngài trốn
thoát khỏi nhà tù. Ngài chỉ đem theo một quyển sổ tay có
ghi một số bài thơ và vẫn còn lẩn trốn tại Toledo ít lâu.
Tháng Mƣời: trên đƣờng đến Andalusia, tham dự tu nghị
kín của anh em Cát Minh cải tổ tại Almodóvar. Ngài đƣợc
chọn làm phó bề trên tu viện El Calvario (Sierra del
Segura, Jaén). Tháng Mƣời Một: Gioan đến El Calvario
đảm nhận trách vụ của ngài.
1579 Ngài hoạt động rất hiệu quả giữa các nữ tu ở
Beas. Vẽ "Phác đồ đƣờng lên núi Cát Minh", viết phần
lớn "Những châm ngôn của ánh sáng và tình yêu", viết
một số đoạn bình giải chƣa triển khai trên các khổ thơ từ
Ca Khúc Tâm Linh và Đêm Dày. Tháng Tƣ và Tháng
Năm: ngài thƣờng đi Baeza để lên kế hoạch thiết lập một
trƣờng đại học mới. Tháng Sáu: Gioan sáng lập trƣờng đại
học Baeza và trở thành Giám hiệu.
1580 thân mẫu của Gioan, bà Catalina, qua đời tại
Medina. Gioan thăm Caravaca theo yêu cầu của Têrêxa.
22 Tháng Sáu: Đức Giáo hoàng Grêgôriô XIII ký đoản sắc
tách dòng Cát Minh cải tổ khỏi dòng Cát Minh nguyên
thủy (cho phép lập tỉnh dòng riêng nhƣng vẫn thuộc Dòng
Cát Minh nguyên thủy). Gioan đƣợc tặng một khoảnh bất
động sản tại Castellar de Santisteban làm nơi để thƣ giãn
và cầu nguyện.
1581 tháng Ba: tham dự tu nghị tại Alcalá nơi áp
dụng đoản sắc về việc tách ra thành tỉnh dòng riêng. Cha
Gracian đƣợc bổ nhiệm làm giám tỉnh; cha Gioan, là giám
định thứ ba. Tháng Sáu: Gioan đi đến Caravaca. Tháng
Mƣời Một: Gioan đi Avila với ý định đƣa Mẹ Têrêxa đến
Granada để thiết lập một đan viện mới các nữ tu ở đó.
57
Nhƣng Mẹ Têrêxa không đi đƣợc nên ngài qua Beas mời
Ana de Jesús đi lập Dòng ở Granada.
1582 Tháng Giêng: tiếp tục chuyến hành trình đi
Granada. Họ đến vào ngày 20. Doña Ana de Peñalosa
nhập cuộc vào kế hoạch lập Dòng. Gioan trở thành Bề trên
Tu viện Los Martires ở Granada, nơi ngài đã viết hầu hết
các bài bình giải và một số bài thơ. Ngày 08 tháng Tƣ:
năm tu sĩ Cát Minh cải tổ đƣợc chỉ định đi truyền giáo
Congo xuống tàu rời cảng Lisbon. 04 tháng Mƣời: Thánh
Têrêxa qua đời tại Alba de Tormes.
1583 Tháng Năm: Cha Gioan tham dự tu nghị ở
Almodóvar. Ngài đƣợc tiếp tục chỉ định làm Bề trên tại
Granada.
1585 Tháng Hai: Gioan đi đến Malaga lập dòng
cho các nữ tu. Tháng Năm: tham dự tu nghị tỉnh tại
Lisbon. Ngài đƣợc bầu làm giám định thứ hai. Tháng Sáu
- Tháng Bảy: ngài trở về từ Lisbon qua ngả Sevilla, rồi đi
Málaga. Tháng Bảy - Tháng Tám: những chuyến đi xa
hơn đến những cộng đoàn khác nhau. Tháng Mƣời: đến
Pastrana để tiếp tục cuộc tu nghị đã bắt đầu tại Lisbon. Vị
giám tỉnh mới, cha Doria, là ngƣời đầu tiên phải quay về
từ Italia. Gioan đƣợc bổ nhiệm làm phó giám tỉnh
Andalusia, nhƣng vẫn ở Granada.
1586 Tháng Hai: ngài đi Caravaca. Tháng Năm: đi
Córdoba để lập một tu viện mới. Tháng Sáu: đến Sevilla
để thuyên chuyển các nữ tu dòng Cát Minh cải tổ. Ngài lo
thủ tục để lập một nhà mới cho các tu sĩ tại đền Đức Mẹ ở
Guadalcázar. Ngài đi Ecija, Guadalcázar và Córdoba.
Tháng Bảy: ngài đi Málaga. Tháng Tám và Tháng Chín:
tham dự cuộc họp các giám định ở Madrid. Ngài đem Ana
58
de Jesús đi theo để lập một nhà mới cho các nữ tu ở
Madrid. Hội nghị các giám định quyết định xuất bản các
tác phẩm của Mẹ Têrêxa và dùng phụng vụ Rôma thay
cho phụng vụ Mồ thánh mà các tu sĩ Cát Minh đã quen.
Tháng Mƣời: lập một tu viện mới cho các tu huynh tại
Manchuela (Jaén). Tháng Mƣời Một: lại đi Málaga. Tháng
Mƣời Hai: đi đến Caravaca lập một tu viện cho các tu
huynh. Đi Bujalance để lên kế hoạch lập dòng.
1587 Tháng Giêng: kế hoạch lập dòng tại
Bujalance thất bại. Tháng Hai: đi Madrid thời gian ngắn
theo yêu cầu của giám tỉnh, cha Nicolás Doria. Tháng Ba:
đi Caravaca để can thiệp vào một vụ kiện tụng giữa các nữ
tu và các tu sĩ Dòng Tên. Sau đó ngài chuyển sang Baeza.
Ngày 8, đến đền Thánh Mẫu ở Fuensanta (Jaén), đƣợc ủy
thác cho các tu sĩ Cát Minh cải tổ. Tháng Tƣ: đi
Valladolid dự tu nghị. Ngài thôi giữ chức phó giám tỉnh.
Và đƣợc bầu làm Bề trên Granada một lần nữa.
1588 Tháng Sáu: Doria triệu tập một tu nghị ngoại
thƣờng tại Madrid. Gioan (một giám định phụ trách ủy
ban lo về thủ tục) đƣợc bầu làm cố vấn thứ nhất (trong số
sáu vị) trong hình thức quản trị mới gọi là Hội đồng Cố
vấn. Ngài sẽ ở tại Segovia. Khi cha tổng đại diện (Doria)
vắng mặt, cha Gioan sẽ hành động nhƣ tổng giám định và
là chủ tịch của Hội đồng Cố vấn. Ngài cũng là Bề trên tu
viện. Một số tu sĩ Cát Minh cải tổ xuống tàu với hải đội
"Invincible Armada."
1589-1590 Với tƣ cách Bề trên tại Segovia, ngài đã
thực hiện những cải tiến quan trọng về cơ sở vật chất và
đảm nhận việc xây dựng tu viện mới. Doña Ana de
Peñalosa là ân nhân tài trợ.
59
1590 Tháng Sáu: một tu nghị ngoại thƣờng đƣợc tổ
chức tại Madrid. Có vẻ nhƣ bất đồng nghiêm trọng. Gioan
không hỗ trợ kế hoạch của Doria về cha Gracian và về
một số nữ tu đã thất vọng với ý tƣởng của Hội đồng Cố
vấn.
Ngày 01 Tháng Sáu 1591: vào đêm trƣớc lễ Ngũ
tuần, tu nghị bắt đầu ở Madrid. Doria tái đắc cử. Gioan
không có chức vụ, sẵn sàng để đi Mexico. Tháng Bảy-
Tháng Tám: ngài lui về sống cô tịch tại La Peñuela ở
Andalusia. Tháng 09: ngài bị sốt và loét hoại tử trên bàn
chân. Ngài chuyển đến Ubeda để đƣợc chăm sóc y tế.
Ngày 27 tháng 11: cha phó giám tỉnh, Antonio de Jesús,
đến Ubeda. Ngày 07 và 08 tháng 12: tình trạng của Gioan
trở nên tồi tệ. Ngày 11 tháng 12: ngài xin đƣợc rƣớc lễ.
Ngày 13 tháng 12: ngài nói lời từ biệt và cầu xin Bề trên
tha thứ những phiền toái có thể ngài đã gây ra và xin đƣợc
mặc chiếc áo dòng cũ để mai táng. Ngài lãnh nhận các
nghi thức cuối cùng và thƣờng xuyên nhắc đến giờ chết
của mình. Khi đồng hồ điểm nửa đêm (sang ngày 14) và
chuông tu viện bắt đầu giờ kinh Mai, ngài ra đi, nhƣ đã
nói trƣớc, để "hát kinh Mai ở trên trời”.
1593 Tháng Năm: hài cốt của ngài đƣợc chuyển về
Segovia. Việc này có lẽ đƣợc Cervantes ám chỉ tới trong
quyển Don Quixote (1.19).
1618 Ấn bản đầu tiên các tác phẩm của Gioan
Thánh Giá (Alcalá), không có Ca Khúc Tâm Linh.
1622 Ấn bản tiếng Pháp đầu tiên của Ca Khúc Tâm
Linh (Paris).
1627 Ấn bản tiếng Tây Ban Nha đầu tiên của Ca
Khúc Tâm Linh (Brussels).
60
1630 Ấn bản đầu tiên của tác phẩm toàn tập bằng
tiếng Tây Ban Nha, do Jerónimo de San José sắp xếp
chuẩn bị (Madrid).
1675 ngày 22 tháng 1: Đức Giáo hoàng Clêmentê
X đƣa Gioan Thánh Giá lên hàng chân phƣớc.
1726 ngày 27 tháng 12: đƣợc Đức Thánh Cha
Bênêđictô XIII phong hiển thánh.
1874 Viện hàn lâm Hoàng gia về Tiếng Tây Ban
Nha đƣa Gioan Thánh Giá vào danh mục chính thức
những nhà văn có thế giá trong việc dùng từ và và đặt câu
trong tiếng Castilian.
1926 ngày 24 tháng 8: Đức Thánh Cha Piô XI công
bố Thánh Gioan Thánh Giá là một Tiến sĩ Hội thánh toàn
cầu. Hài cốt ngài đƣợc chuyển về ngôi mộ hiện nay tại
Segovia, do Félix Granda thiết kế.
1952 Bộ Quốc gia Giáo dục Tây Ban Nha chọn
Gioan Thánh làm bổn mạng các nhà thơ Tây Ban Nha.
61
CÁC TÁC PHẨM
Các tác phẩm của Thánh Gioan Thánh Giá không
sánh đƣợc với các tác phẩm của những Tiến sĩ Hội thánh
vĩ đại khác về số lƣợng và sự đa dạng các chuyên đề. Là
một nhà thơ, trƣớc hết, Gioan trình bày những nội dung
phong phú kinh nghiệm huyền giao của mình qua thơ trữ
tình, và bằng cách này đã đóng góp một kho báu tuyệt vời
cho văn học Tây Ban Nha. Ngoài ra, ngài đã để lại cho
chúng ta bốn tác phẩm lớn bằng văn xuôi: Đƣờng Lên Núi
Cát Minh, Đêm Dày, Ca Khúc Tâm Linh và Ngọn Lửa
Tình Nồng. Những tác phẩm khác chỉ còn lại một ít thƣ
tín, một số châm ngôn khác nhau và những lời khuyên.
Đƣợc viết trong 14 năm cuối đời, sau khi đã chín muồi
trong sự trƣởng thành trí tuệ và tâm linh. Bộ tác phẩm
hiện còn của ngài toát ra một tổng hợp giáo lý về đời sống
tâm linh đã thành toàn đáng kể trong tâm trí ngài khi ngài
bắt đầu viết. Không có thay đổi quan trọng của tƣ tƣởng
xảy ra trong giảng dạy của ngài; không có "Gioan thời
đầu" tƣơng phản với "Gioan thời sau". Các chủ đề ngài
nhấn mạnh cũng không thay đổi: hiệp nhất với Thiên
Chúa, nguồn gốc Ba Ngôi của sự hiệp nhất và kết quả cuối
cùng của nó là vinh quang; Chúa Giêsu Kitô, là Ngôi Lời
và là Đấng Chí Ái; đức tin vừa là nội dung của các mầu
nhiệm vừa là con đƣờng tăm tối dẫn đến hiệp nhất; yêu
thƣơng, tức là ra khỏi mình để sống nơi ngôi vị khác; sự
phát triển chủ động và thụ động của đời sống hƣớng thần;
việc hiệp thông với Thiên Chúa trong cầu nguyện thinh
lặng; sự mê thích là một nguồn lực đƣa đến tội lỗi và hủy
diệt.
Trên văn đàn Tây Ban Nha, Gioan Thánh Giá đã
giành đƣợc một vị trí nổi bật cho thơ của ngài. Về văn
62
xuôi, ngài viết theo những văn phong khác nhau. Đôi khi
ngài minh giải qua những biểu tƣợng thông thƣờng, đôi
khi ngài dùng ngôn ngữ Kinh thánh, cũng có khi qua cả
những thuật ngữ chuyên môn theo khái niệm của các nhà
thần học kinh viện; đôi khi với một phong cách đầy sáng
tạo, rất riêng. Nhƣng rõ ràng không phải là ngài chuyên lo
trau chuốt văn từ. Đôi khi câu văn của ngài có thể khá
phức tạp, lặp đi lặp lại, và lộn xộn. Không thƣờng xuyên,
tuy nhiên, nguồn cảm hứng của thơ ca đã tràn vào văn
xuôi của ngài đã để lại cho chúng ta những đoạn văn có
tính văn chƣơng nổi trội, độc đáo và đẹp.
Ngoại trừ Những Châm Ngôn của Ánh Sáng và
Tình Yêu và một số thƣ tín đã đƣợc bảo tồn nguyên bản
với bút tích, bản thảo gốc các tác phẩm của Gioan Thánh
Giá đã bị thất lạc. Tác phẩm của ngài còn lại cho chúng ta
qua khá nhiều bản sao chép tay khá trung thực. Nhƣ vậy
một vấn đề quan trọng đặt ra cho chúng ta liên quan đến
việc đọc ra bản gốc và việc chọn lựa bản sao nào có vẻ
trung thành nhất với bản gốc. (Trong ấn bản Anh ngữ của
Kavanaugh và Rodriguez, phần dẫn nhập cụ thể vào từng
tác phẩm có nêu rõ những bản sao nào đƣợc các chuyên
gia coi là đáng tin cậy nhất; bản sao ấy sẽ đƣợc dùng để
phiên dịch).
Dƣới đây là một tổng quan về các tác phẩm đích
thực cùng với nơi chốn và thời gian sáng tác thực tế hoặc
gần đúng của chúng:
Ở TÙ TẠI TOLEDO (1578)
Ca Khúc Tâm Linh (bài thơ, 31 đoạn thơ)
63
Vì tôi biết lắm dòng suối (thơ)
Các Tình khúc: Bài dựa theo đoạn Tin Mừng "Từ
nguyên thủy đã có Ngôi Lời” (thơ)
Bài dựa theo thánh vịnh "Bên sông Babylon" (thơ)
CALVARIO, BEAS, BAEZA (1578-1581)
Đêm Dày (thơ, 1578 hoặc 1579)
Bản phác họa ngọn núi
Những châm ngôn của ánh sáng và tình yêu
Các biện pháp phòng chống
Lời khuyên gửi một tu sĩ
Đƣờng Lên Núi Cát Minh (chuyên luận, 1581-
1585)
Bổ sung Bài Ca Khúc Tâm Linh (bài thơ); những
bài thơ khác (1580-1584)
GRANADA (1582-1588)
Ca Khúc Tâm Linh (minh giải trong một soạn thảo
đầu tiên, 1584)
Đêm Dày (minh giải, 1584-1585)
Bài thơ cuối cùng tại Granada (1585)
Ngọn Lửa Tình Nồng (minh giải, phiên bản đầu
tiên, 1585-1586)
Ca Khúc Tâm Linh (minh giải, phiên bản thứ hai,
1585-1586)
LA PEÑUELA (1591)
64
Ngọn Lửa Tình Nồng (minh giải, phiên bản thứ
hai)
NGUỒN
Trong tác phẩm, Thánh Gioan tận dụng cơ hội để
giao tiếp với các độc giả của mình nhƣ là một nhà huyền
giao, một nhà thơ, một thầy dạy và là một ngƣời nồng nàn
yêu mến Thiên Chúa. Với mục đích giáo huấn, ngài dựa
trên những kiến thức về thần học, tâm lý học và linh
hƣớng. Khởi đi từ những biểu tƣợng thơ ca của ngài, ngài
đã dẫn ngƣời đọc đến hệ thống khái niệm của mình với
một ngôn ngữ và những ứng dụng riêng của nó. Về vấn đề
những nguồn của tƣ tƣởng, vào thời Gioan, nguồn tài liệu
không chỉ đơn thuần dựa trên kinh nghiệm quá khứ nhƣng
phải dựa vào thẩm quyền truyền thống. Giáo hội công
nhận một số tác giả nào đó là có thẩm quyền. Trên tất cả,
Kinh thánh giải quyết mọi vấn đề. Một đoạn Kinh thánh
đƣợc coi là một thẩm quyền từ Kinh thánh, và thƣờng
đƣợc Gioan gọi nhƣ thế. Mối quan tâm hiện đại về sự
chính xác văn bản và sự uyên bác có tính phê bình không
thành vấn đề; có vẻ nhƣ Gioan thƣờng trích dẫn Kinh
thánh theo trí nhớ hoặc từ sƣu tập thời trung cổ. Một vài
tác phẩm ngoài Kinh thánh mà ngài trích dẫn nay đƣợc gọi
là giả mạo. Vấn đề là thay vì một sự uyên bác lịch sử, sự
chính xác văn bản, và một tâm trí thận trọng đối với sự
khôn ngoan đƣợc tiếp nhận, thế giới của Thánh Gioan đã
lập nên đƣợc một sự dồi dào ở tầm cao, một truyền thống
đƣợc truyền lại qua nhiều thế kỷ và nhiều khi qua trung
gian những văn bản bị hỏng.
Cả trong cấu trúc và phác thảo tƣ tƣởng, tác phẩm
của Gioan để lộ những ảnh hƣởng của Tôma Aquinô và
các nhà kinh viện. Một số yếu tố của chủ nghĩa huyền giao
65
phản ánh Thánh Augustinô và tân thuyết Platon. Một số
hình ảnh và giai đoạn cũng gợi nhắc tới những tác giả
huyền giao của Đức và Pháp cũng nhƣ các chủ đề, vấn đề
và ngôn ngữ của các nhà huyền giao Tây Ban Nha trƣớc
đó. Một sự nhạy cảm với những ấn tƣợng giác quan và nét
đặc trƣng sính biểu tƣợng của thơ Tây Ban Nha thời kỳ ấy
cũng rất rõ; cũng có thể có những ảnh hƣởng mang tính
biểu tƣợng và ngôn ngữ từ Hồi giáo. Tuy nhiên mặc dù
chúng ta có suy đoán về tất cả điều ấy, cuốn sách duy nhất
có thể đƣợc gọi đúng là nguồn mạch của kinh nghiệm và
các tác phẩm của Gioan là Kinh thánh.
Đối với Gioan, Kinh thánh đƣợc dùng nhƣ là một
suối nguồn linh động tuôn chảy không bao giờ cạn. Nƣớc
của suối nguồn ấy thâm nhập khắp toàn bộ hữu thể của
nhà huyền giao, nhà tƣ tƣởng, nhà thơ và nhà văn này.
Kinh thánh là quyển sách để ngài hát và suy niệm, một
quyển sách để khám phá, để chiêm niệm và để viết.
Những trích dẫn Kinh thánh suốt các tác phẩm của ngài
cho thấy ngài đã tiêu hóa đƣợc Lời Chúa cách sâu sắc,
nhƣng ngài không bao giờ bám theo một cách chú giải duy
nhất; khiến ngƣời đọc có thể thấy bối rối.
Ba cách chính để đƣợc hƣởng lợi từ các bản văn
Kinh thánh đã thu hút Gioan. Đầu tiên, Kinh thánh cung
cấp cho ngài một cách diễn tả tuyệt vời cho kinh nghiệm
tâm linh của chính mình. Thứ hai, ngài tìm thấy nơi Kinh
thánh sự xác nhận cho lập luận thần học của ngài. Cuối
cùng, ngài thích thú theo đuổi cách thực hành thời ấy là
dùng những đoạn Kinh thánh trong một ý nghĩa thích ứng
với hoàn cảnh. Gioan phát hiện ra sự gắn bó chặt chẽ giữa
lịch sử Kinh thánh và lịch sử cá nhân của riêng mình, một
cách đồng nhất kinh nghiệm cổ xƣa với những kinh
66
nghiệm hiện tại. Đọc Kinh thánh nhƣ một Kitô hữu, dƣới
ánh sáng quy Kitô, ngài nhận ra cuộc sống của mình đƣợc
phản ánh và mô tả ở đó. Ngài nhận ra rằng ân sủng và sự
thật của Lời Kinh thánh đƣợc hoàn thành ngay ở đây và
bây giờ. Những mê thích lệch lạc có thể so với lòng yêu
mến tà thần của Israel xƣa. Những nhân vật chịu đau khổ
nhƣ Gióp, tác giả thánh vịnh và Giêrêmia đƣợc đƣa vào
bài ca đêm tâm linh. Cuộc đi tìm hiệp nhất đƣợc lặp lại
theo những bƣớc của sách Diễm Ca.
Bằng những cách đặc biệt, ngài tự đồng hóa với các
nhân vật Kinh thánh nhƣ: Môsê, Đavít, Gióp, Tác giả
Thánh vịnh, Giêrêmia, Phaolô và Gioan. Ngài đã rút ra
những kinh nghiệm cá nhân, cụ thể đƣợc trình bày nơi
Kinh thánh, nhất là nơi những ngƣời đƣợc gọi và đáp lại
rõ ràng cũng nhƣ những ngƣời đã kể kinh nghiệm bằng
ngôi thứ nhất. Không phải ngài chỉ trƣng dẫn các việc làm
và lời dạy của những ngƣời này, nhƣng đã chú tâm vào
những kinh nghiệm của họ trong mối quan hệ với Thiên
Chúa. Ngài kể lại và hát lên những niềm vui và những đau
khổ của riêng ngài, cũng nhƣ kinh nghiệm về lòng thƣơng
xót và ân huệ của Thiên Chúa, nhƣng che giấu chúng
trong những lời của các ngôn sứ, các thánh vịnh hay
Thánh Phaolô. Trong khi đó, vẫn bàng bạc cái ý thức
chung mãnh liệt của toàn thể Giáo hội. Trong giáo huấn
của Gioan, Thiên Chúa không tỏ rõ và xác nhận sự thật
với trái tim của một kẻ cô độc. Một kẻ cô độc nhƣ vậy có
thể sẽ rất yếu ớt và lạnh lùng với sự thật. Khi đã ra khỏi
chính mình và trải qua đêm tâm linh, Gioan ngày càng dấn
sâu vào bản chất của Giáo hội, vào nơi Thiên Chúa tự bày
tỏ trong lịch sử. Ngài không hề thấy khó khăn gì khi dựa
vào phán quyết của Giáo hội, trong tất cả những vấn đề
67
liên quan đến cách diễn tả kinh nghiệm và giảng dạy của
mình. Đời sống Giáo hội, giáo lý, và cầu nguyện đem lại
cho ngài bối cảnh thích hợp, trong đó ngài đọc và sử dụng
Kinh thánh.
Gioan cũng nhận ra rằng chúng ta không thể hiểu
đƣợc sự thật của Chúa Kitô mà không có Chúa Thánh
Thần. Ngài không bảo rằng Chúa Thánh Thần "đã nói" với
chúng ta, nhƣng "đang nói" với chúng ta trong Kinh
thánh, để dẫn chúng ta đến sự thật toàn diện. Chúng ta
không bao giờ có thể hiểu hết những sự thật bí ẩn và
những ý nghĩa khác nhau nơi những lời Chúa nói, tuy
nhiên, những lời này, một cách nào đó sẽ lớn lên theo
những ngƣời đọc chúng trong Chúa Thánh Thần. Là một
nhà huyền giao, Gioan không hề định tâm viết nên tác
phẩm nhƣ một vị linh hƣớng hay một nhà thần học. Mục
đích chính của ngài chỉ là để truyền tải nội dung kinh
nghiệm huyền giao của mình. Kinh nghiệm ấy đƣợc
những ngƣời suy tƣ thần học ƣa thích vì nhà huyền giao
ƣa dùng lối nhận thức đặc biệt đƣợc soi sáng để nói về các
mầu nhiệm của Thiên Chúa, về hành động của Thiên
Chúa, và về đời sống ân sủng nơi mỗi ngƣời. Với một
quan điểm mục vụ nhƣ thế, nhà huyền giao biết mục tiêu
cần nhắm đến, vì ngài đang có đƣợc một vị trí khá tốt để
vạch đƣờng đi và lƣợng giá các phƣơng tiện.
Đƣợc soi sáng bởi kinh nghiệm riêng mình và kinh
nghiệm của những ngƣời khác, đôi khi - đặc biệt là trƣờng
hợp của thánh nữ Têrêxa Cả - cũng phong phú và sâu sắc
nhƣ kinh nghiệm riêng của ngài, ngài đã thâm nhập nhƣ
một nhà thần học tiến vào vùng khó khăn nhất và chƣa
đƣợc khám phá. Ngài tìm cách vận dụng những mầu
nhiệm mạc khải đã đƣợc các nhà thần học phân tích và tạo
68
ra một tổng hợp giáo lý có sức mang lại sự thống nhất và
hài hòa cho tất cả những thực tại đồng quy cuối quá trình
thần hóa. Nhƣng trong công việc của mình nhƣ là một nhà
thần học, một cách kín đáo, Gioan cũng có tìm cách để
truyền tải một cái gì đó nơi kinh nghiệm thâm sâu của bản
thân về mầu nhiệm Thiên Chúa để đánh thức một kinh
nghiệm tƣơng tự nơi độc giả của mình. Ngài đã trình bày
mầu nhiệm để những ngƣời khác có thể đến gần và đƣợc
mầu nhiệm ấy hoàn toàn biến đổi: "Ngƣời ta sẽ nói sai về
những chiều sâu thân mật của tâm linh nếu không nói
bằng một linh hồn lắng đọng thật sâu”.
GHI CHÚ
Một ngày nọ, hồi đang là tuyên úy tại tu viện Nhập
Thể ở Avila, hầu chắc là giữa năm 1574 và 1577, Tu
huynh Gioan Thánh Giá cầu nguyện tại một gác đàn, nhìn
lên Nhà Tạm. Đột nhiên ngài nhận đƣợc một thị kiến. Lấy
một cây bút, ngài phác thảo trên một mảnh giấy nhỏ
những gì ngài đã trông thấy.
69
Đó là phác họa vẽ Chúa Kitô chịu đóng đinh, đƣợc
nhìn từ một phối cảnh mới. Ngài bị treo trong không gian,
đang hƣớng về phía ngƣời dân của mình. Thập giá đứng
thẳng. Toàn thân Chúa không còn sức sống, bị vặn vẹo,
đầu gục xuống, treo ngã về phía trƣớc với hai cánh tay chỉ
đƣợc giữ bằng những chiếc đinh. Chúa Kitô đƣợc nhìn
thấy từ trên, từ quan điểm của Đức Chúa Cha. Ngài là một
con sâu hơn là một con ngƣời, bị tội lỗi nhân loại đè nặng,
nghiêng về phía thế giới mà vì nó ngài đã chết. Gioan,
ngƣời đã viết rất nhiều cảnh báo chống lại thị kiến và hình
ảnh, sau đó đã tặng bản bút họa cho một trong những hối
nhân sùng tín của mình tại đan viện Nhập Thể, là Ana
María de Jesús. Bà giữ nó cho đến lúc chết, năm 1618, khi
bà đƣa nó lại cho María Pinel, ngƣời sau này trở thành nữ
tu viện trƣởng.
Năm 1641, khi Mẹ María qua đời, bản vẽ đã đƣợc
đặt trong một hào quang nhỏ, dạng elip, nơi nó đƣợc bảo
tồn cho đến năm 1968. Sau đó nó đƣợc gửi đi nghiên cứu
và phục chế tại Viện Trung ƣơng bảo tồn và phục chế tác
phẩm nghệ thuật tại Madrid. Ngày nay, sau khi nó đƣợc
khôi phục và đặt trong một hộp đựng thánh tích mới, một
lần nữa mọi ngƣời đều có thể đến xem tại tu viện Nhập
Thể ở Avila. Nhà viết tiểu sử Cát Minh ngƣời Pháp viết về
Thánh Gioan Thánh Giá, là Bruno de Jésus-Marie, những
năm 1945 và 1950 đã thảo luận các bản vẽ với hai họa sĩ
Tây Ban Nha nổi tiếng của thế kỷ XX, José María Sert và
Salvador Dalí. Cha Bruno quay bản vẽ sang một bên và
giải thích rằng tác phẩm diễn tả cho thập giá nghiêng về
phía trƣớc nhƣ một cây thánh giá ép lên môi của một
ngƣời sắp chết. Lúc ấy ta thấy nhƣ Chúa Kitô đang kéo ra
khỏi nó, cánh tay Ngài dãn ra đến độ sắp gãy, đầu gục
70
xuống. Tuy nhiên, việc nghiên cứu cẩn thận về bản vẽ đã
chứng minh rằng Chúa Kitô bị đóng đinh của Gioan ở
trong một vị trí thẳng đứng.
Về sau, họa sĩ Dalí đã lấy cảm hứng ở đó để làm
một bức tranh với một phối cảnh tƣơng tự, và ghi "Đức
Kitô của Thánh Gioan Thánh Giá." Trong bức tranh Dalí,
trái ngƣợc với bản vẽ gốc của Gioan, cơ thể bị đóng đinh
khiến ngƣời ta liên tƣởng tới cơ thể một vị thần Hy Lạp
hơn là cơ thể của ngƣời Tôi trung đau khổ. René Huyghe,
có thời đã là Trƣởng ban Bảo vệ các bức tranh ở Bảo tàng
Louvre, đã viết về bản vẽ của vị tu sĩ Cát Minh ngƣời Tây
Ban Nha:
Thánh Gioan Thánh Giá đã thoát hẳn ra khỏi những
cách nhìn quen thuộc của tất cả những nghệ sĩ họp thành
một phần của thời đại họ. Ngài không biết gì về các quy
tắc và giới hạn của tầm nhìn đƣơng đại; ngài không phụ
thuộc vào cách nhìn thông dụng của thế kỷ; ngài chẳng
phụ thuộc vào gì cả, ngoài đối tƣợng ngài đang chiêm
ngắm... Phối cảnh thẳng đứng, dốc ngƣợc, gần nhƣ bạo
lực, nhấn mạnh bằng ánh sáng và bóng tối - trong đó ngài
bắt lấy Chúa Kitô trên thập giá - không thể xuất hiện trong
nghệ thuật đƣơng đại; trong bối cảnh nghệ thuật này, nó
hầu nhƣ không thể tƣởng tƣợng.
71
DẪN VÀO
VIỆC ĐỌC CÁC TÁC PHẨM
CỦA THÁNH GIOAN THÁNH GIÁ
Lm Lucien Marie de Saint Joseph, ocd
Lm. NGUYỄN QUỐC LÂM dịch
Thầy Thế Tâm NGUYỄN KHẮC DƢƠNG hiệu đính
“Thầy Albertô của Đức Nữ Đồng Trinh, thầy giữ cửa
đan viện Các Thánh Tử Đạo, sắp qua đời. Mặt thầy ửng
hồng, rạng rỡ một vầng ánh sáng, nhƣ chiếu toả tự thiên
cung. Khuôn mặt ấy trở nên đẹp đẽ lạ lùng đến nỗi mọi
ngƣời đều ngây ngất và để mặc cho những dòng nƣớc mắt
lặng lẽ tuôn rơi, tràn đầy niềm an ủi... Bỗng chốc thầy
Albertô kêu lớn tiếng: „A! Tôi đã thấy, tôi đã thấy. A! Tôi
đã thấy rồi!‟ Dứt lời, thầy khoanh tay, vòng lên ngực.
Trong lúc cặp mắt thầy bắt đầu khép mi, cha Gioan Thánh
Giá khả kính của chúng ta vội hỏi: „Thầy Albertô, thầy đã
72
thấy đƣợc gì vậy?‟ Thầy đáp: „Tình yêu, tình yêu‟, rồi thầy
đi vào tình trạng xuất thần.” 2
“Vào thời các chị em dòng Cát Minh còn ở tại nhà
của Don Luis del Mercado, một chị đã nhìn thấy cái cảnh
tƣợng Dona Ana de Peñalosa, ngồi dƣới chân vị thánh, ràn
rụa nƣớc mắt, khác nào nhƣ một Mađalêna mới, còn thánh
nhân thì đƣa mắt ngƣớc nhìn trời, miệng thốt lên: „Tất
thảy, tất thảy, tất thảy, không giữ lại một cái gì nữa cả, kể
cả đến chỗ lột da lóc thịt, buông bỏ tất cả vì Đức Kitô” 3
Ana de Peñalosa là một trong những tâm hồn vƣơng
giả mà thánh nhân yêu mến. Dù là một phụ nữ sống ở
ngoài đời, bà đã coi thánh nhân nhƣ là ngƣời cha và ngƣời
thầy, thực thi giáo huấn của ngài cách hoàn hảo đến nỗi
một ngày kia thánh nhân đã có thể viết cho bà tác phẩm
cao siêu bậc nhất của ngài: Ngọn Lửa Tình Nồng.
Chỉ nguyên một sự hiện diện của ngài đã đủ để kết tụ
lại cả một đoàn ngƣời, từ những kẻ hèn mọn nhất đến
những ngƣời cao siêu nhất trong xã hội, cả nam lẫn nữ, tất
cả đều sống trong mối tƣơng giao thiết nghĩa thâm tình
với Thiên Chúa. Đây vốn là một điều cố hữu trong lịch sử
Hội thánh, đã đƣợc triết gia Bergson giải thích một cách
tuyệt vời, ta chỉ còn biết chép lại thôi: “Nhờ đâu mà các
thánh đã lôi cuốn đƣợc những đoàn ngƣời đông đảo bƣớc
theo? Các ngài không hề xin, thế mà vẫn thâu đạt đƣợc.
Các ngài cũng không cần khuyến dụ; chỉ cần các ngài có ở
đó; chỉ nguyên một sự có mặt của các ngài đã là cả một lời
kêu gọi... Các nhà huyền giao không làm gì khác hơn là
mở rộng lòng mình cho sóng nƣớc ùa vào xâm chiếm tràn
2 P. BRUNO DE J.M., Saint Jean de la Croix, Paris, Plon, p. 275 3 Sđd., p. 250
73
ngập. Vững tin, vì cảm thấy nơi mình còn có một điều gì
đó tốt đẹp vƣợt hơn chính bản thân mình, các ngài đã tỏ ra
là những con ngƣời hoạt động lỗi lạc, gây kinh ngạc cho
những ai tƣởng rằng huyền giao chỉ là thị kiến, là linh
hứng, là xuất thần... Các ngài cảm thấy bị thúc bách phải
làm lan toả ra chung quanh điều mà các ngài đã lãnh nhận
đƣợc, đúng hơn, có thể nói đó là sự hăm hở phát xuất từ
cái „đà sức sống vƣơn lên‟ của tình yêu... Và ta hãy đi xa
hơn nữa để thấy rằng: Sở dĩ lời của một nhà huyền giao
thƣợng thặng hoặc của một ai đó trong số những kẻ noi
gƣơng bắt chƣớc vị ấy, có đƣợc âm vang trên ngƣời này
hoặc ngƣời nọ trong chúng ta, thì phải chăng chính là vì
trong mỗi chúng ta đều sẵn có một nhà huyền giao đang
thiếp ngủ; chỉ chờ một cơ hội thuận lợi là sẽ đƣợc đánh
thức? ” 4
“Không ai nhận chúng tôi vào làm cả!”. Những
ngƣời thợ vƣờn nho đã trả lời với ông chủ vƣờn nhƣ thế.
Thánh Gioan Thánh Giá cũng thƣờng nghe lời than vãn
ấy. Ngài hết sức thƣơng cho những kẻ phải chờ đợi suốt
ngày mà không có việc gì làm, chỉ vì không ai dẫn dắt họ.
Ngài không cần phải sáng tạo từ số không – Tuyệt đối mà
nói, chỉ có một mình Thiên Chúa mới tạo dựng từ số
không – nhƣng ngài vẫn còn phải làm thế nào cho những
ân sủng mà nhiều ngƣời đã lãnh nhận đƣợc khỏi bị bỏ bê,
chôn vùi trong tình trạng cằn cỗi không đơm hoa kết quả,
một tình trạng đang có nguy cơ trở nên phổ quát nhƣ một
quy luật không tháo gỡ đƣợc.
Điều mà H. Bremond đã nói chí lý về bà Acarie (tức
là nữ chân phƣớc Maria Mầu nhiệm Nhập thể, 1565-1618,
4 BERGSON, Deux sourcesde la morale et de la religion, pp. 29-30 et 101
74
thuộc dòng Cát Minh Têrêxa), chúng ta càng có thể nói
cách thích đáng hơn đối với Thánh Gioan Thánh Giá:
“Chỉ có Thiên Chúa mới tạo nên đƣợc các vị thánh
và các nhà huyền giao, nhƣng lời kêu gọi Ngài gởi đến
những kẻ Ngài tuyển chọn, thƣờng lại có vẻ là những lời
thì thầm khó bắt đƣợc. Nhiều ngƣời đã không nghe đƣợc,
hoặc đã không dám đón nghe lời kêu gọi ấy. Có thể vì yếu
đuối mà cũng có thể vì hiểu sai về sự khiêm nhƣờng và sự
cẩn trọng, họ đã làm tê liệt, thậm chí còn bóp nghẹt ân
sủng đã đƣợc ban cho. Thế nhƣng rồi, gần nhƣ đây lại là
một quy luật quan trọng trong cách Thiên Chúa quan
phòng điều hành phần lớn những sự thăng tiến trong đời
sống siêu nhiên, chỉ cần một câu nói hay một cái nhìn của
một tâm hồn thật sự thánh thiện và rõ ràng đã đƣợc Thiên
Chúa chiếm hữu, là đủ giúp cho những kẻ còn rụt rè,
những ngƣời còn phân vân lƣỡng lự, là những kẻ thật ra
đã đƣợc chọn mà không hay biết, đủ giúp cho họ nhận ra
ơn riêng đang có nơi bản thân họ. Đứng trƣớc bức tranh
sống động mà bất thần đƣợc nhìn tận mắt, họ nhƣ bị
choáng ngợp nhƣng đồng thời cũng đƣợc thêm khích lệ
phấn chấn. Có thể vì khiêm tốn, họ không thốt lên tiếng
kêu bất hủ của một thiên tài vừa thức dậy „ed anch‟io
„(tiếng Ý, có nghĩa là: „cả tôi nữa‟), nhƣng dù sao, chính
là nhờ cuộc hạnh ngộ có tính cách quyết định ấy mà ơn
gọi của họ đã đƣợc xác quyết rõ ràng. Và từ đó, họ quả
quyết cất bƣớc trên nẻo đƣờng cao vời, nẻo đƣờng mà mới
hôm qua đây, họ còn tƣởng nhƣ không thể bén mảng tới
đƣợc, và còn làm cho họ phải sợ hãi. Đó là câu chuyện có
thực của một số đông tín hữu nam cũng nhƣ nữ, cả của
các linh mục nhất là những linh mục đã nhờ bà Acarie mà
75
phát huy đƣợc ân sủng của mình. ”5
Kiểu nói trên đây có lẽ là một trong những lời mô tả
đúng nhất để nói về tác động của Thánh Gioan Thánh Giá
trên rất nhiều ngƣời đã lên đƣờng hƣớng về đỉnh núi Cát
Minh, những ngƣời mà phải có bàn tay êm ái nhƣng vững
chắc của thánh nhân giúp đỡ mới dám dấn bƣớc lên cao
trên nẻo đƣờng họ đã vừa mong ƣớc vừa khiếp sợ. Tác
động của thánh nhân không kết thúc với cuộc đời ngài.
Một số bút tích của ngài vẫn đƣợc lƣu giữ, và ngƣời ta đua
nhau sao chép lại, cả bên trong cũng nhƣ bên ngoài những
cửa chấn song của các đan viện Cát Minh, rồi chuyển đi
khắp nơi, trƣớc tiên là tại Tây Ban Nha, rồi sang Pháp, Ý,
Bỉ. Phải sao chép nhƣ vậy là vì mãi 27 năm sau khi thánh
nhân qua đời, tác phẩm của ngài mới đƣợc xuất bản lần
đầu tiên – mà vẫn chƣa đƣợc trọn bộ!
Tuy nhiên, chƣa bao giờ ảnh hƣởng của ngài lại
chiếu toả mạnh mẽ nhƣ kể từ ngày 24-8-1926, ngày Đức
Piô XI tôn phong cho vị tu sĩ đầu tiên khiêm hạ này của
dòng Cát Minh Têrêxa tƣớc hiệu Tiến sĩ Hội thánh. Đức
Giáo Hoàng nói: “Thật xác đáng khi ngƣời ta xem các tác
phẩm của thánh nhân nhƣ là bản quy luật và là ngƣời chỉ
đạo cho các tâm hồn thành tín, khao khát đạt tới một đời
sống trọn lành hơn”. Và nhƣ vậy, Đức Giáo Hoàng đã nêu
cao thế giá của các tác phẩm ấy, chính thức nhìn nhận
rằng đó là “một nguồn suối rất tinh tuyền của cảm thức
tâm linh Kitô giáo và của tƣ tƣởng Hội thánh. ”
Giờ đây, trong mọi tầng lớp, thánh nhân đều có
những môn đệ đầy lòng sùng mộ nồng nhiệt. Lắm ngƣời
5 HENRI BERGSON, Histoire littéraire du sentiment religieux en France,
Tome II, pp. 227 et 228
76
đƣợc lôi cuốn theo dòng ngƣỡng mộ ngày càng lan rộng
này, đã tìm đọc đến tác phẩm Đƣờng Lên Núi Cát Minh
mà chƣa đƣợc chuẩn bị. Điều ấy cũng có phần bất lợi. Quả
vậy, có kẻ ngay từ những trang đầu đã cảm thấy ngỡ
ngàng, và vì không lãnh hội đƣợc, đã che giấu sự nản lòng
dƣới tấm màn của thái độ “kính nhi viễn chi”, và đành
phải coi nhƣ thể việc đọc Thánh Gioan Thánh Giá là
chuyện dành riêng cho một số ngƣời đƣợc nhập môn đặc
biệt.
Đƣơng nhiên, không thể xem việc đọc tác phẩm của
thánh nhân nhƣ đọc một cuốn lịch sách đạo đức. Một mặt,
sẽ không đúng nếu bảo rằng việc đọc tác phẩm của ngài là
việc chỉ dành riêng cho một thiểu số chuyên gia; mặt khác,
nếu bảo rằng chẳng cần gì phải chuẩn bị mới đọc đƣợc, thì
chỉ là bạo miệng nói liều.
Không sự chuẩn bị nào cho bằng đƣợc một ai đó nói
cho nghe. Để thấu hiểu tự chính trong chiều sâu của
những trang chủ yếu trong học thuyết của Thánh Gioan
Thánh Giá, không gì bằng lần đọc những trang ấy bên
cạnh một ngƣời đã lãnh hội thấu đáo nhờ đã thực sự đem
những điều ấy áp dụng vào đời sống.
Vì không thể trực tiếp trao đổi hƣớng dẫn nhƣ thế,
chúng tôi viết những dẫn nhập này, mong giúp cho nhiều
ngƣời, vốn có lòng ngƣỡng mộ thánh nhân nhƣng vẫn còn
đang đứng ở xa xa, đánh tan đƣợc những ngập ngừng e sợ,
và cũng mong đem lại đƣợc cho họ những lời chỉ dẫn sơ
lƣợc cơ bản để nhờ đó họ có thể thực hiện đƣợc nỗi ƣớc
ao đọc Thánh Gioan Thánh Giá mà không đến nỗi liều
lĩnh. Những trang này có thể cũng còn hữu ích ngay cả đối
với một số độc giả đã từng say mê “học thuyết bổ dƣỡng
súc tích” của vị tiến sĩ huyền giao, đi đến chỗ biết khéo
77
thƣởng thức món lƣơng thực quen thuộc mà kinh nghiệm
bản thân đã cho họ biết rõ là bổ ích thế nào rồi.
Thánh Gioan Thánh Giá viết cho những ai?
Để tránh cho chúng ta khỏi nhọc công đƣa ra những
ý kiến riêng tƣ về vấn đề này, chính Thánh Gioan Thánh
Giá, ngay trong lời tựa cuốn Đƣờng Lên Núi Cát Minh đã
lƣu tâm xác định rõ ngài nhắm viết cho những ai: “Tôi
cũng nghĩ rằng dù ngƣời ta có viết về đề tài này hoàn
chỉnh và trọn hảo hơn cách tôi viết ở đây, thì cũng chỉ một
số ít có thể thƣởng thức đƣợc, vì rằng ở đây không bàn
đến những điều nặng về luân lý và thú vị đối với tất cả
những ngƣời theo đƣờng tâm linh mà lại thích đạt đến
Thiên Chúa bằng những sự êm đềm thú vị, nhƣng là bàn
đến một học thuyết cốt yếu súc tích và vững chắc cho cả
hai nhóm ngƣời nói trên, nếu họ muốn đi qua trạng thái
trần trụi tâm linh mà tôi đang nói đây. Mà mục đích chính
của tôi cũng không phải nói với hết mọi ngƣời, nhƣng chỉ
nhắm đến một số ngƣời trong hội dòng của chúng tôi
đang dõi theo dấu chân các vị khai sáng ở núi Cát Minh,
cả tu sĩ và nữ tu, là những ngƣời đã yêu cầu tôi viết – và
là những ngƣời đã đƣợc Thiên Chúa ƣu ái đặt lên triền
dốc của ngọn núi này: những ngƣời này sau khi đã lột bỏ
hẳn những điều thế tục của đời này, sẽ hiểu rõ hơn học
thuyết về sự trần trụi tâm linh.”6
Nhƣ thế, ngài viết chủ yếu là cho các nam nữ tu sĩ
Cát Minh để đáp lại lời yêu cầu của họ7. Nói nhƣ vậy phải
chăng là bảo rằng những ngƣời khác không thể rút đƣợc
6 Đƣờng lên núi Cát Minh, lời tựa, (p. 56) 7 Dù trong thực tế ngài đã soạn quyển Ngọn Lửa Tình Nồng theo yêu cầu
của bà Ana Peñalosa, nhận định tổng quát này vẫn đúng.
78
lợi ích nào nơi các tác phẩm của ngài? Trái lại, chẳng phải
là chính thánh nhân đã rõ ràng nhắm tới những ngƣời ấy
khi viết rằng “cho cả hai nhóm ngƣời nói trên, nếu họ
muốn đi qua trạng thái trần trụi tâm linh” đó sao? Nói rằng
một học thuyết đƣợc xây đắp với chủ ý trực tiếp nhắm tới
một nhóm ngƣời nhất định nào đó (chủ ý ấy sẽ ảnh hƣởng
đến văn phong, đến việc chọn lựa các hình ảnh minh họa
cũng nhƣ các trƣờng hợp cụ thể đƣợc nêu làm ví dụ áp
dụng) thì không có nghĩa là học thuyết ấy tự nó chỉ có giá
trị đối với nhóm ngƣời ấy mà thôi. Tác giả vốn là một
ngƣời không hề có một tham vọng trần thế nào, đã khiêm
nhƣờng tự giới hạn nhƣ thế, nhƣng sự kiện ấy không cho
phép chúng ta đƣợc quên đi tầm mức phổ quát gần nhƣ
đƣơng nhiên của một học thuyết đã trở thành sáng giá nổi
bật từ ngày Thánh Gioan Thánh Giá đƣợc tôn phong tƣớc
hiệu Tiến sĩ Hội thánh.
Vả lại, rất nhiều lần, chính Thánh Gioan Thánh Giá
cũng đã cảm thấy rằng những kẻ nghe ngài và đọc ngài
không chỉ giới hạn trong số những ngƣời ngài đã trực tiếp
nhắm tới. Sự trung thực và hợp lý với chính giáo huấn của
mình đòi ngài phải đi đến chỗ đem lại cho giáo huấn ấy
một chiều kích phổ quát. Rất nhiều ví dụ đƣợc trƣng dẫn
để minh hoạ học thuyết của cuốn Đƣờng Lên Núi Cát
Minh là những ví dụ lấy trong đời sống Kitô hữu nói
chung chứ không phải lấy ở đời sống tu sĩ Cát Minh. Đành
rằng, trên nguyên tắc, cuốn Đƣờng Lên Núi Cát Minh
chính yếu là nhắm tới các tu sĩ nam nữ dòng Cát Minh.
Tuy nhiên cũng phải đem áp dụng cho toàn bộ tác phẩm
của thánh nhân, câu nói của ngài trong tác phẩm Ngọn
Lửa Tình Nồng, qua đó ngài khẳng định một cách trang
trọng tính cách phổ quát của tác phẩm: “Tôi muốn nói rõ
79
điều ấy ở đây, vì đó là điều rất mực cần thiết, không
những cho các tâm hồn đang tiến bƣớc vững vàng, mà còn
cho bất cứ ai đang tìm kiếm Đấng Chí Ái của mình. ”8
J. Baruzi đã nói lên điều ấy trong những dòng có vẻ
rất sát thực tế: “Thánh Gioan Thánh Giá đã viết, trƣớc hết
là cho các nam nữ tu sĩ dòng Cát Minh. Câu nói ngài
khẳng định với ta điều ấy 9, giờ đây đang gói ghém tất cả
sự thật của nó. Nó đã nảy ra nơi Thánh Gioan sau khi
ngài đã phải buồn bã nhìn đến những ngƣời không đƣợc
ai thông cảm, phải nghiêm khắc nhìn về những vị linh
hƣớng giả hiệu, sau hết là tức tối nhìn về những kẻ chỉ
thích những dịu ngọt hời hợt về tâm linh, để rồi ngài chỉ
còn biết quay về với những ai đã cố gắng từ bỏ mọi dính
bén vật chất, và nhờ vậy mà “có thể hiểu rõ hơn cái học
thuyết về sự trần trụi tâm linh”. Đó là cử chỉ của một con
chim khép cánh, nhƣng không vì thế mà ta lại quên rằng
nó đã có một dự phóng tung cánh bốn phƣơng – vâng, ta
không đƣợc phép quên rằng dự định của ngài vốn là một
dự định mang tính phổ quát. Một ngƣời dù ở rất xa các
đan viện Cát Minh, nhƣng nếu thực sự đạt đƣợc sự từ bỏ
thế gian và đƣợc biến đổi trong Thiên Chúa, thì cũng là
đang trèo lên đỉnh núi Cát Minh. ” 10
Dù sao, phải xua tan đi bóng ma của những hiện
tƣợng lạ thƣờng: những thị kiến, những mặc khải, những
việc bay bổng thân xác lên cao... Thánh Gioan Thánh Giá
là vị thánh của truyền thống Hội thánh. Ngài viết cho
8 Lửa 3,3 9 Nói về câu vừa trích trên đây trong Lời Phi Lộ của Đƣờng Lên Núi Cát
Minh 10 JEAN BARUZI, Saint Jean de la Croix et le problème de l‟expérience
mystique, 2e ed., Alcan, Paris, p. 393
80
những ai đã quyết chí, và không gì hơn ngoài sự quyết chí,
quyết ẵm lấy cây Thập giá mà trên đó Đức Kitô đã chết
trong sự trần trụi cùng cực để giao hoà và hiệp nhất nhân
loại với Thiên Chúa trong ân sủng, không đƣợc phép giấu
kín ánh đèn dƣới đáy thùng, dù cái thùng ấy là một dòng
tu đã lan rộng có mặt khắp nơi trên thế giới.
Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu tính phổ quát nói trên
một cách đúng đắn. Những ngƣời mà Thánh Gioan Thánh
Giá nhắm tới là những ngƣời đã say mê sự thánh thiện,
hay ít ra là có thể đi đến chỗ say mê đó: Họ là những
ngƣời đang cất bƣớc trên đƣờng vƣơn tới đỉnh núi Cát
Minh. Con số những ngƣời ấy tất nhiên chỉ là một số ít.
Cũng có ngƣời đã nhận xét rất đúng rằng: Nếu Thánh
Gioan có muốn viết cho tất cả mọi ngƣời đi nữa, ngài
cũng chỉ nhằm nói với họ khi họ đã đạt đến một trình độ
nào đó trên đƣờng tâm linh 11
.
Chúng ta dễ đoán đƣợc ngay, những suy tƣ ấy sẽ đƣa
đến hệ quả cụ thể thế nào trong việc hƣớng dẫn các linh
hồn. Vì thế, cần xác định rõ, căn cứ trên kinh nghiệm thực
tế hơn là dựa vào những biện luận thuần lý.
Trƣớc hết, có những ngƣời mắc những khuyết tật
trầm trọng về tâm thần, không thể cho họ đọc Thánh
Gioan Thánh Giá, vì họ không thể nào đi vào con đƣờng
của ngài, dù chỉ là một bƣớc tập luyện sơ khởi. Phủ nhận
hoặc khinh thƣờng những hậu quả trầm trọng thực tế của
những nguyên nhân về thể chất (nguyên nhân thể lý, và ở
đây đặc biệt về tâm lý) là một ảo tƣởng nguy hiểm, thậm
chí là một sự ngây ngô đáng tội. Có những tâm hồn dị
dạng, còn kỳ dị hơn những cơ thể dị hình, việc săn sóc các
11 J. MARITAIN,Les degrés du savoir, note des pp. 686-687
81
tâm hồn ấy, trƣớc tiên phải dành cho các bác sĩ chuyên
khoa về tâm bệnh. Những trƣờng hợp quá mức ấy thiết
tƣởng đã quá rõ, không cần phải bàn thêm.
Mặt khác, trong tác phẩm của Thánh Gioan Thánh
Giá, nếu ngƣời ta dừng lại ở những phần không phải là
phần độc đáo nhất của ngài – nhƣ những lời khuyên tu đức
mà ngài đƣa ra khá nhiều chẳng hạn – thì đƣơng nhiên có
thể đƣa cho tất cả những ai đang cần học từ bỏ và hy sinh.
Nhƣng làm nhƣ thế là không lý gì đến những đòi hỏi đích
thực của ngài và có nguy cơ làm sai lệch học thuyết ngài.
Bởi lẽ phƣơng pháp tu đức của Thánh Gioan Thánh Giá
chủ yếu là để hƣớng đến huyền giao, và chắc rằng đó là lý
do tại sao chủ thuyết của ngài mang tính cách kiên quyết
không khoan nhƣợng. Tệ hơn nữa, làm nhƣ thế là ngƣời ta
đã dùng Thánh Gioan Thánh Giá vào một mục đích mà
các tác giả chỉ chuyên về tu đức cũng có thể giúp đạt tới
đƣợc, có khi còn có thể giúp tốt hơn; và có lẽ các tác giả
này lại thích hợp hơn với mục đích vừa nói.
Hơn nữa, vì chân lý đôi khi đòi hỏi phải đƣợc trình
bày với những nét biện biệt vi tế của nó cho nên còn phải
nói thêm rằng, ngay cả những trƣờng hợp mà ơn gọi
huyền giao không đƣợc rõ ràng, sự tiếp cận (dầu chỉ gián
tiếp hay chỉ một phần nào đó) với tƣ tƣởng cƣờng dũng
của Thánh Gioan Thánh Giá vẫn có thể đem đến những
kết quả vô cùng phong phú. Ta có thể dùng nhiều kiểu nói
khác nhau: đồng cảm về tâm linh, đồng điệu về tinh thần,
hoặc nói nhƣ Paul Claudel: những tâm hồn cùng huyết
thống... để chỉ một sự kiện có thật, ấy là: nhờ học thuyết
của Thánh Gioan Thánh Giá, một số ngƣời đã đạt tới một
cuộc sống mới, có thể bề ngoài vẫn tầm thƣờng dung dị
nhƣng tất cả động lực của nó lại ở nơi những viễn tƣợng
82
cao vời, đã đƣợc mở ra trong những trang siêu việt nhất
của cuốn Ca Khúc Tâm Linh hay cuốn Ngọn Lửa Tình
Nồng. Về điểm này, dƣờng nhƣ địa hạt để cho tƣ tƣởng
của Thánh Gioan Thánh Giá có chỗ đem ra ứng dụng còn
rộng lớn hơn nhiều so với điều ta tƣởng ban đầu. Có
những tâm hồn đã lún sâu vào những thói hƣ tội lỗi, chỉ có
thể chỗi dậy từng lúc đều đặn để tiếp tục chiến đấu khi
đƣợc khích lệ bởi luồng sinh khí mãnh liệt thổi đến từ
đỉnh cao mà thánh nhân vẽ ra trƣớc mắt chúng ta. Đó là
phƣơng pháp trị liệu bằng tƣơng phản đã đƣợc chứng
nghiệm bằng nhiều trƣờng hợp không có gì là ngoại lệ lắm.
Đối với một số tâm hồn đã rớt xuống vực thẳm quá sâu, chỉ
có vẻ đẹp huy hoàng của đời sống kết hiệp mật thiết với
Thiên Chúa mới đủ sức làm cái đối trọng khử đƣợc hấp lực
mãnh liệt của hố thẳm từ bên dƣới.
Điều ấy khiến chúng tôi nghĩ rằng: nếu viện lẽ chỉ có
một số ngƣời tỏ ra thực sự có khả năng sống đời huyền
giao để bác bỏ việc phổ biến học thuyết của Thánh Gioan
Thánh Giá (phổ biến hiểu theo nghĩa tốt của từ này) thì
thật là sai lầm. Phải chăng chúng ta nên đặt vấn nạn ngƣợc
lại: Sở dĩ các tâm hồn có khả năng sống đời huyền giao
quá ít ỏi nhƣ vậy, phải chăng nguyên do chính là vì chúng
ta đã quá ít khi nói về đời sống huyền giao, về học thuyết
của Thánh Gioan Thánh Giá, nhƣ lẽ ra đã phải đƣợc thực
hiện? Có thể nói, quan điểm của triết gia Bergson và của
sử gia Brémond mà chúng tôi đã trƣng dẫn ở những trang
đầu của phần dẫn nhập này rõ ràng là đã dựa trên những
luận cứ có giá trị phổ quát. Nếu nhƣ sự thiếu cẩn trọng và
thiếu chừng mực trong việc sử dụng ngôn từ có thể gây ra
những hậu quả tai hại, đáng tiếc, ngay cả cho những ngƣời
đã đƣợc chuẩn bị đầy đủ nhất để đƣợc nghe nói về đời
83
sống huyền giao; thì một thực tế khác cũng đúng không
kém gì – có lẽ còn đúng hơn nữa – là có rất nhiều ngƣời
đã không biết đến ân sủng đang có nơi họ hay không dám
tin rằng là có, mãi tới ngày Thánh Gioan Thánh Giá, hoặc
đích thân hoặc qua tác phẩm của ngài, đã đến với họ, đẩy
nhẹ một cái, mới giúp họ ra đi lên đƣờng vƣợt núi. Nhìn
từ góc độ ấy, lịch sử đời sống huyền giao trong Hội thánh,
phải chăng là lịch sử của những sự kết tụ nối tiếp nhau
quanh một vị thánh, nam cũng nhƣ nữ, nhƣ quanh một tâm
điểm? Rõ ràng là ngày nay một sự kết tụ tƣơng tự dƣờng
nhƣ đang xảy ra chung quanh các tác phẩm của Thánh
Gioan Thánh Giá. Hoài nghi về điều ấy sẽ gây thiệt hại
cách riêng cho những ngƣời đang chịu ảnh hƣởng của ngài.
Thật là một sự đau lòng nhƣng đồng thời cũng là một
sự thôi thúc khi phải ghi nhận rằng sự kết tụ nói trên lẽ ra
phải lan rộng nhiều hơn là tình trạng đang có hiện nay.
Nhƣng có ngƣời sẽ bắt bẻ rằng: Làm sao dám nghĩ là
có thể đem học thuyết của Thánh Gioan áp dụng cho đa số
các tâm hồn, khi mà một cám dỗ nhỏ mọn cũng đủ cho
thấy là họ quá yếu đuối? Liệu có thể nói về tình yêu hoàn
hảo cho những ngƣời không thể vƣợt khỏi một đời sống
tội lỗi hay không thể chấp nhận một đau khổ nào?
Đáp lại vấn nạn ấy, phải nói rằng chính tình yêu –
điều duy nhất mà Thánh Gioan Thánh Giá nói với chúng
ta – và chỉ có tình yêu mới cứu đƣợc những tâm hồn quá
yếu đuối nhƣ vậy; chỉ có tình yêu mới cho họ hiểu đƣợc ý
nghĩa tích cực của đau khổ nhƣ thánh nhân đã cho thấy.
Thái độ tâm linh về đức nghèo khó và trông cậy, là điều
làm nền móng cho học thuyết của Thánh Gioan Thánh
Giá, không thể là chuyện đã rõ trƣớc là bất khả, là cấm kỵ
đối với bất cứ ai.
84
Đứng trƣớc lý tƣởng về sự hoàn thiện của Tin mừng,
mọi tâm hồn đều là những kẻ tàn tật. Có thể đối với nhiều
ngƣời, lời mời gọi của Thánh Gioan Thánh Giá sẽ là cơ
hội để chuyển mình mà họ chờ đợi.
Chúng ta phải hết sức tránh việc hạ thấp học thuyết
của ngài cho hợp với tình trạng thực tế của các tâm hồn,
nhƣng đúng hơn, phải cố gắng, một cách trung thực giúp
các tâm hồn mở rộng ra với những đòi hỏi mà học thuyết
của ngài có quyền đặt ra cho họ.
Còn về việc giúp cho từng cá nhân cụ thể thực hiện
những huấn thị thánh nhân đã đƣa ra thì nên hành sử cách
cẩn trọng. Thời nào cũng thế, ngƣời ta có lý khi nhắc nhở
về những tác hại của việc đọc Thánh Gioan Thánh Giá
quá sớm, thiếu chuẩn bị, dù rằng đôi khi sự nhấn mạnh
này có nguy cơ khiến đọc giả trở nên e dè nhát đảm. Bất
cứ ai đã đọc Thánh Gioan Thánh Giá và tự kể mình đã
thực sự trở nên môn đệ ngài, đều cần phải xem xét kỹ
mảnh đất mình sẽ gieo vãi hạt giống. Đừng làm nhƣ
những kẻ gieo vãi lời kêu gọi của thánh nhân cách mù
quáng bừa bãi trong bất cứ cuộc gặp gỡ cá nhân nào. Đành
rằng học thuyết trong cuốn Đƣờng Lên Núi Cát Minh chỉ
là minh giải cho những đòi hỏi về sự hoàn thiện mà trong
Tin mừng Đức Kitô đã đề ra cho các môn đệ Ngài, nhƣng
cả về học thuyết ấy lẫn những đòi hỏi này, đều phải nói
rằng: “Không phải mọi ngƣời đều hiểu đƣợc cả đâu” (Mt
19,11).
Nhƣ thế, một đàng, khi hƣớng dẫn riêng từng ngƣời,
cần phải hết sức thận trọng dè dặt, nhƣ chính thánh nhân
đã căn dặn rõ khi nói về việc mời gọi ngƣời này hoặc
ngƣời kia bƣớc vào đời sống chiêm niệm; nhƣng đàng
khác, khi giới thiệu học thuyết của Thánh Gioan cho công
85
chúng, thì hãy trình bày không phải nhƣ một học thuyết bí
truyền nhƣng nhƣ là một học thuyết đƣợc cống hiến cho
tất cả những ai chịu chấp nhận trả đúng cái giá cần phải
trả. Chính thánh nhân cũng không nói khác hơn ngƣời
đƣơng thời, và ngƣời đƣơng thời với ngài hẳn cũng có
những lỗi lầm yếu đuối nhƣ chúng ta thôi, chẳng khác bao
nhiêu. Thế thì thử hỏi liệu có gì là sai lầm khi chúng ta
theo ngài mà lặp lại lời ngài, không cƣờng điệu mà cũng
không giảm thiểu, để bảo rằng đời sống huyền giao là đời
sống đƣợc đề ra chung cho mọi tâm hồn say mê lý tƣởng,
và rằng mọi tâm hồn có thể hy vọng đạt tới đời sống ấy, và
rằng Thiên Chúa hoàn toàn làm chủ các ân huệ của Ngài và
Ngài không hề bị bó buộc đối với bất cứ ai?
Khi nói về những ân tứ huyền giao đầu tiên, Thánh
Gioan Thánh Giá có viết: “Tâm hồn phải hết sức ƣớc ao
đƣợc đạt tới những điều mà nó không thể nào biết đƣợc ở
đời này và là những điều lòng nó không thể nghĩ ra đƣợc” 12
.
Sau này, nhân nói về một trong những ân tứ cao vời
nhất đƣợc mô tả trong Ca Khúc Tâm Linh, ngài còn viết:
“Nhƣ thế, điều rất đáng ƣớc mong là mỗi tâm hồn đều
khấn xin ngọn gió của Thánh Thần thổi qua thửa vƣờn của
mình”. 13
Tác phẩm của Thánh Gioan Thánh Giá
nhằm nói những điều gì?
Nhiều ngƣời đã khởi đầu bằng việc đọc thánh nữ
Têrêxa thành Avila trƣớc khi đọc tác phẩm của cộng sự
12 2Lên 4 13 CaA 27,4 (ss. CaB 22)
86
viên của thánh nữ. Họ thích thú với vẻ lôi cuốn của những
lời cảm thán tuyệt vời của thánh nữ đối với bí tích Thánh
Thể, họ nhƣ ngây ngất trƣớc những lời âu yếm thiết tha
ngài nói vơi Đấng Cứu Thế và trƣớc Đức Trinh Nữ và
trƣớc bao nhiêu trang đầy rung động với những tâm tình
thân thiết riêng tƣ. Đem so sánh, những chƣơng đầu của
cuốn Đƣờng Lên Núi Cát Minh cho họ cái ấn tƣợng chỉ
gặp đƣợc những cây cỏ cằn cỗi vùng hoang mạc, và ngay
cả chúng đôi lúc cũng lại biến mất nhƣờng chỗ cho những
đụn cát khô khốc và trơ trụi đến tuyệt vọng. Thỉnh thoảng
mới gặp đƣợc một vài ốc đảo xanh tƣơi, đẹp thật đấy,
nhƣng lại quá hiếm hoi. Sao thánh nhân lại không nói đến
thánh lễ, đến lòng yêu mến Đức Trinh Nữ, đến cuộc khổ
nạn của Chúa? Có những độc giả bị chƣng hửng cách não
lòng đã buột miệng kêu than nhƣ thế.
Tuy nhiên, thánh nhân viết là viết cho những ngƣời
mà ngài biết là đã đủ am hiểu về những điều ấy và đã sống
theo đó. Ai muốn yên tâm thì cứ việc đọc lại tiểu sử của
ngài, sẽ thấy ngài cử hành thánh lễ với lòng sốt sắng thế
nào, sẽ thấy có lần trong thời gian tuần thánh, ngài đã cảm
thụ nơi thân xác mình những đau đớn của cuộc khổ nạn
Chúa nhƣ thế nào, và sẽ thấy mỗi khi buồn phiền ngài đã
cất lên những ca khúc ngợi khen Đức Maria với một tình
yêu thơ trẻ nhƣ thế nào.
Nếu ngài không đề cập đến những chủ đề lớn trên
kia, chính là vì ngài có điều khác phải nói, điều khác này
chƣa ai nói với ngài, và sau ngài ngƣời ta chỉ có thể nói lại
bằng cách trích dẫn lời ngài mà thôi. 14
14 Có ngƣời sẽ bắt bẻ rằng câu này cũng có thể nói về cả Mẹ thánh Têrêxa
chứ không riêng thánh Gioan Thánh Giá. Quả đúng vậy. Tuy nhiên đang
87
Ngài chỉ cho các Kitô-hữu đang khát khao nên thánh
biết con đƣờng đƣa thẳng đến gặp gỡ Thiên Chúa. Trong
mọi hoàn cảnh và mọi bậc sống, trong các việc đạo đức cá
nhân cũng nhƣ trong phụng vụ, có một thái độ tâm hồn
cần thiết cho những ai muốn lên tới đỉnh núi Cát Minh. Dù
ngọn núi của đời bạn ra sao đi nữa, vẫn có một cách trèo
lên bằng những con đƣờng dốc đứng: Đó chính là điều mà
kẻ đã từng thực hiện trƣớc bạn muốn chỉ vẽ cho bạn.
Trong mọi đời sống tâm linh, dƣới những vẻ thể hiện bên
ngoài muôn màu muôn sắc, vẫn có một đƣờng lối nguyên
tắc duy nhất, là đƣờng lối đã đƣợc ngòi bút của Thánh
Gioan Thánh Giá vạch ra, trƣớc tiên là trong bức vẽ
“Ngọn núi hoàn thiện” và sau là trong những lời minh giải
các thi khúc của ngài.
Có ngƣời đã viết đƣợc rất chí lý rằng: “Trong lãnh
vực trí thức thuần tuý, bộ “Tổng luận thần học” (của thánh
Tôma Aquinô) có vai trò nhƣ thế nào – một tổng hợp có
tầm mức phổ quát và có tính cách dứt điểm, tuy không
loại trừ những công trình nghiên cứu khác, nhƣng có khả
khi Mẹ thánh chỉ thình thoảng mới viết để bày tỏ với các vị linh hƣớng
hoặc để lƣu lại cho con cái kỷ niệm về những việc xảy ra trong thời gian
ngài thiết lập các đan viện, thi thánh Gioan Thánh Giá lại chỉ viết vì
thƣơng các linh hồn đang cần đến “một giáo lý rất đáng ngƣỡng mộ, tuy
nhiên dƣờng nhƣ những ngƣời theo đƣờng tâm linh lại thực hiện ít hơn
mức độ họ cần thực hiện” (2Lên 7,4). Cả khi Mẹ thánh viết “đôi điều về
việc nguyện ngắm”, nhƣ trong Đƣờng Hoàn Thiện, thì do tâm tính và ảnh
hƣởng giáo dục, Mẹ thánh đã đề cập tới những đề tài mà thánh Gioan
Thánh Giá, do trƣớc kia đã đƣợc đào tạo ở Salamanca, thƣờng tránh đi để
khỏi lạc đề. Điều đó cho thấy nét khác biệt cách xa giữa tác phẩm của hai
vị.
88
năng chỉ định trƣớc chỗ đứng cho các công trình ấy – thì
tác phẩm của Thánh Gioan Thánh Giá cũng có vai trò
tƣơng tự trong lãnh vực trí thức thực hành, là loại trí thức
chỉ cho ngƣời ta biết về những con đƣờng dẫn bƣớc tới
Thiên Chúa. Tất cả các tác phẩm bàn về đời sống tâm linh
(hoặc là những sách viết từ trƣớc mà ngài giả thiết là
ngƣời ta đã biết, hoặc những sách do chính ngài gợi hứng
cho ngƣời ta sau này đọc theo diễn trình cuộc sống của
Hội thánh) hoặc bàn về khía cạnh đặc thù nào đó của đời
sống tâm linh, về một cách thực hiện cụ thể nào đó trong
việc đi đến với Thiên Chúa, dƣới hình thức một lòng tôn
sùng đạo đức nào đó, tất cả đều phải đƣợc đọc dƣới ánh
sáng các nguyên tắc vị thánh tiến sĩ đã đề ra.
Toàn bộ tác phẩm của Thánh Gioan Thánh Giá chỉ là
bức tranh mô tả việc Thánh Thần nắm lại trong tay Ngài
con ngƣời thụ tạo, ô trọc và què quặt, để biến cải sinh hoạt
của nó, một sinh hoạt bị liệt nhƣợc về cả hai mặt tâm lý
cũng nhƣ luân lý, và có thể giúp nó đạt đƣợc một cung
cách thần diệu (nên lƣu ý rằng: hình nhƣ không bao giờ
thánh nhân dùng đến từ “phƣơng pháp” – điều này bao
hàm rất nhiều ý nghĩa) trong việc suy nghĩ, mến yêu và
hành động. Nhƣ tất cả những ai lạc quan đứng đắn, thánh
nhân không ngần ngại nêu rõ tầm cao của lý tƣởng phải
đạt tới cũng nhƣ những khó khăn đáng sợ phải vƣợt qua.
Ngài biết rằng sức mạnh mà ngài đang trông nhờ là một
sức mạnh không bao giờ cạn kiệt. Khi đạt tới cùng đích,
tức là đạt tới sự kết hiệp nên một với Thiên Chúa mà mỗi
trang sách đều nói tới, linh hồn sẽ chỉ còn là một dụng cụ
hết sức uyển chuyển trong bàn tay Thiên Chúa; nó sẽ hoàn
toàn đƣợc lôi cuốn vào sự vận hành của tình yêu, đang nối
kết Chúa Cha và Chúa Con trong Thánh Thần, giữa cung
89
lòng Thiên Chúa Ba Ngôi. Nó sẽ sống trọn lời nguyện xin
của Đức Kitô trong đêm tiệc ly: “Xin cho chúng đƣợc nên
một nhƣ Chúng Ta là một” 15
.
Dƣờng nhƣ Thánh Gioan Thánh Giá chỉ nói có một
điều ấy thôi. Vƣợt qua mọi phức tạp rắc rối của bản văn,
xuyên qua những công thức thuộc về mọi thời đại nhất
định trong lịch sử văn hoá và thần học, dƣới những hình
ảnh có khi vay mƣợn của một thời kỳ lịch sử đặc trƣng,
nếu chúng ta nắm đƣợc điều duy nhất nói trên, chúng ta có
thể “đặt mình vào trong chính tƣ tƣởng của ngài 16
và bắt
gặp đƣợc sự đơn thuần trong trực giác nguyên thuỷ của
ngài” 17
. Trực giác ấy, ta có thể tóm lƣợc nhƣ sau: Làm thế
nào mà kêu xin, đón nhận và phát huy đƣợc sự biến cải do
bởi Thần Khí Thiên Chúa toàn năng và vô cùng thuần khiết,
thực hiện cho cái con ngƣời vốn ô trọc và yếu nhƣợc của
chúng ta, biến cải về cả hai mặt “thể” và “dụng” (être et
agir).
Hình ảnh tuyệt vời nhất đã giúp thánh nhân diễn tả
cái trực giác ấy là hình ảnh khúc cây rực cháy bởi lửa
thiêu. Nhờ dùng hình ảnh này nhƣ hạt nhân ở giữa, tác
phẩm Ngọn Lửa Tình Nồng đã tổng hợp đƣợc tất cả giáo
huấn của Thánh Gioan Thánh Giá. Ngay cả hình ảnh đêm
tối, tuy giàu chất tƣợng trƣng hơn nhƣng không cho thấy
rõ tính cách đơn thuần trong trực giác nguyên thuỷ của vị
tiến sĩ huyền giao cho bằng hình ảnh trên.
Đó là vấn đề sinh tử, mà quả là sinh tử, đối với
chúng ta là những thụ tạo hƣ hèn: Sống chính sự sống của
15 Ga 17,22 16 BERGSON, La pensée et le mouvant, p. 137 17 Sđd.
90
Thiên Chúa, hƣởng dụng đƣợc những tài nguyên vô cùng
phong phú nơi hoạt động của Thiên Chúa, đem cái hệ số
của toàn năng Thiên Chúa đặt trƣớc những khả năng
khiếm khuyết của chúng ta để đƣợc bội tăng, thổi lồng vào
hồn chúng ta chính hơi thở của Thiên Chúa, thực sự trở
nên những đứa con của Thiên Chúa, thông dự vào thần
tính, và hành động trong tƣ thế ấy.
Dù một số ngƣời có nghĩ thế này hay thế khác, và dù
khác nhau thế nào đi nữa, chúng ta cũng có thể nói rằng
bốn tác phẩm chính của vị huyền giao, nhƣ ngày nay
chúng ta đang có, làm thành một tổng thể đầy đủ. Hai
cuốn Đƣờng Lên Núi Cát Minh và Đêm Dày cho ta thấy,
trong cuốn thứ nhất thì trình bày nỗ lực bản thân của mỗi
tâm hồn đang tiến bƣớc hƣớng về Thiên Chúa, với sự trợ
giúp của ân sủng, đang cố gắng thực hiện sự lột bỏ; cái nỗ
lực riêng của mỗi cá nhân ấy sẽ không bao giờ hoàn toàn
xong nhƣ vẫn đƣợc ngầm chứa trong những tác phẩm kia;
cuốn thứ hai thì cho thấy tác động thanh luyện của Thiên
Chúa mà linh hồn thu nhận. Đó là hai khía cạnh, đôi khi
song hành, của cùng một giai đoạn thƣờng là đau nhức
trong đời sống tâm linh. Rồi đến cuốn Ca Khúc Tâm Linh
thì nằm trong những viễn tƣợng của cuộc “Hôn phối
huyền giao”, những viễn tƣợng hoàn toàn hƣớng về phía
ánh sáng, đi tiếp lộ trình bắt đầu từ điểm mà cuốn Đêm
Dày đã ngừng lại: Đó là tất cả vẻ huy hoàng rực rỡ của sự
kết hiệp nên một với Thiên Chúa, trong niềm vui của một
tình yêu đã đƣợc ân hƣởng ngay tự đời này. Cuối cùng,
cuốn Ngọn Lửa Tình Nồng mô tả tột đỉnh của sự kết hiệp
nên một, cái tột đỉnh mà chắc chắn không phải ai cũng đạt
tới đƣợc ở đời này, nhƣng vẫn nằm trong lộ trình đã đƣợc
phác ra ngay từ những trang đầu của cuốn Đƣờng Lên Núi
91
Cát Minh. Lộ trình này chứa đựng toàn bộ con đƣờng mà
con ngƣời nhân thế trải qua, từ khi con ngƣời ấy quyết
định tự hiến thân cho Thiên Chúa, một cách dứt khoát,
cho đến lúc tình yêu của Thiên Chúa tuôn đổ vào tâm hồn
với một cƣờng độ mãnh liệt đến mức làm cho con ngƣời
chết đi trong niềm hoan lạc không còn thuộc về cõi thế
trần này nữa. Bức hoạ “Ngọn núi hoàn thiện” trình bày
khái lƣợc tính toàn thể cũng nhƣ tính duy nhất của lộ trình
ấy một cách rất gợi hình. Có thể nói tất cả sự khai triển
của Thánh Gioan Thánh Giá đã đƣợc phác hoạ trƣớc trong
bức hình nơi trang đầu cuốn Đƣờng Lên Núi Cát Minh.
Tác giả đã vẽ ra lộ trình ấy là con người như thế
nào?
Việc Thánh Gioan Thánh Giá sống trong một môi
trƣờng đặc biệt, đƣợc đào tạo về trí dục khác hẳn chúng ta,
rồi quá khứ xa xôi của thời đại mà ngài sáng tác, tất cả
những điều đó có thể khiến chúng ta gặp khó khăn trong
lúc đọc tác phẩm của ngài. Nói nhƣ vậy có vẻ hơi lạ đối
với những ai dễ dàng vƣợt qua hình thức bên ngoài để chỉ
chú tâm tới cốt lõi thiết yếu của một học thuyết. Thế
nhƣng đó là một sự kiện cần phải đƣợc lƣu ý. Quả vậy,
trong số những ngƣời mà vị tiến sĩ huyền giao đã lôi cuốn,
rất nhiều ngƣời chƣa có đƣợc một vốn liếng trí thức căn
bản đầy đủ để gác bỏ lớp áo thƣờng tình nhân thế phủ bên
ngoài và giữ lại các chân lý mà tự bản thân chúng, vốn
không thuộc về thời gian và không còn là của riêng một
nền văn hoá này hơn là một nền văn hoá khác.
Thánh Gioan Thánh Giá là ngƣời Tây Ban Nha, một
ngƣời xứ Castilla chính gốc: Ngài sinh ra tại Fontiveros
thuộc miền cổ Castilla. Thánh nhân đã đƣa vào tác phẩm
92
mình một chút nào đó sự cuồng nhiệt và tính không khoan
nhƣợng, là tính chất đặc trƣng của xứ sở ở phía nam dãy
núi Pyrénées. Muốn hiểu rõ điều ấy cần phải thấy những
thân thể bị kéo dài ra theo chiều cao đến mức mất cân đối
va những ngọn lửa vƣơn cao mãi trong các hoạ phẩm ông
Le Greco ở Toledo đang vẽ ra trong lúc mà chỉ cách
xƣởng vẽ của hoạ sĩ có vài bƣớc, Thánh Gioan Thánh Giá
đang Chúa chịu sự thử thách khủng khiếp là bị cầm tù.
Sinh năm 1542, qua đời năm 1591, ngài là ngƣời dân
thành Castilla của thế kỷ 16, thời hoàng đế Felipe đệ nhị,
thời vàng son của nền văn học Tây Ban Nha. Nhìn từ góc
độ ấy ta dễ nhặt đƣợc trong tác phẩm của ngài những lối
diễn tả, những ví dụ cụ thể, những nhận định mà chỉ có
thể thẩm lƣợng đƣợc khi đem đặt vào khung cảnh lịch sử
thời ấy.
Tính triệt để mà Thánh Gioan Thánh Giá thừa hƣởng
của thời đại và huyết thống dƣờng nhƣ càng tăng thêm
nhiều do sự đào tạo triết học ngài hấp thụ ở đại học
Salamanca. Cái văn khiếu thích những sự biện biệt, phân
chia, mà ta thấy rõ nhất trong hai tác phẩm Đƣờng Lên
Núi Cát Minh và Đêm Dày, cái nhu cầu muốn quy tất cả
về những nguyên tắc chính yếu, vững chắc và sắc bén nhƣ
những lƣỡi kiếm thép, cái nhân sinh quan làm nền tảng
cho bố cục chung của hai tác phẩm ấy, và rất nhiều điểm
chi tiết khác cho ta thấy ảnh hƣởng của viện đại học
Salamanca thời danh đã chi phối nhƣ thế nào lên vị tiến sĩ
huyền giao.
Nhƣng xin hiểu cho điều chúng tôi muốn nói đây.
Chúng tôi không muốn gợi ý – nhƣ một tác giả hơi vội
vàng nọ đã làm khi viết về một vị thánh khác – rằng nếu
Thánh Gioan Thánh Giá là một ngƣời Pháp sống cùng thời
93
với chúng ta thì về một vài điểm, có lẽ ngài sẽ viết ngƣợc
lại điều ngài đã dạy. Cái nguyên tắc phải hoàn toàn dứt bỏ
mọi sự, mà thi sĩ của Đêm Dày đã ca ngợi và truyền giảng,
vẫn luôn có giá trị đối với mọi Kitô hữu, dù sống ở thời
đại nào và thuộc môi trƣờng nào cũng vậy. Nếu phải thay
đổi chút gì thì chỉ là nơi những ví dụ mà ngài dùng để
minh hoạ cho học thuyết của mình, là việc nhấn mạnh đến
nguy cơ này hay nguy cơ khác phù hợp với thực trạng ở
Tây Ban Nha thế kỷ XVI hơn là với thực trạng ở Pháp vào
thế kỷ XX, và nhất là nơi một điều gì đó khó định nghĩa
đƣợc, điều làm cho một tác giả suy nghĩ và diễn tả theo
một cách thức mang dấu ấn những bận tâm và những khát
vọng của thời đại mình – mà về điểm này, không hề có hai
thời đại nào trong lịch sử nhân loại lại có thể hoàn toàn
giống hệt nhau đƣợc.
Một ví dụ sau đây đủ làm sáng tỏ điều chúng tôi
muốn nói. Một số ngƣời ngạc nhiên tại sao Thánh Gioan
Thánh Giá lại chống đối dữ dằn nhƣ vậy đối với việc tôn
kính thái quá các ảnh tƣợng, chỉ thiếu chút nữa, có lẽ họ
đã cho ngài là một kẻ “bài ảnh tƣợng”.
Tuy nhiên chỉ cần một chuyến du lịch Tây Ban Nha,
khảo xét một vài tài liệu đƣợc sao chụp, hoặc đọc một số
đoạn văn miêu tả viết vào thế kỷ XVI – cuốn Đời tôi (Tự
truyện của thánh nữ Têrêxa thành Avila) sẽ cung cấp
những ví dụ tuyệt cú! – chúng ta có thể hiểu đƣợc cái trò
trẻ con (hay phải gọi là cái thị hiếu dị hợm) của những ông
những bà khoác lên các bức tƣợng những y phục chẳng
khác gì những con búp bê, phủ lên đó những vàng bạc lụa
là nặng trịch. Các ông bà ấy để phần lớn thời giờ của họ
vào việc đè bẹp các nhà nguyện dƣới những y trang đƣợc
94
lôi ra từ phòng khách và phòng khuê, những nhà nguyện
mà ở đó chẳng bao giờ họ tƣởng đến việc cầu nguyện cả!
Không có gì đáng ngạc nhiên khi thánh nhân cảm
thấy mình có lý để chống lại những tệ lạm ấy. Nếu với
tính tiết độ và đạm bạc của nghệ thuật thời nay, ta không
còn dịp thấy những lời hô hoán gay gắt nhƣ roi quất, đã
từng bùng nổ trong cuốn Đƣờng Lên Núi Cát Minh, thì đối
với chúng ta ngày nay cũng nhƣ đối với những ngƣời sống
ở Tây Ban Nha thế kỷ XVI, chân lý sau đây vẫn không
giảm bớt: Các ảnh tƣợng tất nhiên là phƣơng tiện để tôn
kính Chúa và các thánh, khích lệ lòng tôn sùng của ta, tuy
nhiên chúng chỉ là một phƣơng tiện chứ không bao giờ
đƣợc phép đứng trên tinh thần và lòng sùng kính nội tâm
mà chúng có phận sự nuôi dƣỡng.
Trong rất nhiều điểm, học thuyết Thánh Gioan
Thánh Giá sẽ lộ rõ giá trị đích thực của nó, nếu ta biết lƣu
ý đến bầu khí và những hoàn cảnh lịch sử trong đó nó ra
đời. Việc Thánh Gioan Thánh Giá cứ nằng nặc đòi ta phải
nắm chắc lấy đức tin và giáo huấn của Hội thánh trong sự
tinh ròng của nó, là một phản ứng cho thấy rõ nỗi ám ảnh
đầy lo âu của ngài trƣớc những xáo trộn gây nên bởi giáo
huấn của những ngƣời thuộc phái “Thần ngộ” (Illuminés).
Và không cần lịch sử phải nêu tên những nhà linh hƣớng
vụng dại, chỉ nguyên lời tựa của cuốn Đƣờng Lên Núi Cát
Minh và những lời hô hoán trong cuốn Ngọn Lửa Tình
Nồng cũng đủ cho ta đoán đƣợc rõ ràng khuôn mặt của
những ngƣời ấy.
Cũng nên thêm rằng cần lƣu ý đến nhân cách của vị
tác giả học thuyết này. Nhân cách ấy chẳng những mang
dấu ấn của nơi ngài sinh trƣởng phát xuất, mà chính tự
95
thân nó cũng đã có những nét độc đáo đến nỗi toàn bộ tác
phẩm đều thấy in hằn rõ nét.
Càng nghiên cứu Thánh Gioan Thánh Giá, chúng ta
càng kinh ngạc trƣớc sự phong phú lạ thƣờng. Các năng
khiếu này lại đƣợc phát huy nhờ những biến cố xảy đến
giúp ngài có dịp trở thành ngƣời dẫn đạo tuyệt hảo cho các
tâm hồn đang trên đƣờng tiến về sự kết hiệp thâm sâu với
Thiên Chúa.
Phong tƣ của một tâm hồn mẫn cảm, của một đầu óc
thông minh, lại đƣợc triển nở nhờ một nền học vấn đại học
tuyệt hảo và nhờ sự tiếp xúc ít ra là gián tiếp với những
giới trí thức và thi nhân thuộc về một thời thịnh đạt nhất
của nền văn học Tây Ban Nha. Thoạt nhìn qua thì những
năng lực ý chí có vẻ ít nổi bật hơn. Một nhà chiết tự có
nhận xét rằng: “Trong chữ viết của ngài không có nét nào
nói lên rằng: Tôi muốn”. Có lẽ tính chất mềm mỏng nhẹ
nhàng của tâm hồn ngài vốn đƣợc hoàn toàn phó thác cho
tác động của Thiên Chúa, đến độ không còn một sáng kiến
nào là không phát xuất từ Thiên Chúa, đã làm cho sự
phong phú về ý chí không đƣợc nổi bật. Tuy nhiên sự nhặt
nhiệm ngài tự đặt ra cho mình ngay từ bƣớc khởi đầu trên
Đƣờng Lên Núi Cát Minh, việc thiết lập các đan viện mới
đƣợc ngài thực hiện với những hiệu quả đáng kinh ngạc,
tài điều khiển của ngài đƣợc chứng tỏ ở mức độ cao qua
các trách vụ đƣợc giao phó, những trách vụ rất khác nhau
và đôi khi rất tế nhị, rồi rất nhiều quyết định của ngài liên
quan đến những vấn đề khác nhau trong cả một cuộc đời
có nhiều rắc rối đủ loại: tất cả những điều ấy chứng tỏ một
sự quân bình nội tâm, trong đó ý chí không hề thua kém so
với sự phân minh của óc phán đoán và sự tinh tế của cảm
tính.
96
Trên bình diện siêu nhiên, sở dĩ Thánh Gioan Thánh
Giá có đƣợc vai trò trổi vƣợt, trƣớc hết là do chính ngài đã
sống trọn vẹn những gì ngài viết cho ngƣời khác. Những
nét đầu tiên do tay ngài phóng bút, là những điều không
nhằm để cho ai khác và đòi phải có sự phong phú khoáng
đạt của thi ca, chỉ hát lên cảm nghiệm riêng của chính
mình ngài. Lời trình khai của các nhân chứng về cuộc đời
ngài đủ để thấy kinh nghiệm ấy dồi dào tràn đầy đến mức
độ nào. Chính ngài sẽ chỉ rõ sự phong phú ấy do đâu:
“Thiên Chúa là Đấng ân ban sự phong phú và ƣu việt, về
phƣơng diện những hoa quả đầu mùa của thần trí, ngài
ban nhiều ít cho những kẻ khởi đầu khai sáng, tuỳ theo
mức độ mà tƣ tƣởng và tinh thần của họ đƣợc kế tục lâu
dài hay vắn vỏi.” 18
Học thuyết và tinh thần của vị tu sĩ
Cát Minh cải tổ đầu tiên ắt phải có đƣợc sự kế tục lâu dài.
Nhiều lúc lƣợng ân tứ hải hà của Thiên Chúa ban
cho các vị thánh chỉ có thể hoàn toàn giải thích đƣợc do sứ
mạng của các vị ấy trong Hội thánh: sứ mạng soi lối cho
nhiều vị thánh khác bằng ngọn lửa đã đốt cháy chính bản
thân các ngài (Chính vì thế, chúng ta dễ có xu hƣớng nghĩ
rằng kinh nghiệm của các thánh thuộc về một loại khác đối
với kinh nghiệm của ngƣời Kitô hữu trung bình).
Nhƣng, ngoài kinh nghiệm bản thân, Thánh Gioan
Thánh Giá còn thêm vào những kinh nghiệm của rất nhiều
linh hồn khác mà ngài linh hƣớng, hoặc để rút ra từ đó
những lời khuyên dạy kẻ khác hoặc dùng chúng để kiểm
nghiệm những lời khuyên ấy cách sống động. Đó là cả
một kho tàng kinh nghiệm, một trong những kho tàng lớn
lao nhất trong lịch sử Hội thánh, mà cuộc cải cách dòng
18 Lửa 2,2
97
Cát Minh thuở ban đầu đã cung cấp cho ngài. Lúc 26 tuổi,
ngài đã có mối thâm giao với mẹ Têrêxa Chúa Giêsu.
Trọn cuộc đời, ngài cống hiến phần lớn hoạt động linh
mục của mình cho các tu sĩ nam nữ thuộc dòng Cát Minh,
và ngoài ra, còn cho tất cả những ngƣời tuy sống ngoài
khuôn khổ đan viện nhƣng vẫn khao khát đƣợc biết phần
nào về ngọn lửa huyền nhiệm mà những bài thơ của ngài
đã ca ngợi mà cũng là ngọn lửa mà ngƣời ta có thể đoán
biết đƣợc qua ánh mắt ngài.
Cả cái khả năng kỳ diệu mà ngƣời ta gọi là tài diễn
tả, ngài không thiếu. Thánh nữ Têrêxa trong cuốn “Đời
tôi”, đã nhận xét rằng việc có thể diễn tả cách rõ ràng các
ơn mình cảm nghiệm đƣợc, lại là đƣợc thêm một ơn mới
nữa. Bằng văn vần cũng nhƣ bằng văn xuôi, Thánh Gioan
Thánh Giá đã nói lên đƣợc, chẳng những các nét chính
yếu mà cả những cung bậc vi tế nhất trong bản giao hƣởng
mà Thiên Chúa đã cho ngài nghe thấy.
Chỉ khi nào tiếp xúc thƣờng xuyên và lâu dài với
những tác phẩm của vị tiến sĩ huyền giao, ta mới có thể
khám phá đƣợc tất cả những tài năng đã tạo nên những cá
tính đặc biệt vẹn toàn nơi con ngƣời ngài. Một trong
những ngƣời đầu tiên cho xuất bản tác phẩm của ngài đã
diễn tả lòng khâm phục của mình nhƣ sau: “Nếu qua tƣ
tƣởng tuyệt vời và văn phong trác tuyệt của ngài, ngƣời ta
thấy rõ ngài đã viết ra những điều ấy dƣới ánh sáng của
một trí tuệ vƣợt trên trí tuệ loài ngƣời, thì chính cái trí tuệ
đơn thuần nhân loại nơi ngài cũng không thiếu để viết ra
đƣợc những điều kín nhiệm của trời cao. Về điểm này,
ngài đã có một sự thông hiểu tuyệt vời, nhờ sự học hỏi ở
nhà trƣờng cũng nhƣ nhờ kinh nghiệm, từ trong các lãnh
vực văn chƣơng thi phú, trong việc đọc Thánh Kinh, trong
98
sự biện biệt tinh tế của kinh viện, sự thấu triệt đời huyền
giao, sự sung mãn tinh thần và tất cả mọi sự thông hiểu
đặc biệt của các thánh, mà tâm trí ngài đƣợc trang bị một
cách đặc biệt. ” 19
.
Cuộc sống, lời minh giải cần thiết cho tác phẩm
Nhƣ thế, ta hiểu tại sao cần biết qua tiểu sử thánh
nhân để có thể đi vào việc đọc tác phẩm của ngài. May
thay, đã có một cuốn tiểu sử bằng tiếng Pháp “do một tu sĩ
Cát Minh đồng thời là một nhà sử học xuất sắc viết ra”
(tức cuốn sách của cha Brunô, theo nhận xét của J.
Maritain)20
. Không cần phải ca ngợi tác phẩm ấy nữa. Đối
với những ai đang tự hỏi không biết phải chuẩn bị thế nào
để nghiên cứu tác phẩm của vị tiến sĩ huyền giao cho thật
bổ ích, chúng tôi chỉ xin khuyên nên tìm đọc cuốn tiểu sử
ấy.
Bởi vì Thánh Gioan Thánh Giá thuộc số những
ngƣời khởi sự bằng cách sống trƣớc những điều mình
giảng dạy, nhƣ nơi trƣờng hợp của chính Đức Giêsu, Chúa
chúng ta. Chúng tôi xin đƣợc phép áp dụng vào ngƣời
môn đệ, những điều mà cha Grandmaison viết về vị Thầy
chí thánh, tất nhiên là với những chuyển đổi cần thiết:
“Mặc dầu đã hết sức cố gắng ẩn mình đằng sau sứ điệp
mình mang đến, một ngôn sứ không thể nào tránh khỏi
việc xen mình một phần khá lớn vào chính những lời giáo
huấn mình truyền đạt... Do đó chúng ta có quyền mong
rằng trong sứ điệp của Đức Giêsu có thể tìm đƣợc những
19 JÉRÔME DE SAINT-JOSEPH, Introduction et avis général pour la
lecture de ces livres. 20 J. MARITAIN, Préface du SAINT JEAN DE LA CROIX du RP Bruno,
Plon, p. 1
99
mặc khải về chính thân thế của Ngài. Về điểm này, nét
độc đáo của Tin mừng chính là ở nơi sự gắn bó mật thiết,
phần lớn còn đi đến chỗ đồng hoá, giữa con ngƣời và sứ
điệp” 21
.
Tác phẩm của Thánh Gioan Thánh Giá chứa đầy
cuộc đời của ngài, dù rằng không có một dòng nào nói về
đời sống ngài. Do đó, khó mà hiểu đƣợc tác phẩm nếu
không biết đến cuộc đời của ngài, vốn là linh hồn của tác
phẩm. Baruzi đã có lý khi viết rằng: “Trong lúc những nhà
huyền giao tự thuật về chính mình có nguy cơ làm cho
chúng ta không thấy đúng điều đƣợc hình thành nơi họ
nhƣng lại vƣợt quá tầm mắt họ, thì trái lại, những vị ẩn
mình đằng sau tác phẩm lại nhờ vậy mà ghi đƣợc chân
tƣớng mình trong những nét vi tế nhất. Thánh Gioan
Thánh Giá thuộc nhóm thứ hai này. ” 22
Chắc rằng trong tiểu sử thánh nhân, ta sẽ không thấy
đƣợc điều gì khác hơn trong tác phẩm ngài. Nhƣng có một
số nét mà tính chất phi ngã (phi ngã, nếu chỉ thoạt nhìn
qua) của tác phẩm có thể để chìm vào bóng tối, sẽ nhờ tiểu
sử mà lộ rõ ra ánh sáng. Rồi chúng ta sẽ thấy, trong cuộc
sống của ngài cũng rõ ràng chẳng kém gì qua tác phẩm,
những đòi hỏi thƣờng là đem lại khổ đau của con đƣờng
thánh thiện. Và chúng ta sẽ thấy, còn rõ hơn là trong tác
phẩm, sự dịu dàng êm ái của ngài, sự tế nhị tuyệt vời của
ngài trong việc dẫn dắt các linh hồn. Thánh Gioan Thánh
Giá cũng nhƣ mọi vị thánh khác, có một quả tim mềm
chảy (mặc dù nói vậy thì tác giả Huysmans sẽ không ƣng
ý!). Làm sao không xúc động đƣợc với sự ƣu ái dịu dàng
của ngài (Có cần chăng phải thêm rằng lòng ƣu ái tự nhiên 21 DE GRANDMAISON,Jésus Christ, t. I, p. 3 22 BARUZI, op.cit., p. 228
100
ấy đã đƣợc siêu nhiên hoá, bởi vì nó không bị tiêu huỷ
song chỉ đƣợc nâng cao lên một bình diện khác?) đối với
mẹ ngài, với anh em ngài, với các nữ tu Cát Minh mà ngài
muốn tận tụy phục vụ, và ngay cả với bà già ngƣời Maure
mà chẳng một ai muốn giải tội cho. Còn đối với ngƣời nữ
muốn cám dỗ lôi cuốn ngài vào đƣờng tội lỗi, ngài rất có
thể làm nhƣ bao ngƣời khác, lấy roi mà đánh đuổi, nhƣng
không! ngài đã dịu dàng bảo cô ta rút lui sau khi đã giúp cô
ta giao hoà với Thiên Chúa.
Với một dáng dấp dè dặt trong việc giao tiếp, gần
nhƣ không có gì đáng lƣu ý, mới gặp ngài thƣờng lúc đầu
ngƣời ta không khỏi ngỡ ngàng. Nhƣng chẳng mấy chốc,
ngài để lộ tâm tình của một vị thánh, nhƣ cố tình ẩn náu
sau vẻ bề ngoài khiêm tốn; sự tốt lành của tâm tình ấy làm
cho cặp mắt đen thẳm của ngài rực sáng trên khuôn mặt
lúc nào cũng xanh xao. Một khi đã đƣợc biết ngài thì khó
lòng mà không kính mến ngài đƣợc. Ở Segovia, lúc ngài
làm tu viện trƣởng, hễ mỗi khi ngài có việc đi ra ngoài thị
trấn, dù chỉ vài giờ, lúc về, con cái ngài hễ trông thấy là ùa
chạy đến để hôn tay hôn áo choàng ngài, chẳng khác nào
nhƣ để lãnh một ơn đại xá. Nếu ai trong những ngƣời chạy
ra chào đón ngài có điều gì phiền muộn trong tâm hồn
hoặc cơ thể rã rời mệt mỏi, thì không cần đƣợc ai báo cho
biết, cha bề trên Gioan liền cầm lấy tay kẻ đang cần sự
nâng đỡ ủi an, và với một sự đồng cảm bén nhạy trƣớc nỗi
đau khổ của tha nhân, ngài nói cho ngƣời ấy niềm vui
đƣợc chịu đau khổ vì tình yêu. Tức thì, nhƣ một phép
mầu, nụ cƣời lại nở trên đôi môi trƣớc đó đã quên đi
không biết cƣời là gì nữa.
Uy tín thƣợng phong của ngài đƣợc tỏ rõ nhất là
trong việc hƣớng dẫn trực tiếp mặt đối mặt với các linh
101
hồn. Ngƣời ta chỉ mới nói với ngài đôi điều, ngài đã thấy
rõ tất cả. Quả là ngài thấu rõ các tâm hồn. Ngƣời ta đến
với ngài để thú nhận mình là không còn đủ sức chịu đựng
đau khổ nữa, thế mà khi rời ngài, ngƣời ta lại ao ƣớc đƣợc
đau khổ nhiều hơn nữa cho Đức Kitô. Ngài quan tâm đến
những gì Thiên Chúa thực hiện nơi các tâm hồn, đến nỗi
một nữ tu hèn mọn nhất – nhƣ lời khai của nữ tu trợ sĩ nọ
ở Béas đã cho thấy rõ – cũng cảm thấy đƣợc ngài ân cần
đùm bọc cƣu mang chẳng khác nào nhƣ đối với nữ tu Ana
Chúa Giêsu, ngƣời cộng sự quan trọng của thánh nữ
Têrêxa.
Những nét nhƣ thế nhiều không kể xiết và giúp ta
định rõ về chân dung ngài, và chân dung ấy chiếu sáng lên
cả những trang khắc khổ nhất của cuốn Đƣờng Lên Núi
Cát Minh.
Những ai nghiền ngẫm lâu ngày, thấm nhuần những
dòng ngài viết, sẽ có thể chứng thực về một nguồn sống
sung mãn lƣu luyến qua những trang sách mà bề ngoài
tƣởng chừng nhƣ chỉ là nặng tính giáo khoa, cũng nhƣ
nguồn sống ấy đã lƣu chuyển qua những biến cố hết sức
giàu ý nghĩa đã xảy đến trong cuộc đời trần thế của ngài.
Có rất nhiều tác giả, gồm các nhà văn học, triết học
và thần học đã làm nổi bật những nét chính yếu trong tổng
hợp học thuyết của vị tu sĩ Cát Minh Têrêxa đầu tiên. Họ
đã làm một việc rất hữu ích và đóng góp nhiều khi dày
công kẻ những đƣờng nét của bức tranh ấy. Thế nhƣng, có
lẽ phải thú thật rằng quá nhiều khi, bức tranh ấy chỉ là một
cái gì xám nhạt, một bức tranh chết. Sự nghiên cứu lý
thuyết về những nguyên tắc của đời sống tâm linh đã làm
họ quên đi cái sức sống của chúng, nhất là của những đoạn
văn miêu tả trong cuốn Ca Khúc Tâm Linh và trong tập
102
Thi Phẩm của ngài. Quả vậy, ở đây chúng ta đang đề cập
đến một điều thuộc về lãnh vực hiện sinh, khó lòng đƣa
thẳng vào khái niệm hay lồng vào những định nghĩa rõ
ràng. Thay vì phân định thành cấp, thành loại dứt khoát,
phải chăng chúng ta chỉ nên phác họa ra thực tại sống
động của ngài, một con ngƣời rất phong phú về nội tâm
nên ít khép lại trên chính mình, ngƣợc lại, luôn cảm thấy
day dứt muốn thông đạt sự phong phú ấy cho ngƣời khác.
Sự phong phú đầy sức sống ấy, có đƣợc sau khi trải qua
những cuộc lột xác đau đớn, trong một ánh sáng đầy phúc
lạc đã thôi thúc Thánh Gioan Thánh Giá đi đến chỗ cống
hiến bản thân mình đến mức độ mà một trong những khía
cạnh độc đáo nhất của các bút tích ngài và cũng là một
trong những điều có hiệu lực bồi dƣỡng nhất, là đã làm
cho các độc giả cảm nhận đƣợc sự cống hiến và trao ban
ấy cho tâm hồn họ.
Chúng tôi không có ý đem sự viên mãn về học
thuyết chứa đựng trong tác phẩm của thánh nhân để đối
kháng với đời sống mãnh liệt mà tác phẩm ấy đã chứng tỏ,
và cũng không có ý cho rằng điều thứ hai là ƣu việt hơn
điều thứ nhất. Nhƣng, thiết tƣởng, quả là một điều tai hại
nếu cứ nhấn mạnh quá nhiều về sự chặt chẽ không khoan
nhƣợng trong mặt tƣ tƣởng của tác phẩm, mà lại không
đƣa cái sức sống ấy ra ánh sáng và đặt trong cùng một sự
chú trọng với mặt tƣ tƣởng, cái sức sống thật mãnh liệt đã
gợi hứng cho việc trƣớc tác và lan tràn thấm đƣợm đến cả
cách trình bày diễn đạt của tác phẩm.
Khó có thể nói cho đủ đƣợc rằng sự sống đã đem lại
sinh khí đến mức nào trong những biểu hiện cao vời nhất
trong tƣ tƣởng của Thánh Gioan Thánh Giá – sự sống
đƣợc hiểu dƣới mọi dạng thức: sức sống của thứ cảm năng
103
(sensiblité) nhạy bén nhất, sức sống của tâm tình hữu ý tự
nhiên (affectivité volontaire naturelle) phong phú nhất,
sức sống của thứ tình yêu siêu nhiên nồng nhiệt nhất – và
đồng thời phải tránh trộn lẫn ba lãnh vực ấy, dù rằng nhiều
khi chúng kết hiệp với nhau rất khắng khít nhuần nhuyễn.
Cái sức sống đa dạng đó bộc lộ rõ ràng trong tác phẩm của
thánh nhân với những đoạn dài đặt trong vòng ngoặc đơn,
tách khỏi mạch văn, làm vỡ tung các luận lý học, những
đoạn văn đã lừng danh nổi tiếng. Sự sống ấy nhƣ trào vọt
ra nơi những lời cảm thán biểu lộ lòng ƣu ái siêu nhiên
mặn nồng nhất: “Ôi! giá nhƣ những kẻ theo đƣờng tâm
linh biết đƣợc rằng khi họ không biết dứt bỏ đi lòng ham
muốn những điều ấu trĩ chẳng đáng giá gì, thì họ đã đánh
mất đi những điều quý giá nhƣờng bao, và mất đi một kho
tàng tâm linh phong phú nhƣờng bao!...” 23
; sức sống ấy
có thể cảm nhận nơi việc sử dụng một số từ ngữ đƣợc ƣa
chuộng nào đó, trong việc lựa chọn một số ngôn từ biểu
tƣợng đã trở thành những lời tuyên xƣng một niềm tin
sống động mãnh liệt: Ví dụ nhƣ trong đoạn đầu của lời tựa
cuốn Đƣờng Lên Núi Cát Minh khi tác giả nói đến những
“Bóng tối mịt mùng và những nỗi lao lung về mặt tâm linh
cũng nhƣ về mặt thế trần mà những tâm hồn diễm phúc ấy
thƣờng phải quen gánh chịu...”24
. Ấy là ở đây chúng tôi
chƣa nói đến sự sống đƣợc diễn tả trong những trang trữ
tình nhất và trong các thi phẩm. Những suy tƣ trên đây
cần phải đƣợc hiểu về toàn bộ tác phẩm, đến cả những
điều xem ra trừu tƣợng và khô khan nhất, bởi trong tác
phẩm ấy sự sống tuôn tràn và làm cho tất cả trở nên sinh
động linh hoạt.
23 1Lên 5,4 24 Lên, đầu lời tựa
104
Phải đọc Thánh Gioan Thánh Giá như thế nào?
Chắc chắn, nhƣ đã từng xảy ra, có thể ngƣời ta chỉ
nhìn thấy nơi Thánh Gioan Thánh Giá một nhà trí thức cố
chấp, gắng hết sức mình để đem ra một nguyên tắc lý giải
cho kỳ đƣợc những kinh nghiệm vốn hết sức xa lạ với
những nguyên tắc. Thế nhƣng những ai đã thoáng thấy,
qua những điều phân tích trên đây, rằng Gioan Thánh Giá
không phải là một nhà thuần tuý trí thức, thì cũng sẽ cảm
thấy đƣợc rằng đọc tác phẩm của ngài không phải là một
công việc của trí não mà thôi. Một thái độ nội tâm nào đó,
kể cả một sự chính trực nào đó về luân lý, là điều kiện cần
thiết phải có. Cần kíp phải tìm đƣợc sự hài hoà trƣớc khi
bắt đầu đọc những trang cháy bỏng của tác phẩm Đêm
Dày hay của tác phẩm Ngọn Lửa Tình Nồng, nếu muốn
thọc sâu đƣợc vào sự phong phú sống động của chúng.
Chỉ có một sự đồng điệu nào đó trong đời sống tâm linh
mới có thể giúp đọc tác phẩm của thánh nhân mà nắm bắt
đƣợc những làn sóng phát ra từ những rung cảm của tâm
hồn ngài.
Dĩ nhiên phải bắt đầu đọc Thánh Gioan Thánh Giá
với tất cả khả năng của mình. Ngài đã báo trƣớc cho ta
biết ngài muốn đem lại cho ta một học thuyết súc tích.
Ngài trao cho thế nào, ta phải lãnh nhận thế ấy. Nơi ngài,
ta sẽ tìm thấy một nền tƣ tƣởng đƣợc xây vững chãi trên
tảng đá trí tuệ, tƣơng tự nhƣ thành Segovia đƣợc xây dựng
trên bệ đá của nó. Đứng trƣớc những ngả rẽ lớn, ngài nhất
quyết nêu lên những nguyên tắc soi đƣờng chỉ lối và cho
ta thấy nguồn ánh sáng duy nhất còn lại, nếu ta dấn bƣớc
vào cuộc đăng sơn diễn ra trong bóng hoàng hôn hoặc
trong bóng đêm đen đang phủ xuống. Chỉ dùng có một
chữ, ngài nhắc đến toàn thể một bộ tổng luận thần học về
105
tín lý hoặc luân lý. Và muốn hiểu đƣợc một chƣơng nào
đó, cần phải có trong tâm trí tất cả giáo huấn tín lý về sự
cƣ ngụ của Thiên Chúa Ba Ngôi trong tâm hồn những
ngƣời công chính hoặc về các nhân đức hƣớng thần.
Chẳng hạn, có cần phải lƣu ý đến tầm mức cực kỳ
quan trọng của điểm chuyển tiếp trên lộ trình, nơi mà sau
quãng đƣờng thênh thang của việc suy niệm, ngƣời ta
bƣớc sang ngõ hẹp của nguyện ngắm chiêm niệm? Không
phải là chuyện rẽ sang lối khác ở một ngã bình an! Quả
thật, thánh nhân không phủ nhận rằng có thể có một con
đƣờng khác, nhƣng ngài không chỉ ra cho chúng ta con
đƣờng khác ấy, ngài chỉ nhấn mạnh đến thời điểm quyết
định, là lúc quãng đƣờng rộng lớn chấm dứt, không đƣờng
đột bất thần, nhƣng cứ thu hẹp dần, để rồi phải tiếp tục
cuộc hành trình trên một ngõ hẹp và cũng có thể là trên
một lối mòn lờ mờ. Chính ở lúc này, ngài đứng trên cả hai
quan điểm khác nhau, trình bày về bình an dấu hiệu để
nhận ra điểm chuyển tiếp ấy. Ngài dừng lại, bàn rộng và
giải thích, để nhấn mạnh một cách đầy ý nghĩa, vì đây chính
là cái bản lề chủ yếu trong học thuyết ngài.
Một điều khác cũng đòi chúng ta phải có một cặp
mắt nội tâm sắc bén mới nắm bắt đƣợc, một khía cạnh có
mặt thƣờng xuyên trong học thuyết ngài, và trong thực tế
đã tỏ ra là một trong những điều rất có hiệu năng. Chúng
ta muốn nói đến điều mà thánh nhân không ngừng nhấn
mạnh, là giá trị tích cực của những sự từ bỏ mà ngài đòi
hỏi, cũng nhƣ của những cơn thử thách phải chịu đựng với
tinh thần thuận phục mà ngài đã mô tả. Trong truyền
thống huyền giao của Hội thánh, các bậc thầy cũng đã
nhấn mạnh đến sự từ bỏ cần thiết cho ngƣời phải theo
chân Đức Kitô trên đƣờng vác thánh giá. Và nếu đây đã là
106
một điều chung cho tất cả mọi Kitô hữu, thì đối với những
ai muốn bƣớc theo chân Chúa gần sát hơn lại càng khẩn
thiết hơn. Trƣớc Thánh Gioan Thánh Giá, cũng đã có
nhiều tác giả nói đến những đau khổ bên trong cũng nhƣ
bên ngoài của những ngƣời đang đi trên con đƣờng dẫn tới
sự kết hiệp thiết thân với Thiên Chúa, bởi vì trên con
đƣờng ấy, chủ yếu phải chịu đựng nhiều hơn là hành
động. Bao nhiêu lần các giáo phụ cũng nhƣ các nhà chú
giải đã dùng sách Gióp để mô tả con đƣờng dẫn đến bàn
tiệc của khôn ngoan.
Thế nhƣng, theo chúng tôi biết, chƣa từng có ai nhƣ
ngài, đã làm sáng tỏ đƣợc rằng chỉ một sự từ bỏ hữu ý rất
nhỏ đủ làm phong phú rất nhiều, và những sự tƣớc lột nội
tâm đau đớn nhất tự nó có sức làm tăng trƣởng sự sống.
Thánh Gioan Thánh Giá rất nhạy cảm về các mối phúc
của Tin mừng. Ngay từ lời tựa của cuốn Đƣờng Lên Núi
Cát Minh, ngài đã nhắc nhở cho các linh hồn mà nơi họ
“tất cả chỉ toàn là đau đớn” 25
bên trong cũng nhƣ bên
ngoài, để họ nhớ rằng họ chính là những ngƣời “có phúc” 26
. Ngài nói với họ nhƣ thế, không phải trong một sự hƣng
phấn bệnh hoạn phát xuất tự một xu hƣớng “hiếu khổ”
không lành mạnh – vì trong thực tế quả là có một thứ
thích thú trong đau khổ nhƣ thế và cần phải hết sức tránh
– nhƣng là để chỉ cho họ thấy rằng sự đau khổ nơi họ chỉ
là mặt trái của bức tranh, là cái giá đau đớn cần phải trả
cho một công trình mài giũa rất tốt đẹp, đó là tiếng nổ lốp
đốp mù mịt khói và khét lẹt của khúc gỗ, sở dĩ ứa rịn
những dòng nhựa đen đỉu, nhƣ ứa lệ, chỉ là vì nó đang bắt
đầu biến thành chất lửa. “Tôi đã tự đánh mất mình, nhƣng 25 1Đêm 2 26 1Lên, lời phi lộ
107
tôi đã đƣợc”, đó là lời ca của tình nƣơng trong cuốn Ca
Khúc Tâm Linh, cho thấy rõ những phong phú của sự từ
bỏ. Có lẽ những lời cảm thán trong cuốn Ngọn Lửa Tình
Nồng lại còn rõ rệt hơn nữa: “Ôi cái ấn lửa thật êm đềm!
Ôi vết thƣơng sao mà thú vị! Ôi bàn tay thật mềm! Chỉ
một cái chạm nhẹ mà đã nếm đƣợc cõi đời đời, hoàn lại
hết mọi món nợ ! Ngƣời vừa giết em vừa đổi chết thành
sống” 27
. Trên đƣờng tu đức, chính cái nghịch lý của một
sự sống mà lại do sự chết đem đến, là điều làm nền tảng
cho việc sử dụng đến phƣơng pháp “thần phi”, và trong
những thử thách tiến xa nhất của đời huyền giao, nó chiếu
rõ cho thấy cái lao khổ mà các linh hồn phải đón chịu vì
tình yêu, đau đớn nhƣ một cuộc trở dạ nhƣng cũng đem lại
sự khai hoa nở nhuỵ nhƣ thế. Ai hiểu đƣợc điều đó là đã
lãnh hội đƣợc một trong những khía cạnh chủ yếu căn bản
nhất của học thuyết Gioan Thánh Giá, và cũng là đã gặp
đƣợc một nguồn sáng phong phú vào bậc nhất để soi đƣờng
dẫn lối cho mình.
Không thiếu gì những lý do khác đòi ngƣời đọc
Thánh Gioan Thánh Giá phải tập trung tất cả nỗ lực trí tuệ
của mình. Và có lẽ chính vì thiếu sự tập trung trí tuệ ấy mà
trong lúc thực hiện, nhiều ngƣời đã phạm một số sai chệch.
Và đó có thể là lý do tại sao nhiều vị linh hƣớng tỏ ra dè dặt
e ngại về việc đọc Thánh Gioan Thánh Giá.
Tính triệt để, nét đặc thù của vị tiến sĩ huyền giao mà
chúng tôi đã nhấn mạnh, đƣợc thể hiện trong các tác
phẩm, qua những nguyên tắc tuyệt đối không khoan
nhƣợng và qua sự quyết định dứt khoát, mà đẩy đến cùng
thì, nếu không đƣợc lƣu ý trƣớc, có nguy cơ là sẽ vội vã
27 Lửa, 22
108
đem ra áp dụng một cách sai lạc. Cần nhớ rằng, các hiểu
biết khoa học về đời sống tinh thần, dù là có tính cách áp
dụng thực tiễn đi nữa, cũng không thay thế cho đức khôn
ngoan thận trọng đƣợc. Sự hiểu biết khoa học dạy ta
những nguyên tắc phổ quát, chỉ có đức khôn ngoan mới
đủ tƣ cách để chỉ rõ trong từng trƣờng hợp cụ thể cá biệt
phải quyết định lựa chọn nhƣ thế nào. Cũng cần biết chính
Thánh Gioan Thánh Giá cũng thƣờng thận trọng đƣa ra
những hạn chế và đề phòng đối với tính triệt để của ngài:
“Nhƣng cần lƣu ý rằng, về vấn đề này, mặc dù đã bao lần
chúng tôi nói rõ phải lìa bỏ chúng (những điều hiểu biết
tâm linh minh bạch nhờ đƣờng lối siêu nhiên) và các vị
linh hƣớng đừng hƣớng các linh hồn về những điều ấy,
cũng đừng tỏ ra khinh dể họ, khiến họ bị co quắp lại và
không dám thổ lộ ra nữa; nếu ngăn cản họ không đƣợc
bày tỏ ra, thì sẽ tạo dịp cho họ rơi vào nhiều điều có hại...” 28
. Cuối cùng, cần phải đọc hết những đoạn viết khác nhau
bàn về cùng một vấn đề, nếu muốn nắm đƣợc toàn bộ tƣ
tƣởng của thánh nhân. Mọi sự sai lệch hầu hết đều bắt
nguồn từ một cái nhìn phiến diện và rời rạc từng mảnh.
Đó là lý do đƣa những nhà giải thích đến chỗ có những lập
trƣờng hoàn toàn trái ngƣợc nhau về cùng một vấn đề, vì
họ đã không xem xét cho hết tất cả những đoạn cùng đề
cập đến vấn đề ấy.
Tóm lại, không nên quá chạy theo các nguyên tắc mà
quên đi những châm chƣớc tinh tế trong việc đem ra thực
hành cụ thể; nhƣng cũng không vì quá thiên về mặt cụ thể mà
bỏ quên những nguyên tắc không thể vi phạm đƣợc.
28 2Lên 22
109
Vì những lý do ấy, và còn những lý do khác nữa,
chúng ta cần phải vận dụng hết khả năng trí tuệ của mình
mỗi khi đọc Thánh Gioan Thánh Giá.
Nhƣng đôi lúc con tim lại biết đƣợc những điều mà
lý trí không nắm bắt đƣợc, do đó, cần phải đọc Thánh
Gioan Thánh Giá với tất cả con tim mình. Con tim ở đây,
chúng ta tuyệt không định nói đến một thứ cảm tính mơ
hồ nào đó, nhƣng là con tim theo nghĩa của Pascal, và
đúng hơn, theo nghĩa của Thánh Kinh, tức là cái năng
khiếu giúp ta biết đƣợc một cách trực giác nhờ phần ƣu
việt nhất của lý trí, đƣợc những động lực thuộc về tâm
tình thúc đẩy mà vƣợt ra khỏi đƣợc những giới hạn trong
khả năng cố hữu của nó, và nhờ đó mà chúng ta nhƣ có
đƣợc một thứ linh tính giúp đi vào một sự hoà điệu đồng
cảm sâu xa với điều chúng ta muốn tìm hiểu. Có những
lúc, dành cho con tim vai trò chính yếu số một lại là điều
hay. Quả vậy, kinh nghiệm cho thấy rõ điều đó. Ta tìm
đƣợc rất nhiều chứng từ trong những lời trình khai của các
môn sinh đầu tiên của ngài, và chắc rằng không thiếu
những môn đệ ngày nay của ngài cũng có thể làm chứng
đƣợc rằng: Những trang nồng nhiệt của vị thánh đã tận
tình yêu mến tình yêu nhƣờng ấy và đã ca ngợi tình yêu
cách tuyệt vời, có thể giúp cho ngƣời đọc cảm nghiệm
đƣợc một sự nâng đỡ nhƣ chạm đến tận tâm hồn, giữa
những lúc họ bị thử thách khắc khoải, một sự nâng đỡ có
tác dụng tốt lành hơn bất cứ lý luận nào. Vì, nhƣ chúng tôi
đã nói trên kia, trong tác phẩm của Thánh Gioan Thánh
Giá có cả chính cuộc đời của ngài và chính sự sống của
ngài ở đó. Bất cứ ai đến với ngài không chỉ với tất cả trí
tuệ thôi mà còn với cả con tim nữa, sẽ đón nhận đƣợc ảnh
hƣởng của một con ngƣời vốn không phải chỉ là một văn
sĩ đất Castilla thuộc về thời vàng son của nền văn minh
110
Tây Ban Nha mà còn là của một thánh nhân luôn cúi nhìn
các môn đệ mình, cả những ngƣời hèn mọn nhất, đang đọc
sách của ngài trong trầm ngâm thinh lặng và không phải
chỉ đọc với trí óc, ngài cúi nhìn để dạy cho họ cái khoa
học mà ngài có sứ mạng phải truyền đạt.
Nơi ngài, cũng nhƣ nơi tất cả những ai đã gói trọn
cuộc sống mình vào tác phẩm, ngôn từ chẳng khác gì
những bí tích của chính sự sống đã gợi hứng cho tác phẩm 29
. Nếu có những lúc chúng ta đọc mà không hiểu đƣợc
thật rõ ràng, cũng không quan hệ lắm. Chính ngài cũng đã
lƣu tâm bảo cho ta biết trƣớc điều ấy, trong lời tựa cuốn
Ca Khúc Tâm Linh. Những lúc ấy, ít ra vẫn có một sự tiếp
xúc giữa hai tâm hồn, một sự chuyển thông sức sống, và
có thể chờ nhận đƣợc mỗi khi đọc tác phẩm của Thánh
Gioan Thánh Giá, cái lợi ích sẽ không chép ra đƣợc trên
các phiếu ghi nhƣng sẽ nhập thể vào chính cuộc sống
chúng ta và biến thành máu huyết của chính linh hồn
chúng ta.
Ai mà lấy làm ngạc nhiên khi chúng tôi nhấn mạnh
đến yếu tố không thuộc hẳn về trí tuệ, cần có trong việc
đọc tác phẩm một vị Tiến sĩ Hội thánh, thì sẽ không hiểu
đúng đƣợc đặc tính riêng trong những bút tích của vị
thánh tiến sĩ ấy. Ngay trong cuốn Đƣờng Lên Núi Cát
Minh là tác phẩm có tính cách giáo trình nhất, ngài cũng
không phải đã viết một giáo án để dạy ở lớp. Ngài đã động
29 Từ đó mà có điều đã quả quyết ở trên: “Bất cứ ai đã đọc thánh Gioan
Thánh Giá và tự kể mình đã thực sự trở nên môn đệ ngài..,”. Sẽ không thể
thực sự hiểu đƣợc giáo lý của ngài, nếu không cố gắng theo giáo lý ấy mà
sống. Cũng từ đó mà ngƣời ta thƣờng ghi nhận rằng, một đoạn nào đó có
thể đã đọc nhiều lần nhƣng sau khi đã có đƣợc một số kinh nghiệm cá nhân,
đem đọc lại bỗng thấy thêm rất nhiều ý nghĩa.
111
lòng thƣơng đến những tâm hồn chỉ vì thiếu ngƣời hƣớng
dẫn mà phải dậm chân tại chỗ hoặc bị lạc đƣờng, trong lúc
lẽ ra họ đã có thể để lại những kho tàng cho Hội thánh.
Phải chăng có những tâm hồn chứa đầy những tài
sản tâm linh phong phú, chẳng khác gì những chiếc
thƣơng thuyền đến từ chân trời Ấn độ huyền thoại. Thế
mà những con thuyền ấy, chỉ vì một cái gì đó chẳng đáng
vào đâu, lại phải đứng yên. Không đành để họ bị kẹt cứng
nhƣ thế, thánh nhân cầm bút viết để đƣa họ tiến lên một sự
hiến thân hoàn toàn hơn, đạt tới một sự sống viên mãn
hơn. Chính sự quan tâm đến những con ngƣời sống thực
mà ngài nhắm tới, đã tạo ra phong cách viết văn của ngài.
Đƣơng nhiên là ngài biết sự phân biệt cổ điển các ân tứ
của Thánh Thần, và không quên nhắc đến điều ấy một đôi
lúc. Thế nhƣng, phân loại các yếu tính nhờ các dị biệt đặc
thù, không phải là công việc của ngài. Các ân tứ của
Thánh Thần có tác động một cách đơn thuần trong chúng
ta không? Có tuân theo một quy trình thăng tiến lớp lang
gần nhƣ ngoan ngoãn không? Hay là, đúng sự thực hơn,
đời sống tâm linh là một phức hợp của những tác động
siêu nhiên trong đó nhiều ân tứ, chƣa kể các nhân đức,
cùng vận hành một lúc? Do đó, chúng tôi thiết nghĩ, nếu
muốn rằng bằng mọi giá phải đem những mảng đời sống
thực mà Thánh Gioan trao lại cho ta, phóng chiếu lên cái
mặt phẳng của các yếu tính đƣợc minh định trong khoa
thần học lý thuyết, thì quả là một điều rất khó nếu không
muốn nói là sẽ làm chúng bị biến dạng! Thánh nhân đã sử
dụng khoa thần học lý thuyết, nhƣng lại muốn chủ tâm
vƣợt xa hơn. Ngài không ngừng lại ở bất cứ điểm nào
thuộc về lý thuyết suy tƣ. Ngài nhƣ bị chi phối bởi một
bận tâm duy nhất: Không phải suy luận thuần lý nhƣng là
112
thực hiện, và giúp những ai đến với ngài, đến lƣợt họ cũng
thực hiện, và giúp thực hiện những gì mà chính ngài đã
kinh qua.
Trong cái quan điểm của ngài nhƣ thế, ngài tỏ ta
quan tâm đến một số khái luận thần học, và khi cần, cũng
quan tâm đến cả những khái luận triết học nữa. Có những
khái luận đã là cơ hội bằng vàng cho các nhà thần học lý
thuyết đua nhau biện bác và tranh luận, thì ngài lại gần
nhƣ không hề nhắc tới. Thánh Gioan Thánh Giá có vẻ nhƣ
đã lãng quên những tranh luận kiểu “đành vậy, thế nhƣng”
mà xƣa ngài đã từng tham dự, về vấn đề cấu trúc mô thức
của thần tính. Trái lại, có những khái luận, mà ngay cả
những ngƣời lạc giáo cũng không phi bác và không hề gây
tranh chấp giữa các trƣờng phái thần học, nhƣng nội dung
có trực tiếp liên quan đến đời sống tâm linh, thì lại đƣợc
ngài viết. Những vấn đề nhƣ: Sự cần thiết của ân sủng, vai
trò của các nhân đức hƣớng thần, sự thuận phục của linh
hồn dƣới sự điều hành các ân tứ do Chúa Thánh Thần, thì
luôn luôn đƣợc ngài đề cập, ít nhất cũng một cách mặc
nhiên.
Về phƣơng diện thần học, xin đƣợc lƣu ý đến một
khía cạnh khác trong cung cách của thánh nhân. Thay vì
tìm hiểu những thực tại siêu nhiên trên bình diện tĩnh tại,
ngài chú trọng đến khía cạnh tiềm năng triển nở của các
thực tại ấy. Tính năng động của sự sống Thiên Chúa trong
linh hồn chúng ta, điều mà khoa thần học lý thuyết thƣờng
sao nhãng, lại là một trong những khía cạnh phong phú
nhất đáng cho ta nghiên cứu. Trong những đoạn mà Thánh
Gioan Thánh Giá nói đến ân sủng, ngƣời ta có cảm tƣởng
nhƣ ân sủng không chỉ là một thực tại linh hoạt sống
động; dƣới ngọn bút của ngài, ân sủng trở thành một nhân
113
vật thực sự. Để nói về sự thông dự vào đời sống Thiên
Chúa, điều mà Thiên Chúa mong muốn còn hơn cả chúng
ta và đã thực hiện cho linh hồn chúng ta, thánh nhân đã
dùng một kiểu nói đầy hƣơng vị và đầy sự sống: “la
amorosa madre de la gracia de Dios” (bà mẹ yêu thƣơng
chiều chuộng, tức là ân sủng của Thiên Chúa; ân sủng của
Thiên Chúa khác nào ngƣời mẹ hiền âu yếm yêu thƣơng
chiều chuộng)30
. Trong những câu nhƣ thế là cả một dòng
máu huyết chuyển lƣu.
Kiên trì nghiên cứu phân tích chi tiết để rồi lại tổng
hợp (vì không phân tích thì không thể tổng hợp đích thực),
làm thế nào nêu lên đƣợc cách rõ ràng cái sức sống mãnh
liệt đang dào dạt trong tác phẩm của thánh nhân là cả một
công trình rất lý thú, đòi hỏi phải có năng khiếu của một
ngƣời vừa là một nhà phê bình văn học, một nhà tâm lý
học, một nhà thần học và phải nhiều năng khiếu khác nữa,
nhƣng nhất là đòi hỏi phải có một con tim và một tâm hồn.
Chỉ đứng xem nhƣ một khán giả thì chẳng bao giờ làm
đƣợc cho ngƣời khác hiểu Thánh Gioan Thánh Giá. Phải
nhập vai nhƣ một diễn viên.
Cái khía cạnh thiết yếu cho sự sống trong tác phẩm
của thánh nhân, nếu muốn đem trình bày thành bài bản
văn chƣơng thì cần phải có một ngọn bút không non nớt;
nhƣng nếu chỉ muốn đón nhận đƣợc sự sống ấy với một
tâm hồn thuần khiết, thì không phải cần đến những tài
năng phi thƣờng. Kinh nghiệm chứng tỏ điều ấy. Chúng
tôi nghĩ rằng trong việc đọc tác phẩm của Thánh Gioan
Thánh Giá, điều hay nhất cần phải huy động là cái trực
giác ấy, nhƣ một cái viền bao quanh tâm trí chúng ta, rồi
30 1 Đêm 1
114
“con tim” sẽ làm cho năng lực của tâm trí đƣợc tăng thêm
hết mức. Nhƣ thế, chúng ta ở trong lãnh vực trí thức thuần
lý. Chúng ta ở trong một lãnh vực phức tạp mà ngày nay
đã đƣợc các nhà triết học, các nhà thần học và nhất là các
nhà lý giải Thánh Kinh thuộc về lĩnh vực này, một lãnh
vực mà trong đó ý chí bị lôi cuốn và trái tim bị ràng buộc
bởi dây luyến ái, thì lại thƣờng trông xa và biết chắc hơn
là một đầu óc mẫn tiệp nhất.
Trƣờng hợp thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu minh
chứng một cách hùng hồn cho những ý kiến trên đây. Nếu
chỉ dựa vào một số câu ít ỏi mà thánh nữ trích dẫn của
Thánh Gioan Thánh Giá, thì khi đọc “Câu chuyện của một
tâm hồn” hoặc các “Thủ bản tự thuật”, làm sao mà ngờ
đƣợc rằng Têrêxa đã đọc, đọc đi đọc lại và đã “sống” tác
phẩm của ngƣời cha phúc đức của ngài? Sự tƣơng đồng
đáng kinh ngạc giữa hai ngƣời đã bị che khuất bởi tính
cách độc lập tuyệt đối trong cách dùng từ ngữ của thánh
nữ, và bởi thánh nữ hoàn toàn không chút bận tâm về việc
vạch lại những điều mấu chốt căn bản trong lộ trình của
Thánh Gioan Thánh Giá.
Theo một mặt nào đó, chứ không phải về hết mọi
mặt, chúng ta, những con ngƣời ở thế kỷ XX, nếu muốn
đọc tác phẩm của Thánh Gioan Thánh Giá cách thật hữu
ích, thì phải đọc bằng ngôn ngữ của thế kỷ XX. Đồng thời
còn phải biết nghĩ đến việc để cho Thánh Thần muốn thổi
đƣa đi đâu mặc ý nữa. Đừng cố ép đƣa đời sống tâm linh
của chúng ta đóng vào khung của một cuốn sách, dù là
sách do một vị Tiến sĩ Hội thánh viết ra. Nhất là đừng cố
gắng bắt chƣớc một cách giả tạo, những điều mà chúng ta
chỉ có thể đón nhận một cách khiêm nhƣờng. Thánh nữ
Têrêxa Hài đồng Giêsu xin Thiên Chúa hãy thực hiện nơi
115
ngài những điều ngài đã đọc. Và, trên giƣờng chết, ngài
xác nhận rằng mọi ƣớc vọng của mình đã đƣợc thực
hiện...31
Dù cho có thuộc lòng cuốn Đƣờng Lên Núi Cát
Minh đi nữa thì cũng chẳng ích gì, nếu nhƣ không có sự
uyển chuyển trong lòng ao ƣớc sống điều mình đọc theo
một cung cách của riêng mình thực sự, và lãnh hội trong
sự tự hiến nội tâm, chứ không phải là gồng mình rập
khuôn một cách giả tạo. Cũng không ai cấm ta làm theo
cách thánh nữ Têrêxa đã làm, là ghi chú bình giải vào
những vần thơ của Thánh Gioan Thánh Giá, những lời chú
giải ấy tất nhiên là khiêm tốn hơn nhiều nhƣng thật sự là
của chính mình. Trong sự đơn sơ của nó, tác phẩm của
thánh nữ Têrêxa gần gũi với tác phẩm của vị tiến sĩ huyền
giao hơn rất nhiều so với các công trình của nhiều nhà
uyên bác.
Trong các bút tích của thánh nhân, vốn cũng có
“thần khí và sự sống” tựa nhƣ trong những lời của Đức
Giêsu Kitô (đƣơng nhiên là không đƣợc quên sự cách
biệt), vị thánh nữ, với một đầu óc minh mẫn, đã nắm bắt
đƣợc điều cốt lõi của đời sống tâm linh và thánh nữ đã
múc uống đƣợc tràn trề cái nhựa sống mà ngài tìm thấy ở
đó thật dồi dào vô tận.
Ngay khi khởi đầu đọc tác phẩm của thánh nhân,
thánh nữ đã cố tìm sự hoà nhịp. Và thực tình, ngài đã làm
đƣợc việc ấy khá dễ dàng. Qua bao nhiêu năm, thánh nữ
đã đƣợc nuôi dƣỡng bằng việc đọc tác phẩm của thánh
nhân, đến nỗi đã có thể đọc thuộc lòng hằng trang trọn
vẹn. Đến khi thôi không đọc nữa, vì không còn cần thiết,
31 Những lời sau hết
116
thánh nữ vẫn tiếp tục sống càng ngày càng sâu xa hơn
những điều mà ngài thôi không đọc nữa.
Thật kỳ diệu khi phát hiện ra sự duy nhất về tiết tấu
giữa hai cung nhạc ấy: cung nhạc của vị tiến sĩ thành
Castilla thế kỷ XVI thì trầm hùng hơn, cung nhạc của vị
nữ tu tầm thƣờng ngƣời Pháp thế kỷ XIX thì duyên dáng
hơn. Cung nhạc thứ hai giả thuyết rằng cung nhạc thứ nhất
đã ra đời trƣớc thì nó mới có đƣợc, nhƣng nó không sao
chép lại cung nhạc thứ nhất. Tuy cùng một luồng hứng
khởi, nó vẫn hoàn toàn giữ đƣợc tính độc đáo.
Về hai vị thánh này, ta có thể liên tƣởng đến một bản
nhạc tấu của một nhạc sƣ phong cầm lừng danh. Sau khi
nhạc đề thứ nhất đƣợc trình tấu, lặp lại qua nhiều cung
giọng khác nhau, nhạc đề thứ hai xuất hiện, thoạt nghe thì
nhƣ khác biệt xa lạ so với nhạc đề thứ nhất, nhƣng rồi
ngay sau đó, nhạc sĩ trình tấu hai nhạc đề cùng một lúc:
Mỗi nhạc đề với cung bậc riêng nhƣng cả hai đều đƣợc
xây dựng theo cùng một tiết tấu, tƣơng đồng một cách
tuyệt diệu đến nỗi thật là kỳ thú mà cảm thấy rằng, tuy
khác biệt, cả hai lại quyện vào nhau trong một sự đồng
nhất siêu đẳng. Đôi tai và tâm hồn ngƣời nghe thật là vui
thoả thích thú: âm thanh cụ thể khác nhau, nhƣng hai giai
điệu dị biệt lại hoà nhập vào nhau trong cùng một tiết tấu.
Thánh Gioan Thánh Giá và thánh nữ Têrêxa Hài
đồng Giêsu cùng đƣợc một tiết tấu duy nhất lôi cuốn trên
con đƣờng Tình yêu, nhƣng bản sắc riêng của mỗi ngƣời
vẫn đƣợc tôn trọng.
Những suy tƣ uyên thâm nhất về sự thánh thiện có
thể vẫn làm ta dửng dƣng, nhƣng nếu trên đƣờng leo núi
mà gặp đƣợc một vị thánh thì chúng ta sẽ đƣợc nắm tay
117
kéo lên, nhƣ thể bất chấp cả ý muốn của chúng ta. Đối với
nhiều ngƣời trong chúng ta, đã quá mệt mỏi với sức nặng
của một cuộc đời sống trong từ bỏ, Thánh Gioan Thánh
Giá quả đã là một Ximôn ngƣời Kyrênê đến giúp đỡ thật
bất ngờ. Khi đƣợc may mắn gặp ngài, một cuộc kỳ ngộ
vang dội từ đáy tâm hồn, thì dù quả tim ta rƣớm máu và ta
tƣởng chừng nhƣ không còn sức cất bƣớc nữa, ta vẫn có
thể tiếp tục cất bƣớc đi lên, nếu không hoan ca, thì ít nhất
cũng không còn càu nhàu rên rỉ nữa.
Nhờ tác phẩm của ngài, Thánh Gioan Thánh Giá vẫn
tiếp tục thực hiện những điều ngài đã làm khi còn sống.
Về mặt ảnh hƣởng nhân loại của ngài, cũng nhƣ về mọi
mặt khác, ngài là ngƣời đầu tiên đã sống trọn vẹn ơn gọi
của dòng Cát Minh Têrêxa. Con cái của ngài chỉ có thể
sống ơn gọi ấy trong mức độ mà họ đƣợc cảm hứng theo
gƣơng sáng của ngài.
Thánh nhân có đủ tầm cỡ để đảm trách những toà
giảng của các vƣơng cung thánh đƣờng cũng nhƣ những
bục giảng của các đại học nổi danh nhất. Cả hai việc ấy,
khi cần đến, ngài cũng đã làm. Tuy nhiên, ơn gọi tu sĩ cải
tổ của ngài thu hút ngài đi vào một lối đi ít trổi trang hơn,
trong đó phƣơng cách nhân loại dự phần ít hơn. Những
điều ngài giảng dạy về việc từ bỏ bản thân và từ bỏ tất cả
những gì không phải là Thiên Chúa, thì chính ngài đã thực
hiện rất nghiêm chỉnh! Có lẽ đó là lý do tại sao trong cuộc
đời cũng nhƣ trong tác phẩm của ngài, chúng ta khó lòng
ghi lại những đƣờng nét làm hiện rõ bản lãnh nhân cách
của ngài, một bản lãnh chứa đựng nhiều tài năng phong
phú mãnh liệt. Ngài mang bản lãnh ấy, nhƣng chúng ta chỉ
cảm thấy đƣợc hơn là phát hiện đƣợc một cách minh thị.
Bản lãnh ấy rất khó mà nắm bắt đƣợc, ngay cả lúc chúng
118
ta tƣởng nhƣ đã dự đoán đƣợc. Thánh Gioan Thánh Giá
không sống mà cũng không biên soạn để phô bày cho
công chúng.
Do đó, ngƣời ta có cảm tƣởng nhƣ đứng trƣớc một
cái gì trong suốt. Trong những trang ngài viết, cũng nhƣ
qua những năm tháng của cuộc đời ngài, chỉ còn toả rạng
sự trong ngần và ánh sáng nồng cháy của Thiên Chúa mà
thôi. Đời sống nội tâm phong phú của ngài, những ánh
sáng ngài lãnh nhận đƣợc, nhất là Tình yêu mà ân tứ của
Thánh Thần đã đƣa ngài đạt tới, ở trần thế này, chúng ta
chỉ có thể phỏng đoán đƣợc một cách lờ mờ thôi.
Tuy nhiên, bên kia cái chết của ngài, sức năng động
siêu nhiên là chính cái linh hồn của đời ngài vẫn tiếp tục
tác động với một cƣờng độ mà sức toả sáng về măt nhân
tính của những “vĩ nhân” hình nhƣ không có đƣợc. Đã 400
năm sau cái chết của ngài, những tâm hồn khát khao sự
sống, một sự sống thâm sâu đích thực, vẫn còn tìm đến
sƣởi ấm bên cạnh lò lửa bừng cháy trong quả tim con
ngƣời nghèo khó ở Druelo.
119
GHI CHÚ
Thứ tự của những bài thơ, các châm ngôn và lời
khuyên đƣợc lấy theo ấn bản đã hiệu đính “San Juan De
La Cruz, Obras Completas”, Ed. De Espiritualidad,
Madrid 1993.
Các lời dẫn nhập của cha Lucien-Marie, Trích
trong “Jean de la croix , Oeuvres complètes”, 4e ed.,
DDB 1967.
120
THÁNH GIOAN THÁNH GIÁ
Toàn văn sƣu tập các tác phẩm
Quyển 1
NHỮNG BÀI THƠ
CHÂM NGÔN
VÀ CÁC TIỂU PHẨM
Bản dịch của
LM TRĂNG THẬP TỰ VÀ CÁC BẠN
121
122
NHỮNG BÀI THƠ
123
DẪN VÀO CÁC BÀI THƠ
Lucien-Marie de St Joseph
1. Các bài thơ và lịch sử
Các bài thơ của Thánh Gioan Thánh Giá gắn liền
với cuộc sống cá nhân ngài, đƣợc khai sinh trong những lo
âu và vui mừng của ngài. Chẳng phải nhiều bài đã đƣợc
sáng tác trong ngục thất Toledo đó sao? Dƣờng nhƣ đó
không phải chỉ là trùng hợp mà có thể nói rằng chúng
không thể phát sinh ở đâu khác hơn là ở phòng giam tại
Toledo. Bài Đêm dày, bài Ca khúc tâm linh hay cái bài dai
dẳng câu điệp khúc Cho dù là đêm đều mang dấu ấn về
gốc tích của chúng, với dấu vết những đau khổ hoặc hy
vọng vị thánh đã trải qua hồi đó.
Một khi đƣợc soạn ra rồi, những bài thơ ấy sẽ tiếp
tục sống.. Trong tù, vị thánh đã ngâm những câu thơ ấy để
đủ can đảm vƣợt qua những giờ đen tối. Ngài ghi nhớ để
một ngày kia sẽ viết ra. Và quả thật, khi xin đƣợc ngƣời
có phận sự canh gác ngài là Gioan thánh Maria “làm
phƣớc thí cho một ít giấy mực”, ngài đã viết. Chị
124
Phanxica của Thánh Mẫu Thiên Chúa thuật lại chi tiết sau
đây mà chị đã đƣợc nghe chính thánh nhân kể cho. Một
ngày kia, khi ngài bắt đầu ngâm lên tiết thứ nhất của Ca
khúc tâm linh: “Ngƣời ẩn nơi nao, hỡi Đấng Chí Ái?”...
thì có tiếng trả lời: “Ta ở đây với con và Ta sẽ giải thoát
con khỏi mọi sự dữ”. Linh hồn ngài đƣợc đầy an ủi đến
nỗi ngài có cảm tƣởng đang chìm ngập trong vinh quang.
Về sau, trong những cuộc hành trình bất tận hoặc
đi bộ hoặc cỡi lừa, để quên bớt đƣờng dài, ngài ngâm nga
với bạn đồng hành nhiều thánh vịnh, thánh thi và những
bài thơ riêng của ngài. Và ngài không phải là ngƣời duy
nhất biết và ngâm nga những bài ấy.
Khi cảm thấy buồn hoặc mệt mỏi, ngài soạn
những ca khúc kính Đức Mẹ “là đấng khiến ngài đƣợc vui
mừng và cho ngài sức mạnh cần thiết”... Chúng ta có thể
kiểm chứng đƣợc điều ấy qua những gì hiện còn lƣu giữ ,
vì ngay cả chúng ta, chỉ cần nghe qua những ca khúc ấy là
đã đƣợc ủi an và tăng sinh lực.
Một số bài thơ, ta không biết rõ đƣợc hoàn cảnh
sáng tác. Chẳng hạn bài “Chú bé chăn cừu”, phải chăng đã
đƣợc khai sinh trƣớc một tƣợng Chúa chịu nạn kiểu Tây
Ban Nha, theo mắt nhìn của chúng ta thì quá sặc sỡ,
nhƣng lại rất gợi cảm? Lịch sử kể rằng một trong những
tƣợng ảnh ấy một lần kia đã gây cảm hứng cho thánh nhân
dệt nên một bài thơ cảm động về những đau khổ của Đấng
chịu đóng đinh!
Lắm Lắm lần, sự việc đã để lại kỷ niệm sống động
mãi trong ký ức các nhân chứng. Ngƣời ta có ấn tƣợng
mạnh nhƣ thể đã chạm đến linh hồn của thánh nhân, đã
thình lình phát hiện ra nó trong một chùm ánh sáng đến
125
nỗi nhiều năm về sau, những kẻ đã chứng kiến sự bừng
phát của một bài thơ vẫn còn có thể rành rẽ kể lại chi tiết
của cảnh ấy. Maria Thánh Giá là một đan nữ Cát Minh ở
tu viện thành phố Granađa vào thời thánh nhân đang làm
viện trƣởng Cát Minh ở thành phố ấy. Một hôm, các nữ tu
đang nói chuyện với ngài ở phòng khách thì một chị đã
ngẫu hứng đọc lên một tiết thơ và chỉ là một tiết thơ theo
cảm hứng nhân loại với nội dung nhƣ sau:
Vì tất cả vẻ đẹp
Thì sẽ chẳng bao giờ tôi bị hút mất
Nhƣng chỉ vì một điều gì đó tôi không rõ
Mà ngƣời ta vừa tình cờ đạt đƣợc.
Vị thánh bắt gặp một điều gì đó, liền nói: “Chị
vừa đọc gì thế? Làm ơn lặp lại xem”. Chị ấy liền lặp lại.
Vị thánh học thuộc tiết thơ ấy, rồi đã dựa theo đó để soạn
thêm mấy đoản khúc rất lƣu loát, chứa đầy tình yêu của
Thiên Chúa. Tạ ơn Chúa, đó là một bài chú thích thần ý
rất đẹp, “a lo divino”, tức là một bài thơ trong đó cảm
hứng nhân loại nhƣờng chỗ cho tƣ tƣởng về Thiên Chúa.
Nếu nhƣ phần lớn tài liệu liên hệ đến vị thánh đã
không bị thiêu hủy trong các Cát viện ít lâu trƣớc khi ngài
chết, có lẽ chúng ta đã có thể nhờ vào các thơ ca và lịch sử
hình thành của chúng giữa lòng nội cấm mà dựng lại đời
sống cá nhân và sự tỏa lan của vị thánh. Phần ít ỏi chúng
ta hiện còn biết đƣợc cũng đủ tỏ cho thấy những bài thơ
của thánh nhân đã trang điểm cho cuộc đời ngài nhƣ thế
nào. Tách lìa chúng khỏi đời ngài là lấy mất đi điều đẹp
nhất nơi ý nghĩa sâu sắc của chúng.
Lịch sử còn hé lộ cho ta thấy vai trò đáng kể của
các bài thơ trong ảnh hƣởng của thánh Gioan Thánh Giá
126
trên các con cái thiêng liêng nam nữ của ngài. Đối với
ngài, đó không phải chỉ là một cách đơn giản để giúp
ngƣời tu sĩ thƣ thái mà chính là một trong những phƣơng
cách ngài dùng để linh hƣớng. Về mặt này, các bài thơ đã
có tác dụng không kém, nếu không nói là hơn hẳn, các thẻ
giấy bắt nguồn cho sƣu tập các “Châm ngôn”.
Hẳn nhiên ở thế kỷ XVI tại Tây Ban Nha cũng có
cha Doria và biết bao đệ tử của nhiều vị thánh nổi bật
khác đang tô điểm cho Hội thánh, thế nhƣng không thể
tìm thấy điều gì tƣơng tự nơi các vị ấy.
Những chứng từ chúng ta có đƣợc về cách vận
dụng ấy của vị thánh rất đậm ý nghĩa cho ngƣời biết khám
phá ra. Chính ở Toledo năm 1587, Thánh Gioan Thánh
Giá vừa vƣợt khỏi nhà tù, nơi ngài đã phải chịu biết bao
đau khổ, và đang trốn ở nhà các chị Cát Minh. Sự thiếu
thốn đã tàn phá cơ thể ngài. Phải khó nhọc lắm ngài mới
ăn uống đƣợc. Từ trƣa tới tối, ngƣời ta phải giữ ngài trong
nhà thờ, sợ những kẻ chủ trƣơng nới lỏng luật dòng tìm
bắt lại. Trong những giờ chờ đợi ấy thánh nhân làm gì?
Ngài khởi sự đọc lại các bài thơ ngài đã sáng tác trong tù.
Bên kia cửa lƣới, một chị ngồi chép lại. Với sƣu tập đầu
tiên này, các bài thơ đã bắt đầu đƣợc công bố. Vị thánh đã
dùng những giờ phút nghiêm trọng nhƣ thế để làm điều tốt
nhất là đọc cho các chị Cát Minh nghe những bài thơ mà
sau đó chính các chị đã lặp đi lặp lại để nuôi dƣỡng cuộc
sống tâm linh của họ. Sự việc ấy chẳng giúp ta hiểu đƣợc rất
nhiều đó sao?
Từ Toledo, Cha Gioan đã lên đƣờng đi Calvario,
nơi ngài đƣợc bổ nhiệm làm tu viện trƣởng. Trên đƣờng
đi, ngài dừng lại ở Cát viện Béas, tại đây các bài thơ của
ngài lập tức trở thành lƣơng thực hằng ngày cho các nữ
127
đan sĩ. Năm 1851, khi bốn ngƣời trong số các chị ấy đi lập
nhà mới ở Granada, họ đã gặp đƣợc những tâm hồn khác
cũng đã đƣợc đào tạo cùng một cách thức với họ, và tại
Cát viện mới này, cũng nhƣ tại nhà họ ở trƣớc đây, đã
vang lên những tiết thơ của “Ca khúc tâm linh” và “Đêm
dày”. Sử gia về những bài thơ ấy ghi rằng: “Các nữ tu lúc
nào cũng lẩm nhẩm các bài thơ ấy trên môi, và tìm đƣợc
biết bao sự ngọt ngào thiên quốc và sự dịu dàng cho lời
nói của họ”. Tại Međina cũng xảy ra nhƣ vậy: Thói quen
ngâm thơ của Cha thánh đã đƣợc thánh nữ Têrêxa đặt
thành một thông lệ. Một lời chứng khác từ một đan nữ cao
niên nên có thể không hoàn toàn chính xác nhƣng lại là
chứng từ duy nhất nên chi vẫn đáng đƣợc ghi nhận , đó là
lời chứng của chị Ana Thánh Thể nhƣ sau: “Và rất lâu sau
khi thánh nhân qua đời, ngƣời ta vẫn còn làm nhƣ thế”.
Phải chép lại bao nhiêu lần vẫn không đủ để đáp
ứng số ngƣời ta xin ngài. Đến nỗi hồi thế kỷ XVIII, tu
huynh Anrê Chúa Nhập thể, sau khi đã dày công lặn lội
khắp các tu viện ở Tây Ban Nha để nghiên cứu tất cả
những gì liên quan đến vị thánh, đã tóm tắt bản tra cứu
nhƣ sau: “Tôi có ấn tƣợng là hầu hết những bản sao chép
đƣợc thực hiện từ thời ấy đều đã đƣợc thực hiện theo sự
thừa nhận và thậm chí còn theo lệnh của thánh nhân, để an
ủi đông đảo các nữ tu yêu cầu ngài. Thật vậy, trong các tu
viện của họ, tìm đƣợc phần lớn những bản sao chép các
bài thơ ấy là chuyện bình thƣờng”.
Theo các tài liệu lịch sử soi sáng, dƣờng nhƣ các
bài thơ ấy đƣợc dùng làm trung gian chuyển đạt, vừa diễn
tả sự sống nội tâm của vị thánh vừa nhắm đến sự hƣớng
dẫn đời sống nội tâm của các môn đệ ngài. Tại sao vị
thánh vốn chẳng quan tâm gì đến hƣ danh của văn
128
chƣơng, lại cổ võ cho ngƣời ta sao chép các bài thơ ngài
nhƣ thế? Nếu không phải vì ngài coi đó là một phƣơng
tiện hữu hiệu để giúp đỡ những ngƣời mà ngài phụ trách?
Đó không phải là một giả thuyết vô bằng cớ. Có
một lời cung khai cho biết khi làm tu viện trƣởng, trong
giờ chơi của các đan sĩ, vị thánh thƣờng tổ chức điều mà
ta có thể gọi là những cuộc thi thơ, trong đó ngài xƣớng
lên một đoản khúc ngài sáng tác để gợi hứng cho các con
cái ngài họa theo. Ngài sử dụng cách có hệ thống một
phƣơng tiện đào tạo mà nay đã trở thành khá xa lạ đối với
chúng ta.
Lắm khi một bài thơ nào đó đã giúp đƣợc cho các
môn đệ của ngài cách hoàn toàn bộc phát trong những giờ
vui mừng hoặc sầu muộn. Nữ chân phƣớc Ana
Bartôlômêô, một ngƣời vốn đồng hành với thánh nữ
Têrêxa nhƣ bóng với hình, và đã sáng lập nhiều Cát viện ở
Pháp và Bỉ, đã kể rằng: Vào ngày lễ thánh Matthêu năm
1624 (33 năm sau khi vị thánh qua đời) chị đến dự giờ
kinh chiều mà tâm hồn đầy âu lo và tăm tối. Thình lình,
nhƣ một tia sáng xuyên qua khe cửa lọt vào một căn
phòng tăm tối, một ơn soi sáng đã đến an ủi tâm hồn chị.
Lập tức, chẳng cần nghĩ ngợi, môi chị thốt lên một tiết của
bài “Ca khúc tâm linh” diễn tả tình trạng nội tâm của chị:
Ôi dòng suối pha lê loang loáng
Phải chi trong những nét tráng bạc của ngƣơi
Bất chợt ngƣơi cho ta thấy
Đôi mắt đáng ƣớc ao
Mà ta đã ghi trong lòng ta một thoáng.
Và chị thêm: “Điều ấy làm thỏa mãn và lấp đầy
trái tim tôi, đang đói và kiệt sức vì yếu đuối”.
129
Lời chứng cảm động nhất có lẽ là lời chứng liên
hệ đến chị Catarina Giêsu, ngƣời đã cùng với chị Maria
Giêsu (de Sandeval) sáng lập Cát viện ở Béas, 46 tuổi, và
mới nhập tu đƣợc 10 năm. Catarina vui mừng thấy sự chết
gần đến. Thậm chí chị phải thú lỗi là đã quá vui mừng vì
đƣợc đau khổ và vì ƣớc ao sự chết. Buổi tối trƣớc khi ra
đi, chị xin ngƣời ta đọc cho chị nghe bài “Ca khúc tâm
linh”. Và bên cạnh chị nữ tu đang lâm tử, ngƣời ta bắt đầu
đọc:
Ngƣời ẩn nơi nao, hỡi Đấng Chí Ái,
Mà bỏ em rên rỉ?
Hôm sau, chị hiện về vinh quang rực rỡ cho cha
linh hƣớng thấy, vị linh hƣớng lúc ấy vẫn còn ở trên thế
gian này.
Tôi không biết một chuyện nào khác để diễn tả
ảnh hƣởng sâu xa do các bài thơ của Thánh Gioan Thánh
Giá rõ hơn cảnh tƣợng ngƣời con gái đích thực của thánh
nữ Têrêxa nhắm mắt lìa đời trong tiếng hát của bài “Ca
khúc tâm linh”.
2. Những bài thơ huyền giao và văn chƣơng
Không cần phải một pho sách dày mới đủ chứa
những bài thơ thực sự là của Thánh Gioan Thánh Giá: 9
bài thơ mà mỗi bài chỉ kín một hoặc hai trang, bài “Ca
khúc tâm linh” cả thảy 200 câu thơ, và các “tình khúc”
(mà việc phê bình kiểm chứng đã xác nhận đích thực là
của Thánh Gioan Thánh Giá) gồm khoảng 300 câu. Tổng
cộng chỉ khoảng 950 câu thơ.
130
Thế nhƣng ta đừng đánh giá một nhà thơ dựa trên
số tác phẩm ngƣời đó để lại. Và cũng đừng đánh giá các
bài thơ của Thánh Gioan Thánh Giá theo kiểu những
ngƣời thƣởng ngoạn văn chƣơng thuần túy, mặc dù ở đây
giá trị văn chƣơng vẫn là điều không thể phủ nhận.
Tôi muốn lấy lại suy tƣ sâu xa của Reiner Maria
Rilke: “Các tác phẩm nghệ thuật hết sức cô đơn, thƣờng
không đƣợc ai thông cảm, cho nên thật tệ hại nếu ta mong
dùng phê bình để đạt tới chúng. Chỉ tình yêu mới có thể
nắm bắt đƣợc chúng, gìn giữ đƣợc chúng và mới có thể xử
công bằng với chúng”. Ƣớc gì chúng ta là những ngƣời
công bằng, với thứ công bằng nảy sinh từ tình yêu.
Khi xét các bài thơ chỉ thuần túy trên phƣơng diện
hình thức, điều đập ngay vào mắt ta là tác giả thích dùng
những câu nhịp lẻ: “Ca khúc tâm linh”, “Đêm dày”,
“Ngọn lửa tình nồng” đều là những bài trữ tình, là những
bài thơ gồm nhiều tiết, trong đó những câu thơ 7 âm và
những câu thơ 11 âm xen kẽ nhau theo những qui luật
chính xác. Trong những bài khác, Thánh Gioan Thánh Giá
cũng thƣờng dùng loại 8 âm, nhƣng theo cung cách Tây
Ban Nha thì tùy cách nhấn mạnh vào chữ cuối mà câu thơ
có khi đƣợc đọc thành 7 âm, có khi là 8 âm và có khi lại 9
âm.
Loại trừ mọi định kiến theo trƣờng phái này
trƣờng phái nọ, ta phải nhận rằng câu thơ nhịp lẻ thƣờng
giúp sự diễn tả đƣợc uyển chuyển và lƣu loát (so sánh với
thơ ngũ ngôn và thất ngôn của Việt Nam sẽ thấy). Sự mềm
mại uyển chuyển là một đặc điểm hết sức nổi bật của
Thánh Gioan. Ngƣời ta có thể nói rằng Thánh Gioan tự
nhiên đạt đƣợc kỹ thuật diễn tả một trong những mệnh
lệnh tinh thần thân thiết nhất của ngài cách thật mềm dẻo.
131
Ngôn ngữ của các bài thơ hết sức giản dị. Đó là
ngôn ngữ thƣờng ngày. Nhƣng nó nhƣ có đƣợc cái vẻ
thanh tú bẩm sinh mà chỉ cần một chiếc áo dài thật giản dị
là đủ lộ rõ. Không có những tiếng lạ hoặc những hình
dung từ nhằm gây xúc cảm. Cả một sự trần trụi cố ý,
khiến cho phẩm chất nghệ thuật của bài thơ càng gia tăng.
Chẳng phải vẻ đẹp ấy đã trực tiếp lộ rõ qua cái trong suốt
rất khơi gợi của những nguồn suối mà cạnh đó vị thánh
vẫn thích ngồi suy niệm?
Hỡi Đấng Chí Ái, ta hãy cùng hân hoan
Hãy ra đi mà nhìn ngắm trong vẻ đẹp của Ngƣời
Trên núi và trên đồi
Nơi vọt ra nƣớc tinh khiết
Chúng ta sẽ vào mãi phía trong sâu hơn nữa.
Trong một bài nghiên cứu trác tuyệt tựa đề “Thực
hiện sự đẹp”, Rabindra Nath Tagore tỏ cho thấy phải vƣợt
qua các công thức quy ƣớc đến mức nào mới có thể quan
niệm đƣợc vẻ đẹp và khám phá ra cái hoà điệu dung dị
trong những sự vật thƣờng ngày. “Lúc đầu, chúng ta cô
lập cái đẹp khỏi những cái gì vây quanh nó, chúng ta tách
nó ra khỏi phần còn lại, nhƣng rồi đến cuối cùng, chúng ta
lại nhận ra nó hoà điệu với toàn thể. Lúc ấy âm nhạc của
cái đẹp không cần phải kích động ta bằng những tiếng ồn
ào nữa; nó từ chối bạo lực và kêu gọi trái tim ta bằng sự
thật này là những ngƣời khiêm nhƣờng sẽ đƣợc thừa
hƣởng trái đất”. Ta có thể đem những suy tƣ ấy áp dụng
vào ngôn ngữ thơ. Một cách nào đó, đây là điều mà tân
nƣơng trong bài ca khúc tâm linh tự nói về mình:
Đừng nỡ khinh thƣờng em nữa
Vì nếu Ngƣời thấy nơi em màu da sạm nắng
Thì Ngƣời có thể ngắm nhìn em thật kỹ
132
Vì Ngƣời đã nhìn em
Và đã để lại nơi em duyên sắc và vẻ đẹp .
Sự giản dị cao quý của một bút pháp xa hẳn cả
mọi sự đẽo gọt giả tạo làm nên một sự tầm thƣờng.
Phẩm chất của bút pháp phần nào có liên quan với
độ đậm đặc của tƣ tƣởng. Ai đã thử dịch thơ đều biết là
gay go đến mức nào. Khốn cho ai tìm cách kết vàng điểm
bạc hào nhoáng lên chiếc áo vải gai trắng của tân nƣơng!
Làm nhƣ thế có thể sẽ gây đƣợc chú ý, sẽ thật sự có chất
thơ, nhƣng đồng thời cũng sẽ mất đi nguồn cảm hứng đã
đem lại bài Ca khúc tâm linh. Có một cái gì đó còn đẹp
hơn cả những sản phẩm đẹp nhất của một kỹ thuật uyên
bác hoặc của một sự đẽo gọt chuyên cần, đó chính là cái
khiếu diễn tả của một thi sĩ và đồng thời là một vị thánh.
Chẳng phải là ngƣời ta đã tôn kính ngài đến độ bối rối đó
sao?
Vì những gì ở đời này có thể
Nắm bắt đƣợc bằng giác quan,
Vì tất cả những gì hiểu đƣợc,
Mặc dù hết sức cao xa,
Thì sẽ chẳng bao giờ tôi bị hút mất,
Cũng không bị hút mất vì duyên dáng hay vẻ đẹp,
Nhƣng chỉ vì một điều gì đó tôi không rõ
Ngƣời ta vừa tình cờ tìm đƣợc.
Thánh Gioan Thánh Giá đã tình cờ tìm đƣợc cái
“điều gì đó tôi không rõ” mà ngài nói ở đây. Chẳng phải
ngài không biết đến những bậc thầy về thơ ở thời ngài. Ta
có nhiều lý lẽ chắc chắn để nghĩ rằng ngài đã biết nhiều
đến họ, và rằng trong thời gian ở Salamanca ngài đã là
133
một trong những ngƣời say sƣa nghe những bài ca mới
của các tác giả Garcilaso và Boscan.
Tuy nhiên không thể xếp thánh Gioan Thánh Giá
thật sít sao vào một trƣờng phái nào, mặc dù khá rõ là ngài
có những nét gần gũi với các thi sĩ tƣợng trƣng bởi lẽ
trong thơ ngài, tất cả đều là biểu tƣợng.
Nhƣng có lẽ cũng phải nói rằng đã là thi ca đích
thật thì thi ca nào cũng vậy cả. Đã có hơn một nhà phê
bình cho rằng tính tƣợng trƣng nằm ngay trong chính yếu
tính của thơ ca trữ tình. Xƣa kia Ferdinand Brunetière có
viết: “Bởi vì chất tƣợng trƣng vốn nằm trong yếu tính của
thi ca, cho nên chắc chắn chất tƣợng trƣng cũng cổ xƣa
nhƣ thi ca, và tôi cũng có thể nói đƣợc rằng, nó có cùng
thời với những vần thơ bập bẹ đầu tiên”.
Thế nhƣng cho dù có những gặp gỡ khá kỳ thú, ta
không đƣợc phép ngây thơ biến Thánh Gioan Thánh Giá
thành “nhà thơ tƣợng trƣng” nhƣ kiểu ngƣời ta vẫn nghĩ
về Mallarmé hay Verlaine. Xa hơn trƣờng phái tƣợng
trƣng còn có chính cái chất tƣợng trƣng vốn không ngày
sinh tháng đẻ, không bị gò bó theo quy tắc luật lệ. Điều
mà Thánh Gioan Thánh Giá đột nhiên tìm lại đƣợc, chính
là dòng thác trữ tình cuồn cuộn của mọi thế hệ và mọi dân
tộc, mà dòng thác ấy tự yếu tính lại mang sẵn chất tƣợng
trƣng.
Chúng ta sẽ gặp lại ở đây điều đã đƣợc Jean
Baruzi suy nghĩ sâu sắc và trình bày gãy gọn. Nơi Thánh
Gioan Thánh Giá, không thể có chuyện gắng sức bóp trán
tìm tòi để dùng lời biểu tƣợng mà diễn đạt một thực tại nội
tâm. Để hiểu đúng về thi ca, cần hình dung ra một sự bộc
phát, một sự tự phát trong đó “cái chất tƣợng trƣng dƣờng
134
nhƣ là trực tiếp mặc khải cho ta biết đƣợc một sự kiện mà
không một cách thế suy nghĩ nào khác có thể giúp ta đạt
đƣợc. Và nhƣ thế không còn có chuyện “dùng một biểu
tƣợng để diễn đạt một kinh nghiệm, mà phải nói cách sít
sao là có một kinh nghiệm mang tính tƣợng trƣng”.
Vấn đề vẫn chƣa phải đã hoàn toàn đƣợc soi sáng.
Cái hay ho lý thú của nó còn vƣợt hẳn thế giới của các thi
sĩ, kể cả các thi sĩ thần nhiệm. Việc sử dụng thế giới khả
giác để diễn tả những thực tại vô hình đã là một chuyện rất
thông thƣờng trong Kinh thánh. Vấn đề là thử hỏi, tác giả
thánh vịnh khi cảm nghiệm đƣợc sức mạnh của Thiên
Chúa và thốt lên: “Thiên Chúa là đá tảng của tôi”, thì ông
đã đi từ tảng đá đến sức mạnh của Thiên Chúa mà nó
tƣợng trƣng, hay ông trực tiếp tìm thấy nơi Thiên Chúa
chính phẩm tính mà một cách nào đó đã đƣợc hành động
sáng tạo của Ngài thể hiện thành vật chất trong thế giới
khả giác này khi tạo nên các tảng đá.
Cách trƣớc là khởi đi từ thụ tạo và cẩn thận tiến
dần lên tới Tạo Hoá. Còn cách kia thì ngay từ đầu đã đặt
mình nơi Thiên Chúa và tìm gặp lại nơi Ngài tất cả những
gì Ngài đã gieo vãi vào thế giới theo hình ảnh hữu thể của
Ngài. Phải chăng là quá liều lĩnh nếu quả quyết rằng gần
nhƣ tất cả cái chất tƣợng trƣng trong các bài thơ của
Thánh Gioan Thánh Giá đều diễn tiến theo cách thứ hai?
Nhƣng nếu đặc ân trƣớc hết của một nhà thơ là
cảm nghiệm đƣợc mọi sự trong chính hữu thể khôn tả của
nó (khi nhà thơ này là một vị thánh, ta biết những điều
khôn tả độc đáo ông nói đến là gì), thì một đặc ân khác
của ông là biết cách dùng ngôn ngữ loài ngƣời để diễn tả
điều đã cảm nhận đƣợc cách sâu sắc ấy.
135
Trên bình diện văn chƣơng thì cả trong việc này,
Verlaine và các bạn ông đã có công đúc kết những nguyên
tắc không phải chỉ có giá trị cho các môn sinh của một
trƣờng phái.
Nhạc đi trƣớc mọi sự...
Câu thơ ấy ai cũng biết. Còn đoạn tứ tuyệt áp chót
của bài “Nghệ thuật thi ca” có lẽ ngƣời ta ít biết hơn,
nhƣng lại là đoạn diễn tả rất đúng điều Thánh Gioan
Thánh Giá đã thực hiện (với một danh nghĩa còn chắc nịch
hơn cả tác giả sách Khôn ngoan).
Nhạc thêm nữa và luôn luôn bằng nhạc
Nào thơ bay nhanh nữa, bay cao
Nhƣ chút tâm linh đang lạc lối vào
Những trời khác và những tình yêu khác.
Chỉ còn phải thêm:
Và những gì còn lại chỉ là từ chƣơng.
Rabindra Nath Tagore, ngƣời từng viết nên những
bài thơ tuyệt diệu, đã nói một cách điềm tĩnh chắc nịch
nhƣ đứng trƣớc một điều hiển nhiên: “Những nhà thơ đích
thật, mà đồng thời cũng là những vị tiên tri, thì tìm cách
trình bày thế giới này bằng tiếng nói của âm nhạc”. Và
ông nói thêm lý do: “Âm nhạc chẳng bao giờ phải lệ thuộc
một cảm quan ở bề mặt, nó diễn tả điều mà các từ ngữ
không bao giờ nói đƣợc”.
Ta hãy vƣợt ngay khỏi một quan niệm hẹp hòi và
ngây ngô về việc sử dụng âm nhạc, thƣờng phải cầu cứu
đến những hình ảnh kêu vang, rút từ thể hợp xƣớng và các
giai điệu. Những hình ảnh nhƣ thế không thiếu trong tác
136
phẩm của Thánh Gioan Thánh Giá, nhƣng chúng không
phải là vƣợt trội:
Và là đêm yên hàn
Đang khi hừng đông cựa mình thức giấc
Nhạc thinh lặng
Niềm cô tịch réo rắt
Bữa tối bổ dƣỡng và đắm say yêu mến.
Ta phải quan niệm một cách sâu sắc hơn về nhạc
tính của một bài thơ. Theo đó, những từ ngữ là chất liệu mà
chuyển động của câu văn muốn xếp đặt để tất cả đƣợc ngân
vang, đó là điều mà từ ngữ chuyên môn gọi là “tiết điệu”.
Hẳn nhiên, chỉ những bản văn ở nguyên ngữ mới
có thể cho ta hình dung đƣợc thế nào là sự ngân vang
trong ngôn ngữ của Thánh Gioan Thánh Giá. Trong dàn
nhạc của một số tiết thơ trong bài “Một chú bé chăn cừu”
chẳng hạn, ta nghe vang những tiếng chát chúa của những
nhạc khí bằng đồng với những âm “a” chế ngự một cách
thô bạo, trong khi ở tiết tiếp theo, những âm “o” kéo dài
của vĩ cầm xoa dịu cho vết đau của “chú bé chăn cừu”.
Những chỗ khác, sau những nhịp rung trong sáng
hài hoà, lại có xen vào những âm sắc của các giai điệu buồn
thảm.
Việc sắp xếp các hình ảnh cũng thật ý nghĩa.
Dƣờng nhƣ không có màu sắc. Trổi vƣợt nhất là những
hình ảnh về thị giác và chuyển động. Những hình ảnh về
chuyển động đem lại cho những bài thơ thuộc nhiều loại
một tiết điệu rất kích động. Đoạn mở đầu của bài Ca khúc
tâm linh là một điển hình về loại này:
137
Ngƣời ẩn nơi nao, hỡi Đấng Chí Ái,
Mà bỏ em rên rỉ ?
Nhƣ một con nai, Ngƣời trốn biệt,
Mặc cho em bị thƣơng,
Em chạy ra, gọi với theo Ngƣời, thì Ngƣời đã đi.
Nếu quả đúng nhƣ lời phƣơng ngôn rằng cuộc
sống luôn chuyển động thì chẳng có gì để ngạc nhiên khi
ta thấy một sức năng động mãnh liệt cuốn hút thơ ca của
một ngƣời muốn ca ngợi cuộc sống của linh hồn sống với
Thiên Chúa. Những bài thơ chính yếu của ngài đều bắt
đầu bằng những hợp âm của chuyển động, nhƣ những bản
hợp xƣớng của Bach. Và thƣờng thì đến đoạn cuối,
chuyển động nhẹ dần và ngƣng hẳn, nhƣ một làn sóng dịu
đi và biến mất dần trong đám cát ven bờ:
Hãy gỡ con khỏi cái chết ấy,
Lạy Thiên Chúa của con, và hãy ban cho con sự
sống.
Đừng để con bị vƣớng mắc,
Trong cái cạm bẫy ấy mạnh biết bao.
Hãy nhìn xem con phải đau đớn để thấy Ngài
Và nỗi khốn khổ của con đã xâm chiếm trọn
Bởi con đang chết vì không chết.
Từ đây con sẽ khóc thƣơng sự chết của con,
Và con sẽ than cho cái sống của con,
Bao lâu con còn bị níu giữ
Vì những tội lỗi con.
Ôi Thiên Chúa của con ! Cho đến bao giờ?
Bao giờ con đƣợc nói với Chúa cách đơn thành
rằng:
Từ nay con đã sống vì con không chết nữa.
138
Trên bình diện phân tích văn chƣơng thì sau cùng
phải lƣu ý đến điều có thể gọi là sự trinh nguyên của cách
diễn tả thi vị nơi Thánh Gioan Thánh Giá. Nơi ngài,
không bao giờ ngƣời ta cảm thấy có sự gọt giũa. Ngƣời ta
dễ khám phá ra những sơ suất hơn là những trau chuốt giả
tạo. Ngài sử dụng năng khiếu mà không biết mình có năng
khiếu ấy. Trong sự đôi co biến thiên giữa cảm hứng và kỹ
thuật diễn tả, năng lực của cảm hứng đã không ngừng
thắng vƣợt: Chính cảm hứng đã định luật lệ cho kỹ thuật.
Không hề phải gọi đến tinh thần Ly Tao. Nhƣng hoàn toàn
là một cái gì trực tiếp và mới mẻ, phát sinh từ kinh
nghiệm và cũng dẫn đến kinh nghiệm. Bởi lẽ ở đây nhà
thơ chỉ là thông dịch viên của vị thánh. Tác giả của Ca
khúc tâm linh, nếu có viết một bài về nghệ thuật thi ca,
chắc chắn sẽ nói đại ý rằng: “Những lời mang sự sống, sự
sống mà nó diễn tả, sự sống mà nó gây nên... Còn ngoài ra
đều là từ chƣơng”.
3. Giáo thuyết của các bài thơ
Những chủ đề đƣợc khai triển trong các bài thơ
của Thánh Gioan Thánh Giá luôn thuộc về kinh nghiệm
nội tâm của ngài (kể cả các Tình khúc bàn đến những đề
tài lịch sử thì tự sâu xa vẫn là những kinh nghiệm nội
tâm). Nhà thơ của Đêm dày chắc hẳn đã không nghĩ phải
làm thơ để trở thành giáo sƣ thần học, dù là một thần học
thần nhiệm. Thơ ca của ngài dạy ta rất nhiều chuyện
nhƣng không hề mang tính cách giáo huấn (Nhƣng thực
sự có một thể loại gọi là “thơ giáo huấn” không? Ít ra cũng
có một cái gì mâu thuẫn ngay trong từ ngữ).
139
Quả đúng là vị thánh đã ngợi ca những thực tại
mà các nhà thần học, và trƣớc hết là Kinh thánh, đã dạy
bảo chúng ta. Thế nhƣng ngài chỉ ngợi ca nhƣ thế trong
mức độ các thực tại ấy đã đƣợc ngài sống và phần nào đã
trở nên hữu thể riêng của ngài ngay trong lúc và chính
trong hành vi ngài diễn tả một cách trữ tình nhƣ vậy về
chúng.
Thật vậy, những bài thơ ấy đã phát sinh từ kinh
nghiệm bản thân của ngài. Chúng là một sự diễn đạt tự
phát và trực tiếp. Chính trong ngục thất Toledo, nhằm diễn
tả đôi điều về những đau khổ và hoan lạc của mình, Thánh
Gioan Thánh Giá đã soạn ra Đêm dày, Ca khúc tâm linh,
Nguồn suối và những tình khúc về đoạn Tin mừng Lúc
khởi nguyên đã có Lời. Trong các bài thơ của ngài, mỗi
bài có một lịch sử liên hệ đến bản thân ngài. Lắm khi,
chính sự tiếp xúc với một linh hồn khác đã khiến cho linh
hồn ngài bùng lên ngọn lửa, nhƣ khi ngài soạn bài chú
thích Không, dù tất cả vẻ đẹp, cũng không bao giờ...
Việc diễn đạt kinh nghiệm cách tự phát nhƣ thế
của Thánh Gioan Thánh Giá còn có một đặc điểm nữa là
tình cảm khẩn thiết của nó: khung cảnh và chế độ lao tù ở
Toledo chẳng có gì đặc biệt để đẩy tới cảm hứng thi ca
nhƣng, dƣới ảnh hƣởng của đau đớn hoặc vui mừng của
Đấng sống trong ngài, vị thánh không thể cản đƣợc cái đà
của cảm hứng.
Nếu chỉ có một mình ngài trên thế gian này và dù
không một ai sẽ biết đến những bài thơ của ngài đi nữa,
thì nhƣ mọi thi sĩ đích thực khác, Thánh Gioan Thánh Giá
vẫn thấy buộc lòng phải viết hoặc ít ra dệt nên trong nội
tâm những bài thơ ấy. Sự trào vọt bên trong của một bài
thơ không hề là chuyện của một quyết định trầm tĩnh do
140
một suy tính trƣớc đó. Tôi nghĩ đến những lá thƣ cảm
động của Rainer Maria Rilke gởi cho một thi sĩ trẻ. Ngay
từ lá thƣ đầu tiên, Rilke đã đòi hỏi ngƣời ta phải có dấu
hiệu của thiên chức thi sĩ, là phải có thể trả lời “có” cho
câu hỏi ông nêu ra: “Nếu bị cấm viết, bạn có chết không?”
Và ông tiếp tục câu hỏi: “Nhất là, bạn hãy tự hỏi vào lúc
yên lặng nhất trong đêm của bạn: Tôi có thật sự bị buộc
lòng phải viết không?” Có lẽ về mỗi bài thơ của ngài,
Thánh Gioan Thánh Giá đều có thể trả lời “có”.
Thật ra, ngài không rảnh giờ để tự nêu câu hỏi.
Mỗi khi bị chấn động vì một ơn sủng bên trong hoặc một
hoàn cảnh bên ngoài, dù là một hoàn cảnh tầm thƣờng,
linh hồn ngài trải qua một kinh nghiệm phong phú đến độ
ngài không thể nào diễn tả cho tƣơng xứng, ngài phải để
cho vang lên trong ngài những tiếng dội kỳ bí của cuộc
gặp gỡ mà tự nó vốn là một gặp gỡ khôn tả. Chỉ riêng một
mình nó, chỉ riêng thi ca thuần khiết nhất mới có thể phát
sinh đƣợc từ một nguồn suối nhƣ thế.
Đó là lý do tại sao khi nghiên cứu các bài thơ của
Thánh Gioan Thánh Giá, dù vội vàng đến đâu, cũng
không đƣợc tự hài lòng với những bài đã đƣợc chính ngài
minh giải. Sự kiện chỉ vỏn vẹn có 3 bài trong số đó đƣợc
tác giả minh giải không thể đƣợc coi là quá quan trọng đối
với chúng ta. Mọi bài thơ đều cùng có giá trị kinh nghiệm
nhƣ nhau, tất cả đều cùng một nguồn gốc và tất cả, với
những âm sắc riêng, đều bày tỏ cùng một sự thống nhất
bên trong.
Thành ra, tất cả đều có cùng một giá trị giáo huấn,
theo nghĩa chính xác là mỗi bài đều biểu lộ một khía cạnh
nào đó trong đời sống nội tâm của thánh nhân.
141
Chính giá trị kinh nghiệm của các bài thơ ấy làm
nên giá trị giáo huấn của chúng. Thật vậy, giáo huấn đƣợc
đề ra trong các bài thơ nhắm tới điều vốn vƣợt ngoài tầm
của thần học suy lý thuần túy, chỉ có kinh nghiệm mới
nắm bắt đƣợc. Đó là giáo huấn của nhà thực hành, giáo
huấn này giả thiết phải có một vốn liếng suy lý và dựa trên
vốn liếng ấy, nhƣng đồng thời cũng nối dài vốn liếng ấy
trong kinh nghiệm riêng biệt. Mà kinh nghiệm này thì
không thể nào truyền thông đƣợc, và cũng không sao mà
chuyển đƣợc thành những khái niệm tổng quát.
Chính phẩm chất của kinh nghiệm bảo đảm cho
sự thật mà giáo huấn thực hành truyền dạy. Việc phô diễn
kinh nghiệm ấy nhất thiết có tính bộc phát, khiến cho
không thể nào tách rời chất trữ tình với giáo huấn đƣợc.
Ngƣời ta cũng vặn lại rằng những bản văn mạch
lạc của vị tiến sĩ có nguy cơ làm suy yếu những hy vọng
mà nhà thơ đã giúp chúng ta cƣu mang. Kinh nghiệm sâu
kín của một tâm hồn chẳng phải là điều không thể phô
diễn đƣợc đó sao? Trong phần minh giải Đêm dày có một
trang rất đẹp nói rõ: Sự lãnh hội tăm tối bằng chiêm niệm
ấy, cuộc gặp gỡ ấy với vị thƣợng khách của tâm hồn, ta
không thể “diễn tả ra đƣợc”, không thể “cho nó một tên
gọi có thể làm cho ngƣời ta hiểu đƣợc nó”, linh hồn
“không tìm đƣợc phƣơng tiện, cách thế hoặc một cái gì
tƣơng tự phù hợp với nó để có thể biểu thị một sự hiểu biết
cao nhƣ thế và cũng là một tình cảm thiêng liêng tinh tế
nhƣ thế. Cho đến nỗi, dù linh hồn có khao khát tới đâu để
nói lên điều ấy, dù nó có cố gắng đến đâu để làm sáng tỏ
điều ấy, điều ấy vẫn mãi mãi bí ẩn và không tỏ lộ”. Làm
sao có thể dùng lời lẽ của con ngƣời để chuyển dịch ngôn
ngữ của Thiên Chúa? Thật vậy, ngôn ngữ của Thiên Chúa
142
có đặc điểm là, một đàng thì rất sâu kín và thiêng liêng,
vƣợt mọi giác quan, một đàng thì lập tức làm câm nín và
ngƣng tắt tất cả sự hoà điệu và xảo diệu của các giác quan
bên ngoài và bên trong. cho nên, không thể nào dùng suy
lý mà diễn tả đƣợc bản chất của cái “ngôn ngữ Thiên Chúa
nói với linh hồn, bậc thuần thần nói với bậc thuần thần”.
Tôi đã say mèm
Đã đầy ứ và xa lạ với mình đến độ
Giác quan đã đờ ra
Mất hết mọi cảm giác,
Còn tâm trí thì đƣợc phú cho
Một khả năng nghe mà không cần nghe,
Vƣợt hẳn mọi hiểu biết.
Tôi lên càng cao
Tôi hiểu càng ít.
Ở đó đám sƣơng mù
Đã soi đêm sáng rực.
Về điều ấy có ai biết đƣợc
Thì luôn vẫn không biết không hay,
Vƣợt hẳn mọi hiểu biết.
Ngƣời nào thật sự lên tới đó
Cũng đều trút bỏ chính mình.
Tất cả những gì xƣa đã biết
Đều có vẻ thấp làm sao,
Và ngƣời ấy càng cứ không biết
Sự hiểu biết càng gia tăng,
Vƣợt hẳn mọi hiểu biết.
Nhƣng đó là một bài thơ. Nó cho thấy rằng thật ra
vị Tiến sĩ thần nhiệm đã không hát lên chính kinh nghiệm
- vốn không tả đƣợc - và cũng cho thấy rằng việc diễn tả
143
kinh nghiệm ấy nằm trên con đƣờng của lƣợt về (nhƣ ta
thấy nói rất rõ trong tác phẩm của cha Baruzi).
Thật ngây ngô nếu cho rằng thơ ca của Thánh
Gioan Thánh Giá mô tả điều vốn không thể mô tả đƣợc.
Nó chỉ nhƣ tiếng dội của một giai điệu bên trong, ngƣời ta
có thể thƣởng thức mà không thể nói lại, hoặc chỉ nhƣ
những gợn nƣớc trên mặt hồ từng đợt phản ánh lại cái va
chạm nảy ra dƣới đáy nƣớc, ở một điểm chính xác mà ta
có thể đoán đƣợc.
Nhƣ vậy, vị thánh đã đi đến chỗ dựng lại đƣợc
một bầu khí nội tâm, gợi lên đƣợc điều đáng rung lên dƣới
tác động của ân sủng vô hình. Để nắm bắt đƣợc điều ngài
muốn làm cho ta hiểu, cần vƣợt hẳn khuôn khổ những
hình ảnh ngài đã dùng làm công cụ diễn tả.
Để minh họa, ta hãy xem cảnh chót của một trong
những bài thơ tiêu biểu nhất cho nghệ thuật của Thánh
Gioan Thánh Giá:
Và sau một hồi lâu chú đã lên
Trên một thân cây, ở đó chú đã giăng đôi tay xinh
đẹp,
Và chú chết treo ở đó bởi đôi tay ấy,
Trái tim tan nát vì yêu.
Một chuyển động bất động nơi một thái độ đầy ý
nghĩa. Đôi cánh tay đẹp giăng ra trong cái tƣ thế của các
tƣợng Chúa chịu nạn. Không một mô tả nào nấn ná lại ở
các chi tiết. Cũng chẳng có một màu sắc nào, dù rằng các
tƣợng Chúa chịu nạn ở Tây Ban Nha thế kỷ XVI không
thiếu gì màu mè. Trong cái cử chỉ đơn giản ấy, nổi rõ sự
hiến mình cho đến chết, mà cũng là sự chiến thắng của
tình yêu dƣới cái vỏ thất bại bên ngoài. Tất cả những điều
144
ấy vị thánh đã sống mãnh liệt đến độ, trong dịp tuần thánh
ấy, ngài cảm thấy nơi linh hồn và nơi xác thịt ngài những
đau đớn mà ngƣời mục tử của đồi Calvê đã biết đến trong
linh hồn và xác thịt mình. Có lẽ chính vì thế mà bài thơ
ngắn ngủi lại xuyên thấu lòng ta hơn những mô tả dài
dòng.
Cho nên, nếu kinh nghiệm thần nhiệm tự nó là
không thể tả lại, và nếu không thể nào vẽ phóng lại đúng
các đƣờng nét và màu sắc, thì muốn hiểu đƣợc điều vị
thánh có thể nói về kinh nghiệm ấy, ta cần biết vƣợt khỏi
ý nghĩa sơ khởi của các hình ảnh và từ ngữ.
Cần có một cuộc tái tạo bằng nội tâm mà ta thấy
nhan nhản bao nhiêu ví dụ trong lịch sử các tâm hồn ở Cát
Minh cũng nhƣ ở các nơi khác.
Chính vị thánh cũng đã giải thích về giá trị giáo
huấn trong những lời mở đầu nơi các tác phẩm của ngài.
Trong lời mở đầu cuốn Ca khúc tâm linh, ngài đã trình
bày rõ vai trò của lối phô diễn bằng thơ trong một lãnh
vực trào vƣợt khỏi lãnh vực của bài trình bày giáo lý.
Những dòng sau đây có tầm quan trọng rất lớn,
cần đọc thật kỹ: “Ở đây tôi không có ý định nêu rõ bề
rộng và sự dồi dào của tinh thần yêu thƣơng phong phú
đƣợc chứa đựng trong các câu thơ này.
Thật vậy, sẽ là một sự dốt nát thê thảm nếu cho
rằng có thể dùng một loại ngôn từ nào đó để giảng giải
những lời yêu thƣơng và những điều thầm kín trong sự
thông hiểu mầu nhiệm (mà những ca khúc này bàn đến).
Bởi vì, nhƣ thánh Phaolô nói, Thánh Thần Chúa nâng đỡ
sự yếu hèn của ta, Ngài đang ngự trong ta và dùng những
tiếng rên khôn tả mà cầu xin cho ta điều ta không thể nghe
145
cũng không thể hiểu để mà bộc lộ. Bởi vì, ai có thể viết
nên điều Thánh Thần muốn nói với những linh hồn đang
đƣợc Ngài ngự trị? Ai có thể dùng lời nói mà phô bày
đƣợc điều Ngài đang làm cho họ khao khát? Chắc chắn
không ai có thể nói lên điều ấy, ngay cả những linh hồn
trong đó điều ấy đang diễn ra cũng không thể nào giải
thích nó đƣợc. Chính vì thế ta hiểu tại sao các linh hồn ấy
thƣờng trút những điều họ cảm nhận đƣợc, đúng hơn,
thƣờng thổ lộ những điều thầm kín, huyền giao dào dạt
trong tâm hồn, bằng những hình ảnh, so sánh và ví dụ hơn
là bày tỏ bằng lý luận.”
Một cách thật tự nhiên, vị thánh nêu những ví dụ
lấy từ Kinh thánh rất giàu hình ảnh và biểu tƣợng. Ta cũng
có thể đem điều ngài nói về Kinh thánh áp dụng vào các
bài thơ ngài, trong mức độ của nó: “Các vị thánh tiến sĩ
đã nói về Kinh thánh nhƣng chẳng bao giờ có thể đi đến
cùng trong việc dùng lời lẽ mà tỏ bày điều ấy cho đầy đủ,
mà thật ra điều ấy cũng không thể nào nói ra đƣợc bằng
lời lẽ. Và nhƣ thế, điều nói ra đƣợc thƣờng chỉ là cái ít ỏi
trong những gì đƣợc chất chứa ở đó”.
Trong sự bất lực không thể lập luận để nói lên
điều mình cảm thấy, vị thánh chỉ còn một phƣơng kế là
dùng thơ ca và khả năng khơi gợi của nó, phần nào nhƣ
năng lực của một câu thần chú, để giúp ngƣời ta đoán ra
đƣợc một chút gì đó trong ân sủng ngài nhận đƣợc.
Những dòng tiếp theo trong Lời Mở Đầu ấy có thể
biểu lộ cho thấy một sự nghi ngờ đối với trí tuệ loài ngƣời.
Thật ra đó chỉ là kết quả của một sự ý thức bình thản về
những giới hạn của trí tuệ loài ngƣời, mà dù sao Thánh
Gioan Thánh Giá cũng đặt nền tảng trên đó nhƣ ai nấy đều
làm nhƣ thế ở Salamanca thế kỷ XVI, và ngƣời ta có lý.
146
Năng lực trí tuệ của các bậc tiền bối thế kỷ 16
đƣợc chứng tỏ qua biết bao công trình triết học và thần
học, khỏi cần phải nhấn mạnh. Có lẽ năng lực ấy không
cho phép họ ảo tƣởng về các giới hạn của trí tuệ. Dù sao,
thánh Gioan Thánh Giá vẫn cho rằng, nhờ ảnh hƣởng cần
thiết hơn bao giờ của ân sủng, thơ ca đem lại cho ngài một
khí cụ diễn tả vƣợt hẳn sự suy luận thuần túy. Và ngài đòi
hỏi ngƣời ta đọc thơ ngài không phải với một thái độ biện
luận, nhƣng với tâm tình ngƣời môn đệ khao khát muốn
gặp đƣợc dƣới những biểu tƣợng ấy đôi điều vê ân sủng
bề trong đã làm nảy sinh những thơ ca ấy: “Đối với tôi, có
lẽ đó là cách tốt nhất, vì những tiếng nói yêu thƣơng này
nên đƣợc giữ nguyên ý nghĩa rộng rãi của chúng để mọi
ngƣời có thể tùy cách và tùy mức của tâm trí mình mà
hiểu và thƣởng thức, thì tốt hơn là thu hẹp lại theo một ý
nghĩa không còn am hợp với mọi loại khẩu vị. Nhƣ thế, dù
ta có giải thích theo một cách nào đó thì cũng không phải
để gắn chặt vào việc giải thích: bởi vì sự khôn ngoan thần
nhiệm các ca khúc này nói đến (là điều phải hiểu bằng
tình yêu) không cần phải đƣợc nghe cho thật rõ mới phát
sinh trong tâm hồn một hiệu quả yêu mến và thân ái, phần
nào cũng tựa nhƣ trong đức tin, chúng ta yêu mến Thiên
Chúa mà không hiểu Ngài”.
“Không cần phải đƣợc nghe cho thật rõ...”. Làm
sao quả quyết đƣợc trên bình diện nào câu này chứa đựng
nhiều sự thật hơn? Trên bình diện các thực tại siêu nhiên
hay trên bình diện thơ ca? Nhƣng ở đây không nên hoài
công tìm cách tách rời bình diện siêu nhiên với bình diện
thơ ca. Nhờ một sự gặp gỡ có lẽ độc nhất vô nhị ở mức độ
này, cả hai bình diện trộn vào nhau đến độ ta không thể
147
nào biện phân đƣợc điều gì thuộc về nhà thần học và điều
gì thuộc về nhà thơ.
Điều này đặc biệt đúng đối với bài thơ có lẽ tiêu
biểu nhất trong các bài thơ của vị thánh: bài Đêm dày.
Những ngƣời đồng thời với Thánh Gioan Thánh Giá đặc
biệt xúc động với bài Ca khúc tâm linh. Còn ngƣời thời
nay thích dừng lại ở bài Đêm dày nhƣ là bài thơ, bằng một
biểu tƣợng duy nhất và trong một hình thức hoàn hảo đến
kỳ lạ, đã diễn tả đƣợc toàn thể giáo thuyết của vị tiến sĩ về
những nẻo đƣờng nội tâm.
Sẽ vô ích nếu muốn tìm cách tóm tắt trong vài
dòng tất cả sự phong phú của một biểu tƣợng mà những
tiềm năng đƣợc ẩn giấu thật không bờ bến. Việc Thánh
Gioan Thánh Giá sử dụng đêm tối vật lý làm biểu tƣợng
quả là một thành công lạ thƣờng trong lịch sử tƣ tƣởng
Kitô giáo. Năng động đến tận cốt lõi (hoặc nói theo kiểu
triết gia: có giá trị loại suy đến tận yếu tính), biểu tƣợng
độc nhất này cho phép diễn tả những thực tại hết sức khác
biệt nhƣ nỗ lực khổ chế của ngƣời mới bƣớc vào đƣờng
thiêng liêng, những thử thách mà các vị thánh lớn phải
hứng chịu cách thụ động, và cả đến niềm vui khôn tả của
sự kết hợp với Thiên Chúa. Thật vậy, biểu tƣợng duy nhất
này thoạt nhìn thì chỉ nói lên sự phủ nhận, thiếu vắng, lột
bỏ nhƣng chẳng mấy chốc lại cho thấy là hàm chứa rất
phong phú cái nội dung tích cực nhất: Một bầu trời vô vàn
sao sáng mà cặp mắt kinh ngạc của ta chỉ khám phá ra
đƣợc nếu đêm thật đen.
Tính năng động của biểu tƣợng này không chỉ có
thế, mà còn năng động ở chỗ nó không biểu thị một lúc
nhất định hoặc một lúc bất định nào đó trong đêm. Nó tuỳ
trƣờng hợp mà biểu thị, khi thì đêm mới buông, khi thì
148
đêm khuya thăm thẳm, hoặc khi thì, nhƣ trong bài Ca
khúc, “đêm yên tịnh, sóng đối với những trở mình của
hừng đông”.
Ngoài bài Đêm ra, trong số ít ỏi những bài thơ của
ngài, hỏi có mấy lần vị thánh không trở lại với biểu tƣợng
chủ chốt ấy? Trong bài Ca khúc tâm linh, ngài nhắc đến
hai lần thật rõ nét. Trong bài thơ Dòng suối, một trong
những bài có nội dung thần học phong phú nhất, có bốn
chữ đƣợc lặp đi lặp lại mãi nhƣ một ám ảnh, tạo nên sự
duy nhất sâu xa của bài thơ: Cho dù là đêm.
Tôi biết lắm, dòng suối vẫn cuồn cuộn chảy
Cho dù là đêm.
Dòng suối đời đời ấy đƣợc giấu kín
Nhƣng tôi vẫn biết lắm những ngóc ngách nó,
Cho dù là đêm.
Nguồn mạch nó tôi không biết, vì nó không có nguồn
Nhƣng tôi biết tất cả mọi nguồn mạch đều phát xuất từ
nó
Cho dù là đêm.
Tôi biết lắm nơi nó không tìm đƣợc chân móng
Và không ai có thể vƣợt qua nó đƣợc
Cho dù là đêm.
Sự chói lọi của nó không bao giờ bị che tối
Và tôi biết rằng mọi ánh sáng đều từ nó mà đến
Cho dù là đêm.
Dòng suối sống động này mà tôi hằng khao khát
Tôi thấy nó nơi tấm bánh của sự sống
Cho dù là đêm.
149
Ba bài khác trong các bài thơ ngắn cũng dành ra
trọn một tiết để ca hát cùng một biểu tƣợng ấy (bài IV, 4;
bài VI, 2; bài X, 2)
Nhƣng dù hết sức ý vị, tất cả những tiết thơ ấy chỉ
vận dụng biểu tƣợng đêm cách thoáng qua. Bao giờ những
ngƣời nồng nhiệt với vị tiến sĩ thần nhiệm cũng trở lại với
bài Đêm dày nhƣ bài ca đƣợc họ ƣa chuộng nhất. Thật
vậy, trong bài thơ này ngài đã chọn biểu tƣợng ấy làm chủ
đề duy nhất và triển khai suốt cả 8 tiết, mỗi tiết 5 câu thơ,
với một xúc cảm và một khả năng khơi gợi không bài nào
sánh kịp.
Lúc đầu, nhịp thơ thật nhanh, nhƣ muốn hụt hơi,
nhƣ thể linh hồn quá sung sƣớng vì vƣợt đƣợc cuộc phiêu
lƣu khó khăn. Trong tiết thứ hai và thứ ba không có động
từ. Có thể nói rằng cái ngỡ ngàng của hạnh phúc quá lớn,
chỉ riêng tiết 1 không chở nổi, cho nên phải nghỉ lấy sức
rồi chuyển bớt sang hai tiết sau. Sự cảm xúc mới mẻ đến
độ chỉ có thể diễn tả thành từng tiếng:
Giữa một đêm dày,
Nồng nàn yêu thƣơng và âu lo,
Ôi vận may diễm phúc !
Tôi đã ra đi không bị để ý,
Mái nhà tôi giờ thật yên hàn.
Trong tăm tối và an toàn
Cải trang, men theo cầu thang bí mật,
Ôi vận may diễm phúc !
Trong tăm tối và đƣợc che khuất,
Mái nhà tôi giờ thật yên hàn.
Nhờ đêm diễm phúc,
Trong bí mật, vì không ai thấy tôi,
150
Cả tôi cũng không thấy gì cả,
Không một ánh sáng và kẻ dẫn đƣờng nào khác
Ngoài chút sáng cháy trong tim.
Ông Voltaire có muốn lấy làm gai chƣớng vì sách
Nhã Ca sử dụng ngôn ngữ của tình yêu nhân loại thì mặc
ông ấy. Còn chúng ta, có lẽ phải thấy đƣợc dấu hiệu về sự
thanh khiết trinh nguyên của tâm hồn Thánh Gioan Thánh
Giá trong cái táo bạo bình thản của ngài đây, khi ngài diễn
tả một thực tại thiêng liêng bằng cách vận dụng những
hình ảnh có thể dễ bề bị trĩu nặng tính chất con ngƣời.
Đọc những tiết thơ này, ai mà chẳng đoán đƣợc
ngài đã phải anh hùng thế nào khi toan tính cuộc phiêu lƣu
thánh thiện, khi mạo hiểm vào cuộc vƣợt ngục khó khăn
mà biết bao tù nhân đã thất bại đang lúc thực hiện. Vâng,
phải anh hùng lắm mới có thể ra khỏi mình nhƣ thế, bất
chấp mọi trở ngại, không kể gì những kẻ âm mƣu đồng loã
và mặc dầu không có đƣợc một ánh sáng nào hƣớng dẫn.
Chẳng những chấp nhận không đƣợc ai nhìn thấy - điều
này thật ra lại là một sự may mắn tình cờ, một cơ hội tốt -
mà còn chấp nhận không thấy gì, chấp nhận phải mò
đƣờng trong sự tối tăm toàn diện, thật là anh hùng! Nhƣng
chính sự từ chối mọi ánh sáng đã giúp cho linh hồn có thể
tự hƣớng dẫn duy bằng tình yêu mà thôi.
Tiết 4 nhắc đến Đấng mà, qua con đƣờng tăm tối
này, linh hồn sẽ gặp đƣợc và là Đấng không cần nêu tên:
Chút sáng ấy đang hƣớng dẫn tôi
Chắc chắn hơn ánh sáng giữa trƣa,
Dẫn đến nơi có ngƣời đợi tôi
Ngƣời mà tôi biết rõ,
Đợi ở phía không ai lai vãng.
151
Việc nhắc đến một ngƣời đƣợc tìm kiếm không
phải chỉ thuần là một sự trang điểm văn chƣơng hoặc chỉ
lặp lại điển tích của sách Nhã Ca. Chắc chắn không đƣợc
coi nhẹ lời van xin rất cảm kích ngỏ với đêm tối, trong tiết
5:
Ôi đêm ! Ngƣơi đã hƣớng dẫn ta !
Ôi đêm ! Đáng yêu hơn rạng đông !
Ôi đêm ! Ngƣơi đã phối hợp
Đức Tình Quân với tình nƣơng
Một tình nƣơng đã đƣợc biến đổi nên Tình Quân !
Rõ ràng tiết này là tột đỉnh của bài thơ. Nó đánh
dấu điểm mà chuyển động đã đạt tới tuyệt đích cuối cùng.
Tuy nhiên, việc van xin đêm tối không loại bỏ yếu
tố đích thân nhập cuộc đã xuất hiện ở tiết 4, đúng hơn, còn
làm cho yếu tố ấy thêm mạnh hơn. Rồi 3 tiết cuối cùng (dĩ
nhiên có màu sắc quy ƣớc, và với một sự ý nhị, một sự
nhẹ nhàng tao nhã) đã ca mừng tính chất đích thân nhập
cuộc của sự kết hợp mà linh hồn đã đạt đƣợc.
Tôi ở yên và tự quên đi
Tôi nghiêng mặt trên Tình Quân
Tất cả ngƣng lại, và tôi buông mình,
Buông bỏ cả sự chú ý của tôi
Giữa những cánh huệ, và quên.
Gác bỏ mọi tƣ tƣởng có tính tranh luận, liệu ta có
thể coi thƣờng sự kiện là 5 trong số 8 tiết thơ nói đến sự
kết hợp đã khao khát nhƣ một sự kết hợp giữa ngôi vị với
Ngôi Vị, giữa kẻ đƣợc yêu với Đấng Chí Ái của nó?
Lịch sử hẳn phải có lắm điều hƣớng dẫn ta suy
nghĩ nhƣ thế về bài thơ Đêm, và tìm tòi học thuyết của vị
152
thánh xuyên qua các biểu tƣợng. Đúng vậy, lịch sử cho ta
biết rằng Thánh Gioan Thánh Giá chắc chắn đã rất thƣờng
trải qua những cuộc chiêm niệm ngƣỡng mộ trong đêm
dƣới bầu trời sâu thẳm miền Castilla, nhƣng đồng thời
cũng với những lý do ấy, ngài rất thích ở lại một mình
trong đêm dƣới chân Nhà Tạm. Đối với những ai biết rõ
nếp sống của Thánh Gioan Thánh Giá nhƣ thế, sẽ không
còn ngạc nhiên gì khi ngài nhắc đến một Thiên Chúa có
ngôi vị và đem vào thơ ngài những hình ảnh đi xa hơn sự
phủ nhận thuần túy: Tức là không hề có chuyện làm nghèo
chất biểu tƣợng. Bài thơ ấy thật hoàn toàn mạch lạc và
đúng nhƣ điều ta đã cảm thấy đƣợc ngay nơi tựa đề vị
thánh đặt cho nó:
“Những ca khúc của linh hồn sung sƣớng đƣợc
nâng lên tầm cao của sự hoàn thiện, tức là sự hiệp nhất
với Thiên Chúa, nhờ con đƣờng từ bỏ thiêng liêng”.
Bài Ca khúc tâm linh lấy lại một câu của bài thơ
Đêm và cho nó những kích thƣớc rộng lớn hơn. Lịch sử
cho ta biết rằng bài Ca khúc tâm linh đã đƣợc biên soạn
không thuần nhất. Do đó mà nó không có đƣợc sự duy
nhất mạch lạc nhƣ nơi bài Đêm. Chúng ta sẽ chỉ phân tích
những chi tiết đã đƣợc biên soạn trong ngục thất Toledo.
Thật ra các chi tiết khác cũng chỉ mở rộng đoạn kết ban
đầu, không thêm yếu tố gì mới.
Có hai chuyển động lớn nâng đỡ bài Ca khúc,
theo một tiết điệu phảng phất suốt cuộc kiếm tìm đầy đam
mê.
Nơi Pascal, tác phẩm Mầu nhiệm Đức Giêsu cũng
để lộ một tiết điệu ấy của tâm hồn.
153
Trƣớc hết là một tiếng gọi, âu lo đến đau đớn, lên
cao dần suốt 12 tiết thơ đầu32
. Đến tiết 13, câu trả lời xuất
hiện, có vẻ tràn trề, và phải có không dƣới 12 tiết để dàn
trải niềm vui của câu trả lời ấy.
Tuy nhiên, vẫn còn có một sự trống rỗng, nên
chẳng mấy lúc lại phải có một tiếng gọi mới. Các tiết 26
và 27 nói lên sự đau đớn vẫn còn gặp phải và phô diễn
một khao khát bình lặng và chắc chắn đƣợc đoái nhận.
Tiết 28 hát lên câu trả lời, lần này thì thật là tràn
trề. Đó là sự kết hợp trọn vẹn nhất mà cuộc sống trần gian
này có thể chịu đựng nổi. Chẳng còn gì để thân thiết ở đời
này nữa: Vì thế mà 3 tiết tiếp để dành để mừng sự bình an
của tân nƣơng.
Hai nỗi khao khát, hai sự đáp trả, hai niềm vui. Ta
đứng trƣớc một tiết điệu nằm trong yên tĩnh của sự sống,
sự sống siêu nhiên và mọi sự sống khác.
Ta thử phân tích chớp nhoáng bài thơ này mà xƣa
kia đã tạo nhiều tiếng vang ở Castilla và Andalucia.
Ai sẽ nói lên đƣợc những âu lo của một tình yêu
không còn kiên nhẫn nổi? Hẳn là bà Raken, vì bà đã phải
khóc với Giacóp: “Hãy cho em có con, không thì em
chết”: Tân nƣơng của Ca khúc tâm linh, trong một giọng
văn ngắn cụt, chói lòa đam mê, ngay từ tiết đầu tiên đã
kêu lên những âu lo ấy, không một lời báo trƣớc:
Ngƣời ẩn nơi nao, hỡi Đấng Chí Ái,
Mà bỏ em rên rỉ ?
Nhƣ một con nai, Ngƣời trốn biệt,
Mặc cho em bị thƣơng,
32 Số thứ tự các tiết nói đây là của phiên bản B.
154
Em chạy ra, gọi với theo Ngƣời, thì Ngƣời đã đi.
Suốt 3 tiết, nàng nài xin các thụ tạo vì nghĩ chúng
có thể giúp nàng gặp đƣợc Đấng nàng tìm kiếm “với
những âu lo và sức mạnh nhƣ khi sƣ tử cái và gấu cái chạy
đi tìm con của chúng vừa bị ngƣời ta bắt mất”: nhƣ tác giả
đã diễn tả trong cuốn Đêm dày (II, 13).
Để tìm kiếm tình tôi
Tôi sẽ đi qua những núi kia và những bờ sông kia
Tôi sẽ chẳng hái hoa,
Sẽ không sợ thú dữ
Tôi sẽ vƣợt qua những kẻ hung tàn và biên giới.
Thế nhƣng câu trả lời của vạn vật chỉ khiến nàng
thêm thất vọng.
Ôi ! ai có thể chữa lành em !
Thôi, xin hãy ban cho em chính Ngƣời,
Thôi, hôm nay hãy bỏ đi, đừng gửi nữa
Đừng gửi thêm những sứ giả đến với em
Vì họ đâu nói đƣợc cho em những điều em tha thiết !
Và nỗi lo âu muốn có đƣợc Thiên Chúa thật sự lên
đến cực độ đƣợc diễn tả nơi một trong những tiết trữ tình
nhất của bài thơ:
Hãy dập tắt những phiền muộn của em
Vì không ai đủ sức cất chúng đi
Và ƣớc gì đôi mắt em thấy đƣợc Ngƣời
Vì Ngƣời là ánh sáng của đôi mắt ấy,
Đôi mắt mà em muốn giữ cho một mình Ngƣời.
Đến nƣớc ấy thì câu trả lời không thể chần chừ
nữa. Nó đã tới, và dƣới những biểu tƣợng khiến ngƣời ta
có thể đoán ra một điều gây ngạc nhiên đến kỳ diệu:
155
Không phải chỉ có linh hồn khao khát sự kết hợp đến độ
tiều tụy, chính Đấng có nguồn vui vô tận lại chẳng lấy làm
vui thú đƣợc ở với các con cái loài ngƣời đó sao?
Quay lại đi, Bồ câu !
Này đây con nai bị thƣơng
Xuất hiện trên đỉnh cao
Khi nhận ra làn khí mát do em vỗ cánh.
Sự thiếu kiên nhẫn bị dồn nén từ lâu đã bùng nổ
thành một tràng mừng vui kể lể:
Đấng Chí Ái của em, là những núi,
Những thung lũng xanh um quạnh quẽ
Những đảo xa
Những dòng sông vang ngân
Và tiếng gió thì thào trìu mến.
Và là đêm yên hàn
Đang khi hừng đông cựa mình thức giấc
Nhạc thinh lặng
Niềm cô tịch réo rắt
Bữa tối bổ dƣỡng và đắm say yêu mến.
Sau khi đã phá vỡ những bờ đập cuối cùng ngăn
nó vƣợt qua, từ đây dòng nƣớc lũ chảy vào bình nguyên,
lai láng, hiền hoà và vẻ vang chiến thắng. Các tiết thơ nối
tiếp nhau. Chiếc giƣờng hoa thật rộng và bình nguyên bao
la. Theo chân vị thánh, biết bao linh hồn say đắm sẽ còn
thích lặp đi lặp lại tiết thơ này, trong đó chiều sâu của tƣ
tƣởng đƣợc nâng đỡ bằng tài diễn tả rất điêu luyện. Những
linh hồn ấy sẽ có tên là Ana Giêsu, một ngƣời cùng vai vế
với Têrêxa Avila, hoặc là Têrêxa Lisieux, sống rất gần
thời đại chúng ta nhƣng đúng nghĩa là con gái của Thánh
Gioan Thánh Giá.
156
Thế là linh hồn tôi hoàn toàn chăm chú
Đem hết sức lực phục vụ Chàng
Tôi chẳng còn chăn bầy vật
Cũng chẳng còn phận sự nào khác
Chỉ còn một việc là yêu.
Rồi nếu hôm nay ra đến sân làng
Không còn thấy tôi, không còn gặp,
Hẳn các bạn sẽ bảo rằng tôi đã lạc
Đang khi tôi bƣớc say đắm ngất ngây
Tôi đã để mình mất hết và tôi đã đƣợc.
Tuy nhiên tân nƣơng vẫn còn phải đƣợc một sự
vững bền nào đó trong niềm vui vừa đƣợc ban cho nàng.
Sự bình an của nàng, bây giờ đã thật trong sáng, vẫn còn
lệ thuộc vào một số thử thách: Lũ chồn con thật nhanh
nhẹn và tinh quái. Và biết đâu gió lạnh từ phƣơng bắc lại
chẳng đến làm khô héo những bông hoa nơi Đấng Chí Ái
đang nuôi mình ở đó. Lần này câu trả lời không chậm trễ .
Câu trả lời dứt khoát :
Tân nƣơng đã vào
Trong vƣờn diễm lệ nàng mơ ƣớc
Nghỉ ngơi giữa sắc hƣơng
Cổ nghiêng
Trên những cánh tay dịu êm của Đấng Chí Ái.
Tức khắc - mà có gì để ngạc nhiên khi ta đã biết
tình yêu vị thánh dành cho Đấng ngài thích gọi là “Cứu
Chúa” của chúng ta - tức khắc, mầu nhiệm thập giá đƣợc
nhắc đến, nhƣ để thúc giục cho linh hồn gia tăng lòng biết
ơn. Có thể nói rằng cả ở đây nữa, Ngôi Lời và là Phu
Quân đang nói với Tân nƣơng rằng khao khát của Ngài
vƣơn cao vƣợt xa khao khát của nàng, mà nỗi khao khát
157
này thì chính nàng đã nhận lãnh từ Ngài. Chính từ trên cao
của cây thập giá, Ngài đã đƣa tay cho linh hồn Ngài muốn
kéo lên.
Từ đây là sự kết hợp bền vững. Tân nƣơng, một
khi đã đến đây thật rồi, chẳng còn gì để khao khát nữa,
nếu không phải là chẳng còn gì làm phai lạt đƣợc sự kết
hợp đắt giá dƣờng ấy.
Trong mấy tiết cuối có một số tiết ta không nên ép
nghĩa quá. Chỉ cần hiểu rằng giấc ngủ của tân nƣơng đang
nghỉ ngơi dịu dàng nhƣ vậy không nên bị quấy rầy :
Này lũ chim bay nhẹ
Này những sƣ tử, hƣơu nai và hoẵng đang nhảy nhót
Này những núi đồi, thung lũng và bờ sông
Nƣớc, khí và sức nóng
Và hỡi những nỗi sợ của bao đêm không ngủ.
Bằng những khúc nhạc thất huyền cầm du dƣơng
Và bằng tiếng hát nhân ngƣ ta kêu gọi các ngƣơi
Hãy dừng những cơn cuồng nộ
Đừng động đến bức tƣờng
Để Tân Nƣơng đƣợc thêm yên giấc.
Với hình ảnh sau cùng, chúng ta bắt gặp lại đƣợc,
ở cuối một đoạn đƣờng chi tiết hơn, cùng một cảnh trí nội
tâm nhƣ ở cuối bài thơ Đêm dày.
9 tiết thơ thêm vào sau đó chỉ nhƣ một tiếng vang
làm tỏa rộng niềm vui của sự kết hợp. Thật hết sức đúng
là chẳng còn gì để khao khát ở đời này nữa, đồng thời
cũng chẳng còn một giới hạn nào hạn chế cái tình yêu mà
Thiên Chúa có thể trút vào tấm linh hồn đang mở rộng.
158
Niềm vui có thể lớn lên đến vô tận, và để gợi lên điều ấy,
những hình ảnh dịu dàng nhất nảy nở và gia tăng dồn dập:
Và ở đó xin Ngƣời tỏ cho em
Điều hồn em hằng khao khát
Và rồi, hỡi Ngƣời là sự sống của em
Ở đó xin Ngƣời hãy cho em
Điều Ngƣời đã cho em ngày ấy.
Hơi gió nhẹ
Tiếng họa mi ca dịu dàng
Rừng cây và vẻ duyên dáng của nó
Giữa đêm thanh
Với ngọn lửa đốt thiêu mà không gây đau đớn.
Nhƣ thế, đoạn kết của Ca khúc đã làm cho ta dự
cảm một bài thơ khác, phát sinh từ tâm hồn vị thánh và
đƣợc chính ngài minh giải trong 15 ngày, bài Ngọn lửa
tình nồng.
Nỗi khắc khoải cái vô cùng đã ám ảnh các nhà thơ
tƣợng trƣng cũng chính là điều đã làm cho Thánh Gioan
Thánh Giá thành thi sĩ. Thế nhƣng trong khi Beaudelaire,
Mallarmé và Rimbaud (cần để riêng Verlaine ra) trở thành
mồi ngon cho nỗi khắc khoải mà họ muốn tìm cách diễn
đạt chỉ nguyên bằng những năng lực nhân loại của họ, thì
Thánh Gioan Thánh Giá nhờ có cả một Truyền thống
Kinh thánh và thần nhiệm phong phú, lại đƣợc nâng đỡ
bằng một sự đào luyện chắc nịch về triết học và thần học,
và nhất là đƣợc cháy bừng một cảm hứng trực tiếp, nên đã
thành công trong việc đem lại cho nỗi khắc khoải ấy một
sự diễn đạt đúng với chân lý.
Những bài thơ của ngài có cùng một chủ đề duy
nhất. Chỉ một Hữu Thể duy nhất làm nguồn phát sinh tất
159
cả. Đó là Đấng Chí Ái của Ca khúc, là Chú bé chăn cừu,
là Đấng không cần phải nêu tên vì linh hồn đã biết rõ. Một
cách nhiệm mầu, đó cũng là con mồi không thể nắm bắt
đƣợc mà linh hồn vƣợt qua tất cả để săn đuổi. Đó cũng là
“một điều gì đó tôi không rõ mà ngƣời ta vừa tình cờ tìm
đƣợc”. Nhƣng, trong một ngôn ngữ sáng rõ, đó cũng chính
là Thiên Chúa Ba Ngôi trong các Tình khúc, là Ngƣời Con
của Đức Maria sinh trong hang đá. Đấng Vô Cùng hằng
sống và có một ngôi vị mà linh hồn chẳng hề có một mục
đích nào khác hơn là đạt tới Đấng ấy, chẳng có một khao
khát nào hơn là chiếm hữu đƣợc Ngài. Cùng một tình yêu
say đắm ấy làm hồn cho mọi bài thơ. Tất cả đều đƣợc
thâm nhập ở cùng một năng động yêu thƣơng, làm nền
cho sự hiểu biết. Thật vậy, không phải vì một nhu cầu mù
quáng cần yêu mà nảy ra cảm hứng trữ tình của bài thơ
Đêm dày và Ca khúc tâm linh. Linh hồn tìm kiếm hữu-thể-
đƣợc-yêu-mến vì đã đƣợc biết hữu thể ấy, mặc dù hữu thể
ấy vƣợt mọi sự hiểu biết, linh hồn vẫn muốn ngày càng
đƣợc biết rõ hơn. Phải nhắm mắt lại để gắn bó với Ngài
trong đức tin. Niềm vui duy nhất là đƣợc kết hợp với Ngài
trong tình yêu, vĩnh viễn không còn chia cách nữa.
Đây là một thế giới khép kín, ít ra là xét theo bề
ngoài: thật vậy, vị thánh không còn một lo lắng nào khác,
một khao khát nào khác, một đau khổ nào khác, một niềm
vui nào khác, hệt nhƣ Maria ngƣời Mácđala nghĩ rằng
chẳng cần phải nói cho ngƣời giữ vƣờn biết tên Đấng chị
tìm kiếm, vì tƣởng đâu mọi ngƣời đều cùng một lo nghĩ
nhƣ chị.
Thế nhƣng mối lo lắng độc nhất này giúp đối đầu
với mọi lo lắng.
160
Mối bận tâm độc nhất này giúp giải quyết mọi vấn
đề.
Thế giới ấy chỉ khép kín ngoài mặt thôi, bởi lẽ nó
là linh hồn của mọi thế giới khác.
Nhà thơ bị nỗi ám ảnh ấy xâm chiếm lại cũng là vị
thánh, với một cảm thức mãnh liệt về ngƣời khác, đã giúp
biết bao nhiêu ngƣời, nam cũng nhƣ nữ, và với một cảm
thức cụ thể rất đặc biệt, đã làm xong đƣợc biết bao công
việc.
Để đạt đến sự kết hợp nhƣ thế với Thiên Chúa
trong tình yêu, không một kỹ thuật nhân loại nào thích
hợp nổi. Đó là điều các bài thơ không ngừng dùng cách
nói của chúng để khẳng định.
Ích gì những vị sứ giả không biết nói cho tân
nƣơng điều duy nhất nàng mong muốn?
Cần phải dập tắt mọi ánh sáng khác để tân nƣơng
có thể lần bƣớc mà không lạc đƣờng, nhờ ánh sáng duy
nhất của tình yêu đang cháy trong tim nàng.
Mọi sự hiểu biết và tài khéo nhân loại đều không
thể vƣơn cao đến thế. Chỉ có cách là hạ mình xuống thật
thấp hết sức, mới đạt đƣợc con mồi mình săn đuổi.
Các bài thơ đều đồng thanh hát lên sự bất lực của
tầm hiểu biết và tình yêu nhân loại của chúng ta. Nhƣng
đó chính là để suy tôn thật trổi vƣợt sự toàn năng của một
niềm hy vọng bị tƣớc lột hết, chỉ còn biết nƣơng tựa vào
Tình Yêu đã ngự xuống giữa chúng ta.
Và nhƣ thế, mọi nghịch lý đều là để làm nổi bật
trực giác trung tâm ấy. Một sự dốt nát diễm phúc, còn
thông thái hơn mọi khoa học. Một sự bất lực đƣợc chúc
161
phúc, vì vƣợt cả những cánh chim phƣợng hoàng mạnh
mẽ nhất. Một sự từ bỏ phong phú hơn mọi chiếm hữu, vì
giúp đạt đƣợc một tình yêu mà không có cách gì khác đạt
đƣợc.
Các bạn hẳn nói rằng tôi đã lạc.
Đang khi tôi bƣớc say đắm ngất ngây
Tôi đã để mình mất hết và tôi đã đƣợc.
Thánh Gioan Thánh Giá quả là con ngƣời chỉ biết
một ý tƣởng duy nhất, và hơn nữa, chỉ biết một tình yêu
duy nhất. Không gì hơn các bài thơ của ngài giúp ta xác
tín điều ấy.
162
ĐÊM DÀY 33
Những ca khúc của linh hồn sung sƣớng đƣợc nâng lên tầm
cao của sự hoàn thiện, tức là sự hiệp nhất với Thiên Chúa, nhờ
con đƣờng từ bỏ thiêng liêng.
Giữa một đêm dày,
Nồng nàn yêu thƣơng và âu lo,
Ôi vận may diễm phúc !
Tôi đã ra đi không bị để ý,
Mái nhà tôi giờ thật yên hàn.
Trong tăm tối và an toàn
Cải trang, men theo cầu thang bí mật,
Ôi vận may diễm phúc !
Trong tăm tối và đƣợc che khuất,
Mái nhà tôi giờ thật yên hàn.
Trong đêm diễm phúc,
Trong bí mật, vì không ai thấy tôi,
33 Thứ tự các bài thơ lấy theo ấn bản Desclée de Brouwer, lời dẫn vào từng bài thơ là
của cha Lucien Marie de Saint Joseph OCD trong ấn bản ấy.
163
Cả tôi cũng không nhìn gì cả,
Không một ánh sáng và kẻ dẫn đƣờng nào khác
Ngoài chút sáng cháy trong tim.
Chút sáng ấy đã hƣớng dẫn tôi
Chắc chắn hơn ánh sáng giữa trƣa,
Dẫn đến nơi có ngƣời đợi tôi
Ngƣời mà tôi biết rõ,
Đợi ở phía không ai lai vãng.
Ôi đêm ! Ngƣơi đã hƣớng dẫn ta !
Ôi đêm ! Đáng yêu hơn rạng đông !
Ôi đêm ! Ngƣơi đã phối hợp
Đức Tình Quân với tình nƣơng
Một tình nƣơng đã đƣợc biến đổi nên Tình Quân !
Trên lòng tôi đầy hoa,
Đƣợc giữ vẹn cho một mình Chàng,
Chàng lƣu lại đó, say ngủ,
Và tôi vuốt ve Chàng,
Và quạt mát cho Chàng bằng quạt bá hƣơng.
Khi tôi đang vân vê tóc Chàng
Khí, từ lỗ châu mai
Bằng bàn tay trong suốt của nó
Đã làm tôi bị thƣơng ở cổ
Và khiến mọi giác quan tôi bị treo lơ lửng.
Tôi ở yên và tự quên đi
Mặt nghiêng trên Tình Quân
164
Tất cả ngƣng lại, và tôi buông mình,
Buông bỏ cả sự chú ý của tôi
Giữa những cánh huệ, và quên.
165
NHỮNG CA KHÖC TÂM LINH
PHIÊN BẢN A 34
Những ca khúc giữa linh hồn và Đấng Chí Ái
TÌNH NƢƠNG
1. Ngƣời ẩn nơi nao, hỡi Đấng Chí Ái,
Mà bỏ em rên rỉ?
Nhƣ một con nai, Ngƣời trốn biệt,
Sau khi đã làm cho em bị thƣơng,
Em chạy ra, gọi với theo Ngƣời, thì Ngƣời đã đi.
2. Hỡi những ngƣời chăn cừu đang bƣớc tới
Ở đó, qua những ràn cừu, tới tận đỉnh cao
Nếu tình cờ các anh thấy
Ngƣời tôi yêu mến nhất
Xin nói với Chàng rằng tôi liệt nhƣợc, đau khổ và tôi chết.
3. Để tìm kiếm tình tôi
Tôi sẽ đi qua những núi kia và những bờ sông kia
Tôi sẽ chẳng hái hoa,
Sẽ không sợ thú dữ
Tôi sẽ vƣợt qua những kẻ hung tàn và biên giới.
34 Phiên bản A chỉ có 39 tiết theo thứ tự nhƣ ở đây. Phiên bản B sẽ thêm một tiết
thành 40 tiết. Từ tiết 1-10 phiên bản A và B giống nhau. Tiếp đó phiên bản B thêm
mới tiết số 11. Rồi các tiết từ 11-32 của phiên bản A chuyển thành 12-33 của phiên
bản B nhƣng xếp theo thứ tự khác. Sau cùng, các tiết 33-39 của phiên bản A chuyển
thành 34-40 của phiên bản B và giữ nguyên thứ tự.
166
(Tra hỏi vạn vật)
4. Ôi những rừng cây và bờ bụi,
Bàn tay Đấng Chí Ái đã trồng lên
Ôi đồng cỏ xanh rờn
Trang điểm những hoa xinh
Xin hãy nói ta hay Chàng có đi qua chỗ các ngƣời không?
VẠN VẬT TRẢ LỜI
5. Tuôn tràn nghìn ơn diễm lệ,
Chàng đã đi qua những lùm cây này thật vội vã.
Khi lƣớt qua và nhìn ngắm chúng
Chỉ với một ánh dung nhan Chàng thôi
Chàng đã để lại cho tất cả đƣợc trang phục rực rỡ.
TÌNH NƢƠNG
6. Ôi! ai có thể chữa lành em!
Thôi, xin hãy ban cho em chính Ngƣời,
Thôi, hôm nay hãy bỏ đi, đừng gửi nữa
Đừng gửi thêm những sứ giả đến với em
Vì họ đâu nói đƣợc cho em những điều em tha thiết!
7. Và bao nhiêu kẻ thảnh thơi
Kể cho em về Ngƣời hàng ngàn diễm lệ
Tất cả chỉ càng khiến em bị thƣơng
Và càng chết em hơn
Bởi có một điều gì đó em không rõ mà họ cứ bập bẹ.
8. Ôi sự sống, làm sao ngƣơi còn kéo dài đƣợc
Khi không sống ở nơi phải sống?
Lẽ ra ngƣơi đã chết
Vì trúng phải những mũi tên
Do điều ngƣơi nghĩ về Đấng Chí Ái.
9. Kìa Ngƣời đã khiến trái tim này bị thƣơng,
Sao Ngƣời không chữa lành nó?
Kìa Ngƣời đã lấy trộm trái tim em
167
Tại sao còn để lại đó nhƣ thế?
Sao không mang theo của ăn trộm mà Ngƣời đã trộm đƣợc?
10. Hãy dập tắt những phiền muộn của em
Vì không ai đủ sức cất chúng đi
Và ƣớc gì đôi mắt em thấy đƣợc Ngƣời
Vì Ngƣời là ánh sáng của đôi mắt ấy,
Đôi mắt mà em muốn giữ cho một mình Ngƣời.
11. Ôi dòng suối pha lê loang loáng
Phải chi trong những nét tráng bạc của ngƣơi
Bất chợt ngƣơi cho ta thấy
Đôi mắt đáng ƣớc ao
Mà ta đã ghi trong lòng ta một thoáng.
12. Này Đấng Chí Ái, hãy quay mắt đi một lúc,
Em bay.
TÌNH QUÂN
Quay lại đi, Bồ câu!
Này đây con nai bị thƣơng
Xuất hiện trên đỉnh cao
Khi đón lấy làn khí mát do em vỗ cánh.
TÌNH NƢƠNG
13. Đấng Chí Ái của em, là những núi,
Những thung lũng xanh um quạnh quẽ,
Những đảo kỳ lạ,
Những dòng sông vang ngân
Và tiếng gió thì thào trìu mến.
14. Và là đêm yên hàn
Đang khi hừng đông cựa mình thức giấc,
Nhạc thinh lặng,
Niềm cô tịch réo rắt,
Bữa tối bổ dƣỡng và đắm say yêu mến.
168
15. Giƣờng chúng ta đầy hoa,
Kết bằng những hang sƣ tử,
Trải rực màu đỏ,
Đƣợc xây dựng thật yên hàn,
Và đƣợc nghìn thuẫn khiên vàng ròng tô điểm.
16. Dõi theo dấu chân Ngƣời
Các thiếu nữ rảo bƣớc trên đƣờng đi,
Dựa vào cái chạm khẽ chớp nhoáng,
Vào mùi rƣợu cất;
Và những hơi thở tỏa chất thơm thần thánh.
17. Nơi hầm rƣợu bên trong
Tôi đã uống lấy Đấng Chí Ái, và khi bƣớc ra
Qua suốt cánh đồng bao la ấy,
Tôi chẳng còn biết một chuyện gì,
Tôi đánh mất đàn vật vừa theo chăn trƣớc đó.
18. Ở đó Chàng đã cho tôi hết lòng hết dạ,
Đã dạy tôi một khoa học hết sức dịu ngọt,
Và tôi đã thực sự hiến dâng Chàng tất cả
Không trừ lại gì;
Ở đó tôi hứa cùng Chàng xe tơ kết tóc.
19. Thế là linh hồn tôi hoàn toàn chăm chú
Đem hết năng lực phục vụ Chàng;
Tôi chẳng còn chăn bầy vật,
Cũng chẳng còn phận sự nào khác,
Chỉ còn một việc là yêu.
20. Rồi nếu hôm nay ra đến sân làng
Không còn thấy tôi, không còn gặp,
Các bạn hãy bảo rằng tôi đã lạc,
Đang khi tôi bƣớc say đắm ngất ngây,
Tôi đã để mất chính mình và đã đƣợc lại.
21. Bằng hoa và ngọc lục bảo,
Chọn trong những sớm mai tƣơi mát,
169
Chúng ta sẽ kết những tràng hoa
Nở thắm bởi tình Ngƣời,
Và kết bằng một sợi tóc em.
22. Ngƣời đã ngắm chỉ một sợi tóc ấy
Bay trên cổ em
Ngƣời đã ngắm nó nơi cổ em
Và Ngƣời đã bị bắt tù ở lại đó,
Và Ngƣời đã bị thƣơng vì chỉ một liếc mắt em.
23. Khi Ngƣời nhìn ngắm em,
Đôi mắt Ngƣời in lên em vẻ diễm lệ của chúng;
Vì đó Ngƣời yêu cƣng em,
Và nhờ đó đôi mắt em mới đáng
Tôn thờ điều chúng thấy nơi Ngƣời.
24. Đừng nỡ khinh thƣờng em nữa,
Vì nếu Ngƣời thấy nơi em màu da sạm nắng,
Thì Ngƣời có thể ngắm nhìn em thật kỹ,
Vì Ngƣời đã nhìn em
Và đã để lại nơi em duyên sắc và vẻ đẹp.
25. Hãy săn đuổi lũ chồn giúp chúng tôi
Vì vƣờn nho ta đã nở hoa.
Bằng bấy nhiêu hoa hồng
Ta hãy kết một trái thông
Đừng để ai ló mặt ở mé đồi.
26. Hãy lui đi, hỡi gió Bấc chết chóc,
Hãy đến, hỡi gió Nam gợi nhớ những yêu thƣơng,
Hãy thổi qua vƣờn ta
Cho hƣơng thơm ngào ngạt,
Và Đấng Chí Ái sẽ dùng bữa giữa muôn hoa.
TÌNH QUÂN
27. Tân Nƣơng đã vào
Trong vƣờn diễm lệ nàng mơ ƣớc,
170
Nghỉ ngơi giữa sắc hƣơng,
Cổ nghiêng
Trên những cánh tay dịu êm của Đấng Chí Ái.
28. Dƣới cây táo,
Em đã thành bạn tình ta sắp cƣới,
Ta đã cho em bàn tay ta,
Và em đƣợc phục hồi
Ngay nơi mà mẹ em đã bị điếm nhục.
29. Này lũ chim bay nhẹ,
Này những sƣ tử, hƣơu nai và hoẵng đang nhảy nhót,
Này những núi, đồi, thung lũng và bờ sông,
Nƣớc, khí và sức nóng,
Và hỡi những nỗi sợ của bao đêm không ngủ.
30. Bằng những khúc nhạc thất huyền cầm du dƣơng
Và bằng tiếng hát nhân ngƣ, ta kêu gọi các ngƣơi
Hãy dừng những cơn cuồng nộ,
Đừng động đến bức tƣờng,
Để Tân Nƣơng đƣợc thêm yên giấc.
TÌNH NƢƠNG
31. Ôi những kiều nữ Giuđê !
Giữa bao nhiêu hoa và những khóm hồng
Khi cây long diên tỏa hƣơng
Xin cứ ở lại những vùng ngoại thành,
Các cô đừng tìm cách chạm đến ngƣỡng cửa của chúng tôi.
32. Hãy ẩn mình đi, hỡi Bạn Yêu,
Và quay mặt nhìn lên mé đồi
Và đừng nỡ nói ra điều ấy;
Nhƣng hãy nhìn đám bạn đồng hành
Của cô nàng đang đi qua những đảo kỳ lạ.
TÌNH QUÂN
171
33. Con chim bồ câu trắng
Đã cắp nhánh lá quay về tàu
Con chim cƣờm mái nhỏ
Đã tìm đƣợc kẻ làm bạn nó hằng ao ƣớc
Trên những bờ sông mƣớt xanh.
34. Nó đã sống trong cô tịch,
Và trong cô tịch nó làm tổ,
Và trong cô tịch kẻ nó yêu hƣớng dẫn nó
Một mình với một mình,
Cả kẻ nó yêu cũng vì yêu mà bị thƣơng trong cô tịch.
TÌNH NƢƠNG
35. Hỡi Đấng Chí Ái, ta hãy cùng hân hoan,
Hãy ra đi mà nhìn ngắm trong vẻ đẹp của Ngƣời
Trên núi và trên đồi,
Nơi vọt ra nƣớc tinh khiết;
Chúng ta sẽ vào mãi phía trong sâu hơn nữa.
36. Rồi sau đó chúng ta sẽ đi đến
Những hang động thật cao của đá
Những hang động đƣợc che giấu thật kín,
Ở đó chúng ta sẽ vào,
Và cùng nếm chất ngọt của những quả lựu.
37. Và ở đó xin Ngƣời tỏ cho em
Điều hồn em hằng khao khát,
Và rồi, hỡi Ngƣời là sự sống của em!
Ở đó xin Ngƣời hãy cho em
Điều Ngƣời đã cho em ngày ấy.
38. Hơi gió thở nhẹ,
Tiếng họa mi ca dịu dàng,
Rừng cây và vẻ duyên dáng của nó
Giữa đêm thanh,
Với ngọn lửa đốt thiêu mà không gây đau đớn.
172
39. Không một ai dòm ngó,
cả Aminađáp cũng không xuất hiện,
Vòng vây cũng thôi rồi,
Và đám kỵ sĩ
Đã nhìn thấy dòng nƣớc, và đang xuống.
173
NHỮNG CA KHÖC TÂM LINH
PHIÊN BẢN B
Những ca khúc giữa linh hồn và Đấng
Chí Ái
TÌNH NƢƠNG
1. Ngƣời ẩn nơi nao, hỡi Đấng Chí Ái,
Mà bỏ em rên rỉ?
Nhƣ một con nai, Ngƣời trốn biệt,
Sau khi đã làm cho em bị thƣơng,
Em chạy ra, gọi vói theo Ngƣời, thì Ngƣời đã đi.
2. Hỡi những ngƣời chăn cừu đang bƣớc tới
Ở đó, qua những ràn cừu, tới tận đỉnh cao
Nếu tình cờ các anh thấy
Ngƣời tôi yêu mến nhất
Xin nói với Chàng rằng tôi liệt nhƣợc, đau khổ và tôi
chết.
3. Để tìm kiếm tình tôi
Tôi sẽ đi qua những núi kia và những bờ sông kia
Tôi sẽ chẳng hái hoa,
174
Sẽ không sợ thú dữ
Tôi sẽ vƣợt qua những kẻ hung tàn và biên giới.
(Tra hỏi vạn vật)
4. Ôi những rừng cây và bờ bụi,
Bàn tay Đấng Chí Ái đã trồng lên
Ôi đồng cỏ xanh rờn
Trang điểm những hoa xinh
Xin hãy nói ta hay Chàng có đi qua chỗ các ngƣời
không?
VẠN VẬT TRẢ LỜI
5. Tuôn tràn nghìn ơn diễm lệ,
Chàng đã đi qua những lùm cây này thật vội vã.
Khi lƣớt qua và nhìn ngắm chúng
Chỉ với một ánh dung nhan Chàng thôi
Chàng đã để lại cho tất cả đƣợc trang phục rực rỡ.
TÌNH NƢƠNG
6. Ôi! ai có thể chữa lành em!
Thôi, xin hãy ban cho em chính Ngƣời,
Thôi, hôm nay hãy bỏ đi, đừng gửi nữa
Đừng gửi thêm những sứ giả đến với em
Vì họ đâu nói đƣợc cho em những điều em tha thiết!
7. Và bao nhiêu kẻ thảnh thơi
Kể cho em về Ngƣời hàng nghìn diễm lệ
Tất cả chỉ càng khiến em bị thƣơng
Và càng chết em hơn
Bởi có một điều gì đó em không rõ mà họ cứ bập bẹ.
175
8. Ôi sự sống, làm sao ngƣơi còn kéo dài đƣợc
Khi không sống ở nơi phải sống?
Lẽ ra ngƣơi đã chết
Vì trúng phải những mũi tên
Do điều ngƣơi nghĩ về Đấng Chí Ái.
9. Kìa Ngƣời đã khiến trái tim này bị thƣơng,
Sao Ngƣời không chữa lành nó?
Kìa Ngƣời đã lấy trộm trái tim em
Tại sao còn để lại đó nhƣ thế?
Sao không mang theo của ăn trộm mà Ngƣời đã trộm
đƣợc?
10. Hãy dập tắt những phiền muộn của em
Vì không ai đủ sức cất chúng đi
Và ƣớc gì đôi mắt em thấy đƣợc Ngƣời
Vì Ngƣời là ánh sáng của đôi mắt ấy,
Đôi mắt mà em muốn giữ cho một mình Ngƣời.
11. Hãy tỏ cho thấy Ngƣời đang hiện diện
Để cái nhìn và vẻ đẹp của Ngƣời giết chết em đi.
Ngƣời coi kìa, trận ốm vì yêu
Làm sao chữa lành đƣợc
Nếu không phải bằng sự có mặt và dung nhan
Đấng Chí Ái.
12. Ôi dòng suối pha lê loang loáng
Phải chi trong những nét tráng bạc của ngƣơi
Bất chợt ngƣơi cho ta thấy
Đôi mắt đáng ƣớc ao
Mà ta đã ghi trong lòng ta một thoáng.
176
13. Này Đấng Chí Ái, hãy quay mắt đi một lúc,
Em bay.
TÌNH QUÂN
Quay lại đi, Bồ câu!
Này đây con nai bị thƣơng
Xuất hiện trên đỉnh cao Khi đón lấy làn khí mát do em vỗ cánh.
TÌNH NƢƠNG
14. Đấng Chí Ái của em, là những núi,
Những thung lũng xanh um quạnh quẽ,
Những đảo kỳ lạ,
Những dòng sông vang ngân
Và tiếng gió thì thào trìu mến.
15. Và là đêm yên hàn
Đang khi hừng đông cựa mình thức giấc,
Nhạc thinh lặng,
Niềm cô tịch réo rắt,
Bữa tối bổ dƣỡng và đắm say yêu mến.
16. Hãy săn đuổi lũ chồn giúp chúng tôi
Vì vƣờn nho ta đã nở hoa.
Bằng bấy nhiêu hoa hồng
Ta hãy kết một trái thông
Đừng để ai ló mặt ở mé đồi.
17. Hãy lui đi, hỡi gió Bấc chết chóc,
Hãy đến, hỡi gió Nam gợi nhớ những yêu thƣơng,
Hãy thổi qua vƣờn ta
177
Cho hƣơng thơm ngào ngạt,
Và Đấng Chí Ái sẽ dùng bữa giữa muôn hoa.
18. Ôi những kiều nữ Giuđê !
Giữa bao nhiêu hoa và những khóm hồng
Khi cây long diên tỏa hƣơng
Xin cứ ở lại những vùng ngoại thành,
Các cô đừng tìm cách chạm đến ngƣỡng cửa của chúng
tôi.
19. Hãy ẩn mình đi, hỡi Bạn Yêu,
Và quay mặt nhìn lên mé đồi
Và đừng nỡ nói ra điều ấy;
Nhƣng hãy nhìn đám bạn đồng hành
Của cô nàng đang đi qua những đảo kỳ lạ.
TÌNH QUÂN
20. Này lũ chim bay nhẹ,
Này những sƣ tử, hƣơu nai và hoẵng đang nhảy nhót,
Này những núi, đồi, thung lũng và bờ sông,
Nƣớc, khí và sức nóng,
Và hỡi những nỗi sợ của bao đêm không ngủ.
21. Bằng những khúc nhạc thất huyền cầm du dƣơng
Và bằng tiếng hát nhân ngƣ, ta kêu gọi các ngƣơi
Hãy dừng những cơn cuồng nộ,
Đừng động đến bức tƣờng,
Để Tân nƣơng đƣợc thêm yên giấc.
22. Tân nƣơng đã vào
Trong vƣờn diễm lệ nàng mơ ƣớc,
178
Nghỉ ngơi giữa sắc hƣơng,
Cổ nghiêng
Trên những cánh tay dịu êm của Đấng Chí Ái.
23. Dƣới cây táo,
Em đã thành bạn tình ta sắp cƣới,
Ta đã cho em bàn tay ta,
Và em đƣợc phục hồi
Ngay nơi mà mẹ em đã bị điếm nhục.
TÌNH NƢƠNG
24. Giƣờng chúng ta đầy hoa,
Kết bằng những hang sƣ tử,
Trải rực màu đỏ,
Đƣợc xây dựng thật yên hàn,
Và đƣợc nghìn thuẫn khiên vàng ròng tô điểm.
25. Dõi theo dấu chân Ngƣời
Các thiếu nữ rảo bƣớc trên đƣờng đi,
Dựa vào cái chạm khẽ chớp nhoáng,
Vào mùi rƣợu cất;
Và những hơi thở tỏa chất thơm thần thánh.
26. Nơi hầm rƣợu bên trong
Tôi đã uống lấy Đấng Chí Ái, và khi bƣớc ra
Qua suốt cánh đồng bao la ấy,
Tôi chẳng còn biết một chuyện gì,
Tôi đánh mất đàn vật vừa theo chăn trƣớc đó.
27. Ở đó Chàng đã cho tôi hết lòng hết dạ,
Đã dạy tôi một khoa học hết sức dịu ngọt,
179
Và tôi đã thực sự hiến dâng Chàng tất cả
Không trừ lại gì;
Ở đó tôi hứa cùng Chàng xe tơ kết tóc.
28. Thế là linh hồn tôi hoàn toàn chăm chú
Đem hết năng lực phục vụ Chàng;
Tôi chẳng còn chăn bầy vật,
Cũng chẳng còn phận sự nào khác,
Chỉ còn một việc là yêu.
29. Rồi nếu hôm nay ra đến sân làng
Không còn thấy tôi, không còn gặp,
Các bạn hãy bảo rằng tôi đã lạc,
Đang khi tôi bƣớc say đắm ngất ngây,
Tôi đã để mất chính mình và đã đƣợc lại.
30. Bằng hoa và ngọc lục bảo,
Chọn trong những sớm mai tƣơi mát,
Chúng ta sẽ kết những tràng hoa
Nở thắm bởi tình Ngƣời,
Và kết bằng một sợi tóc em.
31. Ngƣời đã ngắm chỉ một sợi tóc ấy
Bay trên cổ em
Ngƣời đã ngắm nó nơi cổ em
Và Ngƣời đã bị bắt tù ở lại đó,
Và Ngƣời đã bị thƣơng vì chỉ một liếc mắt em.
32. Khi Ngƣời nhìn ngắm em,
Đôi mắt Ngƣời in lên em vẻ diễm lệ của chúng;
Vì đó Ngƣời yêu cƣng em,
180
Và nhờ đó đôi mắt em mới đáng
Tôn thờ điều chúng thấy nơi Ngƣời.
33. Đừng nỡ khinh thƣờng em nữa,
Vì nếu Ngƣời thấy nơi em màu da sạm nắng,
Thì Ngƣời có thể ngắm nhìn em thật kỹ,
Vì Ngƣời đã nhìn em
Và đã để lại nơi em duyên sắc và vẻ đẹp.
TÌNH QUÂN
34. Con chim bồ câu trắng
Đã cắp nhánh lá quay về tàu
Con chim cƣờm mái nhỏ
Đã tìm đƣợc kẻ làm bạn nó hằng ao ƣớc
Trên những bờ sông mƣớt xanh.
35. Nó đã sống trong cô tịch,
Và trong cô tịch nó làm tổ,
Và trong cô tịch kẻ nó yêu hƣớng dẫn nó
Một mình với một mình,
Cả kẻ nó yêu cũng vì yêu mà bị thƣơng trong cô tịch.
TÌNH NƢƠNG
36. Hỡi Đấng Chí Ái, ta hãy cùng hân hoan,
Hãy ra đi mà nhìn ngắm trong vẻ đẹp của Ngƣời
Trên núi và trên đồi,
Nơi vọt ra nƣớc tinh khiết;
Chúng ta sẽ vào mãi phía trong sâu hơn nữa.
181
37. Rồi sau đó chúng ta sẽ đi đến
Những hang động thật cao của đá
Những hang động đƣợc che giấu thật kín,
Ở đó chúng ta sẽ vào,
Và cùng nếm chất ngọt của những quả lựu.
38. Và ở đó xin Ngƣời tỏ cho em
Điều hồn em hằng khao khát,
Và rồi, hỡi Ngƣời là sự sống của em!
Ở đó xin Ngƣời hãy cho em
Điều Ngƣời đã cho em ngày ấy.
39. Hơi gió thở nhẹ,
Tiếng họa mi ca dịu dàng,
Rừng cây và vẻ duyên dáng của nó
Giữa đêm thanh,
Với ngọn lửa đốt thiêu mà không gây đau đớn.
40. Không một ai dòm ngó,
cả Aminađáp cũng không xuất hiện,
Vòng vây cũng thôi rồi,
Và đám kỵ sĩ
Đã nhìn thấy dòng nƣớc, và đang xuống.
182
NGỌN LỬA NỒNG
Những ca khúc linh hồn hát lên khi đƣợc hiệp
nhất với Thiên Chúa.
1. Ôi ngọn lửa tình nồng cháy,
Ngƣời gây vết phỏng êm ái
Tận tâm điểm thẳm sâu nhất hồn em.
Giờ Ngƣời thôi không ray, không rứt.
Nếu ngƣời muốn, hãy mau hoàn tất,
Xông tới thật dịu dàng mà xé toạc lớp lụa này đi.
2. Ôi thanh sắt nung thật êm đềm!
Ôi vết thƣơng sao mà thú vị!
Ôi bàn tay thật mềm!
Chỉ mới một cái chạm nhẹ
Mà đã nếm đƣợc cõi đời đời,
Hoàn lại hết mọi món nợ.
Ngƣời vừa giết em, vừa đổi chết thành sống.
3. Ôi những đuốc lửa!
Mà bao ánh rực rỡ
183
Khiến những hố thẳm của giác quan
Giác quan xƣa tăm tối mù lòa
Nay thật là kỳ lạ đến tuyệt diệu
Cùng dội lại sức nóng và sự sáng
Cho Đức Tình quân của nó!
4. Ôi Tình quân biết bao dịu dàng và âu yếm
Ngƣời tỉnh giấc trong lòng em
Nơi một mình Ngƣời đƣợc âm thầm ở lại.
Trong hơi thở dịu thơm của Ngƣời
Đầy tốt lành và vinh quang
Ngƣời khiến em say yêu biết mấy.
184
ĐOẢN KHÖC 135
Những đoản khúc của cùng một tác giả, soạn dựa trên một
cuộc xuất thần trong chiêm niệm cao độ.
Thủ bản Albe de Tormès ghi chú rằng bài thơ này
đƣợc soạn ở Segovia, sau một cuộc xuất thần. Chắc là vào
khoảng năm 1586.
Phải thú nhận rằng mặc dù có những câu rất đẹp, bài
thơ này là một trong mấy bài thơ ít chất thơ nhất của vị
thánh.
Cung cách trừu tƣợng khi bàn đến một chủ đề hóc
búa, thiếu vắng hình ảnh, thật xa hẳn chất trữ tình sóng gió
của tác giả bài thơ Đêm dày.
Cái thú vị của bài thơ này nằm trong những kiểu nói
riêng của Thánh Gioan và trong chủ đề tổng quát, thân
thuộc với vị tiến sĩ thần nhiệm, và cũng là chủ đề của
Đƣờng lên núi Cát Minh và Đêm dày. Thật vậy, ở đây ta
có một thánh thi ca mừng đức tin, một loại kinh cầu suy
tôn sự khôn ngoan thƣợng trí của Thiên Chúa mà ngƣời ta
35 Số thứ tự đặt cho các đoản khúc là của bản dịch Việt ngữ.
185
vẫn hay lẫn lộn với sự khôn ngoan của các bậc thức giả
đời này.
Nó giả thiết phải hoàn toàn khổ chế. Linh hồn phải
hoàn toàn thụ động để chỉ có thể lãnh nhận mà thôi. Nó
cũng nói lên sự nhân từ vô biên của Đấng muốn lấp đầy sự
yếu đuối của con ngƣời.
Tôi đã đi vào đâu tôi chẳng biết
Và tôi vẫn không hay
Vƣợt hẳn mọi hiểu biết.
1.
Tôi chẳng biết mình đang vào đâu
Nhƣng khi thấy mình ở đó
Mà chẳng biết đang ở nơi nào
Tôi đã hiểu những điều lớn lao
Tôi sẽ không nói điều tôi đã cảm thấy
Vì tôi vẫn không hay
Vƣợt hẳn mọi hiểu biết.
2.
Đó là khoa học tuyệt hảo
Của bình an và đạo hạnh
Trong sự cô tịch sâu thẳm
Là con đƣờng thẳng đã hiểu ra.
Đó là điều biết bao bí mật
Nên tôi đã cứ ấp úng ấp a
Vƣợt hẳn mọi hiểu biết.
186
3.
Tôi đã say mèm
Đã đầy ứ và xa lạ với mình đến độ
Giác quan đã đờ ra
Mất hết mọi cảm giác,
Còn tâm trí thì đƣợc phú cho
Một khả năng hiểu mà không cần hiểu,
Vƣợt hẳn mọi hiểu biết.
4.
Ngƣời nào thật sự lên tới đó
Cũng đều trút bỏ chính mình.
Tất cả những gì xƣa đã biết
Đều có vẻ thấp làm sao,
Và ngƣời ấy càng cứ không biết
Sự hiểu biết càng gia tăng,
Vƣợt hẳn mọi hiểu biết.
5.
Ngƣời ấy lên càng cao
Lại càng hiểu ít.
Vì đám mây mù tối
Đã soi đêm sáng rực.
Về điều ấy có ai biết đƣợc
Thì luôn vẫn không biết không hay,
Vƣợt hẳn mọi hiểu biết.
6.
Cái biết nhờ chẳng biết nhƣ thế
Có một quyền lực cao cả dƣờng bao,
Bậc thức giả dù có biện luận đến đâu
187
Cũng chẳng bao giờ thắng nổi,
Vì sự hiểu biết của họ không vƣơn đƣợc tới
Chỗ không hiểu mà vẫn hiểu
Vƣợt hẳn mọi hiểu biết.
7.
Và sự hiểu biết tột đỉnh ấy
Là điều ƣu tú hết sức cao
Chẳng một khả năng một khoa học nào
Có thể đảm đƣơng nổi.
Ai tự thắng mình
Nhờ một sự không biết mà biết
Thì sẽ luôn đi tới chỗ vƣợt hẳn.
8.
Và nếu bạn muốn nghe,
Khoa học tột đỉnh ấy cốt ở
Một cảm quan cao nhã
Về yếu tính của Thiên Chúa.
Đúng là một công cuộc của lòng lân mẫn Chúa
Làm cho ngƣời ta dù không hiểu
Vẫn vƣợt hẳn mọi hiểu biết.
188
ĐOẢN KHÖC 2
Những đoản khúc của cùng một tác giả về linh hồn
phải chịu đau khổ để thấy Thiên Chúa.
Chủ đề mƣợn của một câu hát bình dân, thƣờng đƣợc
các tác giả xƣa khai thác và đã đƣợc thánh Têrêxa bình
giải.
Thế nhƣng dựa trên bài tam tuyệt ba câu ngắn ngủi
ấy, Thánh Gioan Thánh Giá đã viết nên một bài thơ thật
cảm động.
Mấy tiết thơ này hoàn toàn vắng bóng mọi nghiên
cứu uyên bác: Chỉ có một nỗi đau khổ đƣợc sống thật
mãnh liệt và đƣợc diễn đạt thành những tiếng kêu nóng
cháy, thành lời biện bạch nồng nhiệt.
Không hề có vẻ sắp đặt giả tạo.
Chỉ là một chuyển động trào vọt từ một nỗi đau khổ
vì yêu nhƣ phún xuất thạch vọt từ miệng núi lửa, và giảm
dần cho đến khi dịu hẳn vào những câu cuối.
Đầy sự dịu dàng của một tâm hồn thánh, và niềm hy
vọng trong sáng của linh hồn ấy.
189
Tôi sống nhƣng chẳng sống trong tôi
Và bằng cách ấy tôi hy vọng
Bởi tôi đang chết vì không chết.
1.
Tôi không còn sống trong tôi nữa
Và tôi không thể sống nếu thiếu Thiên Chúa.
Chỉ trơ lại đó chẳng Ngài chẳng tôi,
Sẽ là gì một cái sống nhƣ thế ?
Bằng ngàn cái chết cho tôi !
Nên tôi mòn mỏi chờ sự sống của chính tôi
Đang khi tôi chết vì không chết.
2.
Cái sống con đang sống
Là một sự cƣớp mất cuộc sống
Và nhƣ thế là một cái chết liên hồi
Cho đến khi con đƣợc sống với Ngài.
Lạy Thiên Chúa, xin nghe điều con nói
Nào con có thiết gì cái sống ấy đâu
Bởi con đang chết vì không chết.
3.
Bao lâu thiếu vắng Ngài,
Con có thể có đƣợc sự sống nào,
Nếu chẳng phải là cam chịu sự chết,
Cái chết ghê gớm nhất mà con đƣợc thấy ?
Con thƣơng hại mình,
Những kéo lê số phận,
Bởi con đang chết vì không chết.
190
4.
Con cá ra khỏi nƣớc
Vẫn còn một chút an ủi,
Là cuối cùng, trong cái chết nó chịu,
Chết cũng đáng mà chết.
Hỏi có sự chết nào sánh đƣợc
Cái sống đáng thƣơng hại của tôi ?
Bởi vì tôi càng sống càng chết.
5.
Khi con định an ủi mình,
Nhờ thấy Chúa trong bí tích Thánh Thể,
Thì lại càng đau đớn hơn
Vì con không thể đƣợc vui hƣởng Chúa !
Mọi sự nhƣ thể cốt làm cho con thêm sầu khổ,
Vì con không đƣợc thấy Chúa nhƣ mình muốn,
Và con đang chết vì không chết.
6.
Và lạy Chúa nếu con đƣợc vui mừng
Vì niềm hy vọng thấy Chúa,
Thì chỉ cần thấy mình có thể mất Chúa,
Là nỗi đau đớn của con đã nhân đôi.
Sống trong mối kinh sợ nhƣ thế,
Và hy vọng bằng một niềm hy vọng nhƣ thế,
Con hấp hối vì không chết.
7.
Hãy gỡ con khỏi cái chết ấy,
Lạy Thiên Chúa của con, và hãy ban cho con sự
sống.
Đừng để con bị vƣớng mắc,
Trong cái cạm bẫy ấy mạnh biết bao.
Hãy nhìn xem con phải đau đớn để thấy Ngài
191
Và nỗi khốn khổ của con đã xâm chiếm trọn
Bởi con đang chết vì không chết.
8.
Từ đây con sẽ khóc thƣơng sự chết của con,
Và con sẽ than cho cái sống của con,
Bao lâu con còn bị níu giữ
Vì những tội lỗi con.
Ôi Thiên Chúa của con! Cho đến bao giờ?
Bao giờ con đƣợc nói với Chúa cách đơn thành
rằng:
Từ nay con đã sống vì con không chết nữa.
192
ĐOẢN KHÖC 3
Những đoản khúc “thần ý” khác, của cùng một tác giả
Lịch sử không để lại một chỉ dẫn chính xác nào về
chủ đề của bài thơ này. Chỉ biết rằng nó ra đời trƣớc năm
1584, vì nó có trong hai thủ bản của Sanlucar. Đằng khác,
nó lại không có trong sƣu tập những bài viết trong tù, vào
năm 1578.
Nhƣ vậy nó ra đời vào một trong những giai đoạn
hoạt động nhất trong cuộc đời vị thánh, nó cho thấy đâu là
phần tuyệt hảo của tâm hồn ngài khi ấy.
Ở đây, thơ đầy ắp những hình ảnh thật mạnh mẽ và
tinh tuyền nảy sinh thật dễ dàng để diễn tả một ân sủng
hoàn toàn nội tâm. Giáo huấn trong bốn tiết thơ này thật
súc tích, mà bốn tiết này cũng chỉ là triển khai bốn câu thơ
đầu tiên.
Sự cần kíp phải từ bỏ chính mình để đạt đến Thiên
Chúa, quyền ƣu tiên của tình yêu đặt nền trên đức tin, cái
nghịch lý của sự siêu tôn bằng cách hạ nhục, và, trong tiết
cuối cùng (tiết mà thánh nữ Têrêxa Hài Đồng đã sống thật
sâu đậm), sự toàn năng của hy vọng và những ơn huệ
193
Thánh Thần, Đấng luôn hành động cách kỳ lạ khác hẳn
cách của loài ngƣời.
Trong bài thơ này tất cả mang dấu ấn của Thánh
Gioan Thánh Giá với hƣơng vị Cát Minh từ cốt tủy.
Theo một đà yêu thƣơng vun vút
Với hy vọng ngập tràn
Tôi đã bay thật cao, thật cao
Và đã đạt đƣợc mục tiêu tôi săn đuổi.
1.
Để cho mình đạt tới mục tiêu
Đạt cái đà ấy của Thiên Chúa
Tôi cần phải bay đến mức
Khuất khỏi tầm mắt thiên hạ.
Thế nhƣng đáng sợ làm sao
Sức bay của tôi không đủ
Còn tình yêu thì thật cao
Và đã đạt đƣợc mục tiêu tôi săn đuổi.
2.
Tôi càng lên cao
Càng bị lóa mắt
Và cuộc chinh phục cam go nhất
Đã đƣợc thực hiện trong tăm tối.
Theo cái đà yêu thƣơng
Tôi đã nhảy mù lòa và tăm tối
Và tôi đã lên thật cao, thật cao
Và đã đạt đƣợc mục tiêu tôi săn đuổi.
194
3.
Khi tôi càng rƣớn cao vƣơn tới,
Theo cái đà vút cao nhƣờng ấy,
Tôi càng xuống thấp,
Càng thấy mình đã bị khuất phục và bị đạp đổ.
Tôi thốt lên : “Không ai đạt nổi”
Và tôi càng xuống thấp bao nhiêu bao nhiêu
Càng lên cao bấy nhiêu, bấy nhiêu
Và đã đạt đƣợc mục tiêu tôi săn đuổi.
4.
Bằng một cách rất kỳ lạ,
Một lần bay vƣợt cả nghìn lần bay,
Vì niềm hy vọng từ trời,
Đã hy vọng chừng nào sẽ đạt đƣợc chừng nấy,
Tôi đã chỉ hy vọng theo đà yêu thƣơng ấy,
Và trong hy vọng tôi đã không đuối sức,
Vì tôi đã lên cao, thật cao,
Và đã đạt đƣợc mục tiêu tôi săn đuổi.
195
CHÖ BÉ CHĂN CỪU36
Những ca khúc “thần ý” khác của cùng một tác giả,
về Đức Kitô và linh hồn
Đây là thơ hết sức thơ ? Vâng, hẳn thế. Hình thức
của bài thơ này thật hoàn hảo.
Nó gây cảm xúc đến nỗi ngƣời ta tự hỏi vị thánh
đƣợc thứ ân sủng nào ảnh hƣởng mà biên soạn đƣợc một
kiệt tác nhƣ thế.
Có một chỉ dẫn thiếu hẳn tính xác thực đƣơc
Anphong của Thánh Mẫu Thiên Chúa ghi lại trong cuốn
Cuộc đời cha Gioan Thánh Giá. Ông kể lại rằng một lần
kia vị thánh thoáng nhận ra một hình ảnh Đức Kitô trên
thập giá, ngài phải chịu một cơn xuất thần đau đớn và rồi
sau đó viết ra mấy câu thơ diễn tả nỗi thống khổ ngài đã
cảm nhận, khi nhìn thấy Đức Kitô hiến sự sống mình vì
các linh hồn nhƣ thế. Có nên liên kết tiểu tiết này với bài
Chú bé chăn cừu? Có lẽ không nên. Tuy nhiên dù sao, bài
36 Tựa đề của bản Việt ngữ
196
thơ này cũng cống hiến cho ta một trang cuộc đời vị
thánh.
Về hình thức, có thể bài này đã cảm hứng từ những
bài thịnh hành hồi đó, nhƣng điều ấy không quan trọng.
Chính nghệ thuật của vị thánh biểu lộ nơi đây một điều gì
đó trong tâm hồn sâu thẳm của ngài. Không một chút nhấn
mạnh nào quá thiên cảm giác, không một sự tô màu nào,
cũng không một chi tiết nào thừa. Thảm kịch đƣợc thu
gọn lại vào cái chính yếu.
Một vài hình ảnh tinh tế, một vài đƣờng nét rất tinh
ròng, dƣờng nhƣ chỉ là phác họa, và thế là trong một bài
thơ duy nhất đã hòa hợp đƣợc tất cả sự tinh tế của bi ca và
sức mạnh của thảm kịch.
Bài “Chú bé chăn cừu” thật đáng giá để góp phần
phá đổ hình ảnh hoang đƣờng về một Thánh Gioan Thánh
Giá trừu tƣợng và cứng cỏi.
1.
Một chú bé chăn cừu lẻ loi đau khổ,
Chú chẳng thiết vui, chẳng thiết đùa,
Chỉ nghĩ tới cô bé chăn cừu của chú,
Trái tim tan nát vì yêu.
2.
Chú không khóc vì tình yêu đã làm chú bị thƣơng,
Cũng không phải vì thấy mình buồn đau mà chú khổ.
Dù đúng là chú đã bị đánh vào tim,
Nhƣng chú khóc vì nghĩ mình đã bị lãng quên.
197
3.
Chỉ vì một ý nghĩ là mình
Bị cô bé chăn cừu xinh đẹp lãng quên,
Mà hết sức đau khổ, chú đã để mình bị đánh tả tơi
nơi đất lạ,
Trái tim tan nát vì yêu.
4.
Và chú bé chăn cừu nói : Thật bất hạnh
Cho ai xua đuổi tình tôi khỏi trái tim
Và không muốn hƣởng niềm vui đƣợc có tôi ở với
Bên trái tim đã vì yêu ngƣời ấy mà nát tan.
5.
Và sau một hồi lâu chú đã lên
Trên một thân cây, ở đó chú đã giăng đôi tay xinh
đẹp,
Và chú chết treo ở đó bởi đôi tay ấy,
Trái tim tan nát vì yêu.
198
DÕNG SUỐI37
Ca khúc của linh hồn vui mừng đƣợc thấy Thiên Chúa
trong đức tin
Bài thơ này ra đời trong ngục thất Toledo.
Lịch sử cho ta biết vị thánh đã luôn sống sự sống của
Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần ngự trong linh
hồn những ngƣời công chính. Lịch sử cũng cho ta biết
ngài rất thích cử hành thánh lễ về Ba-Ngôi chí thánh, và
ngài nói về mầu nhiệm Ba Ngôi nồng nhiệt đến nỗi ngƣời
nghe không thể nào dửng dƣng đƣợc. Thánh Têrêxa biết
rõ điều ấy, một ngày kia tại đan viện Nhập Thể ở Avila,
Thánh nữ đã xuất thần khi nghe ngài nói về mầu nhiệm
ngài yêu thích nhất.
Ngƣời ta cũng biết rằng nhà tạm khiến ngài mê mẩn
hàng giờ ban đêm nhƣ thế nào. Ngài đã cử hành thánh lễ
với một nhiệt tình không mệt mỏi.
Chính tất cả cuộc sống sâu thẳm ấy đƣợc gợi lên
trong bài thơ tròn đầy đến kinh ngạc này.
37 Tựa đề của bản Việt ngữ.
199
Ngƣời ta sẽ không bao giờ nói cho đủ về phần đóng
góp của đức tin trong đời sống Thánh Gioan Thánh Giá và
về chỗ đứng của đức tin trong giáo thuyết ngài.
Điệp khúc dai dẳng của bài thơ này và lời quả quyết
ở đoạn cuối, trong sự táo bạo mà thanh thản của nó, chẳng
phải là đã đƣợc dàn dựng rất khéo để nhắc cho ta nhớ vai
trò trổi vƣợt ấy của đức tin sao ?
Tôi biết lắm, dòng suối vẫn cuồn cuộn chảy
Cho dù là đêm.
1.
Dòng suối đời đời ấy đƣợc giấu kín
Nhƣng tôi vẫn biết lắm những ngóc ngách nó,
Cho dù là đêm.
1. VỀ NGÔI CHA
2. Nguồn mạch nó tôi không biết, vì nó không có
nguồn
Nhƣng tôi biết tất cả mọi nguồn mạch đều phát xuất từ
nó
Cho dù là đêm.
3.
Tôi biết rằng không thể có một cái gì đẹp đến thế
Mà đất trời đều uống ở đó
Cho dù là đêm.
200
4.
Tôi biết lắm nơi nó không tìm đƣợc chân móng
Và không ai có thể vƣợt qua nó đƣợc
Cho dù là đêm.
5.
Sự chói lọi của nó không bao giờ bị che tối
Và tôi biết rằng mọi ánh sáng đều từ nó mà đến
Cho dù là đêm.
6.
Tôi biết những dòng chảy của nó chảy hết sức mãnh
liệt
Mà các tầng địa ngục, các tầng trời và các dân tộc
đều uống ở đó,
Cho dù là đêm.
2. VỀ NGÔI CON
7.
Dòng chảy phát sinh từ suối ấy
Tôi biết lắm nó mênh mông và toàn năng biết mấy
Cho dù là đêm.
201
3. VỀ THÁNH THẦN
8.
Còn dòng chảy phát xuất từ hai dòng ấy
Mà tôi biết rằng trong cả hai lại không dòng nào có
trƣớc nó,
Cho dù là đêm.
9.
Dòng suối đời đời ấy đƣợc giấu kín
Trong tấm bánh hằng sống để ban cho chúng ta sự
sống
Cho dù là đêm.
10.
Dòng suối ấy đang ở đây mà gọi các thụ tạo
Những thụ tạo vẫn uống no thứ nƣớc ấy, nhƣng
trong bóng tối
Vì đang là đêm.
11.
Dòng suối sống động này mà tôi hằng khao khát
Tôi thấy nó nơi tấm bánh của sự sống
Cho dù là đêm.
202
ĐIỂM TỰA38
Chú thích “thần ý” cùng một tác giả.
Có nhiều nét gần gũi với bài trƣớc, bài chú
thích này hẳn đã ra đời vào cùng một thời điểm.
Cấu trúc tinh xảo của nó thật đáng cho ta để ý.
Nó cũng giống nhƣ nhiều bài thơ của Thánh
Gioan Thánh Giá là khởi đầu bằng một điệp khúc rồi phần
còn lại là triển khai điệp khúc ấy nhƣng ở đây nó lại nổi
bật ở chỗ mỗi tiết thơ lần lƣợt giải bày một trong ba câu
thơ của điệp khúc mở đầu.
Ba chủ đề quen thuộc với vị thánh cung cấp
toàn bộ chất liệu : sự từ bỏ, đức tin và tình yêu. Bài này có
tính chất nghịch lý một cách hữu ý, huyền diệu hơn bài
trƣớc và có lẽ cũng cô đọng hơn, cho thấy tác giả dày
công hơn.
38 Tựa đề của bản Việt ngữ.
203
Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu rất thích tiết
thơ chót : “Vì nếu nơi tôi có điều gì tốt hay xấu, tất cả đều
cùng một hƣơng vị ...” Chỉ có một vị thánh mới táo bạo
nhƣ thế khi nói lên kinh nghiệm sống của mình. Chính là
với một bản năng tâm linh rất chắc chắn mà vị “Thánh nữ
Nhỏ” đã tìm đến với tiết thơ này nhƣ là một trong những
tiết tiêu biểu nhất của Thánh Gioan Thánh Giá. Ta lại
chẳng thấy ý thơ của bài này đƣợc trút sang các thơ ca của
vị nữ thánh thành Lisieux đó sao ?
Không điểm tựa mà thật ra vẫn tựa
Sống không ánh sáng và trong tối tăm
Tôi đi thiêu hủy mình trọn vẹn
1.
Linh hồn tôi thoát hẳn
Khỏi mọi vật thụ tạo
Và đƣợc nâng lên vƣợt trên cả chính mình
Trong một cuộc sống đầy hƣơng vị,
Chỉ dựa vào một mình Thiên Chúa của mình thôi.
Vì thế mới nói
Rằng điều tôi thích nhất
Là linh hồn tôi từ nay đƣợc thấy mình nhƣ thế
Không điểm tựa mà thật ra vẫn tựa
2.
Và mặc dù tôi đang chịu đựng bóng tối
Trong cuộc sống dễ chết này
Nhƣng sự dữ đối với tôi không quá ghê gớm
Bởi vì nếu tôi thiếu ánh sáng
Tôi lại có sự sống của trời cao.
Bởi vì lòng yêu mến sự sống ấy
204
Càng bƣớc đi mù lòa
Càng khiến linh hồn thuận phục
Sống không ánh sáng và trong tối tăm.
3.
Tình yêu đang thực hiện một công cuộc nhƣ thế
Từ khi tôi biết nó :
Vì nếu nơi tôi có điều gì tốt hay xấu
Tất cả đều cùng một hƣơng vị.
Và linh hồn tôi đƣợc biến đổi nên chính mình
Và nhƣ thế, trong ngọn lửa ngát thơm của nó
Mà tôi cảm thấy đang cháy nơi tôi
Mau mắn và không bỏ sót chút gì
Tôi đi thiêu hủy mình trọn vẹn.
205
ĐIỀU TÌNH CỜ GẶP ĐƯỢC39
Chú thích “thần ý”
Bài thơ này phát sinh khi linh hồn vị thánh tiếp xúc
với linh hồn nồng nhiệt và tinh tuyền của Maria Thánh
Giá, nữ đan sĩ Cát Minh ở Granada. Bài này đƣợc soạn
khoảng năm 1585 hoặc 1586.
Đây là một chú thích “thần ý”, tức là một bài thơ
trong đó chủ đề thuần túy nhân bản đƣợc chuyển sang
bình diện những tƣơng quan giữa linh hồn với Thiên
Chúa. Thoạt đầu vị thánh chạm phải một xúc cảm đặc biệt
rồi từ đó phát sinh thành một chuyển động mãnh liệt
xuyên suốt bài thơ từ đầu đến cuối.
Chủ đề khởi đầu đã tuần tự làm kết tinh một số tƣ
tƣởng quen thuộc của vị thánh, vẫn đƣợc coi nhƣ cái sƣờn
của toàn thể giáo thuyết ngài. Dù lịch sử chẳng cho một
chỉ dẫn nào đi nữa, cũng không ai nghi ngờ tính xác thực
của bài thơ này.
Ngƣời ta cũng ghi nhận rất đúng rằng phẩm tính của
Thiên Chúa mà vị tiến sĩ thần nhiệm thƣờng hay nói đến
nhất chính là vẻ đẹp, sự toàn mỹ.
39 Tựa đề của bản Việt ngữ
206
Đây là vẻ đẹp mà chỉ đức tin mới đạt đƣợc, đòi hỏi
phải từ bỏ mọi vẻ đẹp thụ tạo; và đằng khác cũng khiến ta
không còn ham thích vẻ đẹp thụ tạo nữa. Vẻ đẹp ấy làm
thỏa mãn lòng ta đến nỗi không còn điều gì có thể gây
thống khổ cho nó, và là vẻ đẹp không bao giờ cho phép ta
nói : đủ rồi !, và sau cùng cũng là vẻ đẹp không chịu để
cho bị so sánh với bất cứ điều gì trong những điều mà sức
loài ngƣời có thể đạt đƣợc.
Khi vị thánh nói về vẻ đẹp của Thiên Chúa, không
có gì có thể khiến ngài mỏi mệt.
Không phải vì tất cả vẻ đẹp
Mà có lần nào tôi bị hút mất
Nhƣng chỉ vì một điều gì đó tôi không rõ
Mà ngƣời ta vừa tình cờ đạt đƣợc.
1.
Hƣơng vị của một điều tốt hữu hạn
Nào có thể đƣa đến điều gì,
Hơn là khiến sự thèm khát bị mệt mỏi
Và làm hỏng khẩu vị ?
Và thế thì chẳng phải vì tất cả sự dịu ngọt
Mà có lần nào tôi bị hút mất,
Nhƣng chỉ vì một điều gì đó tôi không rõ
Ngƣời ta vừa tình cờ tìm đƣợc.
207
2.
Trái tim quảng đại
Chẳng bao giờ nghĩ đến dừng lại
Khi nó còn có thể vƣợt qua
Trừ khi là quá khó.
Không gì làm nó thỏa mãn
Và đức tin của nó lên cao đến độ
Nếm đƣợc một điều gì đó tôi không rõ
Ngƣời ta vừa tình cờ tìm đƣợc.
3.
Kẻ chịu đau khổ vì tình yêu
Vì chạm đến Hữu thể của Thiên Chúa
Thấy sở thích bị đảo lộn quá sức
Suy yếu hết các sở thích.
Tựa nhƣ kẻ bị lên cơn sốt
Thấy thức ăn nào cũng ngao ngán
Và đòi cho đƣợc một điều gì đó tôi không rõ
Ngƣời ta vừa tình cờ tìm đƣợc.
4.
Các bạn đừng có ngạc nhiên
Nếu sở thích vẫn cứ trơ ra nhƣ thế
Vì cơn bệnh khiến ngƣời ta
Ngao ngán hết mọi thứ
Khiến tất cả mọi sự
Đều thành xa lạ với mình
Và nếm đƣợc một điều gì đó tôi không rõ
Ngƣời ta vừa tình cờ tìm đƣợc.
5.
Một khi ý chí đã bị Thần tính chạm phải
Thì chẳng còn gì có thể trả nợ cho nó.
208
Ngoại trừ Thần tính,
Mà bởi vì vẻ đẹp của Thần tính ấy nhƣ thế,
Chỉ thấy đƣợc nhờ đức tin
Nên ý chí đã nếm cảm vẻ đẹp ấy
Nơi một điều gì đó tôi không rõ
Ngƣời ta vừa tình cờ tìm đƣợc.
6.
Ấy, một Đấng đã yêu thƣơng đến thế
Hãy nói cho tôi hay các bạn có chạnh lòng
Bởi vì Ngài chẳng còn gì thú vị
Giữa mọi vật thụ tạo.
Trơ trọi, không còn hình, không còn dáng,
Không nơi nƣơng tựa, không chỗ đặt chân,
Ở đó ngài đang nếm cảm một điều gì đó tôi không rõ
Ngƣời ta vừa tình cờ tìm đƣợc.
7.
Đừng nghĩ rằng kẻ đang sống đời nội tâm cao quý
đến thế
Có thể tìm đƣợc hân hoan và vui vẻ
Nơi hƣơng vị của đời này
Nhƣng trên tất cả vẻ đẹp
Của hiện tại, tƣơng lai và quá khứ
Nó nếm cảm ở đấy một điều gì tôi không rõ
Ngƣời ta vừa tình cờ tìm đƣợc.
8.
Ai muốn đƣợc lợi hơn
Hãy đầu tƣ sự lo nghĩ của mình
Vào điều còn phải chiếm hữu
Hơn vào điều đã chiếm đƣợc.
Và nhƣ thế, để đạt tới tầm cao hơn
Thì vƣợt trên tất cả
209
Tôi sẽ luôn nghiêng về một điều gì đó tôi không rõ
Ngƣời ta vừa tình cờ tìm đƣợc.
9.
Vì những gì ở đời này có thể
Nắm bắt đƣợc bằng giác quan,
Và tất cả những gì hiểu đƣợc,
Mặc dù hết sức cao xa,
Thì sẽ chẳng bao giờ tôi bị hút mất,
Cũng không bị hút mất vì duyên dáng hay vẻ đẹp,
Nhƣng chỉ vì một điều gì đó tôi không rõ
Ngƣời ta vừa tình cờ tìm đƣợc.
210
CÁC TÌNH KHÚC
Với các tình khúc, ta bƣớc vào một thể loại thơ ca
khác hẳn, đây là một thể loại dễ dãi, lấy vần thay cho tiết
điệu, xa hẳn mọi sự tìm tòi tỉ mỉ, và, có điều lạ là, tác giả
của chúng cũng nói về chúng khá hờ hững. Chính vì thế
mà ngƣời ta tranh luận nhiều về tính xác thực của các tình
khúc, một số nhà phê bình công khai bác bỏ, không chịu
nhận đó là tác phẩm của ngƣời đã viết nên Ca khúc tâm
linh và Chú bé chăn cừu - Ngƣời ta cho rằng bao nhiêu
khuyết điểm về niêm luật nhƣ thế quả không xứng với vị
thánh, nhất là cái vẻ lúng túng mà chắc hẳn ngài đã không
thƣờng có. Hồi thế kỷ XVIII, Anrê Nhập Thể viết rằng
ông ngạc nhiên “tìm thấy trong hình thức của các bài thơ
này một sự quê mùa và thấp kém nào đó khá xa lạ với
ngòi bút vị thánh.”
Tuy nhiên các chứng liệu lịch sử lại rất mạnh mẽ cho
nên việc phê bình ấy, dù dẫn chứng công phu hơn các phê
bình khác nhiều, vẫn không dám loại bỏ mƣời bài tình
khúc chúng ta hiện có, không dám cho rằng đấy không
phải là của Thánh Gioan Thánh Giá. Để biện minh cho
quả quyết của họ, những kẻ loại bỏ chúng chỉ có thể nêu
211
ra những giả thuyết hoàn toàn tùy tiện, thậm chí, có một vị
đã viết : “Ngƣời ta buộc phải tƣởng tƣợng ra rằng ...”
Chúng tôi xin theo thái độ thận trọng của cha Anrê
Nhập Thể và, cho đến khi chƣa có ai chứng minh ngƣợc
lại đƣợc, chúng tôi tin vào những lời khai của các nhân
chứng, cách riêng là của Mađalêna Thánh Linh, vẫn quả
quyết rằng các tình khúc có chép trong cuốn vở mà vị
thánh mang từ ngục thất Toledo ra. Tại sao không thể gán
cho những sơ suất về hình thức cho sự kiện rằng đây có vẻ
là những bài ứng khẩu theo một thể loại bình dân ? Lịch
sử lại đã không cho ta biết rằng vị thánh vẫn thƣờng ứng
khẩu nhƣ thế trong các cuộc thi thơ mà ngài tổ chức trong
giờ chơi đó sao ? Tại sao ngài không thể làm nhƣ vậy
trong tù ?
Xét cho kỹ, trong đa số các tình khúc này, có những
phát minh thực sự về cách diễn tả, một chiều sâu thần học,
và bên cạnh những sự cứng cỏi nặng nề cũng có những cái
tinh tế của một vẻ tƣơi mát không phủ nhận đƣợc.
Chín tình khúc đầu là một chuỗi liên tục. Bài thứ
mƣời lấy lại và diễn giải Thánh vịnh 136/137.
212
Tình khúc 1 VỀ ĐOẠN TIN MỪNG “LÖC KHỞI NGUYÊN ĐÃ CÓ
LỜI”TRONG LIÊN HỆ VỚI BA NGÔI CHÍ THÁNH.
Trong loạt chín tình khúc, bài thứ nhất diễn giải đoạn
đầu của Tin mừng theo Thánh Gioan. Câu đầu của bài thơ
lấy lại từng chữ của bản văn Tin mừng (Lúc khởi nguyên
Ngôi Lời vẫn có và Ngài sống trong Thiên Chúa) và câu
ấy định đoạt tất cả phần tiếp theo, trong đó hầu nhƣ mọi
động từ đều ở thì quá khứ chƣa hoàn thành (tức là bên
tiếng Việt, đặt trạng từ “vốn” ở trƣớc động từ), dƣờng nhƣ
việc gieo vần đòi hỏi phải thế. Rõ ràng không nên gán cho
thì bán quá khứ ấy một giá trị về thời gian (ghi nhận này
áp dụng cho tất cả các tình khúc), cho nên trong bản dịch
chúng tôi không ngần ngại chuyển nó sang thì hiện tại mỗi
khi có thể làm nhƣ thế mà không bị vấp.
Tình khúc thứ nhất này ca ngợi sự sống sâu kín của
Thiên Chúa mà mầu nhiệm về sự sống ấy vốn hằng nuôi
dƣỡng tâm hồn chiêm niệm của cha Gioan Thánh giá. Có
đƣợc một chút hiểu biết thần học càng dễ theo dõi những
khác biệt tinh tế của tƣ tƣởng, cũng nhƣ để dễ nắm đƣợc
cách chơi chữ của vị thánh (ví dụ nhƣ chữ “nguồn”).
Để bù lại tính cách trừu tƣợng của bài thơ, vị thánh
đã kết bằng câu thật tuyệt vời, cống hiến cho ta một trong
những khía cạnh phong phú nhất nơi cuộc sống của Đấng
Thiên Chúa Duy Nhất trong Ba Ngôi.
213
1.
Khởi tự nguồn, Ngôi Lời sẵn có
Và Ngài sống trong Thiên Chúa
Trong Thiên Chúa, Ngài sở hữu diễm phúc bất tận.
2.
Cũng chính Ngôi Lời ấy là Thiên Chúa
Ngài tự xƣng mình là nguồn
Ngài lƣu lại trong nguồn
Và Ngài không có nguồn.
3.
Ngài là chính nguồn
Và vì thế Ngài không có nguồn
Ngôi Lời đƣợc gọi là Con
Ngƣời Con sinh bởi nguồn.
4.
Nguồn đã cƣu mang Ngài
Và vẫn cƣu mang Ngài mãi mãi
Nguồn luôn ban bản thể mình cho Ngài
Và Ngài luôn có bản thể ấy.
5.
Và nhƣ thế, vinh quang của Con
Là vinh quang có nơi Cha
Và tất cả vinh quang của mình, Cha đã đƣợc sở hữu
trong Con.
6.
Nhƣ kẻ đƣợc yêu ở trong ngƣời yêu mến thế nào,
Ngôi này ở trong Ngôi kia nhƣ thế.
Và Tình yêu ấy, Tình yêu đã kết hợp cả hai Ngôi
Cũng là một Ngôi Vị tƣơng ứng tƣơng cầu nhƣ thế.
214
7.
Ngài cũng ngang hàng với Cha và với Con
Ba Ngôi và chỉ là một Đấng Đƣợc Yêu
Ở nơi tất cả Ba Ngôi.
8.
Chỉ có một tình yêu nơi tất cả các ngôi ấy
Làm cho cả ba trở nên một Đấng Yêu mến
Và Đấng Yêu mến là Đấng Đƣợc yêu
Nơi mà mỗi ngôi vị trong Ba Ngôi vẫn sống.
9.
Hữu thể mà cả Ba Ngôi sở hữu
Mỗi ngôi đều sở hữu
Và mỗi ngôi vị trong các ngôi ấy đều yêu
Yêu ngôi vị có đƣợc hữu thể ấy.
10.
Hữu thể ấy là mỗi một ngôi vị trong ba
Và chỉ hữu thể ấy hiệp cả ba thành một
Nên một mối khôn tả
Mà ngƣời ta không biết nói làm sao.
11.
Cũng vì thế mà tình yêu ấy vô tận
Tình yêu đã hiệp cả ba thành một
Vì cả ba chỉ có một tình yêu
Tình yêu mà ngƣời ta gọi là yếu tính của ba ngôi vị
Và tình yêu thì càng là một càng là tình yêu.
215
Tình khúc 2 VỀ SỰ CHUYỂN THÔNG GIỮA BA NGÔI
Rời đoạn Tin Mừng, ở đây vị thánh tiếp nối cảm
hứng riêng của ngài cách tự do. Chỉ có một nhà thần học,
thấm nhuần Kinh thánh, mới có thể viết nên bài thơ này.
Để bình giải, dƣờng nhƣ ở mỗi tiết thơ lại phải quay
về với một chƣơng trong bộ Tổng luận Thần học.
Chính trong Chúa Thánh Thần mà Chúa Cha yêu
Chúa Con và mọi vật, và Ngài yêu mọi vật trong mức độ
chúng đƣợc dựng nên theo nhƣ Hình ảnh của Ngài, tức là
Ngôi Lời của ngài.
Không có hai tình yêu nơi Thiên Chúa. Ngài đã yêu
Chúa Con bằng tình yêu duy nhất thì cũng bằng tình yêu
ấy Ngài hằng yêu vạn vật nhờ ngƣời Con ấy, theo hình
ảnh Ngài.
1.
Nơi tình yêu vô lƣợng ấy
Tình yêu phát xuất từ hai ngôi vị
Là những lời vô cùng dịu ngọt
Cha đã nói với Con.
2.
Không một ai hiểu đƣợc những lời
Của sự hoan lạc thật thâm sâu ấy
216
Chỉ một mình Ngôi Con vui hƣởng đƣợc
Vì điều ấy chỉ thích hợp cho Ngài.
3.
Nhƣng điều ngƣời ta hiểu đƣợc
Là điều Ngài đã nói nhƣ sau :
“Không có gì đẹp lòng Ta, Con ạ,
Ngoại trừ nhóm bạn của Con.”
4.
Và nếu có điều gì đẹp lòng Ta
Chính là trong Con mà Ta ƣa thích nó
Nó càng giống với Con
Càng làm Ta vui thích.
5.
Và điều nào không chút gì giống với Con
Thì chẳng tìm đƣợc chút gì nơi Ta
Chỉ có nơi một mình Con là Ta đƣợc vừa ý
Ôi sự sống của sự sống Ta !
6.
Con là ánh sáng của ánh sáng Ta,
Là trí tuệ của Ta
Là ấn tƣợng của bản lĩnh Ta
Mà Ta rất hài lòng.
7.
Cho kẻ nào yêu Con, Con ạ,
Ta ban tặng chính Ta cho nó,
Và tình yêu Ta có nơi Con
Ta sẽ đặt tình yêu ấy nơi nó
Bởi vì nó đã yêu kẻ Ta hết sức yêu mến.
217
Tình khúc 3 VỀ SÁNG TẠO
Tông Đồ Gioan trong thƣ thứ nhất của ngài đã viết:
“Điều chúng tôi đã từng thấy và đã từng nghe, thì chúng
tôi loan báo cho cả anh em nữa, ngõ hầu anh em đƣợc
thông hiệp với chúng tôi, và sự thông hiệp của chúng ta là
đƣợc thông hiệp với Chúa Cha và Con của Ngài, Đức
Giêsu Kitô” (1Ga 1,3).
Hầu nhƣ cũng những từ ấy đã đƣợc vị thánh láy lại
cho đoạn đầu của bài thơ. Mục đích của Thiên Chúa khi
tạo dựng con ngƣời là để chúng đƣợc dự phần vào bản
tính Thiên Chúa của Ngài (đƣợc ăn bánh nơi cùng một
bàn, đƣợc ăn chính thứ bánh Ngài ăn) và để cho họ đƣợc
ngƣỡng mộ vinh quang Ngài, vinh quang đƣợc tỏ lộ bằng
sự tốt lành vô biên của Ngài.
Chính đó là điều tình khúc này hát mừng, một tình
khúc mà tất cả mọi câu thơ đều dồi dào một ý nghĩa thần
học sắc sảo.
1.
Này Thái Tử, Ta muốn tặng cho Con
Một ngƣời vợ yêu thƣơng Con,
Một ngƣời vợ nhờ Con mà đáng đƣợc
Nhập đoàn với Chúng Ta.
218
2.
Và đáng đƣợc ăn bánh nơi cùng một bàn,
Đƣợc ăn chính thứ bánh Ta ăn,
Để nàng hiểu ra những thiện hảo
Mà Ta có nơi một Ngƣời Con nhƣ thế.
Và nhờ sự tuấn tú hào hùng của Con,
Nàng đƣợc hoan hỷ với Ta.
3.
Ngƣời con đáp lời Cha :
Thƣa Cha, con cám ơn Cha nhiều lắm.
Con sẽ tặng cho ngƣời vợ mà Cha ban cho con,
Tặng cho nàng ánh rực rỡ của con.
4.
Để nàng thấy đƣợc Cha của con danh giá biết bao,
Và làm sao con đã thừa hƣởng đƣợc
Hữu thể con đang sở hữu
Từ nơi hữu thể của Ngƣời Cha ấy.
5.
Con sẽ để nàng tựa vào cánh tay con,
Và nàng sẽ đƣợc thiêu đốt bằng tình yêu của Cha,
Và bằng mối hoan lạc vĩnh cửu,
Nàng sẽ tán dƣơng sự tốt lành của Cha.
219
Tình khúc 4 VỀ SÁNG TẠO
(tiếp theo)
Có quá đáng không nếu nói rằng chỉ trong vài tiết
thơ, tình khúc này đã vạch đƣợc cả một tổng hợp về thần
học của Hội thánh ?
Mà nét chính của tổng hợp ấy nhƣ sau: Hội thánh,
trên trời cao và nơi dƣơng thế, chỉ là một; vì các thiên thần
và loài ngƣời đều hiệp thành một trong tình yêu của Đấng
Phu quân duy nhất là Đức Giêsu Kitô. Trên trời thì ngay
từ đầu các thiên thần đã đƣợc xếp đặt cách dứt khoát trong
sự kết hiệp hạnh phúc với Thiên Chúa. Còn dƣới đất này,
công cuộc của Thiên Chúa đƣợc thực hiện từng bƣớc,
ngang qua sự mỏng dòn và thân phận tội lỗi của nhân loại.
Thế nhƣng lời loan báo của việc nhập thể cứu chuộc
đã chiếu ánh sáng vào nỗi khốn cùng của trần gian. Mọi
sự sẽ đƣợc phục hồi trong Đức Kitô. Mọi sự sẽ đƣợc Ngài
hiệp nhất lại trong lễ hy sinh của Ngài. Trong vẻ dị biệt đa
dạng của các chi thể mình, Hội thánh sẽ tìm đƣợc sự duy
nhất, đƣợc diễn tả trong câu thơ gãy gọn nhƣ một công
thức tráng lệ, dù về mặt văn phạm thì có vẻ không ổn :
Và nhƣ thế, tất cả nên một,
Ngài đƣa nàng đến với Cha.
220
Kết cục lại, công cuộc sáng tạo đã phát xuất từ Thiên
Chúa lại quay về cung lòng Chúa Cha, đƣợc cuốn vào
trong các chuyển động của sự sống Ba Ngôi.
Có thể nào không thán phục một tổng hợp đầy sinh
lực trí tuệ đến thế và phong phú hƣơng vị siêu nhiên đến
thế ?
1.
Chúa Cha phán : “Hãy có nhƣ vậy,
Vì tình yêu của Con đáng đƣợc điều ấy.”
Và khi Ngài phán lời ấy
Thế gian đã đƣợc dựng nên.
2.
Cung điện cho Tân nƣơng
Đã đƣợc làm với đầy thƣợng trí
Chia làm hai nơi ở
Trên cao và dƣới thấp.
3.
Phần dƣới thấp trƣng bày
Vô tận những cái khác nhau
Còn phần trên cao thì tô điểm
Bằng châu ngọc đáng ngây ngƣời.
4.
Để Tân nƣơng nhận biết
Đức Phu quân nàng có đƣợc là ai,
Cha đã xếp phần trên cao
Cho phẩm trật các thiên thần cƣ ngụ.
221
5.
Còn bản tính loài ngƣời
Cha đặt ở phần dƣới thấp
Vì trong cấu trúc của nó
Có một chút gì đó hơi kém giá trị.
6.
Và cho dù cả hữu thể lẫn các nơi ở
Ngài đã phân chia ra nhƣ thế
Nhƣng tất cả là thân thể duy nhất
Của Tân nƣơng nói trên.
7.
Và tình yêu của cùng một Đức Phu quân
Đã biến chúng thành Tân nƣơng độc nhất
Những hữu thể ở trên cao
Thì có Đức Phu quân trong hoan lạc.
8.
Còn những hữu thể ở dƣới thấp thì vẫn mong đợi
Nhờ đức tin Ngài đã rót cho
Khi dặn rằng rồi đến một lúc
Ngài sẽ làm cho chúng nên cao quý.
9.
Và rằng phận của chúng thấp hèn nhƣ thế
Ngài sẽ đích thân nhắc lên cao
Đến độ không một ai
Còn có thể khinh bỉ.
10.
Bởi Ngài sẽ tự hiến mình
Nên giống chúng trong mọi sự
Ngài sẽ đến với chúng
Và sẽ ở lại với chúng.
222
11.
Và rồi Thiên Chúa sẽ nên ngƣời trần
Và ngƣời trần sẽ thành Thiên Chúa
Ngài sẽ sống với họ
Cùng ăn và uống.
12.
Chính Ngài sẽ ở lại với họ
Mãi mãi
Cho đến ngày hoàn tất
Dòng đời đang trôi đây.
13.
Và rồi họ sẽ cùng nhau hoan lạc
Trong giai điệu đời đời
Vì Ngài sẽ là đầu
Của Tân nƣơng mà Ngài có đƣợc.
14.
Ngài sẽ quy tụ lại nơi ấy
Tất cả mọi chi thể của những ngƣời chính trực
Vốn đã là thân thể của Tân nƣơng
Mà Ngài đã lấy.
15.
Và ở đó trong vòng tay êm ái
Ngài sẽ ban cho nàng tình yêu Ngài,
Và nhƣ thế, tất cả nên một,
Ngài đƣa nàng đến với Cha.
16.
Ở đó nàng sẽ vui hƣởng
Cùng một niềm hoan lạc mà Thiên Chúa vui hƣởng
Cả Chúa Cha và Chúa Con
Và cả Đấng từ Cha và Con mà phát xuất.
223
17.
Nhƣ Ba Ngôi sống trong nhau
Thì Tân nƣơng cũng thế
Một khi đƣợc hút vào trong Thiên Chúa
Nàng sẽ sống sự sống của Thiên Chúa.
224
Tình khúc 5 NHỮNG KHÁT VỌNG CỦA CÁC THÁNH TỔ PHỤ
Trong bốn tình khúc đầu, nguồn cảm hứng là thần
học. Trong tình khúc này, thần học nhƣờng chỗ cho Kinh
thánh. Chỉ cần xem mỗi câu thơ tƣơng ứng với câu nào
trong Kinh thánh là đủ rõ, cách riêng tiết cuối cùng gần
nhƣ láy lại từng chữ trong lời mở đầu thƣ thứ nhất của
Thánh Gioan : “Điều từ thuở ban đầu đã có, điều chúng tôi
đã từng nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng
tôi đã cung chiêm, và tay chúng tôi đã rờ đến, về Lời sự
sống...” (1Ga 1,1). Sự đa dạng của các ý tƣởng mƣợn từ
Kinh thánh càng làm nổi rõ sự duy nhất sâu xa của bài
thơ, do một luồng gió của hy vọng gan lì đƣợc đức tin soi
sáng thổi xuyên qua... Bất chấp sự nghèo nàn về bút pháp
và ngữ vựng, những hình ảnh vẫn giữ đƣợc vẻ tƣơi mới và
thỉnh thoảng cũng toát ra cái gì thực sự là thơ.
Với niềm hy vọng tốt lành ấy
Niềm hy vọng đã đến với họ từ trên cao
Sự chán ngán những khổ nhục
Đã trở nên nhẹ nhàng hơn cho họ.
Nhƣng niềm hy vọng dai dẳng
Và nỗi khát khao cứ tăng dần
Khát khao đƣợc hoan hỷ với Đức Phu quân
Lại khiến họ sầu khổ không dứt.
225
Vì thế, bằng lời nguyện
Bằng thở than và hấp hối
Bằng nƣớc mắt và rên rỉ
Họ đã kêu xin Ngài ngày đêm.
Họ kêu xin Ngài hãy quyết định
Cho họ đƣợc nhận vào nhóm bạn của Ngài
Lắm kẻ nói : Ôi ƣớc gì niềm vui ấy
Đến ngay trong thời tôi đây !”
Những ngƣời khác nói : “Xin hãy hoàn tất đi, lạy
Chúa,
Xin hãy gởi đến Đấng mà Chúa phải gởi đến.”
Những ngƣời khác nữa lại nói : “Ôi ƣớc chi Chúa xé
các tầng trời
Và tôi đƣợc thấy tận mắt tôi
Rằng Chúa đang ngự xuống,
Và tôi sẽ thôi nức nở.”
“Hỡi mây từ trên cao, hãy mƣa Đấng ấy xuống,
Đấng mà mặt đất đang xin ngƣơi.”
Và hãy thiêu hủy mặt đất
Đất chỉ sinh cho chúng tôi gai góc
Hãy cho phát sinh nụ hoa ấy
Nụ hoa sẽ làm mặt đất nở hoa theo.
Những ngƣời khác nói : “Ôi diễm phúc
Cho kẻ nào sẽ sống ở thời ấy
Kẻ đáng đƣợc thấy Thiên Chúa
Với đôi mắt mình.
Đáng đƣợc chạm đến Ngài bằng đôi tay mình có
Và bƣớc đi nhập bọn với Ngài
Và vui hƣởng những mầu nhiệm
Mà bấy giờ Ngài sẽ bày ra.”
226
Tình khúc 6 NHỮNG KHÁT VỌNG CỦA CÁC THÁNH TỔ PHỤ
(tiếp theo)
Trong bài thơ ngắn ngủi này, qua khuôn mặt đƣợc
yêu mến của cụ già Simêon, ta đoán đƣợc tình yêu nóng
lòng của vị thánh. Ta gặp lại ở đây cùng một niềm hy
vọng đƣợc đức tin soi sáng mà theo kiểu nói rất cô đọng
và chính xác của tình khúc 4, cũng có thể nói là niềm hy
vọng đức tin mà Chúa rót cho họ.
Bài này hoàn toàn cảm hứng từ Tin mừng : “Và này
ở Giêrusalem có một ngƣời tên là Simêon, một ngƣời
công chính và mộ đạo, những ngóng đợi niềm an ủi của
Israel, và Thánh Thần ở trên ông. Ông đã đƣợc Thánh
Thần linh báo là sẽ không phải chết trƣớc khi đƣợc thấy
Đức Kitô của Thiên Chúa.” (Lc.2,25-26)
227
Những lời khẩn cầu này rồi những lời khác
Một thời gian dài đã qua đi
Nhƣng vào những năm cuối cùng
Sự háo hức đã tăng vọt.
Khi cụ già Simêon
Nung nấu nỗi khao khát
Nài xin Thiên Chúa đoái thƣơng
Để cho cụ đƣợc thấy ngày ấy.
Và thế là Thánh Thần
Đã đáp lời cụ già tốt lành
Mà hứa với cụ
Rằng sẽ không thấy cái chết trƣớc khi
Trƣớc khi đƣợc thấy sự sống
Đáp xuống từ trên cao
Và rằng trong chính hai bàn tay mình
Cụ sẽ ẵm chính Thiên Chúa
Và có đƣợc Ngài trên hai cánh tay
Mà ôm siết lấy.
228
Tình khúc 7 VỀ NHẬP THỂ
Nguyên do đích thật của việc nhập thể, tức là sự cứu
chuộc, đƣợc nêu rõ ở cuối tình khúc này :
Và để nàng có đƣợc sự sống, con sẽ vì nàng mà chết,
Và kéo nàng khỏi vực thẳm,
Con sẽ đem nàng quay về với Cha.
Dù vậy, một cách thi vị, tình khúc lại nhấn mạnh đến
nguyên do về sự giống nhau. Mà thật, sự giống nhau
chẳng phải là đòi hỏi của tình yêu đó sao? Chẳng phải
chính tình yêu đã gây nên cuộc nhập thể cứu chuộc đó
sao?
Con Thiên Chúa làm ngƣời chắc chắn là để cứu vớt
con ngƣời tội lỗi. Thế nhƣng Ngài đã muốn cứu con ngƣời
bằng cách trở nên giống con ngƣời để lôi kéo nó đến với
tình yêu một cách hữu hiệu hơn, vì chỉ có tình yêu mới
cứu đƣợc nó.
Nguyên do này cũng còn đƣợc trình bày ở một chỗ
khác, trong cuốn Đêm dày : “Cải trang không gì khác hơn
là che giấu, khoác một bộ đồ và một vẻ mặt khác với bình
thƣờng, hoặc là để dùng hình thức và y phục ấy mà bày tỏ
ý muốn và điều ấp ủ trong lòng là muốn chiếm đƣợc sự ƣu
ái và cảm tình của ngƣời mình yêu, hoặc là để...” (Đêm
229
dày II,21). Thiên Chúa đã lôi kéo chúng ta bằng cách ấy
trƣớc, “bằng những sợi dây tình ngƣời” (Hs 11,4).
Hai tiết cuối nói lên thật cảm động toàn thể chƣơng
trình cứu chuộc và cái chung cuộc trên trời mà việc cứu
chuộc ấy phải đạt đến : đƣa con ngƣời về với Thiên Chúa
(ngang qua cả lỗi lầm của con ngƣời và bất chấp lỗi lầm
ấy) và hoàn thiện chƣơng trình mà Thiên Chúa đã vạch ra
khi sáng tạo nhân loại.
Và khi đã đến thời
Thích hợp để thực hiện
Việc cứu chuộc cho Tân nƣơng
Đang làm nô lệ dƣới cái ách nghiệt ngã
Tức là dƣới luật pháp
Mà Môsê đã ban bố cho nàng
Thì Cha, bằng tình yêu dịu dàng,
Đã nói nhƣ sau :
“Con thấy đó, con ơi, ngƣời bạn đời của con,
Ta đã làm cho nàng nên hình ảnh con
Và trong dáng dấp giống hệt con nhƣ thế
Nàng thật hợp với con,
Nhƣng nàng khác một điều mà nơi hữu thể đơn
thuần của con không có :
Xác thịt.
Mà tình yêu hoàn hảo đòi quy luật này :
Kẻ yêu mến thì phải
Nên giống ngƣời mình yêu
Càng giống nhau bao nhiêu
Càng chứa sẵn nhiều hoan lạc.
230
Hẳn nơi ngƣời bạn đời của con
Mối hoan lạc sẽ tăng lên rất mực
Nếu nàng thấy con
Mặc xác thịt giống nhƣ nàng đang mặc.”
Và ngƣời con đã thƣa :
“Cha muốn sao, con muốn vậy
Và vinh quang con có đƣợc
Là ý Cha trở thành ý con.
Và thƣa Cha, điều Cha đã phán
Thật thích hợp cho con
Vì bằng cách ấy,
Sự tốt lành của Cha sẽ càng hiện rõ.
Thiên hạ sẽ thấy Cha quyền năng cao cả
Công bình và thƣợng trí
Con sẽ đi nói điều ấy cho thế giới
Và bảo cho nó biết vẻ đẹp và sự dịu dàng
Và chủ quyền của Cha.
Con sẽ đi tìm ngƣời bạn đời của con
Và mang lấy trên mình
Những vất vả và khổ nhục
Nàng đã hứng chịu biết bao nhiêu.
Và để nàng có đƣợc sự sống
Con sẽ vì nàng mà chết,
Và kéo nàng khỏi vực thẳm
Con sẽ đem nàng quay về với Cha.”
231
Tình khúc 8 VỀ NHẬP THỂ
(tiếp theo)
Khi cha André Nhập thể nói tới vẻ quê mùa của một
số tình khúc, có lẽ Ngài không nghĩ tới bài này. Mà dù
ngài có nghĩ tới đi nữa, thì cũng chỉ nhắm nói đến văn
chƣơng chứ không nhắm đến tƣ tƣởng của bài này, cả về
tƣ tƣởng thần học lẫn tƣ tƣởng thi ca. Trong việc mô tả
mầu nhiêm truyền tin, không hề thấy nhấn mạnh điều gì
cách vụng về : chỉ thuần là một lời phát biểu đầy đức tin
và giáo thuyết, dẫn đến một đoạn kết đầy ý nghĩa sâu sắc.
Trong bài này, mọi cách nói đều đƣợc cân nhắc.
Không thể thay đổi một chữ nào. Cô đọng hết sức đẹp về
một tƣ tƣởng núp dƣới một hình thức ngây ngô và đầy
cảm kích.
232
Thế rồi Ngài đã gọi một Tổng Thiên Sứ
Tên là Gabriel
Và sai đến với một trinh nữ
Tên là Maria.
Do sự đồng ý của nàng
Mầu nhiệm đã đƣợc thực hiện.
Nơi nàng, cả Ba Ngôi
Đã mặc xác thịt cho Lời.
Và mặc dù cả Ba Ngôi đã thực hiện công trình
Mầu nhiệm chỉ diễn ra nơi một
Và Ngôi Lời đã mặc xác thịt
Mà ở lại trong lòng Đức Maria.
Đấng đã chỉ có một ngƣời Cha
Cũng đã có Đức Maria là Mẹ
Dù không giống bất cứ bà mẹ nào
Thụ thai bởi ngƣời nam.
Bởi lòng dạ của bà
Ngài đã nhận lấy xác thịt mình
Và vì thế mà Con Thiên Chúa
Đã đƣợc gọi là Con Loài Ngƣời
233
Tình khúc 9 GIÁNG SINH
Bài giáng sinh này làm ta liên tƣởng đến nét tƣơi
mới của những bức bích hoạ của Fra Angelico : có một số
khuyết điểm về hội hoạ đáng tiếc nhƣng càng khiến ngƣời
ta dễ nhận ra đƣợc cảm hứng nghệ thuật tinh ròng của
ông.
Thánh vịnh 18,6 (19,6) gợi hứng cho câu thơ thứ hai:
“Thái dƣơng xuất hiện nhƣ Tân lang rời bỏ loan phòng”.
So sánh cổ điển : Sự kết hợp giữa bản tính Thiên Chúa và
bản tính con ngƣời trong ngôi vị duy nhất của Ngôi Lời
thƣờng đƣợc trình bày dƣới biểu tƣợng một cuộc hôn
phối. Cần liên tƣởng đến điều ấy để hiểu đúng bài thơ này.
Sự tƣơng phản giữa niềm vui con ngƣời và nƣớc mắt
Thiên Chúa chỉ có Đấng “giữ mọi điều ấy trong lòng” (Lc
2,51) mới có thể hiểu đƣợc trọn vẹn.
Có gì đáng ngạc nhiên nếu một “tu huynh dòng Đức
Bà” liên tƣởng đến Đức Trinh Nữ để làm cho ngƣời ta
hiểu rõ ý nghĩa thâm sâu của “cuộc trao đổi đáng ngƣỡng
mộ” mà phụng vụ xƣa kia nói đến ?
234
Rồi đến lúc
Mà Ngài phải sinh ra
Ngài đã nhƣ một Tân lang
Rời khỏi loan phòng.
Ôm ấp hiền thê
Mà Ngài mang theo nơi đôi cánh tay,
Và ngƣời mẹ diễm phúc
Đặt Ngài trong một máng cỏ.
Giữa vài con vật lúc ấy đang ở đó
Loài ngƣời thốt lên những bài ca
Các Thiên thần hoà tấu những giai điệu
Mừng hôn lễ
Giữa hai bên đang diễn ra nhƣ thế
Còn trong máng cỏ thì Thiên Chúa
Ở đó đang khóc và kêu la.
Đó là những châu ngọc mà tân nƣơng
Đem đến hôn lễ
Và Ngƣời Mẹ sững sờ
Khi thấy một sự đổi trao nhƣ thế
Những giọt lệ của con ngƣời nơi Thiên Chúa
Và niềm hoan hỷ nơi con ngƣời
Điều mà thƣờng thì hết sức xa lạ
Cho cả bên này và bên kia.
235
Tình khúc 10 MỘT TÌNH KHÖC KHÁC VỀ
THÁNH VỊNH “TRÊN SÔNG BABYLON‟
Đây cũng lại là một tình khúc soạn trong ngục thất
Toledo. Tình cảnh này giúp ta hiểu hình ảnh mƣợn lại của
tác giả thánh vịnh về cuộc lƣu đày; và đối với ngƣời đan sĩ
chân trần đầu tiên, thế nào là cám dỗ vui đùa với đám
“ngoại bang”, tức là những ngƣời muốn ép buộc ngài phải
bỏ công cuộc của Thánh nữ Têrêxa. Sự chuyển ý rất rõ :
những cành liễu xanh ở Sion đã từng đem lại cho vị thánh
biết bao yêu thƣơng và niềm vui, làm sao ngài có thể bỏ
nó đi để chụp lấy những nhánh liễu ở Babylon đƣợc !
Tuy nhiên, có lẽ không nên quá nhấn mạnh ý nghĩa
ám chỉ ấy. Chính câu kết của bài thơ mời gọi ta hƣớng tới
một sự giải thích vƣợt hẳn những bận tâm giới hạn vào
công cuộc cải cách của thánh nữ Têrêxa. Mục đích chính
của vị thánh là hƣớng đến mọi linh hồn, nhất là những linh
hồn còn ở xa, ngài muốn lôi cuốn họ về với Đức Kitô.
Có thể chính câu kết này là lý do hiện hữu của bài
thơ. Liệu chúng ta có thể nhấn mạnh đủ rằng vị thánh đã
biến đổi thánh vịnh 136 (137) theo một sự xoay hƣớng hết
sức quan trọng? Tác giả đã kết thúc bằng một lời nguyền
rủa chống lại Babylon :
Phúc thay những ngƣời bắt những con thơ của mi
Mà đem đập vào đá.
236
Trong bài thơ của Thánh Gioan Thánh Giá, lời chúc
dữ ấy đã đƣợc thay thế bằng một lời chúc phúc đáng kinh
ngạc. Thật vậy, tảng đá đã trở nên Đức Kitô và chỉ còn
một vấn đề là kết hợp với Ngài.
Trên những dòng sông ở Babylon
Tôi ngồi đó khóc
Mà tƣới ƣớt mặt đất.
Ta thƣơng nhớ ngƣoi
Ôi Sion, kẻ Ta yêu nến
Kỷ niệm về ngƣơi thật êm đềm
Càng nhớ đến, Ta càng khóc sƣớt mƣớt.
Ta đã cởi bỏ những tang phục ngày lễ
Mà mặc áo xống của vất vả
Và trên những cây liễu xanh ta treo
Cây đàn đã mang theo.
Ta để nó đấy trong niềm hy vọng
Về điều Ta vẫn đợi nơi ngƣoi
Ở đó tình yêu đã đánh ta bị thƣong
Và móc lấy tim ta.
Ta đã bảo tình yêu hãy giết ta đi
Vì nó đã đánh ta trọng thƣơng đến thế
Ta đã lao vào ngọn lửa nó
Dù biết rằng nó sẽ đốt cháy ta
Tạ lỗi với con chim phƣợng hoàng nhỏ
Đã tự toàn thiêu trong lửa
Này ta chết trong ta
237
Và chỉ nơi một mình ngƣơi mà ta lại sống.
Trong ta, ta chết vì ngƣơi
Và vì ngƣơi ta lại sống dậy
Vì nỗi nhớ về ngƣơi
Làm cho sống và lấy mất sự sống.
Giữa đám ngoại bang vui phở lở
Ta là tù nhân
Chúng yêu cầu ta hát
Điều đã hát ở Sion :
“Hãy hát một bài chúc tụng Sion
Để ta xem âm điệu nó ra sao !”
Các ngƣơi khéo nói : Làm sao nơi đất lạ
Nơi ta khóc Sion
Mà ta có thể hát lên đƣợc niềm hoan hỉ
Đã bỏ lại ở Sion ?
Có là quên Sion
Ta mới vui vẻ ở nơi đất lạ !
Lƣỡi Ta dùng để nói
Hãy dính vào cuống họng
Nếu Ta quên ngƣơi
Ở nơi đất ta đang lƣu đày
Sion ơi ! nếu tay phải ta cầm đến
Những cành lá xanh Babylon cho ta
Thì ta sẽ quên cánh tay ấy
Điều ta yêu mến nhất khi ở giữa ngƣơi
Nếu ta không nhớ ngƣơi
Nơi điều làm ta vui nhất
Và nếu ta biết đến lễ vui
Và lễ mừng mà không có ngƣơi...
238
Thì...
Ôi thiếu nữ Babylon
Đáng thƣơng và bất hạnh,
Ta có Đấng diễm phúc thay
Đấng ta tin cậy
Ngƣời sẽ cho ngƣơi hình phạt
Mà ta đã phải nhận từ tay ngƣơi
Ngƣơi sẽ gom các trẻ nhỏ của ngƣơi lại
Cùng với ta (vì nơi ngƣơi ta đã khóc)
Mà đập vào tảng đá là Đức Kitô
Đấng mà ta sẽ giao ngƣơi lại !
239
NHỮNG CHÂM NGÔN
CỦA ÁNH SÁNG VÀ TÌNH YÊU
240
LỜI DẪN NHẬP
Cha Lucien-Marie de Saint-Joseph , ocd.
I
Không phần nào của Thánh Gioan Thánh Giá gây
một giải thích sai lạc nhƣ phần các châm ngôn. Các châm
ngôn này đã khiến ngƣời ta hình dung ra Thánh Gioan là
một ngƣời vừa tùy tiện vừa cứng cỏi. Tuy nhiên, những
ngƣời đồng thời với thánh nhân đã lên tiếng và chúng ta
còn giữ đƣợc chứng từ của họ: Những chứng từ này lại
đồng thanh thốt lên một âm sắc khác hẳn âm sắc mà một
số tác giả cận đại đã cho ta nghe.
Ngay từ hồi làm cha giải tội cho đan viện Nhập thể ở
Avila (1572-1577), Thánh Gioan Thánh Giá đã có thói
quen gói ghém giáo huấn ngài trong tòa giải tội cũng nhƣ
ngoài phòng khách vào một công thức ngắn, phù hợp với
những nhu cầu của một ngƣời nào đó (và trong số trƣờng
hợp, của cả một cộng đoàn). Chị Ana Maria Chúa Giêsu,
một thệ hiến ở đan viện Nhập Thể, khai rằng: “Ngài có
đƣợc một ơn đặc biệt để an ủi những kẻ đến gặp ngài,
bằng lời nói cũng nhƣ bằng những tấm thẻ.
241
Nhân chứng này (tức là chính chị Ana Maria) đã
nhận đƣợc nhiều lời cũng nhƣ những mẩu giấy bàn về
những điều thánh thiện, và chị còn rất tha thiết muốn có
đƣợc thêm nữa”.
Các chị Cát Minh ở Béas, đã nhận đƣợc biết bao sự
săn sóc của cha Gioan, làm chứng rằng trong các năm
1578-1579 ngài thƣờng dùng cách ấy để hƣớng dẫn. Có
rất nhiều chứng từ, do các đan nữ nêu lên, trong số này
nhiều vị rất trổi trang và gần gũi với chúng ta: Phanxica
của Thánh Mẫu Thiên Chúa, Catarina thánh Albertô,
Mađalêna của Chúa Thánh Linh. Vị sau cùng này nhấn
mạnh đến hai nguồn chính của các châm ngôn ấy: Một
nguồn là lời giáo huấn nói miệng. Rất có thể lúc đầu việc
giáo huấn này nhằm chú giải cuốn Ca khúc tâm linh (và có
lẽ cả cuốn khác nữa) là điều bản thân Thánh Gioan Thánh
Giá đặc biệt ƣa thích. Mỗi ngày sau cơm chiều, ngài nói
đôi phút với các tu sĩ của ngài. Thƣờng ngài nói ở cửa
chấn song của đan viện. Vị thánh hỏi rồi bình giải những
câu ngƣời ta trả lời ngài. Cách ấy đòi phải hết sức vững
chắc về học thuyết và thật khéo léo trong việc trao đổi. Có
lẽ cần giở lại cuốn Đối thoại của Platon, đọc lại cuốn
Socrate đã dùng để dịu dàng dẫn dắt môn sinh đến với
chân lý, làm cho chân lý nẩy sinh trong lòng họ hơn là áp
đặt nó cho họ, mới có thể đoán biết giọng văn vị thánh đã
dùng, cách riêng là ở cửa chấn song đan viện Cát Minh.
Các chị Cát Minh đã vội vàng ghi chép; họ tha thiết nhớ
kỹ điều đã nghe đƣợc, và kể từ khi Thánh Gioan Thánh
Giá rời tu viện Calvariô, cạnh Cát viện Béas, các cuộc
thăm viếng thƣa hơn, họ càng chăm chú thu thập những
lời ấy hơn.
242
Nguồn thứ hai của các châm ngôn là thƣ tín. Trong
các thƣ ngài, thánh nhân cho những ý kiến chứa đựng
những giáo huấn hữu ích cả cho các nữ tu thƣờng cũng
nhƣ các chị có trọng trách. Có khi ngài viết cho mỗi chị
một châm ngôn nhằm đẩy mạnh bƣớc tiến tâm linh của
họ. Có khi, câu châm ngôn dành cho cả cộng đoàn. Tiêu
biểu cho loại sau này là châm ngôn tuyệt diệu ở số 131,
lấy lại câu tái bút của lá thƣ số VII, gởi cho các chị Cát
Minh ở Béas: “Điều cần thiết nhất để ta đƣợc tiến bộ là thinh
lặng trƣớc vị Thiên Chúa cao cả ấy, giữ thinh lặng cả về miệng
lƣỡi và sở thích, vì chỉ có Tình yêu yên lặng mới là ngôn ngữ
đƣợc Ngài lắng nghe hơn cả”
Chứng từ của chị Catarina Thánh Albertô cũng cho
cùng một ghi nhận: “Trong số các chị Cát Minh ở Béas,
có một chị không phải là dốt nát, tên là Catarina Thánh
Albertô, đã để ý thấy cha thánh bao giờ cũng chỉ nói về sự
trên trời. Chị chăm lo ghi chép tất cả những gì chị nghe
ngài nói, đem kết hợp với những châm ngôn ngài đã cho
các nữ tu về những nhân đức họ phải thực hành khi ngài
vắng mặt. Bằng cách ấy chị đã làm lấy một cuốn sách,
theo lời chị, đƣợc dùng làm vị thầy và ngƣời hƣớng dẫn
cho chị những khi vắng mặt ngƣời của Thiên Chúa.”
Cha Alenso đã làm cho chứng từ của các chị Cát
Minh ở Béas thêm mạnh. Cha viện dẫn đƣợc những điều
chính xác, dựng lại sự thật của một điểm lịch sử quan
trọng. Các nữ tu Cát Minh đã rút đƣợc nơi sự hiện diện
của vị thánh rất nhiều lợi ích nên họ không thể nào chịu
đƣợc khi ngài ra đi, để họ ở lại, không đựơc lời giáo huấn
phong phú và chắc nịch của ngài nâng đỡ. Họ đã nói cho
ngài biết những tiếc nuối ấy khi ngài làm Bề trên của nhà
Calvariô, gần Béas, và vẫn còn đến giải tội cho họ hằng
243
tuần. Nhƣng rồi ngài đƣợc bổ nhiệm làm viện trƣởng ở
Baeza (1579-1581), bề trên ở Granada (tháng Giêng 1582
- tháng Năm 1585), phó giám tỉnh ở Andalusia (1585-
1587) sau cùng lại làm bề trên ở Granada tháng tƣ 1587-
tháng sáu 1588). Sự xa xôi và những trách nhiệm nặng nề
chồng chất, kể cả phải xây dựng nhiều nhà mới, không
ngăn cản thánh nhân tiếp tục theo dõi từng ngƣời trong
các con cái ngài ở Béas. Đôi khi ngài đến hiện diện với họ
cả một tháng liền. Còn thƣờng thì viết thƣ. Bằng chữ viết
hay lời nói, mỗi chị đều nhận đƣợc của cha thánh một
châm ngôn để giúp họ sống trong thời gian ngài vắng mặt,
và cũng có thể tự kiểm điểm khi ngài trở lại. “Mỗi khi rời
nhà Béas quay về nhà Calvariô, ngài để lại cho mỗi nữ tu
một châm ngôn về nhân đức mà ngài cho là sẽ giúp chị
tiến hơn, và cũng để họ đọc châm ngôn ấy mà đƣợc khích
động lòng nhiệt thành. Các nữ tu quí chuộng các châm
ngôn ấy đến nỗi nhiều năm sau vẫn còn giữ lại trong các
tập vở... Khi thánh nhân trở lại tu viện, các nữ tu thƣa rằng
họ hết sức mong ngài đến dạy dỗ. Ngài trả lời: Trong khi
đợi tôi trở lại, các chị hãy làm nhƣ đám cừu, nhai lại
những gì tôi đã dạy các chị suốt thời gian tôi đã ở đấy. Và
họ đã làm nhƣ thế: Suy niệm những gì họ đã đƣợc nghe,
và đọc các châm ngôn ngài ghi trên những mẩu giấy nhỏ.
Cứ thế, đến khi ngài trở lại, ngài cho họ tƣờng trình các
tiến bộ của họ, vừa nghe vừa chú tâm cân nhắc những gì
ngài thấy họ chểnh mảng và lại cẩn thận điều chỉnh.
Điều thánh nhân đã làm ở Avila và Béas ta cũng cầm
chắc ngài đã làm ở Granada, ở Segovia, ở Cordoba. Tại ba
đan viện này, ngay từ khi thành lập đã có nhiều con cái
thiêng liêng của ngài dự phần, đặc biệt là những chị đến từ
244
Béas, nên hẳn là các “thẻ giấy” của thánh nhân phải đƣợc
coi nhƣ những “lời từ trời”, chẳng khác gì ở Béas.
Điều lịch sử dạy chúng ta đó không phải chỉ có giá
trị thông tin. Năm 1754, Anrê của Nhập Thể, tu sĩ Cát
Minh, đƣợc Dòng giao trọng trách hiệu đính phê bình sơ
khởi các tác phẩm của Thánh Gioan Thánh Giá. Tu sĩ này
ghi chú rằng có nhiều lời khuyên muốn chú giải cho đúng
thì hết sức quan trọng là phải “luôn nhớ rằng ngài đã viết
những lời ấy cho những con ngƣời có những điều kiện và
tình trạng riêng lẻ, nhằm điều chỉnh sự hƣớng dẫn của
ngài đến đích, tùy nhu cầu và tình trạng nội tâm riêng lẻ
của từng tâm hồn.” Don Chevallier giải thích điểm lịch sử
này khá rõ: “Các ý kiến, lời khuyên, châm ngôn của
Thánh Gioan Thánh Giá không phải là những nguyên tắc
đƣa ra vì ngƣời ta thích có những công thức hàm súc và
đánh động, có thể một ngày nào đó sẽ đƣợc dùng tới mà
cũng có thể mãi mãi là những con chữ vô hồn. Chúng
chính là những mũi tên bắn ra hết sức đúng lúc của một vị
hƣớng dẫn và một ngƣời bạn, nhắm tới một cái đích gần
và sống động: Toàn thể một cộng đoàn nào đó vào một
năm nào đó trong lịch sử của cộng đoàn ấy, hoặc một linh
hồn nào đó (các thầy hoặc các chị Cát Minh) vào một lúc
nhất định của một giai đoạn trong cuộc đời khổ hạnh và
huyền giao của ngƣời ấy.
Nhận xét ấy quan trọng ở chỗ nhắc ta không nên
nghĩ rằng tất cả mọi châm ngôn đều có giá trị phổ cập.
Hẳn trong nhiều trƣờng hợp, kẻ nhận câu châm ngôn tuy
là một ngƣời riêng biệt nhƣng lại có tên là cơ binh, và
hoàn cảnh nhất định khai sinh ra câu châm ngôn đã vƣơn
rộng vƣợt các giới hạn. Cần giữ vững một cảm thức bén
nhạy về những khác biệt tinh tế, để khỏi rơi vào mâu
245
thuẫn. Một câu châm ngôn nào đó đã đƣợc đƣa ra để đáp
ứng nhu cầu đặc thù riêng lẻ của một linh hồn nào đó,
nhƣng lại đƣợc gói ghém bằng những từ ngữ phổ biến nên
dễ đem áp dụng cho nhiều trƣờng hợp. Ở đây chúng ta
cũng có thể lấy lại nhận xét chính vị thánh đã nêu ra trong
lời tựa cuốn Ca khúc tâm linh, nhắc chúng ta đừng thu hẹp
tầm mức phổ biến của một số thi khúc. Chắc hẳn, nếu biết
rõ những hoàn cảnh cụ thể đã làm phát sinh một câu châm
ngôn, ta có thể hạn định ý nghĩa chính xác của châm ngôn
ấy. Thế nhƣng trong nhiều trƣờng hợp, tốt hơn, không nên
khoác tầm mức phổ cập cho các châm ngôn ấy cách máy
móc, mà cũng không nên hẹp hòi, hãy cứ để mặc một tình
trạng bất định chung quanh ý nghĩa nhất định của chúng
để có thể áp dụng nhiều cách. Mà biết dựa vào chuẩn mực
nào để thu hẹp những khả năng áp dụng ? Tuy nhiên, cũng
cần lƣu ý rằng không phải mọi châm ngôn của cha thánh
đều nên áp dụng sát từng chữ cho mọi giây phút trong đời
của một con ngƣời nhất định. Các châm ngôn càng ngắn,
càng cô đọng học thuyết so với phần lớn các tác phẩm
khác của vị thánh (không kể thi ca), lại càng đòi phải tinh
tế khi đem áp dụng cụ thể.
II
Số các châm ngôn do vị thánh soạn ra hẳn phải rất
nhiều. Bởi vì, trên nguyên tắc, nếu không phải là trên thực
tế, mỗi lần ngài đến thăm đan viện Béas đều nẩy sinh 20
câu, rồi thƣ tín thƣờng cũng là dịp để nở rộ thêm. Chỉ
riêng cho đan viện Cát Minh ở Béas, có thể cũng đã lên
đến một tổng số gây ấn tƣợng. Khi giới thiệu ở đây phần ít
ỏi hiện có, chúng tôi phải nhìn nhận với cha Silverie rằng
hiện chỉ giữ đƣợc một phần rất nhỏ các châm ngôn của
246
cha Thánh Gioan Thánh Giá. Cũng nhƣ đối với các thƣ
tín, trong vấn đề châm ngôn, ngƣời ta cũng đã chểnh mảng
không sƣu tập sớm, để bị thất lạc nhiều, khiến cho việc
phê bình dƣờng nhƣ không sao thực hiện đƣợc. Tuy vậy,
cố gắng của Don Chevallier ở Pháp đã đạt đƣợc một ấn
bản 210 châm ngôn (Chúng tôi cố tình tách rời phần:
Những lời dặn về tâm linh), con số này gồm cả phần lời
mở đầu, lời nguyện của linh hồn say đắm, và cả những
tiểu đề xen kẽ. Trên thực tế, chỉ có đƣợc 190 châm ngôn
tách rời. Trong đó có một số câu về sau ngƣời ta mới tái
hợp bản văn, và vì thế bản văn không đƣợc chắc chắn lắm.
Joan Baruzi đã công bố một phần quan trọng các
châm ngôn: Những câu thuộc thủ bản Andujar, thủ bản
duy nhất của vị thánh chúng ta hiện nắm đƣợc. Ngƣời ta
cũng nhắc đến một quan niệm triết học cho rằng Thánh
Gioan Thánh Giá đã có những phân tích tâm lý hết sức
tinh tế mỗi khi đề ra một châm ngôn, thế nhƣng thƣờng ta
không thể tán đồng quan niệm triết học ấy và nhất là ta
cũng thấy rõ đó không hề là quan niệm của thánh nhân.
Các nhà nghiên cứu hiện vẫn còn phát hiện nhiều câu
khác trong các tài liệu liên quan đến lịch sử vị thánh hoặc
trong các lời khai ở vụ án phong thánh. Tuy nhiên về mặt
bản văn, ta khó mà tìm lại đƣợc thật chắc chắn hình thức
nguyên thủy. Vậy thì đành phải nhận rằng ta chỉ còn lại
đƣợc một số lƣợng nghèo nàn. Trong khi chờ đợi một
cuộc nghiên cứu phong phú hơn tại Tây Ban Nha, nếu còn
nghiên cứu đƣợc, ta thử rút ra những phong phú chứa
đựng trong số ít châm ngôn ta hiện có.
Dựa theo Dom Chevallier cả về thứ tự tổng quát và
các bài học, chúng tôi công bố trƣớc hết là Tiểu phẩm cho
Phanxica của Thánh Mẫu Thiên Chúa. Tựa đề xác định rõ
247
sƣu tập này đã đƣợc thánh nhân trao cho Mẹ Phanxica của
Thánh Mẫu Thiên Chúa, nữ tu ở Béas. Chính chị này hồi
20 tuổi, khi vị thánh vừa ra khỏi tù đƣợc 2 tháng, đã hát
cho ngài nghe một đoản khúc khiến ngài xuất thần; về sau,
chị thổ lộ với ngài rằng chị luôn nghĩ tới vẻ đẹp của Thiên
Chúa, và chính lời thổ lộ này đã làm phát sinh thêm 5 thi
khúc mới của Những ca khúc tâm linh.
Tiểu phẩm gồm 33 châm ngôn, có thể coi là một
toàn bộ. Cùng với Dom Chevallier, ta có lý để ghi nhận
rằng lời mở đầu nêu rõ tầm quan trọng vị thánh gán cho
tiểu phẩm này. 30 châm ngôn tập trung cả vào Tình yêu
Thiên Chúa, và có thể đã đƣợc đặc biệt cƣu mang cho
ngƣời nữ tu Cát Minh có tâm hồn sốt sắng đến kỳ diệu.
Nếu chắc chắn đƣợc nhƣ thế, ta sẽ thấy rõ phải giải thích
theo hƣớng nào. Phần chúng tôi, chúng tôi không ngần
ngại coi lời tựa của tiểu phẩm nhƣ lời dẫn nhập chung cho
toàn bộ sƣu tập các châm ngôn. Không gì giúp chuẩn bị
đọc các châm ngôn của thánh nhân tốt hơn mấy dòng ấy,
thật phong phú mà thật khiêm nhƣờng. Chúng tôi sẽ nói
thêm về điều ấy khi khảo sát về học thuyết của các châm
ngôn.
Còn các châm ngôn tiếp sau tiểu phẩm, thì những
câu nào xoay quanh cùng một ý tƣởng thƣờng đƣợc xếp
chung với nhau. Có khi chỉ vì vài từ ngữ giống nhau mà
đƣợc xếp chung gần nhau. Tuy nhiên, do thiếu hẳn những
dữ kiện xác thực, ta không thể đem phân loại lại cách có
hệ thống vì nhƣ thế là làm một việc giả tạo, cƣỡng ép một
bối cảnh mà chắc chắn không phải là bối cảnh lúc đầu.
Cho nên, cứ để mặc các châm ngôn đƣợc liệt kê thiếu
lôgic nhƣ hiện nay, chúng sẽ có đƣợc những ý nghĩa
248
phong phú rộng rãi hết sức có thể, nhƣ vậy chẳng tốt hơn
sao ?
III
Các châm ngôn đã đƣợc viết trong những dịp khác
nhau và lƣu lại cho ta trong tình trạng rời rạc, khiến rất
khó có thể rút đƣợc một học thuyết toàn bộ. Và ta cũng
nói trƣớc đƣợc rằng không có một học thuyết nào nơi các
Châm Ngôn khác biệt cơ bản với các tác phẩm chính, có
tìm cũng vô ích, bởi lẽ lịch sử cho biết cả hai cùng chung
một nguồn gốc: lời dạy nói miệng. Đàng khác cũng thật
giả tạo nếu muốn tìm đƣợc trong các châm ngôn trọn cả
giáo huấn của những tác phẩm lớn. Giải pháp duy nhất, về
phƣơng diện học thuyết, là bình giải văn chƣơng cho từng
châm ngôn một, nhƣ Baruzi đã làm.
Tuy vậy, đọc lƣớt qua các châm ngôn ta cũng thấy
một số điểm vƣợt trội. Các dữ kiện lịch sử khiến ta phải
nhìn các châm ngôn, nói chung, nhƣ môt kinh nghiệm
sống nối dài học thuyết của các tác phẩm lớn. Các tác
phẩm này, mặc dù vẫn có tính cách cụ thể và hƣớng dẫn
cuộc sống, nhƣng muốn đem ra thực hành thƣờng vẫn đòi
phải có những chỉ thị trực tiếp. Các châm ngôn chẳng phải
là những chỉ thị trực tiếp ấy đó sao ? Chúng giả thiết
ngƣời ta đã biết giáo huấn quen thuộc của vị thánh, và bây
giờ đem áp dụng thẳng vào thực hành của cá nhân hoặc
tập thể. Vì thế chúng chỉ thực sự hiểu đƣợc dƣới ánh sáng
các tác phẩm khác, và một số câu sẽ bị lạc nghĩa nếu đem
gán cho một giá trị tuyệt đối, bởi vì chỉ có thể thực sự lãnh
hội đƣợc chúng trong tƣơng quan với toàn thể giáo huấn.
Trong loại này phải kể đến các châm ngôn “bàn lui” (“tiêu
cực”, khuyên đừng làm điều này điều nọ). Đừng cố giải
249
thích các châm ngôn cách tuyệt đối kẻo vô tình gán cho
Thánh Gioan Thánh Giá đã rao giảng một kỹ thuật giải trừ
(tạo sự tịch diệt, sự trống không thật yên tĩnh của cõi lòng)
tƣơng tự nhƣ kỹ thuật của triết học Ấn độ, trong khi ngài
dạy ta đừng làm tê liệt một hành động mà Thiên Chúa đã
khởi sự và đang tiếp diễn trong tâm hồn. Về hành động ấy,
ngài không thể nói gì cả: Rõ ràng ngài đã giả thiết rằng nó
có đó. Dùng cố gắng nhân loại để tìm cách tạo nên sự
trống không tâm lý là một điều hoàn toàn khác với việc
nhƣờng chỗ cho sự hiện diện tác động của Thiên Chúa.
Với sự giải thích trong liên đới với giáo huấn tổng
quát của ngài nhƣ thế, nhiều châm ngôn có một giá trị phổ
cập. Phải là một trí tuệ tài ba mới có thể chỉ dùng vài tiếng
mà vừa tóm tắt đƣợc cái tƣ tƣởng cần soi sáng cho một
tâm hồn cụ thể, trong một thời điểm nhất định của lịch sử
cuộc đời ngƣời ấy, vừa mặc cho tƣ tƣởng ấy một tầm mức
vƣợt hẳn trƣờng hợp riêng để trở nên một nguyên tắc
hƣớng dẫn tâm linh, với tất cả bề rộng mà những tiếng ấy
chuyển tải.
Điều khiến ta phải nhấn mạnh tính phổ cập của các
châm ngôn, chính là sự kiện Thánh Gioan Thánh Giá
dƣờng nhƣ không bao giờ dừng lại ở các chi tiết cuộc sống
bên ngoài của những ngƣời ngài hƣớng dẫn. Những lời
dặn về tâm linh cho thấy ngài vẫn có thể làm nhƣ vậy khi
cần. Nhƣng trong các châm ngôn, ngài chỉ chú trọng đến
cuộc sống sâu kín của tâm hồn. Những qui luật ngài nhắc
đến chính là nhắm vào đời sống tâm linh trong yếu tính
của nó. Đến nỗi những ngƣời ngoài Kitô giáo, dù không
biết nội dung tín lý chính xác làm nền tảng cho các châm
ngôn ấy, vẫn có thể rút đƣợc rất nhiều lợi ích từ những
châm ngôn của Thánh Gioan Thánh Giá.
250
Nếu nhƣ các qui luật của đời sống tâm linh thƣờng
đƣợc cụ thể hoá trong khuôn khổ sít sao và ở một số khía
cạnh, cũng là khuôn khổ vật chất của đời tu, thì đàng khác
đời sống tâm linh lại cũng không hạn hẹp nơi khuôn khổ
ấy. Tự bản chất, đời sống tâm linh có tính phổ cập. Đôi
khi, vì đang ngỏ lời với các thầy và các chị Cát Minh,
Thánh Gioan Thánh Giá đã khoác cho tƣ tƣởng ngài một
dáng vẻ thích hợp cho họ hơn, nhƣng rõ ràng ngài không
nói rằng đối với những ngƣời khác trên đời thì phải ngƣợc
lại.
Cũng nhƣ nơi các tác phẩm lớn, các châm ngôn
không cung cấp cho ta những phƣơng pháp lặt vặt, điều
mà vị thánh có vẻ không mấy thích, nhƣng là những chỉ
thị tổng quát nhằm tạo thuận lợi cho một thái độ tâm linh.
Ta cũng còn gặp ở đó sự tƣơng phản, hay nói đúng
hơn, cái nghịch lý để lộ ra rất nhiều chứng tích trong lịch
sử cuộc đời thánh nhân: Một đàng (và đây chính là điều
đánh động trƣớc tiên), ngài rất đòi hỏi, khiến môn đệ lúc
nào cũng thở hổn hển; một đàng, ngài lại hết sức dịu dàng
với các tâm hồn, một sự dịu dàng ăn rễ trong một tình yêu
của Thiên Chúa không sao cầm mình khỏi thốt ra những
lời khẩn nài và kêu gọi từng giây phút.
Sự đòi hỏi ấy xuất phát từ tình yêu và dẫn đến tình
yêu. Chính vì yêu mà thánh nhân phát ghen: Ghen là một
tiếng nằm trong bản ngữ vựng của tình yêu. Sự cứng cỏi
mà đôi khi những kẻ ít hiểu Thánh Gioan Thánh Giá đã
trách ngài, chính là sự cứng cỏi ác liệt của lòng ghen yêu.
Kinh thánh viết: “Tình yêu mạnh cơ hồ sự chết, và lòng
ghen ác liệt nhƣ địa ngục” (Dc 8,6). Những đòi hỏi của vị
thánh chỉ là cách diễn tả trinh khiết tấm tình yêu không
nhân nhƣợng của ngài.
251
Một số tác giả - không phải hạng vừa - nhấn mạnh
tính cách khổ hạnh của các châm ngôn, và họ đã không
lầm, ít là nếu đem một số câu nào đó ra lƣợng định riêng
rẽ và hiểu theo mặt chữ, vd. “Hành động cách hững hờ thì
đã gần sa ngã” (179). Thế nhƣng, thiết tƣởng tách rời một
châm ngôn và chỉ hiểu theo mặt chữ, sẽ làm sai lệch ý
nghĩa của nó. Cần để mình đƣợc cuốn vào chuyển động
của toàn bộ, tức là chuyển động của những tác phẩm, đƣa
đến sự kết hợp tròn đầy với Thiên Chúa bằng tình yêu.
Đối với các châm ngôn, kể cả những châm ngôn khổ hạnh
nhất, ta cũng phải lƣu ý điều cần lƣu ý đối với một số
chƣơng của Đƣờng lên núi Cát Minh: Chính chiều hƣớng
bề trong và cái năng động sâu xa của chúng làm cho
chúng thực sự có tính huyền giao.
“Lời mở đầu” của tiểu phẩm cho ta có đƣợc chứng
cứ tốt nhất để quả quyết nhƣ thế. Có hai nét khiến nó hết
sức đáng để ý. Trƣớc hết là ngôn ngữ trịnh trọng của nó,
rõ ràng là không cân xứng với vài ba lời khuyên về một sự
khổ hạnh thấp lè tè: Vị thánh viết nên chúng không phải
chỉ để dạy ta biết sống lƣơng thiện, nhƣng để giúp ta đạt
tới sự bắt chƣớc Chúa cách hoàn hảo. Tiếp đến, lời mở
đầu ấy đƣợc soạn dƣới dạng lời cầu nguyện. Đó là một
trang tuyệt vời về lối văn nâng cao tâm hồn. Ta đã thấy
trong tác phẩm của Thánh Gioan, các lời mở đầu quan
trọng tới mức nào, thì làm sao lại nghĩ rằng hai nét ấy
không chi phối ý nghĩa sâu xa của các châm ngôn?
Thật ra nếu nói rằng sƣu tập châm ngôn này chỉ có
tầm mức khổ hạnh thì quả ngƣời ta đã không lƣu ý đủ đến
sự có mặt hết sức kỳ lạ của những lời nguyện và cảm thán:
Ngoài Lời mở đầu, có Lời nguyện của linh hồn say đắm,
chỉ nguyên lời này đã gồm nhiều châm ngôn (Cn 26), một
252
lời nguyện cảm hứng từ sách Ruth (Cn 123) và 14 châm
ngôn rời đƣợc soạn theo thể loại cảm thán (Cn 2, 10, 30,
32, 33, 38, 46, 47, 49, 52, 109, 110, 130, 183). Tổng cộng
là 30 châm ngôn. Trong một toàn bộ sƣu tập chỉ hơn 200
câu, con số 30 là chứng cứ giá trị.
Lời mở đầu, lời nguyện của linh hồn say đắm, lời
nguyện của Ruth và 14 châm ngôn cảm thán đã xác định
bầu khí bên trong của sƣu tập. Đem so sánh với những sƣu
tập khác cùng thể loại văn chƣơng, chẳng hạn sƣu tập các
châm ngôn của thánh nữ Têrêsa, ta sẽ thấy ngay sự khác
biệt.
Muốn làm nổi rõ đến mức hiển nhiên cái năng động
đã mở đƣờng cho cả những châm ngôn khổ hạnh nhất hội
nhập vào bầu trời tâm linh của Ca khúc tâm linh và Ngọn
lửa tình nồng, cần phải bình giải thật dài cả Lời mở đầu và
Lời nguyện của linh hồn say đắm. Lời nguyện này ngay từ
câu đầu đã đẩy linh hồn vào một sự khiêm nhƣờng toàn
diện. Rồi gần nhƣ chẳng chuyển tiếp gì cả, cung giọng của
lời nguyện bốc cao thành một bài ca chiến thắng, gần
giống nhƣ bài ca kết thúc chƣơng 8 của thƣ Rôma. Thế
nhƣng, cũng nhƣ đối với thƣ Rôma, ta không coi bài ca
chiến thắng này là một tiếng thét của sự thành công nhân
loại, một sự tự ý thức về sức mạnh riêng của tâm hồn.
Trong trật tự ân sủng, cái đà khởi đi từ sự khiêm nhƣờng
đầy âu lo và nhƣ vỗ cánh bay vút đạt tới sự khải hoàn chắc
nịch, giả thiết phải có tất cả hành động của Thiên Chúa mà
các tác phẩm lớn đã mô tả. Cái vinh quang kết thúc không
hề loại trừ sự khiêm nhƣờng khởi đầu, đã chuẩn bị và mời
gọi vinh quang ấy. Ta đã gặp tiết điệu ấy trong bài thơ
Theo một đà yêu thƣơng.
253
“Và tôi càng hạ mình xuống thấp bao nhiêu bao
nhiêu
Càng lên cao bấy nhiêu
Mà giá bắt đƣợc con mồi tôi săn bắt.”
Chẳng phải đó cũng chính là chuyển động mà lời
nguyện cảm kích của châm ngôn 123 vạch lại cách ngắn
gọn đó sao ? Trong lời nguyện này, linh hồn vừa ý thức
thật sắc bén về sự yếu đuối của nó vừa tự bộc lộ cách táo
bạo phi thƣờng.
Một tiết điệu kín nhiệm, đi từ sự khiêm nhƣờng tỏa
sáng đến tình yêu táo bạo dám đòi hỏi sự bình đẳng giữa
những kẻ yêu nhau, có lẽ chính tiết điệu ấy làm nên sự
thống nhất sâu xa của tất cả các châm ngôn. Những châm
ngôn khổ hạnh nhất lại đầy ắp thứ tình yêu sẽ gợi hứng để
viết nên những châm ngôn dịu dàng đến mức kỳ diệu nhất
(mà cũng có thể nói là những châm ngôn nhân bản nhất,
nếu không sợ nghịch lý khi đem một tính từ nhƣ thế gán
cho những châm ngôn thuần túy tự nhiên), nhƣ châm ngôn
52: “Lạy Thiên Chúa của con, khi con đi khắp nơi cùng
Chúa, thì khắp nơi mọi sự sẽ đến với con may mắn nhƣ
con ao ƣớc nó vì Chúa”. Và những câu trữ tình dào dạt
nhất lại nƣơng tựa vào những mệnh lệnh khổ hạnh đòi hỏi
nhất. Hai châm ngôn 16 và 17 mà đem đặt cạnh nhau thì
còn gì hùng hồn bằng ! “Ôi, hỡi tình yêu rất dịu dàng của
Đấng Thiên Chúa bị hiểu lầm ! Ai tìm đƣợc các gân mạch
của ngƣơi, nấy đƣợc an nghỉ“ (16); và “Hoàn thành đƣợc ý
mình mà phải cay đắng gấp đôi, thì thôi đừng tìm cách làm
cho bằng đƣợc điều ấy nữa, dù phải tiếp tục chịu cay đắng”
(17).
254
Vâng, các châm ngôn vẽ lại một thái độ nền tảng
của hiện hữu: Thái độ yêu thƣơng. Thái độ ấy có thể giới
thiệu những khía cạnh khác biệt, tùy theo từng góc độ,
nhƣng cơ bản nó vẫn là một, xuyên qua toàn bộ các tác
phẩm của Thánh Gioan Thánh Giá. Luôn luôn vẫn là tình
yêu, trong các châm ngôn cũng nhƣ trong các tác phẩm
khác.
Có lẽ ngƣời ta đã rất thƣờng vấp phạm vì phân tích
thái quá. Không cấm tìm cách hạn định ý nghĩa chính xác
của một châm ngôn này hay châm ngôn nọ nhƣ một luật
xử thế cụ thể. Thế nhƣng, hắn sẽ sai hoa lắm quả hơn nếu
ngƣời ta biết tránh vƣớng vào một định kiến có sẵn từ
trƣớc, và biết dần dần từng bƣớc thấm nhuần ý nghĩa sâu
xa của các châm ngôn, để cho cái tiết điệu bên trong nó
kéo mình đi, cái tiết điệu khởi đầu từ tình yêu để đạt tới sự
khổ hạnh đòi hỏi nhất, rồi lại lấy đƣợc sức sống trong sự
khổ hạnh để vƣơn lên tới Đấng Chí Ái cách táo bạo nhất.
Nói cách khác, hẳn sẽ sai hoa lắm quả hơn nếu ngƣời ta
biết nói: “Tôi muốn”.
IV
Đó là điều các đệ tử đầu tiên của vị thánh đã hiểu.
Mặc dù vụ án phong thánh xảy ra khá muộn, qua các lời
khai nhân chứng ta vẫn còn thu thập đƣợc một bó những
lời chứng liên hệ đến sự hữu hiệu của các tấm thẻ hoặc
“mẩu giấy” của vị thánh. Chị Ana Maria của Giêsu cho
biết từ ngày ở đan viện Nhập Thể tại Avila, chị đƣợc ơn
đặc biệt là cảm thấy niềm an ủi rất rõ. Chị Mađalena của
Thánh Linh thêm: An ủi và vui mừng. Chị Phanxica của
Thánh Mẫu Thiên Chúa nhấn mạnh đến ơn hồi tâm và sự
nhiệt thành trong tình yêu: “Trong mọi chuyện, ngƣời ta
255
đều thấy đƣợc vị thánh hết sức yêu mến Thiên Chúa;
những lời ngài và cả đến những mẩu giấy và châm ngôn
của ngài đều thiêu đốt và nung nấu tâm hồn tất cả những
kẻ nghe ngài; và điều ấy, ngƣời cung khai này (tức là
chính Phanxica) đã có đƣợc kinh nghiệm bản thân; bởi vì
mỗi khi cảm thấy mất nhiệt tình, chỉ cần đọc vài mẩu giấy
ấy, chị lại tìm đƣợc và tiếp tục tìm đƣợc nhiệt tình thật
mới mẻ.
Chị Catarina Thánh Albertô nói đến sức mạnh hiện
thực ấy trong các châm ngôn của thánh nhân nhƣ một cái
gì chung của mọi ngƣời: Đối với chị cũng nhƣ các chị
khác, việc đọc lại hoặc chép lại các châm ngôn là dịp để
biết đƣợc bằng kinh nghiệm điều chính vị thánh đã trải
qua khi ngài viết lên những lời ấy.
Bí mật của sự hữu hiệu ấy không nằm trong dòng
tƣ tƣởng thuần túy. Dù chúng ta có cho rằng trí tuệ của
Thánh Gioan Thánh Giá rực sáng và thấu suốt đến đâu, trí
tuệ ấy cũng không giải thích đƣợc tất cả.
Câu châm ngôn hèn mọn nhất cũng diễn tả tình yêu
của ngài đối với Thiên Chúa, một tình yêu lắm khi đã chói
rực khi ngài tiếp xúc với những linh hồn ngài hƣớng dẫn,
nhƣ chị Phanxica của Thánh Mẫu Thiên Chúa kể lại khi
nhắc tới việc chị thổ lộ về vẻ đẹp của Thiên Chúa. Khi đọc
các châm ngôn ấy trong thinh lặng, các thầy và các chị Cát
Minh, cũng nhƣ cả các giáo dân, đều tìm gặp đƣợc chút gì
đó của mối nhiệt tình đã thốt ra những mệmh lệnh có vẻ
khắc khổ và đòi hỏi nhƣ ghen tƣơng ấy. Đừng bao giờ
quên điều này: Các châm ngôn là một diễn tả của thứ lòng
yêu mến Thiên Chúa đã cất bổng vị thánh lên trong tình
trạng xuất thần ngay ở phòng khách nhà các chị Cát Minh.
256
Và cũng đừng quên rằng những lời ấy còn diễn tả
tình yêu của ngài đối với các linh hồn: Đây là nguyên do
thứ hai khiến các lời ấy hữu hiệu, không tách khỏi nguyên
do thứ nhất (vì điều răn thứ hai cũng giống điều răn thứ
nhất). Thật choáng ngợp biết bao khi đọc những gì của
Alonso của Thánh Mẫu Thiên Chúa mô tả về tình phụ tử
ấy, tình phụ tử đã chiến thắng mọi khó khăn ! Có gì mà vị
thánh đã không thực hiện cho các linh hồn con cái ngài ?
Mà đáp ứng của các con cái ngài cũng thật đẹp, nhƣ
Alonso mô tả: “Các tu sĩ và nữ tu đƣợc ngài làm linh
hƣớng, khai rằng họ yêu ngài hơn cha mẹ ruột, và với sự
tiếp xúc đầy ắp Thiên Chúa của ngài, ngƣời của Thiên
Chúa bó buộc họ đến nỗi họ không còn cảm thấy khó
khăn gì trong việc chu toàn những điều ngài đòi hỏi. “Họ
yêu ngài hơn cha mẹ ruột”: Vì hùng biện mà nói hơi quá
chăng ? Nhƣng phải nói nhƣ vậy để xác nhận rằng một
cách nào đó trong lãnh vực tâm linh cũng có một quan hệ
sinh học mà tình phụ tử của vị thánh đã tạo nên đƣợc nơi
các linh hồn đi theo ngài trên đƣờng yêu mến. Một quan
hệ nhƣ thế làm tan biến những khó khăn, vì nó khiến
những đòi hỏi cứng cỏi nhất cũng thành dễ mến. Đối với
những ai có trách nhiệm săn sóc các linh hồn, đó là một
trong những bài học quý giá nhất trong các châm ngôn.
“Các châm ngôn của ánh sáng và tình yêu”, lời mở
đầu nói thế. Và ta cần hiểu kiểu nói ấy cho đúng. Không
phải các châm ngôn lần lƣợt là ánh sáng rồi là tình yêu:
Chúng mang chở một học thuyết giàu tình yêu đối với
Thiên Chúa, thứ tình yêu đã gợi ra những điều chúng đòi
hỏi; và cũng giàu tình yêu đối với các linh hồn, khiến cho
việc thực hiện trở nên dễ. Vì chẳng có gì là không có thể
đối với kẻ yêu và biết mình đƣợc yêu.
257
GHI CHÚ
Các câu châm ngôn đã đƣợc viết cho các nữ tu, các đại
từ trong nguyên bản thƣờng là đại từ nữ tu ở ngôi thứ hai hoặc
ngôi thứ ba số ít. Để dễ dùng cho mọi ngƣời, chúng tôi chọn
đại từ “bạn” và một số chỗ thì đổi thành “ta”, “chúng ta”
hoặc ngôi thứ ba bất định.
258
LỜI MỞ ĐẦU
Lạy Thiên Chúa là nguồn hoan lạc của con, trong
những châm ngôn về ánh sáng và tình yêu của Chúa đây,
linh hồn con muốn mình đƣợc đem dùng cho tình yêu của
Chúa. Bởi vì, dù con chỉ mới nói lên những điều này chứ
chƣa có hành động và thực đức tƣơng xứng (mà lạy Chúa,
chính những điều này mới làm Chúa vui lòng nhiều hơn
những lời hay ý đẹp), có lẽ những ngƣời khác khi đƣợc
những châm ngôn này thúc đẩy để phục vụ và yêu mến
Chúa, vẫn sẽ có cơ may tiến bộ ở chỗ mà con còn thiếu
sót; và nhƣ thế cũng đã là một an ủi cho linh hồn con
phần nào rồi, vì đã tạo dịp để Chúa có thể gặp gỡ đƣợc
nơi ngƣời khác những điều con còn thiếu sót.
Lạy Chúa, Chúa yêu sự thận trọng, Chúa yêu ánh
sáng, Chúa yêu tình yêu hơn mọi hoạt động khác của linh
hồn. Vì thế những châm ngôn này muốn giúp ngƣời ta có
đƣợc sự thận trọng mà đi, có ánh sáng trên đƣờng và có
tình yêu khi lần bƣớc.
Văn từ hoa mỹ hãy rời xa ! Thói ba hoa hãy dừng
lại ! Và cả khoa hùng biện cũng hãy im lời, vì khoa này
259
cũng chỉ lơ thơ đôi nét khôn ngoan của ngƣời phàm, mong
manh và yếu ớt, mà Chúa không hề yêu thích. Ƣớc gì
chúng con nói với lòng những lời thấm nhuần sự dịu dàng
và tình yêu, những lời thật đẹp lòng Chúa; may ra nhờ thế
chúng con sẽ loại đƣợc những khó khăn trắc trở cho nhiều
linh hồn, khỏi sẩy chân vì không biết, và vì không biết nên
lạc lối mà vẫn tƣởng trên đƣờng bƣớc theo Ngƣời Con rất
dịu ngọt của Chúa là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con,
vẫn tƣởng mình đã nên giống Ngài từ trong cuộc sống,
các hành động, các nhân đức của Ngài, cho đến cả trong
hình dạng trần trụi và trong sự tinh tuyền theo tinh thần
Ngài. Phần chúng con, lạy Cha đầy thƣơng xót, xin hãy
đến giúp chúng con; vì, lạy Chúa, không có Chúa chúng
con chẳng làm đƣợc gì.
1.
PHẦN GHI LẠI THEO THỦ BÖT ANDUJAR
1. Chúa vẫn luôn khai mở cho ngƣời phàm những kho
tàng khôn ngoan và thần trí Ngài, nhƣng giờ đây sự dữ
càng để lộ bộ mặt thật ra, Ngài càng khai mở nhiều
hơn.
2. Ôi, lạy Chúa là Thiên Chúa của con, chính Chúa đã tự
tỏ mình trƣớc và đích thân đến gặp những ngƣời khao
khát Chúa, thì thử hỏi có ai tìm kiếm Chúa với một
tình yêu tinh tuyền và giản dị mà lại không gặp đƣợc
Chúa nhƣ lòng khao khát mong muốn ?
3. Đối với những ngƣời thiện chí, dù đƣờng đi có bằng
phẳng và dịu êm đi nữa, nhƣng nếu chính họ không có
260
đôi chân thật tốt, một tâm hồn mạnh mẽ và lòng cƣơng
quyết dũng cảm thì có tiến bƣớc cũng chỉ tiến bƣớc
đƣợc ít và vất vả.
4. Thà vác nặng với một ngƣời khoẻ hơn là vác nhẹ với
một ngƣời yếu. Khi bạn vác nặng, bạn đƣợc liên kết
với Thiên Chúa là sức mạnh của bạn và là Đấng gần
gủi những tấm lòng tan vỡ. Còn khi bạn vác nhẹ, bạn
chỉ liên kết với mình, mà bạn lại là chính sự yếu đuối
của bạn. Nhân đức và sức mạnh của tâm hồn phải chịu
gian khổ trong nhẫn nại mới đƣợc gia tăng và kiên
vững.
5. Kẻ nào đòi tự cô lập, không dựa vào một vị thầy hoặc
một ngƣời hƣớng dẫn, sẽ giống nhƣ cây mọc trơ trọi
giữa đồng mà không thuộc quyền ai: Dù trái trăng có
nhiều đến mấy, cũng sẽ bị những kẻ qua đƣờng hái hết,
không sao đạt tới mùa thu hoạch.
6. Cây nào đƣợc chủ vun trồng và gìn giữ ân cần sẽ cho
trái vào thời điểm ngƣời ta mong đợi.
7. Một linh hồn có nhân đức mà cô lập, không thầy chỉ
vẽ, chẳng khác nào hòn than cháy hừng nằm đơn độc,
sẽ nguội dần chứ không nóng thêm.
8. Kẻ nào đơn độc khi ngã xuống sẽ đơn độc trong tình
trạng sa ngã. Ngƣời ấy coi nhẹ linh hồn mình, bởi vì
chỉ ký thác linh hồn cho một mình mình thôi.
9. Dù bạn không sợ ngã khi chỉ có một mình, nhƣng làm
sao dám cho rằng có thể chỗi dậy một mình ? hãy nhớ,
hai ngƣời hiệp lại bao giờ cũng khá hơn một ngƣời.
10. Ai đang gánh nặng mà ngã, thì với gánh nặng ấy sẽ
chỗi dậy cách khó khăn.
261
11. Đã ngã trong tình trạng mù thì sẽ không đứng dậy một
mình đƣợc; nếu có đứng dậy đƣợc một một mình, thì
sau đó sẽ bƣớc đi xiên xẹo.
12. Thiên Chúa thích thấy lƣơng tâm bạn tinh ròng thêm
một chút xíu hơn thấy mọi thứ việc bạn có thể làm.
13. Thiên Chúa thích thấy bạn tiến thêm một bƣớc nhỏ về
vâng lời và thần phục hơn tất cả những việc phục vụ
bạn dự tính làm cho Ngài.
14. Thiên Chúa coi trọng việc bạn hạ mình sống trong sự
khô khan và chịu đựng nó vì yêu mến Ngài hơn là tất
cả những an ủi, những thị kiến tâm linh và những suy
niệm bạn có thể có đƣợc.
15. Hãy từ bỏ các dục vọng của bạn và sẽ gặp đƣợc điều
lòng bạn ao ƣớc. Bạn có biết bạn sẽ đƣợc những gì nếu
sự ham muốn của bạn hợp với ý Thiên Chúa ?
16. Ôi, hỡi Tình Yêu rất dịu dàng của Đấng Thiên Chúa bị
hiểu lầm ! Ai tìm đƣợc nguồn phong phú của ngƣơi,
nấy đƣợc an nghỉ.
17. Hoàn thành đƣợc ý mình mà phải cay đắng gấp đôi, thì
thôi đừng tìm cách làm cho bằng đƣợc điều ấy nữa, dù
phải tiếp tục chịu cay đắng.
18. Linh hồn đến với Thiên Chúa mà còn một chút nhỏ
ham muốn sự đời, thì sỗ sàng và nhơ bẩn hơn khi nó bị
đè bẹp dƣới sức nặng những cám dỗ thô bỉ bực bội và
những bóng tối khó chịu nhất nhƣng ý chí lại sáng suốt
không thuận theo; gặp trƣờng hợp sau, linh hồn có thể
tin cậy mà đến vơi Thiên Chúa để làm trọn ý muốn của
Đức Chí Tôn, Đấng đã phán: “Hãy đến với Ta, hết
262
thảy những kẻ lao đao và vác nặng, và Ta sẽ cho nghỉ
ngơi lại sức” (Mt 11, 28).
19. Linh hồn gặp khô khan và thử thách mà vẫn thuận theo
lý trí dạy bảo thì đẹp lòng Chúa hơn linh hồn đang
đƣợc an ủi mà lại làm mọi công việc mình cách thiếu
suy xét.
20. Một việc dù rất bé nhỏ mà làm trong âm thầm, không
muốn đƣợc ai biết, đẹp lòng Thiên Chúa hơn ngàn việc
khác làm với tham vọng đƣợc ngƣời ta biết đến. Một
ngƣời hành động cho Thiên Chúa với tình yêu tinh
ròng nhất, chẳng những không tìm cách để ngƣời ta
thấy mà thậm chí cũng không cốt cho chính Thiên
Chúa biết, bởi lẽ ngay cả khi Thiên Chúa chẳng bao
giờ biết đến, ngƣời ấy vẫn không thôi dành cho Ngài
những việc phục vụ y nhƣ thế với cùng một niềm vui
và một tình yêu tinh tuyền y nhƣ thế.
21. Một việc hoàn thành cách tinh ròng và trọn vẹn cho
Thiên Chúa, tạo nên cho chủ nó cả một vƣơng quốc
trong cõi lòng tinh khiết.
22. Chim mà đậu trên nhựa đánh bẫy là tự chuốc lấy hai sự
vất vả: Vừa phải gỡ mình ra vừa phải rửa cho sạch.
Cũng thế, kẻ làm thoả sự thèm khát phải khổ cực hai
lần: Trƣớc là để thoát ra, rồi sau khi đã thoát đƣợc, còn
phải thanh tẩy vết nhơ mắc phải.
23. Ai không buông mình chạy theo các thèm khát sẽ bay
bổng theo tinh thần, nhƣ con chim đủ lông đủ cánh.
24. Ruồi đậu vào mật thì hết bay, linh hồn nào quá lƣu
luyến hƣơng vị tâm linh cũng tự ngăn cản sự tự do và
chiêm niệm.
263
25. Nếu bạn muốn giữ cho Khuôn mặt Thiên Chúa trong
linh hồn bạn đƣợc trong sáng và đơn thuần, đừng bận
tâm tới sự hiện diện của các thụ tạo; tốt hơn, hãy làm
cho tâm trí bạn khỏi vƣớng mắc các thụ tạo ấy, xa lạ
với chúng và bạn sẽ bƣớc đi trong ánh sáng Thiên
Chúa, vì Thiên Chúa không giống nhƣ chúng.
LỜI NGUYỆN CỦA LINH HỒN SAY ĐẮM
26. Lạy Chúa là Thiên Chúa, Đấng Chí Ái của con !
. Nếu Chúa còn nhớ đến tội lỗi con nên không làm điều
con xin Chúa, thì xin Chúa cứ làm những gì Chúa
muốn về những lỗi lầm ấy, bởi vì, ôi Thiên Chúa của
con, ý Chúa chính là điều con thích nhất. Hãy thể hiện
lòng nhân lành và thƣơng xót của Chúa, để nhờ đó,
ngƣời ta sẽ nhận biết Chúa. (a)
. Và nếu quả tình Chúa mong chờ các việc làm của con để
nhận lời con cầu nguyện thì xin Chúa hãy ban những
việc ấy cho con, hãy làm cho con những việc ấy, và
hãy ban cho con cả những phiền muộn Chúa ao ƣớc
nhận đƣợc. Hãy làm nhƣ thế đi. (b)
. Và nếu không phải Chúa đang chờ đợi các việc làm của
con, thì lạy Chúa lân tuất, Chúa chờ đợi gì? Tại sao
Chúa chậm trễ ? (c)
. Bởi vì, sau cùng, nếu điều con xin nhân danh Con Chúa
phải là ân sủng và lòng thƣơng xót, thì hãy nhận lấy
đồng xu nhỏ của con, vì Chúa thích nó, và hãy ban
264
điều tốt đẹp ấy cho con, cũng chỉ vì Chúa thích nhƣ
thế. (d)
. Lạy Thiên Chúa của con, nếu Chúa không nâng lên với
Chúa bằng một tình yêu thanh khiết, ai có thể tự giải
thoát mình khỏi những phƣơng thế và những mục đích
thấp hèn ? Làm sao một ngƣời đƣợc sinh ra và đƣợc
dựng nên trong phận thấp hèn, sẽ nâng đƣợc mình lên
với Chúa, nếu chính Chúa không nâng nó lên bằng bàn
tay đã làm ra nó ? (e)
. Lạy Thiên Chúa của con, xin đừng lấy mất của con điều
Chúa đã một lần ban cho con nơi Con một Chúa là
Đức Giêsu Kitô. Nơi Ngài, Chúa đã cho con tất cả
những gì con xin. Vì lẽ ấy, con sẽ vui hƣởng điều Chúa
không chậm ban nếu con biết chờ đợi. (f)
. Bạn còn lần lữa chần chừ tới bao giờ nữa, vì ngay từ bây
giờ bạn có thể yêu Chúa tận cõi lòng ? (g)
. Các tầng trời là của tôi, đất cũng của tôi, các dân tộc là
của tôi, cả những ngƣời công chính và tội lỗi đều là
của tôi, các thiên sứ là của tôi, cả Đức Mẹ Thiên Chúa
là của tôi, và tất mọi sự đều là của tôi, ngay cả chính
Thiên Chúa cũng là của tôi và cho tôi, bởi lẽ Đức Kitô
là của tôi và hoàn toàn cho tôi. Vậy thì, hỡi linh hồn
tôi, ngƣơi còn xin còn tìm điều gì nữa ? Tất cả những
điều ấy đều là của ngƣơi và tất cả đều cho ngƣơi. Đừng
coi nhẹ mình. Cũng đừng dừng lại với những mẩu vụn
rớt từ bàn ăn của Cha ngƣơi. (h)
. Hãy tiến bƣớc và hãy hãnh diện vì vinh quang của ngƣơi.
Hãy ẩn mình nơi mối vinh quang ấy và hãy vui lên, và
ngƣơi sẽ nhận đƣợc điều lòng ngƣơi khẩn nguyện. (i)
265
27. Một tâm trí thật tinh tuyền không để mình bị bao vây
vì những dòm ngó và coi trọng của ngƣời đời; nhƣng
nhờ sống cô tịch một mình dƣới mọi hình thức, nó
đƣợc thông hiệp thâm sâu với Thiên Chúa, với một sự
bình an dịu ngọt - bởi lẽ sự hiểu biết của nó là ở nơi sự
thinh lặng của Thiên Chúa.
28. Linh hồn say đắm là một linh hồn dịu dàng, ngoan
hiền, khiêm nhƣờng và nhẫn nại.
29. Linh hồn cứng cỏi bị chai lì trong lòng tự ái.
30. Ôi Đức Giêsu nhân lành, nếu Chúa không dùng tình
yêu Chúa mà làm cho linh hồn dịu dàng, nó sẽ kéo lê
trong sự cứng cỏi tự nhiên của nó.
31. Kẻ đánh mất dịp thuận tiện cũng tựa nhƣ ngƣời cầm
con chim trong tay mà để sẩy mất, sẽ không sao bắt lại
đƣợc.
32. Lạy Chúa, con không nhận ra Chúa bởi vì chuyện gì
con cũng đều đòi biết và nếm cho đƣợc.
33. Lạy Chúa là Thiên Chúa con, mọi sự cứ đảo lộn hết
cũng chẳng sao, miễn là chúng con bám lấy Chúa.
34. Chỉ một tƣ tƣởng của con ngƣời cũng còn giá trị hơn
cả thế giới, vì thế, chỉ một mình Thiên Chúa đáng cho
nó nghĩ tới.
35. Vô tri giác dành cho loài vô tri giác, giác quan là để
hƣớng đến những điều khả giác, và tƣ tƣởng là để
hƣớng đến Thánh Thần Thiên Chúa.
36. Cần lƣu ý rằng không phải lúc nào thiên thần bản
mệnh cũng thúc giục bạn thích thú hành động, nhƣng
lúc nào ngài cũng soi sáng cho lý trí bạn. Do đó đừng
266
đợi thấy hứng thú mới thực hành nhân đức, lý trí và trí
hiểu là đủ rồi.
37. Khi sự thèm khát đã bám vào điều khác, nó sẽ không
còn dành chỗ cho tác động của thiên thần.
38. Tâm trí con cằn cỗi vì quên tìm bổ dƣỡng nơi Chúa.
39. Nếu bạn tìm một điều tốt và hết sức khao khát nó, bạn
sẽ gặp đƣợc, không phải bằng con đƣờng riêng của
bạn, cũng không bằng chiêm niệm cao độ, nhƣng chỉ
nơi sự khiêm nhƣờng sâu thẳm và tùng phục triệt để
của cõi lòng.
40. Đừng vất vả vô ích, bạn sẽ không nếm đƣợc hƣơng vị
dịu ngọt của tâm linh nếu bạn không hy sinh tất cả
những gì bạn ao ƣớc.
41. Cần lƣu ý, đoá hoa càng mảnh mai càng chóng khô
héo và chóng mất hƣơng thơm. Vì thế, hãy giữ mình
đừng ao ƣớc tiến bƣớc bằng tinh thần hảo ngọt, bạn sẽ
chẳng bền bỉ đƣợc đâu.
Hãy tự chọn cho mình một tinh thần mạnh mẽ, không
bám rễ vào một điều gì, và bạn sẽ gặp đƣợc sự êm dịu
và bình an phong phú. Bởi lẽ những trái cây ngon dịu
và để đƣợc lâu thƣờng chỉ gặp ở những vùng đất lạnh
và khô.
42. Hãy coi chừng, xác thịt bạn yếu đuối lắm và không
một điều gì trên đời này có thể đem lại sức mạnh và sự
an ủi cho tâm trí bạn. Bởi lẽ điều sinh bởi thế gian là
thế gian, điều sinh bởi xác thịt là xác thịt, chỉ riêng tinh
thần tốt đẹp là sinh bởi Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng
không tự thông ban bằng thế gian và xác thịt (x. Ga
3,6).
267
43. Hãy vào nội tâm bàn hỏi với lý trí bạn để thực hiện
điều nó mách bảo trên đƣờng của Chúa; điều đó khiến
bạn có giá trị trƣớc mặt Chúa hơn tất cả mọi công cuộc
bạn làm mà không có sự cân nhắc ấy và hơn mọi sự an
ủi dịu ngọt tinh thần bạn nhắm đến.
44. Phúc thay ai biết gạt sở thích và xu hƣớng riêng sang
một bên để theo lý trí và lẽ công chính mà xem xét mọi
sự và làm theo.
45. Kẻ hành động theo lý trí giống nhƣ ngƣời ăn những
thức đầy chất bổ; kẻ chạy theo sở thích của ý riêng
giống nhƣ ngƣời ăn toàn trái cây bọng nƣớc.
46. Lạy Chúa, Chúa vui mừng và yêu thƣơng quay lại
nâng đỡ kẻ xúc phạm đến Chúa, còn con chẳng hề
quay lại nâng đỡ và tôn trọng kẻ làm phiền lòng con.
47. Ôi lạy Chúa toàn năng, nếu một tia sáng của quyền
bính và sự công chính Chúa còn hiệu lực đến thế trên
bậc quân vƣơng sống nay chết mai đang cai quản và
điều động các dân tộc, thì thử hỏi sự công chính toàn
năng của Chúa sẽ còn thế nào nữa trên ngƣời công
chính và tội nhân?
48. Nếu bạn thanh tẩy linh hồn khỏi những chiếm hữu và
những thèm khát xa lạ, bạn sẽ hiểu đƣợc nhiều điều
trong tâm trí và nếu bạn từ chối thèm khát những điều
này, bạn sẽ đƣợc vui hƣởng sự thật của chúng, nhờ biết
đƣợc những gì là chắc chắn nơi chúng.
49. Lạy Chúa là Thiên Chúa con, Chúa không xa cách kẻ
không lìa xa Chúa. Làm sao thiên hạ lại bảo Chúa vắng
mặt?
268
50. Ngƣời thực sự vƣơt thắng đƣợc tất cả mọi sự là ngƣời
dù đƣợc nếm hƣởng những sự ấy cũng không mừng
mà dù có phải đắng cay vì những sự ấy cũng không
phiền muộn.
51. Nếu bạn muốn đạt đƣợc một mùa thu hoạch thánh6, thì
trên đƣờng đến đó đừng vơ vào nhƣng hãy chối bỏ mọi
sự.
52. Lạy Thiên Chúa của con, khi con đi khắp nơi cùng
Chúa, thì khắp nơi mọi sự sẽ đến với con nhƣ con ao
ƣớc nó vì Chúa.
53. Ngƣời nào không học hài lòng với cảnh không có gì,
đến nỗi cả ham muốn tự nhiên cũng nhƣ tâm linh đều
vui lòng với tình trạng trống rỗng, là điều cần có để đạt
đƣợc sự yên tĩnh và bình an hoàn hảo cho tâm trí,
ngƣời ấy sẽ không đạt đƣợc sự hoàn thiện. Dƣờng nhƣ
tình yêu Thiên Chúa thƣờng xuyên hành động trong
linh hồn tinh tuyền và giản dị theo cách ấy.
54. Thiên Chúa là Đấng ta không sao đạt đến nên, phải coi
chừng, đừng bận tâm với những gì mà các tài năng bạn
có thể hiểu đƣợc và các giác quan bạn có thể cảm
đƣợc, kẻo bạn lại hài lòng với điều còn thấp kém và
linh hồn bạn mất đi sự nhẹ nhàng cần có để đến cùng
Thiên Chúa.
55. Linh hồn nào hƣớng về Thiên Chúa mà không giũ bỏ
âu lo và không dập tắt thèm khát, sẽ giống ngƣời kéo
cỗ xe lên sƣờn dốc.
56. Thiên Chúa không hề muốn cho linh hồn bị giao động
vô cớ hoặc phải khổ sở lo phiền; nếu nó phải chịu
6 Mùa thu hoạch: recegimiente / recueillement, thƣờng dịch là tĩnh tâm.
269
những điều ấy nơi các nghịch cảnh của thế gian, chính
là vì sự yếu kém nhân đức của nó; bởi vì, linh hồn kẻ
hoàn thiện vui thoả trong điều mà một linh hồn bất
toàn phải đau đớn.
57. Con đƣờng của sự sống rất ít huyên náo và ít ngƣời
qua lại, nó đòi phải từ bỏ trong ý chí hơn là hiểu biết
nhiều. Kẻ mang theo ít đồ vật và sở thích nhất sẽ tiến
trên đƣờng này nhanh nhất.
58. Đừng tƣởng cứ làm nhiều chuyện là làm đẹp lòng
Chúa. Muốn làm đẹp lòng Chúa cần làm những điều ấy
với ý muốn ngay lành, không vƣớng tƣ lợi cũng không
vì sự coi trọng của ngƣời đời.
59. Chiều về, bạn sẽ đƣợc xét xử trong tình yêu. Hãy học
yêu mến Thiên Chúa nhƣ Ngài muốn đƣợc yêu mến và
hãy phó thác thân phận bạn cho Ngài.
60. Hãy giữ đừng dây mình vào chuyện ngƣời khác, thậm
chí đừng để nó lọt vào trí nhớ bạn, bởi vì hầu chắc nó
sẽ khiến bạn không thể chu toàn phận sự của bạn.
61. Đừng chỉ vì không thấy nơi một ngƣời nào đó toả sáng
những nhân đức bạn quan niệm mà nghĩ rằng ngƣời ấy
không đẹp mắt Chúa: Bởi có thể ngƣời ấy đẹp mắt
Chúa nhờ những điều bạn không nghĩ đến..
62. Con ngƣời không biết vui sao cho đúng, buồn sao cho
đúng, vì họ không hiểu đƣợc đâu là khoảng cách giữa
sự lành và sự dữ.
63. Hãy coi chừng, đừng vội buồn vì những nghịch cảnh
của thời đại, bởi vì bạn không biết đƣợc Thiên Chúa đã
định cho chúng mang theo điều tốt lành nào cho niềm
vui đời đời của những ngƣời đƣợc chọn.
270
64. Đừng vui vì những sự thịnh đạt trần gian, vì bạn không
biết chắc chúng sẽ khiến bạn đƣợc vui hƣởng sự sống
đời đời chăng.
65. Khi bị giao động hãy tin cậy mà chạy ngay đến với
Thiên Chúa, bạn sẽ đƣợc thêm mạnh mẽ, đƣợc soi
sáng và dạy dỗ.
66. Những khi đƣợc vui mừng và thích thú, hãy chạy ngay
đến cùng Thiên Chúa với lòng kính sợ và chân thật,
bạn sẽ tránh đƣợc sai lầm và khỏi lạc vào hƣ danh.
67. Hãy nhận Thiên Chúa làm ngƣời yêu và bạn hữu, và
hãy liên lỉ tiến bƣớc với Ngài, bạn sẽ không phạm tội,
sẽ biết yêu mến, và mọi điều bạn cần sẽ diễn ra thuận
lợi cho bạn.
68. Bạn sẽ chế ngự thế giới chẳng khó gì và các sự vật sẽ
phục vụ bạn, nếu bạn quên hẳn chúng và quên cả chính
mình bạn nữa.
69. Hãy vui hƣởng sự an nghỉ, vất bỏ mọi âu lo, và bình
thản trƣớc mọi điều xảy đến, nhƣ thế bạn sẽ phục vụ
Thiên Chúa hợp với sở thích Ngài và sẽ hoan hỷ trong
Ngài.
70. Hãy lƣu ý rằng Thiên Chúa chỉ ngự trị trong linh hồn
an bình và vô vụ lợi.
71. Mặc dù bạn làm nhiều chuyện, nếu bạn không học bỏ ý
riêng và sống tuân phục bằng cách loại bỏ mối bận tâm
về mình và những gì thuộc về mình, bạn sẽ không tiến
đƣợc trên đƣờng trọn lành.
72. Ích lợi gì nếu Thiên Chúa xin bạn một đàng, bạn lại
cho Ngài một nẻo? Hãy xét kỹ xem Thiên Chúa muốn
271
gì và hãy làm điều ấy. Bằng cách đó, bạn sẽ thoả lòng
hơn là làm điều thuận với xu hƣớng tự nhiên của bạn.
73. Làm sao bạn dám thoải mái hƣởng thụ đến thế mà
không chút sợ sệt, một khi bạn sẽ phải ra trƣớc nhan
Thiên Chúa để tính sổ cả về từng lời nói và tƣ tƣởng
nhỏ nhặt nhất (Mt 12,36) ?
74. Hãy lƣu ý rằng nhiều kẻ đƣơc gọi nhƣng ít ngƣời đƣợc
chọn (x. Mt 22,14). Và nếu bạn không chịu lo cảnh
giác mình, chắc hẳn sẽ bị hƣ mất chứ không đƣợc cứu
rỗi, nhất là hãy lƣu ý rằng đƣờng dẫn đến sự sống đời
đời chật hẹp biết bao ! (x. Mt 7,14)
75. Đừng vui mừng cách ảo tƣởng, vì bạn quá rõ mình đã
phạm biết bao tội, và vì bạn không biết đƣợc mình có
đang đẹp lòng Chúa không, nhƣng hãy giới sợ với lòng
cậy trông..
76. Đến giờ phải tính sổ, bạn sẽ hối tiếc vì đã không dùng
thời giờ này để phụng sự Thiên Chúa, vậy tại sao ngay
bây giờ bạn không sắp xếp và sử dụng nó theo cách mà
trong giờ chết bạn sẽ ƣớc ao nó đã đƣợc sử dụng?
77. Nếu bạn muốn tâm trí nẩy sinh lòng sốt mến và tăng
trƣởng lòng yêu mến Thiên Chúa và nỗi thèm khát
những sự thuộc về Ngài, hãy tẩy sạch linh hồn khỏi
mọi thèm khát, dính bén và cao vọng, đến nỗi chẳng
còn điều gì quan trọng đối với bạn. Bởi vì nhƣ ngƣời
bệnh, hễ đã trừ bỏ đƣợc máu xấu, liền cảm thấy cái
khoan khoái của sự mạnh khoẻ, và bắt đầu cảm thấy
thèm ăn, cũng vậy, bạn sẽ tìm lại đƣợc sức khoẻ trong
Chúa nếu bạn tự chữa khỏi những điều nói trên, bằng
không, dù bạn làm gì đi nữa cũng không tiến bộ.
272
78. Nếu bạn muốn tìm đƣợc bình an và an ủi cho linh hồn,
và phụng sự Thiên Chúa cách đích thật, đừng bằng
lòng với sự từ bỏ đã xong, vì rất có thể trong bƣớc
đƣờng hiện tại bạn đang bị trói buộc không kém trƣớc
hoặc còn nặng hơn trƣớc.
Cũng hãy giũ bỏ luôn tất cả những gì khác còn sót lại
cho bạn, chỉ giữ lấy một điều duy nhất sẽ mang theo tất
cả, ấy là: sống cô tịch trong Chúa kèm với kinh nguyện
và việc đọc hạnh các thánh cũng nhƣ học Lời Chúa, Và
hãy cứ ở đó mãi, quên hẳn tất cả những gì bạn không
phải có nghĩa vụ phải bận tâm. Nhƣ thế, vì biết giữ
mình và biết tự hoàn thiện chính bản thân, bạn sẽ làm
đẹp lòng Chúa nhiều hơn cả việc chiếm đƣợc hết các
điều ấy cộng lại, bởi vì “nào có ích gì cho ngƣời ta khi
đƣợc lời lãi cả thế gian mà lại thiệt mất sự sống mình”
(Mt. 16, 25).
273
2
NHỮNG ĐIỂM MẾN YÊU
79. Hãy quyết liệt kìm hãm miệng lƣỡi và tƣ tƣởng, hãy
liên lỉ xoay hƣớng tình cảm về Thiên Chúa, và tâm
trí sẽ ấm lên trong Thiên Chúa.
80. Đừng nuôi tâm trí bằng điều gì khác hơn bằng chính
Thiên Chúa. Đừng bận tâm đến các sự vật. Hãy giữ
cho lòng đƣợc bằng an và lắng đọng.
81. Hãy giữ cho tâm trí đƣợc yên tịnh và chú tâm trìu
mến hƣớng về Chúa. Và khi bị buộc phải nói, hãy
nói với sự yên tịnh và bình an ấy.
82. Cứ liên lỉ nhớ tới sự sống đời đời, và nhớ rằng cả
những kẻ bị bỏ rơi nhất, nghèo khổ nhất và tự cho là
hèn mọn nhất sẽ vui hƣởng đƣợc quyền làm chủ cao
nhất và vinh quang lớn nhất trong Thiên Chúa.
83. Hãy liên lỉ vui mừng trong Thiên Chúa là Đấng cứu
độ ta, và hãy coi là thật tốt đẹp khi đƣợc chịu khổ
cách nào đó vì Chúa là Đấng tốt lành.
84. Nghĩ mà xem, việc đấu tranh với chính mình và đem
hết nghị lực thánh để tiến bƣớc lên đƣờng hoàn
thiện, cần kíp biết bao. Cũng nên hiểu rằng mỗi lời ta
nói ngoài đức vâng lời đều phải tính sổ với Thiên
Chúa.
85. Hãy thiết tha khao khát đƣợc Thiên Chúa ban cho
điều Ngài biết ta cần có để tôn vinh Ngài.
274
86. Cùng chịu đóng đinh cả bên trong và bên ngoài với
Đức Kitô, thì ngay ở đời này ta sẽ đƣợc sống với sự
no đầy và thoả mãn trong linh hồn mà nhờ kiên nhẫn
ta sẽ chiếm đƣợc.
87. Hãy chú tâm trìu mến hƣớng về Thiên Chúa mà
không tha thiết ƣớc mong đƣợc Ngài cho cảm nhận
hoặc hiểu biết một điều gì đặc biệt về Ngài.
88. Muốn thƣờng xuyên tin cậy Thiên Chúa, ta phải coi
trọng điều Thiên Chúa coi trọng nhất nơi ta cũng nhƣ
nơi các (anh) chị em ta : đó là những của cải tâm
linh.
89. Hãy vào tận lòng mình và chịu lao nhọc trƣớc sự
hiện diện của Đức Tình Quân, Đấng luôn có mặt và
yêu mến ta.
90. Tuyệt Đối không để lọt vào linh hồn điều gì không
thuộc lãnh vực tâm linh, để khỏi làm linh hồn mất
ham thích đối với lòng sốt mến và sự hồi tâm lắng
đọng.
91. Có đƣợc Đức Kitô chịu đóng đinh là đủ rồi, hãy lao
nhọc với Ngài và yên nghỉ trong Ngài, hãy vì Ngài
mà hủy mình ra không trong mọi sự, từ bên ngoài
đến bên trong.
92. Hãy luôn liệu sao để mọi sự chẳng là gì đối với bạn
và bạn chẳng là gì đối với mọi sự; nhƣng quên hết
mọi sự để chỉ ở lại với Đức Tình Quân trong sự hồi
tâm.
93. Hãy hết sức yêu mến những lao nhọc và hãy coi nhƣ
thế là quá ít để tri ân Đức Tình quân, Đấng đã yêu
mến ta mà không ngần ngại chịu chết.
275
94. Hãy cũng cố sức mạnh của cõi lòng chống lại tất cả
những gì hƣớng ta đến điều không phải là Thiên
Chúa, và hãy làm bạn với cuộc thƣơng khó Chúa.
95. Hãy giữ lòng thanh thoát đối với mọi sự, đừng đặt sở
thích nơi điều gì mau qua, và linh hồn sẽ gặt hái
đƣợc những thiện ích không ngờ.
96. Linh hồn nào đi trong tình yêu thì không mệt và
không làm ngƣời khác mệt.
97. Cũng nhƣ ngƣời nghèo trần trụi sẽ đƣợc cho mặc,
linh hồn nào tự lột bỏ những thèm khát, lột bỏ cả
những điều muốn và những điều không muốn, Thiên
Chúa sẽ mặc cho sự thanh khiết, sự thích thú và ý
muốn của Ngài.
98. Có những linh hồn đằm mình trong trụy lạc nhƣ súc
vật đằm mình trong vũng lầy; có những linh hồn bay
cao nhƣ chim, đƣợc khí trời thanh tẩy, giũ sạch.
99. Chúa Cha chỉ nói một lời rằng đó là Con Ngài. Ngài
hằng nói lời ấy mãi trong thinh lặng vĩnh cửu, thì
linh hồn cũng phải lắng nghe Ngài trong thinh lặng.
100. Phải tùy phận mình mà đảm đƣơng sự lao nhọc; chứ
không vì ham lao nhọc mà hủy hoại bản thân.
(Dịch sát: Phải lấy bản thân mà định lao nhọc chứ
không lấy lao nhọc mà định bản thân).
101. Ai không tìm kiếm thập giá Đức Kitô thì cũng không
tìm kiếm vinh quang Đức Kitô.
102. Để yêu mến một linh hồn, Thiên Chúa không nhìn
xem linh hồn ấy lớn chừng nào nhƣng nhìn xem sự
khiêm nhƣờng của nó lớn chừng nào.
276
103. Chúa phán: Kẻ nào hổ thẹn chối Ta trƣớc mặt ngƣời
đời, Ta cũng sẽ hổ thẹn chối nó trƣớc mặt Cha Ta.
(Mt 10, 33)
104. Tóc có thƣờng chải mới mƣợt và dễ chải. Linh hồn
có thƣờng xét các tƣ tƣởng, lời nói và hành động, là
những tóc của linh hồn, và có làm mọi sự vì yêu mến
Chúa thì những tóc ấy mới càng óng mƣợt, và Đức
Tình quân nhìn vào cổ kẻ Ngài yêu dấu sẽ bị nó thu
hút và sẽ bị đả thƣơng vì một liếc mắt dao cau, là sự
tinh tuyền trong ý hƣớng của nó khi làm mọi việc.
Muốn tóc óng mƣợt thì khi chải phải khởi sự từ trên
đỉnh đầu; mọi việc ta làm, nếu muón đƣợc tinh tuyền
và trong sáng, cũng phải khởi sự từ trên đỉnh cao
nhất của tình yêu Thiên Chúa.
105. Bầu trời thì bất biến và không có chuyện sinh sản.
Tự bản tính các linh hồn vốn thuộc trời cao nên cũng
bất biến và không có chuyện sinh sản ra các thèm
khát hay bất cứ điều gì khác nhƣ thế, vì các linh hồn
cũng giống Thiên Chúa ở chỗ không bao giờ thay
đổi.
106. Đừng ăn những thức bị cấm, tức là những thức ăn
của đời hiện tại, bởi lẽ “phúc thay ai đói khát sự
công chính vì sẽ đƣợc no thoả” (Mt. 5, 6)
Thiên Chúa là Thiên Chúa tự bản tính, Ngài muốn
làm cho ta nên giống Ngài nhờ tham dự bản tính
Ngài, nhƣ lửa biến đổi mọi sự thành lửa.
107. Mọi sự tốt lành ta đang có đều do Chúa cho ta mƣợn,
Thiên Chúa vẫn xem đó là công cuộc Ngài. Thiên
Chúa và công cuộc của Ngài, đó là Thiên Chúa.
277
108. Sự khôn ngoan thấm nhập nhờ tình yêu, sự yên lặng
và sự hy sinh. Thật hết sức khôn ngoan khi biết thinh
lặng và không xoi mói lời nói, việc làm và lối sống
của ngƣời khác.
109. Mọi sự vì con, thì chẳng có gì vì Chúa.
110. Mọi sự vì Chúa, thì chẳng có gì vì con.
111. Hãy để cho ngƣời ta dạy khôn bạn, truyền lệnh cho
bạn, chế ngự bạn và coi khinh bạn, bạn sẽ nên hoàn
thiện.
112. Bất cứ sự thèm khát nào cũng gây cho linh hồn 5
điều thiệt hại: Một là âu lo; hai là xáo trộn; ba là
hoen ố; bốn là suy yếu; năm là mù tối.
113. Sự hoàn thiện không cốt ở những nhân đức linh hồn
biết mình có nhƣng ở những nhân đức Chúa chúng ta
thấy đƣợc nơi linh hồn, nhƣ nơi một lá thƣ niêm kín.
Do đó, linh hồn chẳng có gì để tự hào, chỉ nên phủ
phục sát đất khi nghĩ về mình.
114. Tình yêu không cốt ở những rung cảm mãnh liệt
nhƣng ở chỗ hoàn toàn từ bỏ và chịu đau khổ vì
Đấng yêu ta.
115. Cả thế gian không đáng để con ngƣời dành cho một
tƣ tƣởng, vì tƣ tƣởng con ngƣời phải hƣớng về một
mình Thiên Chúa, và nhƣ thế tƣ tƣởng nào không đạt
đến Thiên Chúa là ta đã lấy cắp của Thiên Chúa.
116. Các năng lực và giác quan đừng đem phung phí hết
vào các sự vật, nhƣng chỉ đem dùng vào đó khi
không tránh đƣợc thôi, còn lại thì phải đƣợc rảnh
rang để Thiên Chúa tùy nghi sử dụng.
278
117. Đừng để ý tới những bất toàn của ngƣời khác, cứ giữ
thinh lặng và quan hệ liên lỉ với Thiên Chúa, bạn sẽ
nhổ sạch đƣợc những bất toàn trầm trọng và chiếm
đƣợc những nhân đức lớn lao.
118. Sự lắng đọng nội tâm có ba dấu chỉ: Một là nếu linh
hồn không còn ham thích những cái mau qua. Hai là,
nếu linh hồn yêu chuộng sự cô tịch và thinh lặng,
chăm sóc đến tất cả những gì hoàn thiện hơn. Ba là,
nếu những điều trƣớc đây thƣờng giúp nhiều cho
linh hồn, nhƣ cân nhắc, suy niệm và các hành vi đạo
đức nay lại khiến nó bị vƣớng víu, và khi cầu nguyện
linh hồn chẳng còn biết dựa vào điều gì khác hơn là
lòng tin, cậy và mến.
119. Nếu một linh hồn đã có thêm kiên nhẫn để chịu đau
khổ và thêm cứng cáp không cần phải dỗ ngọt, ấy là
dấu nó đã thêm tiến bộ trên đƣờng nhân đức.
120. Một con chim lẻ bầy có 5 đặc điểm: Một là, nó bay
cao tối đa; hai là, không chịu để ai đồng hành, dù đó
là những con chim đồng loại; ba là, nó hƣớng mỏ về
phía gió; bốn là, nó không có một màu sắc cố định;
năm là, nó hót thánh thót dịu dàng. Đó là những điều
một linh hồn chiêm niệm phải có: Phải vƣơn lên
vƣợt khỏi mọi sự mau qua, coi nhẹ chúng dƣờng nhƣ
không có; phải yêu mến sự cô tịch và thinh lặng đến
độ không chịu để bất cứ thụ tạo nào đồng hành; phải
hƣớng hẳn về Chúa Thánh Thần để hít lấy hơi thở,
tức là những gợi hứng của Ngài để, nhờ nhƣ thế,
đƣợc xứng đáng với sự đồng hành của Ngài hơn; và
không đƣợc có một màu sắc cố định nghĩa là không
đƣợc để cho mình bị đinh đoạt bởi bất cứ điều gì
khác ngoài ý muốn Thiên Chúa; và phải hót thánh
279
thót dịu dàng trong sự chiêm niệm và trong tình yêu
của Đức Tình Quân.
121. Những thói quen do những bất toàn hữu ý mà ngƣời
ta chẳng bao giờ tự thắng cho dứt, không chỉ cản trở
sự kết hợp với Thiên Chúa mà còn cản trở sự tiến tới
hoàn thiện; chẳng hạn nhƣ: Thói quen nói nhiều, một
chút quyến luyến thiếu kiềm chế nào đó đối với một
ngƣời, một bộ quần áo, một căn phòng, một cuốn
sách, một loại thức ăn, một buổi đàm thoại, hoặc là
những tâm hƣớng hơi nghiêng chiều muốn nếm
hƣởng sự vật, muốn biết, muốn nghe và những điều
khác tƣơng tự (1Lên 11,3-4).
122. Nếu bạn muốn vênh vang mà không muốn bị coi là
điên khùng, hãy rút khỏi bạn những gì không phải
của bạn, rồi hãy vênh vang với những gì còn lại (Rm
3,27); thế nhƣng chắc hẳn, nếu tất cả những gì không
phải của bạn đều bị lấy hết, bạn sẽ trở thành không
còn gì; và nhƣ thế, nếu không muốn rơi vào hƣ danh
thì bạn đừng vênh vang điều gì cả.
Còn nói riêng về những ƣu ái làm cho con ngƣời nên
duyên dáng dễ thƣơng trƣớc mắt Thiên Chúa, bạn
càng không nên tự hào, bởi lẽ bạn không biết đƣợc
mình có những ơn ấy hay không nữa.
123. Ôi lạy Chúa là sự thiện tối cao, sự hiện diện của
Chúa sẽ êm ái cho con biết mấy ! Con sẽ thinh lặng
tiến lại gần Chúa và sẽ tìm đƣợc đôi chân Chúa (Rt
3, 4) để Chúa đoái thƣơng kết hợp con với Chúa
trong cuộc hôn phối Chúa dành cho con. Con sẽ
không yên nghỉ cho đến lúc đƣợc hoan lạc trong
vòng tay Chúa; và bây giờ, lạy Chúa, con nài xin
280
Chúa đừng bao giờ bỏ con cô đơn một giây phút nào,
kẻo linh hồn con héo hon tiều tụy.
124. Thoát khỏi ràng buộc của những điều bên ngoài,
buông bỏ những điều bên trong và để cho mình bị
tƣớc lột cả những điều thuộc về Thiên Chúa, thì
thịnh vƣợng vinh hoa không cầm giữ đƣợc bạn và
nghịch cảnh không khiến bạn nao núng.
125. Linh hồn nào kết hợp với Thiên Chúa, ma quỷ sợ nó
nhƣ sợ chính Thiên Chúa.
126. Sự chịu đựng càng tinh tuyền thì sự hiểu biết nó đem
lại càng tinh tuyền.
127. Linh hồn nào muốn Thiên Chúa ban trọn mình Ngài
cho nó, thì phải trao hiến trọn bản thân nó cho Ngài,
không giữ lại cho mình một mảy may.
128. Linh hồn nào đã ở trong sự kết hợp tình yêu thì
không màng tới những động tác khởi đầu nữa.
129. Những ngƣời bạn lâu năm của Thiên Chúa thật khó
mà xúc phạm đến Thiên Chúa, bởi vì họ đã vƣợt lên
trên tất cả những gì có thể khiến họ xúc phạm.
130. Lạy Đấng Chí Ái của con, con muốn dành cho con
tất cả những gì chua chát và lao nhọc, và dành cho
Chúa tất cả những êm ái ngọt ngào.
131. Điều cần kíp nhất để ta đƣợc tiến bộ là giữ thinh lặng
trƣớc vị Thiên Chúa cao cả ấy, giữ thinh lặng cả về
miệng lƣỡi và sở thích, vì chỉ có tình yêu yên lặng
mới là ngôn ngữ đƣợc Ngài lắng nghe hơn cả.
281
132. Có đức tin là đủ 40
để tìm kiếm Thiên Chúa. Đối với
việc bên ngoài, ánh sáng thật ích lợi để ta khỏi vấp
ngã, nhƣng đối với những điều thuộc Thiên Chúa thì
ngƣợc lại, đến nỗi tốt hơn là đừng thấy, linh hồn sẽ
đƣợc an toàn hơn.
133. Làm việc của Chúa thì trong một giờ có thể thu
hoạch đƣợc nhiều hơn làm việc riêng của ta suốt cả
một đời.
134. Hãy yêu thích đừng đƣợc ai biết đến, bị chính mình
và ngƣời khác bỏ quên. Đừng bao giờ bận tâm đến
điều tốt và điều xấu nơi ngƣời khác.
135. Bƣớc đi một mình với Thiên Chúa, hành động ở mức
trung dung, giữ kín các ơn lành của Chúa .
136. Có tìm cách thua và để cho mọi ngƣời thắng, mới
đƣợc thuộc vào số những linh hồn dũng cảm, những
tấm lòng quảng đại, những trái tim hào hiệp, đặc
điểm của họ là cho hơn nhận, đến nỗi đi đến chỗ cho
hết cả bản thân, bởi vì họ coi việc tự sở hữu bản thân
là một gánh nặng, nếu bị chiếm hữu và trở thành xa
lạ với chính mình, họ thích hơn, có thế ta mới đƣợc
thuộc về Đấng Chí Thiện hơn là thuộc về mình.
137. Thật là một tai hoạ lớn nếu chăm chú vào những ơn
lành của Thiên Chúa hơn vào chính Thiên Chúa: Cầu
nguyện phải đi liền với lột bỏ.
40 Câu này khởi đầu bằng một tiếng mà ngày nay người ta không hiểu. Mỗi bản ghi một khác, bản thì ghi “Desonsillar” và giữ nguyên, không dịch; bản Madrid 1958 đề nghị đọc là “Fosoncilla”, và có nghĩa là “có đức tin là đủ”; Mẹ Marie du Saint Sacrement dịch là “Trở nên đơn sơ”; Cha Kavanaugh dịch là “Tuân phục như tôi tớ”.
282
138. Hãy nghĩ đến sự hiểu biết vô cùng và sự kín nhiệm
ẩn giấu (nơi Đức Kitô). Trong cõi lòng Thiên Chúa
có biết bao bình an, tình yêu và yên lặng; và môn
khoa học Ngài dạy ở đó cao vời biết bao ! Đó là điều
ta gọi là những tác động bí nhiệm, đốt cháy cõi lòng
biết mấy !
139. Điều kín nhiệm của lƣơng tâm sẽ hỏng mất và suy
giảm rất nhiều mỗi lần ta bày tỏ cho ngƣời đời biết
những hoa quả của nó, bởi vì khi ấy ta đã nhận đƣợc
hoa quả của hƣ danh chóng tàn làm phần thƣởng rồi.
140. Nói ít và đừng xen vào những gì ngƣời ta không hỏi
đến.
141. Luôn cố gắng bƣớc đi trƣớc nhan Thiên Chúa và giữ
lấy cho mình sự tinh tuyền Thiên Chúa dạy. (St 17,
1)
142. Đừng chữa lỗi và cũng đừng ngại để cho mọi ngƣời
sửa lỗi cho; hãy nghe mọi lời quở trách với vẻ mặt
trong sáng; hãy nghĩ rằng đó là Thiên Chúa đang nói
với bạn.
143. Hãy sống nhƣ thể trên đời chỉ có Thiên Chúa và bạn,
để lòng bạn không thể bị điều gì của con ngƣời cầm
giữ.
144. Hãy coi là do lòng Thiên Chúa thƣơng xót mà thỉnh
thoảng có đôi ngƣời nói với bạn một lời tốt đẹp, vì
bạn không đáng nhận một lời nào.
145. Đừng bao giờ để lòng bạn bị đổ ra ngoài, dù chỉ
trong khoảng thời gian (đọc) một kinh tin kính.
146. Đừng bao giờ nghe nói những yếu đuối của ngƣời
khác, và nếu có ai than phiền với bạn về ngƣời khác,
283
có thể lấy lòng khiêm nhƣờng xin họ đừng nói gì với
bạn.
147. Đừng than phiền ai, và đừng hỏi điều gì; nếu cần hỏi
hãy thật ít lời.
148. Đừng từ chối lao nhọc, dù có vẻ bạn không làm nổi:
Ƣớc gì mọi ngƣời đều gặp thấy lòng tốt nơi bạn.
149. Đừng ăn nói mâu thuẫn. Dù gì đi nữa cũng đừng nói
những lời không trong sáng. (201)
150. Khi nói, hãy nói sao để đừng xúc phạm đến ai, và
hãy nói những điều mà bạn sẽ không hối tiếc khi mọi
ngƣời đều hay biết.
151. Đừng từ chối khi ngƣời ta xin điều bạn có, dù bạn
đang cần đến nó.
152. Hãy giữ kín về điều Thiên Chúa sẽ ban cho bạn, và
hãy nhớ lời của Tình nƣơng: “Điều bí mật của tôi, tôi
giữ kín”.
153. Hãy cố giữ cho lòng đƣợc bình an, đừng để bất cứ
một biến cố nào của thế gian khiến bạn giao động,
hãy nghĩ rằng mọi sự rồi sẽ phải kết thúc.
154. Đừng bận tâm, dù nhiều hay ít, về việc ai chống đối,
ai ủng hộ. Hãy luôn gắng sức làm đẹp lòng Thiên
Chúa của bạn; hãy xin Ngài thực hiện ý Ngài nơi
bạn; hãy yêu mến Ngài nhiều, vì bạn mắc nợ Ngài
điều ấy.
155. Mƣời hai ngôi sao để đạt tới hoàn thiện tột đỉnh:
Mến Chúa, yêu ngƣời bên cạnh, vâng lời, khiết tịnh,
nghèo khó, tham dự giờ kinh, thống hối, khiêm
nhƣờng, hy sinh, cầu nguyện, thinh lặng, bình an.
284
156. Khi phải làm gì, đừng bao giờ lấy ngƣời phàm làm
mẫu, dù ngƣời ấy thánh thiện đến đâu, vì quỉ dữ sẽ
bày ra trƣớc mắt bạn những bất toàn của ngƣời ấy.
Hãy bắt chƣớc Đức Kitô thôi, chỉ một mình Ngài
mới hoàn hảo và thánh thiện tột bậc, và bạn sẽ không
bao giờ sai.
157. Khi đọc hãy cố tìm và bạn sẽ gặp đƣợc nhờ suy
niệm; hãy gõ cửa bằng cầu nguyện, ngƣời ta sẽ mở
cho bạn trong chiêm niệm.
285
3.
NHỮNG CHÂM NGÔN GOM GÓP
DO CHỊ MAĐALÊNA CỦA CHÖA THÁNH LINH,
ĐAN NỮ CÁT MINH CHÂN TRẦN Ở ĐAN VIỆN BÉAS
158. Kẻ hành động cho Thiên Chúa với tình yêu tinh
ròng, chẳng những không tìm cách để cho ngƣời đời
thấy, mà cả đến không nhằm cho chính Thiên Chúa
biết; bởi lẽ ngay cả khi Thiên Chúa chẳng bao giờ
biết đến, ngƣời ấy vẫn không thôi dành cho Ngài
những việc phục vụ y nhƣ thế với cùng một niềm vui
và một tình yêu y nhƣ thế.
159. Một điều nữa để thắng đƣợc các thèm khát: Hãy có
một thèm khát thƣờng xuyên là thèm bắt chƣớc Đức
Giêsu Kitô trong mọi công việc Ngài, đồng hoá với
cuộc sống Ngài, cuộc sống mà bạn phải ngắm nghía
kỹ để biết mà bắt chƣớc và để ứng xử trong mọi sự
nhƣ Ngài ứng xử.
160. Để có thể hành động nhƣ thế, cần từ chối tất cả
những thèm khát và sở thích nào không thuần túy
nhắm đến danh dự và vinh quang Thiên Chúa và cần
giữ cho lòng đƣợc trống rỗng dành chỗ cho tình yêu
của Đấng suốt đời đã chẳng muốn điều gì khác hơn
là thực hiện ý của Chúa Cha, mà Ngài gọi là lƣơng
thực nuôi sống Ngài. (Ga 4, 34)
286
161. Muốn đạt kết quả trong việc hãm dẹp bốn kích tình
tự nhiên (pasiones naturales) là vui, buồn, sợ và hy
vọng, cần phải cố gắng luôn nghiêng về:
- Không phải cái dễ hơn nhƣng cái khó hơn,
- Không phải cái ngọt ngào hơn nhƣng cái nhạt nhẽo hơn;
- Không phải cái dễ chịu hơn nhƣng cái không dễ chịu;
- Không phải nghiêng về sự nghỉ ngơi nhƣng về cái vất
vả;
- Không phải nghiêng về sự an ủi nhƣng về điều không an
ủi;
- Không phải nghiêng về cái hơn nhƣng về cái kém;
- Không phải về cái cao hơn và đƣợc quý trọng hơn nhƣng
về cái thấp hơn và bị khinh dể hơn;
- Không phải nghiêng về việc muốn một điều gì nhƣng về
việc không muốn gì cả;
- Không săn tìm cái tốt nhất nhƣng là cái xấu nhất trong
mọi chuyện;
- Và vì Đức Giêsu Kitô mà kiên trì chịu trần trụi, trống
trơn và nghèo túng về bao chuyện xảy ra trên cõi
đời.
162. Đối với dục vọng: 1) Trong việc làm, hãy liệu hành
động cách trần trụi nghèo khó và ƣớc ao những
ngƣời khác giúp mình làm nhƣ thế; 2) trong lời nói,
hãy làm sao tỏ ra xem nhẹ mình và ao ƣớc mọi ngƣời
đều làm nhƣ thế; 3) trong suy nghĩ, hãy đánh giá
thấp về mình và ƣớc ao những ngƣời khác cũng làm
nhƣ thế.
287
163. Hãy củng cố sức mạnh của cõi lòng chống lại tất cả
những gì hƣớng ta đến điều không phải là Thiên
Chúa, và hãy yêu mến việc chịu thƣơng khó vì Đức
Kitô.
164. Mau mắn trong vâng phục, vui vẻ trong đau khổ,
hãm dẹp cái nhìn, không muốn biết điều gì cả, hãy
thinh lặng và hy vọng.
165. Hãy quyết liệt kìm hãm miệng lƣỡi và tƣ tƣởng, hãy
liên lỉ xoay hƣớng tình cảm về Thiên Chúa và Thánh
Thần Ngài sẽ nung nấu bạn. Hãy đọc lời này nhiều
lần.
4.
NHỮNG LỜI KHUYÊN
DO CHỊ MARIA CỦA CHÖA GIÊSU NHỚ ĐƢỢC
166. Chỗi dậy vƣợt khỏi mình, đừng ngồi lại với thụ tạo.
167. Bạn hãy chống lại chính mình, thật quyết liệt và
đừng bao giờ ngừng nghỉ.
168. Đóng cửa lại với tất cả và chạy trốn.
169. Hãy giữ cho mình sạch mọi quyến luyến, tƣ tƣởng và
hình ảnh, rồi bạn sẽ cảm nghiệm đƣợc bài ca dịu
dàng cùng với lòng ăn năn và nƣớc mắt.
288
5.
NHỮNG LỜI KHUYÊN KHÁC
170. Bạn càng xa lánh những sự trần gian, càng tiến gần
tới những sự trên trời, và càng gặp đƣợc những sự
phong phú nơi Thiên Chúa.
171. Ai biết chết cho mọi sự, sẽ có đƣợc sự sống trong
mọi sự.
172. Hãy lánh dữ làm lành và tìm kiếm bình an. (Tv. 33,
15)
173. Ai than phiền hoặc lẩm bẩm thì chẳng trọn lành mà
cũng chẳng phải là Kitô hữu tốt.
174. Kẻ khiêm nhƣờng là kẻ ẩn mình trong sự hƣ vô của
mình và biết phó thác cho Thiên Chúa.
175. Kẻ hiền lành là kẻ biết chịu đựng ngƣời bên cạnh và
chịu đựng chính mình.
176. Nếu bạn muốn nên trọn lành, hãy bán hết ý riêng và
bố thí cho những ngƣời có tinh thần nghèo khó, rồi
lấy lòng hiền lành và khiêm nhƣợng mà đến với Đức
Kitô, và theo Ngài cho đến núi Sọ và huyệt đá.
177. Kẻ tin cậy vào chính mình thì xấu hơn cả quỷ dữ.
178. Kẻ nào không yêu ngƣời bên cạnh thì đã thù ghét
Thiên Chúa.
179. Hành động cách hững hờ thì gần sa ngã.
180. Chạy trốn cầu nguyện là chạy trốn tất cả những gì tốt
lành.
289
181. Thắng miệng lƣỡi tốt hơn nhịn ăn nhịn uống.
182. Chịu khổ vì Chúa tốt hơn làm phép lạ.
183. Ôi làm sao nói nổi những tốt lành ta đƣợc vui hƣởng
khi chiêm ngắm Ba Ngôi Chí Thánh ?
184. Đừng nghi ngờ gì ngƣời anh em của bạn, kẻo sẽ
đánh mất sự thanh khiết của cõi lòng.
185. Nói về lao nhọc thì: càng nhiều càng tốt.
186. Kẻ không biết chịu khổ vì Đức Kitô, thử hỏi còn biết
đƣợc điều gì ?
290
NHỮNG BIỆN PHÁP
PHÕNG CHỐNG
Lời giới thiệu
Thánh Gioan Thánh Giá viết các biện pháp phòng
chống cho các đan nữ ở Beas trong thời gian ngài sống ở
El Calvario (1578-1579) sau khi trốn khỏi phòng giam
Toledo. Những lời cảnh báo này tiêu biểu cho một số hoa
trái của thời gian ngài làm linh hƣớng tại Avila. Các đan
nữ đã sao chép lại và gửi cho các nhà khác. Một số thủ
bản thích nghi cách xƣng hô cho nam giới, có nghĩa là các
tu huynh cũng đã quan tâm và sao chép lại để dùng.
Đây chỉ là một bản văn ngắn, cô đọng giáo huấn
phong phú. Đƣợc viết cho những đan nữ hƣởng ứng
đƣờng lối Thánh nữ Têrêxa Avila, những khẳng định chắc
nịch này nói với những phụ nữ nhiệt thành đang miệt mài
trên đƣờng tâm linh. Họ muốn chỉ trong một thời gian
ngắn mà đạt đƣợc sự khó nghèo tinh thần, hiệp nhất với
Thiên Chúa và đƣợc sự an ủi thanh thản của Chúa Thánh
Thần. Tình yêu không thích trì hoãn chút nào. Phải làm
291
sao để vƣợt khỏi mọi trở ngại và tiến bộ thật nhanh.
Những ngƣời ít háo hức đạt tới mục tiêu hơn có thể chọn
cách khác. Còn ở đây, để đáp ứng khát vọng tránh khỏi
mọi chƣớng ngại, bản văn mang một cung giọng tiêu cực.
Tính cách cô đọng và mục tiêu đặc thù của bản văn
này đòi ta phải đọc nó dƣới ánh sáng những tác phẩm
khác của Thánh Gioan Thánh Giá. Trong các tác phẩm
này, ngài sẽ diễn tả chi tiết cho thấy ta sẽ đạt đƣợc sự hiệp
nhất với Thiên Chúa không phải do tuân thủ các biện
pháp phòng chống nhƣng là do sống hiệp thông với Thiên
Chúa qua cuộc sống hƣớng thần của ba nhân đức tin, cậy,
mến. Các biện pháp phòng chống vẫn rất giá trị vì luôn
thúc đẩy cuộc sống hƣớng thần ấy cách hữu hiệu.
Linh đạo Kitô giáo, bén rễ từ Kinh thánh, nói đến ba
kẻ thù tâm linh là thế gian, xác thịt và ma quỷ. Thánh
Gioan Thánh Giá đã dựa theo truyền thống ấy để sắp đặt
bài viết của ngài: Ba biện pháp chống lại từng kẻ thù
trong ba kẻ thù ấy. Dựa trên cái khung ấy, ngài nêu lên
cách ứng xử đối phó trong từng lãnh vực cuộc sống. Ngài
mô tả những thiệt hại và nguy cơ sẽ gặp phải do không
cẩn thận đề phòng. Ngài tán dƣơng những ích lợi do áp
dụng các biện pháp phòng chống. Việc trình bày nội dung
gối đầu lên nhau vì tác giả muốn nhấn mạnh rằng hễ đánh
bại đƣợc một kẻ thù là sẽ đánh bại luôn cả hai thứ kia,
làm suy yếu đƣợc một thì cả ba sẽ cùng suy yếu.
(Kieran Kavanaugh, ocd, và Otilio Rodriguez, ocd)
292
NHỮNG CHỈ THỊ VÀ NHỮNG BIỆN PHÁP
PHÒNG CHỐNG CẦN DÙNG CHO BẤT CỨ AI
MUỐN TRỞ THÀNH NGƢỜI TU SĨ CHÂN CHÍNH VÀ
SỚM ĐẠT TỚI HOÀN THIỆN,
1. Là tu sĩ nếu bạn muốn chỉ trong một thời gian
ngắn mà đạt đƣợc cái lắng thánh, sự thinh lặng tâm linh,
sự trần trụi và nghèo khó tinh thần, để hƣởng đƣợc sự mát
mẻ bình an của Chúa Thánh Thần, đạt tới chỗ nên một với
Thiên Chúa và giải thoát mình khỏi những trở ngại do mọi
thụ tạo trên thế gian này, để giữ mình tránh khỏi những
âm mƣu lừa dối của ma quỷ, và để giải thoát khỏi chính
mình, thì bạn cần thực hiện nhƣng chỉ thị sau đây, với ý
thức rằng mọi thiệt hại mà linh hồn mắc phải đều phát
xuất từ những kẻ thù đã nói, tức là thế gian, ma quỷ và xác
thịt,
2. Thế gian là kẻ thù ít khó khăn nhất, ma quỷ là kẻ
thù khó nhận ra nhất ; còn xác thịt là kẻ thù thô bạo hơn
tất cả và bao lâu con ngƣời cũ còn đó thì nó vẫn còn tiếp
tục tấn công.
3. Muốn hoàn toàn chế ngự đƣợc bất cứ kẻ thù nào
trong ba thứ trên đây, bạn đều cần phải chế ngự cả ba. Một
thứ nào đã bị yếu thì cả hai thứ kia sẽ yếu theo. Khi bạn đã
thắng đƣợc cả ba thứ thì sẽ không còn phải chiến đấu nữa,
293
CHỐNG LẠI THẾ GIAN
4. Muốn hoàn toàn tự giải thoát khỏi những điều tai
hại thế gian có thể gây ra cho bạn, bạn cần theo ba biện
pháp sau đây:
Biện pháp phòng chống thứ nhất. 5. Biện pháp thứ nhất là bạn cần biết yêu mến mọi
ngƣời nhƣ nhau và biết quên hết mọi ngƣời nhƣ nhau, bất
kể ngƣời thân hay không thân. Bạn cần biết dứt lòng
quyến luyến41
đối với thân nhân cũng nhƣ đối với ngƣời
khác, và một cách nào đó, càng đối với ngƣời thân ruột
thịt càng cần phải dứt bỏ hơn, vì sợ rằng trong quan hệ
máu mủ tình cảm tự nhiên có thể bén nhạy hơn những
trƣờng hợp khác, cho nên cần phải hy sinh từ bỏ để đƣợc
sự hoàn thịên tâm linh. Hãy coi họ nhƣ ngƣời xa lạ thì bạn
sẽ chu toàn bổn phận đối với họ tốt hơn là khi bạn dành
cho họ lòng yêu mến mà bạn phải dành cho Thiên Chúa.
6. Đừng yêu mến ngƣời này hơn ngƣời nọ, để bạn
khỏi lạc đƣờng. Chỉ ngƣời nào Thiên Chúa yêu mến hơn
thì mới đáng đƣợc bạn yêu mến hơn, thế nhƣng bạn đâu
có biết ai là ngƣời đƣợc Thiên Chúa yêu mến hơn. Tốt
hơn, cứ quên hết mọi ngƣời nhƣ nhau, đó là điều cần để
bạn giữ đƣợc sự lắng lòng thánh thiêng, và bạn sẽ thoát
khỏi cái sai lầm là thƣơng kẻ này nhiều, kẻ kia ít.
Đứng nghĩ gì về họ, đừng xét đoán gì về họ, bất kể là
chuyện tốt hay chuyện xấu. Hãy cứ thoát khỏi họ ngần nào
có thể. Nếu bạn không giữ nhƣ thế, bạn sẽ không biết
đƣợc cách trở thành một tu sĩ, cũng sẽ không đạt tới đƣợc
cái lắng thánh, và không thoát khỏi đƣợc những sự bất
41 Các Phật tử gọi là “ly gia cát ái”.
294
toàn. Nếu bạn muốn châm chƣớc chút gì trong việc ấy, thì
ma quỉ sẽ lừa gạt bạn không cách này thì cách khác, hoặc
chính bạn sẽ lừa gạt bạn dƣới nhãn hiệu điều tốt hoặc điều
xấu.
Hãy làm nhƣ tôi nói, bạn sẽ đƣợc an toàn, vì chẳng
có con đƣờng nào khác có thể giúp bạn tự giải thoát khỏi
những sự bất toàn và tệ hại do các thụ tạo gây ra.
Biện pháp phòng chống thứ hai. 7. Biện pháp thứ hai để phòng chống thế gian liên hệ
đến các của cải trần thế. Để thực sự giải thoát mình khỏi
các tệ hại gây nên do thứ của cải này và kiềm chế đƣợc mê
muốn thái quá của bạn, bạn nên ghê sợ mọi hình thức
chiếm hữu và đừng bận tâm gì đến những của cải ấy.
Đừng bận tâm đến cơm ăn, áo mặc hay bất cứ một thụ tạo
nào khác, hay là mối bận tâm lo cho ngày mai. Hãy hƣớng
thẳng nỗi bận tâm của bạn tới một cái gì cao cả hơn, tức là
tìm kiếm Nƣớc Thiên Chúa, tìm kiếm để khỏi bắt hụt
Thiên Chúa; còn thì nhƣ Chúa Chí Tôn đã nói, mọi sự
khác sẽ đƣợc ban thêm cho chúng ta (Mt 6, 33), bởi lẽ
Đấng hằng chăm sóc cho cầm thú sẽ chẳng quên bạn đâu.
Hãy cứ thực hành nhƣ vậy, bạn sẽ đƣợc sự thinh lặng và
bình an nơi các giác quan,
Biện pháp phòng chống thứ ba, 8. Biện pháp phòng chống thứ ba rất cần thiết để bạn
có thể biết cách giữ mình trong cộng đoàn, tránh khỏi mọi
thứ tệ hại có thể nảy sinh trong quan hệ với anh em tu sĩ.
Lắm ngƣời vì không chịu giữ điều này cho nên không
những đã đánh mất sự bình an và sự tốt lành của linh hồn
295
mình, mà còn rơi vào và tiếp tục rơi vào nhiều điều xấu xa
và tội lỗi,
Biện pháp này là bạn cần hết sức cẩn thận giữ mình,
tránh đừng suy nghĩ dông dài và hơn nữa đừng nói gì về
những gì xảy đến trong cộng đoàn cả chuyện quá khứ hay
chuyện hiện tại liên quan đến một anh em nào đó: hoặc về
tính tình, hoặc về cách ứng xử hoặc là những việc làm của
ngƣời ấy, dù những chuyện ấy có vẻ hệ trọng đến đâu đi
nữa. Đừng nói với bất cứ ai điều gì vịn cớ do lòng nhiệt
thành hoặc vì muốn sửa chữa một điều sai lệch, nhƣng bạn
chỉ nói đúng lúc và nói với ngƣời mà luật dạy bạn phải
nói. Đừng bao giờ lấy làm gai chƣớng khó chịu hoặc sửng
sốt về bất cứ điều gì bạn thấy hoặc nghe biết, nhƣng hãy
ra sức giữ cho linh hồn bạn quên đi tất cả,
9. Thật vậy, nếu bạn thích để ý đến chuyện xung
quanh thì dù bạn sống giữa các thiên thần bạn cũng sẽ
thấy lắm chuyện không hay, bởi một lẽ đơn giản là bạn
đâu có hiểu rõ về bản chất những chuyện ấy. Cứ thử lấy
chuyện vợ ông Lót (St 19, 26) làm thí dụ thì biết. Bà này
chỉ vì tò mò muốn biết Thiên Chúa tàn phá thành Sôđôma
nhƣ thế nào và đã ngoảnh cổ lại nhìn, nên đã bị Chúa phạt
biến thành một tƣợng muối. Nhƣ thế bạn hãy biết rằng, dù
bạn có sống giữa bầy quỷ, Chúa cũng không muốn bạn
ngoảnh cổ lại trong tƣ tƣởng để suy nghĩ dông dài về
chuyện của chúng, nhƣng hãy bỏ mặc tất cả những chuyện
ấy ở đó và để cho linh hồn bạn hƣớng hẳn về Thiên Chúa
một cách tinh tuyền và trọn vẹn không để bị quấy rối vì
bất cứ một ý nghĩ nào về chuyện này chuyện nọ.
Để giữ vững điều này, bạn hãy xác tín rằng tại các tu
viện và các cộng đoàn, chẳng bao giờ thiếu những lỗ hổng
và cũng chẳng bao giờ thiếu những tên quỷ đang rình mò
296
tìm cách lôi đầu các vị thánh xuống. Thiên Chúa cho phép
nhƣ vậy là để thử thách và thanh luyện các tu sĩ.
Nếu bạn không cẩn thận giữ mình, hành động một
cách lơ đãng, thì dù bạn có làm gì đi nữa cũng chẳng biết
cách trở thành một tu sĩ, và cũng chẳng đạt đƣợc sự trần
trụi tâm linh và sự lắng lòng thánh thiêng, và cũng chẳng
tự giải thoát đƣợc khỏi những tệ hại do những tƣ tƣởng
nhƣ thế gây ra. Nếu bạn không cẩn thận đề phòng trong
việc này, thì bạn có đạt tới một mục đích tốt đẹp hoặc sự
nhiệt thành, ma quỷ vẫn bắt đƣợc bạn không cách này thì
cách khác. Mà quả thật bạn đã thực sự bị nó bắt giữ khi
bạn tự cho phép mình lơ là trong việc này.
Hãy nhớ lại lời thánh Giacôbê Tông đồ đã nói: “Ai
cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lƣỡi, là tự
dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão” (1, 26). Điều
này đƣợc hiểu cả về miệng lƣỡi bên trong chứ không phải
chỉ về miệng lƣỡi bên ngoài.
CHỐNG LẠI MA QUỶ
10. Là ngƣời khao khát đạt tới hoàn thiện, bạn cần sử
dụng ba biện pháp phòng chống để giữ mình thoát khỏi
ma quỷ là kẻ thù thứ hai. Cần lƣu ý rằng giữa rất nhiều
mƣu chƣớc ma quỷ vẫn dùng để lừa gạt những ngƣời đang
tiến trên đƣờng tâm linh, mƣu chƣớc thông thƣờng nhất là
nó hay lừa gạt họ bằng những điều có vẻ tốt lành hơn là
bằng những điều xấu xa, bởi lẽ nó quá rõ rằng ít khi họ lại
chọn một điều xấu mà họ đã kịp nhận biết. Do đó bạn cần
phải luôn tỉnh táo dè chừng những gì có vẻ tốt lành, nhất
là khi đó không phải là điều đức vâng phục đòi buộc. Để
297
hành động đúng và để đƣợc an toàn, bạn hãy hỏi ý kiến
nơi ngƣời mà bạn cần bàn hỏi.
Biện pháp phòng chống thứ nhất. 11. Vậy biện pháp thứ nhất là, ngoài những gì bổn
phận bậc mình đòi buộc, nếu không đƣợc lệnh phải vâng
lời, bạn đừng bao giờ dây mình vào một việc gì, mặc dù
nó có vẻ tốt lành và đầy tính bác ái, hoặc là vì bạn hoặc là
vì một ai khác ở trong hoặc ở ngoài cộng đoàn. Giữ nhƣ
thế, bạn sẽ đƣợc công phúc và đƣợc an toàn.
Từ chối nhƣ thế, bạn sẽ thoát khỏi ma quỷ và những
sự dữ mà bạn không ngờ trƣớc đƣợc. Đó là điều sẽ đến
ngày Thiên Chúa đòi bạn phải trả lời. Nếu bạn không theo
đúng biện pháp phòng chống này, cả trong chuyện nhỏ lẫn
chuyện lớn, dù bạn có thấy nó đúng tới đâu đi nữa, thì bạn
cũng sẽ không thể tránh khỏi bị ma quỷ lừa gạt, hoặc
nhiều hoặc ít. Mặc dù bạn chẳng chểnh mảng gì khác hơn
là tránh né vâng lời, thì bạn cũng đã sai lạc một cách đáng
trách, bởi lẽ Thiên Chúa muốn sự vâng lời hơn của lễ
(1Sm 15, 22). Mọi hành động của một tu sĩ đều phải là
việc của đức vâng phục chứ không thể là việc riêng của
ngƣời ấy, cho nên nếu bạn tách nó khỏi đức vâng phục thì
kể nhƣ bạn đã đem vất nó đi.
Biện pháp phòng chống thứ hai. 12. Biện pháp phòng chống thứ hai là bạn luôn luôn
nhìn vào bề trên nhƣ nhìn vào Thiên Chúa, cho dù bản
thân bề trên có ra sao cũng thế, bởi lẽ bề trên thay mặt
Thiên Chúa. Hãy lƣu ý rằng kẻ thù của đức khiêm nhƣờng
là ma quỷ là một kẻ xúc xiểm chuyên nghiệp và xảo quyệt
trong lĩnh vực này. Bạn sẽ đƣợc rất nhiều ích và lợi khi
298
nhìn bề trên theo ánh sáng trên đây, còn nếu không nhìn
theo ánh sáng ấy, bạn sẽ bị mất mát thiệt thòi rất trầm
trọng. Do đó, cần phải hết sức cảnh giác, đừng bận tâm
đến tính tình, cách ứng xử, khả năng hoặc phƣơng pháp
hành động của ngài. Bận tâm đến những chuyện ấy, bạn sẽ
tự làm hại mình vì đã biến đức vâng phục từ chỗ là một
chuyện của Thiên Chúa trở thành một chuyện của loài
ngƣời, bởi lẽ chỉ dựa vào những cái hữu hình nơi bề trên
chứ không còn dựa vào Thiên Chúa vô hình, Đấng mà bạn
đang phụng sự ngang qua vị bề trên.
Đức vâng phục của bạn sẽ chẳng có ý nghĩa gì và sẽ
hoàn toàn vô ích nếu bạn cho phép mình đƣợc bất mãn vì
tính khó chịu của bề trên hoặc đƣợc cảm thấy hạnh phúc
khi bề trên xử sự khéo léo và làm đẹp lòng bạn. Tôi xin
nói để bạn hay, bằng cách xúi giục các tu sĩ xét nét cách
xử sự của bề trên, ma quỷ đã làm hại đƣợc không biết bao
nhiêu tu sĩ đang trên đƣờng tiến tới hoàn thiện. Kể từ khi
họ để cho những nhận xét kiểu ấy xen vào sự vâng phục
thì đức vâng phục của họ chẳng còn đƣợc mấy chút giá trị
trƣớc mặt Chúa.
Chắc hẳn bạn phải có những cảm nghĩ riêng tƣ,
nhƣng nếu bạn không biết cố gắng để chẳng bận tâm gì
đến chuyện ngƣời này hay ngƣời nọ làm bề trên, thì chẳng
thể nào trở thành một ngƣời có chiều sâu tâm linh, mà
cũng chẳng thể nào giữ các lời khấn của bạn cho tốt đƣợc.
Biện pháp phòng chống thứ ba. 13. Biện pháp phòng chống thứ ba, thẳng thừng
chống lại ma quỷ, là bạn hãy luôn hết lòng tìm cách tự hạ
trong lời nói cũng nhƣ trong hành động, vui mừng vì sự
may lành của ngƣời khác nhƣ thể đó là sự may lành của
299
chính bạn, ao ƣớc cho họ đƣợc trổi vƣợt hơn bạn trong
mọi chuyện, và ao ƣớc nhƣ vậy với tất cả tấm lòng. Làm
nhƣ thế, bạn sẽ lấy sự lành mà thắng sự dữ (Rm 12, 21),
bạn sẽ đuổi ma quỷ chạy xa và lòng bạn sẽ đầy an vui
hạnh phúc. Bạn càng ít thiện cảm với ngƣời nào thì càng
phải cố gắng thực tập nhƣ vậy với ngƣời ấy. Hãy nhớ rằng
nếu bạn không bắt mình làm nhƣ vậy, bạn sẽ chẳng đạt
đƣợc đức ái đích thật và cũng sẽ không tiến bƣớc đƣợc gì
trên đƣờng đức ái. Bạn hãy thích đƣợc mọi ngƣời dạy
khôn bạn hơn là mong muốn đƣợc dạy khôn một ngƣời
nào, dù là ngƣời bé nhỏ nhất.
CHỐNG LẠI CHÍNH MÌNH VÀ SỰ XẢO TRÁ
CỦA TÍNH XÁC THỊT
14. Và sau đây là ba biện pháp phòng chống dành
cho những ai muốn chiến thắng kẻ thù thứ ba tức là chính
bản thân mình và tính xác thịt của mình.
Biện pháp phòng chống thứ nhất. 15. Biện pháp phòng chống thứ nhất là hãy hiểu rằng
bạn vào dòng là để cho mọi ngƣời xài xể bạn và thử thách
bạn. Vậy, nếu bạn muốn giải thoát mình khỏi những sự
bất toàn và rầy rà phát xuất từ những lề lối cũng nhƣ thái
độ của các tu sĩ và rút đƣợc ích lợi nơi mọi chuyện, thì bạn
nên nghĩ rằng mọi ngƣời trong cộng đoàn đều là tay thợ
hiện diện ở đó để thử luyện bạn. Mà quả có thế thật. Một
số ngƣời sẽ xài xể bạn bằng lời nói, một số khác bằng
hành động và một số khác bằng những suy nghĩ chống lại
300
bạn. Hãy nhớ rằng trong tất cả những chuyện ấy bạn đều
phải phục tùng nhƣ thể một pho tƣợng đang ở trong tay
ngƣời nhào nặn ra nó, trong tay một họa sĩ đang sơn phết
nó và trong tay một kẻ gọt đẽo đang trau chuốt lại nó.
Nếu bạn không chịu tuân theo biện pháp phòng
chống này, bạn sẽ không biết cách chiến thắng tính xác
thịt cũng nhƣ tình cảm của bạn, bạn sẽ không hài hoà
đƣợc với các tu sĩ trong cộng đoàn, và sẽ không đạt đƣợc
sự bình an thánh thiêng và cũng sẽ không giải thoát đƣợc
mình khỏi những trở ngại và những sự dữ.
Biện pháp phòng chống thứ hai. 16. Biện pháp phòng chống thứ hai là bạn đừng bao
giờ nên bỏ dở công việc chỉ vì không đƣợc thoả mãn và
hứng thú trong việc ấy, nếu đó là việc phải làm để phụng
sự Thiên Chúa.
Bạn cũng đừng bao giờ nên mải mê với các công
việc chỉ vì chúng đem lại cho bạn sự thoả mãn và hào
hứng, nhƣng bạn nên làm những việc ấy nhƣ thể đang
phải làm những việc chán ngấy. Nếu không, bạn sẽ không
đạt đƣợc sự kiên tâm và chiến thắng đƣợc sự yếu đuối của
mình
Biện pháp phòng chống thứ ba 17. Biện pháp phòng chống thứ ba là một ngƣời nội
tâm không bao giờ nên dán mắt vào những cảm nghiệm
thích thú gặp đƣợc trên đƣờng tập luyện tâm linh, trở
thành quá dính bén với những cảm nghiệm ấy và say sƣa
tập luyện chỉ vì sự thỏa mãn ấy. Đàng khác cũng không
nên chạy trốn những sự cay đắng gặp trên đƣờng tập luyện
ấy, nhƣng tốt hơn nên tìm kiếm những gì là cam go và
301
chán ngán để ôm chầm lấy. Làm nhƣ thế, bạn sẽ khống
chế đƣợc tính xác thịt; còn nếu không, bạn sẽ chẳng bao
giờ diệt trừ đƣợc lòng yêu mình và cũng chẳng bao giờ đạt
đƣợc lòng yêu Chúa.
302
NHỮNG LỜI KHUYÊN GỞI MỘT TU
SĨ NHẰM GIÖP ĐẠT TỚI HOÀN THIỆN
Lời giới thiệu
Những lời khuyên viết cho một tu sĩ có nội dung và giọng
văn tƣơng tự những biện pháp phòng chống trên đây. Điều đó
cho thấy cả hai đƣợc biên soạn vào cùng một thời điểm. Nó chỉ
khác ở chỗ không theo sát cấu trúc của các biện pháp phòng
chống.
Bản văn đƣợc coi là xác thực nhất lấy theo một thủ bản
cổ đƣợc giữ tại đan viện Cát Minh ở Bujalance. Trong thủ bản
này, liền sau Những lời khuyên là Những cấp độ của sự hoàn
thiện, là phần thƣờng đƣợc xếp chung với các Châm ngôn. Tuy
nhiên ngày nay ngƣời ta có khuynh hƣớng xếp nó liền sau
Những lời khuyên, vì có lẽ cả hai đƣợc viết cho cùng một tu
huynh.
(Kieran Kavanaugh, ocd, và Otilio Rodriguez, ocd)
Jesus Mariae Filius
1. Thƣa anh, trong một vài lời ngắn ngủi anh đã hỏi
tôi một vấn đề lớn. Muốn trả lời cặn kẽ, cần phải có nhiều
thời gian và giấy bút. Do cả hai thứ ấy tôi đều thiếu, cho
303
nên tôi sẽ cố gắng cô đọng và chỉ ghi lại một số điểm và
lời khuyên ngắn gọn nhƣng hàm chứa nhiều chuyện, ngõ
hầu bất cứ ai giữ những điều này cho hoàn hảo thì đều sẽ
đạt đƣợc một mức cao trên đƣờng hoàn thiện.
Nhiều ngƣời ƣớc ao trở thành tu sĩ chân chính, làm
tròn những điều đã khấn hứa, tiến bƣớc trên đƣờng nhân
đức và đƣợc vui hƣởng những an ủi và hoan lạc trong
Chúa Thánh Thần, thế nhƣng họ sẽ không thể đạt đƣợc
nhƣ vậy nếu không cố gắng thực hiện một cách hết sức
chuyên cần bốn lời khuyên sau đây, liên hệ đến sự dè dặt,
sự hy sinh hãm mình, sự luyện tập các nhân đức và giữ sự
cô tịch cả về mặt bên ngoài lẫn về mặt tâm linh.
2. Để thực hành lời khuyên thứ nhất là sự dè dặt, bạn
hãy sống trong tu viện nhƣ thể ở đó chẳng có ai khác
ngoài bạn. Nhƣ thế, bạn đừng bao giờ nên xen vào những
chuyện xảy ra trong tu viện, bằng lời nói hay bằng ý nghĩ,
cũng đừng bao giờ phê phán những cá nhân sống trong tu
viện, đừng bận tâm dò xét xem họ tốt hay xấu hoặc họ xử
sự ra sao. Để giữ đƣợc sự yên tĩnh trong tâm hồn, thì dù cả
thế giới này có sụp đổ, bạn cũng đừng thèm lên tiếng hoặc
xía vào, hãy nhớ lại vợ ông Lót đã bị biến thành tƣợng
muối chỉ vì bà đã ngoảnh đầu lại để nhìn xem những
ngƣời đang bị tiêu diệt giữa bao tiếng kêu la ầm ĩ (St 19,
26).
Bạn nên thực hành sự dè dặt này một cách hết sức
kiên quyết, vì nhờ đó bạn sẽ giữ mình thoát khỏi rất nhiều
tội lỗi cũng nhƣ những sự bất toàn, và sẽ giữ đƣợc tâm
hồn bình an thanh thản với rất nhiều lợi ích trƣớc mặt
Thiên Chúa và ngƣời ta.
304
Hãy thƣờng xuyên nhớ đến điều này vì nó hết sức
quan trọng. Rất nhiều tu sĩ chỉ vì không giữ sự dè dặt nhƣ
thế nên chẳng những không tiến đƣợc trong các nhân đức
khác mà còn thụt lùi, càng lúc càng hƣ hỏng xấu xa.
3. Để thực hành lời khuyên thứ hai, liên hệ đến sự hy
sinh hãm mình và nhờ đó mà đƣợc tiến bộ, bạn nên ghi
khắc sự thật này vào lòng. Đó là bạn vào dòng không
nhằm điều gì khác hơn là để đƣợc đẽo gọt và tôi luyện
trên đƣờng nhân đức, bạn chẳng khác nào khối đá cần bị
chẻ, bị chặt cho vừa vặn trƣớc khi có thể đem xây nhà.
Cho nên bạn cần hiểu rằng mọi ngƣời ở trong tu viện
đều là những tay thợ đục đá đƣợc Chúa đặt ở đó để đục,
để đẽo, để làm cho bạn chết luôn. Một số ngƣời sẽ giũa
bạn bằng lời nói, trút lên bạn những điều mà lẽ ra bạn
không nên nghe; một số ngƣời khác sẽ xài xể bạn bằng
việc làm, làm đủ thứ chuyện trái ngƣợc với bạn; một số
ngƣời khác lại hành hạ bạn bằng tính khí của họ, chỉ
nguyên thấy bộ mặt hoặc cách hành động của họ thôi cũng
đủ cho bạn bực bội chán ngán; và một số ngƣời khác lại
hành hạ bạn bằng tƣ tƣởng, chẳng kính trọng cũng chẳng
yêu thƣơng gì bạn.
Bạn phải gánh chịu những sự hành hạ và quấy rầy ấy
với sự kiên nhẫn bên trong, giữ thinh lặng vì lòng yêu mến
Chúa và hiểu rằng bạn vào trong dòng không nhằm
chuyện gì khác hơn là để cho thiên hạ hành xách bạn kiểu
đó, và có vậy bạn mới đáng hƣởng phúc thiên đàng. Nếu
bạn đi tu mà không nhắm chuyện đó thì đừng đi tu làm gì,
tốt hơn là cứ ở ngoài thế gian mà tìm kiếm tiện nghi, vinh
dự, danh giá và những sự dễ dãi khác.
305
4. Lời khuyên thứ hai này hoàn toàn cần thiết cho
một tu sĩ, để có thể chu toàn các nghĩa vụ bậc mình và tìm
đƣợc sự khiêm nhƣờng sâu thẳm, sự bình an nội tâm và
niềm vui trong Chúa Thánh Thần. Nếu bạn không làm
theo lời khuyên này, bạn sẽ không biết đƣợc làm sao để
thực sự là tu sĩ, cũng không biết đƣợc mình đi tu để làm
gì. Bạn cũng không biết đƣợc cách tìm kiếm Chúa Kitô
(nhƣng chỉ lo tìm kiếm chính mình), cũng chẳng tìm đƣợc
sự bình an tâm hồn, chẳng tránh đƣợc tội lỗi và thƣờng
không tránh khỏi cảm thấy bị âu lo.
Trong đời tu chẳng bao giờ thiếu thử thách, mà
Thiên Chúa cũng không muốn cho thiếu thử thách. Ngài
đã đem các linh hồn vào đó để thử thách và tôi luyện nhƣ
thử vàng trong lửa, thì việc họ gặp thử thách và cám dỗ do
ngƣời ta và do ma quỷ, việc họ bị lửa âu lo phiền muộn
nung nấu, là chuyện thƣờng.
Ngƣời tu sĩ cần phải trải qua những thử thách ấy, và
nên biết gánh chịu một cách kiên nhẫn và hợp với ý Chúa,
đừng miễn cƣỡng chấp nhận, kẻo thay vì đƣợc Chúa thử
luyện trong phiền muộn, lại thoái thác không chịu kiên trì
vác thập giá Chúa Kitô.
Bởi lẽ nhiều tu sĩ đã không hiểu rằng mình vào dòng
là để vác thập giá Chúa Kitô, cho nên đã không sống hài
hòa đƣợc với ngƣời khác. Những ngƣời ấy khi tới ngày
Chúa phán xét sẽ phải xấu hổ bẽ bàng.
5. Để thực hành lời khuyên thứ ba, liên hệ tới việc
tập nhân đức, bạn nên kiên trì sống đạo đức và sống trong
sự vâng phục, đừng bận tâm gì đến thế gian nhƣng chỉ bận
tâm đến Thiên Chúa. Để đạt đƣợc điều đó và tránh khỏi bị
thất vọng, bạn đừng bao giờ nên dán mắt vào chuyện công
306
việc mình làm khiến mình đƣợc thỏa mãn hay không, nhƣ
thể đó là động cơ khiến bạn làm điều ấy hoặc bỏ không
làm, nhƣng chỉ dán mắt vào chuyện mình làm việc ấy chì
vì Chúa. Nhƣ thế, bạn phải đảm nhận mọi chuyện, thích
thú hoặc không thích thú, chỉ vì một mục tiêu duy nhất là
làm đẹp lòng Thiên Chúa.
6. Để thực hiện điều ấy cách mạnh mẽ và kiên trì và
sớm đạt đƣợc các nhân đức, bạn nên luôn luôn lo sao để
hƣớng về cái khó hơn là hƣớng về cái dễ, hƣớng về cái
cứng cỏi sù sì hơn là cái mềm mại, hƣớng về cái gay go và
chán nản trong công việc hơn là hƣớng về những khía
cạnh hứng thú dễ chịu của nó, và đừng đi đến chỗ tìm cái
gì ít có vẻ thập giá hơn, vì thập giá là một gánh nhẹ nhàng
(x. Mt 11,30). Nên nhớ rằng một cái gánh nặng hơn sẽ trở
nên nhẹ hơn khi mình mang lấy vì Chúa Kitô.
7. Để thực hành lời khuyên thứ tƣ, liên hệ đến sự cô
tịch, bạn nên coi nhƣ thể mọi sự trên đời đều đã chấm dứt.
Nhƣ thế, mỗi khi vì không sao tránh đƣợc mà phải nhúng
tay vào chuyện gì, bạn sẽ làm một cách siêu thoát nhƣ thể
là không làm.
8. Đừng bận tâm gì đến chuyện thế gian, bởi lẽ
Thiên Chúa đã tách riêng bạn, đã giải thoát bạn khỏi
những chuyện ấy. Đừng có đích thân lo một chuyện gì mà
bạn có thể nhờ một ngƣời khác lo giúp. Tốt nhất là bạn
nên ao ƣớc sao để khỏi phải nhìn thấy ai và cũng không để
cho ai nhìn thấy bạn.
Hãy hết sức lƣu ý rằng nếu Chúa sẽ chất vấn mọi tín
hữu về những lời vô ích họ nói ra, thì Chúa còn nghiêm
khắc hơn biết bao đối với ngƣời tu sĩ đã tận hiến tất cả đời
307
sống và mọi công việc của mình cho Chúa. Vào ngày phán
xét, Thiên Chúa sẽ chất vấn về tất cả những điều đó.
9. Ở đây tôi không muốn nói rằng bạn hãy bỏ đừng
làm tròn tất cả các bổn phận bậc mình với tất cả sự tận tụy
cần có và với hết khả năng bạn, hoặc hãy bỏ một việc gì
mà đức vâng phục bảo bạn làm, nhƣng tôi chỉ muốn nói
rằng bạn hãy thi hành các trách vụ của bạn sao cho thật
hoàn hảo, không có một sai lỗi nào, bởi lẽ cả Thiên Chúa
và cả đức vâng phục đều không muốn bạn sai lỗi.
Do đó, bạn nên cố gắng để cầu nguyện không ngừng,
và ngay cả khi tập luyện thân thể cũng đừng bỏ việc cầu
nguyện. Dù bạn ăn, uống, nói, chuyện vãn với ngƣời đời
hay là làm bất cứ điều gì khác, bạn luôn nên làm nhƣ thế
với lòng khao khát Chúa và hƣớng hết lòng trí của bạn vào
Ngài. Điều đó hết sức cần thiết để có đƣợc sự cô tịch bên
trong, sự cô tịch này đòi hỏi linh hồn phải đẩy lùi bất cứ tƣ
tƣởng nào không trực tiếp hƣớng tới Thiên Chúa. Rồi hãy
quên hết mọi sự đang có hoặc đang xảy ra trong cuộc đời
ngắn ngủi và đáng thƣơng này, và đừng khao khát biết bất
cứ chuyện gì bằng bất cứ cách nào ngoại trừ một điều là
biết cách phụng sự Thiên Chúa cho tốt hơn và giữ luật
dòng cho tốt hơn.
10. Nếu bạn cẩn thận giữ bốn lời khuyên ấy, bạn sẽ
đạt tới hoàn thiện trong một thời gian ngắn. Các lời
khuyên này tuỳ thuộc lẫn nhau, cho nên nếu bạn bỏ một
điều nào trong bốn điều ấy, thì rồi bạn cũng sẽ đánh mất
những lợi ích mà lẽ ra bạn phải có đƣợc khi thực hành
những điều kia.
308
NHỮNG CẤP ĐỘ HOÀN THIỆN
1. Dù lợi đƣợc hết mọi sự trên thế gian cũng đừng vì
thế mà phạm một tội nào. Đừng phạm một tội cố tình nào,
dù nhẹ đến đâu. Điều mình đã biết là bất toàn thì đừng
làm.
2. Hãy cố gắng luôn sống trong sự hiện diện của
Thiên Chúa, sự hiện diện thật, sự hiện diện trong tâm
tƣởng hay sự hiện diện hiệp nhất, tùy thực tế công việc
cho phép.
3. Đừng làm gì hay nói gì mà nếu Đức Kitô ở trong
hoàn cảnh tôi, vào tuổi tôi và với sức khỏe nhƣ tôi, chắc
hẳn Ngài đã không làm.
4. Trong mọi sự hãy lo tìm cho Thiên Chúa đƣợc
danh dự lớn nhất và vinh quang lớn nhất.
5. Đừng vì bất cứ bận rộn nào mà bỏ tâm nguyện vì
đó là chỗ dựa nâng đỡ linh hồn.
6. Đừng vì bất cứ bận rộn nào mà bỏ việc xét mình,
cũng đừng quên buộc mình làm đôi việc đền tội khi lỗi bất
cứ điều gì.
7. Hãy hối tiếc sâu xa về bất cứ khoảnh khắc nào đã
bị mất hoặc đã qua đi mà không yêu mến Thiên Chúa.
309
8. Nơi mọi việc dù cao hay thấp, hãy luôn nhắm tới
cùng đích là Thiên Chúa, vì bạn không có cách nào khác
để lớn lên về công đức và sự hoàn thiện.
9. Đừng bao giờ bỏ cầu nguyện. Hãy coi sự khô khan
hoặc khó khăn nhƣ lý do khiến bạn phải kiên trì cầu
nguyện. Thƣờng thì Thiên Chúa muốn thấy linh hồn bạn
đã yêu mến Ngài tới mức nào rồi. Ngài không thử thách
tình yêu bằng sự dễ dãi hoặc sự thỏa lòng.
10. Cả trên thiên đàng cũng nhƣ dƣới trần thế, hãy
luôn chọn chỗ đứng cũng nhƣ phần việc thấp nhất và chót
hết.
11. Đừng xen mình vào điều gì ngƣời ta không bảo
bạn làm. Đừng cố chấp về bất cứ điều gì, cả khi bạn có lý.
Hãy coi chừng, nhƣ thiên hạ vẫn nói, đừng có “đƣợc đằng
chân, lân đằng đầu”. Nhiều ngƣời lầm to kiểu đó, cứ
tƣởng mình phải làm điều mà, nếu họ tỉnh táo, họ sẽ thấy
rằng chẳng có gì buộc phải làm.
12. Đừng bận tâm tới việc ngƣời khác, dù đó là việc
tốt hay việc xấu, vì chẳng những bạn sẽ có nguy cơ lỗi
phạm mà còn dễ bị chia trí và giảm sút nhiệt tình.
13. Hãy luôn cố gắng xƣng thú lỗi lầm cách rõ ràng,
chân thật và hết sức ý thức về sự khốn cùng của mình.
14. Dù gặp những bổn phận và nghĩa vụ khó khăn và
cay đắng, đừng nản lòng, vì mọi sự rồi sẽ qua đi. Sau khi
thử thách linh hồn ít lâu bằng cách biến lệnh truyền thành
nặng nề khó nhọc, Thiên Chúa sẽ cho linh hồn nếm đƣợc
phúc lành và ơn ích.
15. Hãy luôn nhớ rằng mọi sự xảy đến cho bạn, dù
vừa ý hay trái ý, đều do Thiên Chúa, thì bạn sẽ không tự
310
hào khi đƣợc thịnh đạt, cũng không nản lòng vì nghịch
cảnh.
16. Hãy luôn nhớ rằng bạn đến đây không vì lý do
nào khác hơn là để nên một vị thánh. Vì thế, đừng để điều
gì khiến bạn bận tâm mà lại không dẫn đƣa bạn tới sự
thánh thiện.
17. Hãy luôn sẵn sàng làm hài lòng ngƣời khác hơn
là hài lòng mình, thì bạn sẽ không còn ghen tị hay ích kỷ
đối với ngƣời bên cạnh. Hãy hiểu điều đó từ góc độ sự
hoàn thiện, vì Thiên Chúa phẫn nộ với những ai tìm làm
đẹp lòng ngƣời đời hơn đẹp lòng Thiên Chúa.
Soli Deo honor et gloria.
Chỉ để suy tôn và vinh danh một mình Thiên Chúa.
311
BẢN KIỂM XÉT VÀ NHẬN ĐỊNH
[Bản kiểm xét và nhận định của Thánh Gioan Thánh Giá về tinh thần
và tình trạng cầu nguyện của một đan nữ Cát Minh. Segovia, 1588-
1591.]
Lời giới thiệu
Vào thời cha Nicolás Doria làm đại diện Tổng quyền,
ngài nhờ Cha Gioan Thánh Giá khảo sát một bản tƣờng trình
do một nữ tu Cát Minh viết và cho nhận định về tinh thần của
chị này. Chúng ta không biết nữ tu này là ai, cũng không biết
chị ở cộng đoàn nào, chúng ta chỉ biết là đã có nhiều vị học
thức tán thành bản tƣờng trình của chị. Thế nhƣng cha Gioan
Thánh Giá sau khi đọc đã nêu ra năm khiếm khuyết trong đó
và đã cho một lƣợng giá tiêu cực về tinh thần của chị nữ tu,
qua bản nhận định dƣới đây mà ngài đã viết để trình cha đại
diện Tổng quyền. (Kieran Kavanaugh và Otilio Rodriguez)
Trong cung cách nặng cảm tính mà linh hồn này
đang theo, lộ ra năm khiếm khuyết khiến tôi không thể
cho là có tinh thần chân thật.
312
Trƣớc hết, hầu nhƣ ngƣời này mang nhiều ham
muốn chiếm hữu, đang khi tinh thần chân thật thì lúc nào
cũng trần trụi, không dính bén các thèm khát.
Thứ hai, ngƣời này quá tự tin và rất ít sợ bị sai lỗi
bên trong, mà khi ngƣời ta thiếu sự kính sợ này, Thần khí
Thiên Chúa không bao giờ đồng hành để giữ linh hồn cho
khỏi bị hại, nhƣ Hiền nhân xƣa đã nói (x. Cn 15,33; 16,6).
Thứ ba, hầu nhƣ chị này ao ƣớc thuyết phục ngƣời ta
cho rằng các kinh nghiệm của chị là tốt và đáng áp dụng
cho nhiều ngƣời. Những ngƣời có một tinh thần đích thật
thì không có não trạng ấy nhƣng, ngƣợc lại, ao ƣớc cho
kinh nghiệm mình bị đánh giá thấp và bị xem thƣờng, và
chính họ cũng tự đánh giá nhƣ thế.
Điều thứ tƣ và chính yếu là trong cung cách của chị
này, các hiệu quả của đức khiêm nhƣờng không lộ rõ. Khi
các đặc ân có tinh chân thật, nhƣ chị này nói ở đây, thì
chúng chẳng bao giờ đƣợc thông truyền cho một linh hồn
mà trƣớc hết lại không hƣ vô hóa linh hồn ấy bằng sự triệt
hạ từ bên trong để nó đƣợc khiêm nhƣờng. Nếu những đặc
ân chị này nghĩ mình có, đã phát sinh hiệu quả ấy nơi chị,
hẳn chị đã không quên nói đôi điều về nó ở đây, thậm chí
còn nói nhiều là khác. Vì, trong những trƣờng hợp tƣơng
tự, chính tâm tình khiêm nhƣờng là điều đầu tiên linh hồn
nôn nóng muốn nói và nói rõ; hiệu quả của lòng khiêm
nhƣờng nơi những tâm tình ấy thƣờng mạnh đến độ ngƣời
ta không thể che giấu đƣợc. Vì mặc dù có thể không phải
nơi mọi nhận thức về Thiên Chúa chúng đều quá nổi bật
nhƣ thế, tuy nhiên những nhận thức mà ở đây chị ấy gọi là
ơn hiệp nhất chẳng bao giờ lại vắng những hiệu quả ấy
của lòng khiêm nhƣờng: “Đức khiêm tốn đem lại vinh
313
quang” (Cn 18,12). “Đau khổ quả là điều hữu ích, để
giúp con học biết thánh chỉ Ngài” (Tv 118/119,71).
Thứ năm, giọng văn và lối nói của chị này không có
vẻ gì là đến từ cái tinh thần mà chị muốn cho thấy, bởi lẽ
tinh thần chân thật tự nó luôn dạy cho ngƣời ta dùng lối
nói đơn giản, không màu mè hoặc phóng đại nhƣ chị dùng
ở đây. Và tất cả những điều mà “chị đã nói với Chúa” hay
“Chúa đã nói với chị” ở đây đều có vẻ lủng củng.
Tôi xin khuyến cáo là không nên yêu cầu hoặc cho
phép chị viết gì về việc này, và cha giải tội của chị không
nên tỏ ra là muốn nghe chị nói về chuyện đó, tốt hơn nên
đánh giá thấp và nói ngƣợc lại. Cần thử thách chị, buộc
chị luyện tập những nhân đức có vẻ khô khẳng, cách riêng
là tự khinh chê mình, sống khiêm nhƣờng và vâng phục.
Nếu những đặc ân ấy có thật, chúng sẽ gây nên nơi linh
hồn ấy sự thuận phục; đây chính là viên đá thử vàng. Và
phải thử thách thật cứng rắn, vì đã nhắm tới cái vinh dự ấy
thì không có thứ quỷ nào mà không sẵn lòng chịu đấm ăn
xôi.
314
MỤC LỤC
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ THÁNH GIOAN THÁNH GIÁ 16
DẪN VÀO VIỆC ĐỌC CÁC TÁC PHẨM CỦA THÁNH GIOAN
THÁNH GIÁ 71 Lm Lucien Marie de Saint Joseph, ocd 71 GHI CHÚ 119
NHỮNG BÀI THƠ 122
DẪN VÀO CÁC BÀI THƠ 123 1. Các bài thơ và lịch sử 123 2. Những bài thơ và văn chƣơng 129 3. Giáo thuyết của các bài thơ 138
ĐÊM DÀY 162 NHỮNG CA KHÖC TÂM LINH PHIÊN BẢN A 165 NHỮNG CA KHÖC TÂM LINH PHIÊN BẢN B 173
NGỌN LỬA NỒNG 182
ĐOẢN KHÖC 1 184
ĐOẢN KHÖC 2 188
ĐOẢN KHÖC 3 192
CHÖ BÉ CHĂN CỪU 195
DÕNG SUỐI 198
ĐIỂM TỰA 202
ĐIỀU TÌNH CỜ GẶP ĐƢỢC 205
CÁC TÌNH KHÚC 210 Tình khúc 1 VỀ ĐOẠN TIN MỪNG “LÖC KHỞI NGUYÊN ĐÃ CÓ
LỜI”TRONG LIÊN HỆ VỚI BA NGÔI CHÍ THÁNH. 212 Tình khúc 2 VỀ SỰ CHUYỂN THÔNG GIỮA BA NGÔI 215 Tình khúc 3 VỀ SÁNG TẠO 217 Tình khúc 4 VỀ SÁNG TẠO (tiếp theo) 219 Tình khúc 5 NHỮNG KHÁT VỌNG CỦA CÁC TỔ PHỤ 224 Tình khúc 6 NHỮNG KHÁT VỌNG CỦA CÁC TỔ PHỤ (tiếp theo)
226 Tình khúc 7 VỀ NHẬP THỂ 228 Tình khúc 8 VỀ NHẬP THỂ (tiếp theo) 231
315
Tình khúc 9 GIÁNG SINH 233 Tình khúc 10 MỘT TÌNH KHÖC KHÁC VỀ THÁNH VỊNH “TRÊN
SÔNG BABYLON‟ 235
NHỮNG CHÂM NGÔN CỦA ÁNH SÁNG VÀ TÌNH YÊU 239
LỜI DẪN NHẬP 240 GHI CHÚ 257
LỜI MỞ ĐẦU 258 1. PHẦN GHI LẠI THEO THỦ BÖT ANDUJAR 259 LỜI NGUYỆN CỦA LINH HỒN SAY ĐẮM 263 2. NHỮNG ĐIỂM YÊU 273 3. NHỮNG CHÂM NGÔN GOM GÓP DO CHỊ MAĐALÊNA CỦA
CHÚA THÁNH LINH, ĐAN NỮ CÁT MINH CHÂN TRẦN Ở ĐAN
VIỆN BÉAS 285 4. NHỮNG LỜI KHUYÊN DO CHỊ MARIA CỦA CHÖA GIÊSU
NHỚ ĐƢỢC 287 5. NHỮNG LỜI KHUYÊN KHÁC 288
316
NHỮNG BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG 290
NHỮNG LỜI KHUYÊN GỞI MỘT TU SĨ NHẰM GIÖP ĐẠT TỚI
HOÀN THIỆN 302 NHỮNG CẤP ĐỘ HOÀN THIỆN 308 BẢN KIỂM XÉT VÀ NHẬN ĐỊNH 311