tìm hiểu về lãi suất và chính sách lãi suất của việt...
TRANSCRIPT
LUẬN VĂN:
Tìm hiểu về lãi suất và chính
sách lãi suất của Việt Nam
Lời mở đầu
Trong nền kinh tế thị trường lãi suất là một trong những biến số được theo dõi
một cách chặt chẽ nhất bởi nó có quan hệ mật thiết đối với lợi ích kinh tế của từng
người trong xã hội. Lãi suất tác động đến quyết định của mỗi cá nhân: chi tiêu hay
tiết kiệm để đầu tư. Sự thay đổi của lãi suất có thể dẫn tới sự thay đổi quyết định
của mỗi doanh nghiệp: vay để mở rộng sản xuất, hoặc đầu tư vào đâu có lợi nhất.
Thông qua những quyết định của cá nhân, doanh nghiệp lãi suất ảnh hưởng đến
mức độ phát triển cũng như cơ cấu của nền kinh tế đất nước.
Công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta trong hơn mười năm qua đã tạo cho đất
nước bộ mặt mới, sức sống mới. Những thành tựu đạt được trên các mặt đã đưa
nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, nâng cao vị thế Việt Nam trên
trường quốc tế, từ đó tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới của đất nước - giai
đoạn phát triển không chỉ theo chiều rộng mà còn hướng tới chiều sâu. Trong công
cuộc đổi mới nền kinh tế, ý thức được lãi suất là công cụ quan trọng để điều hành
chính sách tiền tệ quốc gia, Chính phủ, Ngân hàng nhà nước đã có những bước cải
cách quan trọng về lãi suất để tiến dần tới tự do hoá hoàn toàn lãi suất ở nước ta -
đáp ứng đòi hỏi mang tính tất yếu của nền kinh tế thị trường. Lãi suất bước đầu đã
điều chỉnh theo yêu cầu của thị trường, chế độ kiểm soát lãi suất cứng nhắc dần
được nới lỏng, ngày càng trở nên linh hoạt. Tuy nhiên, hiện nay việc xây dựng và
thực thi một chính sách lãi suất tiến tới tự do hoá trên cơ sở vừa đảm bảo được sự
kiểm soát của nhà nước đối với thị trường nhằm phù hợp với mục tiêu và diễn biến
của các biến kinh tế vĩ mô, với thực trạng thị trường tài chính trong nước đang là
một bài toán khó đối với các nhà hoạch định chính sách.
Xuất phát từ những lý do trên, em đã lựa chọn đề tài: “Tìm hiểu về lãi suất và
chính sách lãi suất của Việt Nam”. Đề án gồm ba chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về lãi suất.
Chương II:Thực trạng lãi suất ở Việt Nam trong thời gian qua.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện chính sách lãi suất ở Việt Nam - Tự do
hoá lãi suất.
Thông qua việc sử dụng các kênh thông tin thứ cấp: sách, báo, tạp chí... với
phương pháp thống kê, phân tích kinh tế, tổng hợp, so sánh số liệu. Bằng cách kết
hợp việc nghiờn cứu lý thuyết và thực tế, thực trạng của nền kinh tế, của chớnh sỏch
lói suất ở Việt Nam. Mục đích của đề án là trình bày rõ lý luận về lãi suất trên
phương diện chung, từ đó đi nghiên cứu các chính sách lãi suất đã sử dụng ở Việt
Nam nhằm thấy rõ những ưu điểm và các mặt hạn chế của từng chính sách qua đó
có thể rút ra những bài học để hoàn thiện chính sách lãi suất ở Việt Nam, giải pháp
để tiến hành tự do hoá lãi suất.
Chương I:
cơ sở lý luận về lãi suất
1. Khái niệm về lãi suất.
1.1Khái niêm về lãi suât.
* Theo quan điểm của K.Marx: “Lãi suất là phần giá trị thặng dư được tạo ra do
kết quả bóc lột lao động làm thuê bị tư bản - chủ ngân hàng chiếm đoạt”.
Như vậy theo K.Marx lãi suất có nguồn gốc từ lợi nhuận, là một bộ phận của lợi
nhuận. Tuy nhiên, ta thấy phạm vi đề cập của K.Marx chỉ ở phạm vi của quan hệ
cho vay và đi vay do sự phát triển hạn chế của các quan hệ tài chính, tiền tệ ở thời
kỳ đó.
* Quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại cho rằng:“Lãi suất chính là sự trả
công cho số tiền vay, là phần thưởng cho “sở thích chi tiêu tư bản”. lãi suất do đó
còn được gọi là sự trả công cho sự chia lìa với của cải, tiền tệ.” (J.M. Keynes). Nói
một cách khác lãi suất chính là chi phí cơ hội của việc giữ tiền, là kết quả của hoạt
động tiền tệ.
Quan điểm coi lãi suất là kết quả của hoạt động tiền tệ, là chi phí cơ hội của
việc giữ tiền có thể nói là một bước tiến lớn trong việc xác định các hình thức biểu
hiện và những nhân tố tác động tới lãi suất.
Tóm lại, lãi suất được hiểu theo một nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng-giá
cả của quan hệ vay mượn hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền
tệ hoặc các dạng thức tài sản khác nhau. Khi đến hạn, người đi vay sẽ phải trả cho
người cho vay một khoản tiền dôi ra ngoài số tiền vốn gọi là tiền lãi. Tỷ lệ phần
trăm của số tiền lãi trên số tiền vốn gọi là lãi suất (World Bank).
1.2.Vai trò cua lãi suất
Lãi suất là một công cụ điều tiết cho vay kinh tế rất nhạy bén và hiệu quả: thông
qua việc thay đổi mức và cơ cấu lãi suất trong từng thời kỳ nhất định, chính phủ có
thể tác động đến quy mô và tỷ trọng vốn đầu tư ,do vậy nó có thể tác động vào quá
trình điều chỉnh cơ cấu; đến tốc độ tăng trưởng, sản lượng, tỷ lệ thất nghiệp và tình
trạng lạm phát trong nước. Hơn thế nữa, trong những điều kiện nhất định của nền
kinh tế mở ,chính sách lãi suất còn được sử dụng như một công cụ góp phần điều
tiết đối với các luồng vốn đi vào hay đi ra đối với một nước, tác động đến tỷ giá và
điều tiết sự ổn định của tỷ giá.Điếu này không những tác động đến đầu tư phát triển
kinh tế mà còn tác động trực tiếp đến cán cân thanh toán và các quan hệ thương mại
quốc tế của nước đó đối với nước ngoài.
Lãi suất là công cụ điều tiết đối với thị trường : thị trường hàng hoá, thị trường
tài chính.Đối với thi trường hàng hoá khi giá cả tăng lên thì nhà nước điều tiết giá cả
xuống bằng cách cho vay đối với người sản xuất hàng hoá đó khi đó cung hàng hoá
tăng dẫn đến giá cả giảm. Còn đối với thị trường tài chính là nơi diễn ra hoạt động
mua bán vốn mà giá cả ở đây chính là lãi suất.
Lãi suất là cơ sở để cho các cá nhân các doanh nghiệp đưa ra các quyết định
kinh tế của mình như :chi tiêu hay tiết kiệm ; đầu tư số vốn vào danh muc đầu tư
này hay danh mục đầu tư khác.Lãi suất còn là cơ sở để củng cố hạch toán kinh
tế.Lãi suất là một khoản chi phí cộng với chi phí sản suất khác từ đó ta có được tổng
chi phí.
1.3. Các loại lãi suất cơ bản và phương pháp đo lường.
a. Lãi suất đơn.
Vay đơn là cung cấp cho người vay một khoản tiền vốn, vốn này phải được
hoàn trả người cho vay vào ngày mãn hạn cùng với một khoản tiền phụ được gọi là
tiền lãi.
Đối với những khoản tín dụng được thực hiện dưới hình thức vay đơn, lãi suất
được gọi là lãi suất đơn.
Phương pháp tính lãi suất đơn:
Tiền lãi
Lãi suất đơn = ----------------
Tổng số vốn
Như vậy ta thấy việc tính toán lãi suất đơn rất đơn giản và thông thường được
áp dụng trong các món vay thương mại có thời hạn ngắn hơn một năm hay là thời
hạn cho vay trùng khít với chu kỳ tính lãi.
b. Lãi suất tích hợp.
Từ việc xem xét lãi suất đơn ta thấy nảy sinh vấn đề: nếu chúng ta tham gia vào
một quan hệ tín dụng dài hạn hơn, 2 hoặc nhiều năm, trong đó chu kỳ tính lãi lại
thường là một năm hoặc thậm chí ít hơn, tức là chu kỳ tính lãi nhỏ hơn thời gian tín
dụng mà lại áp dụng cách tính toán trên đây thì, một là mặc nhiên đã có sự thừa
nhận một mức lãi suất giống nhau giữa các thời kỳ khác nhau, và hai là chúng ta đã
không tính toán đầy đủ giá trị của việc sử dụng số tiền vốn dĩ đã lớn hơn số tiền gốc
ban đầu do khoản tiền lãi của chu kỳ tính lãi hoặc năm trước đó đem lại. Chính vì lẽ
đó lãi suất tích họp được coi là công bằng và chính xác hơn trong việc đo lường lãi
suất đối với các món vay dài hạn.
Lãi suất tích hợp là loại lãi suất tính cho các khoản vay mà thời gian tín dụng
chia làm nhiều chu kỳ tính lãi, ở chu kỳ tính lãi đầu tiên lãi suất tích họp được tính
toán dựa trên cơ sở lãi suất đơn, nhưng từ chu kỳ tính lãi thứ hai trong thời hạn tín
dụng do số vốn tín dụng thực tế đã được tích luỹ thêm phần tiền lãi của chu kỳ
trước nên lãi suất đơn tính cho các chu kỳ sau sẽ lớn hơn chu kỳ đầu và “tích hợp”
lại chúng ta sẽ có một mức lãi suất cho suốt thời kỳ khác so với mức lãi suất đơn
ban đầu. Một cách đơn giản, chúng ta có thể hiểu lãi suất tích họp là lãi suất có tính
đến yếu tố “lãi mẹ đẻ lãi con”.
Phương thức đo lường lãi suất tích họp:
it = (1+i)1/t -1
Trong đó: - it là lãi suất tích hợp tại chu kỳ tính lãi bất kỳ (t) nào đó.
- i là lãi suất đơn hàng năm.
c. Lãi suất hoàn vốn.
Lãi suất hoàn vốn là lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh toán
nhận được từ một khoản tín dụng với giá trị hôm nay của khoản tín dụng đó.
Lãi suất hoàn vốn thường được áp dụng đối với các khoản tín dụng mà việc trả
vốn và lãi theo định kỳ hoặc trả một khoản cố định theo định kỳ, chẳng hạn vay cố
định hoặc trái phiếu coupon.
Phương pháp tính:
- Trường hợp thời hạn tín dụng là n năm ta có
PV*(1+i)n =FVn hay PV=FVn/(1+i)n
Trong đó - PV: giá trị hiện tại
- FVn: giá trị tương lai sẽ được thanh toán của số tiền sau thời gian
tín dụng.
-Trường hợp những khoản tín dụng trả từng phần cố định vào thời điểm cuối
mỗi năm trong suốt thời kỳ tín dụng thì ta có:
PV=FP/(1+i)1+FP/(1+i)2+…+FP/(1+i)n
Trong đó FP: khoản thanh toán hàng năm đã biết.
Để tính lãi suất hoàn vốn (i) ta phải giải các phương trình trên.
- Đối với trái phiếu Coupon, người sở hữu trái phiếu Coupon sẽ được thanh toán
số lợi nhuận ở dạng tiền Coupon cố định hàng năm và đến năm cuối cùng của kỳ
hạn sẽ nhận nốt số Coupon cuối cùng và toàn bộ tiền vốn. Do đó ta có:
PV = C/(1+i)1 + C/(1+i)2 + … + C/(1+i)n + F/(1+i)n
Trong đó: - C là số tiền coupon cố định nhận được hàng năm.
- F là số tiền vốn nhận được vào năm cuối cùng của kỳ hạn.
Giải phương trình trên ta được lãi suất hoàn vốn (i) của trái phiếu Coupon.
Việc giải các phương trình trên được thực nhờ các phần mềm tính toán của máy
tính hoặc tra bảng.
Nhằm làm đơn giản việc tính toán lãi suất hoàn vốn của các trái phiếu trên
thương trường một cách nhanh chóng, ngay cả khi không có máy tính cá nhân và
bảng số, hai hình thức vận dụng lãi suất hoàn vốn là lãi suất hoàn vốn hiện hành và
lãi suất hoàn vốn trên cơ sở tính giảm.
*Lãi suất hoàn vốn hiện hành.
Phương pháp tính: bằng tỷ số giữa tiền thanh toán coupon hàng năm với giá của
trái phiếu đó.
ic = C/Pcb
Trong đó: - ic là lãi suất hoàn vốn hiện hành của trái phiếu coupon.
- Pcb là giá của trái phiếu coupon.
- C là tiền coupon hàng năm.
*Lãi suất hoàn vốn trên cơ sở tính giảm.
Sử dụng cho các loại trái phiếu chiết khấu hay tính giảm, tức là để trả thu nhập
cho người mua người ta bán trái phiếu với giá thấp hơn mệnh giá của nó. Để đơn
giản người ta tính tỷ suất lợi nhuận của trái phiếu và coi tỷ suất đó như là lãi suất
hoàn vốn:
itg = {(F - Ptg)/F}(360/N)
Trong đó: - itg là lãi suất hoàn vốn trên cơ sở tính giảm.
- F là mệnh giá của trái phiếu tính giảm.
- Ptg là giá bán trái phiếu.
- N số ngày tới khi đến hạn thanh toán của trái phiếu.
1.4. Một số phân biệt về lãi suất.
a. Lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa.
Tỷ lệ lạm phát hay tỷ lệ trượt giá của đồng tiền trong một thời gian nhất định
luôn làm cho giá trị thực trở nên nhỏ hơn giá trị danh nghĩa. Vì vậy, lãi suất thực
luôn nhỏ hơn lãi suất danh nghĩa bởi tỷ lệ lạm phát nói trên.
- Trường hợp tỷ lệ lạm phát (ii) không lớn hơn 10% thì lãi suất thực và lãi suất
danh nghĩa có liên hệ với nhau qua công thức:
ir = in + ii
Trong đó: - ir là lãi suất thực
- in là lãi suất danh nghĩa
- ii là tỷ lệ lạm phát
- Trường hợp tỷ lệ lạm phát ii cao hơn 10% thì lãi suất thực phải tính theo công
thức sau:
in - ii
ir = –
ii + 1
Ta thấy tỷ lệ lạm phát càng cao, lãi suất thực càng thấp.
b. Lãi suất và tỷ suất lợi tức.
Lãi suất là tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi trên số tiền vốn cho vay.
Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ phần trăm của số thu nhập của người có vốn trên tổng số
vốn anh ta đã đưa vào sử dụng (đầu tư hay cho vay).
- Ví dụ về lãi suất và tỷ suất lợi tức: Ông A mua một trái phiếu kho bạc có thời
hạn là 1 năm, mệnh giá là 1.000.000 VND với lãi suất cố định là 6% năm. Nếu ông
A giữ trái phiếu đó cho đến ngày đáo hạn và nhận khoản thu nhập bằng 6% mệnh
giá trái phiếu và đúng bằng lãi suất của trái phiếu. Nhưng nếu lãi suất trên thị
trường là 5%, ông A đem bán trái phiếu này và thu được 1.200.000 VND, thì lúc
này khoản thu nhập của ông A là 200.000 VND và tỷ suất lợi tức là 20%.
Như vậy, lãi suất không nhất thiết phải bằng với tỷ suất lợi tức. Trong hoạt
động cho vay của các tổ chức tín dụng, ngoài một tỷ lệ lãi nhất định các tổ chức này
còn đòi hỏi người vay tiền phải trả thêm các khoản phí, và do đó, tổng thu nhập từ
những khoản cho vay không chỉ là phần tiền lãi có được do lãi suất cho vay mang
lại mà còn cộng thêm các khoản chi phí trên. Tỷ lệ % của tổng thu nhập (còn gọi là
chi phí tài chính đối với người đi vay) trên số vốn cho vay chính là tỷ suất lợi tức
hay lãi suất hiệu quả của tổ chức tín dụng.
c. Các lãi suất cơ bản của ngân hàng.
Ba loại lãi suất cơ bản của ngân hàng thường được quan tâm hơn cả bao gồm lãi
suất tiền gửi, lãi suất cho vay và lãi suất liên ngân hàng.
- Lãi suất tiền gửi thông thường là lãi suất mà ngân hàng thương mại (NHTM)
trả cho người gửi tiền trên số tiền ở tài khoản tiền tiết kiệm, lãi suất tiền gửi được
xác định thông qua công thức:
itg = icb + ii
Trong đó: - itg là lãi suất tiền gửi.
- icb là tỷ lệ lãi cơ bản của ngân hàng trả cho từng loại tiền gửi khác
nhau.
- Lãi suất cho vay là lãi suất mà ngân hàng cho các cá nhân, tổ chức vay vốn
trong thời hạn nhất định, tuỳ theo tính chất của món vay và thời gian vay vốn mà lãi
suất cho vay được xác định khác nhau, tuy vậy lãi suất cho vay thường được xác
định dựa trên cơ sở của lãi suất tiền gửi:
icv = itg + X
Trong đó: - icv là lãi suất cho vay.
- X là chi phí nghiệp vụ của ngân hàng.
- Lãi suất liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng cho nhau vay tiền tệ như
lãi suất LIBOR hay PIBOR... tương ứng với lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân
hàng London hay Paris...
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất.
2.1. Cung và cầu về vốn.
Lãi suất là giá cả của cho vay chính vì vậy bất kỳ sự thay đổi nào của cung và
cầu về vốn không cùng một tỷ lệ đều sẽ làm thay đổi mức lãi suất trên thị trường
Từ đó cho thấy ta có thể điều chỉnh mức lãi suất trên thị trường bằng cách tác
động vào cung cầu vốn trên thị trường mặt khác muốn duy trì sự ổn định của lãi
suất thì sự ổn định của thị trường vốn phải được đảm bảo vững chắc.
2.2. Lạm phát kỳ vọng.
Khi mức lạm phát được dự đoán sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó, lãi suất sẽ
có xu hướng tăng lên (hiệu ứng Fisher).
Nguyên nhân:
- Xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa cho thấy để
duy trì lãi suất thưc không đổi, tỷ lệ lạm phát tăng đòi hỏi lãi suất danh nghĩa phải
tăng lên tương ứng.
- Công chúng dự đoán lạm phát tăng sẽ dành phần tiết kiệm của mình cho việc
dự trữ hàng hoá hoặc những dạng thức tài sản phi tài chính khác như vàng, ngoại tệ
mạnh… chính điều này sẽ làm giảm cung quỹ cho vay và gây áp lực tăng lãi suất
của các ngân hàng cũng như trên thị trường.
2.3. Bội chi Ngân sách.
Ngân sách Nhà nước vừa là nguồn cung tiền gửi vừa là nguồn cầu tiền vay đối
với ngân hàng. Do đó, sự thay đổi giữa thu, chi ngân sách Nhà nước là một trong
những nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất. Ngân sách bội chi hay thu không kịp tiến độ
sẽ dẫn đến lãi suất tăng. Để bù đắp, chính phủ sẽ vay dân bằng cách phát hành trái
phiếu. Như vậy lượng tiền trong dân chúng sẽ bị thu hẹp làm tăng lãi suất.
Ngoài ra khi thâm hụt ngân sách đã trực tiếp làm cầu về quỹ cho vay trong các
định chế tài chính tăng lên, trong khi cung lại giảm và nâng cao lãi suất hoặc người
dân dự đoán lạm phát sẽ tăng cao do Nhà nước tăng khối lượng cung ứng tiền tệ,
dẫn tới việc găm tiền lại để mua tài sản khác làm cung quỹ cho vay bị giảm một
cách tương ứng và lãi suất tăng lên.
2.4. Những thay đổi về thuế.
Thuế thu nhập cá nhân và thuế lợi tức công ty khi tăng lên có nghĩa là điều tiết
đi một phần thu nhập của những cá nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng hay
những người tham gia kinh doanh chứng khoán. Mọi người đều quan tâm tới lợi
nhuận sau thuế hay thu nhập thực tế hơn là thu nhập danh nghĩa do đó để đảm bảo
mức lợi nhuận thực tế họ phải cộng thêm vào lãi suất cho vay những thay đổi của
thuế.
2.5. Tỷ giá.
Tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước khác.
Tỷ giá do quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định và chịu ảnh hưởng
của nhiều nhân tố như cán cân thanh toán quốc tế, cung cầu ngoại tệ, lạm phát…
trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay làm cho không một quốc gia nào, nếu muốn tồn
tại và phát triển, lại không tham gia thực hiện phân công lao động và thương mại
quốc tế. Thông qua quá trình trao đổi buôn bán giữa các nước, tỷ giá (tỷ giá được
niêm yết theo phương pháp biểu hiện trực tiếp) của một nước tăng, xuất khẩu tăng
lên nguồn thu ngoại tệ tăng lên. Điều đó làm tăng cung ngoại tệ, tương đương với
việc tăng cầu nội tệ kết quả là làm lãi suất tăng lên.
Bằng cách lập luận tương tự, chúng ta sẽ thu được một mức lãi suất nội tệ thấp
hơn nếu tỷ giá giảm, đồng nội tệ có giá hơn. Tóm lại, khi mức giá của đồng tiền một
nước so với các nước khác giảm xuống thì một ước đoán hợp lý là lãi suất trong
nước sẽ tăng lên và ngược lại.
2.6. Những thay đổi trong đời sống xã hội.
Ngoài những yếu tố ở trên, lãi suất còn rất nhạy cảm với những biến đổi của
tình hình kinh tế, chính trị cũng như những biến động tài chính quốc tế như các
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới...
Từ cuối năm 2000, nền kinh tế Mỹ rơi vào tỡnh trạng suy thoỏi. Cỏc nền kinh tế
lớn khỏc trờn thế giới : Tõy Âu, Nhật Bản,... cũng rơi vào tỡnh trạng trỡ trệ. Để cứu
vón xu thế đó, từ ngày 4-1-2001, Cục dự trữ liên bang Mỹ - FED (Ngân hàng trung
ương của nước này) đó 11 lần hạ lói suất chủ đạo của mỡnh, từ 6,5%/năm (trước
tháng 1-2001) lần lượt xuống cũn 1,75%/thỏng (từ 12-12-2001), thấp nhất trong
vũng hơn 30 năm qua trong lịch sử nền kinh tế Mỹ. Ngân hàng trung ương Nhật
Bản (BOJ) hạ lói suất của mỡnh xuống bằng 0. Ngân hàng trung ương châu Âu
(ECB) cũng nhiều lần hạ lói suất của mỡnh... Tỏc động dây chuyền của lói suất trờn
cỏc thị trường chủ chốt của thế giới : Thị trường liên ngân hàng Luân Đôn
(LIBOR), Thị trường liên ngân hàng Xin-ga-po (SIBOR),... cũng liên tục giảm. Ở
Việt Nam, để hạn chế tác động tiêu cực của xu hướng suy giảm nền kinh tế toàn cầu
từ đầu năm 2001 đến nay, ngân hàng nhà nước (NHNN) đó cắt giảm lói suất cơ bản
đối với đồng Việt Nam (VND) tới 4 lần, từ mức 0,75%/tháng, xuống cũn 0,725%,
0,65% và 0,60%/tháng (từ 1-11-2001) ; đồng thời, 2 lần cắt giảm lói suất tỏi cấp
vốn, từ mức 0,50% xuống 0,45%/thỏng rồi 0,40%, 2 lần cắt giảm lói suất tỏi chiết
khấu từ 0,45%/thỏng xuống 0,40% rồi 0,35%.
3. ảnh hưởng của lãi suất trong nền kinh tế.
3.1. Lãi suất với quá trình huy động vốn.
Đối với Việt Nam trên con đường phát triển kinh tế thì vấn đề tích luỹ và sử
dụng vốn có tầm quan trọng đặc biệt cả về phương pháp nhận thức và chỉ đạo thực
tiễn. Vì vậy chính sách lãi suất có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động
nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và các tổ chức kinh tế đảm bảo đúng định hướng
vốn trong nước là quyết định, vốn ngoài nước là quan trọng trong chiến lược CNH-
HĐH nước ta hiện nay.
Việc áp dụng một chính sách lãi suất hợp lý đảm bảo nguyên tắc: lãi suất phải
bảo tồn được giá trị vốn vay, đảm bảo tích luỹ cho cả người cho vay và người đi
vay. Cụ thể:
+ Tỷ lệ lạm phát< lãi suất tiền gửi < lãi suất tiền vay < tỷ suất lợi nhuận bình
quân.
+ Lãi suất ngắn hạn < lãi suất dài hạn (đối với cả tiền gửi và tiền vay)
Lãi suất có khả năng điều tiết một cách tự nhiên lượng vốn lưu thông từ nơi
thừa đến nơi thiếu, từ người có vốn sang người cần vốn để đưa vốn vào sử dụng
trong các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh có lợi cho nền kinh tế và xã hội. Mức
lãi suất nhỏ hơn mức hợp lí sẽ khiến người vay đánh giá thấp giá trị sử dụng của
đồng vốn dẫn đến đầu tư không hiệu quả, lãng phí nguồn vốn, gây thiệt hại cho bản
thân người đi vay lẫn người cho vay và hơn nữa, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh
tế. Ngược lại, mức lãi suất cao hơn mức hợp lí tức là đánh giá quá cao giá trị sử
dụng của đồng vốn thì chỉ có tác dụng khuyến khích người cho vay, làm cho vốn trở
nên dư thừa, ứ đọng, không được đầu tư vào sản xuất kinh doanh, không sinh lãi,
lúc đó đồng vốn trở thành “vốn chết” không còn tác dụng gì nữa.
3.2. Lãi suất với quá trình đầu tư.
Quá trình đầu tư của doanh nghiệp vào tài sản cố định được thực hiện khi mà
họ dự tính lợi nhuận thu được từ tài sản cố định này nhiều hơn số lãi phải trả cho
các khoản đi vay để đầu tư. Do đó khi lãi suất xuống thấp các hãng kinh doanh có
điều kiện tiến hành mở rộng đầu tư và ngược lại. Trong môi trường tiền tệ hoàn
chỉnh, ngay cả khi một doanh nghiệp thừa vốn thì chi tiêu đầu tư có kế hoạch vẫn bị
ảnh hưởng bởi lãi suất, bởi vì thay cho việc đầu tư vào mở rộng sản xuất doanh
nghiệp có thể mua chứng khoán hay gửi vào ngân hàng nếu lãi suất của nó cao.
Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế bị đình trệ, hàng hoá ứ đọng và xuống giá, có
dấu hiệu thừa vốn và áp lực lạm phát thấp cần phải hạ lãi suất vì nguyên tắc cơ bản
là lãi suất phải nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của đầu tư, sự chênh lệch này sẽ tạo
động lực cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô đầu tư.
3.3. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm.
Thu nhập của một hộ gia đình thường được chia thành hai bộ phận: tiêu dùng và
tiết kiệm. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập, vấn đề
hàng hoá lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm trong đó lãi suất có
tác dụng tích cực tới các nhân tố đó.
Khi lãi suất thấp chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay nhiều cho việc
tiêu dùng hàng hoá nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn, khi lãi suất cao đem lại thu nhập
từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, do đó tiết kiệm tăng.
3.4. Lãi suất với tỷ giá và hoạt động xuất nhập khẩu.
Như ta đã biết, tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ
của nước khác. Tỷ giá do quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định và
chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như cán cân thanh toán quốc tế, cung cầu ngoại
tệ, lạm phát…Lãi suất luôn là một công cụ tác động mạnh đến tỷ giá và hoạt động
xuất nhập khẩu. Trong điều kiện thị trường mở, nếu lãi suất (lãi suất thực tế) trong
nước tăng sẽ thu hút một lượng vốn lớn từ bên ngoài vào làm cho cầu nội tệ tăng lên
dẫn đến giảm tỷ giá, tỷ giá giảm sẽ khiến cho xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng và
ngược lại.
Như vậy, bằng việc tác động vào lãi suất có thể bình ổn được tỷ giá và điều
chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu. Đây là một phương pháp điều chỉnh tỷ giá đơn
giản tuy nhiên lại không dễ thực hiện do khi lãi suất trong nước thay đổi sẽ dễ dẫn
đến một cuộc cạnh tranh về lãi suất giữa các nước nhằm đảm bảo lợi ích cho nước
mình. Mặt khác lãi suất cũng là một công cụ quá mạnh có thể ảnh hưởng đến hàng
loạt biến kinh tế vĩ mô khác do đó việc sử dụng chính sách lãi suất phải hết sức thận
trọng.
3.5. Lãi suất với lạm phát.
Lạm phát là tình trạng tăng liên tục mức giá chung của nền kinh tế do nhiều
nguyên nhân khác nhau. Trong thời kỳ lạm phát, tăng lãi suất sẽ cho phép hệ thống
ngân hàng có thể thu hút phần lớn số tiền có nhiều trong lưu thông khiến cho đồng
tiền trong lưu thông giảm, cơ số tiền và lượng tiền cung ứng giảm, lạm phát được
kiềm chế. Như vậy, lãi suất cũng góp phần chống lạm phát. Tuy nhiên, việc sử dụng
công cụ lãi suất trong chống lạm phát không thể duy trì lâu dài vì lãi suất tăng sẽ
làm giảm đầu tư, giảm tổng cầu và làm giảm sản lượng. Do vậy lãi suất phải được
sử dụng kết hợp với các công cụ khác thì mới có thể kiểm soát được lạm phát, ổn
định giá cả, ổn định đồng tiền. Một chính sách lãi suất phù hợp là sự cần thiết cho
sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế.
Chương II
chính sách lãi suất củaViệt Nam
1. Trước tháng 3/1989.
Trước những năm 1988-1989, vào thời kỳ quan liêu bao cấp, nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung. Nhà nước trực tiếp quản lý lãi suất bằng cách công bố tất cả
các loại lãi suất, có thể nói đây là chính sách lãi suất cứng nhắc bị áp đặt theo kiểu
hành chính: Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988 và 2 pháp lệnh về NH (1/10/1990)
NHNN qui định cụ thể các loại lãi suất tiền gửi và tiền vay. Tuy theo thời gian lãi
suất có được điều chỉnh, nhưng do lạm phát phi mã lãi suất luôn trong tình trạng
âm. Điều này có nghĩa là:
+ Lãi suất tiền gửi < tỷ lệ lạm phát
+ Lãi suất cho vay < lãi suất huy động < tỷ lệ lạm phát
Hệ thống lãi suất có nhiều tiêu cực:
- Chính sách lãi suất cứng nhắc khiến cho các NHTM không linh hoạt trong
hoạt động tín dụng trước mọi biến động của nền kinh tế.
- Lãi suất tín dụng luôn ở mức quy định bắt buộc nên không khuyến khích cạnh
tranh lành mạnh giữa các NHTM.
- Lãi suất tiền gửi < tỷ lệ lạm phát nên không khuyến khích người dân và các tổ
chức gửi tiền vào ngân hàng. Do đó chỉ huy động được vốn ngắn hạn mà lại cho vay
trung và dài hạn, kết quả là lỗ. Khả năng huy động vốn đi với yêu cầu rút bớt tiền
lưu thông, giải toả áp lực của tiền đối với giá cả hàng hoá bị hạn chế nhiều.
- Lãi suất cho vay < lãi suất huy động vốn và tỷ lệ lạm phát nên ngân hàng
trong tình trạng bao cấp đối với doanh nghiệp vay vốn và thông qua hệ thống tín
dụng lãi suất thấp luôn trong tình trạng lỗ hoạt động Ngân hàng không ổn định.
- Vì lãi suất cho vay < lãi suất huy động nên các doanh nghiệp thị nhau vay vốn,
tìm mọi cách, mọi cơ hội vay vốn để được hưởng bao cấp.
- Doanh nghiệp vay nhiều nhưng lợi nhuận thu được không phải do sản xuất
kinh doanh mà do hưởng bao cấp của NHTM tạo mức lợi nhuận giả cho các doanh
nghiệp, gây trì trệ quá trình đầu tư phát triển sản xuất.
2. Từ tháng 3/1989 đến 1/101993.
Sau năm 1988 hệ thống ngân hàng hai cấp hình thành. Chính phủ giao cho
NHNN điều hành lãi suất, điều chỉnh lãi suất theo yếu tố biến động của thị trường
mà quan trọng nhất là lạm phát. Thực hiện cuộc cải cách, để thu hút tiền thừa trong
lưu thông về, kìm chế lạm phát, tránh bao cấp qua lãi suất,với quyết định 29/NH
ngày 16/3/1989 lãi suất huy động được nâng lên một mức cao theo tỉ lệ lạm phát
(lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn 9%/tháng-tức là 109%/năm, lãi suất tiết kiệm 3
tháng 12%/tháng-144 %/năm).
Những thành công của việc thực thi chính sách lãi suất dương:
- Thu hút một khối lượng tiền lớn trong lưu thông, tăng nguồn vốn tín dụng,
giảm áp lực lạm phát.
- Xoá bỏ bao cấp qua tín dụng ngân hàng, chuyển hoạt động ngân hàng sang
kinh doanh thực sự.
- Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương, tức là lãi suất tiền gửi cao hơn tỉ lệ
lạm phát, lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất huy động, xử lí hài hoà lợi ích giữa người
gửi tiền, người vay vốn và tổ chức tín dụng.
- Lãi suất tiền gửi cao dẫn đến lãi suất cho vay cao, các doanh nghiệp buộc phải
cân nhắc việc vay vốn đầu tư, phải xem xét và lựa chọn các phương án đầu tư có
hiệu quả nhất. Cơ cấu tổ chức các doanh nghiệp được tổ chức một cách hợp lý hơn,
giảm thiểu bộ phận quản lý cồng kềnh để giảm thiểu chi phí.
Tuy nhiên, ở giai đoạn này, hệ thống lãi suất còn phức tạp, còn nhiều mức lãi
suất tiền gửi và cho vay.
- Đối với từng ngành kinh tế có mức lãi suất riêng.
- Đối với các thành phần kinh tế còn có phân biệt lãi suất.
Tuy có nhiều tác động tích cực nhưng nếu kéo dài tình trạng chênh lệch lớn lãi
suất tiền gửi và lạm phát sẽ dẫn đến tác động xấu.
- Do lãi suất tiền gửi cao dẫn đến lãi suất cho vay cao nên càng khuyến khích
gửi tiền hơn là vay tiền. Bên cạnh đó, lãi suất thực dương cao của ngân hàng đem
lại khả năng thu được lợi nhuận lớn hơn là đưa tiền vào đầu tư mà rủi ro lại thâp nên
cũng khuyến khích cac doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng vay giảm dẫn đến tài
sản nợ trong bảng cân đối của NHTM lớn hơn tài sản có. Như vậy cho dù lãi suất
thực dương thì chưa chắc chắn NHTM đã hoạt động kinh doanh có lãi, nếu kéo dài
tình trạng như vậy sẽ bị lỗ.
- Lãi suất vay vốn không khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư mà các doanh
nghiệp tích cực gửi tiền vào ngân hàng hơn. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng
giảm quy mô đầu tư dẫn đến một lực lượng lớn thất nghiệp không có lợi cho sự phát
triển chung của nền kinh tế.
- Trong tổng số vốn đầu tư sản xuất kinh doanh, một phần lớn là đi vay của
ngân hàng, bởi lãi suất vốn cao dẫn đến chi phí sản xuất kinh doanh lớn do đó giá
thành phẩm cao, giá hàng hoá cao và như vậy hàng hoá sẽ giảm tính cạnh tranh trên
thị trường.
Ngày 1-6-1992 thống đốc NHNN đã quyết định điều chỉnh chính sách lãi suất
theo hướng:
- Đảm bảo lãi suất thực tế dương, lãi suất tín dụng ngân hàng không thấp hơn
lãi suất tiền gửi.
- Ngân hàng nhà nước chỉ quy định mức cho vay tối đa và mức tiền gửi tối
thiểu cụ thể với từng đối tượng vay vốn, còn mức lãi suất cụ thể sẽ do các NHTM tự
quyết định trên cơ sở cung cầu về vốn tín dụng.
- Thực hiện chính sách lãi suất bình đẳng đối với tất cả các thành phần kinh
tế.
Chính sách lãi suất phù hợp trên đã góp phần tập trung được nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi trong dân cư cho đầu tư phát triển, kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý,
ổn định và kích thích tăng trưởng. Năm 1992, lạm phát giảm mạnh từ 67,6% (1991)
xuống 14,5% , tăng trưởng kinh tế từ 6% (1991) lên 8,6%. Năm 1993 lạm phát đạt
mức thấp 5,2% và tăng trưởng kinh tế 8,1%.
Mức lãi suất mới đã khắc phục được tình trạng lợi dụng vốn của ngân hàng để
khách hàng ăn chênh lệch giá, buộc các doanh nghiệp phải tính toán thu hồi vốn và
tăng nhanh quay vòng vốn. Đây là bước khởi đầu, tạo cơ sở cho việc theo đuổi mục
tiêu tự do hoá lãi suất và tạo đòn bẩy quan trọng để các NHTM chuyển hoạt động
kinh doanh từ thua lỗ sang có lãi.
3. Từ 1/10/1993 đến 1/1/1996.
Từ ngày 1/ 10/1993: NHNN vừa áp dụng lãi suất trần (cho vay) vừa áp dụng
lãi suất thoả thuận.
Theo quyết định 184/QĐNH1 ngày 28-9-1993, NHNN quy định các mức lãi
suất tiền gửi và cho vay cụ thể, vừa cho phép các tổ chức tín dụng cho vay theo lãi
suất thoả thuận vượt mức lãi suất cho vay cụ thể:
a)Trần lãi suất: Đối với doanh nghiệp nhà nước 1,8% / tháng, kinh tế ngoài
quốc doanh 2,1 % / tháng.
b)Thoả thuận: Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo
lãi suất quy định phải phát hành kì phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi
suất thoả thuận. Lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kì hạn là
0,2 %/ tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng.
Trên thực tế, khoảng 30-60 % tổng dư nợ lúc bấy giờ là từ các khoản cho vay
bằng lãi suất thoả thuận mà phần lớn là cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh và
hộ nông dân, với lãi suất phổ biến là 2,3% - 3,5 % tháng. Các ngân hàng đạt mức
chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động khoảng từ 0,7% - 1%/tháng
làm cho các ngân hàng thương mại có lợi nhuận quá cao, trong khi doanh nghiệp và
nông dân gặp nhiều khó khăn.
Tác động tích cực
- Nhờ những định mức trần lãi suất mà hạn chế được phần nào tình trạng lãi
suất thực dương quá cao trong thời kỳ trước và do đó trong các NHTM cũng dần
cân bằng giữa tài sản nợ và tài sản có, đảm bảo được lợi nhuận. Các doanh nghiệp
cũng cần có thêm cơ hội vay vốn kinh doanh và mở rộng quy mô vốn đầu tư.
- Nhờ có lãi suất thoả thuận mà hoạt động tín dụng giữa NHTM và doanh
nghiệp linh hoạt hơn phù hợp với các đặc điểm hoạt động và tình hình cung cầu
vốn, chính sách khách hàng va cạnh tranh của từng tổ chức tín dụng và chủ động
điều hoà quan hệ cung cầu về vốn kinh doanh bằng công cụ lãi suất.
Những hạn chế
- Việc quy định lãi suất trần vẫn mang dáng dấp quản lý hành chính đối với một
công cụ vô cùng nhạy bén và mang đậm tính thị trường và do đó vẫn hạn chế tính
linh hoạt của NHTM trong hoạt động tín dụng, không tạo ra sự cạnh tranh lành
mạnh giữa các ngân hàng.
- Sự chệnh lệch cao giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay đã đem lại cho các
NHTM một số lợi nhuận đã khiến cho các ngân hàng không chú trọng việc tiết kiệm
chi phí hoạt động.
- Cơ chế lãi suất hiện hành thực sự gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong
việc vay vốn sản xuất nhất là đầu tư sản xuất trong trung và dài hạn do chính các
ngân hàng cũng khó huy động và có thể cho vay ở mức lãi suất cao.
- Lãi suất cao làm cho người kinh doanh chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực sản
xuất có lợi nhuận cao tức thời và thu hồi vốn nhanh như: dịch vụ, thương mại, sản
xuất nhỏ mất cân đối trong nền kinh tế
Từ thực tế này, quốc hội khoá IX trong kì họp thứ 8 tháng 8/1995 cùng với nghị
quyết bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng nhân hàng, đã yêu cầu ngân hàng
tiết kiệm chi phí hoạt động và khống chế mức chênh lệch lãi suất huy động và cho
vay bình quân là 0,35%/ tháng. Đây là lý do để ra đời chế độ lãi suất trần hoàn toàn
và bỏ lãi suất cho vay thoả thuận.
4.Từ ngày1/1/1996 đến 21/1/1998.
Thực hiện chính sách trần lãi suất và khống chế chênh lệch lãi suất cho vay
và lãi suất huy động vốn bình quân là 0,35%/tháng
Quyết định của Thống đốc ngân hàng nhà nước số 381/QĐ-NH1 ngày
28/12/1995 quy định chính sách trần lãi suất có phân biệt theo từng khu vực như
sau:
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn: Là mức lãi suất thấp nhất áp dụng cho khu
vực thành thị.
- Trần lãi suất cho vay trung hạn và dài hạn. cao hơn lãi suất cho vay ngắn
hạn một chút do thời gian dài dễ gặp rủi ro.
- Trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn: Cao hơn trần lãi suất ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn do điều kiện hoạt động và địa bàn nông thôn khó khăn hơn
thành thị.
- Trần lãi suất cho vay của quỹ tín dụng đối với các thành viên: Là trần lãi
suất cho vay cao nhất do quỹ tín dụng mới lập thí điểm quy mô nhỏ bé, chi phí hoạt
động cao. Cụ thể : từ mức trần 1,75%/tháng dành cho khu vực thành thị và
2%/tháng dành cho khu vực nông thôn, lãi suất trần đã áp dụng thống nhất cho cả
hai khu vực là 1,2%/tháng đối với vay ngắn hạn và 1,25%/tháng đối với vay trung
và dài hạn.
Từ đó đã hình thành một hành lang vận động hợp pháp của vốn tín dụng về
phương diện “giá cả” của nó - đó là một hành lang mà đường biên cứng là mức lãi
suất trần cho vay, còn đường biên còn lại thì không cố định mà được thay thế bằng
mức chênh lệch bình quân giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động của một chu kỳ
kinh doanh tín dụng ở mỗi ngân hàng không được quá 0,35%/tháng.
Tác động tích cực.
Thúc đẩy các tổ chức tín dụng đi vào cạnh tranh trong kinh doanh tiền tệ, qua
đó các tổ chức tín dụng được tự chủ trong việc ấn định mức lãi suất huy động cụ
thể. Chính sách lãi suất này đã kích thích hoạt động tín dụng phát triển, tăng trưởng
kinh tế, tạo việc làm; góp phần thực hiện công nghiệp, hoá hiện đại hoá đất nước.
Những hạn chế
Các ý kiến phản đối cho rằng chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân và lãi
suất huy động bình quân cuả TCTD được quy định với mức 0,35%/tháng là không
có cơ sở, quá thấp, không đáp ứng được yêu cầu của hạch toán kinh doanh của
TCTD.
5.Từ ngày 21/1/1998 đến 5/8/2000.
Xoá bỏ mức khống chế chênh lệch lãi suất 0,35%/tháng.
Ngày 17/1/1998, Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số
39/1998/QĐ-NH1, “quy định lãi suất cho vay bằng đồng Việt nam của các tổ chức
kinh tế, dân cư và mức lãi suất tiền gửi bằng đồng đô la Mỹ của tổ chức kinh tế”, có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 21/1/1998. Nội dung chủ yếu của quy định lãi suất lúc
này là:
- Đưa ra mức trần lãi suất cho vay của các TCTD bằng VND:
+ Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2 % tháng
+ Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn 1,25 % tháng.
Mức lãi suất trần cho vay nói trên được áp dụng chung đối với cho vay trên
địa bàn thành thị và cả trên địa bàn nông thôn.
- Quy định trần lãi suất cho vay USD, quy định các mức lãi suất tiền gửi bằng
USD của các tổ chức kinh tế.
- Quy định lãi suất cho vay tái cấp vốn của NHNN đối với các TCTD.
- Ngoài ra trong quyết định 39 còn đưa ra một số mức lãi suất cho vay cụ thể
đối với một số đối tượng đặc biệt như:
+ Cho vay sinh viên, học sinh.
+ Hợp tác xã tín dụng và quỹ tín dụng nhân dân cơ sở cho vay thành viên.
Trần lãi suất QTD cho vay thành viên 1,5 % tháng.
+ Cho vay các tổ chức kinh tế và dân cư thuộc khu vực núi cao, hải đảo,
vùng đồng bào Khơ me tập trung.
Việc quản lí lãi suất theo trần có ưu điểm sau:
- Trong phạm vi trần, các TCTD được tự do ấn định các mức lãi suất cho vay
và tiền gửi cụ thể, linh hoạt, phù hợp điều kiện kinh doanh, thực hiện chính sách
khách hàng, tự chủ trong kinh doanh, thực hiện cạnh tranh lành mạnh, từng bước tự
do hoá lãi suất.
- Để nâng cao lợi nhuận NHTM phải nâng cao mức dư nợ cho vay và huy động
góp vốn gấp nhiều lần. Tuy nhiên, tuỳ theo hình thức cụ thể mà các NHTM đã đưa
ra các mức lãi suất phù hợp. Nâng cao khả năng huy động vốn.
- Doanh nghiệp được nhà nước bảo vệ, không phải vay với mức lãi suất vượt
trần, tức là các doanh nghiệp không bị các ngân hàng ép khi đi vay tiền. Khi chính
phủ quyết định giảm lãi suất cho vay, đồng thời đưa ra các biện pháp ưu tiên trong
việc cho vay vốn sẽ khuyến khích doanh nghiệp vay vốn để đầu tư phát triển. Lãi
suất là yếu tố thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, bù đắp chi phí và lợi
nhuận cho ngân hàng.
- Khi lãi suất giảm làm giá thành sản phẩm rẻ tương đối, kết quả là tiêu dùng
tăng và sản xuất tăng.
- Quy định mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD đối với các tổ chức kinh tế,
góp phần hạn chế tình trạng giam giữ ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi tại các TCTD.
Trên cơ sở đó, các TCTD có thể sử dụng ngoại tệ một cách triệt để hơn, hữu ích hơn
góp phần trong điều tiết tỷ giá, tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Hạn chế
- Về thực chất đó là biện pháp điều hành mang nặng tính can thiệp hành chính
của Nhà nước. Chính vỡ vậy, cơ chế này thiếu tính linh hoạt, không phản ánh đúng
và kịp thời quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường. Đây là nguyên nhân làm hạn
chế khả năng cho vay và huy động vốn của các TCTD. Bởi trên thực tế, việc đưa ra
một trần lói suất "cứng nhắc" và "chật hẹp" vụ hỡnh chung cũng đồng nghĩa với
việc chỉ cho phép các TCTD tiếp cận v ới những dự án có độ rủi ro thấp và thời hạn
vay vốn tương đối ngắn.
- Trong cơ chế lói suất trần, việc ấn định trần lói suất của NHNN thường mang
nặng tính chủ quan và luôn chịu sức ép từ nhiều phía.
Vỡ vậy, trần lói suất thường được điều chỉnh theo xu hướng giảm thấp để hỗ trợ cho
hoạt động đầu tư sản xuất, nhưng lại làm cho chênh lệch giữa lói suất cho vay và
huy động của các TCTD ngày càng bị thu hẹp khiến nhiều TCTD gặp khó khăn
trong kinh doanh. Cơ chế điều hành lói suất thụng qua ấn định trần lói suất về thực
chất quan tõm đến việc bảo vệ quyền lợi của người đi vay hơn là bảo vệ quyền lợi
của người cho vay (ngân hàng). Trên thực tế, cơ chế này tỏ ra thiếu linh hoạt trong
việc xử lý hài hũa mối quan hệ về lợi ớch giữa người gửi tiền - TCTD - người cho
vay, làm hạn chế ngân hàng phát huy hết vai trũ là một trung gian tài chớnh.
- Là cơ chế điều hành lói suất thụng qua trần lói suất đó tỏ ra kộm hiệu quả
trong việc xử lý những mõu thuẫn giữa lói suất nội tệ và ngoại tệ, giữa lói suất trong
nước và ngoài nước.
6. Từ ngày 5/8/2000 đến 1/6/2002.
Theo quyết định 241/QĐ ngày 2/8/2000, NHNN đó thực hiện bước đổi mới cơ
bản về điều hành lói suất đó là ban hành chính sách lãi suất cơ bản. Lãi suất cơ bản
là lãi suất do NHNN công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất
kinh doanh. Theo đó, bắt đầu từ ngày 5/8/2000, NHNN thay đổi cơ chế điều hành
lói suất từ cơ chế trần lói suất sang cơ chế điều hành lói suất cơ bản đối với cho vay
bằng đồng Việt Nam và cơ chế lói suất thị trường có quản lý đối với cho vay bằng
ngoại tệ. Tổ chức tín dụng ấn định lói suất cho vay đối với khách hàng trên cơ sở lói
suất cơ bản do NHNN công bố theo nguyên tắc lói suất cho vay khụng vượt quá
mức lói suất cơ bản và biên độ do Thống đốc NHNN quy định từng thời kỳ.
Việc bỏ trần lói suất và ỏp dụng lói suất cơ bản theo một biên độ dao động cho
phép, trên cơ sở có sự liên hệ giữa lói suất đồng USD trong nước với lói suất của
USD trờn thị trường quốc tế (thông qua lói suất đồng USD trên thị trường tiền tệ
Singapore) là một bước đệm quan trọng trong việc tiến gần thêm đến tự do hoá lói
suất.
Lãi suất cơ bản xác định trên các cơ sở:
- Chỉ tiêu tăng trưởng dự kiến hàng năm
- Chỉ số lạm phát dự kiến hàng năm
- Tỷ suất lợi nhuận bình quân hàng năm
- Lãi suất thực của người gửi tiền thoả mãn điều kiện: tỷ lệ lạm phát< lãi suất
tiền gửi tiết kiệm < tỷ suất lợi nhuận bình quân.
- Tình hình cung cầu vốn trên thị trường trong từng thời kỳ.
- Lãi suất bình quân trên thị trường nội tệ liên ngân hàng.
- Lãi suất đấu thầu, tín phiếu, trái phiếu kho bạc Nhà nước.
- Mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá.
Nội dung cơ chế điều hành lãi suất.
Đối với lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam lãi suất cho vay cao nhất của
TCTD = lãi suất cơ bản + %tỷ lệ.
Lói suất cơ bản được NHNN đưa ra trên nguyên tắc tham khảo mức lói suất cho
vay ngắn hạn thương mại (nay là 9 tháng), khi đó là 0,75%/tháng, biên độ trên đối
với lói suất cho vay ngắn hạn là 0,3%/thỏng, biờn độ trên đối với lói suất cho vay
trung - dài hạn là 0,5%/tháng.
Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ.
Cho vay bằng USD bỏ qua quy định trần lãi suất cho vay, lãi suất cho vay ngắn
hạn không vượt qua mức sibor kỳ hạn 3 tháng + 1%/năm, lãi suất trung và dài hạn
không vượt quá mức Sibor kỳ hạn 6 tháng + 2,5%tháng.
Tác động tích cực
- Tạo điều kiện thực sự cho các TCTD quyền chủ động trong việc ấn định lói
suất cho vay một cỏch linh hoạt. Khả năng mở rộng tín dụng, đặc biệt là tín dụng
trung và dài hạn của các TCTD được giải phóng, cho phép tổ chức tín dụng có thể
tăng cường huy động vốn trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển nền kinh tế theo
xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế đồng thời nâng cao năng lực tài chính và
năng lực điều hành của các tổ chức tín dụng, xử lý lói suất VND trong mối quan hệ
với lói suất ngoại tệ và chớnh sỏch tỷ giỏ, quản lý ngoại hối..
- Tăng cường hoạt động chủ động của các TCTD góp phần giải quyết vấn đề
vốn đầu tư cho các doanh nghiệp, phát triển sản xuất phục vụ cho tiêu dùng và xuất
khẩu.
Hạn chế : chính sách còn mang nhiều tính chủ quan của nhà nước trong việc
ban hành lãi suất cơ bản, chưa phản ánh đúng thực tế, chưa phát huy đúng tầm quan
trọng của công cụ lãi suất trong quản lý kinh tế.
7. Lãi suất thoả thuận.
Quyết định 546/2002/QD-NHNN ngày 30/5/2002 của Thống đốc NHNN VN
viết: "TCTD xác định lói suất cho vay bằng VND trên cơ sở cung cầu vốn thị
trường và mức độ tín nhiệm của khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân VN; pháp
nhân và cá nhân nước ngoài hoạt động tại VN". Như vậy, từ ngày 1/6/2002, lói suất
cho vay bằng VND của cỏc TCTD chỉ dựa vào hai yếu tố: một là cung cầu vốn tín
dụng ngân hàng và sự tín nhiệm của bên vay đối với TCTD.
Từ khi thực hiện lói suất thỏa thuận cho vay bằng VND, cỏc TCTD cạnh tranh
với nhau bằng lói suất huy động vốn rất quyết liệt. Huy động vốn bằng VND, kỳ
hạn từ 12 tháng trở lên của các Ngân hàng ngoại thương VN (VCB) 8,4%/năm;
ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) 8,64%/năm.
Với lói suất huy động vốn bằng VND quá cao của NHTM quốc doanh, các
NHTM cổ phần đành chịu thua mà phải đi sâu vào tiền gửi dưới 6 tháng: từ 1 tuần
lễ đến 5 tháng với lói suất tăng vài phần mười nghỡn trong một thỏng so với lói suất
huy động vốn bằng VND của NHTM quốc doanh.
Hiệu ứng của việc cạnh tranh huy động vốn bằng VND với lói suất cao đó phỏt
sinh việc di chuyển tiền tệ từ NHTM này sang NHTM khác, thậm chí từ vùng này
đến vùng khác. Giá cả của nguồn vốn huy động bằng VND của các TCTD tăng lên,
khiến lói suất cho vay bằng VND của cỏc TCTD cũng tăng lên. Hiện nay, không có
một TCTD nào cho vay VND với lói suất bằng lói suất cơ bản do NHNN VN công
bố là 0,62%/tháng. Lói suất cơ bản cho vay của các TCTD bằng VND do NHNN
VN đưa ra, dựa vào lói suất cho vay bằng VND của 5 NHTM đối với khách hàng có
tín nhiệm nhất. Hiện nay, lói suất cho vay của cỏc TCTD bằng VND ở đô thị phổ
biến là 0,75%/thỏng. Quỹ tớn dụng nhõn dõn ở nụng thụn cho vay với lói suất cao
nhất là 1,2%/thỏng; cỏc chi nhỏnh NHNo&PTNT cho hộ nụng dõn vay ngắn hạn
bằng VND với lói suất 0,95%/thỏng. Cỏc chi nhỏnh NHTM cạnh tranh với nhau về
lói suất cho vay, khiến độ sinh lời của cỏc NHTM giảm thấp. Chờnh lệch giữa lói
suất huy động bằng VND của một số TCTD thấp hơn 0,1%/tháng! Không những
thế, một số NHTM quốc doanh cũn đầu tư vào tín phiếu kho bạc (TPKB), với lói
suất cao nhất 5,95%/năm, thấp hơn lói suất cao nhất huy động vốn bằng VND của
VCB là 2,45%/năm (8,4%-5,95% = 2,45%). Biết lỗ nhưng các NHTM quốc doanh
vẫn phải đầu tư vào TPKB, vỡ nú là tài sản động của NHTM quốc doanh. Khi
NHTM quốc doanh thiếu vốn khả dụng, bán TPKB cho NHNN ở "thị trường mở"
với lói suất 5,8%/năm. Như vậy, các NHTM quốc doanh lại bị lỗ lần thứ hai là
0,15%/năm (5,95% - 5,8% = 0,15%).
Những ưu điểm và hạn chế.
Những ưu điểm:
- Tạo cơ hội cho các TCTD chủ động trong việc đề ra các mức lãi suất trong
quá trình hoạt động phù hợp với từng trường hợp, từng đối tượng nâng cao khả
năng huy động vốn.
- Tạo sự linh hoạt cho lãi suất, phát huy đúng tầm quan trọng của công cụ lãi
suất trong quản lý kinh tế: thúc đẩy khả năng huy động và sử dụng vốn; gia tăng
đầu tư phát triển sản xuất; phù hợp với tỷ lệ lạm phát, tỷ giá thực tế...
Những hạn chế:
- Cỏc chi nhỏnh NHTM cạnh tranh với nhau về lói suất cho vay, khiến độ
sinh lời của các NHTM giảm thấp.
- Lói suất cho vay của cỏc TCTD cao, làm nản lũng bờn vay để phát triển kinh
doanh, trong lúc nước ta đang cần tăng trưởng GDP với tốc độ cao.
- Thông qua lói suất tớn dụng ngõn hàng (huy động vốn và cho vay), các
TCTD tạo ra luồng tiền tệ từ nông thôn chạy ra thành thị; từ miền Nam chạy ra
miền Bắc (các TCTD ở đô thị và miền Bắc luôn luôn thừa nguồn vốn huy động) và
từ người nghèo chạy sang người giàu.
Chương III
ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện chính sách Lãi suất của Việt Nam
1. Sự cần thiết của tự do hoá lãi suất
1.1. Hạn chế của cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp
Trong cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp nhà nước quản lý trực tiếp lãi suất
bằng cách công bố tất cả các loại lãi suất. Các ngân hàng và tổ chức tín dụng phải
tuyệt đối tuân theo. Cơ chế này tuy có những mặt thuận lợi như: dễ thực hiện, phù
hợp với các nước đang phát triển, mức độ cạnh tranh kém, ...bên cạnh đó còn bộc lộ
nhiều mặt hạn chế.
-Việc kiểm soát lãi suất tỏ ra kém hiệu quả trong việc điều hành chính sách tiền
tệ, phân bổ nguồn tín dụng, khả năng cạnh tranh thấp làm giảm chức năng trung
gian tài chính của ngân hàng do sự cứng nhắc, thiếu linh hoạt.
-Nguồn tiết kiệm có thể bị chảy ra thị trường tài chính phi chính thức và không
bị quản lý biểu hiện: các loại hình ngân hàng kiểu chính sách tăng lên, cho vay qua
thị trường không chính thức, các doanh nghiệp và công chúng tăng nắm giữ bằng
ngoại tệ hoặc tích luỹ dạng kim loại quý và hàng hoá lâu bền.
-Kiểm soát lãi suất sẽ kích thích kiểm soát chi tiết các điều kiện tiền tệ bằng
cách áp đặt cơ cấu lãi suất phức tạp gây ra hậu quả làm kém hiệu quả và biến dạng
hơn. Việc kiểm soát lãi suất sẽ làm giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền tệ vì sự
gia tăng và mở rộng các thị trường không được kiểm soát.
-Kiểm soát lãi suất không có lợi cho cạnh tranh, các tổ chức tín dụng hoạt động
kém hiệu quả có thể được bảo vệ từ sức ép của tự do cạnh tranh làm cho quá trình
giải quyết khó khăn của họ kéo dài. Những khó khăn lớn gắn với việc kiểm soát lãi
suất là vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Cả hai loại rủi ro này đều có
xu hướng tăng lãi suất lên và tăng rủi ro tín dụng.
1.2. Nguyên nhân thực hiện tự do hoá lãi suất
Như trên đã nêu, chính sách kiểm soát lãi suất có những hạn chế lớn, tác động
không tích cực với sự phát triển của nền kinh tế. Muốn khắc phục, thay thế vào đó
là một cơ chế mới: cơ chế tự do hoá lãi suất.
- Lãi suất tự do hoá, biến động theo cung cầu về vốn có thể phân bổ nguồn tín
dụng cho người vay hiệu quả nhất, thu hút tiền gửi với chi phí hợp lý.
- Lãi suất tự do hoá sẽ linh hoạt hơn lãi suất bị kiểm soát, dễ điều tiết thích nghi
với sự thay đổi tự động tạo ra sự kích thích tăng trưởng tài chính.
- Không một chính phủ, một NHTM nào có được khả năng phân bổ và kiểm
soát nguồn vốn có hiệu quả cho hàng ngàn các nhu cầu sử dụng vốn khác nhau. Tự
do hoá lãi suất sẽ làm tốt nhiệm vụ này.
- Tự do hoá lãi suất sẽ giải quyết mâu thuẫn nảy sinh trong vấn đề tối đa hoá lợi
nhuận, người cho vay và giảm thiểu chi phí của người đi vay.
- Đưa lại quyền tự do trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, cơ chế lãi
suất tự do sẽ làm cho lãi suất tiền gửi và vay cao hơn nên đã kích thích tăng trưởng
kinh tế phục vụ quá trình toàn cầu hoá.
Như vậy, việc tiến hành tự do hoá lãi suất là cần thiết với bất cứ một quốc gia
nào để phát triển nền kinh tế lành mạnh, nhưng trong quá trình thực hiện tự do hoá
lãi suất cần phải thận trọng, hợp lý, tránh nóng vội để loại bỏ những mặt tiêu cực
của nó có thể gây ra cho nền kinh tế xã hội.
2.ý kiến đề xuất về tự do hoá lãi suất
2.1. Quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam
Vào năm 1992 NHNN đó thực hiện đổi mới về điều hành chính sách lói suất
bằng việc chuyền từ cơ chế lói suất õm (Ngõn hàng kinh doanh thua lỗ và Nhà nước
bù) sang cơ chế lói suất dương. Đây là bước khởi đầu, tạo cơ sở cho việc theo đuổi
mục tiêu tự do hoá lói suất và tạo đũn bẩy quan trọng để các NHTM chuyển hoạt
động kinh doanh từ thua lỗ sang có lói.
Bước cải cách đáng kể tiếp theo vào năm 1996 là việc tự do hoá lói suất tiền gửi
và chỉ qui định trần lói suất cho vay. Với cơ chế này các NHTM được phép tự do
qui định mức lói suất huy động (trong mức trần theo qui định của NHNN).
Tháng 8/2000, NHNN đó thực hiện bước đổi mới cơ bản về điều hành lói suất.
Việc bỏ trần lói suất và ỏp dụng lói suất cơ bản theo một biên độ dao động cho
phép, trên cơ sở có sự liên hệ giữa lói suất đồng USD trong nước với lói suất của
USD trờn thị trường quốc tế (thông qua lói suất đồng USD trên thị trường tiền tệ
Singapore) là một bước đệm quan trọng trong việc tiến gần thêm đến tự do hoá lói
suất.
Từ ngày 1/6/2002, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quyết định điều
hành lói suất cho vay bằng VND của cỏc tổ chức tớn dụng (TCTD) từ lói suất cơ
bản cộng (+) với biên độ sang lói suất cho vay thỏa thuận như vậy cánh cửa của tự
do hoá lãi suất đã mở ra ở Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế chúng ta vẫn chưa có
tự do hoá lãi suất theo đúng nghĩa, có thể thấy môi trường pháp lý cho tự do hoá lãi
suất đã mở ra và chúng ta cần sớm tiến hành tự do hoá lãi suất thực sự.
2.2. ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện chính sách tự do hoá lãi suất
- ổn định kinh tế vĩ mô về các mặt: tốc độ tăng GDP, kiểm soát lạm phát, cân
đối ngân sách nhà nước.
- Xác định và phân chia rõ ràng nhiệm vụ , các mục tiêu chính sách quốc gia về
kinh tế xã hội cho hệ thống tín dụng- ngân hàng -ngân sách.
- Nâng cao năng lực quản lý kinh tế của các cơ quan vĩ mô đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của quá trình kinh tế.
- Củng cố hệ thống tài chính ngân hàng từ trung ương đến cơ sở, chú trọng khu
vực nông nghiệp, nông thôn, vùng sâu vùng xa, tăng cường thông tin về tài chính -
tiền tệ- chứng khoán bảo đảm cung cầu về vốn. Dừng hẳn việc bán lẻ trái phiếu kho
bạc của mạng lưới kho bạc nhà nước, vừa tốn kém chi phí, vừa lói suất cao,... tập
trung qua NHNN tổ chức đấu thầu giữa các NHTM, công ty bảo hiểm,...
- Đẩy mạnh phát triển hơn nữa các công cụ tài chính để thực hiện có hiệu quả
các công cụ tiền tệ gián tiếp thay cho vai trò của lãi suất trong việc điều hành chính
sách tiền tệ.
- ổn định và làm lành mạnh thị trường tài chính các NHTM tăng cường vốn tự
có, xử lý các khoản nợ khó thu hồi, nợ quá hạn, đổi mới nghiệp vụ và chất lượng
của đội ngũ cán bộ. Tăng cường công tác thanh kiểm tra của NHNN.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các DN làm ăn có lãi, trả được nợ. Mạnh dạn cổ
phần hóa nhanh các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn, hoạt động có hiệu quả,
nhưng Nhà nước không cần phải nắm giữ sản phẩm như : Công ty bia Sài Gũn,
Cụng ty bia Hà Nội, Cụng ty sữa Việt Nam, Cụng ty sản xuất thuốc lỏ, một số cụng
ty xi măng,... tạo khối lượng hàng hóa đủ lớn cho hoạt động của thị trường chứng
khoán.Đối với những doanh nghiệp cần sự nắm của nhà nước cần có kế hoạch lâu
dài để tiến hành cổ phần hoá nhưng nhà nước nắm giữ 51% cổ phần như : Ngân
hàng thương mại,Tổng công ty Bưu chính ...
- Tạo lập môi trường pháp lý lành mạnh để khuyến khích sự cạnh tranh giữa các
ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng phù hợp với chính sách phát triển
kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước.
Kết luận
Lói suất, là một trong những cụng cụ chớnh sỏch kinh tế vĩ mụ hết sức quan
trọng để thông qua đó Nhà nước có thể tiến hành việc kiểm soát và điều hành nền
kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu đó đề ra. Vấn đề lói suất về mặt lý luận cũng
như thực tiễn luôn là vấn đề nóng bỏng, thu hút sự quan tâm của rất nhiều người từ
nhiều lĩnh vực.Do vậy, việc điều chỉnh và đưa ra những chính sách lãi suất trong
từng thời kỳ một cách phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của đất nước sao cho
phát huy được hết hiệu quả của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế là không
đơn giản, đòi hỏi phải xử lý nhiều mối quan hệ khác nhau .Xuất phát từ tính cấp
bách của đề tài, đề án đã làm rõ những lý luận cơ bản về lãi suất, tìm hiểu về các
chính sách lãi suất ở Việt Nam từ đó rút ra những ưu điểm và những mặt hạn chế.
Thông qua đó đề án cũng đã đưa ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả của các
chính sách lãi suất bằng việc chỉ rõ tính tất yếu và những lợi ích to lớn của tự do hoá
lãi suất đem lại đồng thời đưa ra những giải pháp tiến hành tự do hoá lãi suất một
cách phù hợp.
Mục lục
Lời mở đầu ............................................................................................................. - 1 -
Chương I: Cơ sở lý luận về lãi suất ...................................................................... - 4 -
1. Khái niệm về lãi suất. ................................................................................... - 4 -
1.1Khái niêm về lãi suât. .............................................................................. - 4 -
1.2.Vai trò cua lãi suất .................................................................................. - 4 -
1.3. Các loại lãi suất cơ bản và phương pháp đo lường. ............................ - 5 -
1.4. Một số phân biệt về lãi suất. ................................................................. - 8 -
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất. .......................................................... - 10 -
2.1. Cung và cầu về vốn. ............................................................................ - 10 -
2.2. Lạm phát kỳ vọng................................................................................ - 10 -
2.3. Bội chi Ngân sách. .............................................................................. - 11 -
2.4. Những thay đổi về thuế. ...................................................................... - 11 -
2.5. Tỷ giá. .................................................................................................. - 11 -
2.6. Những thay đổi trong đời sống xã hội. .............................................. - 12 -
3. ảnh hưởng của lãi suất trong nền kinh tế. .................................................. - 13 -
3.1. Lãi suất với quá trình huy động vốn. ................................................. - 13 -
3.2. Lãi suất với quá trình đầu tư. .............................................................. - 13 -
3.3. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm. .................................................... - 14 -
3.4. Lãi suất với tỷ giá và hoạt động xuất nhập khẩu. .............................. - 14 -
3.5. Lãi suất với lạm phát. .......................................................................... - 15 -
Chương II: Chính sách lãi suất của việt nam ..................................................... - 15 -
1. Trước tháng 3/1989. ................................................................................... - 16 -
2. Từ tháng 3/1989 đến 1/101993. ................................................................. - 17 -
3. Từ 1/10/1993 đến 1/1/1996. ....................................................................... - 19 -
4.Từ ngày1/1/1996 đến 21/1/1998. ................................................................ - 20 -
5.Từ ngày 21/1/1998 đến 5/8/2000. ............................................................... - 22 -
6. Từ ngày 5/8/2000 đến 1/6/2002. ................................................................ - 24 -
7. Lãi suất thoả thuận. ..................................................................................... - 26 -
Chương III: ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện chính sách lãi suát của việt nam- 28 -
1. Sự cần thiết của tự do hoá lãi suất ............................................................. - 28 -
1.1. Hạn chế của cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp ................................ - 28 -
1.2. Nguyên nhân thực hiện tự do hoá lãi suất ......................................... - 29 -
2.ý kiến đề xuất về tự do hoá lãi suất ............................................................. - 29 -
2.1. Quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam ............................................ - 29 -
2.2. ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện chính sách tự do hoá lãi suất ......... - 30 -
Kết luận ................................................................................................................ - 33 -
Tài liệu tham khảo
1. Tiền tệ, Ngân hàng và Thị trường tài chính- Fredric S. Mishkin
2. Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ – Trường ĐHKTQD chủ biên T.s
Nguyễn Hữu Tài
3. Thời báo kinh tế Việt Nam ngày 9/1/2003 tác giả Phan Lê
4. Báo đầu tư chứng khoán số 130 ngày 3/6/2002 tác giả Chí Tín
5. Tin tức (TTXVN) ngày 5/8/2000 và ngày 30/11/2000
6. Tạp chí ngân hàng số 1,2,3,6 năm 2000
7. Tạp chí ngân hàng số 1/2001 và số 1,2/2002
8. Thời báo ngân hàng số 78 năm 2000
Thời báo ngân hàng số 46 năm 2001