thực trạng công tác quản lý thu thuế khu vực...
TRANSCRIPT
TIỂU LUẬN:
Thực trạng công tác quản lý
thu thuế khu vực NQD
Lời mở đầu
Năm 2001 là năm chuyển giao thiên niên kỷ, năm đầu triển khai thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng IX và nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 2001-2005 đặt ra
trách nhiệm lớn cho cơ quan thuế các cấp.
Mặc dù có nhiều yếu tố không thuận lợi, do tình hình xuất khẩu hàng hoá
gặp nhiều khó khăn, thiên tai lớn xảy ra ở một số tỉnh ĐBSCL và miền Trung...
nhưng được sự chỉ đạo của Đảng, của Chính phủ, sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ tài
chính, sự phối hợp tích cực của các ngành, các cấp, toàn ngành thuế đã nỗ lực phấn
đấu liên tục, chủ động khai thác nguồn thu, tăng cường các biện pháp chống thất
thu, chống nợ đọng đối với các sắc thuế, các khu vực trong phạm vi cả nước. Để
góp phần thực hiện các luật thuế mới, đặc biệt là luật thuế GTGT và luật thuế
TNDN, công tác chỉ đạo và quản lý thu theo quy trình mới đã có nhiều chuyển biến
tích cực, các doanh nghiệp tự kê khai, tự tính thuế và nộp thuế theo quy định, cơ
quan thuế xoá bỏ chế độ chuyên quản doanh nghiệp, nhiều biện pháp nghiệp vụ
hành thu được chú trọng củng cố và phát huy.
So với năm 2000, tổng thu NSNN tăng 12,1%; trong đó thu nội địa do ngành
thuế quản lý tăng 10,3%; cả nước có 61/61 địa phương hoàn thành và hoàn thành
vượt dự toán được giao. Dù áp dụng các luật thuế và quy trình quản lý thu thuế mới
nhưng nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá ở mức gần 7%.
Mặc dù nhiều địa phương đã hoàn thành toàn diện ba chỉ tiêu chính (doanh
nghiệp Nhà nước, ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài),
trong đó số thu từ khu vực ngoài quốc doanh (NQD) năm 2001 tăng 12,6% so với
năm 2000, nhưng số thuế thu được từ khu vực này vẫn còn thất thu nhiều về hộ và
doanh thu tính thuế. Tình trạng để sót hộ, khoán doanh thu với mức thuế chưa sát
với hoạt động sản xuất kinh doanh của đối tượng nộp thuế, ghi chép sổ sách kế toán
chỉ là hình thức...đã làm số thu từ khu vực NQD chưa tương xứng với tốc độ tăng
trưởng kinh tế và mức độ kinh doanh ở khu vực này.
Số thu từ khu vực KTNQD chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số thu NSNN,
song công tác quản lý thuế đối với khu vực này mang ý nghĩa hết sức quan trọng,
không chí góp phần tăng thu cho NSNN mà chính là thực hiện vai trò quản lý của
nhà nước đối với khu vực KTNQD, góp phần thực hiện sự bình đẳng và công bằng
xã hội. Xuất phát từ ý nghĩa trên, đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý
thu thuế đối với khu vực ngoài quốc doanh ở Cục thuế Hà nội” với mục tiêu:
dựa trên cơ sở lý luận cũng như những đánh giá về thực trạng, ưu nhược điểm của
công tác quản lý thu thuế khu vực NQD trong những năm qua trên địa bàn thành
phố Hà nội - trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế, xã hội của cả nước, một môi
trường thuận lợi phát triển kinh tế NQD, từ đó chỉ ra nguyên nhân và đề xuất một số
giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác quản lý thu thuế trên địa bàn.
Công tác quản lý thu thuế đối với khu vực NQD rất rộng, đa dạng và phức
tạp. Phạm vi đề tài chỉ tập trung vào những giải pháp hoàn thiện công tác quản lý
thu đối với hai luật thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thu nhập doanh nghiệp (TNDN)
đối với khu vực NQD trên địa bàn quản lý của Cục thuế Hà nội.
Về nội dung của đề tài, ngoài phần mở đầu và kết luận có ba phần chính:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về công tác quản lý thu thuế khu vực NQD.
Chương II: Thực trạng công tác quản lý thu thuế khu vực NQD.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế khu vực NQD.
Chương I: Những vấn đề cơ bản về công tác quản lý thu thuế ngoài quốc
doanh:
I. Một số vấn đề chung về kinh tế ngoài quốc doanh:
Trong định hướng xã hội chủ nghĩa về việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần, báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VI tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định yêu cầu:
- Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần. Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong
và bên ngoài cho CNH - HĐH, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời
sống nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành
phần kinh tế và các hình thức tổ chức kinh doanh.
- Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế Nhà nước, kinh
tế hợp tác. Kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần
trở thành nền tảng. Tạo điều kiện pháp lý và kinh tế thuận lợi để các nhà kinh doanh
tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn laau dài, mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết
giữa kinh tế Nhà nước với các thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước, áp
dụng phổ biến các hình thức tư bản Nhà nước.
Như vậy, trong gần 30 năm ở miền Bắc và gần 10 năm ở miền Nam,
KTNQD đã không được chấp nhận, là đối tượng phải cải tạo, xoá bỏ, hạn chế. Đại
hội Đảng lần thứ VI với chủ trương xây dựng nề kinh tế thị trường nhiều thành phần
có sự quản lý của Nhà nước, khu vực KTNQD đã được thừa nhận là một khu vực
quan trọng của nền kinh tế.
I.1. Kinh tế thị trường và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Việc nghiên cứu KTNQD nói chung và thuế đối với KTNQD nói riêng đều
không thể tách rời việc nghiên cứu những đặc điểm của môi trường mà KTNQD tồn
tại và phát triển. Đó chính là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Việc chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch
hoá tập trung sang cơ chế thị trường là một nội dung bao trùm nhất của công cuộc
đổi mới. Cho đến nay, cơ chế thị trường đã đi vào cuộc sống và tạo ra nhiều bién
đổi lớn trong đời sống kinh tế xã hội. Trong đó, sự tồn tại của nền kinh tế nhiều
thành phần là một tất yếu khách quan, cần thiết để giải phóng sức sản xuất xã hội,
giải phóng mọi tiềm năng về vốn, lao động, kinh nghiệm... góp phần thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng và phát triển.
Nếu xét trên giác độ sở hữu và quản lý, nền kinh tế được chia làm hai khu
vực: khu vực kinh tế trong nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực
kinh tế trong nước hiện nay có năm thành phần kinh tế: thành phần kinh tế Nhà
nước, thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh
tế cá thể, thành phần kinh tế tư bản Nhà nước; tất cả tồn tại trên cơ sở ba loại hình
sở hữu chủ yếu là sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân.
Nếu xét trên giác độ chức năng và mục tiêu, nền kinh tế gồm hai khu vực:
kinh tế quốc doanh (chủ yếu thực hiện chức năng dịch vụ công cộng vì mục tiêu là
lợi ích chung của toàn xã hội) và kinh tế ngoài quốc doanh (chủ yếu làm chức năng
kinh doanh vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận). Trong cơ cấu sản xuất xã hội,
KTNQD được coi là một thực thể khách quan, gồm các thành phần kinh tế được xác
định tuỳ theo đặc điểm kinh tế xã hội và quan điểm chính trị của mỗi quốc gia trong
từng giai đoạn khác nhau. Tại Việt nam, khu vực KTNQD tồn tại dưới các hình
thức: doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phàn, hợp tác xã, tổ sản
xuất, hộ kinh doanh cá thể... Từ năm 1986 đến nay, khu vực KTNQD đã tạo ra
khoảng 50% tổng sản phẩm trong nước, 1/3 giá trị sản lượng công nghiệp mỗi năm.
Khu vực này bộc lộ nhiều vai trò không thể phủ nhận, nhất là trong tình hình kinh tế
hiện nay:
- Thứ nhất, khu vực KTNQD góp phần khai thác những tiềm năng to lớn của
nền kinh tế. Cùng với khu vực KTQD, KTNQD là cộng sự đắc lực đào xới những
mảnh đất màu mỡ của nền kinh tế chưa được sử dụng đến. Các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh có khả năng tập trung vốn, trí tuệ vào các ngành kinh tế phát triển hay
những ngành kinh tế đòi hỏi nhiều hàm lượng tri thức như công nghệ thông tin cũng
như có khả năng lấp đầy những khoảng trống trong các lĩnh vực sản xuất kinh
doanh không cần nhiều vốn và có mức lợi nhuận thấp mà các nhá đầu tư lớn ít quan
tâm tới.
- Thứ hai, khu vực KTNQD là cầu nối quan trọng để nền kinh tế nước ta
từng bước hoà nhập với nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới bởi lẽ đây là khu
vực năng động và hiệu quả cao.
- Thứ ba, khu vực KTNQD góp phần giải quyết công ăn việc làm cho nền
kinh tế, vấn đề thất nghiệp và tạo ra sự phát triển cân đối trong cơ cấu nền kinh tế.
Trung bình ở nước ta mỗi năm khu vực này đem lại việc làm cho hơn một triệu
người lao động.
- Thứ tư, KTNQD giải phóng năng lực sản xuất của người lao động, tạo ra
nguồn sản phẩm phong phú về số lượng và chất lượng đáp ững mọi nhu cầu của xã
hội. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, KTNQD luôn tập trung cao độ tinh thần
làm việc, phát huy mọi khả năng sãn có để có thể đem lại hiệu quả cao nhất. Một
mặt, đây là đối thủ cạnh tranh của khu vực KTQD, nếu một trong hai bên không
năng động, mạnh dạn đổi mới thì lập tức sẽ bị thị trường đào thải; mặt khác, sự kết
hợp sản xuất và tiêu thụ giữa hai khu vực tạo ra một dây truyền sabr xuất lớn trong
nền kinh tế, giúp quá trình sản xuất được rút ngắn.
- Thứ năm, KTNQD góp phần tăng thu cho NSNN. Thuế là nguồn thu chính
vào NSNN từ khu vực này. Trong năm 2001, tổng thu từ khu vực KTNQD đạt
102,4% dự toán năm, từ DNNN là 109% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(trừ dầu thô) là 113,5%.
- Thứ sáu, KTNQD tạo ra một thị trường vốn tín dụng lớn và hứa hẹn nhiều
tiềm năng. Với chính sách đổi mới, nền kinh tế tăng trưởng khá, khu vực KTNQD
ngày càng tăng về số lượng và quy mô. Tính đến 12/2001, trên địa bàn Hà nội có
421 công ty cổ phần, 5223 công ty TNHH, 950 doanh nghiệp tư nhân, 543 hợp tác
xã và tổ sản xuất, trên 75000 hộ kinh doanh cá thể và 375 là thuộc các loại hình
khác.
I.2. Đặc điểm của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh:
KTNQD là khu vực kinh tế bao gồm các tổ chức, cá nhân hoạt động kinh
doanh bằng nguồn vốn của cá nhân hoặc một số cá nhân đóng góp, theo cơ chế thị
trường vì mục tiêu lợi nhuận.
-Thứ nhất, KTNQD mang tính sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, do tư nhân
quản lý và phân phối lợi nhuận, hiệu quả sản xuất gắn liền với quyền lợi cá nhân
người sản xuất.
- Thứ hai, mục tiêu lớn nhất trong kinh doanh là lợi nhuận, họ có thế sẵn
sàng bằng bất kỳ giá nào để kiếm được thật nhiều lợi nhuận với những phương án
kinh doanh táo bạo và mạo hiểm. Do vậy nhiều khi gây hậu quả xấu cho xã hội.
KTNQD thường tự phát và khó quản lý, không ít cơ sở kinh doanh trái phép, kinh
doanh không kê khai nộp thuế, trốn thuế, lợi dụng hoá đơn chứng từ xin hoàn thuế
sai quy định.
- Thứ ba, tổ chức các cơ sở KTNQD phần lớn là quy mô nhỏ do vốn ít, cơ
cấu gọn nhẹ, linh hoạt, dễ dàng thích ứng nhanh với sự thay đổi của môi trường
kinh doanh. Nhân viên thường đảm nhận công việc theo kiểu đa năng, chi phí nhân
công thấp.
Với những vai trò và đặc điểm trên, khu vực KTNQD ngày càng được
khuyến khích và đảm bảo môi trường thuận lợi để phát triển. Tuy vậy, khuyến khích
phát triển khu vực này không đồng nghĩa với việc buông lỏng quản lý, do vậy, hệ
thống pháp luật phải được thể chế hoá đầy đủ, rõ ràng cả tầm vĩ mô và vi mô để có
thể phát huy tối đa mặt tíc cực và hạn chế đến mức thấp nhất mặt tiêu cực của
KTNQD trong cơ chế thị trường.
I.3. Các sắc thuế chủ yếu đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh:
Từ ngày 1/1/1999 thực hiện chương trình cải cách thuế bước hai, hệ thống
thuế của Nhà nước ta bao gồm 10 sắc thuế, trong đó có 4 sắc thuế chủ yếu áp dụng
đối với khu vực KTNQD.
A. Thuế môn bài:
Thuế môn bài mang tính chất là thuế trực thu, động viên sự đóng góp trực
tiếp của cơ sở kinh doanh, tạo được một nguồn thu quan trọng cho nhu cầu chi tiêu
của NSNN ngay từ đầu mỗi năm khi các nguồn thu khác chưa nhiều. Thuế môn bài
có tác dụng kiểm kê, kiểm soát các cơ sở kinh doanh, có căn cứ phân loại quy mô
doanh thu lớn, vừa, nhỏ để áp dụng biện pháp quản lý thu thuế thích hợp.
Thuế môn bài áp dụng đối với mọi tổ chức, cá nhân có thực tế kinh doanh.
Thuế thu mỗi năm một lần và chủ yếu thu vào đầu năm. những cơ sở kinh doanh
hoạt động trong sáu tháng đầu năm phải nộp mức thuế môn bài cả năm. Nếu bắt đầu
hoạt động trong sáu tháng cuối năm thì nộp 50% mức thuế cả năm.
Thuế môn bài hàng năm được quy định trong biểu thuế qua sáu bậc tương
ứng với số thu nhập bình quân tháng cao hay thấp.
Với mục đích kiểm kê, kiểm soát các cơ sở thực tế kinh doanh, thuế môn bài
không có quy định miễn giảm thuế.
B. Thuế giá trị gia tăng (GTGT):
Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ
phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Bản chất của thuế GTGT là loại thuế do người tiêu dùng hàng hoá hoặc dịch
vụ chi trả, là một yếu tố cấu thành trong giá thanh toán của sản phẩm hàng hoá.
Đối tượng của thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh
doanh và tiêu dùng tại Việt nam (trừ 26 nhóm hàng hoá, dịch vụ quy định tại Thông
tư số 122/2000/TT-BTC quy định chi tiết thi hành luật thuế GTGT.
Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất. Thuế suất giá trị gia
tăng hiện nay ở Việt nam có 4 mức: 0%, 5%, 10%, 20%. Cụ thể:
- Thuế suất 0% áp dụng đối với hàng xuất khẩu.
- Thuế suất 5% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ thiết yếu.
- Thuế suất 10% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ phổ thông.
- Thuế suất 20% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ được coi là cao cấp cần
điều tiết cao.
Hiện nay ở nước ta áp dụng hai phương thức tính thuế GTGT:
Phương pháp khấu trừ áp dụng cho các đối tượng kinh doanh và các doanh nghiệp
Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, công ty
cổ phần, hợp tác xã và các tổ chức kinh doanh khác thuộc diện thực hiện chế độ sổ
sách kế toán, hoá đơn chứng từ theo quy định.
Phương pháp tính trực tiếp áp dụng đối với các cá nhân sản xuất, hoạt đọng trong
nước và các tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt nam không theo luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá
đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ, các cơ sở kinh
doanh mua bán vàng, bạc, đá quý.
C. Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB):
Thuế TTĐB mang tính chất là thuế gián thu áp dụng đối với 8 loại hàng hoá
và 4 hình thức dịch vụ (quy định trong luật thuế TTĐB) được sản xuất trong nước
và nhập khẩukhông thuộc loại thật cần thiết cho nhu cầu đời sống thiết yếu nhằm
động viên sự đóng góp của người tiêu dùng cho NSNN, hạn chế sản xuất, nhập
khẩu và tiêu dùng nhiều các mặt hàng này.
Những cơ sở sản xuất mặt hàng chịu thuế TTĐB phải nộp thuế TTĐB và
không phải nộp thuế GTGT. Thuế TTĐB chỉ nộp một lần tại khâu sản xuất (đối với
hàng hoá sản xuất trong nước), khâu nhập khấu (đối với hàng hoá nhập khẩu hoặc ở
khâu cung ứng dịch vụ (đối với dịch vụ chịu thuế).
Căn cứ tính thuế TTĐB là giá tính thuế của hàng hoá dịch vụ chịu thuế và
thuế suất. Theo quy định hiện hành, biểu thuế TTĐB có mức thuế suất cao gồm 12
mức thuế suất khác nhau từ 15% đến 100% được phân theo loại hàng hoá và dịch
vụ. Đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế TTĐB, thuế suất thuế TTĐB không phân
biệt hàng hoá nhập khẩu hay hàng hoá sản xuất trong nước.
Thuế TTĐB được xét miến giảm và hoàn thuế trong một số trường hợp cụ
thể được quy định trong luật thuế.
D. Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN):
Thuế TNDN là loại thuế trực thu, đánh trực tiếp vào thu nhập thực tế của các
đối tượng nộp thuế, các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có
thu nhập chịu thuế.
Căn cứ tính thuế TNDN là thu nhập chịu thuế và thuế suất. Mức thuế suất
chung là 32%, ngoài ra có một số trường hợp đặc biệt mức thuế suất có thể thấp hơn
hoặc cao hơn được quy định cụ thể trong luật thuế TNDN.
II. Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh:
II.1. Yêu cầu của công tác quản lý thu thuế ngoài quốc doanh:
Yêu cầu chung của công tác quản lý thu thuế đó là phải thu đúng, thu đủ và
thu kịp thời theo đùng pháp luật. Tổng cục thuế đã nghiên cứu, ban hành các quy
trình chế độ nghiệp vụ cho từng loại đối tượng kinh doanh có thực hiện hoá đơn, sổ
sách kế toán hoặc khoán thuế thuộc diện quản lý thu thuế theo từng sắc thuế. Công
tác quản lý thu thuế phải thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ để nắm chắc cơ sở
kinh doanh thực tế, có cớ sở thu thuế đầy đủ về doanh số phát sinh theo từng cơ sở,
từng thời gian, đảm bảo được nguyên tắc lập sổ thuế, thông báo thuế và thu thuế
đúng với thời gian quy định và cơ sở để giải quyết xử lý nộp chậm, dây dưa tiền
thuế, trốn thuế. Việc tách công tác quản lý thành ba bộ phận nhằm tạo được sự hỗ
trợ trong tổ chức thuế, vừa chống được thất thu có hiệu quả, vừa khắc phục tuỳ tiện,
tiêu cực trong công tác quản lý thu thuế. Một yếu tố cơ bản để cơ quan thuế xác
định được việc thu thuế sát đúng với thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh là phải
đảm bảo được việc thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kê khai đăng ký thuế, chế độ hoá
đơn chứng từ, sổ sách kế toán ở tất cả các cơ sở kinh doanh.
Ngoài yêu cầu cơ bản trên, công tác quản lý thu thuế đối với nền kinh tế
nhiều thành phần còn phải đảm bảo yêu cầu về mặt tài chính tức là đảm bảo tỷ lệ
động viên hợp lý đối với các thành phần kinh tế, thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân
sách, phải bao quát đủ mọi nguồn thu để khai thác động viên cho ngân sách; đảm
bảo yêu cầu về mặt kinh tế tức là phải làm cho thuế trở thành công cụ chủ yếu của
Nhà nước trong quản lý vĩ mô nền kinh tế; đảm bảo yêu cầu về mặt xã hội là phải
góp phần từng bước thực hiện công bằng xã hội.
Để thực hiện tốt những yêu cầu trên, trong công tác quản lý cần phải quán
triệt một số quan điểm sau:
Thứ nhất, phát huy sức mạnh của các cấp, các ngành. Công tác thuế là nhiệm
vụ chung của chính quyền các cấp, do vậy phải có sự tăng cường chỉ đạo, lãnh đạo
của chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở. Công tác thuế là một công tác chính
trị, kinh tế tổng hợp liên quan đến mọi thành phần kinh tế trong xã hội, là cuộc đấu
tranh gay gắt giữa lợi ích cá nhân cục bộ với lợi ích quốc gia, giữa quyền lợi và
nghĩa vụ của mọi công dân, mọi tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy
không thể tách công tác quản lý thu thuế của ngành thuế ra khỏi sự chỉ đạo của
chính quyền các cấp. Phải coi việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác thuế là nhiệm vụ trọng
tâm thường xuyên của địa phương. Các ngành nội chính cũng cần xác định mối
quan hệ với cơ quan thuế, vừa là phối hợp hỗ trợ, vừa là trách nhiệm cùng cơ quan
thuế thực hiện các luật thuế có hiệu quả.
Thứ hai là quan điểm đảm bảo bình đẳng về nghĩa vụ nộp thuế. Trong cơ chế
thị trường, mọi thành phần kinh tế được bình đẳng trước pháp luật để cạnh tranh
trong sản xuất kinh doanh. Do đó, hệ thống thuế cũng phải được thực hiện thống
nhất nhằm đảm bảo sự bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp cho NSNN giữa các doanh
nghiệp, tầng lớp dân cư. Về lâu dài cần nghiên cứu, thu hẹp tiến tới xoá bỏ mọi
phân biệt đối xử tràn lan về nghĩa vụ nộp thuế để đảm bảo sự bình đăngr và cạnh
tranh lành mạnh.
Thứ ba là giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích Nhà nước với người
nộp thuế . Do đó phải xác định rõ chức năng của từng sắc thuế và của cả hệ thống
thuế. Mỗi sắc thuế chỉ nên đảm nhận một số chức năng chủ yếu nhất định, đảm bảo
cho sắc thuế đó đơn giản, có thể thực hiện đầy đủ, có hiệu quả cao. Một chính sách
thuế được coi là hoàn hảo khi nó đạt được các mục tiêu về mặt tài chính (đưa lại số
thu quan trọng cho ngân sách); về mặt xã hội (đảm bảo công bằng và hợp lý); về
mặt kinh tế (có tác dụng khuyến khích và thúc đẩy hoạt động sản xuất); về mặt
nghiệp vụ (đơn giản, dễ hiểu, dễ làm). Trong cơ chế thị trường, nền kinh tế phát
triển do nhiều yếu tố khách quan, đặc biệt là quy luật cung cầu và quy luật giá trị,
do đó thuế có vai trò quan trọng trong điều tiết vĩ mô chỉ nên tác động ở mức độ
vừa phải, góp phần, không phải là công cụ độc nhất. Chính sách và biện pháp quản
lý về thuế không can thiệp quá sâu vào mọi khía cạnh hoạt động tích cực hay tiêu
cực của từng doanh nghiệp và cần tạo môi trường thông thoáng mang tính bình
quân để cơ sở kinh doanh có thể chủ động, linh hoạt trong điều hành sản xuất kinh
doanh, tạo thu nhập cao và nộp thuế đầy đủ theo quy định của pháp luật.
Thứ tư là quan điểm quần chúng của Đảng trong tuyên truyền, giáo dục về
thuế. Việc tuyên truyền, giáo dục chính sách, chế độ thuế không chỉ là truyền đạt
một chiều từ trên xuống mà thông qua công tác quản lý thường xuyên, cán bộ thuế
phải thấy được những khó khăn thực tế phát sinh trong tổ chức thực hiện. Phải lắng
nghe ý kiến, nguyện vọng của các nhà doanh nghiệp, trung thực phản ánh ý kiến lên
trên, nghiên cứu, sửa đổi bổ sung để chính sách thuế, chế độ thuế ngày càng phù
hợp với trình độ và khả năng đóng góp của nhân dân.
II.2. Nội dung của công tác quản lý thu thuế khu vực ngoài quốc doanh:
II.2.1. Tổ chức bộ máy quản lý thu thuế:
Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý thu thuế bao gồm ba cấp:
- Cấp trung ương: Tổng cục thuế là cơ quan quản lý Nhà nước về thuế (trực
thuộc Bộ tài chính).
- Cấp tỉnh hoặc cấp tương đương: Cục thuế chỉ đạo thống nhất việc thực hiện
các luật thuế, pháp lện thuế trên địa bàn (trừ thuế xuất nhập khẩu). Cục thuế chịu sự
chỉ đạo song trùng của Tổng cục thuế và Uỷ ban nhân dân cùng cấp.
- Cấp huyện hoặc cấp tương đương: Chi cục thuế có chức năng trực tiếp tổ
chức công tác thu trên địa bàn theo đúng pháp luật. Chi cục thuế chịu sự chỉ đạo
song trùng của cơ quan thuế cấp trên và Uỷ ban nhân dân cùng cấp.
Đối với việc tăng cường tổ chức bộ máy quản lý có bốn yêu cầu cần phải đáp
ứng, đó là:
Thứ nhất, hệ thống quản lý thu thuế phải được kiện toàn, đảm bảo đủ điều
kiện thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của hệ thống thuế.
Thứ hai, bộ máy quản lý thu thuế phải trở thành hệ thống thống nhất từ trung
ương đến địa phương, đảm bảo hiệu lực của hệ thống chính sách thuế.
Thứ ba, phẩm chất cách mạng và năng lực toàn diện của cán bộ quản ly thu
thuế phải được nâng cao về trình độ nghiệp vụ, chuyên môn, về trình độ tổ chức
quản lý phù hợp với điều kiện mở rộng kinh doanh của tát cả các thành phần kinh tế
và thực hiện một chính sách thuế bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Thứ tư, quyền hạn, trách nhiệm giữa các cấp chính quyềnphải được xác lập
rõ ràng, có sự phân công cụ thể, hợp lý trong tổ chức chỉ đạo và thực hiện công tác
thuế. Chủ tịch UBND các cấp chịu trách nhiệm trực tiếp về công tác thuế trên địa
bàn lãnh thổ.
II.2.2. Mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của công tác quản lý:
Để phát huy tác dụng tích cực của các luật thuế mới đối với nền kinh tế và
thực hiện tốt quy trình quản lý mới, công tác quản lý cần thực hiện các mục tiêu
sau:
- Đảm bảo công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp, hộ kinh
doanh trong nền kinh tế, giúp các doanh nghiệp ổn định sản xuất kinh doanh, tạo
điều kiện đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ, thúc đẩy công tác hạch toán kế toán
trong các doanh nghiệp, tăng khả năng cạnh tranh trong nước cũng như trên thị
trường quốc tế.
- Đảm bảo nguồn thu cho ngân sách, khai thác, phát hiện và khơi thông các
nguồn thu còn tiềm ẩn, hạn chế tình trạng nợ đọng thuế.
- Khuyến khích mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu để giải quyết việc làm cho
người lao động.
- Nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của các
doanh nghiệp cũng như các tầng lớp dân chúng trong xã hội.
Để đạt được các mục tiêu trên, công tác quản lý thu thuế có những chức năng
cơ bản sau:
- Hướng dẫn đối tượng nộp thuế thực hiện quyền và nghĩa vụ thuế, chẳng
hạn: các thủ tục về kê khai, đăng ký nộp thuế, quyết toán hoàn thuế...
- Đôn đốc tổ chức thu thuế.
- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ thuế của các đối tượng thuế.
- Xử lý vi phạm hành chính về thuế và giải quyết khiếu nại về thuế.
- Tuyên truyền giáo dục sâu rộng chính sách, chế độ thuế.
Ngoài ra, bộ máy tổ chức còn có những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, thông qua công tác quản lý thu thuế và tình hình biến động về kinh
tế, xã hội, trình Nhà nước có những sửa đổi, bổ sung chính sách, chế độ thuế.
Hướng dẫn và tổ chức thực hiện thống nhất các quy định thuế chung cả nước.
Thứ hai, tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ thu các koại thuế hàng năm trên từng
địa bàn và trong phạm vi cả nước, đảm bảo hoàn thành và hoàn thành toàn diện
nhiệm vụ thu thuế được giao.
Thứ ba, tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra thường xuyên, đột xuất về thuế.
Thứ tư, quản lý thống nhất trong toàn ngành về biên chế, lao động, lương...
đối với cán bộ viên chức ngành thuế.
II.2.3. Đội ngũ cán bộ:
Mỗi cán bộ thuế phải nắm được lý luận cơ bản về khoa học kinh tế và khoa
học kỹ thuật để có thể phân tích, đánh giá chính xác tình hình hoạt động sản xuất
kinh doanh, hiệu quả kinh tế của từng cơ sở. Từ đó xác định đúng mức phải nộp
trong kỳ.
Cán bộ thuế phải có quan điểm chính trị vững vàng, tinh thần trách nhiệm và
kỷ luật cao, biết tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của các tổ chức Đảng, chính quyền
các cấp và có sự phối hợp chặt chẽ với các ngành liên quan, quần chúng.
II.2.4. Quy trình quản lý thu thuế:
Theo Quyết định số 1368 TCT/QĐ-TCCB, ngành thuế bắt đầu áp dụng quy
trình quản lý, thu thuế mới từ 1/1/1999 đối với các doanh nghiệp quốc doanh trung
ương và địa phương, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo luật
đầu tư nước ngoài, công ty nước ngoài hoạt động tại Việt nam không theo luật đầu
tư nước ngoài, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, các cơ sở
kinh tế tập thể, hợp tác xã, các đơn vị sự nghiệp kinh tế, nhà khách, nhà nghỉ và các
tổ chức kinh tế khác của các cơ quan Nhà nước, Đảng, Đoàn thể, hội, đơn vị lực
lượng vũ trang nhân dân trung ương và địa phương, các hộ cá thể sản xuất kinh
doanh đăng ký nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế. Nội dung:
II.2.4.1. Nhiệm vụ và chức năng của các bộ phận chính trong quá trình quản lý thu:
Phòng quản lý thu:
- Quản lý đối tượng nộp thuế, theo dõi tình hình biến động về đối tượng nộp
thuế trên địa bàn quản lý. Phân tích tình hình thu nộp, tham gia việc lập dự toán thu,
khai thác các nguồn thu trong lĩnh vực được giao quản lý. Tham mưu đề xuất với
lãnh đạo Cục các biện pháp quản lý thuế.
- Hướng dẫn đối tượng nộp thuế các thủ tục kê khai đăng ký thuế, kê khai
thuế, lập hồ sơ miễn giảm thuế, hoàn thuế và quyết toán thuế... giải đáp thắc mắc
của đối tượng nộp thuế liên quan tới việc tính thuế, thu nộp thuế. Lập và tổ chức lưu
giữ hồ sơ các doanh nghiệp.
- Thực hiện kiểm tra các chỉ tiêu kê khai trên các tờ khai, hồ sơ của doanh
nghiệp. Liên hệ với đối tượng nộp thuế để chỉnh sửa theo đúng quy định.
- Đề xuất và tham mưu cho lãnh đạo Cục giải quyết các trường hợp đề nghị
miễn giảm thuế, hoàn thuế. Lập các thủ tục xét miễn, giảm, hoàn thuế, kiểm tra hồ
sơ quyết toán thuế. Cung cấp thông tin về kết quả xét miễn, giảm, hoàn thuế và
quyết toán thuế cho bộ phận tính thuế.
- Thực hiện việc ấn định thuế cho các đối tượng nộp thuế không nộp hoặc
nộp chậm tờ khai thuế. Xác định các đối tượng nộp thuế cần phát hành lệnh thu
hoặc phạt hành chính thuế.
- Theo dõi tình hình nộp thuế. Phối hợp với phòng TT-XLTT thực hiện kiểm
tra sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ mua bán của các đối tượng có hiện tượng
khai man thuế, trốn lậu thuế...
Phòng kế hoạch-kế toán- thống kê và phòng máy tính:
- Phân tích số liệu thống kê thuế để lập dự toán thu hàng năm của toàn đơn
vị. Phân bổ kế hoạch và theo dõi tiến độ thực hiện kế hoạch của các chi cục và các
phòng quản lý thu. Tham mưu cho lãnh đạo Cục về khai thác các nguồn thu và các
biện pháp chỉ đạo thu.
- Thực hiện nhập tờ khai đăng ký thuế và quản lý hệ thống cấp mã số đối
tượng nộp thuế, in Giấy chứng nhận đăng ký thuế.
- Xử lý tính thuế, tính nợ, tính phạt nộp chậm, in thông báo thuế, nhận giấy
nộp tiền từ kho bạc, chấm nợ. Nhận các kết quả xét miễn, giảm, hoàn thuế, quyết
toán thuế và các kết quả thanh tra, kiểm tra từ các phòng quản lý thu, phòng TT-
XLTT và phòng nghiệp vụ,.. thực hiện các biện pháp thu nộp thuế.
- Thực hiện công tác kế toán, thống kê thuế theo chế độ quy định. Kiểm tra,
đối chiếu số thu với Kho bạc.
- Triển khai và phát triển công tác tin học cho Cục thuế và các chi cục thuế
trực thuộc Cục.
Phòng thanh tra-xử lý tố tụng:
- Kiểm tra phát hiện các đối tượng có hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ
nhưng không kê khai đăng ký nộp thuế để đưa vào diện quản lý thu thuế.
- Căn cứ vào các thông tin do bộ phận quản lý và bộ phận tính thuế cung cấp
về tình hình nộp từ khai thuế, nộp thuế và các nguồn thông tin khác để xác định các
đối tượng cần thanh tra, kiểm tra về thuế. Lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra trình
lãnh đạo Cục duyệt. Tổ chức lực lượng kiểm tra và tiến hành kiểm tra các đối tượng
cần kiểm tra về hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, kiểm tra sổ sách, hoá đơn,
chứng từ mua bán hàng hoá... phát hiện kịp thời các hành vi khai man thuế, trốn
thuế, đề xuất các biện pháp xử lý theo pháp luật.
- Hỗ trợ các phòng quản lý thu thuế để quản lý, đôn đốc thu nộp và thực hiện
các biện pháp cưỡng chế thu đối với các đối tượng chấy ỳ, cố tình vi phạm luật
thuế.
- Kiểm tra việc chấp hành các quy định về quản lý thu và tính thuế của các
bộ phận quản lý thu và bộ phận tính thuế để kịp thời chấn chỉnh những sai sót trong
công tác quản lý thu thuế.
II.2.4.2. Nội dung quy trình:
II.2.4.2.1. Quy trình đăng ký thuế và cấp mã số thuế.
Doanh nghiệp ra kinh doanh phải liên hệ với Cục thuế (bộ phận ấn chỉ thuế)
để nhận và kê khai tờ khai đăng ký thuế theo mẫu quy định. Sau đó doanh nghiệp
gửi tờ khai đăng ký thuế kèm theo bản sao có công chứng quyết định thành lập và
giấy phép kinh doanh tới cơ quan thuế để được cấp mã số thuế.
Phòng hành chính sẽ nhận tờ khai đăng ký thuê của doanh nghiệp và nhận
các tệp tờ đăng ký từ các Chi cục gửi lên và ghi sổ nhận đăng ký thuế. Phân loại tờ
khai theo từng phòng quản lý thu để chuyển cho phòng quản lý thu và chuyển các
tệp đăng ký thuế của các Chi cục cho phòng KH-KT-TK (MT).
Phòng quản lý thu tiến hành kiểm tra các tờ khai đăng ký thuế, tiến hành sửa
đổi nếu có sai sót và chuyển tờ khai đăng ký thuế đã kiểm tra cho phòng KH-TK-
KT (MT). Phòng này nhận các tệp tờ khai và các tờ khai từ Chi cục và phòng quản
lý thu, thực hiện nhập các thông tin vào máy tính. Máy tính sẽ gán mã số thuế cho
đối tượng nộp thuế. Cán bộ thuế nhập đăng ký thuế sẽ ghi lại mã số cho đối tượng
nộp thuế vào tờ khai đăng ký. Phòng KH-TK-KT (MT) truyền dữ liệu đăng ký thuế
về Tổng cục để kiểm tra tránh sự trùng lắp mã số trên toàn quốc. Sau khi kiểm tra
Tổng cục sẽ gửi trả kết quả cho Cục thuế và phòng KH-KT-TK (MT) tiến hành in
giấy chứng nhận đăng ký thuế và bảng kê danh sách mã số đối tượng nộp thuế
chuyển cho các phòng quản lý thu và các Chi cục để gửi tới đối tượng nộp thuế.
II.2.4.2.2. Quy trình xử lý tờ khai và chứng từ nộp thuế.
Phòng hành chính nhận tờ khai thuế, ghi sổ theo dõi và chuyển tờ khai cho
các phòng quản lý thu. Phòng quản lý thu nhận tờ khai và tiến hành kiểm tra phát
hiện lỗi. Phòng quản lý thu có trách nhiệm liên hệ với đối tượng nộp thuế để sửa lỗi
tờ khai. Sau khi kiểm tra tờ khai thuế, phòng quản lý thu tiến hành phân loại và
đóng tệp tờ khai theo ngày kiểm tra và gửi tờ khai ngay trong ngày cho phòng KH-
KT-TK (MT). Phòng này tiến hành nhập tờ khai vào máy tính, tiếp tục kiểm tra phát
hiện lỗi. Đối tượng nộp thuế sẽ phải liên hệ qua điện thoại hoặc trực tiếp đến cơ
quan thuế để sửa lỗi. Việc sửa lỗi tờ khai thuế GTGT phải diễn ra trước ngày 15
hàng tháng, sửa lỗi tờ khai thuế TNDN trước ngày 28/2 hàng năm. Nếu quá thời hạn
thì phòng quản lý thu tiến hành ấn định thuế theo luật định.
Phòng KH-KT-TK (MT) tính nợ kỳ trước chuyển sang, tính thuế phải nộp kỳ
này dựa vào tờ khai và danh sách ấn định thuế để in thông báo thuế. Thông báo thuế
in xong được chuyển cho lãnh đạo Cục ký và được sao thành 2 bản: 1 bản cho đối
tượng nộp thuế giữ và 1 bản chuyển cho phòng quản lý thu lưu giữ hồ sơ của doanh
nghiệp.
Các trường hợp nộp chậm tiền thuế, kéo dài sẽ bị tính phạt nộp chậm hoặc
phạt hành chính hoặc lập lệnh thu được tiến hành theo Quyết định số 1368 của Tổng
Cục thuế.
Đối tượng nộp thuế căn cứ tờ khai tính thuế của mình để tự viết giấy nộp tiền
và nộp thuế vào kho bạc. Phòng KH-TK-KT (MT) hàng ngày nhận giấy nộp tiền từ
các Kho bạc hoặc các Chi cục chyển lên nhập số liệu từ giấy nộp tiền vào máy tính
để theo dõi tình hình nộp thuế của đối tượng nộp thuế. Phòng TT-XLTT và các
phòng quản lý thu khai thác đối tượng nộp thuế có nghi vấn về kê khai thuế trên
máy tính để tiến hành kiểm tra và xử lý.
II.2.4.2.3. Quy trình xử lý hoàn thuế.
Đối tượng nộp thuế lập hồ sơ theo quy định để đề nghị hoàn thuế và gửi đến
cơ quan thuế trực tiếp quản lý thu.
Phòng quản lý thu tiến hành kiểm tra các thủ tục hồ sơ đề nghị hoàn thuế của
đối tượng nộp thuế và xác định số thuế hoàn trả và lập phiếu trình lãnh đạo về việc
hoàn thuế cho doanh nghiệp. Thời gian cơ quan thuế nhận xử lý hồ sơ hoàn thuế và
ra quyết định hoàn thuế chỉ được kéo dài tôí đa không quá 30 ngày. Trong thời gian
5 ngày kể từ khi nhận được quyết định hoàn thuế của cơ quan thuế, kho bạc thực
hiện thủ tục hoàn thuế, lập chứng từ hoàn thuế và gửi 1 liên chứng từ hoàn thuế cho
cơ quan thuế.
II.2.4.2.4. Quy trình xử lý miễn thuế, giảm thuế, tạm giảm thuế.
Đối tượng nộp thuế thuộc diện được miễn, giảm, tạm giảm thuế theo luật
thuế phải lập hồ sơ đề nghị được miễn, giảm, tạm giảm thuế theo quy định để gửi cơ
quan thuế. Phòng quản lý thu có nhiệm vụ hướng dẫn, giải thích các thủ tục lập hồ
sơ để nghị miễn, giảm, tạm giảm thuế cho các đối tượng nộp thuế.
Phòng hành chính nhận hồ sơ đề nghi và ghi vào sổ nhận hồ sơ theo mẫu,
đóng dấu ngày nhận vào đơn đề nghị và chuyển tới các phòng quản lý thu.
Phòng quản lý thu nhận hồ sơ tiến hành kiểm tra thủ tục hồ sơ để xác định số
thuế được miễn, giảm, tạm giảm. Sau đó trình lãnh đạo duyệt. Phòng hành chính
nhận được quyết định miễn, giảm, tạm giảm sao thành 3 bản: 1 bản lưu tại phòng
hành chính, 1 bản cho phòng quản lý thu, 1 bản cho đối tượng nộp thuế.
Phòng quản lý thu căc cứ vào quyết định miễn, gảm, tạm giảm thuế để lập
danh sách kết quả miễn, giảm, tạm giảm theo mẫu.
Phòng KH-TK-KT (MT) nhận danh sách quyết định nhập số thuế được miễn,
giảm, tạm giảm để điều chỉnh số thuế phải nộp từng kỳ của đối tượng nộp thuế.
II.2.4.2.5. Quy trình xử lý quyết toán thuế.
Đối tượng nộp thuế trong thời hạn 60 ngày kể từ khi kết thúc năm dương lịch
phải lập và gửi quyết toán thuế cho cơ quan thuế. Đối với đối tượng nộp thuế chia,
tách, sát nhập, giải thể trong thời hạn 45 ngày kể từ khi có quyết định sát nhập, chia
tách, giải thể...
Phòng hành chính nhận quyết toán thuế, ghi vào sổ theo mẫu và đóng dấu
ngày nhận vào rồi chuyển tới các phòng quản lý thu. Phòng quản lý thu có trách
nhiệm kiểm tra số liệu quyết toán thuế và xác định số thuế còn thừa hoặc thuế sau
quyết toán của từng đối tượng nộp thuế.
Phòng quản lý thu lập danh sách đối tượng nộp thuế nộp chậm hoặc không
nộp quyết toán, trình lãnh đạo quyết định phạt hành chính. Chuyển danh sách ghi số
tiền phạt hành chính cho phòng KH-TK-KT để theo dõi thu nộp.
II.2.4.2.6. Lập hồ sơ đối tượng nộp thuế.
Phòng quản lý thu có trách nhiệm tạo lập và quản lý hồ sơ các doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp sẽ có một cặp hồ sơ lưu trữ các tài liệu như đăng ký thuế, thông
báo thuế, các hồ sơ và quyết định hoàn thuế, giảm, tạm giảm, quyết toán thuế, các
biên bản kiểm tra, quyết định xử lý kiểm tra... thời gian lưu trữ hồ sơ trong suốt quá
trình tồn tại, hoạt động của doanh nghiệp, huỷ sau 10 năm kể từ khi doanh nghiệp
có quyết định giải thể, phá sản...
Phòng KH-KT-TK (MT) có nhiệm vụ lưu trữ các tờ khai, bảng kê, chứng từ
nộp thuế của đối tượng nộp thuế theo từng sắc thuế, kỳ thuế và theo phòng quản lý
thu. Thời gian lưu giữ trong vòng 5 năm.
II.3. Vai trò của quản lý thu thuế ngoài quốc doanh:
Thuế thu từ khu vực KTNQD chiếm tỷ trọng không lớn trong tổn thu NSNN.
Công tác quản lý thu thuế KTNQD không chỉ đơn thuần phục vụ cho mục tiêu thu
ngân sách mà chính là thực hiện vai trò quản lý Nhà nước đối với khu vực NQD,
thông qua công cụ thuế thực hiện yêu cầu quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói
chung. Quản lý thu thuế NQD có vai trò quan trọng trong việc đưa chính sách, pháp
luật vào cuộc sống kinh doanh và phát huy tác dụng của các chính sách đó.. công
tác quản lý thu thuế NQD còn đảm bảo công bằng xã hội và tạo ra sự cạnh tranh
lành mạnh giữa các đơn vị và thành phần kinh tế.
Thông qua công tác thuế đã góp phần tích cực trong việc tạo môi trường kinh
tế, pháp lý và tạo sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh; thực hiện chức năng
kiểm soat, định hướng phát triển của Nhà nước đối với khu vực KTNQD; thúc đẩy
nền kinh tế hàng hoá phát triển nhanh chóng và đúng hướng; thúc đẩy các cơ sở
thực hiện hạch toán kinh doanh, huy động triệt để các nguồn vốn ngày càng có hiệu
quả, sử dụng nguồn lao động, thiết bị tốt hơn.
Công tác thuế góp phần quan trọng phát huy mặt tốt của nền kinh tế thị
trường và hạn chế mặt trái của nó. Một trong những “trục trặc” của cơ chế thị
trường là sự phân hoá thu nhập giữa người giàu và người nghèo, dễ phát sinh tệ nạn
tham nhũng làm tha hoá bản chất đạo đức do kinh doanh chạy theo lợi nhuận bất
chấp cả luật pháp. Hoạt động thu thuế góp phần điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp
dân cư, góp phần thực hiện công bằng xã hội và tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa
các chủ thể kinh doanh.
Công tác quản lý thu thuế NQD có vai trò giáo dục ý thức và trách nhiệm của
công dân trong việc thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. Thông qua công tác tuyên
truyền pháp luật thuế của ngành thuế đã làm cho mọi người biết và hiểu các quy
định của Nhà nước để chấp hành. đối tượng nộp thuế thuộc khu vực KTNQD rất đa
dạng và phức tạp, nhiều nơi có trình độ dân trí chưa cao, ý thức chấp hành luật pháp
của nhân dân chưa nghiêm, sự hiểu biết về pháp luật và nhận thức về trách nhiệm
nghĩa vụ của công dân chưa đầy đủ, thông qua công tác quản lý thu thuế cán bộ thuế
đã truyền đạt chính sách pháp luật của đảng và Nhà nước, giới thiệu, giải thích
chính sách thuế cho đối tượng nộp thuế để họ hiểu và tự giác thực hiện nghĩa vụ của
mình. Từ đó, đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời tiền thuế vào ngân sách.
III. Kinh nghiệm về quản lý thu thuế ở các nước trên thế giới:
Thứ nhất, về chế độ kê khai, đăng ký và cấp mã số thuế:
Trước khi bắt đầu hoạt động, các cơ sở kinh doanh phải kê khai, đăng ký
thuế và nhận một mã số thuế riêng cho đơn vị , được ghi vào máy tính. Mọi hoạt
động kinh doanh đều phải được thường xuyên bổ sung vào hồ sơ theo mã số hoá
của đơn vị, thuận tiện cho việc tra cứu và xác định căn cứ tính thuế. Định kỳ theo
quy định của cơ quan thuế đối tượng nộp thuế phải lập tờ khai theo mẫu và trực tiếp
nộp thuế nào kho bạc cùng giấy nộp tiền.
Thứ hai, về hoá đơn, chứng từ, sổ sách kế toán:
Mọi đơn vị kinh doanh lớn và vừa phải thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hoá
đơn, số sách kế toán. Ngoài việc hoá đơn ghi rõ mã số của đơn vị bán hàng, thuận
tiện tra cứu khi cần thiết, nên khuyến khích các đơn vị tự in hoá đơn.
Thứ ba, về chính sách:
Chính sách thuế phải được quy định rõ ràng, đầy đủ. Từ đó, đối tượng nộp
thuế có thể thực hiện tự kiểm tr, tự tính thuế, tự kê khai, tự nộp thuế. Cán bộ thuế
làm công tác kiểm tra các đơn vị nghi vấn và xử lý khi có vi phạm.
Thứ tư, về công tác kiểm tra và cưỡng chế thuế:
Khi kiểm tra, thông qua hệ thống máy tính, phát hiện khai không đúng, sử
dụng hai hệ thống sổ sách, sử dụng chứng từ giả, quay vòng chứng từ phải lập biên
bản và xử lý thích đáng đối với từng loại sai phạm. kế hoạch kiểm tra, thanh tra
thường xuyên có sự dự tính đến hiệu qủa giữa chi phí bỏ ra và số thuế thu về. Tổ
chức cưỡng chế thuế được coi là khâu cuối cùng của công tác thu thuế. Trường hợp
dây dưa tiền thuế bị cưỡng chế thuế qua hình thức trích tiền trong tài khoản ngân
hàng, kê biên tài sản bán đáu giá. trường hợp vi phạm nặng, lập hồ sơ chuyển sang
toà án hành chính.
Thứ năm, về công tác tuyên truyền, giáo dục:
Tuyên truyền, giáo dục phải được tiến hành thường xuyên thông qua đăng
đầy đủ các văn bản trên báo, sách và các tờ rơi tóm tắt văn bản đầy đủ. Mở rộng các
trung tâm tư vấn thuế.
Thứ sáu, về đội ngũ cán bộ:
Cán bộ thuế phải được tuyển chọn qua các kỳ thi tuyển chặt chẽ, được đào
tạo bồi dưỡng đầy đủ theo chức danh cán bộ trong ngành. Tiền lương, thưởng khá
cao nhưng xử lý vi phạm cũng nghiêm minh để chống tiêu cực trong ngành.
Thứ bảy, về phương tiện vật chất:
Cơ quan thuế phải được trang bị đầy đủ về phương tiện làm việc: trụ sở,
phương tiện đi lại, mạng vi tính...
Chương II: Thực trạng công tác quản lý thu thuế ngoài quốc doanh ở Cục thuế Hà
nội.
I. Khái quát chung về Cục thuế Hà nội:
I.1. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Cục thuế Hà nội:
Cục thuế Hà nội là một trong 61 Cục thuế trong cả nước được thành lập theo
Quyết định số 314TC/QĐ-TCCB ngày 21/8/1990 của Bộ trưởng Bộ tài chính về
việc thành lập Cục thuế Nhà nước. Cục thuế Hà nội ngoài đặc điểm là thực hiện
nguyên tắc song trùng lãnh đạo (vừa được sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng cục thuế
về nghiệp vụ cũng như về chỉ tiêu được giao thực hiện trong năm, vừa được sự lãnh
đạo về nhiều mặt của UBND tỉnh, thành phố nơi Cục thuế đóng trụ sở), còn có đặc
điểm riêng là đóng trên địa bàn Hà nội-thủ đô của cả nước, nơi có nhiều cơ quan
trung ương đóng. Do vậy, Cục thuế trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chịu nhiều
yếu tố tác động từ bên ngoài.
Về tổ chức bộ máy hành thu: Cục thuế Hà nội bao gồm 18 phòng (1800
người), trong đó có 10 phòng quản lý thu và 8 phòng thực hiện các chức năng khác,
ngoài ra có 12 chi cục thuế quận, huyện ở khắp trên địa bàn Hà nội.
Bộ phận lãnh đạo Cục bao gồm:
01 Cục trưởng: có nhiệm vụ quản lý chung, ngoài ra còn trực tiếp chỉ đạo phòng thu
thuế đầu tư nước ngoài.
04 Cục phó: quản lý các phòng thu theo sự phân công như sau:
01 Cục phó phụ trách các phòng thanh tra, ấn chỉ, phòng thuế trước bạ.
01 Cục phó phụ trách 5 phòng thuế xí nghiệp quốc doanh: thuế giao
thông, bưu điện, xây dựng, nông, lâm, thương nghiệp.
01 Cuc phó phụ trách về nghiệp vụ chính sách và 2 phòng thu các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
01 Cục phó phụ trách phòng đầu tư, kế hoạch, máy tính.
Sơ đồ: Bộ máy hành thu
Phòng thuế đầu
Phòng thuế
Phòng thuế
Phòng thuế văn
Phòng thuế T.
Phòng NQD và QD quận
Phòng NQD và QD quận
Phòng nông lâm
Phòng Kế hoạch
Chi cục thuế
Phòng Nghiệp
Chi cục thuế
Chi cục thuế
Phòng Máy tính
Phòng TCCB
Phòng Hành
Phòng TT-XL-TT
Phòng ấn chỉ
Phòng Tài vụ
Chi cục thuế
Chi cục thuế
Chi cục thuế
Chi cục thuế
Chi cục thuế
Chi cục thuế
Cục thuế hà nội
I.2. Tình hình thu ngân sách của Cục thuế Hà nội trong thời gian qua:
Dự toán năm 2001 giao cho thành phố Hà nội thu ngân sách nội địa là 11.959
tỷ đồng, trong đó nhiệm vụ ngành thuế phải thực hiện là 11.869 tỷ đồng. Tháng
6/2001, tại công văn số 5501 TC/TTC, Bộ tài chính giao dự toán phấn đấu cho
thành phố Hà nội 13.832,3 tỷ, trong đó ngành thuế thực hiện 13.532,3 tỷ đồng, tăng
thêm 1.664 tỷ.
Để triển khai nhiệm vụ thu ngân sách măm 2001 đạt kết quả tốt, ngay từ đầu
năm, ngành thuế Hà nội đã giao nhiệm vụ cho các phòng, các chi cục thuế tăng 5%
so với chỉ tiêu pháp lệnh được giao để các đơn vị phấn đấu thu ngay từ đầu năm.
Sau khi nhận được chỉ tiêu phấn đấu của Bộ tài chính, ngành thuế Hà nội đã khẩn
trương phân bổ để các đơn vị phấn đấu thực hiện. Hàng quý, giao nhiệm vụ thu cho
các đơn vị kèm theo chỉ tiêu thưởng thi đua; hàng tháng tại các cuộc giao ban đã
kiểm điểm lại kết quả thực hiện nhiệm vụ thu trong tháng. Vì vậy, ngay từ tháng
đầu, quý đầu năm, các đơn vị trong ngành đã tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ hàng
tháng, quý được giao, góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách hàng
năm đạt kết quả khá.
Cụ thể: kết quả thu ngân sách nội địa năm 2001 của thành phố Hà nội đã
hoàn thành vượt mức 13.576 tỷ, đạt 113,52% so với nhiệm vụ pháp lệnh; 98,15% so
với nhiệm vụ phấn đấu; tăng 6,71% so với thực hiện năm 2000. Ngành thuế Hà nội
thực hiện 13.437 tỷ, đạt 113,21% so với nhiệm vụ pháp lệnh; 99,3% so với nhiệm
vụ phấn đấu, tăng 5,98% so với thực hiện năm 2000. (Biểu 1 phản ánh kết quả
chung thu thuế năm 2001 của Cục thuế Hà nội).
Các loại thu do ngành thuế thực hiện đều hoàn thành vượt mức dự toán thu
pháp lệnh, đặc biệt thu thuế công thương nghiệp - dịch vụ ngoài quốc doanh là loại
thuế từ ngày thành lập ngành thuế đến nay đã hoàn thành vượt mức dự toán được
giao (tăng 105,55% so với dự toán pháp lệnh; 116,75% so với thực hiện năm 2000).
Ngoài ra, thu từ DNNN Trung ương tăng 5,37% so với cùng kỳ năm trước, thu từ
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,52% so với thực hiện năm
2000, thu lệ phí trước bạ tăng 27,39% so với thực hiện năm 2000... Các khoản thu
liên quan đến nhà và đất, ngân sách địa phương được hưởng điều tiết 100% vượt dự
toán tương đối lớn như tiền sử dụng đất (vượt 55,06%), tiền thuê đất (55,74%), thuế
nhà đất (13,73%), thuế chuyển quyền sử dụng đất (46,27%), tiền bán nhà
(110,51%)...góp phần tích cực vào ngân sách Trung ương cũng như
Biểu 1: Kết quả chung thu thuế năm 2001 của Cục thuế Hà nội
Đơn vị: phần trăm (%)
Chỉ tiêu
TH 2001
so dự
toán PL
TH 2001
so dự
toán PĐ
TH 2001
so TH
2000
1
2
3
4
5
6
7
Tổng số
Ngành thuế thực hiện
Thu từ DNNN Trung ương
Thu từ DNNN địa phương
Thu từ DN có vốn ĐTNN
Thuế công thương ngiêp NQD
Thu lệ phí trước bạ
Thuế nhà đất
Thuế thu nhập cá nhân
113,52
113,21
103,01
107,34
105,55
134,36
113,73
100,00
103,26
98,15
99,30
95,41
95,22
100,52
121,47
113,73
95,35
103,25
106,71
105,98
97,71
116,52
116,75
127,39
88,87
102,40
103,80
8
9
10
11
12
13
14
Thu xổ số kiến thiết
Thu phí xăng dầu
Thu phí và lệ phí
Thuế chuyển quyền sử dụng đất
Thu tiền bán nhà
Thu tiền thuế đất
Thuế sử dụng đất nông nghiệp
111,44
128,03
146,27
155,06
210,51
175,04
133,52
102,28
115,33
146,27
155,06
168,41
134,64
133,52
113,58
88,00
127,97
136,07
181,21
106,38
44,72
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác thu năm 2001 của Cục thuế Hà nội)
ngân sách thành phố, phục vụ tốt cho nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế xã hội ở
thủ đô theo Nghị quyết 15 của Bộ chính trị và Pháp lệnh về thủ đô.
Đến hết tháng 11 đã có 14/22 đơn vị hoàn thành dự toán pháp lệnh, đó là các
phòng giao thông, tài chính, nông lâm, trước bạ và các chi cục thuế Ba đình, Đống
đa, Tây hồ, Thanh xuân, Cầu giấy, Thanh trì, Đông anh, Sóc sơn.
Kết quả cả năm tất cả 22 dơn vị thu của ngành thuế Hà nội đều hoàn thành
vượt mức dự toán thu pháp lệnh, nhiều đơn vị đã hoàn thành vượt mức dự toán phấn
đấu. Các đơn vị hoàn thành dự toán với tỷ lệ cao nhất là: phòng trước bạ (34,55%),
chi cục thuế Cầu giấy (68,02%). Đơn vị thực hiện vượt mức chỉ tiêu cao nhất là
phòng tài chính ngân hàng vượt 510 tỷ, phòng giao thông vượt 472 tỷ. (Biểu 2 phản
ánh kết quả thu ngân sách của các phòng, các chi cục thuế).
Sở dĩ ngành thuế Hà nội có kết quả thu như trên nguyên nhân chính là do
tình hình kinh tế cả nước và thành phố Hà nội đạt được nhiều kết quả khả quan,
duy trì ổn định và phát triển. Mặc dù gặp nhiều khó khăn về thời tiết, giá cả, hàng
hoá xuất nhập khẩu giảm, suy thoái kinh tế thế giới...nhưng kinh tế vẫn đạt được
những mục tiêu chủ yếu trong Nghị quyết của HĐND thành phố đề ra, so với năm
trước, hầu hết các chỉ tiêu kinh tế đều tăng.
Biểu 2: Kết quả thu ngân sách các phòng, các chi cục thuế năm 2001
Đơn vi: phần trăm
Th
ứ tự
Phòng - Chi cục
Kết quả thu năm 2001 so (%)
Dự toán pháp
lệnh
Dự toán phấn
đấu
So năm 2000
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
Phòng công nghiệp
Phòng giao thông
Phòng tài chính ngân hàng
Phòng thương nghiệp
Phòng đầu tư
Phòng văn xã
Phòng nông lâm
Phòng trước bạ
Phòng NQD số 1
Phòng NQD số 2
Chi cục thuế Hoàn kiếm
Chi cục thuế Hai bà trưng
Chi cục thuế Đống đa
Chi cục thuế Ba đình
Chi cục thuế Tây hồ
Chi cục thuế Thanh xuân
Chi cục thuế Cầu giấy
Chi cục thuế Từ liêm
Chi cục thuế Thanh trì
Chi cục thuế Gia lâm
Chi cục thuế Đông anh
Chi cục thuế Sóc sơn
103,12
114,16
119,95
106,75
102,65
113,16
124,81
134,55
106,21
112,66
104,12
112,97
114,37
117,17
112,20
146,68
160,19
143,49
135,35
130,84
141,94
154,10
101,81
97,11
98,47
99,24
92,59
96,26
72,59
130,81
101,25
107,25
98,26
106,11
107,88
109,44
103,70
124,41
124,62
131,97
121,78
11444
119,76
135,47
104,87
108,43
98,42
109,23
109,56
93,82
122,18
116,22
110,23
120,40
107,94
114,32
111,26
100,26
110,69
136,04
149,58
125,12
123,20
113,00
102,75
100,97
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác thu năm 2001 của Cục thuế Hà nội)
II. Đặc điểm hoạt đông khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn Hà nội:
Từ 16 ngành nghề của 67 doanh nghiệp thành lập năm 1991, đến nay, các
doanh nghiệp NQD đã hoạt động trên 350 ngành nghề thuộc mọi lĩnh vực của nền
kinh tế. Các doanh nghiệp này góp phần phát triển các ngành công nghiệp, thương
mại, dịch vụ của Hà nội từng bước thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo hướng
phát triển các ngành nghề truyền thống.
Tính đến ngày 31/2/2002, Cục thuế Hà nội đang trực tiếp quản lý 5.399
doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại văn phòng cục được thành lập theo luật công ty,
luật doanh nghiệp tư nhân, trong đó tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực gia công hàng
may mặc, lắp ráp điện tử, tiểu thủ công nghệp, thủ công mỹ nghệ, thương mại, dịch
vụ, vận tải, du lịch. Trong đó bao gồm 421 công ty cổ phần, 5223 công ty TNHH,
393 hợp tác xã, 150 tổ sản xuất, 305 chi nhánh, 950 doanh nghiệp tư nhân và 375 là
các loại hình khác.
Đối với tình hình quản lý của các chi cục thuế: Về hộ kinh doanh cá thể do
các chi cục thuế quản lý, năm 2001, tổng số hộ quản lý thu thuế môn bài toàn thành
phố Hà nội là 62.814 hộ, đạt 90% so với số hộ qua điều tra thống kê; trong đó số hộ
quản lý thu thuế GTGT và thuế TNDN là 45.776 hộ; hộ thuộc diện miễn thuế
TNDN và không thu thuế GTGT do thu nhập thấp là 17.038 hộ.
Bảng 3: Tình hình hoạt động của doanh nghiệp ngoài quốc doanh do các chi cục
thuế quản lý (tính đến 2/2002).
Đơn vị: doanh nghiệp.
Loại hình
doanh nghiệp
Tổng số
quản lý
Trong đó
Cơ sở hoạt động Cơ sở nghỉ kinh doanh,
không tìm thấy
Công ty cổ phần
Công ty TNHH
Chi nhánh
Doanh nghiệp tư nhân
Hợp tác xã
Tổ sản xuất
Khác
303
6.539
248
1.058
611
397
568
225
4.075
163
887
477
254
411
33
1.038
40
124
100
100
132
(Nguồn: Niên giám thống kê Hà nội).
Về các doanh nghiệp NQD, tổng số 9.724 là số doanh nghiệp NQD hiện
đang được quản lý bởi các chi cục thuế quận huyện, tình hình cụ thể của khối doanh
nghiệp này được thể hiện trong bảng 3.
Với quy mô trên, hàng năm cùng với khu vực kinh tế Quốc doanh, khu vực
KTNQD đã góp phần thúc đẩy sản xuất tạo ra nhiều chủng loại hàng hoá, dịch vụ
đáp ứng nhu cầu của người dân và giải quyết một khối lượng lớn việc làm cho
người lao động. Cơ cấu sản phẩm trong nước thuộc KTNQD hàng năm luôn đạt trên
20% tổng sản phẩm xã hội. Tuy vậy, các cơ sở ngoài quốc doanh chủ yếu tập trung
ở nội thành chiếm 90%, số còn lại phân bổ ở các huyện ngoại thành.
Có thể nói, sự xuất hiện và phát triển của các công ty, doanh nghiệp, hợp tác
xã, hộ cá thể trên địa bàn Hà nội đã góp phần khắc phục một số khó khăn về huy
động vốn, giải quyết việc làm cho người lao động. Hàng hoá sản xuất ra đa dạng,
phong phú về chủng loại, chất lượng, lưu chuyển nhanh chóng, thúc đẩy sản xuất,
ổn định giá cả. Các nhà quản lý Nhà nước cũng đỡ mất thời gian về một số lĩnh vực
mà kinh tế Quốc doanh không đảm nhận được. Hoạt động trong khu vức KTNQD
thường hướng vào những ngành hàng tương đối dễ làm, dễ tiêu thụ, lợi nhuận khá,
thu hồi vốn nhanh (chế biến nông sản, thực phẩm, vật liệu dân dụng, hàng may mặc
xuất khẩu...).
Hội nghị tổng kết công tác thuế năm 2001 đã thống nhất đánh giá năm 2001
toàn ngành thuế hoàn thành xuất sắc, toàn diện nhiệm vụ thu NSNN, nhất là khu
vực công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh, là năm có tốc độ thu tăng cao
nhất so với trước đây, tăng 12% so với năm 2000. Trên địa bàn Hà nội, thu thuế khu
vực KTNQD là một lĩnh vực đầy khó khăn và nóng bỏng, nhưng đến tháng 9/2001
đã thu đạt kết quả mà những năm trước đâychưa bao giừ đạt đước: đạt 77% dự toán
pháp lệnh, 74% dự toán phấn đấu, tăng 18% so với cùng kỳ năm trước. Để hạn chế
tình trạng thất thu đối với khu vực này, cục thuế đã chỉ đạo các phòng, chi cục thuế
tăng cường các biện pháp quản lý đối tượng, quản lý doanh thu và thực hiện các quy
trình quản lý thu thuế, đẩy mạnh công tác kiểm tra chống thất thu, kiểm tra quyết
toán thuế, kiểm tra việc kê khai nộp thuế.
Tuy nhiên, KTNQD vẫn còn nhiều mặt yếu kém, hạn chế. Vấn dề nổi bật là
tình trạng thiếu vốn, nguyên liệu, môi trường hoạt động, địa điểm kinh doanh, thông
tin, khả năng tiếp cận thị trường, trình độ quản lý, kiến thức khoa học kỹ thuật...
Quy mô sản xuất nhìn chung chưa lớn, trang thiết bị lạc hậu, chưa có điều kiện
vững chắc để hoà nhập một cách thuận lợi, dễ dàng vào kinh tế thị trường, đặc biệt
là thị trường thế giới. Tổ chức kinh doanh còn bị hạn chế về sức cạnh tranh. Trình
độ quản lý hạn chế trong phạm vi chủ gia đình hơn là trình độ chủ doanh nghiệp
vừa và lớn. Một số doanh nghiệp hoạt động mang tính chất tiêu cực, chệch hướng,
làm ăn phi pháp, lừa đảo, làm hàng giả, đầu tư ngầm, tranh thủ khe hở của các luật
thuế để chiếm đoạt tiền Nhà nước. Nhiều doanh nghiệp lợi dụng quy trình tự tính
thuế, tự giác kê khai thuế để trốn thuế, kê khai không đúng kinh doanh thực tế, lập
bảng kê khai khống để gian lận thuế, tình trạng mua bán không xuất hoá đơn, lập
hoá đơn liên 2 cao hơn liên 1 để chiếm đoạt tiền thuế, bán hoá đơn khống. Tháng
9/2001, Cục thuế Hà nội đẫ đưa ra kiểm tra 17.000 lượt hộ, đã xử lý vi phạm chế độ
sổ sách kế toán đối với 795 hộ, truy thu và phạt 675 triệu đồng. Tình trạng thất thu
thuế còn nhiều cả về đối tượng nộp thuế và doanh thu tính thuế.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng thể hiện ở những kết quả khả quan nhưng khu
vực KTNQD nói chung và trên địa bàn Hà nội nói riêng vẫn cần phải được quan
tâm nhiều hơn nữa. Sự phát triển mạnh mẽ về quy mô và số lượng của khu vực
KTNQD khiến công tác quản lý thu thuế NQD khá phức tạp và gặp nhiều khó khăn
(mỗi cán bộ quản lý 35-40 doanh nghiệp), đòi hỏi ngành thuế Hà nội phải vươn lên
và củng cố về mọi mặt.
III. Thực trạng công tác quản lý thu thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Cục
thuế Hà nội:
III.1. Kết quả thu thuế ngoài quốc doanh trong thời gian qua:
Một cách tổng quát, sự phát triển về quy mô và số lượng các cơ sở KTNQD
trong thời gian qua đã đóng góp không nhỏ vào tổng thu NSNN trên địa bàn Hà nội.
Bảng 4 thể hiện tỷ trọng thu của khu vực NQD so với tổng thu các năm trên địa bàn.
Bảng 4: Tỷ trọng thu ngoài quốc doanh trên địa bàn Hà nội.
Đơn vị: triệu Việt nam đồng
Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 2001
Tổng thu
NS
5.951.608 6.206.980 10.451.864 13.241.000 11.959.000
Thu từ
KTNQD
483.436 525.853 463.021 46.000 527.000
Tỷ trọng 8,12% 8,47% 4.43% 3,5% 4,2%
(Nguồn: Niên giám thống kê Hà nội 2001).
Sở dĩ số thu năm 1999, 2000 giảm xuống là do sự thay đổi căn bản về cơ chế
chính sách thu (kinh doanh hàng xuất khẩu được áp dụng thuế suất thuế GTGT 0%,
thuế suất thuế TNDN 32% giảm so với thuế lợi tức trước đây đối với hàng ăn uống,
dịch vụ, thương nghiệp). Đây là thời kỳ hoạt động sản xuất gặp nhiều khó khăn, sức
mua giảm nên ảnh hưởng tới kết quả thu ngân sách. Năm 1999, số thu thuế từ khu
vực này là 463.012 tỷ, đạt 77,17% dự toán năm, đạt 88,32% so với năm 1998. Đồng
thời, sự bất mãn từ phía các đối tượng nộp thuế GTGT đối với những sản phẩm
trước đây chịu thuế doanh thu ở mức 0,5%, 1%, 2% nay lên 10% trên giá chưa có
thuế, mặc dù khấu trừ thuế đầu vào nhưng thuế GTGT vẫn cao hơn thuế doanh thu
phải nộp trước kia rất nhiều.
Bảng 5: Tốc độ thu đối với khu vực ngoài quốc doanh theo sắc thuế.
Đơn vị : phần trăm (%)
Chỉ tiêu
Thực hiện năm 2001 so
Dự toán năm Thực hiện năm
2000 Pháp lệnh Phấn đấu
Thuế GTGT
TĐ: CTN-NQD
110,07
93,38
102,35
93,38
107,65
116,56
Thuế TTĐB
TĐ: CTN-NQD
99,43
107,73
95,12
107,73
99,76
101,89
Thuế TNDN
TĐ: CTN-NQD
109,79
121,1
93,41
108,22
106,76
118,27
Thuế môn bài
TĐ: CTN-NQD
111,65
112,29
105,66
105,63
108,64
109,47
Thu khác
TĐ: Khu vực
CTN-NQD
409,76
118,79
135,85
118,79
271,49
119,49
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác thu năm 2001).
Đến năm 2000, ngay từ đầu năm, Cục thuế Hà nội đã chỉ đạo các chi cục
thuế và hai phòng quản lý NQD tăng cường các biện pháp quản lý đối tượng nộp
thuế nhằm hạn chế tối đa tình trạng thất thu. Tuy nhiên, đến hết năm 2000, số thuế
thu chỉ đạt 460 tỷ, tăng 84% dự toán và 100% so cùng kỳ. Nguyên nhân chủ yếu
của việc không đạt được dự toán thu năm 2000 về mặt khách quan là do dự toán thu
năm 2000 cấp trên giao cho Hà nội cao (tăng 23% so với thực hiện năm 1999),
ngoài ra do tính tự giác của doanh nghiệp không cao, trốn lậu thuế nhiều, chấp hành
chế độ sổ sách hoá đơn chưa nghiêm, để tránh sự kiểm soát của cơ quan thuế nên
nhiều doanh nghiệp thường thay đổi địa chỉ kinh doanh, văn phòng, tình trạng sát
nhập vào công ty, doanh nghiệp tư nhân của các hộ kinh doanh cá thể để trốn thuế...
Về mặt chủ quan xuất phát từ bộ máy quản lý, do các doanh nghiệp được quản lý
tập trung và cơ sở lại phát triển nhanh, nhiều, lực lượng cán bộ thuế quá mỏng, địa
bàn rộng, phân tán...nên quản lý khó; sự phối hợp giữa quận huyện với cơ quan thuế
còn hạn chế.
Do tình hình trên, để thực hiện thu ngân sách từ khu vực KTNQD đạt kết quả
tốt, năm 2001, Cục thuế Hà nội đã chỉ đạo thu quyết liệt ngay từ đầu năm, giao
nhiệm vụ thu cho các đơn vị tăng 5% so với nhiệm vụ pháp lệnh Bộ tài chính giao.
Từ cuối năm 2000, Cục thuế đã chỉ đạo các chi cục thuế và hai phòng quản lý thu
NQD tiến hành kiểm tra, rà soát lại đối tượng nộp thuế, doanh thu tính thuế để thực
hiện ấn định, lập sổ bộ thuế, tăng cường kiểm tra chống thất thu ngân sách, kiểm tra
quyết toán thuế đối với các doanh nghiệp thu theo phương pháp khấu trừ. Đứng
trước đối tượng nộp thuế quá lớn, Cục thuế đã chủ động báo cáo Tổng cục thuế
phương án phân cấp cho các chi cục thuế quản lý, trong năm đã thực hiện chuyển
gần 3000 đối tượng là các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ, ăn uống, nhà nghỉ, các
hợp tác xã, tổ sản xuất...cho các chi cục thuế; công tác kế toán hộ kinh doanh được
đẩy mạnh; thực hiện chỉ thị số 15/2001/CT-TTG (11/6/2001) của Thủ tướng Chính
phủ, UBND thành thố đã chỉ đạo thành lập các Ban chỉ đạo chống thất thu ngân
sách ở tất cả các quận, huyện do cơ quan thuế làm thường trực, do đó công tác
chống thất thu ngân sách đã được tăng cường, các khoản thuế tồn đọng được phân
loại và đôn đóc ráo riết nộp vào NSNN. Năm 2001, thu ngân sách từ khu vực này
đạt 527 tỷ đồng, đạt 105,55% dự toán pháp lệnh; 100,52% dự toán phấn đấu; tăng
16,75% so với thực hiện năm 2000. Kết quả cụ thể về tốc độ thu các loại thuế đối
với khu vực công thương nghiệp - ngoài quốc doanh (CTN-NQD) trong 2001 được
thể hiện trong bảng 4.
Để tăng cường kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ kinh
doanh công thương nghiệp chống thất thu thuế, từ năm 1996, Cục thuế Hà nội đã
trình UBND thành phố Hà nội ban hành quyết định 551 giao chỉ tiêu về số hộ cho
từng quận huyện phải đưa vào diện mở sổ sách kế toán. Việc chỉ đạo đẩy mạnh triển
khai chế độ kế toán hộ kinh doanh đã đưa trên cả nước là 100.000 hộ kinh doanh
lớn vào thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ, trong đó hơn 4000 hộ chuyển
sang thu thuế theo phương pháp kê khai, khoảng 2000 hộ đã đăng ký nộp thuế
GTGT theo phương pháp khấu trừ. Phần lớn các hộ thực hiện kế toán hoá đơn đều
có doanh thu và số thuế mới cao hơn mức cơ quan thuế ấn định trước đây. Bảng 6 là
kết quả triển khai kế toán hộ kinh doanh trên địa bàn Hà nội năm 2001.
Như vậy, thực hiện quy trình quản lý mới, thực hiện chế độ sổ sách kế toán
và hoá đơn chứng từ nghiêm chỉnh, đội ngũ cán bộ thuế quản lý doanh nghiệp đủ
trình độ hướng dẫn, kiểm tra quản lý các đối tượng nộp thuế, nhìn chung, các doanh
nghiệp NQD đã chấp hành tương đối đầy đủ các luật thuế mới, hàng tháng có trên
95% só doanh nghiệp nộp tờ khai thuế theo quy định, tăng từ 10-15% so với thuế
doanh thu trước đây. Nhiều doanh nghiệp thực hiện tốt chế độ hoá đơn chứng từ, sổ
sách kế toán, kê khai rất đúng với hoạt động thực tế. Công tác đôn đốc thu nộp có
nhiều tiến bộ, đa số doanh nghiệp đã chấp hành tốt việc nộp thuế đúng hạn theo
thông báo thuế, hạn chế tình trạng nợ đọng thuế triền miên như trước đây. Đặc biệt,
năm 1999, tình trạng nợ đọng thuế của khu vực NQD là 19.959 tỷ đồng, giảm 5%
so với năm 1998. Tuy vậy, đến hết tháng 12/2001, số thuế nợ đọng khu vưc NQD là
trên 40 tỷ đồng (tương đương 1 tháng thuế). Nhiều doanh nghiệp có số thuế nợ
đọng lớn là: Công ty chế biến nông sản Sóc sơn nợ 2,3 tỷ, Công ty XNK Bắc Sơn
nợ 14 tỷ...Số thuế thu được từ các doanh nghiệp NQN do hai phòng quản lý đến
tháng 11/2001 lần lượt là: 104.173 triệu đồng và 114.166 triệu đồng là cố gắng rất
lớn, cả 12 chi cục thuế quận huyện đều hoàn thành dự toán pháp lệnh, nhiều chi cục
thuế vượt chỉ tiêu dự toán phấn đấu: Thanh xuân (117%), Cầu giấy (110,7%), Đông
anh (108,7%)...
Tóm lại, ngành thuế Hà nội đã đạt được nhiều kết quả to lớn trong công tác
thu và quản lý thu thuế đôi với khu vực KTNQD. Tuy vậy, tình trạng thất thu ở khu
vực này vẫn còn nhiều, việc kiểm soát quản lý của cơ quan thuế gặp nhiều khó khăn
do nhiều nguyên nhân, cơ chế mua bán, thanh toán bằng tiền mặt, ngân phiếu không
qua tài khoản ngân hàng phổ biến, biên chế cán bộ mỏng...dẫn tới số thu từ khu vực
này còn hạn chế, chưa tương xứng với quy mô và tốc độ phát triển. Trong năm
2000, bình quân một doanh nghiệp nộp các loại thuế cho NSNN như sau: doanh
nghiệp Nhà nước Trung ương với 11,7 tỷ, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
là 3,7 tỷ, doanh nghiệp Nhà nước địa phương là 1,6 tỷ, thấp nhất là doanh nghiệp
NQD đạt 376,6 triệu đồng.
III.2. Về tổ chức bộ máy quản lý thu:
Thực hiện các luật thuế mới, Bộ tài chính đã có Thông tư số 110 hướng dẫn
các cục thuế phải cải tiến, kiện toàn bộ máy tổ chức phù hợp với các luật thuế mới.
Theo Thông tư này, từ năm 1999, Cục thuế các tỉnh, thành phố sẽ trực
Bảng 6: Kết quả triển khai kế toán hộ kinh doanh
Đơn vị: 1.000 Đ
Số hộ
Trong đó Kết quả kiểm tra năm
2001
Chi
cục
Thuế
quận
huyệ
n
Thực
hiện
năm
2000
MB
bậc
1,
bậc 2
năm
2000
Số hộ
triển
khai kế
toán hộ
(đến
12/200
1)
Hộ
khấ
u trừ
Hộ
nộp
trực
tiếp
trên
GT
GT
Hộ
kê
khai
Hộ
ấn
định
Lượt
hộ
kiểm
tra
Lượ
t hộ
xử
lý
Truy
thu thuế
và phạt
Cộng 13.83
2
17.10
8
15.081 353 108 9.44
2
5.17
8
32.80
5
2.06
6
1.257.1
00
Hoàn
kiếm 4.920 6.234 5.340 20 41 3.76
7
1.51
2
9.644 322 132.334
Hai bà
trưng 3.280 3.497 3.395 56 18 1.93
1
1.39
0
6.425 78 39.763
Ba
đình 786 962 810 29 3 316 462 2.174 39 61.386
Đống
đa 1.790 2.997 1.980 31 21 634 1.29
4
3.659 884 814.437
Tây
hồ 512 647 625 13 612 5 5 1.000
Than
h
xuân
366 299 411 21 1 389 4.258 7 600
Cầu
giấy 597 797 605 8 3 145 449 53 16 7.646
Gia
lâm 822 930 890 29 6 842 13 2.925 26 15.931
Từ
liêm 368 339 369 64 305 3.497 80 97.839
Than
h trì 207 215 215 12 4 179 20 1 1 93
Đông
anh 124 154 353 43 4 306 129 573 12.928
Sóc
sơn 60 37 88 27 7 16 38 35 35 73.143
(Nguồn: Báo cáo công tác kế toán hộ kinh doanh năm 2001).
tiếp quản lý các doanh nghiệp NQD mà các chi cục thuế quận huyện đang quản lý
như: công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, tổ sản xuất...thực hiện chế
độ sổ sách kế toán thu thuế theo phương pháp khấu trừ. Việc chuyển các doanh
nghiệp NQD lên Cục thuế quản lý là đáp ứng yêu cầu của cải cách thuế bước II với
mục tiêu thực hiện hiện đại hoá (máy tính hoá) trong quản lý thuế từ đăng ký, kê
khai nộp thuế, tính thuế, ra thông báo thuế, theo dõi nộp thuế đến chỉ định thanh tra,
kiểm tra. Mặt khác, phù hợp với thực tiễn đối tượng nộp thuế theo phương pháp
khấu trừ là các đối tượng có số thuế nộp lớn, chiếm 50% số thu của khu vực NQD.
Do đó, năm 1999, Cục thuế Hà nội đã thành lập thêm 3 phòng mới gồm:
Phòng máy tính với biên chế 20 đến 25 người có trình độ tin học cao để đưa tin học
vào công tác quản lý thuế nhằm nâng cao hiệu quả quản lý việc theo dõi cấp mã số
đối tượng nộp thuế. Số thu của các doanh nghiệp cũng như việc tính thuế, phát hành
thông báo, lập sổ bộ thuế, lập báo cáo được thực hiện trên hệ thống may tính...đã
góp phần đảm bảo cung cấp thông tin kịp thời phục vụ lãnh đạo cấp trên chỉ đạo
công tác thuế.
Hai phòng quản lý thu thuế các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh với
biên chế 45 đến 50 người một phòng để quản lý các doanh nghiệp quốc doanh quận,
huyện, các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, hợp tác xã, các
tổ chức kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ.
Với chuẩn bị trên, năm 1999 văn phòng Cục thuế Hà nội trực tiếp quản lý
4.176 doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp khấu trừ. Các doanh nghiệp được
chuyển về Cục thuế quản lý đều có tâm lý yên tâm, phấn khởi do được đội ngũ cán
bộ có trình độ nghiệp vụ cao hướng dẫn, kiểm tra, giúp các dơn vị thực hiện tốt luật
thuế, các vưỡng mắc được giải quyết kịp thời, thực hiện các chính sách thuế được
thống nhất, tránh được hiện tượng tuỳ tiện trước đây. Do đó, hiệu quả thu thuế được
cải thiện. Năm 2001, phòng NQD số 1 và NQD số 2 đạt lần lượt 106,21% và
112,66% dự toán pháp lệnh.
Do tập trung đầu mối quản lý về Cục thuế nên việc theo dõi số liệu, nắm tình
hình thu nộp qua hệ thống may tính được kịp thời, phục vụ công tác kiểm tra hoàn
thuế và chỉ đạo tốt hơn. Chế độ cán bộ chuyên quản được xoá bỏ khắc phục được sự
phiền hà và tiêu cực trong ngành, nâng cao ý thức chấp hành luật thuế của các
doanh nghiệp, đưa đến việc thực hiện chế độ nộp tờ khai hàng tháng đạt từ 95 đến
97%.
Ngoài ra, phòng hành chính được bổ xung cán bộ cho bộ phận thu nhập tờ
khai thuế, phát hành thông báo thuế, thực hiện tốt các nội dung thủ tục cải cách
hành chính thuế. Sát nhập phòng nghiệp vụ 1 với phòng thuế nông nghiệp thành
phòng nghiệp vụ với chức năng chủ yêú là tham mưu, hướng dẫn, kiểm tra về mặt
nghiệp vụ các loại thuế, giúp lãnh đạo cục chỉ đạo công tác thuế được kịp thời, đúng
chính sách. Thêm nữa, trong năm 2001, bộ phận tư vấn thuế đạt tại phòng nghiệp vụ
thuế đi vào hoạt động với chức năng tư vấn cho đối tượng nộp thuế thực hiện chính
sách pháp luật thuế, giải đáp thắc mắc trong quá trình thực hiện luật thuế, hướng
dẫn doanh nghiệp hạch toán, lập báo cáo, kết hợp với các phòng chức năng thuộc
Cục thuế Hà nội tổ chức các lớp huấn luyện nghiệp vụ cho cán bộ thuế và đối tượng
nộp thuế.
Bộ máy tổ chức trên đặt dưới sự quan tâm chỉ đạo của Bộ tài chính, Tổng
Cục thuế, thành uỷ, HĐND, UBND thành phố và lãnh đạo Đảng, chính quyền các
cấp cùng với sự phối kết hợp chặt chẽ có hiệu quả của các ngành hữu quan đã đưa
đến tăng thu NQD do văn phòng Cục quản lý. Bảng 7 thể hiện số thu khu vực NQD
do văn phòng Cục quản lý.
Bảng 7: Số thu khu vực KTNQD do văn phòng Cục thuế Hà nội quản lý
Đơn vị: VNĐ
Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001
Thuế GTGT (DT)
Thuế TNDN (LT)
Thuế TTĐB
Thuế khác
Tổng
118.570.547
83.391.847
2.486.477
19.008.816
223.457.717
123.728.366
37.797.307
1.982.502
59.615.950
223.123.825
(Nguồn: Báo cáo kết quả thu hai phòng ngoài quốc doanh).
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện các luật thuế mới số doanh
nghiệp tăng lên rất nhanh trong khi cán bộ quản lý lại quá mỏng. Trước tình hình
đó, theo hướng dẫn của Tổng cục thuế, Cục thuế Hà nội đã phân cấp các doanh
nghiệp NQD cho các chi cục thuế quản lý, đó là các đối tượng không có hoạt động
xuất nhập khẩu, không thuộc đối tượng phải hoàn thuế (đối tượng kinh doanh dịch
vụ, bán lẻ hàng hoá cho người tiêu dùng, các hợp tác xã dịch vụ, tổ hợp sản xuất
kinh doanh...). Số doanh nghiệp NQD do các chi cục thuế quận huyện quản lý từ
1/1/2002 là 9.724 doanh nghiệp, văn phòng Cục thuế quản lý 5.399 doanh nghiệp.
III.3.Về đội ngũ cán bộ nhân viên thuế:
Với trên 1.800 cán bộ công chức trong toàn ngành, Cục thuế Hà nội thực
hiện triệt để các quy chế về công tác tổ chức cán bộ theo quy định của Chính phủ.
Thực hiện kiện toàn tổ chức kết hợp với việc bổ nhiệm lại cán bộ, chỉnh đốn lại đội
ngũ cán bộ công chức, sắp xếp lại vị trí công tác phù hợp đã phát huy được năng lực
cán bộ, thực hiện quản lý bao quát được tất cả các nguồn thu, quản lý đối tượng nộp
thuế hiệu quả và rèn luyện nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn cán bộ thuế.
Trong năm 2001, Cục thuế Hà nội phối hợp với các cơ quan đào tạo của thành phố,
của Bộ tài chính, Tổng cục thuế, Học viện hành chính quốc gia mở năm lớp đào tạo,
tập huấn và cử cán bộ theo học với số lượng 519 cán bộ của văn phòng Cục và chi
cục thuế. Cục thuế đã chọn, cử nhiều cán bộ theo học các lớp về tin học, ngoại ngữ
ở nước ngoài do Tổng cục thuế tổ chức. Lập hồ sơ và chọn cử năm cán bộ thi nâng
ngạch lên kiểm soát viên, bảy cán bộ thi nâng ngạch chuyên viên chính. Đến nay,
Cục thuế Hà nội đã có 07,7% cán bộ có trình độ trung học trở lên, trong đó có
37,05% cán bộ có trình độ đại học và trên đại học.
Đi đôi với tích cực đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, ngành thuế Hà nội
thường xuyên quan tâm nâng cao về phẩm chất đạo đức của cán bộ thuế. Xây dựng
quy chế trách nhiệm công tác trong từng bộ phận, thường xuyên kiểm tra đôn đốc
việc thực hiện của cán bộ thuế. Đồng thời xử lý nghêm minh đối với những trường
hợp vi phạm quy chế, vi phạm 10 điều kỷ luật của ngành để xây dựng đội ngũ cán
bộ trong sạch. Trong năm 2001, Cục thuế đã xử lý 16 trường hợp cán bộ vi phạm kỷ
luật, trong đó cảnh báo 2 cán bộ, khiển trách 6 người và buộc thôi việc 8 người.
Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo các câp của ngành thuế được thực hiện
đúng theo quy định của Chính phủ, Bộ tài chính, Tổng cục thuế, Thành uỷ và
UBND thành phố. Sự phối hợp giữa Đảng uỷ và lãnh đạo Cục trong công tác quy
hoạch đã thực hiện đúng quy định, đảm bảo tập trung trí tuệ cho sự nghệp ‘trồng
người” của Cục thuế Hà nội. Vì vậy đã lựa chọn được những công chức đưa vào
danh sách quy hoạch phấn đấu tốt, nâng cao trình độ, năng lực quản lý và đạo đức
tư cách bổ xung nguồn cán bộ lãnh đạo kế cận các chức danh của Cục thuế Hà nội.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ thuế quản lý khu vực KTNQD vẫn còn 35% chưa
qua đào tạo qua đại học, nhiều cán bộ thuế không có trình độ máy tính, do vậy khi
quản lý các doanh nghiệp thực hiện chế độ kế toán bằng máy vi tính đã lúng túng và
kém hiệu quả, không đáp ứng được yêu cầu quản lý. Nhiều cán bộ thuế chưa nắm
vững chính sách thuế, do vậy vai trò giải thích tuyên truyền còn hạn chế, cũng
không ít cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện công tác được giao,
thậm chí cố tình vi phạm gây thất thu nghiêm trọng.
III.4. Về việc thực hiện quy trình quản lý:
III.4.1. Công tác kê khai nộp thuế, cấp mã số thuế:
Trong thời gian qua, Cục thuế Hà nội đã thực hiện tốt công tác hướng dẫn
các đôi tượng thực hiện tốt công tác đăng ký kê khai nộp thuế, thông qua công tác
cấp mã số cho các đối tượng nộp thuế và quản lý theo dõi các đối tượng trêm máy
tính. Đến 31/12/2001, số mã số thuế cấp cho 83.401 đối tượng, trong đó, ngoài đối
tượng thuộc khối doanh nghiệp Nhà nước trung ương và địa phương, khối liên
doanh đầu tư nước ngoài thì khối NQD cục quản lý là 6.319 đơn vị và khối NQD do
các chi cục thuế quản lý là 74.516 đơn vị (trong đó hộ cá thể là 71.516 hộ). Thông
qua công tác cấp mã số thuế cha các hộ kinh doanh năm 2001, các chi cục thuế đã
đưa thêm vào quản lý thu thuế đối với 5.463 hộ với số thuế 1,8 tỷ đồng. Nhìn
chung, công tác cấp mã số thuế đã đi vào nề nếp, ổn định khẩn trương.
Theo quy định, đối tượng nộp thuế được cấp mã số sau 15 ngày khi Cục thuế
nhận được hồ sơ hợp lệ, Cục thuế Hà nội đã quy định cụ thể các nội dung của công
tác cấp mã số thuế tại công văn số 6968CT/MT ngày 10/3/2001, trong đó, cơ quan
thuế thực hiện nghêm chỉnh thời hạn để từ khi đơn vị nộp bản đăng ký kê khai xin
cấp mã số thuế đến ngày cơ quan thuế cấp mã số thuế cho đơn vị đối với những hồ
sơ đảm bảo đủ yêu cầu là 8 ngày, không gây phiền hà, chậm trễ.
Bộ phận tiếp nhận tờ khai thuế đã nhận được khoảng 110.000 từ khai thuế
các loại trong năm 2001, từ đó gửi đi khoảng 130.000 thông báo thuế, đã làn việc
tích cực, không để xảy ra sai sót. So với năm 1999 khi luật thuế GTGT và TNDN
mới được đưa vào thực hiện, tỷ lệ nộp tờ khai của khu vực NQD chỉ đạt khoảng
85%, đến năm 2001 ý thức chấp hành nộp thuế của các đối tượng nộp thuế đã nâng
lên rõ rệt thể hiện trong việc tự giác kê khai nộp thuế GTGT hàng tháng đạt trên
95%, thuế TNDN và các loại thu khác cũng thực hiện tương đối tốt.
Tồn tại trong công tác quản lý thu thuế hiện nay là việc chấp hành chế độ
khai báo khi thay đổi địa điểm chưa nghêm túc, nhiều doanh nghiệp NQD thường
thay đổi địa chỉ kinh doanh, địa chỉ văn phòng giao dịch hoặc địa chỉ nhận thông
báo thuế để tránh sự kiểm soát của cơ quan thuế. Đến hết năm 2001, có gần 500
doanh nghiệp không liên hệ với cơ quan thuế để đăng ký kê khai nộp thuế, 240 đơn
vị đã được cấp mã số thuế nhưng không thực hiện kê khai theo quy định. Thêm nữa,
nhiều hộ kinh doanh cá thể ở các làng nghề truyền thống chưa thực hiện việc kê
khai nộp thuế: các hộ sản xuất đồ gỗ ở Vân Hà (Đông Anh), sản xuất bún ở Mễ Trì
(Từ Liêm). Đối với thuế GTGT còn tình trạng kê khai hàng tháng không đúng với
hoạt động kinh doanh thực tế, kê khai không trung thực chi phí hợp lý và thu nhập
đối với thuế TNDN.
III.4.2. Công tác cấp phát, hướng dẫn sử dụng hoá đơn, chứng từ:
Một trong những ưu điểm cơ bản của luật thuế GTGT là tác động, bắt buộc
các doanh nghiệp tự giác thực hiện chế độ hoá đơn, chứng từ, không có hoá đơn
mua bán hàng thì không được khấu trừ thuế đầu vào.
Từ năm 1999, khi thực hiện hai luật thuế mới, nhu cầu sử dụng hoá đơn của
các doanh nghiệp đã tăng lên rất lớn so với năm 1998, doanh nghiệp và hộ kinh
doanh mua hoá đơn ở văn phòng Cục thuế tăng 2,5 lần, tổng số lượng hoá đơn bán
ra là 7.200.000 số, tổng số tiền xuất các loại hoá đơn, chứng từ là 1.739 triệu đồng.
Đến năm 2001, Cục thuế đã phát hành 172.985 quyển hoá đơn, 220.800 ngàn tem
thuốc lá, 245 ngàn vé các loại, cấp 27.500 quyển biên lai thuế, số tiền bán hoá đơn
và chứng từ khác là 6.769 triệu đồng. Nhìn chung, công tác cấp phát hoá đơn chứng
từ đã đảm bảo được yêu cầu, nhiệm vụ của ngành.
Công tác hướng dẫn sử dụng hoá đơn cũng được tăng cường. Cục thuế Hà
nội, Sở tư pháp phối hợp với báo Hà nôi mới, đài phát thanh và truyền hình Hà nội
và các cơ quan thông tin đại chúng, đẫy mạnh công tác phổ biến tuyên truyền nội
dung về chế độ quản lý sử dụng hoá đơn bán hàng theo quy định của Bộ tài chính
để cán bộ, nhân dân, các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh, dịch vụ được biết và
tự giác chấp hành. Đồng thời, tổ chức các lớp huấn luyện về sử dụng hoá đơn,
chứng từ cho các doanh nghiệp, hộ kinh doanh trong nội bộ quản lý của Cục thuế,
uốn nắn kịp thời những sai phạm của đối tượng nộp thuế, tổ chức một bộ phận
thường trực để trả lời, tháo gỡ kịp thời vướng mắc trong việc sử dụng hoá đơn của
các doanh nghiệp . Ngoài ra, Cục thuế còn hướng dẫn bằng văn bản, đảm bảo cơ sở
pháp lý cho việc sử dụng và kiểm tra tình hình sử dụng ấn chỉ.
Hiện nay, tình hình sử dụng hoá đơn đã có những vi phạm nghêm trọng thể
hiện bằng các hành vi sau:
- Sử dụng hoá đơn in giả mẩu của Bộ tài chính để kinh doanh trốn thuế hoặc
dùng để thanh toán, quyết toán tài chính trong các doanh nghiệp.
- Lập hoá đơn ghi liên 2 (là liên giao cho khách hàng) cao hơn liên 1 (là liên
được giữ lại đơn vị) sau khi bán hàng để chiếm đoạt tiền thuế, thanh toán, quyết
toán tài chính.
- Bán hoá đơn khống.
- Đơn vị đi mua hàng cạo sửa hoá đơn mua hàng ghi số tiền cao hơn số thực
tế để được khấu trừ, hoàn thuế.
- Lập hoá đơn khống (thực tế là không có giao dịch mua bán) thông đồng với
đơn vị xuất khẩu để kê khai hoàn thuế GTGT hàng xuất khẩu.
- Khi bán hàng hoá, dịch vụ, việc lập, giao hoá đơn cho khách hàng của các
cơ sở còn tuỳ tiện, không giao hoặc giao hoá đơn thì đòi nâng giá hoặc giao hoá đơn
không hợp pháp để kinh doanh trốn thuế.
- Lợi dụng việc Nhà nước tạo thuận lợi trong cấp giấy phép kinh doanh đã
xuất hiện một số doanh nghiệp sau khi được cấp giấy phép thành lập, đã đăng ký
thuế, mã số thuế và mua hoá đơn tại cơ quan thuế để sử dụng nhưng lại mang hó
đơn đi bán.
- Mua hoá đơn bán hàng dùng để kê khai khấu trừ khống tỷ lệ phần trăm thuế
GTGT đầu vào.
III.4.3. Công tác quản lý thu:
Cục thuế Hà nội đã thực hiện nghiêm túc quy trình quản lý thu ở tất cả các
loại thuế, các khu vực kinh tế. Thêm vào, cải tiến các thủ tục hành chính, công khai
về thủ tục cấp mã số thuế, quy trình nộp, kiểm tra tờ khai, ra thông báo thuế, quy
trình thủ tục kiểm tra quyết toán thuế, quy trình thủ tục hoàn thuế, thoái thu tiền
thuế nộp thừa...tạo điểu kiện thông thoáng, dễ dàng cho các đối tượng nộp thuế,
không gây phiền hà cho họ trong hoạt động kinh doanh và thu nộp thuế.
Đối với các doanh nghiệp NQD do văn phòng Cục quản lý, công tác thu nộp
chủ yếu do doanh nghiệp nộp tai Kho bạc Nhà nước. Hàng tháng, căn cứ số thu do
Kho bạc báo về, cán bộ thuế đôn đốc nhắc nhở các doanh nghiệp còn nợ thuế phải
nộp tiếp. Việc theo dõi, đôn đốc tiến hành thường xuyên, số thu thuế từ doanh
nghiệp NQD năm 2001 là 260 tỷ đồng, tăng 21% so với năm 2000. Tuy vậy, tình
trạng nợ đọng thuế vẫn còn rất lớn và số nợ đọng ngày càng tăng. Tính đến tháng
12/2001, có 2.656 lượt cơ sở còn nợ đọng thuế, với tổng giá trị tiền thuế là
38.410.516.100 đồng, trong đó có 462 lượt cơ sở còn nợ từ các năm trước, 2.230
lượt cơ sở nợ trong năm 2001 chiếm 39% tổng nợ, tập trung nhiều nhất ở các công
ty TNHH và doanh nghiệp tư nhân. Bảng 8 thể hiện tình trạng nợ đọng thuế của
doanh nghiệp NQD tính đến hết tháng 12/2001.
Bảng 8: Báo cáo nợ đọng doanh nghiệp ngoài quốc doanh
(Tính đến hết tháng 12/2001)
Đơn vị: triệu đồng.
Chỉ tiêu
Tổng nợ đọng Nợ các năm trước Nợ năm 2001
Lượt
cơ sở
Thuế Lượt
cơ sở
Thuế Lượt
cơ sở
Thuế
Tổng số
Công ty cổ phần
Công ty TNHH
Hợp tác xã
Tổ sản xuất
2.565
94
1.719
256
120
38.411
1.612
31.307
2.319
195
426
25
280
35
10
23.413
600
19.561
1.457
12.643
2.230
69
1.439
221
110
14.997
1.012
11.746
862
182
Cơ quan đoàn thể
Chi nhánh
DN tư nhân
Loại hình khác
75
70
321
1
1.992
440
546
0,825
12
36
27
1
1.586
149
46
0,825
63
34
294
0
405
291
500
0
(Nguồn: Báo cáo nợ đọng khu vực ngoài quốc doanh).
Đối với các hộ kinh doanh do các quận huyện quản lý, trong năm 2001, Cục
thuế vẫn duy trì và mở rộng diện hộ kinh doanh nộp thuế trực tiếp cho Kho bạc, hạn
chế tình trạng cán bộ thu thuế cầm tiền thuế nộp hộ. Tuy nhiên, do số điểm thu của
cơ quan Kho bạc còn quá mỏng (5 quận nội thành chỉ có 21 điểm thu) và bản thân
cán bộ thuế còn nể nang, chưa kiên quyết đôn đốc nên số hộ kinh doanh trực tiếp
đem tiền nộp tại Kho bạc còn thấp. Tình trạng trên vừa ảnh hưởng đến quỹ thời gian
hiện có để cán bộ thuế đi sâu quản lý vừa không giúp được hộ kinh doanh thấy rõ
trách nhiệm và nghĩa vụ trong việc thực hiện luật thuế, thậm chí còn tạo điều kiện
để cán bộ thuế phát sinh tiêu cực. Mức thuế bình quân hộ trên một tháng tại thời
điểm tháng 12/2001 là 500.600 đồng.
Đối với thực hiện dự toán thu, đến hết 31/12/2000, số thu thuế công thương
nghiệp và dịch vụ NQD toàn thành phố là 451 tỷ đồng, so dự toán năm đạt 80,66%,
đến hết 31/12/2001 đạt 527,463 tỷ đồng, bằng 105,5% dự toán pháp lệnh, tăng
16,77% so cùng kỳ.
III.4.4. Công tác quản lý đối tượng nộp thuế:
Năm 2001, Cục thuế Hà nội đã chỉ đạo các chi cục thuế và hai phòng thu
ngoài quốc doanh tăng cường các biện pháp quản lý đối tượng nộp thuế, quản lý
doanh thu.
A. Đối với khu vực hộ kinh doanh cá thể:
Năm 2001, tổng số thuế thu từ khu vực cá thể là 264 tỷ đồng, tăng 17% so
với năm 2000. Thông qua công tác cấp mã số thuế cho các hộ kinh doanh, các chi
cục thuế đã đưa thêm vào quản lý thuế được 5.463 hộ với số thuế 1.894 triệu đồng.
Số hộ quản lý thu thuế GTGT nà TNDN hàng tháng củ các chi cục thuế chỉ đạt 80%
so với số hộ quản lý môn bài, đạt 45.766 hộ, hộ thuộc diện miễn thuế TNDN và
không thu thuế GTGT do thu nhập thấp là 17.038 hộ. Một số chi cục thuế có số hộ
quản lý thấp hơn so năm 2000: Hoàn kiếm, Thanh xuân, Từ liêm...
Một số hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp tại các làng nghề chưa được quản lý.
Tại Đông anh trên 150 hộ sản xuất độ gỗ mỹ nghệ ở Vân Hà; tại Từ liêm có trên
300 hộ sản xuất bún ở Mễ Trì; tại Sóc sơn trên 50 hộ kinh doanh thực phẩm tươi
sống ở chợ Phủ Lỗ; tại Đống đa có trên 30 hộ kinh doanh đồ điện gia dụng ở phố
Hàng Cháo. Qua kiểm tra của chi cục thuế và Cục thuế cho thấy nhiều địa bàn tỷ lệ
bỏ sót hộ kinh doanh cố định từ 6% đến 10%. Nguyên nhân của tình hình trên có
nhân tố khách quan do một số hộ kinh doanh chuyển lên công ty, một số hộ cho
thuê nhà hết hợp đồng, các hộ vận tải giảm 50% so với trước. Về nguyên nhân chủ
quan, do cán bộ thuế còn thiếu trách nhiệm, bỏ sót hộ kinh doanh cố định không
đưa vào quản lý, do vậy tình trạng thất thu về hộ chưa được khắc phục.
Về công tác quản lý doanh thu:
Đối với các hộ kinh doanh thuộc đối tượng thu theo phương pháp khoán và ổn
định thuế:
Năm 2001, ngành thuế Hà nội đã ra quyết định công bố ổn định thuế cho
23.606 hộ kinh doanh. Để hạn chế tình trạng thất thu về doanh thu khoán, các chi
cục thuế đã rà soát điều chỉnh lại doanh thu, mực thuế trước khi công bố ổn định
thuế đối với 18.602 lượt hộ kinh doanh, số thuế tăng 2.083 triệu đồng. Một số chi
cục thuế thực hiện tốt công tác này: chi cục thuế hoàn kiếm đã điều chỉnh 8.297 lượt
hộ, thuế tăng 1.035 triệu đồng; chi cục thuế Đống đa đã điều chỉnh 2.992 lượt hộ,
thuế tăng 301 triệu đồng; chi cục thuế Gia lâm điều chỉnh 3.543 lượt hộ, thuế tăng
112.9 triệu đồng. Bên cạnh đó có một số chi cục thuế (Đông anh, Thanh trì, Sóc
sơn, Ba đình... chưa quan tâm đến việc rà soát doanh thu trước khi ra quyết định
công bố ổn định thuế nên nhiều hộ kinh doanh từ 2 đến 3 năm nay vẫn chưa xem
xét lại doanh thu và mức thuế.
Đối với các hộ thu theo kê khai:
Ngay từ đầu năm, Cục thuế Hà nội đã chỉ đạo các chi cục thuế tiếp tục đẩy
mạnh chế độ kế toán hộ kinh doanh, thường xuyên rà soát và phân loại hộ kinh
doanh trên địa bàn để xác định số hộ phát sinh thêm, đưa vào diện thực hiện chế độ
sổ sách kế toán và hoá đơn chứng từ theo quy định của Bộ tài chính.
Căn cứ kết qủa duyệt hộ môn bài năm 2001, các chi cục thuế đã xác định
trên 15.000 hộ bậc 1 và bậc 2 thuộc diện phải thực hiện chế độ kế toán; trong đó có
13.832 hộ đã thực hiện chế độ sổ sách kế toán từ năm 2000 và 1.249 hộ thuộc diện
mới phát sinh năm 2001. Đối với các hộ mới phát sinh, chi cục thuế đã mời các hộ
lên phổ biến về chế độ kế toán hộ và làm thủ tục nhận hồ sơ để thực hiện việc ghi
chép. Các chi cục thuế đã lựa chọn các cán bộ có trình độ nghiệp vụ xuống từng địa
bàn để hướng dẫn các hộ. Công tác phổ biến tuyên truyền về mục đích, nội dung
chế độ kế toán hộ kinh doanh được thực hiện thường xuyên trên các phương tiện
truyền thanh của phường.
Phần lớn các hộ kinh doanh thuộc diện thực hiện chế độ kế toán đã nhận thức
được tầm quan trọng của việc thực hiện chế độ sổ sách kế toán, sử dụng hóa đơn
chứng từ, nâng cao tính tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, tự giác kê khai và thực
hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Đến hết tháng 11/2001, toàn thành phố đã có
15.081 hộ mở sổ sách kế toán, so với chỉ tiêu Tổng cục thuế giao (15.000 hộ) đã đạt
100,54%., tăng 1.249 hộ so với thực hiện năm 2000, trong đó:
+ Nộp thuế theo phương pháp khấu trừ: 353 hộ, bằng 2,34%
+ Nộp thuế theo phương pháp trực tiếp trên GTGT: 108 hộ, bằng 0,7%
+ Nộp thuế theo phương pháp trực tiếp trên doanh thu: 9.442 hộ, bằng 62,6%
+ Nộp thuế theo phương pháp ấn định doanh thu: 5.178 hộ, bằng 34,3%
Cả 12 chi cục thuế đếu đạt và vượt mức chỉ tiêu về thực hiện kế toán hộ.
Công tác kiểm tra việc thực hiện chế độ kế toán cũng được các chi cục thuế quan
tâm, trong 11 tháng năm 2001, các chi cục thuế tổ chức kiểm tr 32.805 lượt hộ, phát
hiện và xử lý đối với 2.066 hộ, truy thu và phạt 1.257 triệu đồng, đặc biệt là các chi
cục thuế: Từ liêm, Đống đa, Hoàn kiếm...
Nhìn chung, các hộ thu theo kê khai chưa thực hiện nghiêm chỉnh chế độ sổ
sách kế toán, công tác kiểm tra của các chi cục thuế chưa được tăng cường, thất thu
thuế đối với loại hộ này vẫn còn nhiều, mức thuế bình quân của hộ bị giảm: bình
quân thuế tháng 10/2001 là 1.266,4 nghìn đồng, tháng 12/2001 là 1.370 nghìn đồng.
Tại một số chi cục thuế tình trạng thất thu đối với hộ kê khai còn lớn, kết quả thanh
tra của Cục thuế tại 4 hộ kinh doanh ở Đong anh đã truy thu thêm 45 triệu, tăng
nhiều so với mức thuế kê khai của đối tượng; qua thanh tra của phòng nghiệp vụ
trong 6 tháng đã phát hiện một số hộ kê khai doanh thu chỉ đạt 30% so với doanh
thu thực tế. Theo tài liệu điều tra của công an ở một số vụ diển hình thì doanh thu
ngành thuế đang quản lý thu thuế chỉ đạt 10-30% doanh thu thực tế.
So với năm 2000, công tác đôn đốc thu nộp thuế chưa đạt yêu cầu, số thuế
GTGT và TNDN nợ đọng ở khu vực này còn lớn, tổng thuế nợ đến cuối năm 2001
là 9.760.645 nghìn đồng, trong đó nợ năm trước là 6.638.347 nghìn đồng và nợ phát
sinh trong năm 2001 là 3.122.298 nghìn đồng.
B. Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
Hai phòng thu NQD tiếp tục đôn đốc, hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện
việc nộp tờ khai thuế và nộp thuế theo quy định. Đôn đốc 4.600 doanh nghiệp nộp
tờ khai thuế TNDN năm 2001 với số thuế phải nộp trên 70 tỷ đồng.
Cục thuế thực hiện phân cấp quản lý, giao bớt doanh nghiệp có quy mô kinh
doanh nhỏ xuống chi cục thuế, tạo sự quản lý sâu sát và hạn chế thất thu. Theo
quyết định của cục trưởng Cục thuế Hà nội về phân cấp quản lý đối tượng nộp thuế,
phân cấp các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, hợp tác xã,
...cho các chi cục thuế quận, huyện thuộc Cục thuế Hà nội làm 3 đợt, 2 đợt trong
năm 2000 và 1 đợt trong năm 2001 với tổng số 4.570 doanh nghiệp.
Biểu 9: Báo cáo nợ đọng khu vực hộ cá thể năm 2001.
Đơn vị: nghìn đồng.
Đơn vị
Tổng cộng Nợ các năm trước Nợ năm 2001
Lượt
hộ
Thuế Lượt
hộ
Thuế Lượt
hộ
Thuế
Cộng NQD
Hộ cá thể
Hoàn kiếm
Hai bà trưng
Ba đìng
Đống đa
Tây hồ
Thanh xuân
Cầu giấy
Gia lâm
Từ liêm
Thanh trì
Đông anh
Sóc sơn
71.289
12.499
4.646
4.565
1.645
681
2.409
2.491
35.197
355
4.687
1.676
438
48.171.151
9.760.645
2.047.946
1.734.263
1.353.825
391.243
117.987
560.547
414.900
2.096.622
209.397
286.103
251.931
295.881
54.170
8.224
1.868
3.173
764
73
1.699
2.062
31.260
198
3.495
1.016
338
30.051.727
6.638.347
1.873.417
835.291
969.969
164.010
21.900
342.375
355.566
1.612.736
81.881
142.470
163.836
74.896
17.479
4.275
2.778
1.392
881
608
710
429
937
157
1.192
660
100
18.119.424
3.122.298
174.529
898.972
383.856
227.233
96.087
218.172
59.334
483.886
127.516
143.633
88.095
220.985
(Nguồn: Báo các nợ đọng khu vực NQD).
Dự kiến đến năm 2002 phân cấp tiếp đợt 4 với 500 doanh nghiệp của phòng NQD
số 1 và 900 doanh nghiệp từ phòng NQD số 2, trong đó, đối với mô hình hợp tác xã
bàn giao hết cho chi cục thuế quản lý, chỉ giữ lại các hợp tác xã có hoạt động xuất
khẩu trực tiếp. Nhờ công tác phân cấp này, trong năm 2001 với 4.570 doanh nghiệp,
trong năm 2001 với 4.570 doanh nghiệp được bàn giao, có 3.365 doanh nghiệp nộp
tờ khai thuế đầy đủ. Theo nhận xét của các chi cục thuế, số này phần lớn là những
doanh nghiệp có ý thức chấp hành luật thuế, chế độ hoá đơn chứng từ và sổ sách kế
toán đầy đủ. Trong 2001 đã kiểm tra 2.286 doanh nghiệp về tờ khai, trong đó có 14
doanh nghiệp phải ấn định thuế dẫn đến tăng thêm 158.592.000 đồng tiền thuế thu
được. Biểu 10 phản ánh kết quả kiểm tra quyết toán thuế của các đối tượng này.
Đối chiếu với công tác quản lý quyết toán thuế đối với các doanh nghiệp
NQD do Cục thuế quản lý đã thu thêm được 10 tỷ đồng.
Biểu 10: Báo cáo kết quả kiểm tra quyết toán thuế của các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh sau khi nhận bàn giao.
Đơn vị: 1.000 đồng
Loại hình DN tiếp
nhận bàn giao
Số Dn
được
kiểm tra
Tổng số
thuế truy
thu
Trong đó
GTGT TNDN Khác
Tổng cộng
Công ty cổ phần
Công ty TNHH
DN tư nhân
Hợp tác xã
Tổ sản xuất
Cơ quan đoàn thể
Chi nhánh
Khác
851
2
601
74
94
23
23
17
17
4.890.698
2.027
2.763.010
347.964
788.333
443.796
443.796
50.886
50.886
1.661.347
105
544.429
135.595
344.918
15.713
15.713
2.437
2.437
3.523.727
1.922
1.985.898
198.567
409.608
415.418
415.418
48.448
48.448
311.220
0
225.846
24.013
35.431
12.965
12.965
0
0
(Nguồn: Báo cáo tình hình quản lý doanh nghiệp NQD sau khi nhận bàn giao).
Cục thuế rà soát cá doanh nghiệp NQD và thông báo trên các phương tiện
thông tin đại chúng danh sách 411 doanh nghiệp đã được sở Kế hoạch đầu tư Hà nội
cấp đăng ký kinh doanh và Cục thuế Hà nội cấp mã số thuế nhưng sau đó không có
quan hệ với cơ quan thuế, đồng thời báo UBND Hà nội thu hồi giấy phép kinh
doanh, con dấu, mã số và đăng tin trên thông tin đại chúng để tránh tình trạng doanh
nghiệp lợi dụng gây thất thoát NSNN.
Cũng như đối với hộ kinh doanh cá thể, tình trang nợ đọng thuế ở các doanh
nghiệp NQD tính đến cuối năm 2001 đạt 38.410.506 nghìn đồng, trong đó nợ phát
sinh năm 2001 là 14.997.126 nghìn đồng, chiếm 39,04% tổng nợ và chiếm 41,3%
so với nợ các năm trước. (Biểu 8).
III.4.5. Công tác hoàn thuế:
Thực hiện luật thuế GTGT và thônh tư 93/1999/TT-BTC ngày 28/7/1999 của
Bộ tài chính hướng dẫn về hoàn thuế GTGT, trong ba năm 1999-2001, Cục thuế Hà
nội đã giải quyết hoàn thuế GTGT cho 1.030 lượt đơn vị với số tiền hoàn trên 1.399
tỷ đồng. Cụ thể, năm 1999 có 237 hồ sơ với số tiền đã hoàn là 145.367,4 triệu đồng;
năm 2000 là 399 hồ sơ với số tiền là 678.023,3 triệu đồng và năm 2001 là 394 hồ sơ
với số tiền hoàn là 506.279,8 triệu đồng. Trong đó, tình hình hoàn thuế của các
doanh nghiệp NQD do Cục thuế quản lý như sau:
Biểu 11: Tình hình hoàn thuế của các doanh nghiệp NQD
do Cục thuế quản lý
Đơn vị: triệu đồng.
Chỉ tiêu
Số DN có hồ
sơ đề nghị
hoàn thuế
Số tiền đề
nghị hoàn
Số DN đã
được hoàn
thuế
Số thuế
đã hoàn
Năm 1999
Phòng NQD số 1
Phòng NQD số 2
33
186
96.440,2
2.743.402
16
53
32.182,5
16.030,5
Năm 2000
Phòng NQD số 1
Phòng NQD số 2
694
131
163
928.055
25.891
39.278
462
66
94
657.555
17.019
23.631,8
Năm 2001
Phòng NQD số 1
Phòng NQD số 2
803
146
148
662.810
36.962
48.216,2
590
97
72
524.482,6
20.873
22.440
(Nguồn: Cục thuế Hà nội).
Để đảm bảo việc hoàn thuế cho các doanh nghiệp được kịp thời, chặt chẽ và
đúng chính sách, Cục thuế Hà nội đã phổ biến công khai, chi tiết quy trình hoàn
thuế và đối tượng hoàn thuê để các doanh nghiệp được biết và thực hiện. Nhìn
chung, tình hình hoàn thuế cho các doanh nghiệp thời gian qua được tiến hành đúng
quy định, không gây phiền hà cho doanh nghiệp.
Hàng năm, thông qua công tác thẩm định hồ sơ xin hoàn thuế, Cục thuế sẽ
trả lại các hồ sơ không đủ điều kiện. Trong năm 2000 và 2001, số doanh nghiệp do
văn phòng Cục quản lý gồm 255 đơn vị có hồ sơ bị trả lại, với tổng số tiền xin hoàn
là 65.377,7 triệu đồng. Đối với các hồ sơ đáp ứng đầy đủ các thủ tục theo quy định,
cơ quan thuế đã giải quyết hoàn thuế xong trong thời hạn 15 ngày.
Công tác hoàn thuế thực hiện theo quy định hiện hành là hoàn trước kiểm tra
sau và doanh nghiệp hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về số liệu và hồ sơ
đã lập. Do vậy, để tránh thất thoát ngân sách, Cục thuế đã chỉ đạo các phòng quản lý
thu thực hiện một số biện pháp tăng cường quản lý và hạn chế tối đa thâts thoát thuế
như yêu cầu các đối tượng hoàn thuế gửi hoá đơn đầu vào để xác minh, kiểm tra sau
hoàn thuế... Từ 1999 đến nay, Cục thuế Hà nội đã tiến hành kiểm tra sau hoàn thuế
đối với 222 doanh nghiệp, qua kiểm tra phát hiện 56 doanh nghiệp có vi phạm, thu
hồi 5.651 triệu đồng, phạt 276,5 triệu đồng, trong đó, các số liệu về vi phạm đều
tăng qua các năm còn số doanh nghiệp được kiểm tra lại giảm xuống. Các dạng vi
phạm chủ yếu là: bán hàng không xuất hoá đơn kịp thời để tồn kho khống, không kê
khai thuế đầu ra dẫn đến số thuế phải nộp âm để được hoàn thuế; kê trùng thuế đầu
vào; mua bán khống dùng hoá đơn để hợp thức hoá đầu váo để xin hoàn thuế; phổ
biến là bán hàng xuất hoá đơn ghi giá bán thấp hơn giá thực tế thu tiền của khách
hàng.
III.4.6. Công tác kiểm tra, thanh tra:
Quy trình quản lý mới, quy trình tự tính, tự khai và nộp thuế vào Kho bạc đòi
hỏi tính tự giác cao của đối tượng nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế theo
luật định, do vậy mà vai trò của công tác thanh tra thuế trở nên hết sức quan trọng.
Buông lỏng công tác thanh tra sẽ dẫn đến thất thu thuế và không thể ngăn chặn
đượp các hành vi trốn thuế.
Bộ máy thanh tra, kiểm tra của ngành thuế Hà nội được kiện toàn từ phòng
thanh tra đến các tổ thanh tra của các chi cục thuế. Công tác thanh tra thuế được
thực hiện ở các phòng, tổ thanh tra, các phòng, tổ quản lý thu đối với tất cả đối
tượng nộp thuế theo quy định của cấp thẩm quyền. Thanh tra có trọng điểm, hàng
tháng, quý đặc biệt là đối với các cơ sở kinh doanh thuộc khối KTNQD.
Trọng tâm của công tác thanh tra, kiểm tra các đối tượng nộp thuế của
KTNQD gồm: kiểm tra quyết toán thuế, kiểm tra sau hoàn thuế, miễn giảm thuế và
kiểm tra việc thực hiện chế độ hoá đơn chứng từ, sổ sách kế toán. Đối với các doanh
nghiệp NQD, trong năm 2001, kiểm tra sau hoàn thuế đối với 20 doanh nghiệp, thu
hồi 617 triệu đồng; kiểm tra quyết toán thuế đối với 2.757 doanh nghiệp, truy thu và
phạt 24.8 tỷ đồng, trong đó hai phòng NQD kiểm tra 1.657 doanh nghiệp, truy thu
và phạt 21.5 tỷ đồng; các chi cục thuế kiểm tra 1.100 doanh nghiệp , truy thu và
phạt 3,3 tỷ đồng. Một số doanh nghiệp có số thu sau quyết toán và truy thu lớn là:
Công ty thương mại Hồng Thuý: truy thu 1 tỷ đồng; Chi nhánh công ty TTCN Mìền
Trung: truy thu 997 triệu; Công ty TNHH Thảo Thọ Quyến: truy thu 232,8
triệu...Công tác kiểm tra việc thực hiện chế độ kế toán đã tiến hành 32.805 lượt,
phát hiện và xử lý đối với 2.066 hộ, truy thu và phạt 1.275 triệu đồng. Tuy vậy,
nhiếu chi cục thuế chưa quan tâm tới công tác thanh tra: Tây hồ, Ba đình, Cầu
giấy... nên hiệu quả quản lý và tổng thu còn thấp, tình trạng thất thoát nhiều. Có chi
cục thuế cả năm không kiểm tra như Đông anh, Sóc sơn, hoặc kiểm tra nhưng
không đáng kể, không xử phạt như Tây hồ dẫn đến chất lượng ghi chép sổ sách
chưa đạt yêu cầu, phải thực hiện ấn định doanh thu tính thuế. Đến tháng 3/2002, hai
phòng quản lý NQD do văn phòng Cục quản lý làm tốt công tác chỉ đạo cán bộ thuế
rà soát từ khai có dấu hiệu nghi vấn đã yêu cầu doanh nghiệp điều chỉnh tăng thêm
được 1,2 tỷ đồng.
Số lượng thanh tra viên hiện nay của ngành thuế chiếm khoảng 10% tổng số
cán bộ toàn ngành. Với số lượng như vậy, để có thể kiểm tra một cách đầy đủ thì
phải mất 10 năm, vì vậy, công tác thanh tra, kiểm tra chỉ tiến hành khi có nghi vấn
về đối tượng hoặc mang tính đột xuất. Mỗi lần kiểm tra doanh nghiệp ít nhất phải có
3 cán bộ thuế, việc cử cán bộ thuế đến kiểm tra doanh nghiệp được chỉ định theo
nguyên tắc tuỳ tính chất từng vụ việc, phù hợp với trình độ, kinh nghiệm của từng
cán bộ, không cử cán bộ cố định kiểm tra thường xuyên một doanh nghiệp theo chế
độ chuyên quản trước đây. Do vậy, công tác thanh tra dù đã được đẩy mạnh nhưng
do khối lượng đối tượng cần kiểm tra quá lớn nên thanh tra thường xuyên và kiểm
tra quyết toán thuế còn nhiều bất cập, sự phối hợp giữa phòng thanh tra và các
phòng quản lý thu, các chi cục thuế chưa xhạt chẽ, vì vậy mà số lượng doanh nghiệp
được kiểm tra quyết toán thuế năm 2001 mới đạt 50% số đối tượng phải quyết toán
thuế.
Đối với công tác thanh tra nội bộ cũng được tăng cường. Trong năm đã thanh
tra nội bộ các chi cục thuế Thanh trì, Từ liêm, Đông anh, qua đó thấy công tác quản
lý và thực hiện nghiệp vụ hành thu đã có nhiều tiến bộ so với các năm trươcs, tuy
nhiên vẫn còn nhiều tồn tại thể hiện ở các mặt đăng ký thuế, điều tra doanh thu ấn
định thuế, lập sổ bộ thuế, xử lý tờ khai...Cục thuế đã chấn chỉnh kịp thời những tồn
tại, giúp các chi cục thuế được kiểm tra thực hiện các quy trình hành thu, các biện
pháp đôn đốc thu nộp tốt hơn, có văn bản rút kinh nghiệm và chỉ đạo chung trong
toàn ngành.
Công tác thanh tra, kiểm tra của Cục thuế Hà nội trong năm qua được triển
khai mặc dù còn quá ít, tuy nhiên số thu về cho NSNN hàng năm hàng tỷ đồng tiền
thuế, tiền phạt, góp phần thu sát số phát sinh, đảm bảo sự công bằng giữa các doanh
nghiệp, tổ chức.
III.4.7. Công tác tin học phục vụ quản lý thu thuế:
Công tác quản lý thu thuế đã được thực hiện trên hệ thống máy tính của Cục
thuế, đảm bảo đúng quy trình 1368 của tổng Cục thuế quy đinh. Các phòng quản lý
thu thuộc văn phòng Cục thuế đã thực hiện theo dõi chỉ số thu nộp của từng doanh
nghiệp trên máy vi tính. In và lập sổ theo dõi của từng phòng trên hệ thống máy tính
đã lắp đặt.
Việc nhập dữ liệu, in phát hành thông báo thuế, lập sổ bộ thuế, lập báo cáo
kế toán thu nộp, theo dõi nợ đọng thuế, công tác thống kê thuế được thực hiện trên
máy tính đạt kết quả tốt, đảm bảo nhanh chóng, chính xác. Phòng máy tính của Cục
thuế đã thực sự trở thành trung tâm xử lý số liệu thông tin. Việc phát sinh đối tượng
nộp thuế mới, đối tượng nghỉ kinh doanh đều được theo dõi xử lý trên máy tính,
đảm bảo kịp thời việc cấp mã số thuế, thu hồi, huỷ mã số thuế. Đặc biệt đã có hệ
thống mạng máy tính thống nhất VAT triển khai đến cơ quan thuế các cấp đã nhiều
lần được nâng cao hoàn thiện trong thời gian qua.
Việc nối mạng liên kết thông tin được tổ chức thực hiện giữa UBND thành
phố Hà nội, Cục thuế, Tổng cục thuế, giữa các phòng thuộc văn phòng Cục thuế,
giữa các chi cục thuế với Cục thuế.
Tuy vậy, công tác tin học còn hạn chế. Hiện nay, phần việc mà hàng ngày
mỗi cán bộ thuế phải làm một cách thủ công còn chiếm tỷ lệ không nhỏ, thiếu các
phần mếm đặc thù. Việc phổ cập kỹ năng sử dụng máy tính cho mỗi cán bộ thuế
vẫn chưa vượt xa lắm so với mốc biết soạn thảo văn bản.
III.4.8. Sự phối hợp giữa các bộ phận trong quy trình:
Thực hiện theo quyết định của Tổng cục thuế về quản lý thu thuế đối với các
doanh nghiệp, trong thời gian qua Cục thuế Hà nội đã có nhiều cố gắng và đạt kết
quả tương đối tốt. Các phòng đã làm đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, đồng thời
có sự liên kết phối hợp hỗ trợ nhau một cách kịp thời trong thực hiện nhiệm vụ
được giao và giải quyết các trường hợp vưỡng mắc. Tuy nhiên. do phương tiện vật
chất kỹ thuật còn hạn chế (số lượng máy vi tính còn ít, thiếu nhiều phần mềm quan
trọng...) vì vậy đã ảnh hưởng tới tốc độ làm việc, tốc độ phối hợp, cung cấp thông
tin không kịp thời, đôi khi làm chậm tiến độ hoàn thành nhiệm vụ chung. Mất nhiều
thời gian trong xử lý hoàn thuế, ra quyết định miễn giảm thuế hoặc quyết định thanh
tra, kiểm tra các đơn vị...
Tại các chi cục thuế mặc dù thực hiện quy trình tách 3 bộ phận nhưng còn
mang tính hình thức, chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau giữa các bộ
phận. Giữa các đội thuế thuộc các vùng giáp ranh đôi khi có sự chênh lệch về mức
thuế khoán cao.
III.5. Sự phối hợp giữa Cục thuế Hà nội với các cấp, ngành trong quản lý thu
thuế NQD:
Ngành thuế Hà nội được thành lập từ tháng 10/1990 trên cơ sở sát nhập ba cơ
quan thu thuộc hệ thống tài chính Hà nội là Chi cục thuế công thương nghiệp, Chi
cục thu Quốc doanh và quản lý tài chính xí nghiệp Quốc doanh trung ương và bộ
phận thu thuộc Sở taì chính vật giá Hà nội.
Là cơ quan thuế của thủ đô, Cục thuế Hà nội có thuận lợi là được sự chỉ đạo
trực tiếp của Bộ tài chính và Tổng cục thuế, được sự quan tâm sâu sát của Thành
uỷ, HĐND và UBND thành phố Hà nội. Hà nội là trung tâm kinh tế, chính trị lớn
của cả nước, là đầu mối thông tin quan trọng nhất, nơi tập trung các cơ quan của các
bộ, ngành, các tổng công ty lớn nhất, tạo ra nhiều mối quan hệ thuận lợi. Lực lượng
cán bộ quản lý ở văn phòng Cục thuế đều có trình độ và kinh nghiệm trong quản lý.
Tuy nhiên cũng có những khó khăn: đối tượng quản lý ở khu vực NQD rất lớn và
phức tạp; khi mới thành lập Cục, cán bộ thuế ở khu vực NQD ở các quận huyện
phần lớn chưa được đào tạo; cơ sở vật chất, trụ sở làm việc còn rất thiếu thốn...
Quản lý thu thuế NQD có rất nhiều khó khăn và phức tạp. Để hoàn thành
nhiệm vụ thu và làm tốt công tác quản lý, nhiều năm qua, ngành thuế Hà nội đã triệt
để tranh thủ sự lãnh đạo của chính quyền các cấp, đưa nội dung lãnh đạo công tác
thuế vào chương trình công tác của chính quyền các cấp và các cấp Đảng uỷ. Kết
quả của sự phối hợp trên đã góp phần quan trọng để ngành thuế hoàn thành nhiệm
vụ và việc thực hiện luật pháp vào nề nếp, tình trạng để sót hộ kinh doanh và thất
thu về doanh thu đã giảm. Sự phối hợp trên vừa đảm bảo tính tập trung thống nhất
theo ngành dọc, vừa phát huy vai trò chủ động sáng tạo cảu từng khu vưc, địa bàn
thành phố. Mặt khác, Cục thuế Hà nội đã thực hiện nhiều cuộc tiếp xúc giữa cơ
quan thuế với các doanh nghiệp trên tinh thần cởi mở, thẳng thắn giúp cho việc tháo
gỡ khó khăn cho doanh nghiệp thực thi pháp luật thuế, đặc biệt là các luật thuế mới.
Đông đảo các doanh nghiệp cho rằng 70-80% số kiến nghị của họ trong các cuộc
tiếp xúc với Cục thuế Hà nội đều được giải đapớ và giải quyết kịp thơì. Cục thuế Hà
nội đã thực hiện nghiêm chỉnh việc phúc đáp ngay bằng điện thoại hoặc trả lời trong
phạm vi từ 7-10 ngày kể từ khi nhận được câu hỏi, hoặc văn bản kiến nghị của cơ
sở. Việc cải cách này đã được Tổng cục thuế, UBND thành phố đánh giá cao. Để
thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra, Cục thuế đã chủ động kết hợp tốt với các
đoàn thanh tra của Bộ tài chính, Tổng cục thuế và các ngành như kiểm sát, công an,
thanh tra, quản lý thị trường...đảm bảo việc thanh tra, kiểm tra không bị chồng chéo,
không gây phiền hà cho cơ sở, tăng cường chống thất thu; hàng năm truy thu hàng
chục tỷ đồng cho NSNN, góp phần quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ thu NSNN,
hướng dẫn, thúc đẩy việc chấp hành pháp luật thuế của doanh nghiệp ngày càng tốt
hơn.
Tuy nhiên, từng lúc, từng nơi sự phối hợp trên chưa được chặt chẽ với các
cấp, các ngành ở địa phương trong quản lý đối tường kinh doanh, quản lý doanh số,
chi phí, đôn đốc thu nộp...Sự phối hợp giữa hai phòng thu NQD với chính quyền
quận, huyện và các ngành trong kiểm tra thực hiện của doanh nghiệp bị hạn chế
nhiều so với trước đây, tại một số quận huyện, do năng lực chuyên môn của nmột số
đội trưởng còn yếu nên chưa làm tốt công tác tham mưu, đề xuất các biện pháp để
chính quyền chỉ đạo và hỗ trợ, thậm chí không báo cáo kịp thời kết quả thu cũng
như vướng mắc khó khăn để chính quyền biết và hỗ trợ giải quyết dẫn đến công tác
quản lý thu thuế bị hạn chế.
Chương III. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế ngoài quốc doanh ở Cục
thuế Hà nội.
I. Đánh giá chung về công tác quản lý thu thuế ngoài quốc doanh ở Cục thuế Hà
nội:
I.1. Kết quả đạt được:
Qua một thời gian thực hiện quy trình quản lý và các luật thuế mới, thực hiện
Thông tư 110 và các văn bản hướng dẫn của Bộ tài chính, công tác quản lý thu thuế
NQD tại Cục thuế Hà nội đã bộc lộ những ưu điểm sau:
Cải tiến trong hành thu, cải cách hành chính thuế:
Cục thuế Hà nội đã thực hiện nghiêm các quy trình quản lý thuế mới thông
qua hệ thống công nghệ tin học, xoá bỏ quy trình quản lý theo chế độ chuyên quản
không còn phù hợp, thực hiện nghiêm chỉnh chế độ đối tượng nộp thuế phải đề cao
tinh thần tự giác trong tự kê khai, tự tính thuế dựa vào kết quả hoạt động của mình
và tự nộp vào Kho bac Nhà nước. Cư quan thuế thực hiện nhiệm vụ hành thu theo
đúng chức năng quy định, hạn chế tối đa việc tiếp xúc giữa cán bộ thuế với đối
tượng nộp thuế, áp dụng hình thức phạt nặng đối với hành vi khai man, trốn thuế,
đảm bảo thu đúng, đủ, kịp thời vào NSNN, giảm tối đa hiện tượng tiêu cực của cả
cán bộ quản lý và đối tượng nộp thuế.
Cải tiến công tác quản lý thu tập trung, đưa các cơ sở kinh doanh đã thực
hiện chế độ hoá đơn kế toán áp dụng phương pháp thu theo kê khai lên Cục thuế
quản lý. Nhìn chung, các doanh nghiệp đều có tâm lý phấn khởi, yên tâm do được
đội ngũ cán bộ có trình độ nghiệp vụ cao hướng dẫn, kiểm tra giúp các đơn vị thực
hiện tốt các luật thuế mới, các vướng mắc được giải quyết kịp thời, thực hiện chính
sách thuế được thống nhất. Đồng thời, từ 2000, do số lượng các doanh nghiệp tăng
nhanh mà lực lượng cán bộ thuế quản lý hạn chế nên Cục thuế Hà nội đã tiến hành
phân cấp các đối tượng không có hoạt động xuất khẩu, không thuộc đối tượng phải
hoàn thuế vế các chi cục thuế quận huyện quản lý, phát huy vai trò của đội ngũ cán
bộ từ Cục thuế đến chi cục thuế để đảm bảo công tác thu có hiệu quả.
Cải tiến chế độ quản lý ấn chỉ thuế, xây dựng quy chế quản lý sử dụng, bán
hoá đơn theo lịch trình thời gian, niêm yết công khai tại cơ quan thuế. Ngoài phần
lớn các doanh nghiệp sử dụng hoá đơn đỏ như trước đây, hiện nay, Bộ tài chính đã
cho phép các dn sử dụng hoá đơn tự in, đã giao cụ thể cho 303 công ty TNHH, 38
công ty cổ phần, 9 doanh nghiệp tư nhân là những doanh nghiệp lớn, có đặc thù
riêng, nhu cầu sử dụng hoá đơn trong giao dịch nhiều mà nếu mua và sử dụng hoá
đơn đỏ sẽ gặp nhiều bất tiện. Nhìn chung, các đơn vị in và sử dụng hoá đơn tự in
chấp hành khá nghiêm túc các quy định về in ấn, đăng ký và sử dụng hóa đơn. so
với hoá đơn đỏ, hoá đơn tự in có một số ưu điểm: doanh nghiệp có thể chủ động về
số lượng hoá đơn và có trách nhiệm đối với hoá đơn của mình, hoá đơn tự in khó bị
làm giả do phạm vi sử dụng hạn hẹp, hoá đơn in tại tại các doanh nghiệp in có thể
kiểm soát, hoá đơn tự in có kèm theo logo để doanh nghiệp tự giới thiệu mình với
khách hàng. Một trong những biện pháp chống các hành vi tiêu cực liên quan đến
hoá đơn hiện nay là biện pháp đóng dấu tên, địa chỉ, mã số thuế trên liên 2 (liên
giao cho khách hàng) của từng số hoá đơn ngay tại cơ quan thuế đối với hoá đơn đỏ
do Bộ tài chính phát hành.
Cục thuế Hà nội đã đưa nội dung công tác thuế vào công tác trọng tâm của
cấp uỷ, chính quyền địa phương. Tổ chức các cuộc tiếp xúc với doanh nghiệp, đẩy
mạnh tuyên truyền về chính sách luật thuế, đảm bảo mỗi cán bbọ thuế là một tuyên
truyền viên hướng dẫn, giải thích chính sách thuế, tại các chi cục thuế đã đưa
chương trình phổ biến chính sách chế độ thuế, công khai mức nộp thuế, tồn đọng
thuế trên các loa truyền thanh xã phường và ban quản lý chợ.
Công tác thanh tra, kiểm tra và công tác phối hợp chống thất thu ngân sách.
Công tác thanh tra, kiểm tra đã được củng cố, kiện toàn bộ máy, tăng cường
cán bộ cả về số lượng và trình độ chuyên môn. chương trình thanh tra hàng
quý,hàng tháng được triển khai thực hiện tốt cả hai mặt kiểm tra đối tượng nộp thuế
và kiểm tra nội bộ.ý thức nhấp hành luật thuế của doanh nghiệp được nâng cao, việc
thực hiện chế độ nộp tờ khai thuế hàng tháng của các doanh nghiệp đạt 95-97%,
tăng so với thực hiện thuế doanh thu trước đây (75-85%).
Củng cố, hoàn thiện bộ máy tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất,
chuyên môn và đoàn kết.
Có thể nói, công tác quản lý thu thuế NQD trên địa bàn Hà nội trong thời
gian qua đã tạo nguồn thu cho NSNN ngày cangf tăng. Thông qua công tác quản lý
thu thuế NQD đã thực hiện vai trò quản lý của Nhà nước nhằm thực hiện công bằng
xã hội, tạo môi trường kinh tế, pháp lý bình đẳng giữa cacs chủ thể kinh doanh, thúc
đẩy kinh tế hàng hoá phát triển nhanh, đúng hướng, hạn chế tiêu cực của kinh tế thị
trường. Đồng thời thông qua công tác quản lý thu thuế đã giáo dục ý thức trách
nhiệm của công dân trong thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, nhờ vậy mà ý
thức cháp hành luật thuế của các đối tượng ngày càng tiến bộ, hiện tượng trốn lậu
thuế giảm dần, hạn chế nợ đọng. Chế độ tự khai, tự tính và tự nộp thuế dần đi vào
nề nếp, số thuế thu hàng tháng của các hộ thuộc diện ghi sổ kế toán chiếm 70% số
thuế ghi thu hàng tháng ở khu vực cá thể, các doanh nghiệp quan tâm đến hoá đơn
chứng từ hợp pháp khi mua hàng hơn.
I.2. Những tồn tại trong quản lý thu thuế:
Về chính sách: số lượng các văn bản hướng dẫn, quy định về việc triển khai
các luật thuế mới và quy trình quản lý mới quá nhiều và không thống nhất, điều này
làm cho cả cán bộ thuế và doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn.
Trước tiên là còn nhiều mức thuế suât (thuế GTGT có 3 mức thuế suât, thuế
TNDN ngoài mức thuế suất chung còn có 4 mức thuế suât ưu đãi) nên việc tính và
quản lý thuế phức tạp. Đối với luật thuế GTGT việc khấu trừ thuế đầu vào còn
nhiều vướng mắc, chẳng hạn chưa đảm bảo nguyên tắc có nộp thuế ở khâu trước
mới được khấu trừ thuế ở khâu sau, hiện chưa có văn bản nào quy định về định mức
tiêu hao nguyên vật liệu dẫn đến các doanh nghiệp cố ý kê khai đầu vào quá lớn,
quy định về tiêu thức phân bổ thuế GTGT đầu vào trong trường hợp không hạch
toán riêng được đầu vào của hàng bán nội địa với hàng xuất khẩu gây khó khăn
trong công tác hoàn thuế. Đối với luật thuế TNDN còn bất cập trong quy định về kê
khai. Theo quy định trong luật, hàng năm doanh nghiệp căn cứ vào kết quả sản xuất
kinh doanh, dịch vụ của năm trước và khả năng của năm tiếp theo để tự kê khai
doanh thu, chi phí, thu nhập chịu thuế theo mẫu và nộp cho cơ quan thuế trực tiếp
quản lý chậm nhất là đến ngày 25/1. Như vậy, những kê khai trên thực chất chỉ là
dự báo trong thời gian tương đối dài (1 năm) dẫn đên việc doanh nghiệp sẽ kê khai
thấp hơn thực tế sản xuất kinh doanh, chưa kể nếu là doanh nghiệp mới thành lập
hoặc năm trước năm kế hoạch còn được ưu đãi về thuế thì sẽ không có căn cứ để kê
khai.
Mối quan hệ giữa các sắc thuế vẫn chưa thực sự cân đối, đồng bộ. Việc xử lý
khó khăn của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các luật thuế còn vun vặt,
chưa đặt trong mối quan hệ tổng thể nên phát sinh nhiều vấn đề mới: mâu thuẫn
giữa hàng hoá, dịch vụ được giảm thuế với những hàng hoá dịch vụ không được
giảm thuế; giảm thuế đôi với mặt hàng này làm tăng số thuế GTGT phải nộp đối với
mặt hàng khác.
Bên cạnh những cố gắng và kết quả mà ngành thuế đã thực hiện trong việc
triển khai thực hiện các luật thuế và quy trìng quản lý, trong năm qua công tác quản
lý thu thuế còn bộc lộ những mặt hạn chế cần được khắc phục. Cụ thể:
1. Đối với công tác tuyên truyền, tư vấn thuế:
Việc hướng dẫn các đối tượng nộp thuế trong sử dụng, ghi chép hoá đơn,
chứng từ, kê khai nộp thuế, đăng ký thuế, lập hồ sơ hoàn thuế, miễn giảm thuếchưa
đầy đủ và cụ thể. Các doanh nghiệp vi phạm luật thuế, lợi dụng quy trình tự khai tự
tính thuế để khai man trốn thúe, xin hoàn thuế để rút tiền của ngân sách, nhất là
trong điều kiện Nhà nước chưa quản lý được thu nhập của doanh nghiệp qua hệ
thống ngân hàng, việc thực hiện chế độ sổ sách ké toán và hoá đơn chứng từ chưa
nghiêm túc.
Tư vấn thuế cũng là một chức năng cơ bản của các cơ quan thuế nhằm tăng
cường ý thức tự giác, tự nguyện chấp hành các luật thuế của đối tượng nộp thuế.
Tuy vậy, công tác này đang còn nhiều “khoảng trống”. Mới ra đời nên hình thức tư
vấn còn đơn điậu, chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu tư vấn đa dạng của doanh nghiệp.
Các hình thức tư vấn mới thông qua phương tiện công nghệ thông tin hiện đại chưa
được áp dụng phổ biến (qua mạng, fax...). nôi dung tư vấn mới chỉ dừng lại ở thông
tin về thuế suất, thủ tục đăng ký, kê khai nộp thuế. Tư vấn thuế chưa thực sự thể
hiện tính cách của một quá trình hỗ trợ doanh nghiệp từ khấu lập sổ sách kế toán,
nhập hoá đơn chứng từ, tính toán mức và thuế phải nộp, giúp lành mạnh hoá tài
chính doanh nghiệp.
2. Về cán bộ thuế:
Chất lượng cán bộ chưa đá ứng được yêu cầu quản lý mới, có tới trên 30%
cán bộ chưa được đào tạo qua đại học nên hạn chế trình độ quản lý, nhiều cán bộ
không biết sử dụng máy tính, chưa đủ thông thạo về chuyên môn, nghiệp vụ để giải
thích tuyên truyền nghiệp vụ thuế, do vậy còn lúng túng và tránh né trước các thắc
mắc của doanh nghiệp. Trình độ cán bộ không đồng đều, nhiều cán bộ tinh thận
trách nhệm còn hạn chế, đặc biệt trong công tác hướng dẫn hộ kinh doanh lập hoá
đơn, tờ khai ghi sổ. Việc tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp còn chậm, gây ra
những phản ứng không đáng có. Thêm và đó, số lượng cán bộ quản lý lại quá mỏng,
việc bao quát được hết các đối tượng nộp thuế là vô cùng khó, tình trạng bỏ sót cơ
sở là tất yếu.
3. Về quản lý đối tượng nộp thuế:
Tình trang thất thu về cơ sở và hộ kinh doanh chưa được khắc phục, cán bộ
thuế nhiều nơi chưa hoàn thành được sơ đồ hộ kinh doanh, việc theo dõi các hộ mới
ra để đưa vào quản lý chưa kịp thời, nhiều hộ có đơn xin nghỉ nhưng thực tế vẫn
kinh doanh dưới nhiều hình thức thay tên đổi chủ mà cán bộ thuế không phát hiện
được kịp thời. Qua tài liệu kiểm tra của Tổng cục thuế về tình hình hộ kinh doanh
trên địa bàn Hà nội cho thấy tình hình bỏ sót hộ đạt từ 6-10%, chưa kể nhiều cơ sở
đã được cấp mã số thuế nhưng hàng tháng không nộp tờ khai thuế và không liên hệ
với cơ quan thuế. Đối với các doanh nghiệp có chi hoặc đại lý có tình trạng nhiều
doanh nghiệp không khai báo đầy đủ với cơ quan thuế. Thêm vào đó, Cục thuế vẫn
chưa phân tích được mối quan hệ giữa doanh nghiệp chủ quản với đơn vị trực thuộc
nên gây thất thu lớn. Công tác quản lý doanh thu đối với hộ kinh doanh theo
phương pháp khoán nhìn chung mức khoán doanh thu hiện nay đối với hộ cá thể
còn thấp so với mức doanh thu thực tế. Nguyên nhân chủ yếu là do cán bộ quản lý
không nắm chắc quy mô kinh doanh của hộ, nhiều hộ kinh doanh các mặt hàng ăn
uống, bia, vật liệu xây dựng, điện máy...doanh thu khoán jiện nay chỉ đạt 60-70%
doanh thu thực tế. Mức thuế bình quân của hộ kinh doanh trên địa bàn Hà nội
khoảng 600.000 đến 700.000 đồng, thấp hơn nhiều so với một số địa phương khác.
mức thuế khoán tại các hộ ở các phường giáp gianh cũng như các hộ trong và ngoài
chợ đôi khi có sự khác biệt lớn. Công tác xử phạt các doanh nghiệp không nộp tờ
khai và việc ấn định lại doanh thu cúa các hộ có tờ khai nghi vấn thực hiện chưa
triệt để, phần lớn tiến hành thu theo số dự kiến. Tình trạng bán hàng không xuát hoá
đơn, sử dụng hoá đơn khống, ghi sai...ngày càng phổ biến.
4. Công tác quản lý thu thuế chưa có sự đồng bộ, thống nhất trong phương thức
quản lý. Năm 1999 khi mới thực hiện quy trình quản lý mới, các doanh nghiệp
NQD được đưa lên Cục thuế quản lý thu. Sau đó, do thiếu cán bộ quản lý, số dn
ngày càng nhiếu nên đến năm 2000, Cục thuế lại đề nghị Tổng cục thuế xem xét
phan cấp bớt một số doanh nghiệp xuống các chi cục thuế quản lý, điều này dẫn tới
khó khăn cho các doanh nghiệp, mất thời gian và sức lực; hơn nữa việc quản lý của
chi cục thuế sẽ rất khó khăn do không nắm được hồ sơ về doanh nghiệp được phân
cấp, về tình hình hoạt động, nợ đọng thuế của các doanh nghiệp này. thậm chí nhiều
doanh nghiệp không có doanh thu kéo dài, bỏ hoặc không tìm thấy trên địa bàn lại
được phân cấp xuống các chi cục thuế quản lý làm cho công tác quản lý càng khó
khăn hơn.
Thất thu thuế không chỉ về số lường doanh nghiệp mà còn thất thu do các
doanh nghiệp kê khai không đúng hoặc không đầy đủ ngành nghề kinh doanh. Do
được quyền tự chủ trong kinh doanh, mô hình gọn nhẹ nên các cơ sở trong khối
NQD có thể thay đổi linh hoạt ngành nghề kinh doanh. Việc che dấu ngành nghề
kinh doanh hoặc chỉ khai báo các hoạt động chính của cơ sở gắn liền với việc che
dấu doanh thu, thu nhập chịu thuế (chẳng hạn doanh nghiệp vừa kinh doanh hàng
điện tử vừa mua bán bất động sản của công ty TNHH Xuân trường-Ba đình). Trong
khi đó, vấn để quản lý ngành nghề kinh doanh của cơ quan thuế còn nhiều vướng
mắc, lực lượng cán bộ mỏng nên không thể theo đôn đốc sát sao mọi hoạt động kinh
doanh của các công ty, có nhiều ngành nghề thuộc các lĩnh vực khó kiểm soát đòi
hỏi phải có sự hiểu biết sâu như: hoạt động môi giới, tư vấn, thiết kế...Theo quy
định của luật doanh nghiệp là các cơ sở kinh doanh chỉ cần đăng ký ngành nghề khi
thành lập hoặc thay đổi ngành nghề với UBND thành phố, cơ quan thuế không trực
tiếp quản lý ngành nghề kinh doanh, do vậy, mọi thông tin về ngành nghề kinh
doanh thường chậm so với yêu cầu của công tác quản lý.
5. Về công tác kế toán hộ kinh doanh, hoá đơn chứng từ:
Trên địa bàn Hà nội hiện còn trên 1.000 hộ kinh doanh thuộc diện mở sổ
sách kế toán nhưng chưa thực hiện do nguyên nhân khách quan, như các hộ có
doanh thu lớn nhưng bán hàng ở vỉa hề, kinh doanh hàng thực phẩm tươi sống, hộ
cho thuê nhà kê khai theo hợp đồng. Còn khoảng 10% số hộ đã có quyết định của
UBND quậ huyện phải mở sổ sách kế toán nhưng chưa thực hiện, khoảng 15% số
hộ mở sổ sách kế toán hàng tháng không nộp tờ khai thuế, các chi cục thuế chưa có
biện pháp xử lý kiên quyết.
Việc sử dụng hóa đơn chứng từ khi mua, bán hàng chưa nghiêm túc, còn có
tìng trạng bán lẻ hàng cho các đối tượng tiêu dùng lẻ không xuất hoá đơn, hoặc có
ghi hoá đơn nhưng ghi thấp hơn so với giá bán thực tế. Một số hộ kinh doanh vi
phạm chế độ quản lý sử dụng hoá đơn, để người khác lợi duạng hoá đơn trốn thuế
như xé rời liên 2 để trắng giao cho khách hàng, phổ biến là các hộ kinh donh ăn
uống quy mô lớn bán hàng không xuất hoá đơn và ghi sổ sách kế toán thấp hơn
nhiều so với doanh thu thực tế, hoặc có tình trạng hộ kinh doanh tự huỷ toàn bộ hoá
đơn đã sử dụng để đối phó với cơ quan thuế khi có kiểm tra quyết toán thuế (hộ 22
Nguyễn Công Trứ mất 32 quyể hoá đơn, hộ 119 phố Huế báo mất 50 quyển hoá
đơn), đặc biệt có tình trạng hộ kinh doanh xuất hoá đơn nhưng không có hàng để
một số doanh nghiệp hợp thức hoá hồ sơ hoàn thuế GTGT nhằm chiếm dụng tiền
của NSNN.
Các hộ thu thuế theo phương pháp khoán có nhu cầu mua hoá đơn chủ yếu
chỉ phản ánh mức doanh thu trên hoá đơn tương ứng với mức doanh thu khoán, việc
ghi sổ sách kế toán chỉ mang tính hình thức nhưng các chi cục thuế chưa áp dụng
biện pháp kiên quyết buộc các hộ kê khai trung thực.
Còn trên 30% số hộ ghi sổ sách kế toán không đấy đủ so với hoạt động kinh
doanh thực tế, nhiều hộ bán hàng tiêu dùng nên người mua không cần lấy hoá đơn.
đặc biệt là các hộ thu theo phương pháp kê khai và phương pháp khấu trừ, một số
hộ trước đây thu khoán với doanh thu 100 đến 150 triệu đồng, thuế từ 12 đến 15
triệu một tháng nay thu theo phương pháp kê khai hoặc khấu trừ chỉ còn khoảng 1,5
triệu một tháng hoặc thậm chí thường xuyên có số thuế âm.
6. Đối với công tác hoàn thuế:
Hiên hay trong công tác hoàn thuế GTGT, Cục thuế Hà nội gặp một số khó
khăn, có nhiều nghi vấn đối với một số trường hợp nếu xét vè mặt hồ sơ thì cơ quan
thuế không đủ căn cứ để bác bỏ, cụ thể:
Đối với các doanh nghiệp xin hoàn thuế theo trường hợp xuất khẩu hàng hoá
là nông, lâm, thuỷ sản, chính sách thuế cho phép các doanh nghiệp được khấu trừ
2% đối với nông, lâm, thuỷ sản mua vào theo bảng kê và khấu trừ 3% đối với hoá
đơn bán hàng thông thường, do vậy một số doanh nghiệp lợi dụng để xin hoàn thuế
theo hai dạng: do trực tiếp mua nông, thuỷ, hải sản để suất khẩu, khi mua đơn vị có
lập bảng kê trong đó nhiều trường hợp số lượng và giá trị hàng rất lớn, nhưng bảng
kê lại không ghi chi tiết cụ thể địa chỉ cuả người bán, việc thanh toán chủ yếu bằng
tiền mặt nên cơ quan thuế khó kiểm tra, xác minh để biết là có hàng hay không;
trường hợp khác là không mua hàng bằng bản kê mà bằng hoá đơn thông thường
của các hộ kinh doanh mà việc quản lý hoá đơ đối với hộ cá thể chưa được chặt chẽ
vì vậy có hiện tượng xin hoá đơn để tự ghi giá đầu vào mà thực chất là ghi khống.
Một số doanh nghiệp không có hoạt động xuất khẩu, chỉ nhập khẩu hàng về
để tiêu thụ nội địa nhưng liên tục xin hoàn thuế với lý do hàng tồn kho lơns mà tồn
thật hay giả thì cơ quan thuế không thể khẳng định được. Một số doanh nghiệp có
số thuế đầu ra thường xuyên thấp hơn thuế đầu vào và thuộc diện phải hoàn thuế.
Trong các trường hợp trên, định mức tiêu hao nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất
của doanh nghiệp chaư được cơ quan nào quy định, chủ yếu là do doanh nghiệp tự
xác định nên không trành khỏi việc doanh nghiệp tăng mức tiêu hao nguyên vật liệu
để xin hoàn thuế, trong khi đó số lượng sản phẩm bán ra doanh nghiệp không báo
cáo đầy đủ, hàng bán không xuất hoá đơn. Đối với cơ chế tín dụng như hiện nay thì
cơ quan thuế rất khó kiểm tra đối với doanh nghiệp.
Một số doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu: doanh nghiệp nhập khẩu gỗ
tròn, xuất khẩu gỗ thành phẩm và gỗ tròn, một số thành phẩm không đảm bảo chất
lượng nên doanh nghiệp bán nội địa, doanh nghiệp làn đơn xin hoàn thuế với lý do
là hàng xuất khẩu. Nghi vấn cảu cơ quan thuế: sản phẩm bán nội địa người tiêu
dùng không đòi hỏi hoá đơn nên doanh nghiệp không kê khai phần hoạt động kinh
doanh nội địa dẫn đến xác định mức tiêu hao vật tư do doanh nghiệp báo cáo cáo
hơn nhiều định mức tiêu chuẩn do Cục kiểm lâm ban hành. Mặt khác, giá ghi trện
hoá đơn phần bán nội địa thấp hơn nhiều so với giá thị trường.
Doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng ô tô, xe máy có hiện tượng bán xe cho
các đối tượng là cá nhân, ghi giá trệ hoá đơn thấp hơn nhiếuo với giá thực tế tính lệ
phí trước bạ. Doanh nghiệp có đơn xin hoàn thuế với lý do là hải quan áp giá thúế
lớn hơn giá thực nhập, kiểm tra đối chiếu giá thực tế thu tiền và giá ghi trên hoá
đơn rất khó do người mua là các nhân tiêu dùng.
Doah nghiệp kinh doanh mặt hàng máy vi tính xin hoàn thuế với lý do nhập
khẩu linh kiện phải nộp thuế GTGT với thuế suất 10%, khi lắp ráp máy tính chịu
thuế suất 5%, doanh nghiệp có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ngành nghề lắp
ráp máy vi tính. Khi xuất máy tính cùng model bán cho các đối tượng khác nhau với
các mức giá khác nhau vpí giá khác nhau, bán cho cá nhân ghi địa chỉ không rõ tàng
với giá thầp hơn bán cho các doanh nghiệp và giả trình về việc ghi không rõ ràng là
do yêu cầu của khách hàng.
7. Sự phối hợp giữa quận huyện với các chi cục thuế về công tác thuế còn hạn chế.
Các cấp, ngành chưa quan tâm hỗ trợ ngành thuế trong triển khai kế toán hộ kinh
doanh, trong tìm kiếm các đối tượng nộp thuế không tìm thấy.
8. Công tác thanh tra, kiểm tra chưa làm tốt dẫn đến chất lượng ghi chép sổ sách kế
toán không đạt yêu cầu nên nhiều chi cục thuế phải ấn định doanh thu tính thuế, có
chi cục thuế cả năm không kiểm tra. Công tác kiểm tra sau hoàn thuế dù đã được
tăng cường nhưng mới kiểm tra được 30% đơn vị được hoàn thuế. Nhiều khi nghi
vấn doanh nghiệp hoàn thuế để rút tiền ngân sách nhưng không kiểm tra kịp thời
đến khi phát hiện ra thì doanh nghiệp đã được hoàn với giá trị thuế lớn. Hiệu quả
của các quyết đing sau kiểm tra, thanh tra đã đươch quy định rõ trong luật thuế và
các văn bản xử lý các đối tượng vi phạm bằng các hình thức: trích tiền gửi của đối
tượng nộp thuế tại ngân hàng, Kho bạc, tổ chức tín dụng để bù thuế, phạt, giữ hàng
hoá tang vật đảm bảo thu đủ tiền nợ, kê biên tài sản..., tuy vậy phần lớn các cơ quan
thuế chỉ áp dụng phạt hành chính, phạt nộp chậm hoặc truy thu thuế do vậy đã giảm
hiệu lực của công tác cưỡng chế thuế.
Mặc dù trong năm 2001 số thu của khu vực KTNQD đã khởi sắc nhưng
thành tựu đó chỉ có thể duy trì trong nhiều năm tiếp theo khi ngành thuế đưa ra giải
pháp hữu hiệu hoàn thiện công tác quản lý thu thuế trên địa bàn của mình.
II. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế ngoài quốc doanh ở Cục thuế Hà
nội.
II.1. Phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới:
Để thực hiện các luật thuế và quy trình quản lý thu thuế mới có hiệu quả,
hoàn thành chỉ tiêu dự toán thu ngân sách năm 2002 được giao tăng cao so với thực
hiện năm 2001, ngành thuế Hà nội tiếp tục phối hợp với các Sở, Ban, ngành thực
hiện các nội dung sau:
1. Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với cơ quan thông tin đại chúng để đẩy mạnh
hơn nữa việc thường xuyên tuyên truyền các luật thuế mới.
2. Rà soát toàn bộ các đối tượng đã được cấp mã số thuế nhưng chưa gửi tờ
khai thuế theo quy định để nhắc nhở các doanh nghiệp thực hiện nghêm túc.
3. Giải quyết kịp thời việc hoàn thuế theo đúng quy định của luật thuế, đồng
thời đôn đốc các doanh nghiệp nộp thuế theo thông báo thuế.
4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp thực hiện chế
độ hoá đơn, chứng từ và hạch toán kế toán, kê khai nộp thuế có nghi vấn để kịp thời
chấn chỉnh và xử lý nghiêm các trường vi phạm. Tiếp tục theo dõi và nắm diễn biến
trong quá trình thực hiện các luật thuế để kịp thời phát hiện vướng mắc phát sinh và
đề xuất các biện pháp xử lý. Đồng thời tập trung chỉ đạo giúp doanh nghiệp sắp xếp
lại sản xuất, xây dựng phương án kinh doanh, xử lý giá đầu vào, đầu ra hợp lý để
thực hiện nghiêm ngặt luật thuế.
5. Phối hợp với cơ quan Kho bạc để tổ chức việc thu thuế trực tiếp qua hệ
thống Kho bạc Nhà nước, đảm bảo các thủ tục nộp thuế được kịp thời, nhanh chóng
cho đối tượng nộp thuế. Tiến hành việc nối mạng thông tin giữa cơ quan Kho bạc
với Cục thuế để thường xuyên đối chiếu kịp thời số thuế đã nộp.
6. Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo, nâng cao trình độ năng lực chuyên môn
của cán bộ thuế và trang bị thêm phương tiện kỹ thuật để hoàn thành được nhiệm vụ
Nhà nước giao.
7. Tăng cường đối thoại với các doanh nghiệp để nắm vững những khó khăn
vướng mắc và đề xuất biện pháp xử lý.
8. Ban chỉ đạo thực hiện các luật thuế mới Thành phố và các quận huyện đẩy
mạnh hoạt động, theo dõi chỉ đạo các ngành thuế, tài chính, hải quan, quản lý thị
trường và các ngành liên quan khác trong việc thực hiện các luật thuế, quản lý thu
thuế, quản lý thị trường, giá cả. xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm về thuế, về
thị trường, giá cả. Phát hiện, tổng hợp những khó khăn vướng mắc của các cơ sở
kinh doanh và đề xuất các biện pháp xử lý. Duy trì thường xuyên chế độ báo cáo
theo định kỳ.
II.2. Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế ngoài quốc doanh.
II.2.1. Tiếp tục tăng cường, củng cố các phòng thu thuộc văn phòng Cục thuế và các
đội thuế phường xã.
Việc tăng cường củng cố các phòng thu và các đội thuế có ý nghĩa rất quan
trọng nhằm tập trung lực lượng quản lý chặt chẽ các đối tượng nộp thuế trên từng
địa bàn, thuộc mọi thành phần kinh tế, đảm bảo chống thất thu có hiệu quả về số cơ
sở kinh doanh, về doanh thu, về nợ đọng dây dưa, phát huy tác dụng của công tác
thuế góp phần củng cố chính quyền địa phương.
Hai phòng quản lý thu các doanh nghiệp NQD thuộc Cục thuế Hà nội, với
biên chế mỗi phòng mỏng, quản lý thu số doanh nghiệp nhiều gấp 5-6 lần so với
đầu mối quản lý của khu vực doanh nghiệp Nhà nước, địa bàn quản lý của mỗi
phòng lại phân tán tại các quận huyện nên không có điều kiện để quản lý sâu xát.
cần thiết tăng thêm biên chế các phòng, mỗi phòng chỉ theo dõi từ 1.200 đến 1.400
doanh nghiệp, bố trí cán bộ thuế theo những công việc phù hợp với trình độ chuyên
môn của từng người, tăng cường đưa tin học vào công tác quản lý sẽ nâng cao hiệu
quả quản lý để quản lý tốt hơn hiện nay.
Tại 12 quận huyện đang trực tiếp quản lý trên 12.614 hộ kinh doanh, ngoài
5.131 doanh nghiệp NQD đến nay các chi cục thuế còn được phân cấp thêm 4.570
doanh nghiệp từ Cục thuế Hà nội, do vây, việc củng cố, kiện toàn Đội thuế phường,
xã, phát huy hiệu quả hoạt động cảu mô hình này có ý nghĩa lớn nhằm quản lý chặt
chẽ các đối tượng nộp thuế trên địa bàn, chống thất thu về hộ và mức thuế có hiệu
quả. Mỗi phường, xã có một đội thuế đảm bảo tinh gọn, gắn liền với chính quyền cơ
sở để quản lý sâu sát các đối tượng. Phối hợp chặt chẽ với Hội đồng tư vấn thuế
trong công tác nắm hộ, nắm doanh thu và đôn đốc thu nộp thuế. Các đội thuế cần
làm tốt công tác tham mưu cho chính quyền cơ sở trong công tác chỉ đạo thuếếp tục
bồi dưỡng và đào tạo lại để nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ thuế và đội trưởng
thường xuyên tập huấn về chính sách có tổ chức kiểm tra, thi sát hạch để giúp cán
bộ tự quan tâm nắm vững chính sách thuế, tổ chức thi chọn đội trưởng quản lý giỏi
và thực hiện chuyển vùng đối với những cán bộ quản lý để hạn chế tình trạng nể
nang tình cảm đối với hộ kinh doanh. Ngoài ra, việc xác định mức doanh thu khoán
đối với hộ kinh doanh cá thể có ý nghĩa rất quan trọng trong việc chống thất thu
thuế. Yêu cầu của việc xác định doanh thu khoán là phải sát với thực tế kinh doanh,
phải đảm bảo công bằng giữa các hộ kinh doanh cùng ngành hàng, hạn chế đến mức
tối đa tình trạng thất thu thuế do mức doanh thu khoán quá thấp. Đồng thời, đảm
bảo cân đối về mức doanh thu giữa các hộ kinh doanh trong chợ với các hộ kinh
doanh ngoài đươngf phố, tránh tình trạng do định mức doanh thu trong các chợ cao
hơn ngoài đường phố mà các hộ đã bỏ chợ để ra ngoài kinh doanh. Muốn vậy, các
đội thuế phường, xã phải phối hợp với các Hội đồng tư vấn thuế, Ban quản lý chợ,
công an, tổ chức các hộ kinh doanh nhỏ vào từng tổ kinh doanh theo địa bàn đường
phố, theo ngành nghề, dãy chợ, thuận tiện cho việc sinh hoạt nghe phổ biến các
chính sách, chế độ thuế, về quản lý kinh tế tài chính trật tự an ninh...Tiến hành điều
tra, sắp xếp các hộ kinh doanh có quy mô tương đối giống nhau vào thành các
nhóm, trong mỗi nhóm chọn một số hộ điển hình, bám sát điều tra trực tiếp trong
một số ngày đông khách, vắng khách, bình thường để có căn cứ dự kiến doanh thu
bình quân cả tháng, từ đó, xem xét, bàn bạc một cách dân chủ để xác định mức thuế
khoán cho từng nhóm hoặc từng hộ cụ thể ngày càng bám sát với thực tế.
Cán bộ quản lý thu thuế và đội thuế phường xã phải theo dõi chặt chẽ ngành
nghề kinh doanh, loại hình kinh doanh, đây là cơ sở ban đầu để cán bộ thuế có cái
nhìn tổng thể về đối tường quản lý. Đồng thời, hàng tháng, căn cứ vào thông báo
thuế đã phát hành cho các đối tượng nộp thuế để tiến hành việc đôn đốc các cơ sở
kinh doanh trực tiếp nộp đủ số tiền thuế đã ghi trên thông báo vào Kho bạc, theo dõi
số thuế chưa nộp để tiếp tục đôn đốc các cơ sở kinh doanh nộp đủ và kịp thời trong
tháng. Hết tháng phải thông báo UBND phường xã và Hội đồng tư vấn thuế về kết
quả thu và số thuế tồn đọng, để xuất hiện các biện pháp giải quyết nợ đọng thuế.
II.2.2. Phát huy tác dung quản lý thu thuế theo quy trình tách 3 bộ phận:
Trong thời gian qua, quy trình quản lý tách ba bộ phận (bộ phận quản lý đối
tượng nộp thuế, đôn đốc thu nộp thuế và các khoản thu nộp khác do cơ quan thuế
phụ trách; bộ phận tính thuế, lập sổ thuế, trình lãnh đạo cơ quan duyệt các mức
doanh thu, mức thuế, phát hành thông báo thuế, theo dõi thu nộp thuế; bộ phận kiểm
tra, thanh tra theo dõi việc thực hiện các quy trình công tác của các bộ phận quản lý,
bộ phận kế toán, tiến hành xử lý các vi phạm chính sách thuế, chế độ thuế) đã được
thực hiện và phát huy tác dụng. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vướng mắc và tồn tại.
Việc thực hiện quy trình quản lý thu thuế theo ba bộ phận phải đi vào thực chất
nhằm tăng cường công tác quản lý thu nộp thuế đạt hiệu quả cao, đảm bảo tính công
khai, dân chủ, công bằng xã hội trong việc thực hiện các luật thuế. Phát huy tính
độc lập trong chuyên môn hoá để nâng cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân và tập
thể trong quản lý, thu nộp thuế, có sự hỗ trợ tích cực giữa các bộ phận, khắc phục
những nhược điểm, sơ hở trong từng bộ phận công tác, đảm bảo tổ chức quản lý thu
thuế thống nhất trong cả nước, từng bước cải tiến các nghiệp vụ hành thu theo
hướng ngày càng văn minh, tiến bộ và hiện đại.
Bộ phận quản lý: cần phối hợp với chính quyền phường xã và hội đồng tư vấn thuế
và các ngành có liên quan điều tra, năm chắc các hộ, các cơ sở kinh doanh trên địa
bàn, tiến hành phân loại cơ sở theo quy mô, tính chất, ngành nghề để áp dụng biện
pháp quản lý thích hợp. Cụ thể phải nắm các hộ đang sản xuất kinh doanh (có đăng
ký thuế, không có đăng ký thuế, đã nộp thuế, chưa nộp thuế...), các hộ mới ra hoạt
động, bỏ kinh doanh, xin nghỉ kinh doanh, giải thể, sát nhập, phân tán, di chuyển
địa điểm..., phải hướng dẫn, giải thích cho các cơ sở thực hiện đăng ký nộp thuế,
hướng dẫn làm tờ khai nộp thuế và thu hồi tờ khai (đối với các cơ sở nộp thuế theo
kê khai). Lập hồ sơ các cơ sở kinh doanh trên địa bàn để theo dõi quản lý. Tiếp
nhận đơn xin nghỉ sản xuất kinh doanh, xin giải thể, xin sát nhập, chuyển địa điểm,
kiểm tra nội dung đơn và theo dõi tình hình nghỉ, giải thể, sát nhập, phân tán, di
chuyển để xử lý trường hợp vi phạm. Lập danh sách những cơ sở xin nghỉ, giải thể
để trình lãnh đạo giải quyết những vấn đề tồn tại cần thiết đúng quy trình của Nhà
nước.
Đối với các hộ nộp thuế theo chế độ khoán doanh thu thì vấn đề quan trọng
là thường xuyên bám sát điều tra tình hình hoạt động của các hộ điển hình để có sự
đánh giái đúng tình hình tăng, giảm doanh thu so với mức khoán và so với thực tiến
kinh doanh của thời gian trước. Từ đó đưa ra lấy ý kiến của tổ kinh doanh và dự
kiến điều chỉnh doanh thu, mức thuế đối với hộ kinh doanh điển hình, đại diện từng
nhóm kinh doanh. Thực hiện việc điều chỉnh doanh thu thưpờng xuyên và đột xuất
theo chỉ đạo của lãnh đạo Cục thuế, chi cục thuế đối với những hộ hoạt động trong
những ngành nghề, mặt hàng phát triển. Sau khi bộ phận kế toán tính thuế, lập sổ
thuế trình lãnh đạo duyệt và viết thông báo, bộ phận quản lý có nhiệm vụ nhận
thông báo thuế nhuyển đến tận tay từng đối tượng nộp thuế và yêu cầu đối tượng ký
nhận thông báo. Phối hợp với UBND phường xã, tổ trưởng dân phố, thôn, xóm, ban
quản lý chợ chọn địa điểm bố trí thu, thông báo cho hộ kinh doanh trực tiếp mang
tiền đến nộp, vận động hộ kinh doanh nộp tiền thuế đúng lịch và địa điểm thu. Bố
trí cán bộ phụ trách từng công việc: viết biên lai, thu tiền thuế, chấm sổ thuế, tổ
chưc theo dõi thu nộp thuế, chấm sổ thuế kịp thời, chính xác. Tiến hành thanh toán
biên lai, nộp thuế theo đúng lịch tại cơ quan Kho bạc. Lập danh sách những hộ nợ
đọng thuế, số tiền thuế đọng, phối hợp với bộ phận kiểm tra, xử lý theo quy định
của luật thuế.
Đối với các đối tượng nộp thuế theo chế độ kê khai: phải hướng dẫn cơ sở
thực hiện đầy đủ chế độ hoá đơn, sổ sách kế toán, lập tờ khai doanh thu, tờ khai
thuế GTGT và tờ khai thu nhập chịu thuế theo mẫu quy định, cán bộ quản lý nhận
tờ khai, kiểm tra các chỉ tiêu kê khai, đối chiếu với thực tế kinh doanh qua công tác
quản lý thường xuyên, ký xác nhận và tờ khai. Để phát hiện kịp thời những gian dối
trong kê khai, bộ phận quản lý cần thực hiện những công việc sau: thu thập các
chứng từ, sổ sách kế toán để chuẩn bị công tác kiểm tra, so sánh đối chiếu, cụ thể là
các boá cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp kỳ báo cáo và các kỳ trước, các
hợp đồng ký kết với khách hàng về cung cấp sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, các hoá
đơn bán hàng, các chứng từ vận chuyển liên quan, các bảng thanh quyết toán, thanh
lý hợp đồng bán hàng, cung cấp theo vụ, dịch vụ các chứng từ thanh toán các hợp
đồng, khế ước tín dụng, các sổ chi tiết bán hàng, sổ chi tiết tiêu thụ, sổ chi tiết về
thu nhập hoạt động tài chính, hoạt động bất thường, các sổ kế toán và sổ tài khoản.
Tiến hành kiểm tra, so sánh, đối chiếu quá trình phát sinh doanh thu, kiểm tra căn
cứ để xác định số thuế đầu vào được khấu trừ qua hoá đơn mua hàng, phiếu nhập
kho, các chứng từ vân chuyển, cân đối lại hàng tồn kho, số hàng thực tế đã nhập,
tính toán lại giá trị hàng mua vào thực tế, kiểm tra độ chính xác, tính trung thực, kịp
thời của các giấy tờ trên. Sau khi bộ phận kế toán tính thuế và ra thông báo thuế, bộ
phận quản lý chuyển thông báo tới tận tay cơ sở, có ký nhận của cơ sở, đôn đốc các
đối tượng nộp thuế nộp thuế đúng vào Kho bạc. Thống kê các cơ sở kinh doanh đã
nộp thuế từng ngày, những cơ sở chưa nộp thuế để đề nghị bộ phận kế toán ra thông
báo thuế lần 2 và xử lý phạt chậm.
Bộ phận kế toán nghiệp vụ: cần củng cố và kiện toàn để nâng cao chất lượng đáp
ứng kịp thời thông tin phục vụ công tác chỉ đạo của lãnh đạo, đồng thời phát huy vai
trò tham mưu. Sau khi tiếp nhận tờ khai nộp thuế của các cơ sở kinh doanh, thông
qua các thông tin về doanh nghiệp, so sánh doanh thu của các cơ sở kinh doanh
cùng ngành nghề, cùng quy mô tiế hành tính thuế trên máy tính và kiểm tra độ
chính xác của tờ khai thuế để ra thông báo thuế. Cán bộ thuộc bộ phận này phải
nắm chắc về pháp lệnh kế toán thống kê, nghiệp vụ, chính sách thuế và sử dụng
máy vi tính thành thạo để có thể xử lý các thông tin một cáh chính xác, phát hiện
những gian dối trong tự khai, tự tính thuế của doanh nghiệp.
Bộ phận kiểm tra: cần được bổ sung cả về chất lượng và số lượng để thực hiện tốt
công tác kiểm tra. Tăng cường kiểm tra, thanh tra các đối tượng nộp thuế, phát hiện
các cơ sở trốn lậu thuế, thực hiện các thủ tục cưỡng chế thuế. Tăng cường công tác
thanh tra nội bộ về việc chấp hành các quy định của luật thuế, thực hiện quy trìng
quản lý thuế và 10 điều kỷ luật của cán bộ thuế nhằm kịp thời trấn chỉnh đội ngũ
cán bộ thuế.
Ba bộ phận trên có những nhiệm vụ độc lập nhưng đồng thời lại có các môi
quan hệ mật thiết với nhau, thường xuyên cung cấp thông tin cho nhau, cùng bàn
bạc giải quyết những vướng mắc phát sinh. Kết quả công việc của bộ phận này là
căn cứ, tài liệu để thực hiện nhiệm vụ của các bộ phận khác, cùng hỗ trợ đảm bảo
các quy trình quản lý được thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh, khép kín.
II.2.3. Tiếp tục đưa việc thực hiện chế độ sổ sách, hoá đơn, chế độ kế toán vào nề
nếp:
Có thể nói việc thực hiện tốt chế độ hoá đơn chứng từ là một trong những
điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thành công các luật thuế mới và quy trình thực hiện
quản lý theo 4 tự: tự khai, tự tính, tự nộp, tự kiểm tra.
Ngoài mục đích tạo được căn cứ pháp lý cho việc kiểm tra, kiểm soát và
quản lý thu thuế, chứng từ hoá đơn còn phục vụ cơ sở kinh doanh có điều kiện theo
dõi quá trình hoạt động, nắm chắc diễn biến về doanh thu, chi phí, lãi lỗ trong kinh
doanh của mình, xác định đúng số thuế GTGT đầu ra, đầu vào được khấu trừ, tính
đúng các khoản thu nhập và các khoản chi phí hợp lý được trừ khi tính thu nhập
chịu thuế, làm tròn nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Ngoài ra, việc quản lý sử dụng
hoá đơn chứng từ, hoá đơn bán hàng thống nhất, đầy đủ, đúng quy định còn có tác
động tích cực góp phần thiết lập trật tự kỷ cng trong công tác quản lý hành chính,
lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế xã hội, là cơ sở để bảo vệ lợi ích, quyền lợi
chính đáng của người tiêu dùng, giữ vng và nâng cao uy tín của doanh nghiệp.
Về chế độ quy định của Nhà nước đối với việc quản lý xử dụng hóa đơn
chứng từ đã có đầy đủ nhưng nhìn chung trong xã hôi việc nhận thức về vấn đề này
chưa đầy đủ, đúng mức, thể hiện ở việc bỏ sót, để lọt nhiều hoá đơn, chứng từ
không hợp pháp khi thanh quyết toán tài chính, thuế. Tình trạng sử dụng hoá đơn
giả, mua bán hoá đơn thật trôi nổi trên thị trường, tình trạng để mất hoá đơn, báo
mất hoá đơn sau đó mang ra sử dụng trốn thuế hoặc hợp thức hoá các khoản chi phí
không hợp lý, việc cấp hoá đơn cho khách hàng còn tuỳ tiện...đặc biệt trong khu
vực NQD trong thời gian qua đã gây thất thu thuế nghiêm trọng chu NSNN và gây
mất trật tự, bình đẳng trong cạnh tranh trên thị trường.
Để khắc phục được những tồn tại trên và thực hiện chế độ hoá đơn chứng từ,
sổ sách kế toán một cách nghiêm túc, ngành thuế cần tiến hành một số biện pháp
sau:
Trước hết, cán bộ thuế cần thông suốt yêu cầu, tác dụng và nâng cao trình độ
về chế độ hoá đơn chứng từ. Từ đó, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các cơ sở kinh
doanh thực hiện nghiêm túc. Đồng thời, cơ quan thuế cần có chế độ quản lý thường
xuyên đối với từng đối tượng, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện và
xử lý nghiêm minh các vụ vi phạm, từng bước đưa việc thực hiện pháp lệnh kế toán
thống kê vào nề nếp.
*Thực hiện tốt nguyên tắc quản lý hoá đơn: cơ quan thuế bán sổ theo dõi
mua hoá đơn cho các cơ sở, mỗi lần để mua hóa đơn các cơ sở phải xuất trình sổ
theo dõi mua hoá đơn, khi nhận được hoá đơn các cơ sở phải đóng dấu của cơ sở
mình đầy đủ về tên hiệu, địa chỉ, mã số ngành thuế vào trên hóa đơn của tất cả các
liên giao cho khách hàng trước khi sử dụng để tránh tình trạng cơ sở bán lại hoá đơn
trắng cho các đơn vị khác sử dụng, vận chuyển hàng trốn lậu thuế; cần quy định
thành chế độ cho các cán bộ trực tiếp quản lý cơ sở phải liên đới chịu trách nhiệm
theo dõi, kiểm tra, quản lý việc đóng đấu trên các liên giao cho khách hàng; các
trạm kiểm soát thuế trên dường phải đóng dấu của trạm lên hoá đơn mỗi khi có
hàng vân chuyển qua trạm nhằm ngăn chặn việc quay vòng hoá đơn nhiều lần; phải
xem xét cơ sở đang sử dụng mấy quyể hoá đơn cùng lúc, nếu phát hiện dùng cùng
một lúc hai quyển hoá đơn cho một nơi mà nhu cầu không cần thiết, hoá đơn dùng
nhảy cóc, nội dung ghi chép không rõ ràng, không đúng các chi tiết quy định trên
hoá đơn phải lập biên bản xử lý theo đúng chế độ; trong trường hợp cơ sở thực hiện
chế độ hoá đơn mang tính đối phó để được nộp thuế thấp theo tài liệu kê khai cần
bố trí kiểm tra, theo dõi, yêu cầu khách hàng xuất trình hoá đơn bán hàng hoặc cung
ứng dịch vụ để phát hiện các trường hợp không xuất hoá đơn hoặc ghi trên hoá đơn
liên 2 cao hơn liên 1 giữ lại doanh nghiệp; đối với các đơn vị xin phép tạm nghỉ lâu,
cán bộ thuế lập biên bản tạm thu hồi các quyển hoá đơn chưa dùng, đang dùng dở
và sổ theo dõi mua hoá đơn để tránh việc lợi dụng hoá đơn còn lại của doanh nghiệp
để xuất hàng, trốn lậu thuế; đối với những trường hợp bị mất hóa đơn phải lập biên
bản ghi rõ nguyên nhân, trách nhiệm, báo cáo cơ quan thuế và cơ quan công an nơi
sở tại số lượng hoá đơn mất để xác minh, xử lý và thông báo rộng rãi nhằm vô hiệu
hoá việc sử dụng số hoá đơn đã mất; cuối năm, cuối quý phải kiểm tra sổ theo dõi
mua hoá đơn, đối chiếu với doanh thu kê khai để phát hiện số doanh thu trong
những quyển hoá đơn đã dùng nhưng lại không chịu vào sổ sách kế toán và không
kê khai đầy đủ doanh thu nộp thuế. Hơn nữa, việc nâng cấp hệ thống tin học sẽ góp
phần ngăn chặn có hiệu quả sự lưu hành hoá đơn giả, ghi chênh lệch giá giữa các
liên, ghi hoá đơn khống...chống thất thu cho ngân sách.
Đối với các cơ sở kinh doanh, cần giả thích, tuyên truyền sâu rộng đồng thời
bắt buộc để họ hiểu được việc thực hiện tốt chế độ hoa đơn chứng từ vừa là một
nghĩa vụ bắt buộc vừa là quyền lợi đối với mọi cơ sở kinh doanh. Đối với những cơ
sở thực hiện sai pháp lệnh kế toán thống kê hay vi phạm chế đọ hoá đơn chứng từ
cần phải xử lý thật nghiêm minh tuỳ theo mức độ vi phạm. Biểu dương khen thưởng
kịp thời các hộ kinh doanh đã thực hiện tốt chế độ kế toán, phê phán, xử lý phạt
những hộ không thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm túc, cố tình ghi chép chống
đối với mục đích trốn thuế.. Khuyến khích các hộ ghi sổ kế toán, lập hoá đơn chứng
từ tương đối tốt được chuyển sang nộp thuế theo kê khai, tạo điều kiện cho các hộ
có nguyện vọng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ được chuyển sang một cách
nhanh chóng, thuận lợi.
Đối với người tiêu dùng cần tăng cường tuyên truyền giải thích để họ hiểu
chứng từ hoá đơn hợp lệ là căn cứ pháp lý để đảm bảo trách nhiện của cơ sở sản
xuất kinh doanh đối với khách hàng. Giáo dục ý thức thói quen mua hàng phải lấy
hoá đơn chứng từ, giúp các cơ quan phát hiện các cơ sở vi phạm chế độ hoá đơn
chứng từ. Cần quy định rõ sự liên đới chịu trách nhiệm của người mua trong trường
hợp cơ sở kinh doanh bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ không xuất hoá đơn, nên đưa
vào chế độ tuần kỳ quay thưởng đối với hoá đơn mua hàng.
II.2.4. Nâng cao hiệu lực công tác thanh tra, kiểm tra và cưỡng chế thuế:
Để thanh tra, kiểm tra có hiệu quả, Cục thuế Hà nội cần phải thực hiện các
biện pháp sau:
Tăng cường số lượng thanh tra viên lên khoản 25-30% tổng cán bộ ngành, có sự
phối hợp chạt chẽ với chính quyền các cấp, các ngành. Tuyển chọn các cán bộ thanh
tra thuế có trình độ chuyên môn cao, có tư tưởng vững vàg, thường xuyên trau dồi
kinh nghiệm, kiến thức cần thiết cho công tác thanh tra thuế.
Phòng thanh tra lập kế hoạch thanh tra đối với những trường hợp có nghi vấn hoặc
khi nhận được đơn khiếu nại về thuế, tiến hành thanh tra theo kế hoạch, đột xuất
hoặc theo chuyên đề.
Để đảm bảo cuộc thanh tra khách quan cần tách biệt mối quan hệ về lợi ích kinh tế
cũng như quan hệ tình cảm giữa cán bộ thanh tra và đối tượng cần thanh tra.
Mỗi cuộc thanh tra đều phải được lập biên bản, công bố công khai, đặc biệt đúc rút
kinh nghiệm để tuyên truyền, phổ biến cho cán bộ thuế đảm bảo đợt thanh tra sau có
hiệu qủa, tiến hành nhanh gọn, không ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của công
ty.
Cùng với công tác thanh tra cũng cần có các biện pháp để đảm bảo hiệu lực
các quyết định của cán bộ thanh tra: nên xây dựng các tổ chức cưỡng chế thuế tại
các địa phương dể xử lý các vụ dây dưa tiền thuế, vừa đôn đốc thu thuế vừa giáo
dục, ngăn ngừa nộp thuế chậm; quan hệ tốt với các ngân hàng để có thể sắn sàng lập
lệnh thu trên tài khoản khi cần thiết; thậm chí nên hình thành các toà án kinh tế, toà
án hành chính để xử lý các vi phạm lớn về thuế, có thể áp dụng biện pháp kê biên
tài sản, thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, thu hồi giấy phép kinh
doanh như một số nước để nâng cao vai trò của thuế trong nền kinh tế quốc dân.
Công tác thanh tra nội bộ ngành thuế cần có kế hoạch cụ thể từng ngày, hàng
tuần trình lãnh đạo duyệt.
II.2.5. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính sách thuế:
Để cho mọi người dân thấy được rằng: bản chất thuế dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa là của dân, do dân và vì dân, Nhà nước thu thuế để làm chức năng quản lý
Nhà nước, phát triển kinh tế xã hội vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng văn minh, vì đời sống ấm no, hành phúc của toàn dân, công tác tuyên truyền
thuế có vai trò quan trọng ngoài tuyên truyền các luật, chính sách thuế còn phải tìm
hiểu sâu và giải đáp những thắc mắc của từng người, cả về quyền lợi và nghĩa vụ để
họ thông suốt mục đích của chính sách thuế. Ngành thuế chủ động phối hợp chặt
chẽ với các báo đài trung ương và địa phương đưa tin về các chính sách thuế ngắn
gọn dễ hiểu; tuyên truyền về công tác thu nộp thuế, các mô hình mới trong thu nộp
thuế; phản ánh ý kiến đóng góp của các tổ chức, các nhân đối với các sắc thuế và
ngành thuế; giới thiệu kinh nghiệm công tác quản lý thu thuế ở nước ngoài phù hợp
với Việt nam. Đồng thời, kết hợp thăm dò, lắng nghe nguyện vọng, đòi hỏi chính
đáng của nhân dân, phản ánh lên trên nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung để chính sách,
biện pháp quản lý thu thuế ngày càng hoàn thiện phù hợp với khả năng thực hiện
của mỗi loại hình kinh doanh.
II.2.6. Tiếp tục tăng cường sự phối hợp giữa ngành thuế với các cấp, các ngành có
liên quan:
Công tác quản lý thu thuế là nhiệm vụ chung của chính quyền các cấp, các
ngành chứ không phải chỉ ngành thuế. Như vậy, ngành thuế sẽ không thể hoàn
thành tốt nhiệm vụ thu của mình nếu không có sự phối hợp với các ngành khác với
các chức năng và nhiệm vụ nhất định.
Cục thuế Hà nội tiếp tục phối hợp với UBND thành phố, Uỷ ban kế hoạnh
thành phố để rà soát lại toàn bộ các cơ sở kinh doanh theo từng loại, trên cơ sở đó
đưa tất cả vào diện quản lý hệ thống.
Tăng cường phối hợp với các cơ quan tài chính, kho bạc để thường xuyên
trao đổi thônh tin về tình hình sản xuất kinh doanh của đối tượng nộp thuế, tình hình
nợ đọng thuế.
Phối hợp với các cơ quan công an, kiểm soát để ủng hộ ngành thuế chống lại
ác vi phạm lớn, kiên trì đấu tranh chống trốn lậu thuế.
Phối hợp với Ngân hàng mở rộng diện mở tài khoản để việc mua bán chủ
yếu được thực hiện quan Ngân hàng, hạn chế hình thức thông đồng trốn thuế bằng
tiền mặt. Đồng thời cũng có căn cứ để giải quyết biện pháp trích tiền trong tài khoản
để khấu trừ tiền thuế, tiền phạt trong trường hợp dây dưa thuế.
Những biện pháp trên đã và đang được ngành thuế xem xét đưa vào áp dụng
để nâng cao công tác quản lý và chúng chỉ có thể phát huy hiệu quả toàn diện khi và
chỉ khi các văn bản chính sách liên quan đến các luật thuế có hệ thống và hoàn
thiện: vấn đề thu hẹp số lượng các mức thuế suất đối với thuế GTGT và TNDN, bỏ
quy định về khấu trừ thuế GTGT đầu vào theo gảng kê thu mua hàng nông sản, lâm
sản, thuỷ sản chưa qua chế biến mua của người gán không có hoá đơn và tỷ lệ phần
trăm đối với các trường hợp không phải là hoá đơn GTGT; đối với hoá đơn bán
hàng mua của cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thì nên giảm tỷ
lệ khấu trừ từ 3% xuống 1%. Đồng thời với bổ sung chính sách thuế như trên, cần
thêm điều kiện để được hoàn thuế là doanh nghiệp phải thực hiện thanh toán qua
ngân hàng. Cuối cùng, Nhà nước cần có quy định chặt chẽ về mức tiêu hao nguyên
vật liệu đối với các doanh nghiệp.
Kết luận