thông tin & công nghệ khoa học

46
Thông tin & Công nghệ Khoa học VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM Website: http://www.vinatom.gov.vn Email: [email protected] SỐ 44 09/2015 VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI DỰ ÁN ĐIỆN HẠT NHÂN NINH THUẬN

Upload: vudien

Post on 01-Jan-2017

237 views

Category:

Documents


8 download

TRANSCRIPT

Page 1: Thông tin & Công nghệ Khoa học

Thông tin

&Công nghệKhoa học

VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAMWebsite: http://www.vinatom.gov.vnEmail: [email protected]

SỐ 4409/2015

VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM

TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI DỰ ÁN ĐIỆN HẠT NHÂNNINH THUẬN

Page 2: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TINKHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

BAN BIÊN TẬP

TS. Trần Chí Thành - Trưởng banTS. Cao Đình Thanh - Phó Trưởng banPGS. TS Nguyễn Nhị Điền - Phó Trưởng banTS. Trần Ngọc Toàn - Ủy viênThS. Nguyễn Thanh Bình - Ủy viênTS. Trịnh Văn Giáp - Ủy viênTS. Đặng Quang Thiệu - Ủy viênTS. Hoàng Sỹ Thân - Ủy viênTS. Thân Văn Liên - Ủy viênTS. Trần Quốc Dũng - Ủy viênThS. Trần Khắc Ân - Ủy viênKS. Nguyễn Hữu Quang - Ủy viênKS. Vũ Tiến Hà - Ủy viênThS. Bùi Đăng Hạnh - Ủy viên

Thư ký:CN. Lê Thúy Mai

Địa chỉ liên hệ:Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam59 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà NộiĐT: 04. 3942 0463Fax: 04. 3942 2625Email: [email protected]ấy phép xuất bản số: 57/CP-XBBTCấp ngày 26/12/2003

01. PHAN MINH TUẤNTình hình triển khai dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận

08. LÊ ĐẠI DIỄNAn toàn nhà máy điện hạt nhân vànhững thay đổi sau Fukushima

17.VÕ VĂN THUẬN Lò mô đun nhỏ với các nước đang phát triển như Việt Nam

24. NGUYỄN BÁ TIẾNViệt Nam và vấn đề quản lý chất thải phóng xạ điện hạt nhân

31. TRẦN MINH HUÂNKhai thác Uranium ở Mỹ

TIN TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ

34. Hợp tác kinh doanh giữa Trung tâm Ứng dụng Kỹ thuậthạt nhân trong công nghiệp và công ty Bumi Saing

35. Hội thảo khoa học về quản lý và phổ biến, ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ khu vực phía Nam

37. Seminar khoa học của cán bộ nghiên cứu trẻ

38. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Cao Đức Phát thăm và làm việc tại Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội

39. Tổng giám đốc IAEA nhấn mạnh đến dự án phát triển bền vững và thỏa thuận hạt nhân Iran

41. Trung Quốc hướng tới các lò phản ứng đầu tiên

42. Vị thế của điện hạt nhân trong năm 2015

NỘI DUNG

Số 44

09/2015

Page 3: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

1Số 44 - Tháng 9/2015

Dự án Điện hạt nhân (ĐHN) Ninh Thuận đã được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 6 quyết định chủ trương đầu tư tại Nghị quyết số 41/2009/QH12 ngày 25/11/2009. Ngày 18/3/2010, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 460/TTg-KTN về Kế hoạch tổng thể thực hiện Dự án ĐHN Ninh Thuận trong đó Thủ tướng Chính phủ đồng ý phân chia Dự án thành 07 dự án thành phần và 02 đề án và giao: - Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng, Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng đề án Nội địa hoá trong xây dựng, thiết kế và chế tạo thiết bị Nhà máy điện hạt nhân (NMĐHN) tại tỉnh Ninh Thuận; - Bộ Khoa học và Công nghệ: + Làm chủ đầu tư dự án Trung tâm hợp tác kỹ thuật và công nghệ hạt nhân; + Chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện đề án Thông tin, tuyên truyền về phát triển ĐHN ở Việt Nam; - UBND tỉnh Ninh Thuận là chủ

đầu tư dự án Di dân tái định cư của các dự án NMĐHN tại tỉnh Nỉnh Thuận; - EVN làm chủ đầu tư các dự án: + Dự án đầu tư NMĐHN Ninh Thuận 1; + Dự án đầu tư NMĐHN Ninh Thuận 2; + Dự án Hạ tầng phục vụ thi công các dự án NMĐHN tại tỉnh Ninh Thuận; + Dự án Trung tâm quan hệ công chúng về ĐHN; + Dự án Đào tạo nguồn nhân lực cho các dự án NMĐHN tại tỉnh Ninh Thuận (phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo); Ngày 17/10/2011, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 7276/VPCP-KTN cho phép tách một số hạng mục ra khỏi Dự án hạ tầng phục vụ thi công các Dự án NMĐHN Ninh Thuận để hình thành dự

TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI DỰ ÁN ĐIỆN HẠT NHÂN NINH THUẬN

Page 4: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

2 Số 44 - Tháng 9/2015

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

án thành phần Khu quản lý vận hành, khu chuyên gia và trụ sở Ban quản lý dự án. Ban Quản lý dự án điện hạt nhân Ninh Thuận (EVNNPB) được Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) thành lập tại Quyết định số 135/QĐ-EVN ngày 22/3/2011 với chức năng nhiệm vụ là quản lý các dự án thành phần thuộc dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận do EVN làm chủ đầu tư (theo văn bản số 460/TTg-KTN ngày 18/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ) bao gồm các dự án: 1) Dự án NMĐHN Ninh Thuận 1; 2) Dự án NMĐHN Ninh Thuận 2; 3) Dự án hạ tầng phục vụ thi công các dự án NMĐHN tại Ninh Thuận; 4) Dự án Khu QLVH, khu chuyên gia và Trụ sở EVNNPB; 5) Dự án Trung tâm quan hệ công chúng về ĐHN; 6) Dự án đào tạo nguồn nhân lực cho các dự án NMĐHN tại tỉnh Ninh Thuận; Ngoài ra, EVNNPB còn phối hợp với tỉnh Ninh Thuận để thực hiện dự án Di dân Tái định cư các NMĐHN Ninh Thuận do UBND tỉnh Ninh Thuận làm Chủ đầu tư. Tình hình triển khai các dự án thành phần do EVN làm chủ đầu tư như sau: 1. Dự án đầu tư Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 Dự án NMĐHN Ninh Thuận 1, công suất khoảng 2.000MW bao gồm 02 tổ máy, đặt tại xã Phước Dinh, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận. Theo Hiệp định liên Chính phủ Việt Nam - Liên bang Nga về hợp tác xây dựng NMĐHN trên lãnh thổ

CHXHCNVN ký ngày 31/10/2010, Liên bang Nga sẽ hợp tác với Việt Nam triển khai xây dựng NMĐHN Ninh Thuận 1. Tổ chức được ủy quyền thực hiện phía Nga là Công ty Atomstroyexport (ASE). Ngày 21/11/2011, Bộ Tài chính Việt Nam và Bộ Tài chính LB Nga đã ký kết Hiệp định liên Chính phủ Việt Nam – LB Nga về cấp tín dụng xuất khẩu nhà nước cho xây dựng NMĐHN trên lãnh thổ Việt Nam. Tháng 11/2011, được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, EVN đã ký Hợp đồng dịch vụ tư vấn với Liên danh tư vấn E4 Group (Nga) – KIEP (Ucraina) – EPT (Nga) về lập Báo cáo nghiên cứu khả thi và Hồ sơ phê duyệt địa điểm cho NMĐHN Ninh Thuận 1. Nguồn tài chính cho hợp đồng là khoản viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Liên Bang Nga cung cấp theo Thỏa thuận bổ sung thứ 2 kèm theo Hiệp định về xử lý nợ của Việt Nam đối với LB Nga ký ngày 21/11/2011. 1.1. Về việc lập Báo cáo nghiêncứukhảthivàHồsơphêduyệtđịađiểm(FS&SAD) Công tác khảo sát, đánh giá địa điểm NMĐHN Ninh Thuận 1 do Liên danh Tư vấn E4-KIEP-EPT thực hiện trên cơ sở Hợp đồng số 2111/2011/EVNNPB - E4-KIEP-EPT ký ngày 21/11/2011. Báo cáo kết quả khảo sát cuối cùng đã được Tư vấn giao nộp cho EVNNPB vào tháng 11/2014. Theo báo cáo của Tư vấn, địa điểm NMĐHN Ninh Thuận 1 đáp ứng các tiêu chí địa điểm theo yêu cầu của Thông tư 28/2010/TT-BKHCN của Bộ Khoa học và Công nghệ quy định về yêu cầu an toàn hạt nhân đối với địa điểm NMĐHN. Báo cáo kết quả khảo sát, đánh giá địa điểm kèm theo Hồ sơ PDĐĐ NMĐHN Ninh

Page 5: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

3Số 44 - Tháng 9/2015

Thuận 1 đã được EVN trình Bộ KHCN. Theo hợp đồng đã ký kết, cuối năm 2013 Tư vấn E4-KIEP-EPT đã giao nộp Hồ sơ phê duyệt địa điểm (SAD) và Báo cáo nghiên cứu khả thi (F/S) của dự án với công nghệ AES-91. Cuối tháng 10/2014, theo Phụ lục bổ sung số 3 của Hợp đồng, Tư vấn đã hoàn thành và giao nộp bổ sung hồ sơ cho công nghệ AES-2006, phiên bản V491 là công nghệ thuộc thế hệ III+. Hiện EVN đang tổ chức thẩm tra và dịch các báo cáo để trình Chính phủ trong Quý III năm 2015. 1.2. Quy hoạch hiệu chỉnh địađiểm: Bộ Công Thương đã phê duyệt điều chỉnh quy hoạch địa điểm xây dựng NMĐHN Ninh Thuận 1 tại Quyết định số 6070/QĐ-BTC ngày 17/6/2015. Ngày 16/7/2015, EVN/EVNNPB phối hợp với UBND tỉnh Ninh Thuận tổ chức Hội nghị công bố quy hoạch điều chỉnh địa điểm xây dựng NMĐHN Ninh Thuận 1 và triển khai cắm mốc ranh giới điều chỉnh quy hoạch địa điểm. Tại Hội nghị, người dân rất đồng tình ủng hộ và mong muốn việc triển khai dự án được sớm hơn. EVNNPB đã tổ chức bàn giao mốc quy hoạch điều chỉnh địa điểm xây dựng NMĐHN Ninh Thuận 1 cho các cơ quan chức năng tỉnh Ninh Thuận để quản lý và tổ chức thực hiện công tác giải phóng mặt bằng Dự án. 1.3.LàmviệcvớitổngthầuASE EVN và tổng thầu xây dựng NMĐHN Ninh Thuận 1, Công ty Atom-

stroyexport (ASE), đã có nhiều cuộc trao đổi về dự kiến tiến độ tổng thể của dự án. Hai bên đã ký Thỏa thuận khung về tiến độ tổng thể giai đoạn khởi đầu dự án tại cuộc họp 4 bên Bộ Công Thương-EVN-Rosatom-ASE ngày 30/7/2015. Hiện nay, EVNNPB đang đàm phán với ASE về Hợp đồng khảo sát địa điểm NMĐHN Ninh Thuận 1 theo kế hoạch lựa chọn nhà thầu được Bộ Công Thương phê duyệt. 1.4.VềTưvấntrợgiúpchủđầutư EVN đã thuê tư vấn trợ giúp chủ đầu tư trong quản lý, giám sát thực hiện hợp đồng tư vấn lập Hồ sơ phê duyệt địa điểm và Báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án NMĐHN Ninh Thuận 1; thẩm tra hồ sơ trước khi phê duyệt, lập hồ sơ mời thầu, đánh giá Hồ sơ dự thầu; trợ giúp lựa chọn tổng thầu EPC. Đang thực hiện theo hợp đồng với Tư vấn AF Consult. 2. Dự án đầu tư Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2 Dự án đầu tư Nhà máy ĐHN Ninh Thuận 2, công suất khoảng 2.000MW bao gồm 02 tổ máy, đặt tại xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận. Theo Thỏa thuận liên Chính phủ Việt Nam – Nhật Bản ký ngày 31/10/2011, NMĐHN Ninh Thuận 2 sẽ được triển khai xây dựng với sự hợp tác của Nhật Bản. Trong tháng 9/2011, EVN đã ký hợp đồng dịch vụ tư vấn với Công ty điện nguyên tử Nhật Bản (JAPC) để lập Hồ sơ phê duyệt địa điểm và Báo cáo nghiên cứu khả thi cho NMĐHN Ninh Thuận 2. Nguồn tài chính (không hoàn lại) cho công

Page 6: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

4 Số 44 - Tháng 9/2015

tác lập FS được Chính phủ Nhật Bản cung cấp trực tiếp cho JAPC. Theo hợp đồng đã ký, cuối tháng 9/2013 Tư vấn JAPC đã giao nộp EVN Hồ sơ phê duyệt địa điểm và FS Dự án NMĐHN Ninh Thuận 2 (bản hiệu chỉnh). Tháng 1/2014 EVN đã có văn bản đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ thẩm định Báo cáo phân tích an toàn (SAR) trong SAD và SAR trong FS. EVN cũng đã có văn bản gửi hồ sơ đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ công nhận áp dụng các tiêu chuẩn và quy chuẩn cho dự án NMĐHN Ninh Thuận 2. Trong tháng 2/2014, EVN cũng đã có văn bản đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường thẩm định Báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM). Hiện EVN đang tiếp tục hoàn chỉnh báo cáo ĐTM theo yêu cầu của Bộ Tài Nguyên và Môi trường. 2.1. Về việc lập Báo cáo nghiêncứukhảthivàHồsơphêduyệtđịađiểm Công tác khảo sát, đánh giá địa điểm NMĐHN Ninh Thuận 2 do Tư vấn JAPC thực hiện trên cơ sở Hợp đồng số 2908/2011/EVNNPB-JAPC ký ngày 29/8/2011. Báo cáo kết quả khảo sát cuối cùng đã được Tư vấn giao nộp cho EVN-NPB vào tháng 10/2013. EVNNPB đã trình báo cáo này lên EVN. Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các bên liên quan, hiện JAPC đang tiến hành khảo sát bổ sung về địa chất địa điểm. Báo cáo kết quả khảo sát bổ sung sẽ được hoàn thành vào cuối 2015. Hiện EVN đang tiếp tục thẩm tra, làm việc với JAPC về lựa chọn công nghệ, tổng mức đầu tư, phân tích kinh tế - tài chính... để hiệu chỉnh, hoàn thiện hồ sơ FS&SAD để trình duyệt theo qui định.

2.2. Quy hoạch hiệu chỉnh địađiểm Bộ Công Thương đã phê duyệt điều chỉnh quy hoạch địa điểm xây dựng NMĐHN Ninh Thuận 2 tại Quyết định số 6070/QĐ-BTC ngày 17/6/2015. Ngày 16/7/2015, EVN/EVNNPB phối hợp với UBND tỉnh Ninh Thuận tổ chức Hội nghị công bố quy hoạch điều chỉnh địa điểm xây dựng NMĐHN Ninh Thuận 2. EVNNPB đã tổ chức bàn giao mốc quy hoạch điều chỉnh địa điểm xây dựng NMĐHN Ninh Thuận 2 cho các cơ quan chức năng tỉnh Ninh Thuận để quản lý và tổ chức thực hiện công tác giải phóng mặt bằng Dự án. 2.3.VềTưvấntrợgiúpchủđầutư EVN đã thuê tư vấn trợ giúp chủ đầu tư trong quản lý, giám sát thực hiện hợp đồng tư vấn lập Hồ sơ phê duyệt địa điểm và Báo cáo nghiên cứu khả thi NMĐHN Ninh Thuận 2; thẩm tra hồ sơ trước khi phê duyệt, lập hồ sơ mời thầu, đánh giá Hồ sơ dự thầu; trợ giúp lựa chọn tổng thầu EPC. Đang thực hiện theo hợp đồng đã ký với Tư vấn AF Consult. 3. Dự án hạ tầng phục vụ thi công các dự án Nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận Dự án hạ tầng phục vụ thi công các dự án NMĐHN Ninh Thuận bao gồm các công trình hệ thống cấp điện thi công 110kV, hệ thống cấp nước thi công, văn phòng của EVNNPB tại các công trường... Tháng 01/2013, EVN đã có Quyết định phê duyệt DAĐT- TKCS.

Page 7: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

5Số 44 - Tháng 9/2015

3.1.Công trìnhphục vụ thi côngdựánNMĐHNNinhThuận1 Đã tổ chức ký hợp đồng các gói thầu thuộc hệ thống cấp điện, cấp nước phục vụ thi công NMĐHN Ninh Thuận 1. Ngày 12/12/2014, tại xã Phước Dinh, huyện Thuận Nam tỉnh Ninh Thuận, EVN đã tổ chức Lễ khởi công xây dựng công trình hệ thống cấp điện phục vụ thi công NMĐHN Ninh Thuận 1. Hiện đang tổ chức triển khai thi công xây dựng hệ thống cấp điện phục vụ thi công NMĐHN Ninh Thuận 1. 3.2.Công trìnhphục vụ thi côngdựánNMĐHNNinhThuận2 Đang thẩm tra các hồ sơ TKKT, TKBVTC các công trình. 3.3.Côngtácgiảiphóngmặtbằng Tiếp tục hoàn thiện công tác GPMB để bàn giao mặt bằng phần còn lại cho Nhà thầu thi công hệ thống cấp điện, cấp nước phục vụ thi công NMĐHN Ninh Thuận 1. 4. Dự án khu Quản lý vận hành, khu chuyên gia và trụ sở Ban QLDA điện hạt nhân Ninh Thuận Khu quản lý vận hành, khu chuyên gia và trụ sở EVNNPB có quy mô 22,97ha sẽ được xây dựng tại phường Mỹ Bình, Thành phố Phan Rang- Tháp Chàm. EVN đã phê duyệt Dự án đầu tư vào tháng 11/2013. Hiện EVNNPB đang thực hiện công tác lựa chọn nhà thầu xây dựng các hạng mục công trình và tổ chức kiểm kê tài sản, hoa màu, vật kiến trúc để thu hồi đất để thực hiện các thủ tục bồi thường giải phóng mặt bằng.

5. Dự án Trung tâm quan hệ công chúng về điện hạt nhân Trung tâm quan hệ công chúng về ĐHN có diện tích khoảng 8000m¬¬2 được bố trí trong khu QLVH, khu chuyên gia và trụ sở EVNNPB. Đang đôn đốc Tư vấn hiệu chỉnh, hoàn thiện dự án đầu tư- thiết kế cơ sở. 6. Dự án đào tạo nguồn nhân lực cho các dự án nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận Dự án Đào tạo nguồn nhân lực đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 584/QĐ/TTg ngày 11/4/2013 và đang được triển khai theo tiến độ được phê duyệt. 6.1Đàotạotrướctuyểndụng - Từ năm 2006- 2009, EVN cử đi đào tạo 31 sinh viên đi học các chuyên ngành liên quan đến điện hạt nhân, đến nay đã có 14 sinh viên tốt nghiệp trình độ thạc sĩ, kỹ sư; hiện đang làm việc tại EVNNPB. - Chương trình đào tạo của Bộ GD&ĐT: từ năm 2010 đến nay đã cử đi đào tạo là 323 sinh viên, trong đó có 236 sinh viên cam kết làm việc cho EVN (trong đó có 87 sinh viên ở Ninh Thuận). 6.2Đàotạosautuyểndụng - Lớp cán bộ nòng cốt đợt 1 cho NMĐHN Ninh Thuận 2 (lớp Core member 1): gồm 15 người, đào tạo 2 năm (2012-2014) tại Nhật Bản, đã hoàn thành khóa học, hiện đang làm việc tại các phòng của EVNNPB; EVNNPB đã đưa 2 kỹ sư Core 1 đến làm việc tại công trường xây dựng nhà máy nhiệt điện Duyên Hải.

Page 8: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

6 Số 44 - Tháng 9/2015

- Lớp cán bộ nòng cốt đợt 2 cho NMĐHN Ninh Thuận 2 (lớp Core mem-ber 2): gồm 09 kỹ sư, đã học về điện hạt nhân và tiếng Nhật tại Việt Nam, hiện đang được đào tạo kiến thức cơ bản về ĐHN tại Nhật Bản. Ngoài ra, trong những năm gần đây, nhằm mục đích thông tin và thu hút học sinh theo học ngành điện hạt nhân, EVN đã phối hợp với các đơn vị như Bộ Giáo dục & Đào tạo, Sở Giáo dục & Đào tạo tỉnh Ninh Thuận tổ chức các hội thảo như “Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận và cơ hội phát triển nghề nghiệp” tại tỉnh Ninh Thuận, “Định hướng nghề nghiệp ngành điện hạt nhân dành cho học sinh lớp 12 khối A” tại Ninh Thuận và các tỉnh lân cận. Các hội thảo này đã cung cấp những thông tin về nhu cầu nhân lực của Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, về các cơ sở được giao đào tạo các chuyên ngành về điện hạt nhân, về các hình thức đào tạo trong và ngoài nước cũng như những cơ hội và lợi ích khi tham gia vào các chương trình đào tạo chuyên ngành điện hạt nhân và có cam kết làm việc lâu dài với Bộ Giáo dục & Đào tạo cũng như EVN. 7. Dự án Di dân tái định cư của các dự án Nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận (do UBND tỉnh Ninh Thuận làm chủ đầu tư) EVNNPB đang phối hợp với Ban QLDA di dân tái định cư tỉnh Ninh Thuận (đại diện chủ đầu tư) triển khai thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng dự án NMĐHN Ninh Thuận. EVNNPB đã hỗ trợ công tác điều tra, khảo sát, lập quy hoạch, lập dự án di dân tái định cư. 8. Các hoạt động liên quan khác

Hoạtđộngthôngtinđạichúng: Trong thời gian qua, công tác thông tin đại chúng về điện hạt nhân với mục đích nâng cao hiểu biết của người dân về điện hạt nhân và tạo sự đồng thuận của toàn xã hội và đặc biệt là nhân dân địa phương đối với chủ trương xây dựng nhà máy điện hạt nhân, đã được các cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng, Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) với tư cách là chủ đầu tư dự án đặc biệt chú trọng. Từ tháng 09/2007, Ban Chuẩn bị đầu tư dự án điện hạt nhân và năng lượng tái tạo (NRPB) được thành lập và đi vào hoạt động với vai trò là đại diện của chủ đầu tư thực hiện công tác chuẩn bị đầu tư dự án. Tháng 03/2011, NRPB được kiện toàn và chuyển đổi thành Ban Quản lý dự án điện hạt nhân Ninh Thuận (EVN-NPB). Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của EVNNPB (trước là NRPB) ngay từ khi thành lập là xây dựng và triển khai chương trình thông tin đại chúng về điện hạt nhân, trước mắt tập trung tại tỉnh Ninh Thuận, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Các hoạt động thông tin đại chúng được thực hiện một cách đa dạng với nhiều hình thức khác nhau, với mục tiêu nhằm: - Nâng cao sự hiểu biết của người dân về điện hạt nhân, an toàn hạt nhân, an toàn bức xạ…; - Xây dựng, duy trì và phát triển mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ dự án và cộng đồng nhân dân địa phương; - Đạt được sự đồng thuận của chính quyền và nhân dân địa phương đối với Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận;

Page 9: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

7Số 44 - Tháng 9/2015

- Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình triển khai dự án. EVN đã tổ chức thực hiện nhiều loại hình thông tin đại chúng như: chủ trì và phối hợp với các cơ quan khác tổ chức các hội thảo và lớp tập huấn về các chủ đề liên quan tới kiến thức cơ bản về điện hạt nhân, an toàn hạt nhân, quản lý dự án, cơ hội nghề nghiệp... tại Ninh Thuận và các tỉnh lân cận; tham gia, phối hợp với các đơn vị khác tổ chức các triển lãm liên quan tới ĐHN tại Ninh Thuận và Hà Nội; tổ chức tham quan, kiến tập tại Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, tham quan học tập về điện hạt nhân ở nước ngoài; đào tạo tuyên truyền viên; phổ biến kiến thức cơ bản về điện hạt nhân cho giới báo chí; tham gia các hoạt động hỗ trợ, từ thiện, ủng hộ địa phương; tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông; xây dựng và vận hành trang web về điện hạt nhân (www.dienhatnhan.com.vn); mở và vận hành Phòng trưng bày về điện hạt nhân tại Ninh Thuận và Hà Nội… CáchoạtđộnghợptácvớiIAEA: Trong khuôn khổ Dự án hợp tác kỹ thuật của IAEA về Phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân) do Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam chủ trì, trong thời gian qua IAEA đã hợp tác, giúp đỡ EVN thực hiện các hoạt động sau: - Góp ý (Review và Comment) Điều khoản tham chiếu dịch vụ tư vấn lập Hồ sơ phê duyệt địa điểm và Báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án NMĐHN Ninh Thuận 1. - Phối hợp với Cục Năng lượng nguyên tử, EVN tổ chức các hội thảo, tập huấn về điện hạt nhân cho các cán bộ EVN về: quản lý dự án NMĐHN; thu xếp vốn

và tài chính, thông tin đại chúng, chuẩn bị hồ sơ mời thầu cho Hợp đồng EPC; quản lý tích hợp và văn hóa an toàn; tương tác giữa NMĐHN và lưới điện; lập báo cáo đánh giá tác động môi trường về các tác động bức xạ; lập nhóm chuyên trách địa điểm của EVN và kế hoạch làm việc; QA/QC trong xây dựng của chủ đầu tư; quản lý dự án NMĐHN trong trường hợp thực hiện Hợp đồng EPC; đánh giá công nghệ điện hạt nhân; hệ thống quản lý tích hợp và văn hóa an toàn; các vấn đề tài chính, thương mại và bảo hiểm của hợp đồng EPC cho NMĐHN; đấu thầu và đánh giá thầu cho các dự án NMĐHN theo hình thức hợp đồng EPC; quản lý và giám sát hoạt động xây dựng; độ tin cậy lưới điện và giao diện giữa lưới điện và NMĐHN. - Đoàn chuyên gia của IAEA góp ý cho báo cáo “Dự án đào tạo nguồn nhân lực cho các dự án điện hạt nhân tại Ninh Thuận”. - EVN phối hợp với IAEA và VAEA tổ chức Hội thảo quốc tế về Quản lý các dự án NMĐHN với các đại biểu quốc tế đến từ 16 quốc gia khác nhau. - Tổ chức và tài trợ một số chuyến tham quan học tập tại nước ngoài cho cán bộ, chuyên viên của EVN về một số lĩnh vực liên quan điện hạt nhân... - Cung cấp fellowship (học bổng) nâng cao trình độ cho cán bộ, kỹ sư của EVN tại nước ngoài. PhanMinhTuấn-BanQuảnlýdụánđiệnhạtnhânNinhThuận,Tậpđoàn

ĐiệnlựcViệtNam(EVN)

Page 10: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

8 Số 44 - Tháng 9/2015

Tháng 3- 2011, động đất và sóng thần đã làm hư hỏng nặng các lò phản ứng nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi. Tai nạn đã làm thay đổi những quan tâm mới về điện hạt nhân hai mươi lăm năm sau vụ nổ tại nhà máy điện hạt nhân Chernobyl ở Ukraina. Những quan tâm mới này là sự gia tăng nhu cầu năng lượng tại các thị trường mới nổi và các quốc gia đang phát triển cũng như sự cần thiết phải giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch để đáp ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững, làm cho điện hạt nhân hấp dẫn hơn mặc dù ít cạnh tranh hơn so với các nguồn năng lượng khác. Tai nạn năm 2011tại Fukushima đã buộc ngành công nghiệp điện hạt nhân phải xem xét lại các quy định an toàn nhà máy và các biện pháp khẩn cấp, cũng như các câu hỏi về thiết kế lò phản ứng và làm thế nào để ứng phó với nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng Fukushima có thể có một số tác động trong tiến trình phát triển điện hạt nhân, nhưng nó không như tai nạn Cher-nobyl đã từng làm đình trệ quá trình xây dựng mới và vận hành các nhà máy điện hạt nhân hiện hành. Các quốc gia đã có nhiều đánh giá khác nhau về kế hoạch duy

trì và phát triển điện hạt nhân của mình và về cơ bản, tai nạn Fukushima tuy đã làm chậm lại quá trình xây dựng mới các lò phản ứng hạt nhân, nhưng đã làm thay đổi nhận thức về an toàn trong thiết kế, xây dựng các nhà máy điện hạt nhân mới và duy trì hoạt động của các nhà máy hiện tại. Điện hạt nhân vẫn tiếp tục phát triển và là lựa chọn của nhiều quốc gia trên thế giới. Theo số liệu của IAEA, đến tháng 8/2015 có 438 lò phản ứng đang vận hành và 67 lò phản ứng đang được xây dựng. Lò phản ứng đầu tiên tại nhà máy điện hạt nhân Sendai đã được khởi động trở lại tại

AN TOÀN NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN VÀ NHỮNG THAY ĐỔI SAU FUKUSHIMA

Page 11: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

9Số 44 - Tháng 9/2015

Nhật Bản kể từ sau tai nạn Fukushima. Thổ Nhĩ Kỳ cũng bắt tay khởi công xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên. 9 trong tổng số 17 lò phản ứng ở Đức vẫn đang được vận hành đến 2020-2022. Nước Mỹ với 99 lò phản ứng đang vận hành và 5 lò phản ứng đang được xây dựng. Trung Quốc với 27 lò phản ứng đang vận hành và 24 lò đang được xây dựng. Tổng cộng có tới 67 lò phản ứng đang được xây dựng tại 16 quốc gia trên thế giới.

Hình 1. Số các lò phản ứng trên thế giới (8/2015)

Bài viết điểm lại một số vấn đề cơ bản về an toàn nhà máy điện hạt nhân, sự phát triển của các thiết kế lò phản ứng thế hệ mới, những bài học từ các sự cố đã xảy ra và những thay đổi trong yêu cầu về đảm bảo an toàn cho các nhà máy điện hạt nhân sẽ được xây dựng. 1. An toàn hạt nhân Mục tiêu chung của đảm bảo bảo an toàn hạt nhân là bảo vệ nhân viên vận hành, công chúng và môi trường tránh những nguy hại bằng việc thiết lập và duy trì các biện pháp bảo vệ hữu hiệu tại các cơ sở hạt nhân trước những nguy cơ phóng xạ. Để bảo vệ chống bức xạ cần đảm bảo trong mọi trạng thái vận hành liều chiếu xạ trong nhà máy được giữ dưới giới

hạn cho trước càng thấp càng tốt (nguyên lý ALARA / ALARP), và đảm bảo giảm thiểu các hậu quả phóng xạ của bất kỳ sự cố nào. Về mặt kỹ thuật, cần thực hiện mọi biện pháp kỹ thuật hợp lý để ngăn ngừa sự cố và giảm thiểu hậu quả của sự cố xảy ra; Đảm bảo với độ tin cậy cao tất cả các sự cố khả dĩ được đưa vào thiết kế, kể cả những sự cố với xác suất xảy ra rất thấp với bất kỳ hậu quả phóng xạ phải là cực tiểu và nằm trong giới hạn được phép; Đảm bảo khả năng xảy ra các sự cố với hậu quả phóng xạ nghiêm trọng là cực kỳ thấp. Với những tiến bộ về khoa học công nghệ cũng như các quy định pháp quy và hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ với các tổ chức quốc tế. An toàn nhà máy điện hạt nhân đang ngày càng được hoàn thiện và củng cố. Những vấn đề mà an toàn hạt nhân ngày nay vẫn đang được đặc biệt quan tâm: Thứ nhất, các tai nạn nóng chảy: Cho đến nay đã có 11 sự cố liên quan đến nóng chảy nhiên liệu hạt nhân (bảng 3). Nếu lỗi con người được xem như nguyên nhân chính của tai nạn TMI-2 thì những khiếm khuyết trong thiết kế và văn hóa an toàn đã đưa đến tai nạn Chernobyl. Làm thế nào để giảm thiểu được các sự cố có thể dẫn đến hư hỏng và nóng chảy nhiên liệu là một trong những vấn đề không chỉ các nhà khoa học tập trung nghiên cứu, mà cả ngành công nghiệp hạt nhân quan tâm và cũng đã đưa ra nhiều giải pháp kỹ thuật khác nhau. Thứ hai, vấn đề chất thải phóng xạ: Việc lưu trữ ngắn hạn và dài hạn nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng là một thách

Page 12: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

10 Số 44 - Tháng 9/2015

thức đối với ngành công nghiệp hạt nhân và chiến lược của các quốc gia. Nhiên liệu đã qua sử dụng đã được lưu trữ một cách an toàn tại các cơ sở năng lượng hạt nhân trong hơn 50 năm qua. Trong tai nạn Fukushima, bể lưu trữ nhiên liệu đã qua sử dụng cũng đã an toàn sau trận động đất và sóng thần mà không có thiệt hại đáng kể, minh chứng cho việc thiết kế đảm bảo an toàn của các bể chứa. Thứ ba, các thảm họa tự nhiên: Cùng với những thay đổi nhanh chóng của khí hậu trái đất với lũ lụt và nước biển dâng. Động đất và sóng thần đã gây ra tai nạn Fukushima đặt ra câu hỏi về các tiêu chuẩn lựa chọn địa điểm nhà máy điện hạt nhân tại các vùng có điều kiện địa chấn phức tạp cũng như khả năng chống chịu của nhà máy và các kế hoạch ứng phó được đặt ra. Thứ tư, các vấn đề về an ninh: Thế giới đang phải đối mặt với nhiều thách thức như chống phổ biến vũ khí hạt nhân, chủ nghĩa khủng bố.v.v. Nhiều hiệp ước quốc tế, các sáng kiến, hướng dẫn của nhiều tổ chức quốc tế cùng các hợp tác song phương, đa phương, hợp tác khu vực giữa các nước sẽ là nền tảng cho việc đảm bảo an toàn, an ninh hạt nhân. An toàn của các nhà máy điện hạt nhân không chỉ là mối quan tâm riêng của một quốc gia, mà còn là quan tâm chung của khu vực và thế giới. 2. Các đặc trưng liên quan đến an toàn nhà máy điện hạt nhân Theo báo cáo của OECD/NEA (2010), tần suất phát thải lớn các chất phóng xạ (LRF) đã giảm khoảng 1600 lần giữa các lò thế hệ I và các lò thế hệ III/III+ đang xây dựng ngày nay.

Các rào chắn giữ chất phóng xạ bên trong các thành phần, kết cấu, hệ thống được đảm bảo ngay từ viên gốm nhiên liệu. Các viên nhiên liệu cần giữ lại hầu hết các sản phẩm phân hạch cùng với thiết kế vỏ bọc nhiên liệu đảm bảo truyền nhiệt tốt và ngăn không cho các chất phóng xạ thoát ra ngoài chất tải nhiệt. Biên chịu áp của hệ sơ cấp (vòng sơ cấp trong lò PWR) được thiết kế đảm bảo không cho chất phóng xạ thoát ra ngoài nhà lò hoặc sang vòng thứ cấp. Trong trường hợp có thất thoát xảy ra, boongke lò và nhà lò phản ứng sẽ ngăn chặn phát thải ra ngoài khí quyển.

Hình 2. Thiết kế các rào chắn an toàn. Ba chức năng chính của các hệ thống đảm bảo an toàn được tóm tắt trong bảng 1 với ba cụm từ quan trọng: Điều khiển, làm mát và giam giữ. Các chức năng an toàn này được thực thi với việc áp dụng nguyên lý bảo vệ theo chiều sâu (bảng 2). Kết quả của việc áp dụng nguyên lý bảo vệ theo chiều sâu được thể hiện trong việc đánh giá hiệu quả của các biện pháp, hệ thống đảm bảo an toàn. Nếu sự cố DBA xảy ra, các hệ thống an toàn phải được kích hoạt và đảm bảo liều phóng xạ được giữ trong giới hạn cho phép. Xác suất nóng chảy vùng hoạt (CDF) cũng như xác suất phát thải lớn (LRF) cần phải được đánh giá.

Page 13: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

11Số 44 - Tháng 9/2015

Bảng 1. Ba chức năng an toàn cơ bản

Các đặc trưng Các chức năng an toàn cơ bản

Dao động, thay đổi công suất nhanh trong lò phản ứng

Điều khiển độ phản ứng

Thải nhiệt trong thời gian dài sau khi dừng lò

Làm mát và tải nhiệt dư khỏi vùng hoạt

Tạo ra một lượng lớn các chất phóng xạ trong vùng hoạt trong quá trình vận hành lò phản ứng

Giam giữ các chất phóng xạ và hạn chế, giảm thiểu phát thải phóng xạ trong quá trình vận hành bình thường cũng như sự cố.

Bảng 2. Nguyên lý bảo vệ theo chiều sâu và các giải pháp thực hiện

Mức Tình trạng Mục tiêu Biện pháp1 Vận hành

bình thường

Ngăn ngừa sự xuất hiện các trục trặc và các sự kiện bất thường

Chọn địa điểm an toàn, phù hợp để xây dựng;Thiết kế theo các nguyên tắc bảo thủ và bổ sung khả năng tự bảo vệ;Hệ thống quản lý chất lượng trong các khâu: lựa chọn địa điểm, thiết kế, xây dựng và vận hành;Thực hiện văn hóa an toàn.

2 Các sự kiện (inci-dent)

Ngăn chặn, triệt tiêu sự phát triển các trục trặc và các sự kiện bất thường thành sự cố

Sử dụng các hệ thống điểu khiển và kiểm soát;Các hệ thống giám sát, kiểm tra;Vận hành theo đúng quy định.

3 Các sự cố trong (cơ sở) thiết kế (DBA)

Giữ sự cố trong phạm vi thiết kế

Sử dụng các phương tiện an toàn kỹ thuật Các hệ thống giám sát, cô lập và bảo vệ;Các quy trình ứng phó sự cố.

4 Các sự cố ngoài (cơ sở) thiết kế (BDBA)

Giám sát và xử lý sự cố nghiêm trọng (ngoài thiết kế), cô lập chất thải p/xạ

Các biện pháp bổ sung và giám sát, xử lý sự cốChương trình quản lý sự cố (SAM)

5 Các sự cố ngoài thiết kế với phát thải phóng xạ rộng

Giảm nhẹ hậu quả của sự cố nghiêm trọng

Ứng phó sự cố bên ngoài nhà máyKế hoạch ứng phó khẩn cấp

3. Văn hóa an toàn Theo định nghĩa của cơ quan pháp quy hạt nhân Mỹ (NRC), văn hóa an toàn trong cơ sở hạt nhân là sự phản ánh các giá

Page 14: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

12 Số 44 - Tháng 9/2015

trị được chia sẻ ở mọi cấp trong tổ chức và dựa trên niềm tin rằng, an toàn là rất quan trọng và là trách nhiệm của mọi người. Cũng như nhiều vấn đề văn hóa khác, văn hóa an toàn hạt nhân cần được xây dựng và liên tục củng cố, hoàn thiện. Ba đặc trưng chính của văn hóa an toàn là: An toàn dựa trên các quy tắc và quy định; An toàn được xem là mục tiêu của tổ chức và an toàn có thể luôn luôn được cải thiện. Nói tới văn hóa an toàn là nói tới con người trong tổ chức, hoặc rộng hơn là trong xã hội. Văn hóa an toàn và hành vi của con người thể hiện ở: Thái độ, các giá trị, tính chuyên nghiệp, khả năng lãnh đạo và ra quyết định. Bộ Năng lượng Mỹ (DOE, Human Performance Handbook, 2009) đã đưa ra các nguyên lý về tác động của con người, khái niệm và áp dụng nhằm giảm thiểu sai sót của con người và góp phần làm giảm các sự cố và các rủi ro (hình 3). Theo phân tích, khoảng 80% các sự kiện xảy ra có sự đóng góp của sai sót của con người (90% ở một số lĩnh vực). 20% liên quan đến hư hỏng thiết bị. Phân tích sâu hơn trong 80% lỗi do con người thì phần lớn các sai sót liên quan đến các sự kiện nảy sinh từ các yếu kém của tổ chức, trong khi 30% gây bởi cá nhân do mạo hiểm với thiết bị hoặc hệ thống trong nhà máy.

Hình 3. Đánh giá yếu tố con người và tổ chức trong phân tích nguyên nhân sự cố

Để có thể xây dựng, vận hành một nhà máy điện hạt nhân an toàn và kinh tế, ba yếu tố quan trọng chính là con người, hệ thống tổ chức (của cơ quan vận hành, cơ quan pháp quy, cơ quan hỗ trợ kỹ thuật, giáo dục và đào tạo.v.v.) và trang bị các hệ thống công nghệ đảm bảo an toàn.

Hình 4. Các yếu tố đảm bảo an toàn Như vậy, yếu tố tổ chức đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Bên cạnh đó cũng cần xây dựng một hệ thống quản lý an toàn. Một hệ thống quản lý an toàn tốt sẽ giúp cho việc duy trì con người, tổ chức và hệ thống công nghệ đảm bảo an toàn. Hệ thống quản lý an toàn cần bao gồm: - Xây dựng kế hoạch - Cam kết của lãnh đạo cao nhất về an toàn - Tổ chức (tuyên bố rõ ràng về trách nhiệm và trách nhiệm giải trình, giám sát đào tạo và năng lực) - Xác định các nguy cơ - Quản lý rủi ro - Điều tra về an toàn (Bài học về an toàn có giá trị khi ta hiểu nguyên do tại sao hơn là mô tả cái gì xảy ra) - Phân tích an toàn - Khuyến khích về an toàn và huấn luyện

Page 15: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

13Số 44 - Tháng 9/2015

- Quản lý thông tin về an toàn - Giám sát về an toàn và đánh giá hiệu quả (Phản hồi để không ngừng hoàn thiện hệ thống) 4. Yêu cầu của các công ty điện lực châu Âu (EUR) Một trong những đặc trưng của các nhà máy điện hạt nhân thế hệ III/III+ là yêu cầu an toàn cao hơn và kinh tế hơn. Để rút ngắn thời gian xây dựng, cũng như duy tu, bảo dưỡng thiết bị, các biện pháp như chế tạo theo mođun, chuẩn hóa các thiết bị đã được đặt ra. Về mặt pháp quy, các cơ quan pháp quy của các nước châu Âu đã hợp tác trong hiệp hội các cơ quan pháp quy hạt nhân Tây Âu (WENRA) và nhóm các cơ quan pháp quy an toàn hạt nhân châu Âu (ENSREG) nhằm đảm bảo vận hành an toàn các nhà máy điện hạt nhân tại châu Âu. Các công ty điện lực châu Âu cũng đưa ra bộ các yêu cầu nhằm đồng bộ và xác lập các điều kiện chuẩn hóa thiết kế, xây dựng các nhà máy điện hạt nhân ở châu Âu cũng như chuẩn hóa, đồng bộ các cơ sở thiết kế của nhà máy điện hạt nhân sẽ được xây dựng trên thế giới. EUR tập hợp chung các yêu cầu (của các công ty vận hành) đối với thế hệ nhà máy điện hạt nhân lò LWR thế hệ mới, trong đó tập trung vào: - Các tiếp cận về an toàn, - Các mục tiêu chính, - Các tiêu chuẩn và phương pháp đánh giá, - Chuẩn hóa các điều kiện thiết kế, - Mục tiêu và tiêu chuẩn thiết kế các hệ thống và thiết bị chính,

- Các tiêu chuẩn và đặc tính kỹ thuật của thiết bị, - Thông tin cần thiết cho đánh giá an toàn, độ khả dụng và giá thành

Hình 5. Bộ các yêu cầu EUR và các phiên bản.

Với các đáp ứng thỏa mãn các yêu cầu của EUR cũng như các thiết kế được chứng thực bởi US NRC, thiết kế lò phản ứng và nhà máy điện hạt nhân được xem như đảm bảo an toàn cao nhất hiện nay. 5. Bài học từ các sự cố đã xảy ra Theo hiệp hội hạt nhân thế giới (WNA), kể từ khi sử dụng năng lượng hạt nhân đã xảy ra 11 các sự cố nghiêm trọng, trong đó 6 sự cố xảy ra tại các nhà máy điện hạt nhân từ 1975 đến 2011. Ba sự cố tiêu biểu với hư hỏng các chức năng đảm bảo an toàn như nêu trên được nêu trong bảng 3. Tai nạn TMI-2 (1979, Mỹ) cho thấy yếu tố con người trong đảm bảo an toàn là hết sức quan trọng, thiết kế boongke lò đã phát huy vai trò giam giữ phóng xạ và nóng chảy vùng hoạt đã làm tăng các hiểu biết của con người về cái gọi là “China syndrome”. Tai nạn Chernobyl (1986, Liên Xô cũ) đã bộc lộ các khiếm khuyết trong thiết kế và sự yếu kém trong văn hóa an toàn cũng như việc không sử dụng boongke lò

Page 16: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

14 Số 44 - Tháng 9/2015

đã làm trầm trọng hậu quả của tai nạn. Tai nạn Fukushima (2011, Nhật Bản) cho thấy các hạn chế của các thiết kế thế hệ II, những yêu cầu về đánh giá địa điểm và các biện pháp tăng cường, củng cố và hoàn thiện các hệ thống đảm bảo an toàn. Cơ cấu tổ chức của các cơ quan đảm bảo an toàn các nhà máy điện hạt nhân ở Nhật Bản đã thay đổi căn bản kể từ sau tai nạn nghiêm trọng này. Nhiều nghiên cứu, phân tích, đánh giá đã được thực hiện nhằm không ngừng hoàn thiện và nâng cao độ an toàn của các nhà máy điện hạt nhân.Bảng 3. Phân tích các tai nạn theo các

chức năng an toàn

TMI-2

Chernobyl Fuku-shima

Mất chức năng an toàn

Mất kiểm soát chức năng làm mát

Mất kiểm soát chức năng làm mát

Mất kiểm soát chức năng làm mát

Mất kiểm soát độ phản ứngMất kiểm soát chức năng giam giữ

Mất kiểm soát chức năng giam giữ

Thất bại của các rào chắn

Hư hỏng rào chắn #1, #2

Mất chức năng của các rào chắn #1, #2, #3

Hư hỏng rào chắn #1, #2

Hư hỏng rào chắn #3 (được phục hồi sau đó)

Hư hỏng rào chắn #3

Rào chắn #4: OK

Lỗi thiết kế (không có rào chắn #4)

Hư hỏng rào chắn #4

Với các sự cố đã xảy ra, có thể thấy các hệ thống an toàn chủ yếu là an toàn chủ động, chỉ hoạt động khi có nguồn điện hoặc có sự tác động của con người; Thiết kế lò phản ứng tương ứng với những quy chuẩn an toàn thấp hơn nhiều so với những tiêu chuẩn hiện nay. Các vấn đề pháp quy, yếu tố con người, văn hóa an toàn và năng lực của hệ thống an toàn kỹ thuật, khả năng ứng phó với tình huống khẩn cấp .v.v. Đặc biệt, sau tai nạn Fukushima, nhiều bài học đã được đưa ra. Các yêu cầu mới được đặt ra. Ngành công nghiệp điện hạt nhân đã có những nhìn nhận và thay đổi để các nhà máy điện hạt nhân đang vận hành được thực sự an toàn hơn, các nhà máy điện hạt nhân đang và sẽ được xây dựng thõa mãn các đòi hỏi cao hơn về an toàn. 6. Stress Test – Kiểm tra sức kháng cự Các bài học về an toàn từ sự cố Fukushima đã được 27 nước thành viên EU với 143 lò phản ứng, cũng như các nước lân cận áp dụng. Việc tổng kiểm tra tại các nhà máy điện hạt nhân - “Stress tests“ được thực hiện từ 2011 đến 2012 bao gồm việc kiểm tra, đánh giá lại dự trữ an toàn của nhà máy trong các điều kiện tự nhiên cực đoan (động đất, sóng thần, lũ lụt), cũng như việc mất các chức năng an toàn và quản lý sự cố nghiêm trọng. Nhiều nước không thuộc EU cũng tiến hành các tổng kiểm tra theo mô hình EU. Các kết quả của cuộc kiểm tra chỉ ra, các nhà máy điện hạt nhân châu Âu đạt mức độ an toàn để không cần dừng lò tại bất kỳ nhà máy nào. Đồng thời, những cải tiến cần thiết nhằm tăng cường sức kháng cự của các nhà máy điện hạt nhân với các tình huống khắc nghiệt đã được đưa ra.

Page 17: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

15Số 44 - Tháng 9/2015

Một kế hoạch hành động tại châu Âu đã được ENSREG xác lập từ 7/2012. Nga và Nhật Bản cũng tiến hành các tổng kiểm tra tương tự. Các nhà máy điện hạt nhân tại Nhật Bản chỉ được cấp phép hoạt động trở lại khi thỏa mãn các yêu cầu mới mà cơ quan an toàn hạt nhân đưa ra sau khi đã cập nhật các thay đổi cũng như bài học từ sự cố Fukushima. 7. Điều kiện mở rộng thiết kế (DEC) Thiết kế của nhà máy điện hạt nhân được đánh giá, phân tích an toàn theo báo cáo phân tích an toàn (SAR). Theo đó, các sự cố được phân loại theo tần suất có thể xảy ra và bao gồm hai phạm trù: Sự cố trong cơ sở thiết kế (DBA) và sự cố ngoài cơ sở thiết kế (BDBA). Sự cố trong cơ sở thiết kế được phân tích và đảm bảo rằng khi nó xảy ra, các hệ thống an toàn và các biện pháp ngăn ngừa được áp dụng và liều phóng xạ nằm trong giới hạn cho phép. Sự cố nghiêm trọng ngoài thiết kế thường không được phân tích trong SAR, tuy chúng được đề cập trong các phân tích, đánh giá rủi ro (PRA). Sau sự cố Fukush-ima, IAEA đã đưa ra những thay đổi căn bản trong việc xem xét, đánh giá các thiết kế trong báo cáo phân tích an toàn. Theo đó, các sự cố mà thiết kế cần phải xem xét được mở rộng, bao gồm các sự cố nghiêm trọng vốn không được tính đến trong cơ sở thiết kế trước đây (Bảng 4). Với điều kiện mở rộng thiết kế, các hệ thống đảm bảo an toàn trong các thiết kế lò phản ứng thế hệ III/III+ đã có những đáp ứng nhất định. Yêu cầu pháp quy hiện nay cho các nhà máy mới đòi hỏi ảnh hưởng của bất

kỳ tai nạn nóng chảy vùng hoạt phải được giới hạn bên trong nhà máy mà không cần phải sơ tán cư dân gần đó.Bảng 4. Những thay đổi trong yêu cầu

thiết kế theo IAEAVận hành bình thường

Sự kiện vận hành dựkiến

Sự cố trong thiếtkế

Sự cố ngoài thiết kế (BDBA)

Trước Fuku-shima

Được yêu cầu trong cơ sở thiết kế(IAEA Nuclear Safety Requirements, No. NS-R-1, 2000)

Không nóng chảy

Sựcố nặng (nóng chảy)

Sau Fuku-shima

Vận hành bình thường

Sự kiện vận hành dựkiến

Sự cố trong thiếtkế

Điều kiện mở rộng thiết kế (DEC)

Được yêu cầu trong cơ sở thiết kế(IAEA Specific Safety Requirements, No. SSR-2/1, 2012)

Các điều kiện loại trừ

8. An toàn chủ động và thụ động Các hệ thống an toàn “truyền thống” trong NMĐHN (thế hệ II) cơ bản là các hệ chủ động (vận hành cơ khí hoặc bằng điện), trong khi có một số hệ thống vận hành thụ động, chẳng hạn như các van xả áp. Các hệ thống trang bị trong nhà máy đảm bảo tính đa dạng, độc lập và dự phòng. Các thiết kế an toàn thụ động hoặc an toàn nội tại chỉ phụ thuộc vào các hiện tượng vật lý như đối lưu, trọng trường hay chống lại nhiệt độ cao. Đặc điểm nổi bật ở

Page 18: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

16 Số 44 - Tháng 9/2015

lò phản ứng thế hệ III/III+ là phát triển và hoàn thiện các hệ thống an toàn thụ động đảm bảo an toàn không phụ thuộc vào năng lượng hay con người mà dựa vào quy luật tự nhiên như hệ thống đối lưu tự nhiên, hệ thống thiết bị do lực trọng trường tác động…

Hình 6. Thiết kế tải nhiệt dư thụ động qua bình sinh hơi của AES 2006

Các thiết kế VVER-1200 (hay AES 2006) của Nga sử dụng một cách cân bằng hai nhóm các hệ thống an toàn chủ động và thụ động, trong khi thiết kế AP-1000 của Westinghouse dựa trên nhóm các hệ thống an toàn thụ động.

Hình 7. Thiết kế hệ thống thụ động của AP 1000

Các yêu cầu đối với nhà máy mới

được xây dựng là khả năng chống chọi với các sự cố nghiêm trọng như đảm bảo an toàn trong vòng 72 giờ mà không cần sự can thiệp của con người, boongke lò có khả năng chống máy bay đâm, khả năng giam giữ chất nóng chảy.v.v. 9. Kết luận An toàn hạt nhân đã được nhấn mạnh và đặt ra xuyên suốt quá trình phát triển ngành công nghiệp điện hạt nhân. Các sự cố đã xảy ra với những bài học đắt giá đã cho thấy ngoài những áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, văn hóa an toàn ( công chúng, cơ quan vận hành, cơ quan pháp quy , cơ quan hỗ trợ kỹ thuật, giáo dục đào tạo) cũng như việc không ngừng xây dựng nguồn lực trong đó yếu tố con người và tổ chức (hỗ trợ kỹ thuật, vận hành, bảo dưỡng) cần được chú trọng. Nhà máy điện hạt nhân chỉ thực sự có hiệu quả kinh tế khi an toàn được đặt lên hàng đầu, được xem như mục tiêu cuối cùng và luôn luôn (safety first, last and always) được thể hiện trong suốt quá trình xây dựng, vận hành nhà máy.

LêĐạiDiễnTrungtâmĐàotạohạtnhân,

ViệnNănglượngnguyêntửViệtNam

Page 19: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

17Số 44 - Tháng 9/2015

Các loại lò phản ứng hạt nhân quy mô nhỏ với công suất nhiệt dưới 300 MW chế tạo theo mô đun đồng loạt (SMR) là một phương hướng phát triển năng lượng hạt nhân tiên tiến. Chúng có vai trò như thế nào đối với các nước đang phát triển như Việt Nam? Một số ý kiến nhận xét và đánh giá được đưa ra thảo luận trong bài này. I. MỞ ĐẦU Trong thông điệp đầu năm 2011 Tổng thống Mỹ Obama đề ra mục tiêu: “Đến sau năm 2035 sẽ có 80% điện năng nước Mỹ phải được cấp từ các nguồn năng lượng sạch”, trong đó điện hạt nhân là thành tố quan trọng. Đây là một cố gắng lớn khi các nền kinh tế hàng đầu đang tìm cách vượt ra khỏi cuộc khủng hoảng toàn cầu. Khó khăn lại chồng chất thêm khi Nhật Bản vừa phải hứng chịu thảm họa thiên nhiên siêu động đất-sóng thần kéo theo sự cố hạt nhân Fukushima ngày 11/3, nhưng sau hơn 30 năm ngưng trệ, nay nước Mỹ quyết tâm muốn khôi phục

đội ngũ chuyên gia của mình, đưa nước này trở lại vị trí dẫn đầu thế giới về phát triển công nghệ hạt nhân, họ đã khởi động 4 công trình xây dựng các nhà máy hiện đại với lò phản ứng thế hệ 3+ AP1000. Nhiều quốc gia lớn như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, cũng đang tăng số tổ máy điện hạt nhân công suất lớn. Nhưng lò mô đun nhỏ đang được tích cực triển khai nghiên cứu lại được coi là công nghệ thế hệ thứ 4. Vậy chúng ta đang đứng ở đâu khi bàn về SMR? Liệu các nước đang phát triển như Việt Nam có lợi ích đến mức nào khi muốn ứng dụng SMR? Chúng tôi tổng hợp một số thông tin về giai đoạn hiện nay, khi công nghệ thế hệ 4 chưa thật sự

LÒ MÔ ĐUN NHỎ VỚI NƯỚCĐANG PHÁT TRIỂN

NHƯ VIỆT NAM

Page 20: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

18 Số 44 - Tháng 9/2015

hoàn chỉnh, nhưng đã có những công nghệ SMR trung gian đang hướng tới lò thế hệ thứ 4. II. CÔNG NGHỆ LWR 3++, CẦU NỐI GIỮA HAI THẾ HỆCác lò phản ứng quy mô công suất nhỏ từ vài chục đến vài trăm MW nhiệt lúc đầu được nghiên cứu chế tạo rất sớm ở Mỹ, Liên Xô từ những năm 1950 với mục đích dùng trong quân sự như: tàu ngầm nguyên tử, tàu sân bay, tàu phá băng, trạm cấp nhiệt v.v. Chủ yếu lúc đó người ta sử dụng công nghệ lò áp lực PWR dùng nước nhẹ làm mát và làm chậm neutron, vì vậy chúng được gọi chung là công nghệ lò nước nhẹ LWR. Kế thừa công nghệ LWR sẽ giúp giảm nhẹ thời gian nghiên cứu triển khai, quá trình chế thử và tiếp thị (có thể đến hơn 80% khối lượng công việc chuẩn bị). Người ta thảo luận khả năng cải tiến chế tạo những mô đun nhỏ LWR để chúng có những tính năng hiện đại đáp ứng cho ngành năng lượng hạt nhân và tạm xếp chúng vào loại công nghệ LWR-SMR hoặc gọi là thế hệ 3++ . LWR-SMR có những ưu điểm sau: - Hệ dùng nguyên nhiên liệu đã có truyền thống của PWR. - Các phần thiết kế có sự kế thừa là cơ sở thuận lợi cho cấp phép. - Có sự tích hợp phần lò phản ứng và phần lò hơi. - Thiết kế theo module chuẩn. - Có thể chia sẻ hoặc dùng chung các thiết bị liên kết. Tuy nhiên hệ LWR-SMR chưa phải là công nghệ đáp ứng đầy đủ theo tư duy phát triển của lò phản ứng hạt nhân thế hệ

4. Chúng vẫn còn những nhược điểm cố hữu như: - Nhiệt độ vận hành lò tương đối thấp làm hạn chế hiệu suất chu trình nhiệt và công suất tạo hơi. - Cấu tạo thanh nhiên liệu và các hệ nạp dỡ liệu chủ yếu vẫn tuân theo phương pháp truyền thống, chưa thể loại trừ hoàn toàn sự can thiệp bên ngoài. III. TIẾN BỘ CÔNG NGHỆ THẾ HỆ THỨ 4 III.1.Hệmôđunnhỏ lòkhínhiệtđộcao(HTGR) Để đáp ứng các yêu cầu nâng cao hiệu suất chu trình nhiệt, giảm lượng chất thải phóng xạ, tăng độ an toàn và ngăn chặn thất thoát nhiên liệu hạt nhân, người ta đã triển khai nghiên cứu các lò phản ứng mô đun nhỏ theo những nguyên lý mới tiên tiến, khác với lò LWR thế hệ thứ 3. Chúng cũng có ưu điểm chung là chế tạo dạng mô đun nhỏ như công nghệ LWR-SMR, nhưng chúng không dùng nước tải nhiệt, vì vậy các mô đun này còn có thể lắp đặt ở nhiều địa điểm không gần biển. Công nghệ HTGR là công nghệ khá điển hình cho lò thế hệ 4, dùng khí trơ như Heli để tải nhiệt, đạt nhiệt độ cao hơn và đốt các viên nhiên liệu nhỏ dạng sỏi cuội. Trên cơ sở đó chúng có những ưu thế mới như sau: - Nhiệt độ đạt tương đối cao giúp tăng hiệu suất nhiệt, tăng áp lực hơi và có thể tạo qui trình sinh nhiệt trực tiếp. - Tần suất dừng nạp-dỡ liệu giảm hoặc được thay bằng quy trình không dừng lò. - Hiệu suất thiêu kết nhiên liệu tốt hơn so với LWR cải tiến, giảm thiểu chất

Page 21: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

19Số 44 - Tháng 9/2015

thải phóng xạ nóng. - Tăng chất lượng an toàn hạt nhân, chống can thiệp rút ruột nhiên liệu hạt nhân. III.2.Hệlòneutronnhanh(FNR) Hệ FNR dựa trên nguyên lý chỉ cần tải nhiệt-làm mát, không cần làm chậm neutron. Vì vậy neutron nhanh có thể gây ra phản ứng phân hạch, đồng thời chúng làm chuyển hóa các hạt nhân chẵn như U-238 thành nhiên liệu mới như Pu-239 để duy trì độ làm giàu ổn định cho phản ứng dây chuyền trong một chu trình nhiên liệu khép kín. Một lò nhanh có thể tận dụng được các đồng vị U-238 như một nguồn tài nguyên nhiên liệu lớn hơn hàng trăm lần, vốn trước đây không thực hiện được trong lò nước nhẹ. Các lò nhanh dùng kim loại nóng chảy (Na, Pb-Bi) hoặc muối nóng chảy để tải nhiệt. Vì vậy chúng có những ưu điểm mới sau đây: - Có thể đạt hiệu suất nhiệt cao hơn lò truyền thống. - Có thể tái sinh nhiên liệu hạt nhân, thiêu kết chất thải, giảm thiểu số lượng chất thải và giảm chu kỳ phân rã xuống hàng trăm lần. - Thay nhiên liệu với tần suất thấp, giảm thiểu nguy cơ phát tán nhiên liệu hạt nhân và giúp giảm nhẹ công tác vận hành. -Tỉ lệ kích thước lò thu nhỏ đáng kể. III.3. Lò nước áp lực đệm cuội(FBNR,FixedBedNuclearReactor) Ngoài hai nhóm lò thế hệ thứ 4 như trên, từ hơn 10 năm nay, Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) đã phối hợp tổ chức nhóm nghiên cứu về lò FBNR. Đây là loại lò phản ứng công suất nhỏ vẫn dựa trên công nghệ phổ biến của lò nước

áp lực (PWR), nhưng được thiết kế theo tiêu chuẩn lò thế hệ thứ 4, không cần dừng thay thế nhiên liệu, có cấu trúc đơn giản theo kiểu mô đun, có hệ thống an toàn thụ động. Cũng như lò HTGR, lò FBNR dùng nhiên liệu dạng viên cuội với nhiều lớp vỏ bọc bền vững có thể chịu nhiệt độ cao đến 1600oC, không có sự thoát phóng xạ ra ngoài trong các điều kiện sự cố thiết kế và thậm chí vượt thiết kế cơ bản. Các lò phản ứng với nhiên liệu viên cuội có khả năng tự động điều khiển linh động và trao đổi nhiệt tốt hơn so với các loại lò khác, nhờ đó có thể đạt độ an toàn nội tại cao hơn. Khi có sự cố gây mất nguồn điện máy bơm dẫn đến mất nước tải nhiệt, các viên nhiên liệu sẽ tự thoát ra khỏi vùng hoạt của lò phản ứng và rơi xuống buồng nhiên liệu thuần túy nhờ trọng lực. Buồng chứa nhiên liệu duy trì hệ làm mát thụ động, đối lưu tự nhiên để nhiệt độ nhiên liệu không vượt quá ngưỡng nóng chảy. IV. PHÂN TÍCH KINH TẾ-THỊ TRƯỜNG IV.1.Ưuđiểm: Ở đây các tư liệu chỉ đánh giá tập trung vào loại LWR-SMR là công nghệ đã đạt gần mức khả thi, có thể dễ so sánh với lò LWR truyền thống. Ưu điểm của công nghệ SMR được minh họa thêm trong bảng so sánh với các lò lớn thế hệ 3+ (như AP-1000): - Tổng vốn đầu tư cho dự án giảm thấp hơn đến 4-5 lần, vì vậy dễ chấp nhận về quy mô kinh tế đối với nhiều công ty, nhiều quốc gia nghèo. Nhờ tổng đầu tư trên mỗi đơn vị SMR ít hơn nhiều so với các lò lớn, cùng với việc giảm thời gian chế tạo, xây dựng và lắp đặt, nên có thể

Page 22: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

20 Số 44 - Tháng 9/2015

cân đối được tổng chi phí, giúp xây dựng dự toán sát thực tế hơn, rút ngắn thời gian giải ngân và giảm mạo hiểm tài chính cũng như phần chi do lãi suất vay.- Có thể chế tạo mô đun đồng loạt trong nhà máy và vận chuyển nguyên khối, nâng cao chất lượng sản phẩm, độ tin cậy và tính an toàn. - Địa điểm xây dựng đa dạng, không đòi hỏi lưới điện lớn, có thể đặt ở những vùng sâu, vùng xa. Trong đó các mô đun SMR rất thích hợp để thay thế phần lớn các nhà máy nhiệt điện than sắp hết hạn hoặc đang gây ô nhiễm môi trường cần dỡ bỏ.- Có độ an toàn cao và đơn giản hóa do sử dụng công nghệ LWR vốn đã rất quen thuộc và nhờ đặt nhà lò và cả bể chứa nhiên liệu ngầm dưới đất.- Chu kỳ thay nhiên liệu kéo dài đến vài năm, giúp hạn chế sự can thiệp phi pháp từ bên ngoài.Bảng so sánh:

Loại lò Các lò lớn 1000 MW

SMR 250-280 MW

Tổng giá thành thăng tiến trên mỗi lò

5-7 Tỉ USD

1,4 - 1,8 Tỉ USD

Thời gian xây dựng bể nạp liệu đầu

46 tháng 30 tháng

Công tác chuẩn bị địa điểm

18-24 tháng

12-18 tháng

% EPC trên giá thành theo hợp đồng(enhanced price certainty)

40-60% 60-80%

IV.2.NhữngvấnđềcòntồntạicủalòSMRthếhệthứ4: 1. Các vấn đề công nghệ: Do nhiều yếu tố bất định, các ưu điểm thiết kế nói trên của lò thế hệ thứ 4 cho đến nay vẫn chưa được kiểm định đầy đủ, chúng mới chỉ là công nghệ đang trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện, còn nhiều vấn đề chưa rõ đang tiếp tục giải quyết. Vì vậy tất cả các công nghệ mới này đều đứng trước những thách thức như sau: - Chưa có tiền lệ về tuổi thọ vật liệu. - Giá thành một số bộ phận cấu tạo công nghệ và nhiên liệu có thể tăng cao. - Chưa có tiêu chí về vận hành và bảo dưỡng. - Chưa có tiền lệ về cấp phép hạt nhân. - Chưa có thương hiệu đối với công chúng và các nhà đầu tư. - Quản lý an toàn đối với vận hành các hệ tải nhiệt bằng dung dịch muối và kim loại nóng chảy trong lò nhanh FNR là vấn đề phức tạp so với dùng nước và khí. 2. Các vấn đề kinh tế: - Vấn đề cấp phép còn bất định, vì đây là loại công nghệ đang được đưa vào lần đầu, phải có những tiêu chuẩn mới, đồng thời phải có thông tin làm rõ các yếu tố mạo hiểm. - Giá thành đầu tư ban đầu cao do khâu hoàn thiện thiết kế, thiết kế mô đun hóa. - Giá thành vận hành và bảo dưỡng chưa rõ ràng. - Giá thành hệ thống cao áp và nhiên

Page 23: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

21Số 44 - Tháng 9/2015

liệu lò khí nhiệt độ cao HTGR có thể tăng cao. Công nghệ LWR-SMR có ưu thế nhờ kế thừa đến hơn 80% hiểu biết công nghệ trong các xưởng hải quân, có thể rút ngắn đáng kể thời gian và chi phí nghiên cứu triển khai và tiếp thị. Với độ tin cậy như vậy, từ năm 2011, hàng năm Bộ năng lượng Mỹ (DOE) chi 450 triệu USD cho nghiên cứu cấp phép đối với LWR-SMR. Trong khi đó hàng năm họ chỉ mới chi 35 Triệu USD cho R-D và nghiên cứu và phát triển (R&D) các lò nhỏ thế hệ 4, bởi chúng còn phải qua những chặng thử thách dài hạn hơn nhiều. V. ĐIỆN HẠT NHÂN VIỆT NAM VÀ THÁCH THỨC SAU FUKUSHIMA Việt Nam đã bắt đầu triển khai chương trình điện hạt nhân quốc gia dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước sau năm 2020. Vì vậy xem xét, đánh giá đa dạng các loại lò phản ứng khác nhau nhằm chọn lựa được loại công nghệ có tính ưu việt cao phù hợp để ứng dụng tại Việt Nam là một việc cần thiết. Cùng với các lò tiên tiến thế hệ thứ 3+ đang được xây dựng trên thế giới thì lò phản ứng hạt nhân mô đun nhỏ được một số nước xem là một lựa chọn trong những năm tiếp theo. Thiết nghĩ Việt Nam cũng cần nghiên cứu khả năng ứng dụng công nghệ này phục vụ các mục đích đa dạng của đất nước ở thời điểm thích hợp trong tương lai. Quốc hội Việt Nam ngày 25/11/2009 đã thông qua Nghị quyết 41 phê duyệt dự án đầu tiên xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận. Sau đó Chính phủ

đã có định hướng quy hoạch dài hạn phát triển ĐHN với 7 địa điểm xây dựng ven biển miền Trung và tổng công suất sau năm 2030 đạt 15-16 nghìn MW. Sự cố hạt nhân Fukushima đã gây ra nhiều biến động trong chính sách hạt nhân trên thế giới. Điều đó đòi hỏi Việt Nam phải đánh giá nghiêm túc và có giải pháp thích ứng với những yêu cầu mới đặt ra. Tâm lý chống năng lượng hạt nhân sau vụ Fukushima tăng lên đáng kể. Tuy nhiên theo Gadomski, nhà phân tích năng lượng mới của tập đoàn tài chính Bloomb-erg: “ Chúng ta thấy một số phản ứng tức thời đòi loại bỏ hạt nhân, nhưng điều đó không thể xảy ra trong một thời gian dài. Chúng ta không có một giải pháp nào khác tốt hơn nếu như muốn làm cho ngành năng lượng sạch, không còn khí nhà kính”. Vì vậy có đến 17 nước khác vẫn kiên định lập trường ứng dụng điện hạt nhân, trong danh sách đó có Việt Nam. Chính phủ nhiều nước công nghiệp như Mỹ, Pháp, Nhật dù có mức độ kiềm chế khác nhau, vẫn khẳng định năng lượng hạt nhân là nguồn phát điện chưa có gì có thể thay thế đối với họ trong vòng 40-50 năm tới. Ở Việt Nam sau nhiều năm rà soát đánh giá quy hoạch, kết quả cho thấy năng lượng tái tạo và quốc sách tiết kiệm là cần thiết và phải được phát huy, tận dụng tối đa. Tuy vậy, thực tế chứng minh không có nguồn năng lượng sạch nào có thể thay thế cho các loại nguồn công suất lớn như ĐHN, trừ phi quay lại phương án nhập than và nhập điện từ nước khác. Như vậy, nếu đơn phương loại bỏ ĐHN mà không đề xuất được phương án thay thế đủ thuyết phục thì đó chỉ là cách tiếp cận phi thực tế. Để có thể phát triển ĐHN, trước

Page 24: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

22 Số 44 - Tháng 9/2015

hết phải giải quyết vấn đề công nghệ đảm bảo độ an toàn phù hợp tiêu chuẩn quốc tế được IAEA đánh giá lại khi rút kinh nghiệm từ vụ Fukushima. Bài toán kinh tế-xã hội là bài toán tổng hợp, đạt tính tối ưu, không bao giờ là giải pháp tuyệt đối. Một ví dụ là rút kinh nghiệm từ thảm họa Chernobyl, Nga đã nghiên cứu và đưa ra một số thiết kế vượt trội, đáp ứng những tình huống tưởng như chưa ai đoán biết trước như vừa xảy ra tại Fukushima. Cụ thể là lò VVER-1000 theo thiết kế V-392 được giới thiệu cách đây hơn 10 năm đã có tính đến chống sóng xung kích của các vụ nổ bom, vụ đâm máy bay, xung lực sóng biển, động đất; hơn nữa, trong thiết kế có đủ hệ thống lọc khí phòng ngừa các vụ nổ hydro và dự tính đến bẫy thu gom và vô hiệu hóa nhiên liệu hạt nhân nóng chảy v.v. Điều này cho thấy con người có khả năng tiên lượng phần lớn những gì có thể xảy ra, nếu họ nghiêm túc tư duy tìm giải pháp. Bài học Fukushima đắt giá, nhưng nó đang thúc đẩy con người vươn lên tới mức tiến bộ cao hơn. Cùng với việc lựa chọn công nghệ đạt trình độ an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế mới, Việt Nam vẫn phải đương đầu và giải quyết tình trạng thiếu nhân lực có trình độ và có đủ văn hóa an toàn. Nếu có sự chỉ đạo tích cực và đồng bộ của Chính phủ thì những nguồn lực ưu tiên hiện nay có thể giúp chuẩn bị một đội ngũ bước đầu đủ về số lượng và chất lượng để đáp ứng cho xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên vào những năm 2020, đồng thời triển khai các trung tâm nghiên cứu mới hiện đại nhằm từng bước làm chủ công nghệ. Sau lò phản ứng thế hệ 3+, dường như lò SMR và đặc biệt là lò mô đun thế

hệ thứ 4 có thể giải quyết được rất căn bản những vấn đề chưa thỏa mãn về kinh tế, công nghệ và an toàn hạt nhân. Liệu đối với Việt nam công nghệ SMR có thể thay thế cho các lò công suất lớn trong quy hoạch phát triển ĐHN từ nay đến năm 2030 được không? VI. KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG SMR Công nghệ LWR- SMR tạm gọi là lò thế hệ 3++ qui mô thương mại có thể đưa vào các nước đang phát triển như Việt Nam sớm nhất cũng phải sau 15 năm nữa, bởi chủ công nghệ như Mỹ cũng cần thương mại hóa trong 10 năm tới. Lò mô đun nhỏ LWR chủ yếu bắt nguồn từ công nghệ nước áp lực PWR là khá tin cậy, vì chúng đã có kinh nghiệm thử thách ở số lượng lớn trên các tàu ngầm và tàu sân bay, tuy nhiên vẫn cần có thời gian để hoàn thiện thiết kế cải tiến và cấp phép cho các nhà máy điện mô đun LWR chôn ngầm trong đất. Yếu tố hiệu quả kinh tế cũng cần có thời gian để chứng minh và tiếp thị. Bên cạnh bài toán hiệu quả kinh tế, mỗi đơn vị lò mô đun như vậy có công suất quá nhỏ để đáp ứng công suất phát điện quốc gia của Việt nam, cho nên phải cùng lúc xây dựng rất nhiều lò. Thí dụ mỗi năm phải xây khoảng 5 lò công suất nhỏ mới tương đương xây một lò 1000 MW. Vì thế, đặt vấn đề thay thế tất cả các lò lớn bằng các lò nhỏ là ít khả thi. Khả năng bắt đầu đưa lò SMR tiên tiến thế hệ 4 quy mô thương mại vào Việt Nam sớm nhất cũng sau khoảng 20 năm nữa. Lý do vì hiện nay, đây là công nghệ trong giai đoạn còn nghiên cứu-phát triển,

Page 25: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

23Số 44 - Tháng 9/2015

ngay cả Mỹ cũng cần có thêm thời gian 10-15 năm. Ngoài nguyên nhân công nghệ chưa hoàn thiện, các lò mô đun nhỏ thế hệ thứ 4 có nhiều bất định, chưa có khả năng cấp phép dễ dàng, chưa thẩm định giá thành như đã trình bày. Chúng ta thấy rằng lò thế hệ thứ 4 là một xu hướng công nghệ tích cực trong tương lai, có thể được thương mại sau năm 2030 để thay dần các lò thế hệ thứ 3. Tuy nhiên lò mô đun nhỏ “SMR không phải là một thần dược để giải quyết toàn bộ vấn đề”. Một mặt các mô đun nhỏ rất phù hợp để thay thế các nhà máy nhiệt điện than ở nhiều địa điểm khác nhau và có thể đạt hiệu quả kinh tế, nâng cao độ an toàn hạt nhân đến mức rất đáng tin cậy. Mặt khác vẫn cần phối hợp SMR với các nhà máy lớn với các lò thế hệ thứ 3+ trong một thời gian dài, trước khi có những nguyên lý công nghệ mới cạnh tranh hơn. Thiết nghĩ rằng, song song với triển khai chương trình điện hạt nhân quốc gia từ nay đến năm 2030 trên cơ sở xây dựng các nhà máy điện hạt nhân với lò cải tiến thế hệ thứ 3+, Việt Nam cũng cần sớm nghiên cứu chuẩn bị cho việc nắm bắt công nghệ thế hệ tương lai, cụ thể là các lò SMR trong đó có LWR 3++ và cả công nghệ thế hệ thứ 4. Trên thực tế từ năm 2003 Việt Nam đã tham gia vào chương trình nghiên cứu quốc tế lò mô đun nhỏ FBNR do IAEA phối hợp tổ chức [4]. Trước mắt, Việt Nam cần tính đến có một dự án nghiên cứu thử nghiệm (pilot) với một hệ SMR công suất phát điện khoảng 50 đến 100 MW. Đã là một thiết bị pilot phục vụ cho nghiên cứu và triển khai sản xuất thử, chúng ta có thể có lựa chọn khác nhau, hướng tới những mẫu lò đang trong

giai đoạn nghiên cứu hoàn thiện công nghệ như mô đun lò 3++ trên cơ sở công nghệ LWR hoặc là một phương án lò thế hệ thứ 4. Các trạm điện mô đun có thể thiết kế lưỡng dụng, ví dụ kết hợp phát điện với lọc muối làm nước ngọt, làm trạm nhiệt sưởi đông; đặc biệt gần đây có xu hướng thiết kế trạm phân ly chế nhiên liệu hydro quy mô lớn. Ngoài lựa chọn các lò mô đun trên đất liền, cũng có thể xét đến các trạm đặt trên bè nổi (công nghệ Nga hoặc Mỹ), có thể phục vụ tốt các vùng hải đảo xa như quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Một dự án thử nghiệm ở Việt Nam vừa nhằm mục tiêu cụ thể chuẩn bị cho chương trình thương mại hóa SMR trong tương lai, đồng thời có vai trò rất tích cực trong nghiên cứu, đào tạo nhân lực và làm chủ công nghệ điện hạt nhân nói chung, phục vụ chương trình điện hạt nhân quốc gia trước mắt từ nay đến năm 2030. Để có một dự án như vậy không dễ dàng, nó phải được sự ủng hộ đồng thuận của đối tác chủ thể chế tạo công nghệ. Hơn nữa, thực chất đó phải là một dự án hợp tác song phương cấp quốc gia hoặc có thể là hợp tác đa phương thông qua sự phối hợp ủng hộ và kiểm soát của IAEA.Lời cảm ơn: Các tác giả cảm ơn sự hỗ trợ của Quỹ Hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ.

VÕVĂNTHUẬN-ViệnNănglượngnguyêntửViệtNam

NGUYỄNHOÀNG-ViệnPháttriểnCôngnghệ,TruyềnthôngvàHỗtrợ

Cộngđồng(IMC)

Page 26: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

24 Số 44 - Tháng 9/2015

VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI PHÓNG XẠ ĐIỆN HẠT NHÂN

Năng lượng hạt nhân hiện đang có khả năng cạnh tranh về kinh tế và môi trường so với các hình thức cung cấp năng lượng điện truyền thống điển khác như nhiệt điện, thủy điện... Sử dụng kết hợp với các dạng cung cấp năng lượng khác, năng lượng hạt nhân góp phần đảm bảo sự an toàn của nguồn cung cấp điện quốc gia. Ở nhiều nước, điện hạt nhân là một phần quan trọng của hệ thống năng lượng quốc gia. Chắc chắn rằng trong trung hạn và xa hơn nữa, năng lượng nhân sẽ là nguồn chủ yếu để thỏa mãn nhu cầu năng lượng của các nước đang phát triển. Khi hoạt động, các lò phản ứng hạt nhân sẽ sinh ra một lượng nhất định chất thải phóng xạ (CTPX). Tuy nhiên, khi so sánh toàn diện về kinh tế, công suất và sự phát thải: CTPX, phát thải bụi, phát thải khí CO2 từ các nhà máy điện hạt nhân (NM ĐHN) với các nhà máy thủy điện, nhiệt điện, điện gió, điện mặt trời…ta sẽ thấy điện hạt nhân có những ưu thế đáng kể. Chất thải vận hành NM ĐHN thường có hoạt độ phóng xạ thấp và trung bình và chiếm lượng lớn nhất trong số tất cả các CTPX sinh ra từ hoạt động ứng dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hòa bình.

Bản chất và lượng chất thải sinh ra từ NM ĐHN phụ thuộc vào loại lò phản ứng, tính năng thiết kế của lò, điều kiện hoạt động của lò và sự vẹn toàn của các thanh nhiên liệu, phụ thuộc vào chính sách và công nghệ QL CTPX của mỗi quốc gia. Chất thải phát sinh từ nhà máyđiệnhạtnhân. CTPX hoạt độ thấp và trung bình (LILW) trong vận hành NM ĐHN được sinh ra do các vật liệu bị nhiễm các hạt nhân phóng xạ được tạo ra do sự phân hạch và kích hoạt trong các lò phản ứng hoặc thoát ra từ bề mặt nhiên liệu. Các hạt

Page 27: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

25Số 44 - Tháng 9/2015

nhân phóng xạ được thoát ra và tập trung chủ yếu trong hệ thống nước làm mát lò phản ứng, và trong bể lưu trữ nhiên liệu đã qua sử dụng. Để giảm số lượng CTPX phải lưu giữ tạm thời và giảm thiểu chi phí chôn cất, cần phải thực hiện các biện pháp giảm thiểu chất thải sinh ra ngay từ nơi phát sinh.Tổng lượng CTPX mức thấp và trung bình (đã xử lý) thải ra từ hoạt động của một tổ máy 1000 MW sử dụng công nghệ lò nước nhẹ áp suất thường vào khoảng 45 – 50 m3/năm. Chấtthảilỏngvàchấtthảirắnướt. Tùy theo các dạng lò phản ứng mà dòng chất thải phát sinh sẽ khác nhau. Những dòng chất thải này khác nhau cả về thành phần, hoạt độ và số lượng. Lò phản ứng được làm mát bằng nước tạo ra nhiều chất thải lỏng phóng xạ hơn so với những lò được làm mát bằng khí. Khối lượng chất thải lỏng phát sinh tại các lò phản ứng nước sôi (BWRs) cao hơn đáng kể so với ở các lò phản ứng nước nhẹ áp lực (PWR). Hệ thống làm sạch của lò phản ứng nước nặng (HWRs) hoạt động chủ yếu với công nghệ trao đổi ion một lần (oncethrough) để tái chế nước nặng, hầu như không tạo ra các chất thải lỏng cô đặc. Chất thải lỏng phóng xạ được tạo ra bằng cách làm sạch các chất làm mát vòng sơ cấp (PWR, BWR), làm sạch các bể chứa nhiên liệu đã qua sử dụng, cống rãnh, nước rửa, nước rò rỉ. Chất thải lỏng phát sinh từ các hoạt động bảo trì đường ống và thiết bị nhà máy. Chất thải tảy xạ có thể bao gồm các chất cặn thải (sản phẩm ăn mòn) và một loạt các chất hữu cơ như axit oxalic và axit citric.

Chất thải rắn ướt là một loại chất thải bao gồm các loại nhựa trao đổi ion đã qua sử dụng, vật liệu lọc và cặn. Các hạt nhựa được sử dụng để làm sạch nước và rất phổ biến trong các NM ĐHN. Nhựa dạng bột thường ít được sử dụng trong lò PWR, nhưng lại thường được sử dụng trong BWRs trong các bộ lọc làm sạch nước. Trong nhiều lò BWRs, một nguồn lớn các chất thải nhựa dạng bột là “bột đánh bóng thiết bị ngưng tụ” được sử dụng để làm sạch thêm nước ngưng tụ sau khi cô đặc bay hơi chất thải lỏng. Bộ lọc sử dụng tại NM ĐHN để xử lý chất thải lỏng sinh ra một loại chất thải rắn ướt khác là bùn lọc. Các bộ trợ lọc – thường dùng diatomite hoặc sợi ce-lulo – và các chất thải cặn tách ra từ chất thải lỏng tạo thành các cặn lọc. Một số hệ thống lọc không đòi hỏi vật liệu trợ lọc do vậy cặn phát sinh từ các hệ thống này sẽ không chứa các vật liệu khác. Xử lý và ổn định hóa chất thảilỏng/rắn CTPX lỏng sinh ra tại NM ĐHN thường có chứa các thành phần phóng xạ hòa tan và không hòa tan (sản phẩm phân hạch và ăn mòn) và các chất không phóng xạ. Mục tiêu chung của các phương pháp xử lý CTPX là tảy xạ chất thải lỏng đến mức sao cho một lượng lớn nước thải đã qua tảy xạ có thể được thải ra môi trường hoặc tái sử dụng. Chất thải cô đặc thu được sau xử lý là đối tượng cần phải tiếp tục ổn định hóa, lưu giữ tạm thời và chôn cất. Hiện có bốn quy trình kỹ thuật chính có thể dùng cho xử lý chất thải lỏng là: bốc hơi; kết tủa hóa học/keo tụ; tách pha rắn; và trao đổi ion.

Page 28: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

26 Số 44 - Tháng 9/2015

Các kỹ thuật xử lý đã được thiết lập và sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, hiện nay các nước vẫn đang tiến hành nghiên cứu các công nghệ mới để cải thiện an toàn và kinh tế. Hiệu quả giảm khối lượng tốt nhất, đạt được bằng cách bốc hơi. Tùy thuộc vào các thành phần của chất thải lỏng và các loại thiết bị bay hơi, thông số tảy xạ đạt được là từ 104- 106.Bốc hơi là phương pháp đã được chứng minh để xử lý CTPX lỏng cho phép cả tảy xạ và giảm thể tích tốt. Bốc hơi là kỹ thuật tốt nhất cho chất thải có hàm lượng muối tương đối cao và thành phần hóa học không đồng nhất. Mặc dù nó có công nghệ vận hành khá đơn giản và đã được áp dụng thành công trong các ngành công nghiệp, ứng dụng của nó trong xử lý CTPX có thể làm phát sinh một số vấn đề như ăn mòn, đóng cặn, hoặc tạo bọt… các vấn đề như vậy có thể được giảm bằng các quy định thích hợp. Ví dụ:điều chỉnh giá trị pH để giảm ăn mòn; loại bỏ chất hữu cơ để giảm bọt hoặc cho thêm chất chống tạo bọt và hệ thống thiết bị bay hơi có thể được làm sạch bằng axit nitric để loại bỏ cặn bám và sự thụ động của vật liệu. Cho đến nay, giảm thể tích bằng cách bay hơi nước thải phóng xạ hoạt độ thấp luôn hiệu quả tới mức mà nước ngưng tụ có thể được thải ra môi trường mà không cần xử lý thêm. Phương pháp kết tủa hóa học dựa trên nguyên tắc kết tủa-keo tụ được sử dụng chủ yếu trong các NM ĐHN để xử lý các chất lỏng, nước thải với hoạt độ thấp, hàm lượng muối cao và có chứa bùn. Hiệu quả của phương pháp phụ thuộc vào thành phần hóa học và hoá phóng xạ của chất thải lỏng. Hầu hết các hạt nhân phóng xạ có thể được kết tủa, đồng kết tủa, hấp

phụ bởi các hợp chất không hòa tan như: hydroxit, cacbonat, photphat, và ferro-cyanides, và do đó được lấy ra khỏi dung dịch. Các kết tủa cũng kéo theo các huyền phù lơ lửng khỏi dung dịch bằng cách lôi cuốn vật lý. Tuy nhiên, sự phân tách rắn - lỏng không bao giờ được thực hiện hoàn toàn do nhiều lý do, và hệ số tảy xạ đạt được là tương đối thấp. Vì vậy, xử lý hóa học thường được sử dụng kết hợp với các phương pháp khác hiệu quả hơn. Sự phân tách pha rắn được thực hiện để loại bỏ huyền phù và các chất rắn lắng đọng khỏi các chất thải lỏng.Có một số loại thiết bị phân tách có sẵn dựa trên những dạng thiết bị đã được sử dụng trong các nhà máy xử lý nước thải thông thường. Phổ biến nhất là các bộ lọc, máy ly tâm, và cyclon thủy lực. Hầu như tất cả các cơ sở hạt nhân sử dụng các thiết bị cơ khí để tách các chất rắn lơ lửng từ dòng chất thải lỏng. Nói chung, thiết bị tách là cần thiết để loại bỏ các hạt cặn tránh không cho chúng tham gia vào quá trình xử lý chất thải lỏng tiếp theo, ví dụ: trao đổi ion, hoặc tái sử dụng nước. Các bộ lọc điển hình có thể loại bỏ các hạt xuống đến kích thước nhỏ hơn mi-cron, đặc biệt là khi sử dụng bộ lọc có lớp phủ sơ bộ (pre-coat). Khi một bộ lọc đã làm việc bão hòa, thì các bộ lọc sẽ được rửa ngược để thu được bùn lọc với khoảng 20-40% chất rắn, hoặc trong trường hợp có các hộp lọc (cartridge types) thì toàn bộ hộp lọc sẽ được thay thế. Phương pháp trao đổi ion có ứng dụng rộng rãi trong xử lý thải lỏng tại các NM ĐHN, ví dụ: làm sạch các vòng nước làm mát chính và phụ trong các lò phản ứng nước, xử lý nước của bể lưu trữ nhiên

Page 29: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

27Số 44 - Tháng 9/2015

liệu đã qua sử dụng, và đánh bóng, tảy rửa thiết bị ngưng tụ sau khi bay hơi. Để áp dụng phương pháp trao đổi ion, CTPX lỏng phải đáp ứng các tiêu chí sau: nồng độ các chất rắn lơ lửng thấp; có tổng hàm lượng muối thấp (thường ít hơn 1 gam/ lít); và các hạt nhân phóng xạ tồn tại ở dạng ion thích hợp. Trong hầu hết các hệ thống kỹ thuật, quy trình trao đổi ion được áp dụng bằng cách sử dụng một lớp cố định vật liệu trao đổi ion trong cột, nước thải chảy qua cột từ dưới lên hoặc từ trên xuống. Các vật liệu trao đổi ion có thể được tái sinh sau khi đã đạt độ bão hòa các nhóm hoạt động. Nhựa trao đổi ion đã qua sử dụng cũng được loại bỏ như rác thải đậm đặc để được hóa rắn. Vì vậy quá trình trao đổi ion đại diện cho một quá trình bán liên tục và đòi hỏi những nỗ lực lớn trong việc bảo trì như rửa băng tia nước, tái sinh, rửa, và nạp lại nhựa. Chất thải rắn ướt thu được từ xử lý chất thải lỏng vẫn phải được chuyển đổi thành các sản phẩm rắn để tạo sản phẩm bền và ổn định sau đó đưa đến chôn cất cuối cùng. Quá trình cố định hóa bao gồm việc chuyển đổi chất thải về dạng ổn định hóa học và vật lý làm giảm khả năng di chuyển hay phân tán của các hạt nhân phóng xạ trong quá trình lưu trữ, vận chuyển và chôn cất. Nếu có thể, ổn định hóa chất thải cũng phải đạt được việc giảm thể tích. Các phương pháp thường được áp dụng để ổn định hóa chất thải rắn ướt là: xi măng hóa, bitum hóa, hoặc kết hợp với polyme. Phương pháp xi măng hóa đã được áp dụng rộng rãi trong nhiều năm ở nhiều nước. Xi măng có một số lợi thế, đặc biệt

là chi phí thấp và việc vận hành quá trình tương đối đơn giản. Mật độ cao của xi măng cho phép khối chất thải tạo thành có mức độ tự che chắn lớn do đó làm giảm các yêu cầu đóng gói, che chắn bổ xung. Trong một số trường hợp, để đạt được một sản phẩm có chất lượng chấp nhận được, có thể cần phải bổ xung thêm các vật liệu khác như xỉ tro bay, zeolite, phụ gia đông cứng…

Hình 1: Sơ đồ hệ thống xi măng hóa Bitum hóa cũng được sử dụng để đóng rắn các chất thải rắn ướt. Bitum hóa là một quá trình nóng cho phép các dòng ướt được sấy trước khi cố định hóa. Điều này làm giảm đáng kể khối lượng chất thải phải lưu giữ và chôn cất và do vậy làm giảm chi phí. Tuy nhiên, bitum hóa có khả năng gây cháy và đòi hỏi biện pháp phòng ngừa đặc biệt để ngăn chặn hỏa hoạn. Bi-tum hóa đã ngày càng được chấp nhận và sử dụng cho ổn định hóa CTPX tại các NM ĐHN ở Mỹ, Nhật Bản, Thụy Điển, Nga, Thụy Sĩ, và các nước khác. Sự ổn định các chất thải rắn ướt trong nhựa hoặc polyme là một quá trình tương đối mới so với xi măng hóa hoặc bitum hóa. Việc sử dụng các polyme như polyester, vinylester, hoặc nhựa epoxy thường được dùng khi xi măng hoặc bitum

1. Silo xi măng 2. Thùng chuẩn bị xi măng 3. Máy trộn xi măng 4. Contener beton 5. Thùng nước thải phóng xạ 6. Thùng chứa bùn thải 7. Bơm bùn

Page 30: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

28 Số 44 - Tháng 9/2015

không thỏa mãn về mặt kỹ thuật. Polyme thì đắt hơn và nhà máy tương đối phức tạp. Polyme có những lợi thế trong việc chống rò rỉ cho các hạt nhân phóng xạ và nó thường trơ về mặt hóa học. Gần đây, các cụm thiết bị di động để ổn định hóa CTPX đang được quan tâm sử dụng tại Hoa Kỳ, Cộng hòa Liên bang Đức và Pháp. Điều này cho phép tiết kiệm chi phí vốn cho những nơi mà lượng chất thải sinh ra ít. Khíthảivàcácsolkhíphóngxạ Trong hoạt động bình thường của NM ĐHN, một số CTPX được tạo ra trong không khí ở dạng hạt hoặc dạng sương. Sol khí phóng xạ có thể được tạo ra với các kích cỡ hạt khác nhau trong một khoảng rộng ở dạng lỏng hoặc rắn, và có thể kết hợp với sol khí không phóng xạ. Các hạt nhân phóng xạ dể bay hơi, tạo thành CTPX dạng khí được tạo ra trong quá trình hoạt động bình thường của CTPX là halogen, khí hiếm, tritium, và carbon-14. Thành phần và số lượng phóng xạ có trong các dòng thải khác nhau trong không khí chủ yếu phụ thuộc vào loại lò phản ứng và các con đường phát thải.Tất cả các luồng thải khí tại CTPX được xử lý trước khi thải vào khí quyển để loại bỏ các thành phần phóng xạ khỏi luồng khí thải. Xửlýchấtthảidạngkhí Đầu tiên, khí thải được hệ thống thông gió thổi qua bộ lọc để loại bỏ các hạt có phóng xạ trước khi thải qua ống khói vào khí quyển. Thông gió và hệ thống làm sạch không khí thường sử dụng các bộ lọc thô và bộ lọc không khí hiệu quả cao (HEPA). I-ốt phóng xạ thường được loại bỏ bằng các thiết bị lọc có than đã được

tẩm hóa chất. Vì các loại khí phóng xạ trơ được sinh từ các viên nhiên liệu với một lượng nhỏ và chủ yếu là có chu kỳ bán rã ngắn nên việc trì hoãn phát thải các khí này sẽ cho phép xảy ra các quá trình phân rã phóng xạ để làm giảm đáng kể lượng phát thải vào cho môi trường. Hai kỹ thuật trì hoãn được sử dụng là: lưu trữ trong các thùng chứa đặc biệt hoặc thổi qua lớp đệm than để trì hoãn phát thải. Để lưu trữ chờ phân hủy, khí hiếm và khí mang chúng đầu tiên được bơm vào bình chứa khí sau đó được niêm phong. Sau một thời gian lưu trữ từ 30 đến 60 ngày, khí trong các thùng chứa được thải ra môi trường khí quyển bằng hệ thống quạt thông gió. Nếu mức phát thải là chưa chấp nhận được thì thời gian lưu trữ sẽ được kéo dài. Lớp đệm làm chậm bao gồm một số thùng chứa chất đầy than để làm chậm sự di chuyển của khí hiếm trong dòng khí mang và cho phép sự phân rã phóng xạ có hiệu lực. Xửlývàổnđịnhhóacácchấtthảirắn Trong quá trình vận hành CTPX, các loại chất thải rắn khô có chứa chất phóng xạ được tạo ra gồm: các phần thải ra từ nhà lò phản ứng, bộ lọc hệ thống thông gió, tấm trải sàn, dụng cụ bị nhiễm bẩn, vv… Một nguồn chất thải rắn khác là giấy, nhựa, cao su, vải vụn, quần áo, kim loại, được sử dụng trong vận hành và bảo dưỡng CTPX. Tùy thuộc vào tính chất vật lý và các phương pháp xử lý, chất thải rắn khô thường được phân loại thành bốn loại chính: chất thải dễ cháy, không cháy, nén được và không nén được. Tuy nhiên, mỗi cơ sở thường có mức độ phân loại của riêng mình tùy theo điều kiện trang thiết bị hiện có.

Page 31: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

29Số 44 - Tháng 9/2015

Một trong những mục tiêu quan trọng trong việc xử lý chất thải rắn là giảm càng nhiều càng tốt thể tích chất thải cần phải lưu trữ và chôn cất. Không có một kỹ thuật duy nhất nào có thể xử lý thỏa đáng các chất thải này; thường phải sử dụng kết hợp các kỹ thuật xử lý khác nhau. Kỹ thuật cơ bản và phổ biến nhất được sử dụng là phương pháp nén ép. Phương pháp này làm giảm thể tích lưu trữ và chôn cất với yêu cầu chấp nhận được (từ 3-5 lần với máy ép thông thường hoặc từ 8 – 10 lần với máy nén áp lực cao). Kinh nghiệm cho thấy: từ 50 - 80% CTPX rắn sinh ra từ CTPX là chất thải đốt được. Đốt rác thải là sự tiến bộ đáng kể so với nén ép đơn giản. Phương pháp đốt có thể giảm thể tích và giảm khối lượng rất nhiều. Sản phẩm cuối cùng là dạng tro đồng nhất, có thể được đóng gói trong các thùng chứa để lưu trữ và chôn cất mà không cần ổn định hóa tiếp theo. Trong khi đốt chỉ thích hợp cho các chất thải dễ cháy, nó có lợi thế là có khả năng phá hủy các chất lỏng hữu cơ, ví dụ: các loại dầu, mỡ hoặc dung môi (thường rất khó xử lý bằng các phương pháp khác). Hiện nay, nhiều cơ sở đốt CTPX đã được lắp đặt tại các CTPX ở Mỹ, Nhật Bản, Canada và nhiều nước khác. Nhiều cơ sở thiêu đốt tiên tiến có thể đốt chất thải có hoạt độ tương đối cao được lắp đặt tại các cơ sở xử lý chất thải tập trung mà có thể tiếp nhận chất thải từ nhiều nhà máy trong nước và từ nước ngoài. Các cơ sở như vậy đang hoạt động tại Thụy Điển, Bỉ, Pháp…. Như một bước tiền xử lý cho nén ép hoặc đốt, việc cắt, băm nhỏ, và nghiền được sử dụng để làm giảm kích thước của chất thải riêng biệt. Giấy, nhựa, vải, các

tông, gỗ, kim loại và có thể cắt nhỏ thành từng miếng, trong khi vật liệu dễ vỡ như thủy tinh hoặc khối bê tông có thể được nghiền nát thành từng mảnh nhỏ. Những kỹ thuật này giúp làm giảm thể tích chất thải rắn.

Hình 2: Sơ đồ hệ thống đốt hai bậc Cáchướngnghiêncứumới Hầu hết các quá trình xử lý và ổn định hóa LILW hiện đã đạt đến một quy mô công nghiệp tiên tiến nhưng người ta vẫn mong muốn cải thiện hơn nữa các công nghệ này. Các chi phí dành cho việc xử lý CTPX ngày càng tăng đã khuyến khích áp dụng các phương pháp và kỹ thuật mới để giảm thiểu lượng chất thải. Một số ví dụ về những phát triển mới này bao gồm việc sử dụng các chất hấp phụ vô cơ, sử dụng các kỹ thuật màng cho xử lý chất thải lỏng; tách nước, sấy nhựa hạt và lọc bùn; đốt nhựa trao đổi ion; giặt khô vải bảo vệ để giảm bớt số lượng của hệ thống thoát nước giặt; sử dụng các thùng chứa có độ bền cao để đóng gói bùn lọc khô; thủy tinh hóa một số chất thải mức trung bình; và dùng máy nén cao áp để nén chất thải không thể đốt cháy.

Page 32: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

30 Số 44 - Tháng 9/2015

Có lẽ không phải tất cả những cải tiến mới sẽ được thực hiện rộng rãi trong các công nghệ quản lý chất thải, đặc biệt là ở các CTPX. Tuy nhiên, các nghiên cứu và phát triển phản ánh một thực tế là các ngành công nghiệp hạt nhân và người sử dụng rất cẩn thận trong việc quản lý an toàn và kinh tế các CTPX tại NM ĐHN, và những cải tiến trong công nghệ hiện có đang được xem xét. QuảnlýchấtthảiphóngxạchonhàmáyđiệnhạtnhânđầutiêncủaViệtNam. Chương trình phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam bắt đầu với dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 (2 tổ máy x 1000 MW, công nghệ lò WWER do Nga xây dựng) và Ninh Thuận 2 (2 tổ máy x 1000 MW, công nghệ lò nước nhẹ áp suất do Nhật Bản xây dựng) và dự kiến tổ máy đầu tiên sẽ phát điện vào năm 2020. Bên cạnh đó, theo Quy hoạch điện 7, đến năm 2030, Việt Nam sẽ có 8 tổ máy với tổng công suất dự kiến 10.500 MW. (tuy nhiên, trên thực tế kế hoạch nêu trên sẽ bị chậm lại một số năm). Với quy hoạch như trên thì trong thời gian tới chúng ta sẽ có 2 NM ĐHN đầu tiên với 2 công nghệ khác nhau từ 2 nước có chính sách QL CTPX khác nhau nên sẽ có rất nhiều vấn đề khó khăn cần giải quyết: Việc thứ nhất là cần phải xây dựng được chính sách QL CTPX riêng của Việt Nam để làm cơ sở cho việc triển khai xây dựng các văn bản pháp quy cụ thể liên quan đến QL CTPX và nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng, xây dựng bộ máy quản lý từ cấp quốc gia đến các tổ chức làm phát sinh CTPX, tổ chức trưc tiếp quản lý

CTPX, ban hành các chính sách đảm bảo kinh phí cho việc quản lý an toàn CTPX, tránh để lại hậu quả cho thế hệ mai sau. Việc thứ hai là công tác xây dựng cơ sở hạ tầng cho QL CTPX bao gồm: xây dựng năng lực cho cơ quan pháp quy (VARANS), xây dựng năng lực cho tổ chức hỗ trợ kỹ thuật, nghiên cứu R&D (VINATOM) và xây dựng năng lực cho tổ chức trực tiếp thực thi công tác QL CTPX (tổ chức QL CTPX quốc gia). Đào tạo đội ngũ cán bộ: cho tới hiện nay, chúng ta hầu chưa chưa có cán bộ được đào tạo cơ bản về quản lý, xử lý CTPX của NM ĐHN do vậy việc đào tạo cán bộ trẻ có đủ năng lực tham gia vào công tác QL CTPX là một điều vô cùng cấp thiết.Việc thứ ba: học tập kinh nghiệm của các nước đi trước, cần phải sớm xây dựng quy hoạch các khu chôn cất cuối cùng cho LILW và tham gia tìm hiểu về giải pháp chôn cất chất thải hoạt độ cao và nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng.

TS.NguyễnBáTiếnViệnCôngnghệxạhiếm,VINATOM

Page 33: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

31Số 44 - Tháng 9/2015

KHAI THÁC URANIUM Ở MỸ

Uranium ở Mỹ được sử dụng trước hết cho điện hạt nhân; tuy nhiên, khai thác uranium bắt nguồn từ khai thác khoáng vật có chứa uranium từ năm 1898 như khai thác vật liệu sa thạch ở cao nguyên Colorado và Utah, để cho sản xuất vanadium. Trong những năm 1950, Mỹ cho phép khai thác uranium rộng lớn, còn được trợ cấp và vì nhu cầu toàn cầu tăng vọt bởi các chương trình vũ khí hạt nhân. Xu hướng này kéo dài mãi đầu những năm 1980, khi có sự thay đổi hoàn cảnh địa chính trị cũng như là mối lo sợ an toàn, môi trường và kinh tế về các nhà máy điện hạt nhân thì nhu cầu giảm đi. Sản lượng đỉnh điểm đạt được 16.800 tấn uranium từ khai thác trên 250 mỏ trong năm 1980. Trong 4 năm sau sản lượng giảm xuống còn 5.700 tấn, chỉ còn 50 mỏ hoạt động, và dẫn đến tiếp tục giảm. Vào năm 2003 chỉ còn hai mỏ nhỏ hoạt động, khai thác đạt dưới 1.000 tấn, hoặc chỉ khoảng 5%

lượng uranium mà các nhà máy điện hạt nhân ở Mỹ tiêu thụ. Hiện tại chỉ vài công ty tiến hành khai thác với qui mô tương đối nhỏ, nhưng có nhiều công ty đang thăm dò uranium, thường là tại các địa điểm đã từng khai thác trong những năm 1950 - 1980. Nhữngpháttriểnmớiđây Mỹ xếp thứ 9 thế giới về nguồn tài nguyên uranium đã được phát hiện với 207.400 tấn, sau Australia, Kazakhstan, Canada, Nga, Nam Phi, Namibia, Brazil và Niger. Sự hồi sinh hạt nhân toàn cầu đã khiến thúc đẩy thăm dò và có kế hoạch mở lại các mỏ cũ. Các dự án thăm dò tăng

Page 34: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

32 Số 44 - Tháng 9/2015

về số lượng và phạm vi và có các mỏ đang hoạt động ở Wyoming, New Mexico, Ari-zona, Nam Utah, Colorado và Texas.

Hình1.PhânbốcácmỏuraniumởMỹ Trong những năm qua Mỹ liên tục gia tăng sản lượng uranium trong nước, đứng thứ 8 trong các nước khai thác urani-um hàng đầu thế giới trong năm 2014, khai thác được 1.919 tấn. Gia tăng sản lượng này khiến cho Mỹ được coi là cường quốc sản xuất và tiêu thụ điện hạt nhân lớn nhất thế giới. Phần lớn khai thác uranium ở Mỹ là từ bang Wyoming và New Mexico với tổng trữ lượng ước tính 167.000 tấn ở Wy-oming và 155.000 tấn ở New Mexico. Ari-zona, Utah Colorado, mỗi nơi có khoảng 50.000 tấn và Texas có khoảng 2.000 tấn uranium. SauđâylàmộtsốhoạtđộngkhaithácuraniumởMỹ Công ty Cameco có hai mỏ uranium ở Mỹ đang hoạt động, mỏ Smith Ranch-Highland ở châu thổ Powder River của Wyoming và mỏ Crow Butte ở Nebraska, cả hai mỏ này đều là mỏ khai thác bằng thu hồi chiết tách tại chỗ (in-situ recovery-ISR). Trong 2014, sản lương năm tại mỏ

Smith Ranch-Highland-mỏ có sản lượng lớn nhất Mỹ-là 2,1 triệu pounds U3O8; trong khi đó mỏ Crow Butte khai thác được 600,000 pounds U3O8.

Hình 2.Mỏ uranium ở châu thổ sôngPowderRiver

Công ty Uranium Resources Inc. kiểm soát khoảng 212.000 acres vùng mỏ có khoáng vật uranium ở Texas và New Mexico. Ở Texas, có các dự án Kingsville Dome và Rosita ; công ty có mỏ thứ 3 là mỏ Vasquez, mỏ này khai thác được 590.200 pound uranium từ 2003-2008 cho tới khi mỏ cạn kiệt. Uranium Resources cũng co 5 dự án thăm dò ở Nam Texas – Alta Mesa Este, Sejita Dome, Butler Ranch, Jack Pump và Nell. Ở New Mexico, công ty có các mỏ đa kim, gồm Churchrock/Mancos, Crownpoint, Nose Rock, Roca Honda, West Largo/Ambrosia Lake, Cebolleta (dự án Cibola) và Juan Tafoya (Sự án Cibola). Hai nhà máy chế biến của công ty ở King-sville Dome và các dự án Rosita đang chuẩn bị khởi động lại sản xuất khi thị trường uranium được phục hồi vững chắc; hai dự án có được nguồn nguyên liệu kết hợp trên 600.000 pounds với 400.000 tấn với hàm lượng bình quân 0,08 %. Trong 6/2015, Uranium Resources

Page 35: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

33Số 44 - Tháng 9/2015

thông báo là sẽ hợp nhất với công ty Ana-tolia Energy Ltd., công ty này mở rộng dự án lớn ở Texas, bao gồm hai nhà máy chế biến ISR với công suất 800.000 pounds/năm và hạ tầng cơ sở kèm theo. Cũng ở Texas có công ty Uranium Energy Corporation sở hữu mỏ Palangana hoạt động từ 2010, dự án ISR Burke Hol-low của công ty và nhà máy chế biến chạy đày tải Hobson. Trong tháng Năm, công ty nhận được giấy phép mở rộng mỏ ở Palan-gana và đạt được tiến bộ trong phát triển dự án Burke Hollow. Công ty cũng sở hữu vài hoạt động khác ở Texas, trong đó có dự án ISR Goliad, dự án Salvo và dự án Nichols và Longhorn. Energy Fuels công ty cung cấp ura-nium lớn thứ 2 ở Mỹ và chủ sở hữu nhà máy White Mesa, nhà máy duy nhất được cấp phép hoạt động chế biến uranium thông dụng ở Mỹ. Công ty có nhiều mỏ urani-um ở Mỹ như dự án Roca Honda ở New Mexico, Sheep Mountain ở Wyoming, dự án Wate ở Arizona và Henry Mountains, La Sal và Daneros, tất cả đều nằm ở bang Utah. Energy Fuels cũng mua lại công ty Uranerz và toàn bộ tài sản tại mỏ Nichols Ranch ISR và nhà máy ở Wyoming. Công ty tăng sản lượng tại mỏ Nichols Ranch trong tháng 7, đưa tổng sản lượng uranium thêm 25 %. Cũng ở Wyoming, công ty Uranium One có mỏ ISR Willow Creek, gồm cả nhà máy chế biến ISR trung tâm, xưởng ISR vệ tinh Christensen Ranch và các thân quặng uranium kèm theo. Sản xuất thương mại tại Willow Creek bắt đầu trong 2012 và công suất thiết kế hiện nay là 1,3 triệu pounds U3O8 mỗi năm.

Công ty Peninsula Energy có trụ sở ở Australia sở hữu các dự án Lance ở Wyoming. Các dự án Lance với nguồn tại nguyên hiện tại là 53,7 triệu pound U3O8 sẽ đi vào hoạt đông quí 4/2015. Peninsula hiện có hai hợp đồng bán hàng, cả hai đều có giá cao hơn giá uranium bán trao ngay. Hợp đồng đầu tiên có từ 2011 với một trong những công ty năng lượng lớn nhất ở Mỹ và một thỏa thuận dài hạn cung cấp 1.150.000 pounds trong 7 năm. Hợp đồng thứ 2 ký trong tháng 12/2014, cũng lại với một công ty điện lực lớn ở Mỹ, để cung cấp tới 912.500 pounds vào năm 2016 và tiếp tục cho tới 2024.

TrầnMinhHuânUraniumInvestingNetwork,September

7,2015

Page 36: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

34 Số 44 - Tháng 9/2015

TIN TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ

HỢP TÁC KINH DOANH GIỮA TRUNG TÂM ỨNG DỤNG KỸ THUẬT HẠT NHÂN TRONG CÔNG NGHIỆP VÀ CÔNG TY BUMI SAING Ngày 18/8/2015, đoàn đại diện Công ty BUMI SAING Sdn. Bhd đến từ Malaysia (viết tắt BUMI SAING), do ông Nor Hisham Mohd Nordin (Giám đốc) làm trưởng đoàn đã đến thăm và làm việc với Trung tâm Ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong Công nghiệp (CANTI). Tại đây, hai bên đã có những trao đổi chuyên môn và lĩnh vực thế mạnh mà cả hai bên đang thực hiện. Dựa trên nhu cầu và khả năng đó, Trung tâm Ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong công nghiệp và Công ty BUMI SA-ING Sdn. Bhd đã quyết định tham gia ký kết Thỏa thuận hợp tác giữa hai bên.

Đoàn BUMI SAING thăm quan phòng việc chuyên môn của CANTI

Đại diện cho CANTI, ông Nguyễn Hữu Quang – Giám đốc và đại diện cho BUMI SAING, ông Nor Hisham Mohd

Nordin – Giám đốc, đã tiến hành ký kết Thỏa thuận hợp tác trên các lĩnh vực như: đánh dấu hóa học/ đánh dấu phóng xạ trong khảo sát dầu mỏ, khảo sát quy trình bằng chất đánh dấu phóng xạ, phân tích thành phần hóa học trong nước, siêu âm từ xa hay mô phỏng dòng chảy bằng CFD… Dưới đây là một số hình ảnh tại buổi làm việc:

Đại diện hai bên ký Thỏa thuận hợp tác

Trao đổi Thỏa thuận đã ký

TrungtâmỨngdụngkỹthuậthạtnhântrongcôngnghiệp

Page 37: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

35Số 44 - Tháng 9/2015

HỘI THẢO KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ VÀ PHỔ BIẾN, ỨNG DỤNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ KHU VỰC PHÍA NAM Sáng ngày 04/9/2015, tại Khách sạn Sài Gòn - Đà Lạt, Cục Công tác phía Nam của Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Lâm Đồng tổ chức Hội thảo khoa học “Quản lý và phổ biến, ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ khu vực phía Nam”. Tham dự Hội thảo có ông Trần Việt Thanh - Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Trung tướng Triệu Xuân Hòa - Phó trưởng Ban chỉ đạo Tây nguyên, ông Phạm S - Phó chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng, ông Vũ Văn Khiêm - Cục trưởng Cục Công tác phía Nam, ông Lê Xuân Thám - Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Lâm Đồng và gần 200 đại biểu đến từ các sở, ngành, địa phương, các đơn vị sự nghiệp công lập, các tổ chức khoa học và công nghệ (KH&CN), các doanh nghiệp có hoạt động KH&CN, trong đó có 12 cán bộ Viện Nghiên cứu hạt nhân cũng tham dự hội thảo này. Phát biểu khai mạc Hội thảo, ông Trần Việt Thanh nhấn mạnh hoạt động KH&CN có vai trò quan trọng trong thúc đẩy nghiên cứu khoa học, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào thực tiễn, phục vụ đời sống xã hội nói chung và phát triển ngành, kinh tế - XH ở các địa phương nói riêng. Hội thảo đã cho thấy một bức tranh toàn cảnh về hoạt động KH&CN khu vực phía Nam giai đoạn 2011-2015 như thống kê chung hoạt động KH&CN, đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ độc lập cấp

Nhà nước, một số kết quả nghiên cứu của các nhiệm vụ KH&CN cấp thiết tại các địa phương và đã được ứng dụng hiệu quả trong thực tiễn như phòng trừ ruồi đục quả thanh long ở tỉnh Bình Thuận, dùng lưới chắn cá dữ tại vùng biển Quy Nhơn, sản xuất bong bóng nong mạch và stent phủ thuốc bằng công nghệ nano,… Cũng trong Hội thảo này, Sở KH&CN tỉnh Lâm Đồng đã nêu bật những kết quả, hiệu quả các nhiệm vụ KH&CN có sử dụng ngân sách nhà nước trong 10 năm qua tại Tỉnh nhà.

Đoàn chủ tịch điều khiển buổi thảo luận Qua kết quả thống kê của Cục Thông tin KH&CN Quốc gia thì hoạt động KH&CN và sử dụng ngân sách nhà nước ở phía Nam ít hơn phía Bắc, nguyên nhân có thể là do các nhà khoa học phía Nam gắn đề tài nghiên cứu với các doanh nghiệp vì thế kinh phí được doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu và ứng dụng ngay trong doanh nghiệp, bên cạnh đó nghiên cứu của các nhà khoa học - doanh nghiệp phía Nam chưa có nhiều ứng dụng trong thực tế, ngoài ra còn có nguyên nhân thuyết minh nhiệm vụ KH&CN chưa được chi tiết, cụ thể như phía Bắc. Hội thảo cũng đưa ra một số tồn tại khi triển khai Đề tài độc lập cấp Nhà nước và các nhiệm vụ KH&CN các cấp như: đề xuất bị trùng lặp, không cụ thể,

Page 38: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

36 Số 44 - Tháng 9/2015

chung chung, khó vận dụng vào thực tiễn. Nội dung, kết quả đăng ký thực hiện trong tình trạng vụn vặt, chưa xứng tầm quốc gia, chưa tạo ra sự đột phá trong KH&CN, chưa chú trọng vào nhiệm vụ của quốc gia, chưa có sự liên vùng, liên ngành hoặc không ít những thuyết minh viết rất hay nhưng thực hiện lại rất kém,... Kết quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tế sản xuất còn hạn chế, chưa đạt được mong muốn tạo bước chuyển kết quả từ nghiên cứu đến sản xuất. Tiến độ thực hiện bị kéo dài, chậm so với đề cương được phê duyệt từ 1 đến 40 tháng là nguyên nhân làm giảm tính thời sự, cấp thiết của đề tài; Nguyên nhân chủ quan các chủ nhiệm đề tài kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ khác, lực lượng nghiên cứu tại chỗ quá bận việc chuyên môn, cơ quan chủ trì chưa thật sự quyết liệt trong điều hành chỉ đạo; Nguyên nhân khách quan như việc cấp kinh phí chậm, mua bán vật tư, thiết bị phải thực hiện đấu thầu mua sắm phức tạp… Việc ứng dụng kết quả nghiên cứu của một số đề tài, dự án gặp nhiều khó khăn do cơ chế xin cấp phép còn nhiều bất cập; các Viện/ Trường chưa có sự kết hợp với địa phương, với doanh nghiệp vì thế kết quả nghiên cứu vẫn còn đang loanh quanh trong phòng thí nghiệm mà chưa được ứng dụng. Cơ chế quản lý tài chính, các định mức xây dựng từ những năm trước không còn phù hợp, chế độ thanh quyết toán còn nhiều thủ tục chứng từ bắt buộc, khuôn phép, thiếu sự linh hoạt,… Đây cũng chính là những ý kiến, góp ý, thảo luận của các đại biểu tham dự Hội thảo. Ông Nguyễn Nhị Điền - Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân (NCHN) cũng có một số chia sẻ với hội thảo, đó là khó

khăn trong việc đưa kết quả nghiên cứu vào ứng dụng thực tiễn, lấy ví dụ với Viện NCHN, tuy một số nhiệm vụ KH&CN do Viện thực hiện được đánh giá rất tốt, có ý nghĩa thực tiễn nhưng lại gặp khó khăn khi đưa vào đời sống xã hội, chẳng hạn như: nhiều loại đồng vị và dược chất phóng xạ dùng để chẩn đoán và điều trị bệnh, chế phẩm chitosan chiếu xạ phòng bệnh và tăng trọng cho gà, nano bạc để ngăn ngừa bệnh sưng rễ trên cây bắp cải,… khi đưa vào ứng dụng trong thực tế phải thử nghiệm lâm sàng trên bệnh nhân, trên động vật, xin cấp phép,… Các công việc này vượt quá khả năng của một cơ quan nghiên cứu, mặt khác, với các quy định hiện nay chỉ các doanh nghiệp mới được cấp phép sản xuất các loại thức ăn cho gia súc, gia cầm, ... Một thực tế khác là việc thực hiện các dự án sản xuất thử nghiệm hiện nay chỉ dừng lại ở các cơ quan nghiên cứu nên thực hiện xong dự án, kết quả tốt mà không chuyển giao cho cho doanh nghiệp được, vì vậy nên chăng cần hỗ trợ doanh nghiệp để chính họ là người thực hiện dự án với sự hỗ trợ về kỹ thuật của các nhà khoa học, các cơ sở nghiên cứu, ... Hội thảo đã gợi ý, đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động KH&CN trong thời gian tới. Nội dung phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của sản xuất và đời sống, nên có địa chỉ áp dụng kết quả cụ thể ngay khi kết thúc đề tài; Trong quá trình thực hiện cần tập trung nguồn lực cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ KH&CN đúng tiến độ để không làm lỡ mất tính thời sự của đề tài; Tăng cường công tác tuyên truyền các kết quả nghiên cứu rộng rãi để các doanh nghiệp, người dân được biết; Cần phối hợp chặt chẽ hơn giữa các Viện/

Page 39: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

37Số 44 - Tháng 9/2015

Trường và doanh nghiệp, địa phương; Nên tìm hiểu, xây dựng mô hình doanh nghiệp/ công ty trong Viện/ Trường để đưa các kết quả nghiên cứu ứng dụng vào cuộc sống,...

ViệnNghiêncứuhạtnhân

SEMINAR KHOA HỌC CUA CÁN BỘ NGHIÊN CỨU TRE

Với mục đích để tất cả các cán bộ nghiên cứu đặc biệt là các cán bộ trẻ thường xuyên có điều kiện trao đổi, thảo luận về những kết quả nghiên cứu mới nhất và học hỏi kinh nghiệm cũng như được chia sẻ các thông tin khoa học hữu ích từ các cán bộ có kinh nghiệm, Trung tâm Phân tích của Viện Công nghệ xạ hiếm đã tổ chức buổi seminar khoa học cho cán bộ trẻ là ThS. Nguyễn Nho Lân vừa tốt nghiệp chuyên ngành xử lý nước (bộ môn Công nghệ nước và nhiên liệu, Viện Năng lượng Nhiệt và Năng lượng nguyên tử, Đại học Năng lượng Matxcơva) . Chiều ngày 07 tháng 9 năm 2014, tại Phòng Hội thảo của Viện, Trung tâm Phân tích đã tổ chức seminar khoa học về “Quá trình học tập tại bộ môn Công nghệ nước và nhiên liệu, Viện Năng lượng Nhiệt và Năng lượng nguyên tử, Đại học Năng lượng Matxcơva” do ThS. Nguyễn Nho Lân báo cáo. Đến dự với buổi hội thảo có TS.Thân Văn Liên – Phó Viện trưởng Viện Công nghệ xạ hiếm, TS. Nguyễn Thị Kim Dung – Giám đốc Trung tâm Phân tích, TS. Nguyễn Bá Tiến – Giám đốc Trung tâm Xử lý chất thải phóng xạ & môi trường cùng toàn thể các cán bộ nghiên cứu thuộc Trung tâm Phân tích và các cán bộ khác có quan tâm.

Phát biểu khai mạc và chủ tọa buổi hội thảo, TS Nguyễn Thị Kim Dung nhấn mạnh việc đào tạo nâng cao trình độ cho các cán bộ khoa học đặc biệt là các cán bộ trẻ trong lĩnh vực Năng lượng nguyên tử là vô cùng quan trọng. Trên tinh thần đó, seminar lần này là cơ hội để các cá nhân, các nhóm trao đổi, thảo luận và cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình được đào tạo nâng cao trình độ nghiên cứu khoa học tại nước ngoài. Trong phần chính của buổi hội thảo, các cán bộ được nghe phần báo cáo chia sẻ kết quả học tập, kiến thức nghiên cúu khoa học thu được trong quá trình du học tại Nga của ThS.Nguyễn Nho Lân tại trường Đại học Năng lượng Matxcơva. Báo cáo được chia làm hai phần. Phần đầu ThS. Nguyễn Nho Lân giới thiệu chung về trường Đại học Năng lượng Matxcơva và chương trình đào tạo thạc sỹ anh đã theo học. Phần hai của báo cáo anh giới thiệu về chu trình nước vòng thứ cấp của nhà máy điện hạt nhân dùng lò VVER, về phân tích hiệu quả áp dụng chế độ hóa nước với việc sử dụng ethanolamine (nhà máy điện hạt nhân Balakovski) và morpholine (tổ máy 1 nhà máy điện hạt nhân Roxtov) thay cho hydrazine trong thành phần nước vòng hai. Các giáo sư người Nga đã thực hiện nghiên cứu từ năm 2005 cho đến nay. Chế độ hóa nước dùng morpholine đã làm giảm 60% hàm lượng sắt trong nước so với chế độ hóa nước dùng hydrazine. Còn chế độ hóa nước dùng etanolamine làm giảm được tới 74% hàm lượng sắt và 36% hàm lượng đồng trong nước so với chế độ hóa nước dùng hydrazine. Phần thảo luận sau báo cáo đã diễn ra cởi mở và cầu thị. Với nhiều ý kiến đóng góp xác đáng và

Page 40: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

38 Số 44 - Tháng 9/2015

tâm huyết của các cán bộ, đã giúp tác giả phát hiện thêm những góc cạnh mới độc đáo trên cơ sở kiến thức đã được học. Sau hơn 2 giờ làm việc nghiêm túc và hiệu quả, seminar đã khép lại thành công.Một số hình ảnh tại buổi hội thảo:

TS. Nguyên Thị Kim Dung phát biểu khai mạc hội thảo

Ths. Nguyên Nho Lân báo cáo tại hội thảo

ViệnCôngnghệxạhiếm

BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CAO ĐỨC PHÁT THĂM VÀ LÀM VIỆC

TẠI TRUNG TÂM CHIẾU XẠHÀ NỘI

Vào tháng 10 năm 2014, Bộ Nông nghiệp Mỹ đã cấp phép cho vải thiều của

Việt Nam được xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Mới đây, tháng 4/2015, Bộ Nông nghiệp Ô-xtrây-li-a cũng đã đồng ý nhập vải thiều từ Việt Nam. Như vậy, Việt Nam có thể xuất khẩu vải thiều tươi sang Mỹ và Ô-xtrây-li-a. Cả hai thị trường khó tính này đều đòi hỏi vải thiều phải qua kiểm dịch gắt gao là phương pháp chiếu xạ. Vào tháng 10 năm 2014, Bộ Nông nghiệp Mỹ đã cấp phép cho vải thiều của Việt Nam được xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Mới đây, tháng 4/2015, Bộ Nông nghiệp Ô-xtrây-li-a cũng đã đồng ý nhập vải thiều từ Việt Nam. Như vậy, Việt Nam có thể xuất khẩu vải thiều tươi sang Mỹ và Ô-xtrây-li-a. Cả hai thị trường khó tính này đều đòi hỏi vải thiều phải qua kiểm dịch gắt gao là phương pháp chiếu xạ.

Bộ trưởng Cao Đức Phát làm việc tại Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội

Đầu năm 2015, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã giao Cục Bảo vệ thực vật cùng một một số cơ quan liên quan phối hợp làm việc với Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội (Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ) có phương án nâng cấp Trung tâm này đáp ứng yêu cầu chiếu xạ cho hoa quả xuất khẩu. Sau đó, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đã trình dự án cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ chiếu xạ vải, nhãn

Page 41: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

39Số 44 - Tháng 9/2015

xuất khẩu và được Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) phê duyệt chủ trương vào tháng 4/2015. Ngày 5/7/2015, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT) Cao Đức Phát đã đi kiểm tra việc đầu tư, nâng cấp cơ sở chiếu xạ của Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội thuộc Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (Bộ KH&CN). Làm việc với Bộ trưởng, ông Cao Đình Thanh, Phó Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam cho biết: Từ trước đến nay, Trung tâm cũng đã từng thực hiện chiếu xạ một số loại nông sản (hành, tỏi,..), thuốc đông nam dược… cho một số doanh nghiệp có nhu cầu tại phía Bắc. Tuy nhiên, hoạt động này chỉ mang tính nhỏ lẻ, chưa đi vào chuyên nghiệp. Ngay sau khi Bộ NN-PTNT có ý kiến, Bộ KH&CN cũng đã có phương án chỉ đạo bổ sung nguồn kinh phí khoảng 25 tỉ đồng nhằm nâng cấp dây chuyền chiếu xạ, mua thiết bị cho kho lạnh. Với dây chuyền chiếu xạ hiện có, cần hoàn thiện thêm cơ sở vật chất đủ đáp ứng chiếu xạ cho hoa quả như phải xây dựng kho lạnh đầu vào và đầu ra với kinh phí khoảng 9-10 tỉ đồng nhưng hiện Trung tâm vẫn chưa được cấp kinh phí. Do đó, nhiều khả năng phải sang tháng 3/2016, việc nâng cấp Trung tâm mới có thể hoàn thành để mời chuyên gia Mỹ tới kiểm tra, thẩm định và cấp phép hoạt động. Trước khó khăn này, Bộ trưởng Cao Đức Phát cho biết, sẽ sớm bàn bạc với Lãnh đạo Bộ KH&CN nhằm nhanh chóng bổ sung nguồn kinh phí để hoàn thiện nâng cấp Trung tâm trong thời gian sớm nhất, đưa Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội vào vận hành nhằm phục vụ nhu cầu xuất

khẩu nông sản tại phía Bắc năm 2016.

Bộ trưởng đi thăm cơ sở chiếu xạ hoa quả đầu tiên tại miền Bắc

Bộ trưởng đi thăm quan khu vực sản xuất dược chất phóng xạ FDG

TrungtâmChiếuXạHàNội

TỔNG GIÁM ĐỐC IAEA NHẤN MẠNH ĐẾN DỰ PHÁT TRIỂN BỀN

VỮNG VÀ THỎA THUẬNHẠT NHÂN IRAN

Hỗ trợ việc thực hiện Các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc (SDGs) sẽ là một điểm nhấn quan trọng cho Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) trong những năm tới, Tổng Giám đốc Yukiya Amano đã phát biểu

Page 42: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

40 Số 44 - Tháng 9/2015

trong một cuộc họp Hội đồng Thống đốc của Cơ quan này tại Vienna vào hôm thứ Hai vừa rồi, tại đó ông cũng cung cấp một bản cập nhật việc áp dụng thanh sát hạt nhân ở Iran, Cộng hòa dân chủ Triều tiên và Syria. Liên quan đến một loạt các chủ đề khác, giám đốc IAEA cũng nói về vai trò của ngành năng lượng hạt nhân trong thời gian sắp diễn ra hội nghị thượng đỉnh khí hậu toàn cầu tại Paris vào cuối năm nay, bao gồm việc trình bày Báo cáo An ninh hạt nhân năm 2015 và khuyến khích sự tham gia tích cực của các nước thành viên trong Diễn đàn khoa học của IAEA, sẽ được tổ chức vào tuần tới, tập trung vào các ứng dụng công nghiệp của công nghệ hạt nhân và tầm quan trọng của nó đối với sự phát triển. Trong một cuộc họp kéo dài năm ngày, Hội đồng thống đốc gồm 35 thành viên còn thảo luận về các biện pháp nhằm tăng cường hợp tác quốc tế trong an toàn hạt nhân, an toàn bức xạ, an toàn vận chuyển và an toàn chất thải, và các hoạt động hợp tác kỹ thuật của IAEA cùng các chủ đề khác. Trong phát biểu của mình, ông Amano hoan nghênh việc nhận thức được tầm quan trọng của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển trong Chương trình nghị sự của Liên Hợp Quốc đến năm 2030 đối với phát triển bền vững, trong đó dự kiến sẽ được phê duyệt trong thời gian một vài tuần tới. Ông nói: “IAEA đã nhiều năm đóng góp to lớn cho sự phát triển bằng việc làm cho khoa học và công nghệ hạt nhân sẵn sàng ứng dụng trong các lĩnh vực như sản xuất lương thực thực phẩm, quản lý nguồn nước và nông nghiệp. Thành quả của chúng ta xứng đáng được công nhận

nhiều hơn”. Ông Amano nêu bật vai trò quan trọng của IAEA trong việc hỗ trợ các nước đáp ứng các mục tiêu SDG nhờ làm giảm một phần ba số ca tử vong liên quan đến ung thư trong 15 năm tới. “Tôi tin rằng đây là một mục tiêu có thể đạt được miễn là có những quan hệ đối tác mạnh mẽ giữa các tổ chức quốc tế liên quan”, ông nhấn mạnh rằng thông qua các chương trình hợp tác kỹ thuật và sức khỏe con người, IAEA “có một lịch sử lâu dài hỗ trợ các nước thành viên trong phát triển năng lực và cơ sở hạ tầng để kiểm soát bệnh ung thư”. Tổng Giám đốc IAEA đã gây được sự chú ý của các đại biểu đến báo cáo của mình về tai nạn nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi tại Nhật Bản vào năm 2011, một báo cáo được chuẩn bị sẵn sàng trước Đại Hội đồng của IAEA vào tuần tới. Ông cũng trình bày báo cáo thường niên thứ tư và cũng là báo cáo cuối cùng việc thực hiện Kế hoạch hành động của IAEA về an toàn hạt nhân, đã được thông qua sau vụ tai nạn. Trong khi thời hạn thực hiện Kế hoạch hành động sắp kết thúc, song những công việc đã khởi động trong khuôn khổ Kế hoạch hành động vẫn sẽ được tiếp tục. Về một vấn đề then chốt khác, ông nhấn mạnh rằng nhiều nước vẫn quan tâm đến năng lượng hạt nhân, nhất là do vai trò của nó trong việc chống biến đổi khí hậu. “Năng lượng hạt nhân là một trong những loại năng lượng phát thải khí carbon di-oxide thấp nhất trong số các nguồn năng lượng, khi xem xét khí thải trong suốt toàn bộ vòng đời”, ông Amano cho biết. Chuyển sang công tác thanh sát hạt

Page 43: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

41Số 44 - Tháng 9/2015

nhân, ông Amano đã bày tỏ sự lo ngại về chương trình hạt nhân của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (CHDCND Triều Tiên) và thông báo rằng IAEA vẫn không thể tiến hành việc thẩm tra tại nước này và IAEA biết rất hạn chế về chương trình hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Sử dụng hình ảnh vệ tinh, IAEA đã quan sát được hoạt động cải tạo và xây dựng tại Yongbyon, mà dường như là phù hợp với tuyên bố của chính quốc gia này trong đó thể hiện ý muốn phát triển hơn nữa năng lực hạt nhân. “Tôi kêu gọi CHDCND Triều Tiên thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình, hợp tác ngay lập tức với IAEA để giải quyết tất cả các vấn đề còn tồn tại”, ông nói thêm. Ông Amano đã khẳng định rằng IAEA tiếp tục xác minh việc không chuyển hướng của vật liệu hạt nhân đã được Iran tuyên bố tuân theo Hiệp định thanh sát hạt nhân của Iran với IAEA. Song IAEA không đủ vị thế để cho ra đảm bảo đáng tin cậy rằng không có vật liệu hạt nhân và các hoạt động không khai báo ở Iran, và để có thể kết luận rằng tất cả các vật liệu hạt nhân ở Iran là nằm trong các hoạt động vì mục đích hòa bình. Ông lưu ý rằng Hội đồng thống đốc đã ủy quyền cho ông trong tháng Tám thực hiện việc kiểm tra và giám sát các cam kết liên quan đến hạt nhân của Iran theo Kế hoạch hành động toàn diện (JCPOA) đã được thỏa thuận bởi các nước ‘E3/EU + 3’ nước - bao gồm Trung Quốc, Pháp, Đức, Nga, Anh và Hoa Kỳ và Iran. Ông hoan nghênh thực tế rằng Iran sẽ thực hiện các Nghị định thư bổ sung cho Hiệp định thanh sát của mình với IAEA.

“Điều này sẽ tạo điều kiện cho IAEA dễ tiếp cận hơn thông tin và các địa điểm ở Iran”, ông nói. “Thực hiện Nghị định thư bổ sung là một điều kiện tiên quyết để IAEA có thể cung cấp, theo đúng quá trình, sự đảm bảo đáng tin cậy về việc không có vật liệu hạt nhân và các hoạt động không khai báo tại Iran”. NguyễnThịThuHà,dịchViệnNănglượngnguyêntửViệtNam

TRUNG QUỐC HƯỚNG TỚI CÁC LÒ PHẢN ỨNG ĐẦU TIÊN

Lò phản ứng hạt nhân AP1000 đầu tiên ở Trung Quốc, Sanmen1, được cho là sẽ bắt đầu vận hành thương mại vào tháng 9/2016, trong khi sự kỳ vọng được tập trung vào sự chấp thuận của Chính phủ đối với thiết kế đầu tiên của Trung Quốc CAP1400 vào cuối năm nay. Phát biểu tại Hội nghị hàng năm của Hiệp hội hạt nhân thế giới tại Luân Đôn vào tuần trước, chủ tịch Tập đoàn công nghệ năng lượng hạt nhân quốc gia Trung Quốc (SNPTC) cho biết, quá trình xây dựng trong nước đã được hoàn thành tại Sanmen. Quá trình lắp đặt thiết bị gần như đã xong. Các quá trình kiểm tra thử nghiệm thiết bị đang được tiến hành, và bài kiểm tra về khả năng rò rỉ có thể được tiến hành trong tháng này, quá trình kiểm tra nguội hy vọng sẽ bắt đầy vào cuối năm. Sanmen 1, được xây dựng ở tỉnh Chiết Giang, là một trong 4 lò AP1000 được thiết kế bởi Westinghouse hiện đang được xây dựng tại Trung Quốc. Vào tháng 3/2009 mẻ bê-tông đầu tiên được đổ tại

Page 44: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

42 Số 44 - Tháng 9/2015

vị trí xây dựng nhà máy này chính thức đánh dấu quá trình xây dựng, đối với tổ máy số Sanmen số 2 bắt đầu xây dựng vào tháng 11/2009. Quá trình xây dựng đối với 2 tổ máy tại Haiyang thuộc tỉnh Sơn Đông được bắt đầu lần lượt vào tháng 9/2009 và 7/2010. Ông Wang cho hay, quá trình phê chuẩn và kiểm tra đối với thiết kế CAP1400 của SNPTC – là thiết kế được phát triển dựa trên thiết kế AP1000, đang trong quá trình phát triển thuận lợi. Rất nhiều thiết kế bổ sung tăng cường đã được kết hợp để cải thiện hơn nữa các đặc điểm an toàn thụ động của lò phản ứng, kết hợp chặt chẽ các bài học đã được rút ra từ tai nạn Fukushima, bao gồm các hệ thống lưu thông và lọc không khí mới để đảm bảo tính toàn vẹn của tòa nhà lò dưới các điều kiện tại nạn nghiêm trọng. Ban an toàn hạt nhân quốc gia Trung Quốc (NNSA) đã hoàn thành quá trình đánh giá an toàn đối với thiết kế này. SNPTC hiện nay đang chờ quá trình phê chuẩn thiết kế CAP1400 từ Hội đồng nhà nước Trung Quốc, được kỳ vọng sẽ kết thúc vào cuối năm nay. Quá trình chuẩn bị địa điểm đang được tiến hành tại vị trí cách Haiyang 100km, và quá trình sản xuất tất cả thiết bị quan trọng cho lò phản ứng này cộng với các thiết bị thông thường khác như bình sinh hơi và tuabin cũng đã được tiến hành. Vào cuối năm 2015, Trung Quốc có tổng số 53 tổ máy bao gồm cả đang hoạt động và xây dựng. Và dự kiến đến cuối năm 2020 sẽ là 88 lò.

ĐoànMạnhLongdịch,ViệnNănglượngnguyêntửViệtNam

VỊ THẾ CUA ĐIỆN HẠT NHÂN TRONG NĂM 2015

Triển vọng và phạm vi của điện hạt nhân đang ngày càng được nâng cao trong năm 2015 nhằm cải thiện chất lượng sống của con người cũng như góp phần cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường. Hiện nay 438 lò phản ứng hạt nhân với tổng công suất 379.000 MW đang làm ra hơn 10% tổng lượng điện sử dụng trên toàn thế giới. Mỹ có nhiều nhà máy điện hạt nhân nhất, với 99 lò phản ứng làm ra gần 20% sản lượng điện của nước này. Pháp đứng thứ nhì, với 58 lò phản ứng, sản xuất 77% sản lượng điện. Trung Quốc có 27 lò phản ứng tạo ra gần 3% sản lượng điện. Vừa bước vào năm 2015, các nhà thống kê đã đưa ra một con số đầy ấn tượng. Đó là có những 70 lò phản ứng với tổng công suất gần 74 Gwe đang được xây dựng ở nhiều nước khác nhau trên thế giới. Con số trên phản ảnh sự biến chuyển vị thế của nguồn công nghệ điện hạt nhân trong mối tương quan với các nguồn điện năng khác trên thế giới. Điện hạt nhân đang dần khẳng định vị thế quan trọng của mình trong ngành năng lượng thế giới Vị thế của các loại điện năng chi phối bởi các mặt khác nhau, như tính kinh tế (giá thành tính cho một đơn vị điện năng), nguồn dự trữ (trữ lượng mỏ than, mỏ dầu khí, mỏ uranium, nguồn gió, nguồn nắng mặt trời ..), độ an toàn (an toàn sức khỏe, an toàn lao động, an toàn bức xạ và hạt nhân…) và sự tác hại đến môi trường trái đất (tác động xấu đến tài nguyên thiên nhiên, làm biến đổi khí hậu trái đất…). Thực tế, các nguồn năng lượng hóa

Page 45: Thông tin & Công nghệ Khoa học

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

43Số 44 - Tháng 9/2015

thạch ngày càng cạn kiệt, không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thu năng lượng của con người trong tương lai, cùng với những hạn chế mang tính pháp lý về phát thải khí nhà kính, do đốt nhiên liệu hóa thạch. Trong khi đó, các nguồn năng lượng tái tạo như gió, mặt trời chưa mang lại hiệu quả thực sự và đáp ứng được kỳ vọng. Vào thời điểm này, điện hạt nhân dường như là biện pháp tối ưu nhất đối với các quốc gia trên thế giới. Trước tiên, nhiên liệu của nhà máy điện hạt nhân là uranium – nhiên liệu cháy, nhưng vì năng lượng nguyên tử là năng lượng phát sinh do phản ứng phân hạch nên không cần oxy. Quan trọng hơn, điện hạt nhân không thải ra các chất gây ô nhiễm môi trường như các loại khí CO2, NOx, SOx.. Bên cạnh đó, lượng chất thải phóng xạ phát sinh trong nhà máy điện hạt nhân cũng không đáng kể. Một lợi thế khác của năng lượng hạt nhân là tuổi thọ của nhà máy điện hạt nhân kéo dài lên đến 50 năm. Nếu vận hành trong thời gian dài và sớm kết thúc thời gian hoàn vốn thiết bị, thì chi phí phát điện sẽ giảm. Hiện có đến 16 “quốc gia hạt nhân” trên thế giới đang đóng góp điện hạt nhân với tỷ lệ trên 1/4 (>25%) tổng sản lượng điện năng của đất nước. Trong đó, Pháp là quốc gia có sự đóng góp của điện hạt nhân đạt tỷ lệ lớn nhất, với tỷ lệ khoảng 3/4 tổng sản lượng điện quốc gia. Ở một số nước châu Âu khác như Bỉ, Cộng hòa Czech, Hungary, Slovakia, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Slovenia, Ukraina, Bungari và Phần Lan, và cả Hàn Quốc, tỷ lệ đó đạt trên 1/3. Đặc biệt, ở một số “quốc gia hạt nhân” có tiếng, tuy con số tỷ lệ đóng góp thấp chỉ khoảng 1/5, nhưng con số tuyệt

đối điện năng hạt nhân lại rất cao, đó là trường hợp của Hoa Kỳ, Anh, Tây Ban Nha và Liên bang Nga. Dự kiến, trong năm 2015, thế giới có 436 lò phản ứng, tăng 1 lò phản ứng so với năm 2014 Ngoài ra, 56 quốc gia đang sở hữu và vận hành khoảng 240 lò phản ứng nghiên cứu và hơn 180 lò phản ứng hạt nhân nhỏ và cơ động cung cấp năng lượng cho khoảng 150 tàu thủy và tàu ngầm. Tuy nhiên, không thể phủ nhận mối quan tâm của xã hội về xử lý chất thải và an toàn hạt nhân đang ngày càng gia tăng sau những vụ tai nạn nhà máy điện hạt nhân kinh hoàng như: Nhà máy Chernobyl năm 1986 hay nhà máy Fukushima năm 2011. Từ chỗ đứng thời gian đầu năm 2015, có thể nhận ra vị thế mới của ngành công nghệ điện hạt nhân và nhìn thấy bức tranh mới, trong đó các nhà máy điện hạt nhân đã mọc lên khắp cả năm châu trên quả địa cầu. Trong tương lai, điện hạt nhân có thể thực hiện phát triển kinh tế không có phát thải chất carbon độc hại. Điều đó phụ thuộc vào việc ngành công nghiệp điện hạt nhân có thể đạt được tiến bộ trên mặt kiểm soát chi phí vốn, trong khi phải giải quyết các mối quan tâm của xã hội đối với vấn đề an toàn hạt nhân và xử lý chất thải.

Sưutầm,ĐinhAnhTuấnNguồn:dienhatnhan.com.vn

Page 46: Thông tin & Công nghệ Khoa học

HỘI NGHỊ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN TOÀN QUỐC LẦN THỨ 11 NĂM 2015

TRIỂN LÃM THÀNH TỰU KINH TẾ XÃ HỘI 2015