thỰc hiỆn phÁp luẬt cÔng chỨngrepository.vnu.edu.vn/bitstream/vnu_123/3495/1/nguyễn...

28
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THANH HÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014

Upload: others

Post on 11-Feb-2020

14 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN THANH HÀ

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN THANH HÀ

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật

Mã số : 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hoàng Anh

HÀ NỘI - 2014

Lêi cam ®oan

T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn

cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ

trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy,

chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc

cña luËn v¨n ch­a tõng ®­îc ai c«ng bè trong bÊt

kú c«ng tr×nh nµo kh¸c.

T¸c gi¶ luËn v¨n

NguyÔn Thanh Hµ

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VỀ CÔNG

CHỨNG VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG

6

1.1. Pháp luật về công chứng 6

1.1.1. Khái quát sự hình thành, phát triển của pháp luật về công

chứng ở nước ta

6

1.1.2. Một số nội dung chính của Luật Công chứng số 82/2006/QH11 8

1.2. Thực hiện pháp luật công chứng 22

1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật công chứng 22

1.2.2. Hình thức thực hiện pháp luật công chứng 25

1.2.3. Nội dung thực hiện pháp luật công chứng 28

1.2.4. Vai trò thực hiện pháp luật công chứng 29

1.2.5. Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật công chứng 31

Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

36

2.1. Thực trạng việc thực hiện quy định về công chứng viên 37

2.1.1. Về tiêu chuẩn công chứng viên 39

2.1.2. Miễn đào tạo nghề và miễn tập sự hành nghề công chứng 46

2.2. Thực trạng việc thực hiện quy định về tổ chức hành nghề

công chứng

49

2.2.1. Phòng công chứng 49

2.2.2. Văn phòng công chứng 51

2.2.3. Quy hoạch tổ chức hành nghề công chứng 56

2.2.4. Nghĩa vụ của các tổ chức hành nghề công chứng 58

2.3. Thực trạng việc thực hiện quy định về thủ tục công chứng 64

2.3.1. Thủ tục chung về công chứng 64

2.3.2. Thủ tục công chứng một số loại giao dịch cụ thể 78

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN

PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG

82

3.1. Định hướng bảo đảm thực hiện pháp luật công chứng 82

3.1.1. Bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật 82

3.1.2. Bảo đảm khả thi của văn bản quy phạm pháp luật 82

3.1.3. Bảo đảm an toàn pháp lý 83

3.1.4. Thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp 84

3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật công chứng trên địa

bàn thành phố Hà Nội

84

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật liên quan đến công chứng viên, tổ chức

hành nghề công chứng, thủ tục công chứng

84

3.2.2. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật công chứng,

nâng cao ý thức pháp luật công chứng

109

3.2.3. Nâng cao năng lực và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước 112

3.2.4. Tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và

khen thưởng

114

KẾT LUẬN 117

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 119

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quốc hội khóa XI tại kỳ họp thứ 10 đã thông qua Luật Công chứng, có hiệu

lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2007. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc cụ

thể hóa nội dung về hoàn thiện thể chế công chứng ở nước ta được nêu trong Nghị

quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020. Đến nay, sau 07 năm thi hành Luật Công chứng, những kết

quả bước đầu đạt được đã khẳng định Luật đã thực sự đi vào cuộc sống, chủ trương

xã hội hóa hoạt động công chứng là hết sức đúng đắn, đội ngũ công chứng viên và

tổ chức hành nghề công chứng ở nước ta đã phát triển nhanh về số lượng và ngày

càng tăng cường về chất lượng. So với thời điểm giữa năm 2007 khi Luật Công

chứng bắt đầu có hiệu lực thi hành, Hà Nội có tổng số 341 công chứng viên đang

hành nghề, đứng đầu trong cả nước (68 công chứng viên tại 10 Phòng công chứng

và 273 công chứng viên tại 93 Văn phòng công chứng). Thông qua việc đảm bảo

tính an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch dân sự và kinh tế, hoạt động công

chứng đã góp phần quan trọng vào việc phòng ngừa các tranh chấp, khiếu nại trong

lĩnh vực đất đai, nhà ở, một lĩnh vực vốn phức tạp và tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn

đến tranh chấp, khiếu kiện. Chúng ta không thể phủ nhận công chứng là -lá chắn-

phòng ngừa hữu hiệu, đảm bảo an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, tiết

kiệm thời gian, chi phí cho xã hội, giảm thiểu -gánh nặng- pháp lý cho Tòa án

trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự.

Tuy nhiên qua 07 năm thi hành, Luật Công chứng cũng bộc lộ những bất

cập, hạn chế. Tiêu chuẩn công chứng viên quy định còn đơn giản; thời gian đào tạo

nghề ngắn, cơ sở đào tạo nghề chưa đáp ứng được yêu cầu; chưa quy định về

quyền, nghĩa vụ của công chứng viên cũng như người tập sự hành nghề công

chứng, đối tượng miễn đào tạo nghề, miễn tập sự hành nghề công chứng rộng nên

chất lượng công chứng viên được bổ nhiệm thấp, có nhiều sai sót khi công chứng

hợp đồng, giao dịch. Tiêu chuẩn thành lập Văn phòng công chứng chưa chặt chẽ;

quy hoạch ban hành chậm và thiếu cơ sở pháp lý; thiếu sự kiểm tra, thanh tra sau

khi cho phép thành lập tổ chức hành nghề công chứng; chưa có quy định về việc

chuyển đổi mô hình Văn phòng công chứng do một công chứng viên thành lập

sang mô hình văn phòng công chứng do 2 công chứng viên trở lên thành lập và

ngược lại; nghĩa vụ của các tổ chức hành nghề công chứng chưa chặt chẽ, đặc biệt

về việc thực hiện lưu trữ hồ sơ công chứng và mua bảo hiểm trách nhiệm nghề

nghiệp cho công chứng viên, chưa quy định việc chia sẻ và khai thác cơ sở dữ liệu

công chứng giữa tổ chức hành nghề công chứng và các cơ quan liên quan. Thủ tục

công chứng chưa cụ thể, chi tiết, chưa thuận tiện, chưa có sự phối hợp, liên thông

với các thủ tục hành chính khác liên quan, khiến người yêu cầu công chứng phải

mất nhiều thời gian, công sức; một số thủ tục công chứng chưa hợp lý, chưa rõ

ràng, thậm chí còn chồng chéo, mâu thuẫn với các quy định của pháp luật liên

quan, gây khó khăn, lúng túng cho công chứng viên khi hành nghề...

Tôi chọn đề tài "Thực hiện pháp luật công chứng trên địa bàn thành phố

Hà Nội" làm luận văn thạc sĩ của mình nhằm kiến nghị những giải pháp bảo đảm

thực hiện pháp luật về công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và trên

cả nước nói chung.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Từ trước tới nay, trong lĩnh vực công chứng, tuy là một chế định pháp luật

mới xuất hiện trong hệ thống pháp luật nước ta, nhưng đã có nhiều công trình, đề

tài nghiên cứu về lĩnh vực này. Trước khi Luật Công chứng số 82/2006/QH11

được ban hành, có thể kể đến các công trình, đề tài sau: Cơ sở lý luận và thực tiễn

xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động công chứng ở Việt Nam, Đề tài cấp

Bộ mã số 92-98-224 năm 1993 của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư

pháp; Công chứng nhà nước những vấn đề lý luận và thực tiễn ở nước ta, Luận văn

thạc sĩ của tác giả Trần Ngọc Nga; Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc

xác định phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản

công chứng ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ của tác giả Đặng Văn Khanh; Tổ

chức và hoạt động công chứng nhà nước ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ của

tác giả Dương Khánh; Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay, của tác giả Lê

Thị Phương Hoa; Thẩm quyền của Ủy ban nhân dân trong lĩnh vực thực hiện các

việc công chứng, luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thị Thúy; Hoàn thiện pháp luật về

công chứng, chứng thực ở Việt Nam hiện nay - lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc

sĩ của tác giả Tuấn Đạo Thanh; Nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng ở nước

ta trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Chí Thiện.

Từ khi Luật Công chứng số 82/2006/QH11 được Quốc hội thông qua, có

thể kể tới một số công trình, bài viết nghiên cứu về lĩnh vực công chứng sau:

Nghiên cứu pháp luật về công chứng một số nước trên thế giới nhằm góp phần xây

dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam

hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Tuấn Đạo Thanh năm 2008; Phân

cấp quản lý nhà nước về công chứng, chứng thực (Qua thực tiễn tại thành phố Hồ

Chí Minh, Luận văn thạc sĩ của tác giả Phan Hải Hồ năm 2008; Xã hội hóa công

chứng ở Việt Nam hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ

của tác giả Nguyễn Quang Minh năm 2009; Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam

hiện nay, thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Thị Mai

Trang năm 2011; Bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra, Bài viết của tác

giả Đỗ Văn Đại đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 14(199), tháng 7 năm

2011; Kiến nghị hoàn thiện Luật Công chứng, Bài viết của tác giả Lê Quốc Hùng

đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 1+2 (210+211), tháng 1 năm 2012;

Hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với văn phòng công chứng, Bài viết

của tác giả Phan Hải Hồ đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 14 (222), tháng 7

năm 2012…

Các đề tài, công trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu những vấn đề mang

tính tổng thể hoặc những khía cạnh, phạm vi cụ thể khác nhau của hoạt động công

chứng. Nhưng đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu về việc thực hiện

pháp luật về công chứng trên các phương diện công chứng viên, tổ chức hành nghề

công chứng và thủ tục công chứng, đặc biệt trong phạm vi một địa phương cụ thể:

Thành phố Hà Nội. Có thể khẳng định, đề tài Thực hiện pháp luật công chứng trên

địa bàn thành phố Hà Nội là đề tài đầu tiên nghiên cứu về khía cạnh này.

3. Mục đích của đề tài

Luận văn tổng hợp những kiến thức lý luận về thực hiện pháp luật về công

chứng; trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn việc thi hành Luật Công chứng trên địa bàn

thành phố Hà Nội để đánh giá những mặt được, chưa được của hoạt động công

chứng trên một số phương diện như: công chứng viên, tổ chức hành nghề công

chứng, thủ tục công chứng dưới góc độ lý luận nhà nước và pháp luật. Từ đó đưa

ra một số luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp

luật công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và trên cả nước nói

chung.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu

Những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật công

chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian qua, những giải pháp chủ yếu

để từng bước hoàn thiện pháp luật công chứng trong thời gian tới.

Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu và phân tích những tồn tại, bất

cập của pháp luật công chứng và thực hiện pháp luật về công chứng để đưa ra những

kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật công chứng trong thời gian tới.

- Về thời gian: Các tài liệu được thu thập trong giai đoạn từ năm 2007 đến

năm 2014.

5. Ý nghĩa khoa học và đóng góp của luận văn

Luận văn tập trung đánh giá toàn diện hoạt động công chứng trên địa bàn

thành phố Hà Nội, những mặt được và chưa được, những thiếu sót trong quy định

của pháp luật khiến cho việc thực thi Luật Công chứng khó khăn, gây lúng túng

cho các công chứng viên khi hành nghề cũng như người yêu cầu công chứng. Mặt

khác, luận văn đưa ra các giải pháp khoa học, tính khả thi cao để khắc phục những

thiếu sót đó, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng trên địa bàn thành

phố Hà Nội, mang lại nhiều tiện ích cho cá nhân, tổ chức khi tham gia các hợp

đồng, giao dịch dân sự, để công chứng thực sự là một công cụ hữu hiệu của nhà

nước trong việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật về dân sự.

6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật về công chứng và thực hiện

pháp luật về công chứng.

Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật công chứng trên địa bàn thành

phố Hà Nội.

Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật

công chứng.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG

VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG

1.1. PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG

1.1.1. Khái quát sự hình thành, phát triển của pháp luật về công chứng ở

nước ta

Hệ thống công chứng ở nước ta được thành lập kể từ khi Hội đồng Bộ

trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Nghị định số 45/HĐBT ngày 27 tháng 2 năm

1991 về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước. Việc ban hành Nghị định đã

đặt ra cơ sở pháp lý cần thiết cho các hoạt động công chứng là một chức năng nhà

nước rất cần thiết trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Tiếp đó, Chính phủ đã có thêm hai lần ban hành các nghị định về công

chứng đó là: Nghị định số 31/CP ngày 18 tháng 5 năm 1996 và Nghị định số

75/2000/NĐ-CP ngày 8 tháng 12 năm 2000 (sau đây gọi tắt là Nghị định số

75/2000/NĐ-CP). Các văn bản nêu trên là cơ sở pháp lý quan trọng góp phần cho

việc xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động công chứng, nghề công chứng ở

Việt Nam.

Trên cơ sở tổng kết 15 năm thi hành pháp luật về công chứng, kể từ khi ban

hành Nghị định số 45/HĐBT ngày 27 tháng 2 năm 1991 về tổ chức và hoạt động

công chứng Nhà nước, ngày 29/11/2006 Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 đã thông

qua Luật Công chứng số 82/2006/QH11, có hiệu lực thi hành kể từ ngày

01/7/2007, đây là một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao, điều

chỉnh một cách toàn diện và đồng bộ lĩnh vực công chứng nhằm khắc phục những

điểm hạn chế bất cập về mặt tổ chức, hoạt động và quản lý công chứng ở nước ta,

cụ thể hóa nội dung về hoàn thiện thể chế về công chứng ở nước ta trong Nghị

quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020.

Sau khi Luật Công chứng số 82/2006/QH11 được Quốc hội thông qua,

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp đã ban hành các văn bản quy phạm

pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Công chứng, cụ thể như

sau:

- Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008 quy định chi tiết và hướng

dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng.

- Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 quy định xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực tư pháp (sửa đổi, bổ sung các chế tài xử lý vi phạm hành

chính trong hoạt động công chứng).

- Nghị định số 04/2013/NĐ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ quy định

chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng (thay thế Nghị

định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008).

- Quyết định số 250/QĐ-TTg ngày 10/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ

phê duyệt Đề án -Xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công

chứng ở Việt Nam đến năm 2020-.

- Quyết định số 240/QĐ-TTg ngày 17/02/2011 của Thủ tướng Chính phủ

ban hành -Tiêu chí quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở Việt

Nam đến năm 2020-.

- Quyết định số 2104/QĐ-TTg ngày 29/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ

phê duyệt -Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm

2020-.

- Thông tư liên tịch số 91/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 17/10/2008 của Bộ

Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử

dụng phí công chứng.

- Thông tư số 11/2011/TT-BTP ngày 27/6/2011 của Bộ Tư pháp hướng dẫn

thực hiện một số nội dung về công chứng viên, tổ chức và hoạt động công chứng,

quản lý nhà nước về công chứng.

- Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 19/01/2012 của Bộ

Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử

dụng phí công chứng (thay thế Thông tư liên tịch số 91/2008/TTLT-BTC-BTP

ngày 17/10/2008).

- Thông tư số 11/2012/TT-BTP ngày 30/10/2012 của Bộ Tư pháp ban hành

Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng.

- Quyết định số 01/2008/QĐ-BTP ngày 20/02/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư

pháp ban hành một số mẫu giấy tờ dùng trong hoạt động công chứng.

Sau 7 năm triển khai thi hành Luật Công chứng số 82/2006/QH11, ngày

20/6/2014, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật Công chứng số

53/2014/QH13, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2015 thay thế cho Luật Công chứng

số 82/2006/QH11 nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập về thể chế, tạo cơ sở

pháp lý cho bước phát triển mới của hoạt động công chứng theo chủ trương xã hội

hóa, nâng cao chất lượng và tính bền vững của hoạt động công chứng, từng bước

phát triển nghề công chứng Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế.

Ngoài ra, bên cạnh hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Công

chứng, các công chứng viên còn phải áp dụng nhiều văn bản quy phạm pháp luật

khác có liên quan đến công chứng: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật

đất đai, Luật nhà ở, Luật hôn nhân và gia đình, Luật cư trú, Luật doanh nghiệp,

Luật kinh doanh bất động sản...

1.1.2. Một số nội dung chính của Luật Công chứng số 82/2006/QH11

1.1.2.1. Khái niệm công chứng

Việc xác định khái niệm công chứng là vấn đề mấu chốt của hoạt động công

chứng. Khái niệm công chứng đã được nêu trong 3 nghị định của Chính phủ về

công chứng: Nghị định số 45/HĐBT ngày 27 tháng 2 năm 1991, Nghị định số

31/CP ngày 18 tháng 5 năm 1996 và Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8 tháng

12 năm 2000. Việc thể hiện cụ thể khái niệm này có sự khác nhau, song có sự

giống nhau về cơ bản như sau: công chứng là việc chứng nhận tính xác thực, tính

hợp pháp của hợp đồng, giao dịch.

Kế thừa quy định của các nghị định nêu trên, Điều 2 của Luật Công chứng

số 82/2006/QH11 đưa ra khái niệm công chứng như sau: "Công chứng là việc công

chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác

(sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật

phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng" [39].

Hợp đồng, giao dịch có công chứng được coi là hình thức mang tính xác

thực cao nhất và thường được pháp luật quy định với các trường hợp sau: a) Đối

với các hợp đồng có tính chất phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp; b) Đối tượng của nó

là những tài sản mà Nhà nước cần phải quản lý, kiểm soát.

Từ khái niệm trên cho thấy, có hai loại hợp đồng, giao dịch được công

chứng. Loại thứ nhất là những hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định bắt buộc

phải công chứng. Quy định này phù hợp với quy định tại Điều 401 của Bộ luật Dân

sự:

1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn

bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp

đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.

2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được

thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký

hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.

Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình

thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác [36].

Loại thứ hai là những hợp đồng, giao dịch mà nhà nước không bắt buộc

phải công chứng nhưng cá nhân, tổ chức cảm thấy cần thiết nên tự nguyện yêu cầu

công chứng.

Nguyên nhân là do hợp đồng, giao dịch có công chứng sẽ bảo đảm an toàn

pháp lý cho các bên khi tham gia giao kết. Việc đảm bảo tính an toàn pháp lý được

thể hiện ở chỗ: công chứng viên xác nhận tính xác thực, tính hợp pháp của những

tình tiết trong nội dung hợp đồng, giao dịch, bảo đảm cân bằng quyền và lợi ích

hợp pháp của các bên ngay từ khi giao kết, kiểm tra năng lực hành vi, tính tự

nguyện, chữ ký của các chủ thể tham gia hợp đồng, giao dịch, kiểm tra nội dung và

mục đích của hợp đồng, giao dịch có vi phạm điều cấm của pháp luật, có trái đạo

đức hay không, đối tượng hợp đồng, giao dịch là có thật hay giả mạo, hình thức

của hợp đồng, giao dịch có phù hợp với quy định của pháp luật không. Trong

trường hợp nếu có tranh chấp xảy ra thì văn bản công chứng là chứng cứ tin cậy

nhất để các chủ thể tham gia hợp đồng, giao dịch tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của mình; đồng thời đây cũng là chứng cứ để Tòa án, các cơ quan có thẩm

quyền giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng.

Quy định này được cụ thể hóa tại Điều 6 của Luật Công chứng số

82/2006/QH11, quy định về giá trị pháp lý của văn bản công chứng:

1. Văn bản công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên

quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của

mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của

pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa

thuận khác.

2. Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự

kiện trong văn bản công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp

bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu [39].

Đây là vấn đề quan trọng, là lý do tồn tại của công chứng. Giá trị chứng cứ

không phải chứng minh của văn bản công chứng đã được quy định tại điểm c

khoản 1 Điều 80 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004: "c) Những tình tiết, sự kiện

đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp" [35].

Cơ sở thực tiễn của việc quy định này là: Các tình tiết, sự kiện về thời gian,

địa điểm xác lập hợp đồng, giao dịch, năng lực hành vi dân sự, sự tự nguyện của

chủ thể hợp đồng, giao dịch, nội dung trong hợp đồng, giao dịch, chữ ký của các

bên hợp đồng, giao dịch... là những tình tiết, sự kiện đã được công chứng viên nhìn

thấy trước mắt trong khi diễn ra việc ký kết hợp đồng và công chứng viên được

Nhà nước giao nhiệm vụ chứng nhận điều đó. Do đó, sau này các bên ký kết hợp

đồng không thể chối cãi theo một cách khác. Vì vậy, các tình tiết, sự kiện đó sẽ

được Tòa án mặc nhiên công nhận là có giá trị chứng cứ không phải chứng minh.

Tuy nhiên, quy định này không vi phạm nguyên tắc về quyền đánh giá chứng cứ

của Tòa án trong tố tụng dân sự. Trong trường hợp có chứng cứ ngược lại để bác

bỏ tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng thì Tòa án vẫn có thể bác bỏ giá trị

chứng cứ của các tình tiết, sự kiện này.

Hiệu lực thi hành của văn bản công chứng được quy định trong Luật Công

chứng số 82/2006/QH11 được hiểu là trong trường hợp hợp đồng, giao dịch đã

được công chứng theo đúng quy định của pháp luật thì hợp đồng, giao dịch đó phải

được các bên liên quan thực hiện nghiêm túc; trong trường hợp bên có nghĩa vụ

không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước

có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.

Quy định về hiệu lực thi hành của văn bản công chứng không triệt tiêu

quyền khởi kiện của các bên vì trong trường hợp bên có căn cứ cho rằng văn bản

công chứng được thực hiện không đúng quy định của pháp luật thì vẫn có quyền

khởi kiện tại Tòa án để yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố văn bản công chứng

đó là vô hiệu.

1.1.2.2. Công chứng viên (từ Điều 13 đến Điều 22)

Công chứng viên là yếu tố trung tâm trong hoạt động công chứng, là chủ

thể chứng nhận hợp đồng, giao dịch, bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên. Công

chứng viên có vai trò rất quan trọng là không chỉ xác lập hợp đồng, giao dịch về

mặt hình thức phù hợp pháp luật mà còn phải giải thích về pháp luật và tư vấn cho

các bên về quyền và nghĩa vụ của họ; bảo đảm các quy định bắt buộc của pháp luật

phải được tuân thủ; tư vấn cho các bên về những sự lựa chọn mà họ có thể trong

trường hợp các bên còn chưa thống nhất, hay nói cách khác làm cho nội dung của

hợp đồng, giao dịch phù hợp theo quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Một

vấn đề rất quan trọng là công chứng viên làm cho các hợp đồng, giao dịch thực tế

đúng theo các quy định của pháp luật. Nó cũng đòi hỏi công chứng viên phải xác

định chính xác và khách quan là những người tham gia giao kết hợp đồng, giao

dịch hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, lừa dối.

Đảm bảo các yếu tố trên trong văn bản công chứng chính là việc công

chứng viên đảm bảo an toàn pháp lý cho hợp đồng, giao dịch, hạn chế tranh chấp,

đạt hiệu quả tích cực về mặt kinh tế - xã hội vì những tình tiết, sự kiện, sự thỏa

thuận của các bên tham gia giao kết là xác thực và hợp pháp, hay có thể nói công

chứng viên đã hoàn thành nhiệm vụ chính trị của một -thẩm phán phòng ngừa- là

phòng ngừa những giao dịch, thỏa thuận không phù hợp với quy định của Pháp

luật, tạo môi trường lành mạnh, trong sạch cho đời sống kinh tế, thương mại, dân

sự của xã hội.

Với mục tiêu xây dựng đội ngũ công chứng viên chuyên nghiệp, đủ về số

lượng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức

nghề nghiệp, Điều 13 Luật Công chứng số 82/2006/QH11 quy định:

1. Công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, trung thành với

Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt và

có đủ các tiêu chuẩn sau đây thì được xem xét, bổ nhiệm làm công

chứng viên:

a) Có bằng cử nhân luật;

b) Có thời gian công tác pháp luật từ năm năm trở lên tại các cơ

quan, tổ chức;

c) Có Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề công chứng;

d) Đã qua thời gian tập sự hành nghề công chứng;

đ) Có sức khỏe bảo đảm hành nghề công chứng.

2. Thời gian đào tạo nghề công chứng và tập sự hành nghề công

chứng được tính vào thời gian công tác pháp luật [39].

So với Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, công chứng viên được quy định

trong luật có tiêu chuẩn cao hơn: có bằng cử nhân luật, có thời gian công tác pháp

luật từ 05 năm trở lên, tham gia khóa đào tạo nghề 06 tháng và tập sự 12 tháng tại

tổ chức hành nghề công chứng. Bên cạnh việc quy định nhằm nâng cao chất lượng

đội ngũ công chứng viên, Luật Công chứng số 82/2006/QH11 còn có quy định

nhằm tăng nhanh số lượng đội ngũ công chứng viên thông qua các quy định về

miễn đào tạo nghề công chứng:

Điều 15. Người được miễn đào tạo nghề công chứng

1. Đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên; luật sư đã hành

nghề từ ba năm trở lên.

2. Giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sĩ luật.

3. Đã là thẩm tra viên cao cấp ngành tòa án, kiểm tra viên cao cấp

ngành kiểm sát; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng

viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật [39].

Đây là những người có trình độ cao, có kinh nghiệm chuyên môn về pháp

luật nói chung và một số người có trình độ, kinh nghiệm chuyên sâu trong lĩnh vực

dân sự, kinh tế, là những lĩnh vực gần với hoạt động chuyên môn. Ngoài ra, Luật

Công chứng số 82/2006/QH11 cũng quy định người được miễn đào tạo nghề đồng

thời cũng được miễn tập sự hành nghề công chứng:

Điều 17. Người được miễn tập sự hành nghề công chứng

Người được miễn đào tạo nghề công chứng quy định tại Điều 15

của Luật này được miễn tập sự hành nghề công chứng [39].

Người mà có đủ các tiêu chuẩn cần thiết nêu trên thì có thể nộp hồ sơ xin

bổ nhiệm công chứng viên theo quy định tại khoản 1 và khoản 2, Điều 18 Luật

Công chứng số 82/2006/QH11.

1.1.2.3. Tổ chức hành nghề công chứng (từ Điều 22 đến Điều 31)

Luật Công chứng số 82/2006/QH11 quy định hai hình thức tổ chức hành

nghề công chứng là Phòng công chứng và Văn phòng công chứng:

* Phòng công chứng

Phòng công chứng là hình thức tổ chức hành nghề công chứng do Nhà

nước thành lập. Việc thành lập Phòng công chứng do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

quyết định. Phòng công chứng là tổ chức dịch vụ công, có trụ sở, con dấu và tài

khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính của đơn vị sự nghiệp có

thu. Điều 24 Luật Công chứng số 82/2006/QH11 quy định:

1. Phòng công chứng do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định

thành lập.

2. Phòng công chứng là đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp, có

trụ sở, con dấu và tài khoản riêng.

Người đại diện theo pháp luật của Phòng công chứng là Trưởng

phòng. Trưởng Phòng công chứng phải là công chứng viên và do Chủ

tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.

Chính phủ quy định chế độ tài chính, con dấu của Phòng công

chứng.

3. Tên gọi của Phòng công chứng bao gồm số thứ tự thành lập và

tên của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Phòng công chứng

được thành lập [39].

* Văn phòng công chứng

Văn phòng công chứng: là hình thức tổ chức hành nghề công chứng do một

công chứng viên hoặc một số công chứng viên thành lập. Việc thành lập Văn

phòng công chứng phải theo một thủ tục chặt chẽ, cụ thể là phải được sự cho phép

của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và phải đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp nơi

đặt trụ sở. Văn phòng công chứng là tổ chức dịch vụ công, có trụ sở, con dấu và tài

khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng nguồn thu từ kinh

phí đóng góp của công chứng viên, phần để lại từ lệ phí công chứng, phí dịch vụ và

các nguồn thu hợp pháp khác. Điều 26 Luật Công chứng số 82/2006/QH11 quy

định:

1. Văn phòng công chứng do công chứng viên thành lập.

Văn phòng công chứng do một công chứng viên thành lập được

tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Văn phòng

công chứng do hai công chứng viên trở lên thành lập được tổ chức và

hoạt động theo loại hình công ty hợp danh.

Người đại diện theo pháp luật của Văn phòng công chứng là

Trưởng Văn phòng. Trưởng Văn phòng công chứng phải là công chứng

viên.

2. Văn phòng công chứng có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng,

hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng nguồn thu từ kinh phí

đóng góp của công chứng viên, phí công chứng, thù lao công chứng và

các nguồn thu hợp pháp khác.

Chính phủ quy định con dấu của Văn phòng công chứng.

3. Tên gọi của Văn phòng công chứng do công chứng viên lựa

chọn nhưng phải bao gồm cụm từ - Văn phòng công chứng, không được

trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của tổ chức hành nghề công chứng khác,

không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa,

đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc [39].

Việc quy định mô hình Văn phòng công chứng trong Luật Công chứng số

82/2006/QH11 là nhằm thực hiện chủ trương xã hội hóa công chứng của Đảng và

Nhà nước ta và cũng phù hợp với thông lệ quốc tế về công chứng. Vấn đề xã hội

hóa công chứng được thể hiện ở Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 2 tháng 1 năm

2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong

thời gian tới và được khẳng định lại một cách mạnh mẽ, rõ ràng hơn trong Nghị

quyết số 49/NQ-TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải

cách tư pháp.

* Nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng

Điều 32. Nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng

1. Niêm yết lịch làm việc, thủ tục công chứng, phí công chứng,

thù lao công chứng, nội quy tiếp người yêu cầu công chứng tại trụ sở của

tổ chức hành nghề công chứng.

2. Thực hiện chế độ làm việc theo ngày, giờ làm việc của cơ quan

hành chính nhà nước.

3. Chấp hành các quy định của pháp luật về lao động, thuế, tài

chính, thống kê.

4. Chấp hành các yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền

về việc báo cáo, kiểm tra, thanh tra.

5. Bồi thường thiệt hại do lỗi mà công chứng viên của tổ chức

hành nghề công chứng gây ra cho người yêu cầu công chứng.

6. Lưu trữ hồ sơ công chứng.

7. Văn phòng công chứng có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm

nghề nghiệp cho công chứng viên của tổ chức mình.

8. Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và các quy định

khác của pháp luật có liên quan [39].

Theo quy định, các tổ chức hành nghề công chứng có một số nghĩa vụ đáng

lưu ý sau:

Về thời gian làm việc (Khoản 2): không chỉ các Phòng công chứng là các

đơn vị do nhà nước thành lập mà các văn phòng công chứng do các công chứng

viên đủ điều kiện thành lập cũng phải áp dụng chế độ làm việc giống các cơ quan

hành chính nhà nước.

Bồi thường thiệt hại (Khoản 5): Việc rủi ro xảy ra là không thể tránh khỏi,

tuy nhiên, khi thiệt hại do lỗi mà công chứng viên gây ra thì tổ chức hành nghề

công chứng phải bồi thường thiệt hại.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Tư pháp (1987), Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 hướng dẫn

công tác công chứng nhà nước, Hà Nội.

2. Bộ Tư pháp (1996), Thông tư số 1411/TT.CC ngày 3/10/1996 hướng dẫn thực

hiện Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt

động công chứng nhà nước, Hà Nội.

3. Bộ Tư pháp (2001), Thông tư số 03/2001/TP-CC ngày 14/3/2001 hướng dẫn

thi hành Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2001 của Chính phủ về

công chứng, chứng thực, Hà Nội.

4. Bộ Tư pháp (2011), Thông tư số 11/2011/TT-BTP ngày 27/6/2011 hướng dẫn

thực hiện một số nội dung về công chứng viên, tổ chức và hoạt động công

chứng, quản lý nhà nước về công chứng, Hà Nội.

5. Bộ Tư pháp (2012), Thông tư số 11/2012/TT-BTP ngày 30/10/2012 ban hành

Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng, Hà Nội.

6. Bộ Tư pháp (2013), Báo cáo số 105/BC-BTP ngày 13/5/2013 tổng kết 05 năm

thi hành Luật Công chứng, Hà Nội.

7. Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính (2008), Thông tư liên tịch số 91/2008/TTLT-BTC-

BTP ngày 17/10/2008 hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử

dụng phí công chứng, Hà Nội.

8. Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính (2012), Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT-BTC-

BTP ngày 19/01/2012 hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử

dụng phí công chứng (thay thế Thông tư liên tịch số 91/2008/TTLT-BTC-BTP

ngày 17/10/2008), Hà Nội.

9. Bộ Tư pháp - Bộ Tài nguyên và Môi trường (2006), Thông tư liên tịch số

04/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày 13/6/2006 hướng dẫn việc công chứng,

chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của người sử dụng đất , Hà

Nội.

10. "Các khái niệm và nguyên tắc cơ bản trong bảo hiểm", http://webbaohiem.net/

ki%E1%BA%BFn-th%E1%BB%A9c-chung/1238-cac-khai-niem-va-nguyen- tac-

co-bn-trong-bo-him.html.

11. "Cần nâng cao địa vị pháp lý của công chứng viên" (2012), http://phaply.net.vn/

dien-dan/5-nam-thuc-hien-luat-cong-chung-ky-4can-nang-cao-dia-vi-phap- ly-

cua-cong-chung-vien.html, ngày 17/4/2012.

12. "Chấn chỉnh hoạt động công chứng ở Hà Nội" (2012), http://www.baomoi.com/

Chan-chinh-hoat-dong-cong-chung-o-Ha-Noi/58/8459143.epi, ngày 14/5/2012.

13. Chính phủ (1996), Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 về tổ chức và hoạt động

công chứng nhà nước, Hà Nội.

14. Chính phủ (2001), Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2001 về công

chứng, chứng thực, Hà Nội.

15. Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành

Luật Đất đai, Hà Nội.

16. Chính phủ (2006), Tờ trình số 40/TTr-XDPL của Chính phủ ngày 18/4/2006 về

dự án Luật Công chứng, Hà Nội.

17. Chính phủ (2006), Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao

dịch đảm bảo, Hà Nội.

18. Chính phủ (2008), Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008 quy định chi

tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng, Hà Nội.

19. Chính phủ (2009), Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 quy định xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp (sửa đổi, bổ sung các chế tài

xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng), Hà Nội.

20. Chính phủ (2010), Quyết định số 250/QĐ-TTg ngày 10/02/2010 của Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt Đề án xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức

hành nghề công chứng ở Việt Nam đến năm 2020, Hà Nội.

21. Chính phủ (2011), Quyết định số 240/QĐ-TTg ngày 17/02/2011 của Thủ tướng

Chính phủ ban hành Tiêu chí quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công

chứng ở Việt Nam đến năm 2020, Hà Nội.

22. Chính phủ (2012), Quyết định số 2104/QĐ-TTg ngày 29/12/2012 của Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề

công chứng đến năm 2020, Hà Nội.

23. Chính phủ (2013), Nghị định số 04/2013/NĐ-CP ngày 07/01/2013 quy định chi

tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng (thay thế Nghị

định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008), Hà Nội.

24. Đỗ Văn Đại (2011), "Bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra", Nghiên

cứu Lập pháp, 14(199), tr. 44-52.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về

chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

26. Phan Hải Hồ (2008), Phân cấp quản lý nhà nước về công chứng, chứng thực

(Qua thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh), Luận văn thạc sĩ Luật học,

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.

27. Phan Hải Hồ (2012), "Hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với văn

phòng công chứng", Nghiên cứu Lập pháp, 14(222), tr. 23-31.

28. Hoàng Quốc Hùng (2010), "Một số vấn đề cần rút kinh nghiệm sau đợt thanh

tra chuyên ngành trong lĩnh vực công chứng tại thành phố Hà Nội",

http://moj.gov.vn.

29. Lê Quốc Hùng (2012), "Kiến nghị hoàn thiện Luật Công chứng", Nghiên cứu

Lập pháp, 1+2(210+211), tr. 101-105.

30. Nguyễn Quang Minh (2009), Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay - một

số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.

31. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.

32. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.

33. Quốc hội (2000), Luật Kinh doanh bảo hiểm, Hà Nội.

34. Quốc hội (2003), Luật Đất đai, Hà Nội.

35. Quốc hội (2004), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.

36. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.

37. Quốc hội (2005), Luật Nhà ở, Hà Nội.

38. Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.

39. Quốc hội (2006), Luật Công chứng, Hà Nội.

40. Quốc hội (2006), Luật Cư trú, Hà Nội.

41. Quốc hội (2006), Luật Kinh doanh bất động sản, Hà Nội.

42. Quốc hội (2008), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội.

43. Quốc hội (2010), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo

hiểm, Hà Nội.

44. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

45. Quốc hội (2014), Luật Công chứng, Hà Nội.

46. Sở Tư pháp thành phố Hà Nội (2009), Báo cáo số 418/BC-STP ngày 18/9/2009

sơ kết 02 năm thực hiện Luật Công chứng, Hà Nội.

47. Sở Tư pháp thành phố Hà Nội (2010), Báo cáo số 209/BC-STP ngày 06/8/2010

về tình hình tổ chức và hoạt động của các tổ chức hành nghề Công chứng trên

địa bàn thành phố Hà Nội 6 tháng đầu năm 2010, Hà Nội.

48. Sở Tư pháp thành phố Hà Nội (2011), Báo cáo số 25/BC-STP ngày 27/7/2011

về công tác quản lý nhà nước về công chứng và tình hình tổ chức, hoạt động

của các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội 6 tháng

đầu năm 2011, Hà Nội.

49. Sở Tư pháp thành phố Hà Nội (2012), Báo cáo tổng kết 05 năm thi hành Luật

Công chứng, Hà Nội.

50. Sở Tư pháp thành phố Hà Nội (2013), Báo cáo kết quả công tác công chứng

năm 2013 và chương trình công tác năm 2014, Hà Nội.

51. Sở Tư pháp thành phố Hà Nội (2014), Báo cáo kết quả công tác công chứng 06

tháng đầu năm 2014 và chương trình công tác 06 tháng cuối năm 2014, Hà

Nội.

52. Tuấn Đạo Thanh (2008), Nghiên cứu pháp luật về công chứng một số nước

trên thế giới nhằm góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện

pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học,

Trường Đại học Luật Hà Nội.

53. Tuấn Đạo Thanh (2011), Nhập môn công chứng, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

54. Tuấn Đạo Thanh (2011), "Mấy bình luận về đề án cải cách thủ tục hành chính

trong lĩnh vực công chứng", Nghiên cứu Lập pháp, 11(196), tr. 36-44.

55. Phạm Thị Mai Trang (2011), Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay,

thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.

56. "Trưởng văn phòng công chứng Hà Nội bị đe dọa" (2012, http://dantri.com.vn/

c202/s202-603688/truong-van-phong-cong-chung-ha-noi-bi-de-doa.htm, ngày

05/6/2012.

57. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2014), Báo cáo tình hình thực hiện pháp

luật về công chứng, chứng thực trên địa bàn thành phố Hà Nội, Hà Nội.

58. Nguyễn Cửu Việt (2004), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

"Về sự việc Văn phòng công chứng Đống Đa (Hà Nội) đóng cửa hơn hai tháng:

Người góp vốn lắp camera, giữ dấu của Văn phòng công chứng" (2009),

http://www.baomoi.com/Ve-su-viec-VPCC-dong-da-ha-noi-dong-cua-hon-hai-thang-

Nguoi-gop-von-lap-camera-giu-dau-cua-VPCC/58/2854439.epi,