sống tận cùng với đất

174
1 BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH CỤC VĂN HOÁ CƠ SỞ ************** SỐNG TẬN CÙNG VỚI ĐẤT Tập Bút ký đạt giải và tham dự cuộc thi “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới” Hà Nội – 2010

Upload: longvanhien

Post on 29-Nov-2014

709 views

Category:

Education


7 download

DESCRIPTION

Tập Bút ký đạt giải và tham dự cuộc thi “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới” do Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỏ chức.

TRANSCRIPT

Page 1: Sống tận cùng với đất

1

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCHCỤC VĂN HOÁ CƠ SỞ

**************

SỐNG TẬN CÙNG VỚI ĐẤT

Tập Bút ký đạt giải và tham dự cuộc thi“Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới”

Hà Nội – 2010

Page 2: Sống tận cùng với đất

MỤC LỤC

1. Làng trước sóng – Trần Công Sử2. Ba Hạo – Phạm Huy Thưởng3. Sống tận cùng với đất – Vương Hữu Thái4. Vượt qua số phận – Phạm Văn Thúy5. Trên 12 tầng núi – Phùng Kim Trọng6. Gặp chủ tịch La Đà ký – Trần Kim Anh7. Sau ngày con trâu về bản – Hoàng Nghiệp8. Cánh đồng không ma – Trương Văn Định9. Gặp lại “Tam gia cầu treo”10. Qua mùa bão giông – Nguyễn Thị Thu Giang11. Nhà khoa học chân đất – Hoàng Giang Phú12. Một ngày ở khu bảo tồn sinh thái Đồng Tháp Mười – Lê Hồng Lâm

2

Page 3: Sống tận cùng với đất

Lời nói đầu

Ngày 06 tháng 02 năm 2009, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã có

Quyết định số 410/QĐ - BVHTTDL giao Cục Văn hóa cơ sở tổ chức cuộc thi

sáng tác văn học về đề tài Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam thời kỳ

đổi mới với chủ đề Nông thôn Việt Nam đổi mới và phát triển cho các thể loại

truyện, ký và kịch bản văn học. Cuộc thi đã nhận được sự phối hợp tích cực của

Hội Nông dân Việt Nam, Hội Nghệ sỹ sân khấu Việt Nam, Hội Nhà văn Việt

Nam, thu hút nhiều cây bút chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp trong cả

nước tham gia.

Đặc biệt với đặc trưng thể loại, những tác phẩm ký đã trực tiếp ghi chép,

phản ánh trực diện những vấn đề nóng hổi, thời sự của nông nghiệp, nông dân,

nông thôn Việt Nam trong quá trình đổi mới và phát triển, biểu dương người

nông dân Việt Nam khắc phục khó khăn, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám

làm, đột phá trong cách làm ăn mang lại hiệu quả kinh tế cao. Các tác phẩm phản

ánh đời sống nông nghiệp, nông dân, nông thôn đang có những trăn trở, những

biến đổi sâu sắc trong sự tiếp biến văn hóa, kỹ năng và năng lực hành động của

con người ở nông thôn hiện nay. Đồng thời lý giải những vấn đề bức xúc trong

suy nghĩ, việc làm đối với người nông dân đứng trước những tiêu cực, những

hành động trái với lợi ích của nhân dân, với sự phát triển chung; nêu được những

giải pháp và hướng đi đúng, khẳng định vai trò, tầm quan trọng của nông nghiệp,

nông dân và nông thôn Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước theo đúng tinh thần Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của Đảng ta.

Cục văn hóa cơ sở trân trọng giới thiệu tập bút ký Sống tận cùng với đất gồm

những tác phẩm dự thi đạt giải và những tác phẩm có chất lượng khá của cuộc thi

với đông đảo bạn đọc.

3

Page 4: Sống tận cùng với đất

Trong qúa trình biên tập, in ấn không tránh khỏi thiếu sót, mong độc giả

thông cảm và góp ý kiến xây dựng. Xin trân trọng cảm ơn.

Cục Văn hóa cơ sở

4

Page 5: Sống tận cùng với đất

Phạm Huy Thưởng

BA HẠO

1.

    Nhìn đám dưa hấu lên xanh mơn mởn, ngắm những trái dưa hấu lớn nhanh như thổi Đỗ Quý Hạo không khỏi mừng thầm. Chẳng còn bao nhiêu ngày nữa là Tết. Tết năm nay gia đình anh thắng vài chục cây vàng là cái chắc. Thật đáng đồng vốn đưa vào, đáng công sức bỏ ra.

      Nhưng rồi mọi sự xảy ra đâu có theo ý muốn con người. Đùng một cái 4 hecta dưa hấu đổ bệnh than. Cây lá cứ bám muội đen mà thui chết dần dần. Càng ra công phun thuốc cây càng lụi. Ai mách thứ thuốc gì là Hạo mua về phun ngay. Càng ra công cứu đám dưa hấu càng hỏng. Cho đến lúc không cứu được nữa Hạo bỏ 40 công dưa hấu không lấy được một trái bày bàn thờ Tết.

      Nỗi đau thua thiệt rồi cũng qua đi. Nhưng có một điều cứ uất nghẹn trong lòng người. Một câu hỏi cứ day dứt, lẩn quẩn trong đầu Đỗ Quý Hạo: “Vì sao người ta bệnh chữa thuốc thì khỏi mà cái cây bị bệnh thì khó chữa đến như vậy ?” Anh quyết định mò vào lĩnh vực chữa bệnh cho cây trồng. Đó là chuyện đã xảy ra 18 năm trước. Câu chuyện về một nông dân vùng tứ giác Long Xuyên đi tìm những lời giải của khoa học cây trồng.

      Đỗ Quý Hạo bắt đầu việc học bằng cách tìm đến các chuyên gia để học hỏi về cây trồng, trước hết là cây lúa. Anh tới trường Đại học Cần Thơ và các trường đại học trên thành phố Hồ Chí Minh. Có điều hay là trước nhiệt tình của một nông dân ham hiểu biết như thế giáo sư nào cũng tận tình chỉ bảo cho anh. Anh còn được đưa vào tận phòng thí nghiệm để xem những tiêu bản vi khuẩn gây bệnh. Khi biết là anh đã mua một kính hiển vi trị giá cả cây vàng, các giáo sư… không ngại chỉ dẫn cho anh cả cách làm một tiêu bản. Từ kính hiển vi khung trắng anh cải tiến thành kính hiển vi nền đen. Nhờ đó mà càng ngày Hạo càng hiểu các lọai cây trồng và bệnh trên các lọai cây. Dần dần trong nhà anh hình thành một phòng thí nghiệm và một tủ sách kỹ thuật nông nghiệp.

      Có phương tiện trong tay, Hạo tự tìm những lời giải cho những loài cây mà anh trồng ra. Nhìn cây dưa hấu lớn nhanh mỗi ngày. Hạo đặt câu hỏi “Trái dưa hấu phát triển mạnh nhất vào lúc nào trong ngày”. Và qua những thí nghiệm, Hạo biết rằng trái dưa hấu chỉ lớn vào ban đêm. Những phát hiện như vậy càng làm

5

Page 6: Sống tận cùng với đất

cho Hạo thêm hứng thú vì có được những hiểu biết mới. Và những kết quả trong công việc động viên Đỗ Quý Hạo. Đó là những trái dưa hấu nặng 15 kg. Là những lứa dưa An Tiêm 95 mà trên 50% sản lượng là những trái nặng trên 10kg.

Tôi được sinh ra trong một vùng nông thôn, nhà nghèo nên học đến hết lớp 7. Năm 1976 đến tuổi tôi nhập ngũ vào lữ đoàn 22 thiết giáp, quân đoàn 4. Năm 1980 tôi ra quân và tôi về thăm gia đình chị gái đang sống tại Kiên Giang. Ngắm nhìn những cánh đồng rộng mênh mông bát ngát tôi thầm ước mình được đem sức trẻ của mình ra cống hiến cho quê hương này. Sau đó tôi quyết định về quê đưa cha mẹ cùng gia đình ở Thái Bình vào đây lập nghiệp. ( Trích báo cáo của Ba Hạo ).

      Căn nhà gỗ ba gian lợp tôn, gió lùa bốn phía. Căn nhà dựng vững chắc bên bờ kinh. Bốn bức vách của căn nhà thu hút tôi. Nhà ta coi chữ hơn vàng. Coi tài hơn cả giàu sang bạc tiền. Trên nền gỗ nhôm nhoam dòng chữ mầu trắng nổi lên mồn một. Câu khác : Dẫu có bạc vàng trăm ngàn lượng. Không bằng kinh sử một vài pho. Một tuyên ngôn đầy thách thức. Tôi từng đọc câu này ở đâu nhỉ. Lâu rồi. Khi đó tôi chỉ nghĩ đó là thói ngông nghênh của một ông chủ phẫn chí. Ở đây thì khác. Tôi cười nghĩ bụng. Nói ngông thế thôi chứ, cha con anh Hạo này sắp đầy một bụng chữ rồi. Trên hai bên vách khác lại được bọc giấy trắng. Giấy đã ngả màu nhưng vẫn thấy rõ trên đó những công thức ADN, tên những loài vi khuẩn gây bệnh cây, những tên thuốc… Thấy tôi chăm chú nhìn những hình đó, Hạo giải thích:

      - Đó là hồi tôi mới học. Tính hay quên nên tôi viết lên đó để ghi nhớ.

      Trên đầu vách ngay bên cửa ra vào là mấy giòng chữ: “Đề phòng rầy nâu 25 - 30/12. Giải quyết đạo ôn trước trổ. Đề phòng nhện dé trước trổ”. Cẩm nang sản xuất cho lúa vụ này của anh ta. Lúa đã trổ bông. Bông như đuôi trâu, lá như lá mía. Những cây lúa trong 9 hecta ruộng của Hạo phát triển đúng như thế. Xuống tận ruộng xem xét, Thanh Nhanh, ông chủ hãng sản xuất phân bón Đại Nông đánh giá:

      - Lúa này chắc ăn 40 giạ một công.

      Tiền lời của chỗ lúa này là để nuôi hai đứa con đang học đại học trên thành phố Hồ Chí Minh. Tôi nhớ Hạo đã kể cho chúng tôi nghe như vậy. Để tiện cho các con có chỗ ăn học, tiện cho việc lên thủ phủ miền Nam tầm sư học đạo, Hạo đã mua một miếng đất và xây nhà ở Quận 2. Anh ta tính toán xuýt xoa tiết rẻ :

6

Page 7: Sống tận cùng với đất

      - Tiền làm nhà trên đó, khi đó có thể mua thêm 25 hecta đất ở đây. Tiếc lắm chứ, nhưng biết làm sao được. Nghe lời than thở của Hạo, tôi cười trong bụng. Cậu coi chữ quý hơn vàng mà. Anh ta ngưng nói, nhìn nét mặt tôi và hiểu điều tôi không nói ra miệng mà tiếp. Cha con tôi đang cần chữ mà. Miếng đất trên đó đã giúp cho cha con tôi tiếp thu bao nhiêu là kiến thức. Bà xã tôi cai quản cơ ngơi trên đó và chăm nom cho hai đứa con ăn học. Tôi cai quản dưới này với thằng con mới lấy vợ.

Anh ta tính vậy cũng phải, hai ông con lên thành phố, không quản lý chặt, ham học không bằng ham chơi, vô phúc lại dính vào chích hút thì có mà tàn mạng. Hạo lôi ở gần bàn ra mấy cái bọc cho chúng tôi coi. Anh ta nói như khoe:

      - Em cũng thử làm vi lượng cho lúa đó. Đây là Suynfat đồng. Anh đưa ra cái bọc có chất bột màu xanh nước biển và nói. Thằng này hàm lượng chỉ có 75 phần triệu nhưng thiếu nó là hạt lúa kém mẩy và rụng đầu bông. Anh ta chỉ mấy cái bọc kia mà nói những tên khoa học của mấy thứ muối kẽm, muối môlipđen, bôron…

      Chẳng biết từ lúc nào câu chuyện của chúng tôi xoay qua đề tài WTO và APEC. Có lẽ tại bức ảnh Hạo và ông chủ hãng phân bón Đại Nông chụp ở Hà Nội. Cả hai sách cặp Samsonite trên tay. Họ đứng trước phòng họp quốc tế có cái mái lượn sóng… Đó là tấm ảnh chụp khi hai người đi dự Đại hội toàn quốc của Hiệp hội Doanh nghiệp tại Hà Nội.

      - Ngày nay khi đất nước đã thực sự hội nhập quốc tế, cơ chế thị trường phát huy ở nhịp độ cao thì điều gì là quan trọng nhất đối với nông dân ta? Tôi thử nêu câu hỏi. Tôi nghĩ cả hai người mới đi dự một hội nghị lớn ở Hà Nội, được các đồng chí trung ương Đảng đến dự, gặp gỡ, nói chuyện hẳn là họ có những suy nghĩ thức thời.

      - Có nhiều vấn đề đặt ra song tôi nghĩ cái mà chúng ta phải phát huy mạnh hơn là làm ăn phải tính toán bài bản trước sau. Chỉ có vậy công việc mới thực sự đem lại hiệu quả. Hai người, Thanh Nhanh và Đỗ Qúy Hạo nói nhiều nữa nhưng tôi nghĩ đây là một mấu chốt. Và tôi được nghe câu chuyện trồng khoai lang vụ này của Đỗ Qúy Hạo.

      Như mọi năm, Hạo chồng tiền thuê mướn đất. Anh chồng 110 triệu đồng để thuê 19 hecta đất. Hạo nói:

      - Năm nay elnino tiếp tục tác hại nặng. Trời sẽ hạn, lại thêm bệnh vàng lùn xoắn lá bà con phải phá lúa. Tất nhiên thế vào đó sẽ là cây khoai lang. Tất cả sẽ

7

Page 8: Sống tận cùng với đất

đổ vào cây khoai lang. Diện tích khoai lang sẽ tăng. Giá khoai củ sẽ hạ. Đó là quy luật. Nhưng tôi vẫn trồng khoai. Vì khoai lang của tôi vẫn đang ăn khách. Có điều phải tính tóan cách trồng khác với mọi năm.

      Thế là anh trồng khoai sớm hơn. Để có khoai củ sớm, Hạo bỏ một vụ lúa trên đất thuê mướn. Hạo áp dụng phương pháp lên vồng để cho củ to hơn. Vậy là anh chủ động cả về thời vụ, chủng lọai và chất lượng sản phẩm. Anh bỏ khỏan tiền lời trồng lúa để thu  lời cây khoai. Một khoản lời chắc chắn, ổn định hơn. Đúng lúc này, cây lúa trên các cánh đồng mới trổ bông thì những vồng khoai trong 19 hecta đất của Hạo đã lên xanh um.

       ***

      Bộ loa của cái máy thu hình 21 incs treo trên cao bỗng rộ lên tiếng hò reo của trận đấu bóng đá. Màn hình đang chạy một chương trình truyền hình trực tiếp của VTV3. Tôi ngạc nhiên tại sao ở giữa cánh đồng xung quanh chỉ lúa là lúa này lại có nguồn điện. Hạo lại đoán đúng ý tôi mà nói :

      - Tôi chạy máy đèn. Năm giờ hết một lít xăng.

      Chi phí có tăng lên nhưng cha con anh ta đáng được hưởng những tiện nghi này. Doanh thu của 600 - 700 tấn khoai lang củ xuất khẩu và 4.000 đến 5.000 giạ lúa hàng năm gánh nổi cho gia đình anh những chi phí gia tăng ấy. Âu cũng là giữ gìn cho cuộc sống có chất lượng để sáng tạo nhiều hơn.

      Trầm ngâm một chút Hạo nói :

      - Khách hàng Nhật bản và Trung Quốc đã tới xem tận ruộng khoai nhà tôi. Họ vừa ý lắm. Nhưng khoai nhà tôi phải xuất qua một địa chỉ khác ở thành phố HCM. 1kg khoai hạng nhất tôi chỉ được có 1.800 đồng, nhưng họ xuất khẩu ăn tới 4 USD. Vậy nên tôi chỉ mong mở được một cái Website. Với trang web ấy mình sẽ có điều kiện tiếp cận trực tiếp với nhiều khách hàng hơn. Hy vọng mình sẽ làm ăn lớn hơn, vững vàng hơn.

 Cũng hay. www.khoailangvn . Một cái tên miền thú vị. Tôi chúc anh ta sớm đạt được ước mơ ấy.

2.

Trời mới mưa, đường xấu, không chạy được xe máy nên tôi phải đi vỏ máy vào trong đồng. Một cái lán rộng khoảng hơn trăm mét vuông hiện trên bờ kinh

8

Page 9: Sống tận cùng với đất

bên phải, gần như đối diện với khu nhà làm việc của trang trại. Ba cỗ máy kéo nước sơn đỏ chói rực rỡ dưới nắng. Những chiếc máy kéo Fiat của Ytali nổi tiếng là bền và khỏe. Ba máy này với phụ tùng cày sới kèm theo, rẻ cũng phải 600 triệu đồng. Từ trong lán mới dựng vang lên tiếng nói, ánh lửa hàn lấp lóa và tiếng máy mài xoe xóe cà trên bề mặt kim loại. Khung cảnh và âm thanh đó hiện trên một vùng lúa xanh ngăn ngắt trông thật bắt mắt, nghe thật vui tai.

- Đó là xưởng cơ khí. Anh chàng trẻ măng, người chạy vỏ máy lên tiếng.Vậy là đã ba năm tôi mới tới đây. Vẫn là điện tự phát. Tôi nghĩ bụng, bởi

quanh đây vẫn chưa hề thấy bóng dáng những cây cột và đường dây.Dưới lòng kinh, một nhóm người đang chôn một cây bạch đàn lớn mà ta dễ

nhận ra đó là những trụ đứng của một cây cầu. Đỗ Quý Hạo có mặt trong đám này. Hạo giơ tay vẫy chào tôi từ xa. So với lần gặp nhau ba năm trước Hạo mập hơn. Vì thế nhìn anh ta như thể lùn đi. Nước da cũng đen hơn. Thật tình trông anh ta lúc này giống một con gấu giữa đám người. Một con gấu đặc sệt nông dân với bộ óc tinh quái. Khó mà nhận ra Hạo trong hình ảnh một đại gia tay cầm cặp Samsonai chụp ảnh trước phòng họp Quốc Tế tại thủ đô Hà Nội năm nào.

Hạo đưa tôi vào trong lán cơ khí. Tới bên một bộ phận máy có cái thùng tròn cao với cơ cấu nối sau máy kéo. Hạo nói không dấu vẻ phô trương.

- Đây là máy thu hoạch khoai lang tôi mới sáng chế ra. Liền đó Hạo kể rất chi tiết về tính năng chuyên dụng của cỗ máy. Nào là

máy có bánh xe ngầm nhằm cắt đứt dây khoai và làm vỡ đất. Nào là máy có thùng hút một phần đất vụn để lộ ra nửa trên củ khoai v.v… Nhờ cái máy này Hạo giảm được non nửa số nhân công thu hoạch. Tỷ lệ và chất lượng khoai xuất khẩu đạt cao hơn nhờ vỏ khoai không còn bị chầy sát. Tôi nhẩm tính, cái máy này có thể đem lại cho anh ta hàng trăm triệu đồng tiền lời mỗi vụ. Chưa kể nhờ có máy thu hoạch tiến độ thu hoạch khẩn trương và chủ động hơn, đáp ứng kịp thời những nhu cầu cấp bách của khách hàng, từ đó tạo ra được ưu thế mới trong thị trường.

- Vậy thì từ đâu mà bạn có thiết kế của cái máy này ?- Thì tôi đi tham quan ở một số nơi, tham khảo thêm một số máy thu hoạch

khác rồi tự hình dung ra, thiết kế và chế tạo nó. Kỹ thuật gò, hàn, mài, lắp ráp làm tại xưởng nhà. Kỹ thuật cắt gọt thuê tại xưởng khác.

Dẫn tôi tới một cái máy khác nằm ở một góc lán, Hạo cho biết : - Đây là máy trồng khoai, vun luống và rải phân bón lót. Cũng là máy

chuyên dùng cho khoai lang do xưởng cơ khí của nhà làm. Máy này hoạt động rất ngon. Tôi đang theo dõi điều chỉnh cho hoàn thiện hơn. Sau đó có thể phổ biến cho bà con quanh vùng sử dụng.

Anh ta gãi gãi cái mũi một cách rất trẻ con. Động tác ấy ở con người to đùng khiến anh ta có cái vẻ rất dí dỏm. Hạo kể tiếp về những cái máy khác mà anh ta sẽ còn tiếp tục cho ra đời. Đó là những máy chuyên dùng trên cánh đồng

9

Page 10: Sống tận cùng với đất

khoai. Chẳng hạn như máy đào rãnh. Hạo mô tả bằng cách vẽ nguyệch ngoạc mô hình trên tờ giấy một mặt có chữ.

- Vì cánh đồng này tôi áp dụng kiểu tưới thấm. Bởi vậy giữa hai luống khoai phải có một mương nhỏ 40x40cm. Đào bằng tay cả hệ thống mương này rất tốn công. Bởi tổng chiều dài của mương trên cánh đồng lên tới 50km. Mà vụ nào cũng phải đào. Lên luống trồng khoai xong mới đào mương tưới. Đến khi thu hoạch lại lấp đi.

Còn phải có máy phun thuốc diệt cỏ mà lại là phun bên dưới lá khoai, Hạo nói tiếp. Cái máy này anh ta cũng đã có ý tưởng sẵn sàng. Chỉ còn thể hiện cụ thể và chế tạo.

Chúng tôi không dừng lại câu chuyện về xưởng cơ khí ở đây. Bởi vì rõ ràng không bao lâu nữa đây phải là một trung tâm cơ khí lớn hơn. Ba Hạo đang tính phải sắm một hai cái máy tiện. Cho dù là chỉ để phục vụ riêng cho nhu cầu chế tạo sửa chữa cho máy móc “ của nhà” cũng phải cần có một cỗ máy tiện. Chưa nói đến việc tại sao lại không mở rộng xưởng phục vụ cho nhu cầu sửa chữa cơ khí trên một vùng nông nghiệp nhiều ngàn hecta nơi đây. Có điều là mua sắm trong nam hoặc nhân thể ra bắc để lùng kiếm thêm một số thiết bị cơ khí khác nữa thì anh ta còn phải tính thêm.

Vậy là trên cánh đồng khoai 52 hecta này, Quý Hạo đã bước sang một cung cách làm ăn mới. Cơ giới hóa. Với ba cái máy kéo và ba dàn cày sới, Hạo đã chủ động hoàn toàn khâu làm đất. Cũng với sức máy, Hạo đã hoàn toàn cơ khí hóa khâu trồng trọt và thu hoạch. Đắp xong cái bờ vùng dài 10km bao quanh vùng khoai và hệ thống bơm tưới hoàn chỉnh từ nhiều năm nay Hạo đã chủ động hoàn toàn khâu tưới tiêu bằng máy… Chính cơ giới hóa đã giúp anh ta giảm trên 30% giá thành sản xuất. Cơ giới hóa còn cho anh ta khả năng rút ngắn thời gian trong từng khâu sản xuất. Điều đó cho Ba Hạo lợi thế linh hoạt phù hợp với yêu cầu biến động không ngừng của thị trường. Và do đó hơn lúc nào hết Ba Hạo đứng rất vững trên thị trường hiện đại đầy sóng gió.

Về trưa trời nắng đẹp. Cây cối được cơn mưa sớm rửa sạch tỏa ra sức sống sinh động. Đứng từ đầu bờ vùng nhìn suốt chiều dài 2km rưỡi tới đầu bờ vùng bên kia tôi đã thấy hút tầm nhìn. Chợt nhận ra một điều khiến tôi thắc mắc. Phải chăng vùng đất này đã thuộc về Đỗ Quý Hạo ? Mà vì một lý do nào đó Hạo chưa dám nhận là mình chủ sở hữu ? Tôi cũng biết anh ta đã có 10 hecta đất từ lâu. hỏi :

- Có phải vùng đất 52ha này là anh đang thuê của 14 chủ khác nhau ?Anh ta gật đầu xác nhận. Vậy sao ông dám bỏ ra 130 triệu đồng mà làm cái bờ vùng đồ sộ này ?

Tôi nhìn vào tận mắt anh ta và anh ta cũng nhìn tôi như vậy.- Tôi thuê đất với giá rất cao. Hạo nhấn mạnh hai chữ rất cao. Vừa nói anh

ta vừa khẽ lắc lắc cái đầu. Những 7 tấn lúa một hecta năm đó. Mà là thuê dài hạn.

10

Page 11: Sống tận cùng với đất

Tất nhiên là nếu anh thuê ruộng lẻ, từng vụ lẻ giá thuê có thể nhỉnh hơn một chút. Song thuê dài hạn thì giá tôi thuê là cao nhất rồi đó. Tôi dám chịu giá đó là bởi vì, nếu mình chọn được giống tốt, kỹ thuật trồng trọt của mình cho ra sản phẩm như ý, đón đúng thời điểm ăn giá, lại gặp được đúng khách hàng thì khoai lang của tôi cho thu nhập cao gấp ba lần lúa. Thu nhập ấy chịu được chi phí cho tôi thuê đất.

Hạo từng thuê đất nhiều nơi. Có năm anh thuê tới trên trăm hecta. Và cuối cùng anh chọn được vùng này là hợp với cây khoai lang hơn cả. Hạo cũng tìm được cách dừng chân ở đây cho cây khoai lang của mình. Dưới những hình thức cụ thể khác nhau sự tích tụ đang diễn ra ở đây. Quy luật vẫn luôn luôn là quy luật.

- Trong vùng khoai này anh Thưởng ạ, có một miếng đất đối với tôi là cực kỳ quý giá. Hạo chỉ tay cho tôi thấy miếng đất khoảng hơn một trăm mét vuông. Trên đó tôi chỉ thấy lèo tèo những dây khoai lang, lá xanh lá nâu xen lẫn. Không biết là đám khoai đó cực kỳ quý giá với anh ta ở chỗ nào.

Chừng như hiểu được ánh mắt của tôi, Hạo tiếp lời. Đó là miếng đát tàng trữ các loại giống khoai của tôi đó.

- Các loại giống khoai ? - Đúng. Trên thế giới có tất thảy 64 giống khoai lang khác nhau thì ở đây

Hạo có 32 giống. Trước đây vườn nhà chỉ có 22 giống. Mới đây, các anh ở Viện Lúa ĐBSCL đến thăm, Hạo đổi được thêm 10 giống nữa. Bỏ công bao năm trời sưu tầm đã để lại cho Hạo một kho tàng trên miếng đất đó. Tôi để ý khi nào khoái chí anh ta xưng tên. Khi thân mật anh ta bỏ đại từ “ Tôi”, xưng “ Em”.

Trong khoảng nửa tiếng đồng hồ tôi nghe Hạo say sưa kể về việc sưu tầm khoai lang giống trong nước.

Những người nông dân chân lấm, tay bùn trực tiếp lao động như chúng tôi đã biết tìm bệnh cây bằng kính hiển vi, bán sản phẩm qua mạng internet, giao dịch với khách hàng bằng e-mail, thanh toán bằng tài khoản ngân hàng, quản lý sản xuất bằng vi tính, giám sát sản xuất bằng viễn kính và camera. Trang trại còn đầu tư một thư viện có đến vài ngàn đầu sách để bổ trợ kiến thức sản xuất và kinh doanh. Một công viên nho nhỏ có vườn trồng cây lưu niệm mãi mãi ghi nhận bước chân của các nhà lãnh đạo, các nhà khoa học, các thương gia trong và ngoài nước đến thăm. (Trích báo cáo của Ba Hạo)

11

Page 12: Sống tận cùng với đất

Từ trong nhà bước ra, một vị khách nước da sẫm, tướng hơi to con tay cầm cặp samsonai. Vị khách này bước vào chiếc taxi và xe chạy nhanh ra hướng Hà Nội. Vị khách hơi nhoài người tới trước dặn người lái:

- Cậu chạy ra đường 5 đi Hải Phòng. Cậu cứ chạy tới. Khi nào cần dừng xe tôi kêu. Đi bao nhiêu cây số và mất bao nhiêu thời gian dừng xe chờ đợi cậu tính tiền tôi trả đầy đủ.

Qua cầu Chui Gia Lâm xe quẹo vào đường 5 và bon bon chạy tới. Khi đó hai bên đường 5 còn thông thoáng chứ không chật chội những xưởng máy, kho hàng và trụ sở doanh nghiệp như ngày nay. Vị khách chăm chăm nhìn qua cửa kinh sang những cánh đồng bên lộ xe đông đúc. Vị khách kêu:

- Dừng xe. Vị khách tự mở cửa xe ra ngoài. Ông ta đi thẳng xuống cánh đồng. Đến

đúng những mảnh ruộng trồng khoai lang. Ông ta đi sâu vào một ruộng khoai, rồi hai ruộng khoai. Mỗi nơi, ông ta ngồi xuống bên rãnh khoai xem xét. Cũng có ruộng ông ta bới gốc, rút ra con dao nhíp nhẹ cắt lấy một nhánh dây. Ông ta cuộn nhánh dây bỏ vào một cái túi nilon rồi trở lại đường quốc lộ lên xe giục lái xe đi tiếp. Cứ vậy ông ta dừng xe hàng chục lần. Mặc dù đã chùi giày cẩn thận mỗi khi về xe, vị khách nọ cũng đưa vào xe vô khối đất vụn. Xe tới Quán Toan địa đầu vào thành phố Hải Phòng vị khách kêu người lái xe chạy tới.

Tới khi vào phố đông, không còn những ruộng khoai, vị khách kêu ngừng xe tính tiền. Người lái xe nhìn đồng hồ cây số tính tiền. Và rồi cả tiền cây số cả tiền chờ người lái tính thành tiền là 1.200.000 đồng. Vị khách vui vẻ trả tiền, ôm mớ bọc dây khoai trở vô khách sạn.

Vị khách gây tò mò cho người lái xe taxi chẳng phải ai xa lạ, chính là Đỗ Quý Hạo. Lần đó anh ta được mời ra Hà Nội dự một hội nghị. Có một ngày nghỉ anh ta thuê xe lên đường 5 sưu tầm giống khoai. Chuyến đi qua bốn tỉnh Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng đó, trên 20 lần dừng lại các ruộng khoai, Hạo tốn một triệu hai trăm ngàn đồng và lấy được bốn giống khoai mới. Chuyến đi tính ra cũng bộn tiền vì giá xăng khi đó mới có chưa đến 7.000 đồng một lít.

*** Vậy là trong ba năm trời, mọi khâu về kỹ thuật trồng khoai lang đều đã

được Ba Hạo tính toán và làm xong. Và chắc rằng những gì bất trắc về kỹ thuật có thể xảy ra trên ruộng khoai của mình, Đỗ Quý Hạo đều có thể giải quyết được. Tôi cứ nhớ mãi một câu Hạo đã nói với tôi trong lần gặp nhau này.

- Hiện bây giờ và mãi về sau tôi sẽ chỉ làm khoai lang. Nhưng từ nay tôi đã là một công nhân nông nghiệp rồi đó.

Tôi thấy rõ nét tinh quái trên khuôn mặt Ba Hạo khi anh ta nói câu nói này. Tôi cho rằng có một người nông dân đã trở thành công nhân ngay trên đồng ruộng của mình. Bước tiến ấy cũng thật thú vị đấy chứ.

12

Page 13: Sống tận cùng với đất

3.

Lại nói đến cái Website của Đỗ Quý Hạo. Cả chục năm trời anh chàng mơ đến một cái Website riêng thì đến năm 2007 Hạo cũng làm được. Tuy nhiên khi vào được mạng thì anh ta mới biết rằng đã có một Website khoailangbahao.com đã nằm chình ình ở đó. Hóa ra Hạo đã chậm chân hơn một ai đó. Hạo cắn răng chịu sự chen ngang này. Anh chàng uất lên vì ước mơ của mình đến lúc hiện thực thì lại bị phá đám. Hạo thương lượng với chủ kia để sang lại cái tên miền mà đã bao năm mơ ước. Anh chàng nhận được một cái giá kinh hồn: 10.000USD! Cuối cùng anh ta đành phải lấy tên cho Website của mình là khoailangbahao.com.vn. Hàng năm trời Hạo cứ thắc mắc vì sao cái tên miền ấy lại bị lọt ra ngoài và bị chiếm trước. Mà thật ra về nội dung cái website kia cũng chẳng có mấy chuyện về khoai lang, toàn là thông tin bạc nhạc. Ba Hạo mới nhớ rằng, trên một vài diễn đàn cả ở trong nam và ngoài bắc, Hạo từng công khai nói lên mơ ước của mình về việc lập một Website với tên miềm như thế. Nói chuyện đó, có vẻ như Ba Hạo muốn công khai xí phần trước cái tên miền thú vị của mình. Để rồi đến lúc Hạo mới ngã ngửa ra là thời đại mới có những “luật”, những lối chơi riêng mà ta phải hội nhập. Một lối chơi mà mình không chấp nhận không được. Càng ấm ức về việc những thông tin của mình sẽ bị nhiễu trên mạng, Hạo càng hiểu thêm rằng hóa ra cái tên miền của mình cũng đáng đồng tiền.

Và đúng như mơ ước lâu nay của anh khi đã thành hiện thực. Bốn tháng sau khi Website lên mạng, khách hàng đầu tiên từ Nhật đã tìm tới. Khoai lang Ba Hạo đã tìm được tới khách hàng. Việc mua bán tuy chưa được trực tiếp, nhưng so với trước đã giảm được nhiều khâu trung gian. Và cũng từ việc tham gia mạng Hạo tìm được không biết bao nhiêu là thông tin bổ ích. Hóa ra sản lượng khoai lang trên thế giới là 127 triệu tấn năm. Trong đó Trung Quốc chiếm 90 triệu tấn. Tuy nhiên cái anh chàng to đùng ấy có trong tay tới 80% sản lượng khoai lang thế giới này không sẵn lắm những giống khoai ngon. Như khoai tím Nhật chẳng hạn, gần như toàn bộ sản lượng loại này Ba Hạo bán tại Quảng Châu. Giống khoai này lại đang chiếm một ưu thế trên cánh đồng khoai Ba Hạo. Một thông tin ấy thôi đã cho Hạo bao nhiêu ý tưởng làm ăn mới mẻ. Đó là cách anh ta quyết định chọn lựa quy trình sản xuất, là việc nghiên cứu cải tạo giống trong phòng thí nghiệm và trên cánh đồng khảo nghiệm mà Hạo tiếp tục làm không chỉ với tư cách một người thợ trồng trọt mà là công việc của nhà nghiên cứu.

Ba Hạo kể rất chi tiết cho tôi nghe về những con số, những tên gọi, những ký hiệu… Có những tên gọi ngoại ngữ anh ta ghi lại cho tôi trên một miếng giấy. Có lẽ tại bởi khó khăn của anh ta trong việc phát âm ngoại ngữ và khó khăn hạn chế của tôi về tiếp nhận tiếng Anh mà Ba Hạo làm vậy. Âu cũng là để thuận lợi

13

Page 14: Sống tận cùng với đất

cho cả hai chúng tôi. Phải tiếp xúc với những kiến thức ấy bao nhiêu lần anh ta mới thuộc vanh vách như vậy? Ba Hạo đã học tập như thế nào? Đó là một câu chuyện rất dài và rất nhiều chi tiết.

Sau mấy tiếng đồng hồ lang thang trong siêu thị sách Lê Lợi về nhà anh ta rất phấn chấn. Những quyển sách mà anh ta ôm về là nguyên nhân của niềm vui ấy. Đặc biệt là cuốn sách viết về Feramol - Bẫy dụ bọ Hà của giáo sư tiến sĩ Nguyễn Công Hào. Trong nhà sách, đứng dựa lưng vào một bên giá sách, anh ta đã đọc cả tiếng đồng hồ cuốn sách đó. Thoạt đầu anh ta đọc mục lục. Thấy hay anh ta đọc lướt một vài trang. Rồi anh ta đọc kỹ đoạn nói về nguyên tắc chế tạo một Feramol. Anh ta nghiệm thấy một điều là các nhà khoa học thực sự viết sách cũng không rắc rối lắm. Kể cả những vấn đề rất chuyên sâu cũng được các tác giả xịn đó viết ra thật dễ hiểu. Điều quan trọng là người đọc có hứng thú với đề tài được đề cập đến trong sách hay không. Về nhà anh ta bỏ mọi việc đó ôm cuốn sách lên võng nằm. Rất từ tốn anh ta ngốn hết chương này đến chương khác. Cũng có chỗ khó hiểu anh ta phải nghiền ngẫm. Có chỗ anh ta đánh dấu lại để rồi nghiên cứu tiếp. Đọc gần hết cuốn sách anh ta đã nghĩ tới việc phải tìm cho được tác giả để làm quen và hỏi thêm một số điều anh ta đã đánh dấu trong sách.

Mấy ngày sau anh ta gọi điện thoại tới nhà xuất bản. Cô trực tổng đài cho Hạo số điện Ban Biên tập. Từ đó anh ta có số điện thoại Trung tâm Khoa học tự nhiên Quốc gia. Rồi anh ta có tiếp số điện thoại Phân viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên, bởi giáo sư tiến sĩ viện trưởng Nguyễn Công Hào phụ trách phân viện đó. Rồi cứ thế, anh ta phải mất gần 20 cú điện thoại mới gặp trực tiếp trên máy vị giáo sư viện trưởng… Hóa ra gặp được ngài giáo sư tiến sĩ viện trưởng tuy rắc rối một chút song cũng không khó gì mấy. Bởi giáo sư đã được nghe mấy vị khác nói về anh nông dân Đỗ Quý Hạo nên anh ta có thể nói thẳng vào những thắc mắc của mình từ cuốn sách anh ta đã đọc. Và sau đó chính giáo sư Nguyễn Công Hào đã đưa ngay đề tài của mình về thực hành ngay trên cánh đồng khoai Ba Hạo. Lần đó Hạo được học, được làm đến thỏa mãn một đề tài khoa học cấp quốc gia.

Chính vì tìm gặp được các nhà khoa học mà Hạo có thể giải quyết được nhiều vấn đề nảy sinh trên cánh đồng khoai. Anh ta cũng tích lũy được nhiều kiến thức trên nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Nhiều GSTS ở Đại học Nông nghiệp I Hà Nội cho Hạo sách đoc và tư vấn cho anh ta về cây khoai lang, dinh dưỡng cây trồng và nguồn gốc đất đai. Giảng viên kỹ sư Nguyễn Thị Nghiêm và nhiều thầy cô giáo ở Đại học Cần Thơ giúp cho Hạo những kiến thức về truyền nhiễm, nấm, vi rút, vi khuẩn… bệnh cây. Các GSTS Nguyễn Văn Luận, Lê Văn Mạnh ở Viện Lúa Đồng bằng Sông Cửu Long thì tư vấn cho Hạo những kiến thức về sự quang hợp, tích lũy và vận chuyển tinh bột của cây khoai lang. Tại Viện Khoa học kỹ thuật miền Nam có Thạc sĩ Nguyễn Quang Chơn, và TS Nguyễn Văn Nghĩa truyền đạt cho Hạo kiến thức về đất, vi sinh và chế phẩm

14

Page 15: Sống tận cùng với đất

công nghệ cao. Hạo còn được dự thính nhiều khóa học về kinh tế tại Đại học An Giang. Trung tâm Khuyến nông Kiên Giang hỗ trợ cho Hạo về thổ nhưỡng, mùa vụ,…

Đỗ Quý Hạo không phải là một nhà nghiên cứu, cũng không phải một học giả, chắc chắn là như vậy. Những kiến thức tổng hợp và việc thực hành chăm chỉ, khoa học trên cánh đồng giúp anh hiểu cây khoai lang một cách toàn diện, triệt để. Với Hạo cuộc đời cây khoai lang chẳng khác cuộc đời một con người.

- Cây khoai sinh trưởng trong 130 ngày. Hai tháng đầu tôi can thiệp vào đời sống của nó mọi biện pháp tích cực nhất. Những biện pháp nhằm giúp nó phát triển tối đa bộ máy quang hợp, tích lũy tinh bột. Từ tháng thứ ba tôi để nó phát triển tự nhiên, không can thiệp nữa. Khoảng thời gian này đủ cho cây khoai chuyển hóa tất cả những gì mà nó đã tiếp nhận được từ tay tôi. Để rồi đến lúc hiểu rằng nó phải chuyển toàn bộ tinh bột xuống củ. Củ khoai, đó là di sản thừa kế loài khoai lang để lại cho con cháu…

Trở lại câu chuyện bên cánh đồng khoai. - Còn đây là miếng vườn khảo nghiệm. Nó cũng giống như là đi trinh sát

trong quân đội. Có lẽ đôi mắt tròn xoe ngạc nhiên của tôi khiến Hạo ngưng lời. Anh ta nhìn lại tôi với nụ cười tinh quái. Đúng. Công tác trinh sát. Tôi có đi bộ đội chứ bộ. Bốn năm dẹp loạn Pôn Pốt ở Campuchia đó. Khảo nghiệm để tìm ra quy trình sản xuất phù hợp cho mỗi giống khoai trồng ở ngay tại đất Mỹ Hiếp Sơn này. Khảo nghiệm nói thì lớn song chính là tôi phải tìm ra cho được mật độ trồng, cách làm đất và công thức phân bón cùng những quy luật chăm sóc khác thích hợp cho mỗi giống. Ví dụ nhờ tự khảo nghiệm tôi rút ra với khoai sữa thì giảm kali, manhê, tăng boron; Với khoai Benga Raoma thì tăng đạm, tăng kali, giảm nitơ… Việc này cũng rắc rối và rất tốn thời gian. Bởi tôi phải tìm ra chính xác liều lượng của những tăng giảm ấy. Hơn nữa còn phải tìm công thức tối ưu. Có nhiều giống khoai để làm gì nếu không tìm ra được giống cây ngon nhất, năng suất cao nhất, tiêu thụ tốt nhất trong thị trường xuất khẩu? Chưa nói đến việc khảo nghiệm không chỉ là phục tráng giống mà còn phải tìm ra cách cải tạo, nâng cao chất lượng giống khoai.

Trên miếng đất rộng hơn 100 mét vuông. Mỗi vụ anh ta khảo nghiệm sáu loại cây giống. Mỗi năm hai vụ, với 34 giống khoai đang có, anh ta phải mất ba năm mới giáp một vòng khảo nghiệm. Vòng sau là những khảo nghiệp sâu hơn cho những giống khoai chọn lọc ban đầu. Những giống khoai triển vọng Hạo đang theo dõi vụ này đã cho những kết quả thú vị. Cái giống khoai Viên Điền ấy, thiên hạ đã bỏ đi. Bởi đó là loại khoai nhạt nhẽo, nhiều sơ. Nó vô duyên với cả những cái bụng đói chứ không nói đến cái thú ăn chơi, ăn cho vui miệng. Vậy mà sau mấy lần khảo nghiệm, giống khoai Viên Điền ở trang trại Ba Hạo cho rất nhiều tinh bột. Khoai này dùng nấu rượu cực kỳ hiệu quả. Thoạt đầu Hạo đã tính

15

Page 16: Sống tận cùng với đất

bỏ loại này, sau anh ta cứ đưa vào khảo nghiệm bởi anh ta muốn củng cố, xác định chính xác độ tin cậy phương pháp khoa học của mình.

Cũng vậy, những giống khoai Bí Nhật, Tím Nhật, Nhân Ngọc, Tầu Nghẹn… ngoài đời chúng cũng là những giống bình thường thôi. Qua khảo nghiệm ở trại khoai Ba Hạo chúng nổi rõ những phẩm chất không ai ngờ. Những củ khoai Bí Nhật trở nên ngọt như chấm đường. Miếng khoai Nhân Ngọc mềm ngon như củ ấu. Lát khoai Tầu Nghẹn luộc xong ăn chẳng khác gì miếng bánh in…

Và sự thực thì thương hiệu Khoai lang Ba Hạo đang chiếm được niềm tin. Anh ta làm quen với anh ta. Bởi kể : mấy người bà con ở Tuyên Quang có gọi điện vào hỏi thăm: Có mấy cái xe tải chở khoai lang lên vùng núi ngoài đó. Bên ngoài thành xe tải họ treo tấm băng - rôn ghi Khoai lang Ba Hạo. “Vậy có đúng là khoai lang của nhà mình không?” Hạo nghe tin điện thoại đó mà cứ thấy tê tê vùng rốn. Còn tôi biết khoai lang Ba Hạo từ ngày chưa con kênh Rạch Giồng bên vườn sau nhà tôi mấy ngày không nghe người ta rao bán “Khoai lang Ba Hạo”.

Khi khởi nghiệp gia đình tôi chỉ canh tác có hơn 2 công đất năng suất thấp. Sau 25 năm đến nay diện tích tăng 200 lần, năng suất tăng 7 lần, và sản lượng tăng hơn ngàn lần. Hiện nay mỗi năm tôi canh tác trên dưới 100ha sản lượng 2000 đến 3000 tấn khoai lang. Trên cánh đồng khoai lang chúng tôi đã sản xuất bằng cơ giới hầu hết các khâu từ cày, sới, lên luống, bón phân, phun thuốc, tưới tiêu, thu hoạch. Chúng tôi đang ứng dụng đạt kết quả các giải pháp theo tiêu chuẩn LOBAN GAP. (Trích báo cáo của Đỗ Quý Hạo)

Tất nhiên là khảo nghiệm thì chỉ cho mình hiểu biết cách thức trồng trọt để đạt hiệu quả cao nhất. Còn việc chọn giống nào để trồng thì phải kết hợp cả khảo nghiệm với nghiên cứu mùa vụ và thị trường mới có quyết định chính xác.

Tôi chợt nhớ ra một vấn đề khác nên hỏi tiếp:- Dân gian có câu “Khoai ruộng lạ. Cá ao quen”, ông trồng khoai chuyên

canh trên một vùng đất như vậy liệu có vấn đề gì xảy ra về công nghệ? Chừng như vấn đề này cũng đã được Hạo xem xét từ lâu. Anh ta trả lời

mau mắn:- Sở dĩ người ta tổng kết luận “khoai ruộng lạ” cũng bởi sẽ xảy ra hai vấn

đề nếu ta làm đất chuyên canh. Một là, sâu bệnh. Hai là, đất sẽ bị cạn kiệt dinh dưỡng. Về sâu bệnh mình đã chắc chắn là cây khoai có mấy loại bệnh chủ yếu: nấm thối dây lá, nấm thối mềm củ và nấm chết nhánh… Cái bệnh nấm thối mềm củ có thể làm hại tới 80% sản lượng. Song mình đã biết thuốc và biết cách phòng trị thì cũng không đáng quan ngại lắm. Bởi vì không chỉ chống và trị bệnh mà

16

Page 17: Sống tận cùng với đất

mình còn có biện pháp phòng bệnh nữa thì kết quả cũng khá triệt để. Còn những phát sinh do đất thoái hóa, cạn kiệt dinh dưỡng thì mình biết rõ quy luật sinh trưởng và nhu cầu chăm sóc của từng giống khoai, lại đảm bảo thêm bằng giải pháp vi lượng thì cũng có phương sách lâu dài. Và hơn nữa, em vẫn đang tiếp tục khảo nghiệm mà.

Đỗ Quý Hạo đưa ánh mắt nhìn xa xăm rồi nói: - Đây cũng chưa hẳn đã là phương án tối ưu cho những năm tới. Nhiều lúc

em cảm thấy bị bó buộc vì cái sản lượng khoai lang hiện có rồi. Anh ta nhoài người tới gần tôi trầm giọng tâm sự. Chắc chắn là phải tính đến một cái nhà máy chế biến khoai lang tại đây thôi anh ạ. Em nghĩ là cha con em phải làm và sẽ làm được.

Tôi nhìn anh ta. Ôi con mắt ấy chưa bao giờ tôi thấy nó thật như lúc này. Tôi phải chuyển góc nhìn ra khỏi đôi mắt của anh ta.

Chợt nhớ câu châm ngôn của Ba Hạo. Nhà ta coi chữ hơn vàng. Coi tài hơn cả giầu sang bạc tiền. Nay thì họ đã có cả cái hơn và cái kém. Cả chữ và cả vàng. Cả tài năng và bạc tiền, và đôla. Vậy mà anh ta còn muốn hơn nữa.

Có một điều tôi nghĩ cả năm nay mà tôi chưa nói với anh ta và chắc là anh ta cũng không biết. Con đường anh ta đã đi hai chục năm nay, phải chăng chính là con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nước ta? Một con đường Đảng ta đã ghi rất rõ trong đường lối của Đảng.

Tôi nói vậy không biết có quá lời hay không.

17

Page 18: Sống tận cùng với đất

LÀNG TRƯỚC SÓNG

Trần Cụng Sử

Đó là một làng biển.Hẳn như vậy! Làng ấy nổi tiếng đấy! chẳng những thế mà khoảng hai mươi

năm nay kể từ bài báo của Thế Nghĩa - phóng viên báo nhân dân thường trú tại Thanh Hóa cho in trên báo nhân dân với cái tên rất gợi “làng ăn mày Quảng Thái” có thờ ông thành hoàng là “người ăn mày”, “Thần ăn mày”... bỗng dưng nổi lên như cồn. Người ta truyền miệng nhau hư hư thực thực về cái thần phả vừa bí hiểm lại vừa diễu cợt rằng con cháu trong làng hàng năm có cái tục ăn mày về cúng cụ thành hoàng thì mới làm ăn yên ổn, phát đạt. Điều ấy thành lệ làng “hoành tráng” vào dịp mùng một tháng hai âm lịch hàng năm cúng tế linh đình, trai thanh gái tú thì khiêng kiệu, rước lọng, các cụ già thì tế lễ hàng dọc hàng ngang hết ra biển làm lễ cầu ngư, lại vào đồng làm lễ cầu nông. Đó là chính lễ. Còn việc ăn uống của làng thì phải vài ba ngày mới gọi tạm xong, còn có nhà thì rả rích dăm hôm mới thỏa. Nào là khách xa, bạn gần mời mọc nhau đến kỳ no say mới được trở lại nhà, nào là từ ông già cho đến thanh niên những ngày này ra đường rượu say túy lúy, chân nam đá chân chiêu... Sau những ngày cúng cụ thành hoàng, con cháu trong làng lại “bị, gậy” lên đường có lúc đến trắng làng để mong “hành khất” no đủ, để rồi đến dịp mùng một tháng hai kéo nhau về cúng cụ. Lại còn có cả tin đồn ủy ban nhân dân xã cấp giấy thông hành cho dân đi ăn xin... Thật thế ư? Chẳng nhẽ có một ông thần ăn mày siêu phàm đến thế ư? Sự siêu phàm của cụ xui được cả chính quyền sở tại cấp giấy thông hành? Chao ơi, chuyện cứ như từ hành tinh khác truyền về chứ làm gì có một làng quê kỳ lạ đến như vậy? Nhưng mà tên làng, tên xã có thật trên bản đồ hành chính của quốc gia này, làm sao mà từ hành tinh khác bay đến đây! Thế là tin lành đồn xa, tin dữ đồn xa thu hút sự tò mò của bao người đối với làng Quảng Thái, báo chí thỉnh thoảng nói về làng, dư luận thêu dệt về làng không chỉ người hàng tỉnh biết mà người cả nước biết về một cái tên làng Quảng Thái như một “thương hiệu đau buồn”...

Tôi vốn là bạn chiến đấu với anh Cao Tiến Việt ở Binh đoàn Cửu Long người ở làng này, hiện nay là Chủ tịch xã Quảng Thái. Nhiều lần anh mời tôi về chơi, nhưng do bận bịu công việc, đường sá xa xôi, với lại từ ngày phục viên về quê, phải lo bao nhiêu thứ của hậu phương người lính mà cái nghèo, cái đói cứ bám riết, đành làm một cuộc “cách mạng” đưa cha mẹ, vợ con lên miền núi tỉnh Hòa Bình xây dựng kinh tế mới, mãi sau này anh em mới liên lạc được với nhau. Thế mà chuyện làng Quảng Thái của Việt cũng bay lên đến tận miền núi nơi tôi đang sinh sống. Vốn là cộng tác viên của báo Binh đoàn trước đây, khi nghe tin

18

Page 19: Sống tận cùng với đất

đồn như vậy, tôi điện cho Việt để hiểu thực hư thế nào thì được Việt nói rằng chuyện nó dài lắm, khi nào có điều kiện mời ông về chơi với nhau dăm bữa, nửa tháng may ra mới nói hết với ông được. Nhân việc cùng anh em cơ quan đi nghỉ hè ở Sầm Sơn tôi mới có dịp về thăm Việt và gia đình theo chỉ dẫn của anh qua điện thoại và dự định ở lại chơi mấy hôm còn thăm vài thằng bạn chiến đấu quê ở ven biển Quảng Xương, Tĩnh Gia.

Buổi chiều, khi cái nắng tháng bảy đã dịu, tôi bắt chiếc xe ôm về Quảng Thái. Người lái xe ôm cũng đã đứng tuổi, có bộ ria mép đậm nhưng không được chăm chút nên có mấy cái đã chờm qua môi trên. Với một giọng tự tin, liến thoắng, anh nói với tôi:

- Ông về Quảng Thái, về làng ăn mày à? Dễ thôi, 15 ngàn đồng, chỉ vài chục phút là đến ngay.

- Sao? Anh cũng biết đó là làng ăn mày à?- Thì người ta đồn ầm lên đấy thôi! Mà nghe nói bây giờ dân ở đấy giàu có

lên là cũng nhờ “ăn mày” đấy!- Hóa ra anh cũng chỉ nghe nói...- Người ta còn nói là thờ ông thành hoàng là người ăn mày rất thiêng...- Thế à?Câu chuyện lúc được, lúc chăng thì chiếc hon đa đã đưa chúng tôi về đến

Quảng Thái. Tôi hỏi thăm chủ tịch Cao Tiến Việt thì mọi người đều nhiệt tình chỉ lối. Chẳng mấy chốc tôi đã có mặt tại nhà chủ tịch xã Quảng Thái. Vì đã điện thoại hẹn nhau nên khi tôi đến, Việt đã đợi ở nhà. Anh em tay bắt mặt mừng vì lâu ngày mới gặp nhau. Việt gọi vào trong bếp:

- Em ơi, anh Sử về chơi. Chị Đụa - vợ anh đang nấu trong bếp nghe có khách ra chào:

- Bác đi đường xa có mệt lắm không? Anh Việt nhà em nhắc bác luôn đấy.- Dễ đến hơn hai chục năm anh em mới gặp nhau nên cái mệt tan biến đâu

mất rồi. Tôi cười.- Em bận bếp núc một tý, hai anh em nghỉ ngơi rồi chuẩn bị cơm nước. Chị

Đụa vào bếp... * * *Sau khi tôi và Việt tắm táp xong thì bữa cơm tối cũng được dọn ra trên

chiếc chiếu hoa trải ở hiên nhà. Chiều xuống nhanh, chỉ còn một vệt sáng yếu ớt hắt lên rặng dừa trước mặt. Bóng đêm đã bắt đầu bò ra. Vẫn những cơn gió biển thổi vào lồng lộng, mát mẻ. Một mâm cơm thịnh soạn toàn là đồ ăn hải sản như cua biển luộc, mực hấp, cá thu sốt cà chua, tôm he, rau nộm và vài món ăn ở biển tôi không kịp nhớ hết. Bữa cơm có cả nhà cùng dự.

19

Page 20: Sống tận cùng với đất

- Hôm nay khách quí từ rừng núi xa xôi Hòa Bình về với biển, chỉ chiêu đãi ông bạn toàn đồ biển thôi đấy nhá. Đây thì có bia, có rượu ông thích gì cứ cho ý kiến.

- Toàn thứ hải sản này thì dùng rượu là hợp phải không? Tôi trả lời.- Đồng ý! Một hũ rượu ngâm rắn biển mà dân địa phương gọi là “đẻn”

được Việt mang ra! Trong bữa cơm, anh em ôn lại những chuyện xưa kia ở chiến trường, chuyện hậu chiến trở về địa phương mưu sinh gian khổ, vất vả, vật lộn với đời thường, với những thăng trầm năm tháng tồn tại để vượt lên... Bữa cơm vừa xong thì có một vài người nữa đến chơi, người nào cũng lực lưỡng, cánh tay rắn chắc, nước da đỏ au. Người thì chào chú, người thì chào mợ, người thì chào chủ tịch... và họ không quên chào tôi: chào ông. Ấm nước chè xanh chị Đụa bê ra còn nóng, khói nghi ngút, hương vị thơm mát. Chị rót ra bát mời mọi người. Họ vừa uống nước, vừa hút thuốc lào và tán gẫu. Họ nói chuyện với nhau về thời tiết, về đi khơi, đi lộng... Những kinh nghiệm đi biển của mình đều được trình làng. Một người trạc bốn mươi tuổi cất giọng:

- Làm thằng ngư dân ở vùng biển bãi ngang này chỉ khổ suốt đời thôi. Đi khơi không được. Sắm thuyền thì không chỗ neo đậu, chỉ vài cái bè rách kéo lên bãi, đẩy xuống sóng chạy ra vài sải nước đánh chồng, đánh chéo lưới lên nhau thì lấy đâu ra cá... Không như trong miền Nam, thuyền đi khơi dăm bảy ngày, khi nào đầy ắp cá thì mới về. Như vậy, thì sao nói là họ không no, không giàu? Nói có ông bạn của chủ tịch thông cảm cho, ngư dân vùng bãi ngang như chúng tôi khổ như con chó. Bây giờ đang mùa biển thì ở nhà, dù thu hoạch không được là bao, nhưng nó sướng vì mình làm chủ được cái nghề của mình. Dăm bữa, nửa tháng nữa biển động triền miên thì kéo nhau đi đánh cá thuê cho thiên hạ... Lại bài ca Phan Rang, Phan Thiết, Bà Rỵa - Vũng Tàu... hãy lên đường thôi anh em ơi... Cái giọng hài hước của anh ngư dân làm mọi người cười rộ. Họ còn chen vào vài câu chế diễu hài hước về nghề biền, đánh cá biển làm cho không khí vui hẳn lên... Trong lòng tôi lắng xuống. Chẳng nhẽ nghề biển ở đây khắc nghiệt đến thế ư? Qua câu chuyện của họ, tôi biết được họ không thuần túy là những người bám trụ ở làng. Bởi những địa danh họ kể, những con người họ từng gặp, những cuộc vật lộn với biển cả xứ người... Trong lòng họ luôn có một khát khao trở về sống giữa quê hương, làm sao cho quê mình giàu có, nghề biển quê mình khấm khá hẳn lên... Trăng mười tám nhô khỏi rặng dừa trước mặt, sân nhà Việt tràn đầy ánh trăng, tràn đầy những câu chuyện biển... Khuya, mọi người lục tục ra về. Chị Đụa thu dọn xong cũng đã đi nghỉ. Những ngọn gió biển vẫn đều đặn thổi vào, bầu trời vằng vặc trăng sao. Việt hỏi tôi:

- Ông thấy dân biển thế nào?- Hào sảng, ăn to nói lớn, vui vẻ và mến khách! Tôi cũng chỉ trả lời bẵng

những cảm nhận ban đầu.

20

Page 21: Sống tận cùng với đất

- Còn một đức tính nữa mà ông chưa hình dung nổi, đó là chịu đựng gian khổ, gan lì trước sóng gió, bão dông, và thẳng thắn... Việt nói.

- Môi trường sống làm nên đức tính con người. Tôi khẳng định! Tôi đang định nói điều gì liên quan đến môi trường sống, đến những điều đồn đại về làng của Việt mà tôi đặt ra trong chuyến đi thăm bạn lần này. Bỗng Việt hỏi tôi:

- Ông có thức khuya được không?- Trăng thanh gió mát, không khí trong lành nên thơ như thế này mà ngủ

sớm thì có phí không cơ chứ?!- Ừ, thế thì được!Việt đồng tình. - Tôi muốn quan tâm một vấn đề mà đau đáu bấy lâu nay?- Chắc lại chuyện làng ăn mày Quảng Thái mà mấy năm trước ông gọi điện

hỏi tôi?- Đúng đấy! Chuyện ấy là như thế nào? Có phải làng ta có ông thành hoàng

là thần ăn mày không? Ăn mày là lệ làng ư? Là nét văn hóa truyền thống vốn tồn tại như một số làng ăn mày khác trong cộng đồng dân cư Việt Nam?

- Trước hết khẳng định với ông bạn rằng: thành hoàng làng tôi là những vị quan lớn, đưa con dân về đây khai phá đất hoang lập đồn điền trên vùng cát trắng bãi ngang này. Thực hiện chính sách “Ngụ binh ư nông” dưới triều Lê Thánh Tông. Không chỉ một vị thành hoàng mà làng tôi có tới hai vị thành hoàng, đó là ông họ Tô và ông họ Uông. Còn tục ăn mày thì không có, nhưng dân đi ăn mày thì có, thậm chí như một hội chứng dân ăn mày Quảng Thái. Có tiếng xe máy đến cổng rồi rẽ vào nhà Việt. Tiếng xe vừa tắt thì giọng nói oang oang đã tràn vào sân:

- Các chú làm gì mà bây giờ chưa ngủ?- Anh đấy à? Anh ngồi đây uống nước.- Tao qua chỗ ông ngoại về ngang đây thấy còn đèn, còn người...- Đây là anh Sử bạn em từ Hòa Bình vào chơi, còn đây là ông anh Tô Vũ

Đưa, đồng hao với tôi, cũng bộ đội về, nguyên là Bí thư đảng ủy xã này khóa 1992 - 1994. Ôi, nói đến lịch sử làng thì ông anh rành lắm... Việt giới thiệu một hồi và lái câu chuyện tôi đang nghe dở sang anh Đưa. Dáng vóc lực lưỡng, mái tóc hoa râm, đặc biệt đôi mắt ánh lên sự thông minh của anh cùng với cái bắt tay rất chặt, giọng nói hồ hởi nên anh em chúng tôi làm quen với nhau rất nhanh. Hút điếu thuốc lào, uống chén trà nóng, anh nối tiếp câu chuyện về làng. Làng có từ bao giờ? Có tục ăn mày không mà nổi tiếng đến thế? Đúng là tốn bao giấy mực của cánh nhà báo viết về làng vừa đúng vừa sai. Vì sao như vậy ạ? Vì cánh nhà báo về làng cũng chỉ gặp mấy ông xã rồi cưỡi ngựa xem hoa một vài nơi mà xã giới thiệu, chỉ dẫn. Thế là tai đực, tai cái viết bài. Nhiều bài báo viết về làng đọc xong thấy tức anh ách, vì họ chẳng hiểu gì làng chúng tôi cả.

- Ví dụ? Tôi cắt ngang. Anh Đưa uống thêm ngụm nước nữa và nói một mạch:

21

Page 22: Sống tận cùng với đất

- Làng Đồn Điền chúng tôi thờ nhị vị thành hoàng và tứ vị thánh nương. Sự thật là như thế. Nhị vị thành hoàng là hai ông quan dưới triều Lê Thánh Tông có tên tuổi, có hàm vị hẳn hoi, đó là cụ Tô Văn Bảo tự chính Đạo và cụ Uông Ngọc Châu. Riêng cụ Tô Chính Đạo thì tôi nắm chắc tiểu sử của ngài. Đó là cụ thủy tổ của ba chi họ Tô làng Đồn Điền này. Trong tờ Thông tin họ Tô Việt Nam số 9, mục “Người họ Tô xưa và nay” in vào tháng 6 năm 2006 có ghi rất rõ:

Quận công Tô Văn Bảo, thủy tổ họ Tô làng Đồn Điền, Thanh Hóa có xuất xứ như thế này: “Ngài Tô Văn Bảo tự Chính Đạo thường gọi Tô Chính Đạo, người làng Bao Hàm, tổng Hổ Đội, huyện Thụy Anh, phủ Thái Bình, Trấn Sơn Nam. Thi đậu giải nguyên thời Lê Thái Tông, khoa thi 1438; được bổ nhậm chức Thanh Hoa Thừa Tuyên xứ - sứ thần. Khi nhỏ ham học, văn võ song toàn, có lòng độ lượng. Khi làm quan Thừa Tuyên ở Thanh Hoa được nhân dân khắp vùng kính trọng. Thời gian này, Ngài được đặc sai đi đánh dẹp giặc Chiêm Thành ra quấy nhiễu vùng Nghệ An, ngày khải hoàn được phong tước Quận công.

Năm thứ 3 Quang Thuận- Hồng Đức (1461), ngài cùng đại thần Lê Công Bình phụng chỉ: Dụ dân lập ấp kiến an quốc nội, sử dụng lực lượng (tù nhân, tội phạm) dưới sự quản lý của quân đội đi khai phá các sở Đồn Điền ở nam phần Thanh Hoa gồm ba huyện Nông Cống, Ngọc Sơn (Tĩnh Gia bây giờ) và Quảng xương của phủ Tỉnh Ninh. Lúc bấy giờ trên địa bàn Quảng Xương có nhiều sở Đồn Điền, riêng sở Đồn Điền (Quảng Thái) do sứ quan Tô Văn Bảo người Bao Hàm và sứ quan Uông Ngọc Châu người Vườn Đào đảm trách. Doanh trại và phủ quan đóng ở Đồn Điền (Quảng Thái), nên mới có tên làng Đồn Điền, dân quanh vùng có khi còn gọi là làng Sở hoặc sở Đồn Điền. Đến bây giờ làng còn lưu giữ những tên gọi mang dấu ấn thời xa xưa ấy như: Ngõ Trại, Đồng Phủ, Rào Quan, Đồng Trực, Bàn Cờ, Mả Chúa, Đồng Bể, ngõ ông Thầy... Ngoài sở chính Đồn Điền (Quảng Thái), các ngài còn góp công khai phá các sở vệ tinh như: Tào Lâm (Nông Cống), Tiên Linh, Cá Nổ (Ngọc Sơn), Lưu Vệ, Thái Lai, Cô Đồng, Cô Bái, Thủ Phủ, Ngọc giáp, Bể Thôn (Quảng Xương)...

Với công dẹp giặc cứu nước, xuất sắc thực thi chính sách: Kiến ấp chấn an quốc nội, tiến hành khai khẩn đất hoang, dụ dân lập làng tăng gia sản xuất, đồn trú dinh lũy phòng vệ biên cương. Ngài được Triều sau phong trật “phúc thần” và giao cho dân làng Đồn Điền phụng sự.

Bản sắcSắc: Thanh Hoa tỉnh, Quảng Xương huyện, Thủ Chính tổng, Đồn Điền

thôn phụng sự:Lê triều Đồn Điền quan Tô Văn bảo tự Chính Đạo chi tôn thần Hộ quốc tý

dân, niệm trước linh ứng tứ kim, Trẫm tứ tuần đại khánh tiết kinh ban bảo chiếu đàm ân lễ Long đăng trật, tước phong vị đoan túc: Dực Bảo trung hưng Linh Phù Phúc Thần chuẩn kỳ phụng sự thần kỳ tương hựu Bảo ngã lê dân khâm tai.

Khải Định Cửu niên, thất nguyệt, Nhị thập tứ nhật.

22

Page 23: Sống tận cùng với đất

Dịch sắc

Sắc ban cho thôn Đồn Điền, tổng Thủ Chính, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoa phụng sự:

Quan Đồn Điền triều Lê, Tô Văn Bảo tự Chính Đạo bậc tôn thần có công giúp nước, cứu dân một nỗi niềm thiêng liêng ứng nghiệm, tới nay gặp tiết Đại Khánh, Trẫm đã bốn mươi tuổi, Trẫm ban chiếu báo đáp ơn sâu, Lễ phong lên trật Phúc thần bảo vệ sự nghiệp trung hưng đất nước; ta cho phép lê dân thờ phụng, hãy kính vâng theo chiếu.

Khải Định, ngày 24 tháng 7 năm thứ 9....Ngài Tô Văn Bảo tự Chính Đạo mất vào ngày mùng 4 tháng 4 âm lịch, dân

làng Đồn Điền lập đền thờ cùng với ngài Uông Ngọc Châu là nhị vị thành hoàng làng Đồn Điền.

(Theo tài liệu của Hậu duệ đời thứ 14: Tô Ngọc Cừ đã qui tiên). - Anh có biết nhà ông Tô Ngọc Cừ ở đâu không? Chỗ ba cây dừa trước

mặt. Đấy là một gia phong, nho học. Chính nhờ có chữ mà từ các cụ đã ghi lại sử sách của làng cho con cháu sau này có thêm tư liệu để làm hồ sơ đề nghị công nhận Nghè làng Đồn Điền là Di tích lịch sử văn hóa. Thế đấy! Vậy mà người ta chẳng chịu tìm hiểu gì, gán cho các vị thành hoàng là người ăn mày, anh thấy thế nào? Có phải là bịa đặt không?

- Thế còn lệ làng mùng một tháng hai? Tôi hỏi.- Đấy là chuyện về ngài Tiền chánh Lãnh binh thủy quân thời Lê: Tô

Trung Thành. Ngài là cháu nội của cụ Tô Chính Đạo, thuộc chi Tô Vũ chúng tôi sau này. Chuyện kể lại rằng vào dịp tết Nguyên Đán, ngài Tiền chánh thủy quân đưa quân đi đánh giặc Chiêm Thành ra quấy nhiễu vùng biển Nghệ An. Khi thắng lợi trở về triều đình thì các binh thuyền của ngài đi ngang biển quê, khi ấy là 27 tháng giêng, ngài truyền cho quân lính neo thuyền chiến lại và lên bờ thăm nhà và dân làng. Nhân khúc khải hoàn ca trở về, ông khao quân lính và dân làng ăn tết lại tại quê hương ba ngày. Đến ngày mùng một tháng hai thì ngài cùng quân lính xuống thuyền trở về triều đình. Dân làng nấu bánh chưng, giết lợn, gà cùng các sản vật của quê hương, hát xướng tiễn đưa đại quân xuống thuyền. Và từ đó cho đến nay trở thành ngày lệ làng ăn tết lại để tưởng nhớ công lao của ngài và quân lính bận việc đánh giặc không về ăn tết cùng gia đình. Anh không biết đấy thôi, bây giờ kinh tế khá thì dân làng ăn cả tết lớn và tết lại. Chứ như trước đây, kinh tế khó khăn, có nhà nhịn ăn tết lớn để tập trung cho tết mùng một tháng hai.

23

Page 24: Sống tận cùng với đất

- Hóa ra là như thế! Tôi như được đắm mình trong không gian văn hóa của làng qua giọng kể của anh Tô Vũ Đưa. Thế thì “nghề ăn mày” có từ bao giờ? Tôi đưa ra câu hỏi.

- Xuất phát điểm từ sau cơn bão số 6 năm 1980. Khi ấy anh em mình đang ở biên giới Tây Nam. Biết, mà chẳng làm gì được! Việt tiếp chuyện.

- Nguyên nhân có từ đâu à? Đói! Thậm đói! Anh cũng biết rồi đấy, sau chiến thắng 1975, vừa khắc phục hậu quả chiến tranh lại vừa phải đương đầu với cuộc chiến tranh biên giới bảo vệ Tổ quốc. Cái đói mang tính toàn quốc, nhưng ở vùng biển này thì đã đói lại còn rách rưới và khổ sở hơn nhiều. Khi tâm cơn bão số 6 tràn qua đây vào giữa tháng 10 năm 1980, nhà cửa bị phá sạch, cây cối gẫy, đổ ngổn ngang, làng như một trận hủy diệt của B52. Nhiều trận bão trước đây cũng gây thiệt hại nặng nề, nhưng sau bão dăm bữa, nửa tháng thì biển lặng, tôm cá được mùa. Riêng năm 1980 ấy lại thật oái oăm, sau bão, biển động một lèo cho đến tết Nguyên Đán. Thế là đói, đói triền miên, đến ngọn rau má trong đồng cũng không còn mầm rễ để mọc. Anh em họ mạc, bà con chòm xóm lần hồi bữa rau, bữa cháo với nhau cũng đã cạn kiệt. Không biết làm gì để sống. Trước tết một tháng, có một ông trong làng ra Quảng Ninh thăm con là bộ đội Hải quân cũng với mục đích xem có cứu đỡ được gì cho gia đình. Nhưng ra đến nơi thì toàn bộ đơn vị của con chuyển ra đảo làm nhiệm vụ. Không gặp được con, ông đành trở về nhưng tiền tàu xe không có. Ông nghĩ cách là đi bộ đến đâu xin ăn đến đó rồi cũng về được đến quê. Cứ dọc ven biển mà đi, sẵn có nghề đánh cá biển có ai thuê vá lưới cũng được... Không ngờ đi đến đâu, khi nghe ông kể hoàn cảnh bão gió, đói khát, ra tìm con không gặp ai cũng thương. Người thì cho tiền, người thì cho gạo, người thì thuê vá lưới... có người còn giúp cho việc bán gạo mang tiền về cho nhẹ nhưng ông không đồng ý. ở nhà cần gạo, cần khoai chứ có tiền thì lấy đâu ra gạo mà mua. Gần một tháng trên đường ông cũng lên được tàu Nam Định - Thanh Hóa và trở về làng với hai bì gạo gánh nặng trĩu vai. Ông chia gạo cho anh em họ mạc, bà con lối xóm mỗi nhà một ít ăn tết. Sau tết năm đó ông đi, một vài người theo ông, rồi nhiều người theo ông, rồi thành phong trào cả làng... Dân làng nói với nhau: “Thà đi ăn mày phúc thiên hạ còn hơn ngồi nhà ăn cắp vặt của nhau”. Những năm 1982 - 1984 thấy không trụ nổi cảnh sống ở quê, nhiều gia đình đã tự nguyện xin đi xây dựng kinh tế mới ở các tỉnh phía Nam như Đồng Nai, Sông Bé, Tây Ninh, Kiên Giang, An Giang, Đắc Lắc... Đến bây giờ, nhiều gia đình đã định cư ổn định, kinh tế phát triển, con cháu học hành giỏi giang. Nếu chỉ dừng lại như thế thì khi biển lặng phải ở nhà sinh sống, nhưng đằng này thì không. Họ so sánh giữa lao động biển và lao động “xin” thì lao động “xin” vẫn có hiệu quả kinh tế hơn, đỡ phải sắm ngư lưới cụ, tránh được những tai họa bất thường do biển đem lại. Nhiều người coi “xin” như là một nghề kiếm sống. Bất chấp sự dè bĩu của dư luận, từ ông bà già đến trẻ em rủ nhau lũ lượt lang thang. Đặc biệt, sau mấy mùa giáp hạt của năm 1987 - 1989, làng lại bị cơn

24

Page 25: Sống tận cùng với đất

bão số 6 năm 1990 tràn vào, lần này cũng bị tàn phá không kém gì cơn bão số 6 năm 1980, thậm chí năm ấy, trong vòng 10 ngày tới ba cơn bão tràn vào. Làng quê lại đứng trước một thử thách lớn, chưa thoát nghèo lại bị đói. Nghề biển thì mất trắng không thu hoạch, nếu có thu hoạch thì không đủ tiền mua khoai lang, mua gạo. Họ có những so sánh thật có lý, nếu đi đánh cá biển tròn một ngày giỏi ra mỗi ngư dân chỉ kiếm được từ một ngìn đến hai ngìn đồng là cùng, còn đi “ăn xin” hay đi làm “cửu vạn” một ngày chí ít cũng được vài chục nghìn để ra sau khi đã trả tiền trọ và ăn uống mà không phải lộng, khơi khó nhọc. Thế là bài ca lang thang, tha phương cầu thực không chỉ rộ lên ở làng Đồn Điền Quảng Thái mà nó còn kéo theo các làng, các xã chung quanh như Quảng Lưu, Quảng Hải, Quảng Nhân, Quảng Lộc, làng Hà Đông cùng xã... Cái điều giản dị là phải sống, phải tìm nguồn sống, phải thoát cái đói!

Trước cảnh làng quê xơ xác, trường học vắng bóng học sinh, có lúc trong lớp chỉ còn 5 - 6 em theo học, dư luận xã hội đàm tiếu, diễu cợt, Đảng bộ và đảng viên trong toàn xã họp trước hết phải làm gương vận động người thân của mình ở nhà. Có như vậy mới vận động người khác được. Nhưng hiệu lực của sự làm gương đó chỉ được thời gian ngắn, rồi không vợ, con thì anh em, cha mẹ, họ hàng của các Đảng viên lại “lên đường”. Hội chứng “ăn mày” làm nhức nhối dư luận và đau đầu lãnh đạo chính quyền địa phương. Huyện ủy xuống chỉ đạo, đảng ủy xã họp bàn ngăn chặn hiện tượng ăn mày ở Quảng Thái. Các tổ chức xã hội từ Trung ương đến các nhà hảo tâm vào cuộc. Tại hội nghị huyện Đảng bộ huyện Quảng Xương năm 1992, vấn đề tha phương cầu thực của bà con trong huyện đưa vào chương trình nghị sự, tìm cách tháo gỡ. Hội thảo quốc tế trong chương trình nghiên cứu Việt Nam của Hà Lan về vấn đề Tha phương cầu thực ở Quảng Thái được tổ chức vào tháng 7/1997 do Phó giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Văn Tri lúc đó là Bí thư huyện ủy chủ trì và kết luận, đó là một hiện tượng xã hội mà trên thế giới ở đâu cũng có. Như vậy, đây không phải là vấn đề tâm linh thờ phụng thần ăn mày như người ta thêu dệt. Trước hết, hãy gọi con em trở về đi học, tạo công ăn việc làm cho các gia đình, xin các dự án trong nước và quốc tế về hỗ trợ và ổn định đời sống cho bà con không chỉ cho Quảng Thái mà cho các xã có đời sống tương tự như Quảng Thái. Rồi bà con cũng đã trở về, lớp học lại đông như cũ. Nhưng cái đói chưa chịu buông tha cái xứ này. Hiện tượng “ăn xin” có giảm dần, người ta chuyển sang các công việc khác như đánh giầy, bán báo, bán vé số... nghĩa là vẫn cứ phải xa quê kiếm sống. Nhưng các cháu đã chịu ở nhà đi học, các bậc cha mẹ cũng đã thấy được sự học hành tiến bộ của các con nên đã đầu tư. Phải nói, mất khoảng hơn chục năm dân Đồn Điền không có một học sinh nào vào được đại học hay cao đẳng. Bởi vì có học đến nơi đến chốn đâu mà thi cử! Chứ dân Đồn Điền đã học là giỏi nổi tiếng khắp vùng. Trước đây không năm nào là không có học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, kể cả cấp quốc gia. Nhưng mất khoảng chục năm như vậy, anh thấy có đau không? Anh nói như một nỗi đau dồn

25

Page 26: Sống tận cùng với đất

nén, tiếc nuối cho sự học của con em trong làng. Nhưng chục năm nay thì khác, trường lớp khang trang, các cháu đua nhau học. Hàng năm tỷ lệ thi đậu vào các trường đại học rất cao. Năm nào cũng có khoảng 15 - 20 em đậu vào đại học, đặc biệt năm 2005 - 2006 đã có tới 36 em thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng. Tuy mang tiếng là làng “ăn mày” như vậy, nhưng từ trước đến nay con em của làng cũng có nhiều người thành đạt trong xã hội. Hiện nay, cú cỏn bộ lónh đạo Trung ương, có cán bộ cao cấp trong quân đội, cán bộ các cấp từ tỉnh đến huyện... Đấy là niềm vui, là sự kích thích đối với quê hương. Còn các triều đại trước cũng có các cụ Cử, cụ Tú. Đối với làng, đó như mạch chảy truyền thống văn hóa không thể không tự hào. Anh Đưa dừng lại uống nước và làm một hơi thuốc lào, anh phả khói vào đêm dưới ánh trăng tan ra như một làn mây mỏng bay đi trong gió biển. Anh ngẩng mặt nhìn trời và nói:

- Trăng mười tám vượt qua đỉnh đầu như thế này chắc phải hai giờ sáng rồi. Tôi xem đồng hồ đeo tay và chính xác là 2 giờ 3 phút sáng. Anh Đưa xin phép ra về chuẩn bị lưới chài còn đi biển, hẹn tôi chiều hôm sau đến nhà chơi. Việt đề nghị tôi đi ngủ... *

* *Khi Việt gọi tôi dậy đã hơn bảy giờ sáng. Tôi làm vệ sinh cá nhân xong và

ăn sáng. Chị Đụa đưa ra một mâm bánh cuốn với cá biển kho và mắm tôm vắt chanh. Thứ mắm tôm đỏ au, đặc quánh mùi thơm lựng lần đầu tiên tôi thưởng thức, chỉ vùng biển này người ta mới làm được. Anh Việt rót ra hai ly rượu gọi là “chào buổi sáng”, bữa ăn đơn giản mà đậm đà vị biển. Biết Việt buổi sáng không bận công việc nên tôi đề nghị anh cho đi chơi quanh trong xã, trong làng. Cơm nước xong, chiếc hon đa chở hai anh em đi trên đường làng đã bê tông hóa và chạy thẳng ra bãi biển. Mùa này biển lặng, ngoài xa có những chiếc mảng luồng đánh bắt hải sản, gần bờ có mấy người lội cà kheo đánh moi, nước ngập tận cổ. Đây đó trên bãi biển có những dòng người đang kéo rùng, họ nối vào nhau bằng một sợi dây thừng, còng lưng đi lùi đối mặt với biển. Một bãi biển phẳng và đẹp, cát trắng mịn màng. Những con dã tràng xe cát nhỏ xíu như đang đùa dỡn với sóng... Việt đưa tôi đến ngồi trên một cái mảng luồng hôm nay không đi biển. Chúng tôi ngồi và nhìn ra khơi xa. Ngoài kia, đảo Hòn Mê hiện lên xanh mồn một, phía bên trái trên kia là núi Sầm Sơn. Ngồi trước biển, Việt nói những điều chân thật. Anh tâm sự:

Đêm qua anh Đưa đã kể cho ông nghe những câu chuyện về làng, thực sự làng này nghèo và đói. Nhà tranh vách nứa là cơ bản. Cứ mỗi đợt bão tràn vào y như là phải xây dựng lại. Cái ở thì tạm bợ, cái ăn thì phụ thuộc vào biển. Đời sống bấp bênh. Trước tình cảnh dân “lang thang” kiếm sống, Đảng bộ chính quyền xã cùng với các thôn quán triệt tinh thần là phải tháo gỡ, nâng cao đời sống cho dân. Đảng viên phải gương mẫu trong việc phát triển kinh tế, phải học

26

Page 27: Sống tận cùng với đất

hỏi kinh nghiệm các nơi có hoàn cảnh tương tự như mình mà họ giàu có mang về áp dụng cho quê. Đảng viên không chỉ nói mà phải làm, phải hành động. Một cuộc chiến đấu với cái đói, nghèo mà Đảng viên là những người tiên phong xung trận. Năm 2002, lãnh đạo xã có anh Tào Quang Đảnh là bí thư Đảng ủy, mình là chủ tịch cùng với đồng chí Phạm Trọng Lan, Bí thư chi bộ Đồn Điền đều là những cựu chiến binh, khăn gói lên đường vào các tỉnh duyên hải miền Trung và miền Nam đi thăm quan, học tập kinh nghiệm nuôi tôm trên cát của họ. Hơn hai tháng đặt chân lên các tỉnh Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, bọn mình cũng học hỏi được kinh nghiệm nuôi tôm trên cát. Cái mừng xen lẫn cái lo. Mừng vì đây là cơ hội để nhân ra cách làm ăn mới cho dân, lo vì vốn, giống, kỹ thuật chăm sóc, mùa đông miền Bắc, rồi đầu ra... Nhưng đã quyết là phải làm! Thề là mình, anh Đảnh và anh Lan hùn vốn vào với nhau làm trước để rút kinh nghiệm nhân rộng cho dân. Vừa tiền vay của ngân hàng, vừa tiền huy động của anh em họ mạc tới hơn 200 triệu. Một chiến dịch đào cát làm ao, mua ni lông lót, mua máy bơm nước biển phải đến hơn ba tháng mới tạm gọi là hoàn chỉnh. Mẻ tôm giống đầu tiên thả xuống mà lòng cứ lo ngay ngáy, cả ba gia đình thay phiên nhau trực, thức đêm thức hôm, thấy đàn tôm phát triển bình thường, nhiều người đến tham quan. Nhiều nhà đã chuẩn bị bãi cát làm theo. Đùng một cái, khi đàn tôm sắp thu hoạch thì sóng biển tràn vào làm vỡ một đoạn bờ, thế là tôm ùa ra biển. Bọn mình phải huy động nhiều người giữ bờ, chắn lưới mới vớt vát được một ít. Thế là công toi! Niềm hy vọng đổi đời cho dân vừa chợt lóe đã bị dập tắt. Phải lo trả nợ cho ngân hàng và anh em... Vợ con tuy không nói nhưng trong lòng tiếc công, tiếc của cứ ngẩn ngơ... Không chịu! Thua keo này ta bày keo khác! Lãnh đạo xã lại đi tìm việc làm, tìm đối tác và mang được về cho dân nghề thêu ren, tuy còn qui mô nhỏ nhưng cũng giải quyết được công ăn việc làm cho một số người. Cán bộ đầu tư làm trang trại như anh Tô Vũ Lỵ, phó chủ tịch xã; anh Trần Công Trường, anh Hoàng An đều là cán bộ, làm trang trại vài năm nay. Trang trại của các anh trước mắt là cá - lúa kết hợp, đã có hiệu quả kinh tế cao. Bà con nông nghiệp đang có xu hướng góp ruộng lại với nhau, dồn điền đổi thửa để làm theo mô hình lúa - cá kết hợp. Sắp tới xã sẽ mở một xí nghiệp dạy nghề may cho con em và là xí nghiệp vệ tinh của công ty may xuất khẩu Thanh Hóa. Trong một dự án chiến lược xây dựng đường du lịch ven biển bãi ngang này, bờ biển kè đá thật dầy, thật sâu và chắc chắn để mở rộng du lịch từ Sầm Sơn xuống phía nam. Chúng tôi chuẩn bị tâm thế và phong cách làm du lịch. ở đây phù hợp với du lịch gia đình, du lịch nhỏ. Ông thấy đấy, bãi biển của chúng tôi có đẹp không nào? Chủ trương của Đảng ủy tạo cho con em mình nhiều việc làm, đa ngành nghề, có thế mới mong thoát khỏi cảnh nghèo đói.

- Thế còn nghề biển, các ông định hướng cho tương lai thế nào? Tôi hỏi.

27

Page 28: Sống tận cùng với đất

- Thú thực, đó là câu hỏi lớn mà lãnh đạo, chính quyền chúng tôi có nhiều trăn trở. Muốn kiếm ăn phát đạt thì phải đánh bắt xa bờ. Nhưng ở đây làm gì có cửa sông, cửa lạch để tàu lớn về neo đậu. Có lần chúng tôi đã có chủ trương mở ngư trường lên cửa sông Mã hoặc xuống cửa Ghép và đi đặt vấn đề với các xã bạn, nhưng đều bị từ chối. Đành vậy, cải tiến bè mảng, lắp máy, cải tiến ngư cụ, lưới chài là cách làm thiết thực với vùng biển bãi ngang này. Đó mới chỉ là giải pháp tình thế, còn muốn làm ăn lớn thì phải nghĩ cách khác.

- Đúng là khó thật! Tôi công nhận. Khi ấy mẻ lưới rùng vừa cạn cách chỗ chúng tôi ngồi không xa. Việt dẫn tôi xuống xem. Thấy chúng tôi, họ chào đón hồ hởi. Chủ tịch ơi, công toi mất thôi. Từ sáng tới giờ kéo hai mẻ rùng mà chỉ đủ ăn khoai. Giọng một phụ nữ đứng tuổi vừa nói. Cả mẻ rùng kéo lên chỉ được chừng dăm cân cá bé xíu. Tôi nhìn quanh đếm thử khoảng 20 người có trong buổi lao động biển này. Ông chủ nghề rùng Lê Ngọc Kỳ đến cạnh chúng tôi phân bua:

- Biển lặng đến cùng kiệt, thế này thì chỉ treo niêu thôi!- Nếu mỗi ngày đi biển thế này thu hoạch cho mỗi lao động được bao

nhiêu? Tôi hỏi.- Toàn bộ sản phẩm thu hoạch được thì chia làm ba, chủ nghề một phần,

nghề một phần, những người làm thuê một phần. Anh cứ tính thử xem từ giờ đến trưa, khi nước đầy bờ là nghỉ, chúng tôi chỉ kéo ba mẻ lưới nữa là hết. Có thể trúng lớn, có thể chẳng có gì.

- Thế thì phụ thuộc vào biển quá nhỉ?!- Biết làm sao được anh! Anh Kỳ trả lời tôi. - Ta đi chơi một vòng quanh xã nhá. Việt nói.- Đồng ý! Chúng tôi chào mọi người.Việt đẩy xe máy xuống mép sóng, bây giờ thủy triều đang xuống kiệt, mặt

cát chắc nịch, mịn màng, chiếc xe chạy êm ru về phía ủy ban xã. Toàn bộ trung tâm hành chính xã được xây dựng khang trang, khu trường học nổi bật trong nắng sớm. Việt dừng lại và chỉ cho tôi:

- Kia là trường Trung học cơ sở hai tầng vừa khánh thành hôm qua có 20 phòng học đáp ứng tiêu chuẩn quốc gia. Còn kia là trường Tiểu học có 16 phòng, bên cạnh là trường mầm non có 10 phòng. Đây là công trình Nhà nước và nhân dân cùng làm, một sự đầu tư chiều sâu cho tương lai con em chúng ta. Chúng tôi đi dạo quanh làng, quanh xã, nhà cửa đã được xây dựng khang trang, đường bê tông hóa từng ngõ ngách thay những con đường cát bụi, lầy lội trước kia... Tôi thấy làng xóm đang có sự khởi sắc. Buột miệng tôi hỏi:

- Này, nhà cửa khang trang quá, có phải do đi “ăn mày” mang về không?- Có một phần trước kia, bây giờ do lao động vất vả mà có. - Có còn người đi “hành khất” nữa không?- Không! Nhưng đi bán vé số, bán báo, đánh giầy vẫn còn một ít người.

28

Page 29: Sống tận cùng với đất

- Đó là lao động chân chính! Tôi nói.- Thì biết thế, nhưng vẫn cứ mang tiếng là lang thang...

Một ngày trôi nhanh, buổi chiều theo lời mời, tôi đến chơi nhà anh Tô Vũ Đưa và ăn cơm cùng anh chị. Anh kể cho tôi nghe nhiều chuyện về làng từ trước đến nay. Dân làng đa tài, từ cụ Huynh giỏi võ đến cụ Lương Tải giỏi vật. Anh kể về dân Đồn Điền đã đến sới vật là các đô vật làng khác, huyện khác phải dè chừng kính nể. Có những miếng vật truyền thống từ thuở trước các cụ truyền lại, đặc biệt là miếng gồng kèo dưới. Vì thế mà năm 1962, làng có đô Thanh từng đoạt giải nhì toàn miền Bắc về môn vật tự do. Học giỏi, võ vật giỏi, nhưng cái đói, cái nghèo vẫn còn bám riết lấy làng. Bù lại tình làng nghĩa xóm lại bền chặt, cưu mang. Anh nói với tôi rằng làng bây giờ có khởi sắc hơn, nhưng nhu cầu cuộc sống cũng đòi hỏi cao hơn. Đảng bộ, chính quyền đã cố gắng, dân đã có cách làm ăn, không phải “hành khất” như trước. Những dự án tương lai đưa ra một triển vọng tốt đẹp. Nhưng trước mắt, cuộc sống của ngư dân vẫn còn bấp bênh trước sóng...

Đêm khuya, chia tay anh chị tôi về nhà Việt. Nằm trên giường thao thức mãi, tiếng sóng biển rì rầm vọng vào. Câu chuyện anh Đưa kể như một minh chứng

cho làng quê ven biển đã tồn tại gần 600 năm, qua thăng trầm của thời gian. Con người và trí tuệ nơi đây thật đáng quí, nhưng giải quyết vấn đề cơ bản của cuộc sống là thoát nghèo ở một vùng biển bãi ngang như Quảng Thái là một câu hỏi

lớn. Phải có những đề án mang tính khả thi và phải có tầm nhìn chiến lược lâu dài cho cả một vùng... Tôi cứ miên man như vậy cùng sóng biển…

29

Page 30: Sống tận cùng với đất

SỐNG TẬN CÙNG VỚI ĐẤT

Vương Hữu Thái

Tôi và Phú mỗi đứa cầm một cái sào dài cỡ bốn mét phần trên gắn cái liềm cong để tỉa đám chồi vượt vô dụng trên thân cây cà phê. Thường khi ra giêng, sau tết dài bận rộn và mệt mỏi là người ta lên rẫy làm cái công việc này, nhẹ thì có nhẹ nhưng cứ phải ngửa cổ tìm nhánh chồi trên cao nên đâm ra mỏi cổ rồi cả chóng chán. Phú lảm nhảm “cái xứ quái này cà phê cứ để vượt cao năm sáu mét, tốn công tốn phân”. Mà thật, nơi này là Bảo Lộc chỉ cách Di Linh có vài chục cây số mà cánh thức khống chế chiều cao cà phê lại khác, trong khi cùng điều kiện thiên nhiên, thổ nhưỡng đất bazan đỏ quạnh, tôi nghĩ khác biệt chắc ở tập quán, mà cái phần này thì đâu cũng có lý riêng, thôi thì cuối cùng vẫn là năng suất và hiệu quả tùy theo từng vùng khác nhau rồi khoa học mới được biết sau. Tôi thích bắt tay vào việc mà không chần chừ, còn Phú gắn công việc với khoa học, theo sau là năng suất và hiệu quả. Nó đang ấp ủ một dự định nghe thì lọt tai, nhưng áp dụng không phải chuyện dễ, cũng không quá mới mà cũng không quá cũ. Đó là cưa đốn thân cà phê độ mươi mười lăm tuổi năng suất kém, thoái hóa…để ghép chồi đầu dòng nắn suất cao từ vườn giống nhà nước, mà đúng hơn là của Viện nông lâm nghiệp Tây Nguyên. Dự án thì có sẵn, nhưng ít khi người dân biết mà dẫu biết cũng chẳng dám làm… quả là cái khó, tôi thừa hiểu chỉ tầm cỡ trang trại mới dám dấn thân, nhưng biết đâu Phú làm được thì sao? Ngoài quyết tâm nó còn có phần nổi trội hơn đám thanh niên như có học thức, nhà thuộc loại có tiếng tăm nhờ mấy vụ trúng mùa cà phê mà lại bán được cơ hội giá cao, rồi xây nhà lớn như cái biệt thự. Mà vùng đất này những năm gần đây đã có nhiều ngôi “Biệt thự cà phê” mọc lên, đủ ám chỉ cây cà phê có thể đưa người ở đây đến chỗ khá giả, cuộc sống tươm tất. Tôi và mọi người ở đây đều biết như thế, nên không gì bằng người trong cuộc, dù bộn bề khó khăn thế nào thì cây trồng này ở đất Tây Nguyên là cây mơ ước, của niềm tin hy vọng, tươi rói rực rỡ vào độ mùa cuối năm, giữa khi lác đác vẫn còn rơi rớt cơn mưa dai dẳng thấm đất, thấm luôn cả sức người bền chặt gắn với đất… Trưa đến nắng lên cao đến đỉnh đầu, sau một hồi leo dốc lượn giáp vòng quả đồi, tôi và Phú trở về căn chòi nhỏ có khoảng sân trống trông thẳng ra rặng keo đen cao vút để nghỉ ngơi. Phú phe phẩy cái nón “TUẤN à! Rẫy nhà mày bị rệp sáp tấn công nặng quá, nội tuần tới phải xịt thuốc thôi”, vừa nghe đến đây tôi bỗng thấy bòn người vác cái xạc nai đi uể oải từ dưới chân đồi lên, đúng là ông Sáu rồi - ông được gọi là “lão nông tri điền” - vì gắn bó vùng đất này từ hồi rừng hoang vu còn Mễn, heo rừng luẩn quẩn. Giờ tuổi cao nhưng ông vẫn thích lên rẫy như thú tiêu khiển, vì ở nhà hay vướng vào chyện rượu chè rủ rê đâm hư người.

30

Page 31: Sống tận cùng với đất

Lần mò một hồi ông mới lên tới chòi, thoáng thấy tụi tôi ông đã dõng dạc “cứ nhìn mấy màng trắng như màng nhện bám quanh chùm nụ cà phê là biết thất bát cái chắc, dịch rệp sáp lan rộng mà xịt thuốc hoài chẳng nhằm nhò gì, bữa nọ nghe nói nhà thằng Phú xịt thuốc gì hay lắm mà!”. Tôi với tay lấy trong làn chùm bánh nếp nhân đậu mà Mẹ tôi mua từ sáng. Phú bóc cái bánh nhai ngấu nghiến kể lể “cháu học được cách trừ hiệu quả với loại thuốc chứa hoạt chất methidathionxitj cách quãng 10 ngày từ khi chớm dịch, bà con mình mua đủ thứ thuốc đắt tiền, rồi nghe đồn thổi tùm lum chứ ít ai chịu tìm hiểu theo hướng dẫn của khuyến nông”. Ông Sáu có mang theo ve rượu con rót ra cái cốc nhỏ bắt hai đứa cùng uống “Ừ! Có lý đó, vậy mà tụi bán thuốc trừ sâu cứ bày vẽ kiếm tiền, mà dân mình cứ thế nghe răm rắp… thôi uống với tao cốc nữa… tụi mày uống không bằng tao uống gắng… đúng là loại cái, chán bỏ mẹ!” Nể ông Sáu tụi tôi nhấp một tý, ai đời giữa trưa mà bày ra uống rượu, nhưng ông vẫn tỉnh bơ thao thao kể chuyện làm ăn, chuyện cà phê đang rớt giá chắc lại một phen lao đao. Gì chứ chuyện “bao tử” là ông ra vẻ rành rọt từng chút bởi chứng kiến bao thăng trầm,vinh nhục ở vùng đất này. Phú cũng tranh luận bàn cãi khá sôi nổi với ông Sáu, đây là sở trường của nó khi gặp đúng đối tượng khơi mào lên vấn đề gai góc, thiết thực của cuộc sống… Cái chòi nhỏ xiêu vẹo tự nhiên lại náo động hẳn lên bất kể cái nắng như đổ lửa đang chiếu xuống, le lói qua từng tán lá cà phê, hứa hẹn đợt tưới gay gắt cực nhọc nữa đang độ đến gần… mà cũng có khi trời thương bất chợt mưa xuống thì sao, ở vùng đất này dám lắm chứ??? Mùa tưới nhộn nhịp ở suốt con sông Ba Kẻ cách núi Chúa non vài dặm, quả đồi Tà Ngào được xem là vùng đất tốt nhưng có gió lốc quật ngược vào mùa não. Nơi đây mảnh rẫy của nhà tôi cỡ tám sào, còn nhà Phú thuộc loại “nhà giàu” cỡ tám hecsta toàn chủng Robusta, mà đầu rẫy còn mảnh trà Shan cổ thụ xum xuê vẫn được duy trì. Dọc theo con sông mùa này nước lên đồi cao tưới cà phê và xảy ra nhiều tranh chấp giành giật nguồn nước. Nắng gắt nước cạn kiệt, nhiều lúc rẫy tôi và Phú phải luân phiên tưới đêm cỡ từ trời tối đến quãng gà gáy, tưới vào lúc này thuận tiện vì nước lên mà ít người giành giật cãi cọ, nhưng ngặt nỗi có gió rét từ núi tạt xuống khiến tê tái buốt cả người, dầu khăn quàng kín cổ và khoác hai ba lớp áo. Cũng may có ông Sáu bỏ lều mình tình nguyện đến chòi tôi thức khuya hỗ trợ việc nấu cháo gà, cháo cá… để lấy sức kéo ống tưới, dĩ nhiên phải kêu thêm người phụ vì công việc luôn tay luôn chân. Thường thì cỡ nửa tháng hay một tháng mới phải tưới lại đợt khác, đó là vùng cao nguyên Bảo Lộc này không ngặt nghèo chuyện tưới tắm như ở miền Đông nên đúng… được hạt cà phê mà đổ mồ hôi sôi nước mắt. Nhưng bù lại nếu trúng mùa trúng giá thì đời lại lên hương. Để chống đỡ cái nắng quái ác và hạn chế việc bốc thoát hơi nước, Phú đi tiên phong dùng máy phát cỏ cắt sát gốc thay vì dãy cỏ cho chết. Phương pháp này còn có ưu điểm là chống xói mòn,cỏ mục làm xốp đất. Thấy có nhiều người trong vùng bắt chước theo Phú, đó là cách “sống chung với cỏ” để cân bằng sinh thái,

31

Page 32: Sống tận cùng với đất

sử dụng được chất hữu cơ, tạo điều kiện phát triển vi sinh vật hữu ích cho đất. Cũng từ dạo đó Phú được kêu là “ông cụ non” bởi thích tìm tòi khám phá khoa học nông nghiệp qua tài liệu, học hỏi mà bao lứa tuổi như Phú cho là lẩm cẩm, thừa thãi… Nắng gắt… đêm tối người ta nhìn trời để đoán thử sắp có mưa hay chưa. Mà may tưới nước đến thứ hai thì mưa chợt trút xuống hối hả cả hai tiếng liền như muốn nở tung mặt đất. Ngay hôm sau, từng cuộc ống được cuộn tròn chất lên xe công nông đem về nhà, coi như chấm dứt một mùa tưới. Rảnh rỗi người ta lại xúm xít để chơi bời nhậu nhệt… đúng lúc này Phú khăn gói lên Viện Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên học khóa huấn luyện kỹ thuật ghép cà phê và phổ biến giống trà cành TB14, Shan và trà ngoại nhập vào địa phương như Kim Tuyên, Tứ Quý, Ngọc Thúy… Dẫu không được đi nhưng tôi vẫn bồn chồn háo hức, vì nếu Phú học hỏi được điều hay thì tôi cũng được thừa hưởng qua sự hướng dẫn của Phú. Thật ra ngày trước Sở Nông nghiệp cũng xuống tận vùng xa xôi để mở khóa hướng dẫn trồng trọt, nhưng thực tế số nông dân hưởng ứng vẫn quá khiêm tốn, nói trắng từ khoa học tới đồng ruộng còn khoảng cách xa lắm… chắc có lẽ nó nằm chết dí ở phòng thí nghiệm hay bàn giấy mấy ông kỹ sư. Vì thế tôi hiểu chỉ còn ở những người trẻ có chút học hành, có chút nhiệt huyết, đúng hơn là khao khát làm giàu cho bản thân… rồi từ đó lan tỏa ra cộng đồng sẽ là bài học sống động, thực tiễn hơn rất nhiều so với điều gì nghe có vẻ cao xa hoặc các dự án quy mô tốn kém nhưng nông dân không thể hiểu thấu! Ngày trước, tôi và Phú học cùng lớp phổ thông, nhưng giữa hai đứa có hoàn cảnh gia đình khác biệt nên ít thân nhau. Sau khi tốt nghiệp con số còn khiêm tốn ở vùng quê thì Phú lên Đà Lạt học đại học một năm sau đó về Sài Gòn học tiếp, vì ý bố mệ nó tin rằng bằng cấp ở đó sẽ có giá trị hơn ở tỉnh lẻ. Còn tôi phải ở nhà để chăm sóc vườn tược vì đó là nguồn thu duy nhất của gia đình trong khi Bố tôi bị đau cột sống không thể lao động nặng nhọc được nữa. Tôi cũng phân vân để có sự lựa chọn khó khăn giữa đi học hoặc nghỉ học, nhưng điều sau cùng đã chôn chân tôi ở vùng đất này. Nhưng còn lý do nữa bởi hai đứa em gái kế tôi lên cấp ba phải ra thị trấn trọ học, chúng đang có một tuổi xuân êm đềm, những ngày đến trường rộn ràng, bởi vậy tôi đành “hy sinh” để chúng được đi học. Những người trẻ cùng thời chắc không ai muốn như vậy. Tôi vẫn mãi không quên được một phần ước vọng ngày xưa muốn thoát khỏi đời cơ cực, buồn tẻ miền quê, để sống ở đô thị cho hợp với thời đại và nhịp sống đi lên… Nhưng bỗng chốc Phú lại trở về quê và trở thành người bạn thân thiết của tôi. Tôi hiểu Phú đã phải suy nghĩ nát óc và phân vân mãi mới dứt bỏ được đời sống ở chốn đô thị, mà việc về quê không tránh khỏi lời đàm tiếu dị nghị của bạn bè, hàng xóm… Cũng có phần do trước đây Phú nhắm mắt học marketing nên sau hai năm học đã vơi hẳn sự hưng phấn, nó nghĩ nếu đeo đẳng cũng chẳng đi đến đâu. Và mùa hè năm ấy Phú về đây… đất đai lên cơn sốt, mà nhà Phú có tới năm sào ngoài quốc

32

Page 33: Sống tận cùng với đất

lộ trị giá bạc tỷ, nên bố mẹ nó muốn con út phải về lại đây, cũng là để cai quản số đất cà phê thu hoạch mỗi năm vài chục tấn nhân… quả là con số như trong mơ. Ở vùng này bây giờ giao thông thuận tiện, được hít thở không khí trong lành và thảnh thơi, không bon chen xô bồ… tuy đời sống tinh thần và tiện nghi còn thiếu thốn. Đặt giả sử trong hoàn cảnh Phú chắc tôi cũng phân vân lưỡng lự giữa ngã ba đường… Nhưng rồi với thời gian Phú đã hòa nhập, tôi và Phú dễ dàng đến với nhau , ăn ý trong công việc. Cũng có thể nếu Phú không thân với tôi thì cũng khó tìm được người bạn cùng lớp cùng trường lúc trước ra ngoài trọ học, với bao kỷ niệm vui buồn kể cả nỗi truân chuyên… mà thật vùng đất này đã trải qua bao đổi thay nhưng mãi cho đến cách đây tròn hai năm mới có ngôi trường cấp 3, nhưng không vì vậy mà khí thế học tập tăng lên, bởi tỷ lệ học sinh bỏ học còn khá cao và một số khác tỏa đi thành phố trọ học với hy vọng sẽ nhận được nề nếp giáo dục tốt hơn… Tháng 7, 8 âm lịch là tháng mưa nhiều nhất ở cao nguyên Bảo Lộc. Những cơn mưa thối đất, mưa dai dẳng kéo dài khiến mặt đất lênh láng nổi những bọt bong bóng nước. Bầu trời lúc nào cũng xám xịt từng đám mây đen vần vũ, không gian trở nên ảm đạm hiu hắt tựa như tiềm ẩn nỗi u uất triền miên… nhưng lại là vùng đất bình yên dễ chừng có hơn một trăm năm mươi tuổi, chắc chỉ sau chút thôi so với việc phát hiện ra cao nguyên LangBiang của mảnh đất Đà Lạt sương mù! Đến tận bây giờ nhắc tới hai chữ “quê tôi” tôi vẫn thích thú với cái tên B’lao. Tên gọi này dường như đã thấm đượm vào trong hương trà, hương cà phê, từng lụn tơ tằm… hòa quyện trong làn sương sớm của vùng núi yên bình từ lâu lắm thì phải. Chả thế mà dẫu cho đã có cái tên Bảo Lộc nghe rất thân quen thì phố núi này vẫn còn giữ được cái tên gốc bản địa B’lao mãi đến bây giờ. Theo thông lệ hàng năm ngày giỗ ông nội tôi thường vào dịp mưa ngâu rả rích tháng bảy, thế mới lạ chứ! Mà lại hợp với bao câu chuyện hàn huyên kéo dài lê thê trong bữa cỗ bên cốc rượu cay nồng. Đề tài nóng hổi mọi người quan tâm hiện giờ vẫn là cà phê rớt giá khiến nhiều hộ lỗ nặng, nếu tình trạng này kéo dài chắc sẽ ảnh hưởng đến năng suất vì người ta bỏ bê, thậm chí có thể bán đất làm chuyện khác, hoặc bọn thanh niên kéo đi thành phố làm ăn. Bố tôi là người có tâm trạng não nề “được hạt cà phê thật chua chát, nào là tưới nước, rồi phân rồi bệnh, đã vậy giá cả bấp bênh. Suy cho cùng trăm thứ đổ đầu dân cày, phen này dám húp cháo lắm”. Ông trưởng thôn nghe thế góp ý “tôi đã theo dõi rất kỹ cà phê rớt giá tối đa chỉ ba mùa rồi lại tăng, mình cứ an tâm sống tận cùng với đất, người đẻ chớ đất đâu có đẻ, mà cà phê bán một năm giá cao bằng ba bốn năm giá thấp cộng lại…” Ông Sáu châm đóm lửa kéo hơi thuốc lào phấn khởi hẳn lên “lúc này mình gỡ gạc cây trà đang có giá, mất cái này còn cái nọ… nói thật chưa thấy đâu dễ làm ăn như nơi này, bởi thế có câu “Đệ nhất xứ B’lao đó, không tin bà con cứ thử đi khắp Tây Nguyên mà xem”. Mẹ tôi nãy giờ thu xếp chén bát cũng vội lên tiếng “đúng đó người Pleiku, Đắc Lắc lên đây bảo trên đó trồng cà

33

Page 34: Sống tận cùng với đất

phê gay go lắm, khó hơn đây…” tôi dứng ngoài cũng xen vào “mà ở đây có nghề nuôi tằm nữa, nếu trúng mỗi hộp kiếm hơn bạc triệu cũng tạm đủ sống” Đề tài bỗng xoay qua chuyện trồng dâu nuôi tằm, người thì phân tích nghề này có ở B’lao từ lâu, nhưng từ hồi cây cà phê lên ngôi thì bà con đâm chán việc nuôi tằm, từng thửa ruộng dâu xanh tốt thoai thoải trên các quả đồi vun vén rất kỹ... Thế mà bỗng chốc bị chặt phá. Người khác lại nói đã từng trải qua thời kỳ thịnh suy của nghề trồng dâu nuôi tằm ở đất này, những ngày mưa bay bay phải leo đồi cao hái dâu về cho tằm ăn, bận nhất là tuần tằm ăn rỗi phải luôn tay luôn chân theo dõi con tằm sít sao. Chỉ cần một cơn gió độc thổi tới, hay điều kiện thời tiết bất thường là có thể khiến con tằm bị bệnh như chơi, mà đến cơ ấy thì trị bệnh rất khó khăn, đúng là “nuôi lợn ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng”. Mà suy cho cùng cái nghề vất vả này cũng khó làm giàu, khi gỡ kén bán vừa xong thì cũng là lúc trang trải đủ mọi thứ chi phí… rốt cuộc chẳng còn bao nhiêu, đúng là cái nghề “tích cốc phòng cơ” dùng để đối phó với những lúc khó khăn, hoặc để phòng hờ làm cái khác lớn lao hơn. Ở vùng đất này bao năm, tôi hiểu vì sao nghề này ngày càng có chiều hướng đi xuống, rất khó khôi phục. Những câu chuyện làm ăn, miếng cơm manh áo như thế râm ran đến tận nửa khuya, khiến em gái tôi bận lo tiếp trà đến mệt lử. Lúc khách đã vãn, bố tôi ngồi bên tách trà nóng thỉnh thoảng vê thuốc lào vào cái điếu cày kéo sòng sọc, khói tỏa ra trắng toát cả khoảng không trước mặt. Vừa kết thúc khóa học trở về là Phú bắt tay ngay vào công việc, hôm trước Phú nói “này Tuấn! để rồi xem, lần này tao quyết cải tạo lại rẫy cà phê già cỗi, rồi lập vườn ươm giống ghép đầu dòng. Vừa rồi trên Đắc Lắc nhờ áp dụng kỹ thuật ghép mà năng suất tăng lên đến 6 - 7 tấn/hécta”. Nghe Phú kể rành mạch từng ly từng tý, tôi chợt nhận ra một cơ hội đã bị bỏ lỡ, mà những cái như thế đâu có gì là quá mới so với thông tin từ các Viện, Trung tâm nghiên cứu giống cây… Cái khó là bà con mình đa số đều an phận thủ thường. Ngày trước chính tôi từng ươm giống cây bằng cách lựa những hạt to, mẩy trên cây vào cuối năm rồi chà xát vỏ ngoài rửa sạch chất nhầy đem phơi cỡ một nắng, sau đó rải lớp mỏng vào nền đất cát. Khi mầm cây đội lên tôi nhổ chúng đem ươm vào bầu đất có trộn sẵn phân chuồng. Có năm tôi đã ươm vài ngàn cây bán tại nhà, nhưng bà con ở đây cũng có cách lựa giống khác là đi nhổ cây con mọc tua tủa dưới gốc cây ở đồn điền cũ của người Pháp xưa, họ cho rằng giống như vậy tốt khỏi cần bận tâm. Tất cả cách thức nhân giống trên có ưu điểm là dễ thực hiện, đỡ tốn công nhưng khi bói trái thường có khuyết điểm nhỏ quả, năng suất thấp. Một kết quả dễ thấy nhất là đa số rẫy cà phê trong vùng đều già cỗi sâu bệnh, thu hoạch quả còn giảm theo từng năm. Việc đầu tiên Phú nhờ tôi là tìm thằng Tính con ông Sáu, để nhờ nó cưa đốn hai sào tây cà phê tuổi cỡ mười năm của nhà Phú. Ngay bữa trước thì bố Phú đã ngăn cản bảo rằng cứ để như vậy việc gì phải cải tạo chạy đôn chạy đáo mãi mới

34

Page 35: Sống tận cùng với đất

tìm ra Tính và biết rõ lúc này rẫy, bãi nhà nó đã dọn xong xuôi nên chắc chỉ la cà ở quán nhậu. Thật sự nó chẳng phải đứa bê tha, thì làm hết mình, mà chơi thì chơi hết mình. Mà chơi ở đồng quê thì phổ biến nhất là phải biết mùi rượu chè, được một cái là Tính sẵn sàng làm bất cứ việc gì dầu khó khi có người nhờ vả, nhưng có điều là phải hạp với nó. Mà thật… từ sáng sớm Tính đã nổ may cưa giòn giã, Phú chỉ vệt mức ở cây cà phê để cắt ngang. Tiếng cây đổ ào ào, mấy người quanh rẫy nghe thế tưởng là bọn trộm cắt cây chắn gió quanh vườn nên chạy đến, họ ngạc nhiên và Phú giải thích “bộ rễ cây cà phê này xum xuê, khỏe. Vậy ta đốn thân chờ ít lâu thì mầm nhú lên cỡ một gang tay thì kiếm chồi đầu dòng ghép vào…” Mọi người nghe Phú kể thấy là lạ, có người nói cứ ném nhiều phân vào gốc tất sẽ có quả lớn, từ cả chục năm nay bà con đều làm thế, vậy mà có cơm ăn áo mặc, xây lên nhà cửa, lo cho con cái… có sao đâu, khoa học kỹ thuật chỉ được phần nào, mà cũng xa vời… Đúng lúc lằn cưa cuối cùng vừa xong, máy vừa tắt thì nắng cao dọi đỉnh đầu, chan hòa cả góc rẫy nhà Phú mà trước đó phủ kín bóng râm. Ngay đến thằng Tính cũng thốt lên “thế là toi hai vụ thu hoạch, chẳng biết có ra cơm ra cháo gì không?” Cơm trưa xong đâu đó cả bọn lại đến rẫy nhà tôi cách đó một đoạn bằng chiếc Cub 81 - 70, đây là xe chuyên đi cày, vì bộ máy rất khỏe leo đồi núi, chịu đựng khó có chiếc nào bì kịp. Đường khó đi lởm chởm đá xanh rồi ổ gà, thêm cả đoạn dốc khá gắt, nếu mưa lớn đất dẻo quẹo như mỡ gà, nhưng may điều đó chưa xảy ra. Suốt dọc đường đi qua mảnh trà cành mọc xanh tốt, hết đoạn dốc cao mấy chiếc xe lại bổ nhào xuống vùng thung lũng rồi đến quả đồi Tà Ngào, ở đó là mảnh cà phê nhà tôi mà Phú sẽ “chỉ đạo” cưa đốn một sào tây thí điểm, để chờ ghép sau này, mọi việc vẵn ở phía trước… thách thức và khó khăn vẫn lồ lộ hiện ra. Tôi đào nốt cái lỗ cuối cùng với thằng Tính để dựng cọc sắt làm cái chái phụ căng lớp lưới nylon đen, đây là cái giàn lưới thứ tư được thực hiện tại vườn ươm này, còn ba giàn kia chứa đến vài chục ngàn bịch nylon ươm cà phê mít được một năm dùng làm thuốc gốc ghép chồi Robusta đầu dòng được Phú chọn lọc tận Đắc Lắc. Cà phê mít là cây đặc chủng sinh trưởng khỏe và mang nhiều tính cách hoang dại, nhưng từ lâu bị bỏ phế vì hương vị chế biến có vị chua. Từ ngày tôi lùng mua quả tươi thì người ta lại chú ý chăm sóc đến giống này, như vậy có thêm vô vàn cái lợi là làm cây chắn gió, chống xói mòn ở đất dốc bạc màu… Dăm sào đất nhà Phú ở rìa quốc lộ đã thành vườn ươm ngăn nắp. Theo thỏa thuận Phú bỏ vốn đầu tư nên nghiễm nhiên là “ông chủ”, còn tôi làm “quản lý”. Thông thường ở bất cứ vườn ươm quy mô nào cũng chủ yếu hoạt động với tính cách gia đình. Khi bắt tay vào việc tôi mới nghiệm ra rằng đây không phải là nghề dễ làm giàu. Dù số vốn bỏ ra không nhiều như các nghề khác, nhưng con số thu hồi luôn là ẩn số khó giải, bởi vậy tôi lập bảng chi tiêu cẩn thận. Thằng Tính

35

Page 36: Sống tận cùng với đất

con ông Sáu được giao tìm nhân công vào bịch và xếp theo thứ tự ngay ngắn, toàn là công việc chân tay tỷ mỷ, thu hút có lúc mươi lao động nữ ở địa phương. Cái khó là chọn người làm công yêu thích công việc, nên buổi ban đầu phải huấn luyện họ, rồi trả tiền công lao hơn so với làm tại rẫy… tôi thấy bài toán không đơn giản, nhưng dù gì cái chái phụ cuối cùng cũng hình thành để ươm các giống trà cành đang thịnh hành để thay thế trà hạt lâu đời và năng suất kém. Ở quanh vùng có nhiều vườn ươm kiểu này ra đời nhưng con số bị “đào thải”do làm ăn dối trá khá nhiều. Do vậy tụi tôi quyết dù đi chậm, nhưng phải tạo uy tín và tin tưởng của bà con trong vùng, không dặt mục đích trục lợi. Trước mắt sẽ bán giống với giá hạ, bán trả chậm và tư vấn giúp nông dân thích nghi, làm quen với các giống mới, và đó là nét mới chưa từng có ở đây bao giờ. Khi ngày lằng lặng trôi đi, mỗi nhành non nhú lên mơn mởn, là mỗi hy vọng và niềm tin lại nhen nhúm lên trong long tôi và Phú. Sung sướng nhất là lúc thu xếp bán xong hai giàn lưới cà phê đầu tiên, số cây giống bị hư hỏng do non kinh nghiệm bị hủy đi, chứ không tìm cách bán rẻ như nhiều nơi từng làm. Bước đầu tôi yên trí như thế. Nhưng Phú còn còn có “tham vọng” lớn hơn, lúc đầu Phú “gõ cửa” mời kỹ sư của Viện Nông Lâm nghiệp cộng tác chuyên sâu về mặt khoa học kỹ thuật, kế tiếp Phú dự định sẽ ký hợp đồng làm “cơ sở vệ tinh” cung cấp cây giống cho Viện để phân phối đi các nơi khác, mà nhu cầu thì rất lớn, chỉ cơ sở nào đạt tiêu chuẩn mới được tham gia. Như thế vườn ươm này sẽ cần số vốn và quy mô phải lớn, tôi đâm ra phân vân, nhưng phú vẫn tự tin “mình sẽ dựa vào ngân hàng… làm ăn uy tín sau này sẽ thành thứ hàng hóa lớn, tạo nhiều việc làm, nhất là đưa được các giống tốt vào địa phương. Độ năm năm nữa sẽ có kết quả bước đầu…” Tương lai là như thế, trước mắt người thường xuyên của Viện đến đây cộng tác là cô Hà, kỹ sư nông nghiệp, chừng hai mươi lăm tuổi. Cùng người địa phương nên Hà rất am hiểu và gắn bó với cây cà phê, trà nên hiểu rõ những công đoạn và “bí quyết” của vườn ươm. Hà thao tác chẻ thân cà phê mít để ghép mầm rất nhuần nhuyễn, hàng tuần cô chỉ ghé đây hai lần để quan sát và hội ý với tôi, Phú rồi cả Tính. Nhưng Tính nghe rồi biết vậy chứ chẳng mặn mà với kỹ thuật này nọ, nó làm theo sự hướng dẫn của tôi, hơn nữa nó còn phải bận phụ việc nhà. Quả thật việc thì bề bộn mà kiếm người cộng tác ở vùng này khác nào mò kim đáy biển. Mãi cho đến lúc này tôi mới sở hữu được chiếc điện thoại di động, bởi Phú hay đi đó đây trong công việc. Thậm chí cả đến rẫy cà phê nhà Phú toàn thuê mướn người nên có phần chựng lại. Thật ra nghề nông dựa rất nhiều vào sức trai tráng… thế mà lực lượng này ít chú tâm lam làm, hễ có tiền thì đi chơi nhậu nhẹt, tối đến thì phóng xe bạt mạng để muốn chứng tỏ không thua kém ai, thêm cái mốt nữa là rủng rỉnh cái di động, mà càng đời mới càng tốt… một số khác thì bỏ về thành phố làm công nhân hoặc muốn sống thử không khí thành thị xem thế nào? Chứ số có định hướng nghề nghiệp rất hiếm. Do vậy việc thuê mướn trai

36

Page 37: Sống tận cùng với đất

tráng ngày càng khó khăn, hoặc có làm thì đòi giá cao mà lại chểnh mảng, đó là trở ngại lớn khi tụi tôi muốn hoạch định việc gì… Ngày nọ khi Hà cùng tụi tôi đang quan sát mảng ươm bị đốm lá, thì thằng Tính gọi điện báo tin vườn trà cổ thụ nhà Phú bị đào trộm. Tôi lẩm nhẩm “quái lạ ai vô công rồi nghề đi trộm gốc trà”, rồi hai đứa phóng nhanh lên rẫy, để mặc Hà ở lại. Đường lên rẫy gập ghềnh khó đi, hai bên cỏ dại mọc lút đầu người, không còn lối thoát nên nước khoét nham nhở vào giữa đường, nếu không để ý dám chừng xe sẽ sụp hố như chơi. May mà tôi chở Phú trơn tru đến nơi… Mảnh trà Shan lá to “độc nhất vô nhị” để mọc hoang dã mấy chục năm nay cao trên 10mét, nằm rìa một phần rẫy cà phê. Cành nhánh loang lổ sần sùi tua tủa, loài này nghe nói có nguồn gốc từ Trung Quốc có nhiều đặc tính quý như búp to, tôm dài, nặng cánh, sinh trưởng tất khỏe… người ta dễ lên cao hái lá mang về hãm uống lá có tác dụng tốt cho sức khỏe, cành là ngoài rìa được cắt xuống bó lại mang đi các nơi bán tươi. Đó là lý do bố Phú muốn duy trì như một nguồn cảm hứng riêng biệt… tôi đếm cả thảy mất những 10 gốc bị khoét hố sâu hai thước để bứng toàn cây đem đi. Phú bất ngờ phát giác “Tuấn à! tao chắc bọn trộm mang đi bán làm cây cảnh”. Chắc là đúng, tôi nêu nhận xét “bọn ăn cắp đào công phu, chắc phải xe công nông mới chở được, chúng to gan thật mà giá trị cũng phải vài triệu một gốc”. Đúng lúc thằng Tính vừa đi đâu về oang oang “dấu bánh xe lầy ở đằng kia… không chừng chúng dám quay lại lắm, gốc trà này coi bộ quý hiếm chứ chẳng chơi”. Phú suy nghĩ “phải báo chính quyền xã, rồi báo động cho bà con hay vì chúng chuyên chở cồng kềnh dễ phát hiện lắm… mà Tính à! Mày thỉnh thoảng lên đây tuần tra tao sẽ trả công xứng đáng”. Thằng Tính nghe đi từ nhà lên đây đã xuống tinh thần “chắc bọn này thần thế lắm mới dám làm, mình có thưa kiện cũng bằng thừa”. Tôi nghe chán cái tư tưởng bi quan của nó “mày chưa chi đã sợ, bọn trộm kiếm tiền chứ thần thế cái nỗi gì, cứ tính kế răn đe chắc chắn chúng sẽ sa lưới”. Tôi nhẩm tính khoảng cách từ mảnh trà cổ thụ đến cái nhà xây nho nhỏ trong rẫy nhà Phú “hay cho người ăn ở tại chỗ canh chừng một thời gian”, mà suy đi nghĩ lại lấy người đâu ra để canh chừng, coi thế chứ tốn kém lắm, mà việc ở vườn ươm cũng bề bộn cả ra. Ngay hôm sau tôi được biết tin trên báo địa phương ở Cầu Đất - Đà Lạt cũng có vườn trà cổ thụ trên trăm tuổi bị bứng trộm quy mô, mỗi gốc như thế đáng giá vài chục triệu và cuối cùng bọn trộm cũng bị bắt. Mặt trời sáng rực ngay từ buổi sớm khi từng tốp già có trẻ có khăn gói lên rẫy thu hái cà phê. Người nào người nấy vì đây là thời gian chộn rộn nhất trong năm, bởi quả cà phê chín đỏ trĩu cành hứa hẹn vụ mùa bội thu, cũng là khi cà phê lại được giá. Tôi và Phú có phần xoay xở bề bộn hơn, cùng lúc vườn ươm sau hồi vật vã thử thách đã mang một bộ mặt mới, với cái bảng hiệu lồ lộ ngoài quốc lộ mang dáng dấp tự tin quy mô nhất trong vùng tựa như trại giống cấp nhà nước. Đó là vườn ươm Thanh Tâm.

37

Page 38: Sống tận cùng với đất

Hà là thành phần không thể thiếu và góp sức rất nhiều vào sự vươn lên ở đây. Kết cuộc tụi tôi đã củng cố được một phần lòng tin của bà con ở đây. Tôi nghĩ Phú đã học về marketing nên cũng mạnh dạn đưa ra nhiều sáng kiến… bởi thế đã xảy ra sự cố là có kẻ thù ghét đã xịt thuốc 2,4D vào hai luống ươm, rất may đêm ấy tôi cùng Tính nghe tiếng chó sủa chạy đến khiến kẻ gian bỏ trốn. Sau đó tụi tôi mới lo củng cố hàng rào để đề phòng mọi bất trắc tương tự, dễ khiến công việc bị ngưng trệ và hậu quả khó lường… Tuần sau vào buổi sáng, tôi sốt ruột chờ thằng Tính chuẩn bị đưa xe đất vào giàn lưới, thì ông Sáu đạp xe đến báo tin “đang lúc cà phê chín lác đác thì thằng Tính theo chúng bạn đi thành phố làm ăn, tánh nó ngang quá trời Tuấn à! Mà sao dạo này thanh niên bỏ về thành phố nhiều quá, ối giời chúng nó ham vui, tưởng về đấy làm cha thiên hạ chắc, rồi cũng phải về đây… dễ gì mà trụ lại cái nơi đô hội người”. Thật thế trai tráng ở đây ngày càng không chịu nghe ai, cứ tự ý mình làm. Xưa kia các cụ chịu thương chịu khó bao nhiêu, thì bây giờ lớp trẻ lại tỏ ra thiếu kiên nhẫn đến bấy nhiêu, đó là chưa nhắc đến việc trong thời đại mới họ cần học hỏi rất nhiều, nếu không sẽ hụt hẫng và khó có thể vươn lên được. Bọn trộm dữ dằn lại mò đến đào trộm mảnh trà cổ thụ ở đồi Tà Ngào, lần này chúng bị bắt do dân hái trà phát hiện báo công an xã. Đài truyền hình địa phương đến quay phim cận cảnh để phổ biến loài trà quý hiếm cần được bảo tồn, duy trì. Có đoàn nghiên cứu đến tại chỗ đánh giá lại giá trị của cây trà mà bao thế hệ còn duy trì tới nay. Cũng nhân vụ mùa cà phê từng tốp lao động từ miền Bắc, miến Trung kéo về đây làm thuê theo thời vụ. Phú chọn được vợ chồng nọ để họ sinh sống hẳn trong rẫy chăn nuôi bò, thỏ, gà vườn… luôn thể trông giữ mảnh trà cổ thụ. Tôi thấy đó là giải pháp đúng, vì họ sẽ hưởng vật nuôi và được trả công. Thêm nữa ba đứa con trai họ sẽ phụ giúp công việc ươm cây, cũng là bài toán khó vì tuy to xác, khỏe mạnh nhưng cả ba chưa biết chữ, nên chắc tôi sẽ phải chỉ bảo cặn kẽ rồi mới yên tâm giao họ làm việc. Ông Sáu hiểu băn khoăn này nên đùa “tao thấy ở đời không ai có học mà làm nông, và nhà nông không muốn con mình nối nghề. Đó là thực tế trong thời buổi này”. Quả thật từ lúc lưng còng vai mỏi nên ông Sáu nhận lời tụi tôi cộng tác với vai trò “đốc công”, từng trải đời nên ông dễ gần gũi với người làm, nhưng cứng rắn khi cần thiết, rồi có thêm nhận xét xác đáng. Một ngày bận rộn, Hà đến đây đem theo xấp hồ sơ về kế hoạch, rồi bảng chiết tính đầu tư với quy mô lớn, để đáp ứng yêu cầu cung cấp cây giống cho Viện, trước mắt đợt đầu xuất được năm nghìn cây dưới hình thức bán trả chậm… quả là vui mừng, nhưng chắc chắn bài toán vốn sẽ nan giải hơn. Nhưng Phú thích năng nổ, xông xáo cộng với chút “phiêu lưu, táo bạo”. Bữa đó Hà lăng xăng đến tối rồi ăn cơm xong mới về. Ông Sáu rót cốc rượu oang oang “Phú à! con Hà coi bộ thích mày… hai đứa có học xứng đôi đó, hai lăm tuổi xây dựng gia đình được rồi, nói thật con kiến không qua nổi mắt tao… còn thằng Tuấn nữa ở vậy mãi sao

38

Page 39: Sống tận cùng với đất

à!”. Lúc này Phú mới thơ thẩn người ra, tôi cũng sực tỉnh “chắc mình lam làm quá đến quên mất thời thanh niên”… Tự nhiên tôi nhớ lại tuổi thanh xuân của mình gắn chặt trên mảnh đất này, cùng hòa lẫn với bao mồ hôi rồi cả hi vọng xen lẫn đắng cay, từ đó tôi hiểu là người ta phải biết sống tận cùng với đất… rồi đất cũng chẳng phụ người.

39

Page 40: Sống tận cùng với đất

VƯỢT QUA SỐ PHẬN

Phạm Văn Thúy

Đời người hầu như chí ít cũng có một lần đứng bên bờ vực thẳm. Khác nhau ở chỗ họ dám vượt và biết vượt như thế nào mà thôi. Chị là một người phụ nữ như vậy! Ngay từ tuổi thơ, bão táp số phận đã đổ bộ lên cuộc đời chị dồn dập, phũ phàng, nghiệt ngã. Nghiệt ngã tưởng như không thể nghiệt ngã hơn!

Chị thứ ba, tên là Phan Thị Vân, quê ở Phong Mỹ, Giồng Trôm, Bến Tre. Năm chị bốn tuổi, mẹ bệnh chết, để lại: anh Hai và em Long hai tuổi. Khi chị tám tuổi, cha gởi hai chị em nhờ dì nuôi dùm, cha và anh Hai đi kháng chiến. Trước khi đi, cha ôm hai chị em vào lòng âu yếm: ở với dì các con gắng chăm ngoan và nghe lời dì. Vân lớn rồi, con phải trông coi và thương yêu em Long. Khi nào cha về cha sẽ mua quần áo và quà cho hai đứa… Nói xong cha nhổ nước miếng vô lòng bàn tay rồi xoa lên đầu hai chị em. Cha bảo làm như vậy để hơi ấm cha con luôn bên nhau, khi xa cho đỡ nhớ. Không ngờ đó lại là lần cuối cùng cha con gặp mặt. Mấy tháng sau, chị nhận tin cha bị giặc bắn trên đường đi công tác. Sau đó vài năm, anh Hai cũng hy sinh. Chị rưng rưng bảo đến bây giờ hơi ấm của cha vẫn còn vương trên mái tóc, tiếp thêm sức cho Vân vượt qua bao cay đắng, nhọc nhằn.

Sống với dì, chị làm đủ việc. Sáng sớm dậy quét nhà, quét nhà rồi giặt hai chậu đồ. Sau mỗi bữa ăn rửa mấy chồng tô chén. Sáng, chiều chị còn đi mò cua bắt cá, lấy lúa, chăn bò…

Chẳng hiểu sao! Ngay từ nhỏ, chị đã ham giăng lưới, cắm câu. Chuyện mò tôm, bắt cá với chị cũng dễ như đi cấy, đi cắt lúa vậy. Không đi thì thôi, đã đi, chị đều có cá mang về, bữa ít thì cũng bắt được một vài ký, bữa nhiều ba bốn ký không chừng. Thấy chị bắt cá giỏi nên bà con lối xóm kêu chị là “con rái cá”. Chị ngơ ngác, chẳng hiểu sao người ta lại kêu mình như vậy!

Cuộc sống thật nghiệt ngã! Hai đứa cháu ăn nhờ ở đậu, dù có chăm ngoan đến mấy cũng trở thành gánh nặng trong gia đình. Dần dà, dì tỏ ra khó chịu, rầy la. Các con dì hiếp đáp, nạt nộ… Chịu không thấu, Long bỏ nhà đi bụi. Chị lo lắng đi tìm Long mấy ngày nhưng không gặp, đành quay về. Nhiều khi chị cũng định bỏ đi luôn, nhưng đi đâu, làm gì để sống? Với lại, nếu thằng Long quay về, không thấy chị, nó lại bỏ đi, chị sẽ mắc tội với cha mẹ. Chị hy vọng vì tình ruột thịt, có ngày nó sẽ trở về. Sống với dì tuy “cơm không lành, canh không ngọt”, nhưng dù sao vẫn còn có một mái nhà để mà nương nhờ, còn hơn nơi gầm cầu xó chợ. Nghĩ vậy, dù cực mấy chị cũng ráng chịu. Như con bò lạc mẹ, chị dò dẫm, gắng gỏi đi trong sóng gió cuộc đời.

40

Page 41: Sống tận cùng với đất

Thời gian như có phép màu! Mới ngày nào chị còn là “con rái cá” lầm lũi, ốm o. Vậy mà nay những đường cong phổng phao mơn mởn đã định hình trên cơ thể của cô gái miệt vườn chân chất. Rồi một hôm dì kêu chị vô nhà, nhẹ nhàng: Dì nuôi con đã bảy, tám năm. Nay con đã lớn, dì nhận lời gả cho người ta ở bển sông… Nghe xong, chị thấy tủi thân, ôm mặt khóc rưng rức.

Bước chân ra khỏi căn nhà lạnh lẽo, chị ngỡ mình sẽ được sống trong mái ấm tình người. Ai ngờm chị lại sa vào ngôi nhà thiếu trái tim. Có chồng mà cũng như không. Không yêu! Vợ chồng sống với nhau như người dưng nước lã. Thời gian mách bảo, anh không phải là người đàn ông trong giấc mơ của chị. Thêm nữa, nhà chồng chê bai chị đủ điều, coi chị như con hầu người hạ. Chị chán chường, buồn tủi cho duyên phận của mình.

Trong một đêm rúc rắc mưa, chị lặng lẽ xách giỏ bàng ra đi. Sau lưng gió hú như ma đuổi, trước mặt trời tối đen. Nước mắt hòa nước mưa cay như có muối. Đường đời trăm ngả, chẳng biết bước về đâu? Về với dì? Nhà chồng đến bắt, hoặc dì lại đem gả bán cho người khác thì sao?

Đêm hết mưa, đom đóm ở đâu bay ra rắc những chùm sáng mong manh chấp chới, kéo chị ra khỏi luồng suy nghĩ mông lung, bế tắc. Trời không một ánh sao, linh cảm như mách bảo cứ nương theo ánh đom đóm mà đi sẽ gặp điều lành. Chị “theo” đom đóm đi hoài cho tới hừng đông. Bỗng trước mặt hiện ra ngôi chùa trầm mặc trong sương. Tiếng mõ công phu buổi sớm gieo vào lòng chị những âm thanh trầm ấm, thiết tha…

Xuống tóc, chị nương nhờ Linh Phong Tự ở Tân Hiệp, Châu Thành, Tiền Giang. Dường như số phận đã lựa chọn chị chứ chị biết đâu mà chọn lựa!

Người ta bảo cửa chùa là nơi nương náu bao kiếp đời phận bạc. Chẳng hiểu có đúng không? Nhưng với chị, sau bao tháng năm ăn chay niệm Phật, giờ đây, chị nhận thấy bao mất mát, khổ đau… đã lắng sâu chìm khuất trong lòng. Và chị thấy mình thanh thản, tịnh yên trong Kinh Phật.

Gần mười năm tu tâm dưỡng tánh nơi cửa Phật, chị chứng kiến biết bao kiếp đời cơ nhỡ, bất hạnh đến cầu xin. Chị nhận thấy cửa Phật là nơi giàu tâm đức, từ bi, nhân ái… nhưng lại “nghèo” tiền bạc. Lấy gì để giúp người đây? Điều đó làm chị thức trắng thao thức bao đêm. Phật dậy chị phải có đức tin, phải biết thương người, giúp người khi họ gặp rủi ro, hoạn nạn, là thể hiện đức hiếu đễ của môn sinh, phật tử. Vậy mà chị chưa biết tính sao. Nhưng nhất định chị phải tìm ra cách làm ra đồng tiền lon gạo để giúp người gặp cảnh hiểm nghèo, ngang trái…

Thời gian mải miết trôi, cuộc sống tưởng như đã an bài. Vậy mà… Ngần ấy năm tụng Kinh niệm Phật, chị không sao quên được thằng Long đang ba chìm bảy nổi. Không sao quên được cái mùi nồng nồng của bùn đất, mùi thơm của ngọn khói đồng, mùi tanh của con tôm con cá… Chị bỗng ngộ ra, dao cạo nhà chùa dù có bén mấy thì tóc vẫn cứ mọc ra. Chị chưa có duyên với đời và cũng chẳng có duyên nơi cửa Phật. Sóng gió bụi trần chưa để chị yên.

41

Page 42: Sống tận cùng với đất

Rưng rưng gửi lại bộ nâu sồng nơi cửa Phật, chị ra đi với một giỏ xách chứa ngổn ngang những con chữ của Phật và một gói cơm chay.

Hai mươi bảy tuổi, rời cửa chùa, chị như con đò không lái trên sông! Chị về Thạnh Trị, Bình Đại nương thân. Ngày ấy, nhiều người tu tại gia, vào những ngày rằm ngày lễ, nhiều người dùng cơm chay. Bản thân chị cũng ăn chay trường. Với lại khi ở chùa chị học được “bí quyết” nấu cơm chay. Chị mạnh dạn nấu bán. Cơm ngon, nhiều người tìm đến mua. Không ngờ chị lại “khởi nghiệp” từ gánh cơm chay dạo khiêm nhường dân dã ấy.

Một hôm có bà cụ ăn xin cứ đi theo chị hoài mà chẳng nói năng gì. Thấy lạ, chị dừng chân hỏi. Bà cụ run run, nói trong cơn hổn hển, từ sáng giờ dì chưa được ăn, dì không dám xin con! Chị lặng người! Chị chợt nhớ đến thằng Long đang phiêu bạt đói khát ngoài đời mà lòng quặn thắt. Bới cho bà cụ chén cơm, chị ân cần bảo lần sau dì cứ kêu, đừng có e ngại gì… Bà cụ rơm rớm nhìn chị như muốn cám ơn mà sao không nói thành lời. Xong, mỗi người lại đi mỗi ngả. Thế mới biết, cái nghèo đến với cái nghèo thật chân tình giản dị!

Chuyện cơm áo giờ đây đối với chị không phải là việc khó. Nhưng chẳng hiểu sao, ngày cũng như đêm, chị tất tưởi cùng gánh cơm xuôi ngược như con thoi trong cuộc mưu sinh. Âu cũng là ý Phật!

Dù gánh nắng đội mưa, dù sớm khuya chiều tối, gánh cơm chay vẫn rong ruổi khắp đầu làng, cuối chợ, bến sông. Đôi vai nổi u nổi cục, bắp chân nhức mỏi, sưng tức vì tụ huyết do phải đi nhiều. Lâu cũng thành quen, sự mệt mỏi về thể xác dần dần nhường chỗ cho niềm vui gom nhặt. Và, qua những người mua cơm, chị dò hỏi, biết được Long đang ở rể huyện bên. Ngay hôm sau chị khăn gói đi kiếm Long. Hai chị em gặp nhau mừng tủi nghẹn ngào. Về nhà càng nghĩ càng thương em, mấy ngày sau chị đem ít tiền sang giúp vợ chồng Long làm vốn mần ăn.

Ngày ngày như con ong cái kiến, chị tích góp từng đồng cu, cắc bạc từ những giọt mồ hôi khuya sớm tảo tần. Đồng lời mỗi ngày một khá. Vốn liếng mỗi cái một tăng. Cuộc sống mách bảo, muốn có nhiều tiền hơn không thể trông cậy vào gánh cơm chay đạm bạc. Thế rồi, chị gom tiền thuê sạp ở chợ Thạnh Trị bán đồ chay. Hai năm sau, chị mua ngôi nhà cấp bốn ở ngay chợ để mở quán bán đủ các món đồ chay. Cần người, chị kêu vợ chồng Long về phụ giúp. Do vậy doanh thu của cửa hàng ngày một tăng. Dồn tiền, chị sang được một miếng đất ở thị trấn Bình Đại.

Ngày 30 - 4 - 2002, chị cùng bạn gái Bé Tư rủ nhau đi dự lễ khánh thành cống đập Ba Lai. Nhân tiện bạn rủ chị về thăm nhà ở ấp Bình Phú, Thạnh Trị cách cống đập khoảng 2km về phía đầu nguồn. Đi trên con đê biển, hai bên là cánh rừng bạt ngàn cây hoang dại, in đậm những dấu tích của nghèo nàn, lạc hậu.

Đêm biển lạnh. Bé Tư kêu chị đi dạo. Trên đầu lấp lánh sao. Trước mặt, từng đàn đom đóm đua nhau rắc những chùm sáng nhay nháy trên cánh rừng.

42

Page 43: Sống tận cùng với đất

Đom đóm ở đây nhiều vô kể, nhiều như nơi nào đất lành thì nơi đó có nhiều đom đóm! Ánh đom đóm làm chị ngùi ngùi nhớ lại cái đêm chị lủi thủi bỏ nhà chồng ra đi trong mưa gió. Đom đóm đã đưa chị đến cửa Phật từ bi. Đêm nay, chị lại gặp ánh đom đóm diệu kỳ như mách bảo, đây là vùng đất lành, đất hứa…

Về nhà sau mấy đêm đắn đo suy tính, chị quyết định bán mảnh đất ở thị trấn và vay thêm ngân hàng sang 3 ha đất ở gần cống đập Ba Lai để nuôi cá.

Ba ha đất thực tế là một khu rừng hoang ngập nước dọc bờ sông Ba Lai. Rừng ken dày là chà, cóc kèn, ô rô, lau sậy… toàn những cây “có sừng có mỏ”, gai góc tua tủa như bàn chông, lông nhím. Và, nơi đây cò là nơi trú ngụ của rắn rít, sâu xanh, bọ xám… Mới thấy, ai cũng ngán. Song, những trở ngại ấy không làm chị nản mà càng kiên trì đối mặt với khó khăn, thử thách. Thế là chị cầm dao cùng mười người làm công, đốn cây từ sớm đến chiều, làm không biết mệt, làm đến nỗi bàn tay phồng rộp, rớm máu. Hơn hai tháng làm quần quật, 3 ha rừng đã được phát quang. Sau đận ấy, chị mỏi mệt thấu xương, nhìn vật gì một cũng hóa hai, chập chờn mờ ảo. Chị phải nằm viện hơn nửa tháng vì thịt da chưa quen với nắng mưa và bị ong, đỉa trâu, sâu bọ… đốt cùng mình.

Phát quang dọn dẹp cây cối xong, chị đi tham quan, học hỏi một số trại nuôi cá ở Bình Đại. Về nhà chị mày mò tự “thiết kế” cơ ngơi nuôi cá của mình. Chị thuê xáng xạp múc một con rạch ở giữa, thông với sông Ba Lại và múc 8 hầm cá hai bên bờ rạch. Mỗi hầm đều đạt ống bọng dẫn nước ra vô. Ở phía giáp mé sông. Chị cho cạp đất san một nền chừng 500m2 để cất nhà cho người làm công ở và xưởng chế biến thức ăn cho cá. Hai bên đường đi và xung quanh hầm chị trồng hơn 300 gốc xoài cát Hòa Lộc rợp bóng xanh, nay đã cho trái trĩu cành.

Mọi lo toan đều dồn lên vai chị. Với niềm tin và tình yêu, bằng quyết tâm và việc làm cụ thể, chị đã đánh thức 3 ha rừng hoang lạnh, vô hồn đang trong giấc mê muội trở thành khu trang trại có hình hài, diện mạo, cốt cách có lứa tuổi hai mươi. Đất mang dấu ấn con người đất đã hồi sinh.

Từ nhỏ, chị đã làm bạn với bùn với đất. Chị chưa hiểu gì về đât, dù là nhỏ nhất. Nay, sau bao đêm cùng ăn ở, vui buồn với đất, chị nhận thấy không gì giàu bằng đất. Đêm đêm lắng nghe tiếng đất thầm thì, trăn trở. Đất như vươn vai đứng dậy, cùng chị đi trong khát vọng ước mơ. Người ta bảo “đất như mật, người như ong”, quả không sai! Ở đời, người có yêu cây, cây mới cho hoa thơm trái ngọt; có yêu nước, nước mới cho con tôm con cá; có yêu đất, đất mới cho mùa màng màu mỡ. Ấy là nhân quả Phật đã dạy chị.

Loay hoay mãi đến cuối năm 2002, trang trại mới tương đối hoàn chỉnh. Ban đầu, chị đầu tư nuôi hai hầm cá rô phi. Những bước đi đầu tiên sao tránh khỏi chênh chao, vấp váp. Bởi vậy chị chấp nhận rủi ro. Những ngày đầu cá nổi lên ăn dầy đặc, chị như mở cờ trong bụng. Nhưng lạ thay, càng ngày cá nổi lên ăn càng thấy thưa dần. Đến tháng tư bóng dáng rô phi chừng như mất hút, thấp thoáng xuất hiện đàn cá lóc lậm lừ, hung dữ quần đảo dưới hầm. Hiểu ra thì đã

43

Page 44: Sống tận cùng với đất

muộn. Chị không ngờ mối quan hệ giữa chúng bạo liệt đến vậy. Chị cho xả hầm, kéo lên, hai phần cá lóc lớn nhỏ, chỉ một phần rô phi. Vụ cá này chị đầu tư hơn 30 triệu, thu về chưa đầy 15 triệu. Lỗ thấu xương! Nhưng chị chưa mất trắng. Sự lỗ lãi này có thể chấp nhận được, theo chị đó là sự lỗ lãi “ngọt ngào”. Buồn thấu ruột gan, nhưng chị không nản. Bần thần dạo quanh hầm cá cả tuần, chị băn khoăn, làm cách nào ngăn cá lóc vô hầm? Trong đầu chị chợt nảy ra ý “lấy độc trị độc”. Tại sao không? Nuôi ngay cá lóc, chẳng lo cá khác vô hầm ăn hiếp. Quả là cái khó ló cái khôn, trong cái rủi chứa bao điều bất ngờ thú vị. Chấp nhận, chịu đựng, vượt qua khó khăn dường như đã trở thành thói quen của chị.

Thế rồi chị lần mò lên miệt An Giang, Đồng Tháp mua cá lóc giống về nuôi. Ban đầu chị cũng lo, bởi ám ảnh vụ rô phi thất bát. Cá lóc vốn ít bệnh, phàm ăn, chịu dơ bẩn nhưng phải trường vốn, nếu không cho ăn đủ, chúng sẽ “chén” lẫn nhau, hoặc gặp mưa chúng rủ nhau nhảy hầm đi mất. Lần này chị mạnh dạn mua 80000 cá lóc giống về thả bồn hầm. Hàng ngày cho cá ăn ba cữ, chị trực tiếp theo dõi cá ăn từng bữa. Bởi mọi sự thay đổi khác thường đều biểu hiện rõ ràng nhất lúc cá ăn. Cá tranh nhau ăn, ăn đều, ăn hết mồi, ấy là cá khỏe mạnh. Và ngược lại, tức là có vấn đề, chị phải can thiệp ngay. Cá được nuôi dưỡng đúng kỹ thuật, chúng lớn nhanh trông thấy. Mỗi khi cho cá ăn, mặt nước cứ sôi lên sùng sục như nong tằm khổng lồ đang ăn rỗi. Đàn cá lồng lống đua nhau tung tăng vùng vẫy những vũ điệu của ấm no. Ngày đêm chị cầu mong cho những “đứa con” của mình ăn khỏe, lớn mau. Ông trời chừng như có mắt. Sau 6 tháng nuôi, cá đạt trọng lượng từ 1 đến 1,2 kg. Xả hầm cân được trên 22 tấn cá thương phẩm, trừ chi phí chị lời được gần 200 triệu đồng. Thu lứa cá đầu tiên chị bật khóc. Khóc vì đất chẳng phụ người, khóc vì thành công ngoài mong đợi, khóc vì phận đời đã đổi. Những giọt nước mắt long lanh niềm hạnh phúc nhọc nhằn.

Có tiền, chị tiếp tục đầu tư theo phương châm thâm canh, gối vụ, đa dạng cá nuôi, tránh cảnh no dồn đói ép, thương lái ép giá, lần này chị nuôi hai loại cá lóc (loại lóc đen, lóc bóng) và rô đồng. Tám hầm cá cũng như 6 xưởng máy vận hành nhịp nhàng, cần mẫn suốt ngày đêm dưới bàn tay của chị và những người làm công. Thế rồi, luân phiên, cứ ba tháng chị lại kéo một hầm cá thương phẩm bán. Trừ chi phí mỗi năm chị thu thòm thèm bạc tỷ.

Thời gian như nhịp thoi đưa, dệt bức tranh toàn cảnh về một mô hình làm ăn năng động, hiệu quả. Thành công nối tiếp thành công, trại cá của chị như hương thơm gặp gió. Hay tin, UBND huyện Bình Đại và các đoàn thể xuống tận nơi “mục sở thị” thành quả từ đôi bàn tay của người phụ nữ giàu nghị lực mà cứ ngỡ như… huyền thoại. Được lãnh đạo các cấp quan tâm khích lệ, chị càng vững tin vào công việc của mình. Có người khuyên nên mua thêm đất, mở rộng trang trại và quy mô. Chị nghĩ, sức có hạn. Mở rộng. Không kham nổi, thất bại là cái chắc. Trại cá đang ổn định. Sự ổn định được đắp bồi từ bao công sức, mồ hôi và mất mát. Có mất mát mới biết giữ gìn. Biết gìn giữ những gì có được cũng là một

44

Page 45: Sống tận cùng với đất

thành công của chị. Lúc thảnh thơi, chị bất chợt mỉm cười nhớ lại biệt danh “rái cá”. Thế mà nghiệm! Giờ đây chị là rái cá thực thụ trong trang trại của mình chứ không “lạc loài” trên đời này nữa.

Tiếp xúc với chị, ai cũng ngỡ ngàng, là chủ một trang trại bề thế, thành đạt ở Bình Đại, vậy mà chị bình dị, chân chất đến ngạc nhiên. Chị mặc bộ bà ba giản dị, đầu đội chiếc nón lá cũ kỹ. Không phân biệt chủ thợ, chị năng nổ cùng làm việc với những người làm công. Chị chưa có được cái phong thái bà chủ, nhưng chị có được cái chân chỉ, nghĩa tình. Dường như cái gốc, cái hồn của nhà nông hòa quyện với cái tâm, cái tánh nơi cửa Phật đã tạo nên chân dung chị. Một chân dung hiền hậu như không thể hiền hơn.

Thời long đong, cơ cực đã qua. Giờ đây chị có một cuộc sống phải nói là dư giả về vật chất. Ở đời không hẳn có nhiều tiền là hạnh phúc! Cái giàu cá nhân cũng chỉ là cái giàu riêng lẻ mà thôi. Chỉ khi nào cái giàu đó vượt ra khỏi bốn bức tường, để sẻ chia thì nó sẽ sinh chồi nảy lộc và niềm vui cuộc sống được nhân lên. Không chỉ biết giữ gìn, chị còn biết sẻ chia, đó cũng là một tâm tính của chị.

Hôm Bến Tre tổ chức họp mặt nữ doanh nghiệp tiêu biểu nhân ngày Doanh nhân Việt Nam 13 - 10 - 2008, chị là một nữ doanh nghiệp chân chất và bình dị nhất. Trong phấn son và bộ đồ dài kiều diễm, chị vẫn không giấu nổi nét mộc mạc dân quê. Chị thường lúng túng trước đám đông. Có nhà báo hỏi: Bí quyết nào làm nên thành công? Chị cười hiền: tôi chẳng có bí quyết nào cả. Tôi chỉ kiên trì làm những việc mà tôi yêu thích. Lại có người hỏi: Bây giờ chị đã có nhiều tiền, với số tiền ấy chị định làm gì? Chị chân tình, trầm tư: tôi không có nhiều tiền như anh tưởng đâu. Tuy nhiên với khả năng của mình, tôi sẽ làm từ thiện. Cha, anh, chú, bác tôi và nhiều người đã không tiếc máu xương hy sinh vì quê hương. Nay tôi có ít tiền giúp những người gặp lúc khó khăn, thật chẳng đáng gì. Giúp họ là tôi thấy vui, thấy thanh thản…

Giúp được họ là tôi thấy vui… chị nói tự nhiên, nhẹ nhàng như được trào ra từ tâm thức của một người đã trải qua cảnh ngộ nghèo hèn, cơ cực. Với chị, làm từ thiện đã được manh nha từ hồi chị bước chân vào cửa Phật. Khi trải qua bất hạnh thì càng đồng cảm với bất hạnh của người khác. Đó là cội nguồn hun đúc đức thương người của chị. Gặp chị, tôi vô tình hỏi: chị có nhớ đã giúp bao nhiêu người và bao nhiêu tiền không? Chị cười. Anh thông cảm. Thật tình tôi không nhớ. Mà nhớ để làm gì? Giúp người mà tính toán, mà lăn tăn thì không giúp được đâu. Vì nó trái lòng mình và lời Phật dạy…

45

Page 46: Sống tận cùng với đất

TRÊN 12 TẦNG NÚI

Phùng Kim Trọng

Sỉ Lở Lầu theo tiếng địa phương có nghĩa là 12 tầng núi. Với độ cao 1520 mét, Sỉ Lở Lầu xứng đáng với cái tên gọi là “nóc nhà của Lai Châu”.

Khí hậu ở tầng 12 tầng núi rất khắc nghiệt. Nhiệt độ quanh năm giá rét. Mùa mưa, mưa dầm hàng tháng. Mưa đến nỗi rau của bộ đội và nhân dân trồng đều thối hết rễ không lên được. Mỗi một trận mưa nước từ trên các tầng núi đổ xuống khe suối, con suối giận dữ cuốn phăng đi nhà cửa, trâu bò và cả con người hai bên bờ suối. Chính vì thế, mà đồng bào người Dao chỉ dám làm nhà trên lưng chừng núi. Tập quán ngàn đời của đồng bào dân tộc Dao là phát rừng làm nương trồng ngô và vào rừng hái lượm. Cái tập quán ấy lại chính là hiểm họa cho con người. Một nương ngô ra đời đồng nghĩa với việc một vạt rừng bị tàn phá. Người dân chỉ có thể canh tác trên cái nương của mình một hai mùa rẫy rồi mưa sẽ “giúp” họ xóa đi cái thành quả lao động được đổi bằng bao mồ hôi nước mắt. Bao đất màu bị nước cuốn trôi chỉ còn trơ lại lớp đất cát chai lỳ đến cỏ cũng không lên được. Người dân lại bỏ nương cũ đi khai hoang vỡ hóa trên các vùng núi khác. Rừng bị tàn phá, thiên nhiên lên tiếng cảnh báo con người bằng những trận lũ lụt kinh hoàng. Người chết, nhà đổ, cây gẫy, đường sá sạt lở, vật nuôi cây trồng theo dòng nước ra sông, ra biển. Bao cảnh tượng đau lòng xảy ra.

Già bản Sín Chài - Ông Lý Chín Quẩy năm nay đã 75 tuổi cho biết trước đây cuộc sống của người dân trên 12 tầng núi cực kỳ khổ cực, đói ăn rách mặc là lẽ hiển nhiên. Trong tâm trí người già, ông Lý Chín Quẩy nhớ được trước đây Sỉ Lở Lầu chỉ có mười hai thứ con người ăn được để trên gác. Phải để trên gác - Ông cười buồn và bấm đầu ngón tay kể: Ngô, lúa, sắn, khoai, măng, chuối, củ mài, củ hớn, rau muống, rau cải, su su và cuối cùng là thảo quả. Cả một vùng đồi núi mênh mông mà thiên nhiên chỉ ban tặng cho con người có 12 thứ ăn được đủ thấy sự khắc nghiệt của vùng đất biên cương địa đầu tổ quốc. Theo già bản Lý Chín Quẩy tiếng Sỉ Lở Lầu còn có nghĩa là 12 thứ ăn được để trên gác. Để sống được trên cái vùng đất khắc nghiệt này người dân ở đây đã vật lộn hàng ngày với bao khó khăn, cơ cực. Họ nghĩ ra cách muối dưa cải già thật mặn có thể để dành ăn từ năm nay qua năm khác.

Mùa khô trên 12 tầng núi mới thực sự khủng khiếp, nhiệt độ xuống thấp dưới O0C. Sương mù bao phủ gần như suốt ngày, cây rừng xơ xác, chim muông trốn tiệt khỏi vùng đất khắc nghiệt này. Sống ở giữa rừng nhưng thật khó được nghe tiếng chim hót gọi bạn hay tiếng thú gọi bầy. Không gian ở 12 tầng núi từ sáng đến tối im lặng một cách khó hiểu. Đàn ông sống ở vùng núi đều là những thợ săn thiện xạ vậy mà đây là vùng đất duy nhất của huyện Phong Thổ tỉnh Lai

46

Page 47: Sống tận cùng với đất

Châu đàn ông không biết sử dụng súng săn. Thượng tá Hoàng Văn Toàn đồn trưởng đồn biên phòng 289 đơn vị có nhiệm vụ phụ trách hai xã vùng biên là Sỉ Lở Lầu và Ma Ly Chải cho biết trong địa bàn không có một khẩu súng săn nào. Sinh ra trên 12 tầng núi nhưng già bản Lý Chín Quẩy bảo rằng: Chưa biết miếng thịt thú rừng như thế nào.

Ngoài con đường tuần tra biên giới đang được khảo sát và hình thành còn lại chỉ là những lối nhỏ len lỏi dưới tán cây rừng. Người dân lên xã, xuống chợ, trẻ em đến trường tất cả đều thận trọng từng bước chân dò dẫm trên những lối mòn, giữa các khe đá sắc nhọn. Họ xắn quần lội qua khe suối, họ trèo qua những thân cây gỗ đổ nằm chắn lối đi. Người dân muốn đến thăm nhau phải vạch cây rừng tìm lối. Bàn chân của người dân trên 12 tầng núi chưa quen với giầy, với dép. Những ngón chân chai sần nứt nẻ vẫn kiên nhẫn bấm chặt xuống mặt đất theo mỗi bước đi.

Theo số liệu thống kê vào những năm 80 của thế kỷ trước có tới 90% dân số trên 12 tầng núi không biết chữ. Chủ trương đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước đến với người dân thật vô cùng khó khăn. Nhớ lại những ngày cơ cực đã qua, cựu bí thư chi bộ (sau này thành Đảng bộ) Sỉ Lở Lầu ông Tẩn Phú Sài nói: “Được học tập, cán bộ cũng có người hiểu, người không. Còn dân thì không hiểu đâu”.

Sinh ra dưới tán cây rừng, các em thơ ở 12 tầng núi ngay từ khi lọt lòng được mẹ địu lên nương. Chiếc địu đung đưa trên cành, cây rừng xòe lá che cho giấc ngủ của các em. Nhưng khi lớn lên chính các em đang tàn phá đi nguồn tài nguyên vô giá đã nuôi sống mình và con cháu mình. Cái đầu chưa hiểu, cái bụng chưa ưng nên những người dân trên 12 tầng núi vẫn “vô tư” khai hoang vỡ hóa, “vô tư” tàn phá rừng gây ra những thảm họa cho nay mai.

“Cuộc chiến” giữ rừng cam go và xem ra sẽ không có hồi kết nếu như phẩm chất anh bộ đội cụ Hồ không kịp thời tỏa sáng. Lật giở lại những trang truyền thống của đồn biên phòng 289 anh hùng, trung tá Hoàng Minh Thành chính trị viên đồn cho biết: “làm nhiệm vụ trên vùng biên cương cực kỳ gian khó này, cán bộ chiến sỹ đồn biên phòng 289 trước kia và hôm nay vẫn luôn thực hiện lời huấn thị của Bác kính yêu. “Quân đội ta là đội quân công tác và chiến đấu”.

Để thực sự là một đội quân “công tác” các cán bộ chiến sỹ biên phòng đã không quản ngại khó khăn vượt qua núi cao, vực sâu đến với từng hộ dân trong các bản cheo leo trên lưng chừng núi. Các tổ cắm bản thực hiện 4 cùng với nhân dân (cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc).

Khi vừa đặt chân xuống bản những người lính đã cắm bản ngay lập tức hòa nhập vào cuộc sống của dân bản. Họ chia sẻ bát cơm trong tiêu chuẩn của mình với gia đình người dân, họ dạy người dân cách trồng rau, làm lúa nước cùng với người dân lên nương, lên rẫy, cùng bàn nhau cách chăm nuôi con lợn, con gà. Họ

47

Page 48: Sống tận cùng với đất

tranh thủ thời gian để vận động nhân dân giữ rừng. Trong câu chuyện tâm tình bên bếp lửa, các chiến sỹ cắm bản đã phát hiện ra từ xa xưa những người dân ở trên 12 tầng núi đã hiểu giá trị của rừng đối với cuộc sống của con người. Đã có một thời hương ước của các bản quy định rõ trách nhiệm của mỗi người dân với việc giữ rừng. Cựu bí thư chi bộ Sỉ Lở Lầu ông Tẩn Phú Sài cho biết khi nghe bộ đội biên phòng nói đến làm theo hương ước cả chi bộ và chính quyền đều ưng cái bụng.

Ưng cái bụng rồi nhưng làm cách nào để nó đến với từng người dân thì cả bộ đội biên phòng và cán bộ xã đều không biết. Hỏi người già, người già cũng lắc đầu: “có đấy nhưng không nhớ đâu”.

Một hội nghị những người già được triệu tập. Các già bản cùng nhau ôn lại những kỷ niệm một thời đã qua. Khi nghe cán bộ biên phòng hỏi về hương ước của tổ tiên người Dao trên 12 tầng núi ai cũng bảo rằng khi mình còn nhỏ đã được bố mẹ nói đến hương ước. Nhưng cái bản hương ước, cái tài sản văn hóa quý giá đồng hành cùng cuộc sống của người dân trên 12 tầng núi ngày trước ra sao thì không ai nhớ được. Thiên tai, giặc dã và bao biến động của thời cuộc đã khiến cho hương ước không còn trong cuộc sống. Hương ước không còn nên rừng bị tàn phá. Cần phải đoàn kết những người dân trên 12 tầng núi để giữ lấy rừng, các già bản đều nhất trí như vậy. Một bản hương ước mới được hình thành, văn phong, ngữ pháp của nó chưa được hoàn chỉnh nhưng nó đã được người già trên 12 tầng núi đón nhận như một lẽ tự nhiên.

Bản hương ước mới ra đời, cán bộ chiến sỹ biên phòng lại lặn lội đến từng nhà dân để tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện. Khi mọi người dân ưng cái bụng thì một cuộc họp dân bản được tổ chức. Trong hội nghị đó các già bản trực tiếp nhận việc phổ biến hương ước cho dân bản. Đến phần “bảo vệ rừng” thì cuộc họp bỗng ồn lên như ong vỡ tổ, nhiều câu hỏi được đặt ra: “Không phát rừng thì lấy đâu ra đất làm nương? Không làm nương thì không có ngô ăn. Người Dao mình không biết làm cây lúa nước đâu. Cây lúa nước của người Kinh không sống được trên 12 tầng núi đâu”. Đã có tiếng nói của người già, đã có sự giải thích thấu tình đạt lý của các cán bộ biên phòng nhưng nhiều người vẫn không ưng bỏ về. Nhiều bản phải họp đi họp lại nhiều lần chỉ có “cái lý” đây là bản hương ước của tổ tiên người Dao trên 12 tầng núi được xây dựng lại. Ai không thực hiện thì không phải người Dao mới buộc người dân bản nghe theo.

Hương ước mới quy định rõ trách nhiệm của từng người dân với việc bảo vệ rừng. Người dân không phân biệt là cán bộ hay dân thường đều không được vào rừng chặt củi hay lấy gỗ. Mỗi năm một bản chỉ được mở cửa rừng không quá hai lần, lần nhiều nhất không quá 3 ngày. Trong những ngày mở cửa rừng các hộ phải vào rừng lấy củi về đun mà chỉ được lấy những cành củi khô chứ không được chặt cây tươi. Những ngày khác thì một cành củi khô cũng không được

48

Page 49: Sống tận cùng với đất

mang ra khỏi rừng. Ai mang một cành củi khô ra khỏi rừng không đúng ngày mở cửa rừng là đã vi phạm hương ước.

Ngày mở cửa rừng có thể coi là ngày hội của của những người dân trên 12 tầng núi. Ngày đó cả bản không kể cán bộ hay dân thường, không kể người dân hay bộ đội biên phòng, thầy cô giáo hay cán bộ kiểm lâm, bảo tồn đều vào rừng lấy củi để dự trữ cho đến ngày mở cửa rừng đợt sau. Tiếng chặt, tiếng bẻ những cành củi khô đôm đốp, tiếng cười, tiếng nói, tiếng gọi nhau qua vách núi râm ran cả núi rừng.

Những người cần lấy gỗ làm nhà đều phải làm đơn xin bản. Trưởng bản cùng già làng sẽ đến tận nhà cùng chủ nhà tính xem làm nhà hết bao nhiêu cây gỗ rồi sẽ cùng với chủ nhà đi vào rừng chọn những cây gỗ được phép chặt cũng chỉ được chặt đúng cây gỗ đã được cho phép và không được làm đổ, làm gẫy những cây bên cạnh. Cây rừng bạt ngàn, cây lớn cây bé tựa vào nhau vậy mà chặt cây to không được làm đổ cây bé quả là một bài toán không đơn giản chút nào. Ông Chỉn Chư Seo đã ba ngày cầm dao đứng dưới gốc cây sồi, cái cây được già bản cho phép ông chặt để làm nhà. Ông đo gốc cây bằng gang tay, trèo lên đo ngọn, đo cành rùi ông quyết định trèo lên đốn cây từ ngọn đốn xuống có như vậy mới không đổ vào cây khác. Nếu làm đổ, làm chết một cây khác thì coi như ông đã vi phạm hương ước.

Người vi phạm hương ước sẽ bị kiểm điểm trước dân bản. Lần đầu tiên sẽ bị “phạt lý” nghĩa là phải nộp cho bản một con gà, một cân gạo, một chai rượu và phải nghe già làng phổ biến lại hương ước. Lần thứ hai cả bản sẽ họp lại để “đấu lý” với người vi phạm và người đó sẽ phải nộp đủ gạo, đủ thịt và rượu cho cả bản ăn trong cả ngày họp đó. Sẽ không có lần thứ ba. Già bản Lý Chín Quẩy nói. Vi phạm hương ước ba lần sẽ không được làm người Dao nữa. Cựu bí thư chi bộ Sỉ Lở Lầu ông Tẩn Phú Sài cho biết. Kể từ năm 1987 năm đầu tiên hương ước được thực hiện trên 12 tầng núi không có ai vi phạm hương ước ba lần.

Hương ước mới ra đời, dần dần đi vào cuộc sống. Cho đến nay tất cả mọi người trên 12 tầng núi đều tự giác thực hiện hương ước. Ông Tẩn Sài Đông bí thư Đảng bộ xã Sỉ Lở Lầu cho biết bây giờ Đảng ủy và Ủy ban xã muốn lấy một cây gỗ phục vụ việc công cũng phải làm đơn xin bản và khi khai thác cũng phải thực hiện các quy định trong hương ước. Còn đã vi phạm thì không kể Chủ tịch hay Bí thư cũng bị đưa “đấu lý” như người dân.

Để đảm bảo cuộc sống của người dân trên 12 tầng núi khi không có nương trồng ngô, các cán bộ chiến sỹ biên phòng lại kiên trì vận động bà con chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Các tổ cắm bản của bộ đội biên phòng hướng dẫn người dân trồng lúa nước và trồng cây thảo quả. Ông Tẩn Phú Hộ, chủ tịch UBND xã Sỉ Lở Lầu cho biêt trước đây người dân không ai tin rằng mình có thể làm được cây lúa nước. Các chiến sỹ biên phòng đã phải làm trước cho bà con xem. Khi thấy bộ đội trồng được lúa nước thì bà con mới bắt đầu làm theo. Bộ đội biên phòng lại

49

Page 50: Sống tận cùng với đất

tận tình hướng dẫn nhân dân cách trồng lúa. Với phương thức “cầm tay chỉ việc” các chiến sỹ biên phòng đã dần dần hướng dẫn cho bà con từng việc nhỏ như làm đất, bắt nước, gieo mạ. Vậy mà nhiều năm đã qua người dân trên 12 tầng núi vẫn chưa làm chủ được ruộng lúa của mình. Trung úy Bàn Văn Thành, đội trưởng đội vận động quần chúng của đồn 289 cho biết cho đến hôm nay các tổ cắm bản của bộ đội biên phòng vẫn phải kiên trì hướng dẫn bà con từng việc một. Ruộng lúa của người dân nhưng các chiến sỹ biên phòng phải chăm lo hơn cả của nhà mình. Họ hướng dẫn, đôn đốc người dân làm đất, gieo mạ, cấy lúa. Lúa cấy rồi các chiến sỹ biên phòng lại phải thường xuyên đi kiểm tra xem ruộng có đủ nước hay không? Có loại sâu bệnh sâu bệnh nào đang phá hoại mùa màng? Đến khi lúa chín họ lại phải vận động và giúp người dân thu hoạch, chỉ đến khi hạt thóc đã được cất vào nhà, chỉ đến khi trong bếp nhà dân thơm mùi cơm mới thì các chiến sỹ cắm bản mới có thể yên tâm.

Thảo quả là một loại cây vừa làm dược liệu vừa làm thức ăn. Cây thảo quả là loại thân mềm chỉ sống được ở vùng ẩm ướt, giá lạnh và phải núp bóng cây to. Việc giữ được rừng đã tạo điều kiện thuận lợi cho bà con trên 12 tầng núi trồng thảo quả. Ông Tẩn Sài Đông cho biết cây thảo quả không phải là cây xóa đói nữa mà là cây làm giàu của người dân trên 12 tầng núi. Đất nước vào thời hội nhập, những thương nhân từ bên nước bạn sang mua thảo quả với giá cao. Cứ đến mùa thu hoạch thảo quả cuộc sống trên 12 tầng núi nhộn nhịp hẳn lên, nhà nhà tranh thủ từng ngày thu hoạch, bộ đội biên phòng cũng kịp thời hỗ trợ những gia đình neo đơn. Thương lái cũng không quản khó khăn lặn lội đến từng nương, từng nhà để thu mua. Cảnh mua bán, trao đổi, tiếng cười, tiếng hát râm ran đến từng khe núi.

Cán bộ biên phòng đồn 289 vận động nhân dân trồng cây thảo quả. Một làn gió mới đã tràn ngập trên 12 tầng núi. Người dân chủ động giữ rừng để trồng thảo quả, chính quyền địa phương kịp thời giao rừng đến từng hộ. Hôm nay người dân trên 12 tầng núi đã hiểu giá trị của rừng đối với cuộc sống. Phải giữ được rừng thì mới trồng được thảo quả. Ông Chéo Chỉn Chiêu một triệu phú mới của người Dao cho biết nhờ trồng thảo quả mà gia đình ông có thu nhập 200 triệu đồng một năm. Ông là người đầu tiên trên 12 tầng núi mua được xe ô tô riêng.

Không cứ gì ông Chiêu mà rất nhiều người trên 12 tầng núi đang trở thành triệu phú nhờ trồng thảo quả. Chủ tịch xã ông Tẩn Phú Hộ cho biết cả 539 hộ dân của xã hôm nay đã thoát nghèo. Hộ nào cũng có máy phát điện chạy nước, có TV mầu, 32 hộ có thể gọi là triệu phú trên 12 tầng núi.

Trồng lúa nước và thảo quả đã mở ra hướng làm giàu cho bà con trên 12 tầng núi. Diện mạo bản làng thay đổi, khuôn mặt của người dân cũng tươi vui như đang trong ngày hội. Các em thơ tung tăng cắp sách đến trường, yên tâm ngồi học cái chữ mà không phải lo về nhà giúp bố mẹ đi nương, đi rẫy nữa. Bí thư Đảng bộ Tẩn Sài Đông cho biết bây giờ không cần vận động nhân dân nữa, ai

50

Page 51: Sống tận cùng với đất

cũng tự giác đưa con đến trường. Sỉ Lở Lầu là xã có 100% các em ở độ tuổi đi học được đến trường. Những chủ nhân tương lai của 12 tầng núi đang lớn lên trong sự no đủ. Được học cái chữ rồi các em sẽ mang ánh sáng của khoa học về soi sáng bản làng.

Hương ước - một tài sản văn hóa vô giá của cộng đồng dân cư trên 12 tầng núi được khôi phục lại đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ rừng, giúp hạn chế các hiểm họa của thiên tai. Bao đời nay con suối của vùng cao vẫn đổ về xuôi, nhưng hôm nay khi chảy qua 12 tầng núi nó không giận dữ gầm gào như trước kia nữa, nó ngoan ngoãn hiền lành uốn mình dưới tán cây xum xuê tảo ra hai bên bờ suối. Đồng bào dân tộc Dao hôm nay đã dám làm nhà ngay bên dòng suối, đã có cây rừng che chắn không còn sợ con suối cuốn trôi nhà cửa như trước kia nữa. Biết bao sự đổi thay kỳ diệu của cuộc sống người dân trên 12 tầng núi đã được bắt đầu từ việc giữ rừng.

Phiên chợ Sừng (Chợ vào những ngày con trâu và con dê trong mười hai con giáp) vẫn họp đều đặn 6 ngày một phiên nhưng chợ Sừng hôm nay tươi vui nhộn nhịp hơn hẳn năm xưa. Vào ngày chợ người dân trên 12 tầng núi nô nức rủ nhau xuống chợ. Họ vừa đi vừa trò chuyện râm ran cả núi rừng. Đến chợ, họ gặp gỡ, mua bán, trao đổi với những thương nhân từ bên kia biên giới, với đồng bào vùng xuôi. Hàng hóa ở chợ Sừng hôm nay đã đầy đủ không kém gì các chợ dưới xuôi. Người mua người bán đều tươi cười thân ái như những người thân lâu ngày gặp lại.

51

Page 52: Sống tận cùng với đất

GẶP CHỦ TỊCH XÃ, LA ĐÀ KÝTrần Kim Anh

Sáng. Vừa đến ngã tư Giáp Bát, một cậu lơ bâng quơ: Cô về Thanh Hóa! Chưa kịp trả lời, tôi đã bị đẩy lên xe, trên đầu còn nguyên cả mũ bảo hiểm xe máy. Vòng vo quanh bến kiếm thêm khách, làm luật, cậu lơ khoát tay cho xe chạy. Gió sớm ướp hương lúa non thoa vào da mặt, một cảm giác thiên nhiên thanh khiết, tôi gật gù mấy cái đã đến Tứ Trụ huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa để dự dám cưới con chị bạn. Đang líu ríu giữa mùi bánh gai, bánh dò đặc sản nơi đây thì có tiếng đàn ông: Thưa chị, em là Lê Văn Chế, bác Nguyệt em mời chi vào nhà ạ. Vừa nói anh ta vừa cười lộ chiếc răng khểnh vui mắt. Nhìn người đàn ông to cao, chừng 45 tuổi, mặt chữ điền gọn gàng với chiếc áo sơ mi trắng bỏ trong quần tây đen, tôi bằng lòng đi vào. Ngôi nhà hai tầng đầy ô tô xe mấy, rộn rịp cỗ bàn, ca nhạc và những điệu nhảy của nam thanh nữ tú mừng đám cưới cậu kỹ sư nhà máy đường Lam Sơn với cô giáo làng. Chị Nguyệt dẫn tôi đi tắm rồi mời tôi vào cỗ. Đám cưới xong. Anh Chế lên tiếng: Chị à, cách có năm cây số nữa là Lam Kinh, đất đế vương, cơ man truyền thuyết, chị không đến sao? Có chứ! Anh có thể giúp tôi? Anh nghiêng đầu tự hào: Vâng, tôi có thể đi cùng chị về thăm đất tổ của chúng tôi mà.

Tạm biệt gia đình. Anh Chế chở tôi bằng hon da, dọc theo nông giang xanh trong gợn sóng, đầy gió, lên quần thể di tích Lam Kinh.

Bạt ngàn rừng lim huyền ảo đang được nhà nước phục hồi, lan tỏa. Chúng tôi theo cổng chính vào. Chào đón du khách là cây đa, giếng ngọc.

Anh Chế kể: Giếng Ngọc, tiên nữ thường xuống tắm. Cây si quấn cây đa to mười người ôm không xuể ấy, có con cáo cứu hai vị anh hùng Lê Lợi và Lê Liễu thoát khỏi tay Giặc Minh. Rồi Lê Lai cứu chúa. Rồi cụ tổ họ Lê thấy nơi đây chim hội tụ tưng bừng, bèn dời nhà đến sinh sống. Dòng họ cụ từ đó thịnh vượng. Đời sau, bà Trịnh Thị Ngọc Dung đỡ đẻ cho hổ, được ấn báo ân. Khi Lê Lợi ra đời, một chúa sơn lâm lặng lẽ ra đi, để lại cây quế đẹp nhất vùng... Vừa nói chuyện, anh vừa dẫn tôi đi thăm quan nội điện và lăng mộ đầy khói hương bí ẩn cuốn theo lời cầu nguyện của những cụ già, em bé, rồi những cặp trai gái yêu nhau...

Trời dịu, chúng tôi đến sông Chu, tháng ba, sông lắng giữa đôi bờ cát trắng. Theo anh, con sông dài 325 km chảy từ Sầm Nưa, thả hơn một phần mười thân hình óng mượt phù sa nuôi Thọ Xuân, rồi về ngã ba Giàng kết với sông Mã, ra biển. Phía đầu nguồn là đập Bái Thượng đưa nước về hai nông giang tưới tiêu

52

Page 53: Sống tận cùng với đất

cho xã Xuân Giang của anh (cách đó mười lăm cây số đi về hướng Thị trấn Thọ Xuân). Sông Chu có vực Ma Viên, xưa anh vạn chài Lê Thận, vớt được thanh sắt hình như dành chuông, khi Lê Lợi tra vào chuôi kiếm đồng đen mà ông nhặt được, thành được một cây kiếm giúp Lê Lợi đánh giặc. Con cháu Hậu Lê chúng tôi biết ơn thanh bảo kiếm và truyền thống Lam Kinh. Chúng tôi mà để xã mình nghèo là có tội với tổ tiên,... anh thì thầm với mình... tiếng thì thầm làm tôi tò mò: Thế anh làm gì? anh Chế thật thà rút từ áo ngực cho tôi xem giấy mời họp công tác phối hợp quản lí điều hành giữa huyện và xã. Hóa ra anh là chủ tịch xã? Biết ý, anh chủ động mời tôi về thăm anh - xã đang đi lên từ đất bạc màu của huyện Thọ Xuân, một trong hai huyện vững mạnh của tỉnh Thanh Hóa. Theo nước sông Chu đầy truyền thuyết, anh chủ tịch chạy xe dọc bờ sông Giang như tạ ơn Bái Thượng. Anh nói thế và tự hào khoe nông giang của anh dài 13 cây số rải đất sỏi chắc chắn đi giữa Bái Trạch, Quần Đót, Yên Kênh, Lệ Trạch để tưới tiêu cho 530,05 ha đất xã anh. Được vậy cũng có công lao của mỗi gia đình đóng góp 40 kg thóc, cộng với sự hỗ trợ của gần 600 triệu của xã trùng tu. Từ ngày có nước tưới tiêu, kinh tế địa phương khá lên. Các huyện hạ úng không còn. Với lại có nông giang, đi làm về nhảy ào xuông tắm, bắt cá mò cua cùng lũ trẻ chăn trâu cùng dân làng thích tắm... Lớn lên từ đồng nội, anh Chế gắn bó với từng hạt lúa, củ khoai, cái tép, cánh cò, cho tới ngày tốt nghiệp cấp ba. Từ năm 1983 đến năm 1986 tạm xa quê, anh đi bộ đội ở Hải Phòng, năm 1987 anh quay về làm lãnh đạo ở xã, muốn xã đi lên anh phải học. Và anh có trong tay hai bằng: Trung cấp chính trị và trung cấp kinh tế, là người năng động, gần gũi với dân, lên anh thành công trong lãnh đạo đoàn, quản lí chính sách, quân sự. Giữa năm 2004 anh làm phó bí thư đảng ủy, chủ tịch xã, kiêm giám đốc trung tâm học tập cộng đồng cho tới nay. Huyện Thọ Xuân và xã Xuân Giang cấp 11 giấy khen về lãnh đạo, quản lí tài chính, quy hoạch các khu văn hóa... cho anh. Cứ óng mượt như sông Chu, chuyện anh bện vào nông giang quê anh đưa tôi tới ủy ban xã. Khu công sở này rộng chừng 200 m2, nằm giữa những bức tường kiên cố với 8 phòng làm việc hai tầng, bên phải là đài tưởng niệm liệt sĩ, bên trái là nhà văn hóa mới trùng tu, những bồn hoa hồng trong đài các hơn trên nền bê tông sạch đẹp. Có được cơ ngơi này mà chỉ cần 600 triệu, phải tiết kiệm lắm xã Xuân Giang mới xây dựng được như thế... Tôi vừa thầm nghĩ vừa lên cầu thang theo chủ tịch Chế, vào phòng làm việc của anh. Căn phòng giản dị, sạch, có máy tính, điện thoại, sách báo, tài liệu...

Anh Lê Văn Triều, bí thư đảng ủy xã Xuân Giang. Một người đàn ông nhỏ nhắn, thanh tú, mời tôi cạn chén trà. Bằng chất giọng từng trải của người lính Trường Sơn năm xưa, anh nói nhỏ mà chắc chắn:

Những năm đầu đổi mới, lãnh đạo xã níu áo nhau làm cho nền kinh tế đi xuống, sản lượng lúa thu hoạch chỉ cao nhất là 2 tạ trên 1 sào. Xã họp kiểm điểm,

53

Page 54: Sống tận cùng với đất

thay đổi bộ máy lãnh đạo... Hiện nay sản lượng lúa lên tới 3 tạ rưỡi trên 1 sào, có vậy là nhờ anh Chế tận tụy, khéo động viên cán bộ nhân viên. Mỗi tháng chủ tịch mở một lớp dạy kĩ thuật làm kinh tế. Ai đi học xã biếu 10 ngàn một ngày, để họ thâm canh tốt hơn các giống lúa lai năng suất cao. Bây giờ chủ tịch đang đầu mối với công ty Bi Ô Xít cấy thử nghiệm trình diện giống lúa lai B0.04 tiến tới cấy đại trà. Đồng thời chuyển dịch cơ cấu cây trồng, đưa 40 ha trên tổng số 310 ha đất canh tác sang trồng mía, trồng màu, tăng thu nhập 70 triệu đồng trên 1 ha 1 năm. Trong đó có 4 ha rau cao cấp, tập trung ở thôn Sáu, thôn 11, thu nhập tăng gấp 4 lần so với năng suất lúa. Ấy là cây trồng. Còn ao chuồng, chủ tịch Chế họp lãnh đạo quyết đưa chăn nuôi theo mô hình công nghiệp vào xã làm gương đầu tiên. Đầu mối với tổ chức phi chính phủ Hà Lan và phòng nông nghiệp huyện Thọ Xuân mời kĩ sư về, mời bà con trong xã đến xem. Chủ tịch chọn vị trị đất thuận lợi gần công trình phụ nhà mình. Đào hố sâu 2,5m; rộng 2,3m đổ bê tông cốt thép xây hình quả cầu, bên cạnh bể chính có một bể phụ gọi là bếp điều áp nén khí. Phía trên xây miệng bể rộng 70cm, cao 80 cm. Đổ nắp bê tông kín chỉ trừ đường dẫn ga vào nơi nấu. Cho nửa tạ phân nguyên chất vào trát lại. 15 ngày sau có khí metan. Nghĩa là thần lửa mang tên bếp bioga về nhà. Hằng ngày khoảng yến rưỡi phân thải sẽ bổ sung khí đốt để phục vụ cho sinh hoạt. Xây xong khu chuồng trại, bếp bioga, chủ tịch thả bốn chục con lợn, một đàn gà vịt. Trong lúc người vợ mảnh mai của anh đang bị bênh nan y. Chị phải mổ hai lần cắt khối u vú rồi, mà khó chịu lắm. Mỗi năm, vợ chồng anh có bốn lứa lợn xuất chuồng thu lãi 50 triệu lấy tiền nuôi cô con gái lớn học y khoa trên tỉnh và cô con gái út đang học cấp ba. Thấy chủ tịch có bếp, chăn nuôi thoải mái mà không mất tiền, không mất sức, không phải kiếm củi, lại sạch sẽ thơm tho, dân hết nghi ngờ nhất là chị em ai cũng noi theo. Anh Chế lại như con thoi liên hệ với phòng nông nghiệp huyện và tổ chức phi chính phủ Hà Lan hỗ trợ cho mỗi bếp bioga một triệu để nhân dân chăn nuôi. Hiện nay xã có 100 bếp này với 400 gia trại, đặc biệt hai trang trại của anh Thắng và anh Bảy đang trên đà đi lên. Chủ tịch đang dồn điền đổi thửa, đầu mối tiếp 100 bếp bioga, để phát triển chăn nuôi trang trại và gia trại theo mô hình đã làm. Ngày nông nhàn anh Chế cho bà con làm nghề phụ như thêu tranh xuất khẩu, trồng nấm, xây dựng... Bà con phấn khởi lắm. Họ tin cán bộ tự bảo nhau góp ba phần tư tiền cùng nhà nước xây trạm xá với 36 giường bệnh đạt chuẩn quốc gia. Xây toàn bộ đường liên thôn bằng bê tông. Trên đà này anh Chế vận động các gia đình góp làm 20 kilômét đường liên xã rải sỏi. Ô tô vào tận ngõ, qua cầu kênh đi khắp các làng. Tới đây chủ tich tiếp tục đi xin vốn mở rộng làm 3 km đường bê tông từ thị trấn Thọ Xuân đến xã. Kinh phí khoảng 1 tỉ 200 triệu đồng. Đường sá rộng rãi, nối liền hai trạm điện đưa ánh sáng về và thế là bốn nhà văn hóa của bốn làng lúc nào cũng tràn ngập các buổi sinh hoạt bổ ích như văn nghệ, thể thao, tình làng nghĩa xóm... còn về giáo dục. Ngoài trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia. Hai tòa nhà cao tầng của trường trung học cơ sở và

54

Page 55: Sống tận cùng với đất

mầm non, đang được chủ tịch giám sát, tiếp tục đầu tư 3 tỉ 800 ngàn, để tu bổ, để làm mới, nhằm đạt chuẩn quốc gia cho thế hệ học đường có điều kiện phát triển trí tuệ. Đối với gia đình hoàn cảnh, chủ tịch chú ý xóa đói giảm nghèo. Nếu năm 1993 có trên 35% hộ nghèo đói thì nay đã giảm hơn 1 nửa, không có hộ đói. Xây mới 38 ngôi nhà tình nghĩa cho gia đình chính sách. Vì vậy ở đây không hề có tệ nạn xã hội... Thật mừng khi chúng tôi có chủ tịch xã năng động. Nụ cười tràn ngập bình yên trên môi bí thư đảng ủy xã , làm tôi tò mò xin phép tham quan.

Dọc đường, gặp cụ ông, cụ bà, người trung niên, em bé, chủ tịch chào hỏi bằng cái giọng ấm áp cuốn hút. Anh hiểu bà con của anh như lòng bàn tay, nên bà con đáp lại anh bằng cả ánh mắt ân tình, biết ơn, thân thiện lây sang tôi. Cái chân quê trong lẻo, theo con đường rải sỏi, đưa chúng tôi vào trường trung học cơ sở. Thầy hiệu trưởng Đỗ Văn Linh rời bàn họp, vui vẻ chỉ ngôi nhà hai tầng và nhìn tôi mà nói: Anh Chế quyết tâm xây xong cho các em cuối cấp được học trước khi ra trường, vậy mà đúng, hiện nay ba lớp chín đã học được một tuần rồi đấy. Nụ cười của cả ba chúng tôi tràn theo hương đồng gió nội.

Kia là trường tiểu học, tọa lạc trên khuôn viên bề thế, sạch đẹp. Trường đang cho học sinh luyện thi. Những khuôn mặt hồn nhiên bụ bẫm nắn nót trên trang giấy như thầm ơn thầy giáo của mình. Theo cô hiệu phó trẻ Vũ Thị Hằng vào văn phòng ở tầng hai. Ngồi đây, ta có thể thấy mọi hoạt động của giáo viên và học sinh. Vừa ngồi uống nước vừa nhìn bao quát... thiết bị điều hành của lãnh đạo trường chuẩn quốc gia này quả là hiện đại. Biết tôi cũng làm nghề giáo, cô hiệu phó cởi mở: Chị có kế nào để có nhiều học trò giỏi? Thấy câu hỏi trúng với tâm niệm của mình, tôi tủm tỉm nói rằng thầy giáo phải như cha mẹ, đồng thời cũng phải như tổ quốc biết lo xa. Ngoài việc dạy chu đáo, nhiệt tình, thông minh và quyết đoán, khi phát hiện trò có năng khiếu, mình phải có chữ tâm đứng đầu thì tốt lắm. Chuyện này, có thời gian, hẹn bàn sau. Chúng tôi phải vào làng mà. Cô giáo Hằng gật đầu, vẫy chào theo gió...

Con đường chen giữa hương lúa đưa chúng tôi vòng theo nông giang thứ hai, nơi tiêu úng cho lúa cả tỉnh. Chúng tôi vừa vào làng đã thấy có năm người mảnh khảnh nhưng nhanh nhẹn, họ cần mẫn đổ bê tông đường. Hỏi thì mọi người cười xòa: Bố Hoàn và vợ con tự làm lấy khúc đường phần nhà mình, nhà nào cũng vậy thôi, làm cho sạch để mình đi chứ có ai đi đâu! Thấy tôi chụp hình, ai cũng đòi: Mặc lại đồ đẹp chứ. Ồ không, thế này là đẹp nhất còn gì. Tôi xin vào gia trại, anh Hoàn đưa tôi qua bếp bi ô ga đang có nồi cám to sôi ùng ục, khoe ngọn lửa thần mà chủ tịch Chế mang về. Anh với tay mở nước vòi, xịt vào đàn lợn một trăm con hồng hào sạch sẽ, nói: 20 con bé kia gối tiếp vào hai mươi con lớn ngày mai xuất chuồng, cứ thế hàng tháng chúng gia trại này có mười sáu triệu tiền lãi để tiêu pha và mở rộng kinh doanh, giải quyết việc làm cho cả nhà... thế này thì dễ sống rồi. Chúc mừng anh chị trong cái bắt tay ấm áp, chị nhà còn dặn

55

Page 56: Sống tận cùng với đất

với theo: Nhớ gửi ảnh cho chúng tôi nhé. Những sợi nắng trên môi cười của chị nhắc tôi đừng quên, tôi làm sao quên được: Ơi chị nông dân bình dị!

Vẫn dọc theo con đường làng sạch đẹp thoang thoảng hương lúa thì con gái. Chúng tôi qua trang trại anh Nguyễn Mậu Thắng giữa làng Quần Canh. Vợ anh xoay như chong chóng với con cái, tạp hóa, máy xát lúa. Chồng cũng chân đập vào tay cùng công nhân đóng gạch sắp lên hai ô tô của nhà chở đi bán, lại vừa trông coi nồi rượu dưới ngọn lửa kỳ diệu mà nguồn là trang trại cả trăm con lợn đang ùn ịt trong chuồng, cộng với bốn ha mía lúc này đang vỡ đất, cho đôi vợ chồng 38 tuổi gầy gò, tất cả này mỗi năm thu vào 300 triệu đồng và giải quyết việc làm cho vài chục lao động trong xã. Khi tôi muốn biết vì sao vợ chồng anh lại quyết tâm và tin là mình làm kinh tế thắng lợi, anh Thắng trao cho tôi ly nước lọc và cười nhỏ nhẹ: may nhờ những năm tháng đi bộ đội ở Tây Nguyên, làm kinh tế cho đơn vị: ấy là đóng gạch và bán gạch. Khi xuất ngũ về làng, chúng em nghĩ ngay đến việc kinh doanh theo bộ đội. Được cái, chủ tịch Chế tạo điều kiện cho vay vốn, dần dà có cơ ngơi này. Nhưng phải chấp nhận vất vả. Tiền thì cũng có xúng xính mà vợ chồng em có nghỉ ngơi gì được đâu. Thôi kệ, cứ có việc làm là hạnh phúc rồi. Thấy vợ chồng anh bận quá chúng tôi tạm biệt.

Trời nghiêng nắng về hướng núi, gió thoáng đãng đưa chúng tôi sang Yên Canh nơi có ngôi nhà ngói tuềnh toàng, giữa trang trại anh Lê Hữu Bảy và vợ là Liên. Nhìn đôi vợ chồng ngoài 35 tuổi đen sạm, tong teo, áp lực công việc mà họ phải chịu lớn lắm. Trước, họ vào tận Phú Khánh - Cần Thơ đi làm thuê, sau ba năm vẫn tay không về làng. Hai vợ chồng thấy đất bỏ hoang nhiều, nên mạnh dạn đi vay lúa non, bán lấy tiền mua đất, sản xuất tăng gia. Cuối mùa, trả tiền vay gấp đôi, rồi mỗi năm thu lại 250 triệu. Cứ như thế 9 năm, với sự nâng đỡ của anh Chế, gia đình có riêng trong tay năm mẫu đất đang trồng lúa, mía, ngô, chăn nuôi. Nhìn đàn lợn 200 con, đàn gà vịt đông vui bên cạnh ao cá chủ yếu là trắm, gáy, rô, lóng lánh dưới sóng nước quện khói lò đậu phụ, lò rượu nấu bằng bếp bi ô ga. Phía sau là khu chuồng trại đang xây. Anh chị có dự định lớn nữa? Quả thế, anh Bảy cho biết họ sẽ làm sổ đỏ năm mẫu đất nhờ anh Chế can thiệp với ngân hàng, vay 400 trăm triệu để đầu tư tiếp. Quần quật quanh năm nhà dưới làng không về thăm được, như thế là sống, anh chị cười phấn khởi. Cạn li nước lọc chia tay nhau trong gió trang trại. Men theo cầu kênh vắt qua nông giang mênh mang, lúa thì con gái... chúng tôi vào làng nữa....

Giữa rất nhiều nhà tầng, nhà vườn sạch đẹp, mùi cây trái rịm sương chiều. Xe dừng lại trước một ngôi nhà hai tầng vượng khí quay mặt về hướng đông nam. Tôi cảm nhận đó là nhà chủ tịch xã. Một phụ nữ có khuôn mặt thanh tú rời nồi cám đang nấu dở chào chồng và khách. Nghe tiếng kéc kéc kéc... Chị chủ nhà cười: Chị à! Ấy là con khỉ cái có bầu đang ghen. Nó không muốn cho khỉ đực - chồng nó, em, chị... tiếp xúc với anh Chế đâu. Mình nói chuyện hoặc cầm tay anh

56

Page 57: Sống tận cùng với đất

ấy là nó ré lên vậy đấy. Sơ ý đứng gần là nó cắn, nó cào chảy máu tay như em này. Chả là hôm qua em đứng gần... anh Chế đang cúi đầu cho khỉ bắt chấy, anh Chế cười phân bua: có nhà khỉ, cũng khỏe lên mỗi khi đi làm về chị ạ. Em cũng phải chia tay gia đình nó khi khỉ mẹ đẻ con cứng cáp. Nhà của nó là rừng. Mẹ của con khỉ này đứt ruột lăn ra chết, khi thằng bạn em bắn chết con khỉ anh nó. Thằng bạn em sợ quá bỏ nghề bắn thú và mang con khỉ này về nhờ em nuôi. Thương nó côi cút em mua thêm con khỉ đực cho nó có bạn. Không ngờ nửa gần rơm lâu ngày cung bén. Chúng nó thành vợ chồng và sắp có con rồi chị ạ... Anh vừa nói vừa vỗ vỗ bàn tay nhỏ xíu của khỉ cái, ra chiều bịn rịn... còn tôi, rất thích chơi với khỉ nhưng sợ nó ghen nên im như thóc. Để ánh mặt lạ, theo anh Chế vào nhà. Chị chủ nhà đon đả mang đĩa đu đủ chín ra mời khách. Nhấm nháp vị ngọt sắc vàng ươm và tranh thủ bao quát ngôi nhà đơn giản nhưng đầy đủ tiện nghi, sạch sẽ, lộng gió và hương cây trái. Tôi thấy vui. Mừng hơn là đàn lợn gần xuất chuồng. Minh chứng cho sự năng động quyết đoán, của chủ tịch xã...

Mẹ con nhà con chó vàng mũm mĩm ngoáy tít cái đuôi, tai cụp xuống. Miệng rên ứ ự. Ấy là có người nhà... Già làng lục tục kéo nhau đến. Người già nhất vuốt bộ râu dài cắt tỉa cẩn thận: Ông là trưởng làng. Đang nông nhàn, làng lại làm mâm cỗ, để nói chuyện tổ tiên, chuyện con cháu. Chị là khách làng. Bà con mời chị cùng uống chén rượu. Vâng ạ. Đi nào. Đây vậy đó chị. Anh Chế cười tít mắt, cùng tôi một lượt chào bà con và ngồi xuống chiếu dưới. Thôi thì đủ thứ đặc sản quê: Gà chạy bộ luộc thơm lá chanh, vịt nấu mẻ, lợn nương nướng vỉ, bò lá lốt, thịt chó bảy món, cá trắm hấp hành, rau đủ loại... rải khắp sân làng trong tiếng chạm cốc, trong lời trò chuyện mộc mạc mà đầy ắp ý tưởng của con cháu hậu Lê.

Quá khứ hiện tại thấm đấm trong mỗi con người nơi đây. Tôi tin chủ tịch Chế sẽ đưa xã của mình đi lên nữa bằng sự năng động, bằng hồn quê trong anh.

57

Page 58: Sống tận cùng với đất

CÁNH ĐỒNG KHÔNG MATrương Văn Định

Trong ngút ngàn những cánh rừng Tây Bắc, đôi lúc ta bắt gặp những cánh

rừng còn nguyên vẹn nét hoang sơ. Cảm giác rờn rợn khi được nghe những điều

huyền bí, huyễn hoặc theo lối truyền khẩu của người bản địa - Rừng ma!. Một

thung lũng bằng phẳng nằm trong sự bao bọc của núi rừng, lau sậy mọc tràn lan,

nơi lý tưởng để khai phá ruộng nước nhưng đã bao đời người dân nơi đó vẫn bỏ

hoang trong sự tiếc nuối, bởi ở đó cũng tồn tại bao điều huyền bí về vùng đất "có

ma", và họ gọi là "cánh đồng ma!". Thế rồi, tháng 3/2008, "những người không

sợ ma" ở huyện Trạm Tấu mở chiến dịch khai phá "cánh đồng ma", khai phá

nhận thức chưa đúng đắn, tư tưởng mê tín dị đoan vẫn tồn tại lâu nay, làm nên

một cánh đồng có diện tích trên 10 ha. "Cánh đồng ma" ngày nào nay mang tên

mới là cánh đồng Nậm Tộc thuộc thôn Tống Trong, xã Túc Đán, Trạm Tấu (Yên

Bái). Dẫu chưa là "bờ xôi, ruộng mật", không "thẳng cánh cò bay", nhưng "cánh

đồng ma" đã có đóng góp khá quan trọng bổ sung nguồn lương thực cho một

huyện vùng cao vốn nghèo nhất nhì cả nước.

Ông Vàng A Lếnh đứng rất lâu trên hòn đá lớn nhìn xuống cánh đồng Nậm

Tộc, cái tên của cánh đồng này mang chính tên của con suối chảy qua bản ông.

Vẫn là ông, vẫn là hòn đá này, vẫn cánh đồng dưới kia, ông đã nhìn từ hồi còn bé

xíu. Năm nay ông đã 70 tuổi rồi, đã trở thành người già nhất bản, ông vẫn ra đây

nhìn. Trong nắng chiều vàng rộm, những thân ngô cao vút, những ruộng đỗ, lạc

mỡ màng… Nhìn mà no con mắt. Ông chẳng biết bao nhiêu rộng sẽ thành một

sào, không biết bao nhiêu sào sẽ thành một hecta, ông chỉ biết rằng nếu cả cánh

đồng này thu một vụ thì cả bản của ông với 43 hộ toàn là người Mông sẽ ăn cả

năm không hết.

58

Page 59: Sống tận cùng với đất

Ông trở thành một chứng nhân, vì ông là người già, vì nhà ông ở sát "cánh

đồng ma". Ông là chứng nhân của sự nghèo đói. Nghèo đói không phải vì dân

bản ông lười làm mà vì đất đai của bản ngày một hoang hóa, khô cằn. Cả năm

quần quật trên lưng núi, đốt cái rẫy, trồng cây sắn, cây ngô, trồng lúa nương mà

đến vụ thu hoạch chỉ mang về vẻn vẹn có mấy gùi đổ vào xó bếp. Con trẻ không

biết chữ vì ngay từ khi còn rất bé chúng phải theo cha mẹ lên nương. Lớn hơn

một chút phải phụ giúp gia đình, rồi dựng vợ, gả chồng và tiếp tục vùng luân hồi

đi tìm bát cơm manh áo. Đói cái vụng, dân bản vào rừng hái cái măng, đào cái củ

mài về ăn. Cả đời ông Lềnh chỉ biết đến mèn mén, củ sắn, củ mài thay cơm vì

gạo phải dành cho con trẻ, cho người già, người ốm đau. Khi ốm đau bà con nhờ

thầy mo đến cúng ma. Cúng không khỏi thầy mo nói: "Nó đã bị con ma rừng bắt

đi rồi"… nên người dân ở bản ông sợ con ma rừng nhiều lắm… Vì ông là chứng

nhân nên các đoàn cán bộ của huyện về khảo sát để mở cánh đồng trồng lúa nước

đều phải hỏi qua ông. Mỗi lần được hỏi, ông đều trả lời: "Không làm được đâu, ở

đấy có con ma rừng đấy!". Khi cán bộ hỏi: "Vì sao ông biết có ma rừng, vì sao

dân làng lại gọi nơi đó là cánh đồng ma?...". Ông đã trả lời không dấu diếm. Ông

không nhớ cái tên "cánh đồng ma" có từ bao giờ. Hồi còn thanh niên, cả bản ông

nghèo đói lắm. Đã có lần ông vác cái cuốc, lưng dắt theo con dao định xuống

"cánh đồng ma" để khai khẩn ruộng nước nhưng ông cụ thân sinh ra ông ngăn lại:

Không được đâu con ơi, ở đó có con ma rừng nó sẽ về bắt cả nhà, cả bản ta đấy.

Rồi ông cụ kể cho ông nghe câu chuyện bi thương liên quan đến "sự tích" cánh

đồng ma mà cụ từng biết":

Hồi trước, "cánh đồng ma" có hai bản người Mông và người Dao sinh sống.

Dân hai bản sống no đủ quanh năm nhờ canh tác chung trên cánh đồng ruộng

nước vừa rộng, vừa màu mỡ. Rồi một ngày tai họa đổ ập xuống đầu họ. Đầu tiên

là những người già, trẻ con rồi đến người khỏe, rồi cả thanh niên trai tráng…

cùng chung một loại bệnh: Lúc đầu đi ỉa chảy, rồi cái miệng nôn toàn nước, được

59

Page 60: Sống tận cùng với đất

vài ngày thì lăn ra chết. Nhiều người đã chết, những người còn sống sót bỏ bản đi

nơi khác. Cũng từ dạo ấy cánh đồng đó mang tên "Cánh đồng ma!". Ông nghe và

sợ, nhưng ông vẫn tiếc. Mỗi bận đi nương, đi rừng về ông đều nán lại bên hòn đá

này để nhìn xuống cánh đồng ma mà than: Giá chi nơi đây không có con ma rừng

thì chắc chắn dân bản ông không sợ đói. Ông đã nhìn nên ông biết sợ và tin

những gì ông cụ thân sinh đã nói. Vào những buổi chiều hay buổi sớm mùa đông,

sương lảng bảng, gió rít vào lau sậy phát ra những âm thanh rờn rợn: Hai hòn đá

to một thấp một cao đủ chỗ cho vài chục người ngồi ở giữa cánh đồng sắt lạnh

ghê người. 11 ngôi mộ vô chủ chơ vơ, lạc lõng bên những ruộng bậc thang bị thời

gian, mưa nắng gọt mài nên sạt lở như vết thương lở loét. Ông nghĩ: Biết đâu

trong những bãi lau sậy rậm rịt kia chẳng còn những ngôi mộ khác, chẳng có

những hồn ma bơ vơ, rên xiết thành những âm thanh ma quái? Ông rùng mình

không dám nhìn nữa mà dảo bước về nhà… Nay cái cán bộ đến hỏi ta phải nói

hết. Chúng là người trẻ nên không biết. Nếu đụng vào đất đó, con ma rừng sẽ về

bắt chúng, bắt con cháu chúng đi - Ta thành người có tội.

Câu chuyện mà chúng tôi được nghe ông Vàng A Lếnh ở bản Tống Trong,

xã Túc Đán kể lại cũng là câu chuyện mà đã từ lâu người dân vùng cao Trạm Tấu

(Yên Bái) vẫn đồn thổi về một vùng đất tâm linh, huyền bí mà mỗi khi nhắc đến

họ không khỏi bàng hoàng, khiếp sợ - "Truyền thuyết" về cánh đồng ma. Tuy

nhiên, cũng có nhiều người không tin vào "truyền thuyết đó" nên mạnh dạn khai

phá cánh đồng ma để sản xuất. Đầu tiên phải kể đến trường hợp của ông Vàng A

Súa. Năm 1971, ông Súa khi ấy làm chủ nhiệm HTX Làng Tống đã vận động

nhân dân tham gia khai phá "cánh đồng ma" để trồng cây lúa nước, trồng ngô.

Sau khi thu hoạch một vụ, chuẩn bị cho vụ thứ hai thì ông Súa bất ngờ đổ trọng

bệnh và mất vào năm sau. Liên tiếp sau đó, ông Vàng A Chống (thông Tống

Trong) rồi đến ông Lò Văn Phúc (Bản Pân, xã Nghĩa Phúc) đến khai phá, mở

mang lập ruộng nhưng chỉ được sau một đến hai vụ thì bản thân hoặc người thân

60

Page 61: Sống tận cùng với đất

trong gia đình bị ốm hoặc chết. Ông Thào Chừ Vàng, Bí thư Đảng ủy xã Túc Đán

bồi hồi nhớ lại: Mặc dù trải qua nhiều sự kiện, những trùng hợp khó lý giải

nhưng ông không tin nơi đó có ma. Năm 1982, ông dắt theo đứa con trai thứ hai

lên cánh đồng ma dựng lều khai khẩn được 14 thửa ruộng nước. Con suối Nậm

Tộc hiền hòa đủ nước tưới cho cả cánh đồng trong hai vụ lúa mà cá nhiều vô kể.

Chỉ cần quăng một mẻ chài đã có ngay một vài kg cá mang về ăn. Ông dự định,

sau khi tạo lập cuộc sống ổn định trên "cánh đồng ma" sẽ về đón gia đình và họ

hàng lên đây lập bản mới. Thế nhưng, chỉ đến năm thứ hai, đứa con trai theo ông

bất ngờ đổ bệnh và không qua khỏi. Nỗi đau mất con và áp lực từ gia đình, dòng

họ đã khiến ông phải từ bỏ mảnh đất mà ông biết chắc sẽ mang lại no ấm cho gia

đình, làng bản. Cũng từ đây "cánh đồng ma" đã không còn ai dám đặt chân đến

nữa trừ thầy mo khi làm lễ cúng rừng, cúng bản, cúng cho người đau ốm, cúng lễ

đặt tên cho con… mới dám ra giữa cánh đồng có hai mòn đá rất lớn để hành lễ.

Những cái chết bí ẩn, những lời đồn thổi rùng rợn, những phế tích còn lại… làm

cho không chỉ người dân ở bản Tống Trong, Tống Ngoài (xã Túc Đán) mà cả các

xã lân cận qua nhiều thế hệ đều truyền nhau "truyền thuyết" về "cánh đồng ma"

với bao điều huyễn hoặc, huyền bí và ký ức đau thương, chết chóc. Người dân

địa phương cho rằng nơi ấy là "cõi thiêng" hay "vùng đất có ma", nếu ai đụng vào

vùng đất đó sẽ không tránh khỏi sự trừng phạt của thần linh. Vậy nên, dù cuộc

sống đốt nương làm rẫy, khó khăn thiếu thốn đủ bề, nguồn lương thực chủ yếu là

củ sắn, củ mài, mèn mén thay cơm, cái đói nghèo cứ đeo bám cuộc sống mà đồng

bào không dám trồng cấy trên "cánh đồng ma".

Dân đói, đất lại bỏ hoang, nỗi niềm đó, giải pháp nào giúp được nhân dân

xóa đi nỗi sợ hãi, tư tưởng mê tín dị đoan để khai phá "cánh đồng ma" trực tiếp

nâng cao đời sống cho chính mình… là câu hỏi đặt ra cho lãnh đạo, chính quyền

huyện mà không dễ tìm ra lời giải đáp. Đối với một huyện vùng cao Trạm Tấu đã

nghèo lại lắm cái khó khăn. Khó khăn từ con đường đi, khó đến cái ăn, cái chữ.

61

Page 62: Sống tận cùng với đất

Khó về con đường đi là do địa hình hiểm trở, là khó khăn do khách quan mang

lại nhưng có thể khắc phục dần. Đói cái ăn, dân địa phương đốt rừng làm rẫy,

nhưng rừng có hạn, ngày sau con cháu không còn rừng nữa sẽ dựa vào đâu mà

sống. Đói cái chữ nên luôn đi kèm với lạc hậu, u mê. Vì thiếu con chữ nên bà con

mỗi khi ốm đau lại mời thầy mo về cúng. Tin lời thầy mo nên bà con tin "con ma

rừng" luôn rình rập mọi nhà. Làm trái ý sẽ bị con "ma rừng", "thần núi" bắt đi.

Thầy mo nói: Những cái chết bí hiểm trên "cánh đồng ma" là do làm trái ý thần

linh, rằng nơi đó là "vùng đất thiêng" nếu đụng vào sẽ không tránh khỏi sự trừng

phạt. Cái khó đặt ra cho Huyện ủy, chính quyền huyện không chỉ là công sức,

tiền của bỏ ra khai phá mà sau khi khai phá xong phải giao được cho dân, do

nhân dân làm chủ… Có thể nói rằng, công cuộc chinh phục "cánh đồng ma" là

cuộc đấu tranh căng thẳng của cuộc sống mưu sinh, tư tưởng tiến bộ với một thế

giới siêu thực, hoang đường xuất phát từ tư tưởng mê tín dị đoan đã tồn tại cố

hữu trong nhận thức của đồng bào địa phương. Sự thành công mang lại sẽ giúp bà

con ổn định cuộc sống mà còn giúp xóa đi tâm lý hoang mang, lo sợ trước các

hiện tượng tự nhiên mà mạnh dạn khai phá những nơi vốn được cho là có "ma

rừng", "thần núi" cai quản để làm ruộng nương, ổn định cuộc sống ở các địa

phương khác trong huyện. Quán triệt quan điểm: "Chắc chắn, triệt để, hiệu quả",

huyện Trạm Tấu đã thành lập Ban chỉ đạo khai phá "cánh đồng ma" và huy động

tất cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc.

Việc làm đầu tiên là Ban chỉ đạo cử các đoàn công tác xuống khảo sát thực

địa, tìm hiểu thực hư các tin đồn để làm cơ sở tuyên truyền vận động nhân dân.

Ông Hà Chí Họp, Bí thư Huyện ủy là một trong những người tiên phong đi đầu.

Ông từng là người lính xông pha trận mạc và ông coi việc khảo sát kỹ địa bàn,

vận động nhân dân thông suốt và đội ngũ cán bộ phải gương mẫu đi đầu để lôi

kéo các đoàn thể và mọi người cùng làm theo… là bước chuẩn bị tốt nhất cho sự

thắng lợi của "trận đánh" này. Trên người mặc bộ quân phục cũ, chân đeo giày

62

Page 63: Sống tận cùng với đất

bải, ông và đoàn công tác băng rừng tìm về "cánh đồng ma", đặt chân lên "hòn đá

thiêng", nơi mà chỉ thầy mo mới dám đến hành lễ. Về bản Tống Trong, ông lặng

người trước không khí ảm đạm, sự tiêu điều bao trùm lên bản. Cả bản không có

lấy một mét vuông ruộng nước, nguồn lương thực hoàn toàn dựa vào nương rẫy

đã bạc màu. Đến nơi đây, ông thực sự thấm thía câu nói "ăn miếng của rừng rưng

rưng nước mắt" mà cổ nhân đã dạy. Những điều nhìn thấy càng củng cố thêm cho

ông và đoàn công tác sự quyết tâm chinh phục bằng được "cánh đồng ma". Qua

tìm hiểu, đoàn công tác được biết: những trường hợp chết chóc là có thật, song

không ít những tình tiết được hư cấu, thêu rệt thêm nhằm thần thánh hóa để trục

lợi cá nhân. "Không tin có ma nhưng chúng tôi vẫn sợ!" - Ông Họp khẳng định

với chúng tôi rồi giải thích: Nếu nhìn nhận ở góc độ khoa học thì các yếu tố thổ

nhưỡng, khí hậu, nguồn nước, điều kiện mưa, nắng… đều có thể ảnh hưởng đến

sức khỏe, tính mạng con người nên phải được quan trắc, đo đếm cẩn thận. Không

có sự giúp đỡ từ phía các nhà khoa học, chúng tôi phải quan sát, thử nghiệp rất kỹ

rồi mới bắt đầu thực hiện kế hoạch tuyên truyền vận động nhân dân và triển khai

thực hiện dự án. Chọn đối tượng nào để tuyên truyền vận động cũng là vấn đề

nan giải đặt ra. Người gia ư? Những tác động, ảnh hưởng và nỗi ám ảnh về "cánh

đồng ma" lâu nay khiến cách nghĩ của họ chơ lỳ như đá tảng. Phụ nữ ư? Họ chỉ

biết nghe theo chồng. Vậy là phải chọn những người trẻ tuổi, những người có

hiểu biết nhất định. Họ chuyển biến rồi, họ thành những người đi vận động hiệu

quả hơn cho người khác… Các ông Lầu A Páo (Chủ tịch huyện), ông Giàng A Su

(nguyên Bí thư huyện ủy đã nghỉ hưu), ông Thào Chừ Vàng, Bí thư Đảng ủy xã

Túc Đán (người đã trực tiếp khai phá cánh đồng ma năm 1982)… chỉ huy các đội

công tác đến gõ cửa từng nhà dân vận động, phân tích đúng sai. Cùng là người

Mông với nhau, lại xuất phát từ lợi ích của bản, bà con nghe rồi tin và đồng ý cho

chính quyền làm nhưng không dám trực tiếp tham gia. Ban chỉ đạo đã họp và

quyết định giao cho Huyện đoàn phối hợp cùng Ban CHQS huyện, lực lượng dân

63

Page 64: Sống tận cùng với đất

quân, công an các xã lân cận (huy động được gần 200 người) làm lực lượng chính

trong "chiến dịch" khai phá "cánh đồng ma". Thời điểm được lựa chọn vào đúng

tháng thanh niên (tháng 3), chia thành 5 đội Thanh niên tình nguyện lấy chủ đề

"Tuổi trẻ trạm Tấu với công tác khai hoang ruộng nước, thâm canh tăng vụ, giúp

nhân dân phát triển kinh tế" làm mục tiêu xiên suốt trong quá trình thực hiện dự

án. Huyện giao cho Phòng Nông nghiệp liên hệ với trên xin hỗ trợ kinh p hí từ

nguồn đầu tư phát triển (chương trình 135 của Chính phủ) để làm kinh phí thực

hiện dự án. Tuy nhiên, chương trình này chỉ hỗ trợ cho các hộ cá thể khai hoang

ruộng nước (mỗi ha tương đương 3 triệu đồng), đối chiếu với tiêu chí trên, dự án

của huyện không được hỗ trợ kinh phí. Tháo gỡ khó khăn đó, huyện đã phát động

rộng rãi trong cán bộ, công chức, lực lượng vũ trang… mỗi người ủng hộ 1/2

ngày lương được 39 triệu đồng phục vụ cho việc khai phá, mua giống cây trồng

trong vụ thứ nhất. Để giải quyết vấn đề tâm lý cho đồng bào, trong lễ ra quân

thực hiện chiến dịch khai phá ruộng nước, huyện đã tổ chức trọng thể các nghi lễ

truyền thống theo phong tục địa phương ngay trên "hòn đất thiêng" nên súng

bắng không nổ như bà con vẫn nghĩ, huyện đã chỉ đạo Ban CHQS huyện cho nổ

ba quả mìn. Các nghi thức được tiến hành chặt chẽ và thành công tốt đẹp trước sự

chứng kiến của đông đảo nhân dân, bà con đã tin "thần núi" đã cho phép khai phá

cánh đồng Nậm Tộc. Ông Mùa A Lử một trong những người cao tuổi ở bản Tống

Trong tham gia tại buổi lễ hôm đó đã thành thực tâm sự: "Sợ lắm, nhưng khi thấy

cán bộ tổ chức đúng nghi lễ, nổ được mìn, có cán bộ huyện, bộ đội, dân quân,

công an, chính quyền xã cùng tham gia nên bà con trong bản vững cái bụng

hơn…".

Trong suốt thời gian thực hiện dự án khai phá cánh đồng ruộng nước, các

lực lượng tham gia đã dựng lều bạt, làm việc và sinh hoạt tập trung ngay trên

"cánh đồng ma" đã nhiều năm làm cho đồng bào địa phương khiếp sợ. Bằng tinh

thần trách nhiệm cao, một khối lượng công việc rất lớn từ phát, chặt cây, đắp bờ,

64

Page 65: Sống tận cùng với đất

xẻ ruộng bậc thang, xây dựng các công trình tiêu úng, thoát nước… đã được gấp

rút hoàn thành. Trên "công trường" mang đầy sức trẻ liên tục được các cấp lãnh

đạo, các ban ngành, đoàn thể của huyện thăm hỏi, động viên, tặng quà kịp thời.

Huyện nghèo nên sự ủng hộ về vật chất rất hạn hẹp, quà của các đoàn thể là

những kg cá khô, một ít lạc, chút kẹo bánh hay chỉ vài lít rượu gọi là bồi dưỡng

thêm sức khỏe cho anh em, xong điều đáng quý là những lời thăm hỏi, động viên

kịp thời đã tạo nên sự đồng thuận về nhận thức: tất cả vì sự no ấm cho đồng bào.

Ông Giàng A Su (nguyên Bí thư huyện ủy) sau khi nghỉ hưu được Nhà nước

phong tặng Huân chương Lao động hạng Hai kèm theo số tiền thưởng hai triệu

đồng, ông đã dành ủng hộ các anh em đang lao động trên cánh đồng. Có rất nhiều

những tấm lòng hảo tâm, những gương lao động không mệt mỏi vì tiến độ và

chất lượng của dự án. Anh Vũ Đăng Quỳnh, Bí thư Huyện đoàn Trạm Tấu do có

những đóng góp xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ khai phá "cánh đồng ma" và

hoàn thành tốt các nhiệm vụ theo chức năng đã vinh dự được bầu chọn là một

trong "10 gương mặt tiêu biểu xuất sắc" cấp quốc gia năm 2008. Thành tích đã

được vinh danh, nhưng vẫn còn đó những con người thầm lặng, âm thầm cống

hiến vì sự bình yên no ấm cho nhân dân. Sau khi hoàn thành chương trình khai

phá ruộng nước và trồng vụ đầu tiên trên cánh đồng Nậm Tộc, Huyện đoàn bàn

giao công tác chăm sóc, thu hoạch cho đoàn xã Túc Đán. Bí thư đoàn xã Túc Đán

là anh Sồng A Chu đã phải đi hết bản trên, bản dưới để vận động thanh niên đi

làm. Các đoàn viên đều rất muốn đi làm nhưng nhiều gia đình vì sợ nên đã ngăn

cấm con em tham gia. Anh đã đi đến từng nhà để vận động, thuyết phục các gia

đình cho con em tham gia vừa để bảo đảm đoàn số vừa là điều kiện sống còn của

cánh đồng Nậm Tộc. Sau vụ thu hoạch thứ nhất thành công, những thửa ruộng

mới khai phá được chia cho dân nhưng do nỗi ám ảnh từ cánh đồng ma nên

không một ai dám nhận. BCH đoàn xã Túc Đán lại vận động đoàn viên thanh

niên tiếp tục reo trồng tập trung ở vụ thứ hai và phối hợp chặt chẽ với các cấp các

65

Page 66: Sống tận cùng với đất

ngành của huyện, xã vận động nhân dân nhận ruộng để sản xuất. Sau khi thu

hoạch, các nông sản được chia hết cho nhân dân trong thôn. Nhận những sản

phẩm được reo cấy từ "cánh đồng ma", Ông Vàng A Ly, trưởng thôn Tống Trong

đã cảm động nói: "Dân bản ta đã nhiều năm sống trong nghèo đói nhưng vì sợ mà

chẳng dám làm. Nay được các cấp các ngành góp công khai phá làm nên cánh

đồng và chia nông sản cho bà con, giúp dân bản ta xóa được đói nghèo. Từ nay

dân bản ta đã thực sự tin tưởng nơi đây không còn con ma nữa". Được biết toàn

xã Túc Đán có 45 ha ruộng nước. Theo cánh tính của người dân địa phương mỗi

ha ruộng nước cho thu hoạch 4 tấn thóc/ 1 vụ. Như vậy cánh đồng trên 10 ha này

sẽ là nguồn bổ sung quan trọng trong việc nâng cao diện tích reo cấy và sản

lượng lương thực, trực tiếp giúp nhân dân địa phương xóa đói, giảm nghèo…

Nguồn lợi đã phơi bày ra trước mắt nhưng những việc làm cụ thể và một quá

trình kiên trì vận động, đến vụ thứ ba vẫn còn có 6/43 hộ của thôn Tống Trong

chưa dám nhanạ ruộng từ "cánh đồng ma" để reo cấy. Vì đâu nên nỗi ám ảnh, sợ

hãi của người dân tồn tại giai dẳng như vậy?. Ai cũng hiểu đó là do nhận thức

của đồng bào còn hạn chế. Nhưng ẩn sâu trong "góc khuất" nhận thức, còn có sự

tác động từ các thầy mo. Chẳng vậy mà, ông Giàng A Chống sau khi tham gia

khai phá cánh đồng ma, ông bị bệnh viêm loét dạ dày, mời thầy mo đến cúng

nhưng thầy mo ở bản Tống Trong nhất định không cúng vì thầy mo nói ông đã

phạm vào "đất thiêng" của bản, phải mời thầy mo bản khác về cúng. Huyện biết

được chuyện đã chỉ đạo đưa ông đi bệnh viện chữa trị. Ông khỏi bệnh trở về, thầy

mo đến bắt ông trả lễ một con bò vì do công thầy cúng khỏi. Hay anh Sồng A

Chu bị suy nhược thần kinh, ông Thào Chừ Vàng bị bệnh sỏi thận, ông Tô Đức

Thiện (Phòng nông nghiệp huyện) bị tai nạn giao thông… đều được các thầy mo

tung tin đồn là do dám khai phá "cánh đồng ma" nên bị thần linh trách phạt. Làm

sao bắt phạt được tin đồng, huyện phải chỉ đạo chữa trị cho những người bị ốm

và tuyên truyền, vận động đồng bào hiểu rõ đúng sai từ đó vạch mặt người xấu. -

66

Page 67: Sống tận cùng với đất

Đó cũng là điều kiện sống còn cho sự thành công của dự án khai phá "cánh đồng

ma". Vẫn còn một điều làm những người tâm huyết vì sự no ấm của nhân dân day

dứt đó là: Do thiếu kinh phí nên công trình nắn suối Nậm Tộc lấy nước tưới tiêu

cho cánh đồng vẫn chưa được thực hiện. Đã ba vụ trôi qua, cánh đồng Nậm Tộc

mới cơ bản chỉ trồng được ngô, lạc, đỗ, tỷ lệ ruộng cấy được lúa nước chưa

nhiều. Nhưng lòng quyết tâm của những con người dám nghĩ, cám làm và đã làm

sẽ sớm đưa cánh đồng Nậm Tộc đến với những mùa lúa trĩu bông, mùa no ấm

thực sự đến gần. Tôi nhớ đến câu nói của ông Hà Chí Họp, Bí thư Huyện ủy

Trạm Tấu: "Nếu còn những "Cánh đồng ma", những "vùng đất thiêng" trên địa

bàn huyện thì lãnh đạo, chính quyền và nhân dân Trạm Tấu vẫn làm và quyết tâm

làm cho bằng được!".

Sau thành công của "chiến dịch" chinh phục "cánh đồng ma", những người

"không sợ ma" ở huyện Trạm Tấu lại trở về với công việc thường nhật. Nhưng ẩn

sâu trong mỗi việc làm bình dị là niềm vui được chia sẻ, góp sức cùng nhân dân

xây dựng cuộc sống bình yên, no ấm trên quê hương vùng cao nhiều khó khăn.

Trong khói sương lảng bảng, "cánh đồng ma" đẹp hơn với những thân ngô cao

vút như những cánh tay vẫy đón gió chiều lồng lộng. Ông Lềnh vẫn đứng trên

hòn đá lớn, bóng ông đổ dài trên cánh đồng Nậm Tộc. Ông là một chứng nhân.

Nhưng hôm nay ông là chứng nhân của sự đổi thay về nhận thức. Dẫu sự đổi thay

có muộn màng nhưng đó là sự đổi thay căn bản, cững chắc. Nhờ sự đổi thay đó

mà những người dân ở bản Tống Trong đã được hưởng lợi từ chính "cánh đồng

ma" mà đã bao đời làm cho người dân địa phương khiếp sợ.

67

Page 68: Sống tận cùng với đất

SAU NGÀY "CON TRÂU VỀ BẢN"

Hoàng Nghiệp

Ông Mùa A Chả cài xong 4 cái gióng chuồng trâu thì nắng cũng vừa lên

đúng đỉnh đầu. Muộn thế này mà vợ con vẫn còn chưa xuống núi. Từ ngày có

thêm mấy con trâu vất vả thật. Vất vả quá. Cầm cái điếu rít liên tục mấy hơi rồi

nhả từng vòng tròn khói trắng đục, Mùa A Chả thấy mình như khỏe hơn trước rất

nhiều. Đúng là chỉ cần nghĩ một tý là có việc, có việc thì phải làm, xưa nay ông

nghỉ việc. Nắng có việc nặng, mưa có việc mưa. nặng thì đi cuốc đất, đào trâu be

bị ốm nên ông phải dành nhiều thời gian hơn để cắt cỏ non. Nó không như biết

ơn khiến ông cũng thấy cảm động. Mệt nhưng vui, mệt mà vui thế này cũng xứng

đáng. Đúng là sau ngày con trâu "về bản" thì bản ông cái gì cũng thay đổi. Mặc

dù chưa nhiều nhưng ít ra nó cũng góp phần giải phóng sức của động thô sơ, lạc

hậu của con người. Nhớ mãi lời cán bộ Nông trường 2 bảo: "Một con trâu sẽ đẻ

thành hai, hai con sẽ đẻ thành bốn nhưng mà phải luân chuyển đấy, luân chuyển

thì nhà nào mà chả có trâu". Ông thấy thế mà hay. Một con trâu mẹ khi đẻ con nó

lại được chuyển đến nhà khác nuôi, lớn lên khi đẻ lại chuyển, cứ chuyển, biết đến

lúc về già cả bản này là chủ của nó nhưng chắc chắn ông Mùa A Chả là vinh dự

nhất vì ông được làm chủ đầu tiên của con trâu đó. Nghĩ miên man quá mất hết

cả thời gian, ông định ngả lưng chút xíu thì chợt nhớ ra bữa trước ông Giàng A

Páo ở bản Tà Hàng, xã Mường Toong, huyện Mường Nhé (Điện Biên) sang bảo:

- Chào ông Mùa A Chả nhé. Ông làm cái chuồng trâu gì mà to thế? Có khi

nó còn hơn cả cái bếp sắp đổ nhà tôi thật rồi.

- Y dà, đừng nịnh tôi nữa mà. Con trâu bây giờ quý hơn vàng đấy. Phải làm

cẩn thận mới được. Chuồng không tốt nhỡ nó chết mình vừa bị đền tiền lại mất

trâu. Ầy, như thế thì phụ công của bộ đội Nông trường 2 quá mà…

68

Page 69: Sống tận cùng với đất

Mải nói nên bát rượu trên tay ông cứ sánh mãi ra đất. Nhưng tiếc gì vài giọt

rượu ngô. Người cùng xã đến nhà nhau là vui rồi, có việc nhờ nhau lại càng vui

hơn.

Giàng A Páo cười khà khà:

- Ông thì cái gì cũng chu đáo. Nếu ông không là hộ đầu tiên nhận con trâu

này thì vợ chồng tôi cũng không nhận làm gì. Đúng là con trâu quý hơn vàng thật

rồi. Mà tôi với ông đã bao giờ thấy vàng đâu nhỉ?

Mùa A Chả rót thêm rượu vào bát men đã cũ:

- Biết làm thế nào được. Vàng mà làm gì, vàng có biết đẻ đâu nhỉ, bán mãi

thì hết, hết thì không lấy được rồi. Nhưng có con trâu thì vàng củng chẳng là gì,

thằng con trai tôi cũng có thêm việc để làm, con trâu nó biết đẻ, đẻ mãi thành ra

chửng bao giờ hết trâu. Đồng bào Mông ta ở Mường Toong nghèo quá, tôi và ông

mãi chẳng mua nổi một con trâu. Đúng là bộ đội có khác, thương dân mình quá

thôi. Mà hôm nay ông sang gặp tôi có việc gì thế sao không thấy nói:

Giàng A Páo trả lời:

- Cuối tuần này con bò nhà tôi cũng đẻ rồi. Nếu không bận ông sang giúp tôi

đỡ đẻ cho nó nhé.

Nhanh thật. Thế mà con bò nhà Giàng A Páo đã đẻ rồi cơ đây. Từ ngày bộ

đội của Đội sản xuất 10 thuộc Nông trường 2 (Đoàn Kinh tế Quốc phòng B79 -

Quân khu 2) bàn giao cho dân bản 30 con trâu, 26 con bò thì trâu nhà ông Mùa A

Chả đẻ con đầu tiên, con bò lại là của Giàng A Páo. Kể ra cũng hay, mình nhận

trâu hoặc bò thì chúng cũng đều biết sinh sản hết. Như thế loại nào cũng quý vì

đều giúp người Mông thoát nghèo như lời Trung tá, đội trưởng Lò Văn Inh nói

với mọi người hôm xuống sân của Đội nhận con giống. Buổi sáng hôm ấy trời

nắng to, mấy ngày hôm trước cũng nắng:

- Thưa bà con, người kinh dưới xuôi đã dùng máy cày, máy bừa, máy reo

mạ, máy gặt lúa, máy tuốt lúa, máy sát sát từ lâu rồi, con trâu của họ giờ cũng

69

Page 70: Sống tận cùng với đất

nhàn hơn, nó chỉ phải cày, bừa những mảnh ruộng nhỏ mà máy không thể vào

được, thời gian còn lại thì gặm cỏ, nghỉ ngơi. Đồng bào miền núi ta còn khó khăn

quá, nhiều nhà vẫn nghèo nên không có tiền mua con trâu về cày ruộng. Con trâu

so với người Kinh vùng xuôi thì bình thường nhưng với bà con ta nó vẫn là đầu

cơ nghiệp đấy.

Thấy bà con chăm chú nghe quá, đúng là con trâu không phải là to tát hay

cao xiêu nhưng đối với dân bản thì thật là quý. Bao năm đồng bào Mông ở đây đã

chung cảnh khổ. Cày, cuốc, kéo, đập tất cả đều dùng sức người. Sức người ghì

giới hạn, làm nhiều sẽ ốm. Con trâu làm nhiều cũng ốm nhưng nó nhanh hồi

phục, mà sức khỏe phi phàm ấy mấy khi nó bị ốm đâu nhỉ. Nhưng gia đình trâu

bò bị ốm hoặc chết là do chủ hộ chưa biết cách chăm sóc, thậm chí đẻ nó ngã núi

nên mới chết. Lần đầu tiên Mường Toong được "phát" trâu, bò nên người dân

hào hứng như đi xem đoàn văn công về bản biểu diễn. Niềm vui của họ không

chỉ lộ ra trên nét mặt mà thấy mấy hộ tự bảo nhau đi chặt te, gỗ, đan liếp để làm

chuồng là biết ngay. Đội trưởng Lò Văn Inh cũng là người dân tộc thiểu số. Bao

năm anh cùng sống chung nên thấu hiểu khi người nông dân phải lấy chính sức

lực của mình để thay con trâu chống trọi trong nắng mưa. Lúc khỏe đã vậy lại

còn khi ốm đau thì sao? Càng nghỉ càng thấy đau đầu nhưng đau đầu vẫn phải

làm, phải nghĩ. Làm mới có ăn nhưng làm cách ấy mấy ai giàu đâu, đủ ăn đã là

tốt lắm rồi. May ra được một vài hộ trong bản khá hơn thì nuôi được vài đứa con

học hết cấp 2 cũng giỏi quá rồi. Thực ra Mường Toong không phải là không có

trâu, bò, tại cái nghèo nên số hộ không trâu, không bò rất nhiều. Còn nhớ mấy

năm trước một hộ người Mông ở Mường Toong bị một con trâu ngã núi, cả nhà

ai cũng buồn. Con trâu ấy được đem mổ thịt bán với giá rẻ nhưng cũng chẳng ai

buồn mua. Hay thật, thứ gì mà đồng bào đã trân trọng thì dù không đáng giá một

xu cũng nghĩ. Anh Lò Văn Inh quá hiểu điều đó vì tuần nào, tháng nào anh cũng

xuống với bà con, là người Thái nhưng anh nói tiếng Mông như người Mông nói

70

Page 71: Sống tận cùng với đất

tiếng của họ. Lò Văn inh nói thì bà con tin rồi, tin ngay, người của bản không tin

sao được. Lò Văn inh nói thì bà con tin rồi, tin ngay, người của bản không tin sao

được. Trời nắng thế này mà nhiều người mang theo cả trẻ con đi cùng mặc dù

chúng chưa được nghỉ hè. Thế mới biết đối với trẻ con việc theo người lớn đi

nhận trâu hôm nay quan trọng hơn cả việc tới lớp. Lò Văn Inh chỉ tay về phía

những cây xoài mà anh em trong đội trồng cách đây mấy năm giờ đã khép tán:

- Không làm thì không có ăn, không trồng thì không có cây, không nuôi thì

không có con. Bà con thấy không, chỗ kia trước là sỏi, đá, bãi đồi bỏ hoang khi

bộ đội về nó trở thành vườn cây đầy quả. Nuôi con trâu cũng thế, không biết cách

chăm sóc thì nó chết. Không có trâu thì người khổ một đời.

Một vài người già lên tiếng.

- Biết rồi, biết mà. Nhưng nhà tao bao năm nay có con trâu nào đâu mà

chẳng thấy ai khổ cán bộ à.

Ông Oàng Chờ Ngán, dân tộc Xạ Phang ở bản Ngã Ba hôm ấy cũng đến xin

nhận một con trâu. Bản ông chưa dầy hai chục nóc nhà chụm mái vào nhau rồi

tựa lưng dưới một quả đồi nho nhỏ. Nghe đâu người Xạ Phang có gốc tích từ bên

nước láng giềng Trung Quốc. Mà nghe ngôn ngữ của họ cũng biết, toàn dùng

tiếng Quan Hỏa. Thì dân tộc nào mà chẳng phải lao động, làm ăn. Người Xạ

Phang mang đặc tính cần cù, chịu khó chưa bao giờ khuất phục trước bất kỳ trở

ngại nào. Tuy nhiên do tập quán và vùng đất nên họ không vực dậy kinh tế cá thể

được. Họ về đây lập nghiệp chưa đầy chục năm nhưng nhiều nhà có đàn trâu to,

đàn bò béo như ông Hồ Ngân Ngoản, Tống Dông Mỳ. Ông Oàng Chờ Ngán đến

sau, mọi thứ mới chỉ là bắt đầu nhưng lại được nhận ngay một con mà không

thoát ra ý cần nói nên ông lên tiếng ngay:

- Nghĩ thế thì không được rồi. Không có trâu người không chết. Nhưng nếu

có trâu, bò thì người miễn núi ta sẽ bớt khổ đi, cái đầu chỉ phải nghĩ thôi còn con

trâu làm hết. Dân Xạ Phang ta vẫn nói thế mà.

71

Page 72: Sống tận cùng với đất

Đội trưởng Lò Văn Inh là người trực tiếp đi nhận trâu và bò dự án từ ngoài

Đoàn Kinh tế - Quốc phòng B79 về. Hôm nay anh lại đứng ra phân phát cho

đồng bào theo chương trình dự án. Giờ được nghe ông Oàng Chờ Ngán nói thế

thì thật là cảm động. Ông Ngán một chữ bẻ đôi không biết nên nói theo cách văn

hoa lại càng không. Bản ông duy nhất chỉ mình trưởng bản biết đọc, biết viết.

Đúng là bao năm nay dân Mường Toong khổ quá. Những chiếc ruộng bậc thang

hay nương ngô cheo leo trên đỉnh núi và con lầm lũi đi từ lúc con gà cất tiếng gáy

đầu tiên đến khi mặt trời tắt nắng mới rời nương xuống núi. Thực ra Mường

Toong không hẳn quá khắc nghiệt như một số nơi khác trên vùng cao Tây Bắc, ở

đây có ruộng đất, có nương đất nghĩa là cũng thuận lợi cho bà con trồng cấy.

Song cái khó là nhiều hộ còn nghèo, họ làm ăn, canh tác theo lối đã cũ nên năng

suất không cao thậm chí đói do mất mùa. Đúng là con trâu đối với nhà nông thì

quan trọng lắm. Trâu, bò là nơi cung cấp sức lực, cấp phân, có con trâu thì việc

lớn, việc bé đều làm xong hết. Bản Ngã Ba xa thế mà khi biết tin họ còn đến nhận

trâu, nhận bò dự án. Nhiều người cùng đến một lúc nhưng không lập danh sách

những hộ nghèo nhất mới được ưu tiên nhận sau đó luân chuyển tiếp. Nhận trước

hay nhận sau thì đều giống nhau. Cứ có trâu hay bò là rui rồi. Nhưng nhận xong

không phải buộc nó vào truồng mà được mà phải chăn nuôi theo quy định, hướng

dẫn của bộ đội Nông trường 2. Người đến nhận trâu, bò hôm ấy mừng lắm.

Người không nhận cũng thích vì có con trâu, con bò rồi thì bản sẽ bớt người

nghèo đi. Không còn người nghèo thành ra cả bản đều no như thế ai mà chẳng

thích. Càng trưa dân bản tập trung tại vườn xoài của đội sản xuất càng đông. Anh

Lò Văn Inh phải lấy đôi tay bắc thành cái lo đưa lên miệng nói vọng xuống:

- Bộ đội không có trâu, bò. Trâu bò là của Nhà nước nhưng Đoàn cấp cho bà

con theo con đường dự án. Nghĩa là hộ nào nhận phải ký tên, cam kết rõ ràng.

Không được để cho nó chết. Chết phải đền tiền, biết không? Đắt lắm.

- Ô, thế thì mình không thích nhận đâu ớ, mình bán cả cái nhà còn chẳng đủ

72

Page 73: Sống tận cùng với đất

mua một con trâu nhỏ, giờ nhận nó về, nhỡ nó chết thì mình biết bán cái gì được

nhỉ - Mọi người nhao nhao như thế.

Hôm ấy anh em cán bộ Đoàn B79 và Đội 12 được nghe những lời không thể

thật hơn khiến các anh cũng mủi lòng và thương dân bản quá. Đúng là nghèo đói,

ít người được học chữ nên lời nói của họ thật như cây rừng. Bộ đội giải thích rõ

hơn:

- Là thế này bà con ạ! Nhà nước cấp trâu, bò cho một số hộ dân nghèo trước.

Sau 4 đến 5 năm nữa nếu nó đẻ thì những hộ này phải chuyển lại cho Đoàn 1 con.

Con mẹ hoặc con con của nó đều được, Đoàn nhận để tiếp tục giao cho các hộ

nghèo khác.

- Biết rồi. Bọn mình biết mà nhưng nó chết thì phải làm sao?

- Bà con cứ về nuôi. Đơn vị sẽ cho cán bộ, chiến sỹ cùng thú ý của bản vào

hướng dẫn cách chăm sóc, phòng bệnh và chữa một số loại thông thường. Nếu nó

chết vì lý do khác thì được nhưng nó chết vì không được ăn, chăm sóc không

đúng cách, không làm chuồng kín là không được đâu.

- Thế thì thích quá. Dân bản mình rất thích. Nếu nó không biết đẻ thì bọn tao

bán đi nhé?

Người nói câu vừa rồi là ông Hạng A Chang ở bản Nậm Pan 2. Nhiều người

cũng chưa hiểu như ông vì bao đời nay bà con ở Mường Toong chưa một lần

được nhận trâu, bò theo con đường dự án như thế này. Thậm chí họ chỉ hiểu cho

nhà giàu ở chợ phiên mổ để làm thắng cố. Người dân vn chủ yếu là làm nông

nghiệp mà công cụ đắc lực nhất đồng hành suốt chặng đường ấy lại là con trâu.

"Đường cày, ngày cuốc" câu ví đó đủ cho thấy tiện ích và năng suất trở ngại đầu

tiên đó là do ruộng vùng cao thường chênh vênh, nhiều đá. Mỗi mảnh ruộng diện

tích không lớn vì địa thế tạo dựng, mỗi năm bà con lại vỡ hoang một tý ruộng, nó

chỉ nhỏ bằng chiếc mâm, lớn hơn thì bằng cái nong, cái nia nghĩa là chỗ nào có

nước thì dân bản đắp lại thành gờ, thành bờ rồi cắm cây lúa xuống đó, thuận lợi

73

Page 74: Sống tận cùng với đất

thì được ăn, thiếu nước, khô anh thì mất mùa. May mắn hơn chọn nơi địa thế

thuận lợi thì làm ruộng bậc thang. Đặc tính chung của kiểu ruộng này là nhỏ, hẹp,

chạy uốn éo theo sườn núi. Cả quả núi chỉ làm được vài bậc cót vót trên đỉnh, dù

ít song vẫn phải làm, trồng một vụ cũng là vô cùng quý giá rồi. Ruộng bậc thang

thì không một phương tiện máy móc nào hoạt động được. Thực ra nhiều nơi Nhà

nước đã tập trung đầu tư nhưng hiệu quả năng suất lao động không cao lại không

phù hợp với lối canh tác cổ truyền nên bà con bỏ hết quay về phương thức cổ

truyền "chọc lỗ tra hạt". Đó là lý do duy nhất cho thấy tại sao đối với người nông

dân vùng núi con trâu lại có tầm quan trọng như vậy. Đội sản xuất số 12 do

Trung tá Lò Văn Inh làm đội trưởng nhận thấy tiện ích sâu xa đó lúc các anh đặt

chân đến đây. Do đặc tính, nhận thức của đồng bào nên muốn làm tốt công tác

tuyên truyền, vận động, nois cho đồng bào nghe thì trước hết phải làm ra thứ cho

hiệu quả ngay, vừa hiệu quả trước mắt vừa hiệu quả lâu dài. Phương châm ấy

đúng là chỉ còn cách "vực dậy" con trâu. Con trâu chẳng có gì xa lạ nhưng làm

thế nào để biến thành sự kỳ diệu khiến dân bản phải tâm phục, khẩu phục. Từ

ngày bộ đội về đến nay chưa lâu nhưng bộ mặt một số thôn, bản, xã vùng sâu,

vùng xa của huyện Mường Nhé đã thay đổi. Bộ đội hướng dân bà con cách cách

lao động, sản xuất, cách bài trừ tệ nạn xã hội. Thực ra việc đó địa phương đã làm

từ lâu nhưng người lính có cách riêng của họ là gần dân, sát dân, bám dân. Tự

hiểu cái người dân đang nghĩ, biết làm cái họ đang cần. Bộ đội tài thật. Đánh

nhau cũng giỏi, dân vận cũng khéo thế thì việc gì mà chả thành công. Nhớ ngày

các anh về một số người dân không biết bộ đội về làm gì, kẻ xấu luôn tìm cách

chia rẽ mối đoàn kết toàn dân. Họ đến bàn tán:

- Nó về chiếm đất của ta thôi.

Kẻ khác còn tệ hại hơn.

- Không cho người lạ ở cùng bản Mông.

Làm gì để dân thấu hiểu điều sai trái của kẻ xấu và tin bộ đội là điều mà

74

Page 75: Sống tận cùng với đất

người lính của Đội 12 trăn trở, suy tư. Thực ra hiện tượng ấy đã từng xẩy ra ở

một vài địa phương vùng cao Tây Bắc nơi đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.

Cuối cùng thì trắng, đen vẫn rõ nhưng không để tư tưởng lệnh lạc ngầm vào đầu

dân bản là việc làm cấp bách. Xã Mường Toong có 14 bản và 1 nhóm dân cư do

chưa đủ số hộ để thành lập bản. Dân tộc Mông chiếm 63% còn lại gồm Thái,

Dao, Xạ Phang... Nhóm dân cư này từ nơi khác mới chuyển về họ còn lạ đất, lạ

người, lời kẻ xấu khiến họ rất dễ tin nếu không có bản lĩnh và sự hiểu biết. Ngoài

4 bản là người bản địa sống lâu năm còn lại đều từ địa bàn khác chuyển tới từ

năm 2007. Có bản đi bộ đúng một ngày đường mới tới nơi như Nậm Hính và

Nậm Hính 2. Nơi đó hoàn toàn cách biệt với cuộc sống bên ngoài. Sự giao lưu

văn hóa, tiếp cận, trao đổi hàng hóa bó hẹp trong phạm vi thôn bản. Cuộc sống

phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Không ai muốn vào 2 bản này vì đường xa,

người dân chưa nói được tiếng phổ thông nên khó tiếp cận. Địa bàn lại rất hiểm

trở, khí hậu khô hanh, độ dốc đất lớn, ít bản có nguồn nước từ trong khe núi chảy

ra. Trước khi bộ đội làm công tác dân vận các anh phải mất nhiều thời gian để

học tiếng của đồng bào, vừa làm vừa học, học trên đường, học tại nhà dân, học

trong cuộc họp dân bản. So với nơi khác thì Mường Toong vẫn trồng được lúa,

ngô quanh các thung lũng ẩm ướt. Cũng chính vì thế mà đồng bào Mông, Thái từ

nơi khác đã tìm về đây để lập nghiệp. Lúc đầu bà con ở không tập trung, thậm chí

làm nương một vài vụ lại bỏ đi vì đất bạc màu, độ dốc lớn. Có làm nhưng không

được thu. Trẻ con phải bỏ học theo cha, mẹ lên nương. Người đi, người đến rồi

lại đi, lại đến tạo nên sự mất ổn định về phân bố dân cư và tình hình an ninh

chính trị địa bàn. Chính quyền địa phương đã bàn nhiều chủ trương, biện pháp để

tìm hướng giải quyết nhưng tất cả mới chỉ là bắt đầu. Đúng thời điểm ấy những

người lính Đội 12 có mặt. Nhiệm vụ chính của các anh là tuyên truyền, vận động

bà con thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, giúp họ ổn định cuộc sống và

triển khai một số dự án phát triển kinh tế trong đó tập trung vào trồng cây ngắn

75

Page 76: Sống tận cùng với đất

ngày và chăn nuôi gia súc, gia cầm để giải quyết vấn đề cấp bách và lấy cái ăn

trước mắt. Muốn cho dự án "Con trâu về bản" thành công thì dân phải có cái ăn

để họ tin đã. Mặc dù hiện nay giá trị của quả xoài chưa cao nhưng với một địa

bàn chưa bao giờ người dân biết đến cây xoài mà đất lại phù hợp thì việc triển

khai cây xoài là vô cùng hợp lý và thuận tiện. Trước kia mỗi lần đi chợ phiên bà

con phải mang theo gà, ngô, chó thì giờ đây chỉ cần một quẩy tấu xoài cũng có

tiền mua gạo mà vẫn còn ngô nuôi gà, nuôi lợn. Xã có 447 hộ với hơn 4300 khẩu

thì người Mông chiếm đa số, tỷ lệ mù chữ 47% vì vậy việc nói cho dân tin để dân

làm là cả một quá trình lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì, nhẫn nại bởi lối nghĩ cũ,

phương thức canh tác manh mún từ xa xưa vẫn được dân bản lấy làm chủ đạo

theo như lời Trung tá, đội trưởng Lò Văn Inh tâm sự. Lần này bàn giao trâu, bò

các anh rất lo vì chúng không phải là cái cây, chết thì trồng lại, không thích trồng

thì thôi. Mỗi con trâu, con bò trị giá cả chục triệu đồng. Nhiều nhà nghèo quá bán

cả gia tài đi cũng chưa mua nổi một con trâu. Nhiệm vụ trọng tâm của đội là giúp

dân xóa đói, giảm nghèo, dân mất niềm tin là mất tất cả. Nắm bắt tư tưởng cùng

tâm lý đó đồng thời tạo dựng niềm tin là mất tất cả. Nắm bắt tư tưởng cùng tâm

lý đó đồng thời tạo dựng niềm tin là cả quá trình trải nghiệm lâu dài, ngay từ đầu

các anh đã phối hợp cùng địa phương khảo sát để cấp giống cây xoài. Lần đầu

tiên có đội công tác của đoàn Kinh tế - Quốc phòng về đứng chân, Chủ tịch xã

Khoàng Văn Thương và Bí thư Đảng uỷ Khoàng Văn Cớm mừng vui khôn xiết.

Vì vậy là các anh có thêm lực lượng luôn sát cánh cùng mình tìm một hướng đi

mới để giải bài toán đói nghèo mà từ lâu chưa có ai chung tay. Họ chung tay, góp

sức tìm cây phù hợp vùng đất đồng thời xác định chiến lược lâu dài để chọn địa

điểm, trồng thử nghiệm tại một số gia đình sau đó trồng đại trà nếu đạt năng suất

và có tính khả thi cao. Cây "xóa đói giảm nghèo" đầu tiên là xoài được đưa ra

trong phiên họp của xã. Các ý kiến nhất trí cũng là lúc 2000 cây xoài dự án do

đoàn B79 cấp bắt đầu đưa lên ô tô chuyển vào Mường Toong. Số lượng ấy không

76

Page 77: Sống tận cùng với đất

phải là nhiều nếu đem trải đều trên diện tích của cả 14 bản. Có thể nói chính cây

xoài là yếu tố đầu tiên mà bộ đội đã tạo dựng được niềm tin với dân ngay từ lúc

họ đến nhận nhiệm vụ.

Nhớ tới sự thành công bước đầu ấy, hôm giao trâu, bò cho bà con, đội

trưởng Lò Văn inh nói như thuyết phục người nghe:

- Trâu bò đội giao cho dân nuôi và chăm sóc thì con nào cũng biết đẻ: Nếu

nó không đẻ được sẽ cấp con khác. Đừng lo

Nhưng bọn mình vẫn lo. Lo một việc nữa đấy.

- Việc gì? Nói đi xem nào? Bộ đội hỏi lại

Ông Khoàng Văn Thơm đến để nhận trâu cũng nói xen vào:

- Là thế này thôi mà, bộ đội phải hướng dẫn bọn mình như hướng dẫn trồng

cây xoài nhé.

Hôm đơn vị cấp giống cây xoài vợ ông đến nhận. Về nhà nghe vợ kể cách

bộ đội hướng dẫn vừa ngắn, gọn, nhanh lại dễ hiểu. Không được tham dự buổi đó

ông cứ tiếc mãi. Hôm nay ông vừa nói xong thì từ phía cuối hàng một bà già cười

vọng lên:

- Đầu ông tối thế. Làm gì mà bộ đội đủ giấy để vẽ trâu, vẽ bò cho ông xem

được.

Tất cả cùng cười ồ lên nhưng cũng có người chẳng hiểu gì. Nhưng nguyên

văn câu chuyện thì là thế này: Ông Tẩn Dần Sinh ở Nậm Hính 1, ông Giàng A Cả

ở Tà Hàng từ thời gian đảm nhiệm chức trưởng bản đến nay mới thấy một cách

làm của bộ đội rất lạ trong hôm giao cây xoài. Đợt đầu đội cấp cho 100 hộ, mỗi

hộ 20 cây. Trước khi bàn giao cho bà con, đội tổ chức cho mọi người xem cách

trồng xoài mô phỏng vẽ trên giấy, sau đó ra vườn mẫu gồm 800 cây của đội để đo

kích thước hố, khoảng cách giữa các cây, các hàng, cách vun gốc, tưới nước và

"ghim" cây vào cọc để tránh bị rung, bật gốc hoặc gẫy ngang thân khi gặp gió.

Cuối cùng đội 'làm tổng hợp" một lần bằng cách đào hố, thả phân, đặt cây, lấp

77

Page 78: Sống tận cùng với đất

đất, truyền thụ kinh nghiệm cho trưởng bản và bà con cùng xem, cùng nghe. Đội

chọn một vài người lên làm mẫu, làm thử để về nhà không bị quên. Tất cả các hộ

được nhận cây phải viết và ký vào bản cam kết việc bảo đảm kỹ thuật trồng,

chăm sóc đúng như hướng dẫn của bộ đội. Bản nào cây chết nhiều phải báo cáo

ngay để đội tìm nguyên nhân và có biện pháp xử lý kịp thời. Khi bà con trồng cây

xong đội cử cán bộ xuống từng bản kiểm tra chất lượng cây giống, kỹ thuật chăm

sóc và tiếp tục hướng dẫn nhằm hạn chế tối đa tỷ lệ cây chết. Mỗi lần kiểm tra

như thế bộ đội lại mở tờ giấy vẽ cách trồng xoài ra xem bà con làm đã đúng chưa.

Ông Tẩn Dần Sinh kể lại câu chuyện đó thì mọi người mới òa lên:

- Ồ ừ, thế thì buồn cười thật, buồn cười quá mất thôi. Cây xoài thì vẽ được

ra giấy. Con trâu to thế vẽ ra đất, ra sân của bộ đội còn không đủ nhưng vẫn phải

vẽ đấy bộ đội ạ.

Nói đến cây xoài, Đội trưởng Lò Văn Inh và anh em trong đội lại suy nghĩ.

Thực tình trước đó một vài hộ không muốn trồng xoài vì họ chưa bao giờ nhìn

thấy loại cây này mà chỉ quen sống du canh, du cư, đốt rừng làm nương rẫy.

Nhưng sau khi nghe bộ đội tuyên truyền, giải thích nhất là thấy ông Giàng A Dơ,

công an viên của bản Nậm Pan 2 là người xung phong đầu tiên nhận xoài giống

thì các hộ như Lò Văn Phong ở Bản Mường Toong 1, Mùa A Hạ là phó bản Cây

Sặt đăng ký ngay. Chỉ trong buổi sáng 2000 cây xoài đã được chuyển cho 100 hộ

dân. Cuối năm 2008 nhiều hộ đến uỷ ban xã báo cáo hiệu quả và chất lượng của

quả xoài để xin được nhận giống về trồng thêm. Chỉ có nhân viên Thào A Mua

của đội 12 là người trực tiếp thay cha là ông Mùa Pá Hạ, Phó bản Cây Sặt báo

cáo tại phiên họp cuối năm. Thảo A Mua là người được đội trưởng giao nhiệm vụ

phụ trách việc trồng cây xoài ở những bản xa và khó khăn nhất vì thế ai cũng

đồng ý nghe anh nói và bổ sung thêm cách chăm sóc xoài. 20 cây xoài nhà anh đã

cho quả to, hạt bé, cùi dầy, ngọt... Biết tin ấy bà con ở bản Yên, bản Tà Hàng

chưa được nhận cây kéo xuống nhà phó bản Mùa Pá Hạ xem đông nghịt. Số

78

Page 79: Sống tận cùng với đất

lượng người đăng ký với bộ đội xin giống về trồng ngày càng tăng. Nhiều hộ đào

ao để khi nhận giống là trồng xung quanh bờ và có nước tưới ngay cho cây như

hộ ông Đào Văn Mường. Ông đào ao qua khe suối ở Nậm Áng rộng khoảng

300m2. Trong lúc chờ nhận cây xoài giống ông tranh thủ thả cá, nuôi vịt và trở

nên giàu có. Ông là điển hình tiên tiến về các mô hình phát triển kinh tế của xã.

Từ đó bà con nhận thấy chuyện thoát nghèo ngay trên mảnh đất mình đang sống

là hoàn toàn có thật nếu biết cách tính toán và chăm chỉ lao động. Một việc làm

khác của các anh mà đến nay đồng bào Mường Toong vẫn khâm phục đó là đội

đã đưa nước về tận bản theo con đường dự án. Bản Mường Toong 1, Mường

Toong 2 và Bảo Yên năm 2006 chỉ trồng được một vụ lúa vì không có nước

nhưng đến nay đã tăng lên hai vụ. Bà con còn mở hoang thêm 15 ha đất để trồng

mầu và cây xoài. Như vậy việc làm đầu tiên đã bước đầu tạo dựng được niềm tin

với đồng bào. Đó cũng là thuận lợi để bộ đội thực hiện dự án cấp con giống. Dân

tin lời bộ đội thì tự kẻ xấu phải bỏ đi. Dù kẻ xấu nhiều, nham hiểm cũng không

sợ bằng đánh mất niềm tin, đánh mất lòng người. Cũng chính vì hiệu quả từ cây

xoài mà hôm nay dân bản Mường Toong mới tập trung đông như vậy. Rõ ràng

con trâu thì phải hơn cây xoài rồi, đối với người nông dân có trâu là có tất cả, có

trâu thì no ấm sẽ vào nhà, nghèo đói phải đi ra. Thế mà mấy hôm trước kẻ xấu lại

bảo: "Bọn mày nhận trâu làm gì, dân bản này bao năm không nuôi trâu có ai chết

đâu mà".

Bốn mùa cây ngô trổ lá. Bốn mùa con trâu theo người đi nương. Trâu ông

Mùa A Chả đã đẻ được một con. Nhanh thật. Hôm nó đẻ dân bản đến xem đông

lắm. Xem không phải vì chưa bao giờ họ biết đến con trâu mà đến để đón nhận

niềm vui tột đỉnh. Mường Toong thật hay, chuyện của bản cũng là chuyện của

mình. Chuyện bé như con kiến cũng chia nhau mỗi người một ít mang về nhà

chia vui, không có gì giấu nhau được. Mà giấu làm gì nhỉ khi người ta vẫn

thường nói: Niềm vui được san sẻ thì niềm vui sẽ tăng lên gấp đôi. Bữa ấy trăng

79

Page 80: Sống tận cùng với đất

đã gục đầu vào núi từ lâu, dân bản thấy nhà Mùa A Chả đốt đống lửa to đầu cổng.

Ông còn lấy cái chậu thau đồng đã cũ thay chiếc trống gõ leng queng để báo hiệu.

Không tiếng gọi nhau í ới, không tiếng hô hoán ầm ĩ thì bà con biết đó chắc chắn

là niềm vui của gia chủ vì nếu gia đình xẩy ra sự cố gì như mất trộm, mất cắp

hoặc cháy nhà, vỡ ao thì họ phải đến nhà trưởng thông gõ trống liên hồ 3 tiếng

một. Vợ ông Mùa A Chả đã chạy đi từ sớm, nghe nói bắt đầu từ khi con trâu có

biểu hiện lạ lúc nó sắp đẻ phải là bộ đội, chính bộ đội đưa niềm vui ấy thôi nhưng

người được báo đầu tiên phải là bộ đội, chính bộ đội đưa niềm vui ấy về bản mà.

Con trâu mẹ to lênh khênh. Nó đã nằm sẵn trong chuồng, bên dưới được trải một

ít cỏ khô cho êm. Bên cạnh là đống cỏ non được ông Mùa A Chả tưới thêm một ít

cỏ khô cho êm. Bên cạnh là đống cỏ non được ông Mùa A Chả tưới thêm một

chút nước muối. Mới ngày nào nó là một con "Nghé ọ" thế mà hôm nay nó sắp

được làm mẹ. Nhìn vào mắt cũng biết nó rất vui. Cái đuôi thi thoảng lại phe phẩy

như đang chia sẻ điều gì đó. Sắp đẻ rồi thế mà mấy ngày hôm trước nó còn theo

ông lên nương thồ nốt những chuyến ngô cuối cùng, mảnh ruộng đầu cổng là nó

cày sáng hôm qua. Ông Mùa A Chả vừa mừng vừa lo. Không lo sao được, nhỡ nó

có mệnh hệ gì hoặc "Mẹ không tròn, con không vuông "thì ai sẽ thay mày đi kéo

cày hả trâu? Nếu trời thương dân bản, thương ông thì ông sắp chắc chắn có một

con trâu rồi và ai đó trong bản cũng sẽ có một con vào năm sau. Có thể ông sẽ

bàn giao lại con mẹ mà cũng có thể ông sẽ bàn giao con của nó cho hộ khác.

Thực ra con nào thì gia đình ông cũng tiếc nhưng không thể giữ về phần mình

mãi được, như thế mọi người sẽ cười chê rồi tự xấu hổ mà không dám ra đường

hay xuống chợ phiên người Mông, Xạ Phang, Dao. Trâu nhà ông đẻ chưa được

một tháng giờ lại bò nhà Giàng A Páo đẻ. Chắc là A Páo mong Mùa A Chả lắm.

A Chả không phải là thú y của thôn bản được. Hút xong điếu thuốc cuối cùng,

Mùa A Chả cài con dao vào mạn sườn, băng qua mấy ngọn núi tiến về phía trước

đến nhà A Páo.

80

Page 81: Sống tận cùng với đất

Từ xa xưa dân bản Mường Toong mỗi người đã mong có một con trâu. Con

trâu giúp cho sức người được giải phóng hoàn toàn. Biết là thế nhưng họ còn

nghèo quá. Làm ruộng hay làm nương mà không có con trâu thì đúng là vất vả

quá. Ông Tẩn Dần Sinh, dân tộc Dao là trưởng bản Nậm Hính 1 vẫn thường suy

tư một điều, khi mỗi lần thấy bà con phải dùng sức người để cuốc đất, cuốc

nương, gùi lúc ngô sau mỗi vụ thu hoạch là lòng ông quặn lại. Sức người chỉ có

hạn, đến mùa vụ cha mẹ phải bắt con cái mình nghỉ học để phụ giúp gia đình

xong vụ mới được cắp sách tới trường. Từ bản Nậm Hính 1 ra trụ sở uỷ ban nhân

dân xa đi bộ hết đúng một ngày đường, nhiều lần trưởng bản chứng kiến cảnh

thầy cô cơm nắm dọc đường đi tìm học sinh. Không có học sinh nghĩa là lớp học

làm xong phải bỏ đó. Người vùng cao cái chữ là quan trọng nhất, chữ không ăn

được nhưng nó lại chống được nghèo đói. Chữ sẽ làm cái đầu bớt u mê, tăm tối

hơn, chữ chính là cơm, là gạo. Nếu bà con có con trâu thì phần việc của trẻ em

con trâu gánh hết, chịu hết, làm hết như thế lũ trẻ sẽ không phải nghĩ học. Đó là

chuyện sâu xa, còn cái gần và dễ nhìn thấy nhất mà người ta vẫn ví von rằng con

trâu là đầu cơ nghiệp. Ông Tần Dần Sinh cũng nghèo, nghèo lắm, vì hoàn cảnh

gia đình neo đơn mà bao nhiêu lần ông xin thôi giữ chức trưởng bản nhưng bà

con không nghe. Không nghe vì ông nghèo nhưng nhiệt tình và trách nhiệm, mỗi

lần đi họp ngoài xã về có phương thức canh tác mới, giống ngô, lúa mới hay học

được cách làm mới là ông lại đến từng nhà phổ biến cho họ. Ông cũng là một

trong số các gia đình được nhận trâu, bò đợt đầu nhưng trưởng bản Tần Dần Sinh

xin nhường lại xuất đó cho người khác. Nghe tin bộ đội cấp trâu dự án nhiều

người bản Nậm Hính rất mừng, họ đã chủ động chặt gỗ, tìm vị trí làm chuồng,

thậm chí một vài gia đình còn sắm cái lễ nho nhỏ gọi là thắp nén nhang cảm ơn

gia tiên độ trì. Ngày ấy còn mới như quả ngô vừa nướng chưa kịp nguội vậy mà

hôm nay bà con đã được nghe tin con bò nhà ông Giàng A Páo đẻ con đầu tiên,

bà con ở xa thế cũng con rủ nhau đến xem. Trâu nhà Mùa A Chả thì đẻ rồi, bò

81

Page 82: Sống tận cùng với đất

nhà Giàng A Páo cũng đẻ rồi, vậy thì chắc nhiều nhà trong bản cũng sẽ có trâu,

bò đẻ tiếp. Bò thì không cày được ruộng như trâu nhưng con bò cũng biết làm

nhiều việc khác, ít ra thì những tháng nghỉ hè trẻ con có việc đi chăn thả, rồi

chuyển nó cung cấp phân để bón cho ruộng lúa, mảnh nương cũng là to lắm rồi.

Hôm ấy Đội trưởng Lò Văn Inh và anh em trong đội đến từ rất sớm. ông Tẩn Dần

Sinh thông báo cho bà con từ hôm trước là phải đến "dự" để nghe bộ đội xem và

hướng dẫn cách các chăm sóc cho trâu, bò đẻ. Ai cũng hồi hộp lo âu, nếu là trâu,

bò của nhà mình thì không nói làm gì nhưng đây là của dự án. Dự án là phải làm

nghiêm túc, làm trách nhiệm, làm đúng cách. Một con trâu có khi còn lớn hơn cả

gia tài. Hôm nay một con đẻ, sau này sẽ nhiều con đẻ. Bà con rất mong một ngày

nào đó Mường Toòng đầy trâu, đầy bò, chỉ cần ra ngõ là gặp ngay.

Đường vào Mường Toong còn mờ mịt bụi, đường xuống các bản thì lầy lội

như đi qua ao nhưng trên các thửa ruộng Mường Toong hôm nay đã có bóng

dáng của con trâu dự án. Chúng tôi đi vùng cao đã nhiều và hình ảnh con trâu,

con bò, hay con dê, con ngựa chỉ là điều hết sức bình thường như bao điều bình

thường khác. Song con trâu, con bò ở Mường Toong thì chúng tôi phải viết. Viết

không phải chỉ một mong muốn đơn thuần là thông tin điều bình thường như con

trâu làm được những gì, một ngày cày được mấy bậc thang ruộng hoặc nếu bán

nó đi sẽ có nhiêu tiền mà viết vì một mô hình hay đó là "Con trâu dự án". Mặc dù

chưa biết chắc điều gì sẽ xẩy ra "Sau ngày con trâu về bản" song hôm nay đã thấy

nhiều nhà có trâu buộc dưới gốc cây xoài. Cách luân chuyển một con trâu, một

con bò dự án từ nhà này sang nhà khác để cho nó đẻ quả thực là một ý tưởng

sáng tạo đầy yếu tố nhân văn mang tính khả thi cao. Hộ ông Mùa A Chả và ông

Giàng A Páo chỉ là những người đón nhận niềm vui đầu tiên. Hơn 4 mùa cây ngô

trổ lá Mường Toong nhiều người đã có con trâu, con bò như thế, không mất tiền

mua nhưng vân cứ có Ông Mùa A Chả đi quá nửa ngày đường mới tới nhà ông

Giàng A Páo. Ông chưa kịp thả cái ống quần dính đầy bùn vì phải lội quả mảnh

82

Page 83: Sống tận cùng với đất

ruộng đã thấy Đội trưởng, Trung tá Lò Văn Inh và anh em có mặt. Chịu thôi, cái

gì bộ đội cũng biết. Đúng là bộ đội có khác, thế mới xứng đáng là chỗ dựa tin cậy

của đồng bào. Nhanh quá, con bò mẹ đang liếm khắp cơ thể con của nó. Nó vừa

đẻ xong, được nửa giờ là cùng. Một con bò cái bụ bẫm, 4 cái chân yếu ớt đứng

còn không vững nhưng niềm tin của bà con bản Tà Hàng thì quá chắc rồi. Trời

chưa kịp tối thế mà mấy người cứ xin đăng ký với bộ đội xin được nhận ngay cho

gia đình mình con bò mới đẻ của nhà ông Giàng A Páo. Sau ngày con trâu về

bản, Mường Toòng đầy ắp tiếng cười.

Viết ở Mường Toong, tháng 5 năm 2009

83

Page 84: Sống tận cùng với đất

NHÀ KHOA HỌC CHÂN ĐẤTHoàng Giang Phú

Tôi hăm hở vượt chặng đường dài đồng bằng, vượt lên vài con dốc quanh co

sát chân núi đá xanh để tới xã Khả Phong, miền bán sơn địa huyện Kim Bảng

thăm cụ Đinh Văn Viên, một lão nông dân 80 tuổi đã sáng chế ra hàng loạt máy

nông cụ.

Vâng, thế là nhà cụ Viên đây. Ngôi nhà ba gian cấp 4, sập sệ nằm heo hút,

chênh vênh sát bờ sông Đáy. Nhà vắng vẻ. Chỉ có một đứa cháu gái đang ngồi

học bài.

- Ông đi đâu vậy cháu - Tôi hỏi.

- Dạ, ông cháu cứ đạp xe đi suốt ngày. Bác có cần thì số điện thoại của ông

cháu đây.

Tôi mừng quá liền bấm di động thì lập tức có tiếng trả lời.

- Cậu nào đấy? – Ông cụ hỏi.

- Dạ, cháu là khách từ dưới xa lên ạ!

- Vậy đợi tý nhé. Tớ về ngay - Giọng ông cụ sang sảng gây cho tôi niềm

phấn chấn.

Trong lúc đợi chờ, tôi bần thần ngắm ngôi nhà tuyềnh toàng, cửa buồng bỏ

ngỏ. Trong buồng, ngoài nhà, gầm giường, ngoài hiên ngổn ngang, lỉnh kỉnh đồ

phụ tùng tháo ra từ những chiếc xe đạp, xe máy, ô tô hỏng được cụ nhặt nhạnh

đem về đây. Có chăng là mấy “cỗ” máy hàn, máy cắt, máy đột dập gọi là đáng

giá tý chút. Nhưng cũng đều cũ kỹ, cổ lỗ và han gỉ. Nhìn lên mảng tường tróc

vôi, nứt nở, tôi thấy hàng loạt Bằng khen, Bằng sáng chế, của các Bộ, Hiệp hội,

Hội chợ,… Cái có khung, cái không có khung, treo nghiêng ngả bên trong những

vòng xích, vòng dây Cu - roa, những cưa thép, kéo sắt, nhem nhuốc dầu mỡ.

Tiếng xe đạp lạch cạch ngoài sân - Ồ đây, cụ đã về. Một cụ già nhỏ thó, gầy

nhom, ông cụ cười chào tôi, hở hai hàm răng đã rụng một quàng trước cửa. Cụ

bảo “Tớ đi hướng dẫn cách sử dụng máy gieo hạt cho một trại chăn nuôi ở sát

chân núi về” Cụ lại bảo: Mấy hôm nay, khách thập phương về luôn luôn. Nào

nàh báo, nhà đài, nhà quay phim, nhà doanh nghiệp, rồi hội nọ, hội kia, lại cả

trường Đại học nữa,… chỉ tốn thời giờ cho khách họ lục vấn thôi.

84

Page 85: Sống tận cùng với đất

Tôi đang phân vân thì bỗng có tiếng còi xe bấm inh ỏi ngoài cổng. Lại có

vài ông khách mãi tận Quảng Nam ra đây. Đó là hai thanh niên, một béo, một

gầy. Trông có vẻ phong trần. Anh gầy nói: “Chúng con cũng sáng chế ra một vài

cái máy như của cụ. Nhưng khi vận hành thì cứ “kẹt” rơm và vỏ các loại hạt.

- Vậy các băng tải có đủ lực để nâng vật liệu lên khoang máy không? – Ông

cụ hỏi.

- Dạ dạ. Băng chuyền tải thì “ngon” rồi - Anh trẻ đeo kính trắng nhanh nhảu

trả lời.

- Vậy sự cố bị “kẹt” với tớ chỉ là cái mùi. Tớ chẳng dấu nghề làm gì. Ra đây

tớ chỉ cho. - Ông cụ đưa hai thanh niên tới bên một cỗ máy rồi vận hành và giảng

giải. Anh béo mặc bộ quần áo màu sẫm, bụng to, mặt bự, đeo kính đen chẳng nói,

chẳng rằng. Anh ta vẽ hình rồi chụp ảnh nhoay nhoáy. Qua buổi đó, tôi được tận

mắt nom thấy hàng loạt cỗ máy nông cụ do cụ Viên sáng chế ra: Máy bốn chức

năng, máy gieo hạt, máy thái thuốc, rau củ quả, máy thái cỏ bò sữa, máy nghiền

bột các loại hạt cho người và gia súc…

Song phải nói cái cỗ máy bốn chức năng hay còn gọi là “4 trong 1” xem ra

có vẻ “tối tân”. Nó dùng để tách ngô, bóc vỏ đỗ, vỏ lạc và tuốt lúa. Chiếc máy kết

cấu gồm hai phần: Phần máy và phần nổ. Trọng lượng 70kg. Có bánh lốp để di

chuyển.

Thân máy thiết kế đơn giản: khung máy và quả lu. Khung máy được tận

dụng bằng chiếc vỏ thùng phi nhựa đường. Các linh kiện và băng tải vật liệu đều

nằm trong khung máy. Bên cạnh có lắp ghế ngồi cho người điều hành. Phần khó

nhất và quan trọng nhất là xếp đặt quả lu và búa đập băng chuyền tải, nhưng cụ

đều hoàn tất ngon lành. Động cơ nổ gá lắp bên cạnh. Có thể dùng điện hoặc dùng

ét xăng để chạy.

Với chiếc máy này, người nông dân có thể tuốt lúa, bóc hạt đạt công suất 3

– 5 sào một giờ. Một ngày công có thể làm được 10 sào. Vậy mà giá thành chỉ có

2 triệu rưỡi. Còn các loại máy nông cụ khác, cũng chỉ từ 1 triệu rưỡi.

Hiện nay, các loại máy do cụ sáng chế ra đã được bà con nông dân vui

mừng đón nhận. Nó đã có mặt ở đồng quê các tỉnh từ Lạng Sơn, Thái Nguyên,

Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Hòa Bình, Hà Nam,…

85

Page 86: Sống tận cùng với đất

Vậy đấy, một lão nông đã vượt quá tuổi “xưa nay hiếm” . Lại không qua

một trường lớp đào tạo chế tạo máy, cụ Đinh Văn Viên vẫn cho ra đời những

chiếc máy nông nghiệp đa năng, năng suất cao lại hợp với túi tiền của nông dân.

Khách đi rồi, cụ ngồi kể chuyện đời mình. Tôi sinh năm 1930. Ngày xưa

nhà tôi truyền đời đi cuốc mướn cầy thuê cho địa chủ. Một thước đất cắm dùi

chẳng có, đói rách quanh năm. Sau cách mạng tháng tám, tôi đi học lớp Bình dân

học vụ, thì cũng chỉ biết đọc, biết viết, biết làm 4 phép tính gốc cộng, trừ, nhân,

chia thôi. Mãi sau mới nhoai lên được cái lớp 7 bổ túc là hết vị.

Thế rồi năm 1954 đi Thanh niên xung phong phục vụ chiến dịch Điện Biên

Phủ, năm 1955 làm Phó Bí thư huyện đoàn Sơn La thuộc tỉnh Lai Châu. Sau

được đi tăng cường cho Lào Cai.

Năm 1985, tôi về quê. Cảnh quê nhà đất chật người đông. Nhà cả thảy 10

miệng ăn. Lam lũ quanh năm vật lộn với đất với giời, mà chẳng đủ ăn. Các con

tôi đành bỏ làng kéo nhau vào Nam sinh sống. Bà ấy nhà tôi mất rồi. Tôi ở với vợ

chồng thằng út, làm ruộng.

Từ ngày về quê lao vào cuốc cày, lam lũ nhọc nhằn lắm lúc nghĩ ta thử cải

tiến một vài công cụ cho đỡ vất vả xem sao. Tôi luôn nung nấu ý chí ấy.

Năm 1998, quê tôi đã có điện, ý tưởng về thiết kế một chiếc máy nông cụ

được thực hiện. Khi bắt tay vào việc thì các cháu nó phản đối kịch liệt. Rằng thế

nọ, thế kia. Ông chỉ viển vông… Thây kệ, tôi cứ liều bỏ ra 3 triệu đồng. Suốt 9

tháng mày mò, làm rồi phá, phá rồi lại làm. Cuối cùng chiếc máy tách ngô chạy

điện ra đời. Một giờ tách xong từ 3 - 5 sào ngô. Vui sướng lắm. Nhân đà, tôi chế

tiếp chiếc máy hai chức năng gieo hạt và vun xới. Chiếc máy thành công được

thực thi trên đồng màu của huyện Duy Tiên và Lý Nhân. Báo chí họ bảo tôi là

ông “Tiến sĩ chân đất”. Thế là họ cho tôi đi “Tầu bay”. Kệ. Việc mình, mình cứ

làm. Tôi lại mầy mò lắp được chiếc máy 4 chức năng, như cậu vừa xem. Dân

làng thì bảo tôi. “Ông già điếc không sợ súng”. Họ nói, cũng đúng thôi. Thì làm

gì có trình độ học vấn, trình độ chuyên môn cũng không. Chẳng có bản vẽ thiết

kế. Chỉ dựng khung lên rồi suy nghĩ tìm tòi. Tự khắc máy nó sẽ dậy cho mình.

Nhiều cái bí lắm bao nhiêu đêm nằm không ngủ được, chẳng biết hỏi ai. Có chiếc

máy phá ra làm lại đến 5 lần mới thành công. Mỗi lần phá, các linh kiện lại hỏng,

thành sắt vụn. Xót lắm!

86

Page 87: Sống tận cùng với đất

- Thưa cụ. Các nhà khoa học đánh giá những sáng chế của cụ như thế nào?

Ông cụ bộc bạch:

- Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Khoa học Công nghệ, Hội cơ

khí Việt Nam, WTO, ASEAN N+3 đều công nhận những sáng chế của tớ - Cụ

mở tủ đưa ra hàng loạt Bằng khen, Bằng sáng chế cho tôi xem. – Cụ nói tiếp: -

Họ cho xe về chở máy đi dự các Hội chợ. Rồi cho bữa nhậu. Rồi lên Nhà Hát

Lớn thành phố họp mặt tuyên dương những “Nhà khoa học chân đất” trong cả

nước. Rồi chụp ảnh chung. Vậy thôi.

Thưa cụ, thế tới nay đã có ai cấp vốn đầu tư, hỗ trợ giúp cụ tiến hành việc

mở xưởng sản xuất.

Làm gì có. Ngân hàng họ bảo tớ già rồi. Với lại tài sản chỉ có 3 gian nhà

bẹp, nhà xưởng không có, thợ thuyền cũng không. Họ không dám cho vay.

- Cháu nghe vừa qua đâu có nhà doanh nghiệp nào ký với cụ 100 triệu đồng

để cụ sản xuất hàng loạt máy cho họ?

- Có đấy. Nhưng nó đánh đố tớ, chứ nó có đưa xu mẹ nào. Sốt ruột, tớ lọc

cọc đạp xe lần đến tận nơi, thì ra nó đang sản xuất hàng laotj máy của tớ. Nhưng

nó cải tiến, nâng cấp. Nó dùng tôn 3 ly, máy móc xịn, sơn xì bóng lộn. Thế là

chấm hết còn gì.

- Thưa cụ, giờ đây cụ có mong muốn gì?

- Giờ thì già này chỉ mong một nhà doanh nghiệp nào “nó” mở xưởng nông

cụ “nó” mời tớ đến hợp tác cùng làm. Nó có tiền. Tớ có kinh nghiệm. Nhưng khó

lắm. Tớ được ăn bánh vẽ nhiều rồi. Chúng nó chỉ đến lục vấn rồi hứa suông thôi.

Lúc này, tôi lại nghĩ về hai ông khách ở Quảng Nam ra. Ai dám bảo bọn hắn

không đánh cắp sáng chế của ông cụ. Cả một buổi sáng cụ già phục dịch các hắn

tận tình giảng giải đến như thế. Mà ra về nó không biếu nổi cụ ấm chè. Nó còn

bảo sang năm nó mời cụ vào trong ấy. Tôi nghĩ có lẽ đến Tết Công gô chúng nó

sẽ ra “đón” cụ.

Từ chiếc ghế mộc xiêu vẹo, ông cụ nhoài người xuống mặt đất như đang tìm

cái gì dưới ấy. Cụ lẩm bẩm - Quái cái con vện, luôn tắm nước điếu đặc như thế

mà vẫn lổm ngổm những ve. Cụ di móng tay cái giết từng con. Nhưng cụ ơi, cái

giống ký sinh hút máu, nó ẩn nấp và sinh sôi khỏe lắm.

87

Page 88: Sống tận cùng với đất

Cụ hơn tôi một giáp rưỡi. Tôi thực sự kính phục cụ mà lòng rưng rưng xa

xót. Tôi biếu cụ Viên một món tiền nho nhỏ. Gọi là chút tình tri ngộ.

Tạm biệt cụ Viên, ra về, lòng tôi cứ lẩn vẩn mấy cái từ: Nếu, giá nhưng, vì,

… Những liên từ, giới từ này nó có thể nâng người ta thăng hoa. Nhưng nó cũng

có thể kìm hãm người ta lại.

Vâng, giá như giờ đây, những “Mạnh Thường Quân” những nhà doanh

nghiệp, các tổ chức Hội, Đoàn, những cơ quan Bảo vệ quyền sáng chế,… hãy

đứng ra nâng đỡ cụ Đinh Văn Viên để cụ có điều kiện thực hiện những công việc

thực sự có ích lợi cho nông dân.

Và nếu như những ai có học vị văn bằng khoa học kỹ thuật hãy đam mê tìm

tòi phát minh sáng chế như cụ Viên thì của cải trên thế gian này sẽ giàu có lắm!

88

Page 89: Sống tận cùng với đất

QUA MÙA BÃO GIÔNG Nguyễn Thị Thu Giang

Cái ngày tôi đi thi đại học cũng là ngày chính thức bước chân ra khỏi lũy tre làng mình và dần rời xa ruộng lúa hoặc cánh cò. Cuộc sống sinh viên nghèo nơi thị thành cứ cuốn tôi vào những tất bật của việc học và làm thêm đến mức nhiều khi đã không có thời gian dành cho chính mình. Nhiều lúc nửa đêm bắt quả tang mình khóc vì nhớ nhà, nhớ mẹ, khát thèm được nghe một tiếng gà quang quác buổi sớm, tiếng bước chân mẹ tất tả đi lên đi xuống trong nhà, dáng bố trầm ngâm bên ly trà và thỉnh thoảng cất lên những bài hát cách mạng đầy hào khí. Cuộc đời bố mẹ đã đi qua nhiều cực khổ đói nghèo nên luôn cố gắng tạo điều kiện giúp các con đổi đời thoát cảnh nông dân bần hàn. Thế nhưng, càng đi xa tôi càng thấy đời sống ở nông thôn mới càng vui và càng đáng nhớ biết bao.

Một ngày, hai ngày, ba ngày. Chờ mãi mới đến cái ngày thứ tư, ngày được giải phóng khỏi công việc làm thời vụ mà tôi lỡ đâm đầu vào suốt cả một tháng nay, vất vả vật vã. Tôi ào về nhà ngay sao giờ làm, lòng mừng vui khấp khởi nghĩ đến cảnh ngay tối nay thôi đã được vùi vào chiếc chăn quen thuộc, vừa nhai bắp rang, vừa cùng nhóc em chơi đố vui, nghe tiếng đài cổ thị kính của bố rên rỉ ở phòng bên và tiếng mẹ chạy tới chạy lui lo sắp sếp bao bị, dây nhợ chuẩn bị cho ngày mai cắt lúa. Cũng đúng mùa này năm ngoái tôi hí ha hí hửng về nhà, lòng vui sướng nghĩ đến những cánh đồng lúa trĩu vàng, cả xóm rộn tiếng gọi nhau đi làm mùa, hò nhau phơi lúa, canh me ông trời lúc nắng mưa. Trái với niềm mong mỏi đó, tôi trở về nhà nghe ngõ quạnh hiu, mấy con chó không buồn ra đón chủ, lũ ngỗng không la toáng toàng như trước và mẹ cũng không phải là người ra mở cửa. Nhóc em ra ôm quàng lấy chị, sau tiếng cười là tiếng thở dài. Nghe hỏi “bố mẹ đâu?”, nhóc chỉ ra sau ruộng, nơi toàn một màu vàng úa tràn ngập cánh đồng. Bố ngồi trên bờ ruộng, mắt nhìn xa xăm quanh quất những ruộng bên. Mẹ lững thững đi giữa mảnh ruộng nhỏ, một tay cầm bao, một tay cầm liềm kéo những bông lúa lép nhiếu, mảy ít vào bao. Tôi chạy vội đến chào bố mẹ, “mẹ đang làm gì đấy?”, sau nụ cười rơm rớm nước mắt vì bất ngờ thấy con về, mẹ tiến lại và ngồi phịch xuống bờ ruộng. Những bông lúa rũ mình, xác xơ vì bị rầy nâu thiêu trụi, nằm gọn lỏn trong bàn tay gầy guộc, xanh xao, đầy vết chai sần của me. Tôi cùng lặng im hiểu ra một điều đau đớn: lại mất mùa rồi! Về để phụ mẹ làm mùa mà rốt cuộc không có lúa để gặt, cả tuần tôi chỉ còn biết theo chân mẹ và nhóc em ra cánh đồng ngay sau nhà để vớt vát chút lúa vương trên chân rạ của cánh đồng làng phía bên kia ngọn đồi, nơi phòng trừ rầy nâu kịp thời nên vụ mùa vẫn tốt tươi. Ngày nào mẹ và các cô, các thím cũng phải dậy từ sớm, lo cơm nước, lo heo gà xong là lọc cọc gọi nhau nối đuôi đi. được cái cánh đồng bên ấy cũng đông vui vì những người đi mót lúa khá nhiều, các cô, các thím cứ rình rang nào

89

Page 90: Sống tận cùng với đất

bao bị, nào lưỡi liềm, chai nước uống đổ bộ xuống đồng. Đa phần là người quen trong xóm cả nên cứ đụng mặt là mọi người í ới chào, gọi, hú, kêu cứ y như đi trẩy hội. Câu chuyện quan tâm hàng đầu trong những lời chào hỏi vẫn là “mót được nhiều chưa?”, tương tự như câu “năm nay được mấy tấn?” của mùa lúa trúng. Vừa rì rầm hỏi han nhau các bác, các cô, các thím vừa truyền miệng những phương pháp phòng trừ sâu bệnh trên lúa mà mình nghe được, học được từ những cánh đồng khác, từ những xóm khác, những hội khuyến nông cấp tỉnh, cấp huyện, cấp quốc gia chi chi đó. Ngưới lớn thì cứ mải miết mót lúa và học hỏi những kinh nghiệm lẫn nhau, còn lũ trẻ vừa đi kiếm từng bông lúa vương vãi phụ mẹ vừa mang theo đồ nghề đựng cua, ốc, thậm chí là cá nếu may mắn vớ được những vũng nước nào bị nắng rút gần cạn nước, cá loi hoi tìm đường thở và lóp ngóp chờ chết. Cứ thế, ngày nào đi mót lúa bọn nhỏ cũng mang được chút gì cho mẹ làm đố ăn, bớt được tiền trợ. Tôi cùng nhóc em cũng đi bắt cua, bắt cá nhưng lại chọn thời điểm lúc giữa trưa trời nắng chang chang để càn quét. Buổi trưa, hai chị em dặn nhau ăn cơm nhanh nhanh để chạy vèo ra ruộng, nón mũ đầy đủ, mỗi đứa xách một xô. Nắng 33 đến 34 độ, nước nóng ran, cua rủ nhau trú ẩn trên những hốc đá, ụ rạ, chỉ cần luồn tay vào hoặc vén nhẹ là chúng lại hoảng hốt bò ra, tha hồ bắt mang về làm đủ món: Hết canh cua, bún riêu cua lại đến kho, rim, chiên. Riết rồi thành phát nghiền cái mùi thơm thơm, ngậy ngạy béo béo từ gạch cua. Ở thành phố nhiều khi nhớ và khát thèm được ăn canh cua rau đay của mẹ, nhiều hôm lượn lờ mãi ngoài chợ phường mà rốt cuộc không giám mua nửa kí cua xay vì thấy cua bắt dưới dất mà người ta kêu giá trên trời. Tôi bảo nhóc em: “cố gắng bắt thật nhiều để mai lựa lấy con to khỏe chị làm một chuyến buôn xuống thành phố, bán lấy tiền gửi về cho mẹ mua phân, thuốc cho mùa mới”, nhóc em mắt sáng lên và hưởng ứng nhiệt liệt,thế là lại hăm hở đi “càn quét” suốt buổi trưa nắng cháy. Thế nhưng mẹ vừa thấy hai chị em cười toe toét mang chiến lợi phẩm về khoe trong bộ đồng phục bùn, đất lem nhem từ đầu đến chân thì mẹ ngăn ngay: bắt dăm ba con để ở nhà có cái ăn được rồi chứ bán chác làm gì, nắng nôi lại đâm bệnh. Mẹ đã có mấy chục cái chổi rơm to, cả tạ lúa mót chất đống rồi, tha hồ mà cõng qua mùa”.

Thế là qua một mùa bão giông của năm ngoái. Buổi tối trước hôm tôi đi mẹ cầm xấp tiền đưa đi đóng học phí nhưng tôi một mực không lấy: “tiền con đi làm thêm trên ấy một ngày được cả trăm ngàn, làm một tuần là đủ đóng học, mẹ khéo lo!”. Đưa qua đẩy lại mãi không được, cuối cùng tôi đành nhờ nhóc em bí mật cất tiền cho mẹ, khi nào chị đi thì đưa lại. Sáng sớm chuẩn bị đi, bố vào phòng dúi cho “ít tiền ăn quà vặt”, tay tôi run run cầm xấp tiền lẻ bố tích cóp sau mỗi lần “xin mẹ sửa xe” đưa cho mình mà nghẹn ngào chẳng nói được lên lời. Đếm cả xấp tiền được tổng cộng năm mươi tư ngàn tám trăm đồng, tôi vùi đầu vào chăn òa khóc tu tu suốt buổi. Nhóc em thấy chị mít ướt chảy dài thì đăm

90

Page 91: Sống tận cùng với đất

chiêu dữ dội lắm, nó sà vào ôm vai tôi, vỗ vỗ mấy cái như đang dỗ em bé nín khóc rồi hứa: “chị yên tâm đi! Sang năm sẽ không mất mùa đâu! Ngày nào bố mẹ cũng đọc tài liệu khuyến nông mà!”.

Thế nhưng mùa hai năm ngoái cũng bị mất mùa, mất mùa vì ảnh hưởng bão đương lúc thì con gái. Lúc thu hoạch về một sào chỉ được khoảng 5 - 6 bao, bao nào bao nấy cứ nhẹ tưng đến thót lòng. Mẹ cẩn thận đem phơi hết thảy rồi đi mượn bộ quạt từng nửa bao một rồi lại còn thấy phần lép bị quạt ra bỏ vào mẹt sẩysẩy lại, cố vớt vát những hạt có chút gì cưng cứng bên trong để mang thảy lại vào bao cho gà, vịt ăn dần. Lúc thu về chẳng được bao nhiêu, mẹ hết luẩn quẩn quanh việc phơi, sẩy lại đến săn sắn ra ngoài ruộng đi mót từng bông lúa về, có khi trời đã lem nhem tối mẹ vẫn hì hụi cố nhặt nhạnh thêm để có “mẩy chi người, lép cho vật”. Cũng nhờ những bao lúa mót của mẹ mà năm đó cả nhà không đến nỗi phải đi ăn đong. Mỗi lần nấu cơm tôi đều cố gắng đong ít một xíu, tiếc từng hạt gạo nhưng mẹ thì cứ bắt đong thật nhiều để có cơm mà ăn cho thật khỏe, có sức học hành, làm việc cho hiệu quả. Còn bố thì cọc cạch dắt xe đi kiếm việc làm. Kiếm hai ngày trời về bố thông báo tìm được việc phu hồ ở khu phố Tàu, cách nhà khoảng 5 cây số. Thế là sớm sớm mẹ chuẩn bị gô cơm cho bố mang đi ăn trưa, làm đến chiều nhá nhem bố mới cùng con ngựa sắt cọc cạch trở về, lưng áo ướt đẫm mồ hôi, hồ vương lem nhem khắp người, dần dần mái tóc bố bị hồ nhuộm màu, những cọng tóc cứ xơ cứng và trắng đục đồng loạt. Bố đi làm, cuối tuần nào cũng được chủ thầu hoặc chủ nhà cho tiền đi nhậu, thường là mỗi thợ được mười lăm hoặc có khi được tới hai mươi ngàn nhưng tuần nào bố cũng viện cớ sức khỏe không cho phép nên xin rút tiêu chuẩn của mình mang về nhà. Thế là cuối tuần nào bên cạnh khoản tiền lương tuần bố cũng có thêm ít đồng đưa mẹ đi chợ mua chút gì ngon ngon cho cả nhà ăn, về phần mình bố chỉ xin mẹ mỗi tuần năm ngàn để phòng những lúc xe hư còn có tiền sửa. Nhóc em tôi bảo theo thói quen cứ mong ngóng cái ngày thứ bảy mãi để được quây quần bên mâm cơm ăn những món xa xỉ nhất trong tuần: chả giò, gỏi cuốn, bún riêu hoặc cháo gà. Bố mẹ cố ăn chậm để nhường đồ ăn cho các con, dặn cố ăn để có sức khỏe, “có sức khỏe thì ông trời mình cũng đánh được, không có chỉ như cọng bún nằm quèo xó bếp”. Bố nói nghe oai thế mà bố biết đâu lưng mình mỗi ngày một còng nhanh và mái tóc đã bị hồ nhuộm sạch sẽ lúc nào không hay.

Hai mùa giông bão dần qua. Cả hai mùa đều đi từ thất đến thất. Còn năm nay, nghe thông tin mật từ thằng nhóc hàng xóm nhắn là “trúng dữ văn dội lắm!”. Tôi mừng rơn, cười suốt buổi trên giảng đường và chốc chốc lại nhìn đồng hồ canh giờ được về với mẹ. Tôi cố gắng về đúng ngày này và về không báo trước để coi như món quà tặng mẹ nhân ngày cắt lúa, để cả nhà sẽ mang cái vui mừng ra tận cánh đồng. Cái vui sẽ lây lan ra khắp các mảnh ruộng bên cạnh, giòn tan trong tiếng máy nổ ì ầm, tiếng những hạt lúa va vào nhau thật nhẹ trước khi nằm

91

Page 92: Sống tận cùng với đất

xếp trong đống bao. Mẹ sẽ thoăn thoát vừa lia những lưỡi liềm sắc lẹm ngang từng tay lúa vừa kể chuyện “mấy đứa con tôi”. Bố sẽ vừa vác từng bao lúa to lên bờ vừa huýt sáo hoặc hát “cắc cùm cum” suốt buổi. Gặt lúa có thể có nắng to, cũng có thể có mưa dầm nhưng tất cả đều không làm thay đổi kế hoạch đã chuẩn bị cả tuần trước, miễn sao lúa còn là người cố công cắt, gom cho kịp mùa. Tôi vừa trở về là ào ra ruộng ngay, nhìn thấy bát ngát một màu vàng lúa thì cất cánh vui khôn tả, lòng lâng lâng vui sướng vì mới được toại nguyện một điều ước, nhưng cũng ngay lúc ấy tôi nhận ra dáng mẹ gầy gò đang thoăn thoắt lia lưỡi liềm, dáng bố lum khum lúc nào cũng có vẻ tất bật, vội vã đang vật bó lúa to lên vai, lòng bỗng thấy quẹt ngang một dấu than buồn trĩu. Tôi cố nén nước mắt, ào đến phụ mọi người đưa hạt ngọc về nhà. Bố nhìn thấy con gái nhỏ chạy từ xa lại thì đứng thần người một hồi rồi hát vang “ô kìa ai như cô Thắm, con của tui ở xa mới về!”, còn mẹ thì ngưng tay lưới liềm, ngước nhìn tôi rơm rớm nước mắt rồi chỉ bình nước đá: “lấy nước uống cho mát rồi phụ mấy cô cắt vài đường cho nhanh!”. Các cô, các thím cũng ngước nhìn, í ới hỏi thăm rồi cũng xót xa “con bé gầy gì mà gầy thế !? Cố gắng ăn nhiều để còn mau lấy chồng nghe con!”.

Xa nhà, dần xa việc nhà nông, tay chân tôi như ngượng ngập với chính việc đã gắn bó với mình suốt một thời gian dài từ cấp hai đến hết cấp ba. Tôi nhớ mãi những ngày xưa, ngày nào không được nghỉ học thì một buổi đến trường, một buổi quanh quẩn làm trên mảnh vườn, miếng ruộng nhà mình còn những ngày được nghỉ mà việc nhà cũng tạm rảnh thì tranh thủ kiểm xem có ai kêu làm cỏ, dặm lúa, cắt lúa... để đi làm lấy tiền mua sắm dụng cụ học tập, đóng tiền quỹ lớp, quỹ Đoàn. Tôi nhớ nhất một ngày hè lớp 10 theo mẹ đi cắt lúa khoán ở cánh đồng cách nhà mình một quả đồi. Đó là lần đầu tiên được đi cắt lúa khoán nên lòng tôi vui lắm vì nghe đâu sẽ rất đông vui, nhộn nhịp và được nhiều tiền hơn so với cắt lúa tính công. Đúng là cắt lúa khoán rất vui nhưng cũng lại rất mệt. Trong tốp gặt hôm ấy chỉ mình tôi là “lính mới”, tay chân còn chưa đủ nhanh để theo cho kịp những người khác. Mẹ lúc nào cũng đi cạnh tôi và quơ liền lấn sang đường của gặt của con để con theo kịp mọi người. Nghỉ giữa trưa, tôi tí tửng lôi phần cơm của hai mẹ con ra, nhìn thấy mấy miếng đậu hũ kho nằm chỏng chơ, đôi mắt tôi cụp xuống muốn khóc “làm mệt muốn chết mà ăn uống thế này sao mà nuốt nổi!”. Tôi nhích người ra xa để mọi người không nhìn thấy phần cơm nhà mình, thon thót sợ ai đó tò mò hỏi mẹ con mình ăn gì. Mẹ nhận ra điều đó, lặng lẽ gắp cho con phần nhiều đậu hũ và còn định xin cô ngồi cạnh miếng thịt cho nhưng tôi ngăn lại, không phải vì không thích ăn thịt mà vì sợ cô ấy bắt đổi lấy một miếng đồ ăn của mình, sợ cô ấy biết nhà mình ăn đậu hũ kho, sợ người ta biết mình ăn uống “chả giống ai”. Thấy con ăn vẻ khó nhọc, mẹ trêu “con gái mắc cỡ!”. Thế là để chứng minh là ra đây mạnh dạn, tôi phải cố ăn cho thật khí thế, thật ngon lành, cuối cùng cũng hết phần cơm khô khốc. Đợi đến khi con ăn

92

Page 93: Sống tận cùng với đất

hết, mẹ đưa ra cái bánh tét nhỏ “ăn đi! Lát nữa có sức mà theo các cô!”. Đó là cái bánh tét mà chủ nhà cho mỗi người một cái ăn lúc nửa buổi, lúc đó tôi cầm phần bánh của mình và ăn ngoắng ngoằng hết sạch mà không để ý mẹ đã cầm phần của mình cất đi cho con. Mẹ biết tôi đang tuổi ăn tuổi lớn, ăn bao nhiêu cũng không vừa. Cầm phần bánh của mẹ, tôi phải cố lắm mới không rơi nước mắt. Mẹ ngọt ngào bóc vỏ rồi đưa bánh đến tận miệng cho tôi như hồi còn bé xíu, “mẹ không thích ăn đồ nếp, ăn đi kẻo chiều thiu mất!”. Sau lần đó không bao giờ tôi than thở về bữa ăn của nhà mình nữa vì biết mẹ đã cố gắng nấu thật ngon những món ăn bình dị đó, những món ăn của nhà nghèo. Bây giờ sống đời sống sinh viên nghèo, tôi phát hiện ra con nhà nghèo vẫn có thể có những món ăn ngon nhờ vào tài nấu nướng.

Được mùa, từ đầu làng đến cuối xóm đều vàng một màu lúa phơi bên đường. Lúa chất đầy nhà, lúa theo từng bước chân đi từ nhà trên xuống nhà dưới, đi đến đâu cũng nghe mọi người hỏi nhau có trúng mùa không? Bao nhiêu bao? Nghe cứ vui như ngày hội. Chỉ có điều ông trời cứ ầm ì mưa mãi nên không phơi được. Mẹ giao nhiệm vụ cho Bin - nhóc em tôi - cứ thỉnh thoảng phải đảo ra sau nhà, nhìn lên đồi 12 phía xa xa xem nó màu gì, nếu màu sáng thì trời cho nắng, nếu xám là ắt hẳn mưa. Canh me cả ngày nhưng chẳng mấy lúc thấy đồi 12 sáng hẳn, nó cứ mập mờ sáng - xám làm cho cả nhà, cả xóm điêu đứng, khốn khổ. Cứ trời có chút hanh hanh, ưng ửng là cả xóm hè nhau rinh, vác, lôi, đẩy rồi lại đến quải, cào, chũi lúa ra sân, ra đường phơi cho thật nhanh nhưng phơi chưa yên, cái mệt chưa tạm xuống, những giọt mồ hôi chưa lăn hết đường biên trán thì tự dưng lại thấy mây đen từ đâu ùn ùm kéo đến, vần vũ ngay trên đầu nên cả xóm lại kêu réo, hò gọi nhau mau mau cất lúa vào. Lúa ướt, nhà nào nhà nấy đều phải quải từng đồng trong nhà cho mau ráo vỏ. Tôi thích mãi cái cảm giác được ngồi trên lúa để cảm nhận được sự sinh sôi, phát triển của những sinh linh bé bỏng. Cứ thế mà qua thời kỳ phơi lúa gian truân với một vòng tròn những thói quen hằng ngày của bố, mẹ. Sáng nào cũng có khoảng 4 giờ, mẹ lại lật đật dậy bồ cào đảo từng lằn lúa đổ đống trong nhà cho lớp lúa bên dưới có chỗ thở. Bố vừa ngồi canh chương trình dự báo thời tiết vừa nghiền ngẫm tài liệu lấy được trong mấy lần đi dự lớp tập huấn của Hội Khuyến nông. Thỉnh thoảng, bố lại nheo nheo mắt nhìn thật kĩ từng dòng chữ và bảo tôi “đọc to mấy chữ tiếng Anh trên tài liệu để có gì mai mốt ra cửa hàng nông nghiệp bố còn biết cách kêu cho chính xác, mắt công trệch một li đi vạn dặm lại đi to mấy sào ruộng thì cả nhà chỉ có nước uống nước là qua ngày.

Được một mùa trúng thì cũng trầy da tróc vảy với ông trời. Một điều kỳ quặc diễn ra dường như quy luật mà tôi nhận thấy là cứ mùa nào được mùa thì rớt giá, mùa nào được giá thì lại mất mùa. Được mùa trúng, cả nhà, cả xóm ngày nào cũng kéo ra sân, ra đường mà đánh vật với chuyện nắng mưa để lo phơi cho thật

93

Page 94: Sống tận cùng với đất

khô rồi lại mang quạt quạt cho thật kĩ để mong được thương lái mua giá cao. Tối nào cũng thấy mẹ lọc cọc dắt xe đi dò hỏi xem giá lúa có thay đổi gì không và tối nào cũng thấy bà trở về trong im lặng, nét mặt đăm chiêu, có vẻ nghĩ ngợi dữ dội lắm. Chờ mãi lúa chẳng chịu tăng giá trong khi các chủ nợ tiền phân, tiền thuốc trừ sâu, tiền cày xới cứ kéo nườm nượp hết đòi khéo lại đến nhảy cẫng lên chửi bới um xùm. Bố mẹ đành đứt ruột kêu người đến bán lúa. Nhà trong hẻm sâu, để đi vào phải qua một đoạn gần nửa cây số bùn đất nhầy nhựa nên mụ buôn chỉ trả 3.200 đồng một kí lúa thơm VD20 với hàng ngàn lí do: đó là giá thị trường chung, mức giá mua lúa tối thiểu mà Hiệp hội Lương thực Việt Nam cấp cũng chỉ ở mức 3.800 đồng một kí thôi, ở đây lại đường xá xa xôi, phải thuê người vận chuyển ra ngoài... Kỳ kèo qua lại suốt một buổi trời không xê dịch được đồng nào, mẹ thẫn thờ:tính nguyên chi phí chăm bón thôi cũng chắc mẩm một kí phải bỏ ra 3.000 đồng rồi, bán được có 3.200 đồng thì mỗi ký lời có hai trăm đồng thì lấy đâu ra tiền nuôi con cái ăn học? Mẹ ngồi phân trần, nài nỉ cả buổi mà mụ buôn vẫn trơ trơ giữ giá, đến giữa trưa dường như mụ cũng mệt nên đưa ra sáng kiến: Nếu muốn tăng lên 3.600 đồng thì tự chở lúa ra đầu đường nhựa chất đống để bà ta đưa xe đến vận chuyển cho dễ, đỡ công thuê người vác ra . Mẹ nghe giá tăng được 4 đồng, mừng vui khấp khởi nhưng vẫn cố nải nỉ thêm ít nữa: nhà nợ nần chồng chất, con cái đi học xa, cả nhà chỉ trông được vào mấy sào lúa... Nghe mệ tôi phân trần, kể lể mụ lái buôn ra chiều mủi lòng, tỏ ra thông cảm ghê gớm nên quyết định tăng thêm một đồng là tổng cộng được 3.700 đồng một kí. Mẹ nhìn bố, bố nhìn chúng tôi. Cả nhà nhìn đống lúa đã phơi phóng cẩn thận, hạt nào hạt nấy mẩy cứng đến mê người. Nghĩ tới nghĩ lui, bàn bạc nội bộ bằng mắt rồi mẹ cũng đành “ừ, thì bán”. Mụ buôn nghe vậy mừng vui đon đả ra mặt, hẹn 3 giờ chiều cho xe tới. Cả gần hai tấn lúa mà phải vận chuyển một khoảng xa đường đất lầy lội trong ba tiếng đồng hồ? Mẹ lại kì kèo xin thêm đến 5 giờ. Mụ buôn sau chút chần chừ rồi cũng nhận lời ra chiều thương người lắm. Thế là bán, đến lúc phơi phóng xong rồi tưởng hết mệt nhọc nào ngờ mang bán cũng phải còng lưng đẩy xe, gồng tay mang vác. Tôi với nhóc em đẩy một xe. Bố một xe, mẹ một xe. Cả nhà ăn quáng quàng cho qua bữa trưa rồi túm nhau vào đẩy lúa ra đường nhựa. Thót lòng vì tiếc cái công bố mẹ vất vả quanh năm mà chẳng được bao. Suốt buổi thồ lúa ra rồi lại đẩy xe vào, tôi thấy dáng mẹ dáng bố cứ mỗi lúc một còng hơn, gầy gò đến xót xa. Tối, cầm mớ tiền bán lúa mẹ đi thẫn thờ trong nhà nơi cách đó vài giờ lúa còn chất ngổn ngang, cố quét cho sạch sẽ xem còn vớt vét được gì không. Tôi vừa tỉ mẩn chuốt sạch từng cọng rơm to, gom lại một mớ để làm chổi quét nhà đem bán kiếm ít tiền vừa trách bọn con buôn ép người quá đáng, ông trời thật chẳng công bằng, người vất vả thì không cho ăn, người nhàn nhã thì lại được giàu. Bố phù cười, bảo mẹ con qua một mùa thua trận đã bi quan quá thế, nào là ông trời không thương với chẳng cho người đã cố gắng hết mình. Vừa lấy chân vo, đạp cho những hạt lúa mẹ mới mót về cho rời ra khỏi

94

Page 95: Sống tận cùng với đất

bông bố vừa cầm xấp tài liệu xin được bên Hội Khuyến nông huyện đọc to: “Chiến lược phòng trừ rày nâu theo hướng nông nghiệp bền vững là sử dụng biện pháp phòng trừ tổng hợp, ưu tiên các biện pháp phi hóa học, áp dụng giải pháp “3 GIẢM 3 TĂNG”. Mẹ vừa làm chổi vừa cố gắng lắng nghe và nhớ từng ý chính, từng cái tên thuốc theo lời của bố, nào là VIAPPLA 25 BTN, nào là VITHOXAM 350 SC, VIRIGENT 0,3 G, VIRGENT 800 W... Tôi nghe cứ lùng bùng cả tai, nghĩ cũng đến điên cái đầu không hiểu sao lại lắm tên khó đọc thế còn mẹ lại trầm ngâm, thẫn thờ một hồi bên bảng giá thuốc với những cái giá chót vót đền hàng trăm ngàn đồng. “mùa vừa rồi chỉ cộng nội tiền giống, tiền thuốc, tiền phân, cầy bừa đã mất toi mỗi sào hơn triệu rưỡi. Đó là chưa dám tính tiền công nhà bỏ ra, ngày ngày ra ra ruộng lo chăm từng gốc lúa, nhổ sạch từng cây cỏ”. Bố lại phì cười: “mẹ con nhà này bị giá lúa làm cho lẩn thẩn hết rồi! Thì cũng năm cao năm thấp nó mới... vui chứ năm nào cũng cao ngất ngưởng thì thành “triệu phú khu ổ chuột” đến nơi!”.

Tối qua hai mẹ con tôi lọc cọc chạy xe ra đường quốc lộ mua hai chục mét mùng khổ ngang 50 cm để mai bố lội xuống lấy bùn nhão trộn chung với 200kg xơ dừa nguyên chất, 2kg phân DAP đem phơi ra sân rồi hôm sau đem 15kg lúa giống BC15 đã ngâm 36 giờ, ủ 36 giờ đem đánh luống gieo theo kiểu tài liệu mách “giăng mạ mùng kháng rầy”. Nghe đâu tài liệu Khuyến nông họ bảo giống lúa BC 15 này có khả năng kháng bệnh cao nên bố kêu mẹ mua cho bằng được. Mẹ tán thành cấp tốc “miễn sao được trúng mùa”, mười giờ đêm tối như bưng còn lóc cóc đạp xe đi ra đầu xóm vay tiền mua giống rồi lại cả đêm chong đèn nghiền ngẫm tài liệu cho thật kỹ.

Thế là lại gối đầu một vụ mùa mới. Sáng nay trước khi chào cả nhà để đi tôi thấy bố mẹ thức dậy thật sớm lật lại lúa giống rồi cùng cười: “lên mầm đều tăm tắp”. Nhìn qua cửa xe đò thấy trời trong, gió mát, thầm mừng hôm nay mẹ gieo mạ được trời thương. Mong sao trời lại thương cho suốt mùa.

95

Page 96: Sống tận cùng với đất

GẶP LẠI “TAM GIA CẦU TREO”

Bùi Văn Bồng

Ba ông nông dân, mới học hết lớp 5, chưa có ai được học một câu lý thuyết hay được dạy những đường nét cơ bản về đồ họa, thiết kế cầu đường. Ấy vậy mà giờ đây, cả ba ông nông dân ấy nổi tiếng ở Nam bộ về cái tài, cái khéo của nghề làm cầu treo qua các kênh rạch nông thôn. Bà con vùng đồng bằng sông Cửu Long đã quen gọi họ bằng cái tên chung đầy cảm mến và thán phục: " Tam gia cầu treo". Bằng phương thức vừa học vừa làm, biết cách vận động quần chúng, không cần có sẵn tiền vốn, kinh phí, họ đã góp phần không nhỏ vào phong trào "bê tông hóa xóa cầu khỉ" ở ĐBSCL. Chỉ có ba ông " tự thân vận động" làm cầu từ thiện, 10 năm qua, họ đã làm được trên 160 chiếc cầu treo thay thế cầu khỉ - loại cầu tre, cầu ván gỗ bắc lắt lẻo trên kênh rạch từ bao đời nay ở vùng sông nước miền Tây Nam bộ. Cầu treo do ba ông nông dân dựng nên cái nào cũng đẹp, tiện dụng, ít tốn kém, lại chắc chắn. Đúng là những cây cầu do nông dân làm, thuận tiện cho nông dân đi lại ở xứ dọc ngang kênh rạch. Trước mắt chúng tôi là dòng kênh Mặc Cần Dưng khá rộng. Hai bên triền sông dốc đứng. Một chiếc cầu treo vững chãi nối hai bờ với hoa trái miệt vườn sum suê, thật là thơ mộng. Chiếc cầu treo nông thôn này đã có tuổi 10 năm. Chiếc cầu mang tên giản dị mang hơi thở đồng đất nắng mưa của xứ sở này: cầu Cua Chùa. Bởi con đường bên bờ An Hòa đi ven kênh Mặc Cần Dưng đến đây gặp ngôi chùa, bỗng cua một góc rộng rồi đi sang kênh tắt. Anh Tư Liếu nói với tôi: - Đây là chiếc cầu treo đầu tiên, do “Tam gia cầu treo” – ba anh em làm cầu treo chúng tôi bắc hồi tháng 6 năm 1999. Bà con nông dân ở đây đã gọi cây cầu tình nghĩa này là “Công trình chào mừng Thiên niên kỷ”. Đúng thế. Sau chiếc cầu treo nông thôn đầy án tượng này, nhóm “Tam gia cầu treo” đã không mệt mỏi, đi bắc cầu nối mạch giao thông nông thôn trên khắp vùng dọc ngang kênh rạch đồng bằng sông Cửu Long và một số địa phương miền Đông Nam bộ. Trước đây, người ta biết danh ba anh nông dân chuyên làm cầu treo nông thôn có nhiều uy tín này là Nhóm cầu treo Châu Thành. Bởi cả ba thợ cầu “tự phát” này đều là nông dân nòi ở xã An Hòa, huyện Châu Thành ( An Giang). Từ năm 2004, ba “nhà thợ cầu” này đã in một danh thiếp chung là “Tam gia cầu treo”. Chỉ thế thôi, không phải công ty, xí nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh nào, mà đơn giản chỉ là “TAM GIA CÂU TREO”. Đó là các ông: Nguyễn Văn Hùng ( Ba Hùng), Phạm Văn Liếu ( Tư Liếu) và ông Thạch Văn Nhơn ( Ba Nhơn). Các ông không lấy nghề thợ cầu để kinh doanh, làm giàu, mà đơn giản là

96

Page 97: Sống tận cùng với đất

đi khắp nơi để làm cầu nông thôn, những nhịp cầu tình nghĩa. Các ông đã tích cực vận động các nhà hảo tâm, các hội từ thiện và doanh nghiệp góp tiền để xóa cầu khỉ hoặc xây cầu ở các bến đò ngang, làm cầu treo hoặc cầu sắt chỉ với một ước vọng đổi mới bộ mặt nông thôn vùng sông nước Nam bộ. Có tiền của các nhà tài trợ đóng góp, các ông bỏ công sức trực tiếp chỉ huy thi công cầu, vận động thanh niên, dân quân đóng góp công sức. “Tam gia cầu treo” làm cầu tình nghĩa, không lấy tiền công. Các cây cầu do họ tự thiết kế, thi công, đảm bảo chất lượng, mang nhiều lợi ích kinh tế-xã hội và nhiều niềm vui đến cho các xóm ấp vùng sâu, vùng xa. Có lẽ chính vì thế mà “Tam gia cầu treo” ngày càng được tiếng lành đồn xa, ngày càng có nhiều uy tín khắp vùng. Đã gần 5 năm kể từ lần đầu tiên gặp ông Tư Liếu đang làm cầu ở Thoại Sơn, lần nay lên An Giang tôi lại ghé thăm ba ông nông dân nổi danh làm cầu từ thiện. Ông Tư Liếu khoe với tôi: - Hiện nay, chúng tôi đang thi công cầu treo Vàm Kênh Bảy, bắc qua sông Chắc Băng ở xã Trí Phải, huyện Thới Bình ( Cà Mau) với chi phí hơn 2 tỉ đồng. Chiếc cầu treo này không những là nhịp cầu dân sinh, mà còn thuận tiện cho du khách gần xa đến viếng Phủ thờ Bác Hồ ở xã Trí Phải, kinh phí do ông Sáu Quân, Chủ tiệm vàng ở chợ Huỳnh Sử bỏ ra đầu tư xây dựng. Tôi hỏi ông Ba Hùng: - Vốn là nông dân, cả ba ông mới học hết tiểu học, ngoài làm ruộng rẫy chỉ biết làm thêm nghề thợ hồ và xây cầu cống, tại sao các ông lại thiết kế và thi công được cầu treo, cầu sắt nông thôn? Ba Hùng cười rất tự tin: - Đơn giản là ham làm việc nghĩa. Thấy bà con ngay quê mình còn vất vả do đi lại trên vùng kênh rạch còn nhiều khó khăn, chúng tôi nhất quyết phải đứng ra làm cầu để phục vụ bà con.

Tôi nói: - Nhưng cái chính là tấm lòng, và dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm? - Vâng, đúng là như vậy! Bằng cấp của ba anh em chúng tôi có gì đâu. Học văn hóa cũng mới qua “trường làng”. Tôi nhớ cuối năm 1998, ba anh em chúng tôi đi thăm triển lãm ở thành phố Cần Thơ, thấy người ta trưng bày mô hình cầu Mỹ Thuận mà ham. Thật là tuyệt. Theo mô hình cầu Mỹ Thuận, thì cầu treo là thích hợp với vùng sông nước. Chiếc cầu vươn cao, độ cong vừa phải. Dây văng đã làm bớt đi các trụ cầu. Như vậy, bắc cầu nối giao thông đường bộ, nhưng không làm cản trở dòng chảy, không làm ảnh hưởng đến giao thông đường thủy. Chúng tôi đã quan sát rất kỹ mô hình cầu treo Mỹ Thuận. Và chúng tôi nghĩ: Có thể bắt chước mô hình câu Mỹ Thuận để làm cầu treo nông thôn. Được lắm chứ, vì rất nhiều tiện lợi. Ba Hùng, Tư Liếu và cả Ba Nhơn đều lý giải với tôi như vậy. Đó cũng là cái sự “khởi đầu nan” và cũng là nỗi niềm mong ước với kỳ vọng rất tự tin của

97

Page 98: Sống tận cùng với đất

“Tam gia cầu treo”. Họ muốn như vậy, chí quyết như vậy, và quả nhiên mười năm qua họ đã đóng góp được nhiều cho sự nghiệp phát triển giao thông nông thôn, bằng chính sức mình, sức dân, không chờ đợi Nhà nước. “Tam gia” quả là vững như kiềng ba chân. Hòa hợp, nhất trí cao, biết chia sẻ và chung sức chung lòng. Nhớ mùa lũ năm 1998, hai bên bờ kênh An Hòa được nối bởi cây cầu ván thấp xịt, bị rác và lục bình mùa lũ chẹn cứng, gây ách tắc cả đường qua lại giữa xã Bình Hòa và xã An Hòa. Học sinh không có đường đến trường. Xuồng ghe trên dòng kênh cũng không còn lối qua lại. Biết ông Tư Liếu và ông Ba Hùng có nghề xây dựng, ông Trần Văn Minh, Bí thư Đảng ủy xã An Hòa gợi ý: “ Các bác nghĩ xem cách nào có thể bắc cầu vòm cao hơn mặt nước lũ để không bị tắc đường vào mùa lũ?” Vốn đã có ý định từ khi đi thành phố Cần Thơ xem mô hình cầu Mỹ Thuận trong triển lãm, ông Tư Liếu bàn với ông Ba Hùng nghĩ cách thiết kế cầu treo dây văng Cua Chùa. Không biết máy vi tính, không có kinh nghiệm vẽ kỹ thuật, các ông đo kích thước mô hình cầu Mỹ Thuận rồi tính ra kích thước từng đoạn cầu, tự vẽ nên bản thiét kế cầu treo Cua Chùa. Thế mà thành công. Nhớ dạo đó, ông Tư Liếu mạnh dạn đưa bản phác thảo cầu treo trình bày với đảng ủy, chính quyền xã An Hòa. Cũng may lần bản vẽ của ông được chính quyền xã ghi nhận và đem bản phác thảo cùng ý tưởng của ông Tư Liếu trình lên Phòng giao thông và Phòng xây dựng huyện Châu Thành. Các cán bộ chuyên ngành ở Phòng giao thông huyện thấy lạ: Một nông dân mà dám nghĩ, dám làm, phác thảo hình mẫu cây cầu treo thật có lý. Nhiều cán bộ, kỹ sư ngành cầu đường đi thực tế vẫn chưa ai đưa ra được phương án làm cầu treo hợp lý như vậy. Phòng giao thông đã góp ý, điều chỉnh một số chi tiết để tăng độ bền chắc, bảo đảm an toàn cho cây cầu treo, rồi nhất trí cho xã làm thí điểm cây cầu treo theo bản phác thảo của ông Tư Liếu. Ông Tư Liếu kể lại rằng, hôm bắt đầu thi công làm cầu Cua Chùa, bà con phấn khởi lắm. Mấy cụ chống gậy tới xem, động viên. Trai tráng trong làng cũng đến Ban xây dựng cầu xin được tham gia góp sức, bà con trong ấp đã góp gạo, cá mắm, bầu bí cho anh em làm cầu ăn. Chưa đầy một tháng, cầu đã làm xong, dân kéo nhau tới xem cầu treo rất đông, bởi lần đầu tiên trong đời họ được thấy ở miền quê mình có được cây cầu đẹp và chắc chắn như thế. Cầu dài 58m, rộng 2,5m, bắc theo kiểu dây văng ngang, trụ đứng có dây neo hai đầu, dầm gỗ, đà và lan can sắt, Kinh phí làm cầu chỉ tính tiền mua vật liệu hết 120 triệu đồng, chưa tính công sức cả tháng của mấy chục lao động trai tráng ở xã An Hòa. Từ sự thành công của Cầu Chùa, UBND huyện Châu Thành đề nghị làm tiếp chiếc cầu Vàm Kênh (ấp Hòa Phú 2, thị trấn An Châu). Làm cây cầu thứ hai này, "nhà thiết kế kiêm chỉ đạo thi công" Tư Liếu gặp thêm hai ông nhiệt tình ủng hộ và cùng vào cuộc. Ông Ba Nhơn hăng hái đi vận động bà con nông dân đóng góp tiền để tăng kinh phí làm cầu. Ông Ba Hùng có thế mạnh về phương tiện máy móc và giỏi kỹ thuật cơ khí. "Bộ ba nông dân" làm cầu nay đã có đủ sức như thế

98

Page 99: Sống tận cùng với đất

chân kiềng, ai cũng bảo " ba ông hợp lại nên hòn núi cao". Người lo khảo sát thực địa, chỉ đạo thiết kế, thi công. Người lo tìm nguồn kinh phí, huy động sức dân đóng góp. Người lo thợ cơ khí, phương tiện, máy móc, các loại dụng cụ phục vụ quá trình thi công cầu treo. So với chiếc cầu đầu tiên – cầu Cua Chùa- cây cầu treo Hòa Phú 2 này được thiết kế dầm sắt. Chưa hài lòng với những gì đạt được, lúc đó là cuối năm 2000 đã có cây cầu Mỹ Thuận sừng sững bắc qua sông Tiền, ba ông rủ nhau đi xem cầu Mỹ Thuận để "bắt chước" và cải tiến chiếc cầu của mình cho chắc chắn. Không còn phải xem cây cầu qua mô hình như trước, nay cả ba ông đã “mục sở thị” cây cầu dây văng hiện đại đầy tự hào trên đất đồng bằng miền Tây Nam bộ, niềm phấn khích sáng tạo trong lòng như được tiếp thêm ngon lửa nhiệt huyết. Từ kinh nghiệm làm cầu Hòa Phú 2, ba ông làm tiếp cầu Sóc Chét (xã Long Giang, huyện Chợ Mới) được làm theo mô hình cầu Mỹ Thuận, giảm chi phí xây dựng hai mố cầu khoảng 6 triệu đồng. Tiếng lành đồn xa, nhiều địa phương trong tỉnh như Thoại Sơn, Tri Tôn, Phú Tân rồi các tỉnh trong khu vực ÐBSCL như Kiên Giang, Trà Vinh, Bến Tre… đến nhờ "tam gia cầu treo" ở huyện Châu Thành giúp địa phương làm cầu. Từ cây cầu đầu tiên dài 58 mét, một số cây cầu vài ba chục mét, đến nay ba ông đã làm những chiếc cầu dài cả trăm mét. Nhiệt tình và sáng tạo của ba nông dân trong việc làm cầu treo bắc qua kênh rạch vùng đầu nguồn lũ đã góp phần đáng kể đẩy nhanh tốc độ, chất lượng và hiệu quả làm đường , bắc cầu ở nông thôn vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới còn nhiều khó khăn. Nhiều huyện như Chợ Mới, Châu Thành, Thoại Sơn, Châu Phú… đã bê tông hóa, láng nhựa, làm cầu sắt, cầu treo, thuận tiện đi lại và thông thương hàng hóa về tận vùng sâu, rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, giàu và nghèo, tạo đà để các vùng quê vươn lên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, văn minh. Thận trọng tính toán kỹ, lại có óc sáng tạo, các ông đã bắc được cây cầu treo Cua Chùa. Nay đã 10 năm, chiếc cầu vẫn lừng lững bắc qua kênh Mặc Cần Dưng, rất thuận lợi cho xe cộ qua lại. Riêng về biệt tài vẽ thiết kế thủ công để làm cầu, tôi rất khâm phục “Tam gia cầu treo”. Hầu như chỉ có “Tam gia” vẽ và đọc được bản vẽ thiết kế từng cây cầu. Tôi hỏi Tư Liếu: - Cây cầu đang xây dựng ở Thới Bình, Cà Mau, các ông cũng tự vẽ thiết kế hay sao?

Tư Liếu sôi nổi: - Đúng như vậy. Đây, tôi cho anh xem bản vẽ thiết kế cầu Vàm Kênh Bảy. Nói xong, Tư Liếu mở tủ, lấy ra bản thiết kế, đưa tôi xem. Bản vẽ bằng tay, có chỗ đường kẻ không thẳng, như là sự ước lệ để dễ hiểu. Vậy mà có đủ toàn cảnh cây cầu, mặt cắt ngang, mặt cắt dọc, khoảng tĩnh không để thông thuyền, mặt chiếu, chi tiết kết cấu phần trụ cầu, chi tiết kết cấu thép, dây văng, cho đến chi tiết quy cách, chiết tính vật tư, dự toán kinh phí... Thế thì tôi chịu. Quả là tôi chịu với cách làm cầu của ba ông “hai lúa” ở đây. Thế mà hơn 160 cây cầu khắp

99

Page 100: Sống tận cùng với đất

vùng đồng bằng sông Cửu Long được “Tam gia” bắc trong 10 năm qua, cây cầu nào cũng đẹp và bền vững. Đúng là chữ “tín”đã tạo ra chữ “uy”. Tiếng lành đồn xa, không những 13 tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long đều có những cây cầu nông thôn do các ông tự thiết kế, thi công, mà Lâm Đồng và thành phố Hồ Chí Minh cũng mời gọi “Tam gia cầu treo” lên bắc cầu nông thôn. Hôm đó, “Tam gia cầu treo” mời chúng tôi ở lại ăn trưa tại nhà ông Tư Liếu. Tôi thấy lạ. Trên bàn ăn bày cả những món ăn chay. Ông Tư Liếu nói với tôi: “ Các anh cứ tự nhiên dùng bia và các thức mặn. Ba anh em chúng tôi ăn chay”. Tôi hỏi: - Các ông ăn chay trường hay chay kỳ nhật nguyệt? - Chúng tôi ăn chay trường cả mấy chục năm rồi, từ sau năm 1975, mừng đất nước thống nhất, được sống trong độc lập, tự do. Ba anh em chúng tôi là tín đồ Phật giáo Hòa Hảo. Chúng tôi ăn chay trường cầu xin quốc thái dân an, cầu xin non sông này bền vững và mọi người đến với nhau bằng chữ “tâm”. Ông Ba Nhơn lý giải: - Trong tôn chỉ hành đạo của Phật giáo Hòa Hảo đã dạy: Làm hết tất cả các việc từ thiện, tránh tất cả các điều độc ác, quyết rửa tấm lòng cho trong sạch. Trước mỗi bữa ăn, chúng tôi đêu tâm niệm những điều răn đó. Làm được những nhịp cầu mới để xóa cầu khỉ ở nông thôn đã trở thành tâm nguyện của “tam gia”. Khi thiết kế, thi công các cây cầu nông thôn, các ông đi vận động nguồn tài trợ, không nhận tiền thiết kế, thi công, ăn chay và vô tư đóng góp từ thiện. Thấy ba ông nhiệt tình bắc cầu, ăn uống đơn giản, đạm bạc, đến đâu các ông cũng được bà con lo việc ăn uống chu đáo, hợp khẩu vị. Ông Ba Nhơn nói: “Ở đâu, và lúc nào chúng tôi cũng xác định tại gia cư sĩ, học phật tu nhân, việc gì thấy lợi cho dân chúng, ích cho cộng đồng là chúng tôi sằn lòng từ thiện giúp đời, không hề tính toán vụ lợi, không suy tính hơn thiệt. Ông Ba Nhơn kể: Tháng 8 năm ngoái (2008), vào đúng kỳ lũ lớn và triều cường, ông đi trên bờ kênh Huệ Đức thuộc xã Tân Phú, huyện Châu Thành. Con kênh rộng, nuớc dâng tràn, dòng lũ chảy xiết. Nơi đây chưa có cầu qua kênh. Mùa lũ, nước lớn, người ta có sáng kiến đặt một tấm ván lên hai chiếc thùng phuy, rồi nối với hai bờ bằng những sợi dây đay to, chắc chắn. Học sinh muốn đến trường phải đứng trên tấm ván đó, tự kéo dây để qua kênh. Bất ngờ ông thấy bốn em học sinh vừa kéo dây ra giữa dòng lũ thì bị nghiêng thùng phuy. Cả bốn em bị rơi xuống dòng nước lũ. May được bà con lặn ngụp, mò tìm và cấp cứu, cả bốn em thoát nạn. Ông Ba Nhơn về bàn trong “tam gia”, đi vận động huyện Châu Thành và huyện Thoại Sơn, cho phép được bắc cầu treo qua kênh Huệ Đức. Chỉ trong thời gian ngắn, các ông đã vận động các nhà hảo tâm ở thị trấn An Châu và một số doanh nghiệp ở thành phố Long Xuyên quyên góp tiền xây dựng cầu. Những người dân trong vùng biết ơn lắm, đề xuất nên gọi cây cầu là cầu Tam

100

Page 101: Sống tận cùng với đất

Gia, nhưng “tam gia” không chịu, cư theo địa danh tự nhiên mà đặt tên cầu – cầu Huệ Đức. Kể xong câu chuyện làm cầu Huệ Đức, ông Ba Nhơn nhìn ra dòng kênh Mặc Cần Dưng cuộn chảy. Màu da ngăm đen của ông sao giống màu phù sa tần tảo ven bờ kênh đến thế. Búi tóc củ hành sau gáy rung rung. Ông cười: - Khi đã bỏ công sức ra làm được một việc nghĩa, thấy bà con mừng vui trước thành quả lao động của mình, thật là không hạnh phúc nào bằng. Ngoài việc làm cầu treo, " tam gia" còn tham gia cùng các địa phương xóa đói giảm nghèo, làm nhà tình thương, nhà tình nghĩa, làm đường nhựa, đuờng bê tông liên xã, liên ấp. Không dừng lại, ông Tư Liếu, ông Ba Nhơn và ông Ba Hùng đang có kế hoạch đi đến những vùng sâu, vùng xa, những nơi bà con nông dân còn gặp nhiều khó khăn về giao thông nông thôn, để làm nhiều hơn nữa, đẹp và chắc hơn nữa những nhịp cầu treo thơ mộng và nhiều tiện lợi trên vùng sông nước này. Ông Tư Liếu nói: “ Chúng tôi mới khảo sát xong chiếc cầu sắp thi công ở huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long, nơi tiếp giáp Đồng Tháp Mười. Chiếc cầu này đang chờ nguồn tài trợ của Hội từ thiện Diệu Liên trên thành phố Hồ Chí Minh. Xong chiếc cầu ở Thới Bình, Cà Mau, chúng tôi sẽ khởi công xây dựng cây cầu này”. Rồi quay vào nhà trong, ông Tư Liếu lớn tiếng gọi: - Mang trà đá lạnh ra, tụi bây! Một cô gái còn khá trẻ bưng trà đá ra mời khách. Ông Tư Liếu giới thiệu: - Đây là vợ thàng Ba Giang, con dâu của tui. Chồng nó đang túi bụi với công trình cầu Trí Phải. Có người nối nghiệp rồi, tui thấy yên lòng lắm. Nhìn gương mặt rạng ngời của ông Tư Liếu, tôi thấy ở tuổi ngoài lục tuần mà ông còn sung sức lắm./.

101

Page 102: Sống tận cùng với đất

MỘT NGÀY Ở KHU BẢO TỒN SINH THÁI ĐỒNG THÁP MƯỜI.

Lê Hồng Lâm

Khu Bảo tồn sinh thái Đồng Tháp Mười (KBTSTĐTM) thuộc xã Thạnh

Tân ( huyện Tân Phước), cách thị trấn Mỹ Phước khoảng 15km, nhưng ở đây có

một không gian hoàn toàn khác hẳn. KBTSTĐTM vẻ đẹp nguyên sơ của rừng

tràm, rừng bạch đàn và các loài sinh vật nguyên thủy. Một tiềm năng du lịch chưa

được khai thác.

Đây không phải là lần đầu tiên tôi đến Thạnh Tân, nơi KBTSTĐTM tọa

lạc. Quả thật do máu mê chốn thâm sơn cùng cốc của thiên nhiên có từ trong tiền

kiếp đã khiến tôi tìm đến đây từ năm 1985, lúc mà người dân Tiền Giang chỉ biết

Nông trường Quốc doanh Trương Văn Sanh, chưa có gì đề cập đến địa chỉ du

lịch này.

Năm 1998, ở đó vẫn hiện hữu một Nông trường Quốc doanh ăn nên làm ra,

từ nông trường Trương Văn Sanh rồi chuyển sang nông trường Ấp Bắc 2, một

khu rừng phèn chua đặc oánh với hàng chục ngàn con chim cò và thú hoang như:

cò, còng cọc, le le, dơi, chồn, trăn, rắn, rùa… cùng nhau quần tụ cư trú. Cảnh

quan và môi trường sẽ vô cùng thích hợp với những người có chất lãng mạn thi

ca, ở đó sẽ cũng rất nên thơ cho những đôi lứa yêu nhau… Rất tiếc, tôi không có

được mối tình ở Thạnh Tân - KBTSTĐTM. Tuổi trẻ yêu đương đã được chồng

chất vầ trôi theo những năm tháng chiến tranh, những năm bao cấp thiếu thốn,

khi tàn cuộc chiến…để đến khi “khám phá” một Thạnh Tân thì mình đã trở thành

kẻ tri thiên mệnh.

Có lẽ, một ngày ngắn ngủi trong cái tỉnh mịch nguyên sơ, được làm bạn

với cỏ cây, chim chóc trong rừng tràm tưởng cũng đã đủ để mình gội rửa được

bao nhiêu trăn trở, cơm áo, bạc tiền, phiền muộn trước bao lẻ đời biến dịch của

thời đại thế giới ảo xen lẫn thế giới thật…

Ở đây, những con kinh bắt nguồn từ kinh Nguyễn Văn Tiếp cặp tỉnh lộ 867

qua kinh Trương Văn Sanh và được người dân đào công phu nối từ kinh Bắc

Đông dẫn vào KBTSTĐTM nhằm tạo thêm nguồn thực phẩm tại chỗ, đồng thời

102

Page 103: Sống tận cùng với đất

đề phòng chống hỏa hoạn bảo vệ rừng, bảo vệ chim, đủ cho thấy tấm long của

ngườ dân Thạnh Tân như thế nào trước viên ngọc quý mà thiên nhiên đã trao

tặng họ.

Chúng tôi là những đoàn khách hiếm hoi đến đây, nhưng cũng khá may

mắn được ngao du trên những chiếc xuồng nhỏ len lỏi trong rừng qua những con

mương đào này. Rất tiếc, cho đến nay KBTSTĐTM chỉ có hai chiếc xuồng nhỏ,

chưa kịp trang bị thêm để đáp ứng cho du khách dễ dàng thoả mãn lòng yêu thích

thiên nhiên lãng mạn của mình.

Mặc dù thành lập từ năm 1999, nhưng được biết gần hai, ba năm trở lại

đây, nghĩa là chỉ ngần ấy thời gian khi lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo huyện Tân Phước

và Sở Nông Nghiệp phát triển nông thôn ngồi lại với nhau để đi đến một quyết

định chung nhất về qui hoạch và phân khu chức năng chi tiết, đầu tư cho

KBTSTĐTM này trở thành tuyến du lịch của tỉnh. Với mục đích mở rộng

KBTSTĐTM này trở thành tuyến du lịch chung của tỉnh. Với mục đích mở rộng

diện tích rừng tram, tạo điều kiện tốt nhất để duy trì và phát triển hệ động vật

phong phú, cũng là đem lại sự thoả mãn, sự hồi phục tinh thần và sức khoẻ cho

du khách trước khi trả họ về với sinh hoạt đời thường vốn ngày càng nhộn nhịp,

tất bật hôm nay.

Toàn KBTSTĐTM hiện hữu 100 hécta đất, trong đó có 40 hécta đất rừng

nguyên sinh, 46 hécta mặt nước, 20 hécta đường giao thông nội bộ và các diện

tích khác. Kỹ sư Nguyễn Văn Thảo – giám đốc khu Bảo tồn tiếp chúng tôi vui vẻ

cho biết: “Hiện khu bảo tồn có hơn 10 ngàn con chim thú với hơn 60 chủng loại

và hơn 80 sinh vật nguyên thủy – Trung bình mỗi năm tại khu vực này có thêm

khoảng hơn một ngàn con thú do sinh nở và từ các nơi khác đến, trong đó phần

lớn là loài cò, cồng cọc, vạt, cúm núm”

- Sao tràm của mình nhỏ quá và sơ xát hết ? Tôi hỏi :

Có vẻ lo âu, anh Nguyên Văn Thảo – giám đốc, chỉ tay về khu rừng tràm

nói :

- Trước khi trở về với khu bảo tồn này người dân ở đây khai thác hết rồi

mới bán lại cho khu Bảo tồn cho nên, chỉ còn là tràm tái sinh, anh thấy đấy ở

Khu tràm phía Bắc đàn cò, cồng cộc quần xát hết không có chỗ làm tổ đẻ, chúng

tập trung chuyển về khu rừng tràm phía nam làm tổ, nếu tình trạng rừng tràm

103

Page 104: Sống tận cùng với đất

không bảo vệ và phát triển được có thể các loài cò, cồng cộc sẽ đi nơi khác… tụi

tôi vỏn vẹn chỉ có 10 nhân viên lo bảo vệ là chính, đâu có làm gì khác nổi!

Công việc ở KBTSTĐTM - Thạnh Tân hôm nay vân còn đang tiếp tục

xúc tiến. Thời gian quả có hơi lâu, nhưng trước bước chuyển tế nhị như trong

lĩnh vực du lịch thật tình mà nhận xét, bởi vì nó còn đòi hỏi nhiều ở các điều

kiện khách quan chính muồi và vô cùng quan trọng khác. Đúng vậy, có lần tại

buổi họp tổ báo chí Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh ông Lê Văn Hưởng – Giám đốc Sở

Thương Mại du lịch (cũ) có nói lướt qua về khu bảo tồn sinh thái Đồng Tháp: “

Khu bảo tồn sinh thái Đồng Tháp Mười, du lịch chưa có thể nhúng tay vào, chỉ

có sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn mới bắt đầu làm du lịch…”. Tuy

nhiên, trong báo cáo tổng hợp qui hoạch tổng thể phát triển du lịch Tiền Giang

thời kỳ 2001- 2010 có nêu trong dự án xây dựng KBTSTĐTM là một trong sáu

dự án trong tỉnh (2001- 2005) sẽ trở thành nơi du lịch sinh thái hấp dẫn cho du

khách. Nhưng, nếu thiếu sự đồng bộ như nói phần trên mà đầu tư xây dựng vào

khu bảo tồn thì tiền tỷ sẽ mất như chơi.

Vậy thì, có nên chăng trước hết cần có sự giới thiệu rộng rãi của khu bảo

tồn sinh thái Đồng Tháp về chính mình với tất cả những người dân Tiền Giang,

vì không phải ở Tiền Giang ai cũng biết đến khu bảo tồn Đồng Tháp. Du khách

ngoài tỉnh, TP Hồ Chí Minh và nước ngoài trước mắt chưa có thể đến để “nuôi

sống” khu bảo tồn sinh thái này, nhưng khu bảo tồn Đồng Tháp sẽ tự nuôi sống

mình bằng chính những người dân ở Tiền Giang.

Nói đến tự giới thiệu về mình của Thạnh Tân – KBTSTĐTM cũng phải là

vấn đề cần cân nhắc và không phải muốn là được. Tuy không nói ra, nhưng có lẽ

ai cũng thấy khoảng cách từ Long Định (QL IA) theo tỉnh lộ 867 đến thị trấn Mỹ

Phước 11km thì có tuyến xe đò, đường nhựa boong boong, nhưng từ thị trấn Mỹ

Phước vào đến Thạnh Tân KBTSTĐTM chỉ có khoảng gần 15 km tưởng chừng

như rất xa!… Trắc trở chính bây giờ có lẽ là đường xá, còn nếu đi tuyến đường

QL I qua Phú Mỹ theo tỉnh lộ 865 cập kinh Nguyễn Văn Tiếp đến Thạnh Tân –

khu bảo tồn Đồng Tháp khoảng hơn 30 km thì càng tệ hơn… Ước gì Thạnh Tân

– khu bảo tồn sinh thái Đồng Tháp có tuyến xe khách vài chiếc 15 chỗ ngồi về

Mỹ Tho, Châu Thành, Cai Lậy, Gò Công… Trước mắt mỗi tuần khoảng hai

chuyến vào ngày nghỉ, việc này các chủ xe Mỹ Tho, Châu Thành có thể cùng với

104

Page 105: Sống tận cùng với đất

ngành du lịch Tiền Giang thực hiện được còn chỉ để Sở Nông nghiệp phát triển

nông thôn làm du lịch. Ngành văn hoá du lịch chưa nhúng tay vào thì còn lâu

mới làm được !

Những điều nói trên là những vấn đề gợi mở phương cách khả thi để khu

bảo tồn Đồng Tháp - Thạnh Tân tự giới thiệu về mình với người dân Tiền Giang

trước khi chờ… Chờ các con đường về KBTSTĐTM được xây dựng sửa sang, vì

đi thì bao giờ cũng tích cực hơn chờ. Lịch sử những con đường thường được bắt

đầu bằng từ lối mòn do muôn thú đi, sau đó đến ngưòi, rồi thì xe cộ… Biết đâu,

những chuyến xe ngược xuôi về khu bảo tồn sinh thái Đồng Tháp - Thạnh Tân

sẽ tạo thêm chất kích thích để sớm phát triển ?

Tháng sáu, mùa mưa bắt đầu nặng hạt, sen bắt đầu nở, tiết trời bắt đầu

lành lạnh. Nước phèn trong veo nhìn thấu tận đáy kinh, từng đàn cá rô tung tăng

nhảy múa như sắp đón lũ về. Về KBTSTĐTM - Thạnh Tân lần này những hàng

tràm bông trắng xoá đã reo vui chào đón. Rừng tràm ở đây vừa tái sinh bén rễ

mà nay đã lớn cao như những cô gái dậy thì. Chúng tôi hăng hái lao vào lồng

chảo khu rừng tràm bảo tồn không kém phần dí dỏm – leo trên cây tràm vừa

chụp ảnh vừa chọc ghẹo mấy chú cò non còn nằm trong tổ, làm cho con cò mẹ

cò cha sợ mấy con bay lượn trắng cò bầu trời kêu “khò - khò” khàng cả giọng.

Nhiều anh phải bỏ chạy ra khỏi khu vực ấy… không phải sợ cò mổ mà bị loài

kiến vàng tấn công dữ dội. Một anh bạn nhiếp ảnh cùng đi nói vui: “Đúng loài

cò khôn thật…làm tổ đẻ mà cũng có kiến vàng bảo vệ”. Sau hơn một buổi dành

cho công tác nghiên cứu, chụp ảnh, thưỏng ngoạn…ai cũng mệt lả người. Tuy

mệt,nhưng không ai muốn rời nơi này nửa bước, nhìn về phía rừng tràm xanh

mướt bạt ngàn, khát vọng, lòng người bồn chồn như chờ đợi một điều gì đó sẽ

bất chợt về…

Tôi biết Thạnh Tân trước kia, nơi tọa lạc KBTSTĐTM bây giờ. Trong

những ngôi nhà lá xiêu vẹo, sống chung với lũ, nhiều người nợ nần, phải cầm cố

ruộng đất rồi thuê chính trên đất của mình, trẻ em thất học vì trường quá xa nhà

và cũng không có tiền đến lớp. Thanh niên trai tráng bỏ đi tứ xứ làm thuê…

Dưới ánh rừng tịch mịch Đồng Tháp, cuộc sống không hề bình lặng. Vậy mà

KBTSTĐTM - Thạnh Tân đã chuyển mình lớn lên so với vài năm trước đây.

105

Page 106: Sống tận cùng với đất

Mừng về những hạng mục trong đề án qui hoạch phát triển của Sở Nông

Nghiệp và Phát triển nông thôn đã và đang được thực hiện bao nhiêu, thì cũng

mừng cho những ai đó có khuynh hướng tích cực trong việc xây dựng phát triển

khu bảo tồn Đồng Tháp - Thạnh Tân đã không được phép hiện diện, chỉ ít là cho

đến giờ phút này. Ai cho rằng cây cối ở tại đây không thể biến thành những ngôi

nhà sang trọng, xinh xắn ? Và chính những cây tràm, cây lát, các loại động vật,

thiên nhiên ở đây tự thân nó tồn tại cũng đủ sức hấp dẫn du khách đó đây…

Không khuây được cảm xúc, buổi chiều hôm đó chúng tôi rời

KBTSTĐTM ra đến ngã tư kinh Bắc Đông bên cạnh trụ sở uỷ ban nhân dân xã

Thạnh Tân, tạc vào quán nước ven đường. Chị Hoa chủ quán nói nhỏ tôi:

Các anh về đây chụp ảnh để xây dựng KBTSTĐTM này trở thành điểm du

lịch phải không ?

Tôi cười và chị Hoa cũng cười… không nói gì. Nhưng trong ánh mắt của

chị vẫn óng ánh niềm vui… Niềm vui có lẻ trong tương lai nơi đây, vùng đất

nguyên sơ sẽ sớm trở thành điểm du lịch hấp dẫn của vùng quê hẻo lánh này…

Và tôi cũng tin vậy… Nhưng có điều nên nhớ, du lịch phải dựa vào dân, dựa

vào cộng đồng là những điều không thể thiếu được. Có thể nói, cộng đồng dân

cư ở những điểm đến. Không chỉ là chủ thể sáng tạo nên sản phẩm du lịch mà

còn bằng ý thức của mình, đã giữ gìn, bảo tồn các giá trị tự nhiên và nhân văn

được khai thác phục vụ du lịch…

106

Page 107: Sống tận cùng với đất

Chịu trách nhiệm bản thảo

Nguyễn Đạo Toàn

Chịu trách nhiệm xuất bản

Phạm Việt Long

Biên Tập

Bùi Thị Hương

Tô Ngọc Nhuần

Lê Hồng Phúc

Vi Tính - Sửa bản in

………………….

Nguyễn Tất Hào

Hoàng Bích Ngọc

In 3.000 cuốn tại nhà in…

Nộp lưu chiểu…………

107