sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ...

36
Câu 1: Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. 1. Sở hữu tư liệu sản xuất trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. - Sở hữu là một phạm trù kinh tế biểu hiện các quan hệ giã người với người đối với việc chiếm hữu của cải vật chất, trước hết là đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu. Sở hữu tư liệu sản xuất quy định mục đích của sản xuất, hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh, phương thức quản lý, phân phối sản phẩm và cơ chế điều tiết chúng. Mỗi phương thức sản xuất có một hình thức sở hữu tư liệu sản xuất đặc trưng - Trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam có 3 loại hình sở huu cơ bản: + Sở hữu toàn dân. + Sở hữu tập thể. + Sở hữu tư nhân. Mỗi loại hình sở hữu lại có nhiều hình thức sở hữu ở nhiều mức độ chín muồi khác nhau. Các hình thức sở hữu TLSX tồn tại khách quan, lâu dài, đan xen nhau, từ đó mà hình thành nhiều thành phần kinh tê, nhiều tổ chức liên doanh, liên kết. Trong các hình htức sở hữu nói trên thì sở hữu

Upload: hien-phan

Post on 28-Jul-2015

3.142 views

Category:

Documents


6 download

TRANSCRIPT

Page 1: Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

Câu 1: Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời

kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.

1. Sở hữu tư liệu sản xuất trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.

- Sở hữu là một phạm trù kinh tế biểu hiện các quan hệ giã người với

người đối với việc chiếm hữu của cải vật chất, trước hết là đối với những

tư liệu sản xuất chủ yếu. Sở hữu tư liệu sản xuất quy định mục đích của

sản xuất, hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh, phương thức quản lý,

phân phối sản phẩm và cơ chế điều tiết chúng. Mỗi phương thức sản xuất

có một hình thức sở hữu tư liệu sản xuất đặc trưng

- Trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam có 3 loại hình sở huu cơ bản:

+ Sở hữu toàn dân.

+ Sở hữu tập thể.

+ Sở hữu tư nhân.

Mỗi loại hình sở hữu lại có nhiều hình thức sở hữu ở nhiều mức độ chín

muồi khác nhau. Các hình thức sở hữu TLSX tồn tại khách quan, lâu dài,

đan xen nhau, từ đó mà hình thành nhiều thành phần kinh tê, nhiều tổ

chức liên doanh, liên kết. Trong các hình htức sở hữu nói trên thì sở hữu

công hữu những TLSX chủ yếu là nền tảng, là đặc trưng của CNXH.

2. Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

ở Việt Nam:

a. Tính tất yếu khách quan và vai trò của nền kinh tế nhiều thành phần:

- Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập mà có liên hệ chặt chx với

nhau, tác động lẫn nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất bao gồm

nhiều thành phần kinh tế. Chúng cùng tồn tại và phát triển như một tổng

thể, giữa chúng có quan hệ vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau

Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần làđặc trưng trong thời kỳ quá độ

lên CNXH là tất yếu khách quan. Bới vì:

+ Một số thành phần kinh tế của phương thức sản xuất cũ như: kinh tế cá

thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân... để lại chúng đang còn có tác dụng

Page 2: Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

đối với sự phát triển LLSX.

+ Một số thành phần kinh tế mới hình thành trong quá trình cải tạo và xây

dựng quan hệ sản xuất mới như: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế

tư bản Nhà nước. Các thành phần kinh tế cũ và các thành phần kinh tế

mới tồn tại khác quan, có quan hệ với nhau cấu thành cơ cấu kinh tế,

trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.

Sự tồn tại nền nhiều thành phần kinh tế là một hiện tượng khách quan cho

nên chúng đều có tác dụng tích cực đói với sự phát triển của LLSX.

Những thành phần kinh tế đặc trưng cho PTSX cũ chỉ mất đi khi không

còn tác dụng đối với sự phát triển LLSX. 

Nguyên nhân cơ bản của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong

thời kỳ quá lên CNXH, suy cho dến cùng là do quy luật QHSX phải phù

hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX quy định. Thời kỳ quá

độ ở nước ta do trình độ LLSX còn thấp, lại phân bố không đều giữa các

ngành, vùng, nên tất yếu còn tồn tại nhiều loại hình, hình thức sở hữu,

nhiều thành phần kinh tế.

- Vai trò của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần:

Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần không chỉ là tất yếu khách quan,

mà còn là động lực thúc đẩy, kích thích sự phát triển LLSX xã hội. Bởi

vì:

- Một là: Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, tức là tồn tại nhiều hình

thức tổ chức kinh tế, nhiều phương thức quản lý phù hợp với trình độ

khác nhau của LLSX. Vì vì vậy nó có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất

lao động, tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành

phần kinh tế và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

- Hai là: Nền kinh tế nhiều thành phần làm phong phú và đa dạng các chủ

thể kinh tế, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá, toạ tiền đề để đẩy

mạnh cạnh tranh, khắc phục tình trnạg độc quyền. Điều đó góp phần vào

việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong

Page 3: Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và

bền vững, cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân…

- Ba là: Tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ,

trong đó có hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Đó là những " cầu nối", "

trạm trung gian" cần thiết để đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên CNXH bỏ

qua chế dộ TBCN.

- Bốn là: Phát triên mạnh cá thành phần kinh tế à cùng với nó là các hình

thức sản xuất kinh doanh là một nội dung co bản của việc hoàn thiện thể

chế kinh tế thị trường định hướng XHCN nước ta.

- Năm là: Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế đáp ứng được nhiều lợi ích

kinh tế cảu các giai cấp tầng lớp xã hội, có tác dụng khai thác, sử dụng có

hiệu quả các nguồn lực, các tiềm năng của đất nước: như sức lao động,

vốn, tài nguyên thiên nhiên, kinh nghiệm quản lý… Đồng thời cho phép

khai thác kinh nghiệm tổ chức quản lý và khoa học, công nghệ mới trên

thế giới

b. Cơ cấu các thành phân kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH:

- Trên cơ sở nguyên lý ba thành phần kinh tế chủ yếu mà Lênin đã chỉ ra

trong thời kỳ quá độ: kinh tế XHCN, kinh tế cuả những người sản xuất

hàng hóa nhỏ, kinh tế tư bản tư nhân tùy hoàn cảnh cụ thể mà xác định cơ

cấu thành phần cho phù hợp.

- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng ta đã xác định có 5 thành

phần:

+ Kinh tế Nhà nước

+ Kinh tế tập thể

+ Kinh tế tư nhân ( cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân)

+ Kinh tế tư bản Nhà nước

+ Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

Nội dung, vai trò của các thành phần kinh tế như sau 

Page 4: Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

* Kinh tế Nhà nước

Kinh tế Nhà nước dựa trên chế độ ở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất.

Kinh tế Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các tài nguyên

quốc gia và tài sản thuộc sở hữu nhà nước...

Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Vai trò

được thể hiện:

Một là: Các doanh nghiệp Nhà nước giữ những vị trí then chốt ở những

ngành, những lĩnh vực kinh tế và địa bàn quan trọng. Đi đầu ứng dụng

tiến bộ khoa học công nghệ,nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu

quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật.

Hai là: Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để

nhà nước thực hiện chức năng điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế, đồng

thời nó hỗ trợ va lôi cuốn các thành phân kinh tế khác cùng phát triển

theo đinh hướng XHCN.

Ba là: Kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền

tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

* Kinh tế tập thể:

Kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng mà nòng cốt là hợp tác xã,

dựa trên hình thức sở hữu tập thể và sở hữu của các thành viên. Hợp tác

xã được hình thành trên cơ sở đóng góp cổ phần và tham gia lao động

trực tiếp của xã viên. Phân phối theo kết quả lao động,theo vốn góp, mức

độ tham gia dịch vụ. Tổ chức và họat động của HTX theo nguyên tắc: tự

nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Nhà nước giúp đỡ

HTX đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học công nghệ, mở rộng thị trường...

* Kinh tế tư nhân: Là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân

về tư liệu sản xuất. Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của

nền kinh tế quốc dân. 

Thành phần kinh tế tư nhân bao gồm:

Page 5: Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

- Kinh tế cá thể tiểu chủ:

- Kinh tế tư bản tư nhân:

Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ

nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Trong thời kỳ quá

độ ở nước ta thành phần này còn có vai trò đáng kể để phát triển lực

lượng sản xuất. Vì vậy nhà nước khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân

phát triển rộng rãi trong các ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp

luật không cấm. Đồng thời tạo môi trường pháp lý thuận lợi để nó hoạt

động có hiệu quả.

* Kinh tế tư bản nhà nước:

Kinh tế tư bản nhà nước dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp về vốn giữa

kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước dưới

hình thức hợp tác liên doanh. Thành phần kinh tê này có vai trò đáng kể

trong giải quyết việc làm và tăng trưởng kinh tế. Sự tồn tại thành phần

kinh tế này là rất cần thiết, cần phát triển mạnh mẽ nó trong thời kỳ quá

độ ở nước ta.

* Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

c. Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế và định hướng XHCN của

nền kinh tế nhiều thành phần.

- Mối quan hệ: Các thành phần kinh tế không tồn tại độc lập mà đan xen

vào nhau, tác động qua lại với nhau, mỗi thành phần kinh tế dựa trên một

hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất và biểu hiện lợi ích của

một giai cấp, tầng lớp xã hôi nhất định. Vì vậy, các thành phần kinh tế

vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau:

+ Tính thống nhất:

Mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận của nền kinh tế nằm trong hệ

thống phân công xã hội có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau. Các thành

phần kinh tế đều hoạt động trong một môi trường thống nhất (các chính

sách, pháp luật và sự quản lý vĩ mô của nhà nước...) đều là nội lực của

Page 6: Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Sự thống nhất không phải tự nhiên mà có mà phải trải qua hợp tác và đấu

tranh, đấu tranh để hợp tác tốt hơn.

+ Mâu thuẫn: Các thành phần kinh tế mang bản chất kinh tế và quan hệ

kinh tế khác nhau biểu hiện lợi ích kinh tế khác nhau, xu hướng vận động

khác nhau. Hơn nữa trong bản thân mỗi thành phần kinh tế cũng lại có

những mâu thuẫn (do sự vi phạm hợp đồng, lợi ích cục bộ, vi phạm bản

quyền...) Những mâu thuẫn của nền kinh tế nhiều thành phần chỉ được

giải quyết dần dần trong quá trình xã hội hhóa sản xuất theo định hướng

XHCN. 

- Định hướng XHCN nền kinh tế nhiều thành phần:

Để định hướng XHCN nền kinh tế nhiều thành phần cần phải:

+ Làm cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và nó cùng với kinh tế

tập thể dần dần trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế.

+ Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế khai thác tối

đa các nguôn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả

kinh tế xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.

+ Thực hiện nhiều hình thức phân phối lấy phân phối theo lao động và

hiệu quả kinh tế là chủ yếu; thừa nhận thuê mướn lao động nhưng không

để nó trở thành quan hệ thống trị.

+ Tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của nhà nước; phát huy mặt tích

cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; khuyến khích làm giàu

hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo, không để chênh lệch quá lớn về

mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cư; kết

hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội trong từng

bước phát triển.

Chính sách đối với phát triển các thành phần kinh tế là một bộ phận trong

chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Từ chỗ

không thừa nhận kinh tế tư nhân đến chỗ thừa nhận nó; từ chỗ thừa nhận

Page 7: Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

kinh doanh nhỏ ở một số ngành nghề, đến chỗ không hạn chế về quy mô

và lĩnh vực mà luật pháp không cấm. Từ chỗ cho làm, đến chỗ được làm,

mỗi lần thay đổi tư duy như vậy là một lần nhận thức của chúng ta được

mở rộng, sâu thêm và kinh tế tư nhân cùng các thành phần kinh tế phát

triển. Những biến đổi như vậy đã thúc đẩy các thành phần kinh tế đóng

góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm tạo cơ hội

cho những chủ thể kinh tế, các doanh nhân mới năng động, sáng tạo, dám

nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm với mình và với đất nước.

Từ Đại hội VI đến nay, Đảng ta luôn luôn khẳng định thực hiện nhất quán

nền kinh tế nhiều thành phần với ý nghĩa nêu trên và được coi như một

giải pháp chiến lược góp phần giải phóng và khai thác mọi tiềm năng để

phát triển lực lượng sản xuất. Nghị quyết Trung ương 6, khóaVI, chỉ

rõ: "Trong điều kiện nước ta, các hình thức kinh tế tư nhân, cá thể, tiểu

chủ, tư bản tư nhân vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong cơ

cấu nền kinh tế hàng hóa đi lên chủ nghĩa xã hội". Đại hội VIII của Đảng

nêu 5 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư

bản nhà nước, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Đại hội IX

của Đảng xác định, ở nước ta hiện nay, cần phát triển 6 thành phần kinh

tế, tức là ngoài 5 thành phần kinh tế nêu trên, có thêm thành phần kinh tế

có vốn đầu tư nước ngoài và nhấn mạnh các thành phần kinh tế đó đều là

bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh,

trong đó kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành

nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Có thể nói đây là quá trình

đổi mới tư duy kinh tế của Đảng có tầm quan trọng đặc biệt, nó tạo điều

kiện cho mọi cá nhân, đơn vị, tập thể khai thác phát huy mọi tiềm năng,

nội lực, tạo ra một tổng hợp lực thật sự cho việc phát triển nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Page 8: Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc xác định

và phát triển các loại hình sở hữu, phân định các thành phần kinh tế là cần

thiết, hợp quy luật làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách phát triển

kinh tế nói chung và tạo điều kiện cho từng thành phần kinh tế nói riêng

phát triển, phát huy được mọi nguồn sức mạnh, giải phóng mọi năng lực

sản xuất, hỗ trợ thúc đẩy, cạnh tranh lẫn nhau làm cho nền kinh tế của đất

nước thực sự năng động phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Những thành phần kinh tế này có diện mạo riêng nhưng đều nằm trong sự

thống nhất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lâu

dài, vừa hợp tác vừa cạnh tranh lành mạnh góp phần phát triển vững

mạnh nền kinh tế nước ta trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa,

hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.

Câu 2: .Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị

trường định hướng XHCN

Đảng ta chủ trương phát triển và nâng cao hiệu quả của các thành phần

kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó kinh tế

nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể

dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.Tính chất nhiều

thành phần kinh tế là nét đặc trưng có tính quy luật của nền kinh tế quá

độ lên CNXH ở nước ta. Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ

luôn luôn vận động, phát triển trong mối quan hệ, tác động qua lại, đan

xen trong cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, trên cơ sở vừa hợp tác, bổ

sung cho nhau, vừa cạnh tranh với nhau trong nền kinh tế thị trường định

hướng XHCN và bình đẳng trước pháp luật. 

Trong quá trình vận động, phát triển các thành phần kinh tế phải được cải

biến dựa vào những tiền đề khách quan:Thứ nhất, xuất phát từ trình độ

phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và yêu cầu xã hội hoá sản xuất

trên thực tế.Thứ hai, xuất phát từ đặc điểm, tính chất của từng ngành nghề

mà xác định tỷ trọng, quy mô, cơ cấu các thành phần kinh tế cho phù

Page 9: Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

hợp.Thứ ba, xuất phát từ khả năng tổ chức và quản lý kinh tế của Nhà

nước XHCN và đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế. 

Vấn đề không phải là xoá bỏ hay ưu tiên thành phần kinh tế này hay

thành phần kinh tế khác, mà điều quan trọng là phải nắm vững bản chất

của từng thành phần và sử dụng chúng đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Mỗi

thành phần kinh tế có bản chất và những quy luật kinh tế hoạt động riêng,

dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất, và có khả

năng tái sản xuất một cách tương đối độc lập lực lượng sản xuất và quan

hệ sản xuất tương ứng. Khả năng tái sản xuất là điều kiện tồn tại và vận

động của mỗi thành phần kinh tế. Chính xu hướng mở rộng hay thu hẹp

khả năng tái sản xuất chỉ rõ vai trò và triển vọng của mỗi thành phần kinh

tế trong nền sản xuất xã hội. 

Tuy nhiên, các thành phần kinh tế không tồn tại một cách biệt lập, mà có

mối quan hệ và tác động qua lại, đan xen. Để đảm bảo nền kinh tế phát

triển theo định hướng XHCN, trong quá trình vận động vừa hợp tác, vừa

cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác, thành phần kinh tế nhà nước

phải tự vươn lên, làm sao để cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành

nền tảng cho chế độ XHCN. 

Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các sở hữu nhà

nước như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, của cải, tài sản, tư liệu sản xuất,

vốn, ngân sách nhà nước, lực lượng dự trữ, kể cả một phần vốn của Nhà

nước đưa vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Nghĩa

là, hệ thống kinh tế nhà nước gồm hai bộ phận cấu thành: doanh nghiệp

nhà nước và kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp (đất đai, tài nguyên thiên

nhiên, của cải, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước, các quỹ

quốc gia…). Thành phần kinh tế không chỉ bao hàm giác độ sở hữu mà

còn bao hàm sức mạnh tổ chức, sức mạnh hợp tác của các tổ chức kinh tế

hoạt động dựa trên một chế độ sở hữu nhất định. Thành phần kinh tế nhà

nước không chỉ bao hàm doanh nghiệp nhà nước, mà còn bao hàm sức

Page 10: Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

mạnh kinh tế đứng đằng sau các chính sách và hoạt động quản lý kinh tế

của Nhà nước, bao hàm khả năng tổ chức và hoạch định chính sách đúng

đắn của Nhà nước, bao hàm sự gắn kết hợp lý của hệ thống doanh nghiệp

nhà nước, tài chính nhà nước, luật pháp và hiệu lực quản lý của nhà nước.

Như vậy, thành phần kinh tế nhà nước được hiểu tổng hợp hơn so với

trước đây. Hình thức tổ chức kinh doanh là sự tập hợp tư liệu sản xuất

dưới một hình thái nào đó được pháp luật thừa nhận để trực tiếp tiến hành

sản xuất, kinh doanh. Nói cách khác, đó là các loại hình doanh nghiệp

khác nhau. Một doanh nghiệp có thể dựa trên một hoặc nhiều hình thức

sở hữu, là công cụ trong tay thành phần kinh tế đầu tư vốn vào doanh

nghiệp để phục vụ cho mục tiêu của chủ đầu tư. Thông qua các doanh

nghiệp, thông qua các tổ chức đại diện cho chế độ sở hữu, các thành phần

kinh tế phát huy vai trò của mình trong nền kinh tế.Doanh nghiệp nhà

nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức

quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện

các mục tiêu kinh tế – xã hội do Nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước

có hai loại: loại hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, và loại hoạt

động công ích không vì mục tiêu lợi nhuận. Ngoài ra, còn có loại nằm

giữa hai loại trên như những tổ chức kinh tế đang quản lý, duy tu, bảo

dưỡng cơ sở kinh tế hạ tầng (cầu, đường, sân bay, bến cảng…). 

Loại này có xu hướng chuyển hoá từng phần sang loại trên.Kinh tế nhà

nước cần và có thể giữ vai trò chủ đạo vì những lý do sau đây:

Thứ nhất, kinh tế nhà nước dựa trên chế độ công hữu (sở hữu nhà nước)

về tư liệu sản xuất, là chế độ sở hữu phù hợp với xu hướng xã hội hoá của

lực lượng sản xuất. Ở đây, cần phân biệt hình thức sở hữu và chủ sở hữu.

Nhà nước- đại diện cho toàn dân – là chủ sở hữu công cộng của toàn dân.

Thứ hai, kinh tế nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu, xương

sống của nền kinh tế, do đó nó có khả năng, có điều kiện chi phối hoạt

động của các thành phần kinh tế khác, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển

Page 11: Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

theo hướng đã định.

Thứ ba, kinh tế nhà nước là lực lượng bảo đảm cho sự phát triển ổn định

của nền kinh tế; là lựclượng có khả năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn

giúp đỡ và liên kết, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng

phát triển.

Thứ tư, kinh tế nhà nước có thể tác động tới các thành phần kinh tế khác

không chỉ bằng các công cụ và đòn bẩy kinh tế, mà còn bằng con đường

gián tiếp, thông qua những thiết chế và hoạt động của kiến trúc thượng

tầng xã hội chủ nghĩa.

Thứ năm, kinh tế nhà nước dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa hoc – công

nghệ hiện đại, tiên tiến; do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh, đóng góp

phần lớn cho ngân sách nhà nước, và tự tích tụ để có thể không ngừng tái

sản xuất mở rộng.

Thứ sáu, kinh tế nhà nước là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm

kinh tế, đô thị mới; là lực lượng có khả năng đầu tư vào những lĩnh vực

có vị trí quan trọng sống còn, nhưng đòi hỏi vốn lớn mà thời gian thu hồi

vốn lại chậm…

Đại hội X của Đảng khẳng định lại vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước

trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: “ Kinh tế nhà nước giữ

vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng

và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và thúc đẩy các thành phần kinh

tế khác cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày

càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”(1). 

Đồng thời với khẳng định vai trò to lớn của kinh tế nhà nước, Đại hội

cũng tuyên bố rõ ràng rằng: “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp

luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền KTTT định hướng

XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và

cạnh tranh lành mạnh”(2) Đảng cam kết chỉ đạo Nhà nước thi hành các

chính sách kinh tế không phân biệt đối xử với các hình thức sở hữu. Đây

Page 12: Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

là một bước tiến mới về quan điểm kinh tế nhiều thành phần của Đảng ta.

Hơn nữa, Đảng chủ trương đưa hệ thống doanh nghiệp nhà nước ra hoạt

động trong môi trường công khai, minh bạch và cạnh tranh thực sự, xoá

bỏ độc quyền và đặc quyền sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà

nước, buộc doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động hiệu quả mới được tồn

tại.

Đảng ta đặt kinh tế nhà nước nói chung, doanh nghiệp nhà nước nói riêng

trong môi trường thị trường đồng bộ, cạnh tranh đầy đủ và hội nhập kinh

tế quốc tế. Có nghĩa là kinh tế nhà nước nói chung, doanh nghiệp nhà

nước nói riêng phải thích nghi và buộc phải hoạt động trong môi trường

KTTT đầy đủ, chấp nhận luật chơi của các tổ chức kinh tế quốc tế, chấp

nhận cạnh tranh trong điều kiện bảo hộ của Nhà nước giảm đến mức tối

thiểu: "Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại

thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh. Phát triển thị trường

hàng hoá và dịch vụ. Thu hẹp lĩnh vực nhà nước độc quyền kinh doanh,

xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp… Phát triển vững chắc thị trường tài

chính bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ,

có cơ cấu hoàn chỉnh…Phát triển thị trường bất động sản, bao gồm thị

trường quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với đất… Phát triển

thị trường lao động trong mọi khu vực kinh tế…Phát triển thị trường khoa

học công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn sản

phẩm khoa học công nghệ trở thành hàng hoá"(3) và “Đẩy mạnh hoạt

động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế

kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ đất nước làm mục

tiêu cao nhất”(4). Quan điểm chỉ đạo kiên quyết này đặt ra cho quản lý

của nhà nước và doanh nghiệp những yêu cầu mới: một là, Nhà nước phải

chủ động thay đổi những phương thức hành động không phù hợp với

KTTT và cam kết quốc tế bằng các phương thức phù hợp và có hiệu quả

hơn.

Page 13: Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

Để làm được như vậy, Nhà nước phải có tiềm lực tài chính lớn, có nghĩa

là vai trò của kinh tế nhà nước không giảm đi, ngược lại có thể tăng lên;

hai là, doanh nghiệp nhà nước phải được cải tổ nhanh và chuyển sang các

hình thức hoạt động hiệu quả để có thể tồn tại và đem lại cho nhà nước

một công cụ định hướng, điều tiết tốt. Để làm được như vậy, Đảng ta chỉ

rõ: “Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp

nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước,

tập trung vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và

dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công ích… Thúc

đẩy hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu vực…”(5); ba

là, bộ máy nhà nước phải thích ứng với vai trò mới theo hướng:- Nhà

nước tập trung làm tốt các chức năng vĩ mô như định hướng bằng các

chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, cơ chế, chính sách có chất lượng trên cơ

sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường; tạo môi trường cho các chủ

thể phát huy tối đa các nguồn lực; hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế

– xã hội; bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối vĩ mô… 

- Nhà nước tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách

và các công cụ kinh tế; 

- Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can

thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp; 

- Tách chức năng quản lý hành chính của Nhà nước ra khỏi chức năng

quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, xoá bỏ “chế độ chủ quản”; 

- Tách hệ thống hành chính ra khỏi hệ thống cơ quan sự nghiệp; 

Tóm lại, quan điểm của Đảng ta về kinh tế nhà nước vừa là sự kế thừa

quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa phát triển lên một mức cao hơn

và giải thích rõ hơn các nội dung liên quan đến kinh tế nhà nước như mối

quan hệ của nó với thành phần kinh tế khác, cấu thành của kinh tế nhà

nước, vai trò và nội dung chủ đạo của kinh tế nhà nước, phương thức hoạt

động của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường hội nhập và quan

Page 14: Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

hệ giữa nhà nước kinh tế và nhà nước chính trị… Những điểm phát triển

này tạo cơ sở lý luận và nhận thức đúng đắn cho các đảng viên, nhất là

các đảng viên giữ vai trò lãnh đạo, quản lý trong thành phần kinh tế nhà

nước. Song, có thể nhận thấy, thực tiễn vận hành kinh tế nhà nước sẽ còn

đặt ra nhiều yêu cầu đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn chỉnh về lý

luận. 

Để thành phần kinh tế nhà nước có thể thực hiện vai trò chủ đạo, chi phối

hoạt động của các thành phần kinh tế khác, cần áp dụng nhiều biện pháp

đồng bộ, trong đó có một số biện pháp chủ yếu sau đây:

Một là, tập trung nguồn lực để phát triển kinh tế nhà nước trong những

ngành, những lĩnh vực trọng yếu; những cơ sở sản xuất thương mại, dịch

vụ quan trọng; một số doanh nghiệp thực hiện những nhiệm vụ có quan

hệ đến quốc phòng, an ninh… Nhà nước chỉ nên nắm một số không nhiều

"những đài chỉ huy" trong nền kinh tế, tức là những vị trí kinh tế then

chốt, yết hầu, thông qua đó mà điều tiết, chi phối, hướng dẫn hoạt động

của các thành phần kinh tế khác, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo

định hướng XHCN.

Hai là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu và sử dụng tư liệu

sản xuất của toàn dân bằng cách lựa chọn các hình thức kinh tế phù hợp.

Ba là, đổi mới, dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học – công nghệ hiện

đại và phát huy ưu thế về kỹ thuật tiến bộ nhất; liên kết, liên doanh với

các thành phần kinh tế khác nhằm nâng cao năng suất lao động, chất

lượng và hiệu quả kinh tế – xã hội.

Bốn là, thực hiện từng bước vững chắc việc cổ phần hoá một bộ phận

doanh nghiệp nhà nước, trong đó cổ phần thuộc sở hữu nhà nước là cổ

phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt. Để được cổ phần chi phối, Nhà nước

phải nắm trên nửa số cổ phần của doanh nghiệp, hoặc cổ phần của Nhà

nước ít nhất cũng phải gấp đôi số cổ phần của cổ đông lớn nhất khác

trong doanh nghiệp. Cổ phần đặc biệt là cổ phần có quyền quyết định một

Page 15: Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

số vấn đề quan trọng của doanh nghiệp theo thoả thuận trong Điều lệ

doanh nghiệp. Để thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp, Nhà nước có thể

bán cổ phần cho cán bộ, công nhân viên chức trong doanh nghiệp; có thể

vừa bán cho lao động trong doanh nghiệp vừa bán cho tổ chức và cá nhân

ngoài doanh nghiệp; cũng có thể giữ nguyên tài sản của Nhà nước, chỉ

phát hành một số cổ phiếu để tăng vốn cho cơ sở sản xuất đã có hay cho

phân xưởng mới thành lập; hoặc cũng có thể gọi cổ phần ngay từ đầu khi

mới thành lập.

Năm là, tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp với

yêu cầu sản xuất – kinh doanh trong điều kiện mới. Phương hướng chủ

yếu hiện nay là thành lập một số tổng công ty, tập đoàn kinh doanh lớn có

uy tín, có tầm vóc quốc gia và quốc tế, tạo thế và lực để phát triển, đủ sức

cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong quan hệ kinh tế với

nước ngoài.Đối với những doanh nghiệp xét thấy không cần thiết hoặc

thua lỗ kéo dài, không có khả năng vươn lên, thì chuyển sang hình thức

sở hữu khác, cho thuê, bán khoán hoặc giải thể. Ở đây, cần chống hai

khuynh hướng sai lầm: hoặc coi nhẹ doanh nghiệp nhà nước, muốn tư

nhân hoá tràn lan; hoặc bảo thủ, muốn duy trì toàn bộ doanh nghiệp nhà

nước, không muốn tổ chức sắp xếp lại cho phù hợp với điều kiện, hoàn

cảnh mới. 

Sáu là, để nâng cao tính hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước

xứng đáng là bộ khung trong hệ thống các doanh nghiệp của toàn bộ nền

kinh tế, cần phải nâng cao tính hạch toán, tính chịu trách nhiệm về kết

quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, của giám đốc và

tập thể người lao động. Để cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả

cần phải đánh giá toàn diện khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Đối với

những trường hợp lợi nhuận cao là do sự độc quyền của doanh nghiệp, do

chính sách kinh tế ưu đãi của Nhà nước, thì dứt khoát phải có sự điều tiết

thích hợp.Nhìn một cách tổng quát, bảo toàn vốn và có lãi là nguyên tắc

Page 16: Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

quan trọng nhất và là mục tiêu cơ bản nhất để quản lý doanh nghiệp nhà

nước, tạo cơ sở vững chắc cho Nhà nước thực hiện đúng các định hướng

vĩ mô. Vai trò then chốt của doanh nghiệp nhà nước được thực hiện thông

qua các phương pháp, công cụ kinh tế nhằm bảo đảm sử dụng có hiệu quả

nguồn vốn đầu tư của Nhà nước. Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước

phải phù hợp với các nhiệm vụ phát triển kinh tế của đất nước. Doanh

nghiệp nhà nước là công cụ để Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô.

Lĩnh vực quan trọng mà doanh nghiệp nhà nước phải giữ vai trò nòng cốt

là ổn định thị trường, thực hiện nghiêm túc các mục tiêu chính trị, xã hội

Cau 3: GIẢI PHÁP, CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

TẬP THỂ VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển kinh tế tập thể

Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 02/01/2008 của Ban Bí thư

về tăng cường lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5

(khoá IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập

thể và Kết luận số 23-KL-TW ngày 08/04/2008 của Bộ Chính trị về triển

khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (Khoá X); các Bộ, ngành khẩn

trương triển khai, thực hiện sửa đổi, bổ sung các chính sách phát triển

kinh tế tập thể đồng bộ và khả thi. Cụ thể:

1.1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước

về hợp tác xã trên phạm vi cả nước tập trung triển khai một số nhiệm vụ

chủ yếu sau đây:

a) Chủ trì cùng các Bộ, ngành hoàn chỉnh trình Bộ chính trị Đề án về Bổ

sung, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát

triển kinh tế tập thể, các tổ hợp tác, hợp tác xã, và chủ trì việc tổ chức

triển khai thực hiện Đề án sau khi được Bộ Chính trị phê duyệt.

b) Chủ trì cùng các Bộ, ngành liên quan và địa phương tổng kết việc thi

hành Luật Hợp tác xã năm 2003 và triển khai nghiờn cứu xây dựng Luật

hợp tác xã mới báo cáo Chính phủ vào thỏng 3 năm 2010.

Page 17: Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

c) Chủ trì cùng các Bộ, ngành, địa phương hoàn chỉnh và trỡnh Chớnh

phủ Nghị định mới về chính sách hỗ trợ hợp tác xã, tổ hợp tác, chủ trì

việc tổ chức triển khai Nghị định sau khi được Chính phủ phê duyệt.

d) Chủ trì cùng các Bộ, ngành và địa phương tổng kết việc thực hiện

Quyết định 272/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 31 tháng

10 năm 2005 về việc phê duyệt kế hoạch phát triển kinh tế tập thể 5 năm

(2006-2010) và xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế tập thể 5 năm giai

đoạn 2011-2015 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

e) Chủ trì cùng các Bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện Luật Hợp

tỏc xó mới sau khi được Quốc hội thông qua.

1.2. Các Bộ, ngành liên quan:

Căn cứ chức năng, nhiệm vụ được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao,

tích cực xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách

phát triển kinh tế tập thể thuộc Bộ, ngành mình phụ trách.

2. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về kinh tế tập thể

a) Tiếp tục kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế tập thể phù hợp

với yêu cầu, điều kiện thực tế của các cấp, ngành, địa phương.

b) Các cấp, các ngành, các địa phương trong hoạch định chính sách và

triển khai các chương trình, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã

hội, phát triển vùng, ngành, địa phương phải lồng ghép nội dung, nhiệm

vụ phát triển kinh tế tập thể và cân đối, bố trí các nguồn lực triển khai.

c) Tiếp tục triển khai công tác tuyên truyền quán triệt sâu rộng về vị trí,

vai trò, tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế tập thể theo

tinh thần Nghị quyết số 13/NQ-TW Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX) về

tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể:

- Hướng dẫn các hợp tác xã đổi mới tổ chức, quản lý nhằm phát huy

quyền làm chủ của xã viên, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh; tạo

điều kiện thuận lợi cho các hợp tác xã tiếp cận với các hoạt động khuyến

Page 18: Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

nông, khuyến công, khuyến ngư, xúc tiến thương mại, vốn ứng dụng khoa

học, v.v.

- Vận động xã viên hợp tác xã nâng mức vốn góp và vận động các hợp

tác xã thu hút thêm xã viên, hợp nhất; khuyến khích việc sáp nhập hợp

tác xã cùng ngành nghề và địa bàn hoạt động để tăng tiềm lực tài chính và

mở rộng quy mô hoạt động khi có đủ điều kiện.

- Chỉ đạo tổ chức nghiên cứu học tập các mô hình hợp tác xã, liên hiệp

hợp tác xã ở các tỉnh có phong trào hợp tác xã phát triển.

d) Các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương chỉ đạo tổng kết thi hành Luật hợp tác xã 2003 và tăng cường công

tác hướng dẫn, kiểm tra, giám sát luật hợp tác xã mới sau khi được Quốc

hội thông qua; triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác

xã; thực hiện nghiêm chế độ báo cáo đã quy định.

3. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về kinh tế tập thể

Các địa phương, bộ, ngành, Liên minh hợp tác xã cỏc cấp chủ động huy

động các nguồn viện trợ quốc tế (chính thức hoặc phi Chính phủ), tổng

hợp vào kế hoạch phát triển kinh tế tập thể và kế hoạch phát triển kinh tế-

xã hội chung của Bộ, ngành và địa phương.

4. Thực hiện hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã

4.1. Tiếp tục triển khai Nghị định số 88/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của

Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác

xã và triển khai thực hiện hỗ trợ theo các quy định tại Nghị định số

151/2007/NĐ-CP ngày 10/10/2007 của Chính phủ về tổ chức và hoạt

động của tổ hợp tác

a) Triển khai thực hiện kế hoạch kinh phí hỗ trợ hợp tác xã thành lập mới,

đào tạo bồi dưỡng cán bộ hợp tác xã, tổ hợp tác (sử dụng nguồn kinh phí

sự nghiệp giáo dục - đào tạo ngân sách trung ương bổ sung có mục tiêu

cho ngân sách địa phương):

* Mục tiêu năm 2010

Page 19: Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

+ Về số lượng HTX dự kiến hỗ trợ thành lập mới: 1.200 HTX.

+ Về số lượng THT dự kiến hỗ trợ thành lập mới: 2.000 THT.

+ Về số lượng cán bộ HTX, Tổ trưởng THT dự kiến đào tạo: 8.000

người.

+ Về số lượng cán bộ QL HTX, Tổ trưởng THT dự kiến bồi dưỡng:

32.000 người.

* Tổng kinh phí dự kiến hỗ trợ từ NSTW bổ sung cho các địa phương

Tổng kinh phí hỗ trợ bổ sung có mục tiêu để các địa phương thực hiện

đối với thành lập mới HTX, THT; bồi dưỡng và đào tạo cán bộ HTX, tổ

trưởng THT dự kiến là: 50.871 triệu đồng.

* Tổng kinh phí dự kiến cân đối từ ngân sách địa phương

Tổng kinh phí do các địa phương bố trí để thực hiện thành lập mới HTX,

THT; bồi dưỡng và đào tạo cán bộ HTX, tổ trưởng THT dự kiến

là: 30.298 triệu đồng.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng Bộ Tài chính phối hợp trình Thủ tướng

Chính phủ xem xét quyết định.

b) Triển khai hỗ trợ chương trình quốc gia hỗ trợ xúc tiến thương mại đối

với hợp tác xã: Liên minh hợp tác xã Việt Nam chủ trì phối hợp với Liên

minh hợp tác xã các tỉnh, thành phố, tập trung ưu tiên cho đối tượng hợp

tác xã.

c) Triển khai hỗ trợ hợp tác xã đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đời

sống của cộng đồng xã viên (sử dụng nguồn vốn đầu tư XDCB của địa

phương): Các địa phương chủ động sử dụng nguồn vốn đầu tư XDCB để

triển khai thực hiện hỗ trợ hợp tác xã đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản

xuất, đời sống của cộng đồng xã viên tại địa phương mình.

d) Triển khai thực hiện hỗ trợ chính sách hợp tác xã về: đất đai, thuế, quỹ

hỗ trợ phát triển hợp tác xã, tín dụng, đổi mới, nâng cao trình độ công

nghệ, khuyến nông, khuyến ngư và khuyến công, và tham gia chương

trình phát triển kinh tế xã hội.

Page 20: Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

4.2. Tiếp tục triển khai hỗ trợ các nội dung khác tại Quyết định

272/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 31 tháng 10 năm 2005

về việc phê duyệt kế hoạch phát triển kinh tế tập thể 5 năm (2006-2010)

Các Bộ, ngành, địa phương chủ động sử dụng ngân sách chi thường

xuyên của đơn vị mình hỗ trợ các nội dung sau:

- Hỗ trợ công tác tuyên truyền về hợp tác xã;

- Hỗ trợ xây dựng và tổng kết điển hình hợp tác xã;

- Hỗ trợ bồi dưỡng cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế tập thể.

5. Hỗ trợ cho Liên minh hợp tác xã các cấp

5.1. Hỗ trợ Liên minh hợp tác xã Việt Nam

5.1.1. Hỗ trợ vốn đầu tư XDCB: 78,6 tỷ đồng, trong đó:

a. Dự án chuyển tiếp:

* Dự án: Đầu tư và nâng cấp Trường Trung học Quản lý và Công nghệ:

20 tỷ đồng.

* Dự án: Trường Trung cấp nghề kinh tế kỹ thuật vùng Đồng bằng Bắc

bộ: 47,2 tỷ đồng.

* Dự án: Trường Trung cấp nghề Kinh tế - Kỹ thuật miền Trung, Tây

Nguyên: 10 tỷ đồng.

b. Dự án chuẩn bị đầu tư

* Dự án: Trường dạy nghề và đào tạo cán bộ hợp tác xã Miền Nam: 0,6 tỷ

đồng.

* Dự án: Trường cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật trung ương: 0,8 tỷ đồng.

5.1.2. Hỗ trợ chi thường xuyên: 56,684 tỷ đồng, trong đó:

a. Chi sự nghiệp kinh tế: 8,5 tỷ đồng;

b. Chi sự nghiệp môi trường: 6,55 tỷ đồng;

c. Chi sự nghiệp khoa học, công nghệ: 6,18 tỷ đồng;

d. Chi sự nghiệp giáo dục và đào tạo: 21,52 tỷ đồng;

e. Chi quản lý hành chính: 13,35 tỷ đồng.

Page 21: Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

5.1.3. Hỗ trợ từ nguồn các chương trình mục tiêu quốc gia: 39,15 tỷ,

trong đó:

a. Chương trình xoá đói giảm nghèo và việc làm: 15 tỷ đồng

b. Chương trình giáo dục đào tạo: 19,6 tỷ đồng (bao gồm chương trình

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hợp tác xã: 3 tỷ đồng);

c. Chương trình mục tiêu khác: 6,55 tỷ đồng.

5.1.4. Hỗ trợ từ chương trình xúc tiến thương mại quốc gia: 16,314 tỷ

đồng

5.2. Hỗ trợ Liên minh hợp tác xã cấp tỉnh

 

Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ động bố

trí kinh phí hỗ trợ hoạt động của Liên minh hợp tác xã địa phương, hàng

năm tổng hợp kinh phí (bao gồm cả kinh phí đầu tư xây dựng cơ bản và

kinh phí thường xuyên) báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính.

6. Huy động các tổ chức chính trị- xã hội tham gia phát triển hợp tác xã

Tăng cường hoạt động của Liên minh hợp tác xã các cấp trong việc trợ

giúp và bảo vệ quyền lợi của thành viên, nhất là giúp hợp tác xã tổ chức

và hoạt động theo đúng quy định của Luật hợp tác xã. Các tổ chức, đoàn

thể chính trị - xã hội, hiệp hội có liên quan tăng cường vận động thành

viên, hội viên tham gia hợp tác xã, hỗ trợ chuyển giao khoa học- kỹ thuật,

kinh nghiệm tổ chức sản xuất- kinh doanh và quản lý./.