sỬ dỤng mẠng xà hỘi facebook cỦa sinh viľn: nhŅn …
TRANSCRIPT
Xã hội học, số 4 (136), 2016 91
BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn
SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI FACEBOOK CỦA SINH VIÊN:
NHÌN TỪ KẾT QUẢ KHẢO SÁT ĐỊNH TÍNH
TẠI MỘT TRƢỜNG ĐẠI HỌC Ở HÀ NỘI
NGÔ THỊ CHÂM*
Tóm tắt: Tính phổ biến và tiện lợi trong việc kết nối xã hội, tìm kiếm và chia sẻ
thông tin đã đưa Facebook trở thành trang mạng xã hội được nhiều người ưa chuộng sử
dụng. Những người trẻ tuổi, đặc biệt là sinh viên đang có xu hướng dành nhiều thời gian
cho việc tham gia mạng xã hội Facebook, mà bản thân họ không tự đánh giá được mức
độ sử dụng cũng như ảnh hưởng của Facebook đến công việc và học tập, đến sức khỏe
thể chất và tinh thần. Dựa vào nguồn dữ liệu thực nghiệm của đề tài “Sử dụng Mạng xã
hội Facebook của sinh viên Hà Nội hiện nay”, khảo sát tại Khoa Công tác xã hội, trường
Đại học Lao động - Xã hội, bài viết tập trung nhận diện thực trạng sử dụng mạng xã hội
Facebook của sinh viên trên cơ sở so sánh, đối chiếu với kết quả của những công trình
nghiên cứu đi trước, đồng thời chỉ ra một số điểm khác biệt về giới có liên quan đến đề
tài mà các nghiên cứu trước chưa đi sâu làm rõ.
Từ khóa: mạng xã hội, facebook, sinh viên.
1. Dẫn nhập
Trong những năm gần đây, Facebook nói riêng và mạng xã hội nói chung đang phát
triển mạnh và thu hút số lƣợng lớn ngƣời sử dụng, chủ yếu là thanh thiếu niên và sinh
viên. Chúng ta không thể phủ nhận vai trò của mạng xã hội trong đời sống của giới trẻ và
những giá trị mà mạng xã hội đem đến. Nó đã và đang có những tác động mạnh mẽ vào
nhận thức, lối sống và văn hóa của thế hệ thanh niên. Song song với đó là nhiều băn
khoăn trƣớc những mặt trái của mạng xã hội trong bối cảnh thông tin đa chiều. Do đó, sử
dụng mạng xã hội Facebook của thanh niên nói chung, sinh viên nói riêng là vấn đề cần
đƣợc quan tâm nghiên cứu, nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi Facebook đƣợc xem là
cuộc sống thứ hai của rất nhiều ngƣời, trong đó có một bộ phận không nhỏ sinh viên Việt
Nam (Hoàng Anh, 2014).
Nguồn dữ liệu của bài viết trích từ kết quả khảo sát định tính chọn mẫu 16 sinh
viên (8 sinh viên nam, 8 sinh viên nữ đƣợc phân đều từ năm thứ nhất đến năm thứ tƣ)
* Viện Xã hội học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Ngô Thị Châm 92
BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn
đang học tập tại Khoa Công tác xã hội, trƣờng Đại học Lao động - Xã hội. Công tác xã
hội là chuyên ngành thuộc khối xã hội, sinh viên ở đây đƣợc đào tạo nghiên cứu các
ngành về khoa học xã hội nên sẽ có những đặc thù riêng. Việc sử dụng mạng xã hội
Facebook có thể ảnh hƣởng tới tri thức, hiểu biết cũng nhƣ cách thức tiếp cận vấn đề
của sinh viên khác với các khối ngành khác (kinh tế, kỹ thuật,…). Trong điều kiện có
hạn về thời gian và nguồn lực, đề tài bƣớc đầu tiến hành nghiên cứu thực nghiệm đối
với sinh viên một khoa thuộc khối xã hội của một trƣờng đại học trên địa bàn Hà Nội.
Từ đó, xây dựng phƣơng hƣớng nghiên cứu tiếp theo về sử dụng mạng xã hội Facebook
đối với sinh viên thuộc các khối ngành khác nhằm so sánh sự khác biệt và đảm bảo tính
khái quát.
Trên cơ sở so sánh, đối chiếu với kết quả của những nghiên cứu đi trƣớc, bài viết
trình bày một số kết quả chính về thực trạng sử dụng mạng xã hội Facebook với đối tƣợng
là sinh viên đang sinh sống và học tập tại địa bàn Hà Nội ở 3 nội dung: mục đích sử dụng,
mức độ sử dụng và đối tƣợng tƣơng tác trên mạng xã hội Facebook của sinh viên.
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Mục đích sử dụng mạng xã hội Facebook của sinh viên
Điểm qua một số công trình nghiên cứu về mạng xã hội cho thấy, hầu hết thanh
thiếu niên đều có thể truy cập Internet và sử dụng mạng xã hội hàng ngày. Trên các trang
mạng xã hội, họ tham gia vào các hoạt động đa dạng nhƣ: trò chuyện, nhắn tin, bình luận
bài viết của bạn bè, đăng tải các cập nhật trạng thái của bản thân (Lenhart và cộng sự,
2011). Nghiên cứu của các tác giả trong nƣớc cũng đã chỉ ra mục đích khi tham gia sử
dụng mạng xã hội của sinh viên. Theo đó, sinh viên thƣờng xuyên chat, gửi tin nhắn trên
mạng xã hội chiếm tỷ lệ cao nhất (53,7%), xem phim nghe nhạc (41,4%) và cập nhật
thông tin, sự kiện xảy ra trong xã hội (41,4%) (Trần Hữu Luyến và cộng sự, 2015). Sinh
viên tham gia sử dụng mạng xã hội Facebook phần lớn để giải trí (71%) và mở rộng mối
quan hệ (34,6%) (Trần Khánh An, 2012).
Hộp 1. Mục đích chính khi tham gia sử dụng mạng xã hội Facebook của sinh viên
“Em dùng Facebook để giao lưu với các bạn mà mình quen và thỉnh thoảng đọc các tin
tức liên quan đến hoạt động giải trí thôi”.
(Nam, sinh viên năm thứ hai)
“Em lên Facebook để xem các thông tin nào mà bạn bè của mình đăng tải lên và để
thông báo cho các nhóm bạn bè, bạn thân, bạn bè gần gũi về lịch học, lịch sinh hoạt mọi ngày.
Tuy nhiên, chủ yếu vẫn là để giải trí, giao lưu kết bạn là nhiều hơn”.
(Nam, sinh viên năm thứ hai)
“Chủ yếu mình có thể kết bạn được nhiều với bạn bè, thứ hai là được cập nhật các thông
tin hàng ngày trên mạng, tìm kiếm việc làm trên mạng xã hội Facebook thông qua các nhóm
tìm việc làm”.
(Nữ, sinh viên năm thứ tƣ)
Ngô Thị Châm 93
BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn
Kết quả nghiên cứu từ đề tài đã phản ánh một phần tính tƣơng đồng về mục đích sử
dụng mạng xã hội của sinh viên so với kết quả của những nghiên cứu trƣớc đó. Quá trình
phỏng vấn sâu cho thấy, sinh viên hiện nay sử dụng mạng xã hội Facebook nhằm nhiều
mục đích khác nhau: giao lƣu kết bạn; giải trí; gia nhập các hội/nhóm; tham gia bình luận
các chủ đề; phục vụ học tập; tìm kiếm thông tin, việc làm. Tuy nhiên, phần lớn sinh viên
đƣợc phỏng vấn trả lời mục đích chính khi tham gia sử dụng mạng xã hội Facebook chủ
yếu vẫn là để giao lƣu kết bạn, giải trí và tìm kiếm thông tin.
Phục vụ giải trí, giao lưu kết bạn
Thông qua các hoạt động giải trí, giao lƣu kết bạn, sinh viên cho biết mạng xã hội
Facebook đã góp phần giúp họ mở rộng các mối quan hệ xã hội. Bên cạnh đó, Facebook
là một trong những trang mạng xã hội hiện đang có nhiều tính năng nhƣ: cung cấp lƣợng
thông tin rất lớn qua các hoạt động đăng tải, chia sẻ thông tin từ các cá nhân tham gia sử
dụng mạng, các hội/nhóm trên tài khoản. Những thông tin cập nhật, đăng tải trên các
trang báo, trang tin tức giải trí đƣợc sinh viên lựa chọn chia sẻ, giới thiệu với bạn bè
thông qua việc tƣơng tác, trò chuyện trên mạng xã hội Facebook. Đây cũng là nơi sinh
viên lựa chọn để chia sẻ hình ảnh, hoạt động cá nhân hay những suy nghĩ, cảm xúc của
bản thân mà sinh viên thƣờng gọi là các “status tâm trạng”. Điều đó cho thấy, tính lan tỏa
mạnh các thông tin đa chiều, khả năng kết nối rộng giữa các cá nhân với nhau và giữa cá
nhân với hội/nhóm trong quá trình tham gia sử dụng mạng xã hội Facebook. Cũng thông
qua những hoạt động nhƣ vậy, các bạn sinh viên có cơ hội giao lƣu, tƣơng tác với rất
nhiều ngƣời bạn có quen biết ngoài thực tế (bạn bè, thầy cô, ngƣời thân trong gia đình)
trên mạng xã hội Facebook.
Trao đổi các thông tin phục vụ học tập
Không chỉ đơn thuần phục vụ cho mục đích giao lƣu kết bạn, giải trí mà thông qua
việc tƣơng tác giữa các thành viên, sinh viên sử dụng mạng xã hội Facebook nhƣ một
công cụ hữu ích để trao đổi các thông tin phục vụ học tập. Tham gia trả lời phỏng vấn,
sinh viên cho biết, mỗi lớp thƣờng có một group (nhóm) riêng để thông báo các thông tin
có liên quan đến vấn đề học tập nhƣ lịch học, lịch thi, chia sẻ các tài liệu chuyên ngành và
tài liệu tham khảo cũng nhƣ thông báo những hoạt động chung của trƣờng, lớp. Thành
viên trong group của lớp thông thƣờng là các bạn học cùng lớp, ngoài ra, trong một số
group còn có sự tham gia của đội ngũ giảng viên là thầy/cô chủ nhiệm hoặc thầy/cô dạy
bộ môn. Theo các bạn, việc thầy cô cùng tham gia vào các trang hội/nhóm của lớp trên
Facebook sẽ hỗ trợ các bạn hiệu quả hơn trong việc trao đổi kiến thức, tài liệu về học tập,
về các hoạt động ngoại khóa. Hơn nữa, qua việc tƣơng tác và trao đổi trong các group trên
Facebook giúp gắn kết giữa giảng viên và sinh viên, nâng cao chất lƣợng giảng dạy, đào
tạo hơn.
Khác biệt mục đích sử dụng mạng xã hội Facebook giữa sinh viên nam và sinh
viên nữ
Điều đáng chú ý từ quá trình phân tích dữ liệu định tính cho thấy có sự khác biệt về
việc sử dụng mạng xã hội Facebook trong hoạt động giải trí giữa sinh viên nam và sinh
Ngô Thị Châm 94
BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn
viên nữ. Một số sinh viên nam tham gia trả lời phỏng vấn cho biết, ngoài việc sử dụng
mạng xã hội Facebook để giao lƣu, kết bạn hay xem các video/clip giải trí, họ chủ yếu
theo dõi những tin tức mang tính thời sự, chơi game hoặc quan tâm các trang thông tin về
thể thao, bóng đá. Kết quả phỏng vấn sâu cũng chỉ ra mức độ quan tâm của sinh viên nam
đến tính xác thực của thông tin đƣợc đăng tải. Sinh viên chỉ chọn lọc và tiếp nhận những
thông tin họ cho là có tính xác thực cao nhƣ những thông tin mang tính thời sự, các vấn
đề xã hội từ những đƣờng link đã đƣợc kiểm chứng, có độ tin cậy cao, thông tin đƣợc
đăng trên các trang mạng của Chính phủ hay những trang thông tin về thể thao chính
thống trên mạng xã hội Facebook.
Phỏng vấn sâu sinh viên nữ cho thấy, mạng xã hội Facebook là trang mạng chủ yếu
phục vụ họ trong việc giải trí; trò chuyện, tƣơng tác với bạn bè; tìm kiếm và theo dõi các
thông tin liên quan đến thời trang và làm đẹp. Với khối lƣợng khổng lồ các thông tin đƣợc
đăng tải, mạng xã hội Facebook nhanh chóng đáp ứng đƣợc nhu cầu tìm kiếm thông tin
về các mảng nhƣ ẩm thực, làm đẹp, thời trang, giải trí,… của các bạn sinh viên nữ. Họ
cũng ít quan tâm tin tức liên quan tới chính trị, xã hội hay thể thao nhƣ sinh viên nam. Kết
quả khảo sát còn cho thấy, sinh viên nữ trong mẫu nghiên cứu sử dụng mạng xã hội
Facebook để giao lƣu, kết bạn, trò chuyện với bạn bè ở mức độ thƣờng xuyên hơn so với
sinh viên nam.
Nhƣ vậy có thể thấy, mỗi một cá nhân với những cách suy nghĩ, quan điểm khác
nhau sẽ lựa chọn việc sử dụng mạng xã hội Facebook với những mục đích chính của họ
cũng khác nhau. Tuy nhiên, mục đích đƣợc ƣu tiên khi tham gia sử dụng mạng xã hội
Facebook của đa phần các sinh viên tham gia trả lời phỏng vấn vẫn là kết bạn, giao lƣu,
giải trí và tìm kiếm thông tin.
2.2. Mức độ sử dụng mạng xã hội Facebook của sinh viên
Thực trạng mức độ sử dụng mạng xã hội Facebook của sinh viên
Kết quả phỏng vấn sâu 16 sinh viên đã chỉ ra các mức độ khác nhau về thời gian
trung bình tham gia truy cập Internet nói chung và truy cập mạng xã hội Facebook trong
một ngày nói riêng của sinh viên. Khi đi sâu làm rõ vấn đề này, một số sinh viên chia sẻ
rằng họ luôn truy cập mạng và sử dụng song song giữa Facebook với một hay nhiều trang
web khác nhau. Vì vậy, có thể coi việc truy cập Facebook vào bất cứ thời điểm nào, bất
kỳ nơi nào đều rất dễ dàng đối với sinh viên. Tuy nhiên, mức độ truy cập của sinh viên
không liên tục mà ngắt quãng.
Nhƣ vậy, không kể thời gian sử dụng nhiều hay ít, thói quen truy cập mạng xã hội
thƣờng xuyên đã khiến sinh viên đang dần bị lệ thuộc vào Facebook. Có sinh viên tham
gia trả lời phỏng vấn dành 7 tiếng một ngày sử dụng mạng internet thì dùng đến 4 tiếng
để truy cập mạng xã hội Facebook. Ngoài ra, sử dụng mạng xã hội Facebook còn đƣợc
xem là một phần hoạt động để lấp đầy khoảng thời gian nhàn rỗi trong đời sống hàng
ngày của sinh viên.
Ngô Thị Châm 95
BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn
Hộp 2. Mức độ sử dụng mạng xã hội Facebook của sinh viên
“Thường em mở 3G 24/24. Em truy cập 13 đến 15 tiếng một ngày,… Vì 3G em mở
thường xuyên nên lúc nào Facebook cũng có thông báo liên tục, em hay có thói quen cầm lên
check tin nhắn. Còn nếu vào Facebook để lướt, tìm thông tin thì s kéo dài thời gian hơn so với
thời gian mình ngồi trên laptop hoặc máy tính”.
(Nữ, sinh viên năm thứ hai)
“Có những ngày em vẫn mở mạng bình thường nhưng mỗi lần vào thì chỉ trung bình là
năm, sáu phút xong rồi em thoát. Có nghĩa là em vào nhiều lần nhưng không liên tục. Nếu tính
liên tục thì s là 1 tiếng, còn thỉnh thoảng em lên cứ một, hai phút em lại thoát thôi”.
(Nữ, sinh viên năm thứ tƣ)
“Ít nhất phải 4 đến 5 tiếng đấy ạ vì cứ rảnh cái không có việc gì làm thì mình cứ lướt
Facebook, xem có thông tin gì hay trên mạng không, bạn bè có chia sẻ gì thì mình xem...”.
(Nam, sinh viên năm thứ ba)
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra những điểm tƣơng đồng so với các nghiên cứu đi
trƣớc về thời gian trung bình sử dụng mạng xã hội của sinh viên trong một ngày chiếm tỷ
lệ tƣơng đối lớn. Đáng chú ý, trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Phƣơng Châm
năm 2013, sinh viên tham gia sử dụng mạng xã hội chủ yếu vào buổi tối và đêm, trong
khi sử dụng khá ít vào buổi sáng, trƣa, chiều và sử dụng chủ yếu ngoài giờ học chính tại
trƣờng. Tuy nhiên, phỏng vấn sâu sinh viên Khoa Công tác xã hội, trƣờng Đại học Lao
động - Xã hội, việc truy cập và sử dụng mạng xã hội không chỉ tập trung thời gian nhiều
vào buổi tối và đêm mà sinh viên còn dùng nhiều vào thời gian nghỉ của buổi trƣa, miễn
là khi có thời gian rảnh.
Nhìn chung, sinh viên sử dụng mạng xã hội Facebook mọi lúc mọi nơi, thậm chí
truy cập ngay cả khi đang làm một việc khác trong cùng một thời điểm. Điều đặc biệt ở
đây không chỉ là thời gian truy cập nhiều mà tần suất truy cập vào mạng xã hội Facebook
của sinh viên khá cao. Có những sinh viên trong mẫu khảo sát cho biết, dù không có thời
gian dùng Facebook nhƣng họ vẫn cài sẵn chế độ online trên Facebook khi sử dụng các
thiết bị điện tử có kết nối internet (chủ yếu là điện thoại di động). Điều này cho thấy, sử
dụng mạng xã hội Facebook đã trở thành một thói quen, một nhu cầu không thể thiếu
trong đời sống học tập và đời sống tinh thần của sinh viên.
Khác biệt mức độ sử dụng mạng xã hội Facebook ngày thường và ngày nghỉ giữa
sinh viên nam và sinh viên nữ
Quá trình tìm hiểu mức độ sử dụng mạng xã hội giữa ngày thƣờng và ngày nghỉ
cũng cho thấy sự khác biệt giữa sinh viên nam và sinh viên nữ tại địa bàn khảo sát.
Sinh viên nữ tham gia trả lời phỏng vấn cho biết vào ngày nghỉ thời gian truy cập
Facebook của họ nhiều hơn so với ngày thƣờng, do ngày nghỉ không phải tham gia học
tập trên trƣờng lớp, không phải đi làm thêm, thời gian chủ yếu là ở nhà nên những lúc
cảm thấy rảnh rỗi, chán nản thì sẽ tìm những ngƣời bạn trên Facebook để tâm sự. Đối với
một số sinh viên nam, giữa ngày thƣờng và ngày nghỉ không có sự khác biệt nhiều trong
Ngô Thị Châm 96
BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn
việc sử dụng mạng xã hội Facebook. Sinh viên nam chủ yếu dành thời gian của ngày nghỉ
tham gia các hoạt động ngoài thực tế (gặp gỡ bạn bè, tham gia các hoạt động thể thao,…)
và coi Facebook nhƣ một công cụ giải trí đứng sau những hoạt động thực tế mà họ tham
gia ngoài xã hội.
Có thể nói hàng ngày hàng giờ trên các trang mạng xã hội, giới trẻ có sự đa dạng
trong giao tiếp với nhiều đối tƣợng khác nhau, tạo ra cho mỗi cá nhân một mạng lƣới
quan hệ dày đặc, làm nên sự mở rộng và đan xen phức tạp của mạng lƣới xã hội đối với
cá nhân cũng nhƣ các nhóm trên mạng xã hội Facebook. Kết quả phân tích cho thấy, sinh
viên hiện nay có nhiều sự lựa chọn sử dụng quỹ thời gian rảnh rỗi của bản thân tùy thuộc
vào sở thích và quan điểm mỗi cá nhân. Sự khác biệt về tần suất, thời điểm và thời lƣợng
truy cập giữa sinh viên nam và sinh viên nữ một lần nữa khẳng định, mạng xã hội
Facebook đang có những tác động không nhỏ tới đời sống sinh hoạt hàng ngày của sinh
viên. Mức độ tác động đó có thể khác nhau tùy thuộc vào sở thích, nhu cầu cũng nhƣ sự
quan tâm riêng của từng giới.
2.3. Đối tượng tương tác trên mạng xã hội Facebook của sinh viên
Mạng xã hội đã tạo ra một mạng lƣới kết nối các thành viên có cùng sở thích với
nhiều mục đích khác nhau, không phân biệt không gian và thời gian với sự đa dạng về đối
tƣợng tƣơng tác.
Kết quả nghiên cứu định tính của nhóm tác giả cho thấy, đối tƣợng tƣơng tác của
sinh viên khi sử dụng mạng xã hội Facebook chủ yếu là bạn bè, gia đình và những ngƣời
có quen biết ngoài đời thực. Trong đó, bạn bè là đối tƣợng tƣơng tác thƣờng xuyên nhất
đƣợc sinh viên lựa chọn khi tham gia sử dụng mạng xã hội Facebook.
Bạn bè là đối tượng tương tác chủ yếu của sinh viên trên mạng xã hội Facebook
Mạng xã hội Facebook đƣợc coi là một hệ thống kết nối các thành viên với nhau bằng
các tính năng nhƣ kết bạn, chat, phim ảnh, nghe nhạc, game, video call dựa trên nền
internet. Chính vì vậy, đối tƣợng sử dụng Facebook nhiều nhất cũng chính là thanh thiếu
niên và sinh viên. Mạng xã hội Facebook với các tính năng tiện lợi, tiết kiệm chi phí, đa
dạng và phong phú về mặt thông tin đang là một phƣơng tiện giao lƣu kết nối phù hợp dành
cho đối tƣợng này - những ngƣời trẻ đƣợc coi là nhanh nhạy, dễ nắm bắt và phát huy tối đa
lợi ích của Facebook. Điều này đã một phần lý giải cho việc lựa chọn bạn bè là đối tƣợng
tƣơng tác chủ yếu chính của sinh viên Hà Nội. Thông qua Facebook, sinh viên không chỉ dễ
dàng trao đổi tài liệu, thông tin phục vụ học tập một cách nhanh chóng và tiết kiệm mà còn
giúp họ tƣơng tác với bạn bè hiệu quả trong điều kiện khó có thể thực hiện tƣơng tác trực
tiếp ngoài thực tế. Hơn nữa, bạn bè còn là đối tƣợng dễ tiếp xúc, dễ đồng cảm nên sinh viên
có thể thoải mái chia sẻ, bày tỏ cảm xúc, giao lƣu trò chuyện với nhau.
Gia đình và người thân
Gia đình và ngƣời thân là nhóm đối tƣợng thứ hai mà sinh viên lựa chọn để tƣơng
tác khi truy cập mạng xã hội Facebook. Tuy nhiên, nhóm đối tƣợng này không phải là đối
tƣợng đƣợc sinh viên lựa chọn tƣơng tác chủ yếu. Để lý giải cho điều này, những sinh
viên đƣợc phỏng vấn cho rằng, mặc dù là ngƣời thân từ phía gia đình, họ hàng nhƣng
Ngô Thị Châm 97
BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn
Facebook chỉ là một mạng lƣới xã hội chủ yếu đƣợc sử dụng từ những ngƣời trẻ tuổi, mà
nhóm đối tƣợng gia đình (bao gồm bố mẹ, anh chị, cô chú…) hoặc là không thƣờng
xuyên sử dụng mạng xã hội Facebook, hoặc đã tƣơng tác trực tiếp với nhau ở ngoài đời
thực nên không cần tƣơng tác qua mạng xã hội Facebook. Một nguyên nhân nữa dẫn đến
sự khác biệt trong việc lựa chọn đối tƣợng tƣơng tác trên mạng xã hội Facebook của sinh
viên, đó chính là sự khác biệt về suy nghĩ, nhận thức giữa các thế hệ. Một số sinh viên
cho rằng quan điểm về các vấn đề xã hội, tâm tƣ tình cảm, lối sống, bạn bè của họ là khác
nhau so với quan điểm của ngƣời thân trong gia đình. Chính vì vậy, họ rất ngại giao lƣu
tƣơng tác với đối tƣợng là các thành viên trong gia đình trên mạng xã hội Facebook, thậm
chí họ sẽ lựa chọn không kết bạn, hoặc có kết bạn nhƣng sẽ không bộc lộ quá nhiều về
tâm tƣ tình cảm, suy nghĩ khi tƣơng tác với nhau.
Hộp 3. Đối tượng tương tác trên mạng xã hội Facebook của sinh viên
“Đối tượng của em chỉ là bạn bè cùng trang lứa, cùng độ tuổi, bạn học cùng trường,
cùng địa phương sống, bây giờ lên đại học là những bạn cùng học đại học với em”.
(Nữ, sinh viên năm thứ hai)
“Gia đình em từ mẹ cho đến cậu cũng sử dụng Facebook nên dù mình có hơi kêu ca và
thể hiện một số cảm xúc thì người nhà s biết, khi gọi điện s hỏi. Vì thế nên em hạn chế chia
sẻ trạng thái, thông tin lên Facebook, chỉ đăng ảnh đi chơi”.
(Nữ, sinh viên năm thứ nhất)
“Nhiều lúc chụp ảnh với ai, lúc tâm trạng không tốt đăng status bóng gió, hơi khó chịu
một chút thì mọi người trong gia đình cũng tỏ ra khó chịu, không thích nên em cũng hạn chế”.
(Nữ, sinh viên năm thứ ba)
Đối tượng tương tác khác
Sinh viên trong phạm vi khảo sát cho biết, ngoài bạn bè và ngƣời thân, họ cũng
tƣơng tác với những ngƣời có quen biết ngoài thực tế trên mạng xã hội. Tuy nhiên, nhóm
đối tƣợng này chiếm số ít sự lựa chọn tƣơng tác ở mức độ thƣờng xuyên khi sử dụng
mạng xã hội Facebook của sinh viên nói chung. Đối với những ngƣời đã có quen biết thật
ngoài xã hội, một số sinh viên chia sẻ, tuy đã quen biết từ trƣớc nhƣng họ tƣơng tác với
những đối tƣợng này một cách rất xã giao.
Kết quả thu đƣợc cũng cho thấy, sinh viên còn tƣơng tác với những ngƣời họ không
quen biết ngoài thực tế nhƣng chỉ ở mức độ không thƣờng xuyên. Một vài sinh viên cho
biết, nếu tƣơng tác với những ngƣời không có quen biết, nội dung trao đổi giữa họ chỉ là
những câu chuyện đơn giản, họ không chia sẻ nhiều về bản thân, sự tƣơng tác đƣợc thể
hiện chủ yếu bằng hình thức “Like” hoặc “Share” các thông tin, bài đăng của nhau trên
mạng xã hội; không có sự trao đổi, trò chuyện qua tính năng chat hay gọi thoại của
Facebook. Điều này cho thấy tính chọn lọc cao trong việc lựa chọn đối tƣợng tƣơng tác
trên mạng xã hội Facebook của sinh viên trong mẫu nghiên cứu.
Theo một số nghiên cứu đi trƣớc, khi sử dụng mạng xã hội, sinh viên chủ yếu tƣơng
tác với bạn bè (Trần Hữu Luyến và cộng sự, 2015). Mặt khác, nhiều sinh viên cũng hứng
Ngô Thị Châm 98
BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn
thú với việc tham gia các hội/nhóm trên mạng xã hội Facebook, mở rộng mối quan hệ cá
nhân thông qua việc tƣơng tác với các thành viên (Trần Khánh An, 2012). Tƣơng đồng
với kết quả của một nghiên cứu khác, Facebook là mạng xã hội đƣợc giới trẻ sử dụng để
tƣơng tác chủ yếu với bạn bè và việc thực hiện hoạt động tƣơng tác trên mạng xã hội
Facebook của sinh viên ở mức cao, có nghĩa là những sinh viên thƣờng xuyên sử dụng
mạng xã hội để duy trì mối liên hệ với bạn bè đã có trong đời thực nhiều hơn những
ngƣời chƣa quen biết và những ngƣời thƣờng xuyên sử dụng mạng xã hội cảm thấy gần
gũi bạn bè hơn so với những ngƣời ít sử dụng mạng xã hội (Trần Thị Minh Đức và Bùi
Thị Hồng Thái, 2015). Nghiên cứu thực nghiệm cũng đƣa ra kết quả phù hợp với nghiên
cứu trên, sinh viên trong mẫu khảo sát chỉ kết bạn và tƣơng tác với những ngƣời có quen
biết ngoài thực tế, một số bạn dù mở rộng mối quan hệ (kết bạn trên mạng xã hội) với
những ngƣời không quen biết ngoài thực tế nhƣng mức độ tƣơng tác trên mạng xã hội với
nhóm đối tƣợng này còn hạn chế, dè chừng, sinh viên thƣờng ƣu tiên và tƣơng tác nhiều
với bạn bè, ngƣời quen biết ngoài thực tế hơn. Điều này đã góp phần lý giải rõ hơn về
việc lựa chọn đối tƣợng tƣơng tác khi sử dụng Mạng xã hội Facebook của sinh viên.
3. Kết luận
Dù xuất hiện ở Việt Nam chƣa lâu, song các trang mạng xã hội đã có những tác
động mạnh mẽ đến đời sống của ngƣời sử dụng. Ở Việt Nam hiện nay, Facebook đang là
một trong những trang mạng xã hội có số lƣợng ngƣời sử dụng lớn nhất, đặc biệt là giới
trẻ, trong đó không thể không kể đến nhóm đối tƣợng sử dụng là sinh viên.
Kết quả từ quá trình điều tra định tính 16 sinh viên của Khoa Công tác xã hội, trƣờng
Đại học Lao động - Xã hội tiếp tục khẳng định kết quả của những nghiên cứu đi trƣớc, là
minh chứng về sức ảnh hƣởng và lan tỏa của mạng xã hội Facebook khi đây đƣợc coi là
trang mạng xã hội phổ biến nhất và đƣợc ƣa chuộng nhất của giới trẻ hiện nay.
Sinh viên tham gia sử dụng mạng xã hội Facebook vì nhiều mục đích khác nhau nhƣng
chủ yếu nhằm phục vụ mục đích giải trí, giao lƣu kết bạn và tìm kiếm thông tin. Đặc biệt, kết
quả nghiên cứu cũng cho thấy, có sự khác biệt giới về mục đích sử dụng mạng xã hội
Facebook của sinh viên. Cụ thể, sinh viên nữ chủ yếu trò chuyện, tƣơng tác với bạn bè và
theo dõi các trang thông tin liên quan đến thời trang, làm đẹp và các thông tin về ẩm thực;
trong khi đó, sinh viên nam chủ yếu theo dõi các thông tin thời sự, chính trị, thể thao.
Về mức độ sử dụng mạng xã hội Facebook, sinh viên trong mẫu nghiên cứu dành
một khoảng thời gian tƣơng đối lớn truy cập mạng xã hội Facebook hàng ngày và coi đây
là một công cụ hỗ trợ đắc lực trong việc gắn kết, tƣơng tác với bạn bè, ngƣời thân. Đa số
sinh viên đƣợc phỏng vấn cho biết sử dụng mạng xã hội Facebook vào ngày nghỉ với mức
độ nhiều hơn so với ngày thƣờng, sinh viên nữ trong mẫu nghiên cứu có mức độ sử dụng
mạng xã hội Facebook cao hơn so với sinh viên nam.
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, đối tƣợng tƣơng tác của sinh viên khi sử dụng
mạng xã hội Facebook chủ yếu là bạn bè, gia đình và những đối tƣợng quen biết ngoài
đời thực. Trong đó, bạn bè là đối tƣợng tƣơng tác thƣờng xuyên nhất đƣợc sinh viên lựa
chọn khi tham gia sử dụng mạng xã hội Facebook.
Ngô Thị Châm 99
BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn
Có thể thấy rằng, các vấn đề liên quan đến sử dụng mạng xã hội Facebook của sinh
viên là một trong những vấn đề đƣợc quan tâm nghiên cứu trong giai đoạn gần đây. Tuy
nhiên, mỗi một môi trƣờng học tập sẽ tạo nên những đặc thù riêng, có ảnh hƣởng nhất
định đến thực trạng sử dụng mạng xã hội Facebook của sinh viên. Do đó, cần có những
nghiên cứu trên phạm vi và quy mô lớn hơn đối với khách thể là sinh viên đƣợc đào tạo ở
các khối ngành khác nhau, nhằm đƣa ra những so sánh, đối chiếu, đánh giá mức độ ảnh
hƣởng của mạng xã hội Facebook đến sinh viên mỗi khối ngành có những vấn đề nào
đang đặt ra. Từ đó có cái nhìn khái quát hơn về vấn đề nghiên cứu trong một khía cạnh
tiếp cận mới, đồng thời giúp giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng sử dụng có hiệu quả
mạng xã hội Facebook và hạn chế các tác động tiêu cực trong bối cảnh “xã hội thông tin”
nhƣ hiện nay.
Tài liệu tham khảo
Chính phủ. 2013. Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ban hành ngày 15 tháng 7 năm 2013 về Quản lý, cung cấp,
sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng.
Hoàng Anh. 2014. Thực trạng sử dụng mạng xã hội Facebook của sinh viên trƣờng Đại học Sƣ phạm Kỹ
thuật thành phố Hồ Chí Minh. Truy cập từ http://vienspkt.hcmute.edu.vn.
Lenhart, A., Madden, M., Senior, A.S., Purcell, K., Zickuhr, K., Rainie, L. 2011. Teens, Kindness and
Cruelty on Social Network Sites: How American teens navigate the new world of “digital
citizenship”. Pew Research Center’s Internet & American Life Project. Washington, D.C.
Nguyễn Thị Phƣơng Châm. 2013. Internet: Mạng lưới xã hội và sự thể hiện bản sắc. Nxb Khoa học xã hội.
Hà Nội.
Trần Khánh An. 2012. Ảnh hƣởng của Facebook tới vốn xã hội của sinh viên hiện nay. Hội thảo khoa học
“Thanh niên Việt Nam hiện nay từ góc độ liên ngành khoa học xã hội” của Liên Chi đoàn cụm 27
Trần Xuân Soạn. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Trần Thị Minh Đức và Bùi Thị Hồng Thái. 2015. Các loại hình hoạt động trên mạng xã hội của sinh viên và
những yếu tố ảnh hƣởng. Tạp chí Khoa học ĐHQG Hà Nội: Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn, số 2.
Trần Hữu Luyến, Trần Hữu Luyến, Trần Thị Minh Đức, Bùi Thị Hồng Thái. 2015. Mạng xã hội với sinh
viên. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội.