raja yoga khoa du-da -...
TRANSCRIPT
RAJA YOGA
KHOA DU-DA
SWAMI
VIVEKANANDA
*
Dịch-giả :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
KHOA DU - DA
( Raja Yoga )
" Tất cả các tâm-hồn tiềm-năng là thần-linh .
" Mục-đích của chúng ta là biểu-hiện thần-linh
ở tại nơi chúng ta, bằng cách làm chủ bản-tính
khách-quan và chủ-quan .
" Hãy đạt tới đấy bằng hành-động, bằng thờ-
phụng, bằng chế-ngự tinh-thần hay là bằng
triết-học, bằng một hay nhiều các đường ấy hay
là bằng tất cả, và hãy tự-do .
" Đấy là tất cả tôn-giáo. Những học-thuyết,
những giáo-điều, những nghi-lễ, các kinh sách,
Đền, Chùa và các hình-thức chỉ là chi-tiết phụ-
thuộc thôi . "
_ ( Swami Vivekananda )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
1
TỰA
Kể từ đầu lịch-sử nhân-loại, chúng ta thấy
những chuyện về những hiện-tượng kỳ lạ đã có
thể xẩy ra trong nhân-dân. Vào thời-đại chúng
ta, không thiếu gì người làm-chứng cho những
thực-kiện loại ấy, có thể đã biểu-hiện cả trong
tập-đoàn và xã-hội, mà khoa-học cận-đại có thể
kiểm-soát kỹ-lưỡng. Phần lớn những bằng-
chứng ấy không đáng tin cậy, vì do những
người ngu-dốt, mê-tín và bất-lương đem lại.
Trong nhiều trường-hợp, những sự tự xưng là
kỳ-tích đều là mô-phỏng, bắt-chước. Nhưng
chúng bắt-chước cái gì ? Một tinh-thần khoa-
học cởi mở lấy đặc-trưng là không gạt bỏ điều
gì mà không trước hết xét kỹ hẳn-hoi. Các nhà
bác-học nông-nổi, không có khả-năng giải-
thích các hiện-tượng tinh-thần kỳ-lạ, làm ra vẻ
KHOA DU-DA
2
như không biết có chúng vậy. Hạng người này,
như thế còn nặng tội hơn là những người tin
vào một hay nhiều thần-linh ẩn trong đám mây,
và đáp-ứng lời cầu-khẩn của chúng ta, hay là
những kẻ tin rằng những vị ấy thay-đổi được
đường vận-hành của vũ-trụ bằng cầu-nguyện
của mình. Những hạng người này được tha-thứ
vì cớ dốt-nát hay bị giáo-dục sai lầm, chứ như
các nhà bác-học thì không thể tha-thứ được
nếu họ không biết có những hiện-tượng kỳ-tích
phép-lạ .
Những hiện-tượng này đã hàng ngàn năm
từng là đề-tài nghiên-cứu, tìm-tòi, phổ-quát-
hóa ; tất cả khu-vực năng-khiếu tôn-giáo của
nhân-loại như thế đã được phân-tích ; kết-quả
thực-tế của những nghiên-cứu ấy là khoa-học
Raja-Yoga ( Vương Du-Da ). Khoa Raja-Yoga
không phủ-định như một số bác-học cận-đại
phủ-nhận vô căn-cứ sự có thực những sự-kiện
khó giải-thích. Trái lại nó tuyên-bố dịu-dàng và
đanh-thép cho những người mê-tín rằng những
kỳ-tích phép-lạ, hiệu-nghiệm của lời cầu-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
3
nguyện, những quyền-năng của đức-tin, tuy
chúng rất thực, không có thể hiểu được khi
người ta mê-tín gán cho sự can-thiệp của một
hai chư-vị ẩn trong mây. Khoa Raja-Yoga
tuyên-bố, mỗi người chỉ là cái lạch của đại-
dương tri-thức và quyền-năng vô-hạn mà nhân-
loại có trong nơi mình. Nó dạy rằng những
dục-vọng và nhu-cầu đều ở trong người và
những phương-tiện để thỏa-mãn chúng cũng ở
tại đấy; mỗi khi một nhu-yếu, một cầu-nguyện,
một ý-muốn được đáp-ứng, sự cần-thiết đã
được rút từ trong những kho dự-trữ vô-lượng
kia chứ chẳng phải do một đấng siêu-nhiên nào
ban cho cả. Sự tín-ngưỡng vào chư-vị siêu-
nhiên có thể khích-động đến mức nào cho
năng-lực hành-động ở người ta, nhưng nó cũng
tạo ra sự trụy-lạc tâm-linh. Nó cản-trở người ta
tự cảm thấy độc-lập, đem lại sự sợ-hãi và mê-
tín. Nó suy-đồi thành một tín-ngưỡng ghê-tởm
vào sự yếu hèn bản-nhiên của loài người. Nhà
Đạo-sĩ Du-Da nói, không làm gì có siêu-nhiên,
mà người ta trong thế-giới thiên-nhiên thấy
những biểu-hiện thô và những biểu-hiện tinh.
KHOA DU-DA
4
Biểu-hiện tinh là nhân, biểu-hiện thô là quả.
Những quả, giác-quan dễ tri-giác thấy, nhưng
khó tri-giác được cái tinh. Thực-tập khoa Du-
Da làm cho ta có khả-năng tri-giác tinh-vi hơn .
Tất cả hệ-thống chính-thống triết-lý Ấn tự
nhằm mục-đích duy-nhất : giải-thoát tâm-hồn
bằng sự hoàn-thiện. Người ta thực-hành bằng
khoa Du-Da ( Yoga ). Chữ Yoga ngụ nhiều ý-
nghĩa khác nhau, nhưng học-phái Số-luận
( Samkhya ) cũng như học-phái Chung-Kết
Vedas - Upanisads đều có khuynh-hướng Yoga
dưới hình-thức này hay hình-thức khác .
Đề-tài tôi trình-bầy sau đây là hình-thức
khoa Yoga được biết ở danh-hiệu Raja - Yoga
( Vua Yoga ). Những cách-ngôn của Patanjali
( thế-kỷ II, tr. T.C. ) là văn-kiện có uy-tín về
đề-tài trên và nó được dùng làm cơ-sở để
nghiên-cứu. Các triết-học khác tuy có cách-biệt
với Patanjali về một số điểm, triết-học đại-
cương tán-đồng hoàn-toàn phương-pháp và
thực-tập của ông đề ra. Phần thứ nhất tác-phẩm
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
5
này gồm những bài giảng của tác-giả ở New-
York cho các nhóm học-trò. Phần thứ hai là
một bản-dịch tự-do những cách-ngôn ( Kinh-
văn Sutra ) của Patanjali kèm lời bình-giải.
Tác-giả cố-gắng tránh chừng nào có thể được,
những từ-ngữ quá chuyên-môn và tự giới-hạn
vào văn-từ phổ-thông và dễ hiểu .
Ở phần đầu là những chỉ-giáo đơn-giản
và chính-xác cho ai muốn thực-hành, nhưng
phải đặc-biệt nhớ kỹ điều này là trừ một ít
trường-hợp, người ta không thể học đạo Du-Da
( Yoga ) mà không có sự chỉ-dẫn cá-nhân của
một Sư-phụ, điều ấy rất nguy-hiểm .
Hệ-thống Patanjali lấy triết-học Số-Luận
( Samkhya ) làm cơ-bản mà không xa
cách mấy. Hai điểm khác nhau quan-trọng là :
Trước hết Patanjali thừa-nhận có một Thượng-
Đế Nhân-cách ở hình-thức Sư-phụ đệ-nhất, còn
như hệ-thống Số-Luận thừa-nhận có một
Thượng-Đế là một vị gần đến hoàn-toàn, và
một vòng tạo-hóa được giao cho trong một
KHOA DU-DA
6
thời-kỳ. Thứ đến các đạo-sĩ yoga chủ-trương
tinh-thần ( mental ) cũng vô-sở bất-tại như
Linh-hồn ( Purusha ) mà hệ-thống Số-luận
không thừa-nhận .
*****
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
7
CHƯƠNG I
*
DẪN NHẬP
Tất cả tri-thức của chúng ta đều căn-cứ
vào thực-nghiệm. Cái gọi là tri-thức theo
đường suy-luận dẫn chúng ta từ kém phổ-biến
đến phổ-biến hay là từ phổ-biến xuống đặc-thù;
nó lấy thực-nghiệm làm cơ-sở. Trong những
khoa-học gọi là chính-xác, người ta dễ đến
chân-lý, bởi vì nó gọi đến thực-nghiệm cá-
nhân. Nhà bác-học không đòi có tín-ngưỡng
nào, nhưng y có một số kết-quả rút ra từ những
thực-nghiệm riêng, và khi y sử-dụng chúng làm
cơ-sở cho một suy-luận và đòi chúng ta thừa-
nhận những kết-luận của y, y gọi đến một thực-
nghiệm có tính-cách đại-đồng trong nhân-loại.
Trong tất cả khoa-học chính-xác, có một cơ-
bản thuộc chung cho tất cả loài người, đến nỗi
KHOA DU-DA
8
ta có thể nhận ngay ra sự thật hay giả của
những kết-luận người ta đề-nghị. Những vấn-
đề đặt ra là thế này : tôn-giáo có chăng một cơ-
bản loại ấy hay là không có ? Tôi phải trả lời
là vừa có vừa không. Tôn-giáo như người ta
phổ-thông truyền-bá khắp thế-giới là loại tôn-
giáo căn-cứ vào đức-tin và ý-kiến ; trong nhiều
trường-hợp, nó chỉ là các mớ lý-thuyết khác
nhau, và bởi thế chúng ta thấy các tôn-giáo
tranh cãi với nhau. Các lý-thuyết ấy lại cũng
căn-cứ vào những tín-ngưỡng. Người này nói
có một đấng vĩ-đại ngồi trên mây, cai-quản tất
cả vũ-trụ, và y đòi tôi phải nhận thế chỉ vì y
khẳng-định với tôi điều ấy. Tôi cũng có thể
tương-tự có ý-kiến riêng của tôi và muốn đòi
người khác theo, mà tôi không có thể giải-thích
lý cố, nếu người ta hỏi lại. Chính vì thế mà tôn-
giáo và siêu-hình-học hiện nay mang tính xấu.
Hình như mọi người có học đều nghĩ : " Những
tôn-giáo kia chỉ là những mớ lý-thuyết, không
có gì để chứng-nghiệm cả, và ai nấy tiếp-tục
truyền-giáo những ý-tưởng mình ưa-thích."
Tuy nhiên trong tôn-giáo có một cơ-bản cho
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
9
tín-ngưỡng đại-đồng mà tất cả các lý-thuyết
khác nhau và tất cả tư-tưởng khác nhau của các
giáo-phái ở các nước lấy làm căn-cứ. Nếu
chúng ta tìm cơ-sở, chúng ta sẽ thấy chúng
cũng căn-cứ vào những thực-nghiệm đại-đồng .
Trước tiên, nếu chúng ta phân-tích tất cả
tôn-giáo trên thế-giới, chúng ta nhận thấy
chúng phân ra hai loại, loại có một bộ Thánh-
kinh, và loại không có Kinh-điển. Loài thứ nhất
mạnh hơn cả và gồm có một số lớn tín-đồ.
Trong những loại tôn-giáo không có Kinh-điển
thì phần nhiều đã biến mất và những tôn-giáo
mới, rất ít, thì gồm có ít tín-đồ. Tuy vậy, trong
mỗi tôn-giáo chúng ta thấy có quan-điểm
chung là những chân-lý truyền-bá đều là kết-
quả thực-nghiệm của nhân-vật nhất-định. Tín-
đồ Cơ-Đốc đòi người ta tin vào tôn-giáo mình,
tin vào đấng Cơ-Đốc, tin vào Ngài là một
giáng-thế của Thần-linh, tin vào Thượng-Đế,
vào một linh-hồn và vào một trạng-thái tốt hơn
của cái linh-hồn ấy. Nếu tôi hỏi lý-do, y trả lời
là chính y tin như thế. Nhưng nếu anh ngược về
KHOA DU-DA
10
nguồn-gốc của Cơ-Đốc-giáo, anh sẽ thấy nó có
cơ-bản ở thực-nghiệm. Đấng Cơ-Đốc đã nói
Ngài thấy Thượng-Đế v.v. Cũng thế trong
Phật-giáo, có thực-nghiệm của Phật Thích-Ca.
Phật đã có thực-nghiệm về một số chân-lý, đã
thấy, đã kiến-chứng, đã trực-tiếp với chúng và
truyền-bá chung cho thế-giới. Đối với tín-đồ
Ấn-Độ giáo cũng thế : trong Kinh sách Ấn-Độ-
giáo, những tác-giả gọi là Rishis ( Tiên-tri )
hay hiền-triết tuyên-bố đã từng thực-nghiệm
một số chân-lý để rồi truyền-bá ra. Vậy, rõ ràng
là tất cả tôn-giáo trên thế-giới đã được thiết-lập
trên cơ-sở duy-nhất, đại-đồng và kiến sáng như
kim-cương trong tất cả tri-thức của chúng ta, ấy
là thực-nghiệm trực-tiếp. Các giáo-chủ đều đã
thấy Thượng-Đế ; họ đều đã thấy chính tâm-
hồn mình ( minh tâm kiến tính ) họ
đã thấy chính tương-lai mình, đã thấy vĩnh-cửu
bất-tử mình ( ) và họ truyền-bá cho đời
điều họ đã thấy .
Tuy nhiên phải nhận-xét trong phần nhiều
tôn-giáo ấy, và nhất là vào thời-đại người ta
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
11
khẳng-định lạ lùng rằng, những thực-nghiệm
như thế ngày nay không thể có được nữa ;
chúng đã có thể có được cho một thiểu-số, là
những người sáng-lập đầu tiên các tôn-giáo,
mang tên họ về sau. Ở hiện-đại, những thực-
nghiệm ấy đã chỉ thuộc về quá-khứ mà thôi, do
đấy chúng ta phải thừa-nhận tôn-giáo như một
tín-ngưỡng. Đấy là một quan-niệm tôi dứt-
khoát từ-chối vứt bỏ. Nếu đối với một ngành
tri-thức nào trong thế-gian này đã có một thực-
nghiệm làm bằng chứng, do đấy hẳn chắc chắn
là cái thực-nghiệm ấy đã có thể có hàng triệu
lần trước rồi và nó sẽ tái-diễn mãi mãi vô cùng
tận. Đồng-nhất-tính là định-luật tuyệt-đối của
thiên-nhiên tạo-hóa ; cái gì đã xẩy ra một lần
luôn luôn tái-diễn .
Những người dạy khoa Yoga tuyên-bố
vậy, là tôn-giáo không những căn cứ vào
những thực-nghiệm ngày xưa, và rằng không ai
có thể có tôn-giáo chừng nào không tự mình đã
có những tri-giác ( thần-linh ). Yoga là khoa
học dạy chúng ta làm thế nào có được những
KHOA DU-DA
12
tri-giác ấy. Không ích lợi gì nói về tôn-giáo
chừng nào người ta chưa từng sống tôn-giáo.
Tại sao có bao nhiêu náo-động, tranh-đấu, cãi-
cọ, chung-quanh danh-từ Thượng-Đế ? Người
ta đổ máu vì Ngài hơn là vì nguyên-nhân nào
khác, bởi vì người ta không bao giờ ngược về
nguồn ; người ta tự mãn tán-đồng tinh-thần với
tập-tục của tổ-tiên, và người ta muốn mọi
người cũng làm theo như thế. Một người có
quyền gì bảo mình có một linh-hồn nếu y
không cảm thấy, hay là có một Thượng-Đế nếu
y không từng thấy ? Nếu thực có một Thượng-
Đế, chúng ta phải được nhìn thấy, và nếu có
một linh-hồn, chúng ta phải được tri-giác nó,
bằng không thà không tin còn hơn. Thà thành-
thực vô-thần còn hơn là giả-dối. Ở thời-đại
chúng ta, hình như tôn-giáo, siêu-hình-học và
tất cả cứu xét về một Thể Tối-cao, là một
chuyện hão-huyền đối với con mắt của các nhà
" thông-thái ", còn như đối với con mắt của
hạng người bán thông thái thì tất cả có vẻ vô
căn cứ xác-thực và tất cả giá-trị của nó chỉ có
tác-dụng thúc-đẩy mạnh về hành-vi tốt đối với
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
13
thế-giới : nếu người ta tin vào Thượng-Đế,
người ta có thể trở nên tốt và đạo-đức và trở
thành công-dân tốt. chúng ta không thể chê-bai
họ có những ý-tưởng như thế, bởi vì tất cả điều
họ được dạy chỉ là đơn-giản tin những lời viển-
vông vĩnh-viễn, không ngụ chút thực-chất gì
cả. Người ta đòi họ chỉ sống bằng danh-từ. Có
thể như thế được chăng ? Nếu họ có thể sống
như thế được thì tôi coi thường bản-tính nhân-
loại. Loài người muốn chân-lý, đòi hỏi chân-lý,
nó muốn chính tự mình thực-nghiệm chân-lý.
Khi nó đã nắm được, thực-hiện được, cảm thấy
trong thâm-tâm nó, chỉ bấy giờ, như Kinh
Vedas nói, tất cả nghi-hoặc mới có thể biến đi,
tất cả đêm tối mới tan đi, và tất cả cái gì cong
queo mới tự ngay thẳng lại .
" Hỡi các con của bất-tử và của các
người sống trong từng trời cao nhất,
chính-đạo đã thấy rồi ; có một con đường
dẫn ra ngoài tất cả đêm tối : ấy là bằng
tri-giác Đấng ở ngoài tất cả tối-tăm,
không còn đường nào khác ."
_ ( Svetasvatara Up. )
KHOA DU-DA
14
Khoa học Raja - Yoga ( Chúa Du-Da )
chủ-ý đem cho nhân-loại một phương-pháp
thực-tế và khoa học chính-xác, nhất-định để đạt
tới cái chân-lý ấy. Mỗi khoa học phải có riêng
phương-pháp của mình. Nếu anh muốn trở nên
nhà thiên-văn, và nếu anh chỉ ngồi mà kêu gào:
" Thiên-văn-học, Thiên-văn-học ! " khoa học
ấy sẽ không bao-giờ giáng xuống nơi anh. với
hóa-học cũng thế : người ta phải tuân theo một
phương-pháp nào. Anh phải đi vào một phòng-
thì-nghiệm, lấy ra một vài chất khác nhau, trộn
với nhau, hợp-hóa chúng, làm các thí-nghiệm,
và từ trong những việc ấy nẩy ra một hiểu-biết
nào về hóa-học. Nếu anh muốn trở nên nhà
thiên-văn-học, anh phải đi đến đài quan-sát, lấy
một viễn-kính, nghiên-cứu các vì sao và hành-
tinh ; chính như thế mà anh có thể thành-công.
Mỗi khoa học đều có phương-pháp của nó. Nếu
tôi truyền-giáo các anh hàng ngàn bài thuyết-
pháp, điều ấy không làm các anh có tôn-giáo,
nếu các anh không thực-hành phương-pháp.
Đấy là những chân-lý của các hiền-triết ở các
xứ, đã dạy chúng ta trải qua các thời-đại, những
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
15
hạng người tinh-túy, vô-tư, mà động-cơ duy-
nhất là dục-vọng làm lành cho thế-giới. Tất cả
đều tuyên-bố họ đã thấy một chân-lý cao hơn là
cái gì giác-quan có thể bày-tỏ cho chúng ta, và
họ yêu-cầu chúng ta chứng-nghiệm với tính-
cách chính-xác về những điều họ khẳng-định.
Họ đòi chúng ta dùng phương-pháp của họ và
thận-trọng đem ra thực-hành ; nếu bấy giờ
chúng ta vẫn không thấy cái chân-lý cao ấy,
chúng ta sẽ có quyền bảo rằng những xác-định
của họ là vô căn-cứ ; nhưng chừng nào chúng
ta chưa thí-nghiệm phương-pháp của họ thì
chúng ta không có lý mà phủ-nhận hay phản-
đối. Vậy nên chúng ta phải làm việc thành-
khẩn, tuân theo các phương-pháp đã ấn-định,
bấy giờ ánh-sáng sẽ tới .
Để đạt tới tri-thức chúng ta cần đến phổ-
quát-hóa, chúng cũng lại căn cứ vào những
quan-sát. Trước hết chúng ta quan-sát thực-
kiện, rồi phổ-quát-hóa và sau hết rút ra kết-luận
hay nguyên-lý. Chúng ta không bao giờ có
được tri-thức về tinh-thần, về bản-tính nội-tại
KHOA DU-DA
16
của nhân-loại, về tư-tưởng, chừng nào chúng ta
chưa có khả-năng trước hết, quan-sát những
thực-kiện diễn tiến ra ở nơi ta. Tương-đối dễ
quan-sát những thực-kiện ngoại-giới vì người
ta đã phát minh nhiều dụng-cụ cho việc ấy,
nhưng đối với nội-giới, chúng ta không có
dụng-cụ nào cả. Song, chúng ta biết rằng để
xây-dựng nên một khoa-học thì phải quan-sát.
Không phân-tích chính-đáng thì tất cả khoa-
học sẽ bất-lực, nó chỉ là xây-dựng lý-thuyết
suông. vì lý do ấy mà tất cả các nhà tâm-lý-học
tranh-biện lẫn nhau kể từ lâu _ trừ phi các nhà
tâm-lý-học hiếm-hoi đã khám-phá ra cách-thức
quan-sát .
Khoa Raja-Yoga ( Vương Đạo Yoga =
Đạo-dẫn ) trước hết chủ-trương cung-ứng
chúng ta các phương-tiện để quan-sát những
trạng-thái nội-tâm ( quan tâm ). Công-
cụ dùng là chính tinh-thần ( dĩ tâm quan tâm
). Năng-lực chú-ý khi được hướng-
dẫn thích-đáng vào nội-giới có thể phân-tích
tinh-thần ( phân-tâm Psychanalyse ) và chiếu
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
17
sáng những thực-kiện. Những năng-lực của
tinh-thần ví như những tia sáng phân-tán : khi
tập-trung lại chúng chiếu sáng tỏ. Đấy là cách
duy-nhất để đạt được tri-thức. Mỗi người dùng
nó đối với ngoại-giới cũng như nội-giới, nhưng
nhà tâm-lý-học phải quan-sát nội-giới cũng tỉ-
mỉ như nhà khoa-học nghiên-cứu ngoại-giới ;
và muốn thế, nghĩa là nội-quan phải có một sự
tập luyện rất công-phu. Kể từ thời thơ-ấu người
ta dạy chúng ta chỉ có nhìn ngoại-vật mà không
bao giờ nhìn vào sự-vật bên trong, bởi thế nên
phần nhiều chúng ta đã mất năng-khiếu quan-
sát cơ-quan nội-tại. Có thể nói, quay tinh-thần
vào trong, không cho nó hướng ra bên ngoài,
rồi tập-trung tất cả năng-lực của nó và chiếu nó
vào chính nó để cho nó học biết lấy bản-tính
riêng của nó, ấy là một công-việc rất khó-khăn.
Tuy vậy, đấy là phương-tiện độc-nhất vô-nhị
để thấy được con đường khoa học Du-Da này .
Cái biết ấy để dùng làm gì ? Trước hết là
cái biết, tự nó là phần-thưởng lớn nhất, và thứ
đến là nó cũng có ích-dụng của nó. Nó tiêu-diệt
KHOA DU-DA
18
tất cả đau-khổ của chúng ta. Khi nào, bằng
phân-tích chính tinh-thần mình, người ta, như
vậy tự thấy đối-diện với một cái gì bất-hoại, cái
gì tự bản-tính nó vĩnh-viễn tinh-khiết và hoàn-
toàn, nó sẽ hết khốn khổ, sẽ không còn đau-khổ
nữa. Tất cả đau-khổ do sợ hãi xuất ra, do dục
cầu bất-mãn. Người ta nhận thấy nó không bao
giờ chết, nó sẽ không còn sợ chết nữa. Khi nào
nó biết được nó là toàn vẹn, nó không còn dục-
vọng hão-huyền. Hai cái nguyên-nhân ấy, sợ-
hãi và ham-muốn, một khi biến mất thì sẽ
không còn đau-khổ, sẽ là hoan-lạc hoàn-toàn,
dù bấy giờ người ta còn sống trong thân-thể
này .
Chỉ có một phương-pháp duy-nhất để đạt
được cái biết ấy là con đường thiền-định, tập-
trung tinh-thần. Nhà hóa-học trong phòng thì-
nghiệm tập-trung tất cả năng-lực tinh-thần vào
cùng một điểm và phóng chiếu vào những sản-
phẩm y phân-tích ; như thế y bắt lấy bí-quyết
của chúng. Nhà thiên-văn tập-trung tất cả năng-
lực tinh-thần của mình và phóng chiếu lên trời
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
19
qua ống viễn-kính ; cho nên tinh-tú, mặt-trời,
mặt-răng biểu-lộ cho y bí-quyết của chúng. Tôi
càng tập-trung được tinh-thần tôi vào đề-tài tôi
trinh-bày cho các người, tôi càng có thể phóng
chiếu ánh-sáng. Trong khi các người nghe tôi
nói, các người càng tập-trung tư-tưởng của các
người thì các người càng nắm được rõ ràng
điều tôi nói với các người vậy .
Làm sao mà người ta có thể lượm được
tất cả tri-thức hiện có trong thế-giới, nếu chẳng
phải tập-trung ( thiền-định ) năng-lực tinh-
thần ? Thế-giới sẵn sàng biểu-lộ những bí-
quyết của nó nếu chúng ta, chỉ cần, biết gõ
đúng cửa, nếu chúng ta biết cái gõ nào cần-
thiết. Song, năng-lực và thế-lực ở cái gõ của
chúng ta đưa ra đều là kết-quả của tập-trung.
Không có giới-hạn nào cho thể-năng của tinh-
thần nhân-loại cả. Tinh-thần càng tập-trung, nó
càng có thể áp-dụng năng-lực vào một điểm
nhất-định. Đấy là bí-quyết lớn .
KHOA DU-DA
20
Tập-trung tinh-thần vào đối-tượng ngoại-
giới thì dễ vì tinh-thần tự-nhiên hướng ra
ngoài. Ở tôn-giáo, tâm-lý-học và siêu-hình-học
trong ấy chủ-thể và đối-tượng là một sự tập-
trung tinh-thần khác xa. Đối-tượng ở bên trong
nội-giới, tinh-thần tự nó chính là đối-tượng và
chính nó phải cứu-xét, chính " dĩ tâm quán
tâm " tinh-thần phải cứu-xét tinh-thần. Chúng
ta đều biết có một năng-lực tinh-thần gọi là
phản-tỉnh. Tôi đang nói với các người, nhưng
đồng thời tôi như đứng ngoài, sang một bên và
là một người khác, nó biết và nghe điều tôi
đang nói với các người. Các vị làm việc và
đồng thời suy nghĩ, vậy là một phần tinh-thần
của các vị đứng ra một bên và nhìn thấy cái gì
mình nghĩ. Người ta phải tập-trung những
năng-lực tinh-thần và hồi-hướng chúng vào
tinh-thần. Bấy giờ, tinh-thần tập-trung khám-
phá những bí-quyết của chính nó, bí-quyết
thầm kín nhất, cũng như những góc cạnh rất
tối-tăm, phơi bày bí-mật của chúng trước tia
sáng xuyên chiếu của mặt-trời. Có như vậy,
chúng ta mới đạt tới cơ-bản của tín-ngưỡng,
KHOA DU-DA
21
tôn-giáo chân-thật và chính-xác. Chúng ta sẽ tự
tri-giác thấy chính mình, nếu chúng ta có một
linh-hồn, nếu đời sống quá năm phút hay là
vĩnh-viễn, nếu có một Thượng-Đế trong vũ-trụ
hay là không. Tất cả những điều đó sẽ được
biểu-lộ. Chính đấy mà khoa Raja-Yoga chủ-
định dạy chúng ta. Tất cả giáo-lý của nó chủ-
yếu chứng-minh cho chúng ta làm sao tập-
trung tinh-thần, rồi làm thế nào đi sâu vào
những nếp thầm kín nhất, bí-mật nhất của
chính tinh-thần mình, làm cách nào phổ-quát-
hóa những điều ta thấy và rút lấy chính kết-
luận riêng của ta. Vậy nên nó không bận tâm để
biết người ta thuộc về tôn-giáo nào, người ta
hữu-thần hay vô-thần, tín-đồ Cơ-Đốc, Do-Thái
hay Phật-giáo. Chúng ta tất cả là người, thế là
đủ rồi. Tất cả người đều có quyền và khả-năng
nghiên-cứu tôn-giáo, nó có quyền hỏi tại sao và
tự mình tìm ra giải đáp, nếu nó cố-gắng và có
thiện-chí .
Vậy, chúng ta thấy rằng, để học-tập môn
Raja-Yoga, người ta không cần đức-tin và tín-
KHOA DU-DA
22
ngưỡng tôn-giáo. Không tin điều gì mà người
ta không tự mình phát-hiện : đấy là điều mà
Raja-Yoga dạy. Chân-lý không cần dựa vào
một cơ-cấu nào cả. Phải chăng những thực-kiện
ta nhận biết ở trạng-thái thức phải được chứng-
thực bằng trạng-thái mộng hay là bằng tưởng-
tượng ? Chắc hẳn là không. Sự học-tập khoa
Raja-Yoga đòi-hỏi thời-gian và thực-hành liên-
tục. Sự thực-hành ấy một phần thuộc vật--lý,
song, chính nó thuộc về tinh-thần. Rồi đây,
chúng ta sẽ thấy sự quan-hệ cực mật-thiết giữa
thân-thể và tâm-hồn. Nếu ta tin rằng tinh-thần
chỉ là một phần tương-đối tế-vi của thân-thể, và
nó tác-động vào thân-thể, ta có thể kết-luận là
thân-thể phải phản-ứng vào tinh-thần. Nếu
thân-thể lành-mạnh thì tinh-thần lành-mạnh.
Khi nào người giận-dữ thì tinh-thần bị rối loạn.
Cũng thế mà khi tinh-thần vẩn-động thì thân-
thể cũng rối loạn. Ở phần lớn người ta, tinh-
thần lệ-thuộc vào thân-thể nhiều vì nó rất ít
phát-triển. Đại đa số nhân-loại chưa tiến-bộ
hơn động-vật mấy. Và đến cả ở nhiều trường-
hợp, năng-lực tự-chủ không hơn gì động-vật
KHOA DU-DA
23
thấp hèn. Chúng ta có ít quyền-năng đối với
tinh-thần mình. Vậy nên để có được năng-lực
ấy, để làm chủ được thân và tâm, chúng ta tìm
đến một số trợ-lực vật-lý. Khi nào chúng ta làm
chủ được thân-thể, chúng ta sẽ có khả-năng bắt
đầu hành-động vào tinh-thần. Làm như thế
chúng ta sẽ chắc làm chủ được tinh-thần và bắt
nó làm theo ý mình ; bắt nó tập-trung năng-lực
như ý mình muốn .
Đối với khoa học Raja-Yoga thì ngoại-
giới chỉ là phương diện thô của nội-giới vi-tế.
Cái vi-tế luôn luôn là nguyên-nhân của cái thô-
kệch là kết-quả. Vậy thì nội-giới là nguyên-
nhân của cái ngoại-giới, hậu-quả. Cũng như
vậy, những năng-lực ngoại-giới chỉ là những
yếu-tố thô-thiển hơn và những năng-lực nội-
giới là đối-bản tế-nhị hơn. Ai khám-phá và
học-hiểu điều-động thế nào được những năng-
lực nội-tâm sẽ làm chủ vũ-trụ toàn-thể. Nhà
đạo-sĩ Yoga không chủ-định gì hơn là làm chủ
tất cả thế-giới nội cũng như ngoại, ngự-trị tất
cả tính tự-nhiên. Nó muốn đạt tới điểm mà
KHOA DU-DA
24
chúng ta bảo là định-luật thiên-nhiên, sẽ không
ảnh-hưởng được nó nữa, tới điểm có thể vượt
tất cả. Nó sẽ làm chủ tất cả bản-tính nội và
ngoại. Đối với nhân-loại thì ý-nghĩ tiến-bộ và
văn-minh chỉ là làm chủ cái bản-tính ấy. ( Duy
thiên hạ chí thành vi năng tận kỳ tính, tận
nhân chi tính, tận vật chi tính, dữ thiên địa
tham. _ Trung-Dung ) .
Để đạt tới đấy, các chủng-tộc khác nhau
sử-dụng phương-pháp khác nhau. Cũng như
trong một xã-hội một số cá-nhân muốn chế-ngự
tính ngoại-vật thiên-nhiên, còn một số khác,
tính nội-giới, cũng vậy trong các chủng-tộc có
một số muốn chế-ngự thiên-nhiên ngoại-giới,
một số khác chính-phục thiên-nhiên nội-giới.
Có người bảo chế-ngự nội-giới, chúng ta làm
chủ tất cả ; có người khác chủ-trương, để làm
chủ tất cả nội cũng như ngoại thì phải chinh-
phục ngoại vật tính. Suy đến cùng cả hai thuyết
đều đúng, vì tính bản-nhiên không biết có sự
phân chia ra trong và ngoài , khách-quan và
chủ-quan. Đấy là một giới-định giả-tạo chưa
KHOA DU-DA
25
từng có thật, phái nội-quan và phái ngoại-quan
( intraverti et extraverti ) tất-định phải gặp nhau
ở cùng một điểm, khi nào cả hai sẽ biết tất cả
cái gì chúng cầu biết. Cũng vậy mà nhà vật-lý-
học khi đi đến cùng-cực cái kỷ-luật của mình,
thấy nó hòa vào siêu-hình-học (métaphysique),
cũng như siêu-hình-học sẽ nhận-thức rằng giữa
cái gọi là vật-chất và cái gọi là tinh-thần chỉ có
sự phân-biệt bề ngoài hình-thức, và rằng thực-
tại là Nhất-thể ( E = mC² L'énergie extrême-
ment concentrée _ A. Einstein, 1905 ) _ Năng-
lực vô-hình là vật-chất hữu hình hết sức tan
loãng ; vật-chất là năng-lực hết sức tập-trung.)
Mục-tiêu và đối-tượng của tất cả khoa
học là tìm ra nhất-tính, cái Một làm nên cái
nhiều, đồng-nhất trong đa-thù, cái " đồng quy
nhi thù đồ " ( ). Khoa Raja-Yoga
muốn khởi-hành từ trong nội-giới, quan-sát
bản-tính nội-tại, và do đấy, làm chủ toàn-thể,
trong cũng như ngoài. Mưu-toan ấy không phải
mới mẻ. Chính Ấn-Độ là xứ ưa-thích nó,
nhưng người ta cũng thấy ở các dân-tộc khác.
KHOA DU-DA
26
Ở Tây-phương người ta coi nó như huyền-bí-
học, và những người muốn chuyên học-tập nó
đã bị giết hay bị thiêu, coi như ma quỷ. Ở Ấn-
Độ, vì nhiều lý-do, khoa học ấy đã trở nên của
riêng cho một số người. Họ đã bỏ đi mất đến
chín phần mười, và phần còn lại, họ muốn làm
thành đại bí-quyết. Ở hiện tại bên Tây-phương
đã xuất-hiện vô số kẻ tự xưng là giáo-sư, tệ hơn
cả ở Ấn, vì ở đây bọn này còn biết ít nhiều, chứ
như bọn mới xuất-hiện lại không biết chi cả .
Tất cả cái gì mà hệ-thống Yoga có thể có
bí-mật và huyền-bí phải đẩy đi ngay. Hướng
đạo tốt nhất của đời sống là năng-lực. Trong
tôn-giáo cũng như trong tất cả vấn-đề khác, nên
vứt bỏ tất cả cái làm mình yếu-nhược, không
nên để nó tới gần. Tất cả cái gì bao-hàm huyền-
bí làm cho trí-não nhân-loại yếu đi. Thiếu một
chút thì người ta đã tiêu-hủy đạo Yoga _ một
trong những khoa học đẹp-đẽ nhất từ trước tới
nay. Từ khi người ta phát-hiện ra nó, hơn bốn
ngàn năm rồi, khoa Yoga đã được hoàn-toàn
vạch đường, công-thức-hóa và truyền dạy ở
KHOA DU-DA
27
Ấn-Độ. Có điều đáng chú-ý để nhận thấy rằng,
người bình-giải càng hiện-đại bao nhiêu thì sai
lầm càng lớn bấy nhiêu, và tác giả càng xưa
bao nhiêu thì giáo-lý càng hợp-lý hơn bấy
nhiêu. Phần lớn tác-giả hiện-đại tự che-phủ lấy
tất cả các loại huyền-bí. Và như vậy, khoa
Yoga rơi vào tay một số người làm cho nó
thành bí-mật, thay vì phải đem nó ra ánh-sáng
minh bạch và hợp lý. Nếu những người ấy đã
làm thành bí-mật là chỉ cốt để tư-hữu lấy
quyền-năng riêng cho mình vậy .
Trước hết tôi phải tuyên-bố với các vị là
trong điều giảng dạy của tôi không có chút gì là
bí-mật huyền-bí cả. Ít điều tôi biết được tôi sẽ
nói ra hết, chừng nào tôi có thể giãi bày hợp lý
tôi sẽ làm. Phần còn lại, điều tôi chưa biết, tôi
sẽ chỉ nói theo trong sách đã có. Các vị không
nên tin một cách mù-quáng. Các vị phải sử-
dụng lý-trí của chính mình, sự phán-đoán của
chính mình ; các vị phải thử thực-hành xem cái
gì người ta báo trước có xảy đến hay không.
Phải bắt tay nghiên-cứu khoa học này đúng
KHOA DU-DA
28
như các vị đi vào bất cứ khoa học nào khác. Nó
không có gì bí-mật và tai-hại. Nó xác thật đến
nỗi người ta phải truyền-bá giữa công-trường
và ban ngày ban mặt. Khi nào người ta cố ý
đem vào yếu-tố huyền-bí thì luôn luôn là kết-
quả tai-hại lớn .
Trước khi đi xa hơn, tôi cần nói ít lời về
triết-học Samkhya ( Số-luận ) là cơ-sở của tất
cả khoa Raja-Yoga. Theo triết-học này thì tri-
giác phát-sinh như sau :
_ Ngoại-vật kích-thích vào giác-quan
ngũ-uẩn bên ngoài như mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân-thể, những kích-thích ấy truyền ấn-tượng
vào trung-tâm não-bộ qua thần-kinh-hệ của
chúng ; những ấn-tượng ấy lại truyền vào tinh-
thần, tinh-thần có khả-năng quyết-định, do đấy
tâm vương ( Purusha ) tiếp-thụ và kết-quả là
một tri-giác. Tâm vương cơ thể nó mới lại ban
lệnh cho trung-tâm thần-kinh động-cơ để cho
chúng thi-hành mệnh-lệnh cần thiết .
KHOA DU-DA
29
Ngoài tâm vương ( Purusha ), tất cả các
thành-phần trên đều thuộc vật-chất, nhưng tinh-
thần thuộc về một chất tế-nhị hơn nhiều so với
công-cụ cơ-quan bên ngoài. Cái chất tạo nên
tinh-thần cũng dùng tạo nên vật-chất tế-nhị, gọi
là Tanmatras = (đại nhân-tố như thủy, hỏa, địa,
phong hay là không ). Những yếu-tố này tự
kết-tụ lại và làm ra vật-chất vật-lý bên ngoài .
Đấy là tâm-lý-học của phái Samkhya (Số-luận).
Như vậy thì tri-thức và vật-chất vật-lý bên
ngoài chỉ khác nhau về trình-độ. Chỉ riêng
Tâm-vương hay là Thần-Ngã ( Purusha ) là
phi-chất. Tinh-thần, nói như thế là một công-cụ
trong tay của linh-hồn, nhờ công-cụ ấy mà
linh-hồn nắm được đối-tượng bên ngoài, ngoại
vật. Tinh-thần luôn luôn là giòng biến-đổi và
giao-động ; nó có thể, khi được tu-luyện, chấp
giữ tại nhiều cơ-quan, hay một cơ-quan, hay là
không dính vào đâu cả. Ví dụ, tôi nghe rất chú-
ý tiếng tíc-tắc của đồng hồ quả lắc, thì có lẽ tôi
không nhìn thấy chi nữa, dù tôi có mở mắt ; đủ
thấy rằng tinh-thần tôi có liên-hệ tới cơ-quan
thính-giác và không chú ý vào thị-giác. Tinh-
KHOA DU-DA
30
thần được luyện hoàn-hảo có thể đồng thời để ý
vào tất cả các cơ-quan. Nó có khả-năng hồi-
hướng vào chính nó và quan-sát chính vực-
thẳm của chính nó, tức nội cứu vào tiềm-thức
sâu kín. Cái khả-năng phản-tỉnh ấy là điều mà
đạo-sĩ Yoga muốn đạt tới ; bằng cách tập-trung
năng-lực tinh-thần mình vào bên trong, nó tìm
biết cái gì diễn ra trong lòng. Đấy không còn là
vấn-đề tin-tưởng đơn-giản ; đấy là một phân-
tích ( analyse ) mà một số triết-gia đạt tới
( Phân-tâm-học = Psychanalyse ). Các nhà
sinh-lý-học hiện-đại bảo ta rằng, mắt không
phải quan-năng thị-giác, nhưng cơ-quan ấy thì
ở tại một trong những trung-khu thần-kinh của
não, và đối với tất các giác-quan khác cũng thế;
họ còn nói thêm rằng những trung-khu ấy đều
cùng chất với chính não tủy. Các triết-gia Số-
luận cũng nói thế, nhưng các nhà sinh-lý-học
đứng ở quan-điểm vật-lý, còn Số-luận đứng ở
quan-điểm tâm-lý : tuy vậy, ở cả hai đàng đều
cùng một khẳng-định. Khu-vực khảo-cứu của
chúng ta thì ở ngoài, vượt cả sinh-lý lẫn tâm-lý.
KHOA DU-DA
31
Đạo-sĩ Yoga chủ-định đạt tới trạng-thái
vi-tế tri-giác, trong đó y có thể tri-giác tất cả
trạng-thái tinh-thần khác nhau. Phải có ở đấy
tri-giác tinh-thần của mỗi trạng-thái giữ chúng.
Người ta có thể cảm thấy ấn-tượng lưu-hành ra
sao, nó được tinh-thần tiếp-nhận thế nào, nó đi
đến quan-năng quyết-định thế nào và như thế
nào quan-năng quyết-định này chuyển giao cho
Tâm-vương ( Purusha ). Mỗi khoa học cần có
một ít sửa-soạn dự bị và có phương-pháp riêng
mà người ta phải tuân theo, nếu muốn hiểu, và
đối với khoa Raja-Yoga cũng thế .
Phải tuân theo một số chỉ-thị về ăn uống,
chỉ ăn thức ăn nào làm cho tinh-thần thanh-
khiết. Nếu người ta đến thăm chuồng nuôi súc-
vật, người ta liền thấy bằng-chứng. Người ta sẽ
thấy những con voi là động-vật khổng-lồ mà
hiền-từ, còn những sư-tử và hổ, báo, tuy nhỏ
hơn voi mà lồng-lộn dữ-tợn, đủ tỏ ảnh-hường
của chế-độ ăn uống, một đàng ăn rau cỏ, một
đàng ăn thịt .
KHOA DU-DA
32
Tất cả năng-lực tác-dụng ở thân-thể ta
đều do thực-phẩm sinh ra, điều ấy ta nhận thấy
hàng ngày. Nếu người ta nhịn ăn thì trước hết
thân-thể yếu dần, sức mạnh vật-lý bị thương-
tổn, rồi sau mấy ngày sức mạnh tinh-thần cũng
suy-giảm. Trước hết là trí nhớ suy-giảm, rồi
đến độ người ta sẽ không còn tư-tưởng được
nữa và rồi, thậm-chí càng không còn theo đuổi
lý-luận được. Vậy đầu tiên ta phải để ý đến
cách nuôi dưỡng ; khi nào đã được khá mạnh,
khi nào chúng ta đã tiến-bộ trong thực-hành
kỷ-luật trên, chúng ta không còn cần để ý đến
mấy nữa. Chừng nào cây non mọc, nó cần được
che-chở để khỏi bị hủy-hoại, đến khi nó đã
thành cây thì có thể bỏ rào-giậu đi, vì nó đủ sức
để tự chống đỡ, thắng tất cả sự tấn-công .
Đạo-sĩ Yoga hay Đạo-dẫn hoặc Thiền
Dhyana phải tránh hai cực-đoan là sa-hoa và
khắc-khổ. Y không được nhịn đói và hành xác.
Kinh ( Gita ) Thế-Tôn-Ca nói : Kẻ nào làm như
thế thì không thể trở nên Đạo-sĩ Yogin. cũng
không thành Đạo-sĩ Yogin những ai ăn nhiều
KHOA DU-DA
33
quá hay nhịn ăn tịch-cốc ; không ngủ hay ngủ
nhiều ; làm việc quá sức hay lười biếng không
làm .
*****
*
KHOA DU-DA
35
NHỮNG BƯỚC ĐẦU
CỦA KHOA
RAJA-YOGA ( ĐẠO-DẪN )
HAY LÀ DHYANA ( THIỀN )
Khoa tu-luyện Raja-Yoga gồm có 8 độ
đường :
1)_ Độ thứ nhất là Yama, giới sát, thành-thật,
thấu đạo, tiết chế, không nhận quà biếu .
2)_ Độ thứ hai là Niyama, trong sạch, tự mãn,
kham khổ, học hỏi, hiến thân cho Thượng-Đế .
3)_ Kế đến là Asana, tọa thiền .
4)_ Rồi đến Pranàyama, điều tức, chế ngự hơi
thở .
KHOA DU-DA
36
5)_ Tiếp theo là Pratyàhara, ly khai giác quan
với đối tượng của chúng .
6)_ Dharana, chỉ định vào một điểm .
7)_ Sau cùng là Dhyana, thiền định và
8)_ Samadhi hay là trí-tuệ hoặc siêu-thức tam
muội .
Yam và Niyama như ta thấy đều là những
kỷ-luật giới-điều đạo-đức ; không có cơ-bản ấy
thì không có thể thực-hành đạo Yoga được
thành-công. Khi nào hai giới-điều trên được
thiết-lập vững chắc, nhà đạo-sĩ bắt đầu thu
lượm kết-quả của những thực-tập của mình ;
không có giới-điều thì sẽ không bao giờ có
được kết-quả gì cả, dù nhỏ . Nhà đạo-sĩ không
được nghĩ làm hại bất cứ ai ở ý, ở miệng và ở
thân. Lòng từ bi của y không những chỉ để cho
người mà còn lan đến và bao-hàm tất cả thế-
giới .
KHOA DU-DA
37
Giai-đoạn sau đấy là Asana, tọa. Người ta
phải tuân thủ hàng ngày một hàng những thực-
tập vật-lý và tinh-thần cho đến chừng nào
người ta đạt tới một số trạng-thái cao-đẳng.
Vậy tất nhiên, tối cần-thiết là phải tìm lấy một
tư-thế có thể giữ được mãi. Phải tìm lấy một
tư-thế tự-nhiên thoải-mái nhất. Có tư-thế rất có
thể cho người này khi muốn suy-tư, nhưng lại
rất khó cho người kia. Chúng ta sẽ thấy về sau,
trong khi học về những vấn-đề tâm-lý ấy trong
thân-thể phát-triển một sự hoạt-động lớn. Một
số luồng thần-kinh phải được đổi chỗ và
hướng-dẫn vào một luồng mới. Các loại ba-
động mới xuất-hiện và tất cả cơ-thể có thể nói
là được đúc lại mới. Nhưng cái phần cốt-yếu
của hoạt-động là ở đường xương-sống, đến nỗi,
điều thiết-yếu duy-nhất cho tư-thế đã chọn là
xương-sống phải được thoải-mái, thẳng ngay,
và ngực, cổ, đầu phải đi một đường thẳng nối-
tiếp nhau. Tất cả thân-thể phải được xương-
sườn nâng đỡ và người ta sẽ có một tư-thế tự-
nhiên và đơn-giản, xương-sống thẳng-thắn.
Người ta sẽ dễ nhận thấy với lồng ngực gặp lại
KHOA DU-DA
38
người ta không thể có tư-tưởng cao-siêu. Cái
phần Yoga này tương-tự với thuật dưỡng-sinh.
Hatha-Yoga chuyên luyện thân-thể vật-lý nhằm
mục-đích cường-tráng. Chúng tôi không đề-cập
ở đây, vì sự thực-tập của nó rất khó và không
phải có thể học tập trong một ngày được, hơn
nữa phương-pháp ấy không mang lại tiến-bộ
lớn cho tinh-thần. Các người sẽ thấy nhiều
giáo-lý dưỡng-sinh Hatha-Yoga ở Delsarte và
nhiều tác-giả khác, về tư-thế khác nhau cho
thân-thể. Mục-đích ở đấy là bình-diện vật-lý
không phải tâm-lý. Ở thân-thể không có một
thớ thịt nào mà người ta không thể làm chủ
hoàn-toàn. Người ta có thể để cho tim đập mau
hay ngừng đập, và người ta có thể cả đến điều-
khiển, hướng-dẫn tất cả bộ-phận của cơ-thể .
Kết-quả của khoa Yoga đặc-biệt này là
làm cho người ta sống lâu ; mạnh khỏe là điều
chú ý cốt-yếu, mục-tiêu duy-nhất của thuật
dưỡng-sinh Hatha-Yoga. Nhà Đạo-sĩ dưỡng-
sinh này quyết định không có bệnh và y sống
lâu ; một trăm tuổi là thường ; y sẽ trẻ dai và
KHOA DU-DA
39
thanh-xuân, tóc không bạc đến 150 tuổi. Nhưng
chỉ thế thôi... Một cây đa cổ-thụ có khi sống
đến 5000 năm, nhưng trước sau vẫn chỉ là một
cái cây không hơn. Nếu một người có một đời
sống lâu dài, nó cũng chỉ là một động-vật khỏe
mạnh mà thôi. Tuy nhiên, một vài giáo-lý
thông-thường của nhà thuật-sĩ Hatha rất hữu
ích. Vậy, trong các vị, một số sẽ thấy với bệnh
nhức đầu, nếu vào buổi sáng, thì điều rất tốt là
uống nước lạnh qua lỗ mũi khi mới ngủ dậy ;
suốt ngày hôm ấy người ta sẽ thấy đầu óc sảng-
khoái và sẽ không bao giờ bị cảm lạnh. Rất dễ
làm, dìm mũi vào trong nước, hít vào qua cổ-
họng, hoặc nhổ ra hay nuốt đi .
Khi nào người tập tọa-thiền ở tư-thế
ngay-ngắn và vững chắc rồi người ta phải tuân
theo thực-tập, gọi là thanh-khiết-hóa thần-kinh.
Nhà hiền-triết có uy-tín lớn là Shàkarâcharya
có bình-giải Kinh Upanisad Svetasvara như
sau :
KHOA DU-DA
40
" Tinh-thần mà cặn-bã đã được tẩy
sạch bằng khoa điều-tức, chế-ngự hơi thở
( Pranayama ) trở nên chỉ-định vào
Brahman ( Tuyệt-đối Phạm-Thiên ). Cho
nên khoa điều-tức được tuyên-cáo. Trước
hết thần-kinh phải được tinh-khiết-hóa, kế
đến là khả-năng điều-tức ( Pranayama ).
Lấy ngón tay cái bịt lỗ mũi bên phải lại,
hít không-khí qua lỗ mũi bên trái, tùy
khả-năng ; rồi liền thở không-khí bằng lỗ
mũi bên phải, trong khi lại bịt lỗ mũi bên
trái. Lại hít vào lần này qua lỗ mũi bên
phải, thở ra bằng lỗ mũi bên trái tùy khả-
năng ; tập như thế 3 hay 5 lần liền, cách 4
giờ một ngày : sáng sớm ; trưa ; chiều và
nửa đêm, sau 15 ngày hay 30 ngày người
ta có được thần-kinh trong sạch ; bấy giờ
mới bắt đầu khoa điều-tức (Pranayama)."
Thực-hành là tối cần-thiết. Các vị có thể
rất chú-ý nghe tôi hàng giờ mỗi ngày, nhưng
không thực-hành thì sẽ không tiến được một
bước. Tất cả đều lệ-thuộc vào thực-tập. Chúng
KHOA DU-DA
41
ta không thể hiểu được những vấn-đề này, nếu
chúng ta chưa từng thực-nghiệm, cần phải nhìn
thấy, cảm thấy tự thân mình. Nghe những giải-
thích và lý-thuyết không đủ .
Nhiều yếu-tố có thể cản-trở thực-hành
học-tập ấy. Trở-ngại đầu tiên là sức khỏe vật-
lý ; nếu thân-thể không lành mạnh thì sự tu-tập
sẽ bị trở-ngại. Vậy chúng ta phải giữ cho thân-
thể kháng-kiện, săn-sóc sự ăn uống và hành-vi.
Luôn luôn để ý vào việc dưỡng-sinh, thân-thể
khỏe mạnh. Đối với thân-thể chỉ thế thôi. Sức
khỏe, nên nhớ, chỉ là phương-tiện, không phải
cứu-cánh. Nếu lấy sức mạnh làm mục-đích thì
chẳng khác gì động-vật, cầm-thú ít khi có bệnh.
Trở-ngại thứ hai của việc tu-luyện đạo-
dẫn ( Yoga ) hay thiền-định ( Dhyana ) là sự
hoài-nghi, chúng ta luôn luôn có sự hoài-nghi
về cái gì chưa nhìn thấy. Người ta không thể
sống bằng lời nói suông, dù cố thử sống. Vậy
nên có sự hoài-nghi, và chúng ta tự hỏi những
giáo-lý này có gì là xác thật không ; cả những
KHOA DU-DA
42
người có thiện-chí nhất trong chúng ta cũng có
lúc hoài-nghi. Với thực-tập, sau ít ngày người
ta có được một ít trực-giác đại-khái, đủ đem lại
can-đảm và hy-vọng. Như có một triết-gia
Yoga đã nói : " Khi có được xác-nghiệm, dù
rất ít ỏi, nó cũng cho ta tin-tưởng vào tất cả
giáo-lý Yoga ." Sau mấy tháng tu-tập, người ta
thấy, chẳng hạn, có thể đọc được tư-tưởng
người khác, chúng hiện ra thành hình-ảnh. Có
thể ta nghe thấy những tiếng từ đàng xa, khi
tập-trung tinh-thần để nghe. Những trực-giác
ấy trước hết sẽ đến từng mẩu nhỏ, nhưng đủ để
cho ta có đức tin, sự vững dạ và hy-vọng. Ví dụ
người ta tập-trung tư-tưởng vào đầu mũi, sau
vài ngày, người ta bắt đầu ngửi thấy mùi thơm
ngạt-ngào : điều này chứng tỏ rằng một số tri-
giác tinh-thần có thể biểu-hiện hiển-nhiên
không do sự tiếp-xúc cụ-thể với vật-chất.
Nhưng chúng ta luôn luôn phải nhớ rằng, đấy
chỉ là phương-tiện ; mục-tiểu, cứu-cánh của tất
cả sự luyện-tập ấy là sự giải-thoát của linh-hồn.
Chúng ta phải nhằm mục-đích chế-ngự tuyệt-
đối tính thiên-nhiên, không gì hơn. Chúng ta
KHOA DU-DA
43
phải là chủ thiên-nhiên chứ không là nô-lệ của
nó ; thân-thể hay tinh-thần chẳng phải ông chủ
của ta và không bao giờ được quên rằng thân-
thể thuộc về ta, chứ không phải ta thuộc về nó .
( Một vị thần và một thằng quỷ cùng đến
hỏi một nhà hiền-triết, giảng dạy cho họ biết về
cái Ngã, cái Ta. Họ học hỏi theo chỉ-đạo của
nhà hiền một thời-gian lâu ; cuối cùng nhà hiền
bảo họ : " Chính các người là tự-thân Thực-thể
mà các người đi tìm ! " Cả hai liền hiểu cái
thân-thể mình là cái Ngã. Họ trở về nhà và nói
với người chung-quanh : " Chúng ta đã học
được tất cả điều có thể học ; ăn đi, uống đi,
cười đi ; chúng ta là cái Ngã ; không có gì ở
ngoài chúng ta cả." Thằng quỷ, vốn ngu dốt và
kém thông-minh, cho nên nó không còn đòi hỏi
chi nữa ; cái tư-tưởng nó là Thượng-Đế và cái
Ngã có nghiã là thân-thể đã thỏa mãn nó hoàn-
toàn. Vị thần có một bản-tính thanh-cao hơn.
Trước hết y lầm rằng : " Ngã, cái thân-thể này,
Ta, là Brahman Tuyệt-đối ; sẽ bảo-vệ sức khỏe
và cho y tất cả thích-thú." Nhưng sau vài ngày,
KHOA DU-DA
44
y phát-hiện rằng nhứ thế không phải ý-nghĩa
lời nói của sư-phụ hiền-triết kia. Vậy y trở lại
hỏi : " Thưa thày, thày đã chẳng dạy tôi rằng
thân-thể là Ngã ? Nếu thực-thế, tôi nhận thấy
rằng tất cả thân-thể đều chết. Song, cái Ngã
không có thể chết." Nhà hiền đáp : " Hãy tìm
và thấy ; ngươi là cái Ấy." Bấy giờ vị thần
nghĩ rằng nhà hiền có lẽ muốn chỉ vào sinh-lực
nó làm cho thân-thể sinh-động. Nhưng sau ít
lâu, y nhận thấy nếu ăn thì sinh-lực mạnh, và
nếu nhịn ăn thì nó suy-nhược. Rồi y lại tìm đến
nhà hiền-triết để hỏi : " Thưa thày, có phải thày
muốn nói sinh-lực là Ngã không ? _ " Hãy tự
tìm lấy và sẽ thấy, ngươi là cái Ấy." Vị thần
một lần nữa trở về nghĩ rằng có lẽ tâm-thần là
cái Ngã. Nhưng rồi y thấy rằng tư-tưởng hay
biến-đổi, có lúc tốt, có lúc xấu ; tâm-thần quá
bất-nhất để là cái Ngã. Y lại quay lại nhà hiền
để nói : " Sư-phụ, tôi không tin rằng tâm-thần
( mental ) là cái Ngã, có phải thày muốn nói thế
chăng ? Nhà hiền đáp : " Không phải, ngươi là
cái Ấy. Hãy tìm và tự mình thấy. Vị thần kia về
nhà và cuối cùng phát-hiện ra mình là cái Ngã,
KHOA DU-DA
45
vượt ra ngoài tất cả tư-tưởng, cái Duy-Nhất, bất
sinh, bất tử, gươm dáo đâm không thủng, lửa
không đốt cháy, gió không làm khô héo, và
nước không tiêu-tan được, Thực-Thể vô thủy
vô chung, bất di bất dịch, không thể đụng chạm
tới được, toàn tri toàn năng ; rằng nó chẳng
phải cái thân-thể này, cũng chẳng phải tâm thần
( mental ), nhưng ở trên cả hai. Và như thế y
thấy mãn nguyện. Nhưng thằng quỷ kia, vì quá
yêu thân-thể mình nên đã không thấy được
chân-lý . )
_ ( Chandagoya - Upanisad, ch. VIII )
Thế-giới của chúng chứa nhiều những
tính ma quỷ ấy, nhưng cũng có một vài thần-
tiên. Ai dạy khoa học cho người ta tăng thêm
thích-thú quan-năng, sẽ thấy người ta xúm-xít
lại nghe. Nếu người nào muốn chỉ bảo mục-
đích tối-cao, thì trái lại chỉ thấy rất ít thính-giả.
Rất ít người có khả-năng nắm được cái gì cao-
thượng nhất, càng ít có sức kiên-nhẫn để đạt tới
đấy. Nhưng cũng có một số biết rằng dù kéo
dài đời sống xác thịt đến ngàn năm, kết-quả sẽ
KHOA DU-DA
46
vẫn thế. Khi sức nâng đỡ thể-xác đi khỏi, nó tất
nhiên tan rã, không một ai trên đời này từng có
thể giữ được cái thân-thể này khỏi biến-đổi.
Trong giòng sông, những làn nước thay đổi
từng giây trước mắt chúng ta, và những lớp
mới kế đến để lại bày ra cùng một trạng-thái;
đối với thân-thể chúng ta cũng thế. Vậy mà
phải bảo-vệ lấy thân-thể lành mạnh, vì nó là
công-cụ tốt nhất mà chúng ta có được .
Thân-thể nhân-loại là vũ-trụ tối-hảo và
nhân-thế là thể tối-hảo. Loài người cao hơn tất
cả động-vật, hơn cả thần-tiên ; không ai vĩ-đại
hơn. Cả đến các chư-vị Devas sẽ phải lại giáng
xuống và trải qua một thân người để đạt tới
giải-thoát. Chỉ có loài người có thể đi đến
thành-tựu, còn như cả đến chư-vị Devas cũng
không đạt tới đấy được. Theo tín-đồ Do-Thái
và Hồi-giáo, Thượng-Đế tạo ra loài người sau
thần-tiên và các loài khác. Và sau khi đã tạo ra
người, Ngài sai thần-tiên đến chào, tất cả đều
tuân theo, trừ có Iblis, cho nên vị này bị
nguyền-rủa và trở nên Satan, Quỷ. Bên trong
KHOA DU-DA
47
ngụ-ngôn ấy là cái chân-lý lớn cho rằng nhân-
loại sinh ra là sự-kiện cao-cả nhất có thể có
được. Tạo-vật thấp như động-vật thì tối-tăm,
phần lớn do âm-chất ( tamas ) hợp thành.
Động-vật không thể có được tư-tưởng cao quý.
Và tiên cũng như thần, chư vị không đạt được
tới tự-do giải-thoát thẳng nếu không qua kiếp
người. Cũng như trong xã-hội chúng ta, một sự
giầu-có quá hay là một sự quá nghèo-khổ đều
là những cản-trở nặng-nề cho sự phát-triển cao
của tâm-hồn. Chính là từ trong giới trung-lưu
mà xuất ra những bậc vĩ-đại của thế-giới. Ở
đấy những năng-lực được phân-phối rất đều và
quân-bình .
Trở lại đề-tài trên, nay chúng ta đi đến
mục Điều-tức ( Pranayama ) đạo-dẫn hơi thở.
Điều này có quan-hệ gì với sự tập-trung Thiền-
định năng-lực tinh-thần ? Hơi thở ví như bánh-
lái của bộ máy là thân-thể ta. Trong bộ máy
lớn, ta thấy tay lái quay đầu tiên, rồi nó chuyển
vận-động cho các cơ-quan nhỏ hơn, cho chí sau
cùng các guồng máy tế-nhị hơn, nhỏ bé hơn
KHOA DU-DA
48
cũng bắt đầu tác-động. Hơi thở là bánh-lái nó
đem cho và điều hòa năng-lực động-cơ, tất cả
bộ-phận của thân-thể .
Có một lần, tại triều-đình của một ông
vua lớn, một vị thượng-thư bị thất sủng. Nhà
Vua, để trừng-phạt, bắt giam ông ta trên từng
lầu cao nhất của bức thành, và bỏ ông thượng-
thư khốn-nạn đó chờ chết ở đấy. Nhưng ông ta
có một người vợ rất hiền, đêm đến nàng lần
đến chân tầng lâu và hỏi chồng xem nàng có
thể làm gì để cứu. Ông ta bảo vợ đêm sau đến
mang theo một cái thừng dài, một sợi giây bền,
một sợi chỉ thô và một sợi tơ, một con bọ-hung
và một chút mật. Rất thắc-mắc, nhưng người
vợ phục-tòng chồng và đem đến những vật ông
ta đòi. Ông ấy bảo vợ buộc chặt một đầu sợi tơ
ngang mình con bọ, bôi vào râu nó một giọt
mật và thả nó bò lên tường hướng đầu lên trên.
Người vợ làm tất cả điều ấy, và con bọ bắt đầu
hành-trình dài của nó. Ngửi thấy vị mật trước
mặt nó, nó leo dần dần, mong tới được nơi có
mật. Sau cùng nó bò đến đỉnh lâu-đài, ông
KHOA DU-DA
49
thượng-thư liền bắt lấy sợi tơ. Y, bây giờ mới
bảo vợ buộc sợi tơ vào cái giây gai, rồi sau khi
nắm được sợi giây gai y lại tái diễn với giây
chuỗi, rồi đến cái thừng, rất dễ dàng. Y tuột
xuống lầu theo giây thừng và bỏ trốn đi. Trong
thân-thể của ta, hơi thở là sợi tơ. Nếu ta bắt lấy
nó và tập điều-khiển nó, ta nắm được giây
thừng lớn của các luồng thần-kinh, rồi đến sợi
giây tư-tưởng của ta, và cuối cùng là cái thừng
của khí Prana ( sinh khí ), nhờ nó mà ta chinh-
phục được tự-do, giải-thoát của chúng ta .
Về thân-thể ta, chúng ta chẳng biết chi cả
và không có thể biết được. Nhiều lắm, chúng ta
có thể lấy tử-thi mà mổ xẻ. Cũng có kẻ lấy con
vật và chặt sống để nhìn xem cái gì diễn ra bên
trong thân-xác nó. Nhưng điều ấy có liên-can
gì với thân-thể ta, mà chúng ta biết rất ít. Tại
sao ta lại ngu dốt đến thế ? Bởi vì chú-ý của ta
chưa đủ biện-biệt để bắt được vận-động vi-tế
diễn ra ở bên trong. Chúng ta chỉ có thể nhận-
thức khi nào tinh-thần sắc-bén và thâm-nhập
sâu hơn vào thân-thể. Muốn tới những tri-giác
KHOA DU-DA
50
vi-diệu hơn thì phải bắt đầu bằng tri-giác thô,
kém vi-tế. Chúng ta phải làm chủ được tất cả
cái gì điều-động được bộ máy. Chính cái ấy là
sinh-khí ( Prana ), mà sự biểu-hiện cụ-thể nhất
là hơi thở. Rồi thì với hơi thở, chúng ta đi sâu
dần dần vào bên trong thân-thể, ngõ hầu để
cảm thấy những năng-lực vi-tế là những luồng
thần-kinh chạy khắp thân-thể. Khi bắt đầu tri-
giác thấy chúng và tập cảm-xúc với chúng,
chúng ta bắt đầu có thể điều-khiển được chúng
và cùng chế-ngự được thân-thể. Tinh-thần cũng
do các luồng thân-kinh ấy điều-động, và kết-
cục ta đạt tới trạng-thái hoàn-toàn làm chủ cả
thân-thể và tinh-thần ; thân tâm thành nô-lệ của
ta. Biết là năng, chúng ta phải đạt được quyền-
năng, vậy nên phải đi từ đầu bằng điều-tức
( pranayama ) và làm chủ hơi thở ( prana ).
Khoa điều-tức ( pranayama ) là một vấn-
đề phức-tạp, cần phải nhiều bài giảng để giải-
thích chi-tiết. Chúng ta đề-cập tuần-tự các
thành-phần khác nhau. Chúng ta sẽ thấy dần
KHOA DU-DA
51
những lý cố của mỗi môn tập, và cả những sức
mạnh chúng điều-động thân-thể .
Tất cả sẽ đến, nhưng phải kiên-cố thực-
tập môn học, rồi bằng-chứng sẽ hiện ra chính
trong thực-hành. Tất cả lý-luận tôi có thể đưa
ra cho các vị chẳng chứng-thực được gì, chừng
nào các vị chưa tự mình chứng-minh lấy. Khi
các vị bắt đầu cảm thấy các luồng điện lưu-
hành khắp thân-thể, thì lòng nghi-ngờ sẽ tiêu-
tan, nhưng phải tự-nghiệm thực-hành hàng
ngày, ít nhất là hai lần một ngày, và thời-gian
tốt nhất là sáng và chiều ; khi ngày lui vào đêm
hay ngược lại thì có một trạng-thái tương-đối
bình-tĩnh ; sáng sớm và sẩm tối là hai buổi
bình-tĩnh của một ngày. Vào những lúc ấy,
thân-thể của chúng ta cũng tỏ ra cùng một
khuynh-hướng bình-tĩnh. Phải lợi-dụng điều-
kiện tự-nhiên ấy để bắt đầu luyện-tập. Hãy tự
giữ nguyên-tắc, không ăn trước khi hành-công ;
nếu không làm thế thì sự đói sẽ khích-động tính
lười của mình. Bên Ấn-Độ, người ta dạy trẻ
con không bao giờ ăn trước khi tập-luyện hay
KHOA DU-DA
52
sùng-bái, và sau ít lâu điều ấy trở nên thói
quen ; một thiếu-niên không thấy đói trước khi
tắm và hành-công tu-tập .
Trong các vị ở đây, ai có khả-năng nên
dành lấy một phòng riêng, chuyên để tập-
luyện ; không được ngủ ở đấy, chỗ ấy phải giữ
thanh-tĩnh ; không nên vào trước khi chưa tăm
rửa và thân tâm tinh-khiết-hóa hoàn-toàn. Hãy
luôn luôn cắm hoa trong phòng ấy, chúng đem
lại cho người tu-sĩ yoga không-khí tốt nhất. Và
cũng nên treo tranh ảnh ưa-thích, năng đốt
nhang đêm, ngày. Không nên giận-dữ, cãi-cọ,
hay tư-tưởng phàm-tục trong phòng ấy. Chỉ
cho vào đấy những người cùng tư-tưởng với
mình. Như thế sẽ tạo ra dần dần trong phòng
một không-khí thánh-linh, đến mức mà khi nào
người ta buồn phiền, khổ-sở, nghi-ngờ hay
tinh-thần rối-loạn, chỉ việc bước chân vào
phòng ấy, người ta sẽ thấy bình-tĩnh lại. Đây là
ý-nghĩ cơ-bản của nơi thờ-tự, đến, chùa. Người
ta cũng thấy cái không-khí bình-tĩnh ở một số
nhà-thờ hay đền chùa, nhưng phần lớn người ta
KHOA DU-DA
53
đã bỏ mất cả ý-niệm đó. Ai không thể tự dành
cho mình một phòng riêng chuyên để tập-
luyện, thì có thể hành-công bất cứ ở đâu cũng
được. Hãy ngồi với thân-thể ngay-ngắn và
trước hết hãy phóng ra một luồng tư-tưởng
thần-thánh cho tất cả tạo-vật. Hãy nhẩm :
" Nguyện tất cả chúng-sinh hạnh-phúc ; tất cả
được bình-an ; tất cả đều được hưởng hoan-
lạc." Hãy hướng tư-tưởng ấy về phương Đông,
phương Nam, phương Bắc và phương Tây.
Người ta càng làm thế bao nhiêu thì cáng thấy
tốt lành hơn bấy nhiêu. Người ta phát-hiện sau
hết là, cách dễ-dàng nhất để được lành mạnh là
nghĩ đến sự lành mạnh của người khác ; cách
dễ nhất để thấy mình sung-sướng là xác-định
cho mọi người khác đều sung-sướng .
Sau khi đã làm tất cả điều trên, ai tin vào
Thượng-Đế sẽ cầu-nguyện, không phải để xin
tiền hay sức-khỏe hay là thiên-đường, mà là
cầu xin hiểu-biết và ánh-sáng. Tất cả cầu-
nguyện khác đều vị-kỷ. Sau đấy phải nghĩ về
chính thân-thể của mình, xem nó có được tinh-
KHOA DU-DA
54
khiết và kháng-kiện không, vì nó là công-cụ tốt
nhất mình có được. Nghĩ đến nó cũng kiên-
cường như kim-cương ; nghĩ nhờ nó để cái
thân-thể ấy vượt biển sinh tử. Tự-do giải-thoát,
người nhu-nhược không có thể chinh-phục
được ; hãy trút bỏ hết tính nhu-nhược ; hãy bảo
thân-thể là nó cường-kiện ; nói với tâm thân là
nó mạnh, và hãy có đức tin nơi mình, một lòng
tin và một hy-vọng vô-cùng vô-hạn .
*****
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
55
TINH-HOA TRIẾT-HỌC
ĐẠO-DẪN ( YOGA )
Theo SWAMI VIVEKANANDA
( D.V. Athalye )
Tư-Tưởng Đại-Cương Về
Bất-Nhị-Pháp ( Vedanta ) ._
Khi chúng ta bảo rằng Swami muốn làm
sống lại tôn-giáo nguyên-thủy thuần-túy A-ly-
an-nhân ( Aryen ) chúng ta phải hiểu không chỉ
có là tường-thuật Áo-nghĩa-thư ( Upanisads )
về tôn-giáo ấy mà ông bênh-vực. Điều ông
muốn là khuyến-khích làm sống lại tất cả yếu-
tố tốt nhất cao-quý nhất của nó ở bất cứ thời
nào trải qua hàng thế-kỷ. Tóm lại là Swami
muốn làm sống lại tất cả cái gì cao-quý nhất,
KHOA DU-DA
56
tốt nhất, bổ ích nhất, thích-hợp nhất trong mẹ
đẻ tất cả Tín-ngưỡng .
Không những chỉ thế thôi. Swami đã sửa-
soạn để thích-ứng Ấn-Độ-giáo cổ xưa với nhu-
cầu ngày nay. Ông sẵn-sàng xét đến những
hoàn-cảnh thay-đổi của hiện-đại. Thời-đại mới
tạo ra những hoàn-cảnh mới và cùng cả những
nhu-cầu mới. Cũng thế, sự tiếp-xúc với Tây-
phương và sự nghiên-cứu những tư-tưởng, văn-
hóa và chế-độ xã-hội Tây-phương đã tạo ra
nhu-yếu cho một nhận-thức mới-mẻ và cải-
cách về triết-học, luân-lý và siêu-hình của
chúng ta ; trừ-phi và chừng nào điều ấy thành-
tựu, thì Ấn-Độ-giáo ngày nay mới có thể thích-
hợp đối với cái họa và những khó-khăn đang
đe-dọa nuốt chửng nó. Đấy là ý-kiến chủ-yếu
của Swami .
Sự thực, Swami đã đòi một hình-thức tín-
ngưỡng tiến-bộ nhất, cải-cách nhất, thích-ứng
nhất. Tân Ấn-Độ-giáo phải là một hình-thức
ấy, Swami không ưa danh-hiệu Ấn-Độ và Ấn-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
57
Độ-giáo do người Ba-Tư đã khoác cho nó. Ông
muốn gạt bỏ nó đi và bắt đầu tự xưng với danh-
hiệu thích-hợp hơn .
Swami nói :
_ " Có một tiếng đã trở nên phổ-
thông để gọi tên chủng-tộc và tôn-giáo
của chúng ta. Cái tên gọi Hindu đòi một
chút giải-thích liên-quan với cái mà tôi
hiểu là Vedanta. Cái tên " Hindu " này
đã là cái tên mà người Ba-Tư ( Persan )
xưa dùng áp-dụng cho sông " Shindu ".
Ở đâu trong Phạn-ngữ ( Sanscrit ) có chữ
" S ", thì ở tiếng Ba-Tư cổ nó được đổi ra
chữ " H ", như "Shindu" trở nên "Hindu".
Nay chữ Hindu ấy đã áp-dụng cho dân
của bờ bên kia sông Indus, nó đã mất hết
sức mạnh của nó hiện-đại, bởi vì tất cả
dân sống ở đấy không còn thuộc về một
tôn-giáo nữa. Ở đấy có Ân-Độ-giáo, Hồi-
giáo, Ba-Tư-giáo, Cơ-Đốc-giáo, Phật-
giáo, Kỳ-Na-giáo. Tên gọi Hindu theo
nghĩa đen phải gồm tất cả những tôn-giáo
KHOA DU-DA
58
ấy. Nhưng về mặt tôn-giáo mà gọi tất cả
là Ấn-Độ-giáo thì không đúng. Bởi vậy
nên rất khó tìm được một tên gọi chung
cho tôn-giáo chúng ta, vì nó tập-hợp
nhiều tôn-giáo khác nhau, nhiều quan-
niệm khác nhau, nhiều hình-thức và nghi-
lễ khác nhau, tất cả gồm thành một mớ,
phần lớn không có tên gọi, một nhà-thờ
chung và không có một tổ-chức nào. Có
lẽ chỉ có một điểm mà tất cả giáo-phái
đồng-tình là tất cả chúng ta đều tin vào
kinh-điển Vedas. Tất cả kinh Vedas của
chúng ta biết đều chia làm hai phần :
Karma Kanda ( Chi Hành ) và Inana
Kanda ( Chi Thức ). Chi Hành gồm nhiều
nghi-lễ khác nhau ; Chi Thức thể-hiện
giáo-lý tâm-linh của Vedas gọi là Áo-
nghĩa-thư ( Upanisads ) và Vedanta ( kết-
luận Vedas ) đã được tất cả giáo-sư, triết-
gia, và văn-sĩ của chúng ta, hoặc Lưỡng-
nguyên, Bán-nhất-nguyên hay là Nhất-
nguyên tuyệt-đối trích-dẫn như uy-tín tối-
cao. Bất cứ triết-học hay giáo-phái nào,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
59
hết thảy ở Ấn-Độ đều lấy uy-tín trong
Áo-nghĩa-thư ( Upanisads ). Nếu họ
không có thể lấy được, thì giáo-phái của
họ là ngoại-đạo, không chính-thống. Bởi
thế có lẽ hiện-đại chỉ có một tên có thể
chỉ-thị tất cả Ấn-Độ-giáo cho suốt cả
nước là " Vedantist " hay là " Vaïdik ".
Và theo nghĩa ấy mà tôi luôn luôn dùng
chữ " Vedantism " và " Vedanta " .
_ ( Toàn-tập. III )
Tư-tưởng đại-cương mà Swami tuyên-bố
về Ấn-Độ-giáo Vedanta có thể thấy ở tất cả
những phát-biểu của ông, ông không thể toát-
yếu tóm-tắt được. Số lượng hình-thức trọng-
yếu và điển-hình của những phát-biểu ấy khiến
cho sự cố-gắng của ông hầu như không có khả-
năng. Tuy vậy, chúng tôi cũng phải kể ra
những tư-tưởng sinh-động ấy, chỉ để chứng-tỏ
sự độc-đáo giầu sinh-lực của chúng .
KHOA DU-DA
60
Một trong số lầm quen-thuộc của tôn-giáo
ta là có nhiều giải-thích về một bản văn-kiện
giống nhau .
Swami đã có ý-kiến cho rằng sự xung-đột
giữa Thượng-Đế Nhân-cách Hữu-ngã và Phi-
nhân-cách Vô-ngã, giữa Lưỡng-nguyên và
Nhất-nguyên đã được Thế-tôn Krishna giải-
quyết rồi, và ông coi đấy là cống-hiến lớn của
Chúa cho tín-ngưỡng Arian (Á-Lỵ-An ).
Swami cho rằng đấy đã là cống-hiến độc-đáo
nhất và thỏa-đáng nhất rồi .
Ông nói :
_ " Ai đã hiểu được nỗi lo-âu của
nàng chăn cừu ( Gopis ) _ về tình-yêu, lý-
tưởng thật của tình-yêu, yêu không cầu
chi cả, yêu đến cả không cầu xin Thiên-
đường, yêu không vì điều gì ở thế-gian
này hay là ở thế-gian tới sau. Và ở đây,
hỡi các bạn, qua tình-yêu ấy của nàng
chăn cừu, người ta tìm thấy được giải-
pháp duy-nhất cho vấn-đề xung-đột giữa
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
61
Thượng-Đế Nhân-cách Hữu-ngã và
Thượng-Đế Phi-nhân-cách Vô-ngã.
Chúng ta đều biết Thượng-Đế Hữu-ngã là
điểm tối-cao của đời sống nhân-loại ;
chúng ta cũng biết tín-ngưỡng vào
Thượng-Đế Vô-ngã tiềm-tàng, nội-tại
trong vũ-trụ, mà mọi vật chỉ là một biểu
hiện. Đồng thời tâm-hồn chúng ta đòi
nắm được cái gì cụ-thể, cái gì chúng ta có
thể ôm lấy được để có thể trút tâm-hồn
dưới chân Ngài vân vân. Bởi vậy mà
Thượng-Đế Hữu-ngã là quan-niệm cao-cả
nhất của bản-tính nhân-loại. Nhưng lý-trí
kinh-ngạc đối với một ý-tưởng như thế.
Không còn giải-pháp nào hết, và giải-
pháp duy-nhất mà người ta có thể tìm
thấy là khi đọc Kinh Thế-Tôn-Ca ( Gita )
về tình-yêu của nàng chăn cừu ( Gopis ) :
“ Con không cầu của-cải. Con không cầu
học-thức. Con không cầu cả đến Thiên-
đường. Hãy để con tái-sinh, nhưng hỡi
Chúa, ban cho con điều này, là con được
có tình-yêu Ngài và yêu vì tình-yêu ! ” Ở
KHOA DU-DA
62
đây là cái mốc lớn trong lịch-sử tôn-giáo,
là lý-tưởng của tình-yêu vì yêu, hành-
động vì hành-động, bổn-phận vì bổn-
phận ; và điều ấy lần đầu đã ở từ miệng vị
giáng-thế vĩ-đại nhất, đấng Thế-Tôn
Krishna, và là lần đầu trong lịch-sử nhân-
loại trên đất Ấn-Độ. Các tôn-giáo của sợ-
hãi và thưởng-phạt biến mất mãi mãi và
mặc dầu sợ địa-ngục, cám-dỗ thiên-
đường, mà vẫn xuất-hiện những lý-tưởng
vĩ-đại : tình-yêu vì tình-yêu, bổn-phận vì
bổn-phận, hành-động vì hành-động . "
_ ( Toàn-tập, q. III )
Swami chú-trọng vào cái tai-họa đe dọa
Ấn-Độ-giáo cận-đại, đòi tất cả các giáo-phái
toàn-quốc phải hợp-nhất để đối-phó với kẻ thù
chung. Ông luôn luôn bận tâm tìm kiếm một
cơ-bản chung cho Ấn-Độ-giáo. Cả cuộc đời
ông là sự tìm-tòi ấy. Ông nói :
_ " Có một số nguyên-lý chính, mà
theo tôi nghĩ, dù chúng ta... thuộc về phái
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
63
cổ Vedas hay là cận-đại ; thuộc phái cổ
bảo-thủ hay là phái tân-thời cải-cách, tất
cả chúng ta đều là một, và bất cứ ai tự
xưng là Ấn-Độ-giáo đều tin vào một số
nguyên-lý. Tất cả đều :
1)_ đồng tình về điểm thứ nhất là chúng
ta tin Vedas và giáo-lý vĩnh-cửu về bí-
quyết tôn-giáo. Tất cả chúng ta đều tin
rằng Thánh-điển ấy vô-thủy vô-chung,
đồng thời với thiên-nhiên vô-thủy vô-
chung. Và tất cả sự khác nhau về tôn-
giáo, tất cả tranh-đấu tôn-giáo của chúng
ta phải kết-thúc khi chúng ta đến trước
mặt Thánh-Kinh ấy. Nó là tòa thượng-
thẩm cuối cùng của tất cả sai khác tâm-
linh của chúng ta. Hãy để cho tất cả
nguyên-lý đầu tiên ấy được truyền-bá
khắp nước. Hãy để cho Kinh Vedas được
nổi bật như chúng thường xứng-đáng .
2)_ Điểm thứ hai là chúng ta đều tin
Thượng-Đế, năng-lực sáng-tạo, bảo-trì
KHOA DU-DA
64
của toàn vũ-trụ và rồi tuần-tự trở về đấy
để xuất phát thời-kỳ khác và biểu-hiện cái
hiện-tượng kỳ-diệu này gọi là vũ-trụ.
Chúng ta có thể khác nhau về quan-niệm
Thượng-Đế. Nhưng chúng ta đều tín-
ngưỡng vào Thượng-Đế. Người nào
không tin vào một năng-lực vô cùng kỳ lạ
nhất, từ đấy tất cả xuất ra, tại đấy tất cả
sinh-tồn và sau cùng mọi vật phải trở về
đấy, thì người ấy không có thể gọi được
là Ấn-Độ. Chúng ta hãy truyền-bá cái
quan-niệm ấy khắp nước .
3)_ Ý-niệm thứ ba là, khác với các
chủng-tộc khác trên thế-giới, chúng ta
không tin rằng thế-giới này chỉ được tạo
ra hàng nhiều ngàn năm về trước và đang
bị hủy-diệt vĩnh-viễn vào một ngày nào.
Chúng ta cũng không tin rằng linh-hồn
nhân-loại đã được sáng-tạo đồng thời với
thế-giới này từ chỗ hư-không ra. Chúng ta
tin vào sinh-tồn thiên-nhiên vô-thủy vô-
chúng, chỉ có ở thời-kỳ tâm-lý, cái vật-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
65
chất khô của vỏ ngoài vũ-trụ trở về trạng-
thái vi-tế hơn để rồi lại phóng-sạ ra bên
ngoài. Cái vận-động như sóng động ấy đã
bắt đầu từ trước cả thời-gian bắt đầu, trải
qua vĩnh-cửu và sẽ tồn-tại tới thời-kỳ vô-
hạn của thời-gian .
" Sau hết tất cả người Ấn đều tin
rằng con người không phải chỉ là một
thân-thể thô-kệch, mà còn có cái gì cao cả
hơn _ cái Ngã (Atman) vô-thủy vô-chúng,
nó không biết chết là gì cả. Và sau nữa là
cái ý-tưởng đặc-thù này, khác với tất cả
nhân-chủng khác là cái Ngã (Atman) ấy
ngự trong thân-thể, nó đến với thân-thể
cho tới khi nào nó không thấy lợi-lạc gì
cho nó để tiếp-tục làm như thế nữa và nó
trở nên tự-do, không còn tái sinh. Có thể
có khác-biệt về quan-hệ giữa linh-hồn và
Thượng-đế. Theo giáo-phái này thì linh-
hồn nhân-loại có thể vĩnh-viễn khác với
Thượng-Đế, theo giáo-phái kia thì linh-
hồn có thể là một tia của ngọn lửa vô-biên
KHOA DU-DA
66
vô-lượng, nhưng theo các phái khác nữa,
nó có thể đồng-nhất-thể với Vô-biên.
Chừng nào chúng ta giữ vững tín-ngưỡng
cơ-bản là linh-hồn Vô-biên, nó không
từng được sáng-tạo bao giờ cả và bởi thế
mà nó bất-tử, nó đã trải qua và tiến-hóa
trong nhiều thân-thể khác nhau cho đến
khi nó hoàn-toàn thành-tựu trong thân-thể
nhân-loại, không quan-hệ gì với giải-thích
của chúng ta như thế nào .
" Sau cùng đến sự phát-minh đặc-
thù nhất, vĩ-đại nhất và rất kỳ lạ trong
thế-giới tâm-linh. Chính nó, mà hoặc
chúng ta chủ-trương chúng ta là tín-đồ
Shakta, Sauras hay là Vaishnavas, và cả
đến hoặc chúng ta là Phật-gia hay Kỳ-na,
tất cả chúng ta đều chủ-trương linh-hồn tự
bản-tính nó thì hoàn-toàn, vô-hạn về
năng-lực và ân-huệ ; duy theo tín-đồ Nhị-
nguyên, cái ân-huệ đầy đủ của linh-hồn
đã trở nên giảm thiếu bởi hành-vi bất-
thiện ở quá-khứ, trong khi theo phái
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
67
Nhất-nguyên thì cả đến ý-tưởng giảm
thiếu cũng là một sai lầm thiên-lệch, nó là
cái màn che Ảo-hóa ( Maya ) nó làm cho
chúng ta nghĩ rằng linh-hồn đã mất
quyền-năng của nó, kỳ thực quyền-năng
ấy vẫn ở đấy, toàn-vẹn, biểu-hiện . "
_ ( Toàn-tập, q. III )
Swami nói thêm :
_ " Ngoại trừ tôn-giáo của chúng ta,
các tôn-giáo khác đều lệ-thuộc vào đời
sống của một số nhân-cách sáng-lập. Cơ-
Đốc-giáo xây-dựng trên đời sống của
Jésus Christ ; Hồi-giáo dựa vào Moham-
med ; Phật-giáo vào Buddha ; Trần-Na
vào Janas v.v... Hậu-quả là trong tất cả
những tôn-giáo ấy có sự tranh-cãi về cái
họ gọi là đích-xác lịch-sử của các vĩ-nhân
ấy. Một khi lịch-sử đích-xác về sự sinh-
tồn của các nhân-vật ấy ở thời xưa trở nên
lu-mờ thì tất cả lâu-đài xây-dựng tôn-giáo
xụp đổ và tan vụn. Chúng ta tránh được
số-phận ấy vì tôn-giáo của chúng ta
KHOA DU-DA
68
không căn-cứ vào nhân-cách hay là nhân-
vị mà căn-cứ vào những nguyên-lý.
Krishna không phải là uy-tín của Kinh
Vedas, mà chính Vedas là uy-tín của
chính Chúa Krishna. Cũng thế đối với các
giáng-thế khác, cũng thế đối với tất cả
Thánh-hiền của chúng ta .
" Đấy là vị-thế độc-nhất ở Ấn-Độ và
sự đòi hỏi của chúng ta là Triết-lý Vedas
( Vedanta ) duy-nhất mới có thể là tôn-
giáo đại-đồng, và nó đã là tôn-giáo đại-
đồng hiện có trên thế-giới, vì nó dạy
những nguyên-lý chứ không phải nhân-vị.
Không một tôn-giáo nào xây-dựng trên
một nhân-vị, nhân-cách, có thể coi như
một mẫu-mực cho tất cả mọi dân-tộc của
nhân-loại. Một nhân-vật, một Moham-
med, một Đức Phật ( Buddha ) hay là một
Đức Cơ-Đốc ( Christ ) có thể tôn lên làm
kiểu-mẫu cho toàn thế-giới chăng ? Vậy
thì tôn-giáo Vedantas không đòi hỏi đến
uy-tín nhân-cách như thế. Chế-tài của nó
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
69
là nhấn-tính vĩnh-cửu, luân-lý-học của nó
căn-cứ vào tình đoàn-kết tâm-linh vĩnh-
cửu của nhân-loại sẵn có rồi, đạt tới rồi . "
_ ( Toàn-tập, q. III )
Về đặc-tính tôn-giáo Ấn-Độ, Swami
tuyên-bố :
_" Vairagya : Hỷ-sả hay từ bỏ, thực
là khởi điểm của tôn-giáo. Làm thế nào
mà đạo-đức hay tôn-giáo có thể bắt đầu
không có sự hy-sinh ? Thủy-chung là tự-
sả hay từ-bỏ. Kinh Vedas nói : Sả đi, từ-
bỏ đi ! Đấy là con đường duy-nhất, tự-sả,
bỏ đi. Chẳng phải giầu của hay là con
cháu mà chỉ phải từ-bỏ mới đạt được sự
bất-tử vĩnh-cửu. Thực vậy, đã từng có
những nhà đại suất thế-gian, cả đến nhà
vua tại-vị, nhưng chính cả vua Janaka
cũng đã phải từ-bỏ. Ai là người hy-sinh
lớn hơn ông ? Nếu các ông có thể bỏ đi
tất cả, các ông sẽ có tôn-giáo. Nếu không
có thể được, thì đọc hết sách trên thế-giới,
KHOA DU-DA
70
ngốn tất cả thư-viện, các ông cũng chẳng
được cái chi. Không có chút tâm-linh gì
hết. Chỉ phải hỷ-sả mới đạt được bất-tử
vĩnh-cửu. Nó là năng-lực, năng-lực vĩ-
đại, không thèm cả đến vũ-trụ. Hỷ-sả, từ-
bỏ cả cờ hiệu, quốc-kỳ của Ấn-Độ phất-
phới khắp thế-giới, một tư-tưởng bất-hủ
mà Ấn-Độ hằng gửi hoài hoài như một lời
cảnh-giác cho các dân-tộc đang chết mòn,
như một cảnh-giác cho tất cả chuyên-chế
độc-tài, như một cảnh-giác cho sự độc-ác
trên thế-giới. Đức hỷ-sả là một lý-tưởng
thông-đồng các giáo-phái Vedas .
" Chúng ta cần một khổ-hạnh khắc-
kỷ. Từ-bỏ, hy-sinh từng chinh-phục Ấn-
Độ từ ngày xưa, nó còn phải chinh-phục
Ấn-Độ ngày nay nữa. Hỷ-sả, từ-bỏ còn
đại-biểu cho những lý-tưởng cao-cả vĩ-đại
nhất của Ấn-Độ. Đất của Đức Phật Bud-
dha, của Ramanuja, của Thánh Rama-
krishna Paramhamsa, đất ấy sẽ bỏ đi
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
71
những lý-tưởng kia ư ? Hẳn là không bao
giờ . "
_ ( Vol. III )
Swami tin-tưởng mạnh rằng các lý-tưởng
hỷ-sả, từ-bỏ vĩ-đại mà Thế-Tôn Phật Buddha
cùng các vị noi theo đã dạy là nguyên-nhân của
sự thịnh-vượng và vinh-quang lớn lao ở Ấn-Độ
suốt thế-kỷ thứ VI, tiếp-theo sứ-mệnh của
Phật-giáo... Những lý-tưởng đạo-đức và tâm-
linh trong một xã-hội càng rộng bao nhiêu, thì
xã-hội ấy càng tiến-bộ bấy nhiêu, cả về đường
vật-chất .
Có câu hỏi thường nêu lên là làm sao mà
hàng ngàn và hàng triệu người trải qua các thế-
kỷ thấy sẵn-sàng tự hiến-thân cho cái lý-tưởng
từ-bỏ lớn ấy ? Cái gì hấp-dẫn chúng và dẫn-dụ
chúng hoài để vui-vẻ hy-sinh, không những là
vì có khả-năng mà còn tích-cực thích-thú ? Ấy
là vì lý-tưởng đó còn vĩ-đại hơn, cao-cả hơn là
lý-tưởng Thực-hiện mà Ấn-Độ-giáo đã đặt
trước mắt mình và trước mắt thế-giới. Lý-
KHOA DU-DA
72
tưởng Từ-bỏ, Hỷ-sả thì lớn thật, nhưng nó
không đáng gì đối với lý-tưởng Thực-hiện. Có
thể nói là Hỷ-sả, Từ-bỏ là phương-tiện và
Thực-hiện là cứu-cánh, và một cứu-cánh còn
vinh-quang hơn nữa. Swami nói :
_ " Tôn-giáo không có trong Kinh-
điển hay là trong lý-thuyết, trong giáo-
điều, trong lời nói hay là không cả trong
suy-luận của lý-trí. Tôn-giáo là thực-tại
và sinh-thành ( và _ ). Phải,
hỡi các bạn, đời sống tôn-giáo chưa bắt
đầu trước khi mỗi bạn đã là Rishi ( Tiên-
tri ) và đối-diện với thực-kiện tâm-linh.
Trước khi siêu-thức khai mở cho bạn, thì
tôn-giáo chỉ là nói suông, nó chỉ mới là
sửa-soạn dọn đường. Nói theo luận-điệu
triết-học Vedas : Cái Atman ( Tự-Ngã )
không đạt được bằng nói nhiều, không,
không cả với tri-thức tối-cao, không,
không cả với cái học chính Kinh Vedas.
Chúng ta hãy tuyên-bố cho tất cả các dân-
tộc trên thế-giới trong luận-điệu ngôn-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
73
ngữ của Vedas : “ Uổng công cho các
cuộc tranh-biện và cãi-vã của các ông.
Các ông đã nhìn thấy Thượng-Đế mà các
ông truyền-bá chưa ? Nếu ông đã nhìn
thấy Thượng-Đế thì khỏi phải cãi-cọ,
diện-mục của ông sẽ sáng chói. Khi nào
ông đã biết Thượng-Đế thì chính bộ mặt
ông sẽ thay-đổi, tất cả diện-mạo, hình-
dung ông sẽ biến-đổi. Ông sẽ là ân-huệ
của nhân-loại.” . "
_ ( Vol. III _ Toàn-tập )
Swami nói những điều trên đây hoàn-toàn
căn-cứ vào kinh-nghiệm bản-thân của mình từ
khi gặp Sư-phụ Ramakrishna Parama-hamsa,
Người đã cho Swami thấy Thượng-Đế bằng
một đụng chạm vào thân-thể. Và nhà giáng-thế
hiện-đại này đã thực-hiện hòa-hài cả hai
phương-diện Vô-danh của Thượng-Đế Phi-
nhân-cách và Thượng-Đế Hữu-danh, Đức Mẹ
Vũ-trụ. Trước lúc nhập-tịch, Ramakrishna đã
trực-tiếp truyền-thụ tất cả đời thực-nghiệm và
KHOA DU-DA
74
thực-hiện tôn-giáo cho đệ-tử nhập thất Swami
Vivekananda. Swami nói :
_ " Chân-lý đã đến cho các Tiên-tri
( Rishis ) Ấn-Độ và nó sẽ đến cho tất cả
Tiên-tri tương-lai, không đến cho kẻ nói
nhiều hay là học-giả mà cho người thấu-
thị của tư-tưởng. Cái Tự-tính không cho
đạt tới bằng nói nhiều, cả đến bằng trí-
thức tối-cao, cả đến bằng học-vấn kinh-
điển. Chính kinh-điển nói thế. Anh có
thấy ở kinh-điển nào một khẳng-định như
là : Cả đến học Kinh Vedas anh cũng sẽ
không đạt tới Tự-tính Atman ? Anh phải
cởi mở tâm tình. Tôn-giáo chẳng phải là
chăm đi nhà-thờ, đánh dấu vào trán hay là
y-phục đặc-biệt. Anh có thể tự bôi mầu
sắc sặc-sỡ như cầu-vồng, nhưng nếu tâm-
hồn anh chưa cởi mở, nếu anh đã không
thực-hiện Thượng-Đế, thì tất cả đều hão-
huyền uổng công. Nếu ai có mầu sắc tâm-
hồn thì y chẳng cần mầu sắc hình-thức bề
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
75
ngoài. Ấy là những thực-hiện tôn-giáo
chân-thực, tâm-hồn khải-ngộ ."
_ ( Toàn-tập _ Q. III )
Nên biết rằng thực-hiện ấy không phải là
thực-hiện cái gì bên ngoài, ngoài giới-hạn của
mình, khác hẳn với phẩm-tính chúng ta.
Không, thế không phải là thực-hiện ( Réali-
sation ). Thực-hiện là thực-hiện chính mình,
thực-hiện trạng-thái tinh-thần tối-cao của mình,
đấy là Thượng-Đế. Thực-tại và sinh-thành !
Tâm chi tam tác dụng, trí, tình, ý. Chuyển mê
khải ngộ, ly khổ đắc lạc, chỉ ác tu thiện, chân,
mỹ, thiện, giải tín, hành vi mục đích .
_ ( Trí-Khải Thiên-Thai )
Nghĩa :
_ ( Ba tác-dụng của tâm người ta là lý-trí, tình-
cảm và ý-chí. Chuyển trạng-thái u-mê, mở sang
KHOA DU-DA
76
giác-ngộ, dời cảnh khổ để được cảnh an-vui,
ngừng làm điều ác, tu sửa hành-vi thiện, ba mặt
của một mục-đích tôn-giáo là Chân-lý, Mỹ-lý,
Chí-thiện, thích-ứng cho ba tác-dụng của tâm
là lý-giải, đức tin của tình-yêu và ý-chí hành-
động làm thiện . )
Thượng-Đế của tôn-giáo Đông-phương
vừa nội-tại, vừa siêu-nhiên, và mục-đích là
giải-thoát chứ không phải cứu-vớt kẻ có tội.
Swami nói :
_ " Sự thực kinh-điển Vedas trong
thế-giới là một trong các kinh-điển không
nói cứu-vớt mà là tự-do giải-thoát. Hãy
giải-thoát khỏi hệ-lụy của thiên-nhiên,
hãy giải-thoát khỏi yếu hèn. Và như vậy
nó tỏ cho anh rằng các anh đã sẵn có tự-
do tại nơi mình rồi. Anh là một tín-đồ
Nhị-nguyên ( Advaïta ), không sao, anh
đã thừa-nhận linh-hồn tự bản-tính là
hoàn-toàn. Chỉ bởi động-tác gì của linh-
hồn nên nó thoái-bộ. Thực vậy, Giáo-chủ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
77
Ramanuja thuyết-minh thu vào và dãn ra
đúng như tiến-hóa-luận cận-đại gọi là
Tiến-hóa và Di-truyền. Linh-hồn lùi lại,
trở nên thoái-bộ, năng-lực của nó trở nên
tiềm-năng, và với hành-vi thiện và ý-nghĩ
thiện, nó lại triển-khai và biểu-lộ tính
hoàn-hảo bản-nhiên của nó. Nhất-nguyên
tuyệt-đối-luận ( Advaïta ) thừa-nhận có
tiến-hóa ở thiên-nhiên, không ở trong
linh-hồn. Không bằng cách gì mà Tự-tính
phải thu lại được. Nó không biến-đổi, cái
Một vô-biên. Nó bị che phủ bởi một cái
màng, cái màng Ảo-hóa, và cái màng Ảo-
hóa ấy mỏng dần, cái hào-quang bản-lai
của Linh-hồn lộ ra và trở nên hiển-nhiên
hơn. Đấy là một học-thuyết vĩ-đại mà thế-
giới đang chờ đợi học hỏi của Ấn-Độ . "
_ ( Q; III _ Toàn-tập )
Nhiều lần nhắc đi nhắc lại, Swami
Vivekananda đã hãnh-diện để chứng-minh tôn-
giáo Vedas là một tôn-giáo duy-nhất không sợ
khoa-học và khảo-cứu cận-đại. Trong khi các
KHOA DU-DA
78
tôn-giáo khác e-sợ sự lấn-át của khoa-học và
khảo-cứu này, thì tinh-thần của Swami hớn-hở
vì thỏa-mãn được thấy rằng hàng ngàn năm
trước các hiền-triết trong rừng sâu Ấn-Độ đã có
những tư-tưởng chịu sự thử-thách cứu-xét của
khoa-học và khảo-cứu tối-tân cận-đại. Kết-luận
của phát-minh khoa-học nhất-trí với kết-luận
của triết-lý Vedas ; hơn nữa, có nhiều điều ở
triết-học tôn-giáo Vedas - Upanisads đã đi
trước tiên-liệu kết-luận của khoa-học mà nó đã
bỏ lại đàng sau rất xa. Do đấy và về nhiều
phương-diện khác nữa mà Truyền-thống Ấn-
Độ đã tuyệt-vời vậy .
§§§§§§§§§§§§§