phÁt triỂn ĐỘi ngŨ trÍ thỨc Ở tÂy nguyÊn thỜi kỲ ĐẨy...
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LƯƠNG HỮU NAM
PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
Ở TÂY NGUYÊN THỜI KỲ ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LƯƠNG HỮU NAM
PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
Ở TÂY NGUYÊN THỜI KỲ ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 62 22 03 08
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS.TS TRỊNH QUỐC TUẤN
2. TS. ĐINH KHẮC TUẤN
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả
Lương Hữu Nam
MỤC LỤC Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI 5
1.1. Những công trình nghiên cứu về đội ngũ trí thức và phát triển đội ngũ
trí thức 5
1.2. Những công trình nghiên cứu về đội ngũ trí thức và phát triển đội ngũ trí
thức ở Tây Nguyên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá 16
1.3. Những giá trị của các công trình và vấn đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu 25
Chương 2: PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN THỜI KỲ
ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ - NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 28
2.1. Một số quan niệm cơ bản 28
2.2. Mối quan hệ giữa phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên với sự nghiệp
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá 39
2.3. Những yếu tố cơ bản tác động đến sự phát triển đội ngũ trí thức ở
Tây Nguyên 54
Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY
NGUYÊN THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 68
3.1. Thực trạng phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên 68
3.2. Những vấn đề chủ yếu đặt ra đối với sự phát triển đội ngũ trí thức ở
Tây Nguyên hiện nay 104
Chương 4: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TIẾP TỤC
PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY 114
4.1. Những quan điểm cơ bản tiếp tục phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên
hiện nay 114
4.2. Những giải pháp chủ yếu tiếp tục phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên
hiện nay 123
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 163
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNTT Công nghệ thông tin
DTTS Dân tộc thiểu số
ĐNTT Đội ngũ trí thức
GDĐT Giáo dục, đào tạo
KHCN Khoa học và công nghệ
KTTT Kinh tế tri thức
KT-XH Kinh tế - xã hội
NCKH Nghiên cứu khoa học
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Cơ cấu GDP vùng Tây Nguyên giai đoạn 2001 - 2015 59
Bảng 2.2: GDP bình quân đầu người ở Tây Nguyên giai đoạn
2001 - 2015 59
Bảng 3.1: Tỉ lệ người có trình độ đại học trở lên theo trình độ và so
với dân số, lực lượng lao động 70
Bảng 3.2: Tỉ lệ trí thức dân tộc thiểu số trong cơ cấu đội ngũ trí
thức ở Tây Nguyên 78
Bảng 3.3: Chi cho sự nghiệp khoa học của các tỉnh Tây Nguyên 97
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu 3.1: Cơ cấu trình độ học vấn của đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên. 76
Biểu 3.2: Trình độ lý luận chính trị của đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên
phân theo trình độ học vấn 90
Biểu 3.3: Cơ sở vật chất phục vụ công việc cho đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên 96
Biểu 3.4: Những khó khăn tác động đến sự phát triển đội ngũ trí thức ở
Tây Nguyên hiện nay 98
Biểu 3.5: Đánh giá của trí thức ở Tây Nguyên về các chính sách đối với
đội ngũ trí thức 102
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trí thức là vốn quý của dân tộc, là hiện thân trí tuệ của thời đại. Xã hội
càng phát triển, vị trí, vai trò của trí thức càng được đề cao, nhất là trong bối
cảnh cuộc cách mạng KHCN lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, với sự cạnh
tranh về chất xám ngày càng tăng.
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định:
Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ
trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày
nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt
quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược
phát triển [40, tr.81].
Bởi vậy, phát triển ĐNTT chính là nâng tầm trí tuệ, sức mạnh của dân
tộc, qua đó góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng khẳng định “xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có
chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước” [42, tr.161].
Tây Nguyên là vùng đất giàu tiềm năng, thế mạnh về tài nguyên thiên
nhiên và việc khai thác các yếu tố này đã thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy
nhiên, do chưa tìm hiểu, đánh giá đầy đủ và thấu đáo dẫn đến sự hiểu biết về
vùng đất, con người nơi đây còn nhiều hạn chế. Tư duy khai thác mang tính
tận thu, tận diệt vẫn là chủ đạo ở nhiều cấp, nhiều ngành và người dân ở đây,
chưa hình thành tư duy khai thác gắn với bảo tồn, phát triển. Hệ quả là rừng
bị tàn phá, môi trường sinh thái xuống cấp nghiêm trọng; cơ cấu dân cư có
nhiều thay đổi và xáo trộn không theo quy hoạch; nhiều vấn đề phức tạp nảy
sinh, tác động xấu đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đe doạ đến sự
ổn định và phát triển Tây Nguyên, từ đó dễ tạo ra những lỗ hổng, kẽ hở cho
các thế lực thù địch, phản động chống phá.
2
Thực tế trên cho thấy, để đảm bảo sự ổn định, phát triển nhanh và bền
vững thì Tây Nguyên cần phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng
sang kết hợp chiều rộng với chiều sâu. Trong đó, cần phải xây dựng nguồn
nhân lực chất lượng cao làm bước đột phá. Giải quyết bài toán này chính là
gỡ nút thắt cho sự đi lên nơi đây. Song tìm ra lời giải cho bài toán không phải
là việc dễ dàng mà hết sức khó khăn. Nhất là trong một thời gian dài Tây
Nguyên là vùng trũng về GDĐT, kéo theo đó là nguồn nhân lực nói chung và
ĐNTT nói riêng còn nhiều hạn chế, bất cập về số lượng, chất lượng và cơ cấu.
Bên cạnh đó, trong những năm qua dù đã có nhiều công trình khoa học
nghiên cứu về Tây Nguyên nhưng dưới góc độ triết học chưa có đề tài nào
nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên.
Điều đó cũng đặt ra sự cần thiết phải tìm hiểu về lĩnh vực này.
Xuất phát từ những lý do trên, việc tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá thực
trạng phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên để xác định quan điểm, giải pháp tiếp
tục phát huy, phát triển đội ngũ này có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về mặt
lý luận và thực tiễn. Hơn nữa, là một người con sinh sống, trưởng thành và
công tác hơn 30 năm qua ở Tây Nguyên, với mong muốn đóng góp một phần
sức lực nhỏ bé của mình vào quá trình phát triển, coi như một sự tri ân đối với
vùng đất và con người nơi đây đã nuôi dưỡng, đùm bọc mình, vì vậy, nghiên
cứu sinh chọn đề tài “Phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” làm luận án tiến sĩ triết học, chuyên
ngành chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc đánh giá thực trạng phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, luận án đề xuất các quan điểm cơ bản, giải
pháp chủ yếu nhằm tiếp tục phát triển đội ngũ này trong thời gian tới, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH Tây Nguyên.
3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án khái quát các công trình nghiên cứu về trí thức, phát triển
ĐNTT nói chung và ở Tây Nguyên thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH nói riêng.
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên. Đưa ra
quan niệm về phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên, những yếu tố tác động đến sự
phát triển. Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng phát triển đội ngũ này ở Tây
Nguyên và chỉ rõ những vấn đề đặt ra, từ đó đề xuất các quan điểm, giải pháp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu ĐNTT và phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu ĐNTT và sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên từ
năm 1996 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn
- Cơ sở lý luận: Việc thực hiện luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và pháp luật
của Nhà nước về trí thức, phát triển ĐNTT. Luận án còn kế thừa có chọn lọc
những thành tựu nghiên cứu lý luận của ngành khoa học xã hội và nhân văn
liên quan đến đề tài.
- Cơ sở thực tiễn: Thực trạng phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận án vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào quá trình nghiên cứu.
- Nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Là những tài liệu thu thập được từ các
nghị quyết, quyết định, báo cáo, các công trình nghiên cứu đã công bố và các
tài liệu khác liên quan đến đề tài.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Xây dựng và sử dụng bảng hỏi để lấy
ý kiến. Trên cơ sở dữ liệu thu thập được, tiến hành xử lý và phân tích theo mục
4
đích, yêu cầu và nội dung nghiên cứu. Để đạt được mục đích, yêu cầu, nghiên
cứu sinh tiến hành khảo sát 5 tỉnh Tây Nguyên. Tổng số phiếu khảo sát là 750
phiếu. Đối tượng được khảo sát là những người có trình độ đại học trở lên, đang
công tác và làm việc ở các cơ quan, đơn vị trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên.
Thời gian tiến hành khảo sát từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 5 năm 2016.
Sau khi lấy ý kiến, nghiên cứu sinh sử dụng phần mềm thống kê xã hội
học (phần mềm SPSS) để xử lý và phân tích các dữ liệu thu được từ các phiếu
khảo sát, trong đó có sự phân tích mối tương quan giữa các câu trả lời để làm
cơ sở cho việc nhận định, đánh giá thực trạng.
- Phương pháp trình bày nội dung luận án: Lịch sử - lôgíc, phân tích -
tổng hợp, so sánh, thống kê.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án đưa ra quan niệm về ĐNTT, phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên.
Mối quan hệ giữa phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên với đẩy mạnh CNH, HĐH
và những yếu tố cơ bản tác động đến sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên.
- Cung cấp một cách nhìn về thực trạng ĐNTT và phát triển ĐNTT ở
Tây Nguyên thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và những vấn đề đặt ra
trong quá trình phát triển đội ngũ này.
- Đề xuất và đưa ra các quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu tiếp tục
phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên trong những năm tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lý luận: Góp phần bổ sung một số nội dung lý luận về ĐNTT
và phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên để hoàn thiện thêm cơ sở cho việc xem
xét, hoạch định chính sách đối với sự phát triển đội ngũ này.
- Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần làm sáng tỏ thực trạng phát triển ĐNTT
ở Tây Nguyên và những giải pháp tiếp tục phát triển đội ngũ này.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình đã công bố của tác
giả, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Cùng với sự phát triển nhanh chóng và ngày càng mạnh mẽ của KHCN,
KTTT, những năm qua đã có nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập
đến các phương diện khác nhau của ĐNTT. Điều đó thể hiện vị trí, vai trò của
đội ngũ này ngày càng quan trọng đối với sự phát triển. Liên quan đến vấn đề
trên, có thể kể đến một số công trình khoa học tiêu biểu sau:
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VÀ
PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về đội ngũ trí thức
- Trí thức Việt Nam thời xưa, của Vũ Khiêu [59]: Khẳng định: Trí thức
Việt Nam dù ngày xưa hay hôm nay đều chung một dòng chảy. Thời kỳ khác
nhau có thể đem lại sự khác nhau giữa các thế hệ trí thức Việt Nam về hoàn
cảnh xã hội, nhiệm vụ lịch sử, cách thức tư duy và hành động nhưng điều đó
không làm lu mờ phẩm chất bền vững của họ từ xưa đến nay, đó là sự gắn bó
máu thịt với dân tộc, cùng với dân tộc nổi chìm trong dòng chảy lịch sử:
Hưng thịnh hay suy vong; vinh quang hay tủi nhục; thành công hay thất bại.
Từ đó tác giả khẳng định: Trí thức thời xưa vẫn còn gửi lại trí thức hôm nay
những hoài bão chưa thực hiện được và những lo lắng khôn nguôi về vận
mệnh của dân tộc, đất nước.
- Bác Hồ với nhân sĩ trí thức, do Trần Đương (biên soạn) [44]: Cuốn
sách là sự chắt lọc, hệ thống hoá các nguồn tư liệu thành những bài viết về
mối quan hệ và ảnh hưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với nhân sĩ, trí
thức Việt Nam thời kỳ đất nước mới giành được độc lập, đang rất cần những
người có tâm, có tài để phục vụ sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Người đã
quy tụ được đông đảo nhân sĩ, trí thức rất nổi tiếng và tài năng, cả những
người đã từng phục vụ trong chế độ cũ, các nhà khoa học đã thành danh ở
nước ngoài trở về với dân tộc, cống hiến tài năng cho sự nghiệp cách mạng.
6
Qua cuốn sách cho ta thấy được những phẩm chất cao quý của trí thức
chân chính đó là đức tính khiêm tốn, giản dị, tâm huyết với ngành, nghề của
mình và luôn trung thành với Đảng, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng.
Đồng thời, thấy được tâm đức, nghệ thuật của Bác Hồ trong việc cảm hóa, thu
hút và sử dụng trí thức, trong đó đầu tiên là việc phát hiện trí thức; sự chân
thành, cầu thị và niềm tin của Người vào trí thức.
- Về trí thức Nga, nhiều tác giả (Nga), do La Thành và Phạm Nguyên
Trường dịch [78]: Nhấn mạnh đến khía cạnh đạo đức trong định nghĩa trí
thức. Trí thức Nga được hiểu là một tầng lớp xã hội theo nghĩa một lớp người
tương đối đông về số lượng và có sự liên kết nội tại mật thiết và thống nhất.
Đặc điểm phân biệt họ với các tầng lớp xã hội khác là họ có trình độ cao hơn
so với mặt bằng chung của xã hội trong những thời kỳ lịch sử nhất định, luôn
tự ý thức về sứ mệnh của mình đối với toàn thể cộng đồng và có thái độ dấn
thân để thực hiện sứ mệnh đem lại tương lai tươi sáng cho cộng đồng.
Các tác giả nhấn mạnh phẩm chất, tính cách trí thức trước hết là tính
độc lập trong tư duy, “những con người tự do trong đức tin của mình, những
con người không bị lệ thuộc bởi các ràng buộc về kinh tế, đảng phái, quyền
chính, không phải tuân phục các khế ước tư tưởng, mới thuộc giới trí thức”
[78, tr.240].
- Nguồn lực trí tuệ Việt Nam, lịch sử, hiện trạng và triển vọng, của
Nguyễn Văn Khánh (chủ biên) [58]: Từ phương pháp tiếp cận mang tính liên
ngành, cuốn sách đánh giá nguồn lực trí tuệ Việt Nam và xây dựng, phát huy
nguồn lực trí tuệ; những yếu tố thúc đẩy, cản trở việc phát huy nguồn lực này.
Từ đó đề xuất giải pháp và khuyến nghị về mặt chính sách nhằm phát triển
nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước. Trong đó nhấn mạnh ba giải pháp chủ yếu, đó là: Chống chảy máu chất
xám; hoàn thiện chính sách bảo hộ tài sản trí tuệ; chú trọng xây dựng và phát
huy nguồn lực trí thức nữ, DTTS và trí thức Việt kiều.
7
- Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại, của Nguyễn Đắc Hưng [55]:
Khái quát về trí thức và ĐNTT, phân tích nội hàm khái niệm trí thức, theo đó:
Trí thức là những người không chỉ có trình độ học vấn và chuyên môn cao,
lao động bằng trí óc trên mọi lĩnh vực của đời sống KT-XH mà còn phải có
khả năng sáng tạo ra tri thức và vận dụng tri thức vào thực tiễn, làm ra của
cải, phục vụ nhu cầu con người và phát triển xã hội. Tác giả cũng chỉ ra
những thách thức mới đòi hỏi ĐNTT phải phát huy vai trò trong công tác dự
báo và chủ động trước những biến đổi nhanh chóng của tình hình trong nước
và thế giới. Đồng thời, qua phân tích vai trò của GDĐT, cho thấy sự cần thiết
của việc đổi mới công tác GDĐT và chính sách thu hút, sử dụng trí thức.
- Trí thức nữ Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay - tiềm năng
và phương hướng xây dựng, của Đỗ Thị Thạch [85]: Đây là công trình nghiên
cứu chuyên sâu về lực lượng trí thức nữ. Tác giả đã có những đóng góp mới
cả về lý luận và thực tiễn khi kiến giải tiềm năng cũng như vai trò to lớn của
lực lượng trí thức nữ Việt Nam đối với sự phát triển của đời sống xã hội. Xuất
phát từ thái độ tôn trọng, tin vào khả năng đóng góp của lực lượng này, tác
giả đề xuất những phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm phát huy tiềm năng,
vai trò của lực lượng trí thức nữ trong sự nghiệp cách mạng, nhất là trong quá
trình đổi mới đất nước.
- Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới,
của Trịnh Quang Cảnh [16]: Nghiên cứu dưới góc độ chính trị - xã hội về trí
thức DTTS ở Việt Nam với tư cách là một bộ phận trong tầng lớp trí thức
Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá thực trạng việc sử dụng nguồn lực trí tuệ, trí
thức người DTTS và tình hình ĐNTT DTTS, tác giả đề xuất phương hướng
và một số giải pháp nhằm phát huy, phát triển tiềm năng trí tuệ của đội ngũ
này đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH vùng miền núi, DTTS.
- Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế tri thức, của Nguyễn Công
Trí [97]: Từ cách tiếp cận tổng hợp, tác giả nêu lên những đặc trưng, tiêu chí
cơ bản để xác định trí thức, vai trò của đội ngũ này trong điều kiện phát triển
8
KTTT. Trí thức là người lao động trí óc và thường có trình độ học vấn cao,
được đào tạo hoặc tự đào tạo. Giá trị quan trọng nhất của trí thức chân chính
đó là chân lý và lẽ phải; trí thức là người tự tin và ngay thẳng, có lòng tự
trọng, khả năng hành xử đúng mực.
- Đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam trong đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, của
Nguyễn Thị Thanh Hà [46]: Trình bày những quan niệm, đặc điểm và vai trò
của ĐNTT giáo dục đại học đối với đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở
Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đi vào phân tích, đánh giá thực trạng và đề
xuất những quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò
ĐNTT giáo dục đại học trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
- Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
trong giai đoạn hiện nay, của Lê Công Lương [70]: Khẳng định trí thức là
vốn quý của dân tộc, là lực lượng tiêu biểu, thể hiện trình độ của một quốc
gia. Tác giả trình bày một số quan niệm về trí thức và công tác vận động trí
thức. Đánh giá thực trạng, chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân và rút ra những
kinh nghiệm lãnh đạo công tác vận động trí thức làm cơ sở thực tiễn cho việc
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công tác vận động
trí thức. Dự báo thuận lợi, khó khăn, từ đó xác định mục tiêu, yêu cầu và đề
xuất các giải pháp tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức đến năm 2025.
- Quan điểm và chính sách của V.I.Lênin đối với trí thức trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa, của Trịnh Quốc Tuấn [101]: Bài nghiên cứu khẳng
định trí thức có vai trò hết sức quan trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa,
vì vậy cần phải phát huy tiềm năng trí tuệ, nếu không “thì cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa nổ ra và giành những thắng lợi rực rỡ sẽ ngừng lại bởi thiếu sự
phát động khởi nguồn và xã hội khó tránh khỏi lâm vào khủng hoảng” [101,
tr.8]. Đồng thời, tác giả cũng nhấn mạnh, V.I.Lênin đã từ bản thân mình là
một trí thức để nhìn nhận tầng lớp trí thức, qua đó có chính sách đúng đắn đối
9
với trí thức. Tác giả khẳng định đặc trưng nổi bật nhất của trí thức là nhân
cách sáng tạo. Và để phát huy vai trò ĐNTT cần phải tạo điều kiện cho họ
được làm việc theo nguyện vọng, sở trường và tài năng; quan tâm cải thiện
đời sống vật chất và tinh thần để tạo điều kiện cho họ làm việc, cống hiến; có
môi trường tự do cho lao động sáng tạo, có không khí dân chủ để giao lưu.
- Vài nét về vai trò của trí thức - quan điểm từ châu Âu, của Trần
Phương Hoa [52]: Khẳng định lịch sử văn hoá, văn minh châu Âu là lịch sử
của các dòng chảy tư tưởng, trong đó có sự đóng góp của trí thức. Đồng thời
đưa ra những cách nhìn nhận về trí thức:
Trước hết, người Anh dùng khái niệm “intellectual” để nói về văn
hóa của họ, một nền văn hóa được đúc kết từ trí tuệ của con người.
Sau sự kiện Dreyfus ở Pháp, nước Anh mới tập trung vào
“intellectual” như là một giai tầng đặc biệt và vấn đề trách nhiệm
của họ đối với xã hội. Trước thế kỷ XIX, khái niệm “intellectual”
hoặc “intelligentsia” không được sử dụng để chỉ một “giai tầng”.
Những người làm việc trí óc được mô tả qua các từ “clerisy” (trí
thức), “man of letter”, “literary men” (kẻ sĩ), hoặc “cultivators of
science” (người vun trồng khoa học). Sau những năm 1870, 1880
mới dùng các từ “intellectual” [52].
Bài nghiên cứu cũng đề cập đến việc các nhà nghiên cứu châu Âu phân
biệt 5 nghĩa khác nhau của khái niệm trí thức: Trí thức là “học giả”; trí thức
được dùng như tính từ có nghĩa là “trí tuệ”: Trí thức là người có trí tuệ,
thường có nghĩa bổ sung là người có học thức cao, phân biệt với những người
làm việc tay chân; trí thức là người có tư duy độc lập và có đầu óc phê phán;
trí thức là người thực hiện các chức năng xã hội hoặc vì xã hội; trí thức, ngoài
chức năng định hướng văn hóa còn có vai trò định hướng chính trị và xã hội,
họ phải có vai trò can thiệp vào đời sống chính trị và có tiếng nói đối với nhà
cầm quyền dựa trên quan điểm khoa học.
10
- Chính sách thu hút nhân tài của Singapore: Bài bản và chuyên
nghiệp, của Hà Minh [71]: Nêu lên những kinh nghiệm trong việc thu hút
nhân tài của Singapore, trong đó nhấn mạnh đến sự rõ ràng, bài bản và
chuyên nghiệp trong chính sách; thực hiện mức lương tương xứng với giá trị
chất xám; quan tâm đến giáo dục và có niềm tin mãnh liệt đối với nhân tài.
Các Bộ trưởng Singapore cũng đều tốt nghiệp các trường đại học
nổi tiếng tầm cỡ thế giới. Ông Lý Quang Diệu có quan điểm rất rõ
ràng: Lãnh đạo giỏi là đầu tàu định hướng cho đất nước phát triển,
nên không thể thăng quan tiến chức nhờ quan hệ cửa trước cửa sau
hay sẵn sàng ngã giá để mua danh bán tước. Ông nói: "Lãnh đạo
dốt sẽ ngáng chân những người giỏi, không cho họ ngồi vào những
vị trí quan trọng". Ở Singapore, những người tài thực sự được coi là
thịt, là da đắp vào bộ khung lãnh đạo quốc gia [71].
Qua một số công trình khoa học tiêu biểu nêu trên cho thấy, ĐNTT
được các nhà nghiên cứu đề cập khá đầy đủ ở nhiều khía cạnh khác nhau từ
khái niệm, vị trí, vai trò, đặc điểm, phẩm chất đến thực trạng và giải pháp đối
với đội ngũ này. Ngoài các nội dung thống nhất thì vẫn còn những quan niệm
khác nhau khi đề cập đến trí thức và ĐNTT. Điều đó cho thấy, việc nghiên
cứu đối tượng này đến nay vẫn đặt ra nhiều vấn đề cần phải tiếp tục làm rõ.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về phát triển đội ngũ trí thức
- Luận cứ khoa học cho các chính sách nhằm phát huy năng lực sáng
tạo của giới trí thức và sinh viên, Phạm Tất Dong chủ nhiệm [33]: Từ việc
trình bày, phân tích một số quan niệm khác nhau về trí thức, qua đó nhấn
mạnh 4 chức năng cơ bản của trí thức là: Chức năng sáng tạo văn hoá, sáng
tạo và duy trì những giá trị cơ bản của xã hội: chân, thiện, mỹ; chức năng phê
phán; chức năng đào tạo lớp trí thức mới và chức năng xã hội. Từ đó đề tài đi
đến kết luận những dấu hiệu đặc trưng của trí thức là: Sáng tạo, phổ biến và
vận dụng văn hoá; thể hiện được trình độ, trí tuệ của thời đại; trăn trở với thời
cuộc, luôn hướng đến sự nghiệp xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, bình
11
đẳng; có năng lực tư duy sáng tạo, phát hiện và giải quyết vấn đề, sự say mê,
tập trung cao độ, dũng cảm theo đuổi công việc.
Công trình cũng đánh giá thực trạng, tình hình cũng như tâm trạng, nhu
cầu và xu thế phát triển của ĐNTT, từ đó xác định những quan điểm và đề
xuất một số chính sách đối với ĐNTT. Về quan điểm, tác giả nhấn mạnh: con
người với trí tuệ thời đại là nhân tố quyết định sự phát triển KT-XH; đào tạo
và xây dựng ĐNTT là một vòng đua tranh của thời đại; lao động trí tuệ là lao
động phức tạp mang lại những giá trị đặc biệt và đầu tư cho việc xây dựng
ĐNTT phải là một ưu tiên. Về chính sách: Thực hiện chính sách GDĐT; sử
dụng và đãi ngộ trí thức; thực hiện đoàn kết và tập hợp rộng rãi ĐNTT.
- Đào tạo nguồn nhân lực ở Nhật Bản, bài học cho Việt Nam, do
Nguyễn Tiến Lực (chủ biên) [69]: Một trong những yếu tố đưa Nhật Bản
vươn lên là sự tích cực trong tiếp thu văn minh, thành tựu của nhân loại, tham
gia giao thương quốc tế, cử người đi du học nước ngoài, mời chuyên gia nước
ngoài đến Nhật làm việc để học cái hay nhất, cái tốt nhất. Cuốn sách cũng cho
thấy, con người là yếu tố quan trọng nhất để làm nên kỳ tích Nhật Bản. Nhật
Bản lấy con người làm trung tâm, có cả một triết lý đào tạo và giáo dục con
người. Nhật Bản rất coi trọng đào tạo nguồn nhân lực, có nền giáo dục đứng
vào tốp đầu thế giới. Trong quá trình phát triển của mình, Nhật Bản đã để lại
những bài học quý báu về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Những bài
học này có giá trị tham khảo trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao cho sự nghiệp CNH, HĐH của Việt Nam.
- Phát huy tiềm năng trí thức khoa học xã hội Việt Nam, của Nguyễn
An Ninh [79]: Hệ thống hoá những nội dung lý luận về tiềm năng của trí thức
khoa học xã hội, cũng như những yếu tố quy định tiềm năng của trí thức khoa
học xã hội. Theo tác giả: “Tiềm năng của con người là những khả năng, năng
lực, phẩm chất, xu thế phát triển, … hiện có trong con người song chưa có
điều kiện bộc lộ ra hoặc chưa có điều kiện để thể hiện ra trọn vẹn” [79, tr.17].
Từ đó khẳng định việc khai thác tiềm năng của trí thức khoa học xã hội là xu
thế tất yếu của thời đại.
12
Trên cơ sở lý luận, tác giả đi vào phân tích đặc điểm, tiềm năng và thực
trạng phát huy tiềm năng của trí thức khoa học xã hội Việt Nam trong tiến
trình cách mạng, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới nhằm làm rõ mối quan hệ
có tính quy luật giữa tiềm năng của trí thức khoa học xã hội với nhu cầu phát
triển đất nước. Từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp phát huy
tiềm năng của trí thức khoa học xã hội ở nước ta. Trong đó nhấn mạnh việc
nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của khoa học xã hội; tạo động lực
cho quá trình phát huy tiềm năng; tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển tiềm
năng trí thức khoa học xã hội và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước để phát huy tiềm năng của đội ngũ này ở nước ta.
- Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, do Nguyễn Khánh Bật, Trần Thị Huyền
(đồng chủ biên) [6]: Khái quát những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về trí thức, làm rõ sự vận dụng sáng tạo của Đảng và Nhà nước trong
công tác xây dựng ĐNTT, đồng thời đánh giá những đóng góp, hạn chế của
đội ngũ này, trên cơ sở đó nêu lên những giải pháp xây dựng ĐNTT ở nước ta
giai đoạn 2011- 2020 đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Thực trạng và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự
nghiệp đổi mới đất nước, của Đàm Đức Vượng [117]: Cuốn sách làm rõ hơn
khái niệm trí thức, dẫn ra những khái niệm về trí thức ở một số nước trên thế
giới. Trong đó nhấn mạnh, việc xác định đúng nội dung cơ bản của khái niệm
trí thức là cơ sở phát hiện, khai thác, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ này.
Nó còn liên quan đến công tác tổ chức, việc hoạch định các chính sách, nhiệm
vụ và giải pháp xây dựng ĐNTT thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Bên cạnh đó, tác giả phân tích những đặc trưng, chức năng cơ bản của
trí thức nói chung và trí thức Việt Nam nói riêng, qua đó làm rõ đặc trưng cơ
bản của các thế hệ trí thức Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay. Về phẩm
chất của trí thức Việt Nam, tác giả nhấn mạnh đến đức và tài, thể hiện ở tư
cách của con người, chất lượng NCKH. Phẩm chất đặt ra cho trí thức là phải
làm gì và làm như thế nào để góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước.
13
Đã là trí thức thì ở nước nào cũng vậy, thời nào cũng vậy, đều phải
có phẩm chất, tính cách chung là đề cao giá trị chân - thiện - mỹ. Để
có được phẩm chất, bản thân người trí thức, trước hết phải có tinh
thần độc lập trong tư duy, và chế độ xã hội phải tạo mọi điều kiện
thuận lợi để người trí thức được tự do sáng tạo. Tuy nhiên, mỗi dân
tộc đều có tính cách riêng, tầng lớp trí thức của mỗi dân tộc cũng có
bản sắc riêng [117, tr.39].
- Chiến lược phát triển nhân tài của Việt Nam hiện nay, của Cao Văn
Thông và Đỗ Xuân Tuất [87]: Đề cập đến các khái niệm tiềm năng, năng
khiếu, năng lực, tài năng, nhân tài, thiên tài, trí thức cùng đặc điểm của nhân
tài; những quan điểm của ông cha ta về hiền tài và việc chiêu hiền, đãi sĩ của
các triều đại phong kiến Việt Nam; tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức và nhân
tài; kinh nghiệm trong công tác đào tạo, sử dụng và đãi ngộ nhân tài của
Trung Quốc và một số vấn đề rút ra qua các công tác này; những quan điểm,
chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhân tài và một số kiến nghị đối
với công tác đào tạo, sử dụng và đãi ngộ nhân tài của Việt Nam hiện nay.
Trong đó, các tác giả nhấn mạnh đến việc đề nghị Chính phủ sớm chỉ đạo
nghiên cứu, xây dựng Chiến lược nhân tài quốc gia phục vụ sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, cũng như trong công tác đào tạo, sử dụng
và đãi ngộ nhân tài.
- Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Đà Nẵng hiện nay, của Lê Văn Phục
[81]: Đề cập đến nguồn nhân lực chất lượng cao và vai trò của nó đối với quá
trình CNH, HĐH ở Việt Nam. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Thành phố Đà Nẵng và những vấn đề đặt ra trong quá trình phát
triển nguồn nhân lực này. Trên cơ sở đó nêu lên một số quan điểm và đề xuất
giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Đà Nẵng.
- Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo ở nước ta hiện nay, của
Phan Thanh Khôi [61]: Nêu và phân tích những kiểu lao động sáng tạo của trí
thức, đồng thời xác định và sơ đồ hoá hệ thống động lực của quá trình lao
14
động của trí thức; cách xác định lực lượng trí thức với tính cách là nguồn
nhân lực trí tuệ của đất nước; những biểu hiện của tình trạng chưa phát huy
hết khả năng sáng tạo của trí thức Việt Nam. Tác giả còn nêu lên một cách có
hệ thống các yếu tố động lực trực tiếp của trí thức như lý tưởng - tình cảm, trí
tuệ - tinh thần và kinh tế - vật chất.
- Phát huy nguồn lực trí tuệ trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện
nay, của Bùi Thị Ngọc Lan [62]: Phân tích cấu trúc, đặc trưng và nội dung
nguồn lực trí tuệ trong tương quan với nguồn lực con người và các nguồn lực
khác. Dự báo xu hướng phát triển, đề xuất phương hướng và giải pháp chủ
yếu để phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới đất nước.
- Xây dựng đội ngũ trí thức ngành kiến trúc trong công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay, của Lê Quang Quý [82]: Nêu lên quan niệm, đặc điểm,
nhiệm vụ và vai trò của ĐNTT ngành kiến trúc ở nước ta. Trên cơ sở đó điều
tra, khảo sát thực trạng đội ngũ này trong công cuộc đổi mới, từ đó đưa ra dự
báo về những xu hướng vận động, phát triển và đề xuất một số giải pháp chủ
yếu nhằm tiếp tục xây dựng đội ngũ này.
- Xây dựng đội ngũ trí thức tại thành phố Hồ Chí Minh trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, của Trương Văn Tuấn [102]: Trên
cơ sở lý luận về trí thức và xây dựng ĐNTT, tác giả đánh giá thực trạng việc
xây dựng và phát triển ĐNTT thành phố Hồ Chí Minh trong sự nghiệp CNH,
HĐH về mặt số lượng, chất lượng, cơ cấu và chủ trương, chính sách xây
dựng, phát triển, từ đó đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục xây
dựng đội ngũ này, trong đó nhấn mạnh đến cơ chế, chính sách; về quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng ĐNTT; về đầu tư phát triển cơ sở vật chất, kỹ
thuật phục vụ công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và chuyển giao công
nghệ; về mở rộng hợp tác trong nước và quốc tế.
- Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam: Kinh nghiệm của Phần Lan, của
Nguyễn Thành Huy [56]: Nêu lên quan niệm về giới trí thức Phần Lan, đó là:
“Giới trí thức được hiểu là những người có văn hóa hoặc nhóm người có văn
15
hóa, những người này là những nhà tư tưởng và được xem là báu vật quốc
gia. Giới trí thức là thuật ngữ dùng để chỉ cộng đồng những người có ảnh
hưởng tới toàn bộ nền khoa học và văn hóa của xã hội” [56].
Tác giả cũng nêu lên những bài học kinh nghiệm nhằm phát huy vai trò
của trí thức, trong đó trước hết cần phải có môi trường tự do và tính độc lập
trong phản biện; phản biện được khuyến khích. Đồng thời nhấn mạnh việc
xây dựng ĐNTT cần phải bắt nguồn từ giáo dục, đặc biệt là giáo dục phổ
thông vì “trẻ em thất học từ nhỏ không những sẽ là một gánh nặng cho xã hội
mà còn không thể và không bao giờ trở thành một trí thức” [56].
- Thu hút và trọng dụng nhân tài trong giai đoạn hiện nay, của Đinh
Ngọc Giang [45]: Khẳng định việc sử dụng, trọng dụng nhân tài là truyền
thống quý báu của dân tộc, được kế thừa, phát triển lên tầm cao mới trong
thời đại Hồ Chí Minh. Chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài là vô cùng cần
thiết để cách mạng thành công, là một nội dung trong công tác cán bộ. Muốn
có kết quả tốt, cần phải xem xét, kiểm tra việc thu hút và trọng dụng nhân tài,
từ đó có chính sách hợp lý. Cần nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về
thu hút và trọng dụng nhân tài, qua đó đề cao trách nhiệm của các cấp ủy; đổi
mới cách đánh giá ĐNTT, coi trọng và thường xuyên xem xét, đánh giá nhân
tài để có chủ trương, giải pháp đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và sử dụng nhân
tài; thu hút và trọng dụng nhân tài là một nghệ thuật; cùng với việc hỗ trợ tài
chính, cần đặc biệt quan tâm tạo môi trường, điều kiện làm việc thuận lợi để
họ phát huy tài năng, cống hiến cho đất nước; chống kéo bè, kéo cánh, dùng
người thân, hẹp hòi trong thu hút và trọng dụng nhân tài.
- Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, của Phùng Hữu Phú [80]: Nêu lên sự cần thiết của việc ban
hành nghị quyết về ĐNTT và một số điểm mới, nội dung cơ bản của đề án
như: Khái niệm về trí thức; đánh giá tình hình ĐNTT nước ta; bối cảnh, mục
tiêu, quan điểm chỉ đạo công tác xây dựng ĐNTT; về nhiệm vụ, giải pháp xây
dựng đội ngũ này trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập quốc tế.
Trong đó nhấn mạnh việc hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho
16
hoạt động của trí thức; xây dựng, thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và
tôn vinh trí thức; tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức;
đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các
hội của trí thức; nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với ĐNTT.
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VÀ
PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN THỜI KỲ ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
Tây Nguyên là vùng đất còn nhiều bí ẩn chưa được khám phá hết, vì
vậy trong thời gian qua đã thu hút nhiều nhà khoa học đến nghiên cứu, qua đó
cho ra đời nhiều công trình khoa học có giá trị cả về lý luận và thực tiễn. Liên
quan đến ĐNTT và phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên, trong những năm qua có
một số công trình khoa học tiêu biểu sau:
1.2.1. Những công trình nghiên cứu về đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên
Thực tế cho thấy có rất nhiều công trình nghiên cứu về Tây Nguyên,
nhưng việc nghiên cứu chuyên sâu về ĐNTT ở Tây Nguyên lại chưa nhiều, vì
vậy đây vẫn là chủ đề còn nhiều hấp dẫn, cần có sự nghiên cứu, nhìn nhận và
đánh giá đầy đủ hơn. Liên quan đến vấn đề nay trong những năm qua có thể
kể đến một số công trình sau:
- Tây Nguyên cuối thế kỷ XX vấn đề dân cư và nguồn nhân lực, của
Nguyễn Tuấn Triết [98]: Đề cập đến những vấn đề chủ yếu về dân cư và
nguồn nhân lực ở Tây Nguyên. Về nguồn nhân lực, tác giả nêu lên những
thành tựu, hạn chế của nguồn nhân lực nơi đây, qua đó khẳng định: “Nâng
cao dân trí là yêu cầu bức thiết để phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hướng tới nền kinh tế tri thức, chủ
động hội nhập quốc tế ở nước ta. Yêu cầu này đối với Tây Nguyên càng trở
nên bức thiết hơn” [98; tr.111].
- Y Ngông Niê Kđăm cuộc đời và trong lòng bạn bè, đồng nghiệp, của
nhiều tác giả [121]: Đề cập những bài viết, ý kiến về một trí thức, một nhân
cách lớn của người Êđê nói riêng và Tây Nguyên nói chung, đại biểu quốc hội
từ khoá I đến khoá IX, chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội. Thông qua
17
đó, có thể thấy Ông “là một trí thức giàu lòng yêu nước, sớm giác ngộ và gắn
cả cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, đồng chí luôn tin
tưởng và đi theo sự lãnh đạo của Bác Hồ và Đảng Cộng sản Việt Nam” [121,
tr.14]. Cuốn sách cũng nêu lên những trăn trở, suy tư của Y Ngông Niê Kđăm
đối với con người và vùng đất Tây Nguyên, đó là những mong muốn, khát
vọng phát triển Tây Nguyên.
- Hướng tới phát triển bền vững Tây Nguyên, của Lê Văn Khoa và
Phạm Quang Tú (chủ biên) [60]: Đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của
Tây Nguyên, từ đặc điểm tự nhiên, lịch sử và xã hội, cộng đồng các dân tộc
đến việc quản lý, khai thác và sử dụng các nguồn lực nhằm phát triển bền
vững Tây Nguyên. Trên cơ sở đó nêu lên những quan điểm, định hướng chiến
lược và giải pháp phát triển. Cuốn sách cho thấy, nhu cầu phát triển bền vững
Tây Nguyên là tất yếu của quá trình đi lên ở đây. Muốn vậy phải khai thác có
hiệu quả các nguồn lực phát triển, trong đó có nguồn nhân lực chất lượng cao.
- Về nguồn nhân lực và chính sách khoa học và công nghệ trên địa bàn
tỉnh, báo cáo của Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Kon Tum [66]:
Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh, trong đó khẳng định
những mặt mạnh của nguồn nhân lực như: trung thành, kiên định mục tiêu, lý
tưởng của Đảng; giữ vững phẩm chất đạo đức; được đào tạo, rèn luyện, phấn
đấu và trưởng thành; có tinh thần, ý chí vượt khó vươn lên, có nhiều đóng góp
trong việc phát triển KT-XH; tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân thực
hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống. Nhiều trí thức trẻ
đã thể hiện được tính năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh với kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Bên cạnh đó, báo cáo cũng chỉ ra những bất cập và hạn chế: Cơ cấu về
ngành nghề bất hợp lý; trí thức đầu ngành hầu như không có; trí thức có trình
độ cao về CNTT, công nghệ sinh học, ngoại ngữ còn thiếu; các chuyên gia kỹ
thuật có khả năng chuyển giao công nghệ, ứng dụng khoa học kỹ thuật còn
quá ít. Sự phân bố mất cân đối. Khả năng làm chủ công nghệ mới gặp nhiều
18
khó khăn, việc ứng dụng KHCN vào thực tiễn rất lúng túng; kỹ năng phân
tích và hoạch định chính sách, phản biện hạn chế. Một bộ phận trí thức là cán
bộ, công chức thiếu tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật kém; phong
cách, lề lối làm việc chậm đổi mới; tinh thần thái độ phục vụ nhân dân chưa
cao đã gây nên sự trì trệ, cản trở cho công cuộc cải cách hành chính, tiếp thu
cái mới, công nghệ mới. Số lượng trí thức là người DTTS còn ít, chưa tương
xứng với tỉ lệ dân số và yêu cầu của sự phát triển.
- Văn hoá và con người Tây Nguyên trong văn xuôi nghệ thuật 1945 -
2000, của Đặng Văn Vũ [116]: Nêu lên vẻ đẹp, sự phong phú của các giá trị
văn hóa Tây Nguyên được thể hiện một cách độc đáo trong các tác phẩm văn
xuôi; những yếu tố tiêu cực trong các sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của người
Tây Nguyên; thực trạng biến đổi văn hóa ở Tây Nguyên theo hướng tích cực
lẫn tiêu cực; hình ảnh người Tây Nguyên với những phẩm chất tốt đẹp của họ
trong chiến đấu cũng như trong cuộc sống thường nhật; sự thay đổi về phẩm
chất con người Tây Nguyên trong quá trình hội nhập với các dân tộc khác.
- Một lớp trí thức mới của Tây Nguyên, hoàn toàn là hiện thực, của
Nguyên Ngọc [73]: Bài viết đặt ra những vấn đề và dấu hỏi lớn đối với sự
phát triển Tây Nguyên, đó là:
Phải giữ cho được bản sắc độc đáo của các dân tộc trên vùng đất
đặc biệt về nhiều phương diện này, nhưng Tây Nguyên, ngay hôm
nay và sắp đến, chắc chắn không thể đứng ngoài sự phát triển chung
của đất nước, thậm chí của thế giới, tất phải hiện đại hóa, Tây
Nguyên sẽ có còn là mình trong hiện đại hóa không? Hoặc nói một
cách thẳng thắn và rõ ràng hơn: Con người Tây Nguyên, văn hóa
Tây Nguyên có đủ khả năng trụ vững và phát triển trong hiện đại
hóa tất yếu không? [73].
Trên cơ sở đó, tác giả nhìn nhận, phân tích, đánh giá và đi đến kết luận:
Hoàn toàn có thể đào tạo nên cả một tầng lớp trí thức mới của Tây
Nguyên, trao cho họ những tri thức cao nhất trong tất cả các lĩnh
vực cả tự nhiên lẫn xã hội, mà họ chắc chắn sẽ làm chủ được một
19
cách vững vàng. Vững vàng và uyên thâm hơn rất, rất nhiều những
người đang định đến đấy để làm thay họ, với những ý định có thể là
tốt lành đấy nhưng vẫn tiềm ẩn một thứ tâm lý dân tộc lớn mà chính
mình có khi không nhận ra [73].
- Giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực trí thức tỉnh Đắk Lắk
đến năm 2020, của Phạm Thế Trịnh [99]: Khái quát những đóng góp của
ĐNTT ở Đắk Lắk đối với thành tựu 30 năm đổi mới của tỉnh, đặc biệt là trong
công tác xoá đói, giảm nghèo và chuyển giao KHCN vào sản xuất và đời
sống. Đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế của đội ngũ này trong thời kỳ hội
nhập như số lượng, chất lượng còn bất cập; cơ cấu ngành, nghề bất hợp lý; trí
thức trong lĩnh vực công nghệ và đầu ngành ít; năng lực sáng tạo, khả năng tư
vấn, phản biện và giám định xã hội yếu; trí thức DTTS có trình độ đại học và
sau đại học ít. Hiệu quả khai thác, sử dụng chất xám thấp; một số đề tài
nghiên cứu chưa gắn với sản xuất và đời sống.
Từ thực trạng trên, tham luận đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy,
phát triển ĐNTT, trong đó nhấn mạnh giải pháp xây dựng, quy hoạch phát
triển nhân lực trí thức gắn với chiến lược phát triển KT-XH đến năm 2020.
Qua việc khái quát các công trình nghiên cứu về ĐNTT ở Tây Nguyên
nêu trên cho thấy, mặc dù chưa có công trình khoa học nào nêu lên quan niệm
về ĐNTT ở Tây Nguyên nhưng đã có những ý niệm, tư tưởng bước đầu hết
sức quan trọng về đội ngũ này. Đây là một trong những cơ sở cho việc kế
thừa, tiếp thu của luận án để từ đó đưa ra quan niệm về ĐNTT ở Tây Nguyên.
1.2.2. Những công trình nghiên cứu về phát triển đội ngũ trí thức ở
Tây Nguyên
- Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
huyện người các dân tộc ở Tây Nguyên, do Lê Hữu Nghĩa (chủ biên) [72]: Đi
sâu trình bày, phân tích, đánh giá một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo cấp huyện người dân tộc ở Tây Nguyên như: vị trí, vai trò đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện người các dân tộc; các nhân tố ảnh hưởng
đến việc hình thành đội ngũ cán bộ người các dân tộc ở Tây Nguyên; thực
20
trạng, định hướng và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ người các dân tộc ở
Tây Nguyên. Trong đó nhấn mạnh:
Trong cơ cấu đội ngũ cán bộ ở Tây Nguyên, cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp huyện người các dân tộc giữ vị trí rất quan trọng. Đó là
những người gắn bó với quê hương, hiểu được tập quán, tâm tư,
nguyện vọng của đồng bào, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với
các dân tộc và cũng là trụ cột để giữ vững ổn định chính trị, củng
cố khối đoàn kết dân tộc trên vùng địa bàn chiến lược này. Chính
vì vậy, việc xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp huyện người các dân tộc là một yêu cầu quan trọng
và cấp bách [72].
- Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đào tạo nguồn và sử dụng hiệu quả
nhân lực trí thức dân tộc thiểu số tại chỗ tỉnh Đắk Lắk, do Nguyễn Đức Bách
chủ nhiệm [1]: Từ việc nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các nhà nghiên cứu về trí thức, đề tài đi đến khái niệm
ĐNTT. Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng nhân lực trí thức DTTS tại chỗ của
Đắk Lắk, những mặt mạnh và hạn chế của đội ngũ này; từ đó đề xuất bốn giải
pháp chủ yếu trong việc tạo nguồn và sử dụng ĐNTT, đó là: Đổi mới, nâng
cao nhận thức của cấp uỷ, chính quyền các cấp về vị trí, vai trò, nhiệm vụ của
ĐNTT trong giai đoạn hiện nay; tăng số lượng và nâng cao chất lượng tuyển
dụng, đào tạo, bồi dưỡng trí thức; nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, kế
hoạch tuyển dụng, bố trí, sử dụng trí thức; xây dựng, hoàn thiện, thực hiện các
chế độ, chính sách khuyến khích, đãi ngộ đối với ĐNTT.
- Đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp phát huy trí tuệ của
đội ngũ trí thức trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, do Y Ghi Niê làm chủ nhiệm
[120]: Khẳng định trí thức có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển
của nhân loại nói chung, của đất nước và Đắk Lắk nói riêng. Coi trọng trí thức
chính là coi trọng con người, coi trọng sự phát triển, đặt con người vào vị trí
trung tâm của sự phát triển. ĐNTT ở Đắk Lắk trong thời gian qua đã có sự
chuyển biến nhanh chóng cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu, đóng góp
21
quan trọng vào quá trình phát triển KT-XH của tỉnh. Tuy nhiên, so với yêu
cầu của sự phát triển, số lượng trí thức còn ít, chất lượng hạn chế, cơ cấu và
sự phân bố trí thức có nhiều bất cập, chính sách sử dụng, đãi ngộ đối với trí
thức bất hợp lý.
- Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh Đắk Nông đến năm 2020, do Nguyễn Võ Linh chủ nhiệm
[68]: Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực, đề tài đi vào nghiên
cứu thực trạng nguồn nhân lực của tỉnh Đắk Nông, hiện trạng việc làm và
hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, những kinh nghiệm phát triển nguồn nhân
lực ở một số tỉnh có nét tương đồng với Đắk Nông. Từ đó đánh giá tác động,
dự báo khả năng, nhu cầu phát triển nguồn nhân lực đến năm 2020, cũng như
đề xuất một số mô hình đào tạo áp dụng tại Đắk Nông cùng một số giải pháp
phát triển nguồn lực này. Trong đó nhấn mạnh các giải pháp về công tác dân
số và lao động; phát triển ngành y tế và chăm sóc sức khoẻ nhân dân; phát
triển hệ thống GDĐT; tạo việc làm cho lao động và sử dụng lao động sau khi
được đào tạo; tăng cường hợp tác với các tỉnh và mở rộng thị trường; thực
hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực.
- Nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải pháp xây dựng đội ngũ trí
thức tỉnh Lâm Đồng, do Trương Trổ chủ nhiệm [100]: Qua việc trình bày một
số đặc điểm về dân số, lao động, doanh nghiệp, cơ cấu kinh tế Lâm Đồng thời
kỳ 2005-2010 và các mục tiêu, giải pháp phát triển KT-XH đến 2015 và định
hướng 2020, đề tài đi vào đánh giá thực trạng ĐNTT của tỉnh, trong đó nhấn
mạnh sự phát triển và những đóng góp của đội ngũ này trong thời kỳ đấu
tranh cách mạng giải phóng dân tộc và hiện nay. Đồng thời chỉ ra những bất
cập, hạn chế của ĐNTT cũng như chính sách đối với đội ngũ này. Từ đó đưa
ra những giải pháp nhằm tiếp tục phát triển trong thời gian tới như ưu tiên
trọng dụng, đề bạt, bổ nhiệm, trả lương cao cho những trí thức có đề tài, công
trình đem lại giá trị tăng thêm cho địa phương; tăng cường công tác xây dựng
quy hoạch nguồn nhân lực và thực hiện quy hoạch trên cơ sở đào tạo và trọng
dụng ĐNTT; có chiến lược cụ thể trong việc khai thác, sử dụng lực lượng trí
22
thức của các cơ quan trung ương đóng trên địa bàn tỉnh; tăng cường đầu tư
cho các hoạt động sáng tạo văn học nghệ thuật, nghiên cứu ứng dụng KHCN,
phát triển GDĐT, chăm sóc sức khoẻ nhân dân; đổi mới nhận thức về vấn đề
tập hợp trí thức của các tổ chức chính trị - xã hội; hỗ trợ doanh nghiệp thu hút
và sử dụng lao động chất lượng cao, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật hiện đại.
- Tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc thiểu số các tỉnh
Tây Nguyên giai đoạn hiện nay, của Trương Thị Bạch Yến [119]: Trên cơ sở
những vấn đề lý luận chung về nguồn và tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã
các DTTS ở Tây Nguyên, tác giả đánh giá thực trạng nguồn, tạo nguồn cán
bộ, công chức cấp xã người DTTS ở Tây Nguyên, dự báo những yếu tố tác
động và đề xuất phương hướng, giải pháp tạo nguồn cán bộ công chức cấp
xã người DTTS ở Tây Nguyên. Về giải pháp, tác giả đề xuất hai giải pháp có
tính đặc thù, khả thi nhằm đẩy mạnh tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã
người DTTS đến năm 2020: Một là, củng cố, phát triển và giao trách nhiệm
cụ thể cho hệ thống các trường dân tộc nội trú, các cơ sở GDĐT trên địa bàn
Tây Nguyên tham gia tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã người DTTS; Hai
là, xây dựng, củng cố và phát huy vai trò hệ thống chính trị xã, người có uy
tín trong cộng đồng ở thôn, buôn trong tạo nguồn cán bộ, công chức xã
người DTTS.
- Phát triển đội ngũ hiệu trưởng trường trung học phổ thông các tỉnh
bắc Tây Nguyên trong bối cảnh đổi mới giáo dục, của Cao Thị Thanh Xuân
[118]: Đề cập đến nhiều vấn đề về phát triển đội ngũ hiệu trưởng trường trung
học phổ thông trong mối quan hệ với phát triển nguồn nhân lực ở các tỉnh bắc
Tây Nguyên, nội dung và những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của đội
ngũ này, cũng như thực trạng của sự phát triển. Từ đó đưa ra định hướng,
quan điểm và giải pháp phát triển đội ngũ hiệu trưởng trường trung học phổ
thông ở các tỉnh bắc Tây Nguyên.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh
Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay, của Nguyễn Thành Dũng [36]: Trên cơ
sở lý luận về cán bộ, đội ngũ cán bộ chủ chốt, tác giả đánh giá, phân tích vai
23
trò, thực trạng việc nâng cao đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh
Tây Nguyên, từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ này.
Về đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, tác giả đưa ra 3 phương diện chủ yếu
là số lượng, chất lượng và cơ cấu. Đồng thời nêu lên tiêu chí đánh giá chất
lượng đội ngũ này trên 3 yếu tố: Mức độ tín nhiệm, số lượng và cơ cấu phù
hợp; chất lượng toàn diện và kết quả hoàn thành nhiệm vụ.
- Phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch khu vực duyên hải nam
Trung Bộ và Tây Nguyên, của Trần Sơn Hải [47]: Nêu lên khái niệm nguồn
nhân lực, phát triển nguồn nhân lực, các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển
nguồn nhân lực ngành du lịch, phân tích thực trạng phát triển nhân lực ngành
du lịch về số lượng, chất lượng và cơ cấu; công tác đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực ngành này ở các tỉnh khu vực duyên hải nam Trung Bộ và Tây
Nguyên. Từ đó đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực của ngành
du lịch đến năm 2020, trong đó nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường quản
lý nhà nước và nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch.
- Xây dựng đội ngũ trí thức các tộc người ở Tây Nguyên thời kỳ đổi
mới, của Trương Minh Dục [34]: Bài nghiên cứu khẳng định việc xây dựng
ĐNTT các tộc người ở Tây Nguyên là một trong những yếu tố quan trọng
trong việc thực hiện thắng lợi chính sách dân tộc, qua đó phát huy tính tích
cực và khả năng của các tộc người ở đây. Tác giả khái quát một số chủ trương
của Đảng bộ các tỉnh Tây Nguyên về xây dựng ĐNTT các tộc người, trong đó
nhấn mạnh sự đặc biệt quan tâm đào tạo, sử dụng và xây dựng đội ngũ này có
đủ năng lực, phẩm chất hoàn thành nhiệm vụ đề ra.
- Kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa X) về xây
dựng đội ngũ trí thức ở tỉnh Gia Lai, của Phạm Thị Thu Dung [35]: Đề cập
đến những đóng góp quan trọng của ĐNTT đối với quá trình phát triển KT-
XH, giữ vững an ninh chính trị của tỉnh. Nhiều đề tài nghiên cứu về khoa học
xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên được ĐNTT đảm nhận đã góp phần
quan trọng vào quá trình phát triển KT-XH địa phương.
24
Bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn những hạn chế: Cơ cấu và
sự phân bố ĐNTT theo ngành, nghề chưa phù hợp với cơ cấu KT-XH. Đa số
trí thức tập trung nơi có điều kiện phát triển. Số trí thức là người đồng bào
DTTS tăng nhưng rất chậm. Thiếu đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ
quản lý có trình độ chuyên môn cao, thiếu chuyên gia giỏi. Một số trí thức
còn hạn chế về trình độ ngoại ngữ, thiếu tính chuyên nghiệp. Các cơ sở
GDĐT trong tỉnh liên kết đào tạo đại học, sau đại học chưa gắn với yêu cầu,
nhiệm vụ công tác. Chất lượng đào tạo chưa cao. Số lượng đề tài khoa học
được nghiên cứu và áp dụng vào thực tiễn còn ít, chất lượng thấp. Việc tham
gia hoạt động tư vấn, phản biện, giám định còn hạn chế.
- Phát triển và đào tạo nguồn nhân lực vùng Tây Nguyên trong thời kỳ
đổi mới và phát triển, của Bùi Tất Thắng [86]: Đề cập đến những yêu cầu đặt
ra đối với sự phát triển, đào tạo nguồn nhân lực ở Tây Nguyên; đặc điểm phát
triển và đào tạo nguồn nhân lực của vùng, từ đó đề xuất quan điểm, giải pháp
cho vấn đề này, trong đó nhấn mạnh các giải pháp: Tăng các nguồn vốn đầu
tư và kinh phí cho phát triển GDĐT và nguồn nhân lực Tây Nguyên; đổi mới
quản lý nhà nước về GDĐT và phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn Tây
Nguyên; cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh để tạo việc làm có năng
suất cao và chuyển dịch cơ cấu lao động; mở rộng hợp tác liên vùng trong
nước và quốc tế để phát triển nguồn nhân lực Tây Nguyên.
- Phát triển và đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ đổi mới, tham luận
của Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đắk Lắk [84]: Nêu lên quan niệm về đào
tạo nguồn nhân lực trí thức; vai trò của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trí
thức; thực trạng và giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực trí thức ở Đắk Lắk.
Trong đó nhấn mạnh chất lượng đào tạo là yếu tố cực kỳ quan trọng, ảnh
hưởng trực tiếp đến năng lực làm việc sau khi ra trường. Chính vì vậy cần
quan tâm đến chất lượng đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, nội dung và loại
hình đào tạo. Đồng thời cần đổi mới cơ chế, chính sách thu hút nhân tài.
- Đào tạo đại học với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở vùng
Tây Nguyên hiện nay, của Trương Thị Hạnh [48]: Tham luận nêu lên thực
25
trạng đào tạo đại học và chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao ở Tây
Nguyên hiện nay, những vấn đề đặt ra và những giải pháp chủ yếu góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo đại học, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
ở Tây Nguyên. Tác giả cũng nhấn mạnh về khoảng cách giữa chất lượng đào
tạo và nhu cầu xã hội, số lượng đào tạo ngày càng gia tăng nhưng chất lượng
của nguồn lao động qua đào tạo, khả năng thích ứng công việc và phát huy
kết quả đào tạo lại rất thấp.
Qua việc tổng quan các công trình nghiên cứu về phát triển ĐNTT ở
Tây Nguyên nêu trên cho thấy: Các công trình đã đề cập đến những khía cạnh
khác nhau của sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên - mà chủ yếu là ở mỗi tỉnh,
như chỉ ra mặt tích cực, ưu điểm và hạn chế, khuyết điểm trong phát triển đội
ngũ này, việc đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm tiếp tục phát triển đội ngũ
này trong thời gian tới. Dù vậy, chưa có công trình nghiên cứu nào đưa ra
quan niệm về phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên, vì vậy tác giả luận án tiếp thu,
kế thừa có chọn lọc một số nội dung của các công trình trên, từ đó tìm hiểu,
nghiên cứu đưa ra quan niệm về phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên.
1.3. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.3.1. Những giá trị của các công trình
Qua tổng quan những tài liệu trên liên quan đến luận án có thể khẳng
định, vấn đề phát triển ĐNTT không phải là vấn đề mới mà đã được đề cập
khá nhiều trong các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước. Song không
vì thế mà tính thời sự và hấp dẫn của nó mất đi. Ngược lại, cùng với sự phát
triển của KHCN và KTTT, thì vấn đề này ngày càng đặt ra nhiều điều mới mẻ
cần được tiếp tục nghiên cứu và giải đáp. Và những công trình NCKH trên đã
đi vào nghiên cứu, phân tích những vấn đề về phát triển ĐNTT, mà có thể
khái quát thành những giá trị, đóng góp sau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về trí thức và phát triển ĐNTT đã
đề cập đến nhiều khía cạnh như quan niệm, vị trí, vai trò và đặc điểm của trí
thức. Mặc dù vẫn còn những cách hiểu khác nhau, song hầu hết các công trình
26
đều thừa nhận những đóng góp hết sức quan trọng của ĐNTT đối với tiến
trình phát triển của xã hội. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và KTTT, thì ĐNTT
chính là lực lượng “tiên phong” trong sự phát triển. Ở đâu có ĐNTT lớn
mạnh, ở đó có tiền đề cơ bản cho sự phát triển ổn định và bền vững. Phát triển
ĐNTT là đòi hỏi tất yếu của mỗi quốc gia, dân tộc trong bối cảnh nền kinh tế
thế giới đang chuyển sang nền KTTT.
Thứ hai, nhiều công trình khoa học đã đi sâu trình bày, phân tích và
khái quát những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và của Đảng Cộng sản Việt Nam về ĐNTT và phát triển đội ngũ này. Trong
đó đều thừa nhận và nhấn mạnh sự coi trọng trí thức cũng như những đóng
góp to lớn của ĐNTT đối với sự phát triển.
Thứ ba, trên cơ sở lý luận về ĐNTT và phát triển ĐNTT, các công trình
đã đi vào đánh giá, phân tích thực trạng phát triển đội ngũ này, những mặt
mạnh, hạn chế và nguyên nhân, từ đó đưa ra phương hướng và đề xuất hệ
thống giải pháp nhằm tiếp tục phát triển ĐNTT. Về sự phát triển ĐNTT, các
công trình nhấn mạnh sự phát triển về số lượng, chất lượng, cơ cấu và chính
sách đối với đội ngũ này.
Thứ tư, trong các công trình nghiên cứu về phát triển ĐNTT ở Tây
Nguyên (chủ yếu ở mỗi tỉnh của Tây Nguyên) đã có những nhận định, phân
tích bước đầu về thực trạng ĐNTT và phát triển ĐNTT, nêu lên những vấn đề
cần giải quyết và giải pháp để tiếp tục phát triển đội ngũ này ở Tây Nguyên.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu về ĐNTT và phát triển ĐNTT nêu
trên đã có nhiều đóng góp hết sức quan trọng cả về phương diện lý luận và
thực tiễn.
1.3.2. Những kế thừa của luận án và vấn đề đặt ra cần tiếp tục
nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu trên đã đạt được nhiều kết quả to lớn trong
việc giải quyết một số vấn đề lý luận, thực tiễn về ĐNTT và phát triển ĐNTT.
Những kết quả đó là cơ sở quan trọng cho nghiên cứu sinh tiếp thu, kế thừa
27
vào quá trình nghiên cứu. Luận án kế thừa những thành quả về phương pháp
luận nghiên cứu ĐNTT nói chung, phương pháp triển khai nghiên cứu ĐNTT
ở Tây Nguyên nói riêng. Tham khảo những gợi ý bước đầu về phân tích thực
trạng và tìm kiếm giải pháp phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH. Tiếp thu và sử dụng vào luận án một số dữ liệu, số liệu được một
số công trình nêu ra đã được xác minh về xuất xứ.
Tuy nhiên, dưới góc độ phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên thì đến nay vẫn
chưa có công trình khoa học nào đề cập một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ
thống về lý luận, thực tiễn và thực trạng phát triển ĐNTT nơi đây, nhất là
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Chính vì vậy, luận án tập trung giải
quyết một số tồn tại đó, cụ thể là:
Một là, trình bày quan niệm về ĐNTT, phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên,
mối quan hệ giữa phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên với việc đẩy mạnh CNH,
HĐH và những yếu tố tác động đến sự phát triển đội ngũ này;
Hai là, phân tích và đánh giá thực trạng phát triển ĐNTT ở Tây
Nguyên, thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với sự
phát triển đội ngũ này;
Ba là, trên cơ sở thực trạng phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên và những
vấn đề đặt ra, luận án đề xuất những quan điểm cơ bản, hệ giải pháp chủ yếu
nhằm tiếp tục phát triển đội ngũ này thời gian tới, đáp ứng đòi hỏi của sự
nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH Tây Nguyên.
Luận án là một công trình khoa học độc lập, không trùng lặp với các
công trình đã nghiên cứu trước đó.
28
Chương 2
PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN
THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ -
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. MỘT SỐ QUAN NIỆM CƠ BẢN
2.1.1. Quan niệm về đội ngũ trí thức và đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên
2.1.1.1. Quan niệm về đội ngũ trí thức
Hiện nay, thuật ngữ “trí thức” được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia
trên thế giới và không chỉ trong các công trình khoa học, mà còn được dùng
trong quan hệ giao tiếp hàng ngày. Dù được sử dụng phổ biến nhưng ở mỗi
nước, mỗi thời kỳ lịch sử, thậm chí ở nhiều nhà khoa học trong một quốc gia
lại có những quan điểm, cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau khi bàn về trí
thức, cũng như vị trí, vai trò, chức năng và đặc điểm của họ.
Sinh thời, C.Mác và Ph.Ăngghen đã quan tâm đến vấn đề trí thức
nhưng chưa đưa ra một định nghĩa về trí thức. Dù vậy, hai ông đã nêu lên một
phương pháp tiếp cận khoa học (vấn đề giai cấp) cho việc nghiên cứu vấn đề
này. Dưới góc độ triết học, trí thức được xem là một phạm trù lịch sử, chỉ
xuất hiện khi trình độ phát triển xã hội đến một giai đoạn nhất định (có sự
phân công lao động xã hội, nhất là giữa lao động trí óc và chân tay).
Trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết của C.Mác và
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã nghiên cứu đầy đủ hơn về trí thức với tư cách là
một tầng lớp, nhất là sau cách mạng tháng Mười Nga (1917). Ông đã đi sâu
nghiên cứu về đặc điểm, tính chất của tầng lớp trí thức, từ đó thu hút, lôi kéo
trí thức cũ và đào tạo trí thức mới cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Nga.
V.I.Lênin viết:
Tôi dùng chữ trí thức, giới trí thức, để dịch những danh từ Đức Literat,
Literatentum là những danh từ có nghĩa bao hàm không những chỉ các
nhà trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả mọi người có học thức,
các đại biểu của những nghề tự do nói chung, các đại biểu của lao
29
động trí óc (tức là những người mà người Anh gọi là brain worker),
khác với những đại biểu của lao động chân tay [112, tr.372].
Như vậy, trí thức trong quan niệm của V.I.Lênin không chỉ là những
nhà tư tưởng vĩ đại (nhà trước tác), mà còn là những người có học thức và đại
biểu lao động trí óc của các tầng lớp trong xã hội. V.I.Lênin không đồng nhất
lao động trí óc với trí thức, mà chỉ có những người tiêu biểu trong hàng ngũ
lao động trí óc mới được coi là trí thức.
Kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định:
Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: Một là
hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là
hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó
mà ra. Ngoài hai cái đó, không có trí thức nào khác. Một người học
xong đại học, có thể gọi là trí thức. Song y không biết cày ruộng,
không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc
khác. Nói tóm lại: Công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ
có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải trí
thức hoàn toàn. Y muốn thành một người trí thức hoàn toàn, thì phải
biết đem trí thức đó áp dụng vào thực tế [49, tr.235].
Theo cách tiếp cận này thì trí thức không chỉ là người hiểu biết, có tri
thức về tự nhiên, xã hội mà còn phải đem sự hiểu biết, tri thức đó vào thực
tiễn đời sống. Đồng thời, một trong những tiêu chí cụ thể để có thể được coi
là trí thức về mặt học vấn là từ tốt nghiệp đại học trở lên. Quan niệm này cũng
cho thấy sự hình thành trí thức và chức năng, nhiệm vụ của trí thức.
Trên cơ sở lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn của
Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định "Trí thức là những người lao
động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có
năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những
sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội” [40, tr.82].
30
Có thể nhận thấy quan niệm của Đảng về trí thức ngày càng toàn diện,
đầy đủ và sâu sắc trên cơ sở tiếp thu, kế thừa, phát triển Chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức cùng với thực tiễn vận động của đất
nước và thực trạng ĐNTT nước ta. Theo cách tiếp cận này thì có 3 tiêu chí cơ
bản để phân biệt trí thức với các bộ phận khác:
Thứ nhất, về trình độ học vấn, trí thức phải là những người có trình độ
học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định.
Lao động của trí thức mang tính sáng tạo, phức tạp và không tự nhiên
hình thành mà chủ yếu thông qua quá trình đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện một
cách có hệ thống ở các trường đại học, học viện, viện nghiên cứu. Kết quả của
quá trình này được biểu hiện thông qua trình độ học vấn và sự công nhận về
bằng cấp. Theo chúng tôi, nếu xét về bằng cấp cũng phải từ tốt nghiệp đại học
trở lên, vì bắt đầu từ trình độ này, sự sáng tạo trong lao động mới bộc lộ
tương đối rõ nét.
Tuy nhiên, không phải tất cả những người có trình độ học vấn cao đều
là trí thức và những người không có trình độ học vấn cao (thể hiện qua bằng
cấp) không phải là trí thức. Vì trong thực tế, có những người có trình độ học
vấn cao nhưng lao động của họ mang ít tính sáng tạo thì không thể coi là trí
thức và cũng có những người không được đào tạo, không có bằng cấp nhưng
lao động sáng tạo, phức tạp thì họ là trí thức. Do đó, trình độ học vấn là một
trong những yếu tố quan trọng để xem một cá nhân là trí thức hay không
nhưng còn phải căn cứ vào các yếu tố khác mới có một quan niệm đầy đủ.
Thứ hai, về phương thức lao động và chức năng. Trí thức lao động
bằng trí óc, có năng lực độc lập trong tư duy, sáng tạo, truyền bá và làm giàu
tri thức cho xã hội. Trí thức là người lao động trí óc nhưng không phải tất cả
lao động trí óc đều là trí thức, mà phải là những người lao động trí óc sáng tạo
và có tính độc lập trong tư duy. Họ không chỉ có chức năng sáng tạo mà còn
truyền bá, phổ biến và làm giàu tri thức cho xã hội thông qua lao động của
mình, làm cho sự hiểu biết của con người ngày càng đa dạng, phong phú, đi
31
sâu vào nhận thức bản chất của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội.
Chúng tôi cho rằng, đây là tiêu chí quan trọng nhất để nhận biết trí thức.
Thứ ba, sản phẩm lao động của trí thức là những giá trị tinh thần và vật
chất. Thước đo đối với trí thức chính là sản phẩm mà họ tạo ra cho xã hội, sản
phẩm là kết quả lao động sáng tạo của trí thức, do đó để sản phẩm càng có giá
trị thì lao động của trí thức càng khó khăn, phức tạp. Không ít trí thức hy sinh
cả cuộc đời của mình chỉ để theo đuổi niềm say mê khám phá, sáng tạo của
mình và khi sản phẩm ra đời đã mang lại những giá trị hết sức to lớn đối với
sự vận động và phát triển xã hội, qua đó ghi đậm dấu ấn sáng tạo của họ.
Theo từ điển Triết học thì "Trí thức - tập đoàn xã hội gồm những người
làm nghề lao động trí óc. Giới trí thức bao gồm kỹ sư, kỹ thuật viên, thầy
thuốc, luật sư, nghệ sĩ, thầy giáo và người làm công tác khoa học, một bộ
phận viên chức” [76, tr.598].
Từ điển Chủ nghĩa Cộng sản khoa học xác định:
Trí thức - một nhóm xã hội bao gồm những người chuyên làm nghề
lao động trí óc phức tạp và có học vấn chuyên môn cần thiết cho
ngành lao động đó. Sự tồn tại của trí thức với tính cách là một nhóm
xã hội đặc biệt gắn liền với việc phân công xã hội giữa lao động trí
óc và lao động chân tay [75, tr.360].
Từ điển Bách khoa Việt Nam khẳng định "Trí thức là tầng lớp xã hội
làm nghề lao động trí óc, trong đó, bộ phận chủ yếu là những người có học
vấn cao, hiểu biết sâu rộng về chuyên môn của mình, có sáng tạo và phát
minh” [77, tr.582].
Từ điển Tiếng Việt xác định "Trí thức là người chuyên làm việc lao
động trí óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp
của mình” [114, tr.999].
Như vậy, có rất nhiều quan niệm khác nhau về trí thức, thể hiện tính đa
dạng cũng như phức tạp khi tiếp cận, nhìn nhận và đánh giá họ. Trong mỗi
quan niệm đều có những nhân tố hợp lý và khoa học. Chúng tôi cho rằng,
quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức là sự phản ánh khá đầy
32
đủ, sâu sắc về trí thức, nhất là trí thức Việt Nam, là cơ sở, định hướng để
nghiên cứu về trí thức và phát triển ĐNTT hiện nay.
2.1.1.2. Quan niệm về đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên
Trên cơ sở quan niệm về trí thức nêu trên cùng với tính đặc thù của các
điều kiện tự nhiên, xã hội, văn hoá và dân tộc ở Tây Nguyên, chúng tôi cho
rằng: ĐNTT ở Tây Nguyên là một bộ phận của ĐNTT Việt Nam, bao gồm
những người lao động trí óc sáng tạo, có năng lực tư duy độc lập và trình độ
hiểu biết, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm có giá trị
cho xã hội, đang sinh sống, công tác ở các tỉnh Tây Nguyên.
Từ quan niệm trên, có thể hiểu ĐNTT ở Tây Nguyên được xác định
thông qua một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, ĐNTT ở Tây Nguyên là một bộ phận của ĐNTT Việt Nam,
do đó nó mang trong mình những đặc điểm cơ bản của trí thức Việt Nam, là
bộ phận không thể tách rời và gắn bó với vận mệnh của đất nước, dân tộc.
Thứ hai, ĐNTT ở Tây Nguyên gồm những người lao động trí óc sáng
tạo, có năng lực tư duy độc lập và trình độ hiểu biết. Trong đó, trình độ hiểu
biết có thể đo lường thông qua trình độ học vấn hoặc cũng có thể không. Nếu
thông qua trình độ học vấn phải từ tốt nghiệp đại học trở lên.
Thứ ba, chức năng chủ yếu của ĐNTT ở Tây Nguyên là truyền bá, làm
giàu tri thức và tạo ra những sản phẩm có giá trị tinh thần, vật chất phục vụ
cho sự phát triển của xã hội, mà trực tiếp và trước hết là Tây Nguyên.
Thứ tư, ĐNTT ở Tây Nguyên gồm những người có phẩm chất đạo đức
và bản lĩnh chính trị; tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là các chủ trương, chính sách liên quan
đến sự ổn định và phát triển Tây Nguyên.
Thứ năm, ĐNTT ở Tây Nguyên gồm những trí thức đang sinh sống,
công tác ở các tỉnh Tây Nguyên. Họ sinh ra, lớn lên ở đây và cũng có thể từ
nơi khác tới đây sinh sống, lập nghiệp, hiện đang làm việc trong các cơ quan,
đơn vị, lĩnh vực, ngành nghề khác nhau ở Tây Nguyên, bao gồm những trí
33
thức công tác trong các cơ quan, đơn vị của Trung ương đóng trên địa bàn các
tỉnh Tây Nguyên.
Do đặc thù của Tây Nguyên, nhiều già làng là những người tiêu biểu về
mặt trí tuệ của cộng đồng các DTTS tại chỗ ở Tây Nguyên. Nếu như quan
niệm trí thức là những người có trình độ học vấn cao thể hiện qua bằng cấp,
thì các già làng ở Tây Nguyên không có, nhưng nói về sự am hiểu điều kiện
địa lý, tự nhiên, xã hội, lịch sử và văn hoá truyền thống thì phải kể đến những
người này. Họ không chỉ là người đại diện cho sự đoàn kết, gắn bó của cộng
đồng các dân tộc ở đây mà còn là hiện thân của trí tuệ, tinh hoa của DTTS tại
chỗ ở Tây Nguyên. Lao động của họ mang tính sáng tạo.
Phần lớn già làng là những người có uy tín, là chỗ dựa tinh thần, là
người hướng dẫn trong làm ăn, sản xuất, đồng thời trực tiếp giải quyết nhiều
vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội của cộng đồng các DTTS tại chỗ ở Tây
Nguyên. Họ là kho kinh nghiệm và tri thức sản xuất, là pho sử thi sống, là thủ
lĩnh của cộng đồng các DTTS tại chỗ ở Tây Nguyên.
Việc truyền bá đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước và các tri thức mới tới cộng đồng các DTTS ở Tây Nguyên có
hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào tiếng nói, việc làm của các già làng.
Đồng thời, tâm tư, nguyện vọng của cộng đồng các dân tộc ở đây cũng được
thể hiện chủ yếu thông qua lực lượng này.
Mặc dù, hiện nay vai trò của già làng so với trước đã có phần giảm sút
nhưng chưa có lực lượng, cá nhân nào có thể đảm đương, thay thế được họ
trong đời sống xã hội của cộng đồng các DTTS tại chỗ ở Tây Nguyên. Họ vẫn
là đại diện cho tinh hoa, trí tuệ của DTTS tại chỗ nơi đây.
Trong thực tế, đa số các già làng ở Tây Nguyên đã đảm nhiệm vai trò
của trí thức và họ xứng đáng được xã hội và nhà nước tôn vinh là những trí
thức theo một danh tính nào đó.
2.1.2. Quan niệm về phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên
Phát triển là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong nhiều ngành khoa
học, lĩnh vực khác nhau, vì vậy có nhiều cách hiểu không giống nhau. Dưới
34
góc độ triết học, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì phát triển là sự
vận động theo hướng đi lên cả về lượng và chất. Nguồn gốc của sự phát triển
nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng, là sự thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập.
Từ điển tiếng Việt xác định “Phát triển là biến đổi hoặc làm cho biến đổi
từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp” [115, tr.769].
Theo giáo trình triết học Mác-Lênin thì: “Phát triển là một phạm trù
triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn” [53, tr.227].
Từ những lý giải nêu trên có thể thấy một số đặc điểm chủ yếu của phát
triển như sau:
Phát triển là quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo hướng ngày
càng hoàn thiện. Là quá trình vận động từ thấp lên cao, từ ít đến nhiều, từ
chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Phát triển là kết quả tự thân của sự vật, hiện tượng do các yếu tố, mối
liên hệ bên trong, cũng như bên ngoài quy định. Trong đó mối liên hệ bên
trong mang tính tự thân vận động quyết định. Còn các yếu tố, mối liên hệ bên
ngoài tác động, thâm nhập vào bên trong sự vật, hiện tượng.
Nội dung của sự phát triển được thể hiện trên các mặt chủ yếu là số
lượng, chất lượng và cơ cấu.
Như vậy, sự phát triển là quá trình hoàn thiện về số lượng, chất lượng
và cơ cấu. Nguyên nhân chủ yếu của sự phát triển do chính các yếu tố nội tại
bên trong sự vật, hiện tượng quyết định.
Qua sự trình bày, phân tích về ĐNTT và quan niệm phát triển nêu trên,
chúng tôi xác định: Phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên là quá trình vận động
tăng lên về số lượng, chất lượng, hợp lý về cơ cấu của ĐNTT ở Tây Nguyên,
do sự tác động hợp quy luật của các chủ thể. Từ quan niệm này, có thể hiểu
sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên bao gồm:
Thứ nhất, nội dung phát triển:
Phát triển về số lượng được thể hiện ở số lượng trí thức thời kỳ sau
nhiều hơn thời kỳ trước và tỉ lệ này tăng lên trong cơ cấu dân số, phù hợp với
35
điều kiện, hoàn cảnh của Tây Nguyên. Đó là sự bảo đảm về số lượng đáp ứng
yêu cầu thực hiện thắng lợi quá trình CNH, HĐH Tây Nguyên. Để đáp ứng
được yêu cầu này phải phát triển KT-XH, nâng cao quy mô giáo dục, nhất là
giáo dục đại học và khả năng thu hút trí thức từ các địa phương khác lên Tây
Nguyên công tác.
Phát triển về mặt chất lượng thể hiện trên các khía cạnh chủ yếu về thể
lực, trí lực và nhân cách, trong đó về mặt thể lực là sự gia tăng chiều cao, cân
nặng, tuổi thọ, sức khoẻ và sự dẻo dai, bền bỉ cơ bắp và thần kinh; về mặt trí
lực bao gồm việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin
học; sức sáng tạo, kinh nghiệm, kỹ năng lao động cũng như khả năng tham
gia các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội; về mặt nhân cách là
sự nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, tác phong, ý thức tổ chức kỷ luật,
lối sống lành mạnh, tích cực, có tinh thần trách nhiệm. Để phát triển về chất
lượng không chỉ nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng trong đó bao hàm cả
tự đào tạo, đào tạo lại mà còn phải đẩy mạnh CNH, HĐH Tây Nguyên, đẩy
nhanh việc áp dụng các tiến bộ KHCN vào sản xuất và đời sống, cũng như sử
dụng đúng người, đúng việc để phát huy sức sáng tạo của trí thức.
Sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên về mặt chất lượng còn thể hiện ở
năng lực thực tiễn, đó là khả năng tổng kết thực tiễn, đúc rút thành lý luận cũng
như khả năng “thực tiễn hoá” lý luận thông qua hoạt động sáng tạo của mình.
Vì ĐNTT không chỉ nghiên cứu, khái quát các quá trình tự nhiên, xã hội thành
các quy luật và được biểu hiện qua các sáng tạo, phát minh, sáng chế mà còn
phải có năng lực đưa các tri thức trở lại thực tiễn để phục vụ sự phát triển.
Phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên còn bao hàm việc hình thành cơ cấu
ngày càng hợp lý, cân đối về thành phần xuất thân, trình độ học vấn, giới tính,
độ tuổi, ngành, nghề và thành phần dân tộc, v.v... Sự phát triển đội ngũ này
còn bao gồm yếu tố nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý và sử dụng
trí thức của các cơ quan, đơn vị. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến đường lối,
chủ trương, chính sách, pháp luật, chương trình, kế hoạch của các cấp uỷ
đảng, chính quyền, Mặt trận và đoàn thể đối với ĐNTT. Phát triển ĐNTT ở
36
Tây Nguyên về mặt cơ cấu cần bám sát mục tiêu của chiến lược phát triển
KT-XH trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Thứ hai, chủ thể phát triển:
Nguyên nhân chủ yếu của sự phát triển là sự tác động hợp quy luật của
các chủ thể. Trong đó, trước hết do yêu cầu nội tại trong chính bản thân của
đội ngũ này, đó là quá trình tự thân vận động không ngừng của các yếu tố cấu
thành ĐNTT, đồng thời là đòi hỏi khách quan của sự phát triển KT-XH và
CNH, HĐH. Môi trường tự nhiên và xã hội là những điều kiện hết sức quan
trọng đối với sự phát triển ĐNTT.
Chủ thể phát triển ĐNTT còn là gia đình, nhà trường và xã hội. Trong
đó đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có
tác động hết sức to lớn đến sự phát triển, nhất là các chính sách đúng đắn, phù
hợp, có tính khả thi cao.
Thứ ba, phương thức phát triển:
Phát triển ĐNTT có nhiều phương thức khác nhau, trong đó chủ yếu là:
Đào tạo, bồi dưỡng không chỉ làm cho số lượng tăng lên mà còn nâng
cao chất lượng ĐNTT, qua đó đáp ứng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp CNH,
HĐH Tây Nguyên.
Quá trình đào tạo, bồi dưỡng bao gồm cả quá trình tự đào tạo, đào tạo
lại với nhiều phương thức khác nhau như đào tạo chính quy tập trung, không
chính quy, từ xa; qua trường lớp hoặc tự học, tự nghiên cứu nâng cao trình độ.
Sử dụng trí thức là việc đặt trí thức vào một vị trí, một công việc nhất
định qua đó phát huy có hiệu quả năng lực, trí tuệ và khả năng sáng tạo. Sử
dụng trí thức có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc phát huy vai trò của họ
đối với sự phát triển. Sử dụng đúng người đúng việc sẽ là động lực để trí thức
phát huy tốt khả năng, sự sáng tạo của mình.
Môi trường, điều kiện công tác chính là không gian để trí thức tự do
phát minh, sáng tạo cũng như thể hiện tư tưởng, chính kiến của mình mà
không bị hiểu sai hoặc “chụp mũ”. Môi trường, điều kiện công tác bao gồm cả
cơ sở vật chất cũng như quan hệ giữa người với người trong quá trình công
37
tác và sự hoàn thiện cơ chế, chính sách. Ngoài ra còn là trạng thái dân chủ,
công bằng, bình đẳng để trí thức có thể cống hiến, phấn đấu và cạnh tranh
lành mạnh để vươn lên.
Đãi ngộ, thu hút trí thức. Đãi ngộ là một trong những hoạt động không
kém phần quan trọng trong phát triển ĐNTT, là một yếu tố giúp họ yên tâm
công tác và là động lực thúc đẩy sự cống hiến, sáng tạo. Vì vậy, cần đưa ra
những cơ chế, chính sách đãi ngộ hợp lý nhằm thu hút trí thức giỏi, có phẩm
chất, trình độ và năng lực về công tác. Đồng thời, có hình thức khen thưởng
cả về vật chất và tinh thần thích đáng.
Thu hút trí thức từ các địa phương khác về công tác tại Tây Nguyên
cũng là một trong những phương thức bổ sung vào ĐNTT nơi đây. Trong đó,
trước mắt cần thu hút những trí thức xuất thân hoặc có gia đình, người thân ở
Tây Nguyên nhưng hiện đang công tác tại các địa phương khác trong nước,
thậm chí cả ở nước ngoài.
Thứ tư, mục tiêu phát triển:
Phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên hướng tới nhiều mục tiêu khác nhau,
trong đó chủ yếu là nhằm khai thác hiệu quả các lợi thế, tiềm năng của vùng
phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển KT-XH Tây Nguyên,
cũng như góp phần xây dựng toàn diện con người.
2.1.3. Quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Tây Nguyên
Công nghiệp hoá là con đường phát triển tất yếu của các quốc gia trên
thế giới, là phương thức chuyển đổi nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế
công nghiệp với trình độ phát triển cao hơn cả về năng suất, chất lượng và
hiệu quả.
Hiện đại hoá là quá trình đưa các tiến bộ KHCN vào quá trình quản lý,
sản xuất tạo ra sự biến đổi về chất của nền sản xuất xã hội. Trong bối cảnh
KTTT đang hình thành do sự phát triển nhanh chóng và tác động của KHCN
thì công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá là một yêu cầu tất yếu để phát triển
nhanh và bền vững.
Trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm của các nước đi trước cùng với thực tế
quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định:
38
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn
diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế,
xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một
cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương
pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ
khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [39, tr.65].
Như vậy, quan niệm của Đảng về CNH, HĐH bao trùm các lĩnh vực
của đời sống KT-XH, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong quản lý
xã hội. CNH, HĐH trên cơ sở phát triển công nghiệp gắn kết chặt chẽ với các
tiến bộ về KHCN.
Đối với Tây Nguyên, CNH, HĐH là con đường tất yếu để đưa nơi đây
từng bước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, khai thác có hiệu quả các tiềm năng,
thế mạnh của vùng, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế, xã
hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững Tây Nguyên.
Tây Nguyên trong một thời gian dài là vùng đất khá biệt lập so với các
vùng khác trong cả nước, các hoạt động sản xuất chủ yếu khép kín, tự cung tự
cấp với phương thức đốt, phát, chọc trỉa, dựa vào các lợi thế tài nguyên thiên
nhiên sẵn có. Phương thức trao đổi chủ yếu là vật đổi vật. Trình độ quản lý xã
hội dựa trên hệ thống luật tục với vai trò quan trọng của già làng, trưởng
buôn, thầy mo, thầy cúng,v.v... Khi cùng cả nước bước vào sự nghiệp đổi mới
thì khoảng cách về trình độ phát triển của Tây Nguyên so với cả nước có sự
cách biệt khá xa. Do đó, mục tiêu CNH, HĐH Tây Nguyên là khai thác các
tiềm năng, thế mạnh của vùng phục vụ sự phát triển KT-XH, nâng cao đời
sống nhân dân và giảm dần khoảng cách phát triển so với cả nước, từng bước
vươn lên, phát triển cùng đất nước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Tây Nguyên không chỉ là quá trình
chuyển đổi phương thức sản xuất, quản lý xã hội, áp dụng các tiến bộ KHCN
vào sản xuất và đời sống mà còn phải gắn với việc bảo tồn, phát huy những
giá trị truyền thống, đặc thù của vùng đất và con người nơi đây, nhất là các
nguồn tài nguyên thiên nhiên và các tri thức sản xuất của cộng đồng DTTS tại
39
chỗ. Do đó, mục tiêu CNH, HĐH Tây Nguyên không chỉ nhằm khai thác các
thế mạnh của vùng mà còn phải bảo tồn, phát huy các thế mạnh đó để đảm
bảo sự ổn định và phát triển bền vững nơi đây, qua đó nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của cộng đồng các dân tộc ở Tây Nguyên, nhất là DTTS. Có
như vậy, sự nghiệp CNH, HĐH Tây Nguyên mới đi đến thành công.
So với cả nước trước khi tiến hành CNH, HĐH thì đã có những tiền đề,
kinh nghiệm trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá trước đây, còn Tây
Nguyên đi vào con đường CNH, HĐH gần như bắt đầu từ con số không,
ngoại trừ nguồn tài nguyên thiên nhiên, không vốn, không KHCN, không
nguồn nhân lực được đào tạo, trình độ quản lý thấp kém, v.v.… Do đó, quá
trình CNH, HĐH Tây Nguyên gặp nhiều khó khăn bởi điểm xuất phát thấp.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Tây Nguyên trước hết phải lấy lĩnh vực
nông nghiệp làm khâu đột phá, gắn với thế mạnh các cây công nghiệp và sự
màu mỡ, phì nhiêu của đất đỏ bazan.
Như vậy, CNH, HĐH Tây Nguyên ngoài những đặc điểm chung còn có
những điểm đặc thù, do đó cần có những phương thức, bước đi phù hợp với
điều kiện, đặc điểm nơi đây. Có như vậy, CNH, HĐH Tây Nguyên mới đạt
được mục tiêu, yêu cầu đề ra.
2.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY
NGUYÊN VỚI SỰ NGHIỆP ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
2.2.1. Sự phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên là yếu tố quan
trọng bảo đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá
Trong mọi thời đại, con người luôn là trung tâm của sự phát triển. Thời
đại ngày nay, con người và nguồn nhân lực nói chung, ĐNTT nói riêng lại
càng quan trọng, họ vừa là nguồn lực cơ bản và chủ yếu, vừa là động lực và
mục tiêu của sự phát triển. Không thể có sự phát triển nhanh và bền vững nếu
không có một ĐNTT cao về phẩm chất, trí tuệ, năng lực và hợp lý về cơ cấu
và số lượng.
Đối với Tây Nguyên, sự phát triển ĐNTT đóng vai trò hết sức quan
trọng đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH nơi đây, bởi lẽ:
40
Thứ nhất, ĐNTT ở Tây Nguyên có vai trò quyết định trong việc tổng
kết thực tiễn, sáng tạo tri thức mới góp phần quan trọng trong việc hoạch định
đường lối CNH, HĐH Tây Nguyên.
Những năm sau giải phóng, Tây Nguyên vẫn là vùng đất giàu tiềm
năng “chưa được đánh thức”. Trong lĩnh vực kinh tế, công lao lớn đầu tiên
của trí thức ở Tây Nguyên là đã cộng tác, phối hợp với những trí thức, chuyên
gia thuộc các cơ quan nghiên cứu ở Trung ương tiến hành những nghiên cứu,
điều tra thực địa công phu cùng với tra cứu thư tịch được bảo tàng trong nước
và nước ngoài lưu giữ để từng bước “phát lộ” tiềm năng đó. Dần dần tiềm
năng đó được xác định trên tổng thể về quy mô, số lượng, chất lượng theo
phương pháp đo đạc, ước tính dựa trên sự áp dụng tri thức khoa học và các
phương tiện hiện đại. Thành quả của các phát hiện đó chính là cơ sở cho việc
dự thảo các chiến lược phát triển kinh tế của Tây Nguyên, chiến lược tổng thể
cho đến chiến lược từng lĩnh vực, từng ngành. Cơ cấu kinh tế Tây Nguyên
được phác thảo và từng bước được chi tiết hoá, bổ sung, điều chỉnh trong đó
xác định trọng điểm các ngành mũi nhọn và cả lộ trình khai thác, phát huy.
Nhìn chung, suốt tiến trình đó trí thức ở Tây Nguyên đã góp phần đáng được
ghi nhận để Đảng, Nhà nước khẳng định chiến lược phát triển kinh tế Tây
Nguyên, rồi tiếp tục hoàn thiện, điều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi tình
hình trong nước, khu vực và thế giới trong các kỳ đại hội của Đảng.
Tiếp thu đường lối xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, trí thức ở Tây Nguyên đã đóng góp ý kiến và trực
tiếp tham gia triển khai để đường lối, chủ trương đó được vận dụng phù hợp
với điều kiện thực tế của Tây Nguyên, nơi mà mặt bằng xuất phát về kinh tế
còn thấp (có nơi rất thấp như ở một số khu vực DTTS) so với các vùng khác
trong cả nước.
Cũng như vậy, thực hiện CNH, HĐH là hướng đi tất yếu của cả nước
trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội như Nghị quyết Đại hội Đảng đã
khẳng định. Nhưng ở Tây Nguyên với nét đặc thù về trình độ lực lượng sản
xuất còn thấp kém và tương ứng với nó là sự thấp kém của quan hệ sản xuất
41
thì việc vận dụng đường lối, chủ trương ấy đòi hỏi sự sáng tạo mà trong thực
tế ĐNTT ở Tây Nguyên góp phần quan trọng.
Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật các tỉnh đã huy động nhiều nhà
khoa học có trình độ, kinh nghiệm vào việc thực hiện các nhiệm vụ quan
trọng, như: chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tái cơ cấu kinh tế, chuyển giao công
nghệ, phát triển các vùng chuyên canh, nâng cao năng suất cây trồng, vật
nuôi, phản biện đề án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch tổng thể
phát triển KT-XH; tham gia làm thành viên, dự các cuộc họp của hội đồng
nghiệm thu các đề tài, đề án, dự án, công trình quan trọng có liên quan tới lĩnh
vực kinh tế và môi trường như các công trình thủy điện, thủy lợi, du lịch, giao
thông, xây dựng; khai thác tài nguyên, quy hoạch dân cư,v.v...
Các hội thành viên của trí thức đã có nhiều hoạt động tư vấn, phản
biện, giám định có hiệu quả, được các cơ quan quản lý đánh giá cao, như: Hội
Khoa học Kỹ thuật Lâm nghiệp đã tư vấn xây dựng phương án giao đất, giao
rừng ở vùng đệm Vườn Quốc gia Chư Yang Sin, tư vấn điều phối thực hiện
dự án hỗ trợ sau giao đất, giao rừng để xóa đói giảm nghèo. Hội Kiến trúc sư
phản biện các công trình: khu công nghiệp, khu du lịch, quy hoạch trung tâm
huyện; Hội Khoa học Kỹ thuật Cầu đường phản biện các dự án tỉnh lộ 3, 8, 9;
Hội Cơ khí tư vấn những giải pháp công nghệ, cung cấp thiết bị máy móc
phục vụ cho sản xuất,v.v….
Những đóng góp của ĐNTT vào sự phát triển KT-XH Tây Nguyên khó
trình bày bằng những số liệu cụ thể, chi tiết trong khuôn khổ của một luận án,
nhưng có một sự kiện, một số liệu - có thể là minh chứng sáng giá về thành
tựu phát triển KT-XH của Tây nguyên như là kết quả sự nỗ lực của các cấp,
các ngành và cộng đồng các dân tộc trong đó có phần đóng góp xứng đáng
của trí thức. Sự kiện, số liệu đó là: Những năm qua tốc độ phát triển kinh tế
của Tây Nguyên luôn cao hơn mức bình quân của cả nước. Nhiều vùng đồng
bào DTTS từ chỗ “bốn không” (Không đường, không điện, không trường,
không trạm), đời sống hết sức khó khăn, đến nay về cơ bản các khoảng trống
42
“Bốn không” đó đã được lấp đầy, đời sống đồng bào có những thay đổi rõ rệt,
nhiều người vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất của mình.
Thứ hai, ĐNTT ở Tây Nguyên đi đầu trong việc đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực cho sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH và áp dụng các thành
tựu KHCN vào quá trình quản lý và sản xuất.
Mục tiêu của GDĐT là xây dựng con người với đầy đủ phẩm chất,
năng lực, trí tuệ và bản lĩnh, đáp ứng yêu cầu phát triển trong từng giai đoạn
lịch sử. Thời kỳ nào cũng vậy, trọng trách này trước hết thuộc về ĐNTT.
Ở Tây Nguyên, sau giải phóng và trước giai đoạn đổi mới, trí thức đã
tư vấn, chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc cải tạo hệ thống giáo dục cũ
(phục vụ sự cai trị, bóc lột của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ) sang hệ thống
giáo dục mới xã hội chủ nghĩa, phục vụ sự phát triển Tây Nguyên. Trong thời
kỳ đổi mới, ĐNTT tham gia thực hiện chính sách đổi mới căn bản và toàn
diện GDĐT theo tinh thần nghị quyết của Đảng.
Tây Nguyên vốn là vùng trũng về GDĐT, nhất là ở vùng sâu, vùng xa,
vùng DTTS. Trước thực trạng đó và thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp
uỷ, chính quyền cũng như với vai trò, trách nhiệm của mình, nhiều trí thức đã
không quản ngại khó khăn, thiếu thốn về cơ sở tuyên truyền, vận động các gia
đình cho con em tới trường học tập, nâng cao trình độ. Đồng thời, từng bước
tham gia tạo lập, gây dựng hệ thống trường, lớp ở các cấp học, bậc học, qua
đó mở rộng quy mô giáo dục. Hiện nay, toàn vùng có 20 trường đại học, cao
đẳng. Trong đó đại học có 44 chuyên ngành đào tạo hệ chính quy và 08
chuyên ngành đào tạo sau đại học. Cao đẳng sư phạm có 19 chuyên ngành
đào tạo chính quy và 19 chuyên ngành liên kết đào tạo đại học. Các trường
cao đẳng chuyên ngành và cao đẳng nghề có 53 ngành, nghề đào tạo; ngoài ra
các trường còn đào tạo liên thông, liên kết nhiều ngành, nghề khác [8].
Số lượng, chất lượng đội ngũ giảng viên các trường đại học, cao đẳng
được nâng lên. Số cán bộ giảng dạy trong các trường đại học và phân hiệu đại
học có 984 người, gồm: 14 phó giáo sư, 86 tiến sĩ, 510 thạc sĩ và 374 cử nhân.
Các trường cao đẳng sư phạm có 434 cán bộ giảng dạy, gồm: 10 tiến sĩ, 235
43
thạc sĩ, 189 cử nhân. Các trường cao đẳng chuyên ngành và cao đẳng nghề có
895 giảng viên, gồm: 02 tiến sĩ, 223 thạc sĩ, 670 cử nhân [8].
Trí thức là cán bộ lãnh đạo, quản lý giáo dục với sự hiểu biết và trách
nhiệm tham gia xây dựng cơ chế, chính sách phát triển hệ thống GDĐT, qua
đó có nhiều đóng góp quan trọng vào quá trình đổi mới, hoàn thiện cơ chế,
chính sách giáo dục cả nước nói chung, Tây Nguyên nói riêng.
Việc tăng cường đội ngũ nhà giáo, cơ sở vật chất, trang thiết bị, mở
rộng quy mô giáo dục đại học, cao đẳng đã thu hút được nhiều sinh viên từ
khắp các vùng, miền trong cả nước và cả 2 nước Lào, Campuchia đến đây học
tập, nâng cao trình độ, qua đó đóng góp nguồn nhân lực vào quá trình phát
triển. Chỉ tính riêng trong 3 năm 2010-2012, số lượng sinh viên tại các cơ sở
giáo dục đại học ở Tây Nguyên lên đến 40.347, trong đó sinh viên DTTS là
3.731 người. Các trường cao đẳng là 25.996 người, trong đó DTTS là 4.443
người. Các trường trung cấp là 186.991 người, gồm: trung cấp nghề 15.067
người, sơ cấp nghề 97.457 người, dạy nghề thường xuyên 74.467 người [13].
Là vùng có nhiều thành phần dân tộc, nhiều người trong các DTTS tại
chỗ chưa học và nói được tiếng phổ thông. Trình độ nhận thức và quá trình
tiếp thu tiếng phổ thông gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, ĐNTT đã có nhiều
nghiên cứu, đánh giá và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao khả năng sử
dụng ngôn ngữ phổ thông cho đồng bào các DTTS. Đến nay, đại bộ phận đã
sử dụng thành thạo tiếng phổ thông trong giao tiếp và công việc.
Nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng giáo dục, nhiều trí thức tham gia
dạy, học tiếng dân tộc, cũng như dày công nghiên cứu, dịch thuật và xuất bản
nhiều ấn phẩm giáo dục như sách giáo khoa, từ điển,v.v… bằng các thứ tiếng
dân tộc nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập, nghiên cứu của học
sinh, sinh viên DTTS.
Có thể khẳng định, những kết quả đạt được dù còn khiêm tốn, nhưng đã
góp phần hết sức quan trọng trong việc giải quyết mục tiêu nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, góp phần đắc lực vào tiến trình đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước, trong đó có Tây Nguyên.
44
Là vùng đất giàu tiềm năng với nhiều lợi thế nhưng do việc áp dụng
KHCN vào sản xuất còn nhiều hạn chế, yếu kém nên hiệu quả khai thác, sử
dụng chưa cao, thậm chí dẫn tới sự lãng phí, huỷ hoại. Từ thực tế trên, nhất là
từ khi đổi mới đến nay, với vị trí, vai trò, chức năng của mình, ĐNTT đã có
nhiều hoạt động nghiên cứu, đánh giá hiện trạng điều kiện tự nhiên, xã hội, từ
đó xây dựng cơ sở dữ liệu khoa học cho việc ban hành các chính sách đặc thù
phát triển kinh tế Tây Nguyên.
Trái ngược với tiềm năng, lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, phương
thức sản xuất của đồng bào DTTS ở Tây Nguyên nhìn chung còn khá lạc hậu
với công cụ sản xuất thô sơ, do đó năng suất lao động và hiệu quả kinh tế
thấp. Việc đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đời sống còn hết
sức khó khăn do ảnh hưởng, chi phối bởi không ít phong tục, tập quán và
nhận thức lạc hậu. Với sự hiểu biết, kiên trì của mình, ĐNTT một mặt tuyên
truyền, vận động người dân dần xoá bỏ các tập quán, lối sản xuất lạc hậu, mặt
khác hướng dẫn từng bước để họ hiểu và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất, qua đó thay đổi nhận thức và thúc đẩy các hoạt động sản
xuất, nâng cao đời sống.
Đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên còn tư vấn và tham gia đưa các tiến bộ
KHCN vào hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành của các cơ quan, đơn vị,
từng bước hiện đại hoá nền công vụ, hướng tới xây dựng chính phủ điện tử.
Qua đó góp phần đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành và từng bước đẩy nhanh quá trình cải cách bộ máy hành chính theo
hướng ngày càng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Thông qua các hoạt động NCKH, ĐNTT tạo ra các phát minh, sáng
chế, sản phẩm có giá trị cao phục vụ sự phát triển KT-XH Tây Nguyên, nhất
là trong lĩnh vực nông nghiệp, góp phần quan trọng đưa nông nghiệp Tây
Nguyên phát triển theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, như việc ứng dụng
công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao ở Lâm Đồng.
Việc ứng dụng đã làm cho doanh thu bình quân trên đơn vị diện tích canh tác
tăng nhanh từ 27 triệu đồng/ha lên 122,2 triệu. Hiện nay, toàn tỉnh Lâm Đồng
45
có 38.000ha đạt doanh thu từ 100 đến 250 triệu đồng/ha/năm; 15.250ha từ
250 đến 500 triệu đồng/ha/năm; trên 10.000ha từ 500 đến trên 1 tỷ
đồng/ha/năm, trong đó, khoảng 1.000ha có doanh thu từ 1 đến 2,5 tỷ
đồng/ha/năm. Diện tích ứng dụng công nghệ cao trên các loại cây trồng gần
39.000ha, chiếm 15% diện tích canh tác nông nghiệp toàn tỉnh và được Trung
ương đánh giá là địa phương đứng đầu cả nước về sản xuất nông nghiệp công
nghệ cao [83; tr.3].
Thứ ba, ĐNTT ở Tây Nguyên là lực lượng tiên phong trong việc truyền
bá các tri thức, tiến bộ KHCN; đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước tới người dân.
Phương thức sản xuất truyền thống ở Tây Nguyên khá lạc hậu, kéo theo
đó phương thức quản lý xã hội dựa trên hệ thống tự quản, hầu như chưa có sự
tác động của KHCN vào quá trình sản xuất và quản lý xã hội. Do đó, khi
Đảng khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới thì ở Tây Nguyên, việc đầu
tiên là phải tuyên truyền, vận động người dân, nhất là DTTS tại chỗ từ bỏ lối
sản xuất, canh tác lạc hậu, manh mún, từng bước đưa các tri thức, tiến bộ
KHCN vào quá trình sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, nâng cao dân trí
và xoá đói giảm nghèo. Cùng với sự biến đổi của kinh tế, đời sống xã hội
cũng có những bước chuyển biến, việc quản lý xã hội được thực hiện chủ yếu
thông qua các công cụ pháp luật, chính sách của nhà nước thay cho quản lý
bằng luật tục. Để có những sự thay đổi này, ĐNTT ở Tây Nguyên một mặt
nghiên cứu, nắm bắt các đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội và tộc người ở Tây
Nguyên, đồng thời nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước, qua đó tuyên truyền, vận động người dân thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng.
Thực tế, qua 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ở Tây
Nguyên cho thấy: quá trình chuyển đổi phương thức sản xuất nông nghiệp
truyền thống sang công nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ nơi đây. Phương tiện,
máy móc, các loại giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao; quy trình sản
xuất, quản lý tiên tiến, hiện đại từng bước được áp dụng vào phát triển KT-
46
XH ở nhiều vùng, ngành. Lao động qua đào tạo ngày càng chiếm tỉ lệ cao
trong cơ cấu nguồn nhân lực,v.v…. Có được những tiến bộ đó, phần lớn do
nhận thức của người dân nơi đây được nâng lên thông qua quá trình tuyên
truyền, vận động, hướng dẫn, chuyển giao của các nhà khoa học, chuyên gia
và cán bộ, mà nói rộng ra là ĐNTT.
Thứ tư, ĐNTT ở Tây Nguyên tham gia giữ vững sự ổn định chính trị -
xã hội, tạo nền tảng vững chắc đẩy mạnh CNH, HĐH.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thực hiện chủ trương, chính sách phát
triển KT-XH Tây Nguyên của Đảng và Nhà nước, một số lượng lớn người
dân từ các tỉnh khác (chủ yếu từ miền Trung và phía Bắc) lên đây để ổn định
tình hình và phát triển kinh tế. Đồng thời, các nông, lâm trường quốc doanh
cũng được thành lập với mục tiêu khai thác tối đa các nguồn lực phục vụ sự
phát triển KT-XH và nâng cao đời sống nhân dân, hướng tới phương thức sản
xuất mới. Trong thực tế công việc đó đã đạt được nhiều kết quả quan trọng
trong phát triển Tây Nguyên. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu cũng bắt
đầu nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, mâu thuẫn. Sự thâm nhập và đổi thay
nhanh chóng của phương thức sản xuất diễn ra, trong khi cộng đồng DTTS tại
chỗ chưa đạt tới trình độ tương ứng để kịp tiếp thu, vì vậy tạo ra những đảo
lộn trong quá trình hoạt động kinh tế của họ, kéo theo đó là sự thay đổi về lối
sống, phong tục, tập quán. Một số phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp
bắt đầu có những biểu hiện mai một, rạn nứt, tạo ra những khoảng trống, sự
hụt hẫng nhất định trong đời sống văn hóa tinh thần của các DTTS nơi đây.
Từ khi đổi mới đến nay, số lượng người nhập cư vào Tây Nguyên quá
lớn tạo ra nhiều áp lực cả về KT-XH và quốc phòng, an ninh, trong khi đó kết
cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém, hệ thống chính trị chưa được kiện toàn. Từ đó
nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp cũng như mâu thuẫn giữa các thành phần dân
tộc với nhau, nhất là giữa cộng đồng DTTS tại chỗ với cộng đồng các dân tộc
từ nơi khác đến. Mặt khác, sự gia tăng dân số ồ ạt kéo theo đó là sự khai thác
quá mức, mang tính tận diệt đã làm cho nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên từ
chỗ dồi dào, phong phú trở nên khan hiếm, cạn kiệt, làm cho cuộc sống của
47
người dân nơi đây, nhất là DTTS tại chỗ gặp nhiều khó khăn. Nhiều đồng bào
DTTS thiếu hoặc không có đất sản xuất phải đi làm thuê, nhưng do trình độ
nhận thức và khả năng thích ứng với các nghề mới còn hạn chế nên để tìm
kiếm được việc làm phù hợp là điều hết sức khó khăn. Công việc không phù
hợp và không ổn định làm cho thu nhập bấp bênh, không đủ trang trải cuộc
sống. Trong khi đó, số người Kinh nhập cư đã biết tận dụng những lợi thế, cơ
hội để lao động sản xuất và nhanh chóng làm giàu. Hệ quả là gia tăng sự phân
hóa giàu nghèo, và sự phân hóa này biểu hiện rõ nhất trong tương quan cộng
đồng DTTS tại chỗ với dân tộc Kinh. Phân hóa trong lĩnh vực kinh tế tất yếu
dẫn tới sự phân hóa xã hội, từ đó tạo ra những nguy cơ bất ổn ngay chính
trong lòng xã hội Tây Nguyên. Nếu không được giải quyết kịp thời dễ dẫn tới
sự rạn nứt mối quan hệ giữa cộng đồng các dân tộc nơi đây.
Ở Tây Nguyên, trình độ nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của
cộng đồng các dân tộc không đồng đều. Vì vậy, khi tham gia vào đời sống xã
hội với sự điều chỉnh tối cao của pháp luật, không ít người, nhất là người
DTTS tỏ ra chưa sẵn sàng, thích nghi với sự thay đổi đó và có những hành vi
phản ứng tiêu cực nhằm vào người Kinh và DTTS nhập cư, mà họ cho là
nguyên nhân gây nên mọi sự đảo lộn, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự
đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên.
Bên cạnh đó, trong một bộ phận cán bộ, quần chúng nhân dân xuất thân
từ các thành phần dân tộc khác nhau vẫn tồn tại thành kiến. Những người
thuộc dân tộc đa số và các dân tộc có dân số đông, có trình độ phát triển cao
hơn thì có biểu hiện thái độ, hành vi tự cao, vụ lợi, đánh giá thấp và không tôn
trọng lợi ích vật chất, tinh thần của các dân tộc ít người, còn đang ở trình độ
chậm phát triển. Ngược lại, một số người thuộc các DTTS tại chỗ, dân số ít và
còn ở trình độ chậm phát triển thì biểu hiện thái độ, hành vi hẹp hòi, “bài
ngoại”, thiếu tinh thần đoàn kết, hợp tác với người thuộc các dân tộc khác
mới nhập cư. Các thế lực thù địch ở trong nước và ngoài nước hết sức lợi
dụng những biểu hiện nêu trên. Một mặt chúng lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo, mặt khác đánh vào những sơ hở, hạn chế, yếu kém trong quá trình thực
48
thi các chính sách, cũng như những vấn đề lịch sử để lại, từ đó thổi phồng,
khuếch trương nhằm tạo ra sự nghi ngờ, hiềm khích, mâu thuẫn giữa cộng
đồng các dân tộc với nhau, cũng như giữa các bộ phận dân cư trong một cộng
đồng dân tộc. Thực tế là ở một khía cạnh nào đó, chúng đã thành công trong
việc thực hiện các âm mưu, thủ đoạn của mình qua việc gây ra bạo loạn chính
trị ở Tây Nguyên vào tháng 2 năm 2001 và tháng 4 năm 2004, cũng như nhiều
vụ gây rối, đưa người vượt biên trái phép.
Thực trạng trên cho thấy việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở Tây
Nguyên là vấn đề sống còn đối với sự phát triển KT-XH và tiến trình CNH,
HĐH. Trước tình hình đó, ĐNTT ở Tây Nguyên (trong đó có nhiều trí thức
DTTS tại chỗ, già làng) đã cung cấp nhiều luận cứ, luận chứng giúp các cấp
ủy đảng, chính quyền xây dựng, ban hành và chỉ đạo thực hiện nhằm đảm bảo
ổn định tình hình, giúp nhân dân các dân tộc ở Tây Nguyên hiểu rõ mối quan
hệ giữa Tây Nguyên với cả nước là quan hệ máu thịt không thể tách rời, quan
hệ giữa các dân tộc ở Tây Nguyên với các dân tộc trong cả nước là quan hệ
anh em trong một đại gia đình, cùng tự hào về truyền thống chung lưng đấu
cật dựng nước và giữ nước, cùng một mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.
Ngoài việc cung cấp luận cứ, luận chứng, ĐNTT còn tham gia công tác
đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động
bằng nhiều hoạt động nhằm vạch trần những luận điệu xuyên tạc, phi lý;
những âm mưu thâm độc và hành động chống phá. Qua đó vận động người
dân “không nghe, không tin, không theo” sự dụ dỗ, lôi kéo của chúng.
Không những thế, theo yêu cầu của các cấp lãnh đạo, nhiều trí thức còn
về tận các buôn, làng và thực hiện “Ba cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm) với
người dân để hướng dẫn họ làm ăn, sản xuất, xây dựng nếp sống văn hóa mới
cũng như tuyên truyền cho mọi người hiểu được tính đúng đắn của đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và âm mưu chống
phá cách mạng của các thế lực phản động. Đồng thời, nắm bắt tâm tư, nguyện
49
vọng của người dân để kịp thời đề đạt cho các cấp, các ngành có thẩm quyền
nhằm từng bước bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách.
Những việc làm trên của ĐNTT góp phần quan trọng vào việc giữ vững
ổn định chính trị - xã hội và củng cố, tăng cường khối đoàn kết dân tộc ở Tây
Nguyên, qua đó tạo cơ sở vững chắc phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH.
2.2.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi khách quan phải phát
triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên, đồng thời tạo môi trường và điều
kiện phát triển đội ngũ này
2.2.2.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi khách quan phải phát
triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong giai đoạn hiện nay không thể tách
rời KTTT, nhất là trong bối cảnh cách mạng KHCN lần thứ 4 đang phát triển
mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi quốc gia, dân tộc cũng như các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Và để đáp ứng quá trình này đòi hỏi phải có nguồn nhân
lực chất lượng cao. Sự phát triển của Tây Nguyên không phải là trường hợp
ngoại lệ, vì vậy để đẩy mạnh CNH, HĐH đòi hỏi tất yếu phải phát triển
ĐNTT đảm bảo về số lượng, chất lượng và cơ cấu hợp lý, cụ thể:
Một là, CNH, HĐH Tây Nguyên ngày càng đòi hỏi nhiều nguồn nhân
lực chất lượng cao - trong đó có ĐNTT, nhằm đáp ứng yêu cầu áp dụng các
tiến bộ KHCN vào quá trình sản xuất và đời sống.
Tây Nguyên trong những năm đầu của tiến trình CNH, HĐH đã phát
huy được tiềm năng, thế mạnh về nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú
cùng với nguồn nhân lực lao động phổ thông dồi dào, qua đó tốc độ phát triển
khá nhanh. Trong những năm gần đây, các nguồn lực này dần mất đi thế
mạnh của mình do sự khai thác quá mức, cộng với sự chuyển đổi, tái cơ cấu
mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang kết hợp chiều rộng với chiều sâu, ưu
tiên áp dụng các tiến bộ KHCN vào quá trình phát triển. Để đáp ứng yêu cầu
này, đòi hỏi cơ cấu lao động ở Tây Nguyên cũng phải có sự chuyển đổi theo
hướng tăng tỉ lệ lao động qua đào tạo, có trình độ, tay nghề cao và giảm dần
lao động phổ thông.
50
Thực tế, sự chuyển dịch cơ cấu lao động ở Tây Nguyên trong những
năm qua cho thấy, số lao động phổ thông ngày càng giảm, lao động có trình
độ tay nghề và óc sáng tạo gia tăng. Điều này phù hợp với sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế Tây Nguyên theo hướng tỉ trọng nông nghiệp giảm và tăng tỉ trọng
công nghiệp, dịch vụ. Ngay chính trong nông nghiệp thì nông nghiệp công
nghệ cao có xu hướng ngày càng chiếm ưu thế thay cho nông nghiệp truyền
thống. Sự chuyển dịch này tất yếu dẫn đến nhu cầu về nguồn nhân lực chất
lượng cao gia tăng.
Bên cạnh đó, quá trình CNH, HĐH đòi hỏi phải đưa các tiến bộ KHCN
vào sản xuất và đời sống, để làm được việc này có hiệu quả cần có sự tham
gia của ĐNTT trong công tác tư vấn, phản biện, giám định cũng như quá trình
triển khai thực hiện.
Hai là, CNH, HĐH gắn với KTTT đặt ra yêu cầu phải từng bước nâng
cao chất lượng ĐNTT ở Tây Nguyên.
Quá trình CNH, HĐH gắn với KTTT đòi hỏi sự gia tăng cả về số lượng
và chất lượng của ĐNTT, biểu hiện ở thể lực, trí lực, tâm lực và năng lực làm
chủ KHCN.
Khác với sản xuất nông nghiệp, quá trình CNH, HĐH gắn với KTTT
tạo ra sự gia tăng áp lực trong lao động, nhất là lao động trí óc sáng tạo, buộc
mỗi lao động phải đáp ứng đầy đủ sức khoẻ, sự minh mẫn, dẻo dai mới có thể
hoàn thành tốt yêu cầu của công việc. Không có sức khoẻ, sự bền bỉ rất khó
có thể đáp ứng được tác phong lao động công nghiệp. Trí thức là một lực
lượng lao động quan trọng trong quá trình CNH, HĐH, do đó cũng phải
không ngừng rèn luyện sức khoẻ để ngày càng đáp ứng tốt hơn quá trình này.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với KTTT đòi hỏi lao động có tính
sáng tạo ngày càng cao để đáp ứng đòi hỏi của thị trường cũng như sự cạnh
tranh ngày càng gay gắt. Tây Nguyên là vùng KT-XH lạc hậu so với cả nước
nên tính cấp bách về nâng cao chất lượng lao động nói chung và trí lực nói
riêng trở nên bức thiết hơn để có thể thu hẹp khoảng cách trong quá trình phát
triển. Nhất là trong bối cảnh nhiều mặt hàng nông sản chủ lực của Tây
51
Nguyên có sức cạnh tranh thấp cả ở thị trường trong và ngoài nước do chất
lượng kém, chi phí sản xuất cao, việc áp dụng các tiến bộ KHCN vào quá
trình sản xuất, chế biến, bảo quản còn nhiều hạn chế, thiếu quy hoạch và dự
báo thị trường…. Điều này đòi hỏi ĐNTT phải không ngừng tìm tòi, sáng tạo
nhằm giải quyết những bài toán đang đặt ra, qua đó từng bước nâng cao trình
độ, năng lực của mình.
Quá trình CNH, HĐH Tây Nguyên gắn với sự xoá bỏ tình trạng biệt
lập, khép kín, lạc hậu, thay vào đó là sự mở rộng giao lưu, hợp tác. Từ đó đòi
hỏi trí thức phải không ngừng vươn lên chiếm lấy đỉnh cao của tri thức, nâng
cao trình độ ngoại ngữ, tin học đáp ứng yêu cầu hội nhập ngày càng sâu rộng.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Tây Nguyên không tách rời sự phát triển
của đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để đạt được mục tiêu này,
ĐNTT phải có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, kiên định sự lãnh đạo
của Đảng và tất cả vì cuộc sống của nhân dân. Muốn vậy, họ phải không
ngừng rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng, không ngại khó, ngại khổ, say
mê học tập, NCKH. Đồng thời phải vượt qua những rào cản, mặc cảm, chủ
nghĩa vị kỷ, hẹp hòi để thay bằng sự giao lưu, hợp tác cùng phát triển mới có
thể đi đến đích cuối cùng.
Ba là, CNH, HĐH góp phần hình thành cơ cấu ĐNTT ở Tây Nguyên
ngày càng hợp lý, phù hợp với yêu cầu của sự phát triển.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá cùng với sự tác động của các chính sách
làm biến đổi cơ cấu kinh tế phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Tây Nguyên
theo hướng tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ ngày càng tăng. Kéo theo đó là sự
gia tăng số lượng công nhân, trí thức. Đồng thời trong quá trình chuyển dịch
cũng loại bỏ dần những yếu tố bất hợp lý trong cơ cấu lực lượng lao động nói
chung và ĐNTT nói riêng.
Chủ trương phát triển Tây Nguyên của Đảng và Nhà nước là hình thành
một vùng kinh tế trọng điểm của miền Trung với thế mạnh là cây công nghiệp
và công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu dùng và khai khoáng. Sự phát
52
triển ĐNTT ở Tây Nguyên về mặt cơ cấu phải hướng tới khai thác các thế
mạnh này. Đó là sự hình thành các kĩ sư, chuyên gia, nhà khoa học trong lĩnh
vực nông nghiệp, nhất là nông nghiệp công nghệ cao - một hướng đi tất yếu ở
Tây Nguyên hiện nay và trong các giai đoạn kế tiếp.
Như vậy, CNH, HĐH tất yếu đòi hỏi phải phát triển ĐNTT ở Tây
Nguyên mới có thể hoàn thành vai trò của mình là một trong những lực lượng
tiên phong trong quá trình phát triển. Không có CNH, HĐH thì khó có thể
phát triển ĐNTT, đồng thời không có ĐNTT thì CNH, HĐH khó có thể đi
đến mục tiêu cuối cùng.
2.2.2.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo môi trường và điều kiện
phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên
Thứ nhất, CNH, HĐH dẫn đến sự phân công lao động và chuyên môn
hoá ngày càng sâu sắc, hình thành một số ngành mũi nhọn tạo bước đột phá.
Hoạt động kinh tế Tây Nguyên trước đây chủ yếu là thuần nông, do vậy
tỉ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế chiếm tỉ lệ cao, thủ công nghiệp và
dịch vụ chiếm tỉ trọng thấp. Khi Tây Nguyên cùng cả nước bước vào thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH thì cơ cấu kinh tế nơi đây có nhiều bước chuyển dịch
theo hướng tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ, thương mại ngày càng chiếm tỉ lệ
cao trong cơ cấu kinh tế, đồng thời từ đó cũng hình thành những ngành kinh
tế mũi nhọn, chủ lực như nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế biến
hàng nông sản, công nghiệp khai thác quặng và năng lượng điện gió.
Quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế Tây Nguyên tất yếu dẫn tới sự biến đổi
cơ cấu lực lượng lao động. Ngoài nông dân, công nhân là lực lượng chủ yếu thì
cũng đã bắt đầu phát triển một lực lượng ngày càng đông đảo, đó là trí thức.
Thứ hai, CNH, HĐH làm tăng thêm thu nhập cũng như tạo điều kiện
trang bị cơ sở vật chất ngày càng tốt hơn cho ĐNTT.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển
kinh tế Tây Nguyên, qua đó nâng cao thu nhập và đời sống của người dân.
Khi thu nhập nâng lên, việc đầu tư của gia đình, nhà trường và xã hội cho sự
nghiệp GDĐT được quan tâm hơn, tạo tiền đề, cơ sở cho sự hình thành và
53
phát triển của ĐNTT. Đồng thời, khi đời sống của đội ngũ này nâng lên thì họ
sẽ quan tâm và dành nhiều thời gian, say mê hơn trong việc học tập nâng cao
trình độ, NCKH, tổng kết thực tiễn và làm giàu tri thức.
Thực tế hiện nay ở Tây Nguyên cho thấy, việc đầu tư kinh phí cho
hoạt động KHCN, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động của
ĐNTT còn những hạn chế, khó khăn nhất định, song nhìn cả quá trình thì sự
đầu tư này có xu hướng ngày càng gia tăng. Nhiều cơ sở GDĐT, cơ quan,
đơn vị và viện nghiên cứu trước đây không có phòng thí nghiệm, thực hành,
thư viện, nếu có thì trang thiết bị cũ kỹ, lạc hậu và thiếu thốn. Đến nay, sự
bất cập này đang từng bước được giải quyết. Đây là một tín hiệu tích cực đối
với sự phát triển ĐNTT.
Thứ ba, CNH, HĐH góp phần hình thành môi trường xã hội ngày càng
dân chủ, cởi mở hơn.
Quá trình CNH, HĐH Tây Nguyên không chỉ làm tăng thêm thu nhập
mà còn nâng cao trình độ nhận thức của người dân. Họ ngày càng ý thức rõ
hơn vai trò làm chủ xã hội của mình, tiếng nói của họ cần phải được lắng
nghe và coi trọng, môi trường dân chủ từ đó ngày càng mở rộng hơn, tạo điều
kiện cho việc phát huy vai trò của ĐNTT. Không có môi trường dân chủ, cởi
mở khó có thể hình thành và phát triển được một lực lượng đông đảo trí thức,
do đó đây là điều kiện hết sức quan trọng để phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên.
Hơn nữa, để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH thì hệ thống chính
trị các cấp ở Tây Nguyên phải không ngừng được kiện toàn theo hướng ngày
càng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Quá trình này không chỉ thúc đẩy dân chủ
hoá trong các cơ quan, đơn vị mà còn tạo điều kiện cho người dân tham gia
ngày càng nhiều và có hiệu quả hơn vào các công việc của chính quyền.
Thứ tư, CNH, HĐH tất yếu dẫn tới sự hoàn thiện các chính sách đối với
sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên.
Tiến trình CNH, HĐH một mặt làm cho KT-XH phát triển, mặt khác nó
loại bỏ dần những cơ chế, chính sách không còn phù hợp, kìm hãm sự phát
triển. Tiến trình này tạo thêm nguồn lực cho việc thực hiện các chính sách nói
54
chung và đối với ĐNTT nói riêng để từ đó huy động ngày càng hiệu quả hơn
sự đóng góp của đội ngũ này vào quá trình phát triển. Quan trọng hơn, vai trò
của trí thức đối với sự phát triển ngày càng được thể hiện rõ ràng - là lực
lượng không thể thiếu trong việc đẩy mạnh CNH, HĐH nên để phát huy được
vai trò của họ tất yếu phải thay đổi, hoàn thiện cơ chế, chính sách.
Khi cơ chế, chính sách được hoàn thiện sẽ tạo môi trường thông
thoáng, điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển ĐNTT ngày càng nhiều về
số lượng, chất lượng và hợp lý về cơ cấu thông qua các chính sách đào tạo,
bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ và thu hút. Đồng thời, góp phần ngăn chặn tình
trạng “chảy máu chất xám” khỏi Tây Nguyên, vốn dĩ đang diễn ra hàng ngày,
hàng giờ nơi đây.
Có thể khẳng định, CNH, HĐH không chỉ đặt ra yêu cầu khách quan
phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên mà còn tạo ra môi trường, điều kiện cho sự
phát triển của đội ngũ này. Đồng thời, khi ĐNTT ở Tây Nguyên phát triển tất
yếu có sự tác động tích cực và to lớn trở lại đối với tiến trình CNH, HĐH.
Mối quan hệ này làm cho sự gắn kết, tác động qua lại giữa CNH, HĐH với
phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên ngày càng chặt chẽ hơn.
2.3. NHỮNG YẾU TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN ĐỘI
NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN
Sự vận động, phát triển của ĐNTT ở Tây Nguyên là kết quả tổng hợp,
tác động đa chiều của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, tích cực và tiêu
cực, bên trong và bên ngoài, trong đó phải kể đến một số yếu tố cơ bản sau:
2.3.1. Những yếu tố khách quan
Thứ nhất, sự tác động của điều kiện địa lý, tự nhiên
Tây Nguyên gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và
Lâm Đồng. Nằm ở vùng cao phía tây Nam Trung bộ, địa hình Tây Nguyên có
độ cao trung bình 500 - 1.000m so với mặt nước biển. Tây Nguyên là vùng
đất tương đối bằng phẳng, nhưng được bao bọc bởi nhiều dãy núi xung quanh
nên địa hình dốc cao về phía Đông và thoải về phía Tây. Có đường biên giới
chung với Lào và Campuchia.
55
Thời tiết ở Tây Nguyên được chia thành 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và
mùa khô. Mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5, kết thúc vào tháng 10 và mùa
khô từ tháng 11 đến tháng 4. Khí hậu ở Tây Nguyên tương đối mát mẻ, mưa
nhiều, đất đai màu mỡ (với 1.800.000 ha đất đỏ bazan, 91.000 ha đất phù sa,
52.000 ha đồng cỏ tự nhiên) là điều kiện thuận lợi cho phát triển nhiều loại
cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao, như cà phê, cao su, tiêu, điều... vốn là
cây trồng lâu năm mang lại nguồn thu nhập chính cho người dân ở Tây
Nguyên. Đồng thời là vùng có diện tích rừng tự nhiên lớn nhất cả nước với
nhiều loại động thực vật hoang dã, quý hiếm.
Những đặc điểm về điều kiện địa lý, tự nhiên của Tây Nguyên đã tác
động không nhỏ đến sự hình thành, phát triển ĐNTT cả về số lượng, chất
lượng và cơ cấu, cũng như các chính sách đối với đội ngũ này. Tây Nguyên
đến nay vẫn là “miền đất huyền ảo”, còn nhiều yếu tố chưa được khám phá.
Đây là một trong những động lực, sức hấp dẫn thu hút sự quan tâm tìm hiểu,
nghiên cứu của các nhà khoa học không chỉ ở Tây Nguyên mà cả trong và
ngoài nước. Tuy nhiên, do địa hình hiểm trở nên sự mở rộng giao lưu, hợp tác
với các vùng miền khác trong cả nước gặp nhiều khó khăn. Việc đưa con em
cộng đồng các dân tộc ở đây tham gia vào hệ thống giáo dục ở các trung tâm
giáo dục hàng đầu của cả nước như Hà Nội, Huế, Đà Nẵng và thành phố Hồ
Chí Minh còn nhiều bất cập, đặc biệt khi hạ tầng giao thông chưa phát triển.
Trong một thời gian dài, số lượng sinh viên ở Tây Nguyên (nhất là sinh viên
DTTS tại chỗ) theo học ở các trường đại học lớn của cả nước chiếm một tỉ lệ
không đáng kể. Việc thu hút cán bộ, chuyên gia, nhà khoa học lên Tây
Nguyên công tác hết sức khó khăn. Điều kiện, môi trường cho ĐNTT phát
huy năng lực, sức sáng tạo của mình còn thiếu thốn, hạn chế,v.v…
Do điều kiện địa lý, tự nhiên làm cho Tây Nguyên khá tách biệt với các
vùng, miền khác của cả nước trong quá trình phát triển, nhất là trước khi bước
vào sự nghiệp đổi mới. Kinh tế nông nghiệp là chủ yếu. Cơ cấu lực lượng lao
động chủ yếu là nông dân, các thành phần khác như công nhân, trí thức chiếm
56
tỉ lệ rất nhỏ. Công nhân được hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa
của thực dân Pháp và sau này là đế quốc Mỹ, cũng như quá trình thực hiện
chính sách kinh tế mới của Đảng và Nhà nước ở Tây Nguyên - thông qua
thành lập các nông, lâm trường quốc doanh. Còn đối với ĐNTT, một bộ phận
được hình thành trong chính quá trình phát triển tự thân của cộng đồng các
dân tộc, bộ phận khác được thực dân đào tạo nhằm phục vụ cho sự cai trị, bóc
lột của chúng, còn đa phần được hình thành và phát triển trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, sự tác động của lịch sử, văn hóa, dân cư và tộc người
Do yếu tố địa lý tự nhiên nên Tây Nguyên trước thế kỷ XIX vẫn là một
vùng đất hoàn toàn tự do [57, tr.76]. Khác với người Kinh ở miền xuôi, hệ
thống giáo dục, thi cử được hình thành khá sớm, qua đó đã góp phần hình
thành ĐNTT. Ở Tây Nguyên, phải đến đầu thế kỷ XX mới bắt đầu hình thành
những thiết chế giáo dục đầu tiên do thực dân Pháp xây dựng nhằm đào tạo
những lớp người phục vụ cho sự đô hộ, cai trị, khai thác của họ.
Là vùng đất hoàn toàn tự do, cộng với sự phát triển KT-XH khá chậm
so với các khu vực xung quanh, hệ tri thức nơi đây chủ yếu là tri thức bản địa,
gắn bó chặt chẽ với hoạt động kinh tế thuần nông, đặc biệt là rừng. Vì vậy,
khi tiếp cận các tri thức mới gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến sự hình
thành, phát triển ĐNTT trong cộng đồng các DTTS tại chỗ. Ngay cả đến nay,
sự tiếp cận, lĩnh hội tri thức mới của DTTS tại chỗ vẫn có phần hạn chế so với
các thành phần dân tộc khác.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, sự
phát triển của trí thức ở Tây Nguyên diễn ra theo 2 xu hướng. Xu hướng thứ
nhất là chủ nghĩa thực dân, đế quốc thực hiện tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng
một lớp người có trình độ để phục vụ chính sách thống trị của chúng ở Tây
Nguyên. Xu hướng thứ hai, thực hiện chủ trương của Đảng, chúng ta đưa các
lớp cán bộ DTTS ra Bắc để đào tạo, sau đó trở lại phục vụ sự nghiệp cách
mạng ở Tây Nguyên. Đồng thời, trực tiếp bồi dưỡng tại chỗ một số người có
57
uy tín trong các cộng đồng DTTS. Cùng với quá trình đó, cử một số cán bộ có
trình độ vào Tây Nguyên để thực hiện nhiệm vụ mà Đảng giao phó, trong số
đó nhiều người đã ở lại đây sau ngày giải phóng. Xu hướng thứ hai đã hình
thành lớp trí thức mới có thể được coi là thế hệ đầu tiên ở Tây Nguyên.
Sau ngày giải phóng, thực hiện chủ trương phát triển Tây Nguyên, hệ
thống giáo dục ở đây từng bước được xây dựng và phát triển, qua đó đào tạo
con em các dân tộc đang sinh sống ở Tây Nguyên nhằm phát triển KT-XH
của vùng. Cùng với quá trình này, Nhà nước đưa nhiều chuyên gia, nhà khoa
học vào đây để gây dựng và phát triển Tây Nguyên. Đây có thể được coi là
thế hệ trí thức thứ hai.
Thực hiện sự nghiệp đổi mới, với chủ trương Tây Nguyên cùng cả
nước tiến hành CNH, HĐH, các chính sách phát triển toàn diện Tây Nguyên
được ban hành và thực hiện, trong đó có chính sách đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực, từ đó đã và đang hình thành thế hệ trí thức thứ ba ở đây.
Văn hoá Tây Nguyên là sự kết tinh của những hoạt động lao động và
sinh sống của cộng đồng các dân tộc nơi đây, là một thể thống nhất trong đa
dạng của 3 cộng đồng dân tộc: Dân tộc Kinh, DTTS tại chỗ, DTTS từ nơi
khác đến. Sự giao thoa và tiếp biến văn hoá của các dân tộc đã tạo điều kiện
cho việc trao đổi, học hỏi lẫn nhau, trong đó có tri thức và kinh nghiệm, qua
đó thúc đẩy nhận thức của cộng đồng các dân tộc ở Tây Nguyên.
Tuy nhiên, một số cộng đồng DTTS có phần hạn chế trong việc sử dụng
tiếng phổ thông nên đã cản trở không nhỏ đến việc nâng cao nhận thức cũng
như tiếp cận các tri thức nhân loại (chủ yếu được thể hiện bằng ngôn ngữ phổ
thông), trong khi đó, các ấn phẩm, nguồn thông tin bằng tiếng dân tộc còn ít và
hạn chế. Điều này đã ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển trí là người DTTS.
Hơn nữa, nhiều hủ tục, tập quán lạc hậu trong cộng đồng các dân tộc,
nhất là DTTS cũng gây trở ngại đến sự phát triển ĐNTT. Nhiều cộng đồng
vùng DTTS vẫn tồn tại quan niệm “trời sinh voi thì trời sinh cỏ”; học chỉ cần
biết đọc, biết viết là đủ; con gái không cần học nhiều, v.v… dẫn tới thiếu sự
58
quan tâm đầy đủ đến việc học hành, nâng cao trình độ cho chính bản thân con
em mình. Từ đó tình trạng bỏ học tỉ lệ thuận với các cấp học. Nghĩa là cấp
học càng lên cao thì tỉ lệ này cũng gia tăng tương ứng. Chính vì vậy, về lâu
dài, quá trình phát triển kinh tế cần gắn chặt chẽ với sự thay đổi nhận thức của
người dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS, qua đó tạo tiền
đề, điều kiện cho sự phát triển ĐNTT.
Trí thức ở Tây Nguyên chủ yếu được hình thành từ 3 cộng đồng dân
tộc, trong đó đông đảo nhất là trí thức dân tộc Kinh. Do trình độ phát triển của
cộng đồng các dân tộc còn có những khoảng cách, kéo theo đó cũng có những
sự khác nhau trong quá trình phát triển ĐNTT nơi đây. Nếu như tốc độ phát
triển trí thức người Kinh khá nhanh thì ở trí thức DTTS chậm hơn. Một mặt
do điều kiện kinh tế của DTTS nhìn chung khó khăn, mặt khác do rào cản
ngôn ngữ, cũng như sự lạc hậu trong nhận thức và phong tục tập quán đã ảnh
hưởng đến sự phát triển ĐNTT. Từ đó dẫn tới sự chênh lệch, mất cân đối
trong quá trình phát triển đội ngũ này ở Tây Nguyên, trong đó trí thức người
Kinh chiếm tỉ lệ cao, có mặt ở hầu hết các ngành, lĩnh vực của đời sống xã
hội, thì tỉ lệ này ở trí thức DTTS còn thấp, thậm chí rất thấp.
Thứ ba, sự tác động của phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, kinh tế tri
thức và khoa học, công nghệ
Trình độ phát triển kinh tế là yếu tố, điều kiện quan trọng hàng đầu tác
động đến sự phát triển ĐNTT cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu cũng như
chính sách đối với đội ngũ này. Ở Tây Nguyên, trong một thời gian dài hoạt
động kinh tế chủ yếu là thuần nông với phương thức sản xuất thô sơ, lạc hậu;
tự cung, tự cấp, năng suất lao động thấp; kết cấu hạ tầng yếu kém, tỉ lệ đói
nghèo cao. Tuy nhiên, trong những năm qua kinh tế Tây Nguyên đã có sự
phát triển vượt bậc, tốc độ phát triển hàng năm cao hơn mức bình quân chung
của cả nước. Giai đoạn 1996 - 2000, tốc độ tăng trưởng là 12,5% [98, tr.47],
giai đoạn 2001-2005 đạt 10,05%, giai đoạn 2006-2010 đạt 13,70% [4, tr.31],
giai đoạn 2011-2015 là 7,19% [95]. Kinh tế phát triển kéo theo sự thay đổi cơ
59
cấu các ngành theo hướng tỉ trọng nông, lâm, thuỷ sản giảm và công nghiệp,
xây dựng và dịch vụ ngày càng tăng.
Bảng 2.1: Cơ cấu GDP vùng Tây Nguyên giai đoạn 2001 - 2015 Đơn vị tính: %.
Ngành/năm 2001 2005 2010 2015
Nông, lâm, thuỷ sản 71,40 61,37 46,81 41,21
Công nghiệp, xây dựng 10,82 17,08 25,61 24,85
Dịch vụ 17,78 21,55 27,58 33,94
Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở [4, tr.31; 22; 24; 26; 28; 31].
Sự chuyển dịch tích cực cơ cấu kinh tế Tây Nguyên tác động vào cơ
cấu xã hội theo hướng lao động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp giảm và tăng
trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ. Đây là tiền đề hết sức quan trọng cho sự
phát triển ĐNTT. Kinh tế phát triển kéo theo thu nhập của người dân tăng.
Bảng 2.2: GDP bình quân đầu người ở Tây Nguyên giai đoạn 2001 - 2015 Đơn vị tính: Triệu đồng.
Năm Thu nhập bình quân đầu người Tây Nguyên so
với cả nước (%) Tây Nguyên Cả nước
2001 2,86 6,07 47,11
2005 5,63 10,09 55,79
2010 15,52 22,40 69,28
2015 36,15 45,70 79,10
Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở [4, tr.33; 95].
Số liệu trên cho thấy, mặc dù thu nhập của người dân ở Tây Nguyên so
với cả nước còn ở mức thấp, nhưng trên tổng thể có sự gia tăng qua các giai
đoạn, từ mức chỉ bằng 47,11% vào năm 2001, đến năm 2015 đã tăng lên
79,10%. Thu nhập tăng kéo theo sự phát triển đời sống xã hội cũng như nhận
60
thức nói chung và về GDĐT nói riêng tăng lên. Người dân sẽ quan tâm và đầu
tư cho học hành nhiều hơn, qua đó nâng cao trình độ dân trí.
Đối với ĐNTT, thu nhập được nâng lên sẽ giúp họ giảm bớt gánh nặng
“cơm, áo, gạo, tiền” và dành nhiều thời gian hơn cho hoạt động NCKH, cũng
như trang bị tốt hơn các điều kiện phục vụ hoạt động NCKH.
Dưới góc độ chính trị và quản lý nhà nước, kinh tế phát triển kéo theo
đó là sự mở rộng môi trường dân chủ, tạo điều kiện cho ĐNTT được tham gia
nhiều hơn, thực chất hơn các hoạt động tư vấn, phản biện, giám định các chủ
trương, chính sách, qua đó góp phần hoàn thiện cơ chế, chính sách.
Khi kinh tế phát triển, Nhà nước mà cụ thể và trực tiếp là chính quyền
các tỉnh có thêm nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, tạo ra
sự thuận lợi cho việc giao lưu, trao đổi giữa Tây Nguyên với các vùng, miền
khác trong cả nước và thế giới. Đồng thời có thêm kinh phí xây dựng nhiều
trường học, đơn vị nghiên cứu phục vụ phát triển GDĐT và KHCN.
Như vậy, giữa phát triển kinh tế với phát triển ĐNTT có sự tương đồng
và tỉ lệ thuận với nhau, kinh tế phát triển là tiền đề, điều kiện để nâng cao chất
lượng GDĐT qua đó góp phần phát triển ĐNTT. Đồng thời, sự phát triển
ĐNTT tác động trở lại theo hướng thúc đẩy kinh tế phát triển.
Bên cạnh những mặt đạt được, Tây Nguyên vẫn là vùng có điều kiện
kinh tế khó khăn, hạ tầng kém phát triển, vốn đầu tư so với nhu cầu ít và dàn
trải, chất lượng nguồn nhân lực thấp, trình độ quản lý kinh tế và KHCN hạn
chế, thu nhập của người dân còn thấp, chênh lệch về thu nhập và mức sống
giữa thành thị và nông thôn, giữa dân tộc Kinh với đồng bào DTTS có xu
hướng ngày càng lớn, v.v... Những khó khăn đó đã tác động tiêu cực đến sự
phát triển ĐNTT. Biểu hiện cụ thể là số lượng trí thức, nhất là trí thức có trình
độ chuyên môn cao và trí thức DTTS rất ít, chất lượng chưa tương xứng với
số lượng và còn thấp, cơ cấu mất cân đối; năng lực thực tiễn còn nhiều hạn
chế, nhất là trong việc áp dụng các thành tựu KHCN vào sản xuất và đời
sống; các chính sách đối với trí thức được ban hành nhưng thiếu nguồn lực,
kinh phí tổ chức triển khai thực hiện, v.v…
61
Nước ta đang đẩy nhanh quá trình chủ động hội nhập quốc tế và đã gia
nhập nhiều tổ chức như ASEAN, APEC, WTO, v.v… tạo ra nhiều cơ hội
nhưng cũng không ít thách thức đối với sự phát triển.
Tây Nguyên có nhiều lợi thế về nguồn lực tự nhiên nhưng lại thiếu các
nguồn lực về KHCN, trình độ quản lý, nguồn nhân lực chất lượng cao và
nguồn vốn. Vì vậy, quá trình toàn cầu hoá, hội nhập là điều kiện thuận lợi cho
việc thu hút các nguồn lực còn thiếu vào quá trình phát triển. Tây Nguyên có
diện tích đất đỏ Bazan lớn và màu mỡ, phù hợp với nhiều loại cây công
nghiệp có giá trị kinh tế cao như cà phê, tiêu, cao su. Đây là những sản phẩm
xuất khẩu chủ lực của Tây Nguyên.
Tuy nhiên, quá trình hội nhập luôn đi đôi với sự cạnh tranh ngày càng
gay gắt nên nhiều mặt hàng xuất khẩu của Tây Nguyên chịu sức ép lớn trong
quá trình sản xuất, chế biến và xuất khẩu. Trong khi đó, việc áp dụng KHCN
vào sản xuất, chế biến và xuất khẩu còn nhiều hạn chế, khó khăn, đây là
những điểm yếu mang tính cố hữu của kinh tế Tây Nguyên trong quá trình hội
nhập. Mặt khác, là vùng kinh tế chậm phát triển nên khả năng bị tụt hậu xa
hơn là thách thức lớn đối với Tây Nguyên trong quá trình hội nhập.
Kinh tế tri thức là nền kinh tế mà sự phát triển chủ yếu dựa trên hàm
lượng chất xám - yếu tố tinh thần, nó khác về chất so với các nền kinh tế
trước đó - chủ yếu dựa vào nguồn lực vật chất. Vì vậy, nước ta nói chung,
Tây Nguyên nói riêng, khi KTTT tác động vào tất yếu dẫn tới những thay đổi
về phương thức phát triển, từ phương thức phát triển chủ yếu dựa vào nguồn
lực tự nhiên sang phương thức chủ yếu dựa vào trí tuệ, chất xám. Từ đó,
chính quyền và người dân quan tâm đầu tư nhiều hơn cho nhân tố con người,
từng bước coi đây là yếu tố quan trọng nhất đối với sự phát triển. Qua đó tạo
ra nhiều cơ hội, thuận lợi cho sự đi lên của ĐNTT. Sự phát triển và tác động
của KTTT tạo nên sự cạnh tranh về chất xám ngày càng gay gắt, quyết liệt và
để không bị loại khỏi quá trình này thì mỗi trí thức phải không ngừng phấn
đấu vươn lên.
62
Khoa học và công nghệ là yếu tố không thể thiếu trong quá trình phát
triển, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Đối với Tây Nguyên, sự tác động của
KHCN đến mọi mặt đời sống nơi đây đã tạo ra nhiều cơ hội cho ĐNTT phát
huy tốt vai trò và khả năng của mình, qua đó từng bước khẳng định vị thế
ngày càng quan trọng đối với sự phát triển. Dưới sự tác động của KHCN, trí
thức có thêm cơ hội để nâng cao nhận thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
ngoại ngữ và tin học, giao lưu và trao đổi học thuật cũng như NCKH.
Khoa học và công nghệ không chỉ tác động trực tiếp đến ĐNTT thông
qua đòi hỏi không ngừng nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng
để làm chủ, bắt kịp xu thế phát triển của thời đại, mà còn đặt ra cho họ nhiều
vấn đề mới nảy sinh trong việc áp dụng KHCN vào điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể của Tây Nguyên để có thể phát huy tối đa các nguồn lực.
Thực tế ở Tây Nguyên hiện nay nảy sinh nhiều mâu thuẫn giữa những
hạn chế, yếu kém về nguồn lực với đòi hỏi, yêu cầu đẩy mạnh áp dụng KHCN
vào quá trình sản xuất; giữa đòi hỏi ngày càng cao của thị trường nông, lâm
sản với quy trình sản xuất, chế biến, bảo quản lạc hậu; giữa đòi hỏi hàm lượng
trí tuệ ngày càng cao trong sản phẩm, dịch vụ với sự hạn chế, yếu kém về
KHCN; giữa trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ với việc đẩy mạnh áp dụng
CNTT vào quá trình lãnh đạo, quản lý và điều hành; giữa sự đòi hỏi ngày
càng cao của nhận thức với những hạn chế trong nhận thức của người dân,
đặc biệt là vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới,v.v…
Những bất cập trên là câu hỏi lớn đặt ra cho ĐNTT cần phải tìm ra lời giải,
qua đó góp phần khẳng định vị trí, vai trò của mình.
Khoa học, công nghệ còn góp phần thúc đẩy KT-XH phát triển, từ đó
nâng cao trình độ mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có GDĐT và nguồn
nhân lực. Đây là một trong những điều kiện hết sức quan trọng để xây dựng
ĐNTT ngày càng lớn mạnh.
Có thể khẳng định, sự tác động của kinh tế, hội nhập quốc tế, KTTT và
KHCN tới ĐNTT ở Tây Nguyên đã tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển đội
ngũ này. Đồng thời cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức đòi hỏi chính
63
bản thân họ phải không ngừng vươn lên để bắt kịp xu hướng phát triển, qua
đó khẳng định vị thế, vai trò của mình là lực lượng tiên phong trong phát triển
KT-XH Tây Nguyên. Thực tiễn đó đã và đang tác động tới lớp trí thức thế hệ
thứ ba ở Tây Nguyên, lớp trí thức có sứ mệnh dẫn dắt sự đi lên của vùng.
2.3.2. Những yếu tố chủ quan
Thứ nhất, sự tác động của giáo dục và đào tạo
Giáo dục đào tạo tác động lớn đến sự phát triển con người nói chung và
ĐNTT nói riêng. Quy mô giáo dục, chất lượng giáo dục, đội ngũ giảng viên,
cơ sở vật chất, cơ chế, chính sách là những yếu tố quyết định đến hiệu quả
giáo dục.
Ở Tây Nguyên, trong những năm qua quy mô giáo dục tiếp tục phát
triển, mở rộng và duy trì theo hướng đi vào hiệu quả, ổn định. Tỉ lệ huy động
học sinh đến trường ở các cấp học, bậc học và nhu cầu đi học của con em
được quan tâm. Đó là điều kiện thuận lợi để Tây Nguyên hiện thực hóa mục
tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Ngoài ra, còn có
các hoạt động liên kết đào tạo với các trường đại học trên cả nước.
Chất lượng giáo dục có nhiều bước phát triển, góp phần đáp ứng yêu
cầu về nguồn nhân lực có trình độ, tay nghề phục vụ phát triển KT-XH. Đến
cuối 2015, tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đến trường đạt 98,1%; tất cả các huyện
có đồng bào DTTS đều có trường phổ thông dân tộc nội trú; tỷ lệ sinh viên
đạt khoảng 230 sinh viên/1 vạn dân.
Chính sách phát triển GDĐT ở Tây Nguyên ngày càng được chú trọng,
hoàn thiện qua đó động viên đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục yên tâm
công tác, cống hiến, đồng thời góp phần thu hút những người có phẩm chất,
trình độ, năng lực vào hoạt động này, từng bước nâng cao chất lượng GDĐT
nơi đây.
Đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục từng bước được bổ sung về số
lượng, chất lượng. Từ chỗ thiếu trầm trọng ở một số cấp học, địa bàn, đến nay
các tỉnh đã có nhiều biện pháp tích cực để phát triển đội ngũ này và đã đạt
được nhiều kết quả.
64
Ngân sách Nhà nước đầu tư cho GDĐT được tăng cường. Năm 2006
tổng chi ngân sách nhà nước cho GDĐT khu vực Tây Nguyên là 2.759 tỷ
đồng. Năm 2010, thực hiện 5.605 tỷ đồng, tăng 103,2% so với 2006, bình
quân tăng 20,6%/năm. Trong đó nhóm chi thường xuyên và chi chương trình
mục tiêu quốc gia giáo dục tăng cao nhất [7].
Cơ sở vật chất ngày càng được đầu tư, nâng cấp qua đó tạo điều kiện
thuận lợi cho công tác giảng dạy, nghiên cứu và học tập của đội ngũ nhà giáo
và học sinh, sinh viên. Cơ chế, chính sách đối với GDĐT cả nước nói chung
và Tây Nguyên nói riêng từng bước đổi mới, hoàn thiện tạo ra động lực cho
người dạy và người học yên tâm công tác, học tập.
Giáo dục đào tạo phát triển đã tác động tích cực đến việc tạo nguồn trí
thức ở Tây Nguyên, đảm bảo tính liên tục và tính kế thừa trong việc xây dựng
ĐNTT đông về số lượng, cao về chất lượng và hợp lý về cơ cấu.
Đối với trí thức là người DTTS, thông qua GDĐT có hai con đường
hình thành: Thứ nhất, những người tham gia vào các kỳ thi tuyển sinh đại
học, sau đó tham gia vào quá trình đào tạo đại học như những sinh viên khác,
sau khi ra trường chủ yếu tự liên hệ tìm việc làm. Thứ hai, là những sinh viên
cử tuyển theo chính sách của nhà nước, những em này được đào tạo dự bị
trong một thời gian, sau đó tham gia vào chương trình đại học và được học
như những sinh viên khác, sau khi tốt nghiệp hầu hết được các địa phương bố
trí việc làm. Chính sách cử tuyển đã góp phần quan trọng trong việc bổ sung
lực lượng trí thức DTTS, nhất là trong bối cảnh trình độ nhận thức của một số
cộng đồng dân tộc còn có những hạn chế nhất định.
Bên cạnh những mặt tích cực vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập như: Quy
mô trường còn nhỏ, số lượng sinh viên được đào tạo ở các trường trên địa bàn
còn ít; tỷ lệ sinh viên người dân tộc thiểu số còn thấp, chỉ đạt 9,47%; Số
lượng giảng viên đại học còn thiếu và yếu, bình quân sinh viên/giảng viên còn
cao, tính chung, tỷ lệ giảng viên đại học có trình độ tiến sĩ so với số giảng
viên còn thấp chỉ mới đạt 8,74%, các trường cao đẳng sư phạm là 2,06% [8].
Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học vẫn còn rất hạn chế; Quy mô ngành, nghề đào
65
tạo chưa phong phú, chưa đáp ứng thực tế, yêu cầu phát triển; Kinh phí đầu tư
cho GDĐT chưa đáp ứng được yêu cầu,v.v…
Khoảng cách về chất lượng GDĐT giữa thành thị với nông thôn, vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên còn cao, dẫn đến
gia tăng sự mất cân đối giữa trí thức người Kinh với trí thức người DTTS.
Nhất là trong bối cảnh, người Kinh ngày càng có xu hướng tập trung sinh
sống ở các vùng trung tâm thành phố, thị xã, thị trấn và các khu vực phụ cận.
Trong khi đó DTTS tập trung chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới với
điều kiện KT-XH còn nhiều khó khăn.
Những hạn chế, bất cập trên đã hạn chế sự phát triển ĐNTT ở Tây
Nguyên, vì vậy cần có những giải pháp để phát huy những mặt tích cực và
giảm thiểu những khó khăn nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống GDĐT ở
Tây Nguyên, qua đó góp phần quan trọng trong việc thực hiện chiến lược đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH.
Thứ hai, sự tác động từ đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước
Đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn là tiền đề quan trọng thúc
đẩy sự phát triển mọi mặt của xã hội. Tuy nhiên, để tiền đề đó thành hiện thực
cần có quá trình cụ thể hoá và thực hiện nghiêm túc. Ngược lại, đường lối,
chính sách và việc thực hiện có khuyết điểm, hạn chế thì sẽ nảy sinh những
vấn đề phức tạp tác động tiêu cực đến sự phát triển. Sự phát triển ĐNTT ở
Tây Nguyên không nằm ngoài sự tác động của các quy luật này.
Thời gian qua, dưới sự tác động của cơ chế, chính sách, nhất là chính
sách hỗ trợ, cử tuyển học sinh, sinh viên người DTTS ở Tây Nguyên đã góp
phần tạo điều kiện trong việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo
nhân tài. Quá trình thực hiện đã cho nhiều kết quả tích cực. Nhiều nơi ở Tây
Nguyên trước đây gần như không có người được đào tạo từ đại học trở lên,
đến nay khoảng trắng này đã từng bước được san lấp. Nhiều trí thức sau khi
được đào tạo đã về vùng sâu, vùng xa, vùng DTTS phục vụ sự nghiệp xây
66
dựng và phát triển KT-XH. Trong thực tế, nhiều trí thức, trong đó có trí thức
DTTS đã phát huy được vai trò, năng lực của mình và giữ các vị trí quan
trọng trong hệ thống chính trị các cấp ở Tây Nguyên.
Trong thời kỳ đổi mới, nhất là sau khi có Nghị quyết số 10, ngày
18/01/2002 của Bộ Chính trị về phát triển KT-XH và bảo đảm quốc phòng, an
ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010, Chính phủ, các ban, bộ, ngành ở
Trung ương và địa phương đã cụ thể hoá và đưa Nghị quyết đi vào cuộc sống.
Diện mạo nơi đây đã có nhiều chuyển biến tích cực: KT-XH phát triển nhanh,
đời sống nhân dân các dân tộc được nâng lên; Hệ thống chính trị được củng
cố tăng cường; Quốc phòng, an ninh được giữ vững; Hệ thống giáo dục, y tế
từng bước được hoàn thiện, v.v… góp phần quan trọng vào sự phát triển mọi
mặt của Tây Nguyên. Sự phát triển này đã tạo điều kiện, tiền đề cho sự phát
triển ĐNTT, đồng thời khi lực lượng này phát triển cũng góp phần không nhỏ
vào việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
Bên cạnh những mặt đã đạt được, do nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan nên việc ban hành, thực hiện một số chủ trương, chính sách đối với
Tây Nguyên còn thiếu tính toàn diện, sâu sắc từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến
sự phát triển của vùng, làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp tác động tiêu cực
đến sự ổn định. Không ít chính sách được ban hành và thực hiện chủ yếu
hướng tới khai thác nguồn lợi tự nhiên mà chưa quan tâm đúng mức đến việc
giữ gìn, bảo tồn và phát triển bền vững, dẫn tới sự phát triển chủ yếu diễn ra
theo chiều rộng, thiếu chiều sâu và chưa thực sự coi trọng yếu tố con người
đối với sự phát triển. Nhân tố con người chưa được nhìn nhận, đánh giá và
quan tâm đầy đủ dẫn tới sự chênh lệch trong cơ cấu xã hội ở Tây Nguyên,
nông dân chiếm đa số, công nhân và trí thức chiếm thiểu số. Sự mất cân đối
đó đã tác động không nhỏ đến sự phát triển ĐNTT cả về số lượng, chất lượng
và cơ cấu. Điều này phần nào lý giải tại sao ĐNTT ở Tây Nguyên còn ít về số
lượng, hạn chế về chất lượng và bất cập về cơ cấu.
67
Kết luận chương 2
Mặc dù đến nay vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về trí thức,
ĐNTT, nhưng tất cả đều thừa nhận vị trí, vai trò ngày càng quan trọng của đội
ngũ này đối với sự phát triển xã hội. ĐNTT không chỉ là lực lượng đi đầu
trong việc sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức mà còn tiên phong trong
việc đưa các tiến bộ KHCN vào sản xuất và đời sống .
Trí thức ở Tây Nguyên là một bộ phận gắn bó khăng khít với ĐNTT
Việt Nam, mang trong mình những đặc điểm của trí thức Việt Nam, đồng thời
cũng có những nét đặc thù do điều kiện KT-XH Tây Nguyên quy định và chi
phối. Vì vậy, phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên chính là quá trình hoàn thiện
đội ngũ này cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh nơi đây.
Quá trình CNH, HĐH đang diễn ra nhanh chóng ở Tây Nguyên và tác
động sâu sắc tới mọi mặt của đời sống KT-XH nơi đây. Đối với ĐNTT ở Tây
Nguyên, quá trình này đã tạo điều kiện, môi trường, động lực và yêu cầu
khách quan cho sự phát triển của chính bản thân mình. Đồng thời, sự phát
triển của ĐNTT là một nhân tố hết sức quan trọng trong việc thực hiện thắng
lợi sự nghiệp CNH, HĐH Tây Nguyên.
Trong bối cảnh mới, sự phát triển của ĐNTT ở Tây Nguyên chịu sự tác
động đa chiều của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, bên trong và bên
ngoài, tích cực và tiêu cực. Những sự tác động đó đã tôi luyện cho ĐNTT ở
Tây Nguyên ngày càng trưởng thành và mạnh mẽ hơn trong quá trình phát
triển của chính mình và xã hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thử thách cho đội
ngũ này trong tiến trình hiện thực hoá chức năng lao động sáng tạo của mình.
Tiếp nhận cơ hội, vượt qua thách thức là những đòi hỏi bức thiết đối
với ĐNTT ở Tây Nguyên nhằm đưa vùng đất này phát triển, đó vừa là trách
nhiệm vừa là vinh dự và niềm tự hào của ĐNTT nơi đây.
68
Chương 3
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN
THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN
3.1.1. Thực trạng phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên về số
lượng và cơ cấu
3.1.1.1. Thực trạng phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên về
số lượng
Tây Nguyên là địa bàn cư trú của 47 dân tộc với dân số gần 5,5 triệu
người, chiếm 6% dân số cả nước. Số người trong độ tuổi lao động gần 3,2
triệu người. Cơ cấu xã hội - dân cư nơi đây gồm 3 cộng đồng chính: DTTS tại
chỗ, chiếm hơn 26% dân số; DTTS từ nơi khác đến chiếm gần 12% dân số và
dân tộc Kinh, chiếm 62% dân số [54].
Tính đến năm 2011, số người có trình độ đại học trở lên ở Tây Nguyên
là 110.705 người, chiếm 1,97% dân số và chiếm 3,33% lực lượng lao động.
Trong số những người có trình độ đại học trở lên thì tiến sĩ có 355 người,
chiếm 0,32%; Thạc sĩ có 3.561 người, chiếm 3,22%; đại học có 106.789
người, chiếm 96,46% (Xem phụ lục 3).
Dân số tỉnh Kon Tum là 473.300 người, số lao động từ 15 tuổi trở lên
là 278.900 người, chiếm 58,93% dân số [95]. Số người có trình độ đại học trở
lên 11.452 người, chiếm 2,42% dân số và 4,11%% lực lượng lao động. Về
trình độ, tiến sĩ 10 người, chiếm 0,09%; Thạc sĩ 269 người, chiếm 2,35%; Đại
học 11.173 người, chiếm 97,56% [107].
Dân số Gia Lai có 1.359.900 người, số lao động từ 15 tuổi trở lên là
821.500 người, chiếm 60,41% dân số. Số có trình độ đại học trở lên là 30.871
người, chiếm 2,27% dân số và chiếm 3,76% lực lượng lao động. Về trình độ
học vấn có 39 tiến sĩ, chiếm 0,13%; thạc sĩ 1.205 người, chiếm 3,90%; Đại
học 29.627 người, chiếm 95,97% [106].
69
Dân số Đắk Lắk có 1.827.000 người, số lao động từ 15 tuổi trở lên là
1.077.600 người, chiếm 58,98% dân số. Số người có trình độ đại học trở lên
là 33.136 người, chiếm 1,81% số dân và 3,07% lực lượng lao động. Về trình
độ học vấn, tiến sĩ 143 người, chiếm 0,43%; Thạc sĩ 1.003 người, chiếm
3,03%; Đại học 31.990 người, chiếm 96,54% [103].
Dân số Đắk Nông có 553.200 người, số lao động từ 15 tuổi trở lên là
349.200 người, chiếm 63,12% dân số. Số người có trình độ đại học trở lên là
5.435 người, chiếm 0,98% dân số và 1,56% lực lượng lao động. Về trình độ,
02 tiến sĩ, chiếm 0,04%; Thạc sĩ 85 người, chiếm 1,56%; Đại học 5.348
người, chiếm 98,40% [105].
Dân số Lâm Đồng có 1.246.200 người, số lao động từ 15 tuổi trở lên là
722.200 người, chiếm 57,95% dân số. Số người có trình độ đại học trở lên là
29.811 người, chiếm 2,39% dân số và chiếm 4,13% lực lượng lao động. Về
trình độ, tiến sĩ 161 người, chiếm 0,54%; Thạc sĩ 999 người, chiếm 3,35%;
Đại học là 28.651 người, chiếm 96,11% [110].
Qua các số liệu trên cho thấy, tỉ lệ người có trình độ đại học trở lên ở
Tây Nguyên so với dân số và số người trong độ tuổi lao động khá thấp. Đáng
lo ngại hơn là hiện nay toàn vùng mới có 3.916 người có trình độ sau đại học.
Điều này, phần nào lý giải tại sao Tây Nguyên là vùng có nhiều điều kiện
thuận lợi về thổ nhưỡng, khí hậu, nhưng trình độ phát triển KT-XH so với các
vùng khác trong cả nước vẫn còn thấp.
Số liệu trên cũng cho thấy, nếu xét về số lượng thì số người có trình độ
đại học trở lên của 3 tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk và Lâm Đồng chiếm gần 85%. Hai
tỉnh còn lại chỉ chiếm hơn 15%. Số có trình độ đại học trở lên của Kon Tum và
Đắk Nông cộng lại bằng 1/2 các tỉnh khác trong vùng. Điều này cho thấy có sự
chênh lệch lớn giữa các tỉnh. Những tỉnh thành lập trước có số lượng cao hơn
các tỉnh thành lập sau (Kon Tum tái lập tỉnh năm 1991, Đắk Nông năm 2004).
Tuy nhiên, nếu xét về tỉ lệ người có trình độ đại học trở lên so với dân
số và lực lượng lao động thì Kon Tum và Lâm Đồng là 2 tỉnh có tỉ lệ cao
nhất, sau đó tới Gia Lai, Đắk Lắk và cuối cùng là Đắk Nông.
70
Bảng 3.1: Tỉ lệ người có trình độ đại học trở lên theo trình độ và so với dân số, lực lượng lao động
Đơn vị tính: %.
Tỉnh Tiến sĩ Thạc sĩ Đại học So với dân
số
So với lực lượng lao
động
Kon Tum 0,09 2,35 97,56 2,42 4,11
Gia Lai 0,13 3,90 95,97 2,27 3,76
Đắk Lắk 0,43 3,03 96,54 1,81 3,07
Đắk Nông 0,04 1,56 98,40 0,98 1,56
Lâm Đồng 0,54 3,35 96,11 2,39 4,13
Tây Nguyên 0,25 2,84 96,92 1,97 3,33
Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở [64; 65; 66; 67; 68; 103; 104; 105; 106; 107; 108; 110].
Về tỉ lệ người có trình độ tiến sĩ trong tổng số người có trình độ đại học
trở lên thì Lâm Đồng là tỉnh có tỉ lệ cao nhất, tiếp đến là Đắk Lắk, Gia Lai,
Kon Tum và cuối cùng là Đắk Nông.
Mặc dù, số người có trình độ đại học trở lên còn ít trong cơ cấu dân số
và lực lượng lao động, nhưng tốc độ phát triển qua các năm có nhiều chuyển
biến tích cực. Nếu như vào năm 2000, toàn vùng có 31.021 người có trình độ
đại học trở lên thì đến năm 2011 con số này là 110.705 người. Như vậy, qua
hơn 10 năm, số người có trình độ đại học trở lên ở Tây Nguyên tăng 3,5 lần.
Kon Tum, năm 2000, số người có trình độ đại học trở lên là 2.425
người [98, tr.125]; đến năm 2005, số người có trình độ đại học trở lên tăng
2,4 lần so với năm 2000. Năm 2011 tăng 4,7 lần so với năm 2000 và 1,9 lần
so với năm 2005.
Gia Lai, năm 2000 có 6.170 người có trình độ đại học trở lên [98, tr.125],
đến năm 2005 con số này tăng lên 1,5 lần. Năm 2011 tăng 5,0 lần so với năm
2000 và 3,3 lần so với năm 2005.
Đắk Lắk, năm 2000 có 11.082 người có trình độ đại học trở lên [98,
tr.125]. Đến năm 2011, số này tăng gần 3 lần so với năm 2000.
71
Đắk Nông - tái lập tỉnh vào năm 2004, năm 2005, số người có trình độ
đại học trở lên là 2.604 người. Đến năm 2011 tăng gấp đôi sau hơn 5 năm.
Lâm Đồng, năm 2000, số người có trình độ đại học trở lên là 11.344
người [98, tr.125]. Đến năm 2011, số này tăng 2,6 lần so với năm 2000.
Qua sự phân tích trên cho thấy, ở tất cả các tỉnh Tây Nguyên, số người
có trình độ từ đại học trở lên có sự gia tăng đáng kể. Đây là một biểu hiệu tích
cực về sự gia tăng số lượng trí thức, qua đó tạo tiền đề, điều kiện quan trọng
cho việc nâng cao chất lượng trí thức.
Dù vậy, tốc độ gia tăng số lượng trí thức không đồng đều giữa các tỉnh.
Các tỉnh Kon Tum, Gia Lai có tốc độ phát triển nhanh hơn, trong khi đó, Đắk
Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng tăng chậm hơn. Điều này có thể lý giải, do Đắk
Lắk và Lâm Đồng là những tỉnh đi trước so với các tỉnh khác, vì vậy có tính
tương đối ổn định. Kon Tum và Gia Lai là những tỉnh đi sau nên “nóng” về
nguồn nhân lực hơn để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển. Trong khi đó, Đắk
Nông mới tái lập năm 2004, nên còn nhiều khó khăn. Mặt khác, tốc độ phát
triển kinh tế của Kon Tum và Gia Lai trong những năm gần đây cao hơn mức
bình quân của khu vực. Các cơ chế, chính sách đối với ĐNTT ở 2 tỉnh này
thông thoáng, thuận lợi hơn, tạo ra động lực mạnh mẽ cho việc nâng cao trình
độ của trí thức.
Thực tế trên cho thấy, tỉnh nào có trình độ phát triển cao hơn thì số
lượng trí thức cũng nhiều hơn và giữa phát triển KT-XH với phát triển ĐNTT
có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, thuận chiều nhau. Vì vậy, về lâu dài muốn
phát triển ĐNTT thì cần phải đẩy mạnh CNH, HĐH.
Bên cạnh thành tựu đã đạt được thì vẫn còn những hạn chế trong sự
phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên về mặt số lượng. Cụ thể:
Mặc dù số lượng trí thức tăng qua các năm, song so với tỉ lệ của cả
nước thì số lượng trí thức ở Tây Nguyên còn ít. Số người có trình độ đại học
của cả nước chiếm 6,58% tổng số lực lượng lao động [63].
Số lượng trí thức ở Tây Nguyên đã ít, số lượng trí thức DTTS lại càng
ít, chỉ chiếm 7,08% trên tổng số trí thức. Trong khi đó DTTS chiếm 38% dân
số toàn vùng. Số lượng trí thức ít lại phân bố không đồng đều giữa các tỉnh,
khu vực và lĩnh vực công tác. Số lượng trí thức tập trung chủ yếu ở các tỉnh
72
Gia Lai, Đắk Lắk, Lâm Đồng với gần 85%. Trong khi đó số lượng trí thức ở
Kon Tum và Đắk Nông chỉ chiếm hơn 15%. Trong một tỉnh số lượng trí thức
lại tập trung chủ yếu ở các trung tâm thành phố, thị xã, còn ở vùng sâu, vùng
xa, vùng DTTS khá ít. Đắk Lắk 39% trí thức tập trung ở Thành phố Buôn Ma
Thuột [93]. Lâm Đồng có 100/161 (62,1%) tiến sĩ tập trung ở Thành phố Đà
Lạt và Bảo Lộc [67]. Trong lĩnh vực công tác, ĐNTT tập trung nhiều vẫn là
trong hệ thống chính trị và các đơn vị sự nghiệp công lập. Ở Kon Tum là
81,46%, Đắk Nông là 83,17% và Lâm Đồng là 58,2%.
Thực tế trên có nhiều nguyên nhân, song chủ yếu là:
Nguyên nhân của những thành tựu:
Thứ nhất, những năm qua, do quá trình xã hội hoá GDĐT cũng như sự
quan tâm của Đảng, Nhà nước, số lượng các trường đại học, các viện nghiên
cứu ở Tây Nguyên ngày càng nhiều. Việc hình thành thêm các cơ sở này góp
phần thu hút số lượng trí thức từ các nơi khác về đây công tác cũng như hình
thành thêm những trí thức mới. Đồng thời, do chỉ tiêu tuyển sinh của một số
cơ sở giáo dục đại học ở Tây Nguyên được nâng lên cũng góp phần làm cho
số lượng trí thức tăng lên.
Thứ hai, kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người dân
tăng lên. Nhận thức của người dân về GDĐT được nâng cao. Chi cho việc học
hành, nâng cao trình độ của các gia đình nâng lên. Nhiều con em được tham
gia học tập tại các cơ sở giáo dục có uy tín trong và ngoài nước.
Đối với vùng sâu, vùng xa, vùng DTTS, nhận thức của người dân về
GDĐT có nhiều bước chuyển tích cực. Trong nhiều buôn, làng trước đây hầu
như trống vắng những người có trình độ học vấn cao, thì hiện nay trong
không ít gia đình có từ 1 đến 2 người có trình độ đại học và sau đại học.
Thứ ba, quá trình CNH, HĐH Tây Nguyên đưa đến sự thay đổi đáng kể
trong cơ cấu kinh tế, lao động dẫn đến xuất hiện những ngành, lĩnh vực đòi
hỏi lao động có trình độ cao, chuyên môn sâu.
Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế Tây Nguyên theo hướng CNH, HĐH có
nhiều chuyển biến tích cực, trong đó có việc hình thành lĩnh vực nông nghiệp
công nghệ cao cũng như các trung tâm nghiên cứu ứng dụng. Cùng với sự
xuất hiện các ngành, nghề này là sự đòi hỏi số người có trình độ cao ngày
73
càng nhiều. Và để đáp ứng đòi hỏi đó, buộc mỗi người phải không ngừng
phấn đấu học tập, nâng cao trình độ để vươn lên làm chủ tri thức.
Thứ tư, các chính sách đối với trí thức từng bước được điều chỉnh, bổ
sung và hoàn thiện. Nhận thức của cấp uỷ, chính quyền các tỉnh Tây Nguyên
đối với ĐNTT ngày càng được nâng cao, qua đó các chính sách đối với đội
ngũ này được quan tâm hơn, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho sự phát
triển ĐNTT.
Thứ năm, sự nỗ lực, phấn đấu không ngừng vươn lên của người dân
(chủ yếu là các thế hệ học sinh trung học phổ thông, trung học cơ sở) đã góp
phần không nhỏ vào sự gia tăng về số lượng ĐNTT ở Tây Nguyên.
Các em học sinh phổ thông chính là nguồn dự bị quan trọng của ĐNTT.
Nhiều em sau khi học xong bậc phổ thông, thi và trúng tuyển đại học đã tham
gia học tập, nghiên cứu ở nhiều cơ sở giáo dục đại học trong cả nước, sau đó
đem kiến thức đã học được ở trường, viện trở về phục vụ địa phương. Sự trở
về nơi các em sinh ra, lớn lên đã góp phần bổ sung vào ĐNTT của Tây
Nguyên ngày càng đông đảo.
Nguyên nhân của những hạn chế:
Một là, trình độ phát triển của Tây Nguyên nhìn chung còn chậm, tỉ lệ
nghèo đói cao, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng DTTS, do đó việc đầu tư
cho GDĐT còn nhiều hạn chế. Nhận thức của một bộ phận người dân đối với
“sự nghiệp trồng người” chưa đầy đủ, còn tư duy “trời sinh voi, trời sinh cỏ”.
Những năm qua, tốc độ phát triển của Tây Nguyên cao hơn mức bình
quân của cả nước nhưng do điểm xuất phát thấp nên còn nhiều khó khăn.
Khoảng cách về trình độ phát triển giữa Tây Nguyên với cả nước còn khá xa.
Trình độ phát triển thấp kéo theo thu nhập, đời sống của người dân gặp
nhiều khó khăn, từ đó hạn chế đến việc đầu tư cho con cái học hành, nâng cao
trình độ - một yếu tố hết sức quan trọng trong việc tạo nền tảng, cơ sở cho
việc tạo nguồn trí thức. Dưới góc độ quản lý nhà nước, khi kinh tế chậm phát
triển sẽ ảnh hưởng lớn đến các nguồn thu cho ngân sách nhà nước để tái đầu
tư phát triển, nhất là đầu tư kết cấu hạ tầng ở các vùng sâu, vùng xa, vùng
DTTS, từ đó hạn chế khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội nói chung và
GDĐT nói riêng của một bộ phận không nhỏ người dân ở Tây Nguyên.
74
Thực tế ở Tây Nguyên cho thấy, nhiều gia đình mong muốn cho con
em được học hành bài bản, nhưng do khó khăn về kinh tế, khoảng cách từ nhà
tới trường khá xa và xa hơn khi lên cấp học càng cao. Việc đi lại khó khăn,
nhất là về mùa mưa lũ nên nhiều em không hứng thú với việc học hành. Khẩu
hiệu “mỗi ngày đến trường là một ngày vui” tồn tại không nhiều trong các
trường học ở Tây Nguyên. Sự nghiệp tìm kiếm “cái chữ” ở Tây Nguyên quả
thật lắm gian nan, vất vả và càng khó khăn hơn đối với con em người DTTS.
Trình độ kinh tế chậm phát triển tác động không nhỏ đến việc nâng cao
nhận thức nói chung, về GDĐT nói riêng của người dân. Trong không ít cộng
đồng các dân tộc ở Tây Nguyên vẫn còn tồn tại nhận thức “học cho biết cái
chữ” là đủ, không cần học nhiều, học cao, do đó việc quan tâm, đầu tư cho
con cái học tập chưa được chú trọng đầy đủ, đúng mức. Trong khi đó, hiệu
quả công tác truyền thông xã hội nhằm thay đổi nhận thức của người dân đối
với GDĐT còn nhiều khó khăn, hạn chế. Các chính sách hỗ trợ, ưu đãi trong
GDĐT chưa đủ sức hấp dẫn và tạo đột phá cho sự thay đổi nhận thức đối với
một bộ phận người dân nơi đây, nhất là người DTTS.
Hai là, số lượng các cơ sở giáo dục đại học ở Tây Nguyên còn ít, quy
mô nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu nâng cao trình độ học vấn của người dân
nói chung và ĐNTT nói riêng.
Hiện nay toàn vùng Tây Nguyên có 04 trường đại học và 03 phân hiệu.
Tổng số cán bộ giảng dạy ở các cơ sở này là 984 người [8]. Như vậy, trung
bình chỉ có khoảng 140 cán bộ giảng dạy/01 cơ sở giáo dục đại học. Số
trường ít, quy mô nhỏ, vì vậy số lượng sinh viên được đào tạo trên địa bàn
không nhiều, mới đạt 128,6 sinh viên/1 vạn dân, trong khi đó kế hoạch là 180
sinh viên/1 vạn dân [8]. Bên cạnh đó số lượng ngành, nghề chưa phong phú,
chưa đáp ứng được đòi hỏi thực tế của Tây Nguyên. Điều này không chỉ tác
động tiêu cực đến việc tạo nguồn trí thức mà còn ảnh hưởng đến chất lượng,
cũng như cơ cấu ngành, nghề của ĐNTT nơi đây.
Ba là, sức ép từ đòi hỏi của cuộc sống, CNH, HĐH lên ĐNTT ở Tây
Nguyên còn chưa đủ tạo ra động lực cũng như sự đòi hỏi phải nâng cao trình
75
độ, từ đó hình thành tư tưởng “an phận thủ thường”, tự thoã mãn với cái hiện
có, chưa chịu khó học tập, nâng cao trình độ.
Qua hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đã thu được
nhiều thành tựu to lớn và quan trọng, tác động tích cực đến mọi lĩnh vực của
đời sống KT-XH. Tuy nhiên, sự tác động này không đồng đều, nhất là ở Tây
Nguyên. Quá trình tác động chưa đủ mạnh để tạo ra những bước đột phá trong
phát triển KT-XH Tây Nguyên, đến nay các hoạt động kinh tế ở đây vẫn chủ
yếu dựa vào nông nghiệp với phương thức lao động còn lạc hậu, việc đưa các
tiến bộ khoa học kĩ thuật vào quá trình sản xuất vẫn gặp nhiều khó khăn do
phong tục, tập quán sản xuất lạc hậu, trình độ nhận thức của người dân còn
nhiều hạn chế, quy mô sản xuất chủ yếu là nhỏ lẻ, manh mún… Thực tiễn đó
chưa tạo đầy đủ môi trường, điều kiện cho sự phát triển ĐNTT cũng như thu
hút trí thức từ nơi khác đến.
Bốn là, đời sống của một bộ phận trí thức khá khó khăn nên mặc dù
mong muốn nâng cao trình độ nhưng không có điều kiện. Bên cạnh đó, các
chính sách khuyến khích trí thức nâng cao trình độ còn nhiều bất cập, chưa đủ
bù đắp chi phí đào tạo, nên nhiều trí thức đành dừng con đường học vấn của
mình ở bậc đại học hoặc cao học. Điều này không chỉ tác động tiêu cực đến
chất lượng ĐNTT mà còn ảnh hưởng đến việc nâng cao số lượng trí thức có
trình độ sau đại học.
Kết quả khảo sát của tác giả luận án cho thấy, tuyệt đại đa số trí thức
mong muốn nâng cao trình độ, nhưng khó khăn lớn nhất cản trở quá trình này
chính là mức lương quá thấp, trong khi đó đây là nguồn thu nhập chính và có
thể nói là duy nhất ở một bộ phận không nhỏ ĐNTT ở Tây Nguyên. Chỉ một
số ít trí thức có sự hỗ trợ từ gia đình mới có điều kiện nâng cao trình độ.
Trong khi đó, các chính sách đối với trí thức chưa đủ sức hấp dẫn để thúc đẩy
trí thức học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ, cũng như thu hút trí thức từ nơi
khác đến gia nhập vào ĐNTT ở Tây Nguyên.
3.1.1.2. Thực trạng phát triển đội ngũ trí thức về cơ cấu
Cơ cấu ĐNTT là một trong những thành tố góp phần vào sự phát triển
của đội ngũ này. Cơ cấu này hết sức đa dạng và phong phú, luận án chỉ tập
trung nghiên cứu một số loại cơ cấu sau:
76
Cơ cấu thành phần xuất thân.
Đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên được hình thành chủ yếu sau ngày giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước, đồng thời gắn với quá trình thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về
phát triển vùng kinh tế mới Tây Nguyên. Do đó, đại đa số trí thức xuất thân từ
nông dân, công nhân và cán bộ cách mạng được tăng cường lên Tây Nguyên.
Lâm Đồng, có 59,6% trí thức xuất thân từ gia đình nông dân; 15,5% từ công
nhân; 10,9% từ trí thức và 14% từ các tầng lớp khác [94].
Đại đa số trí thức ở Tây Nguyên trưởng thành từ người lao động nên họ
luôn tự hào về dân tộc, lòng yêu nước, có phẩm chất chính trị vững vàng, có
tiềm năng trí tuệ, thông minh, ham học hỏi vươn lên. Tuy nhiên, do ảnh
hưởng của lối canh tác nông nghiệp lạc hậu, phong tục tập quán, truyền thống
văn hóa còn nặng tàn tích của xã hội cũ nên họ cũng ngại giao lưu, hợp tác
đổi mới, còn tư tưởng thụ động, bảo thủ. Trong công việc hàng ngày hay tuyệt
đối hoá kinh nghiệm, không thích tranh luận khoa học. Khi ở cương vị lãnh
đạo, quản lý thường hay áp đặt ý chí chủ quan cho người khác.
Cơ cấu trình độ học vấn.
Cơ cấu trình độ học vấn của ĐNTT ở Tây Nguyên có sự mất cân đối
lớn. Số người có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ trong tổng số trí thức chiếm tỉ lệ khá
thấp, chỉ chiếm 3,54%, trong đó tiến sĩ chiếm 0,32%, thạc sĩ chiếm 3,22%.
Gia Lai là tỉnh có tỉ lệ trí thức trình độ sau đại học cao nhất vùng nhưng cũng
chỉ chiếm 4,0%. Đắk Nông có tỉ lệ thấp nhất với 1,6%.
Biểu 3.1: Cơ cấu trình độ học vấn của đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên
Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở [64; 65; 66; 67; 68; 103; 104; 105; 106; 107; 108; 110].
Tiến sĩ 0,32%
Thạc sĩ 3,22%
Cử nhân 96,46%
77
Kết quả trên phần nào thể hiện chất lượng của ĐNTT còn nhiều hạn
chế, cũng như cho thấy sự “an phận thủ thường”, chưa chịu khó học tập vươn
lên của đội ngũ này. Còn dưới góc độ kinh tế phản ánh sự tác động của CNH,
HĐH, KHCN và KTTT vào Tây Nguyên chưa mạnh, chưa đủ tạo ra áp lực
phải nâng cao trình độ.
Mặc dù cơ cấu còn bất cập, nhưng xét về xu hướng thì có sự biến đổi
tích cực. Năm 2000, tỉ lệ trí thức có trình độ sau đại học so với tổng số trí
thức chiếm 1,92%. Năm 2011, tỉ lệ này là 3,54%. Như vậy so với năm 2000
thì tỉ lệ trí thức có trình độ sau đại học hiện nay tăng thêm 1,62%. Gia Lai là
tỉnh có tỉ lệ tăng nhanh nhất với 3,18%, tiếp đến là Kon Tum với 1,85. Lâm
Đồng tăng chậm nhất với 1,21%.
Cơ cấu thành phần dân tộc.
Do đặc điểm của cơ cấu xã hội - dân cư ở Tây Nguyên nên ĐNTT ở
đây là một lực lượng hết sức đa dạng về thành phần dân tộc. Nhưng nhìn
chung trí thức DTTS chiếm tỉ lệ rất thấp trong tổng số trí thức. Toàn vùng
Tây Nguyên chỉ có 9.078 người DTTS có trình độ đại học trở lên, chiếm
7,08%. Trong khi đó, DTTS chiếm 38% dân số của vùng. Cụ thể:
Trong tổng số trí thức ở Kon Tum, thì trí thức DTTS chỉ có 794 người,
chiếm 6,93% [66]. Gia Lai có 2.744 trí thức DTTS, chiếm 8,89% [64]. Đắk
Lắk có 3.651 trí thức DTTS, chiếm 11,02%. Trình độ học vấn càng lên cao thì
sự chênh lệch càng lớn, thạc sĩ 55/1003 người, chiếm 5,48%, tiến sĩ 06/143
người, chiếm 4,20% [103]. Đắk Nông có 147 trí thức DTTS chiếm 2,7% [68].
Lâm Đồng có 1.742 trí thức DTTS, chiếm 5,84%. Trong số này đại học 1.693
người, chiếm 5,7%; thạc sĩ 48 người, chiếm 0,2%; tiến sĩ 01 người, chiếm
0,003% [67]. Như vậy, có thể thấy trí thức DTTS chiếm tỉ lệ rất thấp trong
tổng số trí thức ở Tây Nguyên, cũng như ở mỗi tỉnh. Đắk Lắk là tỉnh có tỉ lệ
trí thức DTTS cao nhất nhưng cũng chỉ chiếm 11,02%. Đắk Nông là tỉnh có tỉ
lệ thấp nhất vùng, chỉ có 2,7%%. Tỉ lệ trí thức DTTS đã thấp lại càng thấp
hơn trong số những người có trình độ sau đại học. Đây là một bất cập lớn
trong sự phát triển trí thức DTTS ở Tây Nguyên.
78
Bảng 3.2: Tỉ lệ trí thức dân tộc thiểu số trong cơ cấu đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên
Đơn vị tính: %.
Tỉnh Trí thức DTTS Tỉ lệ Kon Tum 794 6,93 Gia Lai 2.744 8,89 Đắk Lắk 3.651 11,02 Đắk Nông 147 2,7 Lâm Đồng 1.742 5,84
Tây Nguyên 9.078 7,08 Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở [64; 66; 67; 68; 103].
Mặc dù, số lượng trí thức DTTS còn ít, nhưng nếu so với trình độ phát
triển KT-XH và nhận thức của người DTTS thì đây là kết quả to lớn, đáng
khích lệ, phản ánh sự phấn đấu nỗ lực vươn lên trong học tập, nghiên cứu của
họ, cũng như sự quan tâm của Đảng, Nhà nước trong công tác đào tạo nguồn
nhân lực nói chung và trí thức DTTS nói riêng. Còn về lâu dài, sự bất cập này
cần được giải quyết để đưa Tây Nguyên ngày càng ổn định, phát triển.
Cơ cấu giới tính.
Cơ cấu giới tính của ĐNTT ở Tây Nguyên không có sự chênh lệch lớn
giữa nam và nữ. Trí thức nam chiếm 53,26%, trí thức nữ chiếm 46,74%. Điều
này phản ánh nỗ lực vượt qua khó khăn, rào cản và vươn lên không ngừng
của nữ giới, nhất là trong bối cảnh xã hội vẫn còn tồn tại tư tưởng “trọng nam,
khinh nữ”. Mặc dù vậy, tỉ lệ trí thức nam ở hầu hết các tỉnh luôn cao hơn trí
thức nữ. Sự chênh lệch này biểu hiện rõ nét hơn ở trình độ sau đại học, điều
này phản ánh sự phát triển và tham gia của trí thức nữ vẫn còn những rào cản
nhất định, cũng như những hạn chế trong sự tự phấn đấu vươn lên của họ.
Ở Kon Tum, trí thức nam chiếm 55%, nữ chiếm 45% [66]. Gia Lai trí
thức nam chiếm 52,26%, nữ chiếm 47,74% [106]. Đắk Lắk trí thức nam
chiếm 53,97%%, nữ chiếm 46,03%. Trong số những người có trình độ sau đại
học thì nam chiếm 63,62%; nữ chiếm 36,38% [103]. Đắk Nông trí thức nam
chiếm 48% và nữ chiếm 52% [103]. Lâm Đồng, trí thức nam chiếm 57,06%
và nữ chiếm 42,94%. Trong tổng số trí thức có trình độ đại học, nam chiếm
79
56,54% và nữ chiếm 43,46%. Trình độ thạc sĩ nam chiếm 76,16% và nữ
chiếm 23,84%. Trình độ tiến sĩ, nam chiếm 92,75% và nữ chiếm 7,25% [110].
Qua các số liệu trên cho thấy, trình độ học vấn càng cao thì sự chênh
lệch càng lớn. Chứng tỏ vẫn còn những khoảng cách không nhỏ giữa trí thức
nam và nữ trong quá trình vươn lên chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức. Đây là vấn
đề đặt ra đối với các tỉnh Tây Nguyên về chiến lược phát triển nguồn nhân lực
trí thức sao cho hài hòa giữa nam và nữ.
Cơ cấu ngành đào tạo và lĩnh vực công tác.
Về chuyên ngành đào tạo: Có sự khác nhau giữa các chuyên ngành đào
tạo của ĐNTT ở Tây Nguyên. Tỉnh Kon Tum có 18,19% trí thức ngành kinh
tế; 7,4% nông lâm; 1,02% xây dựng; 2,56% quản lý hành chính; 3,86% luật;
44,64% khoa học xã hội, nhân văn; 1,89% khoa học công nghệ; 3,07% y
dược; 3,67% ngoại ngữ; 1,1% tin học và ngành khác là 12,57% [66]. Gia Lai
có 62,56% trí thức ngành nông lâm thuỷ sản; 9,25% công nghiệp xây dựng và
28,19% dịch vụ [106]. Đắk Lắk có 20,31% trí thức ngành nông lâm thuỷ sản;
6,98% công nghiệp xây dựng; 4,54% giáo dục; 26,63% quản lý kinh tế; 8,4%
báo chí, văn hoá; 3,49% an ninh, pháp luật; 2,62% CNTT; 1,22% khoa học sự
sống (sinh học) và 25,81% ngành khác [1; 21]. Đắk Nông có 81,38% trí thức
ngành nông lâm thuỷ sản; 3,73% công nghiệp, xây dựng; 0,97% giao thông
vận tải; 0,29% khoa học công nghệ và thông tin truyền thông; 0,15% tài chính
ngân hàng; 6,94% thương mại, dịch vụ; 2,74% giáo dục; 0,59% y tế, chăm
sóc sức khoẻ và 3,15% lĩnh vực khác [68]. Ở Lâm Đồng, trí thức ngành khoa
học xã hội, nhân văn chiếm 28%; khoa học tự nhiên 23,3%; khoa học kỹ thuật
18%; các ngành khác 12,1% và không xác định 18,6% [110].
Có thể thấy chuyên ngành của ĐNTT khá đa dạng, có mặt ở tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, có sự chênh lệch lớn giữa các
chuyên ngành đào tạo, điều này cho thấy sự mất cân đối về ĐNTT giữa các
chuyên ngành, nó phần nào phản ánh sự mất cân đối trong cơ cấu KT-XH của
vùng, cũng như quá trình đào tạo chưa gắn kết với điều kiện cụ thể của Tây
Nguyên. Điều này đặt ra nhiều vấn đề về đảm bảo hài hoà sự phát triển giữa
số lượng và cơ cấu ĐNTT ở Tây Nguyên trong thời gian tới.
80
Theo lĩnh vực công tác: ĐNTT ở Tây Nguyên phân bố không đồng đều
giữa các cơ quan, đơn vị. 81,46% trí thức ở Kon Tum tập trung trong các cơ
quan đảng, nhà nước và mặt trận, đoàn thể và đơn vị sự nghiệp công lập. Khu
vực tư chỉ chiếm 18,54% [66]. Ở Đắk Nông, trí thức làm việc trong khối
đảng, mặt trận, đoàn thể và đơn vị sự nghiệp công lập chiếm 83,17%; khối
doanh nghiệp nhà nước chiếm 1,01%; ngoài biên chế nhà nước 15,82% [68].
Theo khảo sát của Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Lâm Đồng thì trí
thức tập trung cao nhất trong hệ thống chính trị và đơn vị sự nghiệp công lập
với 58,2%. Còn lại là trong các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh
và một số lĩnh vực hoạt động khác là 41,8% [67].
Sự tập trung hầu hết trí thức trong hệ thống chính trị, các đơn vị sự
nghiệp công lập phần nào cho thấy trí thức mong muốn sự ổn định lâu dài và
có phần “an phận thủ thường”, thiếu sự đột phá cũng như phản ánh trình độ
phát triển KT-XH và KHCN ở Tây Nguyên còn nhiều hạn chế; môi trường
bên ngoài thu hút trí thức chưa đủ sức hấp dẫn,v.v….
Cơ cấu độ tuổi.
Đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên bao gồm nhiều nhóm tuổi khác nhau và
hầu hết trong số họ được hình thành sau ngày giải phóng miền Nam và quá
trình thực hiện chính sách kinh tế mới ở Tây Nguyên nên độ tuổi trung bình
của trí thức tương đối trẻ. Theo kết quả khảo sát của tác giả luận án, có 10,8%
trí thức dưới 30 tuổi; 43,5% từ 30 đến dưới 40 tuổi; 37,3% từ 40 đến dưới 50
và 8,4% từ 50 tuổi trở lên (xem phụ lục 2). Đây là độ tuổi mà trí thức phát
huy tốt khả năng và sự cống hiến của mình đối với sự phát triển xã hội. Các
độ tuổi này bảo đảm cho việc phát triển vừa liên tục vừa kế thừa. Đồng thời,
cơ cấu này cho thấy ĐNTT đạt được độ chín về trình độ chuyên môn, lý luận
chính trị và kinh nghiệm, sẵn sàng phục vụ cho sự nghiệp phát triển KT-XH
Tây Nguyên. Đây là yếu tố thuận lợi để trí thức vươn lên trong việc tiếp tục
học tập nâng cao trình độ, phát huy khả năng sáng tạo của mình. Bên cạnh đó,
với sức trẻ của mình họ cũng năng động hơn trong công việc, dễ tiếp thu
những cái mới, tri thức mới, thành tựu mới của KHCN trên thế giới vào quá
trình hoạt động, công tác. Họ là người trực tiếp tham gia điều hành, quản lý
xã hội, đề xuất và tham mưu cho các cấp, các ngành trong việc hoạch định các
81
chủ trương, chính sách trong phát triển KT-XH và cũng là lực lượng chủ yếu
trong việc đào tạo nguồn nhân lực, nhân tài cho các tỉnh Tây Nguyên.
Như vậy, trên tổng thể cơ cấu ĐNTT ở Tây Nguyên khá đa dạng, là kết
quả của sự phản ánh cơ cấu KT-XH nơi đây và do cơ cấu này tạo ra. Tuy
nhiên, đi vào từng loại cơ cấu thì có sự mất cân đối, nhất là cơ cấu thành phần
dân tộc, giới tính và lĩnh vực công tác. Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng
này là do:
Thứ nhất, KT-XH Tây Nguyên chậm phát triển và mất cân đối.
Kinh tế Tây Nguyên cho đến nay vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp, tỷ
trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế khá cao, trong khi đó tỷ trọng công
nghiệp, dịch vụ còn thấp, kéo theo đó cơ cấu xã hội - dân cư chủ yếu là nông
dân. Sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế dẫn đến sự mất cân đối trong cơ cấu
xã hội - giai cấp nói chung và cơ cấu ĐNTT nói riêng.
Kinh tế chậm phát triển dẫn tới môi trường làm việc của trí thức chậm
được mở rộng và có ít lựa chọn, do đó hầu hết trí thức ở Tây Nguyên tập
trung trong các cơ quan, đơn vị của hệ thống chính trị và các đơn vị sự nghiệp
công lập. Một số làm việc trong các đơn vị, doanh nghiệp ngoài công lập.
Kinh tế Tây Nguyên nói chung đã chậm phát triển, kinh tế ở vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào DTTS càng chậm phát triển hơn, hoạt động sản xuất
thuần nông là chính, kéo theo đó là thu nhập thấp, chỉ đủ trang trải cuộc sống
hàng ngày mà không có tiết kiệm để đầu tư cho GDĐT. Vì thế, một số gia
đình người DTTS thực sự quan tâm đến việc học hành của con cái, nhưng
không có điều kiện trang trải chi phí học tập - nhất là ở bậc đại học, nên
không ít em đành dừng chân trước ngưỡng cửa đại học, phải ở nhà làm nông
nghiệp cùng bố mẹ hoặc đi học nghề, làm thuê kiếm sống.
Thứ hai, nhận thức của đồng bào DTTS đối với GDĐT còn hạn chế.
Như đã trình bày, phân tích ở trên, do kinh tế vùng đồng bào DTTS còn
chậm phát triển, đời sống khó khăn, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hủ tục,
quan niệm lạc hậu nên nhận thức của nhiều gia đình người DTTS đối với
GDĐT chưa đầy đủ, chưa nhận thức được vị trí, vai trò của GDĐT. Họ chủ
yếu chú ý đến cuộc sống hàng ngày, trước mắt, mà chưa quan tâm nhiều đến
việc học tập của con cái, dẫn đến việc đầu tư cho con cái có nhiều hạn chế,
82
thậm chí phó mặc cho nhà trường, các cấp chính quyền và xã hội, coi đây là
trách nhiệm của xã hội phải làm, còn gia đình không có trách nhiệm giáo dục.
Từ quan niệm lạc hậu đó, dẫn đến con em trong nhiều gia đình người DTTS
không được học hành đến nơi, đến chốn, mà chỉ học cho biết “cái chữ” là đủ.
Mặt khác, do ảnh hưởng của tư tưởng “trọng nam, khinh nữ”, “con gái
ở nhà chăm sóc gia đình”,… nên làm cho việc học tập, nâng cao trình độ của
nữ giới gặp nhiều khó khăn hơn nam giới. Nam giới vẫn có nhiều cơ hội hơn
trong việc học tập, nâng cao trình độ so với nữ giới, điều này không chỉ diễn
ra ở phạm vi xã hội mà trong từng gia đình.
Rào cản ngôn ngữ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao trình
độ, khả năng nhận thức của trí thức DTTS. Vẫn còn không ít trí thức DTTS
gặp nhiều khó khăn khi tiếp thu, lĩnh hội tri thức nhân loại bằng ngôn ngữ phổ
thông. Trong khi đó, có rất ít các ấn phẩm xuất bản bằng ngôn ngữ DTTS.
Việc tiếp cận tri thức bằng ngôn ngữ phổ thông đã khó, việc đòi hỏi phải biết
thêm ngoại ngữ lại càng khó khăn - nhưng đây lại là xu hướng, đòi hỏi tất yếu
trong giai đoạn hiện nay. Chính điều này cũng tạo ra sự mất cân đối trong cơ
cấu ĐNTT.
Thứ ba, chưa có các chính sách định hướng ngành, nghề trong GDĐT,
dẫn tới tình trạng “vừa thừa vừa thiếu” trong cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực.
Cũng giống như nhiều nơi khác, GDĐT ở Tây Nguyên hiện nay vẫn
nặng tư tưởng “mạnh ai nấy làm”, thiếu định hướng lâu dài trong việc tạo
nguồn nhân lực cho phát triển KT-XH. Việc định hướng ngành, nghề đào tạo
chủ yếu phó mặc các em, gia đình lựa chọn, quyết định dựa vào sở thích, khả
năng có việc làm sau khi ra trường. Từ đó dẫn tới sự mất cân đối giữa cung và
cầu lao động. Nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp đại học, sau đại học không
thể tìm kiếm việc làm hoặc buộc phải làm các công việc không phù hợp với
chuyên môn, chuyên ngành của mình. Một số phải cất giấu bằng tốt nghiệp
đại học để đi học trung cấp nghề, mong tìm kiếm được việc làm.
3.1.2. Thực trạng phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên về chất lượng
Sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên về chất lượng không chỉ ở số lượng
và cơ cấu mà còn thể hiện ở những mặt chủ yếu sau:
83
* Về thể lực
Quá trình phát triển KT-XH những năm qua ở Tây Nguyên làm cho thu
nhập bình quân đầu người vùng Tây Nguyên gia tăng hàng năm, từ 2,86 triệu
đồng vào năm 2001 lên 36,15 triệu đồng vào năm 2015. Số hộ nghèo giảm
dần từ 21,83% năm 2001, 10,23% năm 2010, thì đến cuối năm 2015 số hộ
nghèo còn 7,3%. Thu nhập tăng kéo theo chất lượng cuộc sống nâng lên, nhận
thức của người dân ngày càng cao, nhiều hủ tục trong sinh hoạt hàng ngày
từng bước bị loại bỏ ra khỏi cộng đồng các dân tộc ở Tây Nguyên. Nhận thức
về sức khoẻ và an toàn vệ sinh thực phẩm được nâng cao. Cơ cấu thực phẩm
trong các bữa ăn của nhiều gia đình ngày càng hợp lý.
Mạng lưới y tế ở Tây Nguyên được đầu tư phát triển, năm 2010, Tây
Nguyên có 68 bệnh viện, số trạm y tế cơ sở là 717 trạm, số giường bệnh là
11.109 giường, số cán bộ ngành y là 10.564 người, 100% xã có trạm y tế; tỉ lệ
bác sĩ, dược sĩ trên 1 vạn dân lần lượt là 5,6% và 0,2% (cả nước là 6,52% và
0,5%); tỷ lệ giường bệnh trên 1 vạn dân là 21,78 (cả nước là 24,56) [12].
Đầu tư cho văn hoá, thể dục thể thao được quan tâm hơn. Bên cạnh
những thiết chế văn hoá, nhà rèn luyện thể dục thể thao do nhà nước đầu tư,
phục vụ công ích còn có nhiều nhà rèn luyện thể dục, thể thao do tư nhân
đứng ra đầu tư, kinh doanh. Từ đó thu hút ngày càng nhiều người luyện tập
thể dục thể thao, nâng cao thể lực, chăm sóc sức khoẻ.
Biểu hiện của quá trình trên là chỉ số phát triển con người (HDI) của
Tây Nguyên có sự chuyển biến tích cực, từ 0,689 năm 2010 lên 0,704 vào
năm 2012, cao hơn vùng trung du và miền núi phía Bắc (0,678) [20]. Những
kết quả đó góp phần vào việc nâng cao thể lực của người dân nơi đây, trong
đó có ĐNTT.
Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế trong việc
chăm sóc sức khoẻ của người dân. Tỉ lệ suy dinh dưỡng còn cao so với mặt
bằng chung của cả nước. Số hộ nghèo trong đồng bào DTTS còn khá cao,
chiếm hơn 50% hộ nghèo của Tây Nguyên. Mạng lưới y tế tuyến huyện chưa
được đầu tư đúng mức, dẫn tới xuống cấp. Đội ngũ cán bộ y tế còn thiếu về số
lượng và yếu về chất lượng, nhất là bác sĩ ở tuyến huyện. Các thiết chế văn
hoá, nhà rèn luyện thể dục, thể thao chủ yếu tập trung ở trung tâm tỉnh. Chỉ số
84
phát triển con người mặc dù tăng qua các năm nhưng vẫn ở dưới mức trung
bình của cả nước, năm 2010 của cả nước là 0,740 và năm 2012 là 0,752.
Những hạn chế, khó khăn trên đã ảnh hưởng đến việc rèn luyện sức
khoẻ, dẫn đến thiếu sự bền bỉ, dẻo dai trong lao động, nhất là trong bối cảnh
CNH, HĐH Tây Nguyên được đẩy mạnh, áp lực lao động ngày càng cao.
Không đủ sức khoẻ ảnh hưởng không ít đến sức sáng tạo trong lao động.
* Về trí lực
Trí lực của ĐNTT có nhiều tiêu chí đánh giá. Luận án chỉ đề cập đến
một số tiêu chí chủ yếu sau:
Trình độ học vấn
Mặc dù số người có trình độ sau đại học ở Tây Nguyên còn ít, nhưng
nhìn vào quá trình phát triển cũng có những tín hiệu tích cực. Nếu như vào
năm 2000, toàn vùng có 596 người có trình độ sau đại học thì đến năm 2011
con số này là 3.916 người. Như vậy, tăng 6,5 lần qua hơn 10 năm.
Kon Tum, năm 2000, số người có trình độ sau đại học là 14 người
[98, tr.125], thì đến năm 2011 tăng 19,9 lần so với năm 2000 và 3,7 lần so
với 2005.
Gia Lai, năm 2000 có 52 người trình độ sau đại học [98, tr.125]. Năm
2005 tăng gấp 4,5 lần so với 5 năm trước. Năm 2011 tăng 23,9 lần so với năm
2000 và 5,2 lần so với năm 2005.
Đắk Lắk, năm 2000 có 226 người trình độ sau đại học [98, tr.125], đến
năm 2011, con số này tăng 5 lần.
Đắk Nông, năm 2005, số người có trình độ sau đại học là 15 người, đến
năm 2011 con số này tăng 5,8 lần.
Lâm Đồng, năm 2000, số người có trình độ sau đại học 400 người [98,
tr.125]. Đến năm 2011, con số này tăng 2,9 lần.
Các số liệu trên cho thấy, số người có trình độ sau đại học ở tất cả các
tỉnh Tây Nguyên đều có sự gia tăng qua các giai đoạn và tăng nhanh hơn số
người có trình độ đại học. Gia Lai, Kon Tum là 2 tỉnh có tốc độ tăng nhanh
nhất, kế đến là Đắk Nông, Đắk Lắk và Lâm Đồng. Điều này phần nào phản
ánh không chỉ số lượng tăng mà trình độ, chất lượng cũng được nâng lên. Khi
85
trình độ được nâng lên sẽ là một trong những nhân tố quan trọng góp phần
nâng cao khả năng NCKH và làm chủ KHCN của ĐNTT.
Bên cạnh thành tựu đạt được thì ĐNTT ở Tây Nguyên vẫn còn nhiều
hạn chế về trình độ học vấn. Số người có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ chiếm tỉ lệ rất
thấp trong tổng số người có trình độ đại học và so với lực lượng lao động của
cả nước. Nếu như ở Tây Nguyên, số thạc sĩ có 3.561 người, chiếm 0,11% lực
lượng lao động; tiến sĩ là 355 người, chiếm 0,01% lực lượng lao động, thì số
thạc sĩ của cả nước là 215.343 người, chiếm 0,31% lực lượng lao động; tiến sĩ
là 37.157 người, chiếm 0,05% lực lượng lao động [63]. Đây là một hạn chế
lớn, nhất là trong giai đoạn Tây Nguyên cùng cả nước đẩy mạnh CNH, HĐH,
phát triển KTTT và hội nhập quốc tế. Thực tế cho thấy, trình độ học vấn có sự
tương quan, tác động thuận chiều với năng lực sáng tạo, NCKH.
Nghiên cứu khoa học, tư vấn, phản biện và giám định xã hội
Chất lượng trí tuệ giữ vai trò quyết định đến sức mạnh của ĐNTT. Chất
lượng được thể hiện bằng những sản phẩm khoa học, các công trình nghiên
cứu, các phát minh, sáng chế và những cải tiến trong lao động sản xuất cũng
như hiệu quả, tính khả thi của các chính sách có sự tham gia tư vấn, phản biện
và giám định của ĐNTT.
Ở Tây Nguyên trong những năm qua, cùng với quá trình phát triển thì
sự tham gia của trí thức vào NCKH, sáng tạo ngày càng tăng, qua đó có nhiều
đóng góp cho sự phát triển KT-XH nơi đây cũng như nâng cao trình độ của
chính bản thân trí thức. Nhiều đề tài, đề án đã cung cấp nhiều luận chứng,
luận cứ khoa học làm cơ sở cho các cấp, các ngành hoạch định chính sách
phát triển KT-XH, cũng như bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử của
Tây Nguyên. Không chỉ tham gia NCKH, ĐNTT còn đi đầu trong việc đưa
các tiến bộ khoa học về giống cây trồng, vật nuôi, đặc biệt là giống bắp lai,
lúa lai, cà phê, tiêu, heo lai, bò lai… vào sản xuất, chăn nuôi góp phần tăng
nhanh sản lượng nông sản, hàng hóa, v.v…
Đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên còn tham gia tư vấn, phản biện và giám
định nhiều vấn đề liên quan đến sự phát triển KT-XH, qua đó đưa ra nhiều
kiến nghị, đề xuất quan trọng như: Tham mưu, đề ra các chính sách, giải pháp
giải phóng sức lao động, phát huy nhân tố con người, đẩy mạnh sản xuất, tạo
86
điều kiện chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ KHCN. Tham gia tư vấn, phản
biện quy hoạch, kế hoạch tổng thể phát triển KT-XH và các chương trình, dự
án, đề án có tính chất phức tạp, trọng điểm, đa ngành, nhất là các đề án có tính
chất nhạy cảm về văn hoá, lịch sử, cảnh quan, môi trường, khu dân cư, lao
động, việc làm, xóa đói giảm nghèo; các đề án do các doanh nghiệp xin phép
đầu tư trên địa bàn Tây Nguyên có khả năng tác động lớn đến văn hóa, cảnh
quan, môi trường cuộc sống người dân và an sinh xã hội.
Ở Đắk Lắk, thông qua hoạt động tư vấn, phản biện và giám định,
ĐNTT đã đưa ra nhiều kiến nghị, đề xuất quan trọng đối với Uỷ ban Nhân
dân tỉnh về những tác động tiêu cực nếu thực hiện dự án thủy điện Đrăng
Phốk, trên cơ sở đó đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ và được đồng ý dừng
thực hiện việc chuyển đổi rừng và đất rừng Vườn Quốc gia Yok Đôn để thực
hiện dự án. Việc dừng dự án đã được sự đồng tình, ủng hộ của người dân.
Hay như trên cơ sở đề nghị của Uỷ ban Nhân dân tỉnh theo đề xuất của các
nhà khoa học, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý thuê tư vấn nước ngoài tham
gia lập quy hoạch chung xây dựng Buôn Ma Thuột đến năm 2025,v.v…
Bên cạnh mặt tích cực đạt được, vẫn còn nhiều hạn chế trong NCKH,
tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Không ít sản phẩm của ĐNTT có hàm
lượng chất xám và tính ứng dụng thấp. Nhiều đề tài nghiên cứu không thể áp
dụng vào thực tiễn, nhất là trong lĩnh vực khoa học xã hội. Số lượng đề tài
nghiên cứu cơ bản nhiều, trong khi đó nghiên cứu ứng dụng còn ít. Không ít
đề tài sau khi nghiệm thu không thể áp dụng vào thực tiễn đời sống do thiếu
tính khả thi, gây nên tình trạng lãng phí ngân sách cũng như tạo dư luận
không tốt.
Hoạt động NCKH của ĐNTT ở Tây Nguyên chưa nhiều, chủ yếu tập
trung vào một bộ phận nhỏ trí thức, đa phần còn lại thỉnh thoảng hoặc chưa
bao giờ tham gia. Theo số liệu khảo sát của tác giả luận án, chỉ có 5,2% trí
thức thường xuyên viết bài cho các báo, tạp chí, hội thảo; 36,8% thỉnh thoảng
và chưa bao giờ là 58,0%. Việc không tham gia thường xuyên hoặc đứng
ngoài NCKH một mặt làm giảm tính năng động, sáng tạo của trí thức, mặt
87
khác cho thấy điều kiện, môi trường cho trí thức phát huy năng lực của mình
vẫn còn những hạn chế, bất cập.
Việc tham gia tư vấn, phản biện và giám định xã hội vẫn được coi là việc
làm của một bộ phận nhỏ trí thức, còn hầu hết không tham gia hoặc không có
điều kiện tham gia. Kết quả khảo sát của tác giả luận án cho thấy, chỉ có 7,1%
thường xuyên tham gia, còn lại 38,4% thỉnh thoảng và 54,5% chưa bao giờ
(xem phụ lục 2). Đây là một tỉ lệ rất thấp đối với lao động trí óc. Điều đó thể
hiện ĐNTT chưa phát huy hết vai trò sáng tạo của mình đối với các vấn đề KT-
XH đang diễn ra ở Tây Nguyên. Đồng thời cũng cho thấy sự hạn chế của đội
ngũ này, cũng như của chính quyền trong việc tạo điều kiện cho trí thức phát
huy khả năng, trí tuệ của mình. Việc tham gia tư vấn, phản biện, giám định xã
hội vẫn là công việc có phần “xa xỉ” đối với nhiều trí thức nơi đây.
Thực tế trên dẫn đến sự thiếu gắn kết giữa lý luận và thực tiễn, lý
thuyết với thực hành. Việc đứng ngoài hoạt động này không chỉ làm cho trí
thức mai một kiến thức mà còn thể hiện sự bất cập giữa đào tạo, bồi dưỡng
với việc tạo điều kiện cho trí thức phát huy trí tuệ, khả năng của mình.
Trình độ ngoại ngữ và tin học
Trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH, cùng với việc hội nhập khu
vực, thế giới ngày càng sâu rộng, cũng như sự tác động mạnh mẽ của KHCN,
nhất là CNTT, thì việc sử dụng ngoại ngữ và tin học là một yêu cầu tất yếu
đối với ĐNTT.
Về trình độ ngoại ngữ: Do KT-XH Tây Nguyên chậm phát triển, mức
độ giao lưu, hội nhập còn hạn chế, từ đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc
học tập, nâng cao trình độ và khả năng sử dụng ngoại ngữ của ĐNTT ở đây.
Theo kết quả khảo sát thì có 3,9% chưa học; 24,8% trình độ A; 57,2%
trình độ B; 5,3% trình độ C; 4,1% cử nhân và 4,7% trình độ khác (xem phụ
lục 2). Có thể thấy trình độ ngoại ngữ của ĐNTT còn nhiều hạn chế, chủ yếu
là trình độ A và B. Với trình độ này, chỉ có thể giao tiếp đơn giản, rất khó có
thể sử dụng trong công tác nghiên cứu cũng như trao đổi học thuật.
88
Trình độ ngoại ngữ của ĐNTT còn thấp, dĩ nhiên mức độ sử dụng cũng
còn nhiều hạn chế. Theo kết quả khảo sát, chỉ có 4,0% sử dụng thường xuyên,
70,8% thỉnh thoảng và 25,2% chưa bao giờ (xem phụ lục 2).
Theo báo cáo của Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Lâm Đồng thì
có 8,4% trí thức thường xuyên sử dụng ngoại ngữ, thỉnh thoảng là 62,0%,
không sử dụng là 19,1% và không xác định là 10,5% [67, tr.80].
Trong điều kiện hiện nay, thì đây chính là một hạn chế lớn của ĐNTT ở
Tây Nguyên. Hạn chế này đã ảnh hưởng đến việc giao lưu, hội nhập, tiếp thu
tinh hoa, trí tuệ của nhân loại trong bối cảnh hội nhập quốc tế và CNTT ngày
càng phát triển.
Xét về thành phần dân tộc thì tỉ lệ sử dụng ngoại ngữ của trí thức dân
tộc Kinh và DTTS lần lượt là: Thường xuyên là 4,1% và 3,7%; thỉnh thoảng
là 73,0% và 64,2%; chưa bao giờ là 22,9% và 25,1%. Như vậy, có thể thấy, tỉ
lệ sử dụng ngoại ngữ thấp ở cả trí thức người Kinh và DTTT. Nguyên nhân
chủ yếu của sự hạn chế này là do trình độ phát triển KT-XH Tây Nguyên còn
chậm; mức độ hội nhập chưa cao; hiệu quả và chất lượng dạy và học ngoại
ngữ còn thấp.
Về trình độ tin học: Trình độ tin học của ĐNTT ở Tây Nguyên nhìn
chung chưa cao, chủ yếu ở trình độ A và B với 90,5%, tức là trình độ cơ bản.
Còn trình độ C trở lên chiếm tỉ lệ khá thấp với 3,6%. Với trình độ này, chỉ xử
lý được những công việc đơn giản như đánh văn bản, truy cập mạng và xử lý
các bảng tính giản đơn, khó có thể áp dụng vào các công việc đòi hỏi trình độ,
kỹ năng phức tạp.
Hiện vẫn còn 1,9% trí thức chưa học tin học. Đây là con số không lớn,
song trong bối cảnh hiện nay cần phải được phổ cập tin học. Trí thức rất khó
có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình nếu không biết hoặc không thể sử
dụng tin học trong quá trình hoạt động.
Nếu như tỉ lệ sử dụng ngoại ngữ khá thấp thì việc sử dụng tin học khá
cao với 88,4% thường xuyên sử dụng trong công việc của mình, chỉ có 10,5%
thỉnh thoảng và 1,1% chưa bao giờ. Sự chênh lệch trong sử dụng tin học giữa
trí thức các tỉnh không cao mà khá đồng đều. Đây là một sự cố gắng vươn lên
của ĐNTT ở Tây Nguyên trong việc nắm bắt CNTT.
89
Xét về thành phần dân tộc thì tỉ lệ sử dụng tin học của trí thức dân tộc
Kinh và DTTS lần lượt là: Thường xuyên 88,6%% và 87,9%; thỉnh thoảng
10,4% và 11,1%; chưa bao giờ 1,0 và 1,0%. Như vậy, có sự cân bằng trong
việc sử dụng tin học giữa trí thức dân tộc Kinh với DTTT. Điều này cho thấy
việc ứng dụng tin học vào hoạt động của ĐNTT trở thành một việc làm thiết
yếu, thường xuyên, không thể thiếu, nhất là trong bối cảnh CNTT đang phát
triển như vũ bão. Đồng thời cũng cho thấy sự nỗ lực vươn lên không ngừng
trong việc nắm bắt và nâng cao trình độ của trí thức DTTS.
* Về nhân cách
Nhân cách của con người nói chung và trí thức nói riêng được thể hiện
trên nhiều khía cạnh khác nhau. Luận án chủ yếu tập trung nghiên cứu ở một
số khía cạnh chủ yếu sau:
Ý thức chính trị
Ý thức chính trị thể hiện ở tri thức, niềm tin và ý chí, bản lĩnh chính trị.
Đó là sự hiểu biết đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước; tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý, điều hành của
Nhà nước; là sự quyết tâm hiện thực hoá đường lối, chủ trương, chính sách,
pháp luật vào cuộc sống; đấu tranh chống lại những âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực thù địch và quyết tâm vượt qua khó khăn, thử thách hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao.
Trình độ lý luận chính trị là một trong những nhân tố hết sức quan
trọng cấu thành nhân cách ĐNTT, đó là sự giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
Tại Lâm Đồng, tỉ lệ trí thức có trình độ lý luận chính trị là: Cử nhân
8,2%; cao cấp 23,1%; trung cấp 23,4%; sơ cấp là 31,4% và không xác định là
13,9% [67, tr.79].
Theo kết quả khảo sát của tác giả luận án, tỉ lệ trí thức ở Tây Nguyên
có trình độ lý luận chính trị hoặc lý luận chính trị - hành chính là: Cử nhân:
8,9%; cao cấp: 20,5%; trung cấp: 40,7%; sơ cấp: 18,0% và chưa học 11,9%.
Như vậy, tỉ lệ trí thức có trình độ lý luận chính trị khá cao, chiếm 88,1%.
90
Biểu 3.2: Trình độ lý luận chính trị của đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên phân theo trình độ học vấn
Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả.
Theo kết quả trên thì trình độ học vấn tỉ lệ thuận với trình độ lý luận
chính trị ở đại đa số trí thức. Trình độ học vấn càng cao thì trình độ lý luận
chính trị cũng được nâng lên. Điều này thể hiện sự nhất quán trong việc phát
triển ĐNTT theo hướng “đức” đi đôi với “tài”.
Theo kết quả khảo sát của tác giả luận án cho thấy, khi phân tích mối
tương quan về trình độ lý luận chính trị giữa trí thức dân tộc Kinh với DTTS
thì không có sự chênh lệch lớn. Cụ thể: Trình độ lý luận chính trị của trí thức
người Kinh theo tỉ lệ: Sơ cấp 17,1%; trung cấp 40,9%; cao cấp 20,9%; cử
nhân 9,1% và 12,0% chưa học, thì tỉ lệ này ở trí thức DTTS lần lượt là:
20,5%; 40,0%; 19,5%; 8,4% và 11,6%. Đây là một tín hiệu đáng mừng thể
hiện sự vươn lên mạnh mẽ của ĐNTT nói chung và trí thức DTTS nói riêng
nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng ĐNTT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
Đồng thời nó phản ánh sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với sự phát
triển trí thức DTTS.
Việc trang bị lý luận chính trị không chỉ giúp ĐNTT đảm bảo định
hướng tư tưởng, nhận thức và hoạt động mà còn thể hiện sự trung thành, kiên
định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới đất
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
Tiến sĩ Thạc sĩ Đại học
Cử nhân
Cao cấp
Trung cấp
Sơ cấp
Chưa học
91
nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo; giữ vững phẩm chất đạo đức, nêu cao
tinh thần trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ và cuộc sống.
Những năm qua, tình hình thế giới, khu vực và trong nước có nhiều
diễn biến phức tạp. Tây Nguyên lại là một trong những trọng điểm chống phá
của các thế lực thù địch, chúng lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chia rẽ
khối đoàn kết; kích động, lôi kéo quần chúng nhằm tạo ra sự bất ổn về chính
trị. Song, đại đa số trí thức giữ vững niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ,
không bị kích động, dụ dỗ hay lôi kéo. Khi các sự việc diễn ra, ĐNTT đã kịp
thời tham gia đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc trên mặt trận tư
tưởng, cũng như nhìn nhận, đánh giá một cách khoa học từ đó tham mưu cho
cấp uỷ, chính quyền ở Tây Nguyên những giải pháp nhằm ổn định tình hình.
Phẩm chất đạo đức, ý thức tổ chức kỷ luật, lối sống
Đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên chủ yếu được hình thành, phát triển sau
ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, được rèn luyện, học tập trong
môi trường cách mạng xã hội chủ nghĩa nên đại đa số nêu cao đạo đức cách
mạng, yêu nghề, hăng say công việc. Tác phong làm việc ngày càng khoa học.
Hầu hết trí thức mong muốn đem sức lực, trí tuệ của mình đóng góp cho sự
nghiệp xây dựng Tây Nguyên ngày càng giàu đẹp. Nhiều trí thức không chịu
dừng bước trước những khó khăn, dám nghĩ, dám làm, quyết tâm vươn lên
trong NCKH cũng như ý chí làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội.
Trước những tác động của mặt trái cơ chế thị trường cũng như rào cản
của những hủ tục lạc hậu, song đa số trí thức, trong đó có trí thức DTTS giữ
được lối sống lành mạnh, tích cực, sẵn sàng phá bỏ những phong tục, tập quán
lạc hậu để tiếp nhận những nếp sống văn minh, hiện đại.
Là vùng đất nhạy cảm về quốc phòng, an ninh với những diễn biến
phức tạp liên quan đến dân tộc, tôn giáo, các thế lực thù địch luôn sử dụng
mọi luận điệu xuyên tạc nhằm lôi kéo người dân đi theo chúng, nhất là những
người có học thức trong cộng đồng các DTTS, nhưng các trí thức nơi đây vẫn
giữ cho mình niềm tin vào Đảng, luôn chấp hành ý thức tổ chức kỷ luật,
không hoang mang, dao động trước các thủ đoạn xuyên tạc, chống phá, giữ
cho mình lối sống lành mạnh, tích cực. Biểu hiện cụ thể là trong các cuộc bạo
92
loạn chính trị ở Tây Nguyên, các thế lực thù địch một mặt gây chia rẽ khối
đoàn kết dân tộc giữa người Kinh với người DTTS tại chỗ, mặt khác tìm cách
lôi kéo trí thức DTTS tại chỗ để thu hút quần chúng, nhưng chúng đã thất bại
do các trí thức giữ vững lập trường, phẩm chất cách mạng kiên trung, không
giao động, một lòng theo Đảng. Đó chính là sự biểu hiện nhân cách đúng đắn
của ĐNTT nơi đây.
Tuy nhiên, dưới sự ảnh hưởng lâu dài của lối canh tác nông nghiệp lạc
hậu, manh mún và mặt trái của cơ chế thị trường nên ý thức tổ chức kỷ luật và
lối sống của một bộ phận trí thức nơi đây còn thấp kém, lối sống buông thả,
thực dụng, chỉ biết lo vun vén cho cái lợi trước mắt của bản thân mà thiếu tầm
nhìn lâu dài. Một số người mang danh trí thức nhưng ham danh lợi, địa vị từ
đó ảnh hưởng đến việc phát huy vai trò của ĐNTT. Không ít trí thức bằng
lòng với hiện tại mà không chịu khó rèn luyện vươn lên. Tác phong làm việc
của một số trí thức chưa khoa học.
Như vậy, về mặt chất lượng mặc dù ĐNTT ở Tây Nguyên trong những
năm qua đã có nhiều cố gắng vươn lên hoàn thiện bản thân mình và đã đạt
được một số kết quả quan trọng, tạo tiền đề, cơ sở cho sự phát triển trong các
giai đoạn tiếp sau. Nhưng nhìn chung đội ngũ này vẫn còn nhiều hạn chế về
trình độ học vấn, ngoại ngữ, tin học cũng như tham gia tư vấn, phản biện và
giám định xã hội.
Những thành tựu, hạn chế trên có nhiều nguyên nhân, song chủ yếu là:
Nguyên nhân của thành tựu: Sự phát triển KT-XH, CNH, HĐH đã tạo
tiền đề, điều kiện cho sự phát triển ĐNTT; Sự nỗ lực, phấn đấu, rèn luyện vươn
lên của chính bản thân ĐNTT. Không ít trí thức ở Tây Nguyên đã vượt qua hoàn
cảnh khó khăn, rào cản của các hủ tục, tập quán, quan niệm lạc lậu không ngừng
học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ, qua đó khẳng định được vị trí, vai trò của
mình trong xã hội; Chất lượng GDĐT được nâng lên, cơ sở vật chất đầu tư cho
GDĐT ngày càng được chú trọng; Việc xã hội hoá giáo dục đã thu hút được sự
tham gia của trí thức trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin
học; Việc ứng dụng KHCN vào sản xuất, quản lý và đời sống có nhiều bước
phát triển; Quá trình hội nhập đã tạo điều kiện cho việc tổ chức giao lưu, trao đổi
kinh nghiệm giữa trí thức Tây Nguyên với trí thức trong và ngoài nước thông
93
qua các hội thảo khoa học, toạ đàm, trao đổi học thuật; Đường lối, chính sách nói
chung và đối với ĐNTT nói riêng ngày càng hoàn thiện…
Nguyên nhân của hạn chế: do điều kiện địa lý, tự nhiên của Tây
Nguyên không thuận lợi, xa các trung tâm kinh tế, chính trị lớn của cả nước
nên ảnh hưởng đến việc đi lại, học tập nâng cao trình độ của ĐNTT; Trình độ
phát triển KT-XH của Tây Nguyên còn thấp và chậm, từ đó chưa tạo được
điều kiện và môi trường đầy đủ cho sự phát triển ĐNTT; Một số cơ chế, chính
sách chưa đủ tạo động lực khuyến khích trí thức nâng cao trình độ học vấn,
chuyên môn, ngoại ngữ, tin học. Cơ chế cho trí thức tham gia hoạt động tư
vấn, phản biện, giám định xã hội cũng như thực hiện các đề tài khoa học còn
rườm rà, phức tạp, thiếu minh bạch, công khai; Mặt trái của cơ chế thị trường
tác động vào ĐNTT làm cho không ít trí thức đánh mất mình trước sự cám dỗ
của danh lợi, đồng tiền. Hơn nữa, là vùng đất nhạy cảm, phức tạp về an ninh
chính trị, cộng với sự chống phá của các thế lực thù địch nên cũng đã tác động
không nhỏ vào niềm tin, bản lĩnh chính trị của một số trí thức, làm cho họ dao
động từ đó dễ sa ngã, thiếu nhiệt huyết với công việc của mình. Đặc biệt,
chưa có cơ chế phối hợp hoạt động giữa các trường đại học với các viện
nghiên cứu, các doanh nghiệp đóng trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên.
Mặt khác, do sức ỳ và tâm lý “an phận thủ thường” ở một bộ phận trí
thức cũng đã ảnh hưởng đến việc phát huy tính năng động, sáng tạo của mình.
Chính vì vậy, về lâu dài cần phải có giải pháp nhằm năng động hoá lực lượng
này, qua đó huy động có hiệu quả sự đóng góp của ĐNTT vào quá trình phát
triển của Tây Nguyên. Một nguyên nhân nữa là chưa có sự phối hợp giữa các
trường đại học với các viện nghiên cứu ở Tây Nguyên, dẫn đến lý luận xa rời
thực tiễn, lý thuyết thiếu gắn kết với thực hành, không tạo được môi trường
giao lưu, trao đổi học thuật và NCKH.
3.1.3. Thực trạng ban hành và thực hiện chính sách phát triển đội ngũ
trí thức ở Tây Nguyên
Mặc dù tình hình KT-XH Tây Nguyên còn nhiều khó khăn, các tỉnh
phải tập trung chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ trước mắt như xóa đói, giảm
nghèo, định canh định cư, xây dựng nông thôn mới, chăm sóc sức khỏe ban
đầu cho nhân dân, trật tự an toàn xã hội, khắc phục thiên tai bão lũ,v.v…
94
Song, cấp uỷ, chính quyền các tỉnh luôn coi trọng vị trí, vai trò của trí thức
đối với phát triển KT-XH và đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách, qua đó tạo
hành lang pháp lý cho việc xây dựng đội ngũ này.
Thứ nhất, chính sách đào tạo và bồi dưỡng trí thức
Đào tạo và bồi dưỡng trí thức là một trong những khâu hết sức quan
trọng nhằm phát huy, phát triển ĐNTT ngày càng lớn mạnh. Trên cơ sở nhận
thức đó, các tỉnh Tây Nguyên đã ban hành nhiều chính sách.
Kon Tum ra Quyết định số 33 về quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng ĐNTT
tỉnh từ nay đến năm 2020, đáp ứng yêu cầu phát triển. Mục tiêu của đề án là
xây dựng ĐNTT đảm bảo số lượng, chất lượng và cơ cấu, phù hợp với yêu
cầu phát triển KT-XH của tỉnh. Bên cạnh đó, tỉnh cũng đã ban hành Quyết
định số 1111 về việc phê duyệt quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Kon Tum
giai đoạn 2011-2020. Trong đó phấn đấu đến năm 2020, đào tạo mới 280 thạc
sĩ và 20 tiến sĩ.
Gia Lai ban hành Quyết định số 877 về việc phê duyệt quy hoạch phát
triển nhân lực tỉnh giai đoạn 2011-2020. Mục tiêu là đến năm 2020 đào tạo
mới 369 người có trình độ trên đại học, đào tạo mới 50 người có trình độ trên
đại học ở nước ngoài. Đào tạo, bồi dưỡng 4 đến 5 chuyên gia đầu ngành có
trình độ cao, có khả năng tư vấn, hoạch định, tổ chức triển khai thực hiện các
chiến lược, quy hoạch, chương trình, đề án phát triển.
Cùng với việc ban hành, quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng thu được nhiều kết quả tích cực góp phần quan trọng đối với sự phát
triển ĐNTT. Số lượng người có trình độ đại học, sau đại học ở các tỉnh Tây
Nguyên ngày càng tăng, từng bước hình thành ĐNTT đông về số lượng, cao
về chất lượng, hợp lý và hài hoà về cơ cấu.
Việc đào tạo, bồi dưỡng không chỉ được thực hiện ở các trường, học
viện đóng trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên mà còn gửi đi đào tạo ở hầu khắp
các cơ sở khác trong cả nước, trong đó tập trung nhiều ở Hà Nội, Đà Nẵng và
thành phố Hồ Chí Minh. Một số được cử đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài.
Cụ thể:
Từ năm 2009 đến 2014, Kon Tum đã cử 160 cán bộ, công chức đi đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ [66]. Gia Lai, giai đoạn 2008-2014, đã cử
95
1.023 cán bộ đi học các lớp cao cấp chính trị; Giai đoạn 2011-2013, cử 169
lượt cán bộ, công chức, viên chức đi đào tạo sau đại học tại các cơ sở đào tạo
trong và ngoài nước [35]. Đắk Lắk, năm 2010 và 2011 cử 143 trường hợp đi
đào tạo sau đại học [93]. Đắk Nông, giai đoạn 2005-2010 đã cử đi đào tạo 2
tiến sĩ, 103 thạc sĩ [68]. Lâm Đồng từ năm 2005 đến 2011 đã đào tạo được
1.428 người, trong đó có 14 tiến sĩ [67].
Sau khi được đào tạo, bồi dưỡng, nhìn chung trình độ chuyên môn, lý
luận chính trị và năng lực thực tiễn của ĐNTT được nâng lên, đáp ứng tốt hơn
yêu cầu công việc. Nhiều trí thức đã phát huy được vai trò của mình trong
việc thực hiện nhiệm vụ được giao, qua đó được đề bạt, bổ nhiệm và nắm giữ
các vị trí quan trọng.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chính sách cũng bộc lộ nhiều hạn
chế, thiếu sót. Một số địa phương chưa gắn đào tạo, bồi dưỡng với quy hoạch,
kế hoạch sử dụng dẫn tới mất cân đối và lãng phí nguồn nhân lực. Nhiều trí
thức sau khi được đào tạo, bồi dưỡng không quay về Tây Nguyên phục vụ mà
ở lại thành phố lớn, dẫn đến tình trạng “chảy máu chất xám”. Hiệu quả, chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của
công việc, v.v…
Thứ hai, chính sách sử dụng trí thức
Cùng với quá trình đào tạo, bồi dưỡng thì việc bố trí, sắp xếp trí thức
cũng được các tỉnh Tây Nguyên chú trọng. Nhiều trí thức sau khi được tuyển
dụng đã được bố trí, sắp xếp đúng chuyên ngành đào tạo, chuyên môn công
tác qua đó phát huy tốt khả năng, sở trường. Một số trường hợp bố trí chưa
phù hợp nhưng qua thực tiễn cũng đã thích nghi với công việc.
Theo số liệu khảo sát của tác giả luận án, tỉ lệ trí thức ở Tây Nguyên
được bố trí công việc phù hợp với chuyên ngành đào tạo là 52,7%. Còn tính
riêng ở tỉnh Lâm Đồng có 65,86% trí thức được bố trí công việc phù hợp với
chuyên ngành đào tạo, tương đối phù hợp là 27,47%, còn lại là không phù
hợp [67]. Điều này góp phần khẳng định việc đào tạo từng bước gắn với bố trí
và sử dụng trí thức. Đồng thời việc bố trí hợp lý, phù hợp với chuyên ngành
cũng tạo điều kiện, động lực cho trí thức phát huy tốt năng lực, sở trường của
mình, qua đó nâng cao sự hài lòng của trí thức đối với công việc. Mức độ rất
96
hài lòng và hài lòng với công việc hiện tại của trí thức cũng khá cao, chiếm tỉ
lệ 88,8%; chỉ có 11,2% không hài lòng. Mức độ hài lòng không chỉ phản ánh
sự coi trọng đối với vị trí, vai trò của trí thức mà còn là việc sử dụng đúng với
yêu cầu, nguyện vọng. Đây là một trong những động lực giúp họ phát huy tốt
khả năng của mình.
Nhằm sử dụng có hiệu quả ĐNTT, chính quyền các tỉnh Tây Nguyên
cũng đã quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động
của trí thức, qua đó tạo điều kiện cho họ phát huy tốt vai trò của mình. Kết
quả khảo sát cho thấy, với tỉ lệ 58,1% trí thức đánh giá rất tốt và tốt đã khẳng
định sự đầu tư cho trí thức ngày càng được quan tâm. Ngay cả Đắk Nông là
tỉnh mới thành lập và là tỉnh khó khăn nhất trong 5 tỉnh Tây Nguyên, nhưng
với tỉ lệ đánh giá rất tốt là 18,3%, cao nhất trong các tỉnh được khảo sát. Điều
này cho thấy, các tỉnh ngày càng quan tâm hơn đến nhân tố con người đối với
sự phát triển nhằm tạo ra sự đột phá trong chiến lược phát triển KT-XH.
Biểu 3.3: Cơ sở vật chất phục vụ công việc cho đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên
Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả.
Bên cạnh đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động của ĐNTT, các
tỉnh Tây Nguyên cũng đã từng bước xây dựng, hoàn thiện môi trường công
tác nhằm từng bước phát huy tối đa năng lực, khả năng cống hiến của trí thức,
nhất là trong việc thực hiện cơ chế, chính sách, cũng như mối quan hệ giữa
cấp trên với cấp dưới và giữa những người cùng cấp với nhau. 56,5% trí thức
Rất tốt 9,7%
Tốt 48,4%
Bình thường 39,5%
Nghèo nàn 2,4%
97
được khảo sát đánh giá môi trường công tác rất tốt và tốt, 37,1% bình thường
và chỉ có 6,4% đánh giá khó phát triển. Việc tạo môi trường công tác thuận
lợi cho hoạt động của trí thức không chỉ kích thích trí thức say mê nghiên
cứu, sáng tạo mà còn là biện pháp hữu hiệu để giữ chân trí thức.
Bên cạnh đó, các tỉnh Tây Nguyên cũng tăng cường kinh phí cho hoạt
động khoa học. Những năm qua, nhìn tổng thể kinh phí chi cho sự nghiệp
khoa học của các tỉnh Tây Nguyên tăng qua các năm, nguồn kinh phí này đã
tạo điều kiện thuận lợi cho ĐNTT tham gia NCKH, từ đó góp phần vào phát
triển KT-XH cũng như nâng cao năng lực thực tiễn của mình.
Bảng 3.3: Chi cho sự nghiệp khoa học của các tỉnh Tây Nguyên Đơn vị tính: triệu đồng.
Tỉnh/Năm 2012 2013 2014 2015
Kon Tum 8.804 13.516 16.519 21.050
Gia Lai 17.570 12.973 19.806 22.209
Đắk Lắk 17.530 14.749 16.668 21.438
Đắk Nông 8.000 6.000 10.000 20.000
Lâm Đồng 23.980 24.987 25.194 31.154
Tây Nguyên 77.896 74.238 90.201 117.866
Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở [22; 24; 26; 28; 31].
Bên cạnh những thành tựu, vẫn còn những hạn chế trong việc sử dụng
trí thức. Cụ thể:
Một là, việc bố trí, sử dụng một bộ phận trí thức chưa tương xứng với
năng lực, cống hiến. Vẫn còn 29,2% số trí thức được hỏi ý kiến cho rằng vị trí
công tác chưa tương xứng với năng lực cống hiến của họ. Trong bối cảnh
nguồn nhân lực chất lượng cao ở Tây Nguyên đang còn khan hiếm thì đây là
một sự lãng phí không nhỏ. Vì khi bố trí chưa tương xứng với năng lực sẽ hạn
chế, kìm hãm sự cống hiến của trí thức, họ cảm thấy mình chưa được coi
trọng thậm chí bị bỏ rơi, từ đó hình thành tâm lý chán nản, thiếu động lực
phấn đấu và ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện công việc.
Hai là, mức lương của hầu hết trí thức còn thấp, chưa tạo được sự yên
tâm công tác. Trong khi đó, đây là nguồn thu nhập chính của hầu hết trí thức
98
ở Tây Nguyên hiện nay. Chỉ có 27,2% trí thức được hỏi trả lời yên tâm, trong
khi đó 72,8% trả lời chưa yên tâm. Khi mức lương chưa đủ trang trải cuộc
sống, trí thức sẽ không thể yên tâm với công việc của mình. Họ sẽ tìm nhiều
cách để có thêm thu nhập, thậm chí sẵn sàng làm những việc không chính
đáng như vòi vĩnh, gây khó khăn, nhũng nhiễu người dân, doanh nghiệp để
được “bôi trơn”, v.v... Mức lương thấp đã cản trở việc đầu tư nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ của trí thức, cũng như ảnh hưởng xấu đến sự yên
tâm trong công tác, cống hiến của họ. Đây cũng là khó khăn lớn tác động đến
sự phát triển của trí thức.
Biểu 3.4: Những khó khăn tác động đến sự phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên hiện nay
Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả.
Ba là, cơ chế, chính sách còn rườm ra, thiếu minh bạch và nhất quán,
nhất là chính sách tài chính. Việc này gây ra nhiều khó khăn, phiền toái dễ
dẫn đến sự đối phó trong thanh quyết toán và gây lãng phí thời gian, công
sức, làm giảm chất lượng, hiệu quả trong quá trình thực hiện đề tài, ảnh
hưởng tới uy tín và danh dự của trí thức.
Bên cạnh đó, môi trường công tác của trí thức cũng chưa thực sự dân
chủ và thông thoáng để trí thức được tự do thể hiện sự sáng tạo của mình. Vẫn
còn 43,5% trí thức được lấy ý kiến cho rằng môi trường công tác vẫn ở mức
Lương thấp 40,0%
Môi trường làm việc 16,3%
Cơ chế chính sách 29,6%
Cơ sở vật chất 4,9%
Khác 9,2%
99
bình thường và khó phát triển, 41,9% khẳng định cơ sở vật chất bình thường
và nghèo nàn (xem phụ lục 2). Điều đó cho thấy, các tỉnh muốn thu hút và sử
dụng có hiệu quả trí thức thì cần phải nỗ lực nhiều hơn trong việc cải thiện
môi trường và điều kiện làm việc.
Bốn là, chưa có tiêu chí cụ thể để đánh giá năng lực trí thức. Hầu hết
đều dựa vào tiêu chí đánh giá cán bộ, đảng viên để đánh giá trí thức. Trong
khi nội dung của các tiêu chí này còn chưa cụ thể nên khó có thể đánh giá đầy
đủ, khách quan sự đóng góp của trí thức, từ đó chưa nhận thức đúng về vai
trò, vị trí của trí thức. Việc đánh giá không đúng trí thức dẫn đến nảy sinh tâm
tư, tâm lý bức xúc, nặng nề trong không ít trí thức.
Như vậy, việc sử dụng trí thức ở Tây Nguyên bên cạnh những thành
tựu vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập, yếu kém. Do đó, cần phải tiếp tục đổi mới
nhằm tạo môi trường, điều kiện để huy động sự đóng góp của trí thức đối với
quá trình phát triển KT-XH, qua đó từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển
giữa Tây Nguyên với cả nước.
Thứ ba, chính sách ưu đãi, thu hút trí thức
Chính sách ưu đãi, thu hút trí thức được các tỉnh quan tâm, nhiều chính
sách đã được ban hành qua đó góp phần tạo động lực cho trí thức yên tâm học
tập và công tác, cũng như thiết lập cơ sở, hành lang pháp lý cho việc thu hút
trí thức đến với Tây Nguyên.
Tỉnh Gia Lai ban hành Quyết định số 20 về việc ban hành quy định
giao đất, xây dựng nhà ở cho cán bộ, công chức được điều động về tỉnh công
tác và người có trình độ cao công tác trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 39 về
quy định chế độ hỗ trợ đào tạo sau đại học và chính sách thu hút người có
trình độ cao về công tác tại tỉnh. Theo đó: Người có trình độ cao được tiếp
nhận về công tác tại các cơ quan thuộc tỉnh quản lý, cam kết thời gian công
tác tối thiểu 10 năm kể từ ngày tiếp nhận; chưa có nhà, đất ở tại thành phố
Pleiku được giao đất xây dựng nhà; được miễn, giảm tiền sử dụng đất. Ngoài
ra được hỗ trợ tiền sử dụng đất: Nhà giáo nhân dân, nghệ sĩ nhân dân, thầy
thuốc nhân dân, người có học hàm giáo sư, phó giáo sư, người có học vị tiến
100
sĩ được hỗ trợ 100% tiền sử dụng đất. Nhà giáo ưu tú, nghệ sĩ ưu tú, thầy
thuốc ưu tú, người có học vị thạc sĩ được hỗ trợ 50% tiền sử dụng đất.
Gia Lai còn hỗ trợ kinh phí ôn thi sau khi đậu với mức: 3 triệu đồng đối
với tiến sĩ, chuyên khoa cấp 2; 2 triệu đồng đối với thạc sĩ, chuyên khoa cấp
1; thanh toán tiền học phí theo chứng từ thực tế của cơ sở đào tạo; thanh toán
tiền tài liệu học tập; hỗ trợ người sau khi tốt nghiệp: Tiến sĩ: 35 triệu đồng;
chuyên khoa cấp 2: 25 triệu đồng; thạc sĩ: 20 triệu đồng; chuyên khoa cấp 1:
15 triệu đồng.
Đối với chính sách thu hút người có trình độ cao về công tác tại tỉnh:
Tiến sĩ: 55 triệu đồng; chuyên khoa cấp 2: 35 triệu đồng; thạc sĩ: 25 triệu
đồng; chuyên khoa cấp 1: 20 triệu đồng; tốt nghiệp đại học chính quy loại
xuất sắc, giỏi: 10 triệu đồng. Ngoài việc hưởng chính sách hỗ trợ, người có
trình độ thạc sĩ, tiến sĩ còn được tạo điều kiện cho vợ (hoặc chồng) có việc
làm ổn định tại tỉnh.
Tỉnh Đắk Lắk ban hành chính sách thu hút những người có trình độ cao
về các chuyên ngành phù hợp với yêu cầu phát triển KT-XH của tỉnh, có kinh
nghiệm công tác. Cụ thể: Giáo sư 70 triệu đồng; phó giáo sư 60 triệu đồng;
tiến sĩ: 40 triệu đồng; thạc sĩ: 30 triệu đồng. Ngoài ra, nhiều cơ quan, đơn vị
trong tỉnh đã coi trọng công tác thi đua, khen thưởng, nhằm khuyến khích, tôn
vinh trí thức có thành tích trong các hoạt động NCKH, tư vấn, phản biện và
giám định xã hội.
Tỉnh Đắk Nông, tốt nghiệp đại học loại xuất sắc được hỗ trợ bằng 5 lần
mức lương tối thiểu; loại giỏi 4 lần; loại khá 2 lần. Tốt nghiệp thạc sĩ và
chuyên khoa I: 10 lần mức lương tối thiểu; tiến sĩ và chuyên khoa II: 15 lần.
Cán bộ, công chức, viên chức người DTTS tốt nghiệp đại học loại xuất sắc
được hỗ trợ 8 lần mức lương tối thiểu; loại giỏi 6 lần; loại khá 4 lần; thạc sĩ và
chuyên khoa I: 12 lần; tiến sĩ và chuyên khoa II: 20 lần.
Có thể thấy, các chính sách ưu đãi, thu hút được ban hành thể hiện sự
quan tâm của các tỉnh Tây Nguyên đối với trí thức. Tuy nhiên, trong quá trình
thực hiện đã bộc lộ nhiều bất cập, đó là: Chính sách ưu đãi, thu hút quá tập
trung vào yếu tố vật chất như tiền, đất, nhà mà chưa quan tâm đầy đủ đến việc
đổi mới, hoàn thiện môi trường công tác và cống hiến - là những yếu tố quyết
101
định đến thu hút trí thức. Thực tế qua quá trình triển khai thực hiện chính sách
cho thấy, chỉ với các ưu đãi trên thì không thể nào thu hút được những trí thức
có trình độ, chuyên môn cao như giáo sư, phó giáo sư, nhà giáo nhân dân,
nghệ sĩ nhân dân,v.v… về các tỉnh Tây Nguyên công tác. Do đó, nhiều chính
sách được ban hành nhưng việc thu hút trí thức, nhất là trí thức có trình độ
cao về công tác ở các tỉnh Tây Nguyên hầu như rất ít, thậm chí không có. Kon
Tum trong 5 năm, từ năm 2009 đến năm 2014 chỉ thu hút được 03 trường hợp
có trình độ thạc sĩ và 14 trường hợp tốt nghiệp đại học loại giỏi [66]. Gia Lai
từ năm 2010 đến 2013 chỉ thu hút được 01 tiến sĩ, 18 thạc sĩ [35].
Mức lương trả cho người được thu hút về vẫn nằm trong hệ thống
thang, bảng lương chung đối với công chức, viên chức, dẫn đến thu nhập chưa
đủ tái sản xuất sức lao động, chưa thực sự dựa trên kết quả công việc, gây ra
tình trạng trí thức thiếu chuyên tâm với công việc. Không ít trí thức phải lo
làm thêm nhiều việc khác để tăng thu nhập mà không gắn với lĩnh vực chuyên
môn của họ. Mặt khác, hệ số lương mang tính cào bằng giữa những người có
trình độ, năng lực khác nhau. Việc nâng lương còn phụ thuộc quá nhiều vào
yếu tố thời gian (thâm niên) mà không chú trọng đầy đủ đến yếu tố hiệu quả
hay thực chất công việc họ đang đảm nhận. Lương thấp, chế độ đãi ngộ không
đảm bảo và không phản ánh đúng giá trị sức lao động, khiến cho nhiều trí
thức, đặc biệt là những trí thức trẻ đang có xu hướng rời đến các tỉnh, thành
phố khác tìm cơ hội tốt hơn, dẫn đến các tỉnh Tây Nguyên đã thiếu trí thức,
đặc biệt là trí thức trình độ cao, lại càng thiếu. Từ đó ảnh hưởng lâu dài đến
việc xây dựng ĐNTT cũng như phát triển KT-XH Tây Nguyên.
Chính sách ưu đãi, thu hút trí thức thiếu đồng bộ, chưa tạo được sự hấp
dẫn, động lực để thu hút trí thức, đặc biệt là những trí thức có trình độ cao.
Ngay cả trong ưu đãi vật chất vẫn còn nhiều bất cập. Giá trị ưu đãi không bù
đắp đủ chi phí đào tạo, lại càng không đủ để nuôi sống bản thân trí thức và gia
đình. Do đó, không đủ kích thích họ miệt mài học tập, nâng cao trình độ
chuyên môn và yên tâm lao động sáng tạo. Thậm chí không giữ được họ ăn ở
lâu dài trên đất Tây Nguyên. Thủ tục nhận chính sách ưu đãi rườm rà, nhiêu
khê và mất nhiều thời gian.
102
Biểu 3.5: Đánh giá của trí thức ở Tây Nguyên về các chính sách đối với đội ngũ trí thức
Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả.
Kết quả trên cho thấy, sự đánh giá của trí thức đối với chính sách khá
thấp ở tỉ lệ rất tốt và tốt, chỉ có 10,7%. Trong khi đó, bình thường và chưa tốt
chiếm 83,5% và vẫn còn đến 5,9% trí thức không nắm bắt được chính sách
đối với bản thân. Điều này cho thấy, do bất cập, thiếu sự lan toả nên các chính
sách đối với ĐNTT chưa mang tính toàn diện, đồng bộ, hiệu quả.
Theo báo cáo của Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Lâm Đồng có
31,6% trí thức đánh giá rất tốt và tốt, chưa tốt là 44,6%, không rõ 19,8% và
không xác định là 4,0% [67, tr.80].
Chính sách ưu đãi nhiều bất cập, lương thấp dẫn tới đời sống của một
bộ phận không nhỏ trí thức ở Tây Nguyên gặp nhiều khó khăn. Thực tế không
ít trí thức ở Tây Nguyên một mặt vừa lao động trí óc, mặt khác phải lao động
chân tay không liên quan đến chuyên môn, nghiệp vụ. Họ vừa lao động trí óc,
NCKH vừa làm nông nghiệp để có thêm thu nhập. Từ thứ 2 đến thứ 6 và
trong giờ hành chính chủ yếu lao động trí óc, thứ 7, chủ nhật và ngoài giờ
hành chính, lại là những nông dân lao động thứ thiệt trên các vườn, rẫy cà
phê, tiêu, điều, v.v... Những hoạt động lao động này ảnh hưởng nhiều đến thời
gian dành cho NCKH, nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ.
0
10
20
30
40
50
60
70
Rất tốt Tốt Bình thường Chưa tốt Không rõ
Tây Nguyên
Kon Tum
Gia Lai
Đắk Lắk
Đắk Nông
Lâm Đồng
103
Đối với những trí thức thuộc dạng thu hút cũng thiếu cơ chế, chính sách
mang tính ổn định, lâu dài, do đó không ít trí thức sau khi được thu hút bị
lãng quên, không phát huy được khả năng, năng lực, sở trường của mình,
thậm chí có trường hợp bị thui chột. Thu hút không chỉ là đưa về làm việc, mà
quan trọng hơn là phải tạo điều kiện cho họ phát triển.
Thực tế cho thấy, những trí thức có năng lực thực sự thường quan tâm
nhiều đến môi trường và điều kiện làm việc, nơi họ có thể thể hiện được đầy
đủ năng lực, trí tuệ và sự cống hiến của mình. Do đó, nếu môi trường năng
động, điều kiện làm việc đầy đủ, thuận lợi sẽ là động lực mạnh mẽ cuốn hút
trí thức. Tuy nhiên, các tỉnh Tây Nguyên chưa thực hiện được những đòi hỏi,
yêu cầu chính đáng này, vì vậy việc thu hút không đạt được mục tiêu.
Mặt khác, giữa thu hút và sử dụng trí thức ở một số địa phương của Tây
Nguyên vẫn tồn tại nhiều khoảng cách. Thu hút trí thức nhưng bố trí, sắp xếp,
sử dụng lại không phù hợp với chuyên môn, năng lực và sở trường. Từ đó trí
thức được thu hút thiếu cơ hội để khẳng định mình, thậm chí chán nản, giảm
động lực, không muốn nhập cuộc, dấn thân vào môi trường mới. Đây cũng là
một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại trong thu hút trí thức về Tây
Nguyên và đó cũng là một sự biểu hiện của tình trạng "chảy máu chất xám".
Tóm lại, các chính sách đối với sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên thời
gian qua từng bước được cải thiện song đến nay vẫn còn những hạn chế, bất
cập, mà nguyên nhân chủ yếu là:
Trong các kế hoạch, quy hoạch phát triển KT-XH Tây Nguyên chưa
thực sự coi trọng đầy đủ quan điểm lấy GDĐT cùng với KHCN làm "quốc
sách hàng đầu”, chưa đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển.
Nhiều chủ trương, chính sách đối với ĐNTT chậm được ban hành và đi
vào cuộc sống. Trong quá trình tổ chức thực hiện, có không ít địa phương, cơ
quan, đơn vị triển khai một cách hình thức, thiếu nghiêm túc. Một số chủ trương,
chính sách không sát với thực tế. Có chủ trương, chính sách đúng đắn nhưng
thiếu nguồn lực, chế tài bảo đảm cho việc thực hiện có kết quả. Một số chính
sách đối với ĐNTT thiếu đồng bộ, nặng về thủ tục và chậm được đổi mới.
Không ít cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đúng đắn và đầy đủ về vị
trí, vai trò của trí thức, dẫn tới đánh giá, sử dụng trí thức không phù hợp với
104
năng lực, sở trường. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý quá chú trọng đến vốn
tiền, vật chất mà chưa coi trọng việc phát huy nguồn nhân lực con người. Vẫn
còn hiện tượng ngại tiếp xúc, đối thoại, không thực sự cầu thị, lắng nghe,
chưa tạo điều kiện cho trí thức tham gia phản biện những chủ trương, chính
sách, đề án, dự án.
Hiệu quả hoạt động của liên hiệp các hội khoa học, kỹ thuật và các hội
thành viên còn nhiều hạn chế, mang nặng tính hành chính hơn là cầu nối giữa
trí thức với các cấp uỷ đảng, chính quyền; chưa làm tốt vai trò trung tâm trong
việc tập hợp, đoàn kết và phát huy vị thế, vai trò của ĐNTT.
Công tác tổ chức cán bộ, công tác quản lý, nhất là khâu đánh giá, sử dụng
trí thức còn nhiều điểm không hợp lý. Thiếu cơ chế, chính sách tạo điều kiện
thuận lợi cho trí thức chuyên tâm cống hiến, phát triển và được xã hội tôn vinh
bằng chính kết quả hoạt động của mình. Thiếu cơ chế, chính sách phù hợp trong
việc phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài, trí thức.
Các chủ trương, chính sách đào tạo trí thức chưa đồng bộ. Hệ thống
GDĐT còn nhiều khó khăn, chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu về đào tạo, bồi
dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao. Thiếu chính sách thu hút trí thức người
Việt Nam ở nước ngoài có nguồn gốc hoặc thân nhân sinh sống tại Tây
Nguyên tham gia vào việc phát triển KT-XH nơi đây. Chưa tạo được môi
trường, điều kiện để trí thức giao lưu, hợp tác, làm việc ở các trung tâm khoa
học và văn hóa ở nước ngoài, cũng như trong nước.
Cơ chế, chính sách tài chính trong hoạt động KHCN còn nhiều bất cập,
gây khó khăn, dẫn đến một số trường hợp trí thức phải tìm cách đối phó, làm
giảm chất lượng sản phẩm sáng tạo, lãng phí thời gian, công sức, tiền của.
Thậm chí ảnh hưởng không tốt, gây tổn hại đến uy tín, danh dự, dẫn đến
những nỗi niềm, tâm tư và bức xúc của một số trí thức.
3.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHỦ YẾU ĐẶT RA ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN ĐỘI
NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY
Bên cạnh những mặt tích cực, sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên cũng
đã, đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải được nhìn nhận một cách khoa học, đầy
đủ từ đó có giải pháp tháo gỡ để tiếp tục phát triển đội ngũ này thời gian tới.
Cụ thể:
105
3.2.1. Bất cập giữa hiện trạng thiếu gắn kết chặt chẽ, thụ động của
đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên với đòi hỏi bức thiết của sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Điều kiện, hoàn cảnh có vai trò hết sức quan trọng tác động đến sự phát
triển của ĐNTT. Song yếu tố quyết định vẫn là sự nỗ lực nội tại, bên trong
bản thân trí thức, là khát vọng vươn lên chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức, không
dừng bước trước các khó khăn, thử thách. Không tự mình vươn lên khó có thể
phát triển ĐNTT đông về số lượng, cao về chất lượng và hợp lý về cơ cấu.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng KHCN lần thứ tư đang phát triển
nhanh chóng, kỷ nguyên số hoá đang hình thành và tác động sâu sắc đến mọi
lĩnh vực của đời sống KT-XH, làm cho thế giới ngày càng gắn kết và phụ
thuộc lẫn nhau, đòi hỏi ĐNTT nói chung, ở Tây Nguyên nói riêng phải liên
kết chặt chẽ với nhau hơn, năng động, sáng tạo hơn trước sự thay đổi nhanh
chóng của thế giới, chỉ có như vậy mới đáp ứng được trước sự thay đổi này.
Tuy nhiên, thực tế ở Tây Nguyên cho thấy, mối liên hệ, gắn kết của
ĐNTT còn nhiều hạn chế. Trong khi đó vai trò của liên hiệp các hội khoa học,
kĩ thuật các tỉnh còn khá mờ nhạt. Khả năng tập hợp đoàn kết đội ngũ trí thức
còn yếu. Công tác kết nối giữa liên hiệp hội với các cơ quan, ban, ngành còn
bất cập. Do đó, hoạt động của trí thức nơi đây chủ yếu mang nặng tính cá
nhân, “độc lập tác chiến”, thiếu gắn kết chặt chẽ nhằm học hỏi, trao đổi nâng
cao trình độ và khả năng NCKH. Thế nên, vai trò của ĐNTT ở Tây Nguyên
chưa được thể hiện đầy đủ và ghi những dấu ấn vào quá trình phát triển của
vùng. Trong khi đó, trí thức “đầu đàn” có vai trò định hướng, dẫn dắt sự đi lên
của ĐNTT ở Tây Nguyên hiện nay hầu như không có.
Sự thiếu gắn kết còn thể hiện qua việc chưa có cơ chế phối hợp giữa
các cơ sở giáo dục đại học với các viện, trung tâm nghiên cứu trên địa bàn các
tỉnh Tây Nguyên. Việc này làm cho ĐNTT thiếu sự giao lưu, hợp tác cũng
như nhằm gắn kết giữa lý luận với thực tiễn, lý thuyết với thực hành trong
hoạt động NCKH. Một khi không có sự gắn kết hoặc gắn kết thiếu bền vững,
thì khó có thể phát huy được tối đa sức mạnh, sự cống hiến của trí thức đối
với sự phát triển.
106
Hơn nữa, không ít trí thức ở Tây Nguyên thụ động trong hoạt động
nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ, trông chờ ỷ lại vào Nhà nước mà
không tự mình chủ động vươn lên. Một số khác ngại học tập nâng cao trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị. Việc thụ động không chỉ làm
suy yếu chức năng của mình, mà còn dần làm thui chột các kiến thức đã được
tích luỹ, cũng như dễ bị sự phát triển của xã hội bỏ lại phía sau, từ đó đánh
mất vai trò của mình.
Kết quả khảo sát của tác giả luận án cho thấy có đến 58% số trí thức
được hỏi chưa bao giờ viết bài nghiên cứu cho các báo, tạp chí, hội thảo, đề
tài khoa học phần nào cho thấy không ít trí thức bằng lòng, yên phận, thiếu
tính chủ động, sáng tạo vươn lên tự khẳng định mình.
Thực tế trên đòi hỏi để tiếp tục phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên trong
thời gian tới tất yếu phải tập hợp, năng động hoá đội ngũ này. Đây không chỉ
là vấn đề cấp bách mà còn là cơ sở để thu hút trí thức, cũng như qua đó từng
bước góp phần phát hiện và xây dựng trí thức “đầu đàn”.
3.2.2. Sự chưa tương xứng trong nhận thức của hệ thống chính trị
và người dân về vị trí, vai trò đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên
Vị trí, vai trò của ĐNTT ngày càng quan trọng đối với sự ổn định, phát
triển bền vững của đất nước, trong đó có Tây Nguyên, nhất là trong bối cảnh
thế giới đang chuyển mình mạnh mẽ dưới sự tác động của cuộc cách mạng
KHCN lần thứ tư. Thế nhưng hiện nay, ở Tây Nguyên, không ít cấp uỷ đảng,
chính quyền và một số cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp vẫn chưa
nhận thức đầy đủ, tương xứng về vị trí, vai trò của trí thức. Cá biệt có trường
hợp xem thường, coi nhẹ họ. Từ nhận thức đó dẫn đến chưa tập hợp, thu hút
đầy đủ trí thức tham gia vào quá trình phát triển KT-XH, cũng như dẫn tới
bệnh hình thức trong việc ban hành, thực hiện các chủ trương, chính sách đối
với ĐNTT.
Không chỉ cán bộ, đảng viên mà nhận thức của một bộ phận người dân
đối với trí thức vẫn còn nhiều hạn chế, sai lệch. Một số người coi trí thức chỉ
là “mọt sách”, “phòng giấy”, “lý luận”,… mà chưa thấy được giá trị của
những công trình, sản phẩm sáng tạo của trí thức đối với sự phát triển. Bên
107
cạnh đó, nhận thức về vị trí, vai trò GDĐT của không ít cộng đồng xã hội,
nhất là cộng đồng DTTS ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều bất cập.
Nhận thức trên của người dân không phải không có căn nguyên, vì thực
tế thời gian qua, đầu tư của nhà nước và xã hội cho GDĐT và KHCN có
nhiều bước tiến, nhưng hiệu quả mang lại chưa cao. Nhiều đề tài bị lãng quên
hay không thể áp dụng vào thực tiễn cuộc sống do chất lượng thấp. Nhiều
sinh viên có trình độ, năng lực sau khi tốt nghiệp ra trường không thể tìm
kiếm được việc làm, dẫn tới những gánh nặng cho gia đình. Mặt khác, ĐNTT
ở Tây Nguyên còn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển KT-XH nơi đây (kết
quả khảo sát của tác giả luận án cho thấy 75,6% trí thức được hỏi thừa nhận
việc này),v.v… Thực tế đó đã dẫn tới hình thành những tư tưởng, định kiến
thiên lệch về vị trí, vai trò của ĐNTT nơi đây.
Không chỉ vậy, bên cạnh phần lớn trí thức đã, đang sống và làm việc
miệt mài, cống hiến cho sự đi lên của Tây Nguyên thì vẫn còn một bộ phận
chưa nhận thức đầy đủ, đúng mức về vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình đối
với Nhà nước, xã hội nên thiếu tinh thần hợp tác, gắn kết trong tập thể, dẫn
đến chất lượng NCKH thấp, chưa có được thành tựu mang tính đột phá. Một
bộ phận chưa có nhiều cơ hội tiếp cận thành tựu mới của KHCN hiện đại nên
thiếu kiến thức cập nhật, chuyên sâu trong lĩnh vực mình được đào tạo,
nghiên cứu. Mặt khác, trình độ ngoại ngữ, tin học hạn chế nên gặp nhiều khó
khăn trong việc mở rộng giao lưu và hợp tác, từ đó hình thành tâm lý tự ti,
mặc cảm. Một số khác chưa thực sự năng động trong cơ chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, chưa thoát khỏi tâm lý thụ động, trông chờ, ỷ lại
vào Nhà nước và tập thể, hoặc tự hài lòng với vốn kiến thức đã có mà không
tự giác phấn đấu, rèn luyện vươn lên để nắm bắt và làm chủ những tri thức
mới của thời đại.
Những bất cập trên cần được xem xét, giải quyết qua đó từng bước xoá bỏ
các rào cản về nhận thức, mở đường cho sự đi lên của ĐNTT ở Tây Nguyên.
3.2.3. Sự hạn chế, bất cập về số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ
trí thức ở Tây Nguyên và tình trạng “chảy máu chất xám”
Trước thực trạng nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng suy giảm, sự
biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng, đe doạ đến sự ổn định và phát triển
108
Tây Nguyên, thì việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ phát triển theo chiều rộng
hướng tới kết hợp phát triển chiều rộng với chiều sâu đã và đang trở thành
yêu cầu bức thiết đối với Tây Nguyên. Để đáp ứng được yêu cầu này, trước
hết cần phải xây dựng, hình thành một lực lượng nhân lực có trình độ cao,
trong đó bao gồm ĐNTT. Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ này ở Tây Nguyên vẫn
còn nhiều hạn chế cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu.
Sự hạn chế về số lượng trí thức đã gây ra nhiều khó khăn trong việc
phân bổ nguồn nhân lực chất lượng cao giữa các ngành, nghề, lĩnh vực, ảnh
hưởng đến việc tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Ngoài ra, số
lượng trí thức chưa đông cũng đã ảnh hưởng không tốt đến việc củng cố, nâng
cao vị thế, vai trò của mình trong xã hội.
Số lượng đã ít, số trí thức có trình độ tay nghề, chuyên môn cao, các
chuyên gia, nhà khoa học giỏi lại càng ít, từ đó dẫn tới những khó khăn trong
việc quy tụ ĐNTT, cũng như chưa tạo được đột phá trong phát triển đội ngũ
này ở Tây Nguyên.
Tây Nguyên là vùng có số lượng thành phần dân tộc đông nhất so với
các vùng khác trong cả nước, với 47/54 thành phần dân tộc, trong đó DTTS
chiếm 38%, nhưng số lượng trí thức DTTS chiếm tỉ lệ rất nhỏ. Số lượng ít đã
tác động tiêu cực đến sự ổn định và phát triển KT-XH nơi đây nói chung và ở
các khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào DTTS nói
riêng, làm gia tăng khoảng cách phát triển giữa các khu vực, các dân tộc. Về
lâu dài có nguy cơ xuất hiện thêm những bất ổn trong quan hệ dân cư, tộc
người nơi đây.
Số lượng ít, chất lượng ĐNTT thấp đã gây ra nhiều khó khăn trong việc
đưa các tiến bộ KHCN vào quá trình sản xuất, đời sống, ảnh hưởng không
nhỏ đến việc đẩy mạnh CNH, HĐH Tây Nguyên. Trong khi đó, nhiều vấn đề
nảy sinh trong quá trình phát triển KT-XH chưa có lời giải, chẳng hạn như:
Việc tập trung đất đai để mở rộng sản xuất với phương thức sản xuất lạc hậu;
Giữa phát triển nông nghiệp công nghệ cao với trình độ, nhận thức hạn chế
của người lao động; Giữa đòi hỏi cần có các giống cây trồng, vật nuôi có năng
suất cao, khả năng chống chịu hạn hán, sâu bệnh và phù hợp với khí hậu, thổ
109
nhưỡng Tây Nguyên với sự hạn chế, yếu kém trong hoạt động NCKH; Giữa
vấn đề bảo tồn và phát huy văn hoá các dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại,v.v...
Cơ cấu ĐNTT có sự mất cân đối khi quá ít trí thức làm việc trong các
đơn vị, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ngoài nhà nước. Trong khi đó, Tây
Nguyên đang rất cần những trí thức tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất,
kinh doanh để từng bước hình thành tầng lớp trí thức doanh nhân - một yếu
tố, động lực quan trong trong phát triển kinh tế, nhất là trong bối cảnh Tây
Nguyên cùng cả nước hội nhập ngày càng sâu rộng. Điều đó cho thấy, KT-
XH nơi đây còn chậm phát triển, nhận thức của các doanh nghiệp về vai trò
của KHCN đối với sản xuất, kinh doanh chưa đầy đủ, vì thế chưa có các chính
sách hấp dẫn để thu hút trí thức. Về lâu dài, nếu không được giải quyết thì các
sản phẩm hàng hoá sản xuất ra khó cạnh tranh và có chỗ đứng trên thị trường,
thậm chí thua ngay trên sân nhà. Thực tế này đã và đang diễn ra ở Tây
Nguyên, mà biểu hiện cụ thể là nhiều sản phẩm, hàng hoá của các doanh
nghiệp sản xuất trong vùng không thể cạnh tranh với các sản phẩm bên ngoài
do giá thành cao, bao bì, mẫu mã không bắt mắt, thiếu sáng tạo trong đổi mới
sản phẩm cũng như việc quảng bá, tiếp thị kém.
Mặt khác, sự thiếu gắn kết giữa nhà khoa học và doanh nghiệp dẫn tới
hiện tượng các phát minh sáng chế không biết ứng dụng vào đâu. Không ít
công trình nghiên cứu, phát minh, sáng chế sau khi nghiệm thu, hoàn thiện
cũng chỉ phục vụ mục đích duy nhất là bảo quản, lưu trữ. Do đó, nếu không
kịp thời tháo gỡ sẽ là một sự lãng phí chất xám.
Nhu cầu về nhân lực chất lượng cao là một đòi hỏi khách quan trong sự
đi lên của Tây Nguyên, vì càng phát triển thì nhu cầu về nguồn lực này càng
trở nên quan trọng và cấp thiết. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua cho thấy,
nhiều sinh viên có gia đình ở Tây Nguyên đi học tập, nghiên cứu ở các tỉnh,
thành phố khác và cả ở nước ngoài, sau khi học xong đã không quay trở về.
Một số khác trở về sau một thời gian cũng tìm cách đi khỏi Tây Nguyên.
Không ít trí thức sau một thời gian công tác ở Tây Nguyên, sau khi được đào
tạo bài bản, có năng lực và trình độ chuyên môn cao lại không muốn hoặc
không còn tâm huyết, gắn bó lâu dài với vùng đất này.
110
Trong khi đó, hầu hết học sinh, sinh viên ở các tỉnh Tây Nguyên tham
gia các kì thi quốc gia và đạt được nhiều giải thưởng, thành tích lại chưa được
chính quyền các tỉnh Tây Nguyên quan tâm đầu tư lâu dài để tạo nguồn trí
thức. Thực tế, sau khi đạt giải, địa phương có tổ chức tuyên dương, khen
thưởng nhưng sau đó sự quan tâm đối với các em hầu như không còn, phó
mặc các em cho gia đình tự xoay xở con đường học tập và tìm kiếm việc làm.
Mà lẽ ra, chính quyền cần có sự hỗ trợ, theo sát các em trong quá trình học
tập, rèn luyện, sau khi ra trường cần bố trí sắp xếp công việc nếu vẫn duy trì
thành tích học tập tốt. Vì vậy, có thể khẳng định đây là một sự lãng phí, thất
thoát lớn và là một hình thức của “chảy máu chất xám”.
Việc thu hút trí thức lên Tây Nguyên đã khó, việc giữ chân họ còn khó
hơn. Hệ quả là trí thức được nuôi dưỡng, trưởng thành ở miền núi nhưng chất
xám lại chảy về miền xuôi, từ đó tạo ra sự hụt hẫng nguồn nhân lực chất
lượng cao. Nếu không kịp thời khắc phục, nơi đây trở thành điểm “tạm trú”
của trí thức, và hệ quả lâu dài là Tây Nguyên từ “vùng đất hứa” trong thế kỷ
XX sẽ trở thành vùng đất cằn cỗi, thiếu vắng trí thức, nhân tài trong thế kỷ
XXI. Chảy máu chất xám không còn là nguy cơ mà là hiện thực đã, đang và
sẽ xảy ra ở Tây Nguyên.
3.2.4. Bất cập trong việc ban hành, thực thi chính sách phát triển
đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên
Các chủ trương, chính sách của cấp uỷ, chính quyền các tỉnh Tây
Nguyên về phát triển ĐNTT chủ yếu mới ban hành từ khoảng giữa năm 2008
đến nay, nhất là sau khi có Nghị quyết số 27 (khoá X) về xây dựng ĐNTT
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Việc ban hành muộn các chủ chương,
chính sách ảnh hưởng lớn đến sự phát triển ĐNTT nơi đây. Các chính sách
chưa theo kịp xu thế phát triển chung của xã hội dẫn đến tính khả thi và hiệu
quả thấp. Nhiều chính sách đến nay đã không còn phù hợp với thực tiễn, đang
dần trở thành rào cản đối với sự phát triển. Một số chính sách không còn phát
huy tác dụng khuyến khích, động viên trí thức có trình độ cao, những nhà
khoa học nâng cao trình độ hay tích cực, say mê NCKH.
Các chính sách đào tạo, bồi dưỡng trí thức về cơ bản đã được ban hành.
Tuy nhiên, nội dung còn chung chung, chưa đề cập cụ thể đến những đối tượng
111
cần được ưu tiên, dẫn tới tình trạng đào tạo, bồi dưỡng tràn lan, kém hiệu quả ở
một số cấp, ngành, đối tượng, cũng như xuất hiện cơ chế “xin - cho” trong công
tác đào tạo, bồi dưỡng. Bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách vẫn còn nhiều
rào cản do thiếu nguồn lực, cơ chế thực hiện, cũng như việc thiếu rõ ràng, minh
bạch trong phân định trách nhiệm của các cấp, các ngành. Một số chính sách
thiếu tính ổn định dẫn tới bất nhất trong quá trình thực thi.
Chính sách tuyển dụng, bố trí, sử dụng trí thức còn thiếu minh bạch,
công khai, dân chủ và bình đẳng, nhất là chính sách tuyển dụng, sắp xếp, bố
trí cán bộ. Thiếu tiêu chuẩn cụ thể trong tuyển dụng. Vì vậy, không ít trí thức
có năng lực, trình độ nhưng không được tuyển dụng, trọng dụng. Trong khi
đó, có người hạn chế về phẩm chất, năng lực nhưng được sắp xếp, bố trí giữ
các chức vụ quan trọng, dẫn tới những tâm tư, bức xúc và chán nản trong một
bộ phận trí thức.
Việc bố trí công việc vẫn chưa hợp lý. Hiện vẫn còn 14,9% trí thức
chưa được bố trí công việc phù hợp với chuyên môn nghiệp vụ của mình. Đây
là con số không lớn, nhất là trong bối cảnh nhiều sinh viên tốt nghiệp ra
trường đang thiếu việc làm, sẵn sàng làm việc bất chấp chuyên môn, chuyên
ngành, nhưng nếu so với số lượng trí thức ở Tây Nguyên thì cũng không phải
là nhỏ. Việc bố trí, sử dụng không đúng ngành, nghề đào tạo gây ra tình trạng
lãng phí chất xám ngay trong các cơ quan, đơn vị - nơi mà các trí thức cần
phải làm đúng chuyên môn, vì đây chính là các cơ quan lãnh đạo, quản lý và
hoạch định chính sách.
Chính sách thu hút trí thức thiếu tính khả thi, không đạt được mục tiêu
đề ra, do đó hầu như không thu hút được trí thức, chuyên gia, nhà khoa học có
trình độ cao về công tác. Việc này phần nào thể hiện sự yếu kém về năng lực
ban hành và thực thi chính sách. Chưa có cơ chế thoả đáng để vinh danh, tôn
vinh những đóng góp xứng đáng của ĐNTT.
Chế độ tiền lương, tiền thưởng, các chế độ đãi ngộ chưa khuyến khích
sự hăng say lao động, cống hiến của trí thức. Cơ chế, chính sách tạo điều kiện
và động lực cho trí thức tự phấn đấu học tập nâng cao trình độ chưa đáp ứng
được yêu cầu, mục tiêu đề ra. Theo kết quả khảo sát của tác giả luận án, mới
112
chỉ có 27,2% trí thức yên tâm công tác với mức thu nhập hiện có, còn lại
72,8% trí thức chưa yên tâm. Khi chưa yên tâm công tác, trí thức sẽ khó có
thể khơi dậy niềm đam mê khám phá, sáng tạo của mình và nếu không được
giải quyết, về lâu dài sẽ đánh mất ý chí, năng lực sáng tạo của trí thức.
Cơ sở vật chất phục vụ công việc, nghiên cứu khoa học của trí thức còn
những khó khăn nhất định. Thiếu thốn, lạc hậu về cơ sở vật chất, trang thiết
bị, máy móc, trí thức khó có môi trường, điều kiện tốt để phát huy khả năng,
năng lực nghiên cứu của mình. Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động nghiên
cứu của trí thức không thể tách rời sự hỗ trợ của trang thiết bị kĩ thuật, chính
vì vậy, việc đầu tư nâng cấp, trang bị mới là việc làm hết sức quan trọng cho
trí thức phát huy tối đa sự cống hiến của mình.
Các chính sách chưa thực sự tác động mạnh mẽ đến ĐNTT để có thể
đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, sử dụng và phát huy năng lực của đội ngũ này.
Cũng theo kết quả khảo sát, vẫn còn 5,9% trí thức không rõ các chính sách
đối với bản thân mình, điều này phần nào thể hiện sự thiếu trách nhiệm của
chính quyền trong việc tuyên truyền, phổ biến các chính sách đến với trí thức
cũng như sự thiếu nắm bắt kịp thời của trí thức đối với các chính sách.
Bên cạnh đó, liên hiệp các hội khoa học, kĩ thuật là tổ chức có chức
năng tập hợp, đoàn kết trí thức, là cầu nối giữa trí thức với Đảng và Nhà
nước, đại diện quyền lợi, lợi ích hợp pháp của trí thức. Thế nhưng, ở một số
tỉnh của Tây Nguyên vai trò của tổ chức này khá mờ nhạt, chưa làm tốt chức
năng của mình. Sự “vênh nhau” giữa chủ trương, nghị quyết với việc thể chế
hoá đã dẫn tới những bất cập trong tổ chức, hoạt động của hội. Nghị quyết 27-
NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương và Chỉ thị 42-CT/TW của Bộ Chính
trị thể hiện Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam là tổ chức chính
trị - xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Song tại Nghị định
45/2010/NĐ-CP, ngày 21/4/2010 "Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý
Hội" và tại Quyết định số 68/2010/QĐ-TTg, ngày 01/11/2010 của Thủ tướng
Chính phủ về việc "Quy định Hội có tính chất đặc thù" thì Liên hiệp các Hội
khoa học và kỹ thuật Việt Nam được xếp trong 28 Hội có tính chất đặc thù.
Bất cập này đã tạo ra nhiều khó khăn trong tổ chức, hoạt động của hội.
113
Tóm lại, qua phân tích, đánh giá một cách toàn diện thực trạng ĐNTT ở
Tây Nguyên thời gian qua có thể thấy rằng đội ngũ này dù có sự phát triển cả
về số lượng, chất lượng, cơ cấu qua từng năm, nhưng vẫn còn nhiều bất cập so
với các vùng, miền khác trong cả nước. Những bất cập trên đang đặt ra cho các
tỉnh Tây Nguyên nhiệm vụ cấp bách là phải đề ra được những giải pháp phù
hợp để xây dựng ĐNTT ngày càng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
CNH, HĐH.
Kết luận chương 3
Cùng với sự phát triển KT-XH, ĐNTT ở Tây Nguyên trong những năm
qua đã có nhiều bước phát triển. Số lượng trí thức ngày càng tăng và có mặt ở
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trình độ chuyên môn, lý luận chính
trị, ngoại ngữ, tin học và năng lực thực tiễn từng bước được nâng lên. Họ
tham gia ngày càng nhiều vào công tác tư vấn, phản biện và giám định xã hội,
đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH Tây Nguyên. Cơ cấu ĐNTT chuyển dịch phù
hợp hơn với sự thay đổi cơ cấu kinh tế của mỗi tỉnh và vùng.
Công tác phát triển ĐNTT được cấp uỷ, chính quyền và toàn xã hội
quan tâm, đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách cũng như tạo điều kiện, môi
trường cho đội ngũ này hoạt động ngày càng hiệu quả, đóng góp tích cực vào
sự phát triển của Tây Nguyên.
Tuy nhiên, so với yêu cầu CNH, HĐH và phát triển Tây Nguyên,
ĐNTT nơi đây vẫn còn nhiều hạn chế. Số lượng mặc dù tăng nhanh nhưng
vẫn còn ít so với mặt bằng chung của cả nước và trong cơ cấu lực lượng lao
động của vùng. Chất lượng chưa tương xứng với sự gia tăng về số lượng. Cơ
cấu ĐNTT còn nhiều hạn chế và bất cập. Cơ chế, chính sách phát triển ĐNTT
được ban hành nhiều nhưng thiếu nhất quán, đồng bộ, toàn diện, ổn định và
lâu dài; hiệu quả thấp, chưa thực sự làm cho trí thức yên tâm công tác và cống
hiến. Những thành tựu và hạn chế trên có nhiều nguyên nhân, cả khách quan
và chủ quan, song chủ quan là chính. Trong quá trình phát triển ĐNTT ở Tây
Nguyên đã xuất hiện nhiều bất cập, tạo ra những rào cản tác động tiêu cực đến
quá trình phát triển đội ngũ này. Do vậy, việc đề ra quan điểm, xây dựng giải
pháp nhằm giải quyết những bất cập trên là yêu cầu tất yếu, khách quan nhằm
đáp ứng ngày càng tốt hơn sự vận động đi lên của ĐNTT ở Tây Nguyên.
114
Chương 4
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TIẾP TỤC
PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY
4.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY
Trên cơ sở lý luận và thực trạng phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên, trong
thời gian tới để tiếp tục phát triển đội ngũ này cần nhận thức đầy đủ những
quan điểm cơ bản sau:
4.1.1. Phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên phải gắn bó chặt
chẽ với tiến trình xây dựng đội ngũ trí thức của cả nước, nằm trong chiến
lược phát triển nguồn nhân lực của quốc gia, đồng thời tính đầy đủ các
đặc thù của vùng
Đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên là một bộ phận hữu cơ cấu thành nguồn
nhân lực và ĐNTT Việt Nam. Do đó, phát triển đội ngũ này không thể tách
rời với sự phát triển ĐNTT của đất nước và chiến lược phát triển nguồn nhân
lực của quốc gia.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 (khoá X) của Ban chấp hành Trung ương
Đảng về xây dựng ĐNTT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước khẳng
định mục tiêu:
Ðến năm 2020, xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, đạt chất lượng
cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các
nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Gắn bó vững chắc giữa
Ðảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Ðảng và Nhà nước,
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh
công - nông - trí [4039].
Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt ngày 18/4/2011 đề ra mục tiêu đến năm 2020 là:
115
Đưa nhân lực Việt Nam trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng
nhất để phát triển bền vững đất nước, hội nhập quốc tế và ổn định
xã hội, nâng cao trình độ năng lực cạnh tranh của nhân lực nước ta
lên mức tương đương các nước tiên tiến trong khu vực, trong đó
một số mặt tiếp cận trình độ các nước phát triển trên thế giới [88].
Đồng thời xác định mục tiêu cụ thể cần đạt được là:
Nhân lực Việt Nam có thể lực tốt, tầm vóc cường tráng, phát triển
toàn diện về trí tuệ, ý chí, năng lực và đạo đức, có năng lực tự học,
tự đào tạo, năng động, chủ động, tự lực, sáng tạo, có tri thức và kỹ
năng nghề nghiệp cao, có năng lực thích ứng và nhanh chóng tạo
được thế chủ động trong môi trường sống và làm việc [88].
Để đạt được mục tiêu trên, Chiến lược nêu lên các quan điểm chỉ đạo
thực hiện là: Thứ nhất, phát triển nhân lực trên cơ sở Chiến lược phát triển
KT-XH; Thứ hai, phát triển nhân lực phải dựa trên nhu cầu nhân lực của các
ngành, các địa phương; Thứ ba, phát triển nhân lực toàn diện, gồm những yếu
tố thể lực, tri thức, kỹ năng, hành vi và ý thức chính trị, xã hội theo yêu cầu
phát triển toàn diện con người và phát triển đất nước bền vững; Thứ tư, phát
triển nhân lực phải bảo đảm tính thời đại; Thứ năm, phát triển nhân lực phải
kết hợp hài hoà đảm bảo công bằng và lợi ích quốc gia với sử dụng cơ chế và
những công cụ của kinh tế thị trường trong phát triển và sử dụng nhân lực;
Thứ sáu, phát triển nhân lực là sự nghiệp, trách nhiệm của toàn xã hội; Thứ
bảy, tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế để phát triển nhân lực.
Đối với vùng Tây Nguyên, trong Quy hoạch phát triển nhân lực Việt
Nam giai đoạn 2011-2020, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày
22/7/2011 khẳng định:
Đến năm 2020, tổng số nhân lực làm việc trong nền kinh tế của
vùng khoảng 3,6 triệu người; tốc độ tăng nhân lực qua đào tạo bình
quân hàng năm thời kỳ 2016 - 2020 khoảng 5,5%/năm, đạt khoảng
116
1,8 triệu người (tăng 400 nghìn người so với năm 2015) và chiếm
khoảng 50,0% tổng nhân lực làm việc trong nền kinh tế. Tổng số
nhân lực qua đào tạo khu vực nông, lâm, ngư nghiệp năm 2020
khoảng 780 ngàn, khu vực công nghiệp và xây dựng khoảng 520
nghìn người và khu vực dịch vụ khoảng 452 nghìn người [88; 89].
Phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên phải bám sát các mục tiêu trên. Việc
này không chỉ đảm bảo định hướng trong quá trình phát triển, mà còn tạo ra
sự gắn kết, hỗ trợ qua lại giữa ĐNTT ở Tây Nguyên với các vùng, miền khác
trong cả nước, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
So với nhiều vùng, miền khác trong cả nước, Tây Nguyên có nhiều thế
mạnh về thủy điện, khai thác khoáng sản, chế biến nông, lâm sản, năng lượng
điện gió. Chính vì vậy, phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên trước hết cần phải
hình thành những chuyên gia, nhà khoa học phục vụ cho việc khai thác các lợi
thế đó, lấy việc này làm khâu đột phá, từ đó tạo nền tảng, cơ sở cho phát triển
toàn diện ĐNTT.
4.1.2. Đầu tư cho đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên là đầu tư cho sự
phát triển nhanh và bền vững của vùng
Tổng kết lịch sử phát triển của dân tộc và kinh nghiệm của thế giới,
cũng như qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhất
là qua hơn 20 năm đổi mới, Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X) của Đảng đã
khẳng định “Ðầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền
vững” [40].
Nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực trình độ cao là yếu tố quyết định
đến sự phát triển. Thực tế lịch sử phát triển cho thấy, nhiều nước trên thế giới
nguồn lực tự nhiên khan hiếm, khó khăn nhưng là nước có tốc độ phát triển
nhanh và bền vững, trở thành những nước công nghiệp hàng đầu của thế giới.
Ngược lại, không ít nước có điều kiện, nguồn lực tự nhiên thuận lợi và dồi
dào nhưng trình độ phát triển thấp. Kinh nghiệm rút ra ở đây chính là việc
117
phát huy nhân tố con người. Những nước chỉ chú trọng tập trung khai thác
những tiềm năng, thế mạnh tự nhiên mà thiếu sự quan tâm đầy đủ đến yếu tố
con người tất yếu dẫn đến sự thất bại trong mô hình phát triển. Ngược lại, các
quốc gia đặt con người vào vị trí trung tâm, lấy việc phát huy nguồn lực con
người làm yếu tố chủ yếu của sự phát triển thì đạt được nhiều thành tựu to
lớn, tốc độ phát triển nhanh.
Tây Nguyên là vùng đất có nhiều tiềm năng cho sự phát triển, nhất là
tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên mà Đảng đã nhấn mạnh:
Tây Nguyên là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế -
xã hội và quốc phòng, an ninh của cả nước; là vùng giàu tiềm năng
và lợi thế để phát triển kinh tế - xã hội. Đồng bào các dân tộc Tây
Nguyên có truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường; có văn
hoá dân tộc vừa đa dạng, phong phú, vừa có nhiều nét đặc thù [2].
Tuy thế “thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh
của vùng; phát triển kinh tế còn mang tính tự phát, chưa theo quy hoạch, kế
hoạch nên chưa ổn định, vững chắc” [2]. Thực tế đó đòi hỏi phải có cách nhìn
mới trong việc phát triển vùng đất này.
Sự phát triển nói chung và Tây Nguyên nói riêng phụ thuộc vào 5 yếu
tố cơ bản là: Vốn, KHCN, tài nguyên thiên nhiên, trình độ quản lý và nguồn
lực con người. Trong đó, nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất vì các
nguồn lực khác do con người tạo ra hoặc thông qua con người mới phát huy
tác dụng. Đồng thời, nhiều nguồn lực càng khai thác càng cạn kiệt, ngược lại
nguồn lực trí tuệ con người càng khai thác càng phát triển.
Trong bối cảnh Tây Nguyên hiện nay, tài nguyên thiên nhiên càng ngày
càng suy giảm; môi trường tự nhiên bị ô nhiễm; nguồn vốn đầu tư ít, hiệu quả
chưa cao; trình độ KHCN cũng như quản lý còn thấp kém thì phát huy nguồn
lực con người là giải pháp đột phá, mang tính chiến lược lâu dài và cũng là
cấp bách hiện nay. Phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh hội nhập quốc tế
118
ngày càng sâu và trong điều kiện KTTT đã thành xu thế chủ đạo, nhưng
không phải là phát triển nguồn nhân lực chung chung mà chính là nguồn nhân
lực chất lượng cao hay là nguồn chất xám, trí tuệ. Nguồn lực này chủ yếu
được hình thành thông qua việc xây dựng và phát triển ĐNTT. Chính vì vậy,
đầu tư cho ĐNTT chính là đầu tư cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Phát triển nhanh vừa là mục tiêu vừa là đòi hỏi ở Tây Nguyên hiện nay,
nhất là trong bối cảnh vẫn còn một khoảng cách khá lớn trong sự phát triển
của Tây Nguyên so với cả nước. Khoảng cách này không thể rút ngắn, thậm
chí có nguy cơ dãn ra nếu tốc độ phát triển của Tây Nguyên không được duy
trì và gia tăng liên tục. Vấn đề này chỉ được giải quyết khi và chỉ khi đặt con
người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, nói cách khác đầu tư cho con
người là đầu tư cho sự phát triển.
Phát triển bền vững là điểm hội tụ của sự phát triển kinh tế, phát triển
xã hội và bảo vệ môi trường, đây cũng chính là đòi hỏi bức thiết của Tây
Nguyên hiện nay. Nhất là trong bối cảnh trình độ phát triển kinh tế của Tây
Nguyên còn nhiều hạn chế và bất cập: Tốc độ phát triển nhanh nhưng thiếu ổn
định và bền vững, sự phát triển chủ yếu diễn ra theo chiều rộng, thiếu chiều
sâu; Nhiều vấn đề xã hội bức xúc ảnh hưởng, đe doạ trực tiếp tới sự ổn định
và phát triển như đói nghèo, phân hoá thu nhập, mức sống; vấn đề di dân tự
do, nạn chặt phá rừng, môi trường tự nhiên bị tàn phá ảnh hưởng đến sinh kế
của nhiều cộng đồng dân tộc, đặc biệt là cộng đồng DTTS tại chỗ,v.v… Vì
vậy, phát triển bền vững là một xu hướng, đòi hỏi tất yếu của Tây Nguyên.
Muốn vậy, cả về trước mắt và lâu dài phải đầu tư cho chiến lược con người,
trong đó nhấn mạnh yếu tố tri thức trong sự phát triển.
Mục tiêu phát triển Tây Nguyên đến năm 2020 đã được khẳng định:
Phát triển ổn định và bền vững trên cơ sở tổ chức không gian các
hoạt động kinh tế, xã hội phù hợp; xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng
đạt mức trung bình so với cả nước, tạo chuyển biến căn bản về phát
119
triển toàn diện kinh tế - xã hội; từng bước đưa Tây Nguyên trở
thành vùng động lực phát triển kinh tế của cả nước; không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo vệ môi
trường sinh thái; bảo đảm quốc phòng an ninh [90].
Để đạt được mục tiêu trên, trước hết và về lâu dài cần phải đầu tư cho
sự phát triển ĐNTT để thông qua đó đưa Tây Nguyên phát triển nhanh và bền
vững, cùng cả nước hội nhập thành công.
4.1.3. Phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên phải gắn với yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và bảo đảm quốc phòng, an ninh
Đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên thời gian qua đã có những bước phát
triển và đóng góp nhiều cho sự đi lên của vùng đất này. Song do sự hạn chế,
bất cập về số lượng, chất lượng và cơ cấu cũng như việc ban hành, thực hiện
chính sách nên sự phát triển vẫn chưa tương xứng, chưa đáp ứng được yêu
cầu, đòi hỏi của sự phát triển Tây Nguyên hiện nay, nhất là trong việc đẩy
nhanh tốc độ phát triển, nâng cao đời sống nhân dân và bảo vệ môi trường.
Quyết định 276 của Thủ tướng Chính phủ xác định mục tiêu cụ thể phát
triển Tây Nguyên đến năm 2020 là: Thu nhập bình quân đầu người đạt
khoảng 46 triệu đồng; tỷ trọng nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trong cơ
cấu kinh tế là 34,7%, 35% và 30,3%; tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thời kỳ
2016 - 2020 khoảng 15,5%/năm; giảm tỉ lệ hộ nghèo bình quân 2,5 -
3,5%/năm; nâng tỉ lệ che phủ rừng trên 59% vào năm 2020 [90; 92]; sử dụng
hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học; tăng cường giáo dục,
nâng cao nhận thức cho người dân về bảo vệ môi trường. Giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, tăng cường đoàn kết các dân tộc, củng cố quốc
phòng an ninh. Phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên phải bám sát mục tiêu đó.
Sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên mà nhất là đất đai - với 1,8 triệu
ha đất đỏ bazan, được coi là "báu vật" của thiên nhiên, xếp đầu danh mục các
120
loại đất canh tác trên thế giới, cùng với 91.000 ha đất phù sa màu mỡ ven các
sông, suối... đòi hỏi những kỹ sư, chuyên gia thổ nhưỡng, trồng trọt không chỉ
có trình độ lý thuyết khoa học rộng và sâu mà còn phải có nhiều kinh nghiệm
thực tế và tay nghề cao tích lũy từ thực tiễn sản xuất ở Tây Nguyên, dưới sự
dìu dắt của những nhà khoa học - chuyên gia đầu tàu (giống như giáo sư -
chuyên gia Lương Định Của - miệng nói tay làm - của đồng bằng Bắc Bộ
trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, hoặc như giáo sư bậc thầy Võ Tòng
Xuân của đồng bằng sông Cửu Long hiện nay).
Cũng như vậy, để khai thác tối ưu hiệu quả của 53.000 ha đồng cỏ tự
nhiên cần có nhiều kỹ sư, chuyên gia về chăn nuôi gia súc và đi kèm đó là
một số cơ sở công nghiệp chế biến với những kỹ sư chuyên gia giỏi về
chuyên môn, nhạy bén về thị trường để tạo ra những sản phẩm có giá trị cao
đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước.
Việc khôi phục, tái sinh các cánh rừng đại ngàn có nhiều gỗ quý ở Tây
Nguyên mặc dù đã được đầu tư không ít công sức, tiền của nhưng hiệu quả
còn thấp, tốc độ chuyển biến chậm, thậm chí có chiều xấu đi... do nhiều
nguyên nhân, nhưng có lẽ nguyên nhân quan trọng nhất là còn thiếu những kỹ
sư, chuyên gia giỏi về trồng rừng (lâm sinh) và sự kết hợp chặt chẽ của họ với
lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng (kiểm lâm).
Tây Nguyên là tiểu vùng khí hậu đặc thù ở nước ta với hai mùa rõ rệt
là mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa nước từ các ngọn núi cao đổ xuống ào
ạt gây nên những trận lũ dữ dội, cuốn cầu cống, phá nát mùa màng, nhà
cửa, kho bãi, công trình (nhất là những công trình đang xây dở). Mùa khô
thiếu nước nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sản xuất và cuộc sống của người
dân, đe dọa sự tồn tại của các loại vật nuôi và cây trồng. Một trong những
vấn đề khó khăn nhất cho sinh hoạt của con người và cho phát triển kinh tế
của Tây Nguyên là vấn đề dự trữ nước trong mùa khô và tiêu nước, chống
úng lụt trong mùa mưa. "Tích thủy" và "trị thủy" là công việc của tất cả
121
mọi người, nhưng trước hết đặt gánh nặng lên vai các kỹ sư, chuyên gia về
thủy lợi, thủy điện.
Trong lĩnh vực phát triển giáo dục, bên cạnh những nét phổ biến giống
như nhiều vùng khác trong cả nước, Tây Nguyên cũng có những nét đặc thù
riêng, một trong số đó là bộ phận học sinh con em dân tộc đa số, con em các
DTTS học tiếng phổ thông và học bằng tiếng phổ thông. Do đó, ĐNTT, nhất
là bộ phận trí thức làm công tác giáo dục cần biết tiếng dân tộc, ít nhất là
tiếng của dân tộc được sử dụng phổ biến nhất (sau tiếng phổ thông) ở Tây
Nguyên như tiếng Gia Rai, Êđê, M’nông… (Giống như ở các tỉnh thuộc vùng
Tây Bắc - Sơn La, Điện Biên, Lai Châu - đó là tiếng Thái).
Cộng đồng các DTTS ở đây còn chậm phát triển hơn về học vấn, dân
trí và do đó tỉ lệ trí thức cũng thấp hơn so với dân tộc đa số ở đây. Song có nét
đặc biệt là không ít già làng đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong sản
xuất, trong tổ chức đời sống gia đình và cộng đồng buôn, làng... do đó được
nhân dân tín nhiệm, tôn vinh như người đại diện của mình về trí tuệ. Trong
thực tế nhiều già làng đã làm chức năng của trí thức, phát huy vai trò của trí
thức trong phạm vi buôn, làng hay rộng hơn là trong phạm vi xã. Do đó, cần
xây dựng tiêu chí để bồi dưỡng, công nhận và phát huy vai trò trí thức tại chỗ
của những người này.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang diễn ra nhanh chóng trên khắp cả
nước, trong đó có Tây Nguyên và tác động đến tất cả các lĩnh vực, thành phần
xã hội. Đối với ĐNTT, quá trình này góp phần quan trọng trong việc nâng cao
số lượng, hoàn thiện về chất lượng và hợp lý về cơ cấu. Chính vì vậy, để đảm
bảo định hướng phát triển đội ngũ này cần phải gắn kết chặt chẽ với quá trình
CNH, HĐH đang diễn ra ở Tây Nguyên. Vì CNH, HĐH không chỉ dẫn đến sự
đòi hỏi ngày càng cao của phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản
xuất đưa đến hình thành các ngành kinh tế mũi nhọn, mà còn tạo ra cơ sở vật
chất, môi trường và điều kiện cho sự phát triển ĐNTT. Mặt khác, khi ĐNTT
phát triển sẽ thúc đẩy CNH, HĐH đạt tới những tầm cao mới.
122
Tây Nguyên là địa bàn quan trọng về quốc phòng và rất nhạy cảm về an
ninh không chỉ vì vị trí ngã ba Đông Dương của vùng này mà còn vì đây là
một trong những địa bàn trọng điểm mà các thế lực chống đối, phản động
trong nước và nước ngoài thường lợi dụng những sơ hở trong chính sách,
những thiếu sót trong thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo của Đảng và
Nhà nước rồi bơm to, thổi phồng, xuyên tạc; đồng thời chúng còn lợi dụng
những sự cố trong lịch sử, những xích mích khó tránh khỏi trong mối quan hệ
giữa các dân tộc, nhất là trong mối quan hệ giữa các DTTS tại chỗ và dân tộc
Kinh... từ đó lôi kéo, mua chuộc những người lạc hậu, bất mãn, có tiền án,
tiền sự... để tiêm nhiễm vào họ tư tưởng chống đối, phá hoại và ly khai nhằm
gây mất ổn định an ninh, chính trị của vùng. Do đó, mỗi trí thức (hoặc những
người có triển vọng trở thành trí thức ở Tây Nguyên) cần được bồi dưỡng có
hệ thống về lịch sử hình thành, truyền thống đoàn kết chống ngoại xâm, tương
thân, tương ái giữa các dân tộc ở Tây Nguyên để từ đó có đủ bản lĩnh xử lý
những vấn đề nảy sinh trong mối quan hệ giữa các dân tộc liên quan đến
phạm vi công tác của mình.
Tóm lại, chỉ xuất phát từ yêu cầu phát triển KT-XH, CNH, HĐH và
đảm bảo quốc phòng, an ninh Tây Nguyên mới có thể xác định chính xác nội
dung, triển vọng, giải pháp, lộ trình của quá trình phát triển ĐNTT nơi đây.
Quá trình ấy thể hiện những nét phổ biến giống như sự phát triển ĐNTT ở các
vùng khác trong cả nước, đồng thời mang những nét đặc thù do những điều
kiện riêng của Tây Nguyên quy định.
4.1.4. Phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên cần có các giải pháp
toàn diện, đồng bộ, nhưng có trọng tâm, trọng điểm
Phát triển ĐNTT là quá trình gia tăng về số lượng, nâng cao chất lượng
và hài hoà về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH Tây Nguyên. Vì vậy, trong quá trình phát triển cần:
Có giải pháp toàn diện trong phát triển ĐNTT, trong đó cần tiếp tục đẩy
mạnh GDĐT, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng DTTS; tập trung đầu tư cơ sở
123
vật chất, kỹ thuật và đội ngũ cán bộ, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên
và Đại học Đà Lạt. Đẩy mạnh giao lưu hợp tác về GDĐT và KHCN với các
tỉnh, thành trong cả nước và một số cơ sở GDĐT và KHCN của nước ngoài.
Tăng cường áp dụng KHCN vào sản xuất, NCKH và đời sống; đầu tư cho các
viện nghiên cứu. Gia tăng tốc độ phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi
trường, góp phần nâng cao đời sống và nhận thức của người dân; nâng cao
nhận thức của cấp uỷ, chính quyền và mỗi người dân về vai trò của GDĐT
đối với sự phát triển nguồn nhân lực và phát triển KT-XH. Củng cố, bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc ở Tây Nguyên đi
đôi với tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại.
Nâng cao tính đồng bộ trong phát triển ĐNTT về cơ cấu giới tính,
thành phần dân tộc, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, ngoại
ngữ, tin học, cũng như sự phân bố các ngành, lĩnh vực, cơ quan, đơn vị. Rà
soát và hoàn thiện các chính sách đối với đội ngũ này. Tăng cường sự phối
hợp giữa các cơ quan, đơn vị, ban, ngành trong việc thực hiện chính sách đối
với ĐNTT. Nghiên cứu, xem xét hình thành bộ phận quản lý và phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ở mỗi tỉnh.
Chú trọng phát triển ĐNTT trong lĩnh vực GDĐT, KHCN và lãnh đạo,
quản lý gắn với việc đẩy mạnh áp dụng KHCN. Từng bước hình thành một số
nhóm trí thức đầu ngành ở một số lĩnh vực quan trọng trong một số ngành,
lĩnh vực như GDĐT và nông, lâm nghiệp. Xây dựng, ban hành chính sách để
thu hút trí thức vào một số lĩnh vực quan trọng của mỗi tỉnh, tạo nhân tố đột
phá trong phát triển KT-XH.
4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY
Xuất phát từ thực trạng và những vấn đề đặt ra, để tiếp tục phát triển
ĐNTT ở Tây Nguyên thời gian tới cần thực hiện đồng bộ các giải pháp chủ
yếu sau:
124
4.2.1. Tập hợp và năng động hoá đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên
Tập hợp trí thức là việc liên kết trí thức lại với nhau nhằm hình thành
khối thống nhất qua đó tạo thành sức mạnh nhằm phát triển hơn nữa đội ngũ
này cũng như phát huy vai trò của họ đối với sự phát triển Tây Nguyên.
Năng động hoá ĐNTT ở Tây Nguyên là thúc đẩy hành động một cách
tích cực, chủ động, tự giác và sáng tạo vào các hoạt động, qua đó phát huy tối
đa sự đóng góp của họ đối với sự phát triển.
Để tập hợp và năng động hoá ĐNTT ở Tây Nguyên cần:
Thứ nhất, những trí thức hiện có đang công tác ở các ngành, cơ quan,
đơn vị trong hệ thống chính trị và các viện nghiên cứu, trường đại học cần
được bố trí đúng ngành nghề chuyên môn, sở trường, giảm thiểu đến mức
thấp nhất hiện tượng trái tay nghề gây lãng phí rất lớn cho công tác đào tạo và
làm giảm hiệu quả công việc. Số đã có bằng cấp xác nhận về trình độ học vấn
thì tạo cho họ có công trình nghiên cứu đạt kết quả tốt, được xác nhận chính
thức bởi các hội đồng thẩm định gồm các nhà khoa học có uy tín do tỉnh
thành lập để chứng tỏ khả năng nghiên cứu độc lập, sáng tạo của họ và được
gia nhập vào ĐNTT, kèm theo những khuyến khích về lợi ích vật chất và tinh
thần do tỉnh quy định.
Cố gắng chọn trong bộ phận này những người xuất sắc nhất, có triển
vọng nhất để đào tạo, bồi dưỡng thành những trí thức “đầu đàn” (đầu ngành),
làm trụ cột, quy tụ và định hướng hoạt động của các nhóm trí thức trong các
lĩnh vực chuyên môn. Trong lĩnh vực hoạt động của trí thức thì vai trò của
“đầu đàn” rất lớn, họ là những người “trội” hơn số đông về học vấn, nhiệt tình
ứng dụng khoa học, kinh nghiệm công tác và kinh nghiệm sống… được anh,
chị em trí thức tín nhiệm, yêu mến và tôn vinh như nghệ sĩ Linh Nga Niê
Kđăm, Giáo sư Đặng Tuấn Đạt….
Trí thức “đầu đàn” có vai trò hết sức quan trọng trong nghiên cứu khoa
học, giống như “thủ lĩnh” trong các lĩnh vực khác. Bộ phận này có vai trò quy
125
tụ, định hướng và dẫn dắt các bộ phận còn lại tạo thành sức mạnh tổng hợp
trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của trí thức. Mặc dù, hoạt động
của trí thức mang đậm dấu ấn của mỗi cá nhân, nhưng trong thời đại KHCN
và KTTT đang phát triển nhanh thì việc liên kết các trí thức lại với nhau có
vai trò quan trọng trong việc phát huy tiềm năng, trí tuệ của mỗi người, qua
đó nhân thêm sức mạnh.
Đến nay ở Tây Nguyên vẫn chưa có nhiều trí thức “đầu đàn” trong hầu
hết các ngành, lĩnh vực. Điều này xảy ra không chỉ với trí thức DTTS mà
ngay cả với trí thức người Kinh. Từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến việc quy tụ,
dẫn dắt, định hướng đi lên lâu dài của ĐNTT ở đây.
Việc chưa có trí thức “đầu đàn” dẫn tới hoạt động của ĐNTT nơi đây
bộc lộ những hạn chế, như sự thiếu liên kết, hợp tác, giao lưu của trí thức;
mức độ ảnh hưởng, tác động của trí thức đối với quá trình hoạch định đường
lối, chủ trương, chính sách và đối với sự phát triển thiếu cả chiều rộng lẫn
chiều sâu. Thiếu cầu nối gắn kết giữa nhà khoa học với nhà nước và nhà
doanh nghiệp.
Chính vì vậy, trước mắt tập hợp những trí thức có trình độ tiến sĩ thuộc
các chuyên ngành hiện có, giao cho họ thực hiện một số đề tài liên quan đến
những vấn đề quan trọng trong phát triển KT-XH của tỉnh, ngành. Thông qua
hoạt động này góp phần nâng cao năng lực và giao lưu, học hỏi của họ, từ đó
phát hiện những trí thức nổi trội để đào tạo, bồi dưỡng thành “đầu đàn”.
Không có trí thức “đầu đàn” làm nòng cốt để quy tụ thì trí thức khó liên
kết được với nhau, bởi đặc trưng hoạt động nghề nghiệp của họ mang tính cá
nhân. Nếu không có sự hướng dẫn, lôi kéo của trí thức “đầu đàn” thì hoạt
động của trí thức thiếu nhân tố đột phá để vươn tới những đỉnh cao mới. Mà
nếu trí thức không vươn tới đỉnh cao mới - tức là không sáng tạo, thì không
còn là trí thức nữa.
Thứ hai, quan tâm đến đông đảo sinh viên mới tốt nghiệp đại học ra
trường đã có việc làm và sinh viên đã tốt nghiệp đại học ra trường nhưng
126
chưa có việc làm đang khát khao tìm được việc làm (đến cuối năm 2014, đã
có 15.000 sinh viên tốt nghiệp đại học có sổ hộ khẩu tại Tây nguyên nhưng
chưa có việc làm) [5]. Đấy là đội “dự bị” trực tiếp để bổ sung vào ĐNTT ở
Tây Nguyên. Các tỉnh cần lập danh sách đầy đủ, phân thành các nhóm theo
chuyên ngành khoa học, cử các nhóm trưởng là những người có thành tích
học tập tốt nhất, được xếp hạng cao trong các kỳ thi tốt nghiệp và tỉnh nên tài
trợ kinh phí để các nhóm này sinh hoạt định kỳ. Liên hiệp các hội khoa học và
kỹ thuật tỉnh đứng ra làm môi giới để các nhóm đó tự liên hệ với các ngành,
đơn vị, doanh nghiệp, các huyện, nhất là các vùng có cây ăn quả, cây công
nghiệp, cây dược liệu, vùng chăn nuôi, trồng rừng… có nhu cầu nghiên cứu,
ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất để kí hợp đồng nghiên
cứu về các đề tài ứng dụng khoa học.
Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh gợi ý các đề tài nghiên cứu,
cách thức tổ chức, quản lý và nên có sự hỗ trợ về tài chính cho việc triển khai
các đề tài, lập các hội đồng thẩm định đánh giá chất lượng các công trình
nghiên cứu và đề nghị tỉnh xác nhận chính thức cho các tập thể và thành viên
tham gia nghiên cứu đề tài. Những thành viên có thành tích tốt, tỉnh nên sắp
xếp ngay công việc theo tinh thần dùng đúng người, đặt đúng chỗ. Được như
vậy, tuyệt đại bộ phận những sinh viên đã tốt nghiệp đang chờ kết quả xin
việc sẽ không ai muốn là người chậm chân để mất cơ hội đang trong tầm tay.
Cũng có thể tin rằng, cách làm này hứa hẹn cho Tây Nguyên một ĐNTT
tương đối đông đảo, có cả năng lực trí tuệ và thực tiễn, đồng thời cũng tạo nên
một xu hướng, một phong trào trong lớp trẻ đã có vốn học thức phấn đấu để
được công nhận là trí thức.
Thứ ba, các thế hệ học sinh trung học của các tỉnh Tây Nguyên cũng
nên được nhìn nhận như là “dự bị tuyến hai” của ĐNTT. Bởi vì chiến lược
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 thì thế hệ này là “nhân vật chính”, là
đối tượng chính của sự phát triển ĐNTT. Hiện nay thế hệ này đang được sự
127
quản lý, giáo dục của nhà trường và được “hưởng lợi” từ sự đầu tư lớn của
Nhà nước cho quốc sách giáo dục. Tuy thế, ở góc độ phát triển ĐNTT, Liên
hiệp các hội khoa học và kỹ thuật của các tỉnh cũng nên thông qua ngành giáo
dục theo dõi quá trình học tập của các em, có hình thức khuyến khích các em
học giỏi, bộc lộ năng khiếu (dù năng khiếu chưa hẳn đã thành nhân tài, nhưng
đó là dấu hiệu đầu tiên hứa hẹn sự xuất hiện của nhân tài). Hướng dẫn,
khuyến khích các em nhưng tránh tạo nên những áp lực ảnh hưởng đến thiên
hướng bẩm sinh và quá trình phát triển tự nhiên của các em.
Thứ tư, chú trọng tạo nguồn trí thức con em các DTTS đang sinh
sống trên địa bàn Tây Nguyên. Xây dựng chỉ tiêu tuyển sinh cho từng địa
bàn phù hợp với quy hoạch cán bộ DTTS, đồng thời, các địa phương xây
dựng quy hoạch cán bộ DTTS thật cụ thể để có định hướng phân luồng cho
phù hợp.
Trong quá trình đào tạo bậc trung học phổ thông, tiếp tục phân luồng:
Đối với học sinh xuất sắc, giỏi cần bồi dưỡng để có đủ năng lực thi thẳng vào
các trường đại học hoặc chuyển sang dự bị đại học. Sau khi tốt nghiệp, tỉnh,
huyện bố trí, sử dụng vào các công việc thích hợp với sở trường, chuyên môn.
Qua quá trình công tác thấy có triển vọng phải chú ý bồi dưỡng để kết nạp
Đảng, tiếp tục cử đi đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý
nhà nước nhằm sử dụng lâu dài tại địa phương.
Thứ năm, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên chủ động tổ chức, chủ trì hội nghị
phối hợp công tác giữa trường đại học với viện nghiên cứu, doanh nghiệp
đóng trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, qua đó tạo sự liên kết với nhau.
Thông qua hội nghị, các bên kí kết biên bản ghi nhớ và xây dựng quy chế
phối hợp hoạt động. Trong đó, hàng năm các trường đại học đưa giảng viên,
sinh viên đến viện nghiên cứu, doanh nghiệp để nghiên cứu, thực tập; các
viện cử người của mình tham gia giảng dạy tại trường đại học; các doanh
nghiệp tham gia tập huấn về ứng dụng KHCN vào sản xuất, kinh doanh do
128
các trường, viện nghiên cứu tổ chức. Chẳng hạn: Đại học Đà Lạt, Đại học Tây
Nguyên phối hợp với Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt trong đào tạo chuyên
ngành kỹ thuật hạt nhân, vật lý, hoá học và sinh học; phối hợp với Viện Vệ
sinh Dịch tễ Tây Nguyên trong đào tạo chuyên ngành sinh học, công tác xã
hội; phối hợp với Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên
trong đào tạo ngành nông lâm nghiệp; phối hợp với Viện Nghiên cứu khoa
học Tây Nguyên trong lĩnh vực sinh học, hoá học và môi trường,v.v...
Đối với các doanh nghiệp, thông qua biên bản ghi nhớ, quy chế phối
hợp có thể đặt hàng nghiên cứu những vấn đề, vướng mắc nảy sinh trong quá
trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ một phần kinh phí cho các nhà
khoa học, phần kinh phí còn lại trước mắt do các cơ quan quản lý, sử dụng trí
thức ứng ra. Sau khi có kết quả nghiên cứu, triển khai nếu đem lại hiệu quả thì
doanh nghiệp sẽ chi trả phần còn lại mà trước đó đơn vị quản lý, sử dụng trí
thức đã ứng. Điều này tạo ra sự chia sẻ, gắn kết trách nhiệm giữa nhà quản lý,
nhà khoa học với doanh nghiệp.
Sự phối hợp không chỉ giúp gắn kết giữa lý thuyết với thực hành trong
đội ngũ giảng viên, sinh viên mà còn phát huy được trí tuệ của các nhà khoa
học vào giảng dạy, truyền bá tri thức, cũng như giải quyết những vấn đề thực
tiễn đang diễn ra, qua đó nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học
cũng như phát huy được thế mạnh của mỗi đơn vị nghiên cứu trong việc thực
hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH ở Tây Nguyên.
4.2.2. Thống nhất và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp,
các ngành và người dân về vị trí, vai trò đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên
Trình độ phát triển KT-XH ở Tây Nguyên khá thấp, đời sống của nhân
dân còn khó khăn. Kéo theo đó, nhận thức của không ít cấp uỷ, chính quyền
và người dân về vị trí, vai trò của ĐNTT có nhiều hạn chế. Vì vậy, việc thống
nhất nâng cao nhận thức của hệ thống chính trị, toàn xã hội về vị trí, vai trò và
tầm quan trọng của sự phát triển ĐNTT là một trong những giải pháp có tính
đột phá, qua đó từng bước tháo gỡ các rào cản trong tư duy, nhận thức, tạo
129
động lực mạnh mẽ cho sự lớn mạnh của đội ngũ này. Để làm được việc này,
trước hết cần tập trung thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, cấp uỷ, chính quyền các cấp ở Tây Nguyên tiếp tục quán triệt
trong toàn hệ thống chính trị, trước hết là cán bộ chủ chốt các cấp về vị trí, vai
trò của nguồn nhân lực nói chung và ĐNTT nói riêng đối với sự phát triển.
Trên cơ sở đó, người đứng đầu các ban, ngành, đoàn thể ký cam kết về trách
nhiệm của mình đối với việc phát triển ĐNTT trong lĩnh vực mình phụ trách.
Lấy đó làm một trong các tiêu chí để hàng năm bình xét, đánh giá, phân loại
cơ quan, đơn vị và người đứng đầu.
Cấp uỷ, người đứng đầu cơ quan, đơn vị có vai trò hết sức quan trọng,
là đầu tàu của địa phương, cơ quan, đơn vị nên nhận thức của họ đúng đắn,
đầy đủ và thống nhất tất yếu sẽ tạo được sự đồng thuận trong hệ thống chính
trị và lan toả ra toàn xã hội. Hơn nữa, nhận thức của các đối tượng này thay
đổi tất yếu kéo theo sự bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển nguồn nhân
lực và ĐNTT, từ đó tạo tiền đề cho sự thay đổi nhận thức của toàn xã hội.
Ngược lại, không có sự thay đổi nhận thức của họ, sự phát triển ĐNTT ở Tây
Nguyên khó có thể đạt được mục tiêu đề ra.
Thứ hai, tăng cường tuyên truyền, phổ biến quán triệt đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về vị trí, vai trò của
nguồn nhân lực, trí thức đối với sự phát triển.
Để làm được điều này trước hết cần thông qua các phương tiện thông
tin đại chúng như đài phát thanh - truyền hình của tỉnh, huyện, hệ thống loa
phường, báo địa phương, các bản tin nội bộ, v.v… để tuyên truyền đến mọi
người đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
trực tiếp và cụ thể là các nghị quyết, chính sách của tỉnh để cán bộ, người dân
nắm bắt kịp thời. Đồng thời với quá trình này, uỷ ban nhân dân các tỉnh giao
nhiệm vụ cho đài phát thanh - truyền hình của tỉnh xây dựng chương trình
tìm hiểu về nguồn nhân lực và chính sách phát triển nhân lực dưới dạng các
phóng sự, toạ đàm, hỏi-đáp, gương sáng trí thức hay trò chơi truyền hình, v.v…
130
để nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của trí thức đối với
sự phát triển KT-XH.
Thứ ba, đẩy mạnh việc đưa CNTT đến các vùng sâu, vùng xa, vùng
DTTS nhằm nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ của đông đảo người dân,
nhất là DTTS. Buổi đầu tiếp cận dịch vụ này, người dân có thể còn nhiều bỡ
ngỡ do đó cần mở một số lớp hướng dẫn sử dụng cho cán bộ thôn, buôn để về
truyền đạt lại cho người dân. Khi người dân hiểu được lợi ích của hoạt động
này, họ sẽ hiểu được sự cần thiết của việc nâng cao trình độ, nhận thức.
Để làm được việc này, chính quyền nên tạo nhiều điều kiện thuận lợi
hơn trong việc phát triển các điểm bưu điện văn hoá xã, nhất là ở các xã vùng
sâu, vùng xa, vùng DTTS. Phối hợp với các doanh nghiệp CNTT trên địa bàn
tỉnh phát triển hạ tầng viễn thông, xây dựng chính sách ưu đãi, miễn phí, miễn
cước kết nối, sử dụng, hỗ trợ trang thiết bị, máy tính cho những hộ gia đình là
người DTTS sinh sống ở vùng sâu, vùng xa.
Thứ tư, biểu dương, khen thưởng kịp thời và thoả đáng những tổ
chức, cá nhân có các phát minh, sáng chế thông qua các hội nghị, hội thảo
và trên các phương tiện thông tin đại chúng. Những việc làm này không chỉ
động viên những người làm công tác NCKH có thêm động lực để phấn đấu,
cống hiến mà còn thu hút sự quan tâm của các cơ quan, đơn vị, doanh
nghiệp và người dân về vai trò của KHCN đối với sự phát triển. Đồng thời
qua đó tạo cơ hội cho sự gắn kết giữa nhà nước, nhà khoa học, doanh
nghiệp và người dân.
Thứ năm, tăng cường tổ chức các hội chợ xúc tiến thương mại trong
việc quảng bá các sản phẩm KHCN đến với doanh nghiệp và người dân.
Thông qua việc làm này, giúp cho những nhà quản lý, người sản xuất, kinh
doanh không chỉ thấy được tầm quan trọng của việc đưa các tiến bộ KHCN
vào quá trình sản xuất và đời sống mà còn có ý nghĩa sâu xa hơn, đó là sự cần
thiết phải đầu tư cho con người, từ đó từng bước hình thành tư duy mới - con
người là trung tâm của sự phát triển.
131
4.2.3. Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội tạo cơ sở, tiền đề cho
việc xây dựng đội ngũ trí thức đảm bảo về số lượng, cao về chất lượng và
hợp lý về cơ cấu; hạn chế tình trạng “chảy máu chất xám”
Những bất cập về số lượng, chất lượng và cơ cấu ĐNTT ở Tây Nguyên
tuy đã được phát hiện và từng bước khắc phục song còn chậm. Điều đó bị quy
định bởi những điều kiện khách quan và chủ quan mà xét đến cùng chỉ có tiếp
tục thực hiện chiến lược phát triển KT-XH nơi đây mới có thể giải quyết đồng
bộ và căn bản các bất cập này. Trong đó thực hiện một số nội dung sau:
Một là, đẩy mạnh CNH, HĐH trong đó trọng tâm là CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn. Đây là lối thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu của Tây
Nguyên. Tiến trình này sẽ đánh thức những tiềm năng vốn có của Tây
Nguyên và tự nó tạo ra nhu cầu đào tạo trí thức ngay tại Tây Nguyên, đồng
thời tạo ra sức hút đối với trí thức ở các nơi về Tây Nguyên, gắn bó lâu dài và
cống hiến hết mình cho vùng đất này khi điều kiện sống và môi trường lao
động trí óc được cải thiện. Được tiếp cận với những tri thức mới do công
nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa đem lại và được trao trách nhiệm thực
hành ngay vào điều kiện Tây Nguyên, chắc chắn sẽ giúp cho ĐNTT nơi đây
nhanh chóng trưởng thành. Những trí thức thực thụ, những chuyên gia giỏi
thường có ý thức và tình cảm rất sâu đối với nghề, khi đã tìm được một nghề
phù hợp và một nơi thuận lợi để hành nghề đó thì họ muốn gắn bó lâu dài,
thậm chí suốt đời, nếu phải rời bỏ sẽ là điều đau khổ.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá thúc đẩy tiến trình đô thị hóa cùng với
sự xuất hiện của những doanh nghiệp lớn, những cơ sở sản xuất lớn. Những
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất này đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành,
phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên, bởi đó sẽ là nơi thu hút một số lớn trí thức
vào làm việc ở các bộ phận điều hành, các phòng nghiên cứu, thí nghiệm, là
nơi thực tập sau khi tốt nghiệp đại học, cử nhân muốn phấn đấu để trở thành
trí thức. Xác lập mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể các đơn vị công tác của
những trí thức với các doanh nghiệp lớn, cơ sở sản xuất lớn là một trong
những giải pháp quan trọng trong phát triển đội ngũ này.
132
Hệ quả rất quan trọng của tiến trình CNH, HĐH Tây Nguyên - như đã
thấy - là nó tạo ra nhu cầu và điều kiện để hiện thực hóa chủ trương phát triển
theo hướng cải cách toàn diện hệ thống giáo dục phổ thông và từng bước đổi
mới hệ thống giáo dục đại học. Đó là giải pháp hữu hiệu để nâng cao mặt
bằng dân trí toàn vùng, đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, đào tạo
nhân tài, liên tục bổ sung cho ĐNTT ở Tây Nguyên.
Hiện nay, đẩy mạnh công nghiệp hóa đi liền với hiện đại hóa còn là giải
pháp hữu hiệu tăng quỹ tích lũy để cải thiện đời sống cho trí thức: Nâng
lương, tăng đầu tư cho việc nghiên cứu các đề tài khoa học, từ đó trí thức có
việc làm thường xuyên để có thêm thu nhập, tăng thêm mức thưởng cho
những công trình nghiên cứu xuất sắc, có giá trị lý luận và thực tiễn cao. Đây
thực sự đang là một yêu cầu bức xúc, bởi vì khó khăn trong đời sống đến mức
không nuôi nổi bản thân và gia đình... một số không ít trí thức ở Tây Nguyên
đã xin chuyển đi nơi khác và buộc lòng phải chấp nhận lao động chân tay
hoặc tìm cách ra nước ngoài lao động làm thuê. Hiện tượng “chảy máu chất
xám" ở Tây Nguyên đang hiện hữu, không còn là dự báo.
Cùng với nâng cao điều kiện sống còn phải quan tâm đến môi trường
làm việc của ĐNTT. Đó là đảm bảo nơi làm việc đủ tiện nghi, xây dựng thư
viện đầy đủ sách báo, tài liệu tham khảo, xây dựng phòng thí nghiệm với
những máy móc, hệ thống thông tin hiện đại,v.v... Người lao động trí óc sáng
tạo ngày nay thiếu những trang bị đó thì không thể đạt hiệu quả cao.
Hai là, mở rộng cánh cửa hơn nữa cho kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa phát triển sâu, rộng ở Tây Nguyên. Đây vốn là vùng đất tồn tại
trong tình trạng biệt lập trong khoảng thời gian dài. Cho đến những ngày mới
giải phóng, một số nhà khoa học từ miền Bắc vào thăm Tây Nguyên cùng
chung nhận xét: "Tây Nguyên là vùng đất giàu tiềm năng chưa được đánh
thức". Giẫm chân tại chỗ trong nền sản xuất nhỏ tự cấp, tự túc, khép kín còn
rất lạc hậu (thậm chí thời kỳ đầu sau giải phóng còn có những cộng đồng dân
cư chưa vượt qua phương thức sản xuất chiếm đoạt, hái lượm, vẫn còn canh
133
tác theo kiểu dùng gậy chọc lỗ để tra hạt), và khi cán bộ đến tận nhà vận động
đồng bào cho con đi học, không ít người trả lời: "Ở đây chỉ cần cái thịt, không
cần cái chữ". Điều đó ít nhiều chứng tỏ đời sống vật chất còn thấp kém không
thể làm nảy sinh trong họ tâm lý vươn lên trở thành trí thức, vươn tới sự tiến
bộ. Cho đến lúc đó, Tây Nguyên về cơ bản chưa chín muồi nhu cầu và chưa
đủ điều kiện cho sự xuất hiện và hoạt động của một ĐNTT mới.
Bước vào thời kỳ đổi mới, sự thâm nhập của kinh tế thị trường đã giúp
con người ở Tây Nguyên mau chóng thay đổi những quan niệm, thói quen cũ,
hình thành những quan niệm, thói quen mới, chẳng hạn quan niệm tự cấp, tự
túc đi liền với lối sống mang tính biệt lập, khép kín và thái độ an phận, bảo
thủ, thiếu tự tin, không thích đổi mới... thành quan niệm và thói quen giao
lưu, hợp tác, tìm tòi cái mới, tự tin ở mình... Những thay đổi ấy từng bước
làm tăng thêm tính tự chủ, năng động, sáng tạo ở mỗi con người với tính cách
chủ thể gắn bó với cộng đồng để cùng tiến lên phía trước. Điều đó diễn ra
trước hết trong tầng lớp có học vấn.
Có thể nói, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đóng vai
trò là nhân tố có ý nghĩa quyết định xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
đã được áp dụng trong khoảng thời gian trên một thập kỷ với những hậu quả
tiêu cực của nó và góp phần mở đường cho một cơ chế dân chủ của thời kỳ
đổi mới ở Tây Nguyên.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong những
nhân tố quan trọng làm thức dậy một vùng đất Tây Nguyên có nhiều tiềm
năng đang chờ khai thác, phá bỏ sự khép kín. Thông qua sự giao lưu, trao đổi
qua lại, Tây Nguyên càng gắn bó khăng khít với cả nước, hòa vào nhịp điệu,
tiến độ chung của công cuộc đổi mới.
Sự giao lưu, trao đổi ấy không chỉ là sản phẩm, hàng hóa vật chất mà
còn là những sản phẩm, hàng hóa tinh thần thuộc các lĩnh vực khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội, nhân văn; văn học, nghệ thuật. Chính sự giao lưu, trao
đổi ấy đã tạo nên một trong những nhân tố quyết định sự hình thành, phát
134
triển ĐNTT ở Tây Nguyên. Bởi vì, nói rộng ra, giao lưu, trao đổi là phương
thức tồn tại, phát triển của tri thức nhân loại mà đại biểu về mặt xã hội của nó
là ĐNTT. Tinh thần ganh đua (cạnh tranh lành mạnh) được khơi dậy nhờ tác
động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo nên động lực tinh
thần để trí thức không ngừng vươn lên trong lao động trí óc sáng tạo nhằm
làm ra những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao hơn được thực tiễn kiểm
chứng và được Nhà nước, các hội xác nhận, tôn vinh. Về phương diện đó,
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ góp phần tạo nên
động lực thúc đẩy trí thức lao động sáng tạo mà còn góp phần tạo nên một nét
đặc trưng trong tính cách của trí thức: Say mê, miệt mài nghiên cứu để chinh
phục những đỉnh cao mới.
Ba là, phát triển du lịch để đẩy mạnh sự giao lưu, hội nhập của trí thức
Tây Nguyên với trí thức các nước ở khu vực và thế giới.
Tây Nguyên với tiềm năng ưu thế về du lịch có thể trở thành điểm
hẹn của đông đảo du khách nước ngoài. Những khu rừng đại ngàn, nguyên
sinh và tái sinh có nhiều gỗ quý và dược liệu hiếm cùng nhiều động vật đặc
chủng, những thác nước đẹp và hùng vĩ, âm nhạc cồng chiêng và những lễ
hội dân gian nhiều màu sắc, cà phê thương hiệu Buôn Ma Thuột, phong
cách độc đáo và không khí mát dịu của Đà Lạt... có thể là những tác nhân
vẫy gọi du khách.
Nhưng đằng sau ngoại cảnh hấp dẫn đó, Tây Nguyên còn tiềm ẩn bên
trong những đề tài khoa học có tầm cỡ quốc gia và quốc tế về nhân chủng
học, dân tộc học, sinh vật học, sinh thái học, lịch sử tiến hóa của loài người
(với những di tích, dấu vết còn mới của thời kỳ con người chuyển từ chế độ
cộng sản nguyên thủy không phân chia giai cấp sang xã hội có giai cấp; từ
nền kinh tế tước đoạt, hái lượm với những công cụ rất thô sơ sang nền kinh tế
sản xuất với những công cụ được chế tác và sử dụng sức kéo của súc vật...).
Theo chúng tôi, Tây Nguyên có thể đề xuất những đề tài khoa học lớn,
rồi sử dụng các phương tiện thông tin giới thiệu, quảng bá rộng rãi và mời gọi
135
các nhà khoa học trong nước, khu vực và thế giới tham gia nghiên cứu, hội
thảo. Đó là cơ hội quý để trí thức ở Tây Nguyên giới thiệu những thành quả
nghiên cứu của mình và tiếp thu những thành tựu của các nhà khoa học có uy
tín của các nước trong khu vực và thế giới.
Bốn là, đẩy mạnh tiến trình dân chủ hóa nhằm cải thiện môi trường
công tác và lao động trí óc sáng tạo của ĐNTT ở Tây Nguyên.
Từ khi Đảng phát động công cuộc đổi mới, tiến trình dân chủ hóa mọi
mặt trong đời sống xã hội ở nước ta trong đó Tây Nguyên là bộ phận hữu cơ
đã được triển khai ngày càng sâu rộng. Với tính cách là những công dân, trí
thức ở Tây Nguyên đang thụ hưởng những thành quả đã đạt được của tiến
trình đó, còn với tính cách những trí thức đang lao động trí óc sáng tạo trên
một địa bàn cụ thể là Tây Nguyên, họ có những nhu cầu dân chủ bức thiết
riêng cần được giải quyết để hoạt động sáng tạo đạt hiệu quả cao hơn.
Đối với ĐNTT ở Tây Nguyên điều quan trọng nhất trong môi trường
lao động là sự đoàn kết đội ngũ. Bởi vì đội ngũ này gồm những trí thức khác
nhau về thế hệ, thành phần dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc đào tạo, quá trình và
môi trường trải nghiệm, trình độ học vấn và chuyên môn... Tiến trình lao
động trí óc sáng tạo giúp mọi trí thức từ chỗ hiểu rõ đến chỗ tâm niệm một
mục đích chung là cùng nhau lao động sáng tạo để góp phần xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Nhận thức và tình cảm đó sẽ giúp trí thức vượt qua những khác
nhau nêu trên, tự nguyện gắn mình với đội ngũ để vượt qua mọi khó khăn, thử
thách hoàn thành nhiệm vụ được giao. Ở phương diện này, giải pháp quan
trọng nhất là tăng cường giáo dục chủ nghĩa yêu nước bằng nhiều hình thức
đa dạng, phù hợp với các đối tượng.
Sự đoàn kết trong ĐNTT bao gồm sự hợp tác trong đó đề cao tinh thần
tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tôn trọng sự phán quyết của mọi người, song
không xem nhẹ vai trò của sự hợp tác, liên kết. Cần thông cảm với trí thức ở
chỗ khi chấp nhận sự liên kết tập thể họ phải vượt qua chính mình. Bởi vì lao
động trí óc sáng tạo về thực chất là lao động cá nhân. Chỉ khi giúp họ nhận rõ
136
lao động trí óc của cá nhân trong thời đại phát triển KHCN ngày nay không
tách rời sự hợp tác, liên kết tập thể thì họ mới chấp nhận một cách tự nguyện.
Thực sự đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà
nước đối với ĐNTT. Sự đổi mới đó cần bắt đầu từ sự tìm hiểu sâu về trí thức,
đó là những người có hiểu biết rộng và sâu về một hoặc nhiều lĩnh vực. Dựa
trên nền tảng của sự hiểu biết đó, trí thức có lòng tự trọng, tự tin và dám dũng
cảm, thẳng thắn bảo vệ những điều họ cho là lẽ phải, là chân lý... Thế giới
tinh thần của trí thức thường phong phú, sở thích thường đa dạng và lòng say
mê NCKH thường bền bỉ và cháy bỏng. Đại đa số trí thức khinh ghét sự dối
trá, hời hợt, giả tạo, giả nhân giả nghĩa, tham lam….
Nhưng trong những tình huống nhất định, ở một số trí thức những phẩm
chất này có thể bị chính họ cực đoan hóa, tuyệt đối hóa làm cho nó vượt qua
giới hạn hợp lý để biến thành những điều trái ngược với chính nó. Ví dụ: Lòng
tự tin biến thành thái độ tự cao, tự đại; lòng tự trọng biến thành sự tự ái; sự
dũng cảm bảo vệ chân lý đến cùng biểu hiện thành sự bảo thủ... Trong những
trường hợp ấy những nét đặc trưng cá tính của trí thức biến dạng thành những
cá tật. Tôn trọng cá tính nhưng cần giúp đỡ những trí thức đó nhận rõ và tự
khắc phục những cá tật. Việc này cần kiên nhẫn tìm cách thuyết phục thay cho
mệnh lệnh, lắng nghe sự thổ lộ của trí thức với thái độ thông cảm, khoan dung,
không cố chấp, tìm cách đưa ra những lời khuyên đúng lúc. Khi trí thức thất bại
thì biết chia sẻ và chờ đợi, bởi vì hiếm có trí thức nào - dù tài năng đến mấy -
có thể đạt tới sự thành công mà không phải trả bằng những thất bại, bởi vì "thất
bại là mẹ đẻ của thành công". Đó chính là thái độ và cách ứng xử của V.I.Lênin
đối với trí thức nói chung và đặc biệt là đối với đại văn hào Nga Mácxim
Goocki và cũng là thái độ, cách ứng xử của Hồ Chí Minh với trí thức. Cả hai
ông đều rất quan tâm rèn luyện trí thức và giúp họ tự rèn luyện.
Mỗi cơ quan, đơn vị (nhất là trường đại học, viện nghiên cứu, cơ quan
quản lý ĐNTT…) cần xây dựng bản quy ước về dân chủ trong đó thể hiện sự
công bằng, minh bạch, bình đẳng và công khai trong: Nhận xét, đánh giá
137
phẩm chất, đạo đức, năng lực và kết quả nghiên cứu của trí thức; phân công
trách nhiệm; đề bạt và phân phối hưởng thụ (bao gồm tăng lương và các
khoản thu nhập khác); tạo cơ hội để đi nghiên cứu thực tế và học tập ở nước
ngoài; ứng xử và giao tiếp giữa cấp trên với cấp dưới. Quy ước đó đòi hỏi cả
đơn vị thực hiện, nhất là những người lãnh đạo, quản lý đơn vị.
Cũng như ở mọi địa phương khác, ở Tây Nguyên hiện nay việc phát
huy, phát triển ĐNTT phụ thuộc vào điều kiện tiên quyết tạo lập môi trường
dân chủ và sáng tạo. Vì vậy cần:
Trên cơ sở Nghị định 04/2015/NĐ-CP của Chính phủ về thực hiện dân
chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp
công lập, các đơn vị cụ thể hóa thành quy chế phù hợp với đơn vị mình.
Trong đó trước hết người đứng đầu cơ quan cần nhận thức đầy đủ về mục
đích, yêu cầu, nội dung việc thực hiện dân chủ ở cơ quan mình phụ trách và
có kế hoạch chi tiết nhằm hiện thực hóa yêu cầu, nội dung đó trong cơ quan
mình. Tiếp đó giúp cho cán bộ, công chức, viên chức nói chung và trí thức nói
riêng nhận thức rõ quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của bản thân trong việc
thực hiện dân chủ để từ đó quyết tâm đưa quá trình dân chủ hóa cơ quan đi
đến đích.
Để đảm bảo việc thực hiện dân chủ có hiệu quả cần có sự kiểm tra,
giám sát của cấp trên tại hội nghị tổng kết hàng năm hoặc hội nghị cán bộ,
công chức, viên chức. Cấp trên trực tiếp phụ trách đơn vị xuống nghe ý kiến
của cán bộ, công chức, viên chức về thực hiện dân chủ, đặc biệt là lắng nghe
ý kiến của trí thức về thành tích, hạn chế và phương hướng tiếp tục thực hiện
dân chủ, kiểm điểm trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị. Kết quả kiểm
điểm và kế hoạch thực hiện dân chủ trong thời gian tiếp theo được công khai
tại cơ quan, đơn vị.
Xây dựng môi trường làm việc thân thiện, gần gũi, gắn bó đồng chí,
đồng nghiệp. Môi trường công tác của ĐNTT chịu sự tác động rất lớn của các
mối quan hệ xung quanh, ngoài cơ chế, chính sách còn có mối quan hệ chỉ
138
đạo, lãnh đạo với thực hiện, thi hành (cấp trên với cấp dưới) và mối quan hệ
phối hợp (cùng cấp với nhau) và mối quan hệ giữa người với công việc,
nhiệm vụ được giao. Hai mối quan hệ này gắn bó với nhau, chi phối và tác
động lẫn nhau, từ đó hình thành môi trường công tác. Môi trường tốt khi và
chỉ khi các mối quan hệ này tốt và ngược lại.
Trí thức chỉ yên tâm công tác và cống hiến khi các mối quan hệ trên hài
hoà, thân thiện, không áp đặt ý chí và được xác định rõ ràng, cụ thể. Chính vì
vậy, để xây dựng mối quan hệ đó, cần phân định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và
công việc cụ thể của từng cá nhân, tổ chức và được thể hiện trong quy chế
hoạt động của cơ quan, đơn vị. Khi có vấn đề mới phát sinh người đứng đầu
căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mỗi người để phân công rõ trách nhiệm,
tránh đùn đẩy, thoái thác cũng như giao quá nhiều nhiệm vụ cho một vài cá
nhân. Lấy hiệu quả công việc làm thước đo cao nhất trong việc đánh giá năng
lực của mỗi người.
4.2.4. Đổi mới và từng bước hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát
triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên
Các chính sách đối với sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên đã và đang
được thực hiện, qua đó góp phần phát huy, phát triển đội ngũ này. Tuy nhiên,
trong quá trình vận động phát triển, một số cơ chế, chính sách bộc lộ nhiều
hạn chế, bất cập như: Cơ chế đánh giá, đấu thầu trong thực hiện đề tài khoa
học; chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, thu hút và ưu đãi trí thức; chính
sách liên quan đến thu nhập, v.v… Vì vậy, việc đổi mới, bổ sung, hoàn thiện
và nâng cao khả năng tổ chức thực hiện cho phù hợp với thời kỳ mới là việc
làm hết sức cần thiết để ĐNTT cống hiến nhiều hơn cho sự phát triển Tây
Nguyên. Trong đó, trước hết cần thực hiện tốt những công việc chủ yếu sau:
Thứ nhất, rà soát, bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy định
hiện có; ban hành chính sách, quy định mới đối với ĐNTT.
Thực tế thời gian qua cho thấy, không ít trí thức đã rời Tây nguyên, bản
quán tìm nơi làm việc mới mà nguyên nhân là do những hạn chế, bất cập của
139
chính sách đãi ngộ, khuyến khích. Trong khi đó cũng có nhiều trí thức từ các
vùng, miền khác nhau trong cả nước sẵn sàng lên Tây Nguyên công tác,
nhưng chỉ vì chính sách thu hút họ chưa đủ hấp dẫn nên điều đó chưa thành
hiện thực. Cũng có những trí thức nơi khác đến Tây Nguyên mong được
hưởng chính sách ưu đãi nhưng sau một thời gian lại “ra đi” bởi có những yêu
cầu chính đáng không được đáp ứng… Vì vậy, việc rà soát để kịp thời điều
chỉnh, bổ sung hoặc bãi bỏ những chính sách, quy định không còn phù hợp có
ý nghĩa quan trọng trong việc đồng bộ hóa các chính sách nhằm tạo môi
trường, điều kiện thuận lợi cho việc thu hút, sử dụng trí thức. Trước hết cần:
Đánh giá, tổng kết việc thực hiện các chính sách, chương trình hành
động đối với ĐNTT. Trong đó, bên cạnh việc chỉ ra những mặt đã đạt được và
chưa đạt được, cần làm rõ nguyên nhân chủ quan và khách quan, trách nhiệm
cụ thể của các cá nhân, cơ quan, đơn vị để làm cơ sở cho việc điều chỉnh, bổ
sung và hoàn thiện chính sách.
Việc đánh giá, tổng kết bên cạnh sự tham gia của các cơ quan lãnh đạo,
quản lý nhất thiết phải có sự tham gia của các cơ quan, đơn vị sử dụng trí thức
cũng như bản thân trí thức và đại diện người dân chịu sự tác động để bàn bạc,
đánh giá, rút kinh nghiệm từ đó kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc
cũng như lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, trăn trở hoặc kiến nghị, đề xuất của
trí thức. Trên cơ sở đó, chỉ đạo các cơ quan chức năng của tỉnh điều chỉnh, bổ
sung hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung.
Hàng năm, cấp uỷ, chính quyền tổ chức hội nghị gặp mặt trí thức và
những học viên đang đi học có sự hỗ trợ của tỉnh để kịp thời giải quyết những
vướng mắc, khó khăn trong học tập và công tác. Biểu dương, khen thưởng
những tập thể, trí thức có thành tích xuất sắc trong năm, qua đó tạo động lực
cho họ phấn đấu vươn lên, cũng như giúp họ yên tâm học tập sau này trở về
phục vụ lâu dài cho tỉnh.
Ban hành các chính sách, quy định mới để thu hút trí thức về công tác
cũng như huy động sự tham gia, đóng góp của họ, chẳng hạn chính sách tập
140
hợp trí thức đã từng sinh sống hoặc hiện có gia đình ở các tỉnh Tây Nguyên
đang công tác tại các tỉnh, thành khác và ở nước ngoài; chính sách ưu đãi về
KHCN trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp… Việc ban hành chính sách, quy
định mới góp phần bổ sung những mặt, lĩnh vực còn thiếu hoặc cần thu hút
chất xám.
Tiếp tục thực hiện đề án đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng
cao đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH, từng bước xây dựng và triển khai đề
án vị trí việc làm theo Nghị định số 36/2013/NĐ-CP, ngày 22/4/2013 của
Chính phủ về vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức để nâng cao chất
lượng ĐNTT cũng như hoàn thiện môi trường và điều kiện công tác, NCKH.
Để thực hiện tốt đề án cần xác định đúng mục tiêu và chỉ tiêu, trên cơ
sở đó phân công trách nhiệm cụ thể cho từng cơ quan, đơn vị, tránh chồng
chéo và đùn đẩy trách nhiệm. Đồng thời lấy kết quả công việc để đánh giá
mức độ hoàn thành nhiệm vụ của người đứng đầu cơ quan, đơn vị.
Đối với đề án vị trí việc làm, trước hết từng trí thức trong các bộ phận
của cơ quan, đơn vị liệt kê, mô tả việc làm, nhiệm vụ cụ thể được phân công
giải quyết, đảm nhận và kết quả thực hiện. Trên cơ sở bản mô tả công việc
của mỗi người, tập thể cấp uỷ, chính quyền tiến hành phân tích, đánh giá các
yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, mỗi cá
nhân; đánh giá việc làm của từng người và việc sử dụng lao động của đơn vị,
bộ phận; so sánh, đối chiếu với chức năng, nhiệm vụ của tổ chức, từ đó xây
dựng kế hoạch sử dụng các nguồn lực có hiệu quả.
Việc thực hiện đề án vị trí việc làm không chỉ nhằm đổi mới công tác
quản lý qua việc rà soát sử dụng nguồn nhân lực để bố trí, sử dụng hiệu quả,
phù hợp; phát huy tiềm năng, thế mạnh của mỗi người; đổi mới cách đánh giá,
khắc phục tình trạng vừa thừa vừa thiếu nhân lực giữa các đơn vị, bộ phận,
mà còn giúp cơ quan, đơn vị nắm chắc công việc của từng người, xác định
quy trình làm việc khoa học, phát triển nguồn nhân lực có hiệu quả, từ đó có
kế hoạch tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng và thực
hiện tốt các chính sách.
141
Bên cạnh việc xây dựng, hoàn thiện chính sách, cũng cần hết sức coi
trọng việc thực hiện chính sách, nhất là đối với những tỉnh như ở Tây Nguyên
- đang thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. Thành lập bộ phận thu hút nhân
lực trên cơ sở biên chế của các sở, ban, ngành liên quan như ban tổ chức tỉnh
uỷ, sở nội vụ, sở GDĐT, sở KHCN, sở kế hoạch và đầu tư, liên hiệp các hội
khoa học và kỹ thuật và giao cho một phó chủ tịch tỉnh chịu trách nhiệm chỉ
đạo thực hiện. Hàng năm, bộ phận này trực tiếp đến các cơ sở GDĐT (các
trường đại học, học viện…) làm việc và nắm danh sách những sinh viên có
thành tích xuất sắc để động viên họ sẵn sàng về công tác tại địa phương.
Những sinh viên này cần được bố trí việc làm ngay sau khi ra trường phù hợp
với chuyên môn hoặc cử đi đào tạo thêm. Đối với sinh viên còn tiếp tục học
đại học một thời gian nữa thì hỗ trợ học phí, ăn ở với điều kiện sau khi tốt
nghiệp ra trường về Tây Nguyên công tác. Nếu được xếp loại xuất sắc, giỏi sẽ
được thưởng.
Thực tế, hàng năm có nhiều học sinh ở các tỉnh Tây Nguyên đạt nhiều
giải thưởng, thành tích cao trong các kỳ thi quốc gia và được tuyển thẳng vào
các trường đại học, học viện có uy tín, chất lượng trong cả nước. Nhưng trong
và sau quá trình đào tạo, hầu hết các em không được hỗ trợ, quan tâm từ địa
phương mà phải tự mình bươn chải, tìm việc mưu sinh dẫn đến sự mòn mỏi,
thui chột tri thức và niềm tin. Do đó, đối với những em này sau khi ra trường
nếu kết quả học tập đạt xuất sắc, giỏi thì các tỉnh chủ động mời các em về địa
phương công tác và sắp xếp một vị trí, công việc phù hợp với chuyên môn.
Thứ hai, cụ thể hoá tiêu chuẩn tuyển dụng; bố trí, sử dụng cán bộ theo
hướng công khai, dân chủ, minh bạch và bình đẳng.
Trên cơ sở quy định, hướng dẫn về công tác cán bộ của Đảng và Nhà
nước, các tỉnh cần xây dựng kế hoạch, tiêu chuẩn cụ thể, áp dụng phù hợp với
từng vị trí tuyển dụng đối với cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể và đơn vị sự
nghiệp. Tránh tiêu chuẩn chung chung không chọn được người tài, dễ nảy
sinh tiêu cực, làm giảm niềm tin và sự phấn đấu của trí thức.
142
Để thực hiện việc này, tỉnh uỷ và uỷ ban nhân dân tỉnh giao cho ban tổ
chức tỉnh uỷ và sở nội vụ phối hợp với nhau để đảm bảo tính khả thi, khách
quan. Trong quá trình xây dựng bộ tiêu chuẩn cần có sự tham gia đóng góp,
tư vấn, phản biện của các nhà khoa học, chuyên môn cũng như lấy ý kiến
đóng góp rộng rãi của xã hội.
Việc xây dựng bộ tiêu chuẩn cần coi trọng sự thống nhất và đồng bộ
giữa các yếu tố và yêu cầu: Trình độ học vấn, kiến thức chuyên môn, nhận
thức chính trị; mức độ thành thạo trong việc sử dụng tin học, ngoại ngữ; kinh
nghiệm thực tiễn và kỹ năng trong việc thực hiện công việc phù hợp với vị trí
tuyển dụng; thành tích đạt được; chính sách ưu tiên, ưu đãi đối người có bằng
tiến sĩ, thạc sĩ, người có công, người DTTS và vùng sâu, vùng xa….
Trên cơ sở xác định đầy đủ các tiêu chuẩn, tiến hành xây dựng, sắp xếp
theo thứ tự thang, bảng đo cụ thể cho từng tiêu chí. Chẳng hạn cùng trình độ
thì người có bằng xuất sắc sẽ được điểm cao hơn bằng giỏi, bằng giỏi cao hơn
bằng khá. Nếu cùng xếp loại xuất sắc, giỏi hay khá thì chọn người có điểm
tổng kết các môn học cao hơn… Trên cơ sở chỉ tiêu tuyển dụng và số người
đăng kí tuyển dụng sẽ lấy từ cao xuống đến hết chỉ tiêu. Hạn chế việc thi
tuyển mà chỉ nên thực hiện việc xét tuyển. Việc thi tuyển chỉ thực hiện trong
những trường hợp cần tuyển dụng vào những vị trí việc làm đặc thù.
Để đảm bảo việc xét tuyển được minh bạch, công bằng và khách quan,
tránh những tiêu cực trong quá trình xét tuyển, trước hết cần công khai số
lượng tuyển dụng, chỉ tiêu cho từng vị trí tuyển dụng và công bố công khai tại
trụ sở cơ quan, trên báo địa phương và website của uỷ ban nhân dân tỉnh, sở
nội vụ và các cơ quan, đơn vị có chỉ tiêu tuyển dụng ít nhất hai tháng trước
ngày thực hiện xét tuyển. Kết quả xét tuyển phải được công khai ngay khi kết
thúc quá trình xét tuyển, không được kéo dài thời gian công bố. Đồng thời
tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo cũng được thực hiện trong vòng một tháng
kể từ ngày công bố kết quả. Hồ sơ xét tuyển được tập hợp về một đầu mối và
những người tham gia kỳ xét tuyển (cả người trúng tuyển và không trúng
tuyển) có thể tra cứu công khai.
143
Đối với những người đạt các kết quả cao trong các kỳ thi quốc gia,
quốc tế, có những phát minh, sáng kiến đã được triển khai có hiệu quả và
được xã hội thừa nhận mà tỉnh có nhu cầu thì bố trí ngay việc làm mà không
cần qua xét tuyển hoặc thi tuyển.
Cách làm như trên sẽ lựa chọn và thu hút được người tài, người có năng
lực; tạo được sự đồng tình của dư luận, đồng thời hạn chế được các hiện
tượng tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình tuyển dụng.
Sau khi tuyển dụng cần bố trí đúng với chuyên môn, năng lực, sở
trường, nguyện vọng và vị trí công tác để họ có thể phát huy khả năng cống
hiến, cũng như tạo động lực cho họ yên tâm công tác. Hạn chế tối đa việc bố
trí không phù hợp với chuyên môn, sở trường dẫn đến triệt tiêu sức sáng tạo
và động lực phấn đấu. Giao cho người được tuyển dụng những công việc cụ
thể để làm cơ sở khách quan cho việc đánh giá họ.
Để có cơ sở khách quan cho việc đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ
cũng cần có bộ tiêu chí đánh giá. Cũng giống như bộ tiêu chí tuyển dụng, bộ
tiêu chí này cũng cần được cụ thể cho từng nội dung, vấn đề trên cơ sở căn cứ
Nghị định 56/2015/NĐ-CP của Chính phủ về đánh giá và phân loại cán bộ,
công chức và viên chức cũng như đề án vị trí, việc làm. Đồng thời lấy kết quả
hoàn thành nhiệm vụ để xét thi đua, khen thưởng. Hạn chế việc thực hiện bình
bầu mang tính chủ quan dễ dẫn đến triệt tiêu động lực phấn đấu và nảy sinh
tâm lý chán nản. Việc bình bầu chỉ nên được thực hiện khi những người có số
điểm đánh giá như nhau nhưng do bị hạn chế về số lượng khen thưởng.
Thực hiện đúng quy định của Trung ương về công tác quy hoạch, bổ
nhiệm cán bộ; tránh bổ nhiệm người thiếu phẩm chất, năng lực.
Thứ ba, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và xây dựng quy chế
tôn vinh những đóng góp của đội ngũ trí thức.
Nếu như năng lực trí tuệ và khả năng sáng tạo là điều kiện cần thì cơ sở
vật chất, trang thiết bị kỹ thuật là một thành tố quan trọng cấu thành điều kiện
đủ để trí thức có thể hiện thực hoá được tiềm năng của mình.
144
Do đó cần tiếp tục tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện kỹ
thuật theo hướng hiện đại, trực tiếp phục vụ sự nghiệp GDĐT, nghiên
cứu, ứng dụng khoa học, chuyển giao công nghệ. Trước mắt do nguồn lực
đầu tư cho KHCN còn hạn hẹp, nên ưu tiên đầu tư cho các trường đại học,
các viện và trung tâm nghiên cứu hiện đang đóng trên địa bàn các tỉnh
Tây Nguyên như: Đại học Tây Nguyên, Đại Học Đà Lạt; Viện Vệ sinh
Dịch tễ Tây Nguyên, Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt, Viện Khoa học
nông lâm nghiệp Tây Nguyên; Trung tâm giống cây trồng vật nuôi; Trung
tâm thông tin KHCN, v.v… Việc tập trung đầu tư cho các đơn vị này
không chỉ tránh được sự dàn trải về nguồn vốn đầu tư mà còn nhằm tạo ra
sự biến đổi có tính đột phá ở những khâu trọng yếu và nhạy cảm của quá
trình phát triển ĐNTT.
Trước mắt, trên cơ sở Quyết định 58/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về quy định tiêu chuẩn, định mức, chế độ quản lý, sử dụng máy
móc, thiết bị của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị sự nghiệp công lập, các
cơ quan, đơn vị cần rà soát, kiểm tra lại các trang thiết bị hiện có và những
trang thiết bị đã hư hỏng, lạc hậu để thay thế, trang bị mới nhằm đảm bảo điều
kiện tốt nhất cho công việc, hoạt động của trí thức.
Xây dựng quy chế về tôn vinh, khen thưởng trí thức có những đóng
góp, cống hiến cho sự nghiệp GDĐT, KHCN và sự phát triển.
Quy chế là hành lang pháp lý và cơ sở để thực hiện việc tôn vinh trí
thức. Vì vậy, quy chế xây dựng vừa phải bảo đảm tính pháp lý, tính khoa học,
chặt chẽ và tính khả thi trong thực tiễn. Trong đó xác định rõ: Mục đích,
nguyên tắc, điều kiện và tiêu chuẩn xét chọn. Cụ thể:
Về mục đích: Nhằm ghi nhận công lao, đóng góp của trí thức đối với sự
nghiệp GDĐT và KHCN cũng như sự phát triển của các tỉnh, viện, trường;
thông qua việc tôn vinh, góp phần động viên, khích lệ ĐNTT phát huy tốt hơn
trí tuệ sáng tạo của mình.
145
Về nguyên tắc: Việc tôn vinh trí thức đảm bảo nguyên tắc đúng pháp
luật, chính xác, công khai, khách quan, minh bạch trên cơ sở đánh giá đúng
những phát minh, sáng tạo của trí thức được tôn vinh thông qua hiệu quả kinh
tế, xã hội mang lại.
Về điều kiện: Trí thức được xét tôn vinh đảm bảo chấp hành tốt các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt các
nhiệm vụ được giao, tích cực tham gia đóng góp cho sự phát triển của tỉnh,
viện, trường kể cả trí thức đang sống, công tác ngoài các tỉnh Tây Nguyên.
Về tiêu chuẩn: Trí thức có sáng kiến, phát minh, giải pháp kỹ thuật đạt
giải hoặc đã được áp dụng và mang lại hiệu quả cho Tây Nguyên được cấp có
thẩm quyền hoặc được xã hội công nhận.
Thứ tư, bổ sung, hoàn thiện quy chế hoạt động của liên hiệp các hội
khoa học, kĩ thuật các tỉnh trên cơ sở Chỉ thị số 42-CT/TW năm 2010 của Bộ
Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước; Nghị định số 45/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định
về tổ chức, hoạt động và quản lý hội; Điều lệ của Liên hiệp các Hội Khoa học
và Kỹ thuật Việt Nam khoá VII.
Đầu tư xây dựng, nâng cấp trụ sở làm việc và tăng cường trang thiết bị
kỹ thuật hiện đại đảm bảo hoạt động cũng như xây dựng quy chế phối hợp
hoạt động của liên hiệp các hội với các hội thành viên, tạo ra sự yên tâm công
tác, làm cầu nối giữa trí thức các lĩnh vực, ngành nghề với nhau.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng các giải thưởng, hội thi sáng
tạo như giải thưởng KHCN; Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật,v.v… nhằm thu hút
ngày càng đông đảo hơn sự tham gia của ĐNTT các tỉnh Tây Nguyên, để họ
thực sự xem đây là sân chơi bổ ích về KHCN cũng như là cầu nối giữa các trí
thức với nhau.
Xây dựng quy chế phối hợp công tác giữa liên hiệp các hội khoa học kỹ
thuật cũng như của các hội thành viên của 5 tỉnh Tây Nguyên nhằm thực hiện
146
tư vấn, phản biện và giám định xã hội các vấn đề chung liên quan đến các tỉnh
cũng như hỗ trợ nhau trong NCKH, nhất là những vấn đề: Liên kết vùng trong
phát triển bền vững Tây Nguyên, nguồn nhân lực chất lượng cao, áp dụng
KHCN vào hoạt động lãnh đạo, quản lý, sản xuất và đời sống.
Kết luận chương 4
Phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên là một quá trình lâu dài, gắn bó chặt
chẽ với quá trình phát triển KT-XH và CNH, HĐH. Vì vậy cần phải bảo đảm
định hướng trong quá trình phát triển. Những quan điểm chỉ đạo chính là một
trong những cơ sở đảm bảo định hướng đó. Việc nhận thức đầy đủ các quan
điểm không chỉ giúp việc phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên đạt được mục tiêu
đề ra mà còn đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với
công tác phát triển đội ngũ này.
Các giải pháp tiếp tục phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH được xây dựng trên cơ sở lý luận, thực tiễn, các quan điểm
chỉ đạo của Đảng, cùng với thực trạng và vấn đề đặt ra trong quá trình phát
triển đội ngũ này thời gian qua. Thế nên các giải pháp phát triển ĐNTT ở Tây
Nguyên mang tính hệ thống, có sự liên kết, gắn bó chặt chẽ với nhau, tác
động qua lại lẫn nhau. Vì vậy, cần thực hiện đầy đủ và đồng bộ các giải pháp
thì việc xây dựng đội ngũ này mới đạt được nhiều kết quả, qua đó góp phần
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển KT-XH Tây Nguyên.
147
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
Vấn đề trí thức và phát triển ĐNTT được đề cập khá nhiều trong các
công trình khoa học trong và ngoài nước. Tuy thế, không có nghĩa là tính thời
sự của nó mất đi, ngược lại đây vẫn là một trong những chủ đề thu hút được
nhiều sự quan tâm hiện nay, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học
công nghiệp lần thứ tư và KTTT đang diễn ra mạnh mẽ và trở thành một xu
thế tất yếu không thể đảo ngược. Thế nên, việc nghiên cứu về nó mang ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
Tây Nguyên là vùng đất giàu tiềm năng cho sự phát triển KT-XH và có
vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, do
những nguyên nhân khách quan và chủ quan, hiện tại vẫn còn là vùng nghèo
so với nhiều vùng khác trong cả nước. Bởi vậy, đẩy mạnh CNH, HĐH để đưa
Tây Nguyên vươn lên thoát khỏi cảnh đói nghèo, lạc hậu, trở thành một vùng
giàu về kinh tế, vững về chính trị, mạnh về quốc phòng an ninh chẳng những
là tất yếu khách quan mà còn là vấn đề cấp bách hiện nay. Tuy nhiên, để có
thể khai thác các tiềm năng, lợi thế, tránh huỷ hoại nguồn tài nguyên thì trước
hết cần phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, những người có trình độ, am
hiểu Tây Nguyên, mà tiêu biểu là ĐNTT. Do đó, phát triển ĐNTT đã trở
thành yêu cầu bức bách và là khâu đột phá trong chiến lược phát triển KT-XH
Tây Nguyên.
Để có cơ sở đánh giá sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên, luận án đã
xây dựng khung lý thuyết cho việc nghiên cứu sự phát triển đội ngũ này.
Trong đó đưa ra quan niệm về phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên, về CNH,
HĐH Tây Nguyên và mối quan hệ giữa phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên với
sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH. Làm rõ những yếu tố cơ bản tác động đến
sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên.
148
Trên cơ sở đó, luận án đi vào đánh giá thực trạng phát triển ĐNTT ở
Tây Nguyên về mặt số lượng, cơ cấu, chất lượng và chính sách đối với sự
phát triển đội ngũ này, từ đó nêu ra những bất cập trong sự phát triển ĐNTT ở
Tây Nguyên và đề xuất một số quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu nhằm
tiếp tục phát triển đội ngũ này thời gian tới.
KIẾN NGHỊ
Qua việc đánh giá thực trạng phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên thời gian
qua và nhằm tiếp tục phát triển đội ngũ này trong thời gian tới, chúng tôi có
một số kiến nghị đến các cơ quan có thẩm quyền như sau:
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước quan tâm hơn và có chính sách khuyến
khích thoả đáng, đúng lúc với những người tiêu biểu trong các DTTS, đặc biệt
là những người có uy tín được nhân dân tôn vinh trong số các già làng. Đó là
những người tích luỹ nhiều kinh nghiệm trong thực tiễn sản xuất và đời sống,
đang đóng vai trò là người hướng dẫn đồng bào trong trồng trọt, chăn nuôi,
trồng và giữ rừng, giữ gìn, sáng tạo và quảng bá các giá trị văn hoá dân tộc.
Có hình thức thích hợp bồi dưỡng đối tượng này về tri thức khoa học, giúp đỡ
họ về tài chính và phương tiện vật chất khác để họ hoàn thành những thực
nghiệm mang tính sáng tạo có ích cho sản xuất và đời sống.
Nên từ thực tế mà đề xuất một số danh vị cho những người này, chẳng
hạn như danh vị trí thức dân gian (giống như nghệ nhân dân gian). Xây dựng
tiêu chí xét tặng danh vị đó để tránh sự xô bồ làm mất ý nghĩa các danh vị được
trao tặng. Theo chúng tôi trong các tiêu chí đó cần nhấn mạnh: Thứ nhất, sử
dụng thành thạo tiếng phổ thông và tiếng mẹ đẻ; Thứ hai, đã có những sáng tạo
trong việc phục vụ sản xuất hoặc trong lĩnh vực văn hoá, tinh thần được chính
quyền cấp tỉnh công nhận; Thứ ba, tham gia lưu giữ, truyền bá tri thức vào
cộng đồng các dân tộc; Thứ tư, được nhân dân ở nơi cư trú tín nhiệm, tôn vinh.
Cần nhìn vấn đề trên ở góc độ chính sách dân tộc, vừa khuyến khích,
nâng đỡ đồng bào các DTTS tự tin ở mình để vươn lên, vừa phản bác có
149
hiệu quả các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch nói rằng người
Kinh “dạy dỗ” người DTTS làm trí thức theo lối áp đặt, “đồng hoá cưỡng
bức”. Điều đó còn có tác dụng nhắc nhở những cán bộ người dân tộc đa số ở
Tây Nguyên khắc phục như nhà văn Nguyên Ngọc đã cảnh báo “Rất nhiều
những người đang định đến đấy để làm thay họ, với những ý định có thể là
tốt lành đấy nhưng vẫn tiềm ẩn một thứ tâm lý dân tộc lớn mà chính mình có
khi không nhận ra” [73]. Làm được những điều này hy vọng sẽ khuyến
khích được tinh thần hưng phấn suy nghĩ, tìm tòi của đồng bào các DTTS,
nhất là lớp trẻ.
Thứ hai, Trung ương cần xem xét xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù
trong công tác đào tạo, bồi dưỡng con em các DTTS ở Tây Nguyên. Về lâu
dài cần nâng cấp Trường Cao đẳng nghề dân tộc nội trú Tây Nguyên thành
Trường dự bị Đại học dân tộc Tây Nguyên (giống như Trường dự bị Đại học
dân tộc Trung ương). Đối tượng đào tạo trước hết là con em các DTTS ở các
tỉnh Tây Nguyên và các vùng phụ cận.
Trước mắt, cần cử một số cán bộ người DTTS có phẩm chất, năng lực
đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ ở trong và ngoài nước để tạo nguồn
giảng viên. Cùng với quá trình đó, cần biên soạn bộ giáo trình đào tạo bằng
một số ngôn ngữ dân tộc như Êđê, Gia rai, M’Nông… phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh và trình độ nhận thức của con em các DTTS ở Tây Nguyên.
Thứ ba, Trung ương cần nghiên cứu, xem xét chỉ đạo các cơ quan chức
năng xây dựng chính sách khuyến khích, luân chuyển, biệt phái một số nhà
khoa học, chuyên gia có trình độ cao, “đầu đàn” lên các tỉnh miền núi nói
chung và Tây Nguyên nói riêng công tác trong một khoảng thời gian nhất
định, có thể từ 6 tháng đến 2 năm để hỗ trợ, đào tạo, bồi dưỡng, tư vấn cho
các tỉnh Tây Nguyên. Việc này được thực hiện trên cơ sở đề xuất của các tỉnh
và coi việc thực hiện nhiệm vụ này như một tiêu chí bắt buộc để xét phong
học hàm giáo sư, phó giáo sư cũng như các danh hiệu khác.
150
Thứ tư, các cấp có thẩm quyền cần xem xét, phối hợp xây dựng bộ tiêu
chí đánh giá trí thức trên cơ sở cụ thể hoá Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X).
Việc xây dựng các tiêu chí đánh giá cần cụ thể, khoa học, toàn diện và mang
tính thực tiễn cao trên cơ sở phẩm chất, năng lực, sự cống hiến của trí thức.
Việc xây dựng bộ tiêu chí không chỉ giúp đánh giá đúng trí thức và thể hiện
sự coi trọng đối với trí thức mà còn là cơ sở, căn cứ để nhận biết trí thức.
Thứ năm, thành lập trung tâm phát triển nhân lực chất lượng cao trực
thuộc uỷ ban nhân dân tỉnh do một phó chủ tịch tỉnh đứng đầu và gồm một số
thành viên của những sở, ngành liên quan để tránh tăng thêm biên chế. Mục
đích của trung tâm này là tham mưu, đề xuất cho tỉnh những chính sách, giải
pháp phát triển, phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời thống
nhất quản lý nguồn lực này trên địa bàn toàn tỉnh. Nhiệm vụ của trung tâm là
tìm kiếm, đào tạo thu hút nhân tài từ các nơi về địa phương công tác; xây
dựng chính sách nhằm phát huy hiệu quả việc sử dụng nguồn lực này; phối
hợp với các ban, ngành, đơn vị liên quan giải quyết, tháo gỡ những khó khăn
trong việc thực hiện chính sách đối với nguồn nhân lực chất lượng cao. Việc
thành lập trung tâm không chỉ nhằm đảm bảo sự thống nhất trong quản lý
nguồn nhân lực chất lượng cao, tránh lãng phí, sử dụng không hiệu quả, mà
còn thể hiện tính chuyên nghiệp trong công tác tổ chức, cũng như sự trân
trọng, tôn vinh đối với trí thức. Trước mắt, trong khi chờ đợi thành lập trung
tâm thì nhiệm vụ này được giao cho liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật.
Thứ sáu, rà soát, sửa đổi, bổ sung Nghị định 45/2010/NĐ-CP, ngày
21/4/2010 "Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý Hội" và Quyết định số
68/2010/QĐ-TTg, ngày 01/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ về "Quy định
Hội có tính chất đặc thù" cho phù hợp với Nghị quyết 27-NQ/TW của Ban
Chấp hành Trung ương và Chỉ thị 42-CT/TW của Bộ Chính trị.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Lương Hữu Nam (2016), “Thực trạng đội ngũ trí thức tỉnh Lâm Đồng và
một số giải pháp phát triển phát huy vai trò của trí thức”, Tạp chí
Sinh hoạt Lý luận, (01), (134), tr.72-77.
2. Lương Hữu Nam (2016), “Nhận diện từ thực tiễn đội ngũ trí thức ở Tây
Nguyên hiện nay”, Tạp chí Sinh hoạt Lý luận, (08), (141), tr.62-66.
3. Lương Hữu Nam (2017), “Thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao ở
Tây Nguyên và những vấn đề đặt ra”, Kỷ yếu hội thảo khoa học cấp
quốc gia năm 2016 về phát triển kinh tế-xã hội vùng Tây Nguyên,
Nxb Nông nghiệp, tr.241-245.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đức Bách (2015), Báo cáo kết quả đề tài khoa học công nghệ:
Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đào tạo nguồn và sử dụng hiệu
quả nhân lực trí thức DTTS tại chỗ tỉnh Đắk Lắk, Viện Khoa học
Môi trường và Xã hội, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Trung ương (2002), Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính
trị về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh
vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010, Hà Nội.
3. Ban Chấp hành Trung ương (2011), Kết luận số 12-KL/TW của Bộ
Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ
Chính trị (Khoá IX) phát triển vùng Tây Nguyên thời kỳ 2011-
2020, Hà Nội.
4. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2011), Báo cáo tổng kết Nghị quyết 10-
NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển KT-XH và bảo đảm quốc
phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010, Hà Nội.
5. Báo điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam (2014), Đào tạo Đại học - Cao
đẳng ở Tây Nguyên: Sinh viên tốt nghiệp và… thất nghiệp (bài 1),
tại trang http://vov.vn, [truy cập ngày 30/8/2016].
6. Nguyễn Khánh Bật, Trần Thị Huyền (2012), Xây dựng ĐNTT thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị
quyết 10-NQ/TW về phát triển KT-XH vùng Tây Nguyên, Hà Nội.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Thông báo số 1394/TB-BGDĐT kết luận
tại Hội nghị các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên
nghiệp và dạy nghề về công tác đào tạo nguồn nhân lực cho Tây
Nguyên, Hà Nội.
153
9. Bộ Giao thông Vận tải (2010), Báo cáo số 4478/BC-BGTVT tổng kết 10
năm thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW về phát triển KT-XH vùng
Tây Nguyên, Hà Nội.
10. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2010), Báo cáo kết quả thực hiện
Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội vùng
Tây Nguyên và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng Tây Nguyên
thời kỳ 2001-2010, Hà Nội.
11. Bộ Nội vụ (2010), Báo cáo số 42/BC-BNV về kết quả triển khai thực
hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội
vùng Tây Nguyên và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng Tây
Nguyên thời kỳ 2001-2010, Hà Nội.
12. Bộ Y tế (2010), Báo cáo số 667/BC-BYT về tình hình y tế Tây Nguyên,
Hà Nội.
13. C.Mác, Ph.Ăngghen (1983), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr.47.
14. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
15. C.Mác, Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
16. Trịnh Quang Cảnh (2002), Trí thức người DTTS ở Việt Nam trong công
cuộc đổi mới, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
17. Chính phủ (2003), Quyết định số 253/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt đề án một số giải pháp củng cố, kiện toàn chính
quyền cơ sở vùng Tây Nguyên giai đoạn 2002-2010, Hà Nội.
18. Chính phủ (2004), Chỉ thị số 45/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
tăng cường thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục phát triển
vùng Tây Nguyên toàn diện, bền vững, Hà Nội.
19. Chính phủ (2004), Chỉ thị số16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
đấu tranh xoá bỏ tổ chức phản động FULRO đang nhen nhóm
phục hồi trên một số địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, Hà Nội.
154
20. Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (2016), Báo cáo phát triển con
người Việt Nam 2015, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
21. Cục Thống kê tỉnh Đắk Lắk (2011), Niên giám thống kê 2010, Đắk Lắk.
22. Cục Thống kê tỉnh Đắk Lắk (2016), Niên giám thống kê 2015, Đắk Lắk.
23. Cục Thống kê tỉnh Đắk Nông (2011), Niên giám thống kê 2010, Đắk Nông.
24. Cục Thống kê tỉnh Đắk Nông (2016), Niên giám thống kê 2015, Đắk Nông.
25. Cục Thống kê tỉnh Gia Lai (2011), Niên giám thống kê 2010, Gia Lai.
26. Cục Thống kê tỉnh Gia Lai (2016), Niên giám thống kê 2015, Gia Lai.
27. Cục Thống kê tỉnh Kon Tum (2011), Niên giám thống kê 2010, Kon Tum.
28. Cục Thống kê tỉnh Kon Tum (2016), Niên giám thống kê 2015, Kon Tum.
29. Cục Thống kê tỉnh Lâm Đồng (2010), Tổng điều tra dân số và nhà ở tỉnh
Lâm Đồng 2009, Lâm Đồng.
30. Cục Thống kê tỉnh Lâm Đồng (2011), Niên giám thống kê 2010, Lâm Đồng.
31. Cục Thống kê tỉnh Lâm Đồng (2016), Niên giám thống kê 2015, Lâm Đồng.
32. Trương Xuân Cừ (2013), Phát triển đội ngũ trí thức vùng Tây Bắc - Cần quan
tâm tới chính sách, địa chỉ truy cập baotintuc.vn, [truy cập ngày
25/5/2017].
33. Phạm Tất Dong (1994), Luận cứ khoa học cho các chính sách nhằm phát
huy năng lực sáng tạo của giới trí thức và sinh viên, Chương trình
KX04, Đề tài KX04-06, Hà Nội.
34. Trương Minh Dục (2014), "Xây dựng đội ngũ trí thức các tộc người ở Tây
Nguyên thời kỳ đổi mới", Tạp chí Lịch sử Đảng, (10), tr.78-83.
35. Phạm Thị Thu Dung (2014), Kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung
ương 7 (Khóa X) về xây dựng ĐNTT ở tỉnh Gia Lai, Thông tin
Tuyên giáo Gia Lai, tại trang http://www.thongtintuyengiaogialai.vn,
[truy cập ngày 17/10/2015].
36. Nguyễn Thành Dũng (2012), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp huyện ở các tỉnh Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay,
Luận án Tiến sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
155
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
39. Đảng cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 BCHTW
khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết Trung ương 7 khoá X về
xây dựng ĐNTT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Đảng uỷ Công an Trung ương (2010), Báo cáo tổng kết 10 năm thực
hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội
vùng Tây Nguyên và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây
Nguyên thời kỳ 2001-2010, Hà Nội.
44. Trần Đương (2007), Bác Hồ với nhân sĩ, trí thức, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
45. Đinh Ngọc Giang (2014), "Thu hút và trọng dụng nhân tài trong giai
đoạn hiện nay", Tạp chí Lý luận Chính trị, (4).
46. Nguyễn Thị Thanh Hà (2014), ĐNTT giáo dục đại học Việt Nam trong
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
47. Trần Sơn Hải (2011), Phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch khu vực
duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, Luận án Tiến sĩ Quản lý
hành chính công, Học viện Hành chính, Hà Nội.
156
48. Trương Thị Hạnh (2016), “Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội
vùng Tây Nguyên: Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Hội thảo
Đào tạo đại học với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
vùng Tây Nguyên hiện nay, Viện Khoa học xã hội vùng Tây
Nguyên, Đắk Lắk, tr.204-210.
49. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Trần Phương Hoa (2016), Vài nét về vai trò trí thức - quan điểm từ châu
Âu, tại trang http://www.chungta.com, [truy cập ngày 19/7/2016].
53. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn
khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2003), Giáo trình
Triết học Mác-Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Trần Việt Hùng (2012), "Phát huy vai trò của cán bộ người DTTS trong
phát triển KT-XH kết hợp với an ninh quốc phòng ở khu vực Tây
Nguyên", Hội thảo Quốc tế: Cơ chế đảm bảo quyền con người cho
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam và kinh nghiệm ở các nước khu
vực Đông Nam Á.
55. Nguyễn Đắc Hưng (2008), Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Nguyễn Thành Huy (2008), Xây dựng ĐNTT Việt Nam: Kinh nghiệm
của Phần Lan, tại trang http://tiasang.com.vn, [truy cập ngày
15/10/2015].
57. Jacques Dournes (2014), Pơ tao, một lý thuyết về quyền lực ở người
Jarai Đông Dương (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Tri thức, Hà Nội.
58. Nguyễn Văn Khánh (chủ biên) (2012), Nguồn lực trí tuệ Việt Nam, lịch
sử, hiện trạng và triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Vũ Khiêu (2014), Trí thức Việt Nam thời xưa, Nxb Thuận Hoá, Huế.
60. Lê Văn Khoa, Phạm Quang Tú (đồng chủ biên) (2014), Hướng tới phát
triển bền vững Tây Nguyên, Nxb Tri thức, Hà Nội.
157
61. Phan Thanh Khôi (1992), Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo
ở nước ta hiện nay, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Triết học, Học
viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội.
62. Bùi Thị Ngọc Lan (2000), Phát huy nguồn lực trí tuệ trong công cuộc
đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
63. Bùi Thị Ngọc Lan (2017), “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và một số
vấn đề đặt ra với Việt Nam”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (01),
tr.30-33.
64. Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Gia Lai (2012), Báo cáo đánh
giá 5 năm triển khai Nghị quyết số 27-NQ/TW (khóa X) về xây
dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, Gia Lai.
65. Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Gia Lai (2014), Thông tin về
nguồn nhân lực trình độ cao ở tỉnh Gia Lai, Gia Lai.
66. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Kon Tum (2013), Báo cáo về
nguồn nhân lực và chính sách khoa học và công nghệ trên địa bàn
tỉnh, Kon Tum.
67. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Lâm Đồng (2013), Báo cáo kết
quả nghiên cứu đề tài nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải
pháp xây dựng ĐNTT tỉnh Lâm Đồng, Lâm Đồng.
68. Nguyễn Võ Linh (2010), Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân
lực phục vụ phát triển KT-XH tỉnh Đắk Nông đến năm 2020, Viện
Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, Hà Nội.
69. Nguyễn Tiến Lực (2014), Đào tạo nguồn nhân lực ở Nhật Bản, bài học
cho Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
70. Lê Công Lương (2016), Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ khoa
học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
158
71. Hà Minh (2008), Chính sách thu hút nhân tài của Singapore: Bài bản và
chuyên nghiệp, tại trang http://dantri.com.vn, [truy cập ngày
22/7/2016].
72. Lê Hữu Nghĩa (chủ biên) (2001), Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện người các dân tộc ở Tây Nguyên,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73. Nguyên Ngọc (2007), "Một lớp trí thức mới của Tây Nguyên, hoàn toàn
là hiện thực", Tạp chí Tia Sáng, tại trang http://tiasang.com.vn,
[truy cập ngày 17/10/2015].
74. Nhà xuất bản Thuận Hoá (1998), Từ điển Tiếng Việt, Huế.
75. Nhà xuất bản Tiến bộ (1986), Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học,
Mátxcơva.
76. Nhà xuất bản Tiến bộ (1986), Từ điển Triết học, Mátxcơva.
77. Nhà xuất bản Từ điển (2005), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 4, Hà Nội.
78. Nhiều tác giả (2009), Về trí thức Nga, Nxb Tri thức, Hà Nội.
79. Nguyễn An Ninh (2008), Phát huy tiềm năng trí thức khoa học xã hội
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
80. Phùng Hữu Phú (2015), Xây dựng ĐNTT trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,
tại trang http://dangcongsan.vn, [truy cập ngày 10/10/2015].
81. Lê Văn Phục (2014), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Đà Nẵng,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
82. Lê Quang Quý (2005), Xây dựng ĐNTT ngành kiến trúc trong công cuộc
đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
83. Phạm S (2014), Nông nghiệp công nghệ cao tạo bước đột phát góp phần
phát triển kinh tế - xã hội Lâm Đồng nhanh và bền vững, Thông
tin khoa học công nghệ tỉnh Lâm Đồng, (3), 2014.
159
84. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đắk Lắk (2016), “Phát triển xã hội và
quản lý phát triển xã hội vùng Tây Nguyên: Những vấn đề lý luận và
thực tiễn”, Phát triển và đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ đổi
mới, Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên, Đắk Lắk tr.195-203.
85. Đỗ Thị Thạch (1999), Trí thức nữ Việt Nam trong công cuộc đổi mới
hiện nay - tiềm năng và phương hướng xây dựng, Luận án Tiến sĩ
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
86. Bùi Tất Thắng (2016), “Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội vùng
Tây Nguyên: Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Hội thảo Phát
triển và đào tạo nguồn nhân lực vùng Tây Nguyên trong thời kỳ đổi
mới, Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên, Đắk Lắk, tr.182-194.
87. Cao Văn Thông, Đỗ Xuân Tuất (2015), Chiến lược phát triển nhân tài
của Việt Nam hiện nay, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
88. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định 579/QĐ-TTG phê duyệt
Chiến lược triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020, Hà Nội.
89. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định 1216 /QĐ-TTG phê duyệt
Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020,
Hà Nội.
90. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định 936/QĐ-TTg phê duyệt Quy
hoạch tổng thể phát triển KT-XH vùng Tây Nguyên đến năm 2020,
Hà Nội.
91. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định phê duyệt quy hoạch xây dựng
vùng Tây Nguyên đến năm 2030, Hà Nội.
92. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định 276/QĐ-TTG về việc Kế hoạch
triển khai thực hiện Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị về
tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị
(Khoá IX) phát triển vùng Tây Nguyên thời kỳ 2011-2020, Hà Nội.
93. Tỉnh uỷ Đắk Lắk (2012), Báo cáo số 219-BC/TU tự kiểm tra việc lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa X) về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đắk Lắk.
160
94. Tỉnh uỷ Lâm Đồng (2008), Chương trình hành động thực hiện Nghị
quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về
xây dựng ĐNTT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, Lâm Đồng.
95. Tổng cục Thống kê (2014), Niên giám thống kê 2013, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
96. Tổng cục Thống kê (2016), Niên giám thống kê 2015, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
97. Nguyễn Công Trí (2012), Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế tri
thức, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
98. Nguyễn Tuấn Triết (2003), Tây Nguyên cuối thế kỷ XX vấn đề dân cư và
nguồn nhân lực, Nxb Khoa học xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh.
99. Phạm Thế Trịnh (2015), “Giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực
trí thức tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020”, Hội thảo Những đóng góp
của ĐNTT Đắk Lắk trong 30 năm đổi mới, Liên hiệp các hội khoa
học và kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk, tr.20-31.
100. Trương Trổ (2013), Báo cáo kết quả nghiên cứu thực trạng và đề xuất
các giải pháp xây dựng ĐNTT tỉnh Lâm Đồng, đề tài khoa học cấp
tỉnh, Lâm Đồng.
101. Trịnh Quốc Tuấn (1995), Quan điểm và chính sách của V.I.Lênin đối với
trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Nghiên cứu Lý
luận, (4), tr.7-10.
102. Trương Văn Tuấn (2014), Xây dựng đội ngũ trí thức tại thành phố Hồ
Chí Minh trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí
Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
103. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2011), Báo cáo Quy hoạch phát triển
nhân lực tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk.
161
104. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông (2011), Báo cáo Quy hoạch phát triển
nhân lực tỉnh Đắk Nông, Đắk Nông.
105. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông (2011), Quy hoạch phát triển nguồn
nhân lực tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2011 - 2020, Đắk Nông.
106. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Gia Lai (2011), Quy hoạch phát triển nhân lực
tỉnh Gia Lai giai đoạn 2011 - 2020, Gia Lai.
107. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Kon Tum (2011), Quy hoạch phát triển nguồn
nhân lực tỉnh Kon Tum, Kon Tum.
108. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Lâm Đồng (2012), Báo cáo tổng hợp quy hoạch phát
triển nhân lực tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2011-2020, Lâm Đồng.
109. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Lâm Đồng (2012), Quyết định 916/QĐ-UBND về
việc phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Lâm Đồng đến
năm 2020, Lâm Đồng.
110. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Lâm Đồng (2013), Báo cáo kết quả nghiên cứu đề
tài khoa học và công nghệ nghiên cứu thực trạng và đề xuất các
giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức tỉnh Lâm Đồng, Lâm Đồng.
111. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
112. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
113. Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên (2016), Kỷ yếu hội thảo phát
triển xã hội và quản lý phát triển xã hội vùng Tây Nguyên: Những
vấn đề lý luận và thực tiễn, Đắk Lắk.
114. Viện Ngôn ngữ học (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
115. Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
116. Đặng Văn Vũ (2011), Văn hoá và con người Tây Nguyên trong văn xuôi
nghệ thuật 1945 - 2000, Luận án Tiến sĩ văn học Việt Nam,
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí
Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
117. Đàm Đức Vượng (2014), Thực trạng và giải pháp xây dựng đội ngũ trí
thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
162
118. Cao Thị Thanh Xuân (2015), Phát triển đội ngũ hiệu trường trường
trung học phổ thông các tỉnh bắc Tây Nguyên trong bối cảnh đổi
mới giáo dục, Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục, Viện Khoa học
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
119. Trương Thị Bạch Yến (2014), Tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã
người dân tộc thiểu số các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay,
Luận án Tiến sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng đảng,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
120. Y Ghi Niê (2009), Đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp phát
huy trí tuệ của ĐNTT trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, đề tài khoa học
cấp tỉnh, Đắk Lắk.
121. Y Ngông Niê Kđăm (2006), Cuộc đời và trong lòng bạn bè, đồng
nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
163
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN
Nhằm đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp phát triển đội ngũ trí thức
ở Tây Nguyên, rất mong Ông/Bà cung cấp một số thông tin sau (bằng cách đánh
dấu x vào một trong các ô cho sẵn):
Giới tính: Nam Nữ
Tuổi:………..Dân tộc:……….
Trình độ học vấn: Trung cấp Cao đẳng Đại học
Thạc sĩ Tiến sĩ Khác
Trình độ lý luận chính trị: Sơ cấp Trung cấp Cao cấp
Cử nhân Khác
Lĩnh vực công tác: Đảng Chính quyền Mặt trận-Đoàn thể
Đơn vị sự nghiệp Doanh nghiệp Khác
1. Ông/Bà có quan tâm đến chính sách đối với trí thức không?
Có Không
2. Trình độ ngoại ngữ của Ông/Bà?
Chưa học Trình độ A Trình độ B
Trình độ C Cử nhân Khác:……….
3. Mức độ sử dụng ngoại ngữ của Ông/Bà như thế nào?
Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ
4. Trình độ tin học của Ông/Bà?
Chưa học Trình độ A Trình độ B
Trình độ C Cử nhân Khác:……….
5. Mức độ sử dụng tin học của Ông/Bà như thế nào?
Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ
6. Cơ sở vật chất phục vụ công việc của Ông/Bà như thế nào?
Rất tốt Tốt Bình thường Nghèo nàn
7. Môi trường công tác của Ông/Bà như thế nào?
Rất tốt Tốt Bình thường Khó phát triển
164
8. Khó khăn lớn nhất tác động tới sự phát triển của Ông/Bà là gì?
Lương thấp Môi trường công tác Cơ chế, chính sách
Cơ sở vật chất Khác:………………………………………..
9. Công việc hiện tại có phù hợp với chuyên ngành đào tạo của Ông/Bà không?
Phù hợp Tương đối Không phù hợp
10. Ông/Bà đã bao giờ viết bài nghiên cứu cho các tạp chí, sách, báo, hội thảo,
đề tài khoa học chưa?
Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ
11. Ông/Bà tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn nào không?
Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ
12. Ông/Bà hài lòng với vị trí công việc hiện nay không?
Rất hài lòng Hài lòng Không hài lòng
13. Ông/Bà đã bao giờ tham gia tư vấn, phản biện, giám định các chương trình,
đề tài, đề án… nào chưa?
Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ
14. Ông/Bà có tham gia các hoạt động đào tạo, truyền bá kiến thức cho cộng
đồng không?
Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ
15. Ông/Bà có muốn nâng cao trình độ, chuyên môn không?
Có Không Không cần thiết
16. Mức lương hiện nay làm cho Ông/Bà yên tâm công tác chưa?
Yên tâm Chưa yên tâm
17. Vị trí công tác của Ông/Bà đã tương xứng với cống hiến chưa?
Rất tương xứng Tương xứng Chưa tương xứng Khác
18. Theo Ông/Bà, đội ngũ trí thức của tỉnh hiện nay đã đáp ứng được yêu cầu
phát triển kinh tế-xã hội của địa phương chưa?
Đã đáp ứng Chưa đáp ứng Không biết
19. Ông/Bà cho biết chính sách đối với đội ngũ trí thức của tỉnh hiện nay?
Rất tốt Tốt Bình thường Chưa tốt Không rõ
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Ông/Bà
165
Phụ lục 2
BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ KHẢO SÁT ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN
Tổng số phiếu: 750 phiếu, trong đó: Nam: 472; Nữ: 278.
- Kon Tum: 134 phiếu. Nam: 85 Nữ: 49.
- Gia Lai: 165 phiếu. Nam: 103 Nữ: 62.
- Đắk Lắk: 159 phiếu. Nam: 98 Nữ: 61.
- Đắk Nông: 120 phiếu. Nam: 75 Nữ: 45.
- Lâm Đồng: 172 phiếu. Nam: 111 Nữ: 61.
Stt Nội dung/Tỉnh Kon tum Gia Lai Đắk Lắk Đắk Nông Lâm Đồng Tây Nguyên
1 Độ tuổi Số
phiếu Tỉ lệ
% Số
phiếu Tỉ lệ
% Số
phiếu Tỉ lệ
% Số
phiếu Tỉ lệ
% Số
phiếu Tỉ lệ
% Số
phiếu Tỉ lệ
%
Dưới 30 15 11,2 8 4,8 9 5,7 37 30,8 12 7,0 81 10,8
Từ 30 đến dưới 40 74 55,2 68 41,2 62 39,0 48 40,0 74 43,0 326 43,5
Từ 40 đến dưới 50 42 31,3 79 47,9 68 42,8 21 17,5 70 40,7 280 37,3
Trên 50 3 2,2 10 6,1 20 12,6 14 11,7 16 9,3 63 8,4
2 Dân tộc
Kinh 90 67,2 124 75,2 119 74,8 92 76,7 135 78,5 560 74,7
DTTS 44 32,8 41 24,8 40 25,2 28 23,3 37 21,5 190 25,3
166
3 Học vấn
Đại học 108 80,6 124 75,2 117 73,6 97 80,8 123 71,5 569 75,9
Thạc sĩ 24 17,9 34 20,6 30 18,9 23 19,2 35 20,3 146 19,5
Tiến sĩ 2 1,5 7 4,2 12 7,5 0 0,0 14 8,1 35 4,7
4 Lý luận chính trị
Sơ cấp 30 22,4 31 18,8 22 13,8 24 20,0 28 16,3 135 18,0
Trung cấp 53 39,6 62 37,6 64 40,3 47 39,2 79 45,9 305 40,7
Cao cấp 25 18,7 40 24,2 40 25,2 19 15,8 30 17,4 154 20,5
Cử nhân 7 5,2 15 9,1 18 11,3 9 7,5 18 10,5 67 8,9
Chưa học 19 14,2 17 10,3 15 9,4 21 17,5 17 9,9 89 11,9
5 Lĩnh vực công tác
Đảng 11 8,2 18 10,9 28 17,6 49 40,8 29 16,9 135 18,0
Chính quyền 45 33,6 72 43,6 60 37,7 16 13,3 40 23,3 233 31,1
Mặt trận-Đoàn thể 18 13,4 28 17,0 21 13,2 20 16,7 17 9,9 104 13,9
Đơn vị sự nghiệp 55 41,0 38 23,0 36 22,6 29 24,2 73 42,4 231 30,8
Doanh nghiệp 4 3,0 6 3,6 10 6,3 6 5,0 9 5,2 35 4,7
Khác 1 0,7 3 1,8 4 2,5 0 0,0 4 2,3 12 1,6
6 Ông/Bà có quan tâm đến chính sách đối với trí thức không?
Có 134 100,0 164 99,4 154 96,9 115 95,8 168 97,7 735 98,0
Không 0 0,0 1 0,6 5 3,1 5 4,2 4 2,3 15 2,0
7 Trình độ ngoại ngữ của Ông/Bà?
Chưa học 15 11,2 6 3,6 2 1,3 4 3,3 2 1,2 29 3,9
A 50 37,3 44 26,7 40 25,2 23 19,2 29 16,9 186 24,8
B 54 40,3 95 57,6 84 52,8 79 65,8 117 68,0 429 57,2
C 3 2,2 9 5,5 12 7,5 7 5,8 9 5,2 40 5,3
Cử nhân 5 3,7 8 4,8 8 5,0 4 3,3 6 3,5 31 4,1
Khác 7 5,2 3 1,8 13 8,2 3 2,5 9 5,2 35 4,7
167
8 Mức độ sử dụng ngoại ngữ của Ông/Bà như thế nào?
Thường xuyên 6 4,5 2 1,2 7 4,4 4 3,3 11 6,4 30 4,0
Thỉnh thoảng 82 61,2 128 77,6 117 73,6 86 71,7 118 68,6 531 70,8
Chưa bao giờ 46 34,3 35 21,2 35 22,0 30 25,0 43 25,0 189 25,2
9 Trình độ tin học của Ông/Bà?
Chưa học 4 3,0 0 0,0 5 3,1 3 2,5 2 1,2 14 1,9
A 74 55,2 84 50,9 60 37,7 43 35,8 79 45,9 340 45,3
B 52 38,8 68 41,2 74 46,5 65 54,2 80 46,5 339 45,2
C 2 1,5 2 1,2 2 1,3 1 0,8 2 1,2 9 1,2
Cử nhân 0 0,0 4 2,4 4 2,5 6 5,0 4 2,3 18 2,4
Khác 2 1,5 7 4,2 14 8,8 2 1,7 5 2,9 30 4,0
10 Mức độ sử dụng tin học của Ông/Bà như thế nào?
Thường xuyên 120 89,6 151 91,5 145 91,2 104 86,7 143 83,1 663 88,4
Thỉnh thoảng 13 9,7 14 8,5 13 8,2 12 10,0 27 15,7 79 10,5
Chưa bao giờ 1 0,7 0 0,0 1 0,6 4 3,3 2 1,2 8 1,1
11 Cơ sở vật chất phục vụ công việc của Ông/Bà như thế nào?
Rất tốt 6 4,5 16 9,7 7 4,4 22 18,3 22 12,8 73 9,7
Tốt 57 42,5 72 43,6 82 51,6 56 46,7 96 55,8 363 48,4
Bình thường 66 49,3 70 42,4 67 42,1 39 32,5 54 31,4 296 39,5
Nghèo nàn 5 3,7 7 4,2 3 1,9 3 2,5 0 0,0 18 2,4
12 Môi trường làm việc của Ông/Bà như thế nào?
Rất tốt 4 3,0 10 6,1 8 5,0 18 15,0 14 8,1 54 7,2
Tốt 64 47,8 74 44,8 73 45,9 65 54,2 94 54,7 370 49,3
Bình thường 58 43,3 71 43,0 61 38,4 29 24,2 59 34,3 278 37,1
Khó phát triển 8 6,0 10 6,1 17 10,7 8 6,7 5 2,9 48 6,4
168
13 Khó khăn lớn nhất tác động tới sự phát triển của Ông/Bà là gì?
Lương thấp 55 41,0 55 33,3 60 37,7 50 41,7 80 46,5 300 40,0
Môi trường làm việc 32 23,9 26 15,8 22 13,8 13 10,8 29 16,9 122 16,3
Cơ chế chính sách 26 19,4 65 39,4 59 37,1 32 26,7 40 23,3 222 29,6
Cơ sở vật chất 13 9,7 8 4,8 6 3,8 4 3,3 6 3,5 37 4,9
Khác 8 6,0 11 6,7 12 7,5 21 17,5 17 9,9 69 9,2
14 Công việc hiện tại có phù hợp với chuyên ngành đào tạo của Ông/Bà không?
Phù hợp 72 53,7 99 60,0 77 48,4 54 45,0 93 54,1 395 52,7
Tương đối 44 32,8 39 23,6 62 39,0 45 37,5 53 30,8 243 32,4
Không phù hợp 18 13,4 27 16,4 20 12,6 21 17,5 26 15,1 112 14,9
15 Ông/Bà đã bao giờ viết bài nghiên cứu cho các tạp chí, sách, báo, hội thảo, đề tài khoa học chưa?
Thường xuyên 5 3,7 9 60,0 7 48,4 5 45,0 13 54,1 39 5,2
Thỉnh thoảng 50 37,3 54 23,6 61 39,0 47 37,5 64 30,8 276 36,8
Chưa bao giờ 79 59,0 102 16,4 91 12,6 68 17,5 95 15,1 435 58,0
16 Ông/Bà tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn nào không?
Thường xuyên 35 26,1 41 24,8 34 21,4 10 8,3 24 14,0 144 19,2
Thỉnh thoảng 98 73,1 124 75,2 122 76,7 101 84,2 138 80,2 583 77,7
Chưa bao giờ 1 0,7 0 0,0 3 1,9 9 7,5 10 5,8 23 3,1
17 Ông/Bà hài lòng với vị trí công việc hiện nay không?
Rất hài lòng 14 10,4 19 11,5 16 10,1 11 9,2 18 10,5 78 10,4
Hài lòng 103 76,9 127 77,0 125 78,6 99 82,5 134 77,9 588 78,4
Không hài lòng 17 12,7 19 11,5 18 11,3 10 8,3 20 11,6 84 11,2
18 Ông/Bà đã bao giờ tham gia tư vấn, phản biện, giám định các chương trình, đề tài, đề án… nào chưa?
Thường xuyên 6 4,5 11 6,7 11 6,9 6 5,0 19 11,0 53 7,1
Thỉnh thoảng 40 29,9 60 36,4 79 49,7 35 29,2 74 43,0 288 38,4
Chưa bao giờ 88 65,7 94 57,0 69 43,4 79 65,8 79 45,9 409 54,5
169
19 Ông/Bà có tham gia các hoạt động đào tạo, truyền bá kiến thức cho cộng đồng không?
Thường xuyên 18 13,4 9 5,5 17 10,7 10 8,3 17 9,9 71 9,5
Thỉnh thoảng 81 60,4 115 69,7 100,0 62,9 63 52,5 99 57,6 458 61,1
Chưa bao giờ 35 26,1 41 24,8 42,0 26,4 47 39,2 56 32,6 221 29,5
20 Ông/Bà có muốn nâng cao trình độ, chuyên môn không?
Có 126 94,0 164 99,4 150,0 94,3 110 91,7 161 93,6 711 94,8
Không 4 3,0 0 0,0 8,0 5,0 5 4,2 6 3,5 23 3,1
Không cần thiết 4 3,0 1 0,6 1,0 0,6 5 4,2 5 2,9 16 2,1
21 Mức lương hiện nay làm cho Ông/Bà yên tâm công tác chưa?
Yên tâm 43 32,1 42 25,5 34,0 21,4 41 34,2 44 25,6 204 27,2
Chưa yên tâm 91 67,9 123 74,5 125,0 78,6 79 65,8 128 74,4 546 72,8
22 Vị trí công tác của Ông/Bà đã tương xứng với cống hiến chưa?
Rất tương xứng 2 1,5 4 2,4 5,0 3,1 7 5,8 5 2,9 23 3,1
Tương xứng 82 61,2 113 68,5 93,0 58,5 76 63,3 113 65,7 477 63,6
Chưa tương xứng 45 33,6 44 26,7 56,0 35,2 31 25,8 43 25,0 219 29,2
Khác 5 3,7 4 2,4 5,0 3,1 6 5,0 11 6,4 31 4,1
23 Theo Ông/Bà, đội ngũ trí thức của tỉnh hiện nay đã đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương chưa?
Đã đáp ứng 26 19,4 17 10,3 22,0 13,8 21 17,5 32 18,6 118 15,7
Chưa đáp ứng 96 71,6 135 81,8 132,0 83,0 82 68,3 122 70,9 567 75,6
Không biêt 12 9,0 13 7,9 5,0 3,1 17 14,2 18 10,5 65 8,7
24 Ông/Bà cho biết chính sách đối với đội ngũ trí thức của tỉnh hiện nay?
Rất tốt 0 0,0 0 0,0 0,0 0,0 2 1,7 1 0,6 3 0,4
Tốt 22 16,4 16 9,7 3,0 1,9 16 13,3 20 11,6 77 10,3
Bình thường 54 40,3 96 58,2 80,0 50,3 73 60,8 90 52,3 393 52,4
Chưa tốt 51 38,1 47 28,5 71,0 44,7 17 14,2 47 27,3 233 31,1
Không rõ 7 5,2 6 3,6 5,0 3,1 12 10,0 14 8,1 44 5,9
170
Phụ lục 3
SỐ NGƯỜI CÓ TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC TRỞ LÊN Ở TÂY NGUYÊN.
Đơn vị tính: Người.
Tỉnh Tổng số Tiến sĩ Thạc sĩ Cử nhân Kon Tum 11.452 10 269 11.173 Gia Lai 30.871 39 1.205 29.627 Đắk Lắk 33.136 143 1.003 31.990 Đắk Nông 5.435 02 85 5.348 Lâm Đồng 29.811 161 999 28.651 Tây Nguyên 110.705 355 3.561 106.789
Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở [64; 65; 66; 67; 68; 103; 104; 106; 107; 108; 110].
Phụ lục 4
BẢN ĐỒ 5 TỈNH TÂY NGUYÊN
Nguồn: http://vnwin.vn/bandovietnam_namtrungbo/lam-dong/