phÁt triỂn ĐỘi ngŨ trÍ thỨc Ở tÂy nguyÊn thỜi kỲ ĐẨy...

176
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH LƯƠNG HỮU NAM PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC HÀ NỘI - 2017

Upload: others

Post on 30-Aug-2019

2 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LƯƠNG HỮU NAM

PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC

Ở TÂY NGUYÊN THỜI KỲ ĐẨY MẠNH

CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

HÀ NỘI - 2017

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LƯƠNG HỮU NAM

PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC

Ở TÂY NGUYÊN THỜI KỲ ĐẨY MẠNH

CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Mã số: 62 22 03 08

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. GS.TS TRỊNH QUỐC TUẤN

2. TS. ĐINH KHẮC TUẤN

HÀ NỘI - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung

thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo

quy định.

Tác giả

Lương Hữu Nam

MỤC LỤC Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI 5

1.1. Những công trình nghiên cứu về đội ngũ trí thức và phát triển đội ngũ

trí thức 5

1.2. Những công trình nghiên cứu về đội ngũ trí thức và phát triển đội ngũ trí

thức ở Tây Nguyên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá 16

1.3. Những giá trị của các công trình và vấn đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu 25

Chương 2: PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN THỜI KỲ

ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ - NHỮNG VẤN ĐỀ

LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 28

2.1. Một số quan niệm cơ bản 28

2.2. Mối quan hệ giữa phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên với sự nghiệp

đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá 39

2.3. Những yếu tố cơ bản tác động đến sự phát triển đội ngũ trí thức ở

Tây Nguyên 54

Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY

NGUYÊN THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 68

3.1. Thực trạng phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên 68

3.2. Những vấn đề chủ yếu đặt ra đối với sự phát triển đội ngũ trí thức ở

Tây Nguyên hiện nay 104

Chương 4: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TIẾP TỤC

PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY 114

4.1. Những quan điểm cơ bản tiếp tục phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên

hiện nay 114

4.2. Những giải pháp chủ yếu tiếp tục phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên

hiện nay 123

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 147

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152

PHỤ LỤC 163

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNTT Công nghệ thông tin

DTTS Dân tộc thiểu số

ĐNTT Đội ngũ trí thức

GDĐT Giáo dục, đào tạo

KHCN Khoa học và công nghệ

KTTT Kinh tế tri thức

KT-XH Kinh tế - xã hội

NCKH Nghiên cứu khoa học

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 2.1: Cơ cấu GDP vùng Tây Nguyên giai đoạn 2001 - 2015 59

Bảng 2.2: GDP bình quân đầu người ở Tây Nguyên giai đoạn

2001 - 2015 59

Bảng 3.1: Tỉ lệ người có trình độ đại học trở lên theo trình độ và so

với dân số, lực lượng lao động 70

Bảng 3.2: Tỉ lệ trí thức dân tộc thiểu số trong cơ cấu đội ngũ trí

thức ở Tây Nguyên 78

Bảng 3.3: Chi cho sự nghiệp khoa học của các tỉnh Tây Nguyên 97

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Trang

Biểu 3.1: Cơ cấu trình độ học vấn của đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên. 76

Biểu 3.2: Trình độ lý luận chính trị của đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên

phân theo trình độ học vấn 90

Biểu 3.3: Cơ sở vật chất phục vụ công việc cho đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên 96

Biểu 3.4: Những khó khăn tác động đến sự phát triển đội ngũ trí thức ở

Tây Nguyên hiện nay 98

Biểu 3.5: Đánh giá của trí thức ở Tây Nguyên về các chính sách đối với

đội ngũ trí thức 102

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trí thức là vốn quý của dân tộc, là hiện thân trí tuệ của thời đại. Xã hội

càng phát triển, vị trí, vai trò của trí thức càng được đề cao, nhất là trong bối

cảnh cuộc cách mạng KHCN lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, với sự cạnh

tranh về chất xám ngày càng tăng.

Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định:

Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ

trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày

nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học

và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt

quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược

phát triển [40, tr.81].

Bởi vậy, phát triển ĐNTT chính là nâng tầm trí tuệ, sức mạnh của dân

tộc, qua đó góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất

nước theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XII của Đảng khẳng định “xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có

chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước” [42, tr.161].

Tây Nguyên là vùng đất giàu tiềm năng, thế mạnh về tài nguyên thiên

nhiên và việc khai thác các yếu tố này đã thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy

nhiên, do chưa tìm hiểu, đánh giá đầy đủ và thấu đáo dẫn đến sự hiểu biết về

vùng đất, con người nơi đây còn nhiều hạn chế. Tư duy khai thác mang tính

tận thu, tận diệt vẫn là chủ đạo ở nhiều cấp, nhiều ngành và người dân ở đây,

chưa hình thành tư duy khai thác gắn với bảo tồn, phát triển. Hệ quả là rừng

bị tàn phá, môi trường sinh thái xuống cấp nghiêm trọng; cơ cấu dân cư có

nhiều thay đổi và xáo trộn không theo quy hoạch; nhiều vấn đề phức tạp nảy

sinh, tác động xấu đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đe doạ đến sự

ổn định và phát triển Tây Nguyên, từ đó dễ tạo ra những lỗ hổng, kẽ hở cho

các thế lực thù địch, phản động chống phá.

2

Thực tế trên cho thấy, để đảm bảo sự ổn định, phát triển nhanh và bền

vững thì Tây Nguyên cần phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng

sang kết hợp chiều rộng với chiều sâu. Trong đó, cần phải xây dựng nguồn

nhân lực chất lượng cao làm bước đột phá. Giải quyết bài toán này chính là

gỡ nút thắt cho sự đi lên nơi đây. Song tìm ra lời giải cho bài toán không phải

là việc dễ dàng mà hết sức khó khăn. Nhất là trong một thời gian dài Tây

Nguyên là vùng trũng về GDĐT, kéo theo đó là nguồn nhân lực nói chung và

ĐNTT nói riêng còn nhiều hạn chế, bất cập về số lượng, chất lượng và cơ cấu.

Bên cạnh đó, trong những năm qua dù đã có nhiều công trình khoa học

nghiên cứu về Tây Nguyên nhưng dưới góc độ triết học chưa có đề tài nào

nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên.

Điều đó cũng đặt ra sự cần thiết phải tìm hiểu về lĩnh vực này.

Xuất phát từ những lý do trên, việc tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá thực

trạng phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên để xác định quan điểm, giải pháp tiếp

tục phát huy, phát triển đội ngũ này có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về mặt

lý luận và thực tiễn. Hơn nữa, là một người con sinh sống, trưởng thành và

công tác hơn 30 năm qua ở Tây Nguyên, với mong muốn đóng góp một phần

sức lực nhỏ bé của mình vào quá trình phát triển, coi như một sự tri ân đối với

vùng đất và con người nơi đây đã nuôi dưỡng, đùm bọc mình, vì vậy, nghiên

cứu sinh chọn đề tài “Phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” làm luận án tiến sĩ triết học, chuyên

ngành chủ nghĩa xã hội khoa học.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu

Thông qua việc đánh giá thực trạng phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên

thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, luận án đề xuất các quan điểm cơ bản, giải

pháp chủ yếu nhằm tiếp tục phát triển đội ngũ này trong thời gian tới, đáp ứng

yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH Tây Nguyên.

3

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận án khái quát các công trình nghiên cứu về trí thức, phát triển

ĐNTT nói chung và ở Tây Nguyên thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH nói riêng.

Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên. Đưa ra

quan niệm về phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên, những yếu tố tác động đến sự

phát triển. Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng phát triển đội ngũ này ở Tây

Nguyên và chỉ rõ những vấn đề đặt ra, từ đó đề xuất các quan điểm, giải pháp.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án nghiên cứu ĐNTT và phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận án nghiên cứu ĐNTT và sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên từ

năm 1996 đến nay.

4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án

4.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn

- Cơ sở lý luận: Việc thực hiện luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ

nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và pháp luật

của Nhà nước về trí thức, phát triển ĐNTT. Luận án còn kế thừa có chọn lọc

những thành tựu nghiên cứu lý luận của ngành khoa học xã hội và nhân văn

liên quan đến đề tài.

- Cơ sở thực tiễn: Thực trạng phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên thời kỳ

đẩy mạnh CNH, HĐH.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận: Luận án vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy

vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào quá trình nghiên cứu.

- Nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Là những tài liệu thu thập được từ các

nghị quyết, quyết định, báo cáo, các công trình nghiên cứu đã công bố và các

tài liệu khác liên quan đến đề tài.

- Phương pháp điều tra xã hội học: Xây dựng và sử dụng bảng hỏi để lấy

ý kiến. Trên cơ sở dữ liệu thu thập được, tiến hành xử lý và phân tích theo mục

4

đích, yêu cầu và nội dung nghiên cứu. Để đạt được mục đích, yêu cầu, nghiên

cứu sinh tiến hành khảo sát 5 tỉnh Tây Nguyên. Tổng số phiếu khảo sát là 750

phiếu. Đối tượng được khảo sát là những người có trình độ đại học trở lên, đang

công tác và làm việc ở các cơ quan, đơn vị trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên.

Thời gian tiến hành khảo sát từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 5 năm 2016.

Sau khi lấy ý kiến, nghiên cứu sinh sử dụng phần mềm thống kê xã hội

học (phần mềm SPSS) để xử lý và phân tích các dữ liệu thu được từ các phiếu

khảo sát, trong đó có sự phân tích mối tương quan giữa các câu trả lời để làm

cơ sở cho việc nhận định, đánh giá thực trạng.

- Phương pháp trình bày nội dung luận án: Lịch sử - lôgíc, phân tích -

tổng hợp, so sánh, thống kê.

5. Đóng góp mới của luận án

- Luận án đưa ra quan niệm về ĐNTT, phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên.

Mối quan hệ giữa phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên với đẩy mạnh CNH, HĐH

và những yếu tố cơ bản tác động đến sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên.

- Cung cấp một cách nhìn về thực trạng ĐNTT và phát triển ĐNTT ở

Tây Nguyên thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và những vấn đề đặt ra

trong quá trình phát triển đội ngũ này.

- Đề xuất và đưa ra các quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu tiếp tục

phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên trong những năm tới.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Ý nghĩa lý luận: Góp phần bổ sung một số nội dung lý luận về ĐNTT

và phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên để hoàn thiện thêm cơ sở cho việc xem

xét, hoạch định chính sách đối với sự phát triển đội ngũ này.

- Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần làm sáng tỏ thực trạng phát triển ĐNTT

ở Tây Nguyên và những giải pháp tiếp tục phát triển đội ngũ này.

Luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình đã công bố của tác

giả, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 10 tiết.

5

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Cùng với sự phát triển nhanh chóng và ngày càng mạnh mẽ của KHCN,

KTTT, những năm qua đã có nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập

đến các phương diện khác nhau của ĐNTT. Điều đó thể hiện vị trí, vai trò của

đội ngũ này ngày càng quan trọng đối với sự phát triển. Liên quan đến vấn đề

trên, có thể kể đến một số công trình khoa học tiêu biểu sau:

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VÀ

PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC

1.1.1. Những công trình nghiên cứu về đội ngũ trí thức

- Trí thức Việt Nam thời xưa, của Vũ Khiêu [59]: Khẳng định: Trí thức

Việt Nam dù ngày xưa hay hôm nay đều chung một dòng chảy. Thời kỳ khác

nhau có thể đem lại sự khác nhau giữa các thế hệ trí thức Việt Nam về hoàn

cảnh xã hội, nhiệm vụ lịch sử, cách thức tư duy và hành động nhưng điều đó

không làm lu mờ phẩm chất bền vững của họ từ xưa đến nay, đó là sự gắn bó

máu thịt với dân tộc, cùng với dân tộc nổi chìm trong dòng chảy lịch sử:

Hưng thịnh hay suy vong; vinh quang hay tủi nhục; thành công hay thất bại.

Từ đó tác giả khẳng định: Trí thức thời xưa vẫn còn gửi lại trí thức hôm nay

những hoài bão chưa thực hiện được và những lo lắng khôn nguôi về vận

mệnh của dân tộc, đất nước.

- Bác Hồ với nhân sĩ trí thức, do Trần Đương (biên soạn) [44]: Cuốn

sách là sự chắt lọc, hệ thống hoá các nguồn tư liệu thành những bài viết về

mối quan hệ và ảnh hưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với nhân sĩ, trí

thức Việt Nam thời kỳ đất nước mới giành được độc lập, đang rất cần những

người có tâm, có tài để phục vụ sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Người đã

quy tụ được đông đảo nhân sĩ, trí thức rất nổi tiếng và tài năng, cả những

người đã từng phục vụ trong chế độ cũ, các nhà khoa học đã thành danh ở

nước ngoài trở về với dân tộc, cống hiến tài năng cho sự nghiệp cách mạng.

6

Qua cuốn sách cho ta thấy được những phẩm chất cao quý của trí thức

chân chính đó là đức tính khiêm tốn, giản dị, tâm huyết với ngành, nghề của

mình và luôn trung thành với Đảng, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng.

Đồng thời, thấy được tâm đức, nghệ thuật của Bác Hồ trong việc cảm hóa, thu

hút và sử dụng trí thức, trong đó đầu tiên là việc phát hiện trí thức; sự chân

thành, cầu thị và niềm tin của Người vào trí thức.

- Về trí thức Nga, nhiều tác giả (Nga), do La Thành và Phạm Nguyên

Trường dịch [78]: Nhấn mạnh đến khía cạnh đạo đức trong định nghĩa trí

thức. Trí thức Nga được hiểu là một tầng lớp xã hội theo nghĩa một lớp người

tương đối đông về số lượng và có sự liên kết nội tại mật thiết và thống nhất.

Đặc điểm phân biệt họ với các tầng lớp xã hội khác là họ có trình độ cao hơn

so với mặt bằng chung của xã hội trong những thời kỳ lịch sử nhất định, luôn

tự ý thức về sứ mệnh của mình đối với toàn thể cộng đồng và có thái độ dấn

thân để thực hiện sứ mệnh đem lại tương lai tươi sáng cho cộng đồng.

Các tác giả nhấn mạnh phẩm chất, tính cách trí thức trước hết là tính

độc lập trong tư duy, “những con người tự do trong đức tin của mình, những

con người không bị lệ thuộc bởi các ràng buộc về kinh tế, đảng phái, quyền

chính, không phải tuân phục các khế ước tư tưởng, mới thuộc giới trí thức”

[78, tr.240].

- Nguồn lực trí tuệ Việt Nam, lịch sử, hiện trạng và triển vọng, của

Nguyễn Văn Khánh (chủ biên) [58]: Từ phương pháp tiếp cận mang tính liên

ngành, cuốn sách đánh giá nguồn lực trí tuệ Việt Nam và xây dựng, phát huy

nguồn lực trí tuệ; những yếu tố thúc đẩy, cản trở việc phát huy nguồn lực này.

Từ đó đề xuất giải pháp và khuyến nghị về mặt chính sách nhằm phát triển

nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất

nước. Trong đó nhấn mạnh ba giải pháp chủ yếu, đó là: Chống chảy máu chất

xám; hoàn thiện chính sách bảo hộ tài sản trí tuệ; chú trọng xây dựng và phát

huy nguồn lực trí thức nữ, DTTS và trí thức Việt kiều.

7

- Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại, của Nguyễn Đắc Hưng [55]:

Khái quát về trí thức và ĐNTT, phân tích nội hàm khái niệm trí thức, theo đó:

Trí thức là những người không chỉ có trình độ học vấn và chuyên môn cao,

lao động bằng trí óc trên mọi lĩnh vực của đời sống KT-XH mà còn phải có

khả năng sáng tạo ra tri thức và vận dụng tri thức vào thực tiễn, làm ra của

cải, phục vụ nhu cầu con người và phát triển xã hội. Tác giả cũng chỉ ra

những thách thức mới đòi hỏi ĐNTT phải phát huy vai trò trong công tác dự

báo và chủ động trước những biến đổi nhanh chóng của tình hình trong nước

và thế giới. Đồng thời, qua phân tích vai trò của GDĐT, cho thấy sự cần thiết

của việc đổi mới công tác GDĐT và chính sách thu hút, sử dụng trí thức.

- Trí thức nữ Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay - tiềm năng

và phương hướng xây dựng, của Đỗ Thị Thạch [85]: Đây là công trình nghiên

cứu chuyên sâu về lực lượng trí thức nữ. Tác giả đã có những đóng góp mới

cả về lý luận và thực tiễn khi kiến giải tiềm năng cũng như vai trò to lớn của

lực lượng trí thức nữ Việt Nam đối với sự phát triển của đời sống xã hội. Xuất

phát từ thái độ tôn trọng, tin vào khả năng đóng góp của lực lượng này, tác

giả đề xuất những phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm phát huy tiềm năng,

vai trò của lực lượng trí thức nữ trong sự nghiệp cách mạng, nhất là trong quá

trình đổi mới đất nước.

- Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới,

của Trịnh Quang Cảnh [16]: Nghiên cứu dưới góc độ chính trị - xã hội về trí

thức DTTS ở Việt Nam với tư cách là một bộ phận trong tầng lớp trí thức

Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá thực trạng việc sử dụng nguồn lực trí tuệ, trí

thức người DTTS và tình hình ĐNTT DTTS, tác giả đề xuất phương hướng

và một số giải pháp nhằm phát huy, phát triển tiềm năng trí tuệ của đội ngũ

này đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH vùng miền núi, DTTS.

- Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế tri thức, của Nguyễn Công

Trí [97]: Từ cách tiếp cận tổng hợp, tác giả nêu lên những đặc trưng, tiêu chí

cơ bản để xác định trí thức, vai trò của đội ngũ này trong điều kiện phát triển

8

KTTT. Trí thức là người lao động trí óc và thường có trình độ học vấn cao,

được đào tạo hoặc tự đào tạo. Giá trị quan trọng nhất của trí thức chân chính

đó là chân lý và lẽ phải; trí thức là người tự tin và ngay thẳng, có lòng tự

trọng, khả năng hành xử đúng mực.

- Đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam trong đào tạo nguồn nhân

lực chất lượng cao thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, của

Nguyễn Thị Thanh Hà [46]: Trình bày những quan niệm, đặc điểm và vai trò

của ĐNTT giáo dục đại học đối với đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở

Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đi vào phân tích, đánh giá thực trạng và đề

xuất những quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò

ĐNTT giáo dục đại học trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.

- Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức

trong giai đoạn hiện nay, của Lê Công Lương [70]: Khẳng định trí thức là

vốn quý của dân tộc, là lực lượng tiêu biểu, thể hiện trình độ của một quốc

gia. Tác giả trình bày một số quan niệm về trí thức và công tác vận động trí

thức. Đánh giá thực trạng, chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân và rút ra những

kinh nghiệm lãnh đạo công tác vận động trí thức làm cơ sở thực tiễn cho việc

đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công tác vận động

trí thức. Dự báo thuận lợi, khó khăn, từ đó xác định mục tiêu, yêu cầu và đề

xuất các giải pháp tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận

động trí thức đến năm 2025.

- Quan điểm và chính sách của V.I.Lênin đối với trí thức trong cách

mạng xã hội chủ nghĩa, của Trịnh Quốc Tuấn [101]: Bài nghiên cứu khẳng

định trí thức có vai trò hết sức quan trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa,

vì vậy cần phải phát huy tiềm năng trí tuệ, nếu không “thì cuộc cách mạng xã

hội chủ nghĩa nổ ra và giành những thắng lợi rực rỡ sẽ ngừng lại bởi thiếu sự

phát động khởi nguồn và xã hội khó tránh khỏi lâm vào khủng hoảng” [101,

tr.8]. Đồng thời, tác giả cũng nhấn mạnh, V.I.Lênin đã từ bản thân mình là

một trí thức để nhìn nhận tầng lớp trí thức, qua đó có chính sách đúng đắn đối

9

với trí thức. Tác giả khẳng định đặc trưng nổi bật nhất của trí thức là nhân

cách sáng tạo. Và để phát huy vai trò ĐNTT cần phải tạo điều kiện cho họ

được làm việc theo nguyện vọng, sở trường và tài năng; quan tâm cải thiện

đời sống vật chất và tinh thần để tạo điều kiện cho họ làm việc, cống hiến; có

môi trường tự do cho lao động sáng tạo, có không khí dân chủ để giao lưu.

- Vài nét về vai trò của trí thức - quan điểm từ châu Âu, của Trần

Phương Hoa [52]: Khẳng định lịch sử văn hoá, văn minh châu Âu là lịch sử

của các dòng chảy tư tưởng, trong đó có sự đóng góp của trí thức. Đồng thời

đưa ra những cách nhìn nhận về trí thức:

Trước hết, người Anh dùng khái niệm “intellectual” để nói về văn

hóa của họ, một nền văn hóa được đúc kết từ trí tuệ của con người.

Sau sự kiện Dreyfus ở Pháp, nước Anh mới tập trung vào

“intellectual” như là một giai tầng đặc biệt và vấn đề trách nhiệm

của họ đối với xã hội. Trước thế kỷ XIX, khái niệm “intellectual”

hoặc “intelligentsia” không được sử dụng để chỉ một “giai tầng”.

Những người làm việc trí óc được mô tả qua các từ “clerisy” (trí

thức), “man of letter”, “literary men” (kẻ sĩ), hoặc “cultivators of

science” (người vun trồng khoa học). Sau những năm 1870, 1880

mới dùng các từ “intellectual” [52].

Bài nghiên cứu cũng đề cập đến việc các nhà nghiên cứu châu Âu phân

biệt 5 nghĩa khác nhau của khái niệm trí thức: Trí thức là “học giả”; trí thức

được dùng như tính từ có nghĩa là “trí tuệ”: Trí thức là người có trí tuệ,

thường có nghĩa bổ sung là người có học thức cao, phân biệt với những người

làm việc tay chân; trí thức là người có tư duy độc lập và có đầu óc phê phán;

trí thức là người thực hiện các chức năng xã hội hoặc vì xã hội; trí thức, ngoài

chức năng định hướng văn hóa còn có vai trò định hướng chính trị và xã hội,

họ phải có vai trò can thiệp vào đời sống chính trị và có tiếng nói đối với nhà

cầm quyền dựa trên quan điểm khoa học.

10

- Chính sách thu hút nhân tài của Singapore: Bài bản và chuyên

nghiệp, của Hà Minh [71]: Nêu lên những kinh nghiệm trong việc thu hút

nhân tài của Singapore, trong đó nhấn mạnh đến sự rõ ràng, bài bản và

chuyên nghiệp trong chính sách; thực hiện mức lương tương xứng với giá trị

chất xám; quan tâm đến giáo dục và có niềm tin mãnh liệt đối với nhân tài.

Các Bộ trưởng Singapore cũng đều tốt nghiệp các trường đại học

nổi tiếng tầm cỡ thế giới. Ông Lý Quang Diệu có quan điểm rất rõ

ràng: Lãnh đạo giỏi là đầu tàu định hướng cho đất nước phát triển,

nên không thể thăng quan tiến chức nhờ quan hệ cửa trước cửa sau

hay sẵn sàng ngã giá để mua danh bán tước. Ông nói: "Lãnh đạo

dốt sẽ ngáng chân những người giỏi, không cho họ ngồi vào những

vị trí quan trọng". Ở Singapore, những người tài thực sự được coi là

thịt, là da đắp vào bộ khung lãnh đạo quốc gia [71].

Qua một số công trình khoa học tiêu biểu nêu trên cho thấy, ĐNTT

được các nhà nghiên cứu đề cập khá đầy đủ ở nhiều khía cạnh khác nhau từ

khái niệm, vị trí, vai trò, đặc điểm, phẩm chất đến thực trạng và giải pháp đối

với đội ngũ này. Ngoài các nội dung thống nhất thì vẫn còn những quan niệm

khác nhau khi đề cập đến trí thức và ĐNTT. Điều đó cho thấy, việc nghiên

cứu đối tượng này đến nay vẫn đặt ra nhiều vấn đề cần phải tiếp tục làm rõ.

1.1.2. Những công trình nghiên cứu về phát triển đội ngũ trí thức

- Luận cứ khoa học cho các chính sách nhằm phát huy năng lực sáng

tạo của giới trí thức và sinh viên, Phạm Tất Dong chủ nhiệm [33]: Từ việc

trình bày, phân tích một số quan niệm khác nhau về trí thức, qua đó nhấn

mạnh 4 chức năng cơ bản của trí thức là: Chức năng sáng tạo văn hoá, sáng

tạo và duy trì những giá trị cơ bản của xã hội: chân, thiện, mỹ; chức năng phê

phán; chức năng đào tạo lớp trí thức mới và chức năng xã hội. Từ đó đề tài đi

đến kết luận những dấu hiệu đặc trưng của trí thức là: Sáng tạo, phổ biến và

vận dụng văn hoá; thể hiện được trình độ, trí tuệ của thời đại; trăn trở với thời

cuộc, luôn hướng đến sự nghiệp xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, bình

11

đẳng; có năng lực tư duy sáng tạo, phát hiện và giải quyết vấn đề, sự say mê,

tập trung cao độ, dũng cảm theo đuổi công việc.

Công trình cũng đánh giá thực trạng, tình hình cũng như tâm trạng, nhu

cầu và xu thế phát triển của ĐNTT, từ đó xác định những quan điểm và đề

xuất một số chính sách đối với ĐNTT. Về quan điểm, tác giả nhấn mạnh: con

người với trí tuệ thời đại là nhân tố quyết định sự phát triển KT-XH; đào tạo

và xây dựng ĐNTT là một vòng đua tranh của thời đại; lao động trí tuệ là lao

động phức tạp mang lại những giá trị đặc biệt và đầu tư cho việc xây dựng

ĐNTT phải là một ưu tiên. Về chính sách: Thực hiện chính sách GDĐT; sử

dụng và đãi ngộ trí thức; thực hiện đoàn kết và tập hợp rộng rãi ĐNTT.

- Đào tạo nguồn nhân lực ở Nhật Bản, bài học cho Việt Nam, do

Nguyễn Tiến Lực (chủ biên) [69]: Một trong những yếu tố đưa Nhật Bản

vươn lên là sự tích cực trong tiếp thu văn minh, thành tựu của nhân loại, tham

gia giao thương quốc tế, cử người đi du học nước ngoài, mời chuyên gia nước

ngoài đến Nhật làm việc để học cái hay nhất, cái tốt nhất. Cuốn sách cũng cho

thấy, con người là yếu tố quan trọng nhất để làm nên kỳ tích Nhật Bản. Nhật

Bản lấy con người làm trung tâm, có cả một triết lý đào tạo và giáo dục con

người. Nhật Bản rất coi trọng đào tạo nguồn nhân lực, có nền giáo dục đứng

vào tốp đầu thế giới. Trong quá trình phát triển của mình, Nhật Bản đã để lại

những bài học quý báu về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Những bài

học này có giá trị tham khảo trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng

cao cho sự nghiệp CNH, HĐH của Việt Nam.

- Phát huy tiềm năng trí thức khoa học xã hội Việt Nam, của Nguyễn

An Ninh [79]: Hệ thống hoá những nội dung lý luận về tiềm năng của trí thức

khoa học xã hội, cũng như những yếu tố quy định tiềm năng của trí thức khoa

học xã hội. Theo tác giả: “Tiềm năng của con người là những khả năng, năng

lực, phẩm chất, xu thế phát triển, … hiện có trong con người song chưa có

điều kiện bộc lộ ra hoặc chưa có điều kiện để thể hiện ra trọn vẹn” [79, tr.17].

Từ đó khẳng định việc khai thác tiềm năng của trí thức khoa học xã hội là xu

thế tất yếu của thời đại.

12

Trên cơ sở lý luận, tác giả đi vào phân tích đặc điểm, tiềm năng và thực

trạng phát huy tiềm năng của trí thức khoa học xã hội Việt Nam trong tiến

trình cách mạng, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới nhằm làm rõ mối quan hệ

có tính quy luật giữa tiềm năng của trí thức khoa học xã hội với nhu cầu phát

triển đất nước. Từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp phát huy

tiềm năng của trí thức khoa học xã hội ở nước ta. Trong đó nhấn mạnh việc

nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của khoa học xã hội; tạo động lực

cho quá trình phát huy tiềm năng; tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển tiềm

năng trí thức khoa học xã hội và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý

của Nhà nước để phát huy tiềm năng của đội ngũ này ở nước ta.

- Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, do Nguyễn Khánh Bật, Trần Thị Huyền

(đồng chủ biên) [6]: Khái quát những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí

Minh về trí thức, làm rõ sự vận dụng sáng tạo của Đảng và Nhà nước trong

công tác xây dựng ĐNTT, đồng thời đánh giá những đóng góp, hạn chế của

đội ngũ này, trên cơ sở đó nêu lên những giải pháp xây dựng ĐNTT ở nước ta

giai đoạn 2011- 2020 đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

- Thực trạng và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự

nghiệp đổi mới đất nước, của Đàm Đức Vượng [117]: Cuốn sách làm rõ hơn

khái niệm trí thức, dẫn ra những khái niệm về trí thức ở một số nước trên thế

giới. Trong đó nhấn mạnh, việc xác định đúng nội dung cơ bản của khái niệm

trí thức là cơ sở phát hiện, khai thác, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ này.

Nó còn liên quan đến công tác tổ chức, việc hoạch định các chính sách, nhiệm

vụ và giải pháp xây dựng ĐNTT thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

Bên cạnh đó, tác giả phân tích những đặc trưng, chức năng cơ bản của

trí thức nói chung và trí thức Việt Nam nói riêng, qua đó làm rõ đặc trưng cơ

bản của các thế hệ trí thức Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay. Về phẩm

chất của trí thức Việt Nam, tác giả nhấn mạnh đến đức và tài, thể hiện ở tư

cách của con người, chất lượng NCKH. Phẩm chất đặt ra cho trí thức là phải

làm gì và làm như thế nào để góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước.

13

Đã là trí thức thì ở nước nào cũng vậy, thời nào cũng vậy, đều phải

có phẩm chất, tính cách chung là đề cao giá trị chân - thiện - mỹ. Để

có được phẩm chất, bản thân người trí thức, trước hết phải có tinh

thần độc lập trong tư duy, và chế độ xã hội phải tạo mọi điều kiện

thuận lợi để người trí thức được tự do sáng tạo. Tuy nhiên, mỗi dân

tộc đều có tính cách riêng, tầng lớp trí thức của mỗi dân tộc cũng có

bản sắc riêng [117, tr.39].

- Chiến lược phát triển nhân tài của Việt Nam hiện nay, của Cao Văn

Thông và Đỗ Xuân Tuất [87]: Đề cập đến các khái niệm tiềm năng, năng

khiếu, năng lực, tài năng, nhân tài, thiên tài, trí thức cùng đặc điểm của nhân

tài; những quan điểm của ông cha ta về hiền tài và việc chiêu hiền, đãi sĩ của

các triều đại phong kiến Việt Nam; tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức và nhân

tài; kinh nghiệm trong công tác đào tạo, sử dụng và đãi ngộ nhân tài của

Trung Quốc và một số vấn đề rút ra qua các công tác này; những quan điểm,

chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhân tài và một số kiến nghị đối

với công tác đào tạo, sử dụng và đãi ngộ nhân tài của Việt Nam hiện nay.

Trong đó, các tác giả nhấn mạnh đến việc đề nghị Chính phủ sớm chỉ đạo

nghiên cứu, xây dựng Chiến lược nhân tài quốc gia phục vụ sự nghiệp CNH,

HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, cũng như trong công tác đào tạo, sử dụng

và đãi ngộ nhân tài.

- Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Đà Nẵng hiện nay, của Lê Văn Phục

[81]: Đề cập đến nguồn nhân lực chất lượng cao và vai trò của nó đối với quá

trình CNH, HĐH ở Việt Nam. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất

lượng cao ở Thành phố Đà Nẵng và những vấn đề đặt ra trong quá trình phát

triển nguồn nhân lực này. Trên cơ sở đó nêu lên một số quan điểm và đề xuất

giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Đà Nẵng.

- Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo ở nước ta hiện nay, của

Phan Thanh Khôi [61]: Nêu và phân tích những kiểu lao động sáng tạo của trí

thức, đồng thời xác định và sơ đồ hoá hệ thống động lực của quá trình lao

14

động của trí thức; cách xác định lực lượng trí thức với tính cách là nguồn

nhân lực trí tuệ của đất nước; những biểu hiện của tình trạng chưa phát huy

hết khả năng sáng tạo của trí thức Việt Nam. Tác giả còn nêu lên một cách có

hệ thống các yếu tố động lực trực tiếp của trí thức như lý tưởng - tình cảm, trí

tuệ - tinh thần và kinh tế - vật chất.

- Phát huy nguồn lực trí tuệ trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện

nay, của Bùi Thị Ngọc Lan [62]: Phân tích cấu trúc, đặc trưng và nội dung

nguồn lực trí tuệ trong tương quan với nguồn lực con người và các nguồn lực

khác. Dự báo xu hướng phát triển, đề xuất phương hướng và giải pháp chủ

yếu để phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp

đổi mới đất nước.

- Xây dựng đội ngũ trí thức ngành kiến trúc trong công cuộc đổi mới ở

nước ta hiện nay, của Lê Quang Quý [82]: Nêu lên quan niệm, đặc điểm,

nhiệm vụ và vai trò của ĐNTT ngành kiến trúc ở nước ta. Trên cơ sở đó điều

tra, khảo sát thực trạng đội ngũ này trong công cuộc đổi mới, từ đó đưa ra dự

báo về những xu hướng vận động, phát triển và đề xuất một số giải pháp chủ

yếu nhằm tiếp tục xây dựng đội ngũ này.

- Xây dựng đội ngũ trí thức tại thành phố Hồ Chí Minh trong sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, của Trương Văn Tuấn [102]: Trên

cơ sở lý luận về trí thức và xây dựng ĐNTT, tác giả đánh giá thực trạng việc

xây dựng và phát triển ĐNTT thành phố Hồ Chí Minh trong sự nghiệp CNH,

HĐH về mặt số lượng, chất lượng, cơ cấu và chủ trương, chính sách xây

dựng, phát triển, từ đó đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục xây

dựng đội ngũ này, trong đó nhấn mạnh đến cơ chế, chính sách; về quy hoạch,

đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng ĐNTT; về đầu tư phát triển cơ sở vật chất, kỹ

thuật phục vụ công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và chuyển giao công

nghệ; về mở rộng hợp tác trong nước và quốc tế.

- Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam: Kinh nghiệm của Phần Lan, của

Nguyễn Thành Huy [56]: Nêu lên quan niệm về giới trí thức Phần Lan, đó là:

“Giới trí thức được hiểu là những người có văn hóa hoặc nhóm người có văn

15

hóa, những người này là những nhà tư tưởng và được xem là báu vật quốc

gia. Giới trí thức là thuật ngữ dùng để chỉ cộng đồng những người có ảnh

hưởng tới toàn bộ nền khoa học và văn hóa của xã hội” [56].

Tác giả cũng nêu lên những bài học kinh nghiệm nhằm phát huy vai trò

của trí thức, trong đó trước hết cần phải có môi trường tự do và tính độc lập

trong phản biện; phản biện được khuyến khích. Đồng thời nhấn mạnh việc

xây dựng ĐNTT cần phải bắt nguồn từ giáo dục, đặc biệt là giáo dục phổ

thông vì “trẻ em thất học từ nhỏ không những sẽ là một gánh nặng cho xã hội

mà còn không thể và không bao giờ trở thành một trí thức” [56].

- Thu hút và trọng dụng nhân tài trong giai đoạn hiện nay, của Đinh

Ngọc Giang [45]: Khẳng định việc sử dụng, trọng dụng nhân tài là truyền

thống quý báu của dân tộc, được kế thừa, phát triển lên tầm cao mới trong

thời đại Hồ Chí Minh. Chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài là vô cùng cần

thiết để cách mạng thành công, là một nội dung trong công tác cán bộ. Muốn

có kết quả tốt, cần phải xem xét, kiểm tra việc thu hút và trọng dụng nhân tài,

từ đó có chính sách hợp lý. Cần nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về

thu hút và trọng dụng nhân tài, qua đó đề cao trách nhiệm của các cấp ủy; đổi

mới cách đánh giá ĐNTT, coi trọng và thường xuyên xem xét, đánh giá nhân

tài để có chủ trương, giải pháp đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và sử dụng nhân

tài; thu hút và trọng dụng nhân tài là một nghệ thuật; cùng với việc hỗ trợ tài

chính, cần đặc biệt quan tâm tạo môi trường, điều kiện làm việc thuận lợi để

họ phát huy tài năng, cống hiến cho đất nước; chống kéo bè, kéo cánh, dùng

người thân, hẹp hòi trong thu hút và trọng dụng nhân tài.

- Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, của Phùng Hữu Phú [80]: Nêu lên sự cần thiết của việc ban

hành nghị quyết về ĐNTT và một số điểm mới, nội dung cơ bản của đề án

như: Khái niệm về trí thức; đánh giá tình hình ĐNTT nước ta; bối cảnh, mục

tiêu, quan điểm chỉ đạo công tác xây dựng ĐNTT; về nhiệm vụ, giải pháp xây

dựng đội ngũ này trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập quốc tế.

Trong đó nhấn mạnh việc hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho

16

hoạt động của trí thức; xây dựng, thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và

tôn vinh trí thức; tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức;

đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các

hội của trí thức; nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với ĐNTT.

1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VÀ

PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN THỜI KỲ ĐẨY MẠNH

CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

Tây Nguyên là vùng đất còn nhiều bí ẩn chưa được khám phá hết, vì

vậy trong thời gian qua đã thu hút nhiều nhà khoa học đến nghiên cứu, qua đó

cho ra đời nhiều công trình khoa học có giá trị cả về lý luận và thực tiễn. Liên

quan đến ĐNTT và phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên, trong những năm qua có

một số công trình khoa học tiêu biểu sau:

1.2.1. Những công trình nghiên cứu về đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên

Thực tế cho thấy có rất nhiều công trình nghiên cứu về Tây Nguyên,

nhưng việc nghiên cứu chuyên sâu về ĐNTT ở Tây Nguyên lại chưa nhiều, vì

vậy đây vẫn là chủ đề còn nhiều hấp dẫn, cần có sự nghiên cứu, nhìn nhận và

đánh giá đầy đủ hơn. Liên quan đến vấn đề nay trong những năm qua có thể

kể đến một số công trình sau:

- Tây Nguyên cuối thế kỷ XX vấn đề dân cư và nguồn nhân lực, của

Nguyễn Tuấn Triết [98]: Đề cập đến những vấn đề chủ yếu về dân cư và

nguồn nhân lực ở Tây Nguyên. Về nguồn nhân lực, tác giả nêu lên những

thành tựu, hạn chế của nguồn nhân lực nơi đây, qua đó khẳng định: “Nâng

cao dân trí là yêu cầu bức thiết để phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là trong

sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hướng tới nền kinh tế tri thức, chủ

động hội nhập quốc tế ở nước ta. Yêu cầu này đối với Tây Nguyên càng trở

nên bức thiết hơn” [98; tr.111].

- Y Ngông Niê Kđăm cuộc đời và trong lòng bạn bè, đồng nghiệp, của

nhiều tác giả [121]: Đề cập những bài viết, ý kiến về một trí thức, một nhân

cách lớn của người Êđê nói riêng và Tây Nguyên nói chung, đại biểu quốc hội

từ khoá I đến khoá IX, chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội. Thông qua

17

đó, có thể thấy Ông “là một trí thức giàu lòng yêu nước, sớm giác ngộ và gắn

cả cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, đồng chí luôn tin

tưởng và đi theo sự lãnh đạo của Bác Hồ và Đảng Cộng sản Việt Nam” [121,

tr.14]. Cuốn sách cũng nêu lên những trăn trở, suy tư của Y Ngông Niê Kđăm

đối với con người và vùng đất Tây Nguyên, đó là những mong muốn, khát

vọng phát triển Tây Nguyên.

- Hướng tới phát triển bền vững Tây Nguyên, của Lê Văn Khoa và

Phạm Quang Tú (chủ biên) [60]: Đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của

Tây Nguyên, từ đặc điểm tự nhiên, lịch sử và xã hội, cộng đồng các dân tộc

đến việc quản lý, khai thác và sử dụng các nguồn lực nhằm phát triển bền

vững Tây Nguyên. Trên cơ sở đó nêu lên những quan điểm, định hướng chiến

lược và giải pháp phát triển. Cuốn sách cho thấy, nhu cầu phát triển bền vững

Tây Nguyên là tất yếu của quá trình đi lên ở đây. Muốn vậy phải khai thác có

hiệu quả các nguồn lực phát triển, trong đó có nguồn nhân lực chất lượng cao.

- Về nguồn nhân lực và chính sách khoa học và công nghệ trên địa bàn

tỉnh, báo cáo của Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Kon Tum [66]:

Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh, trong đó khẳng định

những mặt mạnh của nguồn nhân lực như: trung thành, kiên định mục tiêu, lý

tưởng của Đảng; giữ vững phẩm chất đạo đức; được đào tạo, rèn luyện, phấn

đấu và trưởng thành; có tinh thần, ý chí vượt khó vươn lên, có nhiều đóng góp

trong việc phát triển KT-XH; tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân thực

hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;

áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống. Nhiều trí thức trẻ

đã thể hiện được tính năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh với kinh tế thị

trường và hội nhập kinh tế quốc tế.

Bên cạnh đó, báo cáo cũng chỉ ra những bất cập và hạn chế: Cơ cấu về

ngành nghề bất hợp lý; trí thức đầu ngành hầu như không có; trí thức có trình

độ cao về CNTT, công nghệ sinh học, ngoại ngữ còn thiếu; các chuyên gia kỹ

thuật có khả năng chuyển giao công nghệ, ứng dụng khoa học kỹ thuật còn

quá ít. Sự phân bố mất cân đối. Khả năng làm chủ công nghệ mới gặp nhiều

18

khó khăn, việc ứng dụng KHCN vào thực tiễn rất lúng túng; kỹ năng phân

tích và hoạch định chính sách, phản biện hạn chế. Một bộ phận trí thức là cán

bộ, công chức thiếu tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật kém; phong

cách, lề lối làm việc chậm đổi mới; tinh thần thái độ phục vụ nhân dân chưa

cao đã gây nên sự trì trệ, cản trở cho công cuộc cải cách hành chính, tiếp thu

cái mới, công nghệ mới. Số lượng trí thức là người DTTS còn ít, chưa tương

xứng với tỉ lệ dân số và yêu cầu của sự phát triển.

- Văn hoá và con người Tây Nguyên trong văn xuôi nghệ thuật 1945 -

2000, của Đặng Văn Vũ [116]: Nêu lên vẻ đẹp, sự phong phú của các giá trị

văn hóa Tây Nguyên được thể hiện một cách độc đáo trong các tác phẩm văn

xuôi; những yếu tố tiêu cực trong các sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của người

Tây Nguyên; thực trạng biến đổi văn hóa ở Tây Nguyên theo hướng tích cực

lẫn tiêu cực; hình ảnh người Tây Nguyên với những phẩm chất tốt đẹp của họ

trong chiến đấu cũng như trong cuộc sống thường nhật; sự thay đổi về phẩm

chất con người Tây Nguyên trong quá trình hội nhập với các dân tộc khác.

- Một lớp trí thức mới của Tây Nguyên, hoàn toàn là hiện thực, của

Nguyên Ngọc [73]: Bài viết đặt ra những vấn đề và dấu hỏi lớn đối với sự

phát triển Tây Nguyên, đó là:

Phải giữ cho được bản sắc độc đáo của các dân tộc trên vùng đất

đặc biệt về nhiều phương diện này, nhưng Tây Nguyên, ngay hôm

nay và sắp đến, chắc chắn không thể đứng ngoài sự phát triển chung

của đất nước, thậm chí của thế giới, tất phải hiện đại hóa, Tây

Nguyên sẽ có còn là mình trong hiện đại hóa không? Hoặc nói một

cách thẳng thắn và rõ ràng hơn: Con người Tây Nguyên, văn hóa

Tây Nguyên có đủ khả năng trụ vững và phát triển trong hiện đại

hóa tất yếu không? [73].

Trên cơ sở đó, tác giả nhìn nhận, phân tích, đánh giá và đi đến kết luận:

Hoàn toàn có thể đào tạo nên cả một tầng lớp trí thức mới của Tây

Nguyên, trao cho họ những tri thức cao nhất trong tất cả các lĩnh

vực cả tự nhiên lẫn xã hội, mà họ chắc chắn sẽ làm chủ được một

19

cách vững vàng. Vững vàng và uyên thâm hơn rất, rất nhiều những

người đang định đến đấy để làm thay họ, với những ý định có thể là

tốt lành đấy nhưng vẫn tiềm ẩn một thứ tâm lý dân tộc lớn mà chính

mình có khi không nhận ra [73].

- Giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực trí thức tỉnh Đắk Lắk

đến năm 2020, của Phạm Thế Trịnh [99]: Khái quát những đóng góp của

ĐNTT ở Đắk Lắk đối với thành tựu 30 năm đổi mới của tỉnh, đặc biệt là trong

công tác xoá đói, giảm nghèo và chuyển giao KHCN vào sản xuất và đời

sống. Đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế của đội ngũ này trong thời kỳ hội

nhập như số lượng, chất lượng còn bất cập; cơ cấu ngành, nghề bất hợp lý; trí

thức trong lĩnh vực công nghệ và đầu ngành ít; năng lực sáng tạo, khả năng tư

vấn, phản biện và giám định xã hội yếu; trí thức DTTS có trình độ đại học và

sau đại học ít. Hiệu quả khai thác, sử dụng chất xám thấp; một số đề tài

nghiên cứu chưa gắn với sản xuất và đời sống.

Từ thực trạng trên, tham luận đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy,

phát triển ĐNTT, trong đó nhấn mạnh giải pháp xây dựng, quy hoạch phát

triển nhân lực trí thức gắn với chiến lược phát triển KT-XH đến năm 2020.

Qua việc khái quát các công trình nghiên cứu về ĐNTT ở Tây Nguyên

nêu trên cho thấy, mặc dù chưa có công trình khoa học nào nêu lên quan niệm

về ĐNTT ở Tây Nguyên nhưng đã có những ý niệm, tư tưởng bước đầu hết

sức quan trọng về đội ngũ này. Đây là một trong những cơ sở cho việc kế

thừa, tiếp thu của luận án để từ đó đưa ra quan niệm về ĐNTT ở Tây Nguyên.

1.2.2. Những công trình nghiên cứu về phát triển đội ngũ trí thức ở

Tây Nguyên

- Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp

huyện người các dân tộc ở Tây Nguyên, do Lê Hữu Nghĩa (chủ biên) [72]: Đi

sâu trình bày, phân tích, đánh giá một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ

lãnh đạo cấp huyện người dân tộc ở Tây Nguyên như: vị trí, vai trò đội ngũ

cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện người các dân tộc; các nhân tố ảnh hưởng

đến việc hình thành đội ngũ cán bộ người các dân tộc ở Tây Nguyên; thực

20

trạng, định hướng và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ người các dân tộc ở

Tây Nguyên. Trong đó nhấn mạnh:

Trong cơ cấu đội ngũ cán bộ ở Tây Nguyên, cán bộ lãnh đạo chủ

chốt cấp huyện người các dân tộc giữ vị trí rất quan trọng. Đó là

những người gắn bó với quê hương, hiểu được tập quán, tâm tư,

nguyện vọng của đồng bào, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với

các dân tộc và cũng là trụ cột để giữ vững ổn định chính trị, củng

cố khối đoàn kết dân tộc trên vùng địa bàn chiến lược này. Chính

vì vậy, việc xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo

chủ chốt cấp huyện người các dân tộc là một yêu cầu quan trọng

và cấp bách [72].

- Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đào tạo nguồn và sử dụng hiệu quả

nhân lực trí thức dân tộc thiểu số tại chỗ tỉnh Đắk Lắk, do Nguyễn Đức Bách

chủ nhiệm [1]: Từ việc nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh và các nhà nghiên cứu về trí thức, đề tài đi đến khái niệm

ĐNTT. Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng nhân lực trí thức DTTS tại chỗ của

Đắk Lắk, những mặt mạnh và hạn chế của đội ngũ này; từ đó đề xuất bốn giải

pháp chủ yếu trong việc tạo nguồn và sử dụng ĐNTT, đó là: Đổi mới, nâng

cao nhận thức của cấp uỷ, chính quyền các cấp về vị trí, vai trò, nhiệm vụ của

ĐNTT trong giai đoạn hiện nay; tăng số lượng và nâng cao chất lượng tuyển

dụng, đào tạo, bồi dưỡng trí thức; nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, kế

hoạch tuyển dụng, bố trí, sử dụng trí thức; xây dựng, hoàn thiện, thực hiện các

chế độ, chính sách khuyến khích, đãi ngộ đối với ĐNTT.

- Đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp phát huy trí tuệ của

đội ngũ trí thức trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, do Y Ghi Niê làm chủ nhiệm

[120]: Khẳng định trí thức có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển

của nhân loại nói chung, của đất nước và Đắk Lắk nói riêng. Coi trọng trí thức

chính là coi trọng con người, coi trọng sự phát triển, đặt con người vào vị trí

trung tâm của sự phát triển. ĐNTT ở Đắk Lắk trong thời gian qua đã có sự

chuyển biến nhanh chóng cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu, đóng góp

21

quan trọng vào quá trình phát triển KT-XH của tỉnh. Tuy nhiên, so với yêu

cầu của sự phát triển, số lượng trí thức còn ít, chất lượng hạn chế, cơ cấu và

sự phân bố trí thức có nhiều bất cập, chính sách sử dụng, đãi ngộ đối với trí

thức bất hợp lý.

- Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển

kinh tế - xã hội tỉnh Đắk Nông đến năm 2020, do Nguyễn Võ Linh chủ nhiệm

[68]: Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực, đề tài đi vào nghiên

cứu thực trạng nguồn nhân lực của tỉnh Đắk Nông, hiện trạng việc làm và

hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, những kinh nghiệm phát triển nguồn nhân

lực ở một số tỉnh có nét tương đồng với Đắk Nông. Từ đó đánh giá tác động,

dự báo khả năng, nhu cầu phát triển nguồn nhân lực đến năm 2020, cũng như

đề xuất một số mô hình đào tạo áp dụng tại Đắk Nông cùng một số giải pháp

phát triển nguồn lực này. Trong đó nhấn mạnh các giải pháp về công tác dân

số và lao động; phát triển ngành y tế và chăm sóc sức khoẻ nhân dân; phát

triển hệ thống GDĐT; tạo việc làm cho lao động và sử dụng lao động sau khi

được đào tạo; tăng cường hợp tác với các tỉnh và mở rộng thị trường; thực

hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực.

- Nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải pháp xây dựng đội ngũ trí

thức tỉnh Lâm Đồng, do Trương Trổ chủ nhiệm [100]: Qua việc trình bày một

số đặc điểm về dân số, lao động, doanh nghiệp, cơ cấu kinh tế Lâm Đồng thời

kỳ 2005-2010 và các mục tiêu, giải pháp phát triển KT-XH đến 2015 và định

hướng 2020, đề tài đi vào đánh giá thực trạng ĐNTT của tỉnh, trong đó nhấn

mạnh sự phát triển và những đóng góp của đội ngũ này trong thời kỳ đấu

tranh cách mạng giải phóng dân tộc và hiện nay. Đồng thời chỉ ra những bất

cập, hạn chế của ĐNTT cũng như chính sách đối với đội ngũ này. Từ đó đưa

ra những giải pháp nhằm tiếp tục phát triển trong thời gian tới như ưu tiên

trọng dụng, đề bạt, bổ nhiệm, trả lương cao cho những trí thức có đề tài, công

trình đem lại giá trị tăng thêm cho địa phương; tăng cường công tác xây dựng

quy hoạch nguồn nhân lực và thực hiện quy hoạch trên cơ sở đào tạo và trọng

dụng ĐNTT; có chiến lược cụ thể trong việc khai thác, sử dụng lực lượng trí

22

thức của các cơ quan trung ương đóng trên địa bàn tỉnh; tăng cường đầu tư

cho các hoạt động sáng tạo văn học nghệ thuật, nghiên cứu ứng dụng KHCN,

phát triển GDĐT, chăm sóc sức khoẻ nhân dân; đổi mới nhận thức về vấn đề

tập hợp trí thức của các tổ chức chính trị - xã hội; hỗ trợ doanh nghiệp thu hút

và sử dụng lao động chất lượng cao, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật hiện đại.

- Tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc thiểu số các tỉnh

Tây Nguyên giai đoạn hiện nay, của Trương Thị Bạch Yến [119]: Trên cơ sở

những vấn đề lý luận chung về nguồn và tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã

các DTTS ở Tây Nguyên, tác giả đánh giá thực trạng nguồn, tạo nguồn cán

bộ, công chức cấp xã người DTTS ở Tây Nguyên, dự báo những yếu tố tác

động và đề xuất phương hướng, giải pháp tạo nguồn cán bộ công chức cấp

xã người DTTS ở Tây Nguyên. Về giải pháp, tác giả đề xuất hai giải pháp có

tính đặc thù, khả thi nhằm đẩy mạnh tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã

người DTTS đến năm 2020: Một là, củng cố, phát triển và giao trách nhiệm

cụ thể cho hệ thống các trường dân tộc nội trú, các cơ sở GDĐT trên địa bàn

Tây Nguyên tham gia tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã người DTTS; Hai

là, xây dựng, củng cố và phát huy vai trò hệ thống chính trị xã, người có uy

tín trong cộng đồng ở thôn, buôn trong tạo nguồn cán bộ, công chức xã

người DTTS.

- Phát triển đội ngũ hiệu trưởng trường trung học phổ thông các tỉnh

bắc Tây Nguyên trong bối cảnh đổi mới giáo dục, của Cao Thị Thanh Xuân

[118]: Đề cập đến nhiều vấn đề về phát triển đội ngũ hiệu trưởng trường trung

học phổ thông trong mối quan hệ với phát triển nguồn nhân lực ở các tỉnh bắc

Tây Nguyên, nội dung và những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của đội

ngũ này, cũng như thực trạng của sự phát triển. Từ đó đưa ra định hướng,

quan điểm và giải pháp phát triển đội ngũ hiệu trưởng trường trung học phổ

thông ở các tỉnh bắc Tây Nguyên.

- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh

Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay, của Nguyễn Thành Dũng [36]: Trên cơ

sở lý luận về cán bộ, đội ngũ cán bộ chủ chốt, tác giả đánh giá, phân tích vai

23

trò, thực trạng việc nâng cao đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh

Tây Nguyên, từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ này.

Về đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, tác giả đưa ra 3 phương diện chủ yếu

là số lượng, chất lượng và cơ cấu. Đồng thời nêu lên tiêu chí đánh giá chất

lượng đội ngũ này trên 3 yếu tố: Mức độ tín nhiệm, số lượng và cơ cấu phù

hợp; chất lượng toàn diện và kết quả hoàn thành nhiệm vụ.

- Phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch khu vực duyên hải nam

Trung Bộ và Tây Nguyên, của Trần Sơn Hải [47]: Nêu lên khái niệm nguồn

nhân lực, phát triển nguồn nhân lực, các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển

nguồn nhân lực ngành du lịch, phân tích thực trạng phát triển nhân lực ngành

du lịch về số lượng, chất lượng và cơ cấu; công tác đào tạo, phát triển nguồn

nhân lực ngành này ở các tỉnh khu vực duyên hải nam Trung Bộ và Tây

Nguyên. Từ đó đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực của ngành

du lịch đến năm 2020, trong đó nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường quản

lý nhà nước và nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch.

- Xây dựng đội ngũ trí thức các tộc người ở Tây Nguyên thời kỳ đổi

mới, của Trương Minh Dục [34]: Bài nghiên cứu khẳng định việc xây dựng

ĐNTT các tộc người ở Tây Nguyên là một trong những yếu tố quan trọng

trong việc thực hiện thắng lợi chính sách dân tộc, qua đó phát huy tính tích

cực và khả năng của các tộc người ở đây. Tác giả khái quát một số chủ trương

của Đảng bộ các tỉnh Tây Nguyên về xây dựng ĐNTT các tộc người, trong đó

nhấn mạnh sự đặc biệt quan tâm đào tạo, sử dụng và xây dựng đội ngũ này có

đủ năng lực, phẩm chất hoàn thành nhiệm vụ đề ra.

- Kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa X) về xây

dựng đội ngũ trí thức ở tỉnh Gia Lai, của Phạm Thị Thu Dung [35]: Đề cập

đến những đóng góp quan trọng của ĐNTT đối với quá trình phát triển KT-

XH, giữ vững an ninh chính trị của tỉnh. Nhiều đề tài nghiên cứu về khoa học

xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên được ĐNTT đảm nhận đã góp phần

quan trọng vào quá trình phát triển KT-XH địa phương.

24

Bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn những hạn chế: Cơ cấu và

sự phân bố ĐNTT theo ngành, nghề chưa phù hợp với cơ cấu KT-XH. Đa số

trí thức tập trung nơi có điều kiện phát triển. Số trí thức là người đồng bào

DTTS tăng nhưng rất chậm. Thiếu đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ

quản lý có trình độ chuyên môn cao, thiếu chuyên gia giỏi. Một số trí thức

còn hạn chế về trình độ ngoại ngữ, thiếu tính chuyên nghiệp. Các cơ sở

GDĐT trong tỉnh liên kết đào tạo đại học, sau đại học chưa gắn với yêu cầu,

nhiệm vụ công tác. Chất lượng đào tạo chưa cao. Số lượng đề tài khoa học

được nghiên cứu và áp dụng vào thực tiễn còn ít, chất lượng thấp. Việc tham

gia hoạt động tư vấn, phản biện, giám định còn hạn chế.

- Phát triển và đào tạo nguồn nhân lực vùng Tây Nguyên trong thời kỳ

đổi mới và phát triển, của Bùi Tất Thắng [86]: Đề cập đến những yêu cầu đặt

ra đối với sự phát triển, đào tạo nguồn nhân lực ở Tây Nguyên; đặc điểm phát

triển và đào tạo nguồn nhân lực của vùng, từ đó đề xuất quan điểm, giải pháp

cho vấn đề này, trong đó nhấn mạnh các giải pháp: Tăng các nguồn vốn đầu

tư và kinh phí cho phát triển GDĐT và nguồn nhân lực Tây Nguyên; đổi mới

quản lý nhà nước về GDĐT và phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn Tây

Nguyên; cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh để tạo việc làm có năng

suất cao và chuyển dịch cơ cấu lao động; mở rộng hợp tác liên vùng trong

nước và quốc tế để phát triển nguồn nhân lực Tây Nguyên.

- Phát triển và đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ đổi mới, tham luận

của Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đắk Lắk [84]: Nêu lên quan niệm về đào

tạo nguồn nhân lực trí thức; vai trò của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trí

thức; thực trạng và giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực trí thức ở Đắk Lắk.

Trong đó nhấn mạnh chất lượng đào tạo là yếu tố cực kỳ quan trọng, ảnh

hưởng trực tiếp đến năng lực làm việc sau khi ra trường. Chính vì vậy cần

quan tâm đến chất lượng đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, nội dung và loại

hình đào tạo. Đồng thời cần đổi mới cơ chế, chính sách thu hút nhân tài.

- Đào tạo đại học với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở vùng

Tây Nguyên hiện nay, của Trương Thị Hạnh [48]: Tham luận nêu lên thực

25

trạng đào tạo đại học và chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao ở Tây

Nguyên hiện nay, những vấn đề đặt ra và những giải pháp chủ yếu góp phần

nâng cao chất lượng đào tạo đại học, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

ở Tây Nguyên. Tác giả cũng nhấn mạnh về khoảng cách giữa chất lượng đào

tạo và nhu cầu xã hội, số lượng đào tạo ngày càng gia tăng nhưng chất lượng

của nguồn lao động qua đào tạo, khả năng thích ứng công việc và phát huy

kết quả đào tạo lại rất thấp.

Qua việc tổng quan các công trình nghiên cứu về phát triển ĐNTT ở

Tây Nguyên nêu trên cho thấy: Các công trình đã đề cập đến những khía cạnh

khác nhau của sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên - mà chủ yếu là ở mỗi tỉnh,

như chỉ ra mặt tích cực, ưu điểm và hạn chế, khuyết điểm trong phát triển đội

ngũ này, việc đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm tiếp tục phát triển đội ngũ

này trong thời gian tới. Dù vậy, chưa có công trình nghiên cứu nào đưa ra

quan niệm về phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên, vì vậy tác giả luận án tiếp thu,

kế thừa có chọn lọc một số nội dung của các công trình trên, từ đó tìm hiểu,

nghiên cứu đưa ra quan niệm về phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên.

1.3. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.3.1. Những giá trị của các công trình

Qua tổng quan những tài liệu trên liên quan đến luận án có thể khẳng

định, vấn đề phát triển ĐNTT không phải là vấn đề mới mà đã được đề cập

khá nhiều trong các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước. Song không

vì thế mà tính thời sự và hấp dẫn của nó mất đi. Ngược lại, cùng với sự phát

triển của KHCN và KTTT, thì vấn đề này ngày càng đặt ra nhiều điều mới mẻ

cần được tiếp tục nghiên cứu và giải đáp. Và những công trình NCKH trên đã

đi vào nghiên cứu, phân tích những vấn đề về phát triển ĐNTT, mà có thể

khái quát thành những giá trị, đóng góp sau:

Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về trí thức và phát triển ĐNTT đã

đề cập đến nhiều khía cạnh như quan niệm, vị trí, vai trò và đặc điểm của trí

thức. Mặc dù vẫn còn những cách hiểu khác nhau, song hầu hết các công trình

26

đều thừa nhận những đóng góp hết sức quan trọng của ĐNTT đối với tiến

trình phát triển của xã hội. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và KTTT, thì ĐNTT

chính là lực lượng “tiên phong” trong sự phát triển. Ở đâu có ĐNTT lớn

mạnh, ở đó có tiền đề cơ bản cho sự phát triển ổn định và bền vững. Phát triển

ĐNTT là đòi hỏi tất yếu của mỗi quốc gia, dân tộc trong bối cảnh nền kinh tế

thế giới đang chuyển sang nền KTTT.

Thứ hai, nhiều công trình khoa học đã đi sâu trình bày, phân tích và

khái quát những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

và của Đảng Cộng sản Việt Nam về ĐNTT và phát triển đội ngũ này. Trong

đó đều thừa nhận và nhấn mạnh sự coi trọng trí thức cũng như những đóng

góp to lớn của ĐNTT đối với sự phát triển.

Thứ ba, trên cơ sở lý luận về ĐNTT và phát triển ĐNTT, các công trình

đã đi vào đánh giá, phân tích thực trạng phát triển đội ngũ này, những mặt

mạnh, hạn chế và nguyên nhân, từ đó đưa ra phương hướng và đề xuất hệ

thống giải pháp nhằm tiếp tục phát triển ĐNTT. Về sự phát triển ĐNTT, các

công trình nhấn mạnh sự phát triển về số lượng, chất lượng, cơ cấu và chính

sách đối với đội ngũ này.

Thứ tư, trong các công trình nghiên cứu về phát triển ĐNTT ở Tây

Nguyên (chủ yếu ở mỗi tỉnh của Tây Nguyên) đã có những nhận định, phân

tích bước đầu về thực trạng ĐNTT và phát triển ĐNTT, nêu lên những vấn đề

cần giải quyết và giải pháp để tiếp tục phát triển đội ngũ này ở Tây Nguyên.

Tóm lại, các công trình nghiên cứu về ĐNTT và phát triển ĐNTT nêu

trên đã có nhiều đóng góp hết sức quan trọng cả về phương diện lý luận và

thực tiễn.

1.3.2. Những kế thừa của luận án và vấn đề đặt ra cần tiếp tục

nghiên cứu

Các công trình nghiên cứu trên đã đạt được nhiều kết quả to lớn trong

việc giải quyết một số vấn đề lý luận, thực tiễn về ĐNTT và phát triển ĐNTT.

Những kết quả đó là cơ sở quan trọng cho nghiên cứu sinh tiếp thu, kế thừa

27

vào quá trình nghiên cứu. Luận án kế thừa những thành quả về phương pháp

luận nghiên cứu ĐNTT nói chung, phương pháp triển khai nghiên cứu ĐNTT

ở Tây Nguyên nói riêng. Tham khảo những gợi ý bước đầu về phân tích thực

trạng và tìm kiếm giải pháp phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên thời kỳ đẩy mạnh

CNH, HĐH. Tiếp thu và sử dụng vào luận án một số dữ liệu, số liệu được một

số công trình nêu ra đã được xác minh về xuất xứ.

Tuy nhiên, dưới góc độ phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên thì đến nay vẫn

chưa có công trình khoa học nào đề cập một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ

thống về lý luận, thực tiễn và thực trạng phát triển ĐNTT nơi đây, nhất là

trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Chính vì vậy, luận án tập trung giải

quyết một số tồn tại đó, cụ thể là:

Một là, trình bày quan niệm về ĐNTT, phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên,

mối quan hệ giữa phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên với việc đẩy mạnh CNH,

HĐH và những yếu tố tác động đến sự phát triển đội ngũ này;

Hai là, phân tích và đánh giá thực trạng phát triển ĐNTT ở Tây

Nguyên, thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với sự

phát triển đội ngũ này;

Ba là, trên cơ sở thực trạng phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên và những

vấn đề đặt ra, luận án đề xuất những quan điểm cơ bản, hệ giải pháp chủ yếu

nhằm tiếp tục phát triển đội ngũ này thời gian tới, đáp ứng đòi hỏi của sự

nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH Tây Nguyên.

Luận án là một công trình khoa học độc lập, không trùng lặp với các

công trình đã nghiên cứu trước đó.

28

Chương 2

PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN

THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ -

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

2.1. MỘT SỐ QUAN NIỆM CƠ BẢN

2.1.1. Quan niệm về đội ngũ trí thức và đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên

2.1.1.1. Quan niệm về đội ngũ trí thức

Hiện nay, thuật ngữ “trí thức” được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia

trên thế giới và không chỉ trong các công trình khoa học, mà còn được dùng

trong quan hệ giao tiếp hàng ngày. Dù được sử dụng phổ biến nhưng ở mỗi

nước, mỗi thời kỳ lịch sử, thậm chí ở nhiều nhà khoa học trong một quốc gia

lại có những quan điểm, cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau khi bàn về trí

thức, cũng như vị trí, vai trò, chức năng và đặc điểm của họ.

Sinh thời, C.Mác và Ph.Ăngghen đã quan tâm đến vấn đề trí thức

nhưng chưa đưa ra một định nghĩa về trí thức. Dù vậy, hai ông đã nêu lên một

phương pháp tiếp cận khoa học (vấn đề giai cấp) cho việc nghiên cứu vấn đề

này. Dưới góc độ triết học, trí thức được xem là một phạm trù lịch sử, chỉ

xuất hiện khi trình độ phát triển xã hội đến một giai đoạn nhất định (có sự

phân công lao động xã hội, nhất là giữa lao động trí óc và chân tay).

Trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết của C.Mác và

Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã nghiên cứu đầy đủ hơn về trí thức với tư cách là

một tầng lớp, nhất là sau cách mạng tháng Mười Nga (1917). Ông đã đi sâu

nghiên cứu về đặc điểm, tính chất của tầng lớp trí thức, từ đó thu hút, lôi kéo

trí thức cũ và đào tạo trí thức mới cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Nga.

V.I.Lênin viết:

Tôi dùng chữ trí thức, giới trí thức, để dịch những danh từ Đức Literat,

Literatentum là những danh từ có nghĩa bao hàm không những chỉ các

nhà trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả mọi người có học thức,

các đại biểu của những nghề tự do nói chung, các đại biểu của lao

29

động trí óc (tức là những người mà người Anh gọi là brain worker),

khác với những đại biểu của lao động chân tay [112, tr.372].

Như vậy, trí thức trong quan niệm của V.I.Lênin không chỉ là những

nhà tư tưởng vĩ đại (nhà trước tác), mà còn là những người có học thức và đại

biểu lao động trí óc của các tầng lớp trong xã hội. V.I.Lênin không đồng nhất

lao động trí óc với trí thức, mà chỉ có những người tiêu biểu trong hàng ngũ

lao động trí óc mới được coi là trí thức.

Kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều

kiện, hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh

khẳng định:

Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: Một là

hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là

hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó

mà ra. Ngoài hai cái đó, không có trí thức nào khác. Một người học

xong đại học, có thể gọi là trí thức. Song y không biết cày ruộng,

không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc

khác. Nói tóm lại: Công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ

có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải trí

thức hoàn toàn. Y muốn thành một người trí thức hoàn toàn, thì phải

biết đem trí thức đó áp dụng vào thực tế [49, tr.235].

Theo cách tiếp cận này thì trí thức không chỉ là người hiểu biết, có tri

thức về tự nhiên, xã hội mà còn phải đem sự hiểu biết, tri thức đó vào thực

tiễn đời sống. Đồng thời, một trong những tiêu chí cụ thể để có thể được coi

là trí thức về mặt học vấn là từ tốt nghiệp đại học trở lên. Quan niệm này cũng

cho thấy sự hình thành trí thức và chức năng, nhiệm vụ của trí thức.

Trên cơ sở lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn của

Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định "Trí thức là những người lao

động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có

năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những

sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội” [40, tr.82].

30

Có thể nhận thấy quan niệm của Đảng về trí thức ngày càng toàn diện,

đầy đủ và sâu sắc trên cơ sở tiếp thu, kế thừa, phát triển Chủ nghĩa Mác-

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức cùng với thực tiễn vận động của đất

nước và thực trạng ĐNTT nước ta. Theo cách tiếp cận này thì có 3 tiêu chí cơ

bản để phân biệt trí thức với các bộ phận khác:

Thứ nhất, về trình độ học vấn, trí thức phải là những người có trình độ

học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định.

Lao động của trí thức mang tính sáng tạo, phức tạp và không tự nhiên

hình thành mà chủ yếu thông qua quá trình đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện một

cách có hệ thống ở các trường đại học, học viện, viện nghiên cứu. Kết quả của

quá trình này được biểu hiện thông qua trình độ học vấn và sự công nhận về

bằng cấp. Theo chúng tôi, nếu xét về bằng cấp cũng phải từ tốt nghiệp đại học

trở lên, vì bắt đầu từ trình độ này, sự sáng tạo trong lao động mới bộc lộ

tương đối rõ nét.

Tuy nhiên, không phải tất cả những người có trình độ học vấn cao đều

là trí thức và những người không có trình độ học vấn cao (thể hiện qua bằng

cấp) không phải là trí thức. Vì trong thực tế, có những người có trình độ học

vấn cao nhưng lao động của họ mang ít tính sáng tạo thì không thể coi là trí

thức và cũng có những người không được đào tạo, không có bằng cấp nhưng

lao động sáng tạo, phức tạp thì họ là trí thức. Do đó, trình độ học vấn là một

trong những yếu tố quan trọng để xem một cá nhân là trí thức hay không

nhưng còn phải căn cứ vào các yếu tố khác mới có một quan niệm đầy đủ.

Thứ hai, về phương thức lao động và chức năng. Trí thức lao động

bằng trí óc, có năng lực độc lập trong tư duy, sáng tạo, truyền bá và làm giàu

tri thức cho xã hội. Trí thức là người lao động trí óc nhưng không phải tất cả

lao động trí óc đều là trí thức, mà phải là những người lao động trí óc sáng tạo

và có tính độc lập trong tư duy. Họ không chỉ có chức năng sáng tạo mà còn

truyền bá, phổ biến và làm giàu tri thức cho xã hội thông qua lao động của

mình, làm cho sự hiểu biết của con người ngày càng đa dạng, phong phú, đi

31

sâu vào nhận thức bản chất của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội.

Chúng tôi cho rằng, đây là tiêu chí quan trọng nhất để nhận biết trí thức.

Thứ ba, sản phẩm lao động của trí thức là những giá trị tinh thần và vật

chất. Thước đo đối với trí thức chính là sản phẩm mà họ tạo ra cho xã hội, sản

phẩm là kết quả lao động sáng tạo của trí thức, do đó để sản phẩm càng có giá

trị thì lao động của trí thức càng khó khăn, phức tạp. Không ít trí thức hy sinh

cả cuộc đời của mình chỉ để theo đuổi niềm say mê khám phá, sáng tạo của

mình và khi sản phẩm ra đời đã mang lại những giá trị hết sức to lớn đối với

sự vận động và phát triển xã hội, qua đó ghi đậm dấu ấn sáng tạo của họ.

Theo từ điển Triết học thì "Trí thức - tập đoàn xã hội gồm những người

làm nghề lao động trí óc. Giới trí thức bao gồm kỹ sư, kỹ thuật viên, thầy

thuốc, luật sư, nghệ sĩ, thầy giáo và người làm công tác khoa học, một bộ

phận viên chức” [76, tr.598].

Từ điển Chủ nghĩa Cộng sản khoa học xác định:

Trí thức - một nhóm xã hội bao gồm những người chuyên làm nghề

lao động trí óc phức tạp và có học vấn chuyên môn cần thiết cho

ngành lao động đó. Sự tồn tại của trí thức với tính cách là một nhóm

xã hội đặc biệt gắn liền với việc phân công xã hội giữa lao động trí

óc và lao động chân tay [75, tr.360].

Từ điển Bách khoa Việt Nam khẳng định "Trí thức là tầng lớp xã hội

làm nghề lao động trí óc, trong đó, bộ phận chủ yếu là những người có học

vấn cao, hiểu biết sâu rộng về chuyên môn của mình, có sáng tạo và phát

minh” [77, tr.582].

Từ điển Tiếng Việt xác định "Trí thức là người chuyên làm việc lao

động trí óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp

của mình” [114, tr.999].

Như vậy, có rất nhiều quan niệm khác nhau về trí thức, thể hiện tính đa

dạng cũng như phức tạp khi tiếp cận, nhìn nhận và đánh giá họ. Trong mỗi

quan niệm đều có những nhân tố hợp lý và khoa học. Chúng tôi cho rằng,

quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức là sự phản ánh khá đầy

32

đủ, sâu sắc về trí thức, nhất là trí thức Việt Nam, là cơ sở, định hướng để

nghiên cứu về trí thức và phát triển ĐNTT hiện nay.

2.1.1.2. Quan niệm về đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên

Trên cơ sở quan niệm về trí thức nêu trên cùng với tính đặc thù của các

điều kiện tự nhiên, xã hội, văn hoá và dân tộc ở Tây Nguyên, chúng tôi cho

rằng: ĐNTT ở Tây Nguyên là một bộ phận của ĐNTT Việt Nam, bao gồm

những người lao động trí óc sáng tạo, có năng lực tư duy độc lập và trình độ

hiểu biết, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm có giá trị

cho xã hội, đang sinh sống, công tác ở các tỉnh Tây Nguyên.

Từ quan niệm trên, có thể hiểu ĐNTT ở Tây Nguyên được xác định

thông qua một số nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất, ĐNTT ở Tây Nguyên là một bộ phận của ĐNTT Việt Nam,

do đó nó mang trong mình những đặc điểm cơ bản của trí thức Việt Nam, là

bộ phận không thể tách rời và gắn bó với vận mệnh của đất nước, dân tộc.

Thứ hai, ĐNTT ở Tây Nguyên gồm những người lao động trí óc sáng

tạo, có năng lực tư duy độc lập và trình độ hiểu biết. Trong đó, trình độ hiểu

biết có thể đo lường thông qua trình độ học vấn hoặc cũng có thể không. Nếu

thông qua trình độ học vấn phải từ tốt nghiệp đại học trở lên.

Thứ ba, chức năng chủ yếu của ĐNTT ở Tây Nguyên là truyền bá, làm

giàu tri thức và tạo ra những sản phẩm có giá trị tinh thần, vật chất phục vụ

cho sự phát triển của xã hội, mà trực tiếp và trước hết là Tây Nguyên.

Thứ tư, ĐNTT ở Tây Nguyên gồm những người có phẩm chất đạo đức

và bản lĩnh chính trị; tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là các chủ trương, chính sách liên quan

đến sự ổn định và phát triển Tây Nguyên.

Thứ năm, ĐNTT ở Tây Nguyên gồm những trí thức đang sinh sống,

công tác ở các tỉnh Tây Nguyên. Họ sinh ra, lớn lên ở đây và cũng có thể từ

nơi khác tới đây sinh sống, lập nghiệp, hiện đang làm việc trong các cơ quan,

đơn vị, lĩnh vực, ngành nghề khác nhau ở Tây Nguyên, bao gồm những trí

33

thức công tác trong các cơ quan, đơn vị của Trung ương đóng trên địa bàn các

tỉnh Tây Nguyên.

Do đặc thù của Tây Nguyên, nhiều già làng là những người tiêu biểu về

mặt trí tuệ của cộng đồng các DTTS tại chỗ ở Tây Nguyên. Nếu như quan

niệm trí thức là những người có trình độ học vấn cao thể hiện qua bằng cấp,

thì các già làng ở Tây Nguyên không có, nhưng nói về sự am hiểu điều kiện

địa lý, tự nhiên, xã hội, lịch sử và văn hoá truyền thống thì phải kể đến những

người này. Họ không chỉ là người đại diện cho sự đoàn kết, gắn bó của cộng

đồng các dân tộc ở đây mà còn là hiện thân của trí tuệ, tinh hoa của DTTS tại

chỗ ở Tây Nguyên. Lao động của họ mang tính sáng tạo.

Phần lớn già làng là những người có uy tín, là chỗ dựa tinh thần, là

người hướng dẫn trong làm ăn, sản xuất, đồng thời trực tiếp giải quyết nhiều

vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội của cộng đồng các DTTS tại chỗ ở Tây

Nguyên. Họ là kho kinh nghiệm và tri thức sản xuất, là pho sử thi sống, là thủ

lĩnh của cộng đồng các DTTS tại chỗ ở Tây Nguyên.

Việc truyền bá đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật

của Nhà nước và các tri thức mới tới cộng đồng các DTTS ở Tây Nguyên có

hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào tiếng nói, việc làm của các già làng.

Đồng thời, tâm tư, nguyện vọng của cộng đồng các dân tộc ở đây cũng được

thể hiện chủ yếu thông qua lực lượng này.

Mặc dù, hiện nay vai trò của già làng so với trước đã có phần giảm sút

nhưng chưa có lực lượng, cá nhân nào có thể đảm đương, thay thế được họ

trong đời sống xã hội của cộng đồng các DTTS tại chỗ ở Tây Nguyên. Họ vẫn

là đại diện cho tinh hoa, trí tuệ của DTTS tại chỗ nơi đây.

Trong thực tế, đa số các già làng ở Tây Nguyên đã đảm nhiệm vai trò

của trí thức và họ xứng đáng được xã hội và nhà nước tôn vinh là những trí

thức theo một danh tính nào đó.

2.1.2. Quan niệm về phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên

Phát triển là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong nhiều ngành khoa

học, lĩnh vực khác nhau, vì vậy có nhiều cách hiểu không giống nhau. Dưới

34

góc độ triết học, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì phát triển là sự

vận động theo hướng đi lên cả về lượng và chất. Nguồn gốc của sự phát triển

nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng, là sự thống nhất và đấu tranh

giữa các mặt đối lập.

Từ điển tiếng Việt xác định “Phát triển là biến đổi hoặc làm cho biến đổi

từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp” [115, tr.769].

Theo giáo trình triết học Mác-Lênin thì: “Phát triển là một phạm trù

triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn

giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn” [53, tr.227].

Từ những lý giải nêu trên có thể thấy một số đặc điểm chủ yếu của phát

triển như sau:

Phát triển là quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo hướng ngày

càng hoàn thiện. Là quá trình vận động từ thấp lên cao, từ ít đến nhiều, từ

chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.

Phát triển là kết quả tự thân của sự vật, hiện tượng do các yếu tố, mối

liên hệ bên trong, cũng như bên ngoài quy định. Trong đó mối liên hệ bên

trong mang tính tự thân vận động quyết định. Còn các yếu tố, mối liên hệ bên

ngoài tác động, thâm nhập vào bên trong sự vật, hiện tượng.

Nội dung của sự phát triển được thể hiện trên các mặt chủ yếu là số

lượng, chất lượng và cơ cấu.

Như vậy, sự phát triển là quá trình hoàn thiện về số lượng, chất lượng

và cơ cấu. Nguyên nhân chủ yếu của sự phát triển do chính các yếu tố nội tại

bên trong sự vật, hiện tượng quyết định.

Qua sự trình bày, phân tích về ĐNTT và quan niệm phát triển nêu trên,

chúng tôi xác định: Phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên là quá trình vận động

tăng lên về số lượng, chất lượng, hợp lý về cơ cấu của ĐNTT ở Tây Nguyên,

do sự tác động hợp quy luật của các chủ thể. Từ quan niệm này, có thể hiểu

sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên bao gồm:

Thứ nhất, nội dung phát triển:

Phát triển về số lượng được thể hiện ở số lượng trí thức thời kỳ sau

nhiều hơn thời kỳ trước và tỉ lệ này tăng lên trong cơ cấu dân số, phù hợp với

35

điều kiện, hoàn cảnh của Tây Nguyên. Đó là sự bảo đảm về số lượng đáp ứng

yêu cầu thực hiện thắng lợi quá trình CNH, HĐH Tây Nguyên. Để đáp ứng

được yêu cầu này phải phát triển KT-XH, nâng cao quy mô giáo dục, nhất là

giáo dục đại học và khả năng thu hút trí thức từ các địa phương khác lên Tây

Nguyên công tác.

Phát triển về mặt chất lượng thể hiện trên các khía cạnh chủ yếu về thể

lực, trí lực và nhân cách, trong đó về mặt thể lực là sự gia tăng chiều cao, cân

nặng, tuổi thọ, sức khoẻ và sự dẻo dai, bền bỉ cơ bắp và thần kinh; về mặt trí

lực bao gồm việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin

học; sức sáng tạo, kinh nghiệm, kỹ năng lao động cũng như khả năng tham

gia các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội; về mặt nhân cách là

sự nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, tác phong, ý thức tổ chức kỷ luật,

lối sống lành mạnh, tích cực, có tinh thần trách nhiệm. Để phát triển về chất

lượng không chỉ nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng trong đó bao hàm cả

tự đào tạo, đào tạo lại mà còn phải đẩy mạnh CNH, HĐH Tây Nguyên, đẩy

nhanh việc áp dụng các tiến bộ KHCN vào sản xuất và đời sống, cũng như sử

dụng đúng người, đúng việc để phát huy sức sáng tạo của trí thức.

Sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên về mặt chất lượng còn thể hiện ở

năng lực thực tiễn, đó là khả năng tổng kết thực tiễn, đúc rút thành lý luận cũng

như khả năng “thực tiễn hoá” lý luận thông qua hoạt động sáng tạo của mình.

Vì ĐNTT không chỉ nghiên cứu, khái quát các quá trình tự nhiên, xã hội thành

các quy luật và được biểu hiện qua các sáng tạo, phát minh, sáng chế mà còn

phải có năng lực đưa các tri thức trở lại thực tiễn để phục vụ sự phát triển.

Phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên còn bao hàm việc hình thành cơ cấu

ngày càng hợp lý, cân đối về thành phần xuất thân, trình độ học vấn, giới tính,

độ tuổi, ngành, nghề và thành phần dân tộc, v.v... Sự phát triển đội ngũ này

còn bao gồm yếu tố nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý và sử dụng

trí thức của các cơ quan, đơn vị. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến đường lối,

chủ trương, chính sách, pháp luật, chương trình, kế hoạch của các cấp uỷ

đảng, chính quyền, Mặt trận và đoàn thể đối với ĐNTT. Phát triển ĐNTT ở

36

Tây Nguyên về mặt cơ cấu cần bám sát mục tiêu của chiến lược phát triển

KT-XH trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.

Thứ hai, chủ thể phát triển:

Nguyên nhân chủ yếu của sự phát triển là sự tác động hợp quy luật của

các chủ thể. Trong đó, trước hết do yêu cầu nội tại trong chính bản thân của

đội ngũ này, đó là quá trình tự thân vận động không ngừng của các yếu tố cấu

thành ĐNTT, đồng thời là đòi hỏi khách quan của sự phát triển KT-XH và

CNH, HĐH. Môi trường tự nhiên và xã hội là những điều kiện hết sức quan

trọng đối với sự phát triển ĐNTT.

Chủ thể phát triển ĐNTT còn là gia đình, nhà trường và xã hội. Trong

đó đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có

tác động hết sức to lớn đến sự phát triển, nhất là các chính sách đúng đắn, phù

hợp, có tính khả thi cao.

Thứ ba, phương thức phát triển:

Phát triển ĐNTT có nhiều phương thức khác nhau, trong đó chủ yếu là:

Đào tạo, bồi dưỡng không chỉ làm cho số lượng tăng lên mà còn nâng

cao chất lượng ĐNTT, qua đó đáp ứng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp CNH,

HĐH Tây Nguyên.

Quá trình đào tạo, bồi dưỡng bao gồm cả quá trình tự đào tạo, đào tạo

lại với nhiều phương thức khác nhau như đào tạo chính quy tập trung, không

chính quy, từ xa; qua trường lớp hoặc tự học, tự nghiên cứu nâng cao trình độ.

Sử dụng trí thức là việc đặt trí thức vào một vị trí, một công việc nhất

định qua đó phát huy có hiệu quả năng lực, trí tuệ và khả năng sáng tạo. Sử

dụng trí thức có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc phát huy vai trò của họ

đối với sự phát triển. Sử dụng đúng người đúng việc sẽ là động lực để trí thức

phát huy tốt khả năng, sự sáng tạo của mình.

Môi trường, điều kiện công tác chính là không gian để trí thức tự do

phát minh, sáng tạo cũng như thể hiện tư tưởng, chính kiến của mình mà

không bị hiểu sai hoặc “chụp mũ”. Môi trường, điều kiện công tác bao gồm cả

cơ sở vật chất cũng như quan hệ giữa người với người trong quá trình công

37

tác và sự hoàn thiện cơ chế, chính sách. Ngoài ra còn là trạng thái dân chủ,

công bằng, bình đẳng để trí thức có thể cống hiến, phấn đấu và cạnh tranh

lành mạnh để vươn lên.

Đãi ngộ, thu hút trí thức. Đãi ngộ là một trong những hoạt động không

kém phần quan trọng trong phát triển ĐNTT, là một yếu tố giúp họ yên tâm

công tác và là động lực thúc đẩy sự cống hiến, sáng tạo. Vì vậy, cần đưa ra

những cơ chế, chính sách đãi ngộ hợp lý nhằm thu hút trí thức giỏi, có phẩm

chất, trình độ và năng lực về công tác. Đồng thời, có hình thức khen thưởng

cả về vật chất và tinh thần thích đáng.

Thu hút trí thức từ các địa phương khác về công tác tại Tây Nguyên

cũng là một trong những phương thức bổ sung vào ĐNTT nơi đây. Trong đó,

trước mắt cần thu hút những trí thức xuất thân hoặc có gia đình, người thân ở

Tây Nguyên nhưng hiện đang công tác tại các địa phương khác trong nước,

thậm chí cả ở nước ngoài.

Thứ tư, mục tiêu phát triển:

Phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên hướng tới nhiều mục tiêu khác nhau,

trong đó chủ yếu là nhằm khai thác hiệu quả các lợi thế, tiềm năng của vùng

phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển KT-XH Tây Nguyên,

cũng như góp phần xây dựng toàn diện con người.

2.1.3. Quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Tây Nguyên

Công nghiệp hoá là con đường phát triển tất yếu của các quốc gia trên

thế giới, là phương thức chuyển đổi nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế

công nghiệp với trình độ phát triển cao hơn cả về năng suất, chất lượng và

hiệu quả.

Hiện đại hoá là quá trình đưa các tiến bộ KHCN vào quá trình quản lý,

sản xuất tạo ra sự biến đổi về chất của nền sản xuất xã hội. Trong bối cảnh

KTTT đang hình thành do sự phát triển nhanh chóng và tác động của KHCN

thì công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá là một yêu cầu tất yếu để phát triển

nhanh và bền vững.

Trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm của các nước đi trước cùng với thực tế

quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định:

38

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn

diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế,

xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một

cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương

pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ

khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [39, tr.65].

Như vậy, quan niệm của Đảng về CNH, HĐH bao trùm các lĩnh vực

của đời sống KT-XH, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong quản lý

xã hội. CNH, HĐH trên cơ sở phát triển công nghiệp gắn kết chặt chẽ với các

tiến bộ về KHCN.

Đối với Tây Nguyên, CNH, HĐH là con đường tất yếu để đưa nơi đây

từng bước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, khai thác có hiệu quả các tiềm năng,

thế mạnh của vùng, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế, xã

hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững Tây Nguyên.

Tây Nguyên trong một thời gian dài là vùng đất khá biệt lập so với các

vùng khác trong cả nước, các hoạt động sản xuất chủ yếu khép kín, tự cung tự

cấp với phương thức đốt, phát, chọc trỉa, dựa vào các lợi thế tài nguyên thiên

nhiên sẵn có. Phương thức trao đổi chủ yếu là vật đổi vật. Trình độ quản lý xã

hội dựa trên hệ thống luật tục với vai trò quan trọng của già làng, trưởng

buôn, thầy mo, thầy cúng,v.v... Khi cùng cả nước bước vào sự nghiệp đổi mới

thì khoảng cách về trình độ phát triển của Tây Nguyên so với cả nước có sự

cách biệt khá xa. Do đó, mục tiêu CNH, HĐH Tây Nguyên là khai thác các

tiềm năng, thế mạnh của vùng phục vụ sự phát triển KT-XH, nâng cao đời

sống nhân dân và giảm dần khoảng cách phát triển so với cả nước, từng bước

vươn lên, phát triển cùng đất nước.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Tây Nguyên không chỉ là quá trình

chuyển đổi phương thức sản xuất, quản lý xã hội, áp dụng các tiến bộ KHCN

vào sản xuất và đời sống mà còn phải gắn với việc bảo tồn, phát huy những

giá trị truyền thống, đặc thù của vùng đất và con người nơi đây, nhất là các

nguồn tài nguyên thiên nhiên và các tri thức sản xuất của cộng đồng DTTS tại

39

chỗ. Do đó, mục tiêu CNH, HĐH Tây Nguyên không chỉ nhằm khai thác các

thế mạnh của vùng mà còn phải bảo tồn, phát huy các thế mạnh đó để đảm

bảo sự ổn định và phát triển bền vững nơi đây, qua đó nâng cao đời sống vật

chất và tinh thần của cộng đồng các dân tộc ở Tây Nguyên, nhất là DTTS. Có

như vậy, sự nghiệp CNH, HĐH Tây Nguyên mới đi đến thành công.

So với cả nước trước khi tiến hành CNH, HĐH thì đã có những tiền đề,

kinh nghiệm trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá trước đây, còn Tây

Nguyên đi vào con đường CNH, HĐH gần như bắt đầu từ con số không,

ngoại trừ nguồn tài nguyên thiên nhiên, không vốn, không KHCN, không

nguồn nhân lực được đào tạo, trình độ quản lý thấp kém, v.v.… Do đó, quá

trình CNH, HĐH Tây Nguyên gặp nhiều khó khăn bởi điểm xuất phát thấp.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Tây Nguyên trước hết phải lấy lĩnh vực

nông nghiệp làm khâu đột phá, gắn với thế mạnh các cây công nghiệp và sự

màu mỡ, phì nhiêu của đất đỏ bazan.

Như vậy, CNH, HĐH Tây Nguyên ngoài những đặc điểm chung còn có

những điểm đặc thù, do đó cần có những phương thức, bước đi phù hợp với

điều kiện, đặc điểm nơi đây. Có như vậy, CNH, HĐH Tây Nguyên mới đạt

được mục tiêu, yêu cầu đề ra.

2.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY

NGUYÊN VỚI SỰ NGHIỆP ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

2.2.1. Sự phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên là yếu tố quan

trọng bảo đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá,

hiện đại hoá

Trong mọi thời đại, con người luôn là trung tâm của sự phát triển. Thời

đại ngày nay, con người và nguồn nhân lực nói chung, ĐNTT nói riêng lại

càng quan trọng, họ vừa là nguồn lực cơ bản và chủ yếu, vừa là động lực và

mục tiêu của sự phát triển. Không thể có sự phát triển nhanh và bền vững nếu

không có một ĐNTT cao về phẩm chất, trí tuệ, năng lực và hợp lý về cơ cấu

và số lượng.

Đối với Tây Nguyên, sự phát triển ĐNTT đóng vai trò hết sức quan

trọng đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH nơi đây, bởi lẽ:

40

Thứ nhất, ĐNTT ở Tây Nguyên có vai trò quyết định trong việc tổng

kết thực tiễn, sáng tạo tri thức mới góp phần quan trọng trong việc hoạch định

đường lối CNH, HĐH Tây Nguyên.

Những năm sau giải phóng, Tây Nguyên vẫn là vùng đất giàu tiềm

năng “chưa được đánh thức”. Trong lĩnh vực kinh tế, công lao lớn đầu tiên

của trí thức ở Tây Nguyên là đã cộng tác, phối hợp với những trí thức, chuyên

gia thuộc các cơ quan nghiên cứu ở Trung ương tiến hành những nghiên cứu,

điều tra thực địa công phu cùng với tra cứu thư tịch được bảo tàng trong nước

và nước ngoài lưu giữ để từng bước “phát lộ” tiềm năng đó. Dần dần tiềm

năng đó được xác định trên tổng thể về quy mô, số lượng, chất lượng theo

phương pháp đo đạc, ước tính dựa trên sự áp dụng tri thức khoa học và các

phương tiện hiện đại. Thành quả của các phát hiện đó chính là cơ sở cho việc

dự thảo các chiến lược phát triển kinh tế của Tây Nguyên, chiến lược tổng thể

cho đến chiến lược từng lĩnh vực, từng ngành. Cơ cấu kinh tế Tây Nguyên

được phác thảo và từng bước được chi tiết hoá, bổ sung, điều chỉnh trong đó

xác định trọng điểm các ngành mũi nhọn và cả lộ trình khai thác, phát huy.

Nhìn chung, suốt tiến trình đó trí thức ở Tây Nguyên đã góp phần đáng được

ghi nhận để Đảng, Nhà nước khẳng định chiến lược phát triển kinh tế Tây

Nguyên, rồi tiếp tục hoàn thiện, điều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi tình

hình trong nước, khu vực và thế giới trong các kỳ đại hội của Đảng.

Tiếp thu đường lối xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, trí thức ở Tây Nguyên đã đóng góp ý kiến và trực

tiếp tham gia triển khai để đường lối, chủ trương đó được vận dụng phù hợp

với điều kiện thực tế của Tây Nguyên, nơi mà mặt bằng xuất phát về kinh tế

còn thấp (có nơi rất thấp như ở một số khu vực DTTS) so với các vùng khác

trong cả nước.

Cũng như vậy, thực hiện CNH, HĐH là hướng đi tất yếu của cả nước

trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội như Nghị quyết Đại hội Đảng đã

khẳng định. Nhưng ở Tây Nguyên với nét đặc thù về trình độ lực lượng sản

xuất còn thấp kém và tương ứng với nó là sự thấp kém của quan hệ sản xuất

41

thì việc vận dụng đường lối, chủ trương ấy đòi hỏi sự sáng tạo mà trong thực

tế ĐNTT ở Tây Nguyên góp phần quan trọng.

Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật các tỉnh đã huy động nhiều nhà

khoa học có trình độ, kinh nghiệm vào việc thực hiện các nhiệm vụ quan

trọng, như: chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tái cơ cấu kinh tế, chuyển giao công

nghệ, phát triển các vùng chuyên canh, nâng cao năng suất cây trồng, vật

nuôi, phản biện đề án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch tổng thể

phát triển KT-XH; tham gia làm thành viên, dự các cuộc họp của hội đồng

nghiệm thu các đề tài, đề án, dự án, công trình quan trọng có liên quan tới lĩnh

vực kinh tế và môi trường như các công trình thủy điện, thủy lợi, du lịch, giao

thông, xây dựng; khai thác tài nguyên, quy hoạch dân cư,v.v...

Các hội thành viên của trí thức đã có nhiều hoạt động tư vấn, phản

biện, giám định có hiệu quả, được các cơ quan quản lý đánh giá cao, như: Hội

Khoa học Kỹ thuật Lâm nghiệp đã tư vấn xây dựng phương án giao đất, giao

rừng ở vùng đệm Vườn Quốc gia Chư Yang Sin, tư vấn điều phối thực hiện

dự án hỗ trợ sau giao đất, giao rừng để xóa đói giảm nghèo. Hội Kiến trúc sư

phản biện các công trình: khu công nghiệp, khu du lịch, quy hoạch trung tâm

huyện; Hội Khoa học Kỹ thuật Cầu đường phản biện các dự án tỉnh lộ 3, 8, 9;

Hội Cơ khí tư vấn những giải pháp công nghệ, cung cấp thiết bị máy móc

phục vụ cho sản xuất,v.v….

Những đóng góp của ĐNTT vào sự phát triển KT-XH Tây Nguyên khó

trình bày bằng những số liệu cụ thể, chi tiết trong khuôn khổ của một luận án,

nhưng có một sự kiện, một số liệu - có thể là minh chứng sáng giá về thành

tựu phát triển KT-XH của Tây nguyên như là kết quả sự nỗ lực của các cấp,

các ngành và cộng đồng các dân tộc trong đó có phần đóng góp xứng đáng

của trí thức. Sự kiện, số liệu đó là: Những năm qua tốc độ phát triển kinh tế

của Tây Nguyên luôn cao hơn mức bình quân của cả nước. Nhiều vùng đồng

bào DTTS từ chỗ “bốn không” (Không đường, không điện, không trường,

không trạm), đời sống hết sức khó khăn, đến nay về cơ bản các khoảng trống

42

“Bốn không” đó đã được lấp đầy, đời sống đồng bào có những thay đổi rõ rệt,

nhiều người vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất của mình.

Thứ hai, ĐNTT ở Tây Nguyên đi đầu trong việc đào tạo, bồi dưỡng

nguồn nhân lực cho sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH và áp dụng các thành

tựu KHCN vào quá trình quản lý và sản xuất.

Mục tiêu của GDĐT là xây dựng con người với đầy đủ phẩm chất,

năng lực, trí tuệ và bản lĩnh, đáp ứng yêu cầu phát triển trong từng giai đoạn

lịch sử. Thời kỳ nào cũng vậy, trọng trách này trước hết thuộc về ĐNTT.

Ở Tây Nguyên, sau giải phóng và trước giai đoạn đổi mới, trí thức đã

tư vấn, chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc cải tạo hệ thống giáo dục cũ

(phục vụ sự cai trị, bóc lột của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ) sang hệ thống

giáo dục mới xã hội chủ nghĩa, phục vụ sự phát triển Tây Nguyên. Trong thời

kỳ đổi mới, ĐNTT tham gia thực hiện chính sách đổi mới căn bản và toàn

diện GDĐT theo tinh thần nghị quyết của Đảng.

Tây Nguyên vốn là vùng trũng về GDĐT, nhất là ở vùng sâu, vùng xa,

vùng DTTS. Trước thực trạng đó và thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp

uỷ, chính quyền cũng như với vai trò, trách nhiệm của mình, nhiều trí thức đã

không quản ngại khó khăn, thiếu thốn về cơ sở tuyên truyền, vận động các gia

đình cho con em tới trường học tập, nâng cao trình độ. Đồng thời, từng bước

tham gia tạo lập, gây dựng hệ thống trường, lớp ở các cấp học, bậc học, qua

đó mở rộng quy mô giáo dục. Hiện nay, toàn vùng có 20 trường đại học, cao

đẳng. Trong đó đại học có 44 chuyên ngành đào tạo hệ chính quy và 08

chuyên ngành đào tạo sau đại học. Cao đẳng sư phạm có 19 chuyên ngành

đào tạo chính quy và 19 chuyên ngành liên kết đào tạo đại học. Các trường

cao đẳng chuyên ngành và cao đẳng nghề có 53 ngành, nghề đào tạo; ngoài ra

các trường còn đào tạo liên thông, liên kết nhiều ngành, nghề khác [8].

Số lượng, chất lượng đội ngũ giảng viên các trường đại học, cao đẳng

được nâng lên. Số cán bộ giảng dạy trong các trường đại học và phân hiệu đại

học có 984 người, gồm: 14 phó giáo sư, 86 tiến sĩ, 510 thạc sĩ và 374 cử nhân.

Các trường cao đẳng sư phạm có 434 cán bộ giảng dạy, gồm: 10 tiến sĩ, 235

43

thạc sĩ, 189 cử nhân. Các trường cao đẳng chuyên ngành và cao đẳng nghề có

895 giảng viên, gồm: 02 tiến sĩ, 223 thạc sĩ, 670 cử nhân [8].

Trí thức là cán bộ lãnh đạo, quản lý giáo dục với sự hiểu biết và trách

nhiệm tham gia xây dựng cơ chế, chính sách phát triển hệ thống GDĐT, qua

đó có nhiều đóng góp quan trọng vào quá trình đổi mới, hoàn thiện cơ chế,

chính sách giáo dục cả nước nói chung, Tây Nguyên nói riêng.

Việc tăng cường đội ngũ nhà giáo, cơ sở vật chất, trang thiết bị, mở

rộng quy mô giáo dục đại học, cao đẳng đã thu hút được nhiều sinh viên từ

khắp các vùng, miền trong cả nước và cả 2 nước Lào, Campuchia đến đây học

tập, nâng cao trình độ, qua đó đóng góp nguồn nhân lực vào quá trình phát

triển. Chỉ tính riêng trong 3 năm 2010-2012, số lượng sinh viên tại các cơ sở

giáo dục đại học ở Tây Nguyên lên đến 40.347, trong đó sinh viên DTTS là

3.731 người. Các trường cao đẳng là 25.996 người, trong đó DTTS là 4.443

người. Các trường trung cấp là 186.991 người, gồm: trung cấp nghề 15.067

người, sơ cấp nghề 97.457 người, dạy nghề thường xuyên 74.467 người [13].

Là vùng có nhiều thành phần dân tộc, nhiều người trong các DTTS tại

chỗ chưa học và nói được tiếng phổ thông. Trình độ nhận thức và quá trình

tiếp thu tiếng phổ thông gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, ĐNTT đã có nhiều

nghiên cứu, đánh giá và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao khả năng sử

dụng ngôn ngữ phổ thông cho đồng bào các DTTS. Đến nay, đại bộ phận đã

sử dụng thành thạo tiếng phổ thông trong giao tiếp và công việc.

Nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng giáo dục, nhiều trí thức tham gia

dạy, học tiếng dân tộc, cũng như dày công nghiên cứu, dịch thuật và xuất bản

nhiều ấn phẩm giáo dục như sách giáo khoa, từ điển,v.v… bằng các thứ tiếng

dân tộc nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập, nghiên cứu của học

sinh, sinh viên DTTS.

Có thể khẳng định, những kết quả đạt được dù còn khiêm tốn, nhưng đã

góp phần hết sức quan trọng trong việc giải quyết mục tiêu nâng cao dân trí,

đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, góp phần đắc lực vào tiến trình đẩy

mạnh CNH, HĐH đất nước, trong đó có Tây Nguyên.

44

Là vùng đất giàu tiềm năng với nhiều lợi thế nhưng do việc áp dụng

KHCN vào sản xuất còn nhiều hạn chế, yếu kém nên hiệu quả khai thác, sử

dụng chưa cao, thậm chí dẫn tới sự lãng phí, huỷ hoại. Từ thực tế trên, nhất là

từ khi đổi mới đến nay, với vị trí, vai trò, chức năng của mình, ĐNTT đã có

nhiều hoạt động nghiên cứu, đánh giá hiện trạng điều kiện tự nhiên, xã hội, từ

đó xây dựng cơ sở dữ liệu khoa học cho việc ban hành các chính sách đặc thù

phát triển kinh tế Tây Nguyên.

Trái ngược với tiềm năng, lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, phương

thức sản xuất của đồng bào DTTS ở Tây Nguyên nhìn chung còn khá lạc hậu

với công cụ sản xuất thô sơ, do đó năng suất lao động và hiệu quả kinh tế

thấp. Việc đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đời sống còn hết

sức khó khăn do ảnh hưởng, chi phối bởi không ít phong tục, tập quán và

nhận thức lạc hậu. Với sự hiểu biết, kiên trì của mình, ĐNTT một mặt tuyên

truyền, vận động người dân dần xoá bỏ các tập quán, lối sản xuất lạc hậu, mặt

khác hướng dẫn từng bước để họ hiểu và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ

thuật vào sản xuất, qua đó thay đổi nhận thức và thúc đẩy các hoạt động sản

xuất, nâng cao đời sống.

Đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên còn tư vấn và tham gia đưa các tiến bộ

KHCN vào hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành của các cơ quan, đơn vị,

từng bước hiện đại hoá nền công vụ, hướng tới xây dựng chính phủ điện tử.

Qua đó góp phần đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào công tác lãnh đạo, chỉ đạo,

điều hành và từng bước đẩy nhanh quá trình cải cách bộ máy hành chính theo

hướng ngày càng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.

Thông qua các hoạt động NCKH, ĐNTT tạo ra các phát minh, sáng

chế, sản phẩm có giá trị cao phục vụ sự phát triển KT-XH Tây Nguyên, nhất

là trong lĩnh vực nông nghiệp, góp phần quan trọng đưa nông nghiệp Tây

Nguyên phát triển theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, như việc ứng dụng

công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao ở Lâm Đồng.

Việc ứng dụng đã làm cho doanh thu bình quân trên đơn vị diện tích canh tác

tăng nhanh từ 27 triệu đồng/ha lên 122,2 triệu. Hiện nay, toàn tỉnh Lâm Đồng

45

có 38.000ha đạt doanh thu từ 100 đến 250 triệu đồng/ha/năm; 15.250ha từ

250 đến 500 triệu đồng/ha/năm; trên 10.000ha từ 500 đến trên 1 tỷ

đồng/ha/năm, trong đó, khoảng 1.000ha có doanh thu từ 1 đến 2,5 tỷ

đồng/ha/năm. Diện tích ứng dụng công nghệ cao trên các loại cây trồng gần

39.000ha, chiếm 15% diện tích canh tác nông nghiệp toàn tỉnh và được Trung

ương đánh giá là địa phương đứng đầu cả nước về sản xuất nông nghiệp công

nghệ cao [83; tr.3].

Thứ ba, ĐNTT ở Tây Nguyên là lực lượng tiên phong trong việc truyền

bá các tri thức, tiến bộ KHCN; đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nước tới người dân.

Phương thức sản xuất truyền thống ở Tây Nguyên khá lạc hậu, kéo theo

đó phương thức quản lý xã hội dựa trên hệ thống tự quản, hầu như chưa có sự

tác động của KHCN vào quá trình sản xuất và quản lý xã hội. Do đó, khi

Đảng khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới thì ở Tây Nguyên, việc đầu

tiên là phải tuyên truyền, vận động người dân, nhất là DTTS tại chỗ từ bỏ lối

sản xuất, canh tác lạc hậu, manh mún, từng bước đưa các tri thức, tiến bộ

KHCN vào quá trình sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, nâng cao dân trí

và xoá đói giảm nghèo. Cùng với sự biến đổi của kinh tế, đời sống xã hội

cũng có những bước chuyển biến, việc quản lý xã hội được thực hiện chủ yếu

thông qua các công cụ pháp luật, chính sách của nhà nước thay cho quản lý

bằng luật tục. Để có những sự thay đổi này, ĐNTT ở Tây Nguyên một mặt

nghiên cứu, nắm bắt các đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội và tộc người ở Tây

Nguyên, đồng thời nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách,

pháp luật của Nhà nước, qua đó tuyên truyền, vận động người dân thực hiện

đường lối đổi mới của Đảng.

Thực tế, qua 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ở Tây

Nguyên cho thấy: quá trình chuyển đổi phương thức sản xuất nông nghiệp

truyền thống sang công nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ nơi đây. Phương tiện,

máy móc, các loại giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao; quy trình sản

xuất, quản lý tiên tiến, hiện đại từng bước được áp dụng vào phát triển KT-

46

XH ở nhiều vùng, ngành. Lao động qua đào tạo ngày càng chiếm tỉ lệ cao

trong cơ cấu nguồn nhân lực,v.v…. Có được những tiến bộ đó, phần lớn do

nhận thức của người dân nơi đây được nâng lên thông qua quá trình tuyên

truyền, vận động, hướng dẫn, chuyển giao của các nhà khoa học, chuyên gia

và cán bộ, mà nói rộng ra là ĐNTT.

Thứ tư, ĐNTT ở Tây Nguyên tham gia giữ vững sự ổn định chính trị -

xã hội, tạo nền tảng vững chắc đẩy mạnh CNH, HĐH.

Sau ngày giải phóng miền Nam, thực hiện chủ trương, chính sách phát

triển KT-XH Tây Nguyên của Đảng và Nhà nước, một số lượng lớn người

dân từ các tỉnh khác (chủ yếu từ miền Trung và phía Bắc) lên đây để ổn định

tình hình và phát triển kinh tế. Đồng thời, các nông, lâm trường quốc doanh

cũng được thành lập với mục tiêu khai thác tối đa các nguồn lực phục vụ sự

phát triển KT-XH và nâng cao đời sống nhân dân, hướng tới phương thức sản

xuất mới. Trong thực tế công việc đó đã đạt được nhiều kết quả quan trọng

trong phát triển Tây Nguyên. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu cũng bắt

đầu nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, mâu thuẫn. Sự thâm nhập và đổi thay

nhanh chóng của phương thức sản xuất diễn ra, trong khi cộng đồng DTTS tại

chỗ chưa đạt tới trình độ tương ứng để kịp tiếp thu, vì vậy tạo ra những đảo

lộn trong quá trình hoạt động kinh tế của họ, kéo theo đó là sự thay đổi về lối

sống, phong tục, tập quán. Một số phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp

bắt đầu có những biểu hiện mai một, rạn nứt, tạo ra những khoảng trống, sự

hụt hẫng nhất định trong đời sống văn hóa tinh thần của các DTTS nơi đây.

Từ khi đổi mới đến nay, số lượng người nhập cư vào Tây Nguyên quá

lớn tạo ra nhiều áp lực cả về KT-XH và quốc phòng, an ninh, trong khi đó kết

cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém, hệ thống chính trị chưa được kiện toàn. Từ đó

nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp cũng như mâu thuẫn giữa các thành phần dân

tộc với nhau, nhất là giữa cộng đồng DTTS tại chỗ với cộng đồng các dân tộc

từ nơi khác đến. Mặt khác, sự gia tăng dân số ồ ạt kéo theo đó là sự khai thác

quá mức, mang tính tận diệt đã làm cho nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên từ

chỗ dồi dào, phong phú trở nên khan hiếm, cạn kiệt, làm cho cuộc sống của

47

người dân nơi đây, nhất là DTTS tại chỗ gặp nhiều khó khăn. Nhiều đồng bào

DTTS thiếu hoặc không có đất sản xuất phải đi làm thuê, nhưng do trình độ

nhận thức và khả năng thích ứng với các nghề mới còn hạn chế nên để tìm

kiếm được việc làm phù hợp là điều hết sức khó khăn. Công việc không phù

hợp và không ổn định làm cho thu nhập bấp bênh, không đủ trang trải cuộc

sống. Trong khi đó, số người Kinh nhập cư đã biết tận dụng những lợi thế, cơ

hội để lao động sản xuất và nhanh chóng làm giàu. Hệ quả là gia tăng sự phân

hóa giàu nghèo, và sự phân hóa này biểu hiện rõ nhất trong tương quan cộng

đồng DTTS tại chỗ với dân tộc Kinh. Phân hóa trong lĩnh vực kinh tế tất yếu

dẫn tới sự phân hóa xã hội, từ đó tạo ra những nguy cơ bất ổn ngay chính

trong lòng xã hội Tây Nguyên. Nếu không được giải quyết kịp thời dễ dẫn tới

sự rạn nứt mối quan hệ giữa cộng đồng các dân tộc nơi đây.

Ở Tây Nguyên, trình độ nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của

cộng đồng các dân tộc không đồng đều. Vì vậy, khi tham gia vào đời sống xã

hội với sự điều chỉnh tối cao của pháp luật, không ít người, nhất là người

DTTS tỏ ra chưa sẵn sàng, thích nghi với sự thay đổi đó và có những hành vi

phản ứng tiêu cực nhằm vào người Kinh và DTTS nhập cư, mà họ cho là

nguyên nhân gây nên mọi sự đảo lộn, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự

đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên.

Bên cạnh đó, trong một bộ phận cán bộ, quần chúng nhân dân xuất thân

từ các thành phần dân tộc khác nhau vẫn tồn tại thành kiến. Những người

thuộc dân tộc đa số và các dân tộc có dân số đông, có trình độ phát triển cao

hơn thì có biểu hiện thái độ, hành vi tự cao, vụ lợi, đánh giá thấp và không tôn

trọng lợi ích vật chất, tinh thần của các dân tộc ít người, còn đang ở trình độ

chậm phát triển. Ngược lại, một số người thuộc các DTTS tại chỗ, dân số ít và

còn ở trình độ chậm phát triển thì biểu hiện thái độ, hành vi hẹp hòi, “bài

ngoại”, thiếu tinh thần đoàn kết, hợp tác với người thuộc các dân tộc khác

mới nhập cư. Các thế lực thù địch ở trong nước và ngoài nước hết sức lợi

dụng những biểu hiện nêu trên. Một mặt chúng lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn

giáo, mặt khác đánh vào những sơ hở, hạn chế, yếu kém trong quá trình thực

48

thi các chính sách, cũng như những vấn đề lịch sử để lại, từ đó thổi phồng,

khuếch trương nhằm tạo ra sự nghi ngờ, hiềm khích, mâu thuẫn giữa cộng

đồng các dân tộc với nhau, cũng như giữa các bộ phận dân cư trong một cộng

đồng dân tộc. Thực tế là ở một khía cạnh nào đó, chúng đã thành công trong

việc thực hiện các âm mưu, thủ đoạn của mình qua việc gây ra bạo loạn chính

trị ở Tây Nguyên vào tháng 2 năm 2001 và tháng 4 năm 2004, cũng như nhiều

vụ gây rối, đưa người vượt biên trái phép.

Thực trạng trên cho thấy việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở Tây

Nguyên là vấn đề sống còn đối với sự phát triển KT-XH và tiến trình CNH,

HĐH. Trước tình hình đó, ĐNTT ở Tây Nguyên (trong đó có nhiều trí thức

DTTS tại chỗ, già làng) đã cung cấp nhiều luận cứ, luận chứng giúp các cấp

ủy đảng, chính quyền xây dựng, ban hành và chỉ đạo thực hiện nhằm đảm bảo

ổn định tình hình, giúp nhân dân các dân tộc ở Tây Nguyên hiểu rõ mối quan

hệ giữa Tây Nguyên với cả nước là quan hệ máu thịt không thể tách rời, quan

hệ giữa các dân tộc ở Tây Nguyên với các dân tộc trong cả nước là quan hệ

anh em trong một đại gia đình, cùng tự hào về truyền thống chung lưng đấu

cật dựng nước và giữ nước, cùng một mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân

chủ, công bằng, văn minh”.

Ngoài việc cung cấp luận cứ, luận chứng, ĐNTT còn tham gia công tác

đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động

bằng nhiều hoạt động nhằm vạch trần những luận điệu xuyên tạc, phi lý;

những âm mưu thâm độc và hành động chống phá. Qua đó vận động người

dân “không nghe, không tin, không theo” sự dụ dỗ, lôi kéo của chúng.

Không những thế, theo yêu cầu của các cấp lãnh đạo, nhiều trí thức còn

về tận các buôn, làng và thực hiện “Ba cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm) với

người dân để hướng dẫn họ làm ăn, sản xuất, xây dựng nếp sống văn hóa mới

cũng như tuyên truyền cho mọi người hiểu được tính đúng đắn của đường lối,

chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và âm mưu chống

phá cách mạng của các thế lực phản động. Đồng thời, nắm bắt tâm tư, nguyện

49

vọng của người dân để kịp thời đề đạt cho các cấp, các ngành có thẩm quyền

nhằm từng bước bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách.

Những việc làm trên của ĐNTT góp phần quan trọng vào việc giữ vững

ổn định chính trị - xã hội và củng cố, tăng cường khối đoàn kết dân tộc ở Tây

Nguyên, qua đó tạo cơ sở vững chắc phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH.

2.2.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi khách quan phải phát

triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên, đồng thời tạo môi trường và điều

kiện phát triển đội ngũ này

2.2.2.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi khách quan phải phát

triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong giai đoạn hiện nay không thể tách

rời KTTT, nhất là trong bối cảnh cách mạng KHCN lần thứ 4 đang phát triển

mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi quốc gia, dân tộc cũng như các lĩnh vực

của đời sống xã hội. Và để đáp ứng quá trình này đòi hỏi phải có nguồn nhân

lực chất lượng cao. Sự phát triển của Tây Nguyên không phải là trường hợp

ngoại lệ, vì vậy để đẩy mạnh CNH, HĐH đòi hỏi tất yếu phải phát triển

ĐNTT đảm bảo về số lượng, chất lượng và cơ cấu hợp lý, cụ thể:

Một là, CNH, HĐH Tây Nguyên ngày càng đòi hỏi nhiều nguồn nhân

lực chất lượng cao - trong đó có ĐNTT, nhằm đáp ứng yêu cầu áp dụng các

tiến bộ KHCN vào quá trình sản xuất và đời sống.

Tây Nguyên trong những năm đầu của tiến trình CNH, HĐH đã phát

huy được tiềm năng, thế mạnh về nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú

cùng với nguồn nhân lực lao động phổ thông dồi dào, qua đó tốc độ phát triển

khá nhanh. Trong những năm gần đây, các nguồn lực này dần mất đi thế

mạnh của mình do sự khai thác quá mức, cộng với sự chuyển đổi, tái cơ cấu

mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang kết hợp chiều rộng với chiều sâu, ưu

tiên áp dụng các tiến bộ KHCN vào quá trình phát triển. Để đáp ứng yêu cầu

này, đòi hỏi cơ cấu lao động ở Tây Nguyên cũng phải có sự chuyển đổi theo

hướng tăng tỉ lệ lao động qua đào tạo, có trình độ, tay nghề cao và giảm dần

lao động phổ thông.

50

Thực tế, sự chuyển dịch cơ cấu lao động ở Tây Nguyên trong những

năm qua cho thấy, số lao động phổ thông ngày càng giảm, lao động có trình

độ tay nghề và óc sáng tạo gia tăng. Điều này phù hợp với sự chuyển dịch cơ

cấu kinh tế Tây Nguyên theo hướng tỉ trọng nông nghiệp giảm và tăng tỉ trọng

công nghiệp, dịch vụ. Ngay chính trong nông nghiệp thì nông nghiệp công

nghệ cao có xu hướng ngày càng chiếm ưu thế thay cho nông nghiệp truyền

thống. Sự chuyển dịch này tất yếu dẫn đến nhu cầu về nguồn nhân lực chất

lượng cao gia tăng.

Bên cạnh đó, quá trình CNH, HĐH đòi hỏi phải đưa các tiến bộ KHCN

vào sản xuất và đời sống, để làm được việc này có hiệu quả cần có sự tham

gia của ĐNTT trong công tác tư vấn, phản biện, giám định cũng như quá trình

triển khai thực hiện.

Hai là, CNH, HĐH gắn với KTTT đặt ra yêu cầu phải từng bước nâng

cao chất lượng ĐNTT ở Tây Nguyên.

Quá trình CNH, HĐH gắn với KTTT đòi hỏi sự gia tăng cả về số lượng

và chất lượng của ĐNTT, biểu hiện ở thể lực, trí lực, tâm lực và năng lực làm

chủ KHCN.

Khác với sản xuất nông nghiệp, quá trình CNH, HĐH gắn với KTTT

tạo ra sự gia tăng áp lực trong lao động, nhất là lao động trí óc sáng tạo, buộc

mỗi lao động phải đáp ứng đầy đủ sức khoẻ, sự minh mẫn, dẻo dai mới có thể

hoàn thành tốt yêu cầu của công việc. Không có sức khoẻ, sự bền bỉ rất khó

có thể đáp ứng được tác phong lao động công nghiệp. Trí thức là một lực

lượng lao động quan trọng trong quá trình CNH, HĐH, do đó cũng phải

không ngừng rèn luyện sức khoẻ để ngày càng đáp ứng tốt hơn quá trình này.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với KTTT đòi hỏi lao động có tính

sáng tạo ngày càng cao để đáp ứng đòi hỏi của thị trường cũng như sự cạnh

tranh ngày càng gay gắt. Tây Nguyên là vùng KT-XH lạc hậu so với cả nước

nên tính cấp bách về nâng cao chất lượng lao động nói chung và trí lực nói

riêng trở nên bức thiết hơn để có thể thu hẹp khoảng cách trong quá trình phát

triển. Nhất là trong bối cảnh nhiều mặt hàng nông sản chủ lực của Tây

51

Nguyên có sức cạnh tranh thấp cả ở thị trường trong và ngoài nước do chất

lượng kém, chi phí sản xuất cao, việc áp dụng các tiến bộ KHCN vào quá

trình sản xuất, chế biến, bảo quản còn nhiều hạn chế, thiếu quy hoạch và dự

báo thị trường…. Điều này đòi hỏi ĐNTT phải không ngừng tìm tòi, sáng tạo

nhằm giải quyết những bài toán đang đặt ra, qua đó từng bước nâng cao trình

độ, năng lực của mình.

Quá trình CNH, HĐH Tây Nguyên gắn với sự xoá bỏ tình trạng biệt

lập, khép kín, lạc hậu, thay vào đó là sự mở rộng giao lưu, hợp tác. Từ đó đòi

hỏi trí thức phải không ngừng vươn lên chiếm lấy đỉnh cao của tri thức, nâng

cao trình độ ngoại ngữ, tin học đáp ứng yêu cầu hội nhập ngày càng sâu rộng.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Tây Nguyên không tách rời sự phát triển

của đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn

minh”, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để đạt được mục tiêu này,

ĐNTT phải có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, kiên định sự lãnh đạo

của Đảng và tất cả vì cuộc sống của nhân dân. Muốn vậy, họ phải không

ngừng rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng, không ngại khó, ngại khổ, say

mê học tập, NCKH. Đồng thời phải vượt qua những rào cản, mặc cảm, chủ

nghĩa vị kỷ, hẹp hòi để thay bằng sự giao lưu, hợp tác cùng phát triển mới có

thể đi đến đích cuối cùng.

Ba là, CNH, HĐH góp phần hình thành cơ cấu ĐNTT ở Tây Nguyên

ngày càng hợp lý, phù hợp với yêu cầu của sự phát triển.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá cùng với sự tác động của các chính sách

làm biến đổi cơ cấu kinh tế phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Tây Nguyên

theo hướng tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ ngày càng tăng. Kéo theo đó là sự

gia tăng số lượng công nhân, trí thức. Đồng thời trong quá trình chuyển dịch

cũng loại bỏ dần những yếu tố bất hợp lý trong cơ cấu lực lượng lao động nói

chung và ĐNTT nói riêng.

Chủ trương phát triển Tây Nguyên của Đảng và Nhà nước là hình thành

một vùng kinh tế trọng điểm của miền Trung với thế mạnh là cây công nghiệp

và công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu dùng và khai khoáng. Sự phát

52

triển ĐNTT ở Tây Nguyên về mặt cơ cấu phải hướng tới khai thác các thế

mạnh này. Đó là sự hình thành các kĩ sư, chuyên gia, nhà khoa học trong lĩnh

vực nông nghiệp, nhất là nông nghiệp công nghệ cao - một hướng đi tất yếu ở

Tây Nguyên hiện nay và trong các giai đoạn kế tiếp.

Như vậy, CNH, HĐH tất yếu đòi hỏi phải phát triển ĐNTT ở Tây

Nguyên mới có thể hoàn thành vai trò của mình là một trong những lực lượng

tiên phong trong quá trình phát triển. Không có CNH, HĐH thì khó có thể

phát triển ĐNTT, đồng thời không có ĐNTT thì CNH, HĐH khó có thể đi

đến mục tiêu cuối cùng.

2.2.2.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo môi trường và điều kiện

phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên

Thứ nhất, CNH, HĐH dẫn đến sự phân công lao động và chuyên môn

hoá ngày càng sâu sắc, hình thành một số ngành mũi nhọn tạo bước đột phá.

Hoạt động kinh tế Tây Nguyên trước đây chủ yếu là thuần nông, do vậy

tỉ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế chiếm tỉ lệ cao, thủ công nghiệp và

dịch vụ chiếm tỉ trọng thấp. Khi Tây Nguyên cùng cả nước bước vào thời kỳ

đẩy mạnh CNH, HĐH thì cơ cấu kinh tế nơi đây có nhiều bước chuyển dịch

theo hướng tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ, thương mại ngày càng chiếm tỉ lệ

cao trong cơ cấu kinh tế, đồng thời từ đó cũng hình thành những ngành kinh

tế mũi nhọn, chủ lực như nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế biến

hàng nông sản, công nghiệp khai thác quặng và năng lượng điện gió.

Quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế Tây Nguyên tất yếu dẫn tới sự biến đổi

cơ cấu lực lượng lao động. Ngoài nông dân, công nhân là lực lượng chủ yếu thì

cũng đã bắt đầu phát triển một lực lượng ngày càng đông đảo, đó là trí thức.

Thứ hai, CNH, HĐH làm tăng thêm thu nhập cũng như tạo điều kiện

trang bị cơ sở vật chất ngày càng tốt hơn cho ĐNTT.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển

kinh tế Tây Nguyên, qua đó nâng cao thu nhập và đời sống của người dân.

Khi thu nhập nâng lên, việc đầu tư của gia đình, nhà trường và xã hội cho sự

nghiệp GDĐT được quan tâm hơn, tạo tiền đề, cơ sở cho sự hình thành và

53

phát triển của ĐNTT. Đồng thời, khi đời sống của đội ngũ này nâng lên thì họ

sẽ quan tâm và dành nhiều thời gian, say mê hơn trong việc học tập nâng cao

trình độ, NCKH, tổng kết thực tiễn và làm giàu tri thức.

Thực tế hiện nay ở Tây Nguyên cho thấy, việc đầu tư kinh phí cho

hoạt động KHCN, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động của

ĐNTT còn những hạn chế, khó khăn nhất định, song nhìn cả quá trình thì sự

đầu tư này có xu hướng ngày càng gia tăng. Nhiều cơ sở GDĐT, cơ quan,

đơn vị và viện nghiên cứu trước đây không có phòng thí nghiệm, thực hành,

thư viện, nếu có thì trang thiết bị cũ kỹ, lạc hậu và thiếu thốn. Đến nay, sự

bất cập này đang từng bước được giải quyết. Đây là một tín hiệu tích cực đối

với sự phát triển ĐNTT.

Thứ ba, CNH, HĐH góp phần hình thành môi trường xã hội ngày càng

dân chủ, cởi mở hơn.

Quá trình CNH, HĐH Tây Nguyên không chỉ làm tăng thêm thu nhập

mà còn nâng cao trình độ nhận thức của người dân. Họ ngày càng ý thức rõ

hơn vai trò làm chủ xã hội của mình, tiếng nói của họ cần phải được lắng

nghe và coi trọng, môi trường dân chủ từ đó ngày càng mở rộng hơn, tạo điều

kiện cho việc phát huy vai trò của ĐNTT. Không có môi trường dân chủ, cởi

mở khó có thể hình thành và phát triển được một lực lượng đông đảo trí thức,

do đó đây là điều kiện hết sức quan trọng để phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên.

Hơn nữa, để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH thì hệ thống chính

trị các cấp ở Tây Nguyên phải không ngừng được kiện toàn theo hướng ngày

càng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Quá trình này không chỉ thúc đẩy dân chủ

hoá trong các cơ quan, đơn vị mà còn tạo điều kiện cho người dân tham gia

ngày càng nhiều và có hiệu quả hơn vào các công việc của chính quyền.

Thứ tư, CNH, HĐH tất yếu dẫn tới sự hoàn thiện các chính sách đối với

sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên.

Tiến trình CNH, HĐH một mặt làm cho KT-XH phát triển, mặt khác nó

loại bỏ dần những cơ chế, chính sách không còn phù hợp, kìm hãm sự phát

triển. Tiến trình này tạo thêm nguồn lực cho việc thực hiện các chính sách nói

54

chung và đối với ĐNTT nói riêng để từ đó huy động ngày càng hiệu quả hơn

sự đóng góp của đội ngũ này vào quá trình phát triển. Quan trọng hơn, vai trò

của trí thức đối với sự phát triển ngày càng được thể hiện rõ ràng - là lực

lượng không thể thiếu trong việc đẩy mạnh CNH, HĐH nên để phát huy được

vai trò của họ tất yếu phải thay đổi, hoàn thiện cơ chế, chính sách.

Khi cơ chế, chính sách được hoàn thiện sẽ tạo môi trường thông

thoáng, điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển ĐNTT ngày càng nhiều về

số lượng, chất lượng và hợp lý về cơ cấu thông qua các chính sách đào tạo,

bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ và thu hút. Đồng thời, góp phần ngăn chặn tình

trạng “chảy máu chất xám” khỏi Tây Nguyên, vốn dĩ đang diễn ra hàng ngày,

hàng giờ nơi đây.

Có thể khẳng định, CNH, HĐH không chỉ đặt ra yêu cầu khách quan

phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên mà còn tạo ra môi trường, điều kiện cho sự

phát triển của đội ngũ này. Đồng thời, khi ĐNTT ở Tây Nguyên phát triển tất

yếu có sự tác động tích cực và to lớn trở lại đối với tiến trình CNH, HĐH.

Mối quan hệ này làm cho sự gắn kết, tác động qua lại giữa CNH, HĐH với

phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên ngày càng chặt chẽ hơn.

2.3. NHỮNG YẾU TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN ĐỘI

NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN

Sự vận động, phát triển của ĐNTT ở Tây Nguyên là kết quả tổng hợp,

tác động đa chiều của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, tích cực và tiêu

cực, bên trong và bên ngoài, trong đó phải kể đến một số yếu tố cơ bản sau:

2.3.1. Những yếu tố khách quan

Thứ nhất, sự tác động của điều kiện địa lý, tự nhiên

Tây Nguyên gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và

Lâm Đồng. Nằm ở vùng cao phía tây Nam Trung bộ, địa hình Tây Nguyên có

độ cao trung bình 500 - 1.000m so với mặt nước biển. Tây Nguyên là vùng

đất tương đối bằng phẳng, nhưng được bao bọc bởi nhiều dãy núi xung quanh

nên địa hình dốc cao về phía Đông và thoải về phía Tây. Có đường biên giới

chung với Lào và Campuchia.

55

Thời tiết ở Tây Nguyên được chia thành 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và

mùa khô. Mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5, kết thúc vào tháng 10 và mùa

khô từ tháng 11 đến tháng 4. Khí hậu ở Tây Nguyên tương đối mát mẻ, mưa

nhiều, đất đai màu mỡ (với 1.800.000 ha đất đỏ bazan, 91.000 ha đất phù sa,

52.000 ha đồng cỏ tự nhiên) là điều kiện thuận lợi cho phát triển nhiều loại

cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao, như cà phê, cao su, tiêu, điều... vốn là

cây trồng lâu năm mang lại nguồn thu nhập chính cho người dân ở Tây

Nguyên. Đồng thời là vùng có diện tích rừng tự nhiên lớn nhất cả nước với

nhiều loại động thực vật hoang dã, quý hiếm.

Những đặc điểm về điều kiện địa lý, tự nhiên của Tây Nguyên đã tác

động không nhỏ đến sự hình thành, phát triển ĐNTT cả về số lượng, chất

lượng và cơ cấu, cũng như các chính sách đối với đội ngũ này. Tây Nguyên

đến nay vẫn là “miền đất huyền ảo”, còn nhiều yếu tố chưa được khám phá.

Đây là một trong những động lực, sức hấp dẫn thu hút sự quan tâm tìm hiểu,

nghiên cứu của các nhà khoa học không chỉ ở Tây Nguyên mà cả trong và

ngoài nước. Tuy nhiên, do địa hình hiểm trở nên sự mở rộng giao lưu, hợp tác

với các vùng miền khác trong cả nước gặp nhiều khó khăn. Việc đưa con em

cộng đồng các dân tộc ở đây tham gia vào hệ thống giáo dục ở các trung tâm

giáo dục hàng đầu của cả nước như Hà Nội, Huế, Đà Nẵng và thành phố Hồ

Chí Minh còn nhiều bất cập, đặc biệt khi hạ tầng giao thông chưa phát triển.

Trong một thời gian dài, số lượng sinh viên ở Tây Nguyên (nhất là sinh viên

DTTS tại chỗ) theo học ở các trường đại học lớn của cả nước chiếm một tỉ lệ

không đáng kể. Việc thu hút cán bộ, chuyên gia, nhà khoa học lên Tây

Nguyên công tác hết sức khó khăn. Điều kiện, môi trường cho ĐNTT phát

huy năng lực, sức sáng tạo của mình còn thiếu thốn, hạn chế,v.v…

Do điều kiện địa lý, tự nhiên làm cho Tây Nguyên khá tách biệt với các

vùng, miền khác của cả nước trong quá trình phát triển, nhất là trước khi bước

vào sự nghiệp đổi mới. Kinh tế nông nghiệp là chủ yếu. Cơ cấu lực lượng lao

động chủ yếu là nông dân, các thành phần khác như công nhân, trí thức chiếm

56

tỉ lệ rất nhỏ. Công nhân được hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa

của thực dân Pháp và sau này là đế quốc Mỹ, cũng như quá trình thực hiện

chính sách kinh tế mới của Đảng và Nhà nước ở Tây Nguyên - thông qua

thành lập các nông, lâm trường quốc doanh. Còn đối với ĐNTT, một bộ phận

được hình thành trong chính quá trình phát triển tự thân của cộng đồng các

dân tộc, bộ phận khác được thực dân đào tạo nhằm phục vụ cho sự cai trị, bóc

lột của chúng, còn đa phần được hình thành và phát triển trong quá trình xây

dựng chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, sự tác động của lịch sử, văn hóa, dân cư và tộc người

Do yếu tố địa lý tự nhiên nên Tây Nguyên trước thế kỷ XIX vẫn là một

vùng đất hoàn toàn tự do [57, tr.76]. Khác với người Kinh ở miền xuôi, hệ

thống giáo dục, thi cử được hình thành khá sớm, qua đó đã góp phần hình

thành ĐNTT. Ở Tây Nguyên, phải đến đầu thế kỷ XX mới bắt đầu hình thành

những thiết chế giáo dục đầu tiên do thực dân Pháp xây dựng nhằm đào tạo

những lớp người phục vụ cho sự đô hộ, cai trị, khai thác của họ.

Là vùng đất hoàn toàn tự do, cộng với sự phát triển KT-XH khá chậm

so với các khu vực xung quanh, hệ tri thức nơi đây chủ yếu là tri thức bản địa,

gắn bó chặt chẽ với hoạt động kinh tế thuần nông, đặc biệt là rừng. Vì vậy,

khi tiếp cận các tri thức mới gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến sự hình

thành, phát triển ĐNTT trong cộng đồng các DTTS tại chỗ. Ngay cả đến nay,

sự tiếp cận, lĩnh hội tri thức mới của DTTS tại chỗ vẫn có phần hạn chế so với

các thành phần dân tộc khác.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, sự

phát triển của trí thức ở Tây Nguyên diễn ra theo 2 xu hướng. Xu hướng thứ

nhất là chủ nghĩa thực dân, đế quốc thực hiện tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng

một lớp người có trình độ để phục vụ chính sách thống trị của chúng ở Tây

Nguyên. Xu hướng thứ hai, thực hiện chủ trương của Đảng, chúng ta đưa các

lớp cán bộ DTTS ra Bắc để đào tạo, sau đó trở lại phục vụ sự nghiệp cách

mạng ở Tây Nguyên. Đồng thời, trực tiếp bồi dưỡng tại chỗ một số người có

57

uy tín trong các cộng đồng DTTS. Cùng với quá trình đó, cử một số cán bộ có

trình độ vào Tây Nguyên để thực hiện nhiệm vụ mà Đảng giao phó, trong số

đó nhiều người đã ở lại đây sau ngày giải phóng. Xu hướng thứ hai đã hình

thành lớp trí thức mới có thể được coi là thế hệ đầu tiên ở Tây Nguyên.

Sau ngày giải phóng, thực hiện chủ trương phát triển Tây Nguyên, hệ

thống giáo dục ở đây từng bước được xây dựng và phát triển, qua đó đào tạo

con em các dân tộc đang sinh sống ở Tây Nguyên nhằm phát triển KT-XH

của vùng. Cùng với quá trình này, Nhà nước đưa nhiều chuyên gia, nhà khoa

học vào đây để gây dựng và phát triển Tây Nguyên. Đây có thể được coi là

thế hệ trí thức thứ hai.

Thực hiện sự nghiệp đổi mới, với chủ trương Tây Nguyên cùng cả

nước tiến hành CNH, HĐH, các chính sách phát triển toàn diện Tây Nguyên

được ban hành và thực hiện, trong đó có chính sách đào tạo, phát triển nguồn

nhân lực, từ đó đã và đang hình thành thế hệ trí thức thứ ba ở đây.

Văn hoá Tây Nguyên là sự kết tinh của những hoạt động lao động và

sinh sống của cộng đồng các dân tộc nơi đây, là một thể thống nhất trong đa

dạng của 3 cộng đồng dân tộc: Dân tộc Kinh, DTTS tại chỗ, DTTS từ nơi

khác đến. Sự giao thoa và tiếp biến văn hoá của các dân tộc đã tạo điều kiện

cho việc trao đổi, học hỏi lẫn nhau, trong đó có tri thức và kinh nghiệm, qua

đó thúc đẩy nhận thức của cộng đồng các dân tộc ở Tây Nguyên.

Tuy nhiên, một số cộng đồng DTTS có phần hạn chế trong việc sử dụng

tiếng phổ thông nên đã cản trở không nhỏ đến việc nâng cao nhận thức cũng

như tiếp cận các tri thức nhân loại (chủ yếu được thể hiện bằng ngôn ngữ phổ

thông), trong khi đó, các ấn phẩm, nguồn thông tin bằng tiếng dân tộc còn ít và

hạn chế. Điều này đã ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển trí là người DTTS.

Hơn nữa, nhiều hủ tục, tập quán lạc hậu trong cộng đồng các dân tộc,

nhất là DTTS cũng gây trở ngại đến sự phát triển ĐNTT. Nhiều cộng đồng

vùng DTTS vẫn tồn tại quan niệm “trời sinh voi thì trời sinh cỏ”; học chỉ cần

biết đọc, biết viết là đủ; con gái không cần học nhiều, v.v… dẫn tới thiếu sự

58

quan tâm đầy đủ đến việc học hành, nâng cao trình độ cho chính bản thân con

em mình. Từ đó tình trạng bỏ học tỉ lệ thuận với các cấp học. Nghĩa là cấp

học càng lên cao thì tỉ lệ này cũng gia tăng tương ứng. Chính vì vậy, về lâu

dài, quá trình phát triển kinh tế cần gắn chặt chẽ với sự thay đổi nhận thức của

người dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS, qua đó tạo tiền

đề, điều kiện cho sự phát triển ĐNTT.

Trí thức ở Tây Nguyên chủ yếu được hình thành từ 3 cộng đồng dân

tộc, trong đó đông đảo nhất là trí thức dân tộc Kinh. Do trình độ phát triển của

cộng đồng các dân tộc còn có những khoảng cách, kéo theo đó cũng có những

sự khác nhau trong quá trình phát triển ĐNTT nơi đây. Nếu như tốc độ phát

triển trí thức người Kinh khá nhanh thì ở trí thức DTTS chậm hơn. Một mặt

do điều kiện kinh tế của DTTS nhìn chung khó khăn, mặt khác do rào cản

ngôn ngữ, cũng như sự lạc hậu trong nhận thức và phong tục tập quán đã ảnh

hưởng đến sự phát triển ĐNTT. Từ đó dẫn tới sự chênh lệch, mất cân đối

trong quá trình phát triển đội ngũ này ở Tây Nguyên, trong đó trí thức người

Kinh chiếm tỉ lệ cao, có mặt ở hầu hết các ngành, lĩnh vực của đời sống xã

hội, thì tỉ lệ này ở trí thức DTTS còn thấp, thậm chí rất thấp.

Thứ ba, sự tác động của phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, kinh tế tri

thức và khoa học, công nghệ

Trình độ phát triển kinh tế là yếu tố, điều kiện quan trọng hàng đầu tác

động đến sự phát triển ĐNTT cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu cũng như

chính sách đối với đội ngũ này. Ở Tây Nguyên, trong một thời gian dài hoạt

động kinh tế chủ yếu là thuần nông với phương thức sản xuất thô sơ, lạc hậu;

tự cung, tự cấp, năng suất lao động thấp; kết cấu hạ tầng yếu kém, tỉ lệ đói

nghèo cao. Tuy nhiên, trong những năm qua kinh tế Tây Nguyên đã có sự

phát triển vượt bậc, tốc độ phát triển hàng năm cao hơn mức bình quân chung

của cả nước. Giai đoạn 1996 - 2000, tốc độ tăng trưởng là 12,5% [98, tr.47],

giai đoạn 2001-2005 đạt 10,05%, giai đoạn 2006-2010 đạt 13,70% [4, tr.31],

giai đoạn 2011-2015 là 7,19% [95]. Kinh tế phát triển kéo theo sự thay đổi cơ

59

cấu các ngành theo hướng tỉ trọng nông, lâm, thuỷ sản giảm và công nghiệp,

xây dựng và dịch vụ ngày càng tăng.

Bảng 2.1: Cơ cấu GDP vùng Tây Nguyên giai đoạn 2001 - 2015 Đơn vị tính: %.

Ngành/năm 2001 2005 2010 2015

Nông, lâm, thuỷ sản 71,40 61,37 46,81 41,21

Công nghiệp, xây dựng 10,82 17,08 25,61 24,85

Dịch vụ 17,78 21,55 27,58 33,94

Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở [4, tr.31; 22; 24; 26; 28; 31].

Sự chuyển dịch tích cực cơ cấu kinh tế Tây Nguyên tác động vào cơ

cấu xã hội theo hướng lao động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp giảm và tăng

trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ. Đây là tiền đề hết sức quan trọng cho sự

phát triển ĐNTT. Kinh tế phát triển kéo theo thu nhập của người dân tăng.

Bảng 2.2: GDP bình quân đầu người ở Tây Nguyên giai đoạn 2001 - 2015 Đơn vị tính: Triệu đồng.

Năm Thu nhập bình quân đầu người Tây Nguyên so

với cả nước (%) Tây Nguyên Cả nước

2001 2,86 6,07 47,11

2005 5,63 10,09 55,79

2010 15,52 22,40 69,28

2015 36,15 45,70 79,10

Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở [4, tr.33; 95].

Số liệu trên cho thấy, mặc dù thu nhập của người dân ở Tây Nguyên so

với cả nước còn ở mức thấp, nhưng trên tổng thể có sự gia tăng qua các giai

đoạn, từ mức chỉ bằng 47,11% vào năm 2001, đến năm 2015 đã tăng lên

79,10%. Thu nhập tăng kéo theo sự phát triển đời sống xã hội cũng như nhận

60

thức nói chung và về GDĐT nói riêng tăng lên. Người dân sẽ quan tâm và đầu

tư cho học hành nhiều hơn, qua đó nâng cao trình độ dân trí.

Đối với ĐNTT, thu nhập được nâng lên sẽ giúp họ giảm bớt gánh nặng

“cơm, áo, gạo, tiền” và dành nhiều thời gian hơn cho hoạt động NCKH, cũng

như trang bị tốt hơn các điều kiện phục vụ hoạt động NCKH.

Dưới góc độ chính trị và quản lý nhà nước, kinh tế phát triển kéo theo

đó là sự mở rộng môi trường dân chủ, tạo điều kiện cho ĐNTT được tham gia

nhiều hơn, thực chất hơn các hoạt động tư vấn, phản biện, giám định các chủ

trương, chính sách, qua đó góp phần hoàn thiện cơ chế, chính sách.

Khi kinh tế phát triển, Nhà nước mà cụ thể và trực tiếp là chính quyền

các tỉnh có thêm nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, tạo ra

sự thuận lợi cho việc giao lưu, trao đổi giữa Tây Nguyên với các vùng, miền

khác trong cả nước và thế giới. Đồng thời có thêm kinh phí xây dựng nhiều

trường học, đơn vị nghiên cứu phục vụ phát triển GDĐT và KHCN.

Như vậy, giữa phát triển kinh tế với phát triển ĐNTT có sự tương đồng

và tỉ lệ thuận với nhau, kinh tế phát triển là tiền đề, điều kiện để nâng cao chất

lượng GDĐT qua đó góp phần phát triển ĐNTT. Đồng thời, sự phát triển

ĐNTT tác động trở lại theo hướng thúc đẩy kinh tế phát triển.

Bên cạnh những mặt đạt được, Tây Nguyên vẫn là vùng có điều kiện

kinh tế khó khăn, hạ tầng kém phát triển, vốn đầu tư so với nhu cầu ít và dàn

trải, chất lượng nguồn nhân lực thấp, trình độ quản lý kinh tế và KHCN hạn

chế, thu nhập của người dân còn thấp, chênh lệch về thu nhập và mức sống

giữa thành thị và nông thôn, giữa dân tộc Kinh với đồng bào DTTS có xu

hướng ngày càng lớn, v.v... Những khó khăn đó đã tác động tiêu cực đến sự

phát triển ĐNTT. Biểu hiện cụ thể là số lượng trí thức, nhất là trí thức có trình

độ chuyên môn cao và trí thức DTTS rất ít, chất lượng chưa tương xứng với

số lượng và còn thấp, cơ cấu mất cân đối; năng lực thực tiễn còn nhiều hạn

chế, nhất là trong việc áp dụng các thành tựu KHCN vào sản xuất và đời

sống; các chính sách đối với trí thức được ban hành nhưng thiếu nguồn lực,

kinh phí tổ chức triển khai thực hiện, v.v…

61

Nước ta đang đẩy nhanh quá trình chủ động hội nhập quốc tế và đã gia

nhập nhiều tổ chức như ASEAN, APEC, WTO, v.v… tạo ra nhiều cơ hội

nhưng cũng không ít thách thức đối với sự phát triển.

Tây Nguyên có nhiều lợi thế về nguồn lực tự nhiên nhưng lại thiếu các

nguồn lực về KHCN, trình độ quản lý, nguồn nhân lực chất lượng cao và

nguồn vốn. Vì vậy, quá trình toàn cầu hoá, hội nhập là điều kiện thuận lợi cho

việc thu hút các nguồn lực còn thiếu vào quá trình phát triển. Tây Nguyên có

diện tích đất đỏ Bazan lớn và màu mỡ, phù hợp với nhiều loại cây công

nghiệp có giá trị kinh tế cao như cà phê, tiêu, cao su. Đây là những sản phẩm

xuất khẩu chủ lực của Tây Nguyên.

Tuy nhiên, quá trình hội nhập luôn đi đôi với sự cạnh tranh ngày càng

gay gắt nên nhiều mặt hàng xuất khẩu của Tây Nguyên chịu sức ép lớn trong

quá trình sản xuất, chế biến và xuất khẩu. Trong khi đó, việc áp dụng KHCN

vào sản xuất, chế biến và xuất khẩu còn nhiều hạn chế, khó khăn, đây là

những điểm yếu mang tính cố hữu của kinh tế Tây Nguyên trong quá trình hội

nhập. Mặt khác, là vùng kinh tế chậm phát triển nên khả năng bị tụt hậu xa

hơn là thách thức lớn đối với Tây Nguyên trong quá trình hội nhập.

Kinh tế tri thức là nền kinh tế mà sự phát triển chủ yếu dựa trên hàm

lượng chất xám - yếu tố tinh thần, nó khác về chất so với các nền kinh tế

trước đó - chủ yếu dựa vào nguồn lực vật chất. Vì vậy, nước ta nói chung,

Tây Nguyên nói riêng, khi KTTT tác động vào tất yếu dẫn tới những thay đổi

về phương thức phát triển, từ phương thức phát triển chủ yếu dựa vào nguồn

lực tự nhiên sang phương thức chủ yếu dựa vào trí tuệ, chất xám. Từ đó,

chính quyền và người dân quan tâm đầu tư nhiều hơn cho nhân tố con người,

từng bước coi đây là yếu tố quan trọng nhất đối với sự phát triển. Qua đó tạo

ra nhiều cơ hội, thuận lợi cho sự đi lên của ĐNTT. Sự phát triển và tác động

của KTTT tạo nên sự cạnh tranh về chất xám ngày càng gay gắt, quyết liệt và

để không bị loại khỏi quá trình này thì mỗi trí thức phải không ngừng phấn

đấu vươn lên.

62

Khoa học và công nghệ là yếu tố không thể thiếu trong quá trình phát

triển, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Đối với Tây Nguyên, sự tác động của

KHCN đến mọi mặt đời sống nơi đây đã tạo ra nhiều cơ hội cho ĐNTT phát

huy tốt vai trò và khả năng của mình, qua đó từng bước khẳng định vị thế

ngày càng quan trọng đối với sự phát triển. Dưới sự tác động của KHCN, trí

thức có thêm cơ hội để nâng cao nhận thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ,

ngoại ngữ và tin học, giao lưu và trao đổi học thuật cũng như NCKH.

Khoa học và công nghệ không chỉ tác động trực tiếp đến ĐNTT thông

qua đòi hỏi không ngừng nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng

để làm chủ, bắt kịp xu thế phát triển của thời đại, mà còn đặt ra cho họ nhiều

vấn đề mới nảy sinh trong việc áp dụng KHCN vào điều kiện, hoàn cảnh cụ

thể của Tây Nguyên để có thể phát huy tối đa các nguồn lực.

Thực tế ở Tây Nguyên hiện nay nảy sinh nhiều mâu thuẫn giữa những

hạn chế, yếu kém về nguồn lực với đòi hỏi, yêu cầu đẩy mạnh áp dụng KHCN

vào quá trình sản xuất; giữa đòi hỏi ngày càng cao của thị trường nông, lâm

sản với quy trình sản xuất, chế biến, bảo quản lạc hậu; giữa đòi hỏi hàm lượng

trí tuệ ngày càng cao trong sản phẩm, dịch vụ với sự hạn chế, yếu kém về

KHCN; giữa trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ với việc đẩy mạnh áp dụng

CNTT vào quá trình lãnh đạo, quản lý và điều hành; giữa sự đòi hỏi ngày

càng cao của nhận thức với những hạn chế trong nhận thức của người dân,

đặc biệt là vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới,v.v…

Những bất cập trên là câu hỏi lớn đặt ra cho ĐNTT cần phải tìm ra lời giải,

qua đó góp phần khẳng định vị trí, vai trò của mình.

Khoa học, công nghệ còn góp phần thúc đẩy KT-XH phát triển, từ đó

nâng cao trình độ mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có GDĐT và nguồn

nhân lực. Đây là một trong những điều kiện hết sức quan trọng để xây dựng

ĐNTT ngày càng lớn mạnh.

Có thể khẳng định, sự tác động của kinh tế, hội nhập quốc tế, KTTT và

KHCN tới ĐNTT ở Tây Nguyên đã tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển đội

ngũ này. Đồng thời cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức đòi hỏi chính

63

bản thân họ phải không ngừng vươn lên để bắt kịp xu hướng phát triển, qua

đó khẳng định vị thế, vai trò của mình là lực lượng tiên phong trong phát triển

KT-XH Tây Nguyên. Thực tiễn đó đã và đang tác động tới lớp trí thức thế hệ

thứ ba ở Tây Nguyên, lớp trí thức có sứ mệnh dẫn dắt sự đi lên của vùng.

2.3.2. Những yếu tố chủ quan

Thứ nhất, sự tác động của giáo dục và đào tạo

Giáo dục đào tạo tác động lớn đến sự phát triển con người nói chung và

ĐNTT nói riêng. Quy mô giáo dục, chất lượng giáo dục, đội ngũ giảng viên,

cơ sở vật chất, cơ chế, chính sách là những yếu tố quyết định đến hiệu quả

giáo dục.

Ở Tây Nguyên, trong những năm qua quy mô giáo dục tiếp tục phát

triển, mở rộng và duy trì theo hướng đi vào hiệu quả, ổn định. Tỉ lệ huy động

học sinh đến trường ở các cấp học, bậc học và nhu cầu đi học của con em

được quan tâm. Đó là điều kiện thuận lợi để Tây Nguyên hiện thực hóa mục

tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Ngoài ra, còn có

các hoạt động liên kết đào tạo với các trường đại học trên cả nước.

Chất lượng giáo dục có nhiều bước phát triển, góp phần đáp ứng yêu

cầu về nguồn nhân lực có trình độ, tay nghề phục vụ phát triển KT-XH. Đến

cuối 2015, tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đến trường đạt 98,1%; tất cả các huyện

có đồng bào DTTS đều có trường phổ thông dân tộc nội trú; tỷ lệ sinh viên

đạt khoảng 230 sinh viên/1 vạn dân.

Chính sách phát triển GDĐT ở Tây Nguyên ngày càng được chú trọng,

hoàn thiện qua đó động viên đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục yên tâm

công tác, cống hiến, đồng thời góp phần thu hút những người có phẩm chất,

trình độ, năng lực vào hoạt động này, từng bước nâng cao chất lượng GDĐT

nơi đây.

Đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục từng bước được bổ sung về số

lượng, chất lượng. Từ chỗ thiếu trầm trọng ở một số cấp học, địa bàn, đến nay

các tỉnh đã có nhiều biện pháp tích cực để phát triển đội ngũ này và đã đạt

được nhiều kết quả.

64

Ngân sách Nhà nước đầu tư cho GDĐT được tăng cường. Năm 2006

tổng chi ngân sách nhà nước cho GDĐT khu vực Tây Nguyên là 2.759 tỷ

đồng. Năm 2010, thực hiện 5.605 tỷ đồng, tăng 103,2% so với 2006, bình

quân tăng 20,6%/năm. Trong đó nhóm chi thường xuyên và chi chương trình

mục tiêu quốc gia giáo dục tăng cao nhất [7].

Cơ sở vật chất ngày càng được đầu tư, nâng cấp qua đó tạo điều kiện

thuận lợi cho công tác giảng dạy, nghiên cứu và học tập của đội ngũ nhà giáo

và học sinh, sinh viên. Cơ chế, chính sách đối với GDĐT cả nước nói chung

và Tây Nguyên nói riêng từng bước đổi mới, hoàn thiện tạo ra động lực cho

người dạy và người học yên tâm công tác, học tập.

Giáo dục đào tạo phát triển đã tác động tích cực đến việc tạo nguồn trí

thức ở Tây Nguyên, đảm bảo tính liên tục và tính kế thừa trong việc xây dựng

ĐNTT đông về số lượng, cao về chất lượng và hợp lý về cơ cấu.

Đối với trí thức là người DTTS, thông qua GDĐT có hai con đường

hình thành: Thứ nhất, những người tham gia vào các kỳ thi tuyển sinh đại

học, sau đó tham gia vào quá trình đào tạo đại học như những sinh viên khác,

sau khi ra trường chủ yếu tự liên hệ tìm việc làm. Thứ hai, là những sinh viên

cử tuyển theo chính sách của nhà nước, những em này được đào tạo dự bị

trong một thời gian, sau đó tham gia vào chương trình đại học và được học

như những sinh viên khác, sau khi tốt nghiệp hầu hết được các địa phương bố

trí việc làm. Chính sách cử tuyển đã góp phần quan trọng trong việc bổ sung

lực lượng trí thức DTTS, nhất là trong bối cảnh trình độ nhận thức của một số

cộng đồng dân tộc còn có những hạn chế nhất định.

Bên cạnh những mặt tích cực vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập như: Quy

mô trường còn nhỏ, số lượng sinh viên được đào tạo ở các trường trên địa bàn

còn ít; tỷ lệ sinh viên người dân tộc thiểu số còn thấp, chỉ đạt 9,47%; Số

lượng giảng viên đại học còn thiếu và yếu, bình quân sinh viên/giảng viên còn

cao, tính chung, tỷ lệ giảng viên đại học có trình độ tiến sĩ so với số giảng

viên còn thấp chỉ mới đạt 8,74%, các trường cao đẳng sư phạm là 2,06% [8].

Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học vẫn còn rất hạn chế; Quy mô ngành, nghề đào

65

tạo chưa phong phú, chưa đáp ứng thực tế, yêu cầu phát triển; Kinh phí đầu tư

cho GDĐT chưa đáp ứng được yêu cầu,v.v…

Khoảng cách về chất lượng GDĐT giữa thành thị với nông thôn, vùng

sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS ở các tỉnh Tây Nguyên còn cao, dẫn đến

gia tăng sự mất cân đối giữa trí thức người Kinh với trí thức người DTTS.

Nhất là trong bối cảnh, người Kinh ngày càng có xu hướng tập trung sinh

sống ở các vùng trung tâm thành phố, thị xã, thị trấn và các khu vực phụ cận.

Trong khi đó DTTS tập trung chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới với

điều kiện KT-XH còn nhiều khó khăn.

Những hạn chế, bất cập trên đã hạn chế sự phát triển ĐNTT ở Tây

Nguyên, vì vậy cần có những giải pháp để phát huy những mặt tích cực và

giảm thiểu những khó khăn nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống GDĐT ở

Tây Nguyên, qua đó góp phần quan trọng trong việc thực hiện chiến lược đào

tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH.

Thứ hai, sự tác động từ đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách,

pháp luật của Nhà nước

Đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn là tiền đề quan trọng thúc

đẩy sự phát triển mọi mặt của xã hội. Tuy nhiên, để tiền đề đó thành hiện thực

cần có quá trình cụ thể hoá và thực hiện nghiêm túc. Ngược lại, đường lối,

chính sách và việc thực hiện có khuyết điểm, hạn chế thì sẽ nảy sinh những

vấn đề phức tạp tác động tiêu cực đến sự phát triển. Sự phát triển ĐNTT ở

Tây Nguyên không nằm ngoài sự tác động của các quy luật này.

Thời gian qua, dưới sự tác động của cơ chế, chính sách, nhất là chính

sách hỗ trợ, cử tuyển học sinh, sinh viên người DTTS ở Tây Nguyên đã góp

phần tạo điều kiện trong việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo

nhân tài. Quá trình thực hiện đã cho nhiều kết quả tích cực. Nhiều nơi ở Tây

Nguyên trước đây gần như không có người được đào tạo từ đại học trở lên,

đến nay khoảng trắng này đã từng bước được san lấp. Nhiều trí thức sau khi

được đào tạo đã về vùng sâu, vùng xa, vùng DTTS phục vụ sự nghiệp xây

66

dựng và phát triển KT-XH. Trong thực tế, nhiều trí thức, trong đó có trí thức

DTTS đã phát huy được vai trò, năng lực của mình và giữ các vị trí quan

trọng trong hệ thống chính trị các cấp ở Tây Nguyên.

Trong thời kỳ đổi mới, nhất là sau khi có Nghị quyết số 10, ngày

18/01/2002 của Bộ Chính trị về phát triển KT-XH và bảo đảm quốc phòng, an

ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010, Chính phủ, các ban, bộ, ngành ở

Trung ương và địa phương đã cụ thể hoá và đưa Nghị quyết đi vào cuộc sống.

Diện mạo nơi đây đã có nhiều chuyển biến tích cực: KT-XH phát triển nhanh,

đời sống nhân dân các dân tộc được nâng lên; Hệ thống chính trị được củng

cố tăng cường; Quốc phòng, an ninh được giữ vững; Hệ thống giáo dục, y tế

từng bước được hoàn thiện, v.v… góp phần quan trọng vào sự phát triển mọi

mặt của Tây Nguyên. Sự phát triển này đã tạo điều kiện, tiền đề cho sự phát

triển ĐNTT, đồng thời khi lực lượng này phát triển cũng góp phần không nhỏ

vào việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật

của Nhà nước.

Bên cạnh những mặt đã đạt được, do nhiều nguyên nhân khách quan và

chủ quan nên việc ban hành, thực hiện một số chủ trương, chính sách đối với

Tây Nguyên còn thiếu tính toàn diện, sâu sắc từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến

sự phát triển của vùng, làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp tác động tiêu cực

đến sự ổn định. Không ít chính sách được ban hành và thực hiện chủ yếu

hướng tới khai thác nguồn lợi tự nhiên mà chưa quan tâm đúng mức đến việc

giữ gìn, bảo tồn và phát triển bền vững, dẫn tới sự phát triển chủ yếu diễn ra

theo chiều rộng, thiếu chiều sâu và chưa thực sự coi trọng yếu tố con người

đối với sự phát triển. Nhân tố con người chưa được nhìn nhận, đánh giá và

quan tâm đầy đủ dẫn tới sự chênh lệch trong cơ cấu xã hội ở Tây Nguyên,

nông dân chiếm đa số, công nhân và trí thức chiếm thiểu số. Sự mất cân đối

đó đã tác động không nhỏ đến sự phát triển ĐNTT cả về số lượng, chất lượng

và cơ cấu. Điều này phần nào lý giải tại sao ĐNTT ở Tây Nguyên còn ít về số

lượng, hạn chế về chất lượng và bất cập về cơ cấu.

67

Kết luận chương 2

Mặc dù đến nay vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về trí thức,

ĐNTT, nhưng tất cả đều thừa nhận vị trí, vai trò ngày càng quan trọng của đội

ngũ này đối với sự phát triển xã hội. ĐNTT không chỉ là lực lượng đi đầu

trong việc sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức mà còn tiên phong trong

việc đưa các tiến bộ KHCN vào sản xuất và đời sống .

Trí thức ở Tây Nguyên là một bộ phận gắn bó khăng khít với ĐNTT

Việt Nam, mang trong mình những đặc điểm của trí thức Việt Nam, đồng thời

cũng có những nét đặc thù do điều kiện KT-XH Tây Nguyên quy định và chi

phối. Vì vậy, phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên chính là quá trình hoàn thiện

đội ngũ này cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu phù hợp với điều kiện, hoàn

cảnh nơi đây.

Quá trình CNH, HĐH đang diễn ra nhanh chóng ở Tây Nguyên và tác

động sâu sắc tới mọi mặt của đời sống KT-XH nơi đây. Đối với ĐNTT ở Tây

Nguyên, quá trình này đã tạo điều kiện, môi trường, động lực và yêu cầu

khách quan cho sự phát triển của chính bản thân mình. Đồng thời, sự phát

triển của ĐNTT là một nhân tố hết sức quan trọng trong việc thực hiện thắng

lợi sự nghiệp CNH, HĐH Tây Nguyên.

Trong bối cảnh mới, sự phát triển của ĐNTT ở Tây Nguyên chịu sự tác

động đa chiều của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, bên trong và bên

ngoài, tích cực và tiêu cực. Những sự tác động đó đã tôi luyện cho ĐNTT ở

Tây Nguyên ngày càng trưởng thành và mạnh mẽ hơn trong quá trình phát

triển của chính mình và xã hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thử thách cho đội

ngũ này trong tiến trình hiện thực hoá chức năng lao động sáng tạo của mình.

Tiếp nhận cơ hội, vượt qua thách thức là những đòi hỏi bức thiết đối

với ĐNTT ở Tây Nguyên nhằm đưa vùng đất này phát triển, đó vừa là trách

nhiệm vừa là vinh dự và niềm tự hào của ĐNTT nơi đây.

68

Chương 3

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN

THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN

3.1.1. Thực trạng phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên về số

lượng và cơ cấu

3.1.1.1. Thực trạng phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên về

số lượng

Tây Nguyên là địa bàn cư trú của 47 dân tộc với dân số gần 5,5 triệu

người, chiếm 6% dân số cả nước. Số người trong độ tuổi lao động gần 3,2

triệu người. Cơ cấu xã hội - dân cư nơi đây gồm 3 cộng đồng chính: DTTS tại

chỗ, chiếm hơn 26% dân số; DTTS từ nơi khác đến chiếm gần 12% dân số và

dân tộc Kinh, chiếm 62% dân số [54].

Tính đến năm 2011, số người có trình độ đại học trở lên ở Tây Nguyên

là 110.705 người, chiếm 1,97% dân số và chiếm 3,33% lực lượng lao động.

Trong số những người có trình độ đại học trở lên thì tiến sĩ có 355 người,

chiếm 0,32%; Thạc sĩ có 3.561 người, chiếm 3,22%; đại học có 106.789

người, chiếm 96,46% (Xem phụ lục 3).

Dân số tỉnh Kon Tum là 473.300 người, số lao động từ 15 tuổi trở lên

là 278.900 người, chiếm 58,93% dân số [95]. Số người có trình độ đại học trở

lên 11.452 người, chiếm 2,42% dân số và 4,11%% lực lượng lao động. Về

trình độ, tiến sĩ 10 người, chiếm 0,09%; Thạc sĩ 269 người, chiếm 2,35%; Đại

học 11.173 người, chiếm 97,56% [107].

Dân số Gia Lai có 1.359.900 người, số lao động từ 15 tuổi trở lên là

821.500 người, chiếm 60,41% dân số. Số có trình độ đại học trở lên là 30.871

người, chiếm 2,27% dân số và chiếm 3,76% lực lượng lao động. Về trình độ

học vấn có 39 tiến sĩ, chiếm 0,13%; thạc sĩ 1.205 người, chiếm 3,90%; Đại

học 29.627 người, chiếm 95,97% [106].

69

Dân số Đắk Lắk có 1.827.000 người, số lao động từ 15 tuổi trở lên là

1.077.600 người, chiếm 58,98% dân số. Số người có trình độ đại học trở lên

là 33.136 người, chiếm 1,81% số dân và 3,07% lực lượng lao động. Về trình

độ học vấn, tiến sĩ 143 người, chiếm 0,43%; Thạc sĩ 1.003 người, chiếm

3,03%; Đại học 31.990 người, chiếm 96,54% [103].

Dân số Đắk Nông có 553.200 người, số lao động từ 15 tuổi trở lên là

349.200 người, chiếm 63,12% dân số. Số người có trình độ đại học trở lên là

5.435 người, chiếm 0,98% dân số và 1,56% lực lượng lao động. Về trình độ,

02 tiến sĩ, chiếm 0,04%; Thạc sĩ 85 người, chiếm 1,56%; Đại học 5.348

người, chiếm 98,40% [105].

Dân số Lâm Đồng có 1.246.200 người, số lao động từ 15 tuổi trở lên là

722.200 người, chiếm 57,95% dân số. Số người có trình độ đại học trở lên là

29.811 người, chiếm 2,39% dân số và chiếm 4,13% lực lượng lao động. Về

trình độ, tiến sĩ 161 người, chiếm 0,54%; Thạc sĩ 999 người, chiếm 3,35%;

Đại học là 28.651 người, chiếm 96,11% [110].

Qua các số liệu trên cho thấy, tỉ lệ người có trình độ đại học trở lên ở

Tây Nguyên so với dân số và số người trong độ tuổi lao động khá thấp. Đáng

lo ngại hơn là hiện nay toàn vùng mới có 3.916 người có trình độ sau đại học.

Điều này, phần nào lý giải tại sao Tây Nguyên là vùng có nhiều điều kiện

thuận lợi về thổ nhưỡng, khí hậu, nhưng trình độ phát triển KT-XH so với các

vùng khác trong cả nước vẫn còn thấp.

Số liệu trên cũng cho thấy, nếu xét về số lượng thì số người có trình độ

đại học trở lên của 3 tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk và Lâm Đồng chiếm gần 85%. Hai

tỉnh còn lại chỉ chiếm hơn 15%. Số có trình độ đại học trở lên của Kon Tum và

Đắk Nông cộng lại bằng 1/2 các tỉnh khác trong vùng. Điều này cho thấy có sự

chênh lệch lớn giữa các tỉnh. Những tỉnh thành lập trước có số lượng cao hơn

các tỉnh thành lập sau (Kon Tum tái lập tỉnh năm 1991, Đắk Nông năm 2004).

Tuy nhiên, nếu xét về tỉ lệ người có trình độ đại học trở lên so với dân

số và lực lượng lao động thì Kon Tum và Lâm Đồng là 2 tỉnh có tỉ lệ cao

nhất, sau đó tới Gia Lai, Đắk Lắk và cuối cùng là Đắk Nông.

70

Bảng 3.1: Tỉ lệ người có trình độ đại học trở lên theo trình độ và so với dân số, lực lượng lao động

Đơn vị tính: %.

Tỉnh Tiến sĩ Thạc sĩ Đại học So với dân

số

So với lực lượng lao

động

Kon Tum 0,09 2,35 97,56 2,42 4,11

Gia Lai 0,13 3,90 95,97 2,27 3,76

Đắk Lắk 0,43 3,03 96,54 1,81 3,07

Đắk Nông 0,04 1,56 98,40 0,98 1,56

Lâm Đồng 0,54 3,35 96,11 2,39 4,13

Tây Nguyên 0,25 2,84 96,92 1,97 3,33

Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở [64; 65; 66; 67; 68; 103; 104; 105; 106; 107; 108; 110].

Về tỉ lệ người có trình độ tiến sĩ trong tổng số người có trình độ đại học

trở lên thì Lâm Đồng là tỉnh có tỉ lệ cao nhất, tiếp đến là Đắk Lắk, Gia Lai,

Kon Tum và cuối cùng là Đắk Nông.

Mặc dù, số người có trình độ đại học trở lên còn ít trong cơ cấu dân số

và lực lượng lao động, nhưng tốc độ phát triển qua các năm có nhiều chuyển

biến tích cực. Nếu như vào năm 2000, toàn vùng có 31.021 người có trình độ

đại học trở lên thì đến năm 2011 con số này là 110.705 người. Như vậy, qua

hơn 10 năm, số người có trình độ đại học trở lên ở Tây Nguyên tăng 3,5 lần.

Kon Tum, năm 2000, số người có trình độ đại học trở lên là 2.425

người [98, tr.125]; đến năm 2005, số người có trình độ đại học trở lên tăng

2,4 lần so với năm 2000. Năm 2011 tăng 4,7 lần so với năm 2000 và 1,9 lần

so với năm 2005.

Gia Lai, năm 2000 có 6.170 người có trình độ đại học trở lên [98, tr.125],

đến năm 2005 con số này tăng lên 1,5 lần. Năm 2011 tăng 5,0 lần so với năm

2000 và 3,3 lần so với năm 2005.

Đắk Lắk, năm 2000 có 11.082 người có trình độ đại học trở lên [98,

tr.125]. Đến năm 2011, số này tăng gần 3 lần so với năm 2000.

71

Đắk Nông - tái lập tỉnh vào năm 2004, năm 2005, số người có trình độ

đại học trở lên là 2.604 người. Đến năm 2011 tăng gấp đôi sau hơn 5 năm.

Lâm Đồng, năm 2000, số người có trình độ đại học trở lên là 11.344

người [98, tr.125]. Đến năm 2011, số này tăng 2,6 lần so với năm 2000.

Qua sự phân tích trên cho thấy, ở tất cả các tỉnh Tây Nguyên, số người

có trình độ từ đại học trở lên có sự gia tăng đáng kể. Đây là một biểu hiệu tích

cực về sự gia tăng số lượng trí thức, qua đó tạo tiền đề, điều kiện quan trọng

cho việc nâng cao chất lượng trí thức.

Dù vậy, tốc độ gia tăng số lượng trí thức không đồng đều giữa các tỉnh.

Các tỉnh Kon Tum, Gia Lai có tốc độ phát triển nhanh hơn, trong khi đó, Đắk

Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng tăng chậm hơn. Điều này có thể lý giải, do Đắk

Lắk và Lâm Đồng là những tỉnh đi trước so với các tỉnh khác, vì vậy có tính

tương đối ổn định. Kon Tum và Gia Lai là những tỉnh đi sau nên “nóng” về

nguồn nhân lực hơn để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển. Trong khi đó, Đắk

Nông mới tái lập năm 2004, nên còn nhiều khó khăn. Mặt khác, tốc độ phát

triển kinh tế của Kon Tum và Gia Lai trong những năm gần đây cao hơn mức

bình quân của khu vực. Các cơ chế, chính sách đối với ĐNTT ở 2 tỉnh này

thông thoáng, thuận lợi hơn, tạo ra động lực mạnh mẽ cho việc nâng cao trình

độ của trí thức.

Thực tế trên cho thấy, tỉnh nào có trình độ phát triển cao hơn thì số

lượng trí thức cũng nhiều hơn và giữa phát triển KT-XH với phát triển ĐNTT

có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, thuận chiều nhau. Vì vậy, về lâu dài muốn

phát triển ĐNTT thì cần phải đẩy mạnh CNH, HĐH.

Bên cạnh thành tựu đã đạt được thì vẫn còn những hạn chế trong sự

phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên về mặt số lượng. Cụ thể:

Mặc dù số lượng trí thức tăng qua các năm, song so với tỉ lệ của cả

nước thì số lượng trí thức ở Tây Nguyên còn ít. Số người có trình độ đại học

của cả nước chiếm 6,58% tổng số lực lượng lao động [63].

Số lượng trí thức ở Tây Nguyên đã ít, số lượng trí thức DTTS lại càng

ít, chỉ chiếm 7,08% trên tổng số trí thức. Trong khi đó DTTS chiếm 38% dân

số toàn vùng. Số lượng trí thức ít lại phân bố không đồng đều giữa các tỉnh,

khu vực và lĩnh vực công tác. Số lượng trí thức tập trung chủ yếu ở các tỉnh

72

Gia Lai, Đắk Lắk, Lâm Đồng với gần 85%. Trong khi đó số lượng trí thức ở

Kon Tum và Đắk Nông chỉ chiếm hơn 15%. Trong một tỉnh số lượng trí thức

lại tập trung chủ yếu ở các trung tâm thành phố, thị xã, còn ở vùng sâu, vùng

xa, vùng DTTS khá ít. Đắk Lắk 39% trí thức tập trung ở Thành phố Buôn Ma

Thuột [93]. Lâm Đồng có 100/161 (62,1%) tiến sĩ tập trung ở Thành phố Đà

Lạt và Bảo Lộc [67]. Trong lĩnh vực công tác, ĐNTT tập trung nhiều vẫn là

trong hệ thống chính trị và các đơn vị sự nghiệp công lập. Ở Kon Tum là

81,46%, Đắk Nông là 83,17% và Lâm Đồng là 58,2%.

Thực tế trên có nhiều nguyên nhân, song chủ yếu là:

Nguyên nhân của những thành tựu:

Thứ nhất, những năm qua, do quá trình xã hội hoá GDĐT cũng như sự

quan tâm của Đảng, Nhà nước, số lượng các trường đại học, các viện nghiên

cứu ở Tây Nguyên ngày càng nhiều. Việc hình thành thêm các cơ sở này góp

phần thu hút số lượng trí thức từ các nơi khác về đây công tác cũng như hình

thành thêm những trí thức mới. Đồng thời, do chỉ tiêu tuyển sinh của một số

cơ sở giáo dục đại học ở Tây Nguyên được nâng lên cũng góp phần làm cho

số lượng trí thức tăng lên.

Thứ hai, kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người dân

tăng lên. Nhận thức của người dân về GDĐT được nâng cao. Chi cho việc học

hành, nâng cao trình độ của các gia đình nâng lên. Nhiều con em được tham

gia học tập tại các cơ sở giáo dục có uy tín trong và ngoài nước.

Đối với vùng sâu, vùng xa, vùng DTTS, nhận thức của người dân về

GDĐT có nhiều bước chuyển tích cực. Trong nhiều buôn, làng trước đây hầu

như trống vắng những người có trình độ học vấn cao, thì hiện nay trong

không ít gia đình có từ 1 đến 2 người có trình độ đại học và sau đại học.

Thứ ba, quá trình CNH, HĐH Tây Nguyên đưa đến sự thay đổi đáng kể

trong cơ cấu kinh tế, lao động dẫn đến xuất hiện những ngành, lĩnh vực đòi

hỏi lao động có trình độ cao, chuyên môn sâu.

Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế Tây Nguyên theo hướng CNH, HĐH có

nhiều chuyển biến tích cực, trong đó có việc hình thành lĩnh vực nông nghiệp

công nghệ cao cũng như các trung tâm nghiên cứu ứng dụng. Cùng với sự

xuất hiện các ngành, nghề này là sự đòi hỏi số người có trình độ cao ngày

73

càng nhiều. Và để đáp ứng đòi hỏi đó, buộc mỗi người phải không ngừng

phấn đấu học tập, nâng cao trình độ để vươn lên làm chủ tri thức.

Thứ tư, các chính sách đối với trí thức từng bước được điều chỉnh, bổ

sung và hoàn thiện. Nhận thức của cấp uỷ, chính quyền các tỉnh Tây Nguyên

đối với ĐNTT ngày càng được nâng cao, qua đó các chính sách đối với đội

ngũ này được quan tâm hơn, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho sự phát

triển ĐNTT.

Thứ năm, sự nỗ lực, phấn đấu không ngừng vươn lên của người dân

(chủ yếu là các thế hệ học sinh trung học phổ thông, trung học cơ sở) đã góp

phần không nhỏ vào sự gia tăng về số lượng ĐNTT ở Tây Nguyên.

Các em học sinh phổ thông chính là nguồn dự bị quan trọng của ĐNTT.

Nhiều em sau khi học xong bậc phổ thông, thi và trúng tuyển đại học đã tham

gia học tập, nghiên cứu ở nhiều cơ sở giáo dục đại học trong cả nước, sau đó

đem kiến thức đã học được ở trường, viện trở về phục vụ địa phương. Sự trở

về nơi các em sinh ra, lớn lên đã góp phần bổ sung vào ĐNTT của Tây

Nguyên ngày càng đông đảo.

Nguyên nhân của những hạn chế:

Một là, trình độ phát triển của Tây Nguyên nhìn chung còn chậm, tỉ lệ

nghèo đói cao, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng DTTS, do đó việc đầu tư

cho GDĐT còn nhiều hạn chế. Nhận thức của một bộ phận người dân đối với

“sự nghiệp trồng người” chưa đầy đủ, còn tư duy “trời sinh voi, trời sinh cỏ”.

Những năm qua, tốc độ phát triển của Tây Nguyên cao hơn mức bình

quân của cả nước nhưng do điểm xuất phát thấp nên còn nhiều khó khăn.

Khoảng cách về trình độ phát triển giữa Tây Nguyên với cả nước còn khá xa.

Trình độ phát triển thấp kéo theo thu nhập, đời sống của người dân gặp

nhiều khó khăn, từ đó hạn chế đến việc đầu tư cho con cái học hành, nâng cao

trình độ - một yếu tố hết sức quan trọng trong việc tạo nền tảng, cơ sở cho

việc tạo nguồn trí thức. Dưới góc độ quản lý nhà nước, khi kinh tế chậm phát

triển sẽ ảnh hưởng lớn đến các nguồn thu cho ngân sách nhà nước để tái đầu

tư phát triển, nhất là đầu tư kết cấu hạ tầng ở các vùng sâu, vùng xa, vùng

DTTS, từ đó hạn chế khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội nói chung và

GDĐT nói riêng của một bộ phận không nhỏ người dân ở Tây Nguyên.

74

Thực tế ở Tây Nguyên cho thấy, nhiều gia đình mong muốn cho con

em được học hành bài bản, nhưng do khó khăn về kinh tế, khoảng cách từ nhà

tới trường khá xa và xa hơn khi lên cấp học càng cao. Việc đi lại khó khăn,

nhất là về mùa mưa lũ nên nhiều em không hứng thú với việc học hành. Khẩu

hiệu “mỗi ngày đến trường là một ngày vui” tồn tại không nhiều trong các

trường học ở Tây Nguyên. Sự nghiệp tìm kiếm “cái chữ” ở Tây Nguyên quả

thật lắm gian nan, vất vả và càng khó khăn hơn đối với con em người DTTS.

Trình độ kinh tế chậm phát triển tác động không nhỏ đến việc nâng cao

nhận thức nói chung, về GDĐT nói riêng của người dân. Trong không ít cộng

đồng các dân tộc ở Tây Nguyên vẫn còn tồn tại nhận thức “học cho biết cái

chữ” là đủ, không cần học nhiều, học cao, do đó việc quan tâm, đầu tư cho

con cái học tập chưa được chú trọng đầy đủ, đúng mức. Trong khi đó, hiệu

quả công tác truyền thông xã hội nhằm thay đổi nhận thức của người dân đối

với GDĐT còn nhiều khó khăn, hạn chế. Các chính sách hỗ trợ, ưu đãi trong

GDĐT chưa đủ sức hấp dẫn và tạo đột phá cho sự thay đổi nhận thức đối với

một bộ phận người dân nơi đây, nhất là người DTTS.

Hai là, số lượng các cơ sở giáo dục đại học ở Tây Nguyên còn ít, quy

mô nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu nâng cao trình độ học vấn của người dân

nói chung và ĐNTT nói riêng.

Hiện nay toàn vùng Tây Nguyên có 04 trường đại học và 03 phân hiệu.

Tổng số cán bộ giảng dạy ở các cơ sở này là 984 người [8]. Như vậy, trung

bình chỉ có khoảng 140 cán bộ giảng dạy/01 cơ sở giáo dục đại học. Số

trường ít, quy mô nhỏ, vì vậy số lượng sinh viên được đào tạo trên địa bàn

không nhiều, mới đạt 128,6 sinh viên/1 vạn dân, trong khi đó kế hoạch là 180

sinh viên/1 vạn dân [8]. Bên cạnh đó số lượng ngành, nghề chưa phong phú,

chưa đáp ứng được đòi hỏi thực tế của Tây Nguyên. Điều này không chỉ tác

động tiêu cực đến việc tạo nguồn trí thức mà còn ảnh hưởng đến chất lượng,

cũng như cơ cấu ngành, nghề của ĐNTT nơi đây.

Ba là, sức ép từ đòi hỏi của cuộc sống, CNH, HĐH lên ĐNTT ở Tây

Nguyên còn chưa đủ tạo ra động lực cũng như sự đòi hỏi phải nâng cao trình

75

độ, từ đó hình thành tư tưởng “an phận thủ thường”, tự thoã mãn với cái hiện

có, chưa chịu khó học tập, nâng cao trình độ.

Qua hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đã thu được

nhiều thành tựu to lớn và quan trọng, tác động tích cực đến mọi lĩnh vực của

đời sống KT-XH. Tuy nhiên, sự tác động này không đồng đều, nhất là ở Tây

Nguyên. Quá trình tác động chưa đủ mạnh để tạo ra những bước đột phá trong

phát triển KT-XH Tây Nguyên, đến nay các hoạt động kinh tế ở đây vẫn chủ

yếu dựa vào nông nghiệp với phương thức lao động còn lạc hậu, việc đưa các

tiến bộ khoa học kĩ thuật vào quá trình sản xuất vẫn gặp nhiều khó khăn do

phong tục, tập quán sản xuất lạc hậu, trình độ nhận thức của người dân còn

nhiều hạn chế, quy mô sản xuất chủ yếu là nhỏ lẻ, manh mún… Thực tiễn đó

chưa tạo đầy đủ môi trường, điều kiện cho sự phát triển ĐNTT cũng như thu

hút trí thức từ nơi khác đến.

Bốn là, đời sống của một bộ phận trí thức khá khó khăn nên mặc dù

mong muốn nâng cao trình độ nhưng không có điều kiện. Bên cạnh đó, các

chính sách khuyến khích trí thức nâng cao trình độ còn nhiều bất cập, chưa đủ

bù đắp chi phí đào tạo, nên nhiều trí thức đành dừng con đường học vấn của

mình ở bậc đại học hoặc cao học. Điều này không chỉ tác động tiêu cực đến

chất lượng ĐNTT mà còn ảnh hưởng đến việc nâng cao số lượng trí thức có

trình độ sau đại học.

Kết quả khảo sát của tác giả luận án cho thấy, tuyệt đại đa số trí thức

mong muốn nâng cao trình độ, nhưng khó khăn lớn nhất cản trở quá trình này

chính là mức lương quá thấp, trong khi đó đây là nguồn thu nhập chính và có

thể nói là duy nhất ở một bộ phận không nhỏ ĐNTT ở Tây Nguyên. Chỉ một

số ít trí thức có sự hỗ trợ từ gia đình mới có điều kiện nâng cao trình độ.

Trong khi đó, các chính sách đối với trí thức chưa đủ sức hấp dẫn để thúc đẩy

trí thức học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ, cũng như thu hút trí thức từ nơi

khác đến gia nhập vào ĐNTT ở Tây Nguyên.

3.1.1.2. Thực trạng phát triển đội ngũ trí thức về cơ cấu

Cơ cấu ĐNTT là một trong những thành tố góp phần vào sự phát triển

của đội ngũ này. Cơ cấu này hết sức đa dạng và phong phú, luận án chỉ tập

trung nghiên cứu một số loại cơ cấu sau:

76

Cơ cấu thành phần xuất thân.

Đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên được hình thành chủ yếu sau ngày giải

phóng miền Nam thống nhất đất nước, đồng thời gắn với quá trình thực hiện

đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về

phát triển vùng kinh tế mới Tây Nguyên. Do đó, đại đa số trí thức xuất thân từ

nông dân, công nhân và cán bộ cách mạng được tăng cường lên Tây Nguyên.

Lâm Đồng, có 59,6% trí thức xuất thân từ gia đình nông dân; 15,5% từ công

nhân; 10,9% từ trí thức và 14% từ các tầng lớp khác [94].

Đại đa số trí thức ở Tây Nguyên trưởng thành từ người lao động nên họ

luôn tự hào về dân tộc, lòng yêu nước, có phẩm chất chính trị vững vàng, có

tiềm năng trí tuệ, thông minh, ham học hỏi vươn lên. Tuy nhiên, do ảnh

hưởng của lối canh tác nông nghiệp lạc hậu, phong tục tập quán, truyền thống

văn hóa còn nặng tàn tích của xã hội cũ nên họ cũng ngại giao lưu, hợp tác

đổi mới, còn tư tưởng thụ động, bảo thủ. Trong công việc hàng ngày hay tuyệt

đối hoá kinh nghiệm, không thích tranh luận khoa học. Khi ở cương vị lãnh

đạo, quản lý thường hay áp đặt ý chí chủ quan cho người khác.

Cơ cấu trình độ học vấn.

Cơ cấu trình độ học vấn của ĐNTT ở Tây Nguyên có sự mất cân đối

lớn. Số người có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ trong tổng số trí thức chiếm tỉ lệ khá

thấp, chỉ chiếm 3,54%, trong đó tiến sĩ chiếm 0,32%, thạc sĩ chiếm 3,22%.

Gia Lai là tỉnh có tỉ lệ trí thức trình độ sau đại học cao nhất vùng nhưng cũng

chỉ chiếm 4,0%. Đắk Nông có tỉ lệ thấp nhất với 1,6%.

Biểu 3.1: Cơ cấu trình độ học vấn của đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên

Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở [64; 65; 66; 67; 68; 103; 104; 105; 106; 107; 108; 110].

Tiến sĩ 0,32%

Thạc sĩ 3,22%

Cử nhân 96,46%

77

Kết quả trên phần nào thể hiện chất lượng của ĐNTT còn nhiều hạn

chế, cũng như cho thấy sự “an phận thủ thường”, chưa chịu khó học tập vươn

lên của đội ngũ này. Còn dưới góc độ kinh tế phản ánh sự tác động của CNH,

HĐH, KHCN và KTTT vào Tây Nguyên chưa mạnh, chưa đủ tạo ra áp lực

phải nâng cao trình độ.

Mặc dù cơ cấu còn bất cập, nhưng xét về xu hướng thì có sự biến đổi

tích cực. Năm 2000, tỉ lệ trí thức có trình độ sau đại học so với tổng số trí

thức chiếm 1,92%. Năm 2011, tỉ lệ này là 3,54%. Như vậy so với năm 2000

thì tỉ lệ trí thức có trình độ sau đại học hiện nay tăng thêm 1,62%. Gia Lai là

tỉnh có tỉ lệ tăng nhanh nhất với 3,18%, tiếp đến là Kon Tum với 1,85. Lâm

Đồng tăng chậm nhất với 1,21%.

Cơ cấu thành phần dân tộc.

Do đặc điểm của cơ cấu xã hội - dân cư ở Tây Nguyên nên ĐNTT ở

đây là một lực lượng hết sức đa dạng về thành phần dân tộc. Nhưng nhìn

chung trí thức DTTS chiếm tỉ lệ rất thấp trong tổng số trí thức. Toàn vùng

Tây Nguyên chỉ có 9.078 người DTTS có trình độ đại học trở lên, chiếm

7,08%. Trong khi đó, DTTS chiếm 38% dân số của vùng. Cụ thể:

Trong tổng số trí thức ở Kon Tum, thì trí thức DTTS chỉ có 794 người,

chiếm 6,93% [66]. Gia Lai có 2.744 trí thức DTTS, chiếm 8,89% [64]. Đắk

Lắk có 3.651 trí thức DTTS, chiếm 11,02%. Trình độ học vấn càng lên cao thì

sự chênh lệch càng lớn, thạc sĩ 55/1003 người, chiếm 5,48%, tiến sĩ 06/143

người, chiếm 4,20% [103]. Đắk Nông có 147 trí thức DTTS chiếm 2,7% [68].

Lâm Đồng có 1.742 trí thức DTTS, chiếm 5,84%. Trong số này đại học 1.693

người, chiếm 5,7%; thạc sĩ 48 người, chiếm 0,2%; tiến sĩ 01 người, chiếm

0,003% [67]. Như vậy, có thể thấy trí thức DTTS chiếm tỉ lệ rất thấp trong

tổng số trí thức ở Tây Nguyên, cũng như ở mỗi tỉnh. Đắk Lắk là tỉnh có tỉ lệ

trí thức DTTS cao nhất nhưng cũng chỉ chiếm 11,02%. Đắk Nông là tỉnh có tỉ

lệ thấp nhất vùng, chỉ có 2,7%%. Tỉ lệ trí thức DTTS đã thấp lại càng thấp

hơn trong số những người có trình độ sau đại học. Đây là một bất cập lớn

trong sự phát triển trí thức DTTS ở Tây Nguyên.

78

Bảng 3.2: Tỉ lệ trí thức dân tộc thiểu số trong cơ cấu đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên

Đơn vị tính: %.

Tỉnh Trí thức DTTS Tỉ lệ Kon Tum 794 6,93 Gia Lai 2.744 8,89 Đắk Lắk 3.651 11,02 Đắk Nông 147 2,7 Lâm Đồng 1.742 5,84

Tây Nguyên 9.078 7,08 Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở [64; 66; 67; 68; 103].

Mặc dù, số lượng trí thức DTTS còn ít, nhưng nếu so với trình độ phát

triển KT-XH và nhận thức của người DTTS thì đây là kết quả to lớn, đáng

khích lệ, phản ánh sự phấn đấu nỗ lực vươn lên trong học tập, nghiên cứu của

họ, cũng như sự quan tâm của Đảng, Nhà nước trong công tác đào tạo nguồn

nhân lực nói chung và trí thức DTTS nói riêng. Còn về lâu dài, sự bất cập này

cần được giải quyết để đưa Tây Nguyên ngày càng ổn định, phát triển.

Cơ cấu giới tính.

Cơ cấu giới tính của ĐNTT ở Tây Nguyên không có sự chênh lệch lớn

giữa nam và nữ. Trí thức nam chiếm 53,26%, trí thức nữ chiếm 46,74%. Điều

này phản ánh nỗ lực vượt qua khó khăn, rào cản và vươn lên không ngừng

của nữ giới, nhất là trong bối cảnh xã hội vẫn còn tồn tại tư tưởng “trọng nam,

khinh nữ”. Mặc dù vậy, tỉ lệ trí thức nam ở hầu hết các tỉnh luôn cao hơn trí

thức nữ. Sự chênh lệch này biểu hiện rõ nét hơn ở trình độ sau đại học, điều

này phản ánh sự phát triển và tham gia của trí thức nữ vẫn còn những rào cản

nhất định, cũng như những hạn chế trong sự tự phấn đấu vươn lên của họ.

Ở Kon Tum, trí thức nam chiếm 55%, nữ chiếm 45% [66]. Gia Lai trí

thức nam chiếm 52,26%, nữ chiếm 47,74% [106]. Đắk Lắk trí thức nam

chiếm 53,97%%, nữ chiếm 46,03%. Trong số những người có trình độ sau đại

học thì nam chiếm 63,62%; nữ chiếm 36,38% [103]. Đắk Nông trí thức nam

chiếm 48% và nữ chiếm 52% [103]. Lâm Đồng, trí thức nam chiếm 57,06%

và nữ chiếm 42,94%. Trong tổng số trí thức có trình độ đại học, nam chiếm

79

56,54% và nữ chiếm 43,46%. Trình độ thạc sĩ nam chiếm 76,16% và nữ

chiếm 23,84%. Trình độ tiến sĩ, nam chiếm 92,75% và nữ chiếm 7,25% [110].

Qua các số liệu trên cho thấy, trình độ học vấn càng cao thì sự chênh

lệch càng lớn. Chứng tỏ vẫn còn những khoảng cách không nhỏ giữa trí thức

nam và nữ trong quá trình vươn lên chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức. Đây là vấn

đề đặt ra đối với các tỉnh Tây Nguyên về chiến lược phát triển nguồn nhân lực

trí thức sao cho hài hòa giữa nam và nữ.

Cơ cấu ngành đào tạo và lĩnh vực công tác.

Về chuyên ngành đào tạo: Có sự khác nhau giữa các chuyên ngành đào

tạo của ĐNTT ở Tây Nguyên. Tỉnh Kon Tum có 18,19% trí thức ngành kinh

tế; 7,4% nông lâm; 1,02% xây dựng; 2,56% quản lý hành chính; 3,86% luật;

44,64% khoa học xã hội, nhân văn; 1,89% khoa học công nghệ; 3,07% y

dược; 3,67% ngoại ngữ; 1,1% tin học và ngành khác là 12,57% [66]. Gia Lai

có 62,56% trí thức ngành nông lâm thuỷ sản; 9,25% công nghiệp xây dựng và

28,19% dịch vụ [106]. Đắk Lắk có 20,31% trí thức ngành nông lâm thuỷ sản;

6,98% công nghiệp xây dựng; 4,54% giáo dục; 26,63% quản lý kinh tế; 8,4%

báo chí, văn hoá; 3,49% an ninh, pháp luật; 2,62% CNTT; 1,22% khoa học sự

sống (sinh học) và 25,81% ngành khác [1; 21]. Đắk Nông có 81,38% trí thức

ngành nông lâm thuỷ sản; 3,73% công nghiệp, xây dựng; 0,97% giao thông

vận tải; 0,29% khoa học công nghệ và thông tin truyền thông; 0,15% tài chính

ngân hàng; 6,94% thương mại, dịch vụ; 2,74% giáo dục; 0,59% y tế, chăm

sóc sức khoẻ và 3,15% lĩnh vực khác [68]. Ở Lâm Đồng, trí thức ngành khoa

học xã hội, nhân văn chiếm 28%; khoa học tự nhiên 23,3%; khoa học kỹ thuật

18%; các ngành khác 12,1% và không xác định 18,6% [110].

Có thể thấy chuyên ngành của ĐNTT khá đa dạng, có mặt ở tất cả các

lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, có sự chênh lệch lớn giữa các

chuyên ngành đào tạo, điều này cho thấy sự mất cân đối về ĐNTT giữa các

chuyên ngành, nó phần nào phản ánh sự mất cân đối trong cơ cấu KT-XH của

vùng, cũng như quá trình đào tạo chưa gắn kết với điều kiện cụ thể của Tây

Nguyên. Điều này đặt ra nhiều vấn đề về đảm bảo hài hoà sự phát triển giữa

số lượng và cơ cấu ĐNTT ở Tây Nguyên trong thời gian tới.

80

Theo lĩnh vực công tác: ĐNTT ở Tây Nguyên phân bố không đồng đều

giữa các cơ quan, đơn vị. 81,46% trí thức ở Kon Tum tập trung trong các cơ

quan đảng, nhà nước và mặt trận, đoàn thể và đơn vị sự nghiệp công lập. Khu

vực tư chỉ chiếm 18,54% [66]. Ở Đắk Nông, trí thức làm việc trong khối

đảng, mặt trận, đoàn thể và đơn vị sự nghiệp công lập chiếm 83,17%; khối

doanh nghiệp nhà nước chiếm 1,01%; ngoài biên chế nhà nước 15,82% [68].

Theo khảo sát của Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Lâm Đồng thì trí

thức tập trung cao nhất trong hệ thống chính trị và đơn vị sự nghiệp công lập

với 58,2%. Còn lại là trong các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh

và một số lĩnh vực hoạt động khác là 41,8% [67].

Sự tập trung hầu hết trí thức trong hệ thống chính trị, các đơn vị sự

nghiệp công lập phần nào cho thấy trí thức mong muốn sự ổn định lâu dài và

có phần “an phận thủ thường”, thiếu sự đột phá cũng như phản ánh trình độ

phát triển KT-XH và KHCN ở Tây Nguyên còn nhiều hạn chế; môi trường

bên ngoài thu hút trí thức chưa đủ sức hấp dẫn,v.v….

Cơ cấu độ tuổi.

Đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên bao gồm nhiều nhóm tuổi khác nhau và

hầu hết trong số họ được hình thành sau ngày giải phóng miền Nam và quá

trình thực hiện chính sách kinh tế mới ở Tây Nguyên nên độ tuổi trung bình

của trí thức tương đối trẻ. Theo kết quả khảo sát của tác giả luận án, có 10,8%

trí thức dưới 30 tuổi; 43,5% từ 30 đến dưới 40 tuổi; 37,3% từ 40 đến dưới 50

và 8,4% từ 50 tuổi trở lên (xem phụ lục 2). Đây là độ tuổi mà trí thức phát

huy tốt khả năng và sự cống hiến của mình đối với sự phát triển xã hội. Các

độ tuổi này bảo đảm cho việc phát triển vừa liên tục vừa kế thừa. Đồng thời,

cơ cấu này cho thấy ĐNTT đạt được độ chín về trình độ chuyên môn, lý luận

chính trị và kinh nghiệm, sẵn sàng phục vụ cho sự nghiệp phát triển KT-XH

Tây Nguyên. Đây là yếu tố thuận lợi để trí thức vươn lên trong việc tiếp tục

học tập nâng cao trình độ, phát huy khả năng sáng tạo của mình. Bên cạnh đó,

với sức trẻ của mình họ cũng năng động hơn trong công việc, dễ tiếp thu

những cái mới, tri thức mới, thành tựu mới của KHCN trên thế giới vào quá

trình hoạt động, công tác. Họ là người trực tiếp tham gia điều hành, quản lý

xã hội, đề xuất và tham mưu cho các cấp, các ngành trong việc hoạch định các

81

chủ trương, chính sách trong phát triển KT-XH và cũng là lực lượng chủ yếu

trong việc đào tạo nguồn nhân lực, nhân tài cho các tỉnh Tây Nguyên.

Như vậy, trên tổng thể cơ cấu ĐNTT ở Tây Nguyên khá đa dạng, là kết

quả của sự phản ánh cơ cấu KT-XH nơi đây và do cơ cấu này tạo ra. Tuy

nhiên, đi vào từng loại cơ cấu thì có sự mất cân đối, nhất là cơ cấu thành phần

dân tộc, giới tính và lĩnh vực công tác. Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng

này là do:

Thứ nhất, KT-XH Tây Nguyên chậm phát triển và mất cân đối.

Kinh tế Tây Nguyên cho đến nay vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp, tỷ

trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế khá cao, trong khi đó tỷ trọng công

nghiệp, dịch vụ còn thấp, kéo theo đó cơ cấu xã hội - dân cư chủ yếu là nông

dân. Sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế dẫn đến sự mất cân đối trong cơ cấu

xã hội - giai cấp nói chung và cơ cấu ĐNTT nói riêng.

Kinh tế chậm phát triển dẫn tới môi trường làm việc của trí thức chậm

được mở rộng và có ít lựa chọn, do đó hầu hết trí thức ở Tây Nguyên tập

trung trong các cơ quan, đơn vị của hệ thống chính trị và các đơn vị sự nghiệp

công lập. Một số làm việc trong các đơn vị, doanh nghiệp ngoài công lập.

Kinh tế Tây Nguyên nói chung đã chậm phát triển, kinh tế ở vùng sâu,

vùng xa, vùng đồng bào DTTS càng chậm phát triển hơn, hoạt động sản xuất

thuần nông là chính, kéo theo đó là thu nhập thấp, chỉ đủ trang trải cuộc sống

hàng ngày mà không có tiết kiệm để đầu tư cho GDĐT. Vì thế, một số gia

đình người DTTS thực sự quan tâm đến việc học hành của con cái, nhưng

không có điều kiện trang trải chi phí học tập - nhất là ở bậc đại học, nên

không ít em đành dừng chân trước ngưỡng cửa đại học, phải ở nhà làm nông

nghiệp cùng bố mẹ hoặc đi học nghề, làm thuê kiếm sống.

Thứ hai, nhận thức của đồng bào DTTS đối với GDĐT còn hạn chế.

Như đã trình bày, phân tích ở trên, do kinh tế vùng đồng bào DTTS còn

chậm phát triển, đời sống khó khăn, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hủ tục,

quan niệm lạc hậu nên nhận thức của nhiều gia đình người DTTS đối với

GDĐT chưa đầy đủ, chưa nhận thức được vị trí, vai trò của GDĐT. Họ chủ

yếu chú ý đến cuộc sống hàng ngày, trước mắt, mà chưa quan tâm nhiều đến

việc học tập của con cái, dẫn đến việc đầu tư cho con cái có nhiều hạn chế,

82

thậm chí phó mặc cho nhà trường, các cấp chính quyền và xã hội, coi đây là

trách nhiệm của xã hội phải làm, còn gia đình không có trách nhiệm giáo dục.

Từ quan niệm lạc hậu đó, dẫn đến con em trong nhiều gia đình người DTTS

không được học hành đến nơi, đến chốn, mà chỉ học cho biết “cái chữ” là đủ.

Mặt khác, do ảnh hưởng của tư tưởng “trọng nam, khinh nữ”, “con gái

ở nhà chăm sóc gia đình”,… nên làm cho việc học tập, nâng cao trình độ của

nữ giới gặp nhiều khó khăn hơn nam giới. Nam giới vẫn có nhiều cơ hội hơn

trong việc học tập, nâng cao trình độ so với nữ giới, điều này không chỉ diễn

ra ở phạm vi xã hội mà trong từng gia đình.

Rào cản ngôn ngữ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao trình

độ, khả năng nhận thức của trí thức DTTS. Vẫn còn không ít trí thức DTTS

gặp nhiều khó khăn khi tiếp thu, lĩnh hội tri thức nhân loại bằng ngôn ngữ phổ

thông. Trong khi đó, có rất ít các ấn phẩm xuất bản bằng ngôn ngữ DTTS.

Việc tiếp cận tri thức bằng ngôn ngữ phổ thông đã khó, việc đòi hỏi phải biết

thêm ngoại ngữ lại càng khó khăn - nhưng đây lại là xu hướng, đòi hỏi tất yếu

trong giai đoạn hiện nay. Chính điều này cũng tạo ra sự mất cân đối trong cơ

cấu ĐNTT.

Thứ ba, chưa có các chính sách định hướng ngành, nghề trong GDĐT,

dẫn tới tình trạng “vừa thừa vừa thiếu” trong cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực.

Cũng giống như nhiều nơi khác, GDĐT ở Tây Nguyên hiện nay vẫn

nặng tư tưởng “mạnh ai nấy làm”, thiếu định hướng lâu dài trong việc tạo

nguồn nhân lực cho phát triển KT-XH. Việc định hướng ngành, nghề đào tạo

chủ yếu phó mặc các em, gia đình lựa chọn, quyết định dựa vào sở thích, khả

năng có việc làm sau khi ra trường. Từ đó dẫn tới sự mất cân đối giữa cung và

cầu lao động. Nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp đại học, sau đại học không

thể tìm kiếm việc làm hoặc buộc phải làm các công việc không phù hợp với

chuyên môn, chuyên ngành của mình. Một số phải cất giấu bằng tốt nghiệp

đại học để đi học trung cấp nghề, mong tìm kiếm được việc làm.

3.1.2. Thực trạng phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên về chất lượng

Sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên về chất lượng không chỉ ở số lượng

và cơ cấu mà còn thể hiện ở những mặt chủ yếu sau:

83

* Về thể lực

Quá trình phát triển KT-XH những năm qua ở Tây Nguyên làm cho thu

nhập bình quân đầu người vùng Tây Nguyên gia tăng hàng năm, từ 2,86 triệu

đồng vào năm 2001 lên 36,15 triệu đồng vào năm 2015. Số hộ nghèo giảm

dần từ 21,83% năm 2001, 10,23% năm 2010, thì đến cuối năm 2015 số hộ

nghèo còn 7,3%. Thu nhập tăng kéo theo chất lượng cuộc sống nâng lên, nhận

thức của người dân ngày càng cao, nhiều hủ tục trong sinh hoạt hàng ngày

từng bước bị loại bỏ ra khỏi cộng đồng các dân tộc ở Tây Nguyên. Nhận thức

về sức khoẻ và an toàn vệ sinh thực phẩm được nâng cao. Cơ cấu thực phẩm

trong các bữa ăn của nhiều gia đình ngày càng hợp lý.

Mạng lưới y tế ở Tây Nguyên được đầu tư phát triển, năm 2010, Tây

Nguyên có 68 bệnh viện, số trạm y tế cơ sở là 717 trạm, số giường bệnh là

11.109 giường, số cán bộ ngành y là 10.564 người, 100% xã có trạm y tế; tỉ lệ

bác sĩ, dược sĩ trên 1 vạn dân lần lượt là 5,6% và 0,2% (cả nước là 6,52% và

0,5%); tỷ lệ giường bệnh trên 1 vạn dân là 21,78 (cả nước là 24,56) [12].

Đầu tư cho văn hoá, thể dục thể thao được quan tâm hơn. Bên cạnh

những thiết chế văn hoá, nhà rèn luyện thể dục thể thao do nhà nước đầu tư,

phục vụ công ích còn có nhiều nhà rèn luyện thể dục, thể thao do tư nhân

đứng ra đầu tư, kinh doanh. Từ đó thu hút ngày càng nhiều người luyện tập

thể dục thể thao, nâng cao thể lực, chăm sóc sức khoẻ.

Biểu hiện của quá trình trên là chỉ số phát triển con người (HDI) của

Tây Nguyên có sự chuyển biến tích cực, từ 0,689 năm 2010 lên 0,704 vào

năm 2012, cao hơn vùng trung du và miền núi phía Bắc (0,678) [20]. Những

kết quả đó góp phần vào việc nâng cao thể lực của người dân nơi đây, trong

đó có ĐNTT.

Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế trong việc

chăm sóc sức khoẻ của người dân. Tỉ lệ suy dinh dưỡng còn cao so với mặt

bằng chung của cả nước. Số hộ nghèo trong đồng bào DTTS còn khá cao,

chiếm hơn 50% hộ nghèo của Tây Nguyên. Mạng lưới y tế tuyến huyện chưa

được đầu tư đúng mức, dẫn tới xuống cấp. Đội ngũ cán bộ y tế còn thiếu về số

lượng và yếu về chất lượng, nhất là bác sĩ ở tuyến huyện. Các thiết chế văn

hoá, nhà rèn luyện thể dục, thể thao chủ yếu tập trung ở trung tâm tỉnh. Chỉ số

84

phát triển con người mặc dù tăng qua các năm nhưng vẫn ở dưới mức trung

bình của cả nước, năm 2010 của cả nước là 0,740 và năm 2012 là 0,752.

Những hạn chế, khó khăn trên đã ảnh hưởng đến việc rèn luyện sức

khoẻ, dẫn đến thiếu sự bền bỉ, dẻo dai trong lao động, nhất là trong bối cảnh

CNH, HĐH Tây Nguyên được đẩy mạnh, áp lực lao động ngày càng cao.

Không đủ sức khoẻ ảnh hưởng không ít đến sức sáng tạo trong lao động.

* Về trí lực

Trí lực của ĐNTT có nhiều tiêu chí đánh giá. Luận án chỉ đề cập đến

một số tiêu chí chủ yếu sau:

Trình độ học vấn

Mặc dù số người có trình độ sau đại học ở Tây Nguyên còn ít, nhưng

nhìn vào quá trình phát triển cũng có những tín hiệu tích cực. Nếu như vào

năm 2000, toàn vùng có 596 người có trình độ sau đại học thì đến năm 2011

con số này là 3.916 người. Như vậy, tăng 6,5 lần qua hơn 10 năm.

Kon Tum, năm 2000, số người có trình độ sau đại học là 14 người

[98, tr.125], thì đến năm 2011 tăng 19,9 lần so với năm 2000 và 3,7 lần so

với 2005.

Gia Lai, năm 2000 có 52 người trình độ sau đại học [98, tr.125]. Năm

2005 tăng gấp 4,5 lần so với 5 năm trước. Năm 2011 tăng 23,9 lần so với năm

2000 và 5,2 lần so với năm 2005.

Đắk Lắk, năm 2000 có 226 người trình độ sau đại học [98, tr.125], đến

năm 2011, con số này tăng 5 lần.

Đắk Nông, năm 2005, số người có trình độ sau đại học là 15 người, đến

năm 2011 con số này tăng 5,8 lần.

Lâm Đồng, năm 2000, số người có trình độ sau đại học 400 người [98,

tr.125]. Đến năm 2011, con số này tăng 2,9 lần.

Các số liệu trên cho thấy, số người có trình độ sau đại học ở tất cả các

tỉnh Tây Nguyên đều có sự gia tăng qua các giai đoạn và tăng nhanh hơn số

người có trình độ đại học. Gia Lai, Kon Tum là 2 tỉnh có tốc độ tăng nhanh

nhất, kế đến là Đắk Nông, Đắk Lắk và Lâm Đồng. Điều này phần nào phản

ánh không chỉ số lượng tăng mà trình độ, chất lượng cũng được nâng lên. Khi

85

trình độ được nâng lên sẽ là một trong những nhân tố quan trọng góp phần

nâng cao khả năng NCKH và làm chủ KHCN của ĐNTT.

Bên cạnh thành tựu đạt được thì ĐNTT ở Tây Nguyên vẫn còn nhiều

hạn chế về trình độ học vấn. Số người có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ chiếm tỉ lệ rất

thấp trong tổng số người có trình độ đại học và so với lực lượng lao động của

cả nước. Nếu như ở Tây Nguyên, số thạc sĩ có 3.561 người, chiếm 0,11% lực

lượng lao động; tiến sĩ là 355 người, chiếm 0,01% lực lượng lao động, thì số

thạc sĩ của cả nước là 215.343 người, chiếm 0,31% lực lượng lao động; tiến sĩ

là 37.157 người, chiếm 0,05% lực lượng lao động [63]. Đây là một hạn chế

lớn, nhất là trong giai đoạn Tây Nguyên cùng cả nước đẩy mạnh CNH, HĐH,

phát triển KTTT và hội nhập quốc tế. Thực tế cho thấy, trình độ học vấn có sự

tương quan, tác động thuận chiều với năng lực sáng tạo, NCKH.

Nghiên cứu khoa học, tư vấn, phản biện và giám định xã hội

Chất lượng trí tuệ giữ vai trò quyết định đến sức mạnh của ĐNTT. Chất

lượng được thể hiện bằng những sản phẩm khoa học, các công trình nghiên

cứu, các phát minh, sáng chế và những cải tiến trong lao động sản xuất cũng

như hiệu quả, tính khả thi của các chính sách có sự tham gia tư vấn, phản biện

và giám định của ĐNTT.

Ở Tây Nguyên trong những năm qua, cùng với quá trình phát triển thì

sự tham gia của trí thức vào NCKH, sáng tạo ngày càng tăng, qua đó có nhiều

đóng góp cho sự phát triển KT-XH nơi đây cũng như nâng cao trình độ của

chính bản thân trí thức. Nhiều đề tài, đề án đã cung cấp nhiều luận chứng,

luận cứ khoa học làm cơ sở cho các cấp, các ngành hoạch định chính sách

phát triển KT-XH, cũng như bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử của

Tây Nguyên. Không chỉ tham gia NCKH, ĐNTT còn đi đầu trong việc đưa

các tiến bộ khoa học về giống cây trồng, vật nuôi, đặc biệt là giống bắp lai,

lúa lai, cà phê, tiêu, heo lai, bò lai… vào sản xuất, chăn nuôi góp phần tăng

nhanh sản lượng nông sản, hàng hóa, v.v…

Đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên còn tham gia tư vấn, phản biện và giám

định nhiều vấn đề liên quan đến sự phát triển KT-XH, qua đó đưa ra nhiều

kiến nghị, đề xuất quan trọng như: Tham mưu, đề ra các chính sách, giải pháp

giải phóng sức lao động, phát huy nhân tố con người, đẩy mạnh sản xuất, tạo

86

điều kiện chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ KHCN. Tham gia tư vấn, phản

biện quy hoạch, kế hoạch tổng thể phát triển KT-XH và các chương trình, dự

án, đề án có tính chất phức tạp, trọng điểm, đa ngành, nhất là các đề án có tính

chất nhạy cảm về văn hoá, lịch sử, cảnh quan, môi trường, khu dân cư, lao

động, việc làm, xóa đói giảm nghèo; các đề án do các doanh nghiệp xin phép

đầu tư trên địa bàn Tây Nguyên có khả năng tác động lớn đến văn hóa, cảnh

quan, môi trường cuộc sống người dân và an sinh xã hội.

Ở Đắk Lắk, thông qua hoạt động tư vấn, phản biện và giám định,

ĐNTT đã đưa ra nhiều kiến nghị, đề xuất quan trọng đối với Uỷ ban Nhân

dân tỉnh về những tác động tiêu cực nếu thực hiện dự án thủy điện Đrăng

Phốk, trên cơ sở đó đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ và được đồng ý dừng

thực hiện việc chuyển đổi rừng và đất rừng Vườn Quốc gia Yok Đôn để thực

hiện dự án. Việc dừng dự án đã được sự đồng tình, ủng hộ của người dân.

Hay như trên cơ sở đề nghị của Uỷ ban Nhân dân tỉnh theo đề xuất của các

nhà khoa học, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý thuê tư vấn nước ngoài tham

gia lập quy hoạch chung xây dựng Buôn Ma Thuột đến năm 2025,v.v…

Bên cạnh mặt tích cực đạt được, vẫn còn nhiều hạn chế trong NCKH,

tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Không ít sản phẩm của ĐNTT có hàm

lượng chất xám và tính ứng dụng thấp. Nhiều đề tài nghiên cứu không thể áp

dụng vào thực tiễn, nhất là trong lĩnh vực khoa học xã hội. Số lượng đề tài

nghiên cứu cơ bản nhiều, trong khi đó nghiên cứu ứng dụng còn ít. Không ít

đề tài sau khi nghiệm thu không thể áp dụng vào thực tiễn đời sống do thiếu

tính khả thi, gây nên tình trạng lãng phí ngân sách cũng như tạo dư luận

không tốt.

Hoạt động NCKH của ĐNTT ở Tây Nguyên chưa nhiều, chủ yếu tập

trung vào một bộ phận nhỏ trí thức, đa phần còn lại thỉnh thoảng hoặc chưa

bao giờ tham gia. Theo số liệu khảo sát của tác giả luận án, chỉ có 5,2% trí

thức thường xuyên viết bài cho các báo, tạp chí, hội thảo; 36,8% thỉnh thoảng

và chưa bao giờ là 58,0%. Việc không tham gia thường xuyên hoặc đứng

ngoài NCKH một mặt làm giảm tính năng động, sáng tạo của trí thức, mặt

87

khác cho thấy điều kiện, môi trường cho trí thức phát huy năng lực của mình

vẫn còn những hạn chế, bất cập.

Việc tham gia tư vấn, phản biện và giám định xã hội vẫn được coi là việc

làm của một bộ phận nhỏ trí thức, còn hầu hết không tham gia hoặc không có

điều kiện tham gia. Kết quả khảo sát của tác giả luận án cho thấy, chỉ có 7,1%

thường xuyên tham gia, còn lại 38,4% thỉnh thoảng và 54,5% chưa bao giờ

(xem phụ lục 2). Đây là một tỉ lệ rất thấp đối với lao động trí óc. Điều đó thể

hiện ĐNTT chưa phát huy hết vai trò sáng tạo của mình đối với các vấn đề KT-

XH đang diễn ra ở Tây Nguyên. Đồng thời cũng cho thấy sự hạn chế của đội

ngũ này, cũng như của chính quyền trong việc tạo điều kiện cho trí thức phát

huy khả năng, trí tuệ của mình. Việc tham gia tư vấn, phản biện, giám định xã

hội vẫn là công việc có phần “xa xỉ” đối với nhiều trí thức nơi đây.

Thực tế trên dẫn đến sự thiếu gắn kết giữa lý luận và thực tiễn, lý

thuyết với thực hành. Việc đứng ngoài hoạt động này không chỉ làm cho trí

thức mai một kiến thức mà còn thể hiện sự bất cập giữa đào tạo, bồi dưỡng

với việc tạo điều kiện cho trí thức phát huy trí tuệ, khả năng của mình.

Trình độ ngoại ngữ và tin học

Trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH, cùng với việc hội nhập khu

vực, thế giới ngày càng sâu rộng, cũng như sự tác động mạnh mẽ của KHCN,

nhất là CNTT, thì việc sử dụng ngoại ngữ và tin học là một yêu cầu tất yếu

đối với ĐNTT.

Về trình độ ngoại ngữ: Do KT-XH Tây Nguyên chậm phát triển, mức

độ giao lưu, hội nhập còn hạn chế, từ đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc

học tập, nâng cao trình độ và khả năng sử dụng ngoại ngữ của ĐNTT ở đây.

Theo kết quả khảo sát thì có 3,9% chưa học; 24,8% trình độ A; 57,2%

trình độ B; 5,3% trình độ C; 4,1% cử nhân và 4,7% trình độ khác (xem phụ

lục 2). Có thể thấy trình độ ngoại ngữ của ĐNTT còn nhiều hạn chế, chủ yếu

là trình độ A và B. Với trình độ này, chỉ có thể giao tiếp đơn giản, rất khó có

thể sử dụng trong công tác nghiên cứu cũng như trao đổi học thuật.

88

Trình độ ngoại ngữ của ĐNTT còn thấp, dĩ nhiên mức độ sử dụng cũng

còn nhiều hạn chế. Theo kết quả khảo sát, chỉ có 4,0% sử dụng thường xuyên,

70,8% thỉnh thoảng và 25,2% chưa bao giờ (xem phụ lục 2).

Theo báo cáo của Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Lâm Đồng thì

có 8,4% trí thức thường xuyên sử dụng ngoại ngữ, thỉnh thoảng là 62,0%,

không sử dụng là 19,1% và không xác định là 10,5% [67, tr.80].

Trong điều kiện hiện nay, thì đây chính là một hạn chế lớn của ĐNTT ở

Tây Nguyên. Hạn chế này đã ảnh hưởng đến việc giao lưu, hội nhập, tiếp thu

tinh hoa, trí tuệ của nhân loại trong bối cảnh hội nhập quốc tế và CNTT ngày

càng phát triển.

Xét về thành phần dân tộc thì tỉ lệ sử dụng ngoại ngữ của trí thức dân

tộc Kinh và DTTS lần lượt là: Thường xuyên là 4,1% và 3,7%; thỉnh thoảng

là 73,0% và 64,2%; chưa bao giờ là 22,9% và 25,1%. Như vậy, có thể thấy, tỉ

lệ sử dụng ngoại ngữ thấp ở cả trí thức người Kinh và DTTT. Nguyên nhân

chủ yếu của sự hạn chế này là do trình độ phát triển KT-XH Tây Nguyên còn

chậm; mức độ hội nhập chưa cao; hiệu quả và chất lượng dạy và học ngoại

ngữ còn thấp.

Về trình độ tin học: Trình độ tin học của ĐNTT ở Tây Nguyên nhìn

chung chưa cao, chủ yếu ở trình độ A và B với 90,5%, tức là trình độ cơ bản.

Còn trình độ C trở lên chiếm tỉ lệ khá thấp với 3,6%. Với trình độ này, chỉ xử

lý được những công việc đơn giản như đánh văn bản, truy cập mạng và xử lý

các bảng tính giản đơn, khó có thể áp dụng vào các công việc đòi hỏi trình độ,

kỹ năng phức tạp.

Hiện vẫn còn 1,9% trí thức chưa học tin học. Đây là con số không lớn,

song trong bối cảnh hiện nay cần phải được phổ cập tin học. Trí thức rất khó

có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình nếu không biết hoặc không thể sử

dụng tin học trong quá trình hoạt động.

Nếu như tỉ lệ sử dụng ngoại ngữ khá thấp thì việc sử dụng tin học khá

cao với 88,4% thường xuyên sử dụng trong công việc của mình, chỉ có 10,5%

thỉnh thoảng và 1,1% chưa bao giờ. Sự chênh lệch trong sử dụng tin học giữa

trí thức các tỉnh không cao mà khá đồng đều. Đây là một sự cố gắng vươn lên

của ĐNTT ở Tây Nguyên trong việc nắm bắt CNTT.

89

Xét về thành phần dân tộc thì tỉ lệ sử dụng tin học của trí thức dân tộc

Kinh và DTTS lần lượt là: Thường xuyên 88,6%% và 87,9%; thỉnh thoảng

10,4% và 11,1%; chưa bao giờ 1,0 và 1,0%. Như vậy, có sự cân bằng trong

việc sử dụng tin học giữa trí thức dân tộc Kinh với DTTT. Điều này cho thấy

việc ứng dụng tin học vào hoạt động của ĐNTT trở thành một việc làm thiết

yếu, thường xuyên, không thể thiếu, nhất là trong bối cảnh CNTT đang phát

triển như vũ bão. Đồng thời cũng cho thấy sự nỗ lực vươn lên không ngừng

trong việc nắm bắt và nâng cao trình độ của trí thức DTTS.

* Về nhân cách

Nhân cách của con người nói chung và trí thức nói riêng được thể hiện

trên nhiều khía cạnh khác nhau. Luận án chủ yếu tập trung nghiên cứu ở một

số khía cạnh chủ yếu sau:

Ý thức chính trị

Ý thức chính trị thể hiện ở tri thức, niềm tin và ý chí, bản lĩnh chính trị.

Đó là sự hiểu biết đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật

của Nhà nước; tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý, điều hành của

Nhà nước; là sự quyết tâm hiện thực hoá đường lối, chủ trương, chính sách,

pháp luật vào cuộc sống; đấu tranh chống lại những âm mưu, thủ đoạn của

các thế lực thù địch và quyết tâm vượt qua khó khăn, thử thách hoàn thành tốt

nhiệm vụ được giao.

Trình độ lý luận chính trị là một trong những nhân tố hết sức quan

trọng cấu thành nhân cách ĐNTT, đó là sự giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật

của Nhà nước.

Tại Lâm Đồng, tỉ lệ trí thức có trình độ lý luận chính trị là: Cử nhân

8,2%; cao cấp 23,1%; trung cấp 23,4%; sơ cấp là 31,4% và không xác định là

13,9% [67, tr.79].

Theo kết quả khảo sát của tác giả luận án, tỉ lệ trí thức ở Tây Nguyên

có trình độ lý luận chính trị hoặc lý luận chính trị - hành chính là: Cử nhân:

8,9%; cao cấp: 20,5%; trung cấp: 40,7%; sơ cấp: 18,0% và chưa học 11,9%.

Như vậy, tỉ lệ trí thức có trình độ lý luận chính trị khá cao, chiếm 88,1%.

90

Biểu 3.2: Trình độ lý luận chính trị của đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên phân theo trình độ học vấn

Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả.

Theo kết quả trên thì trình độ học vấn tỉ lệ thuận với trình độ lý luận

chính trị ở đại đa số trí thức. Trình độ học vấn càng cao thì trình độ lý luận

chính trị cũng được nâng lên. Điều này thể hiện sự nhất quán trong việc phát

triển ĐNTT theo hướng “đức” đi đôi với “tài”.

Theo kết quả khảo sát của tác giả luận án cho thấy, khi phân tích mối

tương quan về trình độ lý luận chính trị giữa trí thức dân tộc Kinh với DTTS

thì không có sự chênh lệch lớn. Cụ thể: Trình độ lý luận chính trị của trí thức

người Kinh theo tỉ lệ: Sơ cấp 17,1%; trung cấp 40,9%; cao cấp 20,9%; cử

nhân 9,1% và 12,0% chưa học, thì tỉ lệ này ở trí thức DTTS lần lượt là:

20,5%; 40,0%; 19,5%; 8,4% và 11,6%. Đây là một tín hiệu đáng mừng thể

hiện sự vươn lên mạnh mẽ của ĐNTT nói chung và trí thức DTTS nói riêng

nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng ĐNTT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.

Đồng thời nó phản ánh sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với sự phát

triển trí thức DTTS.

Việc trang bị lý luận chính trị không chỉ giúp ĐNTT đảm bảo định

hướng tư tưởng, nhận thức và hoạt động mà còn thể hiện sự trung thành, kiên

định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới đất

0

10

20

30

40

50

60

70

80

90

Tiến sĩ Thạc sĩ Đại học

Cử nhân

Cao cấp

Trung cấp

Sơ cấp

Chưa học

91

nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo; giữ vững phẩm chất đạo đức, nêu cao

tinh thần trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ và cuộc sống.

Những năm qua, tình hình thế giới, khu vực và trong nước có nhiều

diễn biến phức tạp. Tây Nguyên lại là một trong những trọng điểm chống phá

của các thế lực thù địch, chúng lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chia rẽ

khối đoàn kết; kích động, lôi kéo quần chúng nhằm tạo ra sự bất ổn về chính

trị. Song, đại đa số trí thức giữ vững niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ,

không bị kích động, dụ dỗ hay lôi kéo. Khi các sự việc diễn ra, ĐNTT đã kịp

thời tham gia đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc trên mặt trận tư

tưởng, cũng như nhìn nhận, đánh giá một cách khoa học từ đó tham mưu cho

cấp uỷ, chính quyền ở Tây Nguyên những giải pháp nhằm ổn định tình hình.

Phẩm chất đạo đức, ý thức tổ chức kỷ luật, lối sống

Đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên chủ yếu được hình thành, phát triển sau

ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, được rèn luyện, học tập trong

môi trường cách mạng xã hội chủ nghĩa nên đại đa số nêu cao đạo đức cách

mạng, yêu nghề, hăng say công việc. Tác phong làm việc ngày càng khoa học.

Hầu hết trí thức mong muốn đem sức lực, trí tuệ của mình đóng góp cho sự

nghiệp xây dựng Tây Nguyên ngày càng giàu đẹp. Nhiều trí thức không chịu

dừng bước trước những khó khăn, dám nghĩ, dám làm, quyết tâm vươn lên

trong NCKH cũng như ý chí làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội.

Trước những tác động của mặt trái cơ chế thị trường cũng như rào cản

của những hủ tục lạc hậu, song đa số trí thức, trong đó có trí thức DTTS giữ

được lối sống lành mạnh, tích cực, sẵn sàng phá bỏ những phong tục, tập quán

lạc hậu để tiếp nhận những nếp sống văn minh, hiện đại.

Là vùng đất nhạy cảm về quốc phòng, an ninh với những diễn biến

phức tạp liên quan đến dân tộc, tôn giáo, các thế lực thù địch luôn sử dụng

mọi luận điệu xuyên tạc nhằm lôi kéo người dân đi theo chúng, nhất là những

người có học thức trong cộng đồng các DTTS, nhưng các trí thức nơi đây vẫn

giữ cho mình niềm tin vào Đảng, luôn chấp hành ý thức tổ chức kỷ luật,

không hoang mang, dao động trước các thủ đoạn xuyên tạc, chống phá, giữ

cho mình lối sống lành mạnh, tích cực. Biểu hiện cụ thể là trong các cuộc bạo

92

loạn chính trị ở Tây Nguyên, các thế lực thù địch một mặt gây chia rẽ khối

đoàn kết dân tộc giữa người Kinh với người DTTS tại chỗ, mặt khác tìm cách

lôi kéo trí thức DTTS tại chỗ để thu hút quần chúng, nhưng chúng đã thất bại

do các trí thức giữ vững lập trường, phẩm chất cách mạng kiên trung, không

giao động, một lòng theo Đảng. Đó chính là sự biểu hiện nhân cách đúng đắn

của ĐNTT nơi đây.

Tuy nhiên, dưới sự ảnh hưởng lâu dài của lối canh tác nông nghiệp lạc

hậu, manh mún và mặt trái của cơ chế thị trường nên ý thức tổ chức kỷ luật và

lối sống của một bộ phận trí thức nơi đây còn thấp kém, lối sống buông thả,

thực dụng, chỉ biết lo vun vén cho cái lợi trước mắt của bản thân mà thiếu tầm

nhìn lâu dài. Một số người mang danh trí thức nhưng ham danh lợi, địa vị từ

đó ảnh hưởng đến việc phát huy vai trò của ĐNTT. Không ít trí thức bằng

lòng với hiện tại mà không chịu khó rèn luyện vươn lên. Tác phong làm việc

của một số trí thức chưa khoa học.

Như vậy, về mặt chất lượng mặc dù ĐNTT ở Tây Nguyên trong những

năm qua đã có nhiều cố gắng vươn lên hoàn thiện bản thân mình và đã đạt

được một số kết quả quan trọng, tạo tiền đề, cơ sở cho sự phát triển trong các

giai đoạn tiếp sau. Nhưng nhìn chung đội ngũ này vẫn còn nhiều hạn chế về

trình độ học vấn, ngoại ngữ, tin học cũng như tham gia tư vấn, phản biện và

giám định xã hội.

Những thành tựu, hạn chế trên có nhiều nguyên nhân, song chủ yếu là:

Nguyên nhân của thành tựu: Sự phát triển KT-XH, CNH, HĐH đã tạo

tiền đề, điều kiện cho sự phát triển ĐNTT; Sự nỗ lực, phấn đấu, rèn luyện vươn

lên của chính bản thân ĐNTT. Không ít trí thức ở Tây Nguyên đã vượt qua hoàn

cảnh khó khăn, rào cản của các hủ tục, tập quán, quan niệm lạc lậu không ngừng

học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ, qua đó khẳng định được vị trí, vai trò của

mình trong xã hội; Chất lượng GDĐT được nâng lên, cơ sở vật chất đầu tư cho

GDĐT ngày càng được chú trọng; Việc xã hội hoá giáo dục đã thu hút được sự

tham gia của trí thức trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin

học; Việc ứng dụng KHCN vào sản xuất, quản lý và đời sống có nhiều bước

phát triển; Quá trình hội nhập đã tạo điều kiện cho việc tổ chức giao lưu, trao đổi

kinh nghiệm giữa trí thức Tây Nguyên với trí thức trong và ngoài nước thông

93

qua các hội thảo khoa học, toạ đàm, trao đổi học thuật; Đường lối, chính sách nói

chung và đối với ĐNTT nói riêng ngày càng hoàn thiện…

Nguyên nhân của hạn chế: do điều kiện địa lý, tự nhiên của Tây

Nguyên không thuận lợi, xa các trung tâm kinh tế, chính trị lớn của cả nước

nên ảnh hưởng đến việc đi lại, học tập nâng cao trình độ của ĐNTT; Trình độ

phát triển KT-XH của Tây Nguyên còn thấp và chậm, từ đó chưa tạo được

điều kiện và môi trường đầy đủ cho sự phát triển ĐNTT; Một số cơ chế, chính

sách chưa đủ tạo động lực khuyến khích trí thức nâng cao trình độ học vấn,

chuyên môn, ngoại ngữ, tin học. Cơ chế cho trí thức tham gia hoạt động tư

vấn, phản biện, giám định xã hội cũng như thực hiện các đề tài khoa học còn

rườm rà, phức tạp, thiếu minh bạch, công khai; Mặt trái của cơ chế thị trường

tác động vào ĐNTT làm cho không ít trí thức đánh mất mình trước sự cám dỗ

của danh lợi, đồng tiền. Hơn nữa, là vùng đất nhạy cảm, phức tạp về an ninh

chính trị, cộng với sự chống phá của các thế lực thù địch nên cũng đã tác động

không nhỏ vào niềm tin, bản lĩnh chính trị của một số trí thức, làm cho họ dao

động từ đó dễ sa ngã, thiếu nhiệt huyết với công việc của mình. Đặc biệt,

chưa có cơ chế phối hợp hoạt động giữa các trường đại học với các viện

nghiên cứu, các doanh nghiệp đóng trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên.

Mặt khác, do sức ỳ và tâm lý “an phận thủ thường” ở một bộ phận trí

thức cũng đã ảnh hưởng đến việc phát huy tính năng động, sáng tạo của mình.

Chính vì vậy, về lâu dài cần phải có giải pháp nhằm năng động hoá lực lượng

này, qua đó huy động có hiệu quả sự đóng góp của ĐNTT vào quá trình phát

triển của Tây Nguyên. Một nguyên nhân nữa là chưa có sự phối hợp giữa các

trường đại học với các viện nghiên cứu ở Tây Nguyên, dẫn đến lý luận xa rời

thực tiễn, lý thuyết thiếu gắn kết với thực hành, không tạo được môi trường

giao lưu, trao đổi học thuật và NCKH.

3.1.3. Thực trạng ban hành và thực hiện chính sách phát triển đội ngũ

trí thức ở Tây Nguyên

Mặc dù tình hình KT-XH Tây Nguyên còn nhiều khó khăn, các tỉnh

phải tập trung chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ trước mắt như xóa đói, giảm

nghèo, định canh định cư, xây dựng nông thôn mới, chăm sóc sức khỏe ban

đầu cho nhân dân, trật tự an toàn xã hội, khắc phục thiên tai bão lũ,v.v…

94

Song, cấp uỷ, chính quyền các tỉnh luôn coi trọng vị trí, vai trò của trí thức

đối với phát triển KT-XH và đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách, qua đó tạo

hành lang pháp lý cho việc xây dựng đội ngũ này.

Thứ nhất, chính sách đào tạo và bồi dưỡng trí thức

Đào tạo và bồi dưỡng trí thức là một trong những khâu hết sức quan

trọng nhằm phát huy, phát triển ĐNTT ngày càng lớn mạnh. Trên cơ sở nhận

thức đó, các tỉnh Tây Nguyên đã ban hành nhiều chính sách.

Kon Tum ra Quyết định số 33 về quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng ĐNTT

tỉnh từ nay đến năm 2020, đáp ứng yêu cầu phát triển. Mục tiêu của đề án là

xây dựng ĐNTT đảm bảo số lượng, chất lượng và cơ cấu, phù hợp với yêu

cầu phát triển KT-XH của tỉnh. Bên cạnh đó, tỉnh cũng đã ban hành Quyết

định số 1111 về việc phê duyệt quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Kon Tum

giai đoạn 2011-2020. Trong đó phấn đấu đến năm 2020, đào tạo mới 280 thạc

sĩ và 20 tiến sĩ.

Gia Lai ban hành Quyết định số 877 về việc phê duyệt quy hoạch phát

triển nhân lực tỉnh giai đoạn 2011-2020. Mục tiêu là đến năm 2020 đào tạo

mới 369 người có trình độ trên đại học, đào tạo mới 50 người có trình độ trên

đại học ở nước ngoài. Đào tạo, bồi dưỡng 4 đến 5 chuyên gia đầu ngành có

trình độ cao, có khả năng tư vấn, hoạch định, tổ chức triển khai thực hiện các

chiến lược, quy hoạch, chương trình, đề án phát triển.

Cùng với việc ban hành, quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng thu được nhiều kết quả tích cực góp phần quan trọng đối với sự phát

triển ĐNTT. Số lượng người có trình độ đại học, sau đại học ở các tỉnh Tây

Nguyên ngày càng tăng, từng bước hình thành ĐNTT đông về số lượng, cao

về chất lượng, hợp lý và hài hoà về cơ cấu.

Việc đào tạo, bồi dưỡng không chỉ được thực hiện ở các trường, học

viện đóng trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên mà còn gửi đi đào tạo ở hầu khắp

các cơ sở khác trong cả nước, trong đó tập trung nhiều ở Hà Nội, Đà Nẵng và

thành phố Hồ Chí Minh. Một số được cử đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài.

Cụ thể:

Từ năm 2009 đến 2014, Kon Tum đã cử 160 cán bộ, công chức đi đào

tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ [66]. Gia Lai, giai đoạn 2008-2014, đã cử

95

1.023 cán bộ đi học các lớp cao cấp chính trị; Giai đoạn 2011-2013, cử 169

lượt cán bộ, công chức, viên chức đi đào tạo sau đại học tại các cơ sở đào tạo

trong và ngoài nước [35]. Đắk Lắk, năm 2010 và 2011 cử 143 trường hợp đi

đào tạo sau đại học [93]. Đắk Nông, giai đoạn 2005-2010 đã cử đi đào tạo 2

tiến sĩ, 103 thạc sĩ [68]. Lâm Đồng từ năm 2005 đến 2011 đã đào tạo được

1.428 người, trong đó có 14 tiến sĩ [67].

Sau khi được đào tạo, bồi dưỡng, nhìn chung trình độ chuyên môn, lý

luận chính trị và năng lực thực tiễn của ĐNTT được nâng lên, đáp ứng tốt hơn

yêu cầu công việc. Nhiều trí thức đã phát huy được vai trò của mình trong

việc thực hiện nhiệm vụ được giao, qua đó được đề bạt, bổ nhiệm và nắm giữ

các vị trí quan trọng.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chính sách cũng bộc lộ nhiều hạn

chế, thiếu sót. Một số địa phương chưa gắn đào tạo, bồi dưỡng với quy hoạch,

kế hoạch sử dụng dẫn tới mất cân đối và lãng phí nguồn nhân lực. Nhiều trí

thức sau khi được đào tạo, bồi dưỡng không quay về Tây Nguyên phục vụ mà

ở lại thành phố lớn, dẫn đến tình trạng “chảy máu chất xám”. Hiệu quả, chất

lượng đào tạo, bồi dưỡng còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của

công việc, v.v…

Thứ hai, chính sách sử dụng trí thức

Cùng với quá trình đào tạo, bồi dưỡng thì việc bố trí, sắp xếp trí thức

cũng được các tỉnh Tây Nguyên chú trọng. Nhiều trí thức sau khi được tuyển

dụng đã được bố trí, sắp xếp đúng chuyên ngành đào tạo, chuyên môn công

tác qua đó phát huy tốt khả năng, sở trường. Một số trường hợp bố trí chưa

phù hợp nhưng qua thực tiễn cũng đã thích nghi với công việc.

Theo số liệu khảo sát của tác giả luận án, tỉ lệ trí thức ở Tây Nguyên

được bố trí công việc phù hợp với chuyên ngành đào tạo là 52,7%. Còn tính

riêng ở tỉnh Lâm Đồng có 65,86% trí thức được bố trí công việc phù hợp với

chuyên ngành đào tạo, tương đối phù hợp là 27,47%, còn lại là không phù

hợp [67]. Điều này góp phần khẳng định việc đào tạo từng bước gắn với bố trí

và sử dụng trí thức. Đồng thời việc bố trí hợp lý, phù hợp với chuyên ngành

cũng tạo điều kiện, động lực cho trí thức phát huy tốt năng lực, sở trường của

mình, qua đó nâng cao sự hài lòng của trí thức đối với công việc. Mức độ rất

96

hài lòng và hài lòng với công việc hiện tại của trí thức cũng khá cao, chiếm tỉ

lệ 88,8%; chỉ có 11,2% không hài lòng. Mức độ hài lòng không chỉ phản ánh

sự coi trọng đối với vị trí, vai trò của trí thức mà còn là việc sử dụng đúng với

yêu cầu, nguyện vọng. Đây là một trong những động lực giúp họ phát huy tốt

khả năng của mình.

Nhằm sử dụng có hiệu quả ĐNTT, chính quyền các tỉnh Tây Nguyên

cũng đã quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động

của trí thức, qua đó tạo điều kiện cho họ phát huy tốt vai trò của mình. Kết

quả khảo sát cho thấy, với tỉ lệ 58,1% trí thức đánh giá rất tốt và tốt đã khẳng

định sự đầu tư cho trí thức ngày càng được quan tâm. Ngay cả Đắk Nông là

tỉnh mới thành lập và là tỉnh khó khăn nhất trong 5 tỉnh Tây Nguyên, nhưng

với tỉ lệ đánh giá rất tốt là 18,3%, cao nhất trong các tỉnh được khảo sát. Điều

này cho thấy, các tỉnh ngày càng quan tâm hơn đến nhân tố con người đối với

sự phát triển nhằm tạo ra sự đột phá trong chiến lược phát triển KT-XH.

Biểu 3.3: Cơ sở vật chất phục vụ công việc cho đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên

Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả.

Bên cạnh đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động của ĐNTT, các

tỉnh Tây Nguyên cũng đã từng bước xây dựng, hoàn thiện môi trường công

tác nhằm từng bước phát huy tối đa năng lực, khả năng cống hiến của trí thức,

nhất là trong việc thực hiện cơ chế, chính sách, cũng như mối quan hệ giữa

cấp trên với cấp dưới và giữa những người cùng cấp với nhau. 56,5% trí thức

Rất tốt 9,7%

Tốt 48,4%

Bình thường 39,5%

Nghèo nàn 2,4%

97

được khảo sát đánh giá môi trường công tác rất tốt và tốt, 37,1% bình thường

và chỉ có 6,4% đánh giá khó phát triển. Việc tạo môi trường công tác thuận

lợi cho hoạt động của trí thức không chỉ kích thích trí thức say mê nghiên

cứu, sáng tạo mà còn là biện pháp hữu hiệu để giữ chân trí thức.

Bên cạnh đó, các tỉnh Tây Nguyên cũng tăng cường kinh phí cho hoạt

động khoa học. Những năm qua, nhìn tổng thể kinh phí chi cho sự nghiệp

khoa học của các tỉnh Tây Nguyên tăng qua các năm, nguồn kinh phí này đã

tạo điều kiện thuận lợi cho ĐNTT tham gia NCKH, từ đó góp phần vào phát

triển KT-XH cũng như nâng cao năng lực thực tiễn của mình.

Bảng 3.3: Chi cho sự nghiệp khoa học của các tỉnh Tây Nguyên Đơn vị tính: triệu đồng.

Tỉnh/Năm 2012 2013 2014 2015

Kon Tum 8.804 13.516 16.519 21.050

Gia Lai 17.570 12.973 19.806 22.209

Đắk Lắk 17.530 14.749 16.668 21.438

Đắk Nông 8.000 6.000 10.000 20.000

Lâm Đồng 23.980 24.987 25.194 31.154

Tây Nguyên 77.896 74.238 90.201 117.866

Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở [22; 24; 26; 28; 31].

Bên cạnh những thành tựu, vẫn còn những hạn chế trong việc sử dụng

trí thức. Cụ thể:

Một là, việc bố trí, sử dụng một bộ phận trí thức chưa tương xứng với

năng lực, cống hiến. Vẫn còn 29,2% số trí thức được hỏi ý kiến cho rằng vị trí

công tác chưa tương xứng với năng lực cống hiến của họ. Trong bối cảnh

nguồn nhân lực chất lượng cao ở Tây Nguyên đang còn khan hiếm thì đây là

một sự lãng phí không nhỏ. Vì khi bố trí chưa tương xứng với năng lực sẽ hạn

chế, kìm hãm sự cống hiến của trí thức, họ cảm thấy mình chưa được coi

trọng thậm chí bị bỏ rơi, từ đó hình thành tâm lý chán nản, thiếu động lực

phấn đấu và ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện công việc.

Hai là, mức lương của hầu hết trí thức còn thấp, chưa tạo được sự yên

tâm công tác. Trong khi đó, đây là nguồn thu nhập chính của hầu hết trí thức

98

ở Tây Nguyên hiện nay. Chỉ có 27,2% trí thức được hỏi trả lời yên tâm, trong

khi đó 72,8% trả lời chưa yên tâm. Khi mức lương chưa đủ trang trải cuộc

sống, trí thức sẽ không thể yên tâm với công việc của mình. Họ sẽ tìm nhiều

cách để có thêm thu nhập, thậm chí sẵn sàng làm những việc không chính

đáng như vòi vĩnh, gây khó khăn, nhũng nhiễu người dân, doanh nghiệp để

được “bôi trơn”, v.v... Mức lương thấp đã cản trở việc đầu tư nâng cao trình

độ chuyên môn nghiệp vụ của trí thức, cũng như ảnh hưởng xấu đến sự yên

tâm trong công tác, cống hiến của họ. Đây cũng là khó khăn lớn tác động đến

sự phát triển của trí thức.

Biểu 3.4: Những khó khăn tác động đến sự phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên hiện nay

Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả.

Ba là, cơ chế, chính sách còn rườm ra, thiếu minh bạch và nhất quán,

nhất là chính sách tài chính. Việc này gây ra nhiều khó khăn, phiền toái dễ

dẫn đến sự đối phó trong thanh quyết toán và gây lãng phí thời gian, công

sức, làm giảm chất lượng, hiệu quả trong quá trình thực hiện đề tài, ảnh

hưởng tới uy tín và danh dự của trí thức.

Bên cạnh đó, môi trường công tác của trí thức cũng chưa thực sự dân

chủ và thông thoáng để trí thức được tự do thể hiện sự sáng tạo của mình. Vẫn

còn 43,5% trí thức được lấy ý kiến cho rằng môi trường công tác vẫn ở mức

Lương thấp 40,0%

Môi trường làm việc 16,3%

Cơ chế chính sách 29,6%

Cơ sở vật chất 4,9%

Khác 9,2%

99

bình thường và khó phát triển, 41,9% khẳng định cơ sở vật chất bình thường

và nghèo nàn (xem phụ lục 2). Điều đó cho thấy, các tỉnh muốn thu hút và sử

dụng có hiệu quả trí thức thì cần phải nỗ lực nhiều hơn trong việc cải thiện

môi trường và điều kiện làm việc.

Bốn là, chưa có tiêu chí cụ thể để đánh giá năng lực trí thức. Hầu hết

đều dựa vào tiêu chí đánh giá cán bộ, đảng viên để đánh giá trí thức. Trong

khi nội dung của các tiêu chí này còn chưa cụ thể nên khó có thể đánh giá đầy

đủ, khách quan sự đóng góp của trí thức, từ đó chưa nhận thức đúng về vai

trò, vị trí của trí thức. Việc đánh giá không đúng trí thức dẫn đến nảy sinh tâm

tư, tâm lý bức xúc, nặng nề trong không ít trí thức.

Như vậy, việc sử dụng trí thức ở Tây Nguyên bên cạnh những thành

tựu vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập, yếu kém. Do đó, cần phải tiếp tục đổi mới

nhằm tạo môi trường, điều kiện để huy động sự đóng góp của trí thức đối với

quá trình phát triển KT-XH, qua đó từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển

giữa Tây Nguyên với cả nước.

Thứ ba, chính sách ưu đãi, thu hút trí thức

Chính sách ưu đãi, thu hút trí thức được các tỉnh quan tâm, nhiều chính

sách đã được ban hành qua đó góp phần tạo động lực cho trí thức yên tâm học

tập và công tác, cũng như thiết lập cơ sở, hành lang pháp lý cho việc thu hút

trí thức đến với Tây Nguyên.

Tỉnh Gia Lai ban hành Quyết định số 20 về việc ban hành quy định

giao đất, xây dựng nhà ở cho cán bộ, công chức được điều động về tỉnh công

tác và người có trình độ cao công tác trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 39 về

quy định chế độ hỗ trợ đào tạo sau đại học và chính sách thu hút người có

trình độ cao về công tác tại tỉnh. Theo đó: Người có trình độ cao được tiếp

nhận về công tác tại các cơ quan thuộc tỉnh quản lý, cam kết thời gian công

tác tối thiểu 10 năm kể từ ngày tiếp nhận; chưa có nhà, đất ở tại thành phố

Pleiku được giao đất xây dựng nhà; được miễn, giảm tiền sử dụng đất. Ngoài

ra được hỗ trợ tiền sử dụng đất: Nhà giáo nhân dân, nghệ sĩ nhân dân, thầy

thuốc nhân dân, người có học hàm giáo sư, phó giáo sư, người có học vị tiến

100

sĩ được hỗ trợ 100% tiền sử dụng đất. Nhà giáo ưu tú, nghệ sĩ ưu tú, thầy

thuốc ưu tú, người có học vị thạc sĩ được hỗ trợ 50% tiền sử dụng đất.

Gia Lai còn hỗ trợ kinh phí ôn thi sau khi đậu với mức: 3 triệu đồng đối

với tiến sĩ, chuyên khoa cấp 2; 2 triệu đồng đối với thạc sĩ, chuyên khoa cấp

1; thanh toán tiền học phí theo chứng từ thực tế của cơ sở đào tạo; thanh toán

tiền tài liệu học tập; hỗ trợ người sau khi tốt nghiệp: Tiến sĩ: 35 triệu đồng;

chuyên khoa cấp 2: 25 triệu đồng; thạc sĩ: 20 triệu đồng; chuyên khoa cấp 1:

15 triệu đồng.

Đối với chính sách thu hút người có trình độ cao về công tác tại tỉnh:

Tiến sĩ: 55 triệu đồng; chuyên khoa cấp 2: 35 triệu đồng; thạc sĩ: 25 triệu

đồng; chuyên khoa cấp 1: 20 triệu đồng; tốt nghiệp đại học chính quy loại

xuất sắc, giỏi: 10 triệu đồng. Ngoài việc hưởng chính sách hỗ trợ, người có

trình độ thạc sĩ, tiến sĩ còn được tạo điều kiện cho vợ (hoặc chồng) có việc

làm ổn định tại tỉnh.

Tỉnh Đắk Lắk ban hành chính sách thu hút những người có trình độ cao

về các chuyên ngành phù hợp với yêu cầu phát triển KT-XH của tỉnh, có kinh

nghiệm công tác. Cụ thể: Giáo sư 70 triệu đồng; phó giáo sư 60 triệu đồng;

tiến sĩ: 40 triệu đồng; thạc sĩ: 30 triệu đồng. Ngoài ra, nhiều cơ quan, đơn vị

trong tỉnh đã coi trọng công tác thi đua, khen thưởng, nhằm khuyến khích, tôn

vinh trí thức có thành tích trong các hoạt động NCKH, tư vấn, phản biện và

giám định xã hội.

Tỉnh Đắk Nông, tốt nghiệp đại học loại xuất sắc được hỗ trợ bằng 5 lần

mức lương tối thiểu; loại giỏi 4 lần; loại khá 2 lần. Tốt nghiệp thạc sĩ và

chuyên khoa I: 10 lần mức lương tối thiểu; tiến sĩ và chuyên khoa II: 15 lần.

Cán bộ, công chức, viên chức người DTTS tốt nghiệp đại học loại xuất sắc

được hỗ trợ 8 lần mức lương tối thiểu; loại giỏi 6 lần; loại khá 4 lần; thạc sĩ và

chuyên khoa I: 12 lần; tiến sĩ và chuyên khoa II: 20 lần.

Có thể thấy, các chính sách ưu đãi, thu hút được ban hành thể hiện sự

quan tâm của các tỉnh Tây Nguyên đối với trí thức. Tuy nhiên, trong quá trình

thực hiện đã bộc lộ nhiều bất cập, đó là: Chính sách ưu đãi, thu hút quá tập

trung vào yếu tố vật chất như tiền, đất, nhà mà chưa quan tâm đầy đủ đến việc

đổi mới, hoàn thiện môi trường công tác và cống hiến - là những yếu tố quyết

101

định đến thu hút trí thức. Thực tế qua quá trình triển khai thực hiện chính sách

cho thấy, chỉ với các ưu đãi trên thì không thể nào thu hút được những trí thức

có trình độ, chuyên môn cao như giáo sư, phó giáo sư, nhà giáo nhân dân,

nghệ sĩ nhân dân,v.v… về các tỉnh Tây Nguyên công tác. Do đó, nhiều chính

sách được ban hành nhưng việc thu hút trí thức, nhất là trí thức có trình độ

cao về công tác ở các tỉnh Tây Nguyên hầu như rất ít, thậm chí không có. Kon

Tum trong 5 năm, từ năm 2009 đến năm 2014 chỉ thu hút được 03 trường hợp

có trình độ thạc sĩ và 14 trường hợp tốt nghiệp đại học loại giỏi [66]. Gia Lai

từ năm 2010 đến 2013 chỉ thu hút được 01 tiến sĩ, 18 thạc sĩ [35].

Mức lương trả cho người được thu hút về vẫn nằm trong hệ thống

thang, bảng lương chung đối với công chức, viên chức, dẫn đến thu nhập chưa

đủ tái sản xuất sức lao động, chưa thực sự dựa trên kết quả công việc, gây ra

tình trạng trí thức thiếu chuyên tâm với công việc. Không ít trí thức phải lo

làm thêm nhiều việc khác để tăng thu nhập mà không gắn với lĩnh vực chuyên

môn của họ. Mặt khác, hệ số lương mang tính cào bằng giữa những người có

trình độ, năng lực khác nhau. Việc nâng lương còn phụ thuộc quá nhiều vào

yếu tố thời gian (thâm niên) mà không chú trọng đầy đủ đến yếu tố hiệu quả

hay thực chất công việc họ đang đảm nhận. Lương thấp, chế độ đãi ngộ không

đảm bảo và không phản ánh đúng giá trị sức lao động, khiến cho nhiều trí

thức, đặc biệt là những trí thức trẻ đang có xu hướng rời đến các tỉnh, thành

phố khác tìm cơ hội tốt hơn, dẫn đến các tỉnh Tây Nguyên đã thiếu trí thức,

đặc biệt là trí thức trình độ cao, lại càng thiếu. Từ đó ảnh hưởng lâu dài đến

việc xây dựng ĐNTT cũng như phát triển KT-XH Tây Nguyên.

Chính sách ưu đãi, thu hút trí thức thiếu đồng bộ, chưa tạo được sự hấp

dẫn, động lực để thu hút trí thức, đặc biệt là những trí thức có trình độ cao.

Ngay cả trong ưu đãi vật chất vẫn còn nhiều bất cập. Giá trị ưu đãi không bù

đắp đủ chi phí đào tạo, lại càng không đủ để nuôi sống bản thân trí thức và gia

đình. Do đó, không đủ kích thích họ miệt mài học tập, nâng cao trình độ

chuyên môn và yên tâm lao động sáng tạo. Thậm chí không giữ được họ ăn ở

lâu dài trên đất Tây Nguyên. Thủ tục nhận chính sách ưu đãi rườm rà, nhiêu

khê và mất nhiều thời gian.

102

Biểu 3.5: Đánh giá của trí thức ở Tây Nguyên về các chính sách đối với đội ngũ trí thức

Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả.

Kết quả trên cho thấy, sự đánh giá của trí thức đối với chính sách khá

thấp ở tỉ lệ rất tốt và tốt, chỉ có 10,7%. Trong khi đó, bình thường và chưa tốt

chiếm 83,5% và vẫn còn đến 5,9% trí thức không nắm bắt được chính sách

đối với bản thân. Điều này cho thấy, do bất cập, thiếu sự lan toả nên các chính

sách đối với ĐNTT chưa mang tính toàn diện, đồng bộ, hiệu quả.

Theo báo cáo của Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Lâm Đồng có

31,6% trí thức đánh giá rất tốt và tốt, chưa tốt là 44,6%, không rõ 19,8% và

không xác định là 4,0% [67, tr.80].

Chính sách ưu đãi nhiều bất cập, lương thấp dẫn tới đời sống của một

bộ phận không nhỏ trí thức ở Tây Nguyên gặp nhiều khó khăn. Thực tế không

ít trí thức ở Tây Nguyên một mặt vừa lao động trí óc, mặt khác phải lao động

chân tay không liên quan đến chuyên môn, nghiệp vụ. Họ vừa lao động trí óc,

NCKH vừa làm nông nghiệp để có thêm thu nhập. Từ thứ 2 đến thứ 6 và

trong giờ hành chính chủ yếu lao động trí óc, thứ 7, chủ nhật và ngoài giờ

hành chính, lại là những nông dân lao động thứ thiệt trên các vườn, rẫy cà

phê, tiêu, điều, v.v... Những hoạt động lao động này ảnh hưởng nhiều đến thời

gian dành cho NCKH, nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ.

0

10

20

30

40

50

60

70

Rất tốt Tốt Bình thường Chưa tốt Không rõ

Tây Nguyên

Kon Tum

Gia Lai

Đắk Lắk

Đắk Nông

Lâm Đồng

103

Đối với những trí thức thuộc dạng thu hút cũng thiếu cơ chế, chính sách

mang tính ổn định, lâu dài, do đó không ít trí thức sau khi được thu hút bị

lãng quên, không phát huy được khả năng, năng lực, sở trường của mình,

thậm chí có trường hợp bị thui chột. Thu hút không chỉ là đưa về làm việc, mà

quan trọng hơn là phải tạo điều kiện cho họ phát triển.

Thực tế cho thấy, những trí thức có năng lực thực sự thường quan tâm

nhiều đến môi trường và điều kiện làm việc, nơi họ có thể thể hiện được đầy

đủ năng lực, trí tuệ và sự cống hiến của mình. Do đó, nếu môi trường năng

động, điều kiện làm việc đầy đủ, thuận lợi sẽ là động lực mạnh mẽ cuốn hút

trí thức. Tuy nhiên, các tỉnh Tây Nguyên chưa thực hiện được những đòi hỏi,

yêu cầu chính đáng này, vì vậy việc thu hút không đạt được mục tiêu.

Mặt khác, giữa thu hút và sử dụng trí thức ở một số địa phương của Tây

Nguyên vẫn tồn tại nhiều khoảng cách. Thu hút trí thức nhưng bố trí, sắp xếp,

sử dụng lại không phù hợp với chuyên môn, năng lực và sở trường. Từ đó trí

thức được thu hút thiếu cơ hội để khẳng định mình, thậm chí chán nản, giảm

động lực, không muốn nhập cuộc, dấn thân vào môi trường mới. Đây cũng là

một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại trong thu hút trí thức về Tây

Nguyên và đó cũng là một sự biểu hiện của tình trạng "chảy máu chất xám".

Tóm lại, các chính sách đối với sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên thời

gian qua từng bước được cải thiện song đến nay vẫn còn những hạn chế, bất

cập, mà nguyên nhân chủ yếu là:

Trong các kế hoạch, quy hoạch phát triển KT-XH Tây Nguyên chưa

thực sự coi trọng đầy đủ quan điểm lấy GDĐT cùng với KHCN làm "quốc

sách hàng đầu”, chưa đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển.

Nhiều chủ trương, chính sách đối với ĐNTT chậm được ban hành và đi

vào cuộc sống. Trong quá trình tổ chức thực hiện, có không ít địa phương, cơ

quan, đơn vị triển khai một cách hình thức, thiếu nghiêm túc. Một số chủ trương,

chính sách không sát với thực tế. Có chủ trương, chính sách đúng đắn nhưng

thiếu nguồn lực, chế tài bảo đảm cho việc thực hiện có kết quả. Một số chính

sách đối với ĐNTT thiếu đồng bộ, nặng về thủ tục và chậm được đổi mới.

Không ít cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đúng đắn và đầy đủ về vị

trí, vai trò của trí thức, dẫn tới đánh giá, sử dụng trí thức không phù hợp với

104

năng lực, sở trường. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý quá chú trọng đến vốn

tiền, vật chất mà chưa coi trọng việc phát huy nguồn nhân lực con người. Vẫn

còn hiện tượng ngại tiếp xúc, đối thoại, không thực sự cầu thị, lắng nghe,

chưa tạo điều kiện cho trí thức tham gia phản biện những chủ trương, chính

sách, đề án, dự án.

Hiệu quả hoạt động của liên hiệp các hội khoa học, kỹ thuật và các hội

thành viên còn nhiều hạn chế, mang nặng tính hành chính hơn là cầu nối giữa

trí thức với các cấp uỷ đảng, chính quyền; chưa làm tốt vai trò trung tâm trong

việc tập hợp, đoàn kết và phát huy vị thế, vai trò của ĐNTT.

Công tác tổ chức cán bộ, công tác quản lý, nhất là khâu đánh giá, sử dụng

trí thức còn nhiều điểm không hợp lý. Thiếu cơ chế, chính sách tạo điều kiện

thuận lợi cho trí thức chuyên tâm cống hiến, phát triển và được xã hội tôn vinh

bằng chính kết quả hoạt động của mình. Thiếu cơ chế, chính sách phù hợp trong

việc phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài, trí thức.

Các chủ trương, chính sách đào tạo trí thức chưa đồng bộ. Hệ thống

GDĐT còn nhiều khó khăn, chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu về đào tạo, bồi

dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao. Thiếu chính sách thu hút trí thức người

Việt Nam ở nước ngoài có nguồn gốc hoặc thân nhân sinh sống tại Tây

Nguyên tham gia vào việc phát triển KT-XH nơi đây. Chưa tạo được môi

trường, điều kiện để trí thức giao lưu, hợp tác, làm việc ở các trung tâm khoa

học và văn hóa ở nước ngoài, cũng như trong nước.

Cơ chế, chính sách tài chính trong hoạt động KHCN còn nhiều bất cập,

gây khó khăn, dẫn đến một số trường hợp trí thức phải tìm cách đối phó, làm

giảm chất lượng sản phẩm sáng tạo, lãng phí thời gian, công sức, tiền của.

Thậm chí ảnh hưởng không tốt, gây tổn hại đến uy tín, danh dự, dẫn đến

những nỗi niềm, tâm tư và bức xúc của một số trí thức.

3.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHỦ YẾU ĐẶT RA ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN ĐỘI

NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY

Bên cạnh những mặt tích cực, sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên cũng

đã, đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải được nhìn nhận một cách khoa học, đầy

đủ từ đó có giải pháp tháo gỡ để tiếp tục phát triển đội ngũ này thời gian tới.

Cụ thể:

105

3.2.1. Bất cập giữa hiện trạng thiếu gắn kết chặt chẽ, thụ động của

đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên với đòi hỏi bức thiết của sự nghiệp đẩy

mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Điều kiện, hoàn cảnh có vai trò hết sức quan trọng tác động đến sự phát

triển của ĐNTT. Song yếu tố quyết định vẫn là sự nỗ lực nội tại, bên trong

bản thân trí thức, là khát vọng vươn lên chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức, không

dừng bước trước các khó khăn, thử thách. Không tự mình vươn lên khó có thể

phát triển ĐNTT đông về số lượng, cao về chất lượng và hợp lý về cơ cấu.

Trong bối cảnh cuộc cách mạng KHCN lần thứ tư đang phát triển

nhanh chóng, kỷ nguyên số hoá đang hình thành và tác động sâu sắc đến mọi

lĩnh vực của đời sống KT-XH, làm cho thế giới ngày càng gắn kết và phụ

thuộc lẫn nhau, đòi hỏi ĐNTT nói chung, ở Tây Nguyên nói riêng phải liên

kết chặt chẽ với nhau hơn, năng động, sáng tạo hơn trước sự thay đổi nhanh

chóng của thế giới, chỉ có như vậy mới đáp ứng được trước sự thay đổi này.

Tuy nhiên, thực tế ở Tây Nguyên cho thấy, mối liên hệ, gắn kết của

ĐNTT còn nhiều hạn chế. Trong khi đó vai trò của liên hiệp các hội khoa học,

kĩ thuật các tỉnh còn khá mờ nhạt. Khả năng tập hợp đoàn kết đội ngũ trí thức

còn yếu. Công tác kết nối giữa liên hiệp hội với các cơ quan, ban, ngành còn

bất cập. Do đó, hoạt động của trí thức nơi đây chủ yếu mang nặng tính cá

nhân, “độc lập tác chiến”, thiếu gắn kết chặt chẽ nhằm học hỏi, trao đổi nâng

cao trình độ và khả năng NCKH. Thế nên, vai trò của ĐNTT ở Tây Nguyên

chưa được thể hiện đầy đủ và ghi những dấu ấn vào quá trình phát triển của

vùng. Trong khi đó, trí thức “đầu đàn” có vai trò định hướng, dẫn dắt sự đi lên

của ĐNTT ở Tây Nguyên hiện nay hầu như không có.

Sự thiếu gắn kết còn thể hiện qua việc chưa có cơ chế phối hợp giữa

các cơ sở giáo dục đại học với các viện, trung tâm nghiên cứu trên địa bàn các

tỉnh Tây Nguyên. Việc này làm cho ĐNTT thiếu sự giao lưu, hợp tác cũng

như nhằm gắn kết giữa lý luận với thực tiễn, lý thuyết với thực hành trong

hoạt động NCKH. Một khi không có sự gắn kết hoặc gắn kết thiếu bền vững,

thì khó có thể phát huy được tối đa sức mạnh, sự cống hiến của trí thức đối

với sự phát triển.

106

Hơn nữa, không ít trí thức ở Tây Nguyên thụ động trong hoạt động

nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ, trông chờ ỷ lại vào Nhà nước mà

không tự mình chủ động vươn lên. Một số khác ngại học tập nâng cao trình

độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị. Việc thụ động không chỉ làm

suy yếu chức năng của mình, mà còn dần làm thui chột các kiến thức đã được

tích luỹ, cũng như dễ bị sự phát triển của xã hội bỏ lại phía sau, từ đó đánh

mất vai trò của mình.

Kết quả khảo sát của tác giả luận án cho thấy có đến 58% số trí thức

được hỏi chưa bao giờ viết bài nghiên cứu cho các báo, tạp chí, hội thảo, đề

tài khoa học phần nào cho thấy không ít trí thức bằng lòng, yên phận, thiếu

tính chủ động, sáng tạo vươn lên tự khẳng định mình.

Thực tế trên đòi hỏi để tiếp tục phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên trong

thời gian tới tất yếu phải tập hợp, năng động hoá đội ngũ này. Đây không chỉ

là vấn đề cấp bách mà còn là cơ sở để thu hút trí thức, cũng như qua đó từng

bước góp phần phát hiện và xây dựng trí thức “đầu đàn”.

3.2.2. Sự chưa tương xứng trong nhận thức của hệ thống chính trị

và người dân về vị trí, vai trò đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên

Vị trí, vai trò của ĐNTT ngày càng quan trọng đối với sự ổn định, phát

triển bền vững của đất nước, trong đó có Tây Nguyên, nhất là trong bối cảnh

thế giới đang chuyển mình mạnh mẽ dưới sự tác động của cuộc cách mạng

KHCN lần thứ tư. Thế nhưng hiện nay, ở Tây Nguyên, không ít cấp uỷ đảng,

chính quyền và một số cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp vẫn chưa

nhận thức đầy đủ, tương xứng về vị trí, vai trò của trí thức. Cá biệt có trường

hợp xem thường, coi nhẹ họ. Từ nhận thức đó dẫn đến chưa tập hợp, thu hút

đầy đủ trí thức tham gia vào quá trình phát triển KT-XH, cũng như dẫn tới

bệnh hình thức trong việc ban hành, thực hiện các chủ trương, chính sách đối

với ĐNTT.

Không chỉ cán bộ, đảng viên mà nhận thức của một bộ phận người dân

đối với trí thức vẫn còn nhiều hạn chế, sai lệch. Một số người coi trí thức chỉ

là “mọt sách”, “phòng giấy”, “lý luận”,… mà chưa thấy được giá trị của

những công trình, sản phẩm sáng tạo của trí thức đối với sự phát triển. Bên

107

cạnh đó, nhận thức về vị trí, vai trò GDĐT của không ít cộng đồng xã hội,

nhất là cộng đồng DTTS ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều bất cập.

Nhận thức trên của người dân không phải không có căn nguyên, vì thực

tế thời gian qua, đầu tư của nhà nước và xã hội cho GDĐT và KHCN có

nhiều bước tiến, nhưng hiệu quả mang lại chưa cao. Nhiều đề tài bị lãng quên

hay không thể áp dụng vào thực tiễn cuộc sống do chất lượng thấp. Nhiều

sinh viên có trình độ, năng lực sau khi tốt nghiệp ra trường không thể tìm

kiếm được việc làm, dẫn tới những gánh nặng cho gia đình. Mặt khác, ĐNTT

ở Tây Nguyên còn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển KT-XH nơi đây (kết

quả khảo sát của tác giả luận án cho thấy 75,6% trí thức được hỏi thừa nhận

việc này),v.v… Thực tế đó đã dẫn tới hình thành những tư tưởng, định kiến

thiên lệch về vị trí, vai trò của ĐNTT nơi đây.

Không chỉ vậy, bên cạnh phần lớn trí thức đã, đang sống và làm việc

miệt mài, cống hiến cho sự đi lên của Tây Nguyên thì vẫn còn một bộ phận

chưa nhận thức đầy đủ, đúng mức về vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình đối

với Nhà nước, xã hội nên thiếu tinh thần hợp tác, gắn kết trong tập thể, dẫn

đến chất lượng NCKH thấp, chưa có được thành tựu mang tính đột phá. Một

bộ phận chưa có nhiều cơ hội tiếp cận thành tựu mới của KHCN hiện đại nên

thiếu kiến thức cập nhật, chuyên sâu trong lĩnh vực mình được đào tạo,

nghiên cứu. Mặt khác, trình độ ngoại ngữ, tin học hạn chế nên gặp nhiều khó

khăn trong việc mở rộng giao lưu và hợp tác, từ đó hình thành tâm lý tự ti,

mặc cảm. Một số khác chưa thực sự năng động trong cơ chế kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa, chưa thoát khỏi tâm lý thụ động, trông chờ, ỷ lại

vào Nhà nước và tập thể, hoặc tự hài lòng với vốn kiến thức đã có mà không

tự giác phấn đấu, rèn luyện vươn lên để nắm bắt và làm chủ những tri thức

mới của thời đại.

Những bất cập trên cần được xem xét, giải quyết qua đó từng bước xoá bỏ

các rào cản về nhận thức, mở đường cho sự đi lên của ĐNTT ở Tây Nguyên.

3.2.3. Sự hạn chế, bất cập về số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ

trí thức ở Tây Nguyên và tình trạng “chảy máu chất xám”

Trước thực trạng nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng suy giảm, sự

biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng, đe doạ đến sự ổn định và phát triển

108

Tây Nguyên, thì việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ phát triển theo chiều rộng

hướng tới kết hợp phát triển chiều rộng với chiều sâu đã và đang trở thành

yêu cầu bức thiết đối với Tây Nguyên. Để đáp ứng được yêu cầu này, trước

hết cần phải xây dựng, hình thành một lực lượng nhân lực có trình độ cao,

trong đó bao gồm ĐNTT. Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ này ở Tây Nguyên vẫn

còn nhiều hạn chế cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu.

Sự hạn chế về số lượng trí thức đã gây ra nhiều khó khăn trong việc

phân bổ nguồn nhân lực chất lượng cao giữa các ngành, nghề, lĩnh vực, ảnh

hưởng đến việc tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Ngoài ra, số

lượng trí thức chưa đông cũng đã ảnh hưởng không tốt đến việc củng cố, nâng

cao vị thế, vai trò của mình trong xã hội.

Số lượng đã ít, số trí thức có trình độ tay nghề, chuyên môn cao, các

chuyên gia, nhà khoa học giỏi lại càng ít, từ đó dẫn tới những khó khăn trong

việc quy tụ ĐNTT, cũng như chưa tạo được đột phá trong phát triển đội ngũ

này ở Tây Nguyên.

Tây Nguyên là vùng có số lượng thành phần dân tộc đông nhất so với

các vùng khác trong cả nước, với 47/54 thành phần dân tộc, trong đó DTTS

chiếm 38%, nhưng số lượng trí thức DTTS chiếm tỉ lệ rất nhỏ. Số lượng ít đã

tác động tiêu cực đến sự ổn định và phát triển KT-XH nơi đây nói chung và ở

các khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào DTTS nói

riêng, làm gia tăng khoảng cách phát triển giữa các khu vực, các dân tộc. Về

lâu dài có nguy cơ xuất hiện thêm những bất ổn trong quan hệ dân cư, tộc

người nơi đây.

Số lượng ít, chất lượng ĐNTT thấp đã gây ra nhiều khó khăn trong việc

đưa các tiến bộ KHCN vào quá trình sản xuất, đời sống, ảnh hưởng không

nhỏ đến việc đẩy mạnh CNH, HĐH Tây Nguyên. Trong khi đó, nhiều vấn đề

nảy sinh trong quá trình phát triển KT-XH chưa có lời giải, chẳng hạn như:

Việc tập trung đất đai để mở rộng sản xuất với phương thức sản xuất lạc hậu;

Giữa phát triển nông nghiệp công nghệ cao với trình độ, nhận thức hạn chế

của người lao động; Giữa đòi hỏi cần có các giống cây trồng, vật nuôi có năng

suất cao, khả năng chống chịu hạn hán, sâu bệnh và phù hợp với khí hậu, thổ

109

nhưỡng Tây Nguyên với sự hạn chế, yếu kém trong hoạt động NCKH; Giữa

vấn đề bảo tồn và phát huy văn hoá các dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hoá

nhân loại,v.v...

Cơ cấu ĐNTT có sự mất cân đối khi quá ít trí thức làm việc trong các

đơn vị, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ngoài nhà nước. Trong khi đó, Tây

Nguyên đang rất cần những trí thức tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất,

kinh doanh để từng bước hình thành tầng lớp trí thức doanh nhân - một yếu

tố, động lực quan trong trong phát triển kinh tế, nhất là trong bối cảnh Tây

Nguyên cùng cả nước hội nhập ngày càng sâu rộng. Điều đó cho thấy, KT-

XH nơi đây còn chậm phát triển, nhận thức của các doanh nghiệp về vai trò

của KHCN đối với sản xuất, kinh doanh chưa đầy đủ, vì thế chưa có các chính

sách hấp dẫn để thu hút trí thức. Về lâu dài, nếu không được giải quyết thì các

sản phẩm hàng hoá sản xuất ra khó cạnh tranh và có chỗ đứng trên thị trường,

thậm chí thua ngay trên sân nhà. Thực tế này đã và đang diễn ra ở Tây

Nguyên, mà biểu hiện cụ thể là nhiều sản phẩm, hàng hoá của các doanh

nghiệp sản xuất trong vùng không thể cạnh tranh với các sản phẩm bên ngoài

do giá thành cao, bao bì, mẫu mã không bắt mắt, thiếu sáng tạo trong đổi mới

sản phẩm cũng như việc quảng bá, tiếp thị kém.

Mặt khác, sự thiếu gắn kết giữa nhà khoa học và doanh nghiệp dẫn tới

hiện tượng các phát minh sáng chế không biết ứng dụng vào đâu. Không ít

công trình nghiên cứu, phát minh, sáng chế sau khi nghiệm thu, hoàn thiện

cũng chỉ phục vụ mục đích duy nhất là bảo quản, lưu trữ. Do đó, nếu không

kịp thời tháo gỡ sẽ là một sự lãng phí chất xám.

Nhu cầu về nhân lực chất lượng cao là một đòi hỏi khách quan trong sự

đi lên của Tây Nguyên, vì càng phát triển thì nhu cầu về nguồn lực này càng

trở nên quan trọng và cấp thiết. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua cho thấy,

nhiều sinh viên có gia đình ở Tây Nguyên đi học tập, nghiên cứu ở các tỉnh,

thành phố khác và cả ở nước ngoài, sau khi học xong đã không quay trở về.

Một số khác trở về sau một thời gian cũng tìm cách đi khỏi Tây Nguyên.

Không ít trí thức sau một thời gian công tác ở Tây Nguyên, sau khi được đào

tạo bài bản, có năng lực và trình độ chuyên môn cao lại không muốn hoặc

không còn tâm huyết, gắn bó lâu dài với vùng đất này.

110

Trong khi đó, hầu hết học sinh, sinh viên ở các tỉnh Tây Nguyên tham

gia các kì thi quốc gia và đạt được nhiều giải thưởng, thành tích lại chưa được

chính quyền các tỉnh Tây Nguyên quan tâm đầu tư lâu dài để tạo nguồn trí

thức. Thực tế, sau khi đạt giải, địa phương có tổ chức tuyên dương, khen

thưởng nhưng sau đó sự quan tâm đối với các em hầu như không còn, phó

mặc các em cho gia đình tự xoay xở con đường học tập và tìm kiếm việc làm.

Mà lẽ ra, chính quyền cần có sự hỗ trợ, theo sát các em trong quá trình học

tập, rèn luyện, sau khi ra trường cần bố trí sắp xếp công việc nếu vẫn duy trì

thành tích học tập tốt. Vì vậy, có thể khẳng định đây là một sự lãng phí, thất

thoát lớn và là một hình thức của “chảy máu chất xám”.

Việc thu hút trí thức lên Tây Nguyên đã khó, việc giữ chân họ còn khó

hơn. Hệ quả là trí thức được nuôi dưỡng, trưởng thành ở miền núi nhưng chất

xám lại chảy về miền xuôi, từ đó tạo ra sự hụt hẫng nguồn nhân lực chất

lượng cao. Nếu không kịp thời khắc phục, nơi đây trở thành điểm “tạm trú”

của trí thức, và hệ quả lâu dài là Tây Nguyên từ “vùng đất hứa” trong thế kỷ

XX sẽ trở thành vùng đất cằn cỗi, thiếu vắng trí thức, nhân tài trong thế kỷ

XXI. Chảy máu chất xám không còn là nguy cơ mà là hiện thực đã, đang và

sẽ xảy ra ở Tây Nguyên.

3.2.4. Bất cập trong việc ban hành, thực thi chính sách phát triển

đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên

Các chủ trương, chính sách của cấp uỷ, chính quyền các tỉnh Tây

Nguyên về phát triển ĐNTT chủ yếu mới ban hành từ khoảng giữa năm 2008

đến nay, nhất là sau khi có Nghị quyết số 27 (khoá X) về xây dựng ĐNTT

thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Việc ban hành muộn các chủ chương,

chính sách ảnh hưởng lớn đến sự phát triển ĐNTT nơi đây. Các chính sách

chưa theo kịp xu thế phát triển chung của xã hội dẫn đến tính khả thi và hiệu

quả thấp. Nhiều chính sách đến nay đã không còn phù hợp với thực tiễn, đang

dần trở thành rào cản đối với sự phát triển. Một số chính sách không còn phát

huy tác dụng khuyến khích, động viên trí thức có trình độ cao, những nhà

khoa học nâng cao trình độ hay tích cực, say mê NCKH.

Các chính sách đào tạo, bồi dưỡng trí thức về cơ bản đã được ban hành.

Tuy nhiên, nội dung còn chung chung, chưa đề cập cụ thể đến những đối tượng

111

cần được ưu tiên, dẫn tới tình trạng đào tạo, bồi dưỡng tràn lan, kém hiệu quả ở

một số cấp, ngành, đối tượng, cũng như xuất hiện cơ chế “xin - cho” trong công

tác đào tạo, bồi dưỡng. Bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách vẫn còn nhiều

rào cản do thiếu nguồn lực, cơ chế thực hiện, cũng như việc thiếu rõ ràng, minh

bạch trong phân định trách nhiệm của các cấp, các ngành. Một số chính sách

thiếu tính ổn định dẫn tới bất nhất trong quá trình thực thi.

Chính sách tuyển dụng, bố trí, sử dụng trí thức còn thiếu minh bạch,

công khai, dân chủ và bình đẳng, nhất là chính sách tuyển dụng, sắp xếp, bố

trí cán bộ. Thiếu tiêu chuẩn cụ thể trong tuyển dụng. Vì vậy, không ít trí thức

có năng lực, trình độ nhưng không được tuyển dụng, trọng dụng. Trong khi

đó, có người hạn chế về phẩm chất, năng lực nhưng được sắp xếp, bố trí giữ

các chức vụ quan trọng, dẫn tới những tâm tư, bức xúc và chán nản trong một

bộ phận trí thức.

Việc bố trí công việc vẫn chưa hợp lý. Hiện vẫn còn 14,9% trí thức

chưa được bố trí công việc phù hợp với chuyên môn nghiệp vụ của mình. Đây

là con số không lớn, nhất là trong bối cảnh nhiều sinh viên tốt nghiệp ra

trường đang thiếu việc làm, sẵn sàng làm việc bất chấp chuyên môn, chuyên

ngành, nhưng nếu so với số lượng trí thức ở Tây Nguyên thì cũng không phải

là nhỏ. Việc bố trí, sử dụng không đúng ngành, nghề đào tạo gây ra tình trạng

lãng phí chất xám ngay trong các cơ quan, đơn vị - nơi mà các trí thức cần

phải làm đúng chuyên môn, vì đây chính là các cơ quan lãnh đạo, quản lý và

hoạch định chính sách.

Chính sách thu hút trí thức thiếu tính khả thi, không đạt được mục tiêu

đề ra, do đó hầu như không thu hút được trí thức, chuyên gia, nhà khoa học có

trình độ cao về công tác. Việc này phần nào thể hiện sự yếu kém về năng lực

ban hành và thực thi chính sách. Chưa có cơ chế thoả đáng để vinh danh, tôn

vinh những đóng góp xứng đáng của ĐNTT.

Chế độ tiền lương, tiền thưởng, các chế độ đãi ngộ chưa khuyến khích

sự hăng say lao động, cống hiến của trí thức. Cơ chế, chính sách tạo điều kiện

và động lực cho trí thức tự phấn đấu học tập nâng cao trình độ chưa đáp ứng

được yêu cầu, mục tiêu đề ra. Theo kết quả khảo sát của tác giả luận án, mới

112

chỉ có 27,2% trí thức yên tâm công tác với mức thu nhập hiện có, còn lại

72,8% trí thức chưa yên tâm. Khi chưa yên tâm công tác, trí thức sẽ khó có

thể khơi dậy niềm đam mê khám phá, sáng tạo của mình và nếu không được

giải quyết, về lâu dài sẽ đánh mất ý chí, năng lực sáng tạo của trí thức.

Cơ sở vật chất phục vụ công việc, nghiên cứu khoa học của trí thức còn

những khó khăn nhất định. Thiếu thốn, lạc hậu về cơ sở vật chất, trang thiết

bị, máy móc, trí thức khó có môi trường, điều kiện tốt để phát huy khả năng,

năng lực nghiên cứu của mình. Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động nghiên

cứu của trí thức không thể tách rời sự hỗ trợ của trang thiết bị kĩ thuật, chính

vì vậy, việc đầu tư nâng cấp, trang bị mới là việc làm hết sức quan trọng cho

trí thức phát huy tối đa sự cống hiến của mình.

Các chính sách chưa thực sự tác động mạnh mẽ đến ĐNTT để có thể

đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, sử dụng và phát huy năng lực của đội ngũ này.

Cũng theo kết quả khảo sát, vẫn còn 5,9% trí thức không rõ các chính sách

đối với bản thân mình, điều này phần nào thể hiện sự thiếu trách nhiệm của

chính quyền trong việc tuyên truyền, phổ biến các chính sách đến với trí thức

cũng như sự thiếu nắm bắt kịp thời của trí thức đối với các chính sách.

Bên cạnh đó, liên hiệp các hội khoa học, kĩ thuật là tổ chức có chức

năng tập hợp, đoàn kết trí thức, là cầu nối giữa trí thức với Đảng và Nhà

nước, đại diện quyền lợi, lợi ích hợp pháp của trí thức. Thế nhưng, ở một số

tỉnh của Tây Nguyên vai trò của tổ chức này khá mờ nhạt, chưa làm tốt chức

năng của mình. Sự “vênh nhau” giữa chủ trương, nghị quyết với việc thể chế

hoá đã dẫn tới những bất cập trong tổ chức, hoạt động của hội. Nghị quyết 27-

NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương và Chỉ thị 42-CT/TW của Bộ Chính

trị thể hiện Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam là tổ chức chính

trị - xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Song tại Nghị định

45/2010/NĐ-CP, ngày 21/4/2010 "Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý

Hội" và tại Quyết định số 68/2010/QĐ-TTg, ngày 01/11/2010 của Thủ tướng

Chính phủ về việc "Quy định Hội có tính chất đặc thù" thì Liên hiệp các Hội

khoa học và kỹ thuật Việt Nam được xếp trong 28 Hội có tính chất đặc thù.

Bất cập này đã tạo ra nhiều khó khăn trong tổ chức, hoạt động của hội.

113

Tóm lại, qua phân tích, đánh giá một cách toàn diện thực trạng ĐNTT ở

Tây Nguyên thời gian qua có thể thấy rằng đội ngũ này dù có sự phát triển cả

về số lượng, chất lượng, cơ cấu qua từng năm, nhưng vẫn còn nhiều bất cập so

với các vùng, miền khác trong cả nước. Những bất cập trên đang đặt ra cho các

tỉnh Tây Nguyên nhiệm vụ cấp bách là phải đề ra được những giải pháp phù

hợp để xây dựng ĐNTT ngày càng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp

CNH, HĐH.

Kết luận chương 3

Cùng với sự phát triển KT-XH, ĐNTT ở Tây Nguyên trong những năm

qua đã có nhiều bước phát triển. Số lượng trí thức ngày càng tăng và có mặt ở

tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trình độ chuyên môn, lý luận chính

trị, ngoại ngữ, tin học và năng lực thực tiễn từng bước được nâng lên. Họ

tham gia ngày càng nhiều vào công tác tư vấn, phản biện và giám định xã hội,

đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH Tây Nguyên. Cơ cấu ĐNTT chuyển dịch phù

hợp hơn với sự thay đổi cơ cấu kinh tế của mỗi tỉnh và vùng.

Công tác phát triển ĐNTT được cấp uỷ, chính quyền và toàn xã hội

quan tâm, đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách cũng như tạo điều kiện, môi

trường cho đội ngũ này hoạt động ngày càng hiệu quả, đóng góp tích cực vào

sự phát triển của Tây Nguyên.

Tuy nhiên, so với yêu cầu CNH, HĐH và phát triển Tây Nguyên,

ĐNTT nơi đây vẫn còn nhiều hạn chế. Số lượng mặc dù tăng nhanh nhưng

vẫn còn ít so với mặt bằng chung của cả nước và trong cơ cấu lực lượng lao

động của vùng. Chất lượng chưa tương xứng với sự gia tăng về số lượng. Cơ

cấu ĐNTT còn nhiều hạn chế và bất cập. Cơ chế, chính sách phát triển ĐNTT

được ban hành nhiều nhưng thiếu nhất quán, đồng bộ, toàn diện, ổn định và

lâu dài; hiệu quả thấp, chưa thực sự làm cho trí thức yên tâm công tác và cống

hiến. Những thành tựu và hạn chế trên có nhiều nguyên nhân, cả khách quan

và chủ quan, song chủ quan là chính. Trong quá trình phát triển ĐNTT ở Tây

Nguyên đã xuất hiện nhiều bất cập, tạo ra những rào cản tác động tiêu cực đến

quá trình phát triển đội ngũ này. Do vậy, việc đề ra quan điểm, xây dựng giải

pháp nhằm giải quyết những bất cập trên là yêu cầu tất yếu, khách quan nhằm

đáp ứng ngày càng tốt hơn sự vận động đi lên của ĐNTT ở Tây Nguyên.

114

Chương 4

QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TIẾP TỤC

PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY

4.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ

TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY

Trên cơ sở lý luận và thực trạng phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên, trong

thời gian tới để tiếp tục phát triển đội ngũ này cần nhận thức đầy đủ những

quan điểm cơ bản sau:

4.1.1. Phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên phải gắn bó chặt

chẽ với tiến trình xây dựng đội ngũ trí thức của cả nước, nằm trong chiến

lược phát triển nguồn nhân lực của quốc gia, đồng thời tính đầy đủ các

đặc thù của vùng

Đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên là một bộ phận hữu cơ cấu thành nguồn

nhân lực và ĐNTT Việt Nam. Do đó, phát triển đội ngũ này không thể tách

rời với sự phát triển ĐNTT của đất nước và chiến lược phát triển nguồn nhân

lực của quốc gia.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 (khoá X) của Ban chấp hành Trung ương

Đảng về xây dựng ĐNTT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước khẳng

định mục tiêu:

Ðến năm 2020, xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, đạt chất lượng

cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển đất

nước, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các

nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Gắn bó vững chắc giữa

Ðảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Ðảng và Nhà nước,

tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh

công - nông - trí [4039].

Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 được Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt ngày 18/4/2011 đề ra mục tiêu đến năm 2020 là:

115

Đưa nhân lực Việt Nam trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng

nhất để phát triển bền vững đất nước, hội nhập quốc tế và ổn định

xã hội, nâng cao trình độ năng lực cạnh tranh của nhân lực nước ta

lên mức tương đương các nước tiên tiến trong khu vực, trong đó

một số mặt tiếp cận trình độ các nước phát triển trên thế giới [88].

Đồng thời xác định mục tiêu cụ thể cần đạt được là:

Nhân lực Việt Nam có thể lực tốt, tầm vóc cường tráng, phát triển

toàn diện về trí tuệ, ý chí, năng lực và đạo đức, có năng lực tự học,

tự đào tạo, năng động, chủ động, tự lực, sáng tạo, có tri thức và kỹ

năng nghề nghiệp cao, có năng lực thích ứng và nhanh chóng tạo

được thế chủ động trong môi trường sống và làm việc [88].

Để đạt được mục tiêu trên, Chiến lược nêu lên các quan điểm chỉ đạo

thực hiện là: Thứ nhất, phát triển nhân lực trên cơ sở Chiến lược phát triển

KT-XH; Thứ hai, phát triển nhân lực phải dựa trên nhu cầu nhân lực của các

ngành, các địa phương; Thứ ba, phát triển nhân lực toàn diện, gồm những yếu

tố thể lực, tri thức, kỹ năng, hành vi và ý thức chính trị, xã hội theo yêu cầu

phát triển toàn diện con người và phát triển đất nước bền vững; Thứ tư, phát

triển nhân lực phải bảo đảm tính thời đại; Thứ năm, phát triển nhân lực phải

kết hợp hài hoà đảm bảo công bằng và lợi ích quốc gia với sử dụng cơ chế và

những công cụ của kinh tế thị trường trong phát triển và sử dụng nhân lực;

Thứ sáu, phát triển nhân lực là sự nghiệp, trách nhiệm của toàn xã hội; Thứ

bảy, tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế để phát triển nhân lực.

Đối với vùng Tây Nguyên, trong Quy hoạch phát triển nhân lực Việt

Nam giai đoạn 2011-2020, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày

22/7/2011 khẳng định:

Đến năm 2020, tổng số nhân lực làm việc trong nền kinh tế của

vùng khoảng 3,6 triệu người; tốc độ tăng nhân lực qua đào tạo bình

quân hàng năm thời kỳ 2016 - 2020 khoảng 5,5%/năm, đạt khoảng

116

1,8 triệu người (tăng 400 nghìn người so với năm 2015) và chiếm

khoảng 50,0% tổng nhân lực làm việc trong nền kinh tế. Tổng số

nhân lực qua đào tạo khu vực nông, lâm, ngư nghiệp năm 2020

khoảng 780 ngàn, khu vực công nghiệp và xây dựng khoảng 520

nghìn người và khu vực dịch vụ khoảng 452 nghìn người [88; 89].

Phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên phải bám sát các mục tiêu trên. Việc

này không chỉ đảm bảo định hướng trong quá trình phát triển, mà còn tạo ra

sự gắn kết, hỗ trợ qua lại giữa ĐNTT ở Tây Nguyên với các vùng, miền khác

trong cả nước, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

So với nhiều vùng, miền khác trong cả nước, Tây Nguyên có nhiều thế

mạnh về thủy điện, khai thác khoáng sản, chế biến nông, lâm sản, năng lượng

điện gió. Chính vì vậy, phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên trước hết cần phải

hình thành những chuyên gia, nhà khoa học phục vụ cho việc khai thác các lợi

thế đó, lấy việc này làm khâu đột phá, từ đó tạo nền tảng, cơ sở cho phát triển

toàn diện ĐNTT.

4.1.2. Đầu tư cho đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên là đầu tư cho sự

phát triển nhanh và bền vững của vùng

Tổng kết lịch sử phát triển của dân tộc và kinh nghiệm của thế giới,

cũng như qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhất

là qua hơn 20 năm đổi mới, Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X) của Đảng đã

khẳng định “Ðầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền

vững” [40].

Nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực trình độ cao là yếu tố quyết định

đến sự phát triển. Thực tế lịch sử phát triển cho thấy, nhiều nước trên thế giới

nguồn lực tự nhiên khan hiếm, khó khăn nhưng là nước có tốc độ phát triển

nhanh và bền vững, trở thành những nước công nghiệp hàng đầu của thế giới.

Ngược lại, không ít nước có điều kiện, nguồn lực tự nhiên thuận lợi và dồi

dào nhưng trình độ phát triển thấp. Kinh nghiệm rút ra ở đây chính là việc

117

phát huy nhân tố con người. Những nước chỉ chú trọng tập trung khai thác

những tiềm năng, thế mạnh tự nhiên mà thiếu sự quan tâm đầy đủ đến yếu tố

con người tất yếu dẫn đến sự thất bại trong mô hình phát triển. Ngược lại, các

quốc gia đặt con người vào vị trí trung tâm, lấy việc phát huy nguồn lực con

người làm yếu tố chủ yếu của sự phát triển thì đạt được nhiều thành tựu to

lớn, tốc độ phát triển nhanh.

Tây Nguyên là vùng đất có nhiều tiềm năng cho sự phát triển, nhất là

tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên mà Đảng đã nhấn mạnh:

Tây Nguyên là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế -

xã hội và quốc phòng, an ninh của cả nước; là vùng giàu tiềm năng

và lợi thế để phát triển kinh tế - xã hội. Đồng bào các dân tộc Tây

Nguyên có truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường; có văn

hoá dân tộc vừa đa dạng, phong phú, vừa có nhiều nét đặc thù [2].

Tuy thế “thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh

của vùng; phát triển kinh tế còn mang tính tự phát, chưa theo quy hoạch, kế

hoạch nên chưa ổn định, vững chắc” [2]. Thực tế đó đòi hỏi phải có cách nhìn

mới trong việc phát triển vùng đất này.

Sự phát triển nói chung và Tây Nguyên nói riêng phụ thuộc vào 5 yếu

tố cơ bản là: Vốn, KHCN, tài nguyên thiên nhiên, trình độ quản lý và nguồn

lực con người. Trong đó, nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất vì các

nguồn lực khác do con người tạo ra hoặc thông qua con người mới phát huy

tác dụng. Đồng thời, nhiều nguồn lực càng khai thác càng cạn kiệt, ngược lại

nguồn lực trí tuệ con người càng khai thác càng phát triển.

Trong bối cảnh Tây Nguyên hiện nay, tài nguyên thiên nhiên càng ngày

càng suy giảm; môi trường tự nhiên bị ô nhiễm; nguồn vốn đầu tư ít, hiệu quả

chưa cao; trình độ KHCN cũng như quản lý còn thấp kém thì phát huy nguồn

lực con người là giải pháp đột phá, mang tính chiến lược lâu dài và cũng là

cấp bách hiện nay. Phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh hội nhập quốc tế

118

ngày càng sâu và trong điều kiện KTTT đã thành xu thế chủ đạo, nhưng

không phải là phát triển nguồn nhân lực chung chung mà chính là nguồn nhân

lực chất lượng cao hay là nguồn chất xám, trí tuệ. Nguồn lực này chủ yếu

được hình thành thông qua việc xây dựng và phát triển ĐNTT. Chính vì vậy,

đầu tư cho ĐNTT chính là đầu tư cho sự phát triển nhanh và bền vững.

Phát triển nhanh vừa là mục tiêu vừa là đòi hỏi ở Tây Nguyên hiện nay,

nhất là trong bối cảnh vẫn còn một khoảng cách khá lớn trong sự phát triển

của Tây Nguyên so với cả nước. Khoảng cách này không thể rút ngắn, thậm

chí có nguy cơ dãn ra nếu tốc độ phát triển của Tây Nguyên không được duy

trì và gia tăng liên tục. Vấn đề này chỉ được giải quyết khi và chỉ khi đặt con

người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, nói cách khác đầu tư cho con

người là đầu tư cho sự phát triển.

Phát triển bền vững là điểm hội tụ của sự phát triển kinh tế, phát triển

xã hội và bảo vệ môi trường, đây cũng chính là đòi hỏi bức thiết của Tây

Nguyên hiện nay. Nhất là trong bối cảnh trình độ phát triển kinh tế của Tây

Nguyên còn nhiều hạn chế và bất cập: Tốc độ phát triển nhanh nhưng thiếu ổn

định và bền vững, sự phát triển chủ yếu diễn ra theo chiều rộng, thiếu chiều

sâu; Nhiều vấn đề xã hội bức xúc ảnh hưởng, đe doạ trực tiếp tới sự ổn định

và phát triển như đói nghèo, phân hoá thu nhập, mức sống; vấn đề di dân tự

do, nạn chặt phá rừng, môi trường tự nhiên bị tàn phá ảnh hưởng đến sinh kế

của nhiều cộng đồng dân tộc, đặc biệt là cộng đồng DTTS tại chỗ,v.v… Vì

vậy, phát triển bền vững là một xu hướng, đòi hỏi tất yếu của Tây Nguyên.

Muốn vậy, cả về trước mắt và lâu dài phải đầu tư cho chiến lược con người,

trong đó nhấn mạnh yếu tố tri thức trong sự phát triển.

Mục tiêu phát triển Tây Nguyên đến năm 2020 đã được khẳng định:

Phát triển ổn định và bền vững trên cơ sở tổ chức không gian các

hoạt động kinh tế, xã hội phù hợp; xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng

đạt mức trung bình so với cả nước, tạo chuyển biến căn bản về phát

119

triển toàn diện kinh tế - xã hội; từng bước đưa Tây Nguyên trở

thành vùng động lực phát triển kinh tế của cả nước; không ngừng

nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo vệ môi

trường sinh thái; bảo đảm quốc phòng an ninh [90].

Để đạt được mục tiêu trên, trước hết và về lâu dài cần phải đầu tư cho

sự phát triển ĐNTT để thông qua đó đưa Tây Nguyên phát triển nhanh và bền

vững, cùng cả nước hội nhập thành công.

4.1.3. Phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên phải gắn với yêu

cầu phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá

và bảo đảm quốc phòng, an ninh

Đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên thời gian qua đã có những bước phát

triển và đóng góp nhiều cho sự đi lên của vùng đất này. Song do sự hạn chế,

bất cập về số lượng, chất lượng và cơ cấu cũng như việc ban hành, thực hiện

chính sách nên sự phát triển vẫn chưa tương xứng, chưa đáp ứng được yêu

cầu, đòi hỏi của sự phát triển Tây Nguyên hiện nay, nhất là trong việc đẩy

nhanh tốc độ phát triển, nâng cao đời sống nhân dân và bảo vệ môi trường.

Quyết định 276 của Thủ tướng Chính phủ xác định mục tiêu cụ thể phát

triển Tây Nguyên đến năm 2020 là: Thu nhập bình quân đầu người đạt

khoảng 46 triệu đồng; tỷ trọng nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trong cơ

cấu kinh tế là 34,7%, 35% và 30,3%; tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thời kỳ

2016 - 2020 khoảng 15,5%/năm; giảm tỉ lệ hộ nghèo bình quân 2,5 -

3,5%/năm; nâng tỉ lệ che phủ rừng trên 59% vào năm 2020 [90; 92]; sử dụng

hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học; tăng cường giáo dục,

nâng cao nhận thức cho người dân về bảo vệ môi trường. Giữ vững an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội, tăng cường đoàn kết các dân tộc, củng cố quốc

phòng an ninh. Phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên phải bám sát mục tiêu đó.

Sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên mà nhất là đất đai - với 1,8 triệu

ha đất đỏ bazan, được coi là "báu vật" của thiên nhiên, xếp đầu danh mục các

120

loại đất canh tác trên thế giới, cùng với 91.000 ha đất phù sa màu mỡ ven các

sông, suối... đòi hỏi những kỹ sư, chuyên gia thổ nhưỡng, trồng trọt không chỉ

có trình độ lý thuyết khoa học rộng và sâu mà còn phải có nhiều kinh nghiệm

thực tế và tay nghề cao tích lũy từ thực tiễn sản xuất ở Tây Nguyên, dưới sự

dìu dắt của những nhà khoa học - chuyên gia đầu tàu (giống như giáo sư -

chuyên gia Lương Định Của - miệng nói tay làm - của đồng bằng Bắc Bộ

trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, hoặc như giáo sư bậc thầy Võ Tòng

Xuân của đồng bằng sông Cửu Long hiện nay).

Cũng như vậy, để khai thác tối ưu hiệu quả của 53.000 ha đồng cỏ tự

nhiên cần có nhiều kỹ sư, chuyên gia về chăn nuôi gia súc và đi kèm đó là

một số cơ sở công nghiệp chế biến với những kỹ sư chuyên gia giỏi về

chuyên môn, nhạy bén về thị trường để tạo ra những sản phẩm có giá trị cao

đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước.

Việc khôi phục, tái sinh các cánh rừng đại ngàn có nhiều gỗ quý ở Tây

Nguyên mặc dù đã được đầu tư không ít công sức, tiền của nhưng hiệu quả

còn thấp, tốc độ chuyển biến chậm, thậm chí có chiều xấu đi... do nhiều

nguyên nhân, nhưng có lẽ nguyên nhân quan trọng nhất là còn thiếu những kỹ

sư, chuyên gia giỏi về trồng rừng (lâm sinh) và sự kết hợp chặt chẽ của họ với

lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng (kiểm lâm).

Tây Nguyên là tiểu vùng khí hậu đặc thù ở nước ta với hai mùa rõ rệt

là mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa nước từ các ngọn núi cao đổ xuống ào

ạt gây nên những trận lũ dữ dội, cuốn cầu cống, phá nát mùa màng, nhà

cửa, kho bãi, công trình (nhất là những công trình đang xây dở). Mùa khô

thiếu nước nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sản xuất và cuộc sống của người

dân, đe dọa sự tồn tại của các loại vật nuôi và cây trồng. Một trong những

vấn đề khó khăn nhất cho sinh hoạt của con người và cho phát triển kinh tế

của Tây Nguyên là vấn đề dự trữ nước trong mùa khô và tiêu nước, chống

úng lụt trong mùa mưa. "Tích thủy" và "trị thủy" là công việc của tất cả

121

mọi người, nhưng trước hết đặt gánh nặng lên vai các kỹ sư, chuyên gia về

thủy lợi, thủy điện.

Trong lĩnh vực phát triển giáo dục, bên cạnh những nét phổ biến giống

như nhiều vùng khác trong cả nước, Tây Nguyên cũng có những nét đặc thù

riêng, một trong số đó là bộ phận học sinh con em dân tộc đa số, con em các

DTTS học tiếng phổ thông và học bằng tiếng phổ thông. Do đó, ĐNTT, nhất

là bộ phận trí thức làm công tác giáo dục cần biết tiếng dân tộc, ít nhất là

tiếng của dân tộc được sử dụng phổ biến nhất (sau tiếng phổ thông) ở Tây

Nguyên như tiếng Gia Rai, Êđê, M’nông… (Giống như ở các tỉnh thuộc vùng

Tây Bắc - Sơn La, Điện Biên, Lai Châu - đó là tiếng Thái).

Cộng đồng các DTTS ở đây còn chậm phát triển hơn về học vấn, dân

trí và do đó tỉ lệ trí thức cũng thấp hơn so với dân tộc đa số ở đây. Song có nét

đặc biệt là không ít già làng đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong sản

xuất, trong tổ chức đời sống gia đình và cộng đồng buôn, làng... do đó được

nhân dân tín nhiệm, tôn vinh như người đại diện của mình về trí tuệ. Trong

thực tế nhiều già làng đã làm chức năng của trí thức, phát huy vai trò của trí

thức trong phạm vi buôn, làng hay rộng hơn là trong phạm vi xã. Do đó, cần

xây dựng tiêu chí để bồi dưỡng, công nhận và phát huy vai trò trí thức tại chỗ

của những người này.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang diễn ra nhanh chóng trên khắp cả

nước, trong đó có Tây Nguyên và tác động đến tất cả các lĩnh vực, thành phần

xã hội. Đối với ĐNTT, quá trình này góp phần quan trọng trong việc nâng cao

số lượng, hoàn thiện về chất lượng và hợp lý về cơ cấu. Chính vì vậy, để đảm

bảo định hướng phát triển đội ngũ này cần phải gắn kết chặt chẽ với quá trình

CNH, HĐH đang diễn ra ở Tây Nguyên. Vì CNH, HĐH không chỉ dẫn đến sự

đòi hỏi ngày càng cao của phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản

xuất đưa đến hình thành các ngành kinh tế mũi nhọn, mà còn tạo ra cơ sở vật

chất, môi trường và điều kiện cho sự phát triển ĐNTT. Mặt khác, khi ĐNTT

phát triển sẽ thúc đẩy CNH, HĐH đạt tới những tầm cao mới.

122

Tây Nguyên là địa bàn quan trọng về quốc phòng và rất nhạy cảm về an

ninh không chỉ vì vị trí ngã ba Đông Dương của vùng này mà còn vì đây là

một trong những địa bàn trọng điểm mà các thế lực chống đối, phản động

trong nước và nước ngoài thường lợi dụng những sơ hở trong chính sách,

những thiếu sót trong thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo của Đảng và

Nhà nước rồi bơm to, thổi phồng, xuyên tạc; đồng thời chúng còn lợi dụng

những sự cố trong lịch sử, những xích mích khó tránh khỏi trong mối quan hệ

giữa các dân tộc, nhất là trong mối quan hệ giữa các DTTS tại chỗ và dân tộc

Kinh... từ đó lôi kéo, mua chuộc những người lạc hậu, bất mãn, có tiền án,

tiền sự... để tiêm nhiễm vào họ tư tưởng chống đối, phá hoại và ly khai nhằm

gây mất ổn định an ninh, chính trị của vùng. Do đó, mỗi trí thức (hoặc những

người có triển vọng trở thành trí thức ở Tây Nguyên) cần được bồi dưỡng có

hệ thống về lịch sử hình thành, truyền thống đoàn kết chống ngoại xâm, tương

thân, tương ái giữa các dân tộc ở Tây Nguyên để từ đó có đủ bản lĩnh xử lý

những vấn đề nảy sinh trong mối quan hệ giữa các dân tộc liên quan đến

phạm vi công tác của mình.

Tóm lại, chỉ xuất phát từ yêu cầu phát triển KT-XH, CNH, HĐH và

đảm bảo quốc phòng, an ninh Tây Nguyên mới có thể xác định chính xác nội

dung, triển vọng, giải pháp, lộ trình của quá trình phát triển ĐNTT nơi đây.

Quá trình ấy thể hiện những nét phổ biến giống như sự phát triển ĐNTT ở các

vùng khác trong cả nước, đồng thời mang những nét đặc thù do những điều

kiện riêng của Tây Nguyên quy định.

4.1.4. Phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên cần có các giải pháp

toàn diện, đồng bộ, nhưng có trọng tâm, trọng điểm

Phát triển ĐNTT là quá trình gia tăng về số lượng, nâng cao chất lượng

và hài hoà về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong thời kỳ đẩy

mạnh CNH, HĐH Tây Nguyên. Vì vậy, trong quá trình phát triển cần:

Có giải pháp toàn diện trong phát triển ĐNTT, trong đó cần tiếp tục đẩy

mạnh GDĐT, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng DTTS; tập trung đầu tư cơ sở

123

vật chất, kỹ thuật và đội ngũ cán bộ, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên

và Đại học Đà Lạt. Đẩy mạnh giao lưu hợp tác về GDĐT và KHCN với các

tỉnh, thành trong cả nước và một số cơ sở GDĐT và KHCN của nước ngoài.

Tăng cường áp dụng KHCN vào sản xuất, NCKH và đời sống; đầu tư cho các

viện nghiên cứu. Gia tăng tốc độ phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi

trường, góp phần nâng cao đời sống và nhận thức của người dân; nâng cao

nhận thức của cấp uỷ, chính quyền và mỗi người dân về vai trò của GDĐT

đối với sự phát triển nguồn nhân lực và phát triển KT-XH. Củng cố, bảo tồn

và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc ở Tây Nguyên đi

đôi với tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại.

Nâng cao tính đồng bộ trong phát triển ĐNTT về cơ cấu giới tính,

thành phần dân tộc, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, ngoại

ngữ, tin học, cũng như sự phân bố các ngành, lĩnh vực, cơ quan, đơn vị. Rà

soát và hoàn thiện các chính sách đối với đội ngũ này. Tăng cường sự phối

hợp giữa các cơ quan, đơn vị, ban, ngành trong việc thực hiện chính sách đối

với ĐNTT. Nghiên cứu, xem xét hình thành bộ phận quản lý và phát triển

nguồn nhân lực chất lượng cao ở mỗi tỉnh.

Chú trọng phát triển ĐNTT trong lĩnh vực GDĐT, KHCN và lãnh đạo,

quản lý gắn với việc đẩy mạnh áp dụng KHCN. Từng bước hình thành một số

nhóm trí thức đầu ngành ở một số lĩnh vực quan trọng trong một số ngành,

lĩnh vực như GDĐT và nông, lâm nghiệp. Xây dựng, ban hành chính sách để

thu hút trí thức vào một số lĩnh vực quan trọng của mỗi tỉnh, tạo nhân tố đột

phá trong phát triển KT-XH.

4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ

TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY

Xuất phát từ thực trạng và những vấn đề đặt ra, để tiếp tục phát triển

ĐNTT ở Tây Nguyên thời gian tới cần thực hiện đồng bộ các giải pháp chủ

yếu sau:

124

4.2.1. Tập hợp và năng động hoá đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên

Tập hợp trí thức là việc liên kết trí thức lại với nhau nhằm hình thành

khối thống nhất qua đó tạo thành sức mạnh nhằm phát triển hơn nữa đội ngũ

này cũng như phát huy vai trò của họ đối với sự phát triển Tây Nguyên.

Năng động hoá ĐNTT ở Tây Nguyên là thúc đẩy hành động một cách

tích cực, chủ động, tự giác và sáng tạo vào các hoạt động, qua đó phát huy tối

đa sự đóng góp của họ đối với sự phát triển.

Để tập hợp và năng động hoá ĐNTT ở Tây Nguyên cần:

Thứ nhất, những trí thức hiện có đang công tác ở các ngành, cơ quan,

đơn vị trong hệ thống chính trị và các viện nghiên cứu, trường đại học cần

được bố trí đúng ngành nghề chuyên môn, sở trường, giảm thiểu đến mức

thấp nhất hiện tượng trái tay nghề gây lãng phí rất lớn cho công tác đào tạo và

làm giảm hiệu quả công việc. Số đã có bằng cấp xác nhận về trình độ học vấn

thì tạo cho họ có công trình nghiên cứu đạt kết quả tốt, được xác nhận chính

thức bởi các hội đồng thẩm định gồm các nhà khoa học có uy tín do tỉnh

thành lập để chứng tỏ khả năng nghiên cứu độc lập, sáng tạo của họ và được

gia nhập vào ĐNTT, kèm theo những khuyến khích về lợi ích vật chất và tinh

thần do tỉnh quy định.

Cố gắng chọn trong bộ phận này những người xuất sắc nhất, có triển

vọng nhất để đào tạo, bồi dưỡng thành những trí thức “đầu đàn” (đầu ngành),

làm trụ cột, quy tụ và định hướng hoạt động của các nhóm trí thức trong các

lĩnh vực chuyên môn. Trong lĩnh vực hoạt động của trí thức thì vai trò của

“đầu đàn” rất lớn, họ là những người “trội” hơn số đông về học vấn, nhiệt tình

ứng dụng khoa học, kinh nghiệm công tác và kinh nghiệm sống… được anh,

chị em trí thức tín nhiệm, yêu mến và tôn vinh như nghệ sĩ Linh Nga Niê

Kđăm, Giáo sư Đặng Tuấn Đạt….

Trí thức “đầu đàn” có vai trò hết sức quan trọng trong nghiên cứu khoa

học, giống như “thủ lĩnh” trong các lĩnh vực khác. Bộ phận này có vai trò quy

125

tụ, định hướng và dẫn dắt các bộ phận còn lại tạo thành sức mạnh tổng hợp

trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của trí thức. Mặc dù, hoạt động

của trí thức mang đậm dấu ấn của mỗi cá nhân, nhưng trong thời đại KHCN

và KTTT đang phát triển nhanh thì việc liên kết các trí thức lại với nhau có

vai trò quan trọng trong việc phát huy tiềm năng, trí tuệ của mỗi người, qua

đó nhân thêm sức mạnh.

Đến nay ở Tây Nguyên vẫn chưa có nhiều trí thức “đầu đàn” trong hầu

hết các ngành, lĩnh vực. Điều này xảy ra không chỉ với trí thức DTTS mà

ngay cả với trí thức người Kinh. Từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến việc quy tụ,

dẫn dắt, định hướng đi lên lâu dài của ĐNTT ở đây.

Việc chưa có trí thức “đầu đàn” dẫn tới hoạt động của ĐNTT nơi đây

bộc lộ những hạn chế, như sự thiếu liên kết, hợp tác, giao lưu của trí thức;

mức độ ảnh hưởng, tác động của trí thức đối với quá trình hoạch định đường

lối, chủ trương, chính sách và đối với sự phát triển thiếu cả chiều rộng lẫn

chiều sâu. Thiếu cầu nối gắn kết giữa nhà khoa học với nhà nước và nhà

doanh nghiệp.

Chính vì vậy, trước mắt tập hợp những trí thức có trình độ tiến sĩ thuộc

các chuyên ngành hiện có, giao cho họ thực hiện một số đề tài liên quan đến

những vấn đề quan trọng trong phát triển KT-XH của tỉnh, ngành. Thông qua

hoạt động này góp phần nâng cao năng lực và giao lưu, học hỏi của họ, từ đó

phát hiện những trí thức nổi trội để đào tạo, bồi dưỡng thành “đầu đàn”.

Không có trí thức “đầu đàn” làm nòng cốt để quy tụ thì trí thức khó liên

kết được với nhau, bởi đặc trưng hoạt động nghề nghiệp của họ mang tính cá

nhân. Nếu không có sự hướng dẫn, lôi kéo của trí thức “đầu đàn” thì hoạt

động của trí thức thiếu nhân tố đột phá để vươn tới những đỉnh cao mới. Mà

nếu trí thức không vươn tới đỉnh cao mới - tức là không sáng tạo, thì không

còn là trí thức nữa.

Thứ hai, quan tâm đến đông đảo sinh viên mới tốt nghiệp đại học ra

trường đã có việc làm và sinh viên đã tốt nghiệp đại học ra trường nhưng

126

chưa có việc làm đang khát khao tìm được việc làm (đến cuối năm 2014, đã

có 15.000 sinh viên tốt nghiệp đại học có sổ hộ khẩu tại Tây nguyên nhưng

chưa có việc làm) [5]. Đấy là đội “dự bị” trực tiếp để bổ sung vào ĐNTT ở

Tây Nguyên. Các tỉnh cần lập danh sách đầy đủ, phân thành các nhóm theo

chuyên ngành khoa học, cử các nhóm trưởng là những người có thành tích

học tập tốt nhất, được xếp hạng cao trong các kỳ thi tốt nghiệp và tỉnh nên tài

trợ kinh phí để các nhóm này sinh hoạt định kỳ. Liên hiệp các hội khoa học và

kỹ thuật tỉnh đứng ra làm môi giới để các nhóm đó tự liên hệ với các ngành,

đơn vị, doanh nghiệp, các huyện, nhất là các vùng có cây ăn quả, cây công

nghiệp, cây dược liệu, vùng chăn nuôi, trồng rừng… có nhu cầu nghiên cứu,

ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất để kí hợp đồng nghiên

cứu về các đề tài ứng dụng khoa học.

Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh gợi ý các đề tài nghiên cứu,

cách thức tổ chức, quản lý và nên có sự hỗ trợ về tài chính cho việc triển khai

các đề tài, lập các hội đồng thẩm định đánh giá chất lượng các công trình

nghiên cứu và đề nghị tỉnh xác nhận chính thức cho các tập thể và thành viên

tham gia nghiên cứu đề tài. Những thành viên có thành tích tốt, tỉnh nên sắp

xếp ngay công việc theo tinh thần dùng đúng người, đặt đúng chỗ. Được như

vậy, tuyệt đại bộ phận những sinh viên đã tốt nghiệp đang chờ kết quả xin

việc sẽ không ai muốn là người chậm chân để mất cơ hội đang trong tầm tay.

Cũng có thể tin rằng, cách làm này hứa hẹn cho Tây Nguyên một ĐNTT

tương đối đông đảo, có cả năng lực trí tuệ và thực tiễn, đồng thời cũng tạo nên

một xu hướng, một phong trào trong lớp trẻ đã có vốn học thức phấn đấu để

được công nhận là trí thức.

Thứ ba, các thế hệ học sinh trung học của các tỉnh Tây Nguyên cũng

nên được nhìn nhận như là “dự bị tuyến hai” của ĐNTT. Bởi vì chiến lược

đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 thì thế hệ này là “nhân vật chính”, là

đối tượng chính của sự phát triển ĐNTT. Hiện nay thế hệ này đang được sự

127

quản lý, giáo dục của nhà trường và được “hưởng lợi” từ sự đầu tư lớn của

Nhà nước cho quốc sách giáo dục. Tuy thế, ở góc độ phát triển ĐNTT, Liên

hiệp các hội khoa học và kỹ thuật của các tỉnh cũng nên thông qua ngành giáo

dục theo dõi quá trình học tập của các em, có hình thức khuyến khích các em

học giỏi, bộc lộ năng khiếu (dù năng khiếu chưa hẳn đã thành nhân tài, nhưng

đó là dấu hiệu đầu tiên hứa hẹn sự xuất hiện của nhân tài). Hướng dẫn,

khuyến khích các em nhưng tránh tạo nên những áp lực ảnh hưởng đến thiên

hướng bẩm sinh và quá trình phát triển tự nhiên của các em.

Thứ tư, chú trọng tạo nguồn trí thức con em các DTTS đang sinh

sống trên địa bàn Tây Nguyên. Xây dựng chỉ tiêu tuyển sinh cho từng địa

bàn phù hợp với quy hoạch cán bộ DTTS, đồng thời, các địa phương xây

dựng quy hoạch cán bộ DTTS thật cụ thể để có định hướng phân luồng cho

phù hợp.

Trong quá trình đào tạo bậc trung học phổ thông, tiếp tục phân luồng:

Đối với học sinh xuất sắc, giỏi cần bồi dưỡng để có đủ năng lực thi thẳng vào

các trường đại học hoặc chuyển sang dự bị đại học. Sau khi tốt nghiệp, tỉnh,

huyện bố trí, sử dụng vào các công việc thích hợp với sở trường, chuyên môn.

Qua quá trình công tác thấy có triển vọng phải chú ý bồi dưỡng để kết nạp

Đảng, tiếp tục cử đi đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý

nhà nước nhằm sử dụng lâu dài tại địa phương.

Thứ năm, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên chủ động tổ chức, chủ trì hội nghị

phối hợp công tác giữa trường đại học với viện nghiên cứu, doanh nghiệp

đóng trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, qua đó tạo sự liên kết với nhau.

Thông qua hội nghị, các bên kí kết biên bản ghi nhớ và xây dựng quy chế

phối hợp hoạt động. Trong đó, hàng năm các trường đại học đưa giảng viên,

sinh viên đến viện nghiên cứu, doanh nghiệp để nghiên cứu, thực tập; các

viện cử người của mình tham gia giảng dạy tại trường đại học; các doanh

nghiệp tham gia tập huấn về ứng dụng KHCN vào sản xuất, kinh doanh do

128

các trường, viện nghiên cứu tổ chức. Chẳng hạn: Đại học Đà Lạt, Đại học Tây

Nguyên phối hợp với Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt trong đào tạo chuyên

ngành kỹ thuật hạt nhân, vật lý, hoá học và sinh học; phối hợp với Viện Vệ

sinh Dịch tễ Tây Nguyên trong đào tạo chuyên ngành sinh học, công tác xã

hội; phối hợp với Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên

trong đào tạo ngành nông lâm nghiệp; phối hợp với Viện Nghiên cứu khoa

học Tây Nguyên trong lĩnh vực sinh học, hoá học và môi trường,v.v...

Đối với các doanh nghiệp, thông qua biên bản ghi nhớ, quy chế phối

hợp có thể đặt hàng nghiên cứu những vấn đề, vướng mắc nảy sinh trong quá

trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ một phần kinh phí cho các nhà

khoa học, phần kinh phí còn lại trước mắt do các cơ quan quản lý, sử dụng trí

thức ứng ra. Sau khi có kết quả nghiên cứu, triển khai nếu đem lại hiệu quả thì

doanh nghiệp sẽ chi trả phần còn lại mà trước đó đơn vị quản lý, sử dụng trí

thức đã ứng. Điều này tạo ra sự chia sẻ, gắn kết trách nhiệm giữa nhà quản lý,

nhà khoa học với doanh nghiệp.

Sự phối hợp không chỉ giúp gắn kết giữa lý thuyết với thực hành trong

đội ngũ giảng viên, sinh viên mà còn phát huy được trí tuệ của các nhà khoa

học vào giảng dạy, truyền bá tri thức, cũng như giải quyết những vấn đề thực

tiễn đang diễn ra, qua đó nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học

cũng như phát huy được thế mạnh của mỗi đơn vị nghiên cứu trong việc thực

hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH ở Tây Nguyên.

4.2.2. Thống nhất và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp,

các ngành và người dân về vị trí, vai trò đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên

Trình độ phát triển KT-XH ở Tây Nguyên khá thấp, đời sống của nhân

dân còn khó khăn. Kéo theo đó, nhận thức của không ít cấp uỷ, chính quyền

và người dân về vị trí, vai trò của ĐNTT có nhiều hạn chế. Vì vậy, việc thống

nhất nâng cao nhận thức của hệ thống chính trị, toàn xã hội về vị trí, vai trò và

tầm quan trọng của sự phát triển ĐNTT là một trong những giải pháp có tính

đột phá, qua đó từng bước tháo gỡ các rào cản trong tư duy, nhận thức, tạo

129

động lực mạnh mẽ cho sự lớn mạnh của đội ngũ này. Để làm được việc này,

trước hết cần tập trung thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, cấp uỷ, chính quyền các cấp ở Tây Nguyên tiếp tục quán triệt

trong toàn hệ thống chính trị, trước hết là cán bộ chủ chốt các cấp về vị trí, vai

trò của nguồn nhân lực nói chung và ĐNTT nói riêng đối với sự phát triển.

Trên cơ sở đó, người đứng đầu các ban, ngành, đoàn thể ký cam kết về trách

nhiệm của mình đối với việc phát triển ĐNTT trong lĩnh vực mình phụ trách.

Lấy đó làm một trong các tiêu chí để hàng năm bình xét, đánh giá, phân loại

cơ quan, đơn vị và người đứng đầu.

Cấp uỷ, người đứng đầu cơ quan, đơn vị có vai trò hết sức quan trọng,

là đầu tàu của địa phương, cơ quan, đơn vị nên nhận thức của họ đúng đắn,

đầy đủ và thống nhất tất yếu sẽ tạo được sự đồng thuận trong hệ thống chính

trị và lan toả ra toàn xã hội. Hơn nữa, nhận thức của các đối tượng này thay

đổi tất yếu kéo theo sự bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển nguồn nhân

lực và ĐNTT, từ đó tạo tiền đề cho sự thay đổi nhận thức của toàn xã hội.

Ngược lại, không có sự thay đổi nhận thức của họ, sự phát triển ĐNTT ở Tây

Nguyên khó có thể đạt được mục tiêu đề ra.

Thứ hai, tăng cường tuyên truyền, phổ biến quán triệt đường lối, chủ

trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về vị trí, vai trò của

nguồn nhân lực, trí thức đối với sự phát triển.

Để làm được điều này trước hết cần thông qua các phương tiện thông

tin đại chúng như đài phát thanh - truyền hình của tỉnh, huyện, hệ thống loa

phường, báo địa phương, các bản tin nội bộ, v.v… để tuyên truyền đến mọi

người đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,

trực tiếp và cụ thể là các nghị quyết, chính sách của tỉnh để cán bộ, người dân

nắm bắt kịp thời. Đồng thời với quá trình này, uỷ ban nhân dân các tỉnh giao

nhiệm vụ cho đài phát thanh - truyền hình của tỉnh xây dựng chương trình

tìm hiểu về nguồn nhân lực và chính sách phát triển nhân lực dưới dạng các

phóng sự, toạ đàm, hỏi-đáp, gương sáng trí thức hay trò chơi truyền hình, v.v…

130

để nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của trí thức đối với

sự phát triển KT-XH.

Thứ ba, đẩy mạnh việc đưa CNTT đến các vùng sâu, vùng xa, vùng

DTTS nhằm nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ của đông đảo người dân,

nhất là DTTS. Buổi đầu tiếp cận dịch vụ này, người dân có thể còn nhiều bỡ

ngỡ do đó cần mở một số lớp hướng dẫn sử dụng cho cán bộ thôn, buôn để về

truyền đạt lại cho người dân. Khi người dân hiểu được lợi ích của hoạt động

này, họ sẽ hiểu được sự cần thiết của việc nâng cao trình độ, nhận thức.

Để làm được việc này, chính quyền nên tạo nhiều điều kiện thuận lợi

hơn trong việc phát triển các điểm bưu điện văn hoá xã, nhất là ở các xã vùng

sâu, vùng xa, vùng DTTS. Phối hợp với các doanh nghiệp CNTT trên địa bàn

tỉnh phát triển hạ tầng viễn thông, xây dựng chính sách ưu đãi, miễn phí, miễn

cước kết nối, sử dụng, hỗ trợ trang thiết bị, máy tính cho những hộ gia đình là

người DTTS sinh sống ở vùng sâu, vùng xa.

Thứ tư, biểu dương, khen thưởng kịp thời và thoả đáng những tổ

chức, cá nhân có các phát minh, sáng chế thông qua các hội nghị, hội thảo

và trên các phương tiện thông tin đại chúng. Những việc làm này không chỉ

động viên những người làm công tác NCKH có thêm động lực để phấn đấu,

cống hiến mà còn thu hút sự quan tâm của các cơ quan, đơn vị, doanh

nghiệp và người dân về vai trò của KHCN đối với sự phát triển. Đồng thời

qua đó tạo cơ hội cho sự gắn kết giữa nhà nước, nhà khoa học, doanh

nghiệp và người dân.

Thứ năm, tăng cường tổ chức các hội chợ xúc tiến thương mại trong

việc quảng bá các sản phẩm KHCN đến với doanh nghiệp và người dân.

Thông qua việc làm này, giúp cho những nhà quản lý, người sản xuất, kinh

doanh không chỉ thấy được tầm quan trọng của việc đưa các tiến bộ KHCN

vào quá trình sản xuất và đời sống mà còn có ý nghĩa sâu xa hơn, đó là sự cần

thiết phải đầu tư cho con người, từ đó từng bước hình thành tư duy mới - con

người là trung tâm của sự phát triển.

131

4.2.3. Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội tạo cơ sở, tiền đề cho

việc xây dựng đội ngũ trí thức đảm bảo về số lượng, cao về chất lượng và

hợp lý về cơ cấu; hạn chế tình trạng “chảy máu chất xám”

Những bất cập về số lượng, chất lượng và cơ cấu ĐNTT ở Tây Nguyên

tuy đã được phát hiện và từng bước khắc phục song còn chậm. Điều đó bị quy

định bởi những điều kiện khách quan và chủ quan mà xét đến cùng chỉ có tiếp

tục thực hiện chiến lược phát triển KT-XH nơi đây mới có thể giải quyết đồng

bộ và căn bản các bất cập này. Trong đó thực hiện một số nội dung sau:

Một là, đẩy mạnh CNH, HĐH trong đó trọng tâm là CNH, HĐH nông

nghiệp, nông thôn. Đây là lối thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu của Tây

Nguyên. Tiến trình này sẽ đánh thức những tiềm năng vốn có của Tây

Nguyên và tự nó tạo ra nhu cầu đào tạo trí thức ngay tại Tây Nguyên, đồng

thời tạo ra sức hút đối với trí thức ở các nơi về Tây Nguyên, gắn bó lâu dài và

cống hiến hết mình cho vùng đất này khi điều kiện sống và môi trường lao

động trí óc được cải thiện. Được tiếp cận với những tri thức mới do công

nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa đem lại và được trao trách nhiệm thực

hành ngay vào điều kiện Tây Nguyên, chắc chắn sẽ giúp cho ĐNTT nơi đây

nhanh chóng trưởng thành. Những trí thức thực thụ, những chuyên gia giỏi

thường có ý thức và tình cảm rất sâu đối với nghề, khi đã tìm được một nghề

phù hợp và một nơi thuận lợi để hành nghề đó thì họ muốn gắn bó lâu dài,

thậm chí suốt đời, nếu phải rời bỏ sẽ là điều đau khổ.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá thúc đẩy tiến trình đô thị hóa cùng với

sự xuất hiện của những doanh nghiệp lớn, những cơ sở sản xuất lớn. Những

doanh nghiệp, cơ sở sản xuất này đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành,

phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên, bởi đó sẽ là nơi thu hút một số lớn trí thức

vào làm việc ở các bộ phận điều hành, các phòng nghiên cứu, thí nghiệm, là

nơi thực tập sau khi tốt nghiệp đại học, cử nhân muốn phấn đấu để trở thành

trí thức. Xác lập mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể các đơn vị công tác của

những trí thức với các doanh nghiệp lớn, cơ sở sản xuất lớn là một trong

những giải pháp quan trọng trong phát triển đội ngũ này.

132

Hệ quả rất quan trọng của tiến trình CNH, HĐH Tây Nguyên - như đã

thấy - là nó tạo ra nhu cầu và điều kiện để hiện thực hóa chủ trương phát triển

theo hướng cải cách toàn diện hệ thống giáo dục phổ thông và từng bước đổi

mới hệ thống giáo dục đại học. Đó là giải pháp hữu hiệu để nâng cao mặt

bằng dân trí toàn vùng, đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, đào tạo

nhân tài, liên tục bổ sung cho ĐNTT ở Tây Nguyên.

Hiện nay, đẩy mạnh công nghiệp hóa đi liền với hiện đại hóa còn là giải

pháp hữu hiệu tăng quỹ tích lũy để cải thiện đời sống cho trí thức: Nâng

lương, tăng đầu tư cho việc nghiên cứu các đề tài khoa học, từ đó trí thức có

việc làm thường xuyên để có thêm thu nhập, tăng thêm mức thưởng cho

những công trình nghiên cứu xuất sắc, có giá trị lý luận và thực tiễn cao. Đây

thực sự đang là một yêu cầu bức xúc, bởi vì khó khăn trong đời sống đến mức

không nuôi nổi bản thân và gia đình... một số không ít trí thức ở Tây Nguyên

đã xin chuyển đi nơi khác và buộc lòng phải chấp nhận lao động chân tay

hoặc tìm cách ra nước ngoài lao động làm thuê. Hiện tượng “chảy máu chất

xám" ở Tây Nguyên đang hiện hữu, không còn là dự báo.

Cùng với nâng cao điều kiện sống còn phải quan tâm đến môi trường

làm việc của ĐNTT. Đó là đảm bảo nơi làm việc đủ tiện nghi, xây dựng thư

viện đầy đủ sách báo, tài liệu tham khảo, xây dựng phòng thí nghiệm với

những máy móc, hệ thống thông tin hiện đại,v.v... Người lao động trí óc sáng

tạo ngày nay thiếu những trang bị đó thì không thể đạt hiệu quả cao.

Hai là, mở rộng cánh cửa hơn nữa cho kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa phát triển sâu, rộng ở Tây Nguyên. Đây vốn là vùng đất tồn tại

trong tình trạng biệt lập trong khoảng thời gian dài. Cho đến những ngày mới

giải phóng, một số nhà khoa học từ miền Bắc vào thăm Tây Nguyên cùng

chung nhận xét: "Tây Nguyên là vùng đất giàu tiềm năng chưa được đánh

thức". Giẫm chân tại chỗ trong nền sản xuất nhỏ tự cấp, tự túc, khép kín còn

rất lạc hậu (thậm chí thời kỳ đầu sau giải phóng còn có những cộng đồng dân

cư chưa vượt qua phương thức sản xuất chiếm đoạt, hái lượm, vẫn còn canh

133

tác theo kiểu dùng gậy chọc lỗ để tra hạt), và khi cán bộ đến tận nhà vận động

đồng bào cho con đi học, không ít người trả lời: "Ở đây chỉ cần cái thịt, không

cần cái chữ". Điều đó ít nhiều chứng tỏ đời sống vật chất còn thấp kém không

thể làm nảy sinh trong họ tâm lý vươn lên trở thành trí thức, vươn tới sự tiến

bộ. Cho đến lúc đó, Tây Nguyên về cơ bản chưa chín muồi nhu cầu và chưa

đủ điều kiện cho sự xuất hiện và hoạt động của một ĐNTT mới.

Bước vào thời kỳ đổi mới, sự thâm nhập của kinh tế thị trường đã giúp

con người ở Tây Nguyên mau chóng thay đổi những quan niệm, thói quen cũ,

hình thành những quan niệm, thói quen mới, chẳng hạn quan niệm tự cấp, tự

túc đi liền với lối sống mang tính biệt lập, khép kín và thái độ an phận, bảo

thủ, thiếu tự tin, không thích đổi mới... thành quan niệm và thói quen giao

lưu, hợp tác, tìm tòi cái mới, tự tin ở mình... Những thay đổi ấy từng bước

làm tăng thêm tính tự chủ, năng động, sáng tạo ở mỗi con người với tính cách

chủ thể gắn bó với cộng đồng để cùng tiến lên phía trước. Điều đó diễn ra

trước hết trong tầng lớp có học vấn.

Có thể nói, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đóng vai

trò là nhân tố có ý nghĩa quyết định xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp

đã được áp dụng trong khoảng thời gian trên một thập kỷ với những hậu quả

tiêu cực của nó và góp phần mở đường cho một cơ chế dân chủ của thời kỳ

đổi mới ở Tây Nguyên.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong những

nhân tố quan trọng làm thức dậy một vùng đất Tây Nguyên có nhiều tiềm

năng đang chờ khai thác, phá bỏ sự khép kín. Thông qua sự giao lưu, trao đổi

qua lại, Tây Nguyên càng gắn bó khăng khít với cả nước, hòa vào nhịp điệu,

tiến độ chung của công cuộc đổi mới.

Sự giao lưu, trao đổi ấy không chỉ là sản phẩm, hàng hóa vật chất mà

còn là những sản phẩm, hàng hóa tinh thần thuộc các lĩnh vực khoa học tự

nhiên, khoa học xã hội, nhân văn; văn học, nghệ thuật. Chính sự giao lưu, trao

đổi ấy đã tạo nên một trong những nhân tố quyết định sự hình thành, phát

134

triển ĐNTT ở Tây Nguyên. Bởi vì, nói rộng ra, giao lưu, trao đổi là phương

thức tồn tại, phát triển của tri thức nhân loại mà đại biểu về mặt xã hội của nó

là ĐNTT. Tinh thần ganh đua (cạnh tranh lành mạnh) được khơi dậy nhờ tác

động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo nên động lực tinh

thần để trí thức không ngừng vươn lên trong lao động trí óc sáng tạo nhằm

làm ra những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao hơn được thực tiễn kiểm

chứng và được Nhà nước, các hội xác nhận, tôn vinh. Về phương diện đó,

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ góp phần tạo nên

động lực thúc đẩy trí thức lao động sáng tạo mà còn góp phần tạo nên một nét

đặc trưng trong tính cách của trí thức: Say mê, miệt mài nghiên cứu để chinh

phục những đỉnh cao mới.

Ba là, phát triển du lịch để đẩy mạnh sự giao lưu, hội nhập của trí thức

Tây Nguyên với trí thức các nước ở khu vực và thế giới.

Tây Nguyên với tiềm năng ưu thế về du lịch có thể trở thành điểm

hẹn của đông đảo du khách nước ngoài. Những khu rừng đại ngàn, nguyên

sinh và tái sinh có nhiều gỗ quý và dược liệu hiếm cùng nhiều động vật đặc

chủng, những thác nước đẹp và hùng vĩ, âm nhạc cồng chiêng và những lễ

hội dân gian nhiều màu sắc, cà phê thương hiệu Buôn Ma Thuột, phong

cách độc đáo và không khí mát dịu của Đà Lạt... có thể là những tác nhân

vẫy gọi du khách.

Nhưng đằng sau ngoại cảnh hấp dẫn đó, Tây Nguyên còn tiềm ẩn bên

trong những đề tài khoa học có tầm cỡ quốc gia và quốc tế về nhân chủng

học, dân tộc học, sinh vật học, sinh thái học, lịch sử tiến hóa của loài người

(với những di tích, dấu vết còn mới của thời kỳ con người chuyển từ chế độ

cộng sản nguyên thủy không phân chia giai cấp sang xã hội có giai cấp; từ

nền kinh tế tước đoạt, hái lượm với những công cụ rất thô sơ sang nền kinh tế

sản xuất với những công cụ được chế tác và sử dụng sức kéo của súc vật...).

Theo chúng tôi, Tây Nguyên có thể đề xuất những đề tài khoa học lớn,

rồi sử dụng các phương tiện thông tin giới thiệu, quảng bá rộng rãi và mời gọi

135

các nhà khoa học trong nước, khu vực và thế giới tham gia nghiên cứu, hội

thảo. Đó là cơ hội quý để trí thức ở Tây Nguyên giới thiệu những thành quả

nghiên cứu của mình và tiếp thu những thành tựu của các nhà khoa học có uy

tín của các nước trong khu vực và thế giới.

Bốn là, đẩy mạnh tiến trình dân chủ hóa nhằm cải thiện môi trường

công tác và lao động trí óc sáng tạo của ĐNTT ở Tây Nguyên.

Từ khi Đảng phát động công cuộc đổi mới, tiến trình dân chủ hóa mọi

mặt trong đời sống xã hội ở nước ta trong đó Tây Nguyên là bộ phận hữu cơ

đã được triển khai ngày càng sâu rộng. Với tính cách là những công dân, trí

thức ở Tây Nguyên đang thụ hưởng những thành quả đã đạt được của tiến

trình đó, còn với tính cách những trí thức đang lao động trí óc sáng tạo trên

một địa bàn cụ thể là Tây Nguyên, họ có những nhu cầu dân chủ bức thiết

riêng cần được giải quyết để hoạt động sáng tạo đạt hiệu quả cao hơn.

Đối với ĐNTT ở Tây Nguyên điều quan trọng nhất trong môi trường

lao động là sự đoàn kết đội ngũ. Bởi vì đội ngũ này gồm những trí thức khác

nhau về thế hệ, thành phần dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc đào tạo, quá trình và

môi trường trải nghiệm, trình độ học vấn và chuyên môn... Tiến trình lao

động trí óc sáng tạo giúp mọi trí thức từ chỗ hiểu rõ đến chỗ tâm niệm một

mục đích chung là cùng nhau lao động sáng tạo để góp phần xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc. Nhận thức và tình cảm đó sẽ giúp trí thức vượt qua những khác

nhau nêu trên, tự nguyện gắn mình với đội ngũ để vượt qua mọi khó khăn, thử

thách hoàn thành nhiệm vụ được giao. Ở phương diện này, giải pháp quan

trọng nhất là tăng cường giáo dục chủ nghĩa yêu nước bằng nhiều hình thức

đa dạng, phù hợp với các đối tượng.

Sự đoàn kết trong ĐNTT bao gồm sự hợp tác trong đó đề cao tinh thần

tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tôn trọng sự phán quyết của mọi người, song

không xem nhẹ vai trò của sự hợp tác, liên kết. Cần thông cảm với trí thức ở

chỗ khi chấp nhận sự liên kết tập thể họ phải vượt qua chính mình. Bởi vì lao

động trí óc sáng tạo về thực chất là lao động cá nhân. Chỉ khi giúp họ nhận rõ

136

lao động trí óc của cá nhân trong thời đại phát triển KHCN ngày nay không

tách rời sự hợp tác, liên kết tập thể thì họ mới chấp nhận một cách tự nguyện.

Thực sự đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà

nước đối với ĐNTT. Sự đổi mới đó cần bắt đầu từ sự tìm hiểu sâu về trí thức,

đó là những người có hiểu biết rộng và sâu về một hoặc nhiều lĩnh vực. Dựa

trên nền tảng của sự hiểu biết đó, trí thức có lòng tự trọng, tự tin và dám dũng

cảm, thẳng thắn bảo vệ những điều họ cho là lẽ phải, là chân lý... Thế giới

tinh thần của trí thức thường phong phú, sở thích thường đa dạng và lòng say

mê NCKH thường bền bỉ và cháy bỏng. Đại đa số trí thức khinh ghét sự dối

trá, hời hợt, giả tạo, giả nhân giả nghĩa, tham lam….

Nhưng trong những tình huống nhất định, ở một số trí thức những phẩm

chất này có thể bị chính họ cực đoan hóa, tuyệt đối hóa làm cho nó vượt qua

giới hạn hợp lý để biến thành những điều trái ngược với chính nó. Ví dụ: Lòng

tự tin biến thành thái độ tự cao, tự đại; lòng tự trọng biến thành sự tự ái; sự

dũng cảm bảo vệ chân lý đến cùng biểu hiện thành sự bảo thủ... Trong những

trường hợp ấy những nét đặc trưng cá tính của trí thức biến dạng thành những

cá tật. Tôn trọng cá tính nhưng cần giúp đỡ những trí thức đó nhận rõ và tự

khắc phục những cá tật. Việc này cần kiên nhẫn tìm cách thuyết phục thay cho

mệnh lệnh, lắng nghe sự thổ lộ của trí thức với thái độ thông cảm, khoan dung,

không cố chấp, tìm cách đưa ra những lời khuyên đúng lúc. Khi trí thức thất bại

thì biết chia sẻ và chờ đợi, bởi vì hiếm có trí thức nào - dù tài năng đến mấy -

có thể đạt tới sự thành công mà không phải trả bằng những thất bại, bởi vì "thất

bại là mẹ đẻ của thành công". Đó chính là thái độ và cách ứng xử của V.I.Lênin

đối với trí thức nói chung và đặc biệt là đối với đại văn hào Nga Mácxim

Goocki và cũng là thái độ, cách ứng xử của Hồ Chí Minh với trí thức. Cả hai

ông đều rất quan tâm rèn luyện trí thức và giúp họ tự rèn luyện.

Mỗi cơ quan, đơn vị (nhất là trường đại học, viện nghiên cứu, cơ quan

quản lý ĐNTT…) cần xây dựng bản quy ước về dân chủ trong đó thể hiện sự

công bằng, minh bạch, bình đẳng và công khai trong: Nhận xét, đánh giá

137

phẩm chất, đạo đức, năng lực và kết quả nghiên cứu của trí thức; phân công

trách nhiệm; đề bạt và phân phối hưởng thụ (bao gồm tăng lương và các

khoản thu nhập khác); tạo cơ hội để đi nghiên cứu thực tế và học tập ở nước

ngoài; ứng xử và giao tiếp giữa cấp trên với cấp dưới. Quy ước đó đòi hỏi cả

đơn vị thực hiện, nhất là những người lãnh đạo, quản lý đơn vị.

Cũng như ở mọi địa phương khác, ở Tây Nguyên hiện nay việc phát

huy, phát triển ĐNTT phụ thuộc vào điều kiện tiên quyết tạo lập môi trường

dân chủ và sáng tạo. Vì vậy cần:

Trên cơ sở Nghị định 04/2015/NĐ-CP của Chính phủ về thực hiện dân

chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp

công lập, các đơn vị cụ thể hóa thành quy chế phù hợp với đơn vị mình.

Trong đó trước hết người đứng đầu cơ quan cần nhận thức đầy đủ về mục

đích, yêu cầu, nội dung việc thực hiện dân chủ ở cơ quan mình phụ trách và

có kế hoạch chi tiết nhằm hiện thực hóa yêu cầu, nội dung đó trong cơ quan

mình. Tiếp đó giúp cho cán bộ, công chức, viên chức nói chung và trí thức nói

riêng nhận thức rõ quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của bản thân trong việc

thực hiện dân chủ để từ đó quyết tâm đưa quá trình dân chủ hóa cơ quan đi

đến đích.

Để đảm bảo việc thực hiện dân chủ có hiệu quả cần có sự kiểm tra,

giám sát của cấp trên tại hội nghị tổng kết hàng năm hoặc hội nghị cán bộ,

công chức, viên chức. Cấp trên trực tiếp phụ trách đơn vị xuống nghe ý kiến

của cán bộ, công chức, viên chức về thực hiện dân chủ, đặc biệt là lắng nghe

ý kiến của trí thức về thành tích, hạn chế và phương hướng tiếp tục thực hiện

dân chủ, kiểm điểm trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị. Kết quả kiểm

điểm và kế hoạch thực hiện dân chủ trong thời gian tiếp theo được công khai

tại cơ quan, đơn vị.

Xây dựng môi trường làm việc thân thiện, gần gũi, gắn bó đồng chí,

đồng nghiệp. Môi trường công tác của ĐNTT chịu sự tác động rất lớn của các

mối quan hệ xung quanh, ngoài cơ chế, chính sách còn có mối quan hệ chỉ

138

đạo, lãnh đạo với thực hiện, thi hành (cấp trên với cấp dưới) và mối quan hệ

phối hợp (cùng cấp với nhau) và mối quan hệ giữa người với công việc,

nhiệm vụ được giao. Hai mối quan hệ này gắn bó với nhau, chi phối và tác

động lẫn nhau, từ đó hình thành môi trường công tác. Môi trường tốt khi và

chỉ khi các mối quan hệ này tốt và ngược lại.

Trí thức chỉ yên tâm công tác và cống hiến khi các mối quan hệ trên hài

hoà, thân thiện, không áp đặt ý chí và được xác định rõ ràng, cụ thể. Chính vì

vậy, để xây dựng mối quan hệ đó, cần phân định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và

công việc cụ thể của từng cá nhân, tổ chức và được thể hiện trong quy chế

hoạt động của cơ quan, đơn vị. Khi có vấn đề mới phát sinh người đứng đầu

căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mỗi người để phân công rõ trách nhiệm,

tránh đùn đẩy, thoái thác cũng như giao quá nhiều nhiệm vụ cho một vài cá

nhân. Lấy hiệu quả công việc làm thước đo cao nhất trong việc đánh giá năng

lực của mỗi người.

4.2.4. Đổi mới và từng bước hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát

triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên

Các chính sách đối với sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên đã và đang

được thực hiện, qua đó góp phần phát huy, phát triển đội ngũ này. Tuy nhiên,

trong quá trình vận động phát triển, một số cơ chế, chính sách bộc lộ nhiều

hạn chế, bất cập như: Cơ chế đánh giá, đấu thầu trong thực hiện đề tài khoa

học; chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, thu hút và ưu đãi trí thức; chính

sách liên quan đến thu nhập, v.v… Vì vậy, việc đổi mới, bổ sung, hoàn thiện

và nâng cao khả năng tổ chức thực hiện cho phù hợp với thời kỳ mới là việc

làm hết sức cần thiết để ĐNTT cống hiến nhiều hơn cho sự phát triển Tây

Nguyên. Trong đó, trước hết cần thực hiện tốt những công việc chủ yếu sau:

Thứ nhất, rà soát, bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy định

hiện có; ban hành chính sách, quy định mới đối với ĐNTT.

Thực tế thời gian qua cho thấy, không ít trí thức đã rời Tây nguyên, bản

quán tìm nơi làm việc mới mà nguyên nhân là do những hạn chế, bất cập của

139

chính sách đãi ngộ, khuyến khích. Trong khi đó cũng có nhiều trí thức từ các

vùng, miền khác nhau trong cả nước sẵn sàng lên Tây Nguyên công tác,

nhưng chỉ vì chính sách thu hút họ chưa đủ hấp dẫn nên điều đó chưa thành

hiện thực. Cũng có những trí thức nơi khác đến Tây Nguyên mong được

hưởng chính sách ưu đãi nhưng sau một thời gian lại “ra đi” bởi có những yêu

cầu chính đáng không được đáp ứng… Vì vậy, việc rà soát để kịp thời điều

chỉnh, bổ sung hoặc bãi bỏ những chính sách, quy định không còn phù hợp có

ý nghĩa quan trọng trong việc đồng bộ hóa các chính sách nhằm tạo môi

trường, điều kiện thuận lợi cho việc thu hút, sử dụng trí thức. Trước hết cần:

Đánh giá, tổng kết việc thực hiện các chính sách, chương trình hành

động đối với ĐNTT. Trong đó, bên cạnh việc chỉ ra những mặt đã đạt được và

chưa đạt được, cần làm rõ nguyên nhân chủ quan và khách quan, trách nhiệm

cụ thể của các cá nhân, cơ quan, đơn vị để làm cơ sở cho việc điều chỉnh, bổ

sung và hoàn thiện chính sách.

Việc đánh giá, tổng kết bên cạnh sự tham gia của các cơ quan lãnh đạo,

quản lý nhất thiết phải có sự tham gia của các cơ quan, đơn vị sử dụng trí thức

cũng như bản thân trí thức và đại diện người dân chịu sự tác động để bàn bạc,

đánh giá, rút kinh nghiệm từ đó kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc

cũng như lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, trăn trở hoặc kiến nghị, đề xuất của

trí thức. Trên cơ sở đó, chỉ đạo các cơ quan chức năng của tỉnh điều chỉnh, bổ

sung hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung.

Hàng năm, cấp uỷ, chính quyền tổ chức hội nghị gặp mặt trí thức và

những học viên đang đi học có sự hỗ trợ của tỉnh để kịp thời giải quyết những

vướng mắc, khó khăn trong học tập và công tác. Biểu dương, khen thưởng

những tập thể, trí thức có thành tích xuất sắc trong năm, qua đó tạo động lực

cho họ phấn đấu vươn lên, cũng như giúp họ yên tâm học tập sau này trở về

phục vụ lâu dài cho tỉnh.

Ban hành các chính sách, quy định mới để thu hút trí thức về công tác

cũng như huy động sự tham gia, đóng góp của họ, chẳng hạn chính sách tập

140

hợp trí thức đã từng sinh sống hoặc hiện có gia đình ở các tỉnh Tây Nguyên

đang công tác tại các tỉnh, thành khác và ở nước ngoài; chính sách ưu đãi về

KHCN trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp… Việc ban hành chính sách, quy

định mới góp phần bổ sung những mặt, lĩnh vực còn thiếu hoặc cần thu hút

chất xám.

Tiếp tục thực hiện đề án đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng

cao đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH, từng bước xây dựng và triển khai đề

án vị trí việc làm theo Nghị định số 36/2013/NĐ-CP, ngày 22/4/2013 của

Chính phủ về vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức để nâng cao chất

lượng ĐNTT cũng như hoàn thiện môi trường và điều kiện công tác, NCKH.

Để thực hiện tốt đề án cần xác định đúng mục tiêu và chỉ tiêu, trên cơ

sở đó phân công trách nhiệm cụ thể cho từng cơ quan, đơn vị, tránh chồng

chéo và đùn đẩy trách nhiệm. Đồng thời lấy kết quả công việc để đánh giá

mức độ hoàn thành nhiệm vụ của người đứng đầu cơ quan, đơn vị.

Đối với đề án vị trí việc làm, trước hết từng trí thức trong các bộ phận

của cơ quan, đơn vị liệt kê, mô tả việc làm, nhiệm vụ cụ thể được phân công

giải quyết, đảm nhận và kết quả thực hiện. Trên cơ sở bản mô tả công việc

của mỗi người, tập thể cấp uỷ, chính quyền tiến hành phân tích, đánh giá các

yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, mỗi cá

nhân; đánh giá việc làm của từng người và việc sử dụng lao động của đơn vị,

bộ phận; so sánh, đối chiếu với chức năng, nhiệm vụ của tổ chức, từ đó xây

dựng kế hoạch sử dụng các nguồn lực có hiệu quả.

Việc thực hiện đề án vị trí việc làm không chỉ nhằm đổi mới công tác

quản lý qua việc rà soát sử dụng nguồn nhân lực để bố trí, sử dụng hiệu quả,

phù hợp; phát huy tiềm năng, thế mạnh của mỗi người; đổi mới cách đánh giá,

khắc phục tình trạng vừa thừa vừa thiếu nhân lực giữa các đơn vị, bộ phận,

mà còn giúp cơ quan, đơn vị nắm chắc công việc của từng người, xác định

quy trình làm việc khoa học, phát triển nguồn nhân lực có hiệu quả, từ đó có

kế hoạch tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng và thực

hiện tốt các chính sách.

141

Bên cạnh việc xây dựng, hoàn thiện chính sách, cũng cần hết sức coi

trọng việc thực hiện chính sách, nhất là đối với những tỉnh như ở Tây Nguyên

- đang thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. Thành lập bộ phận thu hút nhân

lực trên cơ sở biên chế của các sở, ban, ngành liên quan như ban tổ chức tỉnh

uỷ, sở nội vụ, sở GDĐT, sở KHCN, sở kế hoạch và đầu tư, liên hiệp các hội

khoa học và kỹ thuật và giao cho một phó chủ tịch tỉnh chịu trách nhiệm chỉ

đạo thực hiện. Hàng năm, bộ phận này trực tiếp đến các cơ sở GDĐT (các

trường đại học, học viện…) làm việc và nắm danh sách những sinh viên có

thành tích xuất sắc để động viên họ sẵn sàng về công tác tại địa phương.

Những sinh viên này cần được bố trí việc làm ngay sau khi ra trường phù hợp

với chuyên môn hoặc cử đi đào tạo thêm. Đối với sinh viên còn tiếp tục học

đại học một thời gian nữa thì hỗ trợ học phí, ăn ở với điều kiện sau khi tốt

nghiệp ra trường về Tây Nguyên công tác. Nếu được xếp loại xuất sắc, giỏi sẽ

được thưởng.

Thực tế, hàng năm có nhiều học sinh ở các tỉnh Tây Nguyên đạt nhiều

giải thưởng, thành tích cao trong các kỳ thi quốc gia và được tuyển thẳng vào

các trường đại học, học viện có uy tín, chất lượng trong cả nước. Nhưng trong

và sau quá trình đào tạo, hầu hết các em không được hỗ trợ, quan tâm từ địa

phương mà phải tự mình bươn chải, tìm việc mưu sinh dẫn đến sự mòn mỏi,

thui chột tri thức và niềm tin. Do đó, đối với những em này sau khi ra trường

nếu kết quả học tập đạt xuất sắc, giỏi thì các tỉnh chủ động mời các em về địa

phương công tác và sắp xếp một vị trí, công việc phù hợp với chuyên môn.

Thứ hai, cụ thể hoá tiêu chuẩn tuyển dụng; bố trí, sử dụng cán bộ theo

hướng công khai, dân chủ, minh bạch và bình đẳng.

Trên cơ sở quy định, hướng dẫn về công tác cán bộ của Đảng và Nhà

nước, các tỉnh cần xây dựng kế hoạch, tiêu chuẩn cụ thể, áp dụng phù hợp với

từng vị trí tuyển dụng đối với cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể và đơn vị sự

nghiệp. Tránh tiêu chuẩn chung chung không chọn được người tài, dễ nảy

sinh tiêu cực, làm giảm niềm tin và sự phấn đấu của trí thức.

142

Để thực hiện việc này, tỉnh uỷ và uỷ ban nhân dân tỉnh giao cho ban tổ

chức tỉnh uỷ và sở nội vụ phối hợp với nhau để đảm bảo tính khả thi, khách

quan. Trong quá trình xây dựng bộ tiêu chuẩn cần có sự tham gia đóng góp,

tư vấn, phản biện của các nhà khoa học, chuyên môn cũng như lấy ý kiến

đóng góp rộng rãi của xã hội.

Việc xây dựng bộ tiêu chuẩn cần coi trọng sự thống nhất và đồng bộ

giữa các yếu tố và yêu cầu: Trình độ học vấn, kiến thức chuyên môn, nhận

thức chính trị; mức độ thành thạo trong việc sử dụng tin học, ngoại ngữ; kinh

nghiệm thực tiễn và kỹ năng trong việc thực hiện công việc phù hợp với vị trí

tuyển dụng; thành tích đạt được; chính sách ưu tiên, ưu đãi đối người có bằng

tiến sĩ, thạc sĩ, người có công, người DTTS và vùng sâu, vùng xa….

Trên cơ sở xác định đầy đủ các tiêu chuẩn, tiến hành xây dựng, sắp xếp

theo thứ tự thang, bảng đo cụ thể cho từng tiêu chí. Chẳng hạn cùng trình độ

thì người có bằng xuất sắc sẽ được điểm cao hơn bằng giỏi, bằng giỏi cao hơn

bằng khá. Nếu cùng xếp loại xuất sắc, giỏi hay khá thì chọn người có điểm

tổng kết các môn học cao hơn… Trên cơ sở chỉ tiêu tuyển dụng và số người

đăng kí tuyển dụng sẽ lấy từ cao xuống đến hết chỉ tiêu. Hạn chế việc thi

tuyển mà chỉ nên thực hiện việc xét tuyển. Việc thi tuyển chỉ thực hiện trong

những trường hợp cần tuyển dụng vào những vị trí việc làm đặc thù.

Để đảm bảo việc xét tuyển được minh bạch, công bằng và khách quan,

tránh những tiêu cực trong quá trình xét tuyển, trước hết cần công khai số

lượng tuyển dụng, chỉ tiêu cho từng vị trí tuyển dụng và công bố công khai tại

trụ sở cơ quan, trên báo địa phương và website của uỷ ban nhân dân tỉnh, sở

nội vụ và các cơ quan, đơn vị có chỉ tiêu tuyển dụng ít nhất hai tháng trước

ngày thực hiện xét tuyển. Kết quả xét tuyển phải được công khai ngay khi kết

thúc quá trình xét tuyển, không được kéo dài thời gian công bố. Đồng thời

tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo cũng được thực hiện trong vòng một tháng

kể từ ngày công bố kết quả. Hồ sơ xét tuyển được tập hợp về một đầu mối và

những người tham gia kỳ xét tuyển (cả người trúng tuyển và không trúng

tuyển) có thể tra cứu công khai.

143

Đối với những người đạt các kết quả cao trong các kỳ thi quốc gia,

quốc tế, có những phát minh, sáng kiến đã được triển khai có hiệu quả và

được xã hội thừa nhận mà tỉnh có nhu cầu thì bố trí ngay việc làm mà không

cần qua xét tuyển hoặc thi tuyển.

Cách làm như trên sẽ lựa chọn và thu hút được người tài, người có năng

lực; tạo được sự đồng tình của dư luận, đồng thời hạn chế được các hiện

tượng tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình tuyển dụng.

Sau khi tuyển dụng cần bố trí đúng với chuyên môn, năng lực, sở

trường, nguyện vọng và vị trí công tác để họ có thể phát huy khả năng cống

hiến, cũng như tạo động lực cho họ yên tâm công tác. Hạn chế tối đa việc bố

trí không phù hợp với chuyên môn, sở trường dẫn đến triệt tiêu sức sáng tạo

và động lực phấn đấu. Giao cho người được tuyển dụng những công việc cụ

thể để làm cơ sở khách quan cho việc đánh giá họ.

Để có cơ sở khách quan cho việc đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ

cũng cần có bộ tiêu chí đánh giá. Cũng giống như bộ tiêu chí tuyển dụng, bộ

tiêu chí này cũng cần được cụ thể cho từng nội dung, vấn đề trên cơ sở căn cứ

Nghị định 56/2015/NĐ-CP của Chính phủ về đánh giá và phân loại cán bộ,

công chức và viên chức cũng như đề án vị trí, việc làm. Đồng thời lấy kết quả

hoàn thành nhiệm vụ để xét thi đua, khen thưởng. Hạn chế việc thực hiện bình

bầu mang tính chủ quan dễ dẫn đến triệt tiêu động lực phấn đấu và nảy sinh

tâm lý chán nản. Việc bình bầu chỉ nên được thực hiện khi những người có số

điểm đánh giá như nhau nhưng do bị hạn chế về số lượng khen thưởng.

Thực hiện đúng quy định của Trung ương về công tác quy hoạch, bổ

nhiệm cán bộ; tránh bổ nhiệm người thiếu phẩm chất, năng lực.

Thứ ba, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và xây dựng quy chế

tôn vinh những đóng góp của đội ngũ trí thức.

Nếu như năng lực trí tuệ và khả năng sáng tạo là điều kiện cần thì cơ sở

vật chất, trang thiết bị kỹ thuật là một thành tố quan trọng cấu thành điều kiện

đủ để trí thức có thể hiện thực hoá được tiềm năng của mình.

144

Do đó cần tiếp tục tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện kỹ

thuật theo hướng hiện đại, trực tiếp phục vụ sự nghiệp GDĐT, nghiên

cứu, ứng dụng khoa học, chuyển giao công nghệ. Trước mắt do nguồn lực

đầu tư cho KHCN còn hạn hẹp, nên ưu tiên đầu tư cho các trường đại học,

các viện và trung tâm nghiên cứu hiện đang đóng trên địa bàn các tỉnh

Tây Nguyên như: Đại học Tây Nguyên, Đại Học Đà Lạt; Viện Vệ sinh

Dịch tễ Tây Nguyên, Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt, Viện Khoa học

nông lâm nghiệp Tây Nguyên; Trung tâm giống cây trồng vật nuôi; Trung

tâm thông tin KHCN, v.v… Việc tập trung đầu tư cho các đơn vị này

không chỉ tránh được sự dàn trải về nguồn vốn đầu tư mà còn nhằm tạo ra

sự biến đổi có tính đột phá ở những khâu trọng yếu và nhạy cảm của quá

trình phát triển ĐNTT.

Trước mắt, trên cơ sở Quyết định 58/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng

Chính phủ về quy định tiêu chuẩn, định mức, chế độ quản lý, sử dụng máy

móc, thiết bị của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị sự nghiệp công lập, các

cơ quan, đơn vị cần rà soát, kiểm tra lại các trang thiết bị hiện có và những

trang thiết bị đã hư hỏng, lạc hậu để thay thế, trang bị mới nhằm đảm bảo điều

kiện tốt nhất cho công việc, hoạt động của trí thức.

Xây dựng quy chế về tôn vinh, khen thưởng trí thức có những đóng

góp, cống hiến cho sự nghiệp GDĐT, KHCN và sự phát triển.

Quy chế là hành lang pháp lý và cơ sở để thực hiện việc tôn vinh trí

thức. Vì vậy, quy chế xây dựng vừa phải bảo đảm tính pháp lý, tính khoa học,

chặt chẽ và tính khả thi trong thực tiễn. Trong đó xác định rõ: Mục đích,

nguyên tắc, điều kiện và tiêu chuẩn xét chọn. Cụ thể:

Về mục đích: Nhằm ghi nhận công lao, đóng góp của trí thức đối với sự

nghiệp GDĐT và KHCN cũng như sự phát triển của các tỉnh, viện, trường;

thông qua việc tôn vinh, góp phần động viên, khích lệ ĐNTT phát huy tốt hơn

trí tuệ sáng tạo của mình.

145

Về nguyên tắc: Việc tôn vinh trí thức đảm bảo nguyên tắc đúng pháp

luật, chính xác, công khai, khách quan, minh bạch trên cơ sở đánh giá đúng

những phát minh, sáng tạo của trí thức được tôn vinh thông qua hiệu quả kinh

tế, xã hội mang lại.

Về điều kiện: Trí thức được xét tôn vinh đảm bảo chấp hành tốt các chủ

trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt các

nhiệm vụ được giao, tích cực tham gia đóng góp cho sự phát triển của tỉnh,

viện, trường kể cả trí thức đang sống, công tác ngoài các tỉnh Tây Nguyên.

Về tiêu chuẩn: Trí thức có sáng kiến, phát minh, giải pháp kỹ thuật đạt

giải hoặc đã được áp dụng và mang lại hiệu quả cho Tây Nguyên được cấp có

thẩm quyền hoặc được xã hội công nhận.

Thứ tư, bổ sung, hoàn thiện quy chế hoạt động của liên hiệp các hội

khoa học, kĩ thuật các tỉnh trên cơ sở Chỉ thị số 42-CT/TW năm 2010 của Bộ

Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của

Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh

CNH, HĐH đất nước; Nghị định số 45/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định

về tổ chức, hoạt động và quản lý hội; Điều lệ của Liên hiệp các Hội Khoa học

và Kỹ thuật Việt Nam khoá VII.

Đầu tư xây dựng, nâng cấp trụ sở làm việc và tăng cường trang thiết bị

kỹ thuật hiện đại đảm bảo hoạt động cũng như xây dựng quy chế phối hợp

hoạt động của liên hiệp các hội với các hội thành viên, tạo ra sự yên tâm công

tác, làm cầu nối giữa trí thức các lĩnh vực, ngành nghề với nhau.

Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng các giải thưởng, hội thi sáng

tạo như giải thưởng KHCN; Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật,v.v… nhằm thu hút

ngày càng đông đảo hơn sự tham gia của ĐNTT các tỉnh Tây Nguyên, để họ

thực sự xem đây là sân chơi bổ ích về KHCN cũng như là cầu nối giữa các trí

thức với nhau.

Xây dựng quy chế phối hợp công tác giữa liên hiệp các hội khoa học kỹ

thuật cũng như của các hội thành viên của 5 tỉnh Tây Nguyên nhằm thực hiện

146

tư vấn, phản biện và giám định xã hội các vấn đề chung liên quan đến các tỉnh

cũng như hỗ trợ nhau trong NCKH, nhất là những vấn đề: Liên kết vùng trong

phát triển bền vững Tây Nguyên, nguồn nhân lực chất lượng cao, áp dụng

KHCN vào hoạt động lãnh đạo, quản lý, sản xuất và đời sống.

Kết luận chương 4

Phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên là một quá trình lâu dài, gắn bó chặt

chẽ với quá trình phát triển KT-XH và CNH, HĐH. Vì vậy cần phải bảo đảm

định hướng trong quá trình phát triển. Những quan điểm chỉ đạo chính là một

trong những cơ sở đảm bảo định hướng đó. Việc nhận thức đầy đủ các quan

điểm không chỉ giúp việc phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên đạt được mục tiêu

đề ra mà còn đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với

công tác phát triển đội ngũ này.

Các giải pháp tiếp tục phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên thời kỳ đẩy

mạnh CNH, HĐH được xây dựng trên cơ sở lý luận, thực tiễn, các quan điểm

chỉ đạo của Đảng, cùng với thực trạng và vấn đề đặt ra trong quá trình phát

triển đội ngũ này thời gian qua. Thế nên các giải pháp phát triển ĐNTT ở Tây

Nguyên mang tính hệ thống, có sự liên kết, gắn bó chặt chẽ với nhau, tác

động qua lại lẫn nhau. Vì vậy, cần thực hiện đầy đủ và đồng bộ các giải pháp

thì việc xây dựng đội ngũ này mới đạt được nhiều kết quả, qua đó góp phần

thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển KT-XH Tây Nguyên.

147

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

KẾT LUẬN

Vấn đề trí thức và phát triển ĐNTT được đề cập khá nhiều trong các

công trình khoa học trong và ngoài nước. Tuy thế, không có nghĩa là tính thời

sự của nó mất đi, ngược lại đây vẫn là một trong những chủ đề thu hút được

nhiều sự quan tâm hiện nay, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học

công nghiệp lần thứ tư và KTTT đang diễn ra mạnh mẽ và trở thành một xu

thế tất yếu không thể đảo ngược. Thế nên, việc nghiên cứu về nó mang ý

nghĩa lý luận và thực tiễn cao.

Tây Nguyên là vùng đất giàu tiềm năng cho sự phát triển KT-XH và có

vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, do

những nguyên nhân khách quan và chủ quan, hiện tại vẫn còn là vùng nghèo

so với nhiều vùng khác trong cả nước. Bởi vậy, đẩy mạnh CNH, HĐH để đưa

Tây Nguyên vươn lên thoát khỏi cảnh đói nghèo, lạc hậu, trở thành một vùng

giàu về kinh tế, vững về chính trị, mạnh về quốc phòng an ninh chẳng những

là tất yếu khách quan mà còn là vấn đề cấp bách hiện nay. Tuy nhiên, để có

thể khai thác các tiềm năng, lợi thế, tránh huỷ hoại nguồn tài nguyên thì trước

hết cần phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, những người có trình độ, am

hiểu Tây Nguyên, mà tiêu biểu là ĐNTT. Do đó, phát triển ĐNTT đã trở

thành yêu cầu bức bách và là khâu đột phá trong chiến lược phát triển KT-XH

Tây Nguyên.

Để có cơ sở đánh giá sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên, luận án đã

xây dựng khung lý thuyết cho việc nghiên cứu sự phát triển đội ngũ này.

Trong đó đưa ra quan niệm về phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên, về CNH,

HĐH Tây Nguyên và mối quan hệ giữa phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên với

sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH. Làm rõ những yếu tố cơ bản tác động đến

sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên.

148

Trên cơ sở đó, luận án đi vào đánh giá thực trạng phát triển ĐNTT ở

Tây Nguyên về mặt số lượng, cơ cấu, chất lượng và chính sách đối với sự

phát triển đội ngũ này, từ đó nêu ra những bất cập trong sự phát triển ĐNTT ở

Tây Nguyên và đề xuất một số quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu nhằm

tiếp tục phát triển đội ngũ này thời gian tới.

KIẾN NGHỊ

Qua việc đánh giá thực trạng phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên thời gian

qua và nhằm tiếp tục phát triển đội ngũ này trong thời gian tới, chúng tôi có

một số kiến nghị đến các cơ quan có thẩm quyền như sau:

Thứ nhất, Đảng và Nhà nước quan tâm hơn và có chính sách khuyến

khích thoả đáng, đúng lúc với những người tiêu biểu trong các DTTS, đặc biệt

là những người có uy tín được nhân dân tôn vinh trong số các già làng. Đó là

những người tích luỹ nhiều kinh nghiệm trong thực tiễn sản xuất và đời sống,

đang đóng vai trò là người hướng dẫn đồng bào trong trồng trọt, chăn nuôi,

trồng và giữ rừng, giữ gìn, sáng tạo và quảng bá các giá trị văn hoá dân tộc.

Có hình thức thích hợp bồi dưỡng đối tượng này về tri thức khoa học, giúp đỡ

họ về tài chính và phương tiện vật chất khác để họ hoàn thành những thực

nghiệm mang tính sáng tạo có ích cho sản xuất và đời sống.

Nên từ thực tế mà đề xuất một số danh vị cho những người này, chẳng

hạn như danh vị trí thức dân gian (giống như nghệ nhân dân gian). Xây dựng

tiêu chí xét tặng danh vị đó để tránh sự xô bồ làm mất ý nghĩa các danh vị được

trao tặng. Theo chúng tôi trong các tiêu chí đó cần nhấn mạnh: Thứ nhất, sử

dụng thành thạo tiếng phổ thông và tiếng mẹ đẻ; Thứ hai, đã có những sáng tạo

trong việc phục vụ sản xuất hoặc trong lĩnh vực văn hoá, tinh thần được chính

quyền cấp tỉnh công nhận; Thứ ba, tham gia lưu giữ, truyền bá tri thức vào

cộng đồng các dân tộc; Thứ tư, được nhân dân ở nơi cư trú tín nhiệm, tôn vinh.

Cần nhìn vấn đề trên ở góc độ chính sách dân tộc, vừa khuyến khích,

nâng đỡ đồng bào các DTTS tự tin ở mình để vươn lên, vừa phản bác có

149

hiệu quả các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch nói rằng người

Kinh “dạy dỗ” người DTTS làm trí thức theo lối áp đặt, “đồng hoá cưỡng

bức”. Điều đó còn có tác dụng nhắc nhở những cán bộ người dân tộc đa số ở

Tây Nguyên khắc phục như nhà văn Nguyên Ngọc đã cảnh báo “Rất nhiều

những người đang định đến đấy để làm thay họ, với những ý định có thể là

tốt lành đấy nhưng vẫn tiềm ẩn một thứ tâm lý dân tộc lớn mà chính mình có

khi không nhận ra” [73]. Làm được những điều này hy vọng sẽ khuyến

khích được tinh thần hưng phấn suy nghĩ, tìm tòi của đồng bào các DTTS,

nhất là lớp trẻ.

Thứ hai, Trung ương cần xem xét xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù

trong công tác đào tạo, bồi dưỡng con em các DTTS ở Tây Nguyên. Về lâu

dài cần nâng cấp Trường Cao đẳng nghề dân tộc nội trú Tây Nguyên thành

Trường dự bị Đại học dân tộc Tây Nguyên (giống như Trường dự bị Đại học

dân tộc Trung ương). Đối tượng đào tạo trước hết là con em các DTTS ở các

tỉnh Tây Nguyên và các vùng phụ cận.

Trước mắt, cần cử một số cán bộ người DTTS có phẩm chất, năng lực

đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ ở trong và ngoài nước để tạo nguồn

giảng viên. Cùng với quá trình đó, cần biên soạn bộ giáo trình đào tạo bằng

một số ngôn ngữ dân tộc như Êđê, Gia rai, M’Nông… phù hợp với điều kiện,

hoàn cảnh và trình độ nhận thức của con em các DTTS ở Tây Nguyên.

Thứ ba, Trung ương cần nghiên cứu, xem xét chỉ đạo các cơ quan chức

năng xây dựng chính sách khuyến khích, luân chuyển, biệt phái một số nhà

khoa học, chuyên gia có trình độ cao, “đầu đàn” lên các tỉnh miền núi nói

chung và Tây Nguyên nói riêng công tác trong một khoảng thời gian nhất

định, có thể từ 6 tháng đến 2 năm để hỗ trợ, đào tạo, bồi dưỡng, tư vấn cho

các tỉnh Tây Nguyên. Việc này được thực hiện trên cơ sở đề xuất của các tỉnh

và coi việc thực hiện nhiệm vụ này như một tiêu chí bắt buộc để xét phong

học hàm giáo sư, phó giáo sư cũng như các danh hiệu khác.

150

Thứ tư, các cấp có thẩm quyền cần xem xét, phối hợp xây dựng bộ tiêu

chí đánh giá trí thức trên cơ sở cụ thể hoá Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X).

Việc xây dựng các tiêu chí đánh giá cần cụ thể, khoa học, toàn diện và mang

tính thực tiễn cao trên cơ sở phẩm chất, năng lực, sự cống hiến của trí thức.

Việc xây dựng bộ tiêu chí không chỉ giúp đánh giá đúng trí thức và thể hiện

sự coi trọng đối với trí thức mà còn là cơ sở, căn cứ để nhận biết trí thức.

Thứ năm, thành lập trung tâm phát triển nhân lực chất lượng cao trực

thuộc uỷ ban nhân dân tỉnh do một phó chủ tịch tỉnh đứng đầu và gồm một số

thành viên của những sở, ngành liên quan để tránh tăng thêm biên chế. Mục

đích của trung tâm này là tham mưu, đề xuất cho tỉnh những chính sách, giải

pháp phát triển, phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời thống

nhất quản lý nguồn lực này trên địa bàn toàn tỉnh. Nhiệm vụ của trung tâm là

tìm kiếm, đào tạo thu hút nhân tài từ các nơi về địa phương công tác; xây

dựng chính sách nhằm phát huy hiệu quả việc sử dụng nguồn lực này; phối

hợp với các ban, ngành, đơn vị liên quan giải quyết, tháo gỡ những khó khăn

trong việc thực hiện chính sách đối với nguồn nhân lực chất lượng cao. Việc

thành lập trung tâm không chỉ nhằm đảm bảo sự thống nhất trong quản lý

nguồn nhân lực chất lượng cao, tránh lãng phí, sử dụng không hiệu quả, mà

còn thể hiện tính chuyên nghiệp trong công tác tổ chức, cũng như sự trân

trọng, tôn vinh đối với trí thức. Trước mắt, trong khi chờ đợi thành lập trung

tâm thì nhiệm vụ này được giao cho liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật.

Thứ sáu, rà soát, sửa đổi, bổ sung Nghị định 45/2010/NĐ-CP, ngày

21/4/2010 "Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý Hội" và Quyết định số

68/2010/QĐ-TTg, ngày 01/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ về "Quy định

Hội có tính chất đặc thù" cho phù hợp với Nghị quyết 27-NQ/TW của Ban

Chấp hành Trung ương và Chỉ thị 42-CT/TW của Bộ Chính trị.

151

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ

CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Lương Hữu Nam (2016), “Thực trạng đội ngũ trí thức tỉnh Lâm Đồng và

một số giải pháp phát triển phát huy vai trò của trí thức”, Tạp chí

Sinh hoạt Lý luận, (01), (134), tr.72-77.

2. Lương Hữu Nam (2016), “Nhận diện từ thực tiễn đội ngũ trí thức ở Tây

Nguyên hiện nay”, Tạp chí Sinh hoạt Lý luận, (08), (141), tr.62-66.

3. Lương Hữu Nam (2017), “Thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao ở

Tây Nguyên và những vấn đề đặt ra”, Kỷ yếu hội thảo khoa học cấp

quốc gia năm 2016 về phát triển kinh tế-xã hội vùng Tây Nguyên,

Nxb Nông nghiệp, tr.241-245.

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Đức Bách (2015), Báo cáo kết quả đề tài khoa học công nghệ:

Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đào tạo nguồn và sử dụng hiệu

quả nhân lực trí thức DTTS tại chỗ tỉnh Đắk Lắk, Viện Khoa học

Môi trường và Xã hội, Hà Nội.

2. Ban Chấp hành Trung ương (2002), Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính

trị về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh

vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010, Hà Nội.

3. Ban Chấp hành Trung ương (2011), Kết luận số 12-KL/TW của Bộ

Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ

Chính trị (Khoá IX) phát triển vùng Tây Nguyên thời kỳ 2011-

2020, Hà Nội.

4. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2011), Báo cáo tổng kết Nghị quyết 10-

NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển KT-XH và bảo đảm quốc

phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010, Hà Nội.

5. Báo điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam (2014), Đào tạo Đại học - Cao

đẳng ở Tây Nguyên: Sinh viên tốt nghiệp và… thất nghiệp (bài 1),

tại trang http://vov.vn, [truy cập ngày 30/8/2016].

6. Nguyễn Khánh Bật, Trần Thị Huyền (2012), Xây dựng ĐNTT thời kỳ đẩy

mạnh CNH, HĐH theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị

quyết 10-NQ/TW về phát triển KT-XH vùng Tây Nguyên, Hà Nội.

8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Thông báo số 1394/TB-BGDĐT kết luận

tại Hội nghị các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên

nghiệp và dạy nghề về công tác đào tạo nguồn nhân lực cho Tây

Nguyên, Hà Nội.

153

9. Bộ Giao thông Vận tải (2010), Báo cáo số 4478/BC-BGTVT tổng kết 10

năm thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW về phát triển KT-XH vùng

Tây Nguyên, Hà Nội.

10. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2010), Báo cáo kết quả thực hiện

Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội vùng

Tây Nguyên và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng Tây Nguyên

thời kỳ 2001-2010, Hà Nội.

11. Bộ Nội vụ (2010), Báo cáo số 42/BC-BNV về kết quả triển khai thực

hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội

vùng Tây Nguyên và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng Tây

Nguyên thời kỳ 2001-2010, Hà Nội.

12. Bộ Y tế (2010), Báo cáo số 667/BC-BYT về tình hình y tế Tây Nguyên,

Hà Nội.

13. C.Mác, Ph.Ăngghen (1983), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội, tr.47.

14. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

15. C.Mác, Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

16. Trịnh Quang Cảnh (2002), Trí thức người DTTS ở Việt Nam trong công

cuộc đổi mới, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

17. Chính phủ (2003), Quyết định số 253/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ

về việc phê duyệt đề án một số giải pháp củng cố, kiện toàn chính

quyền cơ sở vùng Tây Nguyên giai đoạn 2002-2010, Hà Nội.

18. Chính phủ (2004), Chỉ thị số 45/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về

tăng cường thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục phát triển

vùng Tây Nguyên toàn diện, bền vững, Hà Nội.

19. Chính phủ (2004), Chỉ thị số16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về

đấu tranh xoá bỏ tổ chức phản động FULRO đang nhen nhóm

phục hồi trên một số địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, Hà Nội.

154

20. Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (2016), Báo cáo phát triển con

người Việt Nam 2015, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

21. Cục Thống kê tỉnh Đắk Lắk (2011), Niên giám thống kê 2010, Đắk Lắk.

22. Cục Thống kê tỉnh Đắk Lắk (2016), Niên giám thống kê 2015, Đắk Lắk.

23. Cục Thống kê tỉnh Đắk Nông (2011), Niên giám thống kê 2010, Đắk Nông.

24. Cục Thống kê tỉnh Đắk Nông (2016), Niên giám thống kê 2015, Đắk Nông.

25. Cục Thống kê tỉnh Gia Lai (2011), Niên giám thống kê 2010, Gia Lai.

26. Cục Thống kê tỉnh Gia Lai (2016), Niên giám thống kê 2015, Gia Lai.

27. Cục Thống kê tỉnh Kon Tum (2011), Niên giám thống kê 2010, Kon Tum.

28. Cục Thống kê tỉnh Kon Tum (2016), Niên giám thống kê 2015, Kon Tum.

29. Cục Thống kê tỉnh Lâm Đồng (2010), Tổng điều tra dân số và nhà ở tỉnh

Lâm Đồng 2009, Lâm Đồng.

30. Cục Thống kê tỉnh Lâm Đồng (2011), Niên giám thống kê 2010, Lâm Đồng.

31. Cục Thống kê tỉnh Lâm Đồng (2016), Niên giám thống kê 2015, Lâm Đồng.

32. Trương Xuân Cừ (2013), Phát triển đội ngũ trí thức vùng Tây Bắc - Cần quan

tâm tới chính sách, địa chỉ truy cập baotintuc.vn, [truy cập ngày

25/5/2017].

33. Phạm Tất Dong (1994), Luận cứ khoa học cho các chính sách nhằm phát

huy năng lực sáng tạo của giới trí thức và sinh viên, Chương trình

KX04, Đề tài KX04-06, Hà Nội.

34. Trương Minh Dục (2014), "Xây dựng đội ngũ trí thức các tộc người ở Tây

Nguyên thời kỳ đổi mới", Tạp chí Lịch sử Đảng, (10), tr.78-83.

35. Phạm Thị Thu Dung (2014), Kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung

ương 7 (Khóa X) về xây dựng ĐNTT ở tỉnh Gia Lai, Thông tin

Tuyên giáo Gia Lai, tại trang http://www.thongtintuyengiaogialai.vn,

[truy cập ngày 17/10/2015].

36. Nguyễn Thành Dũng (2012), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ

chốt cấp huyện ở các tỉnh Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay,

Luận án Tiến sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành

chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

155

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.

39. Đảng cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 BCHTW

khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết Trung ương 7 khoá X về

xây dựng ĐNTT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm

2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Đảng uỷ Công an Trung ương (2010), Báo cáo tổng kết 10 năm thực

hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội

vùng Tây Nguyên và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây

Nguyên thời kỳ 2001-2010, Hà Nội.

44. Trần Đương (2007), Bác Hồ với nhân sĩ, trí thức, Nxb Thông tấn, Hà Nội.

45. Đinh Ngọc Giang (2014), "Thu hút và trọng dụng nhân tài trong giai

đoạn hiện nay", Tạp chí Lý luận Chính trị, (4).

46. Nguyễn Thị Thanh Hà (2014), ĐNTT giáo dục đại học Việt Nam trong

đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

47. Trần Sơn Hải (2011), Phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch khu vực

duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, Luận án Tiến sĩ Quản lý

hành chính công, Học viện Hành chính, Hà Nội.

156

48. Trương Thị Hạnh (2016), “Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội

vùng Tây Nguyên: Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Hội thảo

Đào tạo đại học với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở

vùng Tây Nguyên hiện nay, Viện Khoa học xã hội vùng Tây

Nguyên, Đắk Lắk, tr.204-210.

49. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

50. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

51. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

52. Trần Phương Hoa (2016), Vài nét về vai trò trí thức - quan điểm từ châu

Âu, tại trang http://www.chungta.com, [truy cập ngày 19/7/2016].

53. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn

khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2003), Giáo trình

Triết học Mác-Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

54. Trần Việt Hùng (2012), "Phát huy vai trò của cán bộ người DTTS trong

phát triển KT-XH kết hợp với an ninh quốc phòng ở khu vực Tây

Nguyên", Hội thảo Quốc tế: Cơ chế đảm bảo quyền con người cho

các dân tộc thiểu số ở Việt Nam và kinh nghiệm ở các nước khu

vực Đông Nam Á.

55. Nguyễn Đắc Hưng (2008), Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

56. Nguyễn Thành Huy (2008), Xây dựng ĐNTT Việt Nam: Kinh nghiệm

của Phần Lan, tại trang http://tiasang.com.vn, [truy cập ngày

15/10/2015].

57. Jacques Dournes (2014), Pơ tao, một lý thuyết về quyền lực ở người

Jarai Đông Dương (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Tri thức, Hà Nội.

58. Nguyễn Văn Khánh (chủ biên) (2012), Nguồn lực trí tuệ Việt Nam, lịch

sử, hiện trạng và triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

59. Vũ Khiêu (2014), Trí thức Việt Nam thời xưa, Nxb Thuận Hoá, Huế.

60. Lê Văn Khoa, Phạm Quang Tú (đồng chủ biên) (2014), Hướng tới phát

triển bền vững Tây Nguyên, Nxb Tri thức, Hà Nội.

157

61. Phan Thanh Khôi (1992), Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo

ở nước ta hiện nay, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Triết học, Học

viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội.

62. Bùi Thị Ngọc Lan (2000), Phát huy nguồn lực trí tuệ trong công cuộc

đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện

Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

63. Bùi Thị Ngọc Lan (2017), “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và một số

vấn đề đặt ra với Việt Nam”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (01),

tr.30-33.

64. Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Gia Lai (2012), Báo cáo đánh

giá 5 năm triển khai Nghị quyết số 27-NQ/TW (khóa X) về xây

dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước, Gia Lai.

65. Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Gia Lai (2014), Thông tin về

nguồn nhân lực trình độ cao ở tỉnh Gia Lai, Gia Lai.

66. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Kon Tum (2013), Báo cáo về

nguồn nhân lực và chính sách khoa học và công nghệ trên địa bàn

tỉnh, Kon Tum.

67. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Lâm Đồng (2013), Báo cáo kết

quả nghiên cứu đề tài nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải

pháp xây dựng ĐNTT tỉnh Lâm Đồng, Lâm Đồng.

68. Nguyễn Võ Linh (2010), Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân

lực phục vụ phát triển KT-XH tỉnh Đắk Nông đến năm 2020, Viện

Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, Hà Nội.

69. Nguyễn Tiến Lực (2014), Đào tạo nguồn nhân lực ở Nhật Bản, bài học

cho Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

70. Lê Công Lương (2016), Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ khoa

học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

158

71. Hà Minh (2008), Chính sách thu hút nhân tài của Singapore: Bài bản và

chuyên nghiệp, tại trang http://dantri.com.vn, [truy cập ngày

22/7/2016].

72. Lê Hữu Nghĩa (chủ biên) (2001), Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán

bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện người các dân tộc ở Tây Nguyên,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

73. Nguyên Ngọc (2007), "Một lớp trí thức mới của Tây Nguyên, hoàn toàn

là hiện thực", Tạp chí Tia Sáng, tại trang http://tiasang.com.vn,

[truy cập ngày 17/10/2015].

74. Nhà xuất bản Thuận Hoá (1998), Từ điển Tiếng Việt, Huế.

75. Nhà xuất bản Tiến bộ (1986), Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học,

Mátxcơva.

76. Nhà xuất bản Tiến bộ (1986), Từ điển Triết học, Mátxcơva.

77. Nhà xuất bản Từ điển (2005), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 4, Hà Nội.

78. Nhiều tác giả (2009), Về trí thức Nga, Nxb Tri thức, Hà Nội.

79. Nguyễn An Ninh (2008), Phát huy tiềm năng trí thức khoa học xã hội

Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

80. Phùng Hữu Phú (2015), Xây dựng ĐNTT trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,

tại trang http://dangcongsan.vn, [truy cập ngày 10/10/2015].

81. Lê Văn Phục (2014), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong

quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Đà Nẵng,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

82. Lê Quang Quý (2005), Xây dựng ĐNTT ngành kiến trúc trong công cuộc

đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

83. Phạm S (2014), Nông nghiệp công nghệ cao tạo bước đột phát góp phần

phát triển kinh tế - xã hội Lâm Đồng nhanh và bền vững, Thông

tin khoa học công nghệ tỉnh Lâm Đồng, (3), 2014.

159

84. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đắk Lắk (2016), “Phát triển xã hội và

quản lý phát triển xã hội vùng Tây Nguyên: Những vấn đề lý luận và

thực tiễn”, Phát triển và đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ đổi

mới, Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên, Đắk Lắk tr.195-203.

85. Đỗ Thị Thạch (1999), Trí thức nữ Việt Nam trong công cuộc đổi mới

hiện nay - tiềm năng và phương hướng xây dựng, Luận án Tiến sĩ

Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

86. Bùi Tất Thắng (2016), “Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội vùng

Tây Nguyên: Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Hội thảo Phát

triển và đào tạo nguồn nhân lực vùng Tây Nguyên trong thời kỳ đổi

mới, Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên, Đắk Lắk, tr.182-194.

87. Cao Văn Thông, Đỗ Xuân Tuất (2015), Chiến lược phát triển nhân tài

của Việt Nam hiện nay, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.

88. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định 579/QĐ-TTG phê duyệt

Chiến lược triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020, Hà Nội.

89. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định 1216 /QĐ-TTG phê duyệt

Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020,

Hà Nội.

90. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định 936/QĐ-TTg phê duyệt Quy

hoạch tổng thể phát triển KT-XH vùng Tây Nguyên đến năm 2020,

Hà Nội.

91. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định phê duyệt quy hoạch xây dựng

vùng Tây Nguyên đến năm 2030, Hà Nội.

92. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định 276/QĐ-TTG về việc Kế hoạch

triển khai thực hiện Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị về

tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị

(Khoá IX) phát triển vùng Tây Nguyên thời kỳ 2011-2020, Hà Nội.

93. Tỉnh uỷ Đắk Lắk (2012), Báo cáo số 219-BC/TU tự kiểm tra việc lãnh đạo,

chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành

Trung ương Đảng (khóa X) về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời

kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đắk Lắk.

160

94. Tỉnh uỷ Lâm Đồng (2008), Chương trình hành động thực hiện Nghị

quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về

xây dựng ĐNTT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, Lâm Đồng.

95. Tổng cục Thống kê (2014), Niên giám thống kê 2013, Nxb Thống kê,

Hà Nội.

96. Tổng cục Thống kê (2016), Niên giám thống kê 2015, Nxb Thống kê,

Hà Nội.

97. Nguyễn Công Trí (2012), Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế tri

thức, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

98. Nguyễn Tuấn Triết (2003), Tây Nguyên cuối thế kỷ XX vấn đề dân cư và

nguồn nhân lực, Nxb Khoa học xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh.

99. Phạm Thế Trịnh (2015), “Giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực

trí thức tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020”, Hội thảo Những đóng góp

của ĐNTT Đắk Lắk trong 30 năm đổi mới, Liên hiệp các hội khoa

học và kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk, tr.20-31.

100. Trương Trổ (2013), Báo cáo kết quả nghiên cứu thực trạng và đề xuất

các giải pháp xây dựng ĐNTT tỉnh Lâm Đồng, đề tài khoa học cấp

tỉnh, Lâm Đồng.

101. Trịnh Quốc Tuấn (1995), Quan điểm và chính sách của V.I.Lênin đối với

trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Nghiên cứu Lý

luận, (4), tr.7-10.

102. Trương Văn Tuấn (2014), Xây dựng đội ngũ trí thức tại thành phố Hồ

Chí Minh trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí

Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

103. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2011), Báo cáo Quy hoạch phát triển

nhân lực tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk.

161

104. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông (2011), Báo cáo Quy hoạch phát triển

nhân lực tỉnh Đắk Nông, Đắk Nông.

105. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông (2011), Quy hoạch phát triển nguồn

nhân lực tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2011 - 2020, Đắk Nông.

106. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Gia Lai (2011), Quy hoạch phát triển nhân lực

tỉnh Gia Lai giai đoạn 2011 - 2020, Gia Lai.

107. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Kon Tum (2011), Quy hoạch phát triển nguồn

nhân lực tỉnh Kon Tum, Kon Tum.

108. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Lâm Đồng (2012), Báo cáo tổng hợp quy hoạch phát

triển nhân lực tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2011-2020, Lâm Đồng.

109. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Lâm Đồng (2012), Quyết định 916/QĐ-UBND về

việc phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Lâm Đồng đến

năm 2020, Lâm Đồng.

110. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Lâm Đồng (2013), Báo cáo kết quả nghiên cứu đề

tài khoa học và công nghệ nghiên cứu thực trạng và đề xuất các

giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức tỉnh Lâm Đồng, Lâm Đồng.

111. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

112. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

113. Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên (2016), Kỷ yếu hội thảo phát

triển xã hội và quản lý phát triển xã hội vùng Tây Nguyên: Những

vấn đề lý luận và thực tiễn, Đắk Lắk.

114. Viện Ngôn ngữ học (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

115. Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

116. Đặng Văn Vũ (2011), Văn hoá và con người Tây Nguyên trong văn xuôi

nghệ thuật 1945 - 2000, Luận án Tiến sĩ văn học Việt Nam,

Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí

Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

117. Đàm Đức Vượng (2014), Thực trạng và giải pháp xây dựng đội ngũ trí

thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

162

118. Cao Thị Thanh Xuân (2015), Phát triển đội ngũ hiệu trường trường

trung học phổ thông các tỉnh bắc Tây Nguyên trong bối cảnh đổi

mới giáo dục, Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục, Viện Khoa học

Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

119. Trương Thị Bạch Yến (2014), Tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã

người dân tộc thiểu số các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay,

Luận án Tiến sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng đảng,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

120. Y Ghi Niê (2009), Đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp phát

huy trí tuệ của ĐNTT trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, đề tài khoa học

cấp tỉnh, Đắk Lắk.

121. Y Ngông Niê Kđăm (2006), Cuộc đời và trong lòng bạn bè, đồng

nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

163

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN

Nhằm đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp phát triển đội ngũ trí thức

ở Tây Nguyên, rất mong Ông/Bà cung cấp một số thông tin sau (bằng cách đánh

dấu x vào một trong các ô cho sẵn):

Giới tính: Nam Nữ

Tuổi:………..Dân tộc:……….

Trình độ học vấn: Trung cấp Cao đẳng Đại học

Thạc sĩ Tiến sĩ Khác

Trình độ lý luận chính trị: Sơ cấp Trung cấp Cao cấp

Cử nhân Khác

Lĩnh vực công tác: Đảng Chính quyền Mặt trận-Đoàn thể

Đơn vị sự nghiệp Doanh nghiệp Khác

1. Ông/Bà có quan tâm đến chính sách đối với trí thức không?

Có Không

2. Trình độ ngoại ngữ của Ông/Bà?

Chưa học Trình độ A Trình độ B

Trình độ C Cử nhân Khác:……….

3. Mức độ sử dụng ngoại ngữ của Ông/Bà như thế nào?

Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ

4. Trình độ tin học của Ông/Bà?

Chưa học Trình độ A Trình độ B

Trình độ C Cử nhân Khác:……….

5. Mức độ sử dụng tin học của Ông/Bà như thế nào?

Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ

6. Cơ sở vật chất phục vụ công việc của Ông/Bà như thế nào?

Rất tốt Tốt Bình thường Nghèo nàn

7. Môi trường công tác của Ông/Bà như thế nào?

Rất tốt Tốt Bình thường Khó phát triển

164

8. Khó khăn lớn nhất tác động tới sự phát triển của Ông/Bà là gì?

Lương thấp Môi trường công tác Cơ chế, chính sách

Cơ sở vật chất Khác:………………………………………..

9. Công việc hiện tại có phù hợp với chuyên ngành đào tạo của Ông/Bà không?

Phù hợp Tương đối Không phù hợp

10. Ông/Bà đã bao giờ viết bài nghiên cứu cho các tạp chí, sách, báo, hội thảo,

đề tài khoa học chưa?

Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ

11. Ông/Bà tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn nào không?

Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ

12. Ông/Bà hài lòng với vị trí công việc hiện nay không?

Rất hài lòng Hài lòng Không hài lòng

13. Ông/Bà đã bao giờ tham gia tư vấn, phản biện, giám định các chương trình,

đề tài, đề án… nào chưa?

Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ

14. Ông/Bà có tham gia các hoạt động đào tạo, truyền bá kiến thức cho cộng

đồng không?

Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ

15. Ông/Bà có muốn nâng cao trình độ, chuyên môn không?

Có Không Không cần thiết

16. Mức lương hiện nay làm cho Ông/Bà yên tâm công tác chưa?

Yên tâm Chưa yên tâm

17. Vị trí công tác của Ông/Bà đã tương xứng với cống hiến chưa?

Rất tương xứng Tương xứng Chưa tương xứng Khác

18. Theo Ông/Bà, đội ngũ trí thức của tỉnh hiện nay đã đáp ứng được yêu cầu

phát triển kinh tế-xã hội của địa phương chưa?

Đã đáp ứng Chưa đáp ứng Không biết

19. Ông/Bà cho biết chính sách đối với đội ngũ trí thức của tỉnh hiện nay?

Rất tốt Tốt Bình thường Chưa tốt Không rõ

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Ông/Bà

165

Phụ lục 2

BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ KHẢO SÁT ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN

Tổng số phiếu: 750 phiếu, trong đó: Nam: 472; Nữ: 278.

- Kon Tum: 134 phiếu. Nam: 85 Nữ: 49.

- Gia Lai: 165 phiếu. Nam: 103 Nữ: 62.

- Đắk Lắk: 159 phiếu. Nam: 98 Nữ: 61.

- Đắk Nông: 120 phiếu. Nam: 75 Nữ: 45.

- Lâm Đồng: 172 phiếu. Nam: 111 Nữ: 61.

Stt Nội dung/Tỉnh Kon tum Gia Lai Đắk Lắk Đắk Nông Lâm Đồng Tây Nguyên

1 Độ tuổi Số

phiếu Tỉ lệ

% Số

phiếu Tỉ lệ

% Số

phiếu Tỉ lệ

% Số

phiếu Tỉ lệ

% Số

phiếu Tỉ lệ

% Số

phiếu Tỉ lệ

%

Dưới 30 15 11,2 8 4,8 9 5,7 37 30,8 12 7,0 81 10,8

Từ 30 đến dưới 40 74 55,2 68 41,2 62 39,0 48 40,0 74 43,0 326 43,5

Từ 40 đến dưới 50 42 31,3 79 47,9 68 42,8 21 17,5 70 40,7 280 37,3

Trên 50 3 2,2 10 6,1 20 12,6 14 11,7 16 9,3 63 8,4

2 Dân tộc

Kinh 90 67,2 124 75,2 119 74,8 92 76,7 135 78,5 560 74,7

DTTS 44 32,8 41 24,8 40 25,2 28 23,3 37 21,5 190 25,3

166

3 Học vấn

Đại học 108 80,6 124 75,2 117 73,6 97 80,8 123 71,5 569 75,9

Thạc sĩ 24 17,9 34 20,6 30 18,9 23 19,2 35 20,3 146 19,5

Tiến sĩ 2 1,5 7 4,2 12 7,5 0 0,0 14 8,1 35 4,7

4 Lý luận chính trị

Sơ cấp 30 22,4 31 18,8 22 13,8 24 20,0 28 16,3 135 18,0

Trung cấp 53 39,6 62 37,6 64 40,3 47 39,2 79 45,9 305 40,7

Cao cấp 25 18,7 40 24,2 40 25,2 19 15,8 30 17,4 154 20,5

Cử nhân 7 5,2 15 9,1 18 11,3 9 7,5 18 10,5 67 8,9

Chưa học 19 14,2 17 10,3 15 9,4 21 17,5 17 9,9 89 11,9

5 Lĩnh vực công tác

Đảng 11 8,2 18 10,9 28 17,6 49 40,8 29 16,9 135 18,0

Chính quyền 45 33,6 72 43,6 60 37,7 16 13,3 40 23,3 233 31,1

Mặt trận-Đoàn thể 18 13,4 28 17,0 21 13,2 20 16,7 17 9,9 104 13,9

Đơn vị sự nghiệp 55 41,0 38 23,0 36 22,6 29 24,2 73 42,4 231 30,8

Doanh nghiệp 4 3,0 6 3,6 10 6,3 6 5,0 9 5,2 35 4,7

Khác 1 0,7 3 1,8 4 2,5 0 0,0 4 2,3 12 1,6

6 Ông/Bà có quan tâm đến chính sách đối với trí thức không?

Có 134 100,0 164 99,4 154 96,9 115 95,8 168 97,7 735 98,0

Không 0 0,0 1 0,6 5 3,1 5 4,2 4 2,3 15 2,0

7 Trình độ ngoại ngữ của Ông/Bà?

Chưa học 15 11,2 6 3,6 2 1,3 4 3,3 2 1,2 29 3,9

A 50 37,3 44 26,7 40 25,2 23 19,2 29 16,9 186 24,8

B 54 40,3 95 57,6 84 52,8 79 65,8 117 68,0 429 57,2

C 3 2,2 9 5,5 12 7,5 7 5,8 9 5,2 40 5,3

Cử nhân 5 3,7 8 4,8 8 5,0 4 3,3 6 3,5 31 4,1

Khác 7 5,2 3 1,8 13 8,2 3 2,5 9 5,2 35 4,7

167

8 Mức độ sử dụng ngoại ngữ của Ông/Bà như thế nào?

Thường xuyên 6 4,5 2 1,2 7 4,4 4 3,3 11 6,4 30 4,0

Thỉnh thoảng 82 61,2 128 77,6 117 73,6 86 71,7 118 68,6 531 70,8

Chưa bao giờ 46 34,3 35 21,2 35 22,0 30 25,0 43 25,0 189 25,2

9 Trình độ tin học của Ông/Bà?

Chưa học 4 3,0 0 0,0 5 3,1 3 2,5 2 1,2 14 1,9

A 74 55,2 84 50,9 60 37,7 43 35,8 79 45,9 340 45,3

B 52 38,8 68 41,2 74 46,5 65 54,2 80 46,5 339 45,2

C 2 1,5 2 1,2 2 1,3 1 0,8 2 1,2 9 1,2

Cử nhân 0 0,0 4 2,4 4 2,5 6 5,0 4 2,3 18 2,4

Khác 2 1,5 7 4,2 14 8,8 2 1,7 5 2,9 30 4,0

10 Mức độ sử dụng tin học của Ông/Bà như thế nào?

Thường xuyên 120 89,6 151 91,5 145 91,2 104 86,7 143 83,1 663 88,4

Thỉnh thoảng 13 9,7 14 8,5 13 8,2 12 10,0 27 15,7 79 10,5

Chưa bao giờ 1 0,7 0 0,0 1 0,6 4 3,3 2 1,2 8 1,1

11 Cơ sở vật chất phục vụ công việc của Ông/Bà như thế nào?

Rất tốt 6 4,5 16 9,7 7 4,4 22 18,3 22 12,8 73 9,7

Tốt 57 42,5 72 43,6 82 51,6 56 46,7 96 55,8 363 48,4

Bình thường 66 49,3 70 42,4 67 42,1 39 32,5 54 31,4 296 39,5

Nghèo nàn 5 3,7 7 4,2 3 1,9 3 2,5 0 0,0 18 2,4

12 Môi trường làm việc của Ông/Bà như thế nào?

Rất tốt 4 3,0 10 6,1 8 5,0 18 15,0 14 8,1 54 7,2

Tốt 64 47,8 74 44,8 73 45,9 65 54,2 94 54,7 370 49,3

Bình thường 58 43,3 71 43,0 61 38,4 29 24,2 59 34,3 278 37,1

Khó phát triển 8 6,0 10 6,1 17 10,7 8 6,7 5 2,9 48 6,4

168

13 Khó khăn lớn nhất tác động tới sự phát triển của Ông/Bà là gì?

Lương thấp 55 41,0 55 33,3 60 37,7 50 41,7 80 46,5 300 40,0

Môi trường làm việc 32 23,9 26 15,8 22 13,8 13 10,8 29 16,9 122 16,3

Cơ chế chính sách 26 19,4 65 39,4 59 37,1 32 26,7 40 23,3 222 29,6

Cơ sở vật chất 13 9,7 8 4,8 6 3,8 4 3,3 6 3,5 37 4,9

Khác 8 6,0 11 6,7 12 7,5 21 17,5 17 9,9 69 9,2

14 Công việc hiện tại có phù hợp với chuyên ngành đào tạo của Ông/Bà không?

Phù hợp 72 53,7 99 60,0 77 48,4 54 45,0 93 54,1 395 52,7

Tương đối 44 32,8 39 23,6 62 39,0 45 37,5 53 30,8 243 32,4

Không phù hợp 18 13,4 27 16,4 20 12,6 21 17,5 26 15,1 112 14,9

15 Ông/Bà đã bao giờ viết bài nghiên cứu cho các tạp chí, sách, báo, hội thảo, đề tài khoa học chưa?

Thường xuyên 5 3,7 9 60,0 7 48,4 5 45,0 13 54,1 39 5,2

Thỉnh thoảng 50 37,3 54 23,6 61 39,0 47 37,5 64 30,8 276 36,8

Chưa bao giờ 79 59,0 102 16,4 91 12,6 68 17,5 95 15,1 435 58,0

16 Ông/Bà tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn nào không?

Thường xuyên 35 26,1 41 24,8 34 21,4 10 8,3 24 14,0 144 19,2

Thỉnh thoảng 98 73,1 124 75,2 122 76,7 101 84,2 138 80,2 583 77,7

Chưa bao giờ 1 0,7 0 0,0 3 1,9 9 7,5 10 5,8 23 3,1

17 Ông/Bà hài lòng với vị trí công việc hiện nay không?

Rất hài lòng 14 10,4 19 11,5 16 10,1 11 9,2 18 10,5 78 10,4

Hài lòng 103 76,9 127 77,0 125 78,6 99 82,5 134 77,9 588 78,4

Không hài lòng 17 12,7 19 11,5 18 11,3 10 8,3 20 11,6 84 11,2

18 Ông/Bà đã bao giờ tham gia tư vấn, phản biện, giám định các chương trình, đề tài, đề án… nào chưa?

Thường xuyên 6 4,5 11 6,7 11 6,9 6 5,0 19 11,0 53 7,1

Thỉnh thoảng 40 29,9 60 36,4 79 49,7 35 29,2 74 43,0 288 38,4

Chưa bao giờ 88 65,7 94 57,0 69 43,4 79 65,8 79 45,9 409 54,5

169

19 Ông/Bà có tham gia các hoạt động đào tạo, truyền bá kiến thức cho cộng đồng không?

Thường xuyên 18 13,4 9 5,5 17 10,7 10 8,3 17 9,9 71 9,5

Thỉnh thoảng 81 60,4 115 69,7 100,0 62,9 63 52,5 99 57,6 458 61,1

Chưa bao giờ 35 26,1 41 24,8 42,0 26,4 47 39,2 56 32,6 221 29,5

20 Ông/Bà có muốn nâng cao trình độ, chuyên môn không?

Có 126 94,0 164 99,4 150,0 94,3 110 91,7 161 93,6 711 94,8

Không 4 3,0 0 0,0 8,0 5,0 5 4,2 6 3,5 23 3,1

Không cần thiết 4 3,0 1 0,6 1,0 0,6 5 4,2 5 2,9 16 2,1

21 Mức lương hiện nay làm cho Ông/Bà yên tâm công tác chưa?

Yên tâm 43 32,1 42 25,5 34,0 21,4 41 34,2 44 25,6 204 27,2

Chưa yên tâm 91 67,9 123 74,5 125,0 78,6 79 65,8 128 74,4 546 72,8

22 Vị trí công tác của Ông/Bà đã tương xứng với cống hiến chưa?

Rất tương xứng 2 1,5 4 2,4 5,0 3,1 7 5,8 5 2,9 23 3,1

Tương xứng 82 61,2 113 68,5 93,0 58,5 76 63,3 113 65,7 477 63,6

Chưa tương xứng 45 33,6 44 26,7 56,0 35,2 31 25,8 43 25,0 219 29,2

Khác 5 3,7 4 2,4 5,0 3,1 6 5,0 11 6,4 31 4,1

23 Theo Ông/Bà, đội ngũ trí thức của tỉnh hiện nay đã đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương chưa?

Đã đáp ứng 26 19,4 17 10,3 22,0 13,8 21 17,5 32 18,6 118 15,7

Chưa đáp ứng 96 71,6 135 81,8 132,0 83,0 82 68,3 122 70,9 567 75,6

Không biêt 12 9,0 13 7,9 5,0 3,1 17 14,2 18 10,5 65 8,7

24 Ông/Bà cho biết chính sách đối với đội ngũ trí thức của tỉnh hiện nay?

Rất tốt 0 0,0 0 0,0 0,0 0,0 2 1,7 1 0,6 3 0,4

Tốt 22 16,4 16 9,7 3,0 1,9 16 13,3 20 11,6 77 10,3

Bình thường 54 40,3 96 58,2 80,0 50,3 73 60,8 90 52,3 393 52,4

Chưa tốt 51 38,1 47 28,5 71,0 44,7 17 14,2 47 27,3 233 31,1

Không rõ 7 5,2 6 3,6 5,0 3,1 12 10,0 14 8,1 44 5,9

170

Phụ lục 3

SỐ NGƯỜI CÓ TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC TRỞ LÊN Ở TÂY NGUYÊN.

Đơn vị tính: Người.

Tỉnh Tổng số Tiến sĩ Thạc sĩ Cử nhân Kon Tum 11.452 10 269 11.173 Gia Lai 30.871 39 1.205 29.627 Đắk Lắk 33.136 143 1.003 31.990 Đắk Nông 5.435 02 85 5.348 Lâm Đồng 29.811 161 999 28.651 Tây Nguyên 110.705 355 3.561 106.789

Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở [64; 65; 66; 67; 68; 103; 104; 106; 107; 108; 110].

Phụ lục 4

BẢN ĐỒ 5 TỈNH TÂY NGUYÊN

Nguồn: http://vnwin.vn/bandovietnam_namtrungbo/lam-dong/