phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng tạo ... · về công nghệ...

32
Analytica - triển lãm lớn nhất ở Việt Nam về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm tích cực Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng SỐ 26 - THÁNG 04/2017

Upload: others

Post on 21-Oct-2019

5 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

SỐ 14 - THÁNG 03/2016

Maket mới

Analytica - triển lãm lớn nhất ở Việt Nam về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học

Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm tích cực

Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng

SỐ 26 - THÁNG 04/2017

Page 2: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

Trong tay Bạn là Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 26. Để phục vụ Hội viên và Bạn đọc được tốt hơn, Bản tin rất mong muốn Hội viên và Bạn đọc cho ý kiến và gửi tin, bài về hoạt động thử nghiệm.Mọi ý tưởng, ý kiến đóng góp và sự hỗ trợ của Tổ chức, Doanh nghiệp và Cá nhân đều được trân trọng ghi nhận và nghiên cứu áp dụng để nội dung, hình thức của Bản tin được liên tục cải tiến.Chúng tôi trân trọng cảm ơn sự quan tâm, tin tưởng của quý vị. Rất mong Bản tin này sẽ trở thành người bạn thân thiết, có ý nghĩa đối với Hội viên và Bạn đọc.

Bản tin Thử nghiệm ngày nay

3(3) Analytica - triển lãm lớn nhất ở Việt Nam về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học(6) Nga thử thành công thuốc chữa ung thư giai đoạn cuối(8) Lần đầu tiên chỉnh gene chữa thiếu máu hồng cầu thành công

10(10) Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng(12) Góc nhìn: Thị trường thử nghiệm vi sinh trên thế giới(15) Cuộc tìm kiếm kháng sinh mới(19) 12 chủng vi khuẩn - đối tượng nghiên cứu thuốc mới cấp thiết

21(21) Lễ Ký kết Thỏa thuận Hợp tác giữa VinaCert và Trung tâm Khảo, kiểm nghiệm và kiểm định giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi

24(24) Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm tích cực(27) Mojca Strazisar nói về thách thức trong quy trình công việc chuẩn bị mẫu

(Trang 31): Chương trình Thử nghiệm thành thạo - VinaLAB PT - Tổng hợp (Tháng 4)

Page 3: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

3

Analytica - triển lãm lớn nhất ở Việt Nam về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh họcCục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ) phối hợp với tổ chức IMAG (Cộng hoà Liên bang Đức) và Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam (VinaLAB) đã tổ chức thành công Triển lãm quốc tế lần thứ 5 về công nghệ thí nghiệm, phân tích, công nghệ sinh học và chẩn đoán- Analytica Việt Nam 2017. Triển lãm diễn ra từ ngày 29 đến 31/3 với hơn 120 đơn vị trưng bày, đến từ 17 quốc gia.

Phát biểu khai mạc Triển lãm, ông Trần Việt Thanh, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công

nghệ khẳng định: “Analytica Việt Nam 2017 tạo môi trường giao lưu, trao đổi, hợp tác quốc tế với các đối tác nước ngoài, nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ phân tích, chẩn đoán cho các nhà khoa học, các doanh nghiệp, các tổ chức cùng cá nhân Việt Nam, nhằm tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, nghiên cứu khoa học và bảo vệ sức khoẻ con người”.

“Đây là triển lãm duy nhất đảm bảo chuỗi

cung ứng về mặt hàng hóa từ công nghệ của phòng thí nghiệm chẩn đoán đến công nghệ sinh học và phân tích”, theo bà Eva Sauerborn, Giám đốc triển lãm của Analytica Vietnam.

Cũng theo bà Eva Sauerborn, triển lãm năm nay phát triển mạnh, số lượng gian hàng tăng 25% so với năm 2015. "2017 cũng là năm đầu tiên triển lãm đón các đơn vị từ Nga, Bungaria và các gian hàng liên quốc gia từ Đức, Trung Quốc hay Singapore", bà Eva thông tin.

Tại buổi gặp gỡ với báo chí trước thềm triển lãm Analytica Vietnam 2017, ông Lê Xuân Định

Thứ trưởng Trần Việt Thanh phát biểu khai mạc analytica Vietnam 2017

Page 4: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

4

- Cục trưởng Cục Thông tin khoa học và công nghệ (KH&CN) quốc gia, Bộ KH&CN - cho rằng: “Những công nghệ hiện hữu ở Analytica 2017 có thể ảnh hướng tới quá trình đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp như quy trình hoạt động, sản phẩm, tổ chức và makerting. Hiện nay, bất cứ sản phẩm nào được kiểm nghiệm, phân tích chất lượng cũng sẽ có một thị trường bền vững. Đây chính là visa xâm nhập mọi thị trường của sản phẩm từ khâu sản xuất, tiếp cận sử dụng”.

Bày tỏ kỳ vọng về triển lãm lần thứ 5 này, ông Nguyễn Hữu Dũng - Tổng thư ký Hội Các phòng thử nghiệm Việt Nam - cho rằng đây là cơ hội để những người quan tâm đến lĩnh vực thử nghiệm có thể tiếp cận các công nghệ hàng đầu trên thế giới.

"Điều đặc biệt là những người tham gia

triển lãm có cơ hội tiếp cận thiết bị hỗ trợ để nâng cao năng suất lao động trong phòng thử nghiệm. Chẳng hạn, tiền đầu tư một chiếc máy có thể khoảng 8 tỷ đồng, nhưng để phát huy hết công sức thì cần có máy hỗ trợ và thiết bị phụ trợ. Vấn đề là chi phí cho những máy móc này rất đắt. Khi sang Nhật Bản tham quan, tôi thấy những chiếc máy này ở Nhật rẻ hơn nhiều so với Việt Nam. Vì thế, tham gia triển lãm, các đơn vị có cơ hội tiếp cận thiết bị với giá tốt nhất" - ông Dũng nhấn mạnh.

Tại sự kiện này, khách hàng có thể quan sát những minh họa về sự cố cháy nổ và thu thập được những kinh nghiệm quý giá của các chuyên gia trong lĩnh vực này đồng thời triển lãm còn diễn ra các hội thảo song song với sự tham gia của các nhà khoa học đến từ 10 quốc gia.

Đại biểu thăm quan các gian trưng bày tại triển lãm

Page 5: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY5

TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT

Tham gia Analytical 2017, gian trưng bày của Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam (VinaLAB) giới thiệu đến khách hàng yêu công nghệ, đam mê khoa học phân tích, thử nghiệm những ấn phẩm liên quan đến năng lực hoạt động của VinaLAB cũng như các dịch vụ khoa học công nghệ của một số phòng thử nghiệm tiêu biểu là Hội viên của VinaLAB. Cũng tại đây đã diễn ra các cuộc hội đàm hợp tác giữa đại diện Hội VinaLAB và các tổ chức nước ngoài quan tâm tới thử nghiệm Việt Nam.

Đại diện VinaLAB cũng đã giải đáp nhiều câu hỏi của quan khách tìm hiểu về hoạt động của Hội; việc tổ chức, phối hợp tổ chức các chương trình thử nghiệm thành thạo (VinaLAB-PT) cho các hội viên và quyền lợi của các phòng thử nghiệm có nhu cầu tham gia Hội.

Hội thảo “Xã hội hóa hoạt động thử nghiệm

– Cơ hội và thách thức” do Hội VinaLAB chủ trì diễn ra từ 9 giờ ngày 31/03 thu hút sự quan tâm lớn của các nhà nghiên cứu và các đơn vị tham dự triển lãm.

Cùng với đó là các buổi hướng dẫn dành cho các chuyên gia phân tích, nhân viên phòng thí nghiệm, các nhà quản lý và nhân viên bộ phận đảm bảo chất lượng, các tổ chức nghiên cứu lâm sàng… với nội dung chủ yếu là những phương pháp hiệu chuẩn phù hợp với các tiêu chuẩn trong nước và quốc tế.

Đặc biệt, lần đầu tiên Analytica Vietnam 2017 có sự kiện “An toàn phòng thí nghiệm” và chương trình kết nối gặp gỡ các khách mua hàng tiềm năng từ tất cả các ngành công nghiệp.

VinaLAB

Gian trưng bày của VinaLAB tại Analytical 2017 nhận được sự quan tâm của quan khách

Page 6: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

6

Nga thử thành công thuốc chữa ung thư giai đoạn cuối

Các nhà khoa học Nga đã thử nghiệm thành công loại thuốc có thể chữa ung thư ở mọi giai đoạn.

Chế phẩm thuốc này có tên gọi thí nghiệm là "Protein sốc nhiệt", dựa trên thành phần hoạt chất chính của nó. Nó là một loại thuốc sinh học phân tử, được bào chế dựa trên một phân tử hoạt động rất tích cực.

Phân tử này được hình thành trong bất kỳ tế bào nào của cơ thể khi phản ứng với các yếu tố gây sốc và căng thẳng. Sự tồn tại của phân tử này từ lâu đã được các nhà khoa học biết tới.

Theo GS.Andrei Simbirtsev, Phó Giám đốc Viện Nghiên cứu khoa học các cách điều trị thuần sinh học cao cấp thuộc Cơ quan Y Sinh Liên bang Nga (FMBA): "Ban đầu các nhà khoa học cho rằng loại protein này chỉ bảo vệ các tế bào của con người khỏi bị hư hại.

Sau đó, họ phát hiện nó có một đặc điểm hiếm hoi là giúp các tế bào sản sinh những kháng nguyên khối u và nhờ đó tăng cường

được khả năng miễn dịch chống lại khối u".Vì vậy, những nhà nghiên cứu Nga đã

nhanh chóng đi sâu tìm hiểu về nó, tìm cách tổng hợp nó và điều chế ra loại dược phẩm có thể giúp con người chống lại ung thư.

Loại protein này tuy có rất ít trong cơ thể con người, nhưng các nhà khoa học Nga đã xác định được gene kích thích sự sản sinh của nó trong cơ thể, sau đó tiến hành tạo ra một tế bào vi khuẩn để tổng hợp loại protein này.

Loại thuốc mới này không có tác dụng phụ và cũng không có độc tính. Nó đã được các nhà khoa học tiến hành thử nghiệm lâm sàng trong nhiều năm vừa qua. Nhưng để chắc chắn hơn, những nhà nghiên cứu Nga sẽ tiếp tục kiểm tra và sẽ công bố về độ an toàn của loại thuốc mới này sau 1 năm nữa.

Và họ sẽ hoàn tất mọi khâu thử nghiệm để có thể bào chế, sản xuất thuốc hàng loạt, phục vụ việc điều trị cho các bệnh nhân ung thư trong 3 hoặc 4 năm tới.

Giáo sư AndreiSimbirshev bày tỏ: "Rất tiếc là không thể nhanh hơn. Đó là một công trình nghiên cứu rất nghiêm ngặt. Vì

Page 7: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

7

TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT

thế nếu tính cả thời gian hoàn tất nghiên cứu tiền lâm sàng giai đoạn cuối thì các bệnh nhân sẽ chỉ nhận được thuốc sau 3 đến 4 năm nữa".Chữa tất cả ung thư ở mọi giai đoạn...

Loại thuốc Protein sốc nhiệt này phát huy được hoạt tính đa năng, có thể chữa trị được mọi loại bệnh ung thư ở bất kỳ giai đoạn nào kể cả giai đoạn cuối.

Các nhà khoa học Nga nhấn mạnh, loại thuốc mới này đã được thử nghiệm trên chuột bạch có khối u ác tính và đa số đều hoàn toàn hồi phục, ngay cả ở giai đoạn sau của căn bệnh.

"Liệu trình điều trị bằng loại thuốc mới trong đa số các trường hợp đã loại trừ hoàn toàn các khối u, thậm chí ngay cả ở giai đoạn cuối. Như vậy là có thể tự tin nói rằng, các protein đã có được hoạt tính sinh học cần thiết để chữa được ung thư", ông Simbirshev cho biết.

Kết quả nghiên cứu này đã cho những bệnh nhân mắc ung thư nói riêng và nhân loại nói chung một hy vọng mới trong vài năm nữa, sẽ

có thuốc chữa được ung thư ở mọi giai đoạn xuất hiện trên thị trường.

Nói thêm về quá trình nghiên cứu loại protein và điều chế ra loại thuốc mới này, ông Simbirshev cho hay, để phân tích hành vi của protein bằng cấu trúc rentgen, cần phải tạo được các tinh thể siêu tinh khiết từ protein, tuy nhiên việc này không thể thực hiện trong điều kiện sức hút của Trái đất - các tinh thể protein sẽ lớn không đều.

Chúng cần phải được thí nghiệm trên vũ trụ, nơi có môi trường thích hợp (không có sức hút của Trái Đất) để tạo ra một loại tinh thể siêu tinh khiết phục vụ cho công tác phân tích X-quang.

Các nhà khoa học Nga đã đóng gói các protein siêu tinh khiết trong các ống mao dẫn và đưa lên trạm vũ trụ ISS. Sau 6 tháng, trong các ống nghiệm đã hình thành các tinh thể tinh khiết đến mức lý tưởng, chúng được đưa xuống dưới Trái đất và mang đi phân tích ở Nga và Nhật Bản".

Page 8: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

8

Page 9: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

9

Phương pháp lần đầu tiên được áp dụng trên thế giới

này do bệnh viện nhi Necker tại Paris thực hiện, mang lại hy vọng cho hàng triệu bệnh nhân.

Các nhà khoa học đã thay đổi các chỉ thị di truyền trong tủy xương của bệnh nhân, từ đó giúp sản xuất ra các tế bào hồng cầu khỏe mạnh.

Tính đến nay, liệu pháp đã hoạt động được 15 tháng trên cơ thể bệnh nhân. Người bệnh không còn phải dùng thêm bất cứ loại thuốc nào.

Bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm khiến các tế bào hồng cầu có hình dạng giống như hình lưỡi liềm, làm chậm hoặc chặn lưu lượng máu và oxy đến các bộ phận của cơ thể, gây ra đau đớn, tổn thương nội tạng và có thể gây tử vong.

Vào thời điểm điều trị, tình trạng bệnh nhân nặng đến

mức phải cắt bỏ lá lách và thay phần hông. Mỗi tháng, thiếu niên này phải vào bệnh viện để truyền máu.

Năm lên 13 tuổi, các bác sĩ tại bệnh viện Necker đã lấy tủy xương của bệnh nhân, sau đó biến đổi trong phòng thí nghiệm để thay đổi các DNA khiếm khuyết, sử dụng một loại virus chỉnh sửa để các chỉ thị di truyền hoạt động cho đúng. Tủy xương hoàn chỉnh được lắp lại vào cơ thể bệnh nhân.

Kết quả nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Y khoa Anh Quốc cho thấy máu bệnh nhân đã trở lại bình thường sau khi được chữa trị vào 15 tháng trước.

Philippe Leboulch, Giáo sư Y khoa tại trường Đại học Paris cho biết tính đến thời điểm này, thiếu niên không còn dấu hiệu bị bệnh, không đau đớn và cũng không cần nhập viện để

truyền máu hay điều trị nữa.Giáo sư Leboulch cũng

khá căng thẳng khi dùng chữ “chữa khỏi”, vì đây chỉ là bệnh nhân đầu tiên trong quá trình thử nghiệm lâm sàng.

Tuy nhiên, ít nhất nghiên cứu này cho thấy sức mạnh tiềm tàng của liệu pháp gene trong việc thay đổi cuộc sống của những bệnh nhân thiếu máu hồng cầu lưỡi liềm.

Một trong các vấn đề đặt ra là quy trình chữa bệnh đắt đỏ này chỉ có thể thực hiện tại các bệnh viện hoặc phòng thí nghiệm tiên tiến, trong khi bệnh nhân mắc bệnh này phần lớn lại ở châu Phi.

Ngoài ra, thử thách khác là làm thế nào để biến một nghiên cứu khoa học trở thành liệu pháp thực sự giúp chữa bệnh cho hàng triệu người.

Theo BBC

Bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm khiến các tế bào hồng cầu có hình dạng giống như hình lưỡi liềm - Ảnh: SPL

TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT

Page 10: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

10

Virus cảm nhận được các tín hiệu hóa học từ

“tổ tiên” của chúng để lại, từ đó chúng có thể quyết định xem có nên giết hay chỉ lây nhiễm bệnh cho vật chủ.

Phát hiện về virus tấn công vi khuẩn Bacillus này đã đánh dấu lần đầu tiên tìm thấy hệ thống giao tiếp ở virus. Nhưng các nhà nghiên

cứu nói rằng nhiều loại virus khác, có thể cả những virus gây bệnh cho người, có khả năng trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ phân tử riêng của chúng. Nếu như vậy, các nhà khoa học có thể tìm ra một phương pháp khác để ngăn chặn sự tấn công của virus.

Các mã virus bí mật đã được phát hiện bởi

một nhóm nghiên cứu do Rotem Sorek, Nhà Di truyền học Vi sinh vật tại Viện Khoa học Weizmann ở Rehovot, Israel, dẫn dắt. Phát hiện của họ đã được công bố trên tạp chí Nature vào ngày 18 tháng 1.

Nhà vi sinh học Martha Clokie, người nghiên cứu virus gây bệnh cho vi khuẩn (gọi là bacteriophage, hoặc

Thể thực khuẩn đã lắng nghe các tín hiệu từ “họ hàng” để quyết định cách tấn công vật chủ của nó.

Các virus cướp tế bào của vi khuẩn và dùng chúng để sản xuất thêm nhiều bản sao nữa. Giờ đây các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng chúng còn có thể giao tiếp với nhau

Page 11: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY11

thể thực khuẩn) tại Đại học Leicester, Anh, nói: "Đây sẽ là một trong những nghiên cứu có tính chuyển biến".Tín hiệu lây nhiễm

Nhóm nghiên cứu của Sorek ban đầu đang tìm kiếm bằng chứng vi khuẩn Bacillus subtilis có thể cảnh báo các vi khuẩn khác về thể thực khuẩn. Các nhà nghiên cứu biết rằng vi khuẩn nói chuyện nhau thông qua việc tiết ra và cảm nhận một loạt các hóa chất. Hiện tượng này, được gọi là quorum sensing (cảm biến định số tối thiểu), cho phép các vi khuẩn điều chỉnh hành vi theo các vi khuẩn khác ở xung quanh. Ví dụ, vi khuẩn sử dụng quá trình này để quyết định xem có nên phân chia hoặc quyết định thời điểm gây nhiễm trùng.

Thay vào đó, nhóm nghiên cứu bất ngờ phát hiện ra rằng, một thể thực khuẩn của vi khuẩn Bacillus tên là phi3T đã tạo ra một hóa chất gây ảnh hưởng đến hành vi của các virus khác.

Một số thể thực khuẩn có thể gây bệnh cho tế bào bằng 2 cách khác nhau. Thông thường, chúng sẽ cướp các tế bào của vật chủ và nhân rộng cho tới khi vật chủ vỡ tung và chết. Tuy nhiên, đôi lúc thể thực khuẩn sẽ đưa vật liệu di truyền của chúng vào bộ gene của vật chủ, sau đó không hoạt động cho tới khi có sự kích hoạt khiến chúng thức dậy và sau đó bắt đầu nhân rộng.

Hệ thống giao tiếp của virus mới phát hiện được này có thể thay đổi cách phi3T gây bệnh.

Nhóm nghiên cứu bơm phi3T vào một bình đựng vi khuẩn Bacillus subtilis, và nhận thấy virus này có xu hướng giết chết vi khuẩn. Sau đó họ lọc bình để loại bỏ vi khuẩn và virus, nhưng giữ lại một lượng protein nhỏ, và bổ sung ”môi trường điều kiện” này cho một môi trường vi khuẩn và virus mới. Điều này thay đổi hành động của thể thực khuẩn: chúng thường đưa gene của mình vào vi khuẩn hơn là giết chúng. Nhóm nghiên cứu đặt tên cho phân tử bí ẩn mà họ nghi ngờ có liên quan là “arbitrium” (theo một từ Latin có nghĩa là quyết định) và bắt đầu xác định nó.“Tốt một cách khó chịu”

Sau 2 năm rưỡi tìm kiếm, Sorek và nghiên cứu sinh Zohar Erez phát hiện ra rằng arbitrium là một protein ngắn của virus thoát ra từ vi khuẩn bị nhiễm bệnh sau khi chết. Khi nồng độ của arbitrium tăng lên - sau khi một số lượng lớn các tế bào đã chết – thể thực khuẩn ngừng giết các vi khuẩn còn lại và thay vào đó, rút lui để nằm im trong hệ gene vi khuẩn. Sorek, Erez và các cộng sự đã xác định được hai loại protein phi3T nữa có chức năng đo lường mức độ arbitrium và sau đó gây ảnh hưởng đến tính chất của các đợt truyền nhiễm sau.

"Điều này khá có lý", Peter Fineran, Nhà Di truyền học Vi sinh vật tại Đại học Otago ở Dunedin, New Zealand cho biết: "Nếu các thể thực khuẩn bị cạn kiệt vật chủ, chúng sẽ cố gắng hạn chế sự phá hoại, và nằm im chờ vật chủ sinh trưởng trở lại".

Clokie nói: nghiên cứu mới này “tốt một cách khó chịu”. “Tôi nghĩ về việc thực hiện những thí nghiệm để xem trong môi trường nuôi cấy có gì không". Cô cũng hy vọng các nhà sinh học thực khuẩn khác sẽ khám phá ra các hệ thống liên lạc khác. Nhóm nghiên cứu của Sorek đã tìm thấy hơn 100 hệ thống kiểu arbitrium khác nhau, hầu hết nằm trong bộ gene của các virus Bacillus khác. "Thể thực khuẩn phát tín hiệu ở tần số khác nhau. Chúng nói các ngôn ngữ khác nhau và chỉ có thể nghe thấy loại ngôn ngữ mà chúng nói", ông nói thêm.

Ông thậm chí còn tự hỏi liệu virus gây bệnh cho các sinh vật phức tạp hơn, chẳng hạn như con người, có thể nói chuyện với nhau hay không. Virus HIV và virus herpes có thể gây nhiễm trùng chủ động và nhiễm trùng ngầm. "Nếu có một phân tử mà có thể chuyển hướng virus sang dạng ngầm hoàn toàn, nó sẽ là một loại thuốc tốt".

Theo Nature

Page 12: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

12

Góc nhìn: Thị trường thử nghiệm vi sinh trên thế giới

Tổng kết toàn cảnh thị trường thử nghiệm vi sinh cho phép bạn căn chỉnh những xu hướng so với chiến lược kinh doanh của mình và tối ưu hóa hệ thống an toàn thực phẩm của bạn, dù bạn đang nằm ở vị trí nào trong chuỗi cung ứng.

Thử nghiệm vi sinhNăm 2016, thị trường vi sinh vật học thực

phẩm toàn cầu đạt 1,14 tỷ lượt thử nghiệm, tăng từ 966 triệu thử nghiệm trong năm 2013 (và 738 triệu thử nghiệm trong năm 2008).

Các sinh vật coliform/Escherichia coli, nấm men/nấm mốc và Staphylococcus tạo thành các thử nghiệm vi sinh định kỳ được sử dụng trong công nghiệp chế biến thực phẩm với tư cách các chỉ số về sự hiện diện và/hoặc mức độ vi sinh vật trong sản phẩm cây trồng hoặc thực phẩm. Năm 2016, ước tính số thử nghiệm định kỳ này đạt hơn 860 triệu thử nghiệm, chiếm 75,4% các thử nghiệm vi sinh được thực hiện, tăng từ 742 triệu lượt thử nghiệm và chiếm 76,8% thử nghiệm được thực hiện trong năm 2013 (Hình 1). Việc giảm tỷ lệ các thử nghiệm

Page 13: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY13

định kỳ này không phải là do sự thiếu phát triển, mà chúng tôi ước tính rằng đang tăng khoảng 5.0% mỗi năm, nhưng có nhiều khả năng do sự ảnh hưởng của tốc độ tăng trưởng nhanh hơn về khối lượng các thử nghiệm mầm bệnh.

Thử nghiệm đối với mầm bệnh chiếm số lượng thử nghiệm vi sinh còn lại. Năm 2016, chúng tôi ước tính có hơn 280 triệu thử nghiệm mầm bệnh, chiếm 24,6% số lượng thử nghiệm vi sinh, từ 224 triệu thử nghiệm và chiếm 23,2% vào năm 2013, đạt 7,7% tăng trưởng (tỉ lệ tăng trưởng kép hàng năm, hoặc CAGR).

Việc số lượng thử nghiệm mầm bệnh đang tăng nhanh hơn so với tổng số lượng thử nghiệm vi sinh nói chung là sự tiếp nối của một xu hướng dài hạn. Ví dụ, vào năm 1998, SCI báo cáo số thử nghiệm định kỳ chiếm 86,3% tổng số lượng thử nghiệm. Sự phát triển của số lượng thử nghiệm vi sinh định kỳ đã tiếp tục duy trì ổn định kể từ đó, ở một tỷ lệ thấp hơn đáng kể so với số lượng thử nghiệm mầm bệnh được tập trung nhiều hơn hẳn.

Trong số 280 triệu thử nghiệm mầm bệnh được ước tính vào năm 2016, Salmonella là mục tiêu của khoảng 120 triệu thử nghiệm, chiếm khoảng 43% số thử nghiệm mầm bệnh. Số thử nghiệm Listeria/Listeria monocytogenes tổng cộng khoảng 115 triệu, tức 41%, và thử nghiệm mầm bệnh E. coli được ước tính là chiếm 14% số lượng thử nghiệm mầm bệnh, với khoảng 40 triệu thử nghiệm được tiến hành. Campylobacter chiếm khoảng 4-5 triệu thử nghiệm hàng năm.Giá trị thị trường

Tổng giá trị thị trường thử nghiệm vi sinh trong lĩnh vực thực phẩm đã tăng trong 5 năm qua với tỉ lệ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 7,1%. Giá trị thị trường đã tăng với tốc độ nhanh hơn so với số lượng thử nghiệm, do giá cả tăng ít, tỷ trọng cao của thử nghiệm bệnh mầm bệnh có giá cao hơn và sự chuyển đổi từ các phương pháp truyền thống sang các phương pháp thử nhanh giá cao, đặc biệt đối với mầm bệnh (Hình 2). Từ góc độ giá trị thị

trường, thử nghiệm định kỳ chiếm khoảng 49% giá trị thị trường thử nghiệm vi sinh toàn cầu vào năm 2016, trị giá khoảng 1,7 tỷ đô la, dựa trên chi phí trung bình cho xét nghiệm (ACT) khoảng 2 đô-la. Thử nghiệm mầm bệnh với ACT cao hơn, khoảng 6.40-6.50 (đô-la)*, chiếm 51% tổng giá trị thị trường, tương đương 1,8 tỷ USD (Hình 3). Khoảng cách tăng trưởng giá trị thị trường của thử nghiệm mầm bệnh liên quan so với thử nghiệm định kỳ đã tiếp tục mở rộng đáng kể trong hai thập kỷ qua. Ví dụ, năm 1998, SCI ước tính giá trị thị trường của thử nghiệm mầm bệnh chỉ chiếm 38,8% tổng giá trị thị trường. Khối lượng tỷ lệ cao hơn của thử nghiệm bệnh mầm bệnh với giá cao hơn, và sự dịch chuyển nhanh hơn từ công cụ truyền thống đến các thiết bị có giá cao hơn và chẩn đoán mầm bệnh nhanh là những động lực chính thúc đẩy sự dịch chuyển giá trị thị trường này.

Rõ ràng rằng, những động lực thay đổi trong ngành phân tích vi sinh vật học thực phẩm sẽ tiếp tục tạo ra cơ hội và rủi ro cho tất cả các đơn vị liên quan. Hiểu được bối cảnh thay đổi này sẽ là điều quan trọng hàng đầu đối với bất kỳ ai tham gia thử nghiệm thực phẩm, dù là người mua hay người bán. Sự thành

Page 14: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

14

công và bền vững kinh doanh của các công ty chẩn đoán và phòng thử nghiệm thực phẩm sẽ tùy thuộc vào cách họ giải thích những thay đổi này và những bước đi chiến lược họ thực hiện để điều chỉnh những điều kiện thay đổi này. Các nhà chế biến thực phẩm hiểu được các điều kiện thay đổi cũng sẽ có thể tận dụng để giảm chi phí và nâng cao năng lực và hiệu suất của các chương trình thử nghiệm của họ.

Kết luậnNhững dữ liệu về thị trường vi sinh học thực

phẩm có thể giúp định hướng các quyết định kinh doanh của bạn. Nếu bạn là một công ty chẩn đoán hoặc phòng thử nghiệm, dữ liệu có thể giúp bạn hiểu rõ hơn về nhu cầu, phản hồi của khách hàng về sản phẩm và dịch vụ thử nghiệm, hoặc để cải tiến kế hoạch tiếp thị chiến lược một cách tốt hơn. Nếu bạn là một nhà chế biến thực phẩm, dữ liệu có thể dùng để so sánh các chương trình và quy trình của bạn, đánh giá so thực hành tốt hoặc tìm giá cả thị trường và dữ liệu cạnh tranh.

Sự hợp tác này là cần thiết trong một thị trường lớn, phức tạp và thay đổi nhanh chóng như thị trường an toàn thực phẩm. Môi trường kinh doanh đang phát triển, không chỉ về mặt

các quy định mà còn cả về quy trình thực thi. Các công nghệ mới, nhạy cảm hơn có thể phát hiện được ít tế bào vi khuẩn hơn và nồng độ các chất gây ô nhiễm thấp hơn, trong khi những tiến bộ như giải trình tự toàn bộ gene đang thay đổi cuộc chơi về khả năng truy xuất nguồn gốc của những phát hiện này. Những yếu tố này sẽ buộc các nhà cung cấp cải tiến các sản phẩm và dịch vụ của họ và buộc các nhà sản xuất luôn cập nhật các phương pháp tốt nhất hoặc có nguy cơ bị thay thế bởi những người làm được việc đó. Sự hiểu biết thấu đáo về thị trường và yếu tố cạnh tranh là nhân tố quyết định quan trọng trong việc xác định chiến lược của bạn và định hướng đúng các nỗ lực và đầu tư của bạn.

Chú thích*: Các mức giá trung bình trong bài được dựa trên việc tính giá trung bình của một xét nghiệm chẩn đoán, không bao gồm bất kỳ chi phí phụ nào như chi phí nhân công, thiết bị và vật liệu dùng một lần có thể cần thiết để làm thử nghiệm. Ngoài ra, các con số trung bình này không đại diện cho bất kỳ chẩn đoán cụ thể nào, vì có sự chênh lệch lớn trong chi phí thử nghiệm. Chỉ số ACT cũng không tính đến giá trị thị trường đầy đủ của giá của một thử nghiệm ví dụ như nếu nó được mua lại từ phòng thử nghiệm thực phẩm hợp đồng.

Theo Food Safety Magazine

Page 15: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY15

Cuộc tìm kiếm kháng sinh mới

Từ những con kiến nuôi nấm đến bọt biển, các nhà khoa học đang đào sâu nghiên cứu thiên nhiên trong cuộc chiến chống lại sự đề kháng kháng sinh.

Các chuyên gia cảnh báo rằng đề kháng kháng sinh có thể châm ngòi một cuộc

khủng hoảng kinh tế toàn cầu vào năm 2050 nếu không được kiểm soát. Do sự lạm dụng kháng sinh trong y tế và nông nghiệp 50 năm qua, hầu hết các nhà khoa học đều nhận định rằng có lẽ đã quá muộn để bảo vệ thế hệ kháng sinh đầu tiên.

“Thách thức cho con người hiện nay là phát triển và bảo vệ thế hệ kháng sinh thứ hai”, Matt Hutchings, Giáo sư Vi sinh vật Phân tử tại Đại học East Anglia (Anh) chia sẻ.

Thời đại vàng của kháng sinh được bắt đầu từ thời điểm phát hiện ra penicillin và streptomycin, sau đó sản xuất chúng hàng loạt trong những năm 1940. Đỉnh cao là vào giữa

Kiến cắt lá vận chuyển lá để nuôi nấm. Kiến có quan hệ cộng sinh với loại nấm này cũng như với vi khuẩn sống trên lưng chúng

Page 16: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

16

thập niên 1950, nhưng cho đến 1960, các nhà khoa học nhiều lần lại khám phá ra các loại kháng sinh đã biết từ vi khuẩn đất. Do đó, các công ty dược phẩm thúc đẩy các nhà khoa học của mình tạo ra phiên bản tổng hợp của các phân tử chống nhiễm trùng từ tự nhiên. Tuy vậy, sự đề kháng kháng sinh tiếp tục gia tăng, khiến nhiều sinh mạng gặp nguy hiểm hơn. Sau đó, một số nhà khoa học đã thay đổi hướng đi và quay trở lại với tự nhiên.

“Ước tính có hơn 100.000 loại kháng sinh chưa được phát hiện chỉ tính riêng từ vi khuẩn Streptomyces, và dựa vào tỉ lệ thành công trước đây, khoảng 0.1% trong số chúng sẽ vượt qua được các thử nghiệm lâm sàng”, Hutchings giải thích. “Hầu hết các vi khuẩn và nấm khác cũng tạo ra kháng sinh, có nghĩa rằng các sản phẩm tự nhiên là hi vọng tuyệt vời nhất để tìm ra một thế hệ kháng sinh thứ hai. Ba tỷ năm tiến hóa của vi khuẩn dễ dàng đánh bại được 10 năm hay thậm chí 100 năm của thiết kế tổng hợp theo chỉ định”.Mô hình thực vật và động vật

Phòng thử nghiệm (PTN) của Hutching quan tâm đến cách kháng sinh được vi khuẩn, động vật và thực vật sử dụng trong tự nhiên, và cách chúng khai thác những chất này để tìm kiếm một chất chống nhiễm trùng mới. Ví dụ, trong khi các loài Streptomyces liên quan đến hơn một nửa số kháng sinh hiện có, các nhà khoa học biết rằng nó có khả năng tạo ra nhiều hơn những gì nó làm được trong phòng thử nghiệm. Hầu hết kháng sinh của nó đều không bao giờ được tạo ra trong điều kiện nuôi cấy của PTN, đây vẫn còn là điều bí ẩn. PTN của Hutchings muốn tìm cách chuyển sang con đường bí ẩn này, hiểu được hệ thống tín hiệu đang kiểm soát sự sản xuất kháng sinh trong vi khuẩn chính là một phần của công thức đó.

Một phần khác của công thức nằm ở những hành động của các chi Acromyrmex và Atta, thường được biết đến là loài kiến cắt lá. Kiến cắt lá thuộc bộ lạc attini, hay kiến nuôi nấm. Những con kiến này chủ động nuôi những loại

nấm của chúng, cho nấm ăn những nguyên liệu thực vật mới cắt và bảo vệ nấm khỏi dịch hại và mốc. Những loại nấm được nuôi bởi kiến trưởng thành sẽ được dùng để cho ấu trùng kiến ăn, còn kiến trưởng thành ăn nhựa lá cây.

Một điều đặc biệt khác về kiến cắt lá đó là chúng nuôi vi khuẩn theo mối quan hệ cộng sinh để bảo vệ nấm của mình. Chúng nuôi vi khuẩn ngay trên bề mặt cơ thể. Điều này cho phép Hutchings và cộng sự thực hiện các thí nghiệm đơn giản trên hệ vi sinh vật của chúng, một việc mà khó thực hiện hơn nhiều đối với các hệ thống khác, do vi khuẩn thường nằm bên trong một cơ quan của cơ thể. Mục tiêu của các thí nghiệm là hiểu rõ cách thực vật và kiến cắt lá kiểm soát sự sản xuất kháng sinh bằng vi khuẩn cộng sinh của chúng.

“Điều này rất quan trọng vì nó sẽ cho chúng ta biết phương pháp mới để kích hoạt con đường bí ẩn”, Hutchings nói. “Điều này cũng quan trọng trong nông nghiệp vì nếu có thể thiết kế những vi sinh vật bảo vệ rễ cây tốt hơn, đưa vào giống cây lương thực như lúa mỳ, gạo và khoai tây, chúng ta có thể tăng sản lượng và giảm lượng thuốc trừ sâu được sử dụng”.

Do hiểm họa từ nhiễm trùng kháng thuốc ngày càng tăng, cuộc đua tìm kiếm các vi sinh vật mới có thể tạo ra thuốc mới được bắt đầu. Đây được coi là sự “thăm dò sinh học”, khi các nhà khoa học đang tìm kiếm xa gần, sâu rộng để phát hiện các ứng cử viên mới. • Trầm tích biển: Năm 1989, các nhà nghiên cứu Viện Hải dương học Scripps đã xác định được một loài vi khuẩn mới sống trong trầm tích biển, ngoài bờ biển Bahamas. Chủng vi khuẩn này, được đặt tên là Salinispora, đã được tìm thấy tại các vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới trên khắp thế giới, và được tìm thấy ở độ sâu hơn 5000m. Những con vi khuẩn này thích nghi hoàn toàn với môi trường sống của chúng và chỉ sinh trưởng khi có nước biển. Vi khuẩn Salinispora sản xuất một hợp chất có tên Salinisporamide A. Hợp chất này thể hiện

Page 17: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY17

các đặc tính chống ung thư và hiện đang được thử nghiệm lâm sàng giai đoạn I để kiểm tra tính hiệu quả chống lại hai loại tế bào ung thư.• Bọt biển: Mặc dù chúng không có bất kỳ cơ quan nội tạng hay chân tay rõ ràng nào, bọt biển là một trong những động vật già nhất trên Trái Đất. Bọt biển đã là nguồn thuốc chống ung thư từ thập niên 1950 và hàng ngàn hợp chất khác đã được chiết xuất từ chúng. Một lượng lớn trong các loại thuốc tiềm năng này có vẻ như được tạo ra bởi những vi khuẩn sống cộng sinh với bọt biển trên khắp thế giới, gồm cả Salinispora và các loài Streptomyces sống ở biển. Do khuyết thiếu hệ miễn dịch, có thể những động vật nguyên thủy này sử dụng vi khuẩn sản xuất kháng sinh để bảo vệ bản thân khỏi bệnh tật.• Sa mạc Atacama: Atacama có lẽ là sa mạc lâu đời nhất thế giới, và có thể là nơi khô hạn nhất trên Trái Đất, khi một số khu vực có lượng mưa trung bình 1mm một năm. Mặc dù người ta tin rằng không có thứ gì có thể sống sót nổi ở đó, sa mạc này là nhà của các chủng vi khuẩn Streptomyces mới, bao gồm Streptomyces leeuwenhoekii, một loại vi khuẩn sản xuất ra hợp chất mới tên là chaxamycins có các đặc tính kháng khuẩn tiềm năng.• Đất: Cách xa các sa mạc Nam Mỹ, đất vườn là một nguồn các loại thuốc mới chưa được khai thác. Phần lớn kháng sinh sử dụng ngày nay được tạo ra từ các thành viên thuộc một chi sống trong đất của vi khuẩn Streptomyces, và nhiều nhà khoa học tin rằng không còn gì để tìm kiếm nữa. Tuy nhiên, hợp chất kháng sinh mới được phát hiện năm 2015 tên là teixobactin, được cô lập từ vi khuẩn sống trong đồng cỏ, cho thấy có thể vẫn còn nguồn chưa được khai thác từ đất.• Sân golf: Ivermectin là một loại thuốc dùng để điều trị một số bệnh giun ký sinh trùng đã cứu sống được hàng triệu người. Nó chữa các bệnh như bệnh mù lòa đường sông (mù do giun chỉ), bệnh mà một bộ phận những người nghèo nhất

trên Trái Đất mắc phải. Ivermectin được chiết xuất từ một hợp chất khác là Avermectin, sản xuất bởi vi khuẩn Streptomyces avermitilis. Nhà khoa học người Nhật, Satoshi Omura đã cô lập được loài này trên rìa một sân golf ở Kawana, gần Tokyo. Khám phá này đã giúp ông Omura đồng chiến thắng giải Nobel Y học năm 2015.• Môi trường xung quanh hiện tại: Ngoài việc tìm kiếm vi khuẩn sản xuất kháng sinh mới ở những nơi kỳ lạ trên Thế giới, một số nhà khoa học đang tìm kiếm ở phạm vi gần hơn. Adam Roberts, Đại học College London đã điều hành một dự án mang tên "Swab and Send". Dự án này yêu cầu dân chúng lau chùi một bề mặt và gửi nó cho ông để phân tích tìm sự hiện diện của các vi khuẩn sản xuất kháng sinh mới. Người ta đã lục lọi rất nhiều nơi, và các loài vi khuẩn thú vị đã được tìm thấy sống trên tiền, máy bán vé máy bay, mũi của mèo, cạnh tủ lạnh, và cả bộ râu nam giới. Dự án vẫn đang trong giai đoạn đầu, nhưng Roberts cho thấy loại kháng sinh tiếp theo có thể ở ngay dưới mũi chúng ta, theo nghĩa đen.Thách thức phía trước

Kiến attine nhiều khả năng đang sử dụng các kháng sinh tự nhiên trong suốt thời gian chúng nuôi nấm - hơn 50 triệu năm. Theo Hutchings, ngoài loại vi khuẩn chúng nuôi trên lưng, những con kiến attine có thể tiếp nhận các chủng actinomycete bổ sung từ môi trường. Các chủng này thường liên quan đến vi khuẩn Streptomyces, cho thấy các con kiến sử dụng nhiều loại kháng sinh từ một hỗn hợp các chủng actinomycete để ngăn ngừa sự đề kháng xuất hiện trong các vi sinh vật gây nhiễm khuẩn vườn nấm của chúng.

Hutchings nói: "Thực vật và động vật đã sử dụng kháng sinh hàng triệu năm, thậm chí hàng trăm triệu năm, và chúng dường như vẫn có hiệu quả", trong khi chỉ chưa đến 100 năm, con người đã sử dụng sai kháng sinh quá nhiều đến mức hầu hết trong số chúng không còn hiệu quả trong điều trị bệnh nữa".

Giờ đây, thách thức đối với Thế giới đó là

Page 18: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

18

thay đổi nền văn hoá xoay quanh kháng sinh. Di chuyển cách dùng từ một loại thuốc được kê toa dư thừa, sang một loại chỉ được cung cấp trong trường hợp nhiễm trùng đe dọa đến mạng sống.

Hutchings nói: "Câu hỏi còn lại là làm thế nào để tài trợ cho sự phát hiện và phát triển kháng sinh trong tương lai. Đây là những loại thuốc cứu mạng sống nhưng xã hội lại không đánh giá cao. Chúng được bán quá rẻ. Các loại thuốc đời sống và thuốc chống ung thư có

nhiều lợi nhuận hơn”."Vì vậy, thách thức đầu tiên sẽ là quyết định

xem ai sẽ tài trợ cho công tác phát hiện và phát triển, và thách thức thứ hai là kiểm soát việc sử dụng kháng sinh mới. Lý tưởng nhất là chúng ta muốn các chính phủ dự trữ thuốc kháng sinh mới và không bao giờ được sử dụng chúng trừ khi có nguy cơ đe dọa mạng sống", Hutchings kết luận.

Kiến thợ của loài Atta đang ăn và vận chuyển cả một lá cây lớn ở Panama. Ảnh: Christian Linder

Theo www.laboratoryequipment.com

Page 19: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

19BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY

12 chủng vi khuẩn - đối tượng nghiên cứu thuốc mới cấp thiết

Danh sách này “không dùng để cảnh báo về những chủng đa kháng thuốc, mà để chỉ

dẫn cho các nhà nghiên cứu và các công ty dược phẩm thấy đối tượng họ cần ưu tiên”, bà Marie-Paule Kieny, Phó Tổng Giám đốc WHO về Hệ thống Y tế và Đổi mới, trao đổi trong buổi họp báo. Bà nói, các loại thuốc quan trọng thường không phải là sản phẩm sinh lời đáng kể cho các công ty phát triển chúng, nên chính phủ và các cơ quan y tế cần phối hợp để nâng cao khả năng các loại thuốc này được phát triển kịp thời.

Nhiều năm nay, các bác sĩ, nhà nghiên cứu và nhân viên y tế đã cảnh báo về sự gia tăng đề kháng kháng sinh. Một danh sách được phát triển bởi các nhà nghiên cứu tại Đại học Tübingen ở Đức đã tính đến mức độ kháng thuốc của từng lớp tác nhân gây bệnh đã thu được, mức độ chết người có thể, mức độ lan rộng, và gánh nặng nó gây ra cho hệ thống y tế.

Top 3 vi khuẩn đều là vi khuẩn gram âm kháng được nhiều loại thuốc. Chúng chưa lan rộng, nhưng đã gây nhiễm trùng nghiêm trọng, thường xuyên gây tử vong, nhất là đối với những người đã bị suy giảm miễn dịch, bao gồm người cấy ghép tạng, bệnh nhân hóa trị, và người cao tuổi. Ví dụ, chỉ trong

tháng trước, một phụ nữ ở Nevada chết vì nhiễm trùng do CRE, hay còn gọi là vi khuẩn Enterobacteriaceae kháng carbapenem. Những con vi khuẩn này có thể gây ra sự nhiễm trùng chết người nếu chúng trú ngụ trong hệ thống hô hấp hoặc đường máu. Chủng nguy hiểm nhất gần đây đã kháng được một nhóm kháng sinh tên là carbapenem, nhóm thuốc duy nhất từng tiêu diệt được chúng một cách hiệu quả.

9 tác nhân gây bệnh khác được chọn vào nhóm 12 vi khuẩn nguy hiểm: 6 chủng được xếp loại nguy cơ cao, bao gồm các chủng đề kháng kháng sinh của vi khuẩn Neisseria gonorrhoeae gây bệnh lậu, và các mầm bệnh liên quan đến thực phẩm như Salmonella và Campylobacter. Các vi khuẩn trong nhóm này không gây nhiễm trùng chết người nhiều như 3 vi khuẩn nhóm “khẩn cấp”, nhưng chúng phổ biến rộng hơn. 3 vi sinh vật thuộc nhóm “nguy cơ trung bình” đều bị một số loại thuốc khống chế, nhưng có độ kháng ngày càng tăng.

Bà Petra Gastmeier, Giám đốc Viện Vệ sinh và Y học Môi trường tại ĐH Y Khoa Charité ở Berlin, không tham gia phát triển danh sách, nói rằng danh sách đã “chỉ rõ các ưu tiên đúng hướng”.

Bạn có thể chưa bao giờ nghe nói về Acinetobacter baumannii, Pseudomonas aeruginosa, hoặc Enterobacteriaceae - nhưng 3 kẻ giết người này đứng đầu một danh sách mới, do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tại Geneva, Thụy Sĩ, công bố về các loại vi khuẩn cần thuốc mới. Danh sách này được công bố chứa 12 vi khuẩn và họ vi khuẩn, trong đó top 3 được xếp vào nhóm “khẩn cấp”.

Page 20: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

20

Trên thị trường hiện nay, thuốc kháng sinh không phải là một khoản đầu tư hấp dẫn, bà Kieny nói. Khi được sử dụng hợp lý, kháng sinh chỉ được uống trong một thời gian ngắn, nên không mang lại lợi nhuận cao như thuốc dành cho các bệnh mãn tính. Bà Kieny nói, “và thay vì cố gắng tối đa hóa doanh số, chúng ta cần hạn chế sử dụng” để làm chậm lại sự xuất hiện không tránh khỏi của việc kháng thuốc. Một phần của giải pháp sẽ là tìm cách mới để khen thưởng các công ty phát triển kháng sinh, bà Kieny cho biết. Một ý tưởng đó là đồng ý trả cho các công ty một khoản chi phí trước, hoặc một “phần thưởng” ngay khi loại thuốc mới có mặt trên thị trường, với

các hướng dẫn kèm theo để nó được sử dụng thật ít. Nhưng chính phủ hoặc các nhà tài trợ phải đồng ý trả khoản tiền thưởng này.

WHO đã công bố danh sách này trước Hội nghị Chuyên gia Y tế G20 tại Berlin, nơi chủ đề về đề kháng kháng sinh là một phần quan trọng trong nghị sự. Sự tập trung này rất đúng đắn, bà Gastmeier nói. “Đây không phải là vấn đề chúng ta có thể giải quyết ở tầm quốc gia, và nó là một vấn đề mà các nước thu nhập vừa và thấp gắn liền với các nước thu nhập cao”. Một ví dụ quan trọng như: Người phụ nữ chết ở Nevada đã ở Ấn Độ một thời gian, và khả năng cao cô ấy bị nhiễm chủng vi khuẩn có tính kháng ở đây.

DANH SÁCH CÁC MẦM BỆNH ƯU TIÊN ĐỂ NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN KHÁNG SINH MỚI

Cấp độ 1: Khẩn cấp

Acinetobacter baumannii, kháng carbapenemPseudomonas aeruginosa, kháng carbapenemEnterobacteriaceae, kháng carbapenem, kháng cephalosporin thế hệ thứ 3

Cấp độ 2: Nguy cơ cao

Enterococcus faecium, kháng vancomycinStaphylococcus aureus, kháng methicillin, kháng vancomycin trung cấpHelicobacter pylori, kháng clarithromycinCampylobacter, kháng fluoroquinoloneSalmonella spp., kháng fluoroquinoloneNeisseria gonorrhoeae, kháng cephalosporin thế hệ thứ 3, kháng fluoroquinolone

Cấp độ 3: Nguy cơ trung bình

Streptococcus pneumoniae, không bị thương tổn bởi penicillinHaemophilus influenzae, kháng ampicillinShigella spp., kháng fluoroquinolone

Page 21: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY21

LỄ KÝ KẾT THỎA THUẬN HỢP TÁC GIỮA VINACERT VÀ TRUNG TÂM KHẢO, KIỂM NGHIỆM VÀ KIỂM

ĐỊNH GIỐNG VẬT NUÔI, THỨC ĂN CHĂN NUÔI

Chiều ngày 02 tháng 03 năm 2017, Lễ Ký kết Bản Thoả thuận Hợp tác trong hoạt động đánh giá sự phù hợp lĩnh vực thức ăn chăn nuôi giữa Trung tâm Khảo, kiểm nghiệm và kiểm định giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi (thuộc Cục Chăn nuôi) và Công ty Cổ phần Chứng nhận và Giám định VinaCert đã diễn ra trong không khí trang trọng tại trụ sở VinaCert tại Hà Nội. Đây là sự kiện rất thiết thực góp phần xây dựng ngành chăn nuôi phát triển bền vững.

Tham dự lễ ký kết có ông Hoàng Thanh Vân – Cục trưởng Cục Chăn nuôi, ông Tống Xuân

Chinh – Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi, ông Nguyễn Văn Trọng – Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi, ông Phương Văn Vĩnh – Giám đốc Trung tâm Khảo, kiểm nghiệm và kiểm định giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi. Về phía VinaCert có ông Nguyễn Hữu Dũng– Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc, ông Nguyễn Văn Thanh – Bí thư Chi bộ VinaCert, ông Phạm Văn Thành – Chủ tịch Hội đồng Cố vấn.

Buổi lễ cũng đón nhận sự tham gia đông đủ của các cố vấn, lãnh đạo phòng ban chức năng của VinaCert; CBNV Trung tâm Khảo, kiểm nghiệm và kiểm định giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi cũng như CBNV Công ty VinaCert.

Sau một thời gian cùng trao đổi về chủ đề:

Trên cơ sở nguồn lực hiện có của mỗi bên, làm thế nào để nâng cao năng lực đánh giá sự phù hợp lĩnh vực thức ăn chăn nuôi góp phần vào sự phát triển bền vững của ngành chăn nuôi nói chung? Trung tâm Khảo, kiểm nghiệm và kiểm định giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi và VinaCert đã thống nhất được nhiều nội dung hợp tác để thực hiện mục tiêu trên.

Tại buổi ký kết, ông Phương Văn Vĩnh đã giới thiệu tổng quan về Trung tâm Khảo, kiểm nghiệm và kiểm định giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi với các hoạt động được coi là thế mạnh nổi bật đồng thời nói lên tầm quan trọng của việc hợp tác.

Giám đốc Trung tâm Khảo, kiểm nghiệm và kiểm định giống vật nuôi,thức ăn chăn nuôi - ông Phương

Văn Vĩnh phát biểu tại buổi lễ

Page 22: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

22

Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty VinaCert - ông Nguyễn Hữu Dũng cũng đã có bài phát biểu giới thiệu về quá trình hình thành, phát triển, cơ cấu tổ chức của VinaCert cùng những chức năng, thế mạnh và thành tựu đáng tự hào mà VinaCert đã đạt được trong những năm qua.

Ông Nguyễn Hữu Dũng thuyết trình về năng lực của VinaCert

Chương trình hợp tác lần này của hai bên là nhằm cùng phối hợp, chia sẻ kinh nghiệm trong hoạt động: Đào tạo lấy mẫu thức ăn chăn nuôi; đào tạo chuyên gia đánh giá VietGAP; đánh giá hiện trường chất lượng lô hàng; phân tích các sản phẩm trong lĩnh vực chăn nuôi; kinh nghiệm quản lý và điều hành phòng thử nghiệm; sử dụng vật liệu chuẩn ….dựa trên thế mạnh của mỗi bên.

Dưới sự chứng kiến của đại diện Ban lãnh đạo Cục Chăn nuôi cũng như đại diện hai đơn vị hợp tác, ông Nguyễn Hữu Dũng và ông Phương Văn Vĩnh đã đặt bút kí bản thỏa thuận tạo mốc son đánh dấu quá trình hợp tác tốt đẹp và lâu dài giữa hai bên.

Đại diện VinaCert và Trung tâm Khảo, kiểm nghiệm và kiểm định giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi ký kết thỏa thuận hợp tác

Cục trưởng Hoàng Thanh Vân đã nhấn mạnh: “Sự kiện này được coi là một sáng kiến thiết thực và rất phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường hiện nay khi mà đất nước đang hội nhập sâu rộng với quốc tế, chăn nuôi phát triển rất mạnh, các sản phẩm của chăn nuôi đang chuẩn bị vượt ra khỏi lãnh thổ quốc gia, và thức ăn chăn nuôi đang trở thành lĩnh vực phát triển nóng tại Việt Nam. Việt Nam được đánh giá đứng thứ 12 Thế giới và đứng đầu khu vực ASEAN về sản lượng thức ăn chăn nuôi, tốc độ tăng trưởng về sản xuất thức ăn chăn nuôi cho lợn đứng đầu châu Á. Cùng với đó, Việt Nam cũng trở thành quốc gia có tỷ lệ sử dụng thức ăn hỗn hợp trong chăn nuôi đứng ở top 5 Thế giới. Để có được kết quả này phải kể đến sự cố gắng rất lớn của Chính phủ, của ngành nông nghiệp trong đó có vai trò quan trọng của các đơn vị được Nhà nước chỉ định thực hiện giúp Nhà nước công tác Kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi nhập khẩu, chứng nhận hợp quy sản phẩm thức ăn chăn nuôi”.

Page 23: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

23

Ông Hoàng Thanh Vân đánh giá: “VinaCert là một trong những đơn vị hoạt động “chuẩn ISO nhất” hiện nay, được khách hàng đánh giá rất cao và được các cơ quan Nhà nước tin tưởng. Năng lực của VinaCert tăng lên không ngừng và sẽ còn phát triển hơn nữa trong tương lai với minh chứng là rất nhiều cơ quan bộ ngành đã chỉ định cho VinaCert thực hiện các công tác chuyên môn phục vụ quản lý nhà nước. Việc ký kết giữa hai đơn vị trong đánh giá sự phù hợp thức ăn chăn nuôi là cần

thiết để hỗ trợ lẫn nhau, bổ trợ cho nhau trong quá trình phát triển, đồng thời đây cũng là sự kiện đánh dấu bước đi mới trong xây dựng liên kết hoạt động tạo điều kiện cho CBNV hai bên nâng cao năng lực nghề nghiệp cũng là tăng cường giám sát lẫn nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được Nhà nước phân công”.

VinaLAB

Page 24: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

24

Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm tích cực

Cùng với việc thuê đúng người, tạo ra một môi trường làm việc tốt cũng cần thiết để nuôi dưỡng và duy trì văn hoá công sở vững chắc.

Điểm mấu chốt là những người phù hợp và một môi trường tích cực

Trong một bài viết đăng gần đây của LabManager, bà Magi Graziano, Giám đốc Điều hành của Conscious Hiring® and Development (KeenAlignment), trích dẫn văn hoá là "yếu tố thúc đẩy số một về sự tham gia của nhân viên và hiệu suất làm việc", chỉ ra mức độ quan trọng của nó đối với bất kỳ công

ty nào, dù làm khoa học hay không. Việc thuê đúng người là bước quan trọng nhất trong việc xây dựng văn hóa làm việc mạnh trong phòng thử nghiệm (PTN). Tuy nhiên, tạo ra một môi trường làm việc tốt cũng cần thiết để giúp nuôi dưỡng và duy trì nền văn hoá công sở vững chắc này. Bà Celeste Reese, Quản lý PTN tại Học viện Nghiên cứu Ma túy của Đại học Pittsburgh, nói rằng đối với nơi làm

Page 25: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY25

TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM

việc của bà, việc tạo ra bầu không khí làm việc nhóm đặc biệt quan trọng trong PTN.

"Điều quan trọng là lắng nghe ý kiến đóng góp của nhân viên và cho phép họ tham gia các cuộc thảo luận liên quan đến nghiên cứu cũng như các cuộc họp liên quan đến cơ sở vật chất". Bà nói thêm rằng việc phát triển một không gian làm việc dễ chịu cũng rất quan trọng. "Chúng tôi xác định rõ các quy tắc về “công dân PTN” và nghi thức xã giao để không gian chung và trang thiết bị dùng chung gọn gàng và được duy trì tốt. Ngoài ra, chúng tôi đã tạo ra một khu vực nghỉ ngơi dễ chịu bên ngoài PTN, nơi nhân viên có thể thưởng thức những tách cà phê và trò chuyện với nhau".Giữ mọi người đồng thuận

Các nhà lãnh đạo Biotron Lab, một trung tâm thuộc trường Đại học Wisconsin-Madison cung cấp môi trường kiểm soát cho nhiều nhu cầu nghiên cứu và thử nghiệm, cũng tập trung xây dựng đội ngũ và phát triển một môi trường làm việc tích cực cho nhân viên. Giám đốc Biotron, bà Hannah Carey và Trợ lý Giám đốc Jacob Schoville lưu ý rằng sự gắn kết đồng đội được củng cố bằng cách nhấn mạnh sự hợp tác, giao tiếp và tôn trọng giữa các nhân viên, bao gồm cả thảo luận mở trong các cuộc họp nhân viên. Biotron Lab cố gắng duy trì bầu không khí cởi mở tại nơi làm việc không chỉ đối với nhân viên chính thức mà còn cả các sinh viên làm việc bán thời gian giúp đỡ các chương trình khác nhau, cũng như các nhà nghiên cứu và các học viên làm việc trong cơ sở. Ví dụ như các bữa ăn vặt và lễ kỷ niệm các cột mốc của nhân viên thông qua các sự kiện xã hội. Họ thậm chí còn tổ chức một loạt các cuộc đàm thoại không chính thức 20-30 phút giữa các nhà điều tra nghiên cứu hoặc các thành viên PTN. Những cuộc đàm thoại này cho phép nhân viên Biotron quen thuộc hơn với các mục tiêu và tầm quan trọng của nghiên cứu mà công việc của họ đang hỗ trợ.

Trong bài viết của mình, bà Graziano liệt kê sự giao tiếp cởi mở và "phản đối tiêu cực" là

hai trong số các trụ cột của một văn hoá làm việc mạnh. Nhà quản lý cũng phải chú ý đến các hoạt động của người lao động để phát hiện ra vấn đề trước khi chúng trở thành những vấn đề lớn có thể đe doạ sự hài hòa trong công việc. "Khi nhà quản lý có mặt và nhận thức được cảm xúc và cách làm việc của nhân viên, thì có thể rõ ràng nhận ra ai đó không vui hoặc buồn", bà viết. "Nhà lãnh đạo sắc bén luôn chú ý đến những nỗi lo lắng đó và hỗ trợ người của họ, điều này giúp họ vượt qua được những yếu tố gây giảm động lực làm việc".

Đối với Reese, có một dấu hiệu quan trọng mà bà tìm kiếm để cho biết được thời điểm nền văn hóa PTN của mình có thể đi xuống.

"Dấu hiệu cảnh báo chính mà tôi tìm kiếm đó là khi người ta tự cô lập mình, đến muộn, hoặc không tương tác với các bạn đồng nghiệp trong PTN”, Reese nói. “Điều này cho tôi biết rằng họ không còn hào hứng với công việc và có thể có vấn đề nào đó”. Bà đồng ý với quan điểm rằng việc tuyển dụng đúng người là cách quan trọng nhất để xây dựng một nền văn hoá mạnh.Tạo động lực cho nhân viên

"Khi tôi thuê nhân viên, tôi tìm kiếm những người háo hức làm khoa học và nghiên cứu, những người sẽ phù hợp với các thành viên lớn tuổi của PTN", Reese nói. Bà bổ sung rằng việc truyền đạt các chiến lược của PTN và cung cấp phản hồi cho nhân viên cũng rất quan trọng . "Các nhân viên được tham gia các cuộc “họp nhóm” nghiên cứu để họ có thể ghi nhận phản hồi từ các điều tra viên chính về các dự án của họ và cũng cung cấp đầu vào theo hướng của dự án. Chúng tôi cũng có các cuộc họp nhân viên hàng tháng để thảo luận bất kỳ vấn đề nào của cơ sơ hoặc có đề xuất nào”. Giống như Viện Nghiên cứu Ma túy, Biotron Lab cũng tổ chức các cuộc họp nhân viên thường xuyên, 2 lần một tuần, điều hành bởi Schoville để thảo luận về bất kỳ mối quan tâm nào, tình trạng bảo trì cơ sở hạ tầng, các dự án mới và giao tiếp với các nhà nghiên cứu, và các vấn đề khác về hoạt động hoặc lập kế hoạch. Xen

Page 26: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

26

kẽ giữa những cuộc họp này, Schoville cũng gặp riêng từng nhân viên phòng thí nghiệm trong một buổi họp nửa ngày để thảo luận các công việc đang diễn ra và sắp tới trong đơn vị của họ để giữ vững tiến trình và nắm được bất kỳ vấn đề nào mà cá nhân họ phải đối mặt.

Tuy nhiên, phần lớn các nhà khoa học dường như không cần quá nhiều sự giúp đỡ của các nhà quản lý để duy trì động lực, Reese nói.

Bà giải thích: "Tôi có thể nói rằng, nhìn chung, các nhà khoa học có tính tò mò và có động lực". Tất cả nhân viên của chúng tôi đều tham gia hết mình vào các dự án mà họ được giao. Khi mọi người hào hứng về công việc họ đang làm, tôi nghĩ rằng một nền văn hóa làm việc mạnh sẽ phát triển tự nhiên".

Tuy nhiên, bà cho biết thêm một thách thức quan trọng trong việc duy trì nền văn hoá mạnh đó là tất cả mọi người đều bận rộn, phải đảm nhận nhiều vai trò và dự án trong tình hình kinh tế khó khăn hiện nay, nơi nguồn vốn nghiên cứu khan hiếm. Một lần nữa, chọn đúng người cho PTN và cập nhật thông tin về tiến trình của họ thông qua giao tiếp và các cuộc họp thường xuyên là những cách chính để đối phó với thách thức đó.Đào tạo và phát triển chuyên môn

Đào tạo và phát triển chuyên môn cũng đóng vai trò trong việc duy trì văn hoá PTN hiệu quả. Như Graziano viết: "Tốc độ đổi mới đang gia tăng theo tốc độ gây tê liệt não bộ, và cho dù vai trò của người đó là gì đi nữa, thì kỹ năng của hôm nay sẽ không đủ cho công việc của ngày mai". Bà nói thêm rằng đối với các nhà quản lý, việc giúp đỡ sự phát triển chuyên môn của nhân viên không chỉ bổ sung vào các kỹ năng mà họ có thể đóng góp cho công ty, mà còn tạo cảm giác biết ơn cho nhân viên, khiến họ có động lực hơn để làm hết sức mình trong công việc. Tại Biotron Lab, nhân viên tham gia vào các hoạt động phát triển chuyên môn khi nguồn ngân sách và thời gian cho phép. Các nhân viên được khuyến khích "đi học, tham gia các hội thảo, và tham dự các hội nghị địa

phương để có kinh nghiệm và thông tin về các công nghệ và sản phẩm mới". Tuy nhiên, bà Carey nói rằng "thời gian và ngân sách hạn chế là thách thức trong việc cung cấp cho nhân viên các khóa đào tạo mà họ yêu cầu".

Graziano chỉ ra rằng các nhà lãnh đạo và nhà quản lý không nên quên đi sự phát triển chuyên môn của chính họ, vì hoạt động đào tạo như vậy có thể giúp họ giao tiếp tốt hơn và khuyến khích nhân viên cố gắng trong việc đạt được các mục tiêu chính của nơi làm việc.

Các phần thưởng ở nơi làm việc, có thể bao gồm việc đào tạo và phát triển chuyên môn, là một khía cạnh quan trọng khác của việc duy trì nền văn hoá mạnh.Có sự cá nhân, nhưng không cá nhân quá

Cuối cùng, một chút yếu tố cá nhân là điều thiết yếu trong việc xây dựng nền văn hoá lý tưởng trong PTN, dù đạt được thông qua các cuộc trò chuyện bình thường lúc uống cà phê hoặc ăn trưa, hoặc chỉ trong công việc hàng ngày trong PTN. Tuy nhiên, trong khi việc phát triển mối quan hệ cá nhân cũng như quan hệ kinh doanh với nhân viên là điều quan trọng để tạo ra một môi trường làm việc tích cực, các nhà quản lý cần cẩn thận để không để những mối quan hệ như vậy can thiệp vào các mục tiêu chính của PTN.

Reese nói về những lời khuyên mà bà sẽ cung cấp cho các nhà quản lý PTN mới, với hy vọng tạo ra nền văn hoá tốt nhất trong PTN của họ: "Hãy làm gương, thân thiện với nhân viên, nhưng hãy nói rõ rằng một cơ sở nghiên cứu thành công là mục tiêu quan trọng”. "Hãy dành thời gian để tìm hiểu nhân viên và lắng nghe những đề xuất của họ, nhưng đưa ra quyết định dựa trên nhu cầu của toàn bộ cơ sở".

Theo www.labmanager.com

Page 27: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY27

Mojca Strazisar nói về thách thức trong

quy trình công việc chuẩn bị mẫuMojca Strazisar là một nhà khoa học tại Cơ sở Dịch Vụ Gene thuộc Trung tâm Khoa học Phân tử VIB-UAntwerp, với trọng tâm là công nghệ gene. 6 năm trước bà chuyển đến Bỉ để bắt đầu nghiên cứu sau tiến sĩ. Khoảng 2 năm trước, bà đã nhận vai trò Giám đốc Cơ sở Dịch vụ Gene, một công việc bà rất yêu thích.

Page 28: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

28

Câu hỏi: Những công việc mà phòng thử nghiệm của bà đang thực hiện là gì?Đáp: Cơ sở Dịch vụ Gene (GSF) là một trong các cơ sở cốt lõi liên kết với VIB (Viện Công nghệ Sinh học Flemish) và Đại học Antwerp. Chúng tôi cung cấp dịch vụ giải trình tự gene theo phương pháp Sanger cho các viện hàn lâm, viện nghiên cứu, và các khách hàng của bên thứ ba, kể từ năm 2013, chúng tôi còn cung cấp dịch vụ giải trình tự gene thế hệ mới (NGS) trên nền tảng Illumina. Chúng tôi có trụ sở tại Antwerp trong không gian xanh tươi tuyệt đẹp của Khuôn viên Drie Eiken.Câu hỏi: Bà hiện đang hỗ trợ những dự án nghiên cứu quan trọng nào?Đáp: Là một cơ sở dịch vụ chủ yếu cung cấp dịch vụ giải trình tự gene Sanger, đôi khi chúng tôi không nhận thấy sự liên quan của các dự án. Chúng tôi nhận các đơn đặt hàng và mẫu để xử lý và cung cấp kết quả. Nhưng chúng tôi có liên kết với khoa học, vì đang nằm trong một môi trường nghiên cứu. Hầu hết các dịch vụ NGS của chúng tôi giúp các nhà nghiên cứu khám phá những đột biến thú vị và quan trọng trong hệ gene của con người, góp phần hoặc liên quan đến các loại rối loạn thần kinh khác nhau.Câu hỏi: Tổng số nhân viên hiện tại của bà?Đáp: Chúng tôi hiện có 9 nhân viên, nhưng số lượng luôn thay đổi bởi vì chúng tôi có thể nhận sinh viên và thực tập sinh. Câu hỏi: Cơ sở đang sử dụng những công nghệ chính nào? Đáp: Đối với dịch vụ Sanger, chúng tôi sử dụng ba máy giải trình tự (ABI 3730xl) với thông lượng rất cao. Vào thời điểm thích hợp, chúng tôi đã thiết lập một cơ sở giải trình tự gene với công nghệ tự động và tiên tiến để có thể cung cấp dịch vụ NGS. Tại đây, chúng tôi chủ yếu thực hiện giải trình tự gene lại theo mục tiêu, giải trình tự exome và cả giải trình tự RNA.Một trong những phần quan trọng nhất trong công việc của chúng tôi là kiểm soát chất lượng kỹ lưỡng trong nhiều bước của các giao thức NGS. Khi lấy mẫu, chúng tôi kiểm tra chất lượng bằng cách sử dụng quang phổ UV-Vis và quang phổ huỳnh quang, nhưng chúng cung cấp thông tin không đầy đủ về tình trạng mẫu. Do đó, chúng tôi sử dụng các bộ phân tích phân mảnh, chẳng hạn như Công cụ Phân tích Phân mảnh của Công nghệ Phân tích Nâng cao (AATI), để định lượng và đánh giá mẫu, thư viện mẫu và sự thành công của các giao thức. Biết được tính toàn vẹn và kích cỡ của các mảnh, cho dù đó là mẫu gốc hoặc mẫu thư viện, là bước quan trọng trong tất cả các giao thức liên quan đến NGS. Khi làm việc với dịch vụ sắp xếp thông lượng trung gian và cao, Công cụ Phân tích Phân mảnh cho sự linh hoạt nhất về loại phân tích và số lượng mẫu.Câu hỏi: Loại hình chuẩn bị mẫu nào liên quan đến công việc của cơ sở?Đáp: Bên cạnh giải trình tự gene Sanger hoàn toàn tự động ngoại trừ một vài bước, chúng tôi cũng thực hiện việc tách DNA và RNA bằng các hệ thống PSS. Trong quy trình NGS, chúng tôi thực hiện tất cả mọi thứ bằng tay hoặc tự động một nửa. Ví dụ, lọc, chia nhỏ và tổng hợp PCR, tất cả đều được thực hiện trên công cụ Biomek (của Beckman Coulter) (NXp, FXp, và NX), nhưng chuẩn bị thư viện được thực hiện bằng tay. Đối với dịch vụ NGS, đặc biệt là giải trình tự exome và trình tự RNA, các nhà nghiên cứu hoặc khách hàng cung cấp mẫu và yêu cầu dịch vụ, và chúng tôi tiến hành từ đó. Chúng tôi thực hiện tất cả việc kiểm soát chất lượng cần thiết; kiểm soát chất lượng của mẫu, thư viện mẫu, và chạy giải trình tự gene, chúng tôi xây dựng các thư viện mẫu và trình tự gene. Chúng tôi cũng có một đơn vị thông tin sinh học nội bộ để phân tích dữ liệu.Câu hỏi: Trung bình một tháng cơ sở của bà xử lý bao nhiêu mẫu?Đáp: Cũng khó mà đưa ra con số chính xác, vì một số dịch vụ của chúng tôi phụ thuộc vào dự

Page 29: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY29

án, nhưng trung bình chúng tôi xử lý khoảng 50.000 mẫu/tháng cho giải trình tự gene Sanger và khoảng 3.000 mẫu/tháng cho NGS: sắp xếp lại trình tự theo mục tiêu, giải trình tự exome, giải trình tự RNA.Câu hỏi: Bà thường xử lý loại mẫu nào nhiều nhất?Đáp: Hầu hết các mẫu của chúng tôi (DNA hay RNA) đều có nguồn gốc từ con người, nhưng chúng tôi có thể làm bất kỳ loại mẫu vi khuẩn, thực vật, hoặc động vật nào. Làm dịch vụ, chỉ cần mẫu là DNA, RNA, hoặc dẫn xuất, như cDNA, amplikon, plasmid, mẫu thư viện, chúng tôi đều có thể xử lý.Câu hỏi: Bà phải đối mặt với thách thức nào trong quá trình chuẩn bị mẫu?Đáp: Điều tôi khó chịu nhất, nếu tôi có thể gọi nó như thế, đó là đôi khi khả năng tái sản xuất trong các giao thức chuẩn bị mẫu khác nhau là rất thấp. Tôi nghĩ rằng sự tiên tiến vẫn chưa đạt đến điểm mà có thể hoàn toàn hiểu được nguồn gốc của sự tái sản xuất thấp này. Ngoài ra, chúng tôi cố gắng có độ dung sai cho lỗi bằng 0 hoặc gần bằng 0. Vì vậy, chúng tôi cố gắng để thống nhất các loại mẫu khác nhau, nguồn gốc khác nhau và chiết xuất khác nhau để có chất lượng dữ liệu có thể tái tạo được.Một điều cũng là thách thức tại thời điểm này đó là vẫn còn một số nút thắt cổ chai, chắc chắn có trong các bước QC (kiểm soát chất lượng). Chúng tôi đã giới thiệu một số bước kiểm soát chất lượng bổ sung trong quá trình chuẩn bị thư viện mẫu, và chúng thường là những nút cổ chai của toàn bộ giao thức. Chúng tôi phân tích tất cả các mẫu sau mỗi hai hoặc ba bước của giao thức, và điều đó cần có thời gian. Nó giúp sử dụng sự kiểm soát chất lượng hàng đầu và thiết bị xử lý mẫu nội bộ làm việc theo GLP (thực hành phòng thí nghiệm tốt), cũng như sử dụng LIMS (hệ thống quản lý thông tin phòng thí nghiệm) để làm giảm các vấn đề về khả năng tái sản xuất, thất bại, và các sai sót của con người, nhưng hiện giờ những thách thức đó chúng tôi đang phải đối mặt hàng ngày.Câu hỏi: Bà làm thế nào để đối phó với những thách thức này?Đáp: Cách dễ nhất là theo dõi những gì mới trên thị trường. Chúng tôi phải điều chỉnh các giao thức hiện có dựa trên nguồn gốc của mẫu hoặc chất lượng của chúng. Điều quan trọng là phải hiểu được nguồn gốc của các mẫu, các dung môi pha loãng chúng hoặc sử dụng để lưu giữ chúng, sự tương quan giữa kết quả tốt và chất lượng mẫu. Ví dụ, nếu bắt đầu với mẫu mà không biết chất lượng của mẫu hoặc chuẩn bị mẫu, cuối cùng bạn cố gắng giải thích dữ liệu trình tự, bạn không thể luôn luôn kết luận xem những gì bạn quan sát được có liên quan đến sinh học hay là kết quả bị cản trở bởi một vấn đề kỹ thuật xảy ra đâu đó trong quá trình thao tác mẫu.Câu hỏi: Những thay đổi lớn nào bà đã trải qua đối trong quá trình chuẩn bị mẫu trong vài năm gần đây?Đáp: Hàng tháng, có những quy trình mới và các sản phẩm mới trên thị trường. Điều đó thực sự rất, rất tốt, vì có nhiều lựa chọn hơn. Chúng tôi nhận thấy có thiết bị tốt hơn, giá thành thiết bị cũng thấp hơn, và nhiều giao thức có thể chạy trên cùng một nền tảng. Các giao thức và các công cụ được cập nhật, điều chỉnh phù hợp với các yêu cầu khác nhau của các nhà nghiên cứu khác nhau. Có vẻ như có rất nhiều nhà sản xuất đang thực sự lắng nghe những câu hỏi hoặc yêu cầu của các nhà nghiên cứu.Câu hỏi: Những thay đổi đó có ý nghĩa gì đối với phòng thí nghiệm của bà?Đáp: Về cơ bản, chúng tôi chỉ cần ít thời gian hơn rất nhiều để có thể xử lý công việc. Các dụng cụ, ví dụ như DropSense 16, DropSense 96 (của Trinean), máy xử lý chất lỏng Biomek và Công cụ Phân tích Phân mảnh giúp chúng tôi rất nhiều trong công việc hàng ngày, vì chúng có thể

Page 30: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

được điều chỉnh phù hợp với các yêu cầu mẫu và dự án khác nhau, các giao thức khác nhau, sử dụng vật liệu một cách không lãng phí. Chúng tôi cần hiểu rõ hơn về những gì đang xảy ra với mẫu, kết quả đạt được như thế nào và kết quả có ý nghĩa gì. Chúng tôi có thể theo dõi chất lượng của trình tự và chất lượng của việc chuẩn bị mẫu chặt chẽ hơn. Điều đó giúp chúng tôi có khả năng để làm tốt hơn, nhiều hơn với chi phí không đổi.Câu hỏi: Bà có thể tiết lộ kế hoạch sắp tới cho phòng thí nghiệm của bà? Bà mong đợi công việc chuẩn bị mẫu của mình sẽ thay đổi như thế nào trong tương lai?Đáp: Mở rộng danh mục dịch vụ phục vụ của chúng tôi theo hướng NGS. Chúng tôi cũng muốn tham gia vào việc giải trình tự gene các đoạn dài hơn. Trên thực tế, chúng tôi muốn sử dụng thậm chí các giao thức ngắn hơn, các giao thức tốt hơn với khả năng tái sản xuất tốt hơn, để chất lượng dữ liệu có thể được thống nhất hơn. Bởi vì chúng tôi vẫn kết nối nhiều với các nhà nghiên cứu và các dự án cụ thể, những gì chúng tôi thực sự cần trong phòng thí nghiệm là các công cụ, chẳng hạn như thiết bị Fragment Analyzer-12 của AATI và Fragment Analyzer-96, chúng có thể thực hiện kiểm soát chất lượng và xử lý mẫu thông lượng từ trung bình đến cao. Nếu chúng tôi phải xử lý một số lượng mẫu hạn chế - không phải một, nhưng cũng không phải hàng trăm mẫu một lúc - chúng tôi không muốn lãng phí nguyên vật liệu hoặc thời gian.Câu hỏi: Bà thích nhất điều gì ở công việc của mình? Tại sao?Đáp: Chắc chắn là việc giải quyết những thách thức. Tìm ra cách thức hoạt động của công nghệ, sau đó theo kịp các giải pháp mới đưa ra thị trường, thí nghiệm và thử những điều mới mẻ, cố gắng để giải quyết câu hỏi của nhà nghiên cứu từ khía cạnh công nghệ, và đối với cá nhân tôi, bởi vì chúng tôi vẫn ở trong Bộ phận Nghiên cứu, có liên quan mật thiết với nghiên cứu và khoa học. Vì vậy, không phải chỉ là đưa mẫu đến và có kết quả đi ra, mà chúng tôi muốn và cũng có thể hiểu được sự liên quan sinh học đằng sau dịch vụ.Câu hỏi: Bà có lời khuyên nào cho các phòng thí nghiệm đang làm công việc tương tự và đang gặp phải những thách thức với việc chuẩn bị mẫu?Đáp: Tôi nghĩ đây không phải là lời khuyên chỉ dành cho các phòng thí nghiệm trong ngành, mà tất cả mọi người nên hiểu được sự liên quan của những gì mình làm. Nếu bạn không hiểu từng bước thì sẽ không đủ để làm theo một giao thức, vì sẽ luôn có sự thay đổi để bạn phải thích ứng. Và nếu không có kiến thức, bạn sẽ không thể giải quyết được những thách thức. Ngoài ra, một trong những tính năng quan trọng nhất của công việc của chúng tôi là phải kiểm soát chất lượng công việc một cách kỹ lưỡng để cung cấp dịch vụ tốt nhất có thể.

Theo www.labmanager.com

30

Page 31: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

CHƯƠNG TRÌNH THỬ NGHIỆM THÀNH THẠO - VinaLAB PT 2017 - Tổng hợp

TT Mã số Tên chương trình Chỉ tiêu

Loại chương

trình

Phí tham dự

Thời gian dự kiến (Tháng)

CHƯƠNG TRÌNH THÁNG 4Lĩnh vực Hóa học

1 VPT.2.5.17.01 Chỉ tiêu chất lượng phân bón

Độ ẩm,Hàm lượng Nitơ tổng số, Hàm lượng P2O5, Hàm lượng K2O, Hàm lượng S,

Hàm lượng Cacbon Hữu cơ tổng số,Hàm lượng Axit

Humic,Hàm lượng Axit Fulvic

Định lượng 3.500.000 4

2 VPT.2.5.17.03Chỉ tiêu chất

lượng trong thực phẩm khô

Protein, Béo, Xơ thô, Muối (NaCl), Cacbon hydrat, Tro tổng số, Tro không tan, Chỉ

số peroxide,

Định lượng 3.500.000 4

3 VPT.2.5.17.05* Kim loại trong nước

Asen, Cadimi, Kẽm, Đồng, Magie, Canxi, Sắt, Chì, Mangan, Thủy ngân,

Định lượng 4.000.000 4

4 VPT.2.5.17.09Chỉ tiêu chất lượng trong nước chấm

Hàm lượng Nito toàn phần, Hàm lượng Nitơ axit amin,

Hàm lượng Nitơ amoniac, Độ axit, Hàm lượng muối NaCl

Định lượng 3.000.000 4

5 VPT.2.5.17.58

Phân tích hàm lượng aflatoxin trong thức ăn

chăn nuôi (ngũ cốc)

Aflatoxin B1, Aflatoxin B2, Aflatoxin G1, Aflatoxin G2,

Aflatoxin tổngĐịnh lượng 3.000.000 4

Lĩnh vực Sinh học

6 VPT.2.6.17.07*Vi sinh trong

sản phẩmđộng vật

E.coli Định lượng (CFU/g) 3.000.000 4

7 VPT.2.6.17.08*Vi sinh trong

sản phẩm động vật

Salmonella Định tính 3.000.000 4

8 VPT.2.6.17.10Vi sinh trong

sản phẩm động vật

Clostridium perfringens Định lượng (CFU/g) 3.000.000 4

9 VPT.2.6.17.19 Vi sinh trong thủy sản V.parahaemoliticus Định tính 3.000.000 4

10 VPT.2.6.17.40 Vi sinh trong thực phẩm

Staphylococci dương tính với coagulase (S.aureus và các

loài khác)

Định lượng (CFU/g & MPN/g)

3.000.000 4

11 VPT.2.6.17.41 Vi sinh trong nước mặt

TPC, E.coli, Coliform, Fecal Coliform

Định lượng (CFU

&MPN)3.000.000 4

Page 32: Phát hiện virus trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ riêng Tạo ... · về công nghệ thí nghiệm và công nghệ sinh học Tạo dựng văn hóa phòng thử nghiệm

SỐ 14 - THÁNG 03/2016

Maket mới

SỐ 26 - THÁNG 04/2017