phiêu sinh
TRANSCRIPT
PHIÊU SINH ĐỘNG VẬT
Trần Ngọc Diễm My
Thế nào là Phiêu sinh động vật:
Phiêu sinh động vật là những sinh vật không xương sống có kích thước rất nhỏ, sống trôi nổi
trong các thủy vực như hồ, sông, đại dương…. Chúng có kích thước cơ thể từ vài chục µm
(protozoa) đến hơn 2mm (macrozooplankton). Chúng là bậc thức ăn thứ cấp trong chuỗi thức
ăn của hệ sinh thái thủy sinh, chúng ăn các phiêu sinh thực vật và bị các động vật khác ở những
bậc thức ăn cấp hơn tiêu thụ. Hệ động vật phù du trong các thủy vực nước ngọt chủ yếu là
động vật phù du nguyên sinh, luân trùng, giáp xác râu ngành, giáp xác chân chèo, giáp xác có
vỏ (Lampert, 1997). Ở các hồ tự nhiên, giáp xác và luân trùng là hai nhóm động vật phù du
chiếm ưu thế về năng suất và sinh khối. Ngoài ra, các loài giáp xác bơi nghiêng, một vài loài
thuộc ngành động vật có khoang, ấu trùng sán lá dẹp, chân bụng, ấu trùng côn trùng cũng trải
qua giai đoạn động vật phù du trong quá trình sống của mình (Wetzel, 2001). Phiêu sinh động
vật là một mắt xích quan trọng của chuỗi thức ăn trong thủy vực, chúng là cầu nối giữa nhóm
sinh vật sản xuất (phiêu sinh thực vật – phytoplankton) với các bậc dinh dưỡng cao hơn. Các
nhóm loài kích thước nhỏ như luân trùng, có mối liên hệ mật thiết với hàm lượng chất dinh
dưỡng trong thủy vực, chúng giữ vai trò như những bộ máy lọc nước thông qua việc sử dụng
chất dinh dưỡng làm nguồn thức ăn, các nhóm loài khác với kích thước lớn hơn được coi là
nguồn thực phẩm quan trọng cho cá và các dạng ấu trùng của cá.
Một số nhóm loài phiêu sinh động vật rất nhạy cảm với sự biến đổi của đặc tính môi trường
nước, chúng được coi như là những sinh vật chỉ thị tốt cho điều kiện thủy vực dưới các tác
động bất lợi như sự suy giảm hàm lượng oxy hòa tan, sự gia tăng mức độ dinh dưỡng trong
thủy vực, sự hiện diện của các loại độc chất. Những nhóm loài chính như Crustacea,
Eurotatorea có thể được sử dụng một các hiệu quả trong việc đánh giá chất lượng môi trường
(Crivelli and Catsadorakis, 1997).
Đặc điểm một số nhóm phiêu sinh động vật:
Nhóm Protozoa:
Lớp phụ đơn bào động vật có chiên mao Phytomastigina là nhóm trung gian giữa 2 giới thực
vật và động vật do chúng vừa có diệp lục tố (chlorophyll) để có thể tiến hành quang hợp (tự
dưỡng) lại vừa có khả năng bắt mồi và ăn mồi (dị dưỡng). Tất cả các phiêu sinh động vật thuộc
nhóm này đều có chiên mao nhưng sau khi định hình mẫu bằng formol thì chiên mao bị rụng đi
mất nên ta không thể thấy được chiên mao của chúng khi quan sát dưới kính hiển vi.
Các nhóm đơn bào động vật khác như Sarcodina (đơn bào động vật có giả túc) và Ciliophora
(đơn bào động vật có tiêm mao) thì không có diệp lục tố nên chúng hoàn toàn sống dị dưỡng
bằng cách bắt mồi và ăn những sinh vật nhỏ trong nước. Hình dạng của phiêu sinh động vật
nhóm này rất phong phú và đa dạng: hình dẹp, hình khối, có đuôi hay không đuôi, có gai hay
không có gai…..
Hình 1: Paramecium sp. Hình 2: Vorticella sp.
Hình 3: Trùng tia (Radioarian)
Hình 4: Ceratium sp. Hình 5: Peridinium sp.
Nhóm Rotatoria:
Luân trùng là một trong những nhóm động vật phân bố rộng rãi nhất ở nước ngọt. Kích thước
hiển vi của chúng thường từ 100 – 200 µm, nhỏ nhất khoảng 40 µm, lớn nhất không quá 2mm.
Hình dạng của luân trùng rất khác nhau, các dạng sống phiêu sinh thường có hình túi hoặc hình
cầu như Asplanchna, Testudinella, các dạng sống bám thường có hình phễu như
Collotheca….cơ thể có đối xứng lưỡng trắc hay mất đối xứng, dẹp lưng bụng hay dẹt bên.
Cơ thể chia làm 3 phần: đầu, thân và chân
Phần đầu: cấu tạo bộ máy tiêm mao là đặc điểm riêng biệt của trùng bánh xe. Vì vậy, lớp động
vật này có tên Rotatoria, bộ máy tiêm mao là cơ quan vận chuyển và tạo dòng nước đưa thức
ăn vào miệng. Sơ đồ cấu tạo bộ máy tiêm mao gồm vùng tiêm mao quanh miệng và đai tiêm
mao quanh đầu. Phần trên không có tiêm mao mà có cơ quan cảm giác. Trong trường hợp tiêm
mao chỉ phát triển ở phía trên và phía dưới đai tiêm mao quanh đầu thì có 2 vòng tiêm mao
(vòng trên: trochus, vòng dưới: cingulum).
Nếu có những hàng tiêm mao phát triển ở bờ trên của vùng miệng nối với những hàng tiêm
mao của đai tiêm mao quanh đầu gọi là paratrochus và paracingulum. Nếu một phần phía trước
của vùng miệng có tiêm mao gọi là Pseudotrochus. Nhưng hình dạng và cấu tạo của bộ máy
tiêm mao và sự biến đổi của nó, người ta chia ra làm 9 kiểu cấu tạo bộ máy tiêm mao cơ sở.
Phần thân: có lớp vỏ không thấm nước cuticula chỉ bị phân hủy khi chết. Thành phần hóa học
của vỏ chưa rõ, một số loài vỏ tiêu giảm hoặc không có. Vỏ có thể bọc toàn than hay chỉ một
phần cơ thể.
Tầng biểu bì rất mỏng, gồm nhiều hạt sắp xếp đối xứng, số lượng không nhiều. Trên mặt vỏ có
thể có những gai động hoặc bất động làm cho hình dạng vỏ rất khác nhau, nhất là ở vùng nhiệt
đới, người ta thấy nhiều dạng vỏ có gai rất dài, hình thù kì lạ.
Hình dạng vỏ, số lượng, cách sắp xếp của gai trên vỏ có ý nghĩa rất quan trọng khi phân loại
trùng bánh xe.
Người ta dựa vào vị trí để quy ước tên gọi của các gai như sau: gai bên trước, gai giữa trước,
gai trung gian (gai trước), gai bên sau (gai sau).
Phần chân: phía sau vỏ có lỗ chân. Chân có vỏ cuticula bọc ngoài có thể phân đốt hoặc không
phân đốt, tận cùng bằng vuốt. Hình dạng cấu tạo của chân, ngón và vuốt là đặc điểm phân loại
quan trọng của loài và giống.
Hình 6: Brachionus calyciflorus Hình 7: Rotaria neptunia
Hình 8: Platyias patulus Hình 9: Lecane sp.
Nhóm Cladocera:
Cơ thể có vỏ giáp bọc ngoài, phân đốt cơ thể không nhìn rõ từ bên ngoài, râu II gồm hai nhánh
phát triển lớn, phần phụ có dạng bản mỏng, không phân đốt rõ rệt.
Cơ thể giáp xác râu ngành có thể chia làm 3 phần: đầu, ngực và bụng. Cả ba phần đều không
phân đốt rõ rệt. Toàn cơ thể được bọc trong vỏ giáp trong suốt gồm hai mảnh trái phải dính
nhau về phía lưng. Phần đầu vỏ giáp thường kéo dài về phía trước thành chủy nhọn nhưng cũng
có khi không phát triển (Diaphanosoma, Moina, Ceriodaphnia). Phần sau vỏ giáp đầu, phía
lưng thường có các lỗ đầu gồm lỗ chính và lỗ bên. Ở gốc râu hai bên đầu có khi có nếp gấp của
vỏ giáp tạo thành gờ bên đầu (fornix), có khi thành mũi nhọn lớn. Phần thân vỏ giáp có thể
phân biệt cạnh lưng, cạnh bụng, cạnh sau. Cạnh bụng vỏ giáp có thể có nẹp (Diaphanosoma) có
viền gai hay tơ. Góc sau dưới vỏ giáp có răng hay tròn, có khi dài thành một gia đuôi lớn
(Bosmina). Cạnh sau vỏ giáp có khi liên tục với cạnh bụng, trong trường hợp này đuôi vỏ giáp
thường kéo dài thành núm hoặc gia dài (Daphniidae). Mặt vỏ giáp có thể trơn, có chấm, có
vạch dọc hay mạng ô hình bình hành hay ô nhiều góc. Phần ngực nằm trong vỏ giáp không
phân đốt rõ, có 4-6 đôi chân ngực. Phần bụng kéo dài thành đuôi bụng (post-abdomen), không
có phần phụ, lỗ hậu môn đổ ra cạnh trên ở góc đuôi bụng. Ở phần gốc đuôi bụng trước hậu
môn, thường có một núm lồi nhỏ, có 2 tơ dài, ngay phía trên có khi còn có phần lồi đuôi bụng
hình dải lớn (Daphnia). Ngay trước hậu môn còn có núm trước hậu môn, cạnh trên đuôi bụng
thường có hàng gai đuôi bụng. Mặt bên đuôi bụng có khi có hàng gai hay tơ bên mọc thành
từng đám hay thành dãy song song với cạnh trên. Đầu ngọn đuôi bụng có vuốt ngọn, gốc có thể
có gai gốc.
Hình 10: Moina sp. Hình 11:
Hình 12: Bosminopsis sp. Hình 13: chân của
Nhóm Copepoda:
Giáp xác chân chèo sống tự do có cơ thể và các phần phụ phát triển đầy đủ, sai khác rõ rệt với
nhóm chân chèo sống kí sinh (bọn này thường có cơ thể và phần phụ tiêu giảm).
Cơ thể giáp xác chân chèo có thể chia thành 2 phần, phân biệt tương đối rõ ràng: phần thân
trước (hay phần đầu ngực cephalothorax) và phần thân sau (hay phần bụng –abdomen). Phần
đầu ngực gồm 5 đốt , đốt I thường dài hơn các đốt còn lại, thật ra là do 6 đốt chập lại, không
phân rõ, làm phần đầu ngực nom như chỉ có 4 đốt. Nhóm Cyclopoida đốt V thường hẹp lại gần
bằng các đốt bụng nên thường dễ lẫn với các đốt bụng. Ở họ Diaptomidae, các góc sau đốt V –
VI con cái thường lồi thành góc hay thùy lớn.
Phần bụng ở các nhóm Calanoida, Cyclopoida và một số Harpacticoida thót nhỏ lại rõ rệt so
với phần đầu ngực nên có thể phân biệt hai phần dễ dàng. Phần bụng ở số lớn Harpacticoida
không thót nhỏ lại so với phần đầu ngực vì vậy khó phân biệt hai phần này hơn.
Phần bụng gồm 2-5 đốt, ở con đực phần bụng thường gồm 5 đốt phân biệt rõ ràng. Ở con cái,
đốt I thường chập với đốt II làm thành đốt sinh dục lớn mang buồng trứng. Vì vậy phần bụng
nom như chỉ 3-4 đốt. Đốt sinh dục ở con cái có mang 1-2 buồng trứng. Ở họ Diaptomidae, đốt
sinh dục thường mất đối xứng. Mặt dưới đốt sinh dục có lỗ nhận tinh (spermatheca). Ở nhóm
Cyclopoida trong đốt sinh dục có lỗ nhận tinh (receptaculum seminis). Cả hai bộ phận trên đây
có hình dạng đặc trưng cho mỗi loài, đây là đặc điểm phân loại quan trọng. Đốt cuối cùng của
phần bụng là đốt hậu môn, mang lỗ hậu môn, xung quanh có thể có những cấu tạo phụ (màng,
gờ, gai…) cũng là những đặc điểm phân loại quan trọng ở nhóm Harpacticoida.
Phần bụng tận cùng bằng chạc đuôi (furca) gồm hai nhánh, có hình dạng biến đổi tùy từng
nhóm. Chạc đuôi ở bọn Cyclopoida thường dài, vuông góc, nhóm Calanoida thường ngắn, tròn
đầu (Diaptomidae) hay hẹp dài (Centropagidae), ở bọn Harpacticoida thường rất ngắn. Trên
chạc đuôi có các tơ, gồm:
Tơ ngọn: gồm 4 tơ (tơ ngoài, tơ giữa ngoài, tơ giữa trong, tơ trong mọc ở đầu ngọn).
Tơ cạnh ngoài (tơ bên): gồm 1-2 tơ mọc ở cạnh ngoài chạc đuôi mỗi bên.
Tơ lưng: gồm 1 tơ mọc ở mặt lưng gần đầu ngọn chạc đuôi.
Nhóm Ostracoda:
Thường có kích thước nhỏ, trên dưới 1mm có đặc điểm cơ thể bọc trong vỏ giáp hai mảnh,
không phân đốt rõ và chỉ có 7 đôi phần phụ trong đó có 3 đôi chân ngực.
Vỏ giáp ở Ostracoda nước ngọt thường nhẵn, vỏ trái và phải có thể không đối xứng. Khoảng
giữa vỏ có vết bó cơ khép vỏ, cạnh lưng có dây chằng. Vỏ có thể có màu vàng, xanh nhạt hay
không màu. Cơ thể chia thành phần đầu và phần thân không tách biệt rõ. Phần đầu có mắt lẻ.
Phần phụ đầu gồm 4 đôi: râu I, râu II, hàm trên và hàm dưới. Râu I có một nhánh gồm 7 đốt,
râu II gồm 3-4 đốt, các đốt có tơ, đốt cuối cùng có tơ dài. Hàm trên có tấm nhai có răng, tấm
mang lớn không có tơ và xúc biện phân đốt. Hàm dưới I gồm nhiều tấm nhai có tơ cứng, tấm
mang và xúc biện hàm dưới. Phần phụ ngực gồm 3 đôi có cấu tạo khác nhau. Đôi chân I là
chân hàm có tấm nhai. Ở con đực, xúc biện chân hàm biến thành cơ quan giao cấu. Đôi chân II
là chân bò, đầu có vuốt ngọn dài gồm 2-5 đốt. Đốt chân III biến đổi thành chân chải rửa, đầu
ngọn có móc nhọn. Phần thân tận cùng bằng chạc đuôi (furca) gồm 2 nhánh dài song song chập
với nhau, có khi không đối xứng. Đầu ngọn chạc đuôi có hai vuốt ngọn chập với nhau. Ở gốc
vuốt ngọn có tơ ngọn, gần đầu ngọn chạc đuôi còn có tơ sau, trên cạnh lưng có tơ lưng.
Hình 14: Ba nhóm chính trong giáp xác chân chèo Copepoda
Tầm quan trọng của Phiêu sinh động vật:
Phiêu sinh động vật đặc biệt là luân trùng (Rotatoria), râu ngành (Cladocera) và chân chèo
(Copepoda) là nguồn thức ăn quan trọng cho cá và các động vật không xương sống khác. Luân
trùng được coi là nguồn dinh dưỡng cao cho các loài cá ăn sinh vật phù du. Protein của luân
trùng và giáp xác cần thiết cho sự tăng trưởng mạnh của ấu trùng, cá con nên chúng đóng vai
trò trong nuôi trồng thủy sản. Ngoài ra, một số giống thuộc nhóm râu ngành như Daphnia,
Moina, Diaphanosoma và Pseudosida được nuôi trồng, nhân giống để làm thức ăn trong nuôi
trồng thủy hải sản.
Ngoài ra, phiêu sinh động vật đóng vai trò chính trong việc chuyển tiếp dòng năng lượng từ
phiêu sinh thực vật đến cá. Do kích thước của phiêu sinh động vật không lớn và khả năng trao
đổi chất cao nên phiêu sinh động vật đóng vai trò đáng kể cho sự tái tạo nguồn dinh dưỡng
trong thủy vực. Chúng được xem là mắt xích chính trong chuỗi dinh dưỡng, thực hiện chức
năng quan trọng trong dòng chảy năng lượng của hệ sinh thái thủy sinh.
Các loài phiêu sinh động vật hoàn toàn thường được xem là sinh vật chỉ thị hữu ích cho chất
lượng nước, tình trạng dinh dưỡng và mức độ ô nhiễm. Nhiều loài phiêu sinh động vật được sử
dụng trong nghiên cứu động học sinh thái như Brachionus calyciflorus, Brachionus plicatilis,
Daphnia magna, Ceriodaphnia cornuta. Gần đây, một số nghiên cứu đã cho thấy nhóm giáp
xác chân chèo Cyclops còn được sử dụng cho mục đích kiểm soát sinh học ấu trùng muỗi vằn
nhằm giảm thiểu việc sử dụng các hợp chất hóa học.
VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1 Vật liệu
Lưới Juday vớt phiêu sinh động vật với đường kính miệng lưới là 0.3m, dài
0.9m, cỡ mắt lưới được dùng là XX25 (40 µm)
Lọ nhựa đựng mẫu (100ml)
Formol 5%
Phòng đếm Sedgwick - Rafter
Kim nhọn
Lame và lamelle
Kính hiển vi quang học có độ phóng đại x40, x100, x400
Comptegoute
Kẹp gắp
Keo dán
Ống đong
Hình 14: Lưới Juday thu mẫu phiêu sinh động vật
2 Phương pháp nghiên cứu
2.1 Phương pháp thu mẫu và phân tích các chỉ tiêu nước
Xuất phát từ mục đích của đề tài là khảo sát mối tương quan giữa thành phần phiêu sinh
động vật và các chỉ tiêu lí hóa tính của môi trường nước, những chỉ tiêu lí hóa sau đây được
chọn để phân tích: nhiệt độ của nước, độ trong của nước, pH, EC (electrical conductivity), DO
(dissolved oxygen), NaCl, Al, NO3, NO2 và N (tổng số).
Các chỉ tiêu sau đây được đo ngoài thực địa bằng máy Toaook (kí hiệu máy WQC -
22A) 6 trong 1: nhiệt độ, pH, EC, DO và độ đục của nước. Các chỉ tiêu còn lại được phân tích
trong phòng thí nghiệm trường Đại Học An Giang. Mẫu nước được thu và chứa trong các lọ trữ
mẫu chuyên dùng và được chuyển về phân tích tại phòng thí nghiệm của trường Đại Học An
Giang ngay trong ngày. Các mẫu nước đưa đến phòng thí nghiệm đều được cố định và lưu trữ
theo đúng yêu cầu đối với từng chỉ tiêu phân tích.
2.2 Phương pháp thu mẫu và phân tích thành phần phiêu sinh động vật
2.2.1 Phƣơng pháp thu mẫu
Thu mẫu bằng lưới Juday, đường kính mắt lưới là 40 µm, đường kính miệng lưới là
30cm. Tại thủy vực khảo sát, lưới được quăng xa bờ 20m rồi kéo vào sao cho cả miệng lưới
chìm dưới mặt nước, như vậy, tất cả các phiêu sinh động vật có kích thước 40 µm đều dính vào
lưới. Đổ mẫu nước vào lọ, rửa lưới để tất cả phiêu sinh vật dính trên lưới rơi xuống lọ hứng rồi
đổ cả nước này vào lọ đựng mẫu. Định hình mẫu bằng formol 5%.
2.2.2 Phƣơng pháp phân tích mẫu
Phân tích định tính:
Đổ mẫu nước vao ống đong, để lắng trong 24 giờ, đọc lượng lắng ở đáy ống, đây chính
là sinh khối của lớp phiêu sinh. Số liệu của phương pháp này chỉ cung cấp khái nhiệm về sản
xuất cơ bản của phiêu sinh vật trong thủy vực. Sau đó, cô mẫu còn khoảng 50 hay 100ml tùy
lượng ở đáy ống nhiều hay ít.
Dùng comptegoute cho mẫu vào phòng đếm và quan sát hình dạng các giống loài phiêu
sinh động vật với độ phóng đại từ x100 đến x400 lần. Đối với các nhóm Cladocera, Copepoda
và Ostracoda, phải nhỏ một giọt nước lên lame rồi dùng kẹp gắp chúng ra để trong giọt nước
đó, tiến hành giải phẫu và so sánh các phần như đuôi bụng (nhóm Cladocera), chân ngực số 5
(nhóm Copepoda), ngoài ra, còn phải quan sát kỹ chạc đuôi và râu a1.
Riêng đối với hai nhóm Protozoa và Rotatoria thì dùng comptegoute hút một giọt mẫu
nhỏ lên lame rồi quan sát ở các vật kính x10, x40 để việc so sánh, đối chiếu và định loại được
chính xác hơn.
Phân tích định lượng:
Sau khi chắt bỏ phần nước trong bên trên ống đong ta sẽ thu được một thể tích nhất
định, lắc đều trước khi dùng comptegoute hút 1ml. Dùng comptegoute hút 20 giọt mẫu (đã
được cô đặc như đã nói ở trên) nhỏ đầy phòng đếm, như vậy là ta đã hút được 1ml. Hoặc có thể
dùng pipet 1ml hút mẫu nước cho vào phòng đếm. Quan sát ở vật kính x10 và di chuyển phòng
đếm theo một chiều nhất định để đếm số phiêu sinh động vật trong toàn bộ phòng đếm này theo
từng ngành, từ đó suy ra số lượng cá thể phiêu sinh động vật có trong thể tích nước mà ta đã cô
và số cá thể có trong 1m3 nước.
Lấy nhiều lần 1ml mẫu và đếm để tính trung bình.
Lưới vớt phiêu sinh có đường kính 0.3m và được kéo một đoạn dài 20m, vậy:
Diện tích miệng lưới là:
S = ¶R2 = 3.14 x (0.15)
2 = 0.0706 (m
2)
Khối lượng nước qua miệng lưới là:
V = S.h = 0.0706 * 20 = 1.412 (m3)
Gọi số lượng cá thể phiêu sinh động vật hiện diện trong 1ml mẫu là N1 và thể tích mẫu
nước còn lại sau khi cô đặc là V1 (do sinh khối lớp phiêu sinh không đồng đều ở các thủy vực
khảo sát nên V1 có thể thay đổi từ 50 - 120ml tùy sinh khối của thủy vực đó nhiều hay ít). Như
vậy, số lượng cá thể có trong 1m3 nước là:
(V1 x N1)/1.412 (con/m3)
Thành phần loài được xác định, sau đó sinh lượng thành phần được xác định bằng cách
đếm mẫu, ghi nhận theo các cấp độ:
Cấp phú ưu: +++ số cá thể chiếm từ 40% trở lên
Cấp thường gặp: ++ số cá thể chiếm từ 20% trở lên
Cấp hiếm hay ít gặp: + số cá thể chiếm từ 1% trở lên
Không có: 0
Một số tài liệu dùng để tham khảo và định danh
Tiếng Việt
1. Dương Ngọc Dũng, Trần Ngọc Diễm My, Phạm Quỳnh Hương (2008), “Thành phần
phiêu sinh động vật tại Vườn Quốc gia Lò Gò Xa Mát, tỉnh Tây Ninh”, Tạp chí phát
triển khoa học và công nghệ, 11 (7), 37 – 45.
2. Phạm Quỳnh Hương (2003), Vai trò của động phiêu sinh đối với việc nuôi trồng thủy sản
ở thành phố Hồ Chí Minh, Khóa luận cử nhân, Trường Đại học Khoa học tự nhiên,
Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Sở khoa học công nghệ và môi trường tỉnh Đồng Tháp (2002), Khảo sát mối tương quan
giữa thành phần thủy sinh vật và điều kiện lý hóa tính của môi trường nước tại Vườn
quốc gia Tràm Chim, tỉnh Đồng Tháp, Báo cáo tổng kết đề tài, Thành phố Hồ Chí
Minh.
4. Đặng Ngọc Thanh, Thái Trần Bái, Phạm Văn Miên (1980), Định loại động vật không
xương sống Bắc Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
5. Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải (2001), Động vật chí Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học
và kỹ thuật, Hà Nội.
Tiếng nước ngoài
6. Bestimmungswerk, Ein von Max Voigt (1956), ROTATORIA, Die Rädertiere
Mitteleuropas, Gebrüder Borntraeger, Berlin – Nikolassee.
7. Edmondson, W. T. (1959), Freshwater biology, USA, 272pp.
8. Harring, H. K. & Myers, F. J. (1972), The Rotifer fauna of Wisconsin, Stechert-hafner
Service Agency, Inc, New York.
9. Hoang Quoc Truong (1960), “Some free living protozoa of the Saigon Cholon area”, Ann.
Fac. Sci. Saigon, p. 141 – 172.
10. Lampert, W., U. Sommer and J. Haney (1997), “Limnoecology: the ecology of lakes and
streams”, Oxford university press, New York, pp.382.
11. Patterson, D. J. (1998), Free-living freshwater Protozoa, Grafos SA, Barcelona, Spain.
12. Pennak, R. W. (1953), Fresh-water invertebrates of the United States, The Ronald
Company, New York.
13. Reddy, Y. R. (1994), Copepoda – Calanoida – Diaptomidae, SPB Academic Publishing,
Netherlands.
14. Scourfield, D. J. & Harding, J. P. (1966), A key to the British Freshwater Cladocera with
notes on their Ecology, Scientific Publication.
15. Shirota, A. (1966), The plankton of South Vietnam, Overseas Technical Cooperation
Agency, Japan.
16. Thienemann, A. (1955), Die binnëngewasser, Stuttgart.
17. Thorp, J. H. & Covich, A. P. (1991), Ecology and Classification of North American
Freshwater invertebrates, Academic, Inc.
18. Ward, H. B. & Whipple, G. C. (1959), Freshwater biology, New York.
19. Wetzel, R. G. (2001), “Limnology: lake and river ecosystem third edition”, Academic
press.