phan 2 - chuong 1

11
Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và anh niên Việt Nam - Lần thứ hai 27 Chương 1 Gia đình và các yếu tố nhân khẩu học A. Đặc trưng của người được hỏi Nhìn chung mẫu nghiên cứu ở SAVY 2 khá tương đồng với mẫu nghiên cứu ở SAVY 1 (xem Bảng 2.1.1). Sự khác nhau trong các đặc trưng cơ bản của người được hỏi ở cả hai cuộc điều tra là không đáng kể. Người được hỏi ở cả hai cuộc điều tra đều trong độ tuổi từ 14 đến 25 1 , với độ tuổi 14- 17 chiếm 48% ở SAVY 2 và 45% ở SAVY 1; độ tuổi 18-21 ở cả hai cuộc điều tra chiếm khoảng 1/3 và độ tuổi 22-25 chiếm gần ¼ cỡ mẫu. Ở cả hai cuộc điều tra đều có khoảng một nửa số người được hỏi là nam và một nửa là nữ. Phân bố người được hỏi theo vùng địa lý, dân tộc, tôn giáo, nông thôn hay thành thị và tình trạng hôn nhân cũng rất tương đồng. Sự tương đồng cao về các đặc trưng cơ bản của người được hỏi ở cả hai cuộc nghiên cứu là cơ sở tốt cho việc so sánh những thay đổi trong hành vi và thái độ của vị thành niên và thanh niên theo thời gian ở những phần tiếp theo của báo cáo. 1 Ở SAVY 2 cuộc điều tra đã tiến hành chậm hơn dự kiến từ 3 đến 6 tháng tùy địa bàn, do đó nếu nói thật chính xác thì thanh niên và vị thành niên ở SAVY 2 "già" hơn người đồng niên ở SAVY 1 một vài tháng, song điều này ít ảnh hưởng đến những đặc điểm được phân tích trong báo cáo. Phần II: Các khía cạnh cuộc sống của vị thành niên và thanh niên Việt Nam BảNG 2.1.1. Đặc trưng của người được hỏi trong SAVY 2 và SAVY 1 Các đặc trưng SAVY 2 (%) SAVY 1 (%) Nhóm tuổi 14-17 48 45 18-21 29 33 22-25 23 22

Upload: hien-nam-lun

Post on 30-Jun-2015

370 views

Category:

Documents


11 download

TRANSCRIPT

Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam - Lần thứ hai

27

Chương 1

Gia đình và các yếu tốnhân khẩu học

A. Đặc trưng của người được hỏiNhìn chung mẫu nghiên cứu ở SAVY 2 khá

tương đồng với mẫu nghiên cứu ở SAVY 1 (xemBảng 2.1.1). Sự khác nhau trong các đặc trưng cơbản của người được hỏi ở cả hai cuộc điều tra làkhông đáng kể. Người được hỏi ở cả hai cuộc điềutra đều trong độ tuổi từ 14 đến 251 , với độ tuổi 14-17 chiếm 48% ở SAVY 2 và 45% ở SAVY 1; độ tuổi

18-21 ở cả hai cuộc điều tra chiếm khoảng 1/3 vàđộ tuổi 22-25 chiếm gần ¼ cỡ mẫu. Ở cả hai cuộcđiều tra đều có khoảng một nửa số người được hỏilà nam và một nửa là nữ. Phân bố người được hỏitheo vùng địa lý, dân tộc, tôn giáo, nông thôn haythành thị và tình trạng hôn nhân cũng rất tươngđồng. Sự tương đồng cao về các đặc trưng cơ bảncủa người được hỏi ở cả hai cuộc nghiên cứu là cơsở tốt cho việc so sánh những thay đổi trong hànhvi và thái độ của vị thành niên và thanh niên theothời gian ở những phần tiếp theo của báo cáo.

1Ở SAVY 2 cuộc điều tra đã tiến hành chậm hơn dự kiến từ3 đến 6 tháng tùy địa bàn, do đó nếu nói thật chính xác thì thanhniên và vị thành niên ở SAVY 2 "già" hơn người đồng niên ở SAVY1 một vài tháng, song điều này ít ảnh hưởng đến những đặc điểmđược phân tích trong báo cáo.

Phần II:Các khía cạnh

cuộc sống của vịthành niên và thanh

niên Việt Nam

BảNG 2.1.1. Đặc trưng của người được hỏi trong SAVY 2 và SAVY 1

Các đặc trưng SAVY 2 (%) SAVY 1 (%)

Nhóm tuổi 14-17 48 45

18-21 29 33

22-25 23 22

Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam - Lần thứ hai

28

Giới tính Nam 51 50

Nữ 49 50

Vùng Đồng bằng sông Hồng 21 26

Đông Bắc 13 11

Tây Bắc 4 3

Bắc Trung bộ 13 13

Duyên hải Nam Trung bộ 8 8

Tây Nguyên 7 7

Đông Nam bộ 16 13

Đồng bằng sông Cửu Long 20 20

Dân tộc Kinh/Hoa 85 86

Khác 15 14

Tôn Giáo Không tôn giáo 79 79

Phật giáo 10 10

Kitô/Tin Lành 10 8

Khác 2 3

Đô thị/Nông thôn Nội thành TP lớn 8 9

Nội thành TP khác 6 4

Nội thị xã/thị trấn 10 11

Nông thôn 75 76

Tình trạng hôn nhân Chưa vợ/chồng 83 84

Đang có vợ/chồng 17 16

Tổng số người đượchỏi

N 10044 7584

Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam - Lần thứ hai

29

B. Đặc trưng nhân khẩu họccủa hộ gia đình

Vị thành niên và thanh niên ở cả hai cuộc điềutra cũng có tỷ lệ gần như như nhau về khía cạnhsống cùng hoặc không sống cùng cha mẹ đẻ của

mình. Khoảng ¾ số người được hỏi ở cả hai cuộcđiều tra đang sống cùng với cả cha đẻ và mẹ đẻ củamình vào thời điểm điều tra, 13% số họ không sốngvới cả cha và mẹ đẻ, số còn lại đa số sống với mẹ(8% trong SAVY 2 và 9% trong SAVY 1), và chỉ córất ít vị thành niên và thanh niên hiện chỉ đang sốngvới cha mà không sống với mẹ (2% ở SAVY 2 và3% ở SAVY 1).

Trong những người hiện không sống cùng cảcha và mẹ, chỉ có 2% là do ly dị, còn chủ yếu là dobản thân người được hỏi đã lập gia đình và ra ởriêng (77%, họ thường ở nhóm tuổi lớn hơn), hoặccha mẹ đã chết cả (2%) hoặc một trong cha hoặcmẹ chết (13%) và người còn lại đi làm ăn xa hoặcbản thân người được hỏi đi học hoặc đi làm xa nhà.Tình hình cũng tương tự đối với những người sốngcùng mẹ nhưng không cùng cha, hoặc cùng chanhưng không cùng mẹ. Về điểm này, tình hình củaSAVY 2 cũng rất giống với SAVY 1, nghĩa là hoàncảnh gia đình khiến vị thành niên và thanh niênkhông sống cùng cha, hoặc mẹ, hoặc không sốngcùng cả hai hầu như không có gì thay đổi so vớiSAVY 1, với nguyên nhân chủ yếu là bản thân

người được hỏi đã lập gia đình và ra ở riêng, hoặcdo cha hoặc mẹ hoặc cả hai đã mất, hoặc docha/mẹ hay bản thân người được hỏi phải đi làmhay đi học xa. Ly dị chỉ là nguyên nhân của rất íttrường hợp vị thành niên và thanh niên không sốngcùng cha mẹ mình.

C. Đặc trưng về mức sống củahộ gia đình

So với SAVY 1 (5 năm trước đây), vị thànhniên và thanh niên ở SAVY 2 sống trong hộ gia

Lưu ý: Do người Kinh và người Hoa nói chung có điều kiện kinh tế và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản tương đương nhaunên trong báo cáo này chúng tôi gộp vào một nhóm dân tộc.

BIểU 2.1.1. Hiện nay bạn có sống chung với cha mẹ đẻ của bạn không?

Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam - Lần thứ hai

30

đình có điều kiện vật chất tốt hơn đáng kể. Biểu2.1.2 cho thấy tỷ lệ hộ gia đình người được hỏi cócác tài sản được nêu. Ta có thể thấy hộ gia đình củavị thành niên và thanh niên ở SAVY 2 có tỷ lệ caohơn đáng kể sở hữu các tài sản như quạt điện, Ti vi,đầu VCD/DVD, xe máy, tủ lạnh, máy vi tính, vàđặc biệt là điện thoại cố định và điện thoại di động.Các hộ gia đình của vị thành niên và thanh niên ởSAVY 1 chỉ có tỷ lệ cao hơn chút ít so với SAVY 2sở hữu đài/radio/cát sét, xe đạp/xe đạp điện, vàghe/thuyền. Những thứ này có lẽ không phải lànhững thứ được ưa chuộng vì thay vì nghe đàingười ta có thể tiếp cận thông tin qua Ti vi hay điệnthoại di động (thường có chức năng radio) hoặc sửdụng internet, thay vì dùng xe đạp người ta có thểdùng xe máy hay ô tô; còn ghe/thuyền thường chỉ

cần thiết ở những vùng có đặc thù sông nước, nơicó lẽ chỉ có một tỷ lệ nhỏ người được hỏi sinh sống.Việc có tỷ lệ cao hơn hẳn các hộ gia đình ở SAVY 2sở hữu các phương tiện hiện đại như Ti vi, xe máy,điện thoại cố định, điện thoại di động, máy tínhcho thấy trong 5 năm giữa hai cuộc điều tra vịthành niên và thanh niên Việt Nam đã được hưởngđiều kiện đi lại và tiếp cận thông tin tốt hơn rấtnhiều so với người đồng niên của họ 5 năm trướcđó. Ở SAVY 1 không có câu hỏi về ô tô và internet.Trong SAVY 2 có 2% người được hỏi cho biết giađình họ có ô tô, và 11% cho biết họ có thể sử dụnginternet tại nhà được. Phần lớn những hộ có ô tôvà internet là những hộ ở đô thị (5% có ô tô và 32%có internet), trong khi ở nông thôn có rất ít hộ có2 thứ này (chỉ 1% có ô tô và 4% có internet).

BIểU 2.1.2. Gia đình bạn có những thứ sau đây không?

Ngoại trừ việc sở hữu ghe/thuyền (ở nông

thôn là 14% và ở đô thị là 4%), nhìn chung các hộ

ở đô thị có tỷ lệ cao hơn sở hữu các tài sản nêu trên

(Biểu 2.1.3). Tuy nhiên, khác biệt giữa nông thôn

và đô thị ở SAVY 2 là không lớn đối với các tài sản

thông dụng như quạt điện, Ti vi, radio, đầu

VCD/DVD, xe đạp, xe máy. Chẳng hạn, trong khi

ở đô thị có 98% hộ gia đình có Ti vi thì ở nông thôn

Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam - Lần thứ hai

31

cũng có tới 93% hộ có Ti vi. Tỷ lệ tương ứng đốivới xe máy là 92% và 81%, tỷ lệ có xe đạp thì nhưnhau. Khác biệt lớn giữa đô thị và nông thôn xảyra ở việc sở hữu những tài sản "xa xỉ" như tủ lạnh

(ở đô thị là 69%, ở nông thôn là 27%), máy tính(47% và 12%), điện thoại (78% và 56%), điệnthoại di động (91% và 76%), ô tô (5% và 1%), hayinternet (32% và 4%).

Để so sánh với SAVY 1, chúng tôi tạo ra thangđo về mức sống hộ gia đình tổng hợp từ mức độ sởhữu 11 tài sản nêu trên (không kể ô tô và internetlà 2 thứ không có thông tin ở SAVY 1). Biểu 2.1.4dưới đây cho thấy khác biệt nông thôn-đô thị vềmức sống thể hiện ở các chỉ báo này. Rõ ràng cáchộ gia đình ở đô thị có mức sống cao hơn hẳn cáchộ gia đình ở nông thôn ở cả hai cuộc điều tra.Tương quan về mức sống giữa các hộ gia đình ở đôthị không có sự khác nhau nhiều giữa SAVY 1 vàSAVY 2, song có sự khác nhau rất đáng kể trongtương quan về mức sống giữa các hộ ở nông thôn

ở SAVY 1 so với SAVY 2. Các hộ gia đình nông

thôn ở SAVY 2 nhìn chung được phân bố khá đều

về mức sống thấp, trung bình, và cao với khoảng

trên dưới 1/3 số hộ cho mỗi loại. Trong khi đó ở

SAVY 1 đại đa số các hộ gia đình nông thôn có mức

sống thấp hoặc trung bình, và chỉ có 12% số hộ

nông thôn khi đó có mức sống cao. Như vậy, sau 5

năm giữa hai cuộc điều tra, khoảng cách về mức

sống đo bằng việc sở hữu các tài sản hiện đại có giá

trị giữa nhóm có mức sống cao và nhóm có mức

sống thấp có vẻ đã được thu hẹp lại.

BIểU 2.1.3. Tỷ lệ phần trăm hộ gia đình trong SAVY 2 có những tài sản sauđây phân theo nơi ở đô thị hay nông thôn?

Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam - Lần thứ hai

32

Xét mức sống theo dân tộc của người đượchỏi (Biểu 2.1.5) ta thấy mức sống của ngườiKinh/Hoa giữa hai lần điều tra được cải thiện đángkể với tỷ lệ hộ có mức sống cao tăng từ 27% ở SAVY

1 lên 44% ở SAVY 2. Nhìn chung, người dân tộcthiểu số ở cả hai cuộc điều tra đều có mức sốngthấp hơn người Kinh/Hoa đáng kể. Tuy nhiên,khác biệt về mức sống trong các nhóm người dân

BIểU 2.1.4. Mức sống hộ gia đình thể hiện ở mức độ sở hữu 11 tài sản (không kể ô tô và internet)

BIểU 2.1.5. Mức sống hộ gia đình thể hiện ở mức độ sở hữu 11 tài sản (không kể ô tô và internet) theo dân tộc

Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam - Lần thứ hai

33

tộc thiểu số cũng như so với người Kinh có sự thuhẹp lại từ SAVY 1 đến SAVY 2. Tỷ lệ hộ người dântộc thiểu số có mức sống cao thể hiện ở mức độ sởhữu 11 tài sản nêu trên đã tăng từ 3% ở SAVY 1 lên13% ở SAVY 2, đồng thời tỷ lệ hộ có mức sống thấpđã giảm từ 76% ở SAVY 1 xuống còn 68% ở SAVY 2.

D. Quan hệ với gia đình Mức độ gắn bó giữa các thành viên trong gia

đình có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bảo vệvị thanh niên khỏi các hành vi có nhiều nguy cơ.Nhiều nghiên cứu ở Việt Nam (SAVY 1) và trênthế giới đã cho thấy những thanh niên sinh ra vàlớn lên trong một gia đình có sự gắn bó giữa cácthành viên cao thường có lối sống lành mạnh và có

nhiều cơ hội phát triển. Ngược lại, sự gắn bó lỏnglẻo giữa các thành viên trong gia đình trong giaiđoạn một người ở độ tuổi vị thành niên thườngkhông giúp bảo vệ người vị thành niên đó khỏinhững cám dỗ có hại ngoài xã hội. Trong SAVY 2(và cả SAVY 1) chúng tôi đưa ra 8 nhận định vềmức độ gắn kết trong gia đình và hỏi xem ngườiđược hỏi "đồng ý", "đồng ý một phần", hay "khôngđồng ý". Trong 8 nhận định này có 5 nhận địnhtheo hướng tích cực về sự gắn kết giữa các thànhviên trong gia đình, và 3 nhận định theo hướng tiêucực về sự gắn kết này.

Kết quả ở cả SAVY 1 và SAVY 2 đều cho thấyđại đa số vị thành niên và thanh niên có quan hệchặt chẽ với cha mẹ. Các câu trả lời cho 5 nhận địnhtích cực là "đồng ý" hay "đồng ý một phần" chiếmtới từ 85% đến 99% (Bảng 2.1.2).

Gia đình rõ ràng vẫn là một giá trị vô cùngquan trọng đối với người Việt Nam nói chung vàvới vị thành niên nói riêng. Không có sự khác biệtđáng kể nào giữa hai cuộc điều tra về vấn đề này.

Tuy nhiên, cũng có những khía cạnh trongquan hệ giữa các thành viên trong gia đình khôngcó lợi cho sự phát triển nhân cách của vị thànhniên. Có 41% vị thành niên “đồng ý” và 29% “đồng

ý một phần” với nhận định “lúc khó khăn bạn cảmthấy nói chuyện với người ngoài dễ hơn với ngườitrong gia đình”. Con số tương ứng ở SAVY 1 là 32%và 23%. Có vẻ là vị thành niên ngày nay có xuhướng ít tâm sự khó khăn của mình với các thànhviên trong gia đình hơn so với vị thành niên trongSAVY 1. Có 34% người được hỏi trong SAVY 2 chobiết khi họ 12-18 tuổi “trong gia đình mọi người

BảNG 2.1.2. Tỷ lệ phần trăm "đồng ý" hoặc "đồng ý một phần" với các nhận định sau khi ngườiđược hỏi ở độ tuổi 12-18.

SAVY 2 (%) SAVY 1 (%)

Các thành viên trong gia đình giúp đỡ nhau lúc khó khăn 99 99

Các thành viên trong gia đình biết bạn thân của những thành viên khác 85 87

Mọi người trong gia đình đối xử công bằng với nhau 98 98

Mọi người trong gia đình chia sẻ trách nhiệm với nhau 98 97

Trong gia đình, bạn thường được hỏi ý kiến và ý kiến của bạn được tôn trọng

94 92

N 10044 7584

Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam - Lần thứ hai

34

làm theo cách riêng của mình” và 26% đồng ý mộtphần với nhận định này. Về điểm này, không cókhác biệt đáng kể với SAVY 1 (các con số tươngứng là 38% và 20%). Đặc biệt, có 11% người đượchỏi ở SAVY 2 cho biết “trong gia đình thường cócãi cọ, xung đột” và 29% đồng ý một phần với nhậnđịnh này. Ở SAVY 1 các con số này tương ứng là 9% và 28%. Như vậy, mức độ có cãi cọ, xung đột

trong gia đình hầu như không thay đổi trong 5 nămgiữa hai lần điều tra. Nữ có tỷ lệ cao hơn nam đồngý với nhận định này (Bảng 2.1.3). Các gia đình ởđô thị có tỷ lệ có cãi cọ, xung đột cao hơn các giađình ở n ông thôn, và gia đình người Kinh/Hoa cótỷ lệ có cãi cọ, xung đột cao hơn gia đình người dântộc thiểu số. Tuy nhiên những khác biệt này không lớn.

Dựa trên 8 câu hỏi đầu tiên nêu trên, chúngtôi xây dựng thang đo tổng hợp mức độ gắn kếttrong gia đình. Thang đo tổng hợp có khoảng giátrị dao động từ 8 đến 24, với giá trị càng thấp thìmức độ gắn kết gia đình càng mạnh. Để tiện choviệc phân tích và trình bày kết quả nghiên cứu, từthang đo tổng hợp chúng tôi xây dựng một biến sốchỉ gồm 2 phương án là mức "gắn kết gia đìnhmạnh" và mức "gắn kết gia đình yếu". Cần lưu ý làtừ "mạnh" hay "yếu" ở đây chỉ là tương đối. Theocách xây dựng thang đo này, 73% số thanh thiếuniên trong mẫu thuộc loại có "gắn kết gia đìnhmạnh". Ở SAVY 1 chỉ có 57% số thanh thiếu niênsống trong các gia đình có "gắn kết gia đình mạnh".

Như vậy, sự gắn kết gia đình tỏ ra có nhiều cải thiệntrong thời gian giữa hai kỳ điều tra, song còn chưarõ điều gì đã dẫn đến sự cải thiện này. Không có sựkhác nhau đáng kể giữa nhận định của nam và nữ,giữa người Kinh/Hoa và người dân tộc thiểu số.Mức độ gắn kết gia đình ở nông thôn tỏ ra mạnhhơn ở đô thị, với 75% người được hỏi ở nông thônsống trong gia đình có "gắn kết gia đình mạnh"trong khi chỉ có 67% thanh thiếu niên đô thị sốngtrong gia đình như vậy. Con số tương ứng ở SAVY1 là 59% ở nông thôn so với 53% ở đô thị.

Gia đình là một trong những nguồn thông tinquan trọng mà qua đó vị thành niên và thanh niêncó được những hiểu biết về nhiều khía cạnh của

BảNG 2.1.3. Tỷ lệ phần trăm "đồng ý" hoặc "đồng ý một phần" với nhận định “trong gia đìnhthường có cãi cọ, xung đột” khi người được hỏi ở độ tuổi 12-18.

SAVY 2 (%) SAVY 1 (%)

Nam 36 34

Nữ 44 40

Đô thị 45 40

Nông thôn 38 36

Người Kinh/Hoa 41 37

Người dân tộc thiểu số 36 40

Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam - Lần thứ hai

35

cuộc sống. Ở SAVY 2 có 65% vị thành niên vàthanh niên được hỏi cho biết cha/mẹ, anh, chị, emlà nguồn thông tin chính mà họ nghe được về ítnhất một trong các chủ đề như (1) tuổi dậythì/kinh nguyệt/mộng tinh, (2) mangthai/KHHGĐ/các biện pháp tránh thai, (3) tìnhdục, (4) tình yêu, và (5) hôn nhân (không có sựthay đổi nhiều so với SAVY). Bảng 2.1.6 cho thấytỷ lệ vị thành niên và thanh niên nam và nữ tìmhiểu thông tin từ các thành viên trong gia đình vềmột loạt chủ đề. Ở tất cả các chủ đề, nữ nghe từ giađình nhiều hơn nam. Các chủ đề KHHGĐ, tìnhdục, và tình yêu rõ ràng chưa phải là các chủ đềđược trao đổi với vị thành niên và thanh niên namvà nữ trong đại đa số các gia đình.

BIểU 2.1.6. Vị thành niên và thanh niên SAVY 2 nghe từ cha,mẹ, anh chị với các chủ đề....

Đa số vị thành niên và thanh niên được hỏitrong SAVY 2 cho rằng mình có quan hệ rất tốthoặc tốt với cha (39% rất tốt và 41% tốt), quan hệrất tốt hoặc tốt với mẹ (44% rất tốt và 42% tốt).

Những người cho rằng mình có quan hệ "xấu" hoặc"rất xấu" với cha chỉ là 0,6% và 0,3%. Tỷ lệ ngườicho rằng mình có quan hệ "xấu" với mẹ chỉ là 0,2%và chỉ có 1 người trong tổng số 9827 người có trả

Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam - Lần thứ hai

36

Trong SAVY 2 có các câu hỏi về các dạng bạolực giữa vợ và chồng trong những thanh niên đã cógia đình. Nhìn chung có rất ít gia đình trẻ có bạolực gia đình. Chỉ gần 6% trong số những người đãcó gia đình có dạng bạo lực này hay khác, bao gồmchửi mắng, cấm đoán một điều gì đó, đánh đập, épbuộc tình dục, hoặc "các hành vi xấu khác". Chẳnghạn, chỉ có 1,6% nam người Kinh/Hoa và 5,2%nam người DTTS cho biết vợ họ đã từng chửi mắnghọ; 4,1% nữ người Kinh/Hoa và 10,1% nữ DTTScho biết chồng họ đã từng chửi mắng họ. Dạng bạolực về thể xác như đánh có ở rất ít gia đình trẻ, chỉcó 3 nam giới trong tổng số 395 nam giới (<1%)

người Kinh/Hoa đã có vợ cho biết họ đã từng bị

vợ đánh, 41 nữ trong tổng số 818 phụ nữ

Kinh/Hoa đã có chồng (5%) cho biết họ đã từng

bị chồng đánh. Ở người dân tộc thiểu số, chỉ có 3

nam DTTS trong tổng số 198 nam đã có vợ cho

biết họ đã từng bị vợ đánh, và chỉ có 22 nữ DTTS

trong tổng số 266 nữ (khoảng 9%) đã có chồng

cho biết họ đã từng bị chồng đánh. Ép buộc về tình

dục cũng rất hiếm có. Chỉ có 4 nam Kinh/Hoa và

18 nữ Kinh/Hoa, 2 nam DTTS và 17 nữ DTTS

trong những người đã có vợ/chồng cho biết họ đã

từng bị vợ/chồng mình ép làm tình.

lời câu này cho biết có quan hệ "rất xấu" với mẹ.Không có sự khác nhau đáng kể nào trong đánh giávề quan hệ với cha và mẹ giữa nam và nữ, ngườisống ở thành thị và ở nông thôn. Vị thành niên vàthanh niên người Kinh/Hoa tỏ ra có quan hệ "tốt"hoặc "rất tốt" với cha và mẹ cao hơn người dân tộcthiểu số2 (Biểu 2.1.7).

BIểU 2.1.7. Bạn đánh giá thế nào về quan hệ giữa bạn bè và cha mẹ

2Do số người cho biết họ có quan hệ xấu hoặc rất xấu với cha

mẹ và số người không biết nên coi quan hệ này thế nào rất nhỏ, nên

trong phân này chúng tôi gộp vào loại có quan hệ "bình thường".

Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam - Lần thứ hai

37

E . Hôn nhân Trong mẫu nghiên cứu SAVY 2 có 17% đã

từng kết hôn. Đại đa số trong những người đã từngkết hôn hiện đang có vợ/chồng. Nữ có tỷ lệ đã từngkết hôn cao hơn nam, và người dân tộc thiểu số có

tỷ lệ đã từng kết hôn cao hơn người Kinh/Hoa

(Biểu 2.1.8). Tuổi kết hôn trung bình lần đầu là 22

đối với nam người Kinh/Hoa, 20 đối với nam

người DTTS, 21 đối với nữ người Kinh/Hoa, và 19

đối với nữ DTTS.

BIểU 2.1.8. Tỷ lệ phần trăm thanh niên trong SAVY 2 đã từng kết hôn