nyingma monlam 2012
DESCRIPTION
Nyingma Monlam 2012TRANSCRIPT
Tiểu sử vắn tắt của Đức Trulshik Ngawang Chokyi Loday, vị trưởng dòng
thứ năm của Ngagyur Nyingma, và sự thị tịch của ngài
Đức Pháp vương Trulshik Rinpoche sinh ra ở vùng Yar-Drong Taklung, tỉnh U-Tsang
vào ngày 10 tháng 9 năm 1924 trong gia đình ngài Tenzin Chodhar [cha] và Jamyang
Wangmo [mẹ] với rất nhiều điềm kiết tường như được tiên đoán.
Lên bốn tuổi, ngài được nhận ra là hóa thân hoàn hảo của Đức Za-Due Kunzang
Thongdrol Dorjee, tức Đức Trulshik Do-Ngag Lingpa bởi đệ tử của ngài, đức Zatrul
Rinpoche Ngawang Tenzin Norbu và được đặt tên là Ngawang Do-Ngag Tenzin Pal-
Zangpo. Khi đức Zatrul Rinpoche, thực hiện các lời cầu nguyện chí thành đến cố đạo sư
của ngài, trong linh kiến của ngài, có ba tia sáng đến từ Nga-Yab Ling (trụ xứ linh thánh
của Guru Rinpoche), mà hai trong số đó đi đến những nơi không chắc chắn, nhưng tia thứ
ba chiếu đến vùng đất của Đức Pháp vương, đó chính là dấu hiệu chắc chắn về sự trở về
của Đức Pháp vương Trulshik Do-Ngag Lingpa.
Ở tuổi mười hai, Đức Pháp vương nhận được toàn bộ các giáo lý về Tiểu thừa, Đại thừa
[hay Bồ Tát thừa] và Mật thừa bởi Đức Zatrul Rinpoche với niềm hoan hỉ lớn lao và trở
thành tâm tử của ngài. Ngài không chỉ hoàn thiện việc lắng nghe các chỉ dẫn mà còn duy
trì nhập thất ba năm miên mật ở tuổi 18. Đức Pháp vương đã thiền định miên mật.
Đức Pháp vương gánh trên vai trách nhiệm quản lý và phát triển tu viện Zarong Do-Ngag
Choling với sự giao phó của Đức đạo sư Zatrul Rinpoche. Bên cạnh đó, ngài đã được trao
danh hiệu Khenpo bởi Đức Pháp vương Chung Rinpoche Ngawang Chodak khi ngài
thường xuyên viếng thăm tu viện Yog-Min Ugyen Mindroling ở tuổi 21.
Đức Pháp vương nhận được trọn vẹn giới tỳ kheo từ Đức Khenchen Khentse Norbu
Rinpoche cùng với số lượng chính xác các vị tăng, và nổi tiếng là Bậc trì giới thanh tịnh.
Đức Pháp vương còn có hơn 30 vị Đạo sư, như, Đức Dzongsar Khentse Rinpoche Cokyid
Loday, Đức Khuna Lama Tenzin Gyeltsen, Đức Tanag Thubten She-Nyen Phuntso, Đức
Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, … và nhận được toàn bộ các giáo lý của Bốn trường phái của
Truyền thống Pháp [tức Bốn trường phái của Phật giáo Tây Tạng: ND] một cách rất công
bằng. Tóm lại, Đức Pháp vương giành trọn thời gian với việc nghiên cứu, quán chiếu và
thiền định từ khi rất nhỏ.
Bên cạnh đó, Đức Pháp vương nhận được “Bốn Tinh túy-Cốt tủy của Đức Longchen
Rabjam” từ Đức Mugtshang Rinpoche ở Gangri Thokar, địa điểm nhập thất của Đức
Longchen Rabjam, và ở tuổi 31, ngài nhận được quán đảnh Terzod, Bảy kho báu của Đức
Longchen Rabjam, và rất nhiều quán đảnh khác từ Đức Pháp vương Dudjom Rinpoche.
Ở tuổi 36, Đức Pháp vương nhận được các quán đảnh và trao truyền Ngayur Kama. Trên
tất thảy, ngài đã gặp Đức Pháp vương Dilgo Khentse Rinpoche và nhận giáo lý “Bức thứ
gửi bạn” như là giáo lý đầu tiên từ ngài. Sau đó Đức Pháp vương nhận các quán đảnh về
kho báu rộng lớn Kilaya của Nyag. Cuối cùng, theo lời thỉnh cầu của Đức Pháp vương,
Đức Dilgo Khentse Rinpoche đã ban các trao truyền Kangyur (những lời nói của Đức
Phật được chuyển dịch [sang tiếng Tạng: ND]) ở Boudha-Stupa, Nepal, và nói rằng đây
là một trong các việc lớn lao mà ngài đã làm trong đời. Đức Pháp vương Dilgo Khentse
Rinpoche sau đó được mời đến tu viện Thupten Do-Ngag Chokhor Ling, nơi mà Đức
Pháp vương đã nhận rất nhiều các quán đảnh và trao truyền giáo lý của Đức Longchen
Rabjam, và nhiều giáo lý khác. Kể từ đó, Đức Pháp vương nương tựa nơi ngài Dilgo
Khentse là Vị Thầy Gốc Tối thượng của ngài. Đức Pháp vương trở thành tâm tử của Đạo
sư. Đạo sư của ngài đã nhìn thấy trước những đệ tử tương lai, bổ nhiệm Đức Pháp vương
là người đại diện của ngài.
Mặc dù Đức Pháp vương bình đẳng với các vị đạo sư vĩ đại, nhưng vì lợi lạc của chúng
hữu tình, ngài giành rất nhiều thời gian để nghiên cứu và thiền định, và thiết lập tu viện
Thupten Do-Ngag Chokhor Ling ở Shar Khumbu ở Nepal, với trách nhiệm chính yếu là
duy trì truyền thừa Ogyen Minling. Hiện tại, có 500 vị tăng ni cư ngụ. Vào những dịp đặc
biệt, những lễ cúng dường lớn được thực hiện.
Hơn thế nữa, Đức Pháp vương đã ban rất nhiều các chỉ dẫn về giáo lý tâm yếu của
Ngayur Nyingma cho Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 và trở thành đạo sư tâm linh của ngài.
Đức Pháp vương có rất nhiều các đệ tử đến từ cả bốn trường phái. Nói tóm lại, Ngài luôn
hành động vì lợi lạc của mọi chúng hữu tình. Đặc biệt, ngày 15 tháng 1, 2010, với sự
thỉnh cầu tha thiết từ các vị đạo sư cao cấp của Ngayur Nyingma rằng Đức Pháp vương
đảm nhận vị trí chủ tịch thứ 5 của Ngayur Nyingma [tức trưởng dòng Nyingma: ND],
ngài đã từ bi chấp nhận mang trên mình trách nhiệm quan trọng phát triển truyền thống
Nyingma. Nhưng không may thay, Đức Pháp vương đã thị tịch với rất nhiều những dấu
hiệu tốt lành vào ngày 2 tháng 9 năm 2011 ở tuổi 88.
Thị tịch
Ở tuổi 88, vào ngày 2 tháng 9 năm 2011, lúc 8h30 sáng, Đức Pháp vương đã thị tịch, tan
hòa tâm trí tuệ của ngài vào sự thực tối thượng. Đức Pháp vương duy trì trong trạng thái
Thugdam (trạng thái thiền định tịnh quang) trong ba ngày. Ở tu viện của ngài, tu viện
Shar-Khambu Thubten Dongag Choeling, toàn thể tăng đoàn đã cầu nguyện chí thành với
lòng sùng mộ sâu sắc cùng những đám mây thực và cả quán tưởng các vật phẩm cúng
dường trong các buổi lễ trong suốt 49 ngày. Giống như vậy, các đại diện từ tu viện của
Nyingma ở Ấn Độ, Nepal và Bhutan, đại diện của Chính phủ Tây Tạng lưu vong, chủ
tịch Hội Phật giáo Nepal, Đức Kyabje Khentse Yangse Rinpoche, Đức Dudjom Yangse
Rinpoche và rất nhiều vị khác đã tụ họp tham gia vào các buổi lễ tưởng nhớ ngài.
Ngày 5 tháng 9, lúc 12h trưa, cơ quan tư pháp, thẩm phán, ban thường trực của các đại
diện của người dân Tây Tạng, thư ký của các văn phòng khác nhau và rất nhiều người
khác đã tập trung trong chánh điện của Gangchen Kyidshong ở Darmsala và cầu nguyện
chí thành trong một giờ. Cùng ngày, tất cả các văn phòng trực thuộc Chính phủ Tây Tạng
lưu vong đã đóng cửa để thể hiện lòng kính trọng và thương tiếc trước cố Pháp vương.
Ngày 7 tháng 9, toàn thể tăng ni của trụ xứ vĩ đại của Đức Drubwang Padma Norbu
Rinpoche, tu viện Theg-Chog Namdrol Shedrup Dargyeling, đã tiến hành tiệc cúng
dường lớn lao cho các mạn đà la của Đức Kim Cương Tát Đỏa. Các buổi lễ cúng dường
tương tự cũng được thực hiện ở nhiều tu viện của dòng Nyingma khác ở Ấn Độ, Bhutan,
Nepal, … cho các buổi lễ tưởng nhớ.
Tin buồn về sự thị tịch của Đức Khenpo Achuk, ngọn đèn lớn lao của truyền
thống Ngayur Nyingma
Bắt đầu từ ngày 17 tháng thứ 3 Tạng lịch, năm 2011, ngài đã thị hiện những dấu hiệu
bệnh chướng. Bởi vậy, toàn thể thế giới nói chung và các đệ tử chí thành của ngài từ
Trung Quốc và Tây Tạng nói riêng đã tiến hành các buổi lễ cầu trường thọ cho ngài.
Rất nhiều các vị Lama vĩ đại đứng đầu bởi Đức Khenchen Tshultrim Lodroe đã đến đây
và khẩn nguyện mong ngài trụ thế dài lâu như đấng Hộ pháp tối thượng của Phật Pháp và
chúng hữu tình; ngài đã từ bi chấp nhận thỉnh cầu của chư Lama trụ thế lâu hơn và như
thế, ngài đã hồi phục trong lúc này.
Nhưng không thể mãi chấp nhận hạnh nguyện của chúng sinh, Đức Pháp vương đã thị
tịch lúc 2h40 sáng ngày 22 tháng 5 Tạng lịch ở Yachen Ugen Samtenling. Khi ngài sắp từ
bỏ thân tứ đại, ngài nói với các tâm tử như là Trulku Asang và nhiều vị khác, rằng các đệ
tử chính yếu cần phải hòa hợp với nhau và các đệ tử như trưởng tử cần xem xét các đời
tiếp theo quan trọng hơn đời hiện tại. Đây là hai di chúc cuối cùng giành cho môn đồ của
ngài. Sau đó, ngài nói rằng, thông thường bản tánh của các vị Bồ Tát là hoàn thành mục
đích của tất thảy chúng hữu tình với hàng triệu hóa thân, nhưng sẽ không có hóa thân đặc
biệt của ngài được nhận ra. Đáp lại, tâm tử của ngài, Trulku Asang chí thành cầu mong
ngài tái sinh, bởi vậy ngài nói rằng: sẽ có một người mà các con không cần tìm kiếm, mà
người đó sẽ đi tìm các con.
Ngài cũng ban các chỉ dẫn về điều cần làm sau khi ngài thị tịch rằng tro của ngài sau khi
trà tỳ sẽ được rải ra bốn dòng sông lớn và thân-linh-thánh-của-ngài-còn-lại có thể được
bảo vệ hiện thời, nếu cần thiết, và Khenpo Yeshe Dentog sẽ đảm trách nhiệm vụ trong lễ
kỉ niệm các xá lợi linh thánh còn lại của ngài.
Các đệ tử chính yếu đã thảo luận và giữ bí mật bởi rất nhiều nguyên do bên trong và bên
ngoài. Ngày 30, tin tức đã được thông báo và sau đó, thân xác của ngài được đặt trong tư
thế của Báo thân với những đồ trang sức bởi Khenpo Yeshe Dentok, Trulku Asang và
cháu của ngài, đức Choedak. Ngày 1 tháng 6 Tạng lịch, rất nhiều các vị Khenpo và
Trulku từ Serta Larung dẫn đầu bởi đức Khenpo Tsultrim Lodroe đã viếng thăm tu viện
và Khenpo Tsultrim Lodroe đã hứa nguyện sẽ trông nom trung tâm tâm linh Yachen mà
không phân biệt với trung tâm Phật giáo Larung. Ngài cũng ban những lời khuyên an ủi
chúng đệ tử. Ngài nói rằng, họ cần nỗ lực duy trì sự điều hành, cả bên trong và bên ngoài
như thời Rinpoche còn trụ thế. Vào ngày 2, các đại diện của các tổ chức Tăng đoàn Bất
bộ phái của 24 tu viện ở Drago dẫn đầu bởi trưởng tu viện Drago Ugen-Chab, các đại
diện của các Tăng đoàn Nyag-Rong dẫn đầu bởi đức Nyag-Rong Khenpo Tsultrim, đại
diện của bộ tôn giáo của khu tự trị Karze và chính quyền Quận Payul đã đến để chia
buồn. Bắt đầu từ ngày mở đầu đến ngày thứ 3, chỉ trong ba ngày, đã có hơn 50 nghìn
người tập họp để bày tỏ lòng tôn kính đến thân linh thánh của ngài. Mặc dù sự hạn chế
của chính phủ, rất nhiều đệ tử Trung Quốc cũng đã đến tham dự.
Đức Pháp vương Khenpo Achuk sinh ra trong gia đình Atshab Tserhar của hậu duệ
Atshab thứ sáu trong năm Chuột Lửa. Để tránh những tai họa từ người khác, ngài được
đặt tên là Khe-Wo (đứa bé sơ sinh). Ngài cũng được cho là được bảo vệ bởi bốn vị Quốc
vương vĩ đại (những vị bảo hộ các phương) trong suốt thời kỳ sơ sinh. Ngài đã nhận được
rất nhiều các quán đảnh và khẩu truyền như Lamdrey (Con đường Đạo và Quả) và rất
nhiều từ truyền thống Sacha từ Đức Khen Jamyang Kunga Namgyal và các giới nguyện
từ bỏ [giới Cụ túc] và được đặt Pháp danh Jamyang Kunga Tenphel. Ngài cũng nhận vô
số các quán đảnh, trao truyền và chỉ dẫn về các giáo lý bí mật vĩ đại của truyền thống
Ngayur Nyingma và các truyền thống khác từ Đức Throm-Tod lama Tra-Tshe, Drungpa
Jampel Drakpa, Sera Yang-Trul, Khenchen Jigmed Phuntsho và nhiều vị khác. Đặc biệt,
ngài nương tựa đức Throm-Ge Arig là vị thầy gốc và hoàn thiện ba con đường làm hài
lòng đạo sư bằng cách vượt qua những khó khăn không biết mệt mỏi.
Sau đó, khi đã hoàn thiện các mục tiêu cá nhân, mọi thứ được phát lộ như là nhận thức
thanh tịnh và đã có các linh kiến về chư Bổn tôn thiền định. Thậm chí trong quán đảnh
đầu tiên của ngài về các chỉ dẫn sự chín muồi sơ khởi và sáu trạng thái trung ấm, rất
nhiều đệ tử đã có những dấu hiệu phi thường về việc nhận ra bản chất của tỉnh thức. Đặc
biệt, ngài đã trưởng dưỡng rất nhiều đệ tử bằng cách trao truyền các giáo huấn mở rộng
về các Ba-la-mật vĩ đại trong cả đời. Ngài cũng đưa vô số chúng sinh với nghiệp xấu về
với con đường giải thoát bằng cách tiến hành nghi quỹ xương. Rất nhiều các dấu hiệu kì
diệu đã được nhận thấy khi ngài xây dựng các ngôi chùa và những hỗ trợ về thân, khẩu
và ý. Ngài cũng đã hoàn thiện các hoạt động giác ngộ lớn lao vì lợi lạc của chúng hữu
tình bằng cách khởi lên niềm tin sâu sắc trong tâm các vị đệ tử với việc tiên đoán rất
nhiều vết bớt và lời tiên tri không sai lầm.
Đức Pháp vương đã mở cửa rất nhiều địa điểm linh thánh và đặc biệt thành lập Trung
Tâm Tâm linh Yachen Ugen Samtenling năm 1985. Dần dần, trung tâm đã mở rộng khi
mọi người từ nhiều nơi tập họp và sau đó nó được chia thành mười vùng đất lớn; trong đó
năm của Daka, bốn của Dakini và một vùng đất giành cho cư sĩ với hai vị đạo sư giảng
dạy ở mỗi vùng. Có 4000 vị tăng và khoảng 7000 vị ni cùng 1000 cư sĩ, tổng cộng gần 12
nghìn người. Ở đây, Tăng đoàn nhấn mạnh chủ yếu vào thực hành hơn là phô diễn. Họ
thực hiện một khóa tuần tự thực hành thiền định từ các thực hành phổ biến bên ngoài và
bên trong đến các thực hành thực sự của Trek-Chod và Thod-Gal theo các chỉ dẫn tương
ứng. Trên thực tế, nó đã trở thành một trong các trung tâm thực hành tâm linh lớn nhất ở
Vùng Đất Tuyết. Thậm chí từ nay, nó vẫn sẽ tiếp tục tồn tại với sự điều hành không gián
đoạn và quản lí bởi vị tâm tử của Đức Pháp vương, ngài Trulku Asang Rinpoche và nhiều
vị Khen-trul khác được nhận ra bởi ngài như là các vị trì giữ truyền thừa.
Công đức của Manjushri Nama Samgiti
(Tán dương Đức Chúa tể của Khẩu Thanh Khiết bởi Tám Cô Gái)
Công đức của việc trì tụng Hồng danh và thần chú của Đức Văn Thù, tán thán và tham
gia vào các thực hành thiền định về Đức Văn Thù là vô lượng và vượt ra ngoài sự hiểu
của chúng sinh. Tuy nhiên, một giọt công đức trong đại dương công đức đó sẽ được miêu
tả ở đây với sự giúp đỡ của giáo lý Phật Đà và các luận giải.
Đại học giả vĩ đại của truyền thống Ngayur Nyingma, Đấng toàn tri Rongzom nói rằng,
“Bản chất và Hồng danh của Đức Jampal là gì, hỡi hiền triết Văn Thù? Làm sao có thể
miêu tả được những hồng danh hoàn hảo được tụng đọc? Từ Hiền triết Văn Thù liên quan
đến sự tỉnh thức bất nhị, bản tánh của chư Phật, bản tánh của tâm Bồ đề, tâm giác ngộ -
sự thực của mọi hiện tượng – sự hiển bày vật lý – Thân Quý giá trọn vẹn và hóa thân, trải
nghiệm bởi các ngài trong bản tánh của Thân Trí Tuệ. Và mọi hiện tượng của chư Phật và
Bồ Tát được miêu tả trong kinh điển Đại thừa và Tiểu thừa cũng được coi là Đức Phagpa
Jampal.” Bởi vậy biết được ý nghĩa của Phagpa Jampal, những lợi lạc của việc trì tụng
hồng danh linh thánh của ngài sẽ được nhấn mạnh trong các dòng sau đây.
Trong Mật điển Namasangirti có viết rằng, “Đức Kim Cương Thủ, chúa tể của Mật điển!
Những phẩm tánh tốt đẹp vô lượng và nhiều sự hoàn hảo khác sẽ đạt được. Đức Kim
Cương Thủ, người nắm giữ hoàn hảo các lời cầu nguyện trì tụng của hồng danh tối
thượng của đức Văn Thù sẽ nhanh chóng đạt được những phẩm tánh giác ngộ, nhờ đó
giải thoát dựa vào hai sự tích lũy: sự tích lũy công đức với những quan niệm và sự tích
lũy trí tuệ vượt ra ngoài những quan niệm. Sau đó, người đó sẽ giải thích chánh Pháp đến
với chúng sinh mà không nhập Niết bàn trong nhiều kiếp, và sẽ trở thành Vua Pháp, bậc
nắm giữ Pháp trong mười phương.”
Và trong Luận giảng Namasangirti của đức Rathna Akar Gupta có đoạn: “Namasangirti
được giúp sức bởi những phẩm tánh vô cùng rộng lớn của các thân và trí tuệ, và vô song,
được ban tặng những lợi ích lớn lao. Vì thế, những lợi ích của nó phải được biết đến như
miêu tả trong các bản văn liên quan đến những lợi ích tâm linh của lời cầu nguyện này.”
Và “Nó cần phải được hiểu như là nguồn gốc nguyên thủy của chư Phật, phương tiện của
sự cứu giúp, đối tượng của chư Phật và người bạn tâm linh của mọi vị Phật và nhiều điều
khác.
Những thiện nam tử và thiện nữ nhân may mắn, có thể mong chờ vào việc đạt giác ngộ
bằng các thần chú bí mật cần viết điều này thành một quyển sách; sau đó dù điều này có
được đọc, quán chiếu hay thiền định một cách đúng đắn về sự thực tối thượng – hành xử
theo cách này sẽ mang đến những phẩm tánh và lợi lạc tích cực vô lượng. Bởi vậy, như
được tán thán bởi Đức Phật, điều này cần được giải quyết một cách hoàn hảo.”
Như được tuyên bố trong “Những môn đồ hài lòng của con đường Trung Đạo – Luận
giảng Namasangirti”: “Trì tụng hồng danh của đức Văn Thù chỉ một lần sẽ nhiều công
đức hơn so với trì tụng hồng danh các vị Phật khác với số lần nhiều như hạt cát trên sông
Ganga trong nhiều kiếp, bởi đức Văn Thù là bậc thầy tâm linh của vô số vị Phật.”
Từ Ba Khía cạnh luận giảng Namasangirti của Đấng Toàn tri Rongzom Pandita: “những
thiện nam tử và thiện nữ nhân may mắn, khởi lên ý định thanh tịnh vì sự giác ngộ và
bước vào cỗ xe vĩ đại với niềm tin tuyệt đối, ban đầu cần trì tụng hồng danh của đức Văn
Thù – bản tánh lớn lao của mọi chư Phật trong mười phương, bậc nắm giữ mọi phẩm tánh
quý giá của chư Phật. Bởi lòng từ bi và những hoạt động giác ngộ của chư Phật không
bao giờ ngừng, ngài đáp ứng mọi nguyện ước của chư Phật trên khắp hư không, và các
cõi giới chúng sinh. Vì thế, thậm chí công đức của việc trì tụng hồng danh mọi vị Phật
trong nhiều kiếp như cát sông Ganga [sông Hằng] cũng không thể sánh bằng công đức
của việc trì tụng hồng danh đức Văn Thù.
Hơn thế nữa, “Người ta cần biết rằng, việc đọc tụng hồng danh đức Văn Thù giống như
việc đọc lên toàn bộ những phẩm tánh tốt lành của mọi vị Phật.” Và, “Những thiện nam
tử và thiện nữ nhân may mắn, đã mong muốn đạt được những thực hành của thừa lớn
hơn, mong muốn giải thoát hoàn toàn khỏi những tội lỗi và mong muốn làm sáng tỏ mọi
khía cạnh của Pháp như là sự hiển bày của những hình ảnh khác nhau trong gương vì lợi
ích của mọi chúng sinh, người ta cần nỗ lực tạo ra trí tuệ bất nhị bằng cách tụng đọc hồng
danh đức Văn Thù. Làm sao mà trí tuệ bất nhị có thể được tạo ra bằng cách trì tụng
Namasangirti? Người ta cần hiểu rằng chính ở trong bản văn có viết rằng Phật Pháp vô
biên, 84 000 Pháp môn chân thật và nhiều điều khác, chỉ phương tiện để làm lợi lạc
chúng sinh đã được giảng dạy.”
Và: “bằng việc trì tụng hồng danh đức Văn Thù, bản tánh chân thật của mọi hiện tượng
cần được mong đợi, chú ý, nhiệt tình, và niềm tin chắc chắn cần được sinh ra. Thông qua
những sức mạnh, niềm tin, sự tinh tấn, tỉnh thức, thiền định và trí tuệ này, những điều
phù hợp với hiện tượng bất nhị có thể được tạo ra trong dòng chảy của tâm. Nhờ đó, tri
kiến của tôi và của tôi sẽ có thể tránh được. Nếu đạt được điều này, người ta sẽ giải
phóng khỏi những ý nghĩ quan niệm – điều mà dẫn đến sự thiếu hiểu biết về nhị nguyên
và không bám chấp, ở đó người mộ đạo sẽ điềm tĩnh và thoát khỏi những bám chấp.
Thêm vào đó, sẽ không có nguyên nhân nào để khổ đau sinh khởi. Vì thế, khi đã quen
thuộc với sự bất nhị của các hiện tượng, nó cần được thực hành không gián đoạn. Bằng
cách trở nên quen thuộc với nó, toàn bộ những lỗi lầm sẽ suy giảm và tâm bạn sẽ trở nên
không thể tách rời với sự tỉnh thức bất nhị. Cách thức thực sự để đạt được điều này là trì
tụng hồng danh đức Văn Thù. Theo cách này, hai sự tích lũy – công đức và trí tuệ sẽ có
thể đạt được cùng lúc. Bằng cách miêu tả những phẩm tánh tâm linh của đức Phật, điều
vô cùng lợi lạc với chúng sinh, sự tích lũy những thiện hạnh sẽ đạt được. Trong khi nhấn
mạnh ý nghĩa chân thực của các hiện tượng bất nhị, sự tích lũy trí tuệ sẽ đạt được.
Và đức Jamyang Khentse Wangpo Padma Wodsal Dongag Lingpa dạy rằng: “Theo cách
này, nếu người ta nỗ lực trì tụng như thế, chư Phật và Bồ Tát sẽ gia trì và người đó sẽ đạt
đến sự không sợ hãi, trở thành chủ thể có chủ đích của Các bậc Thanh Văn và Duyên
Giác, các vị thần của thế giới thế tục và vượt khỏi thế tục sẽ bảo vệ và người đó sẽ không
bao giờ tái sinh vào tám thời điểm xấu và bởi vậy sẽ duy trì sự không sợ hãi, tràn ngập
trong sự hoàn hảo ba phần kỳ diệu. Được ban tặng công thức huyền diệu vô biên, kiến
thức, sự đức hạnh và những điều như thế mà không hề suy giảm sẽ làm sự giác ngộ
nhanh chóng xảy đến. Bởi vậy, mật điển Văn Thù này, được coi là là tâm điểm của cầu
nguyện, đem đến rất nhiều lợi lạc!
Những công đức rộng lớn và cô đọng này được miêu tả trong các bản luận giải của
Manjushri Nama Samgiti bởi các Đạo sư như ngài Tsendra Gomi, Pal Nyimed Dorjee,
Dombi Heruka, Sangdan, Due Zhabpa, Jigten Wangcchuk Padma Karpo, Drubchen
Paimai Tsho, Nyinma Pal và nhiều vị khác. Những độc giả uyên bác có thể tìm đọc các
bản luận giải này để có thêm thông tin.
Công đức của Phagpa Zangpo Chodpa (Bhadracarya Pranidhana, Hành động của
Các Đấng Tối thượng)
Theo các luận giảng của Ấn Độ và Tây Tạng, công đức của “Hành động của Các Đấng
Tối thượng” sẽ được nói một cách ngắn gọn ở đây. Bản luận giảng về “Hành động của
Các Đấng tối thượng” bởi Đức Long Thọ có nói rằng:
Chủ đề thứ mười là công đức của cầu nguyện. Có hai kiểu: công đức có được trong đời
này và trong các đời tiếp theo. Bốn kiểu công đức liên quan đến đời này gồm có:
Đạt được các phẩm tánh đức hạnh khác nhau
Đạt được khả năng nhìn thấy đức Phật
Đạt được địa vị ngang bằng với Bồ tát
Tịnh hóa hoàn toàn các che chướng về nghiệp
Và công đức đạt được trong các đời tiếp theo có hai kiểu: công đức thuộc về nguyên nhân
và kết quả. Công đức thuộc về nguyên nhân là: đạt được thân hoàn hảo, những dấu hiệu
tốt lành chính yếu, những dấu hiệu tốt lành phụ, nòi giống cao quý, truyền thừa tốt, và trở
thành đối tượng thờ phụng. Và công đức thuộc về kết quả là: có thể theo con đường giác
ngộ, đạt đến ngai sư tử, sức mạnh điều phục ma quỷ, đạt đến Phật quả, chuyển Pháp luân
và nhiều điều tương tự.
Vì thế, công đức được phân loại theo nguyên nhân và kết quả. Trong luận giảng ngắn về
Phagpa Zangpo Chodpa, “Cánh cửa giải thoát vô hạnh” của đức Lochen Dharma Shri,
đạo sư vĩ đại của truyền thống Ngagyur Nyingma, có viết rằng: thậm chí công đức tích
lũy từ niềm tin liên tục vào “Vua của Các ước nguyện” này còn lớn lao hơn các công đức
tích lũy được bằng việc cúng dường châu báu quý giá và niềm hỉ lạc tối thượng của con
người và chư thiên cho đến hết rất nhiều kiếp. Bởi vậy, chẳng cần thiết phải nói về công
đức tích lũy bằng việc tin tưởng vào “Vua của các ước nguyện” trong một thời gian dài.
Và: Bất kì ai đã nỗ lực trì tụng “Lời cầu nguyện Hành động toàn hảo” này với niềm tin
tối thắng, sẽ đạt được mười ba công đức sau:
Công đức thứ nhất: tránh được nguyên nhân tái sinh vào các cõi địa ngục vì các hành
động trong quá khứ.
Công đức thứ hai: tránh được các bạn bè xấu trong đời này và nhiều đời tiếp theo.
Công đức thứ ba: có thể tái sinh vào Tây Phương Cực Lạc [Tịnh Độ của Đức A Di Đà]
và nhìn thấy Đức A DI Đà trong đời này.
Công đức thứ tư: bất kì ai nỗ lực cố gắng với lời cầu nguyện này sẽ có những điều kiện
thuận hòa và đạt được nhiều tài sản.
Công đức thứ năm: có thể sống mà không có chướng ngại đến trọn đời và đảm bảo sự
liên tục của an bình và thịn vượng trong cả đời.
Công đức thứ sáu: làm cho đời này ý nghĩa và hoàn hảo, vì thế nó có thể được gọi là cuộc
đời thực sự thích hợp.
Công đức thứ bảy: chỉ chính xác như Đức Phật Phổ Hiền, kiến thức và sự thị hiện của
ngài sẽ nhanh chóng đạt được.
Công đức thứ tám: người trì tụng lời cầu nguyện này với niềm tin sâu sắc nhất có thể tịnh
hóa 5 tội ác ghê gớm [giết mẹ, giết cha, giết A La Hán, phá hòa hợp Tăng và làm chảy
máu Phật với ý định ma quỷ được biết đến là 5 tội ác ghê gớm – ngũ nghịch tội].
Công đức thứ chín: người ta sẽ được ban tặng trí tuệ hoàn hảo – nguồn gốc của trí tuệ
không phân biệt của các đấng Cao quý.
Công đức thứ mười: sẽ đạt được thân thể đẹp đẽ được ban tặng với các điểm chính và phụ
hoàn hảo, và sẽ sinh ra trong gia đình hoàng tộc.
Công đức thứ mười một: khát vọng ma quỷ của những người dị giáo, ma quỷ, thù địch
độc ác và tương tự không thể làm hại và tìm thấy lỗi.
Công đức thứ mười hai: người sùng kính lời cầu nguyện này sẽ được thờ phụng, kính
trọng và giúp đỡ bởi nhân và thiên trong Tam cõi.
Công đức thứ mười ba: sẽ đạt được các khát vọng và hoàn thành hai sự tích lũy công đức
và trí tuệ nhanh chóng, và sẽ ngồi dưới cây Bồ đề, điều phục các thế lực ma quỷ, đạt đến
giác ngộ hoàn toàn và chuyển Pháp luân vì lợi lạc của chúng hữu tình.
Và: “Bất kì ai ủng hộ, ghi chép, giảng dạy hay đọc “Vua của các ước nguyện”, kết quả và
công đức về ngiệp của nó sẽ không thể tưởng tượng. Thậm chí nếu trí tuệ của Các bậc
Thanh Văn và Duyên Giác Phật cao quý, cũng không thể tưởng tượng nổi công đức lớn
lao của lời cầu nguyện này, chứ đừng nói gì là trí tuệ của chúng sinh bình phàm. Vì thế,
kết quả của lời cầu nguyện này chỉ được thấy rõ bởi trí tuệ hoàn hảo của Phật. Bởi vậy,
công đức đạt được từ Lời cầu nguyện “Vua của các ước nguyện” này chắc chắn sẽ dẫn
đến giác ngộ tối thượng.
Giống như vậy, công đức lớn lao của lời cầu nguyện này được miêu tả bởi rất nhiều vị
đạo sư trong quá khứ như Đức Dignaga, Sakya Mitra, Bhadravaha, Vasubandhu, Lochen
Yeshe De, Azom Gyalse Rigzin Gyurmed Dorjee và nhiều ngài khác; chúng ta có thể trì
tụng lời cầu nguyện này bất cứ lúc nào, tương ứng với các hoạt động giác ngộ cao quý
của chư Bồ Tát, trưởng tử của Các Đấng chiến thắng và hồi hướng các thiện hạnh vì mọi
chúng hữu tình với sự thanh tịnh ba phần được chỉ dẫn bởi Đấng Toàn Tri Longchen
Rabjam:
Bắt đầu thực hành với tâm bồ đề ngay từ đầu,
Thực sự thực hành với không nhận thức,
Và hòa nhập với sự hồi hướng lúc kết thúc.
Đây là ba con đường cần thiết dẫn đến giải thoát.
Hậu quả nghiêm trọng của việc không tôn kính Ba Đối tượng thờ cúng
Kính lễ Đức Điều phục, Đấng chiến thắng Thích Ca Mâu Ni!
Người đã giải thích đặc biệt điều đó cho đến khi không còn những hình tướng nhị nguyên
tinh tế nhất
Nếu người ta không nỗ lực để hành xử tương ứng với những điều nên và không nên của
hành động tốt và xấu
Người ta sẽ mang những hậu quả chắc chắn từ những hành động đó.
Mặc dù, sự thật không nghi ngờ là người ta phải gánh chịu những hậu quả của những
hành động đã làm, nó có thể tốt lành hay không tốt lành, đôi khi đơn giản không biết làm
sao cư xử theo luật vì sự ngu dốt về việc làm và không làm của các hành động tốt và xấu
và trong khi có một số khác lại có ý định phá luật nhân quả, làm bất cứ điều gì họ thích.
Bởi vậy, với niềm hy vọng về sự giúp đỡ những người đầu tiên trong hai nhóm người
này, sự sưu tầm những chứng cớ truyền miệng của các học giả lão luyện đã qua về hậu
quả nghiêm trọng của việc bất kính ba đối tượng thờ cúng hay ba sự trợ giúp sẽ nằm
trong bài viết này.
a) Lời giới thiệu ngắn gọn ba đối tượng thờ cúng
Các bức tượng được đúc, các bức tranh được vẻ và các hình ảnh được tạc của Đức Phật là
các hỗ trợ về thân. Hỗ trợ về khẩu là các bản văn Pháp, chứa đựng hai phẩm tánh đức
hạnh của các nghiên cứu – chữa lành và bảo vệ, được biên soạn bởi đức Phật và các đệ tử
uyên bác của ngài, và các bảo tháp là hỗ trợ về tâm. Những nhận diện này được tìm thấy
trong các bản văn xác minh của Phật giáo.
b) Các sưu tầm về bằng chứng truyền miệng của các học giả uyên bác đã qua về hậu
quả nghiêm trọng của việc bất kính ba đối tượng thờ cúng
Như đức (Jowo-je) Dipamkara Shri-jana nói rằng:
Chính là sự nương tựa tạo nên sự khác biệt giữa Phật tử và không phải Phật tử. [ngoại
đạo]
Để trở thành Phật tử chân chính, điều quan trọng là nhận các giới nguyện quy y, như
trong bảy mươi câu thơ về quy y có đoạn:
Thực tế, mọi người có thể nhận giới
Trừ những người chưa quy y
Nhưng, nhận giới riêng biệt không giúp chúng ta, nếu chúng ta không theo các chỉ dẫn về
những việc làm và không làm. Như Đại Bồ Tát Patrul Rinpoche viết trong chỉ dẫn về
Quy y trong Lời vàng của Thầy tôi:
Thời này, một vài người tuyên bố là môn đồ của Tam Bảo, nhưng không chút kính trọng
đến các đại diện [của Tam Bảo]. Họ coi các bức tranh và tượng đại diện cho đức Phật hay
các cuốn sách chứa đựng lời nói của ngài như là đồ dùng thế tục có thể bán hay đem cầm
cố. Điều này được gọi là “sống bằng cách giữ Tam Bảo để đòi tiền chuộc” và là một lỗi
nghiêm trọng. Chỉ ra điểm xấu của một bức tranh hay tượng Phật nếu không lại chỉ trích
chúng, nếu bạn không đánh giá với ý định sẽ sửa chúng, cũng sẽ là một tội lớn và cần
phải tránh. Đặt các cuốn sách chứa đựng kinh điển lên sàn nhà, bước qua, làm ướt ngón
tay bằng nước bọt để lật trang giấy và các hành động bất kính tương tự cũng là những lỗi
nghiêm trọng. Chính đức Phật từng nói rằng:
Sau năm trăm năm
Sự hiện diện của ta sẽ là các bản kinh văn
Hãy coi kinh văn là đại diện của ta
Và tỏ lòng tôn kính.
Có một câu châm ngôn rằng người ta không nên đặt các hình ảnh lên trên kinh điển. Vì
nó là đại diện của đức Phật, thay vì đại diện của thân hay tâm ngài, nó dạy chúng ta điều
gì nên làm và điều gì không nên làm và cũng chắc chắn sự liên tục của giáo lý của ngài.
Kinh điển vì thế không khác với chính đức Phật, và đặc biệt linh thiêng.
Hơn thế nữa, phần lớn mọi người không nghĩ chuông và chày là thứ gì mà chỉ là những
vật bình thường. Họ không đánh giá rằng chúng là đại diện của Tam Bảo. Chày kim cang
biểu tượng cho tâm của đức Phật, ngũ trí. Chuông mang hình ảnh của khuôn mặt, điều,
tương ứng với các mật điển bên ngoài, là của đức Vairocana, và trong tri kiến của mật
điển bên trong là của đức Vajradhatvishvari. Nói cách khác, nó chứa đựng hình ảnh của
thân chư Phật. Các chữ được khắc trên nó là tám chủng tự gốc của tám vị phối ngẫu, và
chuông cũng biểu tượng cho khẩu của Phật, âm thanh của Pháp. Vì thế, tựu chung lại,
chuông và chày hoàn thiện đủ mọi tiêu chuẩn của các địa diện của thân, khẩu và ý của
Phật. Đặc biệt hơn nữa, hai đối tượng này chứa đựng tất cả mạn đà la của Kim Cương
thừa bí mật, và cũng được coi là đối tượng samaya phi thường. Đối xử bất kính với chúng
vì thế là một lỗi nghiêm trọng. Hãy luôn kính trọng chúng.
Và cũng trong luận giảng của ngài về chuông và chày kim càng, ngài Patrul Rinpoche
viết:
Chày kim cang đại diện cho năm thân không thể phá hủy của chư Phật
Chuông đại diện cho trạng thái bất khả phân của hình tướng và tánh không của thân chư
Phật
Âm thanh của chuông là sự cộng hưởng tự nhiên không thể diễn tả của Pháp
Những chữ chủng tự trên chuông là đại diện của khẩu cao quý của Phật
Chày kim cang, đại diện của tâm trí tuệ của chư Phật
Là bản tánh tối thượng của ngũ trí của tâm chư Phật và
Vì thế, nó là đại diện về thân, khẩu và ý của tất cả chư Phật
Bất kỳ ai khinh miệt hay bất kinh với những đối tượng này không cần xem xét
Sẽ phá hỏng các samaya giới bí mật khi từ bỏ Tam Bảo
Người suy đồi như vậy sẽ bị các vị trời bảo hộ bỏ rơi
Và sẽ tái sinh không ngừng trong luân hồi khổ đau của địa ngục kim cương trong tương
lai.
Và trong chỉ dẫn được sưu tâm của ngài đến các vị Bồ Tát có nói:
Chê bai các giới nguyện chân chính của đức Phật, nói rằng nó không phải lời nói của
Phật là hành động nghiêm trọng từ bỏ Pháp, sự suy đồi cơ bản thứ hai của chư Bồ tát.
Và cũng trong cuốn sách của ngài về cách thức kính trọng ba đối tượng thờ cúng, phương
pháp đối trị cao quý của con đường chân chính:
Trong Luật có nói rằng, thậm chí nếu người ta cán chổi của tu viện để quét nhà mình, họ
cũng sẽ tái sinh trong cây chổi như là địa ngục và nếu bạn làm bẩn các bức tường và cột
trong các ngôi chùa với nước mũi, …. bạn sẽ sinh vào cõi địa ngục như những cây cột và
bức tường. Đặc biệt, sử dụng tiền, vật chất được cúng dường cho tu viện là điều rất
nghiêm trọng, giống như một tội ác không thể sửa được, nó được coi là sự suy đồi gốc
của Bồ tát khi ngài cướp đoạt tài sản dưới danh nghĩa Tam Bảo. Vì thế, ngay sau khi
chết, ngài sẽ tái sinh vào cõi địa ngục với việc uống nước đồng sôi và sau khi tái sinh
hàng ngàn lần làm ma đói và nhiều điều khác nữa. Thậm chí nếu người ta cúng dường vật
chất trong buổi sáng, buổi tối trong mùa thu, điều giành cho mùa hè và để lại khoảng
trống giữa các thời gian thực sự của cúng dường, họ sẽ tái sinh trong địa ngục nhỏ mọn
với rất nhiều thân nối lại với phân tử nhỏ xíu ở giữa.
Các câu chuyện của Zhichen Gyal-tshab từ Kinh điển có giải thích như thế:
Người câm là bởi phản đối Pháp, trong khi điếc là kết quả của việc không thích nghe
Pháp và mũi xấu xí là kết quả của việc cúng dường hương thối lên Đức Phật.
Và: Người với nước da xám đạm và vẻ mặt tức giận là kết quả của việc giữ bức tượng
Phật trong các khu vực mở, phòng lớn, sân trong, ngôi nhà, …
Và: Nếu người ta tận hưởng tài sản hay vật chất cúng dường cho Tam Bảo, bằng cách
phá hủy chùa chiền và bảo tháp, họ sẽ sinh vào địa ngục vô gián. Khi người đó thoát khỏi
địa ngục như thế, họ sẽ sinh làm loài bồ câu, chim sẻ, vịt, vẹt, lợn, … Thậm chí nếu anh
ta sinh làm người, cũng sẽ là phụ nữ, người đồng tính, gái mại dâm và nhiều kiểu khác.
Và: Nếu người ta giẫm lên các đối tượng thờ cúng, họ sẽ sinh làm con lạc đà và nếu bước
đi giầy vào chùa, họ sẽ sinh ra làm cóc.
Mười hành động dẫn đến sự xấu xí là: tức giận, thù ghét, vứt rác xung quanh bảo tháp và
chùa, dập tắt đèn bơ cúng dường các đối tượng thờ cúng, …
Bệnh phong là kết quả của việc phá hủy các đối tượng thờ cúng của Tam Bảo.
Nếu người ta phá hủy đền chùa, bảo tháp và bất kính cộng đồng tâm linh, cha mẹ vf tu
viện trưởng trong hiện đời, họ sẽ tái sinh vào tám địa ngục lửa thiêu liên tiếp.
Và: Chân cong là kết quả của việc quay lưng lại với tượng Phật, mang quần áo bẩn và
người ta sẽ tái sinh trong số những người man rợ nếu không chắp tay lại khi đang lễ lạy
trước tượng Phật.
Ba câu nói về ý nghĩa cốt tủy cũng đề cập rằng:
Kinh điển chắc chắn sánh ngang với đạo sư
Vì chúng chỉ ra con đường không lỗi lầm
Chúng không khác gì đức Phật
Không đạo sư bình thường nào có thể sánh bằng
Lý do vì sự giảng dạy con đường cao quý không lỗi lầm
Có thể được hiểu từ sự định nghĩa đặc biệt của
Lời nói, luận giải, và khẩu truyền của đức Phật
Đầu tiên, định nghĩa về lời nói của đức Phật được ban trong các luận giải về sự tương tục
tối thượng là:
Những bản kinh văn này với ý nghĩa lớn lao và từ ngữ toàn hảo, điều giảng bày con
đường để thoát khỏi những cảm xúc của ba cõi, tán dương đức hạnh của an bình tối
thượng được gọi là khẩu của đức Phật.
Và: Sự định nghĩa của các luận giải, các bản văn được viết bởi các bậc thoát khỏi sự xao
lãng, không trái ngược với giáo lý gốc của đức Phật, hòa hợp với con đường giải thoát là
các luận giải, bởi vậy nó cũng được coi là khẩu của đức Phật.
Kế đó, nó cũng bởi vì tất cả những bản văn này được biên soạn bởi những bậc có ba
phẩm tánh của việc biên soạn luận giải. Vì thế, những bản văn này là hoàn hảo, chứa
đựng những phẩm tánh nhị nguyên của chữa lành và bảo vệ.
Các bản kinh văn sánh ngang với Đức Phật, như trong Kinh điển có nói:
Sau năm trăm năm
Sự hiện diện của ta sẽ dưới hình tướng các bản kinh văn
Và trong giáo lý xuất sắc Hoa sen trắng có viết rằng:
Hóa thân trong hình tướng khác nhau của thân
Ta sẽ hoàn thành mục tiêu dẫn dắt chúng sinh đến các hành động đức hạnh
Và: Các bằng chứng truyền miệng hỗ trợ điều đó, các đạo sư bình thường không thể sánh
ngang với kinh điển:
Bởi mọi phẩm tánh cao quý của sự từ bỏ và chứng ngộ
Của Đức Phật được tóm gọn trong các bản kinh văn
Các bậc đạo sư bình phàm không thể nào
Có được một phần trăm hay ngàn nhữn phẩm tánh đó
Các ngài không thể minh họa chúng
Bởi vậy, ngày nay, tốt hơn là có bản văn riêng
Thay vì nương tựa vào một đạo sư bình phàm nổi tiếng
Như trong Mật điển cũng nói rằng:
Nếu người ta không coi vị thầy dạy bản một bản thơ sánh ngang với đạo sư của riêng
mình, họ sẽ sinh ra làm con chó trong 100 lần trước khi đạt đến thân người trong gia
đình có nguồn gốc thấp kém. Tương tự như vậy, nếu bạn không kính trọng các bản kinh
văn, chắc chắn bạn sẽ gánh chịu những kết quả tương tự bởi kinh điển và đạo sư là
không thể tách rời.
Kinh điển Đại thừa, được gọi là sức mạnh lớn lao của các Đấng cao quý nói rằng:
Chúa tể của bí mật! Bậc trì giữ chày kim cang! Bất cứ người nào không kính trọng kinh
điển này sẽ tái sinh vào tám địa ngục lớn lao.
Thần chú linh thiêng gọi là Các đấng cao quý được ban tặng các phẩm tánh chiến thắng
có đoạn:
Bất kỳ ai trượt khỏi hoàng hậu của mật điển kiến thức này, cũng đều là xúc phạm đến
Đức Phật vinh quang.
Kinh ko-Shi-ka về Sám hối cũng đề cập:
Nếu người ta bán kinh điển, họ sẽ sinh vào địa ngục kim cương
Nếu người ta cắt và sử dụng kinh điển, họ sẽ sinh vào địa ngục vây quanh và nghiền nát
Nếu người ta buôn bán và gửi kinh điển một cách không cẩn thận
Họ sẽ có 500 cái lưỡi với những con trâu yak cày trên đó
Nếu người ta không đọc kinh điển một cách đúng đắn, để những từ ở giữa
Họ sẽ bị kéo vào đầm lầy tử thi thối rữa và nhiều điều khác ……..
Như trong lời khẩn nguyện của Cõi Cực lạc của đức A Di Đà bởi học giả uyên bác
Karma Chagmed:
Phá hoại tượng, báo tháp, chùa chiền và nhiều thứ khác
Con thừa nhận sự vi phạm những tội lỗi nghiêm trọng này
Điều tương tự như năm tội ngũ nghịch và sám hối trước ngài!
Và:
Giữ Tam Bảo, chùa chiền, các bản văn Pháp, ba bản sao và nhiều thứ khác như nhận
chứng
Phá hoại những phẩm tánh của chúng, thề trước chúng và nhiều điều khác
Con thừa nhận và sám hối những hành động từ bỏ Pháp nghiêm trọng này.
Bởi vậy, bất kính các đối tượng thờ cúng được coi là một trong những ác hạnh lớn nhất,
như Đấng Toàn trí Mipham viết trong cuốn sách của ngài gọi là Cánh cửa đến Tri thức,
rằng đây là điều tương tự với ngụ nghịch tội, những tội ác nghiêm trọng nhất.
c) Kết luận
Ngày nay, vào thời điểm khi mà năm sự suy đồi xuất hiện khắp nơi, một vài chúng sinh
không may mắn vì những thiên hướng của nghiệp xấu, họ đang đổi các đồ linh thiêng quý
giá bằng những thứ đồ thế tục như thức ăn và quần áo. Họ cũng thử những lựa chọn ngu
dốt như là àm các đồ thờ cúng mới trông giống đồ cũ để bán và có một vài thành viên
tăng đoàn sử dụng các dụng cụ linh thánh của mật tông như chuông và chày như đồ chơi.
Bởi những hành động này thực sự là tội ác nghiêm trọng, điều dẫn đến những khổ đau vô
lượng trong tương lai, sự sưu tầm các bằng chứng truyền miệng của các học giả uyên bác
trong quá khứ có thể đem đến lợi lạc cho những người lầm lỗi này. Như trong kinh điển
có nói:
Các bằng chứng truyền miệng này là những lời nói đáng tin cậy
Trong khi những lời nói sai chỉ là nguồn gốc của rắc rối.
Những lời nói này đáng tin cậy cho mọi người để nương theo mà không cần nghi ngờ,
bởi vì chúng được tích tập từ các bản văn đáng tin cậy bởi các bậc đạo sư chân chính
trong quá khứ.
Hồi hướng
Mặc dù bốn dòng suối của những trước tác chân chính của chư đạo sư trong quá khứ
chảy liên tục trong từ ngữ và các luận giải
Với ý định thanh tịnh giải khát cho tất cả tập hội Pháp hữu may mắn nơi đây
Chúng con cô đọng tất cả thành đại dương bằng chứng duy nhất
Bằng công đức của nỗ lực này, nguyện cầu tất thảy chúng hữu tình có con mắt của sự
thấu suốt!
Vài nét về [Học viện] Nalanda
Học viện Phật giáo đóng vai trò chính trong việc truyền bá thông điệp hòa bình, tình yêu
thương, lòng từ bi và sự thật trong dòng tâm thức của mọi chúng sinh. Học viện Nalanda
nổi tiếng là một trong các đại học đầu tiên và vĩ đại trên thế giới. Nó phát triển ở vùng
Nam Á rất lâu trước sự thành lập các trường như Oxford, Cambridge và Harvard.
Nguồn gốc của Nalanda
Tên gọi “Nalanda” trong tiếng Phạn nghĩa là “người ban tặng nhiệt thành kiến thức.” Địa
điểm của học viện Nalanda nằm ở bang Bihar, Ấn Độ, khoảng 55 dặm từ Patna, thủ phủ
của Bihar. Đức Phật đã đến và gia trì cho Nalanda khá thường xuyên vào thế kỷ 6 trước
Công nguyên. Nalanda là nơi đản sinh của Đức Xá Lợi Phất, một trong hai đệ tử chính
của Đức Phật. Nó cũng được cho là địa điểm nơi mà đức Xá Lợi Phất cùng với 80 nghìn
vị đệ tử A La Hán của ngài nhập Niết Bàn. Hơn nữa, Nalanda đã trở thành trung tập
Nghiên cứu Phật giáo Cao cấp trong thời cổ.
Học viện Nalanda
Vua Pháp Asoka [vua A Dục] đã cúng dường lớn lao Bảo tháp của đức Xá Lợi Phất và
xây dựng ngôi chùa Phật giáo lớn. Chùa Nalanda ban đầu được xây dựng vào thế kỉ thứ 3
trước Công nguyên vào thời của vua Chakrawartin, một hóa thân trước của Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni. Sau đó vào thế kỉ 5 và 6, khi sự phát triển cấu trúc của nó chạm đến
tâm của các Đấng cao quý, năm trăm đạo sư tâm linh Phật giáo của truyền thống Đại thừa
đã tụ họp và quyết định rằng trung tâm Phật giáo cần được xây dựng ở đây để hoằng
dương Phật giáo Đại thừa.
Tiên đoán trước các dấu hiệu tốt lành của việc hoằng dương giáo lý Đại thừa sâu rộng
nếu nó được thuyết giảng ở đây, địa điểm đản sinh linh thánh của đức Xá Lợi Phất, tám
anh em Brahmin (Bà la môn) đã xây tám ngôi chùa và vị vua Laksha Asho đã mời 500
đại sư Đại thừa nơi mà mỗi vị được tặng một ngôi chùa trong 500 ngôi chùa mới xây ở
đỉnh ngọn núi tên là Abhu.
Vị vua đã khuyên 500 người đầy tớ sùng mộ và thông minh của ngài thọ giới xuất gia và
thọ nhận các giáo lý Đại thừa. Với ý định kết tập các bản kinh, đức vua đòi hỏi số lượng.
Vị vua được báo rằng ngoài vô số các bản kinh văn, còn có khoảng một trăm ngàn lakh
có trong tay. Mặc dù như thế là rất nhiều, ngài đã bảo trợ việc chuyển dịch và vì thế mọi
sự sưu tầm kinh văn của Đại thừa đã được hoàn thành và tặng cho các vị tăng đang cư
ngụ ở các ngôi chùa.
Trong thế kỉ thứ 10, Nalanda nổi tiếng là đại học vĩ đại ở Ấn Độ. Trường Đại học này là
trung tâm nghiên cứu Phật giáo cổ chính yếu của Ấn Độ và tạo ra rất nhiều học giả uyên
bác. Đại học này cũng có ba thư viện lớn, trung và nhỏ, bệnh viện cho các chữa trị thông
thường và nông trại bơ sữa để cung cấp sữa và bơ cho tăng đoàn. Trong thời kỳ cực
thịnh, các khóa học Phật giáo về Đại thừa và Tiểu thừa được cung cấp cho 10 000 sinh
viên cư ngụ bởi trên một nghìn giáo sư và giảng sư. Kết quả là, hàng ngàn học giả uyên
bác Tam Tạng Kinh điển đã tốt nghiệp từ Học viện Nalanda.
Sự tồn tại của cộng đồng Tăng đoàn phụ thuộc vào lương thực thu thập được từ hai trăm
ngôi làng rộng lớn với sự đồng ý ban tặng của vị vua. Gần như mọi đạo sư nổi tiếng uyên
thâm của Ấn Độ cổ là kết quả của Học viện Phật giáo Nalanda.
Sự phát triển của Nalanda
Theo thời gian, khi 500 vị thầy triết học của trường phái Duy thức, thục hành thiền định
hệ thống, hai anh em ngoại đạo Brahmin Thotsun Drubje và Degye Dagpo đã từ bỏ tôn
giáo và xuất gia. Sau khi nắm vững toàn bộ khóa học về triết học Phật giáo, họ soạn một
bản văn tên là “Tán thán Đức Phật và Vượt qua các vị trời, phân biệt phẩm tánh của tốt
và xấu giữa Phật tử và ngoại đạo.” Hai anh em đã bảo trợ các bữa ăn cho 500 vị tăng Tiểu
thừa ở Bồ Đề Đạo Tràng và 500 vị tăng Đại thừa ở Nalanda. Sau đó, Đại thành tựu giả
Sarahapa (Rahula), Đức Long Thọ (Nagarjuna) và nhiều ngài khác đến Nalanda và hoằng
bá giáo lý Trung Đạo, con đường trung đạo của Phật giáo Đại thừa.
Học viện đã làm lợi lạc lớn lao cho những người theo Phật giáo cổ của cả Đại thừa và
Tiểu thừa. Các giới luật được bảo vệ và duy trì nghiêm ngặt bằng cách đuổi các vị tỳ
kheo bỏ đạo. Thức ăn cho 500 vị tiên phong Đại thừa được chuẩn bị bởi sự thực hành
thuật luyện đan. Năm Bộ Trước tác Các Tranh luận và các bản văn khác được biên soạn
cho sự trái ngược với tranh luận từ “Người đề xướng Sự tồn tại chân thật”, ba trong bốn
trường phái đầu tiên, bởi vậy bảo vệ Phật giáo một cách thích hợp.
Trong khi đó, Brahmin Su Vishnu đã xây dựng 108 ngôi chùa ở Nalanda. Trong thời đại
của vua Sala Tsangda Gupta, đạo sư Arydeva và Naga Hawa đã duy trì và phổ biến học
thuyết của đức Phật. Đức Đạo sư Asanga đã giành 12 năm cuối đời ở Nalanda, khi mà sự
tấn công của các kẻ ngoại đạo bị phản bác với rất nhiều các logic, giảng dạy Pháp và gần
một nghìn trong số đó đã thọ giới xuất gia và gia nhập cộng đồng Phật giáo.
Sau khi đức Asanga thị tịch, em trai của ngài, đức Vasubandhu trở thành tu viện trưởng
của Nalanda và chăm sóc các giáo lý Phật Đà. Trong triều đại Dignaga, khi mà Phật giáo
đối mặt với các khó khăn trong việc chiến thắng các cuộc tranh luận triết học với các
trường phái ngoại đạo, Đạo sư Vasubandhu được mời đến, và ngài đã chiến thắng Sudu
Raja, đạo sư vĩ đại nổi tiếng của truyền thống ngoại đạo trong ba lần.
Trong thời kì của vua Singha Tsangda, Chandrakirti đã đến Nalanda và sau đó trở thành
tu viện trưởng. Thông qua các luận giảng “Gốc của Trí tuệ” [Long Thọ], “Bốn trăm đoạn
thơ” [Aryadeva], và “Sáu mươi đoạn thơ tranh luận” và nhiều luận giảng khác, truyền
thống Buddhapalita được truyền bá như mặt trời chiếu tỏa. Chandrakirti một cách kì diệu
đã vắt sữa được từ bức tranh con bò và cúng dường tăng đoàn với mì-sữa. Chandrakirti
và Tsanda Gomi gặp nhau ở Nalanda, nơi mà họ kiểm tra và bác bỏ học thuyết bộ phái
sách vở của Trung Đạo và Duy thức. Sau đó rất nhiều các bậc Đạo sư tâm linh như
Dharmapala, Gyalwa Lha, Shantideva, Shantarakshita và các vị khác tiếp tục duy trì các
giáo lý Phật Đà.
Trong triều đại vua Abhivyakti và vua Simha Pajcama, Dharmakirti đã viếng thăm
Nalanda, ở đây ngài đánh bại đạo sư ngoại đạo nổi tiếng Zhonu Rolpa (Kumara Lalita) và
Samgar Acharyana và viết “Bảy Luận giảng về Logic”, cuốn sách chứng minh đức Phật
là một con người chân thực. Giống như vậy, mười bảy đại học giả và rất nhiều các học
giả của Học viện Nalanda đã tiến hành các hoạt động nghiên cứu, quán chiếu và thiền
định cho riêng bản thân; giải thích, tranh luận và biên soạn cho người khác, và giảng dạy,
thực hành và các thiện hạnh vì cả bản thân và người khác.
Nalanda có được sự bảo trợ từ các bậc thống trị địa phương, vì thế đảm bảo nguồn tài
chính và thậm chí có được những thứ cần thiết. Bởi vậy, giáo Pháp được xiển dương rộng
lớn.
Vẻ đẹp cấu trúc
Nalanda gồm rất nhiều tòa nhà nhiều tầng, chứa đựng các phòng học, phòng thiền định
cùng tám khuôn viên riêng biệt và rất nhiều ngôi chùa, điểm tô với các hồ sen và công
viên đầy các cây xoài. Học viện cũng được coi là một kiệt tác kiến trúc. Thư viện nằm ở
một tòa nhà chín tầng, nơi rất nhiều các bản sao chép được tạo ra cẩn thận. Học viện
Nalanda có một đại Bảo tháp. Nghiên cứu cho thấy rằng bảo tháp này được bảo vệ bởi
các bậc thang cũng như sườn đất đắp cao.
Tháp chính ở Nalanda chứa một hình tượng đức Phật Thích Ca được tạc lớn. Người ta
tìm thấy rằng cấu trúc nhỏ ban đầu đã được làm rộng bởi các ngôi chùa sau đó được xây
dựng lên trên và xung quanh các ngôi chùa cũ trước kia. Quần thể có một hàng các địa
điểm tu viện nằm từ nam lên bắc. Gần như tất cả đều có đặc điểm chung. Các tu viện có
rất nhiều phòng nhỏ giành cho chư tăng với hiên rộng. Ban đầu nó là một tòa nhà hai tầng
hay nhiều hơn thế với sự xuất hiện của các bậc thang ở góc đông-nam. Sân trong của tu
viện, thường là điện thờ Đức Phật. Giếng nước cũng được đào trong vùng đất để có thể
cung cấp nước.
Ngày nay, các đoàn hành hương từ khắp nơi trên thế giới đến Ấn Độ và viếng thăm
Nalanda vì vẻ đẹp kiến trúc và địa điểm linh thiêng. Mọi cấu trúc đều bằng gạch đỏ với
những khu vườn rất đẹp. Người hành hương vẫn có thể thấy các viên gạch đỏ này ở
Nalanda.
Chương trình nghiên cứu
Như đã giải thích bên trên, Học viện Nalanda cung cấp toàn bộ các khóa học về triết học
Phật giáo về bốn trường phái dưới sự chỉ dẫn tâm linh của các giảng sư đầy đủ phấm tánh
như ngài Long Thọ, Vimalamitra, Dharmakirti, Shantarashita và nhiều ngài khác. Bốn
trường phái Phật giáo là: 1) Sautrantika; 2) Vaibhasika; 3) Duy thức; 4) Trung Đạo.
Học viên thu hút lượng lớn sinh viên Phật giáo và các học giả từ Ấn Độ, Hàn Quốc,
Burma, Nhật Bản, Trung Quốc, Tây Tạng, Indonesia, Ba Tư, Thổ Nhĩ Kì và nhiều vùng
khác trên thế giới. Các khóa học chính yếu được giảng dạy bao gồm các kinh điển Phật
giáo của Đại thừa và Tiểu thừa, Vệ Đà, Logic, Ngữ Pháp và Thuốc. Các bậc chỉ dẫn cũng
giảng dạy nhiều môn học khác như năm môn nghệ thuật, toán, chiêm tinh, khoa học nông
nghiệp nghệ thuật và thủ công, …
Sự suy tàn và phục hồi Học viện Nalanda
Nỗ lực đầu tiên phá hủy Học viện Nalanda đã được tiến hành khi mà nó mới được thành
lập vài năm. Ngay sau khi sự đăng quang của vua Nema Tsandra, vị Brahmin tên là
Pushya Mitra đã nổi dậy và chiếm lấy vương quốc. Khi một người phụ nữ già, họ hàng
của Brahmin đến Nalanda, và rung chuông Pháp, nó tạo ra âm thanh “phataya.” Khi được
nghiên cứu, nó ám chỉ đến ý nghĩa: “chiến thắng những người ngoại đạo.” Sau đó những
người ngoại đạo như vua Pushya Mitra và nhiều người khác đã tiến đánh và kết quả là rất
nhiều ngôi chùa từ Bồ Đề Đạo Tràng đến Dzalandha bị đốt cháy. Tỳ kheo Bahuzruta
Nanda và nhiều vị khác mất mạng. Vì thế, Nalanda bị thiệt hại nặng nề bởi cuộc chiến
tranh đó. Sau đó, vị vua giàu có và hùng mạnh tên là Godra Phelgyed của xứ Godra, vùng
nhỏ thuộc Đông Bengal đã xây dựng lại các ngôi chùa bị phá và tái thiết Nalanda.
Trong giai đoạn của vua Dharma Tsangdra, con trai vua Sri Tsangdra và vua của
Molatana và Lahor là Bendaro hiếm khi cãi cọ. Khi hòa bình được thiết lập giữa hai quốc
gia, vua xứ Ba Tư gửi ngựa và nhiều châu báu để tỏ hảo ý với vua xứ Magadha, Dharma
Tsangdra. Đáp lại, nhà vua xứ Magadha gửi voi, lụa và vải gấm và nhiều thứ khác. Một
ngày, vị vua xứ Magadha gửi cho ngài quần áo đặc biệt mà không chia, nhưng không
may một vết như bàn chân xuất hiện ở giữa mảnh vãi. Điều này được cho là do ma quỷ
tiến hành. Một lần nữa khi vua xứ Magadha mong muốn gửi hoa quả làm quà, vị
Brahmin viết bánh xe thần chú lên vỏ cây, thứ mà được thực hiện bởi gió khi giữ trong
ánh sáng mặt trời, đi vào những quả chuối. Chuối và rất nhiều thứ quả khác được đặt
trong hộp đầy bơ và gửi đến vua Ba Tư. Một ngày, khi vị vua nhận ra bánh xe thần chú
trong hoa quả, nhà vua nghĩ suy và kết luận rằng vua xứ Magadha đang làm trò ma quỷ
với ngài. Vì thế binh linh Turushka đã tiến đánh toàn bộ vùng Magadha; rất nhiều ngôi
chùa bị phá hủy và thậm chí Nalanda cũng bị phá hủy nghiêm trọng. Các vị tăng phải bỏ
chạy khỏi Nalanda.
Sau đó, Sangye Chog, vua xứ Varanasi, gửi một vài đạo sư Sautrantika (Những người
tiên phong của Kinh điển) đến Trung Quốc, nơi mà vua Trung Quốc đã gửi đến vàng và
nhiều thứ giá trị. Vị vua giành được trái tim của mọi vị vua Đông và Trung Án với tài sản
giàu có này. Họ hợp nhất và đánh bại vua xứ Ba Tư, khi mà vua Khunim Mapta và gần
như toàn bộ đàn ông dũng cảm xứ Ba Tư bị giết. Mọi ngôi chùa bị phá hủy trước đây
được xây dựng và các vị tăng được thỉnh mời. Với 84 ngôi chùa chính để hỗ trợ học viện
tôn giáo, 71 ngôi chùa được xây bởi nhà vua, trong khi các ngôi chùa cũ được xây bởi
hoàng hậu và các đại thần. Vì thế, Pháp được bảo tồn hoàn toàn.
Sau sự phát triển mạnh mẽ các giáo Pháp trong gần 40 năm, khi bộ trưởng tên là kakuta
Singha đặt nền tảng xây dựng ngôi chùa mới, đám đông đã hiện diện nơi mà họ thưởng
thức các trình diễn. Hai người ăn xin ngoại đạo đến để xin ăn. Những chú tiểu ác độc đã
đổ nước cọ rửa vào họ và đuổi họ ra khỏi cửa và thả những chó dữ. Điều này làm họ tức
giận và một trong hai người vào khu nhập thất và trì tụng thần chú Aditya (Nyinma)
trong khi người còn lại tìm thức ăn. Sống ở sâu dưới lòng đất, ông ta trì tụng thần chú
Aditya trong chín năm, nhưng không thể thành tựu. Vì thế, khi ông ta cố gắng thoát khỏi
lòng đất, người bạn đã răn rằng ông sẽ bị chem. Đầu nếu ra ngoài mà chưa đạt được mục
đích. Vì sợ hãi, ông ta đi vào và trì tụng thêm ba năm. Bởi vậy ông ta đã thành tựu nó sau
mười hai năm và tiến hành nghi lễ cúng lửa.
Ông ta trì tụng thần chú và thổi vào tro rồi rắc nó, nơi mà nó tự bùng cháy và đốt cháy 84
ngôi chùa nơi đây. Thư viện Nalanda nổi tiếng là Dharma Gunj (Ngọn núi của Sự Thật)
hay Dharmaganja (Kho tàng Sự thật). Ba ngôi chùa tên là Ratba Sagara, Dadhi và Ratna
Randraka chứa đựng toàn bộ những kinh điển của Đại thừa cũng bị đốt cháy. Dòng nước
chảy ra từ vài bản kinh văn của tầng thứ 9 chùa Ratna Dadhi và kiểm soát ngọn lửa. Bất
cứ nơi đâu nước chảy đến, các bản kinh văn lại được cứu. Khi kiểm tra, các bản kinh điển
này được phát hiện là kinh điển của Năm Mật điển Đại thừa. Một vài nguồn khác phát lộ
bản văn này là Guhyasamaja.
Giống như vậy, rất nhiều ngôi chùa ở nhiều vùng khác nhau cũng như thế. Sợ hãi sự bạo
tàn của quốc vương, họ đã trốn đến vùng Hasama ở Bắc Ấn Độ, nhưng kết quả nghiệp
của các hành động xấu xa đã cướp đi cuộc đời của họ với việc tự thiêu cháy.
Sau đó rất nhiều vị tăng uyên bác đến từ mọi vùng của Ấn Độ đã tập họp, kết tập các bản
kinh văn và ghi chép các giáo lý trong trí nhớ của họ. Vua xứ Varanasi, Brahmin Sangku
và rất nhiều người sùng mộ đã tập hợp ở đây và tái thiết những ngôi chùa bị phá hủy.
Trong mười lăm phần các bản kinh Đại thừa được phổ biến trong cõi người, bốn đã bị
thất lạc trong hai trận chiến đầu tiên. Hai phần bị mất do các yếu tố tự nhiên và chín phần
còn lại bị phá hủy hoàn toàn bởi lửa. Vì thế, chỉ một phần các bản kinh văn còn lại vì sự
cải thiện của chúng sinh.
Năm 1197, vua Hồi giáo tên là Mahamati Jarju của xứ Thổ Nhĩ Kỳ tấn công Ấn Độ và
chiếm nhiều vùng đất Ấn trong đó có Nalanda và đã đốt cháy nơi đây. Shakyashribhadra
được tin là tu viện trưởng cuối cùng của Học viện Nalanda. Chư tăng và học giả Phật
giáo chạy đến Tây Tạng, Nepal và nhiều vùng khác.
Từ năm 1915 đến năm 1937, Bộ khảo cổ học của chính phủ Ấn Độ phát hiện tàn tích của
Học viện. Có 14 mẫu với 300 phòng cho chư tăng. Tóm lại, Nalanda bị phá hủy ba lần
vào các thế kỷ 5, 7 và 12. Như đã giải thích, các vị thống trị vào các thế kỷ đó đã xây
dựng lại và tái thiết học viện từ hai sự phá hủy đầ tiên. Khi những kẻ xâm lăng Hồi giáo
đến lần thứ 3 năm 1197, không còn ai trong vùng có thể tái thiết Học viện như thời kỳ
vinh quang trước kia. Những tàn tích vẫn còn có thể nhìn thấy cho đến ngày nay.
Tiểu sử vắn tắt đức Rigzin Terdag Lingpa
Padma Garwang Gyurmed Dorje
Như tiên tri trong chính kho báu của ngài được cất giấu bí mật có đoạn:
Vào thời điểm của năm sự suy đồi,
Khi mà tuổi thọ trung bình của con người quá thấp
Ở một nơi được gọi là Yoru ở tỉnh Dra miền tây nam Samye
Tại ngã ba của thung lũng hướng về phía bắc nhìn trông như nòng súng được treo lên ở
Lha Zhol
Đến một người cha tên là Tse một hóa thân của Phật Jana và mẹ mang tên Yangchen một
hóa thân của Shelkar Tshoden
Đứa bé mang tên Pema một yogi theo kiểu hành giả Mật tông sẽ tái sinh trong năm con
chó lửa; ngài không thấp cũng không cao với sự phức tạp bóng bẩy biểu tượng cho Ratna
bộ
Ngài sẽ có lòng sùng mộ vững chắc với tôi, đức Pema và lên 18, ngài sẽ bắt đầu phát
hiện các kho báu.
Theo điều này, và các tiên tri tương tự từ các kho tàng khác, chúa tể tối thượng của các
giáo lý bí mật nhất, hóa thân về khẩu của đức đại dịch giả Vairocana, Minling Terchen
Pema Garwang Gyurmed Dorje sinh ra trong gia đình với cha là đức Noeten Chenpo
Sangdag Thinley Lhundup, hậu duệ của gia đình Noe và mẹ và đức Rigza Hazin
Yangchen Dolma – hóa thân của Shelkar Dorji Tsho năm 1646 sau Công nguyên vào
ngày thứ mười tháng 2 theo Tạng lịch tương ứng với năm con chó lửa trong chu kì
rabjung thứ 11 ở Dranang Dargye Choling với rất nhiều điềm kiết tường.
Ngay khi đản sinh, người cha nổi tiếng của ngài đã ban cho ngài các quán đánh và gia trì
để xua tan các chướng ngại. Ngài được bảo vệ bởi các bổn tôn Hộ pháp trong hình tướng
một vị yogi với tóc tết và hai cô gái xinh đẹp từ khi rất nhỏ, điều mà thậm chí sau đó ngài
vẫn nhớ. Khi ngài còn trong lòng mẹ hay đang chơi đùa với những đứa bé khác, ngài hiển
bày những dáng điệu của Định với nhiều dấu hiệu tốt lành khác, điều đã truyền niềm tin
cho rất nhiều người. Ở tuổi lên bốn khi ngài nhận được các quán đảnh của toàn bộ bí mật
của tám giáo lý nghi quỹ (Kagyed Sang-Dzog), ngài thiết lập ý nghĩa hoàn hảo của bốn
quán đảnh trong tâm trí tuệ của ngài.
Lên mười tuổi, khi ngài đang nhận các quán đảnh của tập hợp các Đấng Thiện Thệ
(Desheg Duepa), ngài được quán đảnh và gia trì bởi đức Ugyen vĩ đại trong hóa thân chói
lọi bằng sức mạnh của điều ngài đã trải qua ý nghĩa trực giác chân thật của quán đảnh
bình (Bum Wang). Sau đó, ngài đã nắm vững những điều cần thiết của một đạo sư như là
đọc, viết và các phương thức nghi lễ truyền thống và nhiều điều khác mà không chút khó
khăn. Bởi vậy, từ đó ngài đã thành tựu mọi hoạt động giác ngộ đại diện cho người cha nổi
tiếng của ngài.
Lên 11, ngài gặp đức Đạt Lai Lạt Ma thứ năm ở Pelden Drepung, người đã thực hiện lễ
cắt tóc đầu tiên và ban cho ngài pháp danh Ngawang Pema Tenzin. Thời điểm cuộc gặp
gỡ của các ngài trùng với thời điểm ảnh tự sinh khởi đức Quan Âm [Avalokiteshvara] của
Kyidrong đến, ngài đã bộc lộ sự thích thú với sự trùng hợp tốt lành đó. Trong sự trùng
hợp đó, một tia sáng từ trái tim của bức tượng tự sinh khởi và tan hòa vào thân của đức
Terchen. Sau đó, khi ngài gặp đức Đạt Lai Lạt Ma thứ năm ở Samye, ngài xuất hiện trong
hình tướng đức Quan Âm đến linh kiến của người sau [đức Đạt Lai Lạt Ma]. Ngài coi cha
mình và đức Đạt Lai Lạt Ma thứ năm là hai bậc thầy gốc vô song, bởi ngài không chỉ biết
ơn hai vị đạo sư khi các ngài còn trụ thế, mà còn sau khi các ngài thị tịch, bởi vì các vị
đạo sư vẫn gia trì cho ngài với thân trí tuệ của mình. Ngài cũng có 16 vị đạo sư vĩ đại, mà
từ đây ngài đã nhận được những giáo lý rộng lớn trong sự chín muồi và giải thoát và 35
vị đạo sư khác, mà từ đây ngài nhận được rất nhiều các giáo lý mở rộng khác nhau. Từ
những vị đạo sư này ngài nhận được ba giới như là nền tảng và nhận được các khẩu
truyền về toàn bộ Kinh điển của Cựu Dịch mà tồn tại cho đến ngày nay, như là kinh Tập
hội vĩ đại (dupa-do), Hóa thân huyền bí (gyu-trul), Kilay (phurpa), và nhiều kinh điển
khác cùng với rất nhiều các giáo lý Tân Dịch và toàn bộ bản dịch lời nói của Đức Phật
(Ka-Gyur), nền tảng của mọi giáo lý khác của Phật.
Đặc biệt, ngài nhận được toàn bộ các quán đảnh và khẩu truyền Ngayur Kama và Terma,
những giáo lý có nguy cơ biến mất với những khó khăn lớn lao. Bởi vậy, ngài đã làm
sống lại sự liên tục của các giáo lý Kama và Terma. Từ năm 13 tuổi, ngài đã nhận được
các bài giảng từ cha về mật điển gốc, tinh túy bí mật (tsa gyud sangwa nyingpo), chuỗi
liên tục tối thượng (gyud lama), an trú trong trạng thái tự nhiên của tâm (sem-nyid ngal
gso) … và đã ghi nhớ cả các bản văn gốc và cả luận giải. Đặc biệt, ngài đã làm cho các
trước tác của Kunkhen Longchen Rabjam trở nên quan trọng hơn, những giáo lý cho ngài
sức mạnh hiểu được mọi hiện tượng, phá tan mọi nghi ngờ.
Nói tóm lại, ngài đã nghiên cứu và nắm vững mọi giáo lý Phật Đà, cả Cựu Dịch và Tân
Dịch mà không phân biệt, điều được tóm gọn thành kinh điển, mật điển và các chỉ dẫn
cốt tủy. Đây là vài nét về việc làm sao ngài thành tựu bánh xe của việc nghiên cứu thông
qua việc đọc, lắng nghe và quán chiếu (Logpa thoe-sam gyi khorlo) về bánh xe ba phần.
Khi đã xua tan những hoài nghi và hiểu sai về mọi kinh điển và mật điển rộng lớn với sự
thấu hiểu chắc chắn, ngài đã tiếp tục áp dụng thực hành thông qua thiền định. Ngài thực
hành thiền định cô độc, bắt đầu từ một tháng, ba tháng, sáu tháng và nhiều năm trong các
khu nhập thất như là, Dragmar Chimphug, Yamalung, Yodsel-tse, Samten-tse và nhiều
nơi khác, về thực hành trì tụng các đạo sư an bình và phẫn nộ, Đức Kim Cương Tát Đỏa,
tám bổn tôn vĩ đại và nhiều vị khác. Các thực hành chính yếu về cắt đứt (tregchod) và
làm an dịu (thod-gal) của Dzogpachenpo cùng với thực hành prana. Khi đã hoàn thiện
các thực hành này với giai đoạn phát triển và giai đoạn hoàn thiện, mọi quan niệm bất
tịnh của ngài đã ngừng và ý định giác ngộ của sự thị hiện của tính thức được khởi lên
trong ngài. Bởi vậy, ngài có thể hoàn thiện tất cả bốn hoạt động mà không gặp chướng
ngại.
Mỗi vẻ ngoài và hành động chỉ là sự hiển bày của trí tuệ, thân trí tuệ của các hiền triết Ấn
Độ và Tây Tạng vĩ đại như là, Đức Đại Đạo sư Liên Hoa Sinh, Vimalamitra, Hungze,
Sangye Sangwa, Vairocana, Tshogyal, Nangral, Kuenkhen Choje và nhiều vị khác, xuất
hiện trước ngài và bài trí mạn đà la các hóa thân và trao truyền vô số quán đảnh Kama và
Terma cùng với các giáo lý kho báu của các ngài, với sự giải thích các chỉ dẫn cốt tủy
cho con đường rộng lớn. Các vị bổn tôn hướng dẫn như Vajrakumara (Dorji Zhonnu),
Kim Cương Tát Đỏa (Dorje Sempa), Quan Âm (Thugje Chenpo), các bổn tôn an bình và
phẫn nộ (Zhi-Thro), Nal-Jorma (yogini) và nhiều vị bổn tôn khác đã hiển lộ ngài và trao
truyền các quán đảnh và gia trì. Ngài có thể đi đến rất nhiều cõi tịnh độ như là Cực Lạc
(Dewachen), Núi Huy Hoàng (Ngayabling) và nhiều nơi khác khi đã nắm vững thiền định
tịnh hóa nền tảng. Ngài cũng có vô số linh kiến diệu kì như việc nhận các thông điệp bí
mật từ chư Dakini và các vị Hộ Pháp và các ngài cũng tự nhiên thành tựu mọi hoạt động
Pháp. Bởi ngài sở hữu sự thấu suốt tương lai hoàn hảo mà không chút tham lam và cản
trở, ngài tiên đoán rất nhiều về tương lai, những điều đã đúng và trở thành những biện
minh giá trị. Đây là vài nét cơ bản về việc làm sao ngài thành tựu bánh xe từ bỏ thông
qua thiền định.
Bắt đầu từ 10 tuổi, ngài bắt đầu thành tựu các hoạt động giác ngộ, đại diện người cha vĩ
đại của ngài thông qua các hoạt động giải thích, tranh luận, luận giảng và giảng dạy, thực
hành. Theo tiên tri đề cập bên trên, ngài phát lộ Rigzin Thug-thig (tinh túy cốt tủy của
Đức Kim Cương Trì) từ Yamalung ở tuổi 18 trong ngày 10 tháng 5 năm con chuột nước
theo Tạng lịch.
Ở tuổi 22, vào ngày 8 tháng 8 năm con Cừu Lửa, ngài phát hiện ra Shinje-Shed Drek-jom
(Yamantaka) từ Sheldrag một cách diệu kì. Ở tuổi 31, ngài phát hiện Gur-drag (Bổn tôn
phẫn nộ) và hình tướng Kim Cương Tát Đỏa của Atiyoga từ Ogar-Drag và ở tuổi 35 ngày
9 tháng 6 năm con khỉ sắt, ngài phát lộ Thugje-chenpo Desheg-Kundue (Quan Âm Hiện
thân của mọi đấng thiện thệ) từ Shawog Tago giữa đám đông mọi người. Bởi ngài đã làm
chủ toàn bộ các giáo lý Phật Đà thông qua lắng nghe, quán chiếu và thiền định [văn, tư,
tu], ngài đã làm lợi lạc cho vô số chúng sinh thông qua các quán đảnh, khẩu truyền và chỉ
dẫn. Mặc dù ngài giảng dạy mọi giáo lý Phật Đà không phân biệt nói chung, ngài đặc biệt
nhấn mạnh vào giải thích các chỉ dẫn mở rộng mà trực tiếp giới thiệu cho những người
may mắn đến trí tuệ nguyên sơ tự sinh khởi.
Các đệ tử chính của ngài: Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ năm, Desi Sangay Jamtsho, Dodrag
Rigzin Pema Thinley, Sakya Trichen Kunga Tashi, Tsedong Zhabdrung, Taglungpa
Tenzin Sidzhi Namgyal, Drukpa Thamchen Khenpa, Tsurphu Gyaltsab, Drigung
Kunchok Thrinley, Kathog Gyalse, Đức Dzogchen thứ hai Jurmed Thegchog Tenzin, con
trai của ngài Pema Jurmed Jamtsho và tâm tử duy nhất Lochen Dharma Shiri, …
Tóm lại, mọi người nắm giữ các vị trí cao và các đạo sư tâm linh vĩ đại cùng thời đại với
ngài trở thành môn đồ của ngài. Theo cách này, ngài đã ban các chỉ dẫn, quán đảnh và
khẩu truyền liên tục về các giáo lý được trao truyền miệng và kho tàng phát lộ của truyền
thống Cựu Dịch (Ngayur Kama và Terma), và các mật điển mới (Ngag-Sarma) và giáo lý
Kinh điển đến các chúng sinh may mắn đến từ Utsang, Kham, Kongpo, Lho-mon, Ngari
và nhiều nơi khác. Với ý định cao quý vì sự liên tục của Pháp, ngài đã kết tập 16 bản luận
giảng hoàn hảo về các nghi quỹ, mạn đà la và nghi lễ quán đảnh các giáo lý Kama và
giáo lý của Cựu Dịch và Tân Dịch, những thứ sẽ tiếp tục chín muồi và giải phóng chúng
sinh. Vì thế, ngài trở thành đấng vô song trong sự giải thích và hoằng dương giáo Pháp
Phật Đà.
Như được tiên đoán trong các kho báu, ngài đã thiết lập trụ xứ Wog-men Ugyen
Mindroling, nguồn gốc của giáo lý Kama và Terma của truyền thống bí mật Ngayur
Nyingma ở miền trung Tây Tạng năm 1676, tức năm rồng lửa trong chu kì rabjung 11.
Nơi đây tập hợp khoảng 300 vị tăng, được ngài cung cấp quần áo, nơi ở, các pháp cụ và
nhiều thứ khác. Ngài cũng hào phóng bảo trợ cho việc ghi chép hơn 500 bản Kangyur và
rất nhiều bộ luận Ngayur khác bằng vàng và bạc. Ngài cũng xây dựng rất nhiều các bức
tượng về các bức tranh và điêu khắc bức thangka vĩ đại của 100 000 hình ảnh (Kubum
thongdrol chenmo) và rất nhiều đối tượng thờ cúng của thân, khẩu và ý. Đây là vài nét
trong các hoạt động giác ngộ của đức đạo sư vĩ đại trong vô số các hoạt động của ngài
với sự hào phóng, vì lợi ích của Pháp và chúng sinh hay, đây là vài nét ngắn gọn về việc
làm sao ngài thành tựu bánh xe phục vụ thông qua các hoạt động.
Theo cách này, Đức Terchen vô cùng nhân từ với Cựu Dịch và Tân Dịch theo những
cách trực tiếp và gián tiếp. Ngài cũng chiếm vị trí quan trọng trong việc phát triển các
dòng nhỏ của giáo lý như Jo, Shang, Zhi-Chod và Bodong, … Một trong số các thành tựu
nhất mà ngài đạt được là duy trì truyền thống Kinh điển xuất sắc, giáo lý ảo tưởng và tâm
(do-gyu-sem-sum) của Ngayur Kama, thông qua các giáo lý, thực hành và hành động,
điều đang trên bờ vực nguy hiểm. Trên thực tế, chính nhờ lòng từ bi vô lượng và các
công trình của Đức Terchen và hậu duệ của ngài đã làm nên tên tuổi cho truyền thống
Cựu Dịch (Sang-Ngag Nyingma) chân chính, với nền tảng ý nghĩa, điều mà giờ đây tiếp
tục phát triển. Bởi vậy, điều quan trọng là nỗ lực đi theo và hoằng bá truyền thống đặc
biệt lớn lao này khi bạn đã bước qua ranh giới của môn đồ Ngagyur Nyingma thay vì
nương tựa vào các giáo lý nhỏ bé mang tên giáo lý mở rộng.
Vào thời điểm kết thúc những hành động bí mật không thể tưởng tượng như vậy, ngài
hiển bày các dấu hiệu bệnh chướng từ tháng 1 năm con ngựa ở tuổi 69. Bắt đầu từ ngày
25 tháng đó, ngài ban các chỉ dẫn cuối cùng cho các chú, cháu trai và hậu duệ. Từ đó,
những âm thanh kèn trumpet du dương không dứt khởi lên từ vùng phía tây thành trì cho
đến sự xuất hiện của những người đi đến đây vì các nghi lễ và tương tự vậy, mùi hương
long não lan tỏa khắp căn phòng và vùng xung quanh. Sau đó, vào buổi sáng ngày 2
tháng 2 năm đó, ngài nói với các đệ tử rằng ngài phải bước bảy bước về hướng đông và
vì thế, ngài đứng dậy và bước bảy bước và ngồi xuống trong tư thế thiền định. Ngồi như
thế, ngài nói những lời cuối cùng sau đây:
Hình tướng, âm thanh và sự tỉnh thức được trải nghiệm như là bổn tôn, thần chú và Pháp
thân
Trong sự trải rộng lớn lao của sự hiển bày của hiện thân giác ngộ và trí tuệ nguyên sơ
Thông qua thực hành Đại Du già của sự mở rộng bí mật
Nguyện cầu cho chúng ta bất khả phân với tinh túy của một vị của Tâm Giác ngộ!
Sau điều này, ngài nói, “Bây giờ chư Dakini đã đến đón.” Với điều này, ngài đi đến cõi
tịnh độ Liên Hoa chiếu tỏa (Pema-Wod kyi zhingkham) trong tư thế sử dụng trống và
chuông với một cái nhìn đăm đăm của vị yogi cùng rất nhiều dấu hiệu đáng kinh ngạc và
kì diệu như, cầu vồng, động đất và nhiều điều khác. Trong buổi lễ trà tỳ thánh thân của
ngài, rất nhiều sự hiển bày diệu kì tương tự như thế, vương miện trên đỉnh đầu còn lại mà
không bị lửa thiêu, rất nhiều xá lợi xuất hiện và nhiều điều nữa, đó là đấu hiệu thành tựu
lớn lao, trao truyền niềm tin chí thành vào tâm các đệ tử và những người ở đó, đưa họ đi
trên con đường của sự chín muồi và giải thoát.
Thông điệp từ Đức Pháp vương Taglung Tsetrul Rinpoche
Thông qua lòng từ bi lớn lao của Đức Pháp vương Darthang Rinpoche trong việc truyền
bá nguồn gốc của hòa bình và thịnh vượng và tốt lành cho chúng sinh, sự tiếp tục của
Buổi lễ [cầu nguyện] Hòa Bình thế giới của dòng Nyingma bởi rất nhiều môn đồ truyền
thống Nyingma ở Bồ Đề Đạo Tràng được tiếp tục duy trì mà không suy giảm. Vì thế, với
niềm hoan hỉ, vì sự trường tồn của Phật Pháp và sự đạt đến giác ngộ của mọi chúng sinh,
Tôi yêu cầu tập hội cao quý Tăng đoàn và hành giả cầu nguyện chí thành và hành động
hoàn hảo.
Theo lời khẩn cầu của Hội đồng biên tập Ngagyur Rigzod, thông điệp này được gửi đến
bởi đức Pháp vương Taglung Tsetrul Rinpoche từ tu viện Dodrag, Simla ngày 15 tháng 9,
năm 2011.
Thông điệp từ Đức Pháp vương Dharthang Rinpoche
Kính lễ Tam Bảo
Như được đề cập trong Kho tàng của Tối thượng thừa: “Chúng ta sinh ra trong thế giới
này, điều vô cùng khó có được, là con người nơi Pháp hiện hữu. Khi chúng ta có được tất
cả những điều này, điều cũng cực kỳ khó khăn để đạt được, như là: sinh ra trong thế giới
này, nơi mà Pháp hiện hữu với thân người hoàn hảo thuận lợi, gặp gỡ đạo sư hoàn hảo để
nương tựa, thực hành Pháp với sự thuận lợi, biết đến ý nghĩa tối thượng của chỉ dẫn diệu
kì, và từ bỏ đại dương khổ đau và giải phóng đến miền đất hỷ lạc, chúng ta cần thực hành
Pháp một cách tận tình. Nếu chúng ta không thực hành như vậy bây giờ khi điều kiện cần
thiết đã có, sẽ vô cùng hiếm có để gặp lại trong đời tiếp theo. Bởi vậy, người ta cần thực
hành theo phương tiện tối thượng với nỗ lực lớn lao mọi lúc.
Như Đức Long Thọ dạy rằng:
An trú ở nơi với sự thoải mái
Nương tựa vào đạo sư tâm linh hoàn hảo
Tích lũy các hành động tốt lành và tịnh hóa tội lỗi với lời cầu nguyện lý tưởng
Bởi thế, bạn đã sở hữu bốn bánh xe vĩ đại.
Ngài Shantideva dạy rằng:
Thật khó để tìm thấy tự do và tài sản như vậy
Bằng cách nào để trình bày ý nghĩa của thân người quý giá này!
Nếu bây giờ tôi không thể làm lợi lạc từ đó
Làm sao có được cơ hội như vậy lần nữa?
Và ngài cũng dạy:
Mặc dù bạn có được thân người thuận lợi này
Nếu bạn không thực hành hiệu quả trong đời này
Bạn sẽ tái sinh vào địa ngục
Trong nhiều năm nhiều kiếp
Thậm chí âm thanh hạnh phúc cũng không thể nghe thấy
Chứ đừng nói gì là được sinh về một nơi tốt đẹp.
Mọi hạnh phúc và khổ đau chúng ta trải qua bây giờ là kết quả của nghiệp đời trước.
Giống như vậy, bất cứ điều gì chúng ta sắp trải qua trong đời tiếp theo phụ thuộc vào
hành động hiện thời.
Nếu chúng ta tích lũy các ác hạnh trong đời trước, chúng ta sẽ tái sinh mù, điếc, xấu xí,
nghèo túng, không có tự do… Và nếu chúng ta tích lũy các thiện hạnh trong đời trước ta
sẽ sinh ra với đủ giác quan, đẹp đẽ, đáng kinh, giàu có, đầy uy quyền, tự do, … Vì thế,
nơi nào và điều kiện nào mà ta sinh ra trong đời tiếp theo phụ thuộc hoàn toàn vào thiện
và ác hạnh trong đời này.
Nếu người ta tích lũy công đức với bố thí, trì giới, … họ sẽ tái sinh ở cõi cao hơn với sự
giàu có và sức mạnh. Bằng cách tha thứ, người ta sẽ tái sinh với hình dáng tốt đẹp. Bằng
cách cứu giúp và chỉ dẫn người khác, người ta sẽ sinh ra ở nơi có Pháp và có thể thực
hành nó, được mọi người kính trọng và không có sự quấy cản. Bằng cách vâng lời đạo sư
trong đời trước người ta sẽ sinh ra ở một nơi tốt lành với sự giàu có, gặp được đạo sư và
nhận các giáo lý.
Kết quả của việc chí thành cúng dường trong đời trước sẽ đạt được mục tiêu tối thượng
trong đời này bằng việc xuất gia và thực hành Chánh Pháp. Sẽ khôn ngoan và thông minh
được gia trì những phẩm tánh thích hợp để hiểu mọi phương tiện nếu chúng ta đã lắng
nghe và quán chiếu thích hợp trong đời trước, các phương tiện cho mình và người khác
cũng có thể thực hiện như vậy.
Nếu chúng ta tích lũy các ác hạnh trong đời trước, ta sẽ tái sinh trong các cõi thấp và
thậm chí nếu tái sinh trong các cõi cao hơn, người ta cũng thiếu đi những kỹ năng giác
quan, giàu có và sức mạnh và ít may mắn hơn. Tương tự như vậy, nếu người ta phạm các
ác hạnh bây giờ, người ta sẽ sinh ra với đầy khổ đau [trong tương lai: ND].
Tóm lại, người ta sẽ biết điều gì đã làm trong quá khứ bằng việc xem xét các hạnh phúc
và khổ đau đang trải qua bây giờ. Và nơi mà người ta tái sinh sẽ được chỉ ra thông qua
các thái độ và hành động hiện thời. Vì thế, mọi thứ phụ thuộc vào nghiệp. Người ta nói
rằng:
Hãy nhìn thân hiện tại, để biết điều gì đã làm trong quá khứ
Hãy nhìn thái độ hiện tại để biết sẽ tái sinh ở đâu trong đời tương lai.
Vì thế, ghi nhớ điều này trong tâm, người ta cần tránh các ác hạnh và luôn tích tập các
thiện hạnh, bởi vì không còn phương cách nào ngoài thiện hạnh. Như trong Kinh điển có
đoạn:
Thậm chí không cha mẹ hay gia đình, họ hàng hay người thân
Và thậm chí không con trai hay con người, có thể là người bảo vệ
Ngoài Tam Bảo, với đầy đủ phẩm tánh
Không còn người bảo hộ nào khác trên thế giới này.
Và trong Kinh “Những chỉ dẫn cho vị vua”:
Thậm chí nếu nhà vua chết khi thời điểm đến
Ngài không thể mang theo tài sản, hoàng hậu, người thân hay bạn bè,
Bởi vậy bất kì ai khi chết và tái sinh ở bất kì cõi nào
Nghiệp là thứ duy nhất theo ta như hình với bóng.
Thứ hai, làm sao cảm thấy thất vọng và khởi lên ham muốn thoát khỏi luân hồi, và nhận
ra sự thật này bằng cách suy nghĩ về cái chết chắc chắn hay sự ngã? Thậm chí nếu chúng
ta có được thân người toàn hảo, điều chắc chắn đó chỉ là sự kết hợp của tứ đại. Vì thế,
không có điều gì chắc chắn khi thân chúng ta tan ra. Bởi vậy, người ta cần thực hành
Pháp một cách khôn ngoan khi có thể làm như vậy.
Người ta cần suy nghĩ sâu sắc rằng không có phương tiện linh kiến nào được trải qua vì
nó chỉ như giấc mơ hay ảo tưởng.
Kinh Châu Báu tích tập có nói rằng:
Rất ngạc nhiên là không có nơi nào để cư ngụ trong thân vật chất
Rất ngạc nhiên là mọi người đều vô thường, không có giá trị thời gian để sống
Rất ngạc nhiên là mọi trải nghiệm linh kiến đều trải nghiệm bởi sáu giác quan chỉ là hiện
thời
Rất ngạc nhiên là mọi ý nghĩ và cảm giác của con người là vô tận
Rất ngạc nhiên là không có sự thoát khỏi những khổ đau sinh khởi từ thân này.
Mặc dù tất cả đều vô thường nhưng người ta bám chấp vào các nhận thức về cuộc đời này
bằng cách xem nó là bất biến. Hãy luôn quán xét tâm, vì không có phương tiện này liệu
rằng người ta có làm lợi lạc người khác hay điều phục một kẻ thù, hoặc là một vị cứu tinh
hay là gì khác, thực sự nó chỉ lừa chúng ta.
Đức Pal Mazhi Zod Yeshi nói rằng:
Ah! Khi tôi chạy theo những hoạt động thế tục
Tôi thấy rằng mọi hoạt động là con số không
Không có gì lợi lạc như ta suy nghĩ
Bởi vậy, luôn quán sát tâm mình
Như thế, hãy suy nghĩ theo cách này!
Thứ ba, đây là một chỉ dẫn để nhận ra sự chắc chắn của cái chết và đạt đến hỷ lạc tối
thượng. Nói chung, mọi hiện tượng hỗn tạp đều vô thường như những giấc mơ, ảo tưởng,
… Như trong Udanavarga có nói:
Ôi! Mọi hiện tượng hỗn tạp đều vô thường
Nó là chủ thể mà chúng tan ra sau khi sinh ra
Bởi vậy, hãy thoát khỏi những điều này
Vì nó sẽ tan ra sau khi sinh
Toàn bộ các hiện tượng hỗn tạp đều thế
Ngôi sao lấp lánh, ngọn đèn bơ
Ảo mộng, giọt mồ hôi, bong bóng nước
Giấc mơ, tia chớp và mây.
Và đặc biệt sự vô thường của con người giống như luận giảng mật điển, Bí mật tối tượng
của Hợp nhất Mặt trời và Mặt trăng:
Cuộc đời của mọi chúng sinh là
Vô thường như một giấc mơ, vì nó không tồn tại
Vô thường như thác nước, vì nó không thể ở trong sự sưu tầm
Vô thường như khôn khí, vì nó không thể bị bám chấp
Vô thường như sự sáng tạo huyền bí, vì nó không thể duy trì lâu
Vô thường như ảo mộng, vì không thể dựa vào
Vô thường như một vị khác, người không thể ở lại một nơi
Vô thường như mưa, ở đó mây không thể đoán trước được
Vì thế giới hạn cuộc đời của con người
Không bao giờ chắc chắn
Bởi vậy, nó sẽ bất ngờ và trực tiếp
Vì thế, thời gian không nhìn thấy
Như trong Kinh Lalitavistara:
Cuộc đời như sự hiển bày của các đám mây
Nó sẽ biến mất nhanh chóng như nước rơi xuống
Như trong Kinh Udanavarga:
Một vài người chết trong bụng mẹ
Một vài người chết sau khi sinh
Một vài người chết khi bắt đầu bò
Giống như vậy, một vài người chết khi đang chạy
Một vài người chết già và số khác chết trẻ
Một vài người chết khi còn rất trẻ
Vì thế, người ta không thể nói chắc
Người thanh niên này sẽ sống.
Vì thế, người ta cần nghĩ sâu sắc về sự chắc chắn của cái chết và từ bỏ mọi hoạt động thế
tục như, gắn bó và thù địch, tranh cãi, lười biếng, tích trữ, mong mỏi điều vĩ đại, sự phân
biệt, bảo vệ bạn bè và chống lại kẻ thù và tương tự như vậy. Như trong Tamjar có viết:
Khía cạnh của hiện tượng là rộng lớn và cuộc đời thì này thì ngắn ngủi
Thậm chí giới hạn của cuộc đời này cũng không được biết
Bởi vậy, nỗ lực nhiệt thành về những thuận lợi
Như một con vịt tách sữa từ nước.
Vì thế, hãy nhận ra rằng không có thứ gì trường tồn để nương tựa; vì tất cả, chẳng sớm
thì muộn đều sẽ chết. Đừng bị xao lãng dù là một chút vì thân người, ý nghĩ, hạnh phúc
và khổ đau và nhiều điều khác là không vững bền. Hơn thế nữa, người ta cần nghĩ rằng
cái chết không thể xoay chuyển được. Vì thế một cách chân thành hãy thực hành Pháp,
điều duy nhất đem lại lợi lạc.
Ngài Shantideva nói rằng:
Cả ngày và đêm, người ta cần
Suy nghĩ về sự vô thường.
Không có con đường mở rộng nào khác ngoài thực hành sự tỉnh thức về vô thường để
thoát khỏi luân hồi. Vì thế, người ta cần tránh mọi hoạt động, thậm chí thiền định, trừ phi
sự thật về vô thường được nhận ra.
Đức Đạo sư Liên Hoa Sinh dạy rằng:
Hãy đặt sự thúc đẩy vô thường mà không có tâm xao lãng
Và thiền định về nó suốt ngày và đêm.
Thậm chí nếu chúng ta suy nghĩ về mức độ dài nhất từ khi bắt đầu và kết thúc thế giới, nó
vẫn vô thường, và khoảng cách ngắn nhất cũng vô thường. Tóm lại, mọi chúng sinh đều
vô thường vì nhận thức và đối tượng của họ thay đổi không ngừng, tài sản và đoàn tùy
tùng mà họ sở hữu biến mất, cha mẹ, người thân và hàng xóm giảm dần, …Bởi vậy mọi
hạnh phúc, khổ đau, kẻ thù, họ hàng đều giống như người khách chỉ gặp một lúc và sau
đó giải tán.
Theo cách này, mọi hữu tình chúng sinh đều trong màn đêm đen tối của luân hồi bị trói
buộc bởi ngũ độc. Vì thế, khi người ta có cơ hội trong tay, cần khắc ghi trong tâm để giải
thoát khỏi ngôi nhà luân hồi đen tối đó, theo các phương pháp để giải thoát.
Mọi chúng sinh luân hồi đều bị chi phối bởi cảm xúc và nghiệp
Nắm khư khư lấy sự tồn tại chân thực mặc dù phải đối mặt với vô thường
Không thể chạy thoát nếu bị dìm xuống dòng sông sinh tử
Không sợ hãi thậm chí nếu trải nghiệm vô số khổ đau
Không có người bảo vệ để chỉ dẫn hay đạo sư tâm linh hướng đạo
Và lang thang trong bóng tối mà không có Pháp
Vì thế, hãy nghĩ sự hiếm có của việc sở hữu tự do và thuận duyên này
Và thực hành Pháp với Bồ đề tâm một cách đầy cuốn hút
Nguyện cầu cho chúng ta gặp được vị thầy tâm linh!
Và khi cam lồ Pháp đạt được
Nguyện cầu chúng ta nỗ lực tinh tấn vượt qua đại dương tam cõi!
Vì thế, hãy nỗ lực chăm chỉ để giải thoát
Vô thường của cuộc đời giống như bóng của những ngọn núi ở phương tây
Nó như cái cây bị thổi bởi gió
Nó như đám mây, tia chớp và giót nước trên lá
Vì thế, hãy nghĩ rằng chúng ta sẽ chết sớm thôi
Suy nghĩ một cách mạnh mẽ rằng người ta sẽ chết bây giờ
Nếu không một sự lười biếng có thể giúp ích khi chết
Vì thế, hãy thực hành cam lồ của Pháp rộng lớn
Với sự sợ hãi rằng cái chết sẽ đến với bạn!
Từ nay, trong rừng hoa, tôi bước đi
Nơi mà nó hoàn toàn không có con người với âm thanh của thác nước
Sẽ ngồi ở một nơi dễ chịu xa cách
Và quán chiếu rằng bốn nguyên do đều ở bên ngoài
Nó sẽ được trao tặng bởi các thiện hạnh
Và vì thế, hãy đạt lấy cam lồ rộng lớn
Và nguyện cầu âm thanh vô thường vĩ đại sẽ được tuyên bố!
Bằng cách thực hành cam lồ Pháp tốt đẹp trong một nơi xa cách đẹp đẽ như vậy,
Nguyện cầu cho ánh sáng Đức Phật sẽ đạt được trong đời này!
Từ nơi cư ngụ đẹp đẽ của sự giải thoát
Âm thanh Pháp được tụng đọc
Bởi vậy nguyện cầu mọi chúng sinh tỉnh thức khỏi sự ngu dốt
Và đạt đến giác ngộ!
Để quét khỏi tâm những khổ đau tự nhiên
Mong muốn lang thang trong khu rừng cô độc,
Vì thế, đây là một lời cầu nguyện được tụng đọc từ trái tim
Bởi vậy, nguyện cầu chúng sinh nhanh chóng nhận ra điều này một cách chí thành!
Lời khuyên rộng lớn này được viết bởi Đấng Toàn tri Longchen Rabjam.
Khen-Lop-Cho-sum, đệ tử của các ngài, và giáo lý Kama và Terma,
Các bậc nắm giữ truyền thừa thanh tịnh Ngagyur Nyingma,
Và vinh quang hợp nhất của Kinh và Mật,
Nguyện cầu tia sáng lợi lạc và hạnh phúc cư ngụ trong từng xó xỉnh và vết nứt!
- Dharthang Rinpoche -
Thông điệp từ Đức Shechen Rabjam Rinpoche
Giáo lý hoàn hảo toàn vẹn của bậc thầy vô song của chúng ta, bậc điều phục, thứ vượt
qua mọi thừa lớn và nhỏ bao gồm các giáo lý Mật điển đã phát triển và phổ biến ở Vùng
Đất Tuyết như được tiên đoán bởi Đức Phật. Nhưng vì sức mạnh của những ác hạnh của
mọi chúng hữu tình, nó xuất hiện đang suy đồi trong hiện thời. Tuy nhiên, ngày nay, vì
lòng từ bi lớn lao và các hoạt động giác ngộ không thể tưởng tượng nổi của các vị Phật và
Bồ Tát trong quá khứ, nó đang phổ biến khắp thế giới. Bởi vậy, tại điểm gặp nhau này,
chúng ta, những môn đồ của truyền thống Nyingma trong thời đại may mắn này sẽ tụ họp
hằng năm ở Bồ Đề Đạo Tràng, địa điểm linh thiêng tối thượng, nơi một ngàn vị Phật
trong hiền kiếp này sẽ đạt giác ngộ, với mục đích hoằng dương và phát triển Phật Pháp
nói chung và giáo lý Ngagyur Nyingma nói riêng, và vì sự trường thọ của các bậc sùng
mộ Pháp vĩ đại dẫn đầu bởi đức Đạt Lai Lạt Ma, và các vị cứu giúp trời và người với các
hoạt động giác ngộ thành tựu tự nhiên, để mọi chúng sinh trên thế giới tận hưởng vinh
quang của hòa bình và hạnh phúc. Và đặc biệt để an dịu các thiên tai như động đất gây ra
bởi sự làm buồn của bốn nguyên tố và vì sự tái sinh nhanh chóng của Bậc trưởng dòng
thứ năm của Ngagyur Nyingma, Đức Pháp vương Kyabje Thrulshik Rinpoche Jurmed
Ngawang Choki Lodroe, bậc gần đây đã thị tịch, vì sự tiếp tục các hoạt động giác ngộ của
ngài.
Bởi thế, tôi yêu cầu mọi người tu họp nơi đây hãy nỗ lực chí thành để những lời khẩn
nguyện của bạn rộng lớn như có thể bằng cách ôm chặt lấy nó với ba sự xuất sắc để hoàn
thành các ước nguyện nêu trên.
Tôi cũng muốn mọi người nỗ lực chí thành để hòa hợp với bốn kiểu hành động được
giảng dạy trong Luật, để chúng ta có thể trở thành vật trang sức ấn tượng cho những
người sùng mộ chí thành và một đối tượng lý tượng cho những người giàu có tích lũy
công đức.
- Đức Shechen Rabjam Gyurmed She-Drub Choeki Singye
Ngày 29 tháng 7 năm 2138 Tạng lịch -
Thông điệp từ Đức Mingling Khenchen Rinpoche
Bởi chúng ta đang tập họp ở đây cho Lễ Ngagyur Monlam Chenmo thứ 23 với ý định cao
quý vì sự hoằng dương, phát triển và duy trì Phật Pháp nói chung và truyền thống
Gyalwang Pema Kara, giáo lý Kim Cương thừa bí mật vĩ đại nói riêng, điều giống như
vàng mười được trao tặng sáu sự hoàn hảo với những bậc đại diên bất bộ phái dẫn đầu
bởi đức Đạt Lai Lạt Ma trường thọ. Và để an dịu các bệnh tật, nạn đói, sự tàn lụi và hạn
hán, chiến tranh … điều đã xảy ra và đang xảy ra khắp nơi trên thế giới. Tôi muốn nhắc
nhở mọi người về khoảng thời gian của sự kiện vĩ đại này: Như người ta nói rằng:
Sự lớn lao của công đức và lỗi lầm không thể được đo lường từ vẻ bề ngoài
Thay vào đó, nó có thể được đo từ mức độ của ý định tốt và xấu.
Sẽ không lợi lạc nếu chỉ là thành viên của lễ cầu nguyện này và chỉ đến đây trong địa
điểm linh thiêng của Kim cương thừa này. Bởi vậy, ít nhất trong mười ngày, tập hội cần
nỗ lực với ý định thanh tịnh để tránh xa tám mối quan tâm thế tục như đạt được, thứ hạng
hay nhiều điều khác, tránh xa tinh thần ghen tỵ, lừa dối, và ghen ghét, … và vun bồi tình
yêu thương và lòng từ bi trong dòng tâm thức. Cố gắng tập trung vào sự chuyển hóa
những tích lũy của bạn thành công đức lớn lao bằng cách kết nối nó với những lời cầu
nguyện hoàn toàn thành tịnh vô cùng lợi lạc cho bản thân và người khác. Hãy cố gắng
thông dòng mọi thứ cúng dường bởi những người chân thành cả từ trong và ngoài theo
cách ý nghĩa mà đừng lãng phí chúng. Tóm lại, tôi yêu cầu tất cả tỳ kheo, tỳ kheo ni và
hành giả hãy khắc ghi trong tâm để trở thành trang sức cho những người được ban cho
lòng sùng mộ và cánh đồng tối thượng để tích lũy công đức cho những người giàu có
này. Bạn cần tránh làm xấu hổ truyền thống Nyingma trong suốt mười ngày Nyingma
Monlam Chenmo này.
Thậm chí trong suốt sự trì tụng Arya Bhadracaryapranidhanaraja và Nama Samgiti, bạn
cần cố gắng để trì tụng với sự nhớ về ý nghĩa của chúng trong tâm mà không xao lãng.
Như đức Kungchen Longchenpa có dạy:
Bắt đầu thực hành với tâm bồ đề khi bắt đầu
Thực hành với sự không quan niệm
Và kết thúc với lời hồi hướng lúc cuối cùng
Đây là ba con đường quan trọng đến giải thoát.
Điều quan trọng là hòa nhập những hành động Pháp của bạn với ba sự xuất sắc này, bắt
đầu xuất sắc với tâm bồ đề, phần chính yếu xuất sắc mà không quan niệm và phần kết
xuất sắc của sự hồi hướng.
Một điều quan trọng nữa là các vị Lama chính yếu của truyền thống Nyingma, các tu viện
trưởng, Khenpo, Trulku và toàn thể tăng đoàn tham gia vào lễ cầu nguyện lớn lao này,
mặc dù kế hoạch bận rộn của bạn vì Pháp và chúng hữu tình. Bởi vì đây là dịp duy nhất
mà cộng đồng Nyingma tụ họp với nhau, một dịp tốt lành cho chúng ta kết nối ý định và
lời cầu nguyện thanh tịnh vì sự tồn tại và tiến bộ hơn của Pháp nói chung và truyền thống
Kim Cương thừa nói riêng. Bởi vậy, tôi yêu cầu mọi người tập họp càng nhiều càng tốt,
bởi vì chỉ dịp mười ngày này không hề quá dài.
Trong Monlam Chenmo, hãy tránh việc làm xấu hổ các Phật tử bằng cách theo các
nguyên tắc chung và quy tắc của giáo hội vĩ đại này và giới luật đặc biệt của riêng tu viện
bạn. Như đức Kunkhen Mipham Rinpoche dạy rằng:
Những giới luật tỳ kheo là vật trang sức thanh nhã tự làm lợi lạc
Trong khi, theo một vị đạo sư tâm linh được tán dương là gốc rễ của con đường.
Tôi khẩn mong mọi người không vi phạm các giới luật này trong hành động của mình
thông qua ba cánh cửa. Tôi cũng nhân cơ hội này mong muốn mọi người cùng nỗ lực tiếp
tục tinh thần trung thành, toàn vẹn, thuận hòa và giới luật thanh tịnh trong các cộng đồng
Pháp của Ngagyur Nyingma dẫn đầu bởi các trụ xứ lớn lao, như sữa được hòa với nước
như nó vẫn là.
Với niềm mong ước vì sự tiếp tục Ngagyur Monlam Chenmo cho đến khi luân hồi trống
rỗng!
Với sự thỉnh cầu của hội đồng biên tập Ngagyur Rigzod, đức Minling Khenchen viết
thông điệp này vào ngày 5/10/2011.
Thông điệp từ Đức Dzogchen Rinpoche
Gửi toàn thể môn đồ chí thành truyền thống Nyingma:
Bằng cách coi đức chúa tể định mệnh làm bậc đạo sư gốc, chúng ta cần có quan kiến
thanh tịnh đến tất cả các truyền thống khác. Đây là cốt tủy của yêu cầu của tôi! Đỉnh cao
của các thừa, bí mật vĩ đại của Ngagyur Nyingma đã phát triển từ một nghìn năm trước
thông qua hai trật tự đặc biệt là vùng Himalaya và vùng còn lại của thế giới, mang đến
thành tựu lớn lao của quyền lực tối cao, tài sản và truyền thừa, và hơn thế nữa, chi tiết về
sự hiện diện của nó ở các quốc gia thuộc vùng Himalaya được chứa đựng trong các ghi
chép vàng.
Từ một nghìn năm trước các dòng truyền thừa của Đạo sư Liên Hoa Sinh và Đại Bồ Tát
Shantarakshita đã trao truyền đến các bậc trì giữ truyền thừa và đạo sư gốc của chúng ta,
khi mà sự trao truyền của các ngài truyền bá khắp nơi trên thế giới – vì thế lòng tốt của
các ngài là không thể diễn tả nổi. Tất cả các Rinpoche của chún ta là những người đáng
ngạc nhiên hơn người khác và đang hộ trì truyền thừa trên các ngọn núi vàng, chúng ta
rất may mắn và lòng tốt của các ngài là không thể quên được. Chúng ta cần duy trì Pháp
phù hợp với đức Cố Pháp vương Dudjom Rinpoche và Khyentse Rinpoche, và quan trọng
nhất là các vị đạo sư còn trụ thế: Đức Pháp vương Dodrub Rinpoche, Đức Pháp vương
Trulshik Rinpoche [mới thị tịch], Đức Pháp vương Jadral Rinpoche, Đức Pháp vương
Taglung Tsetrul Rinpoche, … Đặc biệt là, chúng ta cần trở về với con đường mẫu mực
của Cố Pháp vương Khenchen Jigme Phutsho Jungney Rinpoche và Drubwang Padma
Norbu Rinpoche, những bậc đã làm lợi lạc giáo lý Phật Đà một cách rộng lớn. Và luôn
luôn ghi nhớ lòng từ bi của các ngài.
Giống như vậy, trong khi những người may mắn bên trong và ngoài Tây tạng và các vùng
khác từ dãy Himalaya như Bhutan, Sikkim, Ladakh, Khunu, Arunachal Pradesh và các
vùng khác trên thế giới cúng dường, và nhận được các chỉ dẫn về đạo Phật bởi các
Rinpoche và Khenchen bởi hội đồng điều phối Ngagyur Monlam Chenmo cần được coi
là sự phục vụ ý nghĩa nhất. Ngagyur Monlam không chỉ là lời cầu nguyện được tiến hành
ở nơi lưu vong, mà mọi bậc trì giữ truyền thừa Ngagyur Nyingma từ trong và ngoài Tây
Tạng và các vùng khác trên thế giới đều tham dự, chia sẽ những phương tiện như nhau và
cầu nguyện cùng nhau vì hòa bình và an ninh thế giới. Điều này thật đáng ngạc nhiên!
Giống như vậy, trong thế kỉ này, cái được gọi là Phật giáo Tây Tạng rất nổi tiếng trên thế
giới cần được duy trì bởi Phật tử của thế kỷ 21 và hệ thống học viện tu viện Phật giáo. Và
rất đúng lúc gọi những người đồng cảm và chú ý đến Phật giáo tiến bộ hiện đại từ các vị
đạo sư uyên bác như Đức Khenchen Tshulthrim Lodro, Đức Khenchen Padma Sherab, …
vì sự tồn tại những giáo lý Phật Đà nơi lưu vong được coi là mục tiêu vô giá.
Để duy trì những thành tựu lớn lao của các đạo sư trong quá khứ, Pháp cần được thực
hành tương ứng. Suy nghĩ và hành động càng xa càng tốt để bảo tồn sự chiếu tỏa sự nhiên
của Đại toàn thiện mà không quan tâm đến các vấn đề chính trị, hãy cố gắng nỗ lực vì sự
thành tựu giải thoát bằng con đường của phương tiện thiện xảo.
Thông điệp này được viết bởi Đức Drubwang Dzogchen Rinpoche thứ 7 Jigme Losal
Wangpo tức Đức Tenzin Jigdrel Lhunpo, theo thỉnh cầu của Hội đồng biên tập Ngagyur
Rigzod vào ngày 10 tháng 7 năm thỏ sắt cho lễ Hòa Bình lần thứ 22.
Nguyện cầu điều này trở thành suối nguồn của thiện hạnh và tốt lành!
Thông điệp từ đức Ralo Rinpoche
Khi lễ Ngagyur Monlam Chenmo lần thứ 23 đến gần, khi dịp tốt lành này đang dao động
trong tim, không thể từ bỏ lời thỉnh cầu của Hội đồng biên tập Ngagyur Rigzod, với sự
kính trọng, cảm xúc của một bậc yogi già được diễn tả ở đây.
Thông qua lòng từ bi vô lượng của Đức Pháp vương Darthang Rinpoche, bậc tiên phong
của truyền thống Ngagyur Nyingma, lễ [cầu nguyện] Hòa bình thế giới hàng năm được
thiết lập, trong khi truyền thống hoàn hảo của Khen-Lop-Choe-Sum (Tu viện trưởng
Shantarakshita, Đạo sư Liên Hoa Sinh và Vua Trisong Detsen) được ban tặng Sáu sự xuất
sắc tiếp tục phát triển và giống như vậy, các vị chủ tịch của Dorden Ngagyur Monlam
Chenmo; các cố đạo sư đã chắc chắn sự tiếp tục của Đại lễ Cầu nguyện Hòa Bình Thế
giới trong 22 năm qua như ánh mặt trời chiếu tỏa. Tuy nhiên, vì những điều kiện nghịch
duyên và chướng ngại cho môn đồ Nyingma, Đức Pháp vương Dorje-Chang Padma
Norbu Rinpoche và đức Pháp vương Thrulzhig Rinpoche cùng đức Pháp vương Minling
Thrichen Rinpoche đã thị tịch vì lợi lạc của chúng sinh trong những cõi khác; vì thế thật
vô cùng buồn đau – như câu thành ngữ: “một ngọn núi đổ xuống không thể kéo lên bởi
sợi dây thừng.” Tuy thế, vì sự thành tựu các ước nguyện cao quý của cố Pháp vương
Padma Norbu Rinpoche và đức Pháp vương Thrulshik Rinpoche, các bậc đạo sư, lama,
khenp, còn trụ thế và môn đồ Nyingma cần cùng nhau đoàn kết hành xử tương ứng – do
đó đây là trọng trách của toàn thể dòng Nyingma.
Gửi đến bạn, các Rinpoche, Lama, Trulku, Khenpo và tất cả, cánh đồng của sự nương
tựa, với lòng mong mỏi cực kỳ, tôi yêu cầu tất cả hành xử từ bi và tạo ra ý định chung vì
nguyên nhân hòa bình và thịnh vượng trên thế giới này trong khi giữ gìn các samaya giới
và sống hài hòa như sữa và nước. Tôi, vị Yogi già tên Ralo khẩn thiết kêu gọi điều này.
Đức Cố Pháp vương Padma Norbu Rinpoche từng nói với tôi thế này ở Mỹ: “Tôi sẽ tham
gia Lễ Hòa Bình Thế giới cho đến khi tôi từ bỏ thân này; giống như vậy, ông cũng nên
làm như thế.” Vì thế với lời khuyên tâm linh từ đức Pháp vương, tôi chắc chắn sẽ tham
dự cho đến khi tôi rời bỏ thân người này. Lời khuyên quý giá của các Rinpoche, Khenpo
và Trulku đang được kết tập và phân phối bởi Hội đồng Biên tập Ngagyur Rigzod. Vì
thế, tôi muốn chuyển lời cảm ơn đại diện cho tất cả hành giả truyền thống Ngagyur
Nyingma.
Cuối cùng, lễ cầu nguyện trường thọ cho đức Pháp vương Jadral Rinpoche [ngài sẽ 100
tuổi vào năm 2012], đức chúa tể và đấng bảo hộ chúng sinh và Pháp bởi tu viện Rigzin
Phodrang, nơi Pháp vương đã từ bi chấp nhận. Với mong ước của tôi cho sự trường thọ
và thành tựu các ước nguyện cao quý và hoạt động của Đức Pháp vương Jadral Sangay
Dorjee Rinpoche, Đức Đạt Lai Lạt Ma, Đức Dodrup Rinpoche, Đức Mogtsha Rinpoche,
Đức Taglung Tsetrul Rinpoche và tất cả các bậc đạo sư Pháp không phân biệt dòng
truyền thừa – tôi cầu mong tất cả các hoạt động tâm linh của các ngài sẽ tăng trưởng như
Hồ-Mùa hè! Nguyện cầu hai tăng đoàn (Tỳ kheo và hành giả) sẽ sống hòa hợp, duy trì
giới luật thích hợp và các giáo lý và thực hành Phật giáo phát triển khắp mười phương,
mang đến hòa bình và an ninh trên thế giới!
Con đường Kinh điển và Mật điển toàn vẹn không gián đoạn
Truyền thống uyên bác và thành tựu của các bậc trì giữ tỉnh thức
Tinh túy các giáo lý của Đấng Tối thượng
Mật điển bí mật của truyền thống Cựu Dịch
Nguyện cầu nó phát triển mạnh mẽ hơn trên khắp thế giới!
Thông điệp này được viết bởi bậc trì giữ truyền thừa Ralo, Đức Dorje Dechen Tshal tức
Đức Draktsal Dorje từ tu viện Rigzin Phodrang, nằm gần Nhà Trắng, Washington, Mỹ
vào ngày 24 tháng 10/2011.
Nguồn: http://www.nyingma-monlam.org/wordpress/uploads/23rd%20Nyingma%20Mon
lam%20Book.pdf
Việt dịch: Phúc Minh.
Mọi công đức xin hồi hướng tất thảy hữu tình chúng sinh, cầu nguyện cho Bồ đề tâm
tăng trưởng!
Mọi lỗi lầm xin sám hối chư đạo sư và dòng truyền thừa Ngagyur Nyingma cao quý!