niỆm phẬt cÁch nÀo chẮc chẮn vÃng sanh 1

62
NIỆM PHẬT CÁCH NÀO CHẮC ĐƯỢC VÃNG SANH Cư Sĩ Tịnh Hải Biên Soạn CHƯƠNG MỘT: CHẮC CHẮN VĨNH-BIỆT TAM GIỚI THÀNH ĐẠO NGAY TRONG ĐỜI NÀY Trong bộ băng giảng kinh Thủ-lăng-Nghiêm, Pháp sư Tịnh-Không có nhắc đến Niệm Phật Viên Thông Chương, tức đoạn kinh văn mà Đại Thế-Chí Bồ-Tát đã trình bày chỗ đắc ngộ của Ngài cùng 52 vị đồng môn qua Pháp môn Niệm Phật Vãng Sanh Tây Phương Cực Lạc. Theo Pháp sư Tịnh-Không, Đại sư Ấn-Quang gọi Niệm Phật Viên-Thông Chương là "Tịnh-Độ Tâm-Kinh". Trước đây, có Bát Nhã Tâm-Kinh là bộ kinh ngắn nhất, là nồng cốt của Bộ Kinh Đại Bát Nhã mà hầu hết các chùa đều tụng đọc sau mỗi thời kinh. Tụng Bát Nhã Tâm-Kinh nhắc cho người tu biết rằng tất cả các pháp trên thế gian này đều là Không. Nếu biết và nhớ rõ các pháp đều là Không, thì người tu hành dù xuất gia hay tại gia đều không quá chấp lấy thân, lấy của, tránh được biết bao nhiêu là phiền toái. Bát-Nhã Tâm-Kinh là Tâm Kinh của Bồ Tát Quán Thế Âm. Còn Tịnh-Độ Tâm Kinh là Tâm Kinh của Bồ-Tát Đại-Thế-Chí . Ngài Quán Thế Âm dùng Nhĩ căn Viên-Thông để tu chứng liễu-nghĩa Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm. Ngài Đại-Thế-Chí dùng Niệm Phật Viên-Thông để tu chứng liễu-nghĩa Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm. Tại sao lại đặt thành tu chứng Liễu-nghĩa hay bất liễu-nghĩa ra đây ? Hoà-Thượng Tịnh-Không khẳng định: "Kinh Lăng Nghiêm là căn bản của tất cả Đại-Thừa tu học liễu-nghĩa. Nếu muốn trong đời này thành tựu, bất kể là học Thiền, học Giáo, hoặc tu niệm Phật hay Mật Tông, nếu lìa khỏi cơ sở này, bất luận tu học pháp môn nào anh nhứt định không thể thành công". Hiện nay, các bạn niệm Phật đồng tu rất nhiều đều hy vọng đạt được Niệm Phật Tam-Muội, đều hy vọng trong đời này quyết được vãng sanh. Niệm Phật Tam-Muội và quyết định vãng sanh vẫn phải xây dựng trên cơ sở Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm này. Có nhiều người niệm Phật rốt cuộc không thể Vãng sanh, vì sao ? Là vì không có cơ sở này. Cho nên chúng ta phải tìm ra bịnh căn của nó.

Upload: truong-han

Post on 28-Nov-2015

40 views

Category:

Documents


5 download

TRANSCRIPT

NIỆM PHẬT CÁCH NÀO CHẮC ĐƯỢC VÃNG SANH

Cư Sĩ Tịnh Hải Biên Soạn

CHƯƠNG MỘT: CHẮC CHẮN VĨNH-BIỆT TAM GIỚI THÀNH ĐẠO NGAY TRONG ĐỜI NÀY

Trong bộ băng giảng kinh Thủ-lăng-Nghiêm, Pháp sư Tịnh-Không có nhắc đến Niệm Phật Viên Thông Chương, tức đoạn kinh văn mà Đại Thế-Chí Bồ-Tát đã trình bày chỗ đắc ngộ của Ngài cùng 52 vị đồng môn qua Pháp môn Niệm Phật Vãng Sanh Tây Phương Cực Lạc.

Theo Pháp sư Tịnh-Không, Đại sư Ấn-Quang gọi Niệm Phật Viên-Thông Chương là "Tịnh-Độ Tâm-Kinh".

Trước đây, có Bát Nhã Tâm-Kinh là bộ kinh ngắn nhất, là nồng cốt của Bộ Kinh Đại Bát Nhã mà hầu hết các chùa đều tụng đọc sau mỗi thời kinh. Tụng Bát Nhã Tâm-Kinh nhắc cho người tu biết rằng tất cả các pháp trên thế gian này đều là Không. Nếu biết và nhớ rõ các pháp đều là Không, thì người tu hành dù xuất gia hay tại gia đều không quá chấp lấy thân, lấy của, tránh được biết bao nhiêu là phiền toái.

Bát-Nhã Tâm-Kinh là Tâm Kinh của Bồ Tát Quán Thế Âm. Còn Tịnh-Độ Tâm Kinh là Tâm Kinh của Bồ-Tát Đại-Thế-Chí .

Ngài Quán Thế Âm dùng Nhĩ căn Viên-Thông để tu chứng liễu-nghĩa Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm. Ngài Đại-Thế-Chí dùng Niệm Phật Viên-Thông để tu chứng liễu-nghĩa Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm.

Tại sao lại đặt thành tu chứngLiễu-nghĩa hay bất liễu-nghĩa ra đây ?

Hoà-Thượng Tịnh-Không khẳng định: "Kinh Lăng Nghiêm là căn bản của tất cả Đại-Thừa tu học liễu-nghĩa. Nếu muốn trong đời này thành tựu, bất kể là học Thiền, học Giáo, hoặc tu niệm Phật hay Mật Tông, nếu lìa khỏi cơ sở này, bất luận tu học pháp môn nào anh nhứt định không thể thành công".

Hiện nay, các bạn niệm Phật đồng tu rất nhiều đều hy vọng đạt được Niệm Phật Tam-Muội, đều hy vọng trong đời này quyết được vãng sanh. Niệm Phật Tam-Muội và quyết định vãng sanh vẫn phải xây dựng trên cơ sở Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm này.

Có nhiều người niệm Phật rốt cuộc không thể Vãng sanh, vì sao ? Là vì không có cơ sở này. Cho nên chúng ta phải tìm ra bịnh căn của nó.

Ở chỗ nào không thể vãng sanh?Nguyên nhân chân-chánh của nó là ở đâu ?

Sau khi tìm ra được, chúng ta đem nhân tố đó tiêu trừ, thì mục -tiêu tu học của chúng ta mới có thể đạt được .

Đây là ý-nghĩa của chữ "Đại" trong đề mục của Kinh. Đoạn thứ hai là Phật Đảnh. Phật Đảnh là nghĩa hiển-pháp tượng trưng. Toàn bộ bộ Kinh này là đảnh đầu của Phật . Phật đảnh là tối tôn vô-thượng, hiển thị rõ bộ Kinh điển này chỗ nói tất cả pháp môn. Y theo pháp môn này mà tu học, thành tựu vô-thượng Bồ-Đề . Phật Đảnh là tối vi-diệu, không ai có thể thấy được.

Vì sao không thấy được Phật Đảnh ?

Phật Đảnh phóng quang, cho nên anh không thấy rõ Phật Đảnh . Cứu cánh ra làm sao không thấy rõ được ? Ý nghĩa này là hiển thị rõ .

Bộ Kinh-điển này, Pháp-môn là tối vi diệu . Duy chỉ Phật với Phật mới cứu cánh. Đẳng giác Bồ Tát trở xuống đều không thể hoàn-toàn hiểu triệt để . Đây là dùng hai chữ Phật Đảnh để tỷ dụ, để hiện thị .

Phần thứ ba là Như Lai Mật Nhân. Nếu như dùng Tam Nhân Phật Tánh mà nói, thì đây tương đương với Chánh Nhân Phật Tánh .

Cái gì gọi là Chánh Nhân Phật Tánh ?

Chánh Nhơn Phật Tánh tức là nói bản Tánh, tức là Chánh Nhơn Thành Phật của ta. Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận gọi đó là Bản giác. Bản giác là nhân tố chân chánh để tu thành chánh quả của chúng ta.

Phật Bồ Tát đều dạy chúng ta, bản giác vốn sẵn có, người người đều có. Tuy có, mà vì chúng ta có vọng tưởng, có phân biệt, có chấp trước, kết quả là mê mà chẳng ngộ. Vốn là giác, mà nay vì mê mà chẳng giác.

Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật bảo đây là cái căn bản trong hai căn bản :

1. Là căn bản của sự thành Phật .2. Là căn bản lưu chuyển trong cửu pháp giới .

Cửu pháp giới chúng sanh là mê . Phật là ngộ . Mê, ngộ, chơn, vọng thảy đều là nó .

Đây gọi là Mật Nhân.

Mật Nhân này ở đâu ?

Nếu chúng ta tìm không ra cái chơn bản, thì lấy gì để tu? Nếu như tu sai đi, thật là oan uổng. Cuộc đời của ta nào tinh thần và thì giờ đều lãng phí một cách vô hiệu quả. Nhứt định phải tìm cho ra chơn bản, điều này rất nhiều người học Phật không chịu nghiên cứu sâu vào.

Cho nên, tuy gọi là học Phật, vẫn chẳng phải là thật sự học Phật . Nếu thật sự là học Phật, thì nhất định đem việc này nghiên cứu một cách rõ ràng, minh bạch . Phật dạy chúng ta, chơn tâm bản tánh gần nhứt là trước cửa lục căn chúng ta. Từ viễn đại mà nói, tức là tận hư không biến pháp giới, không nơi nào không có mặt; cho nên bao gồm đầy đủ vạn pháp . Thập pháp giới, nghi chánh trang nghiêm đều là nó .

Chúng ta hiện nay hạ thủ để tu học . Từ đâu mà hạ thủ ? Trong Kinh này Phật dạy chúng ta, từ đầu cửa lục căn mà hạ thủ .

Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm là tên gọi tắt. Gọi đủ tên Kinh dài hai mươi chữ: Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ-Tát Vạn-Hạnh Thủ-Lăng-Nghiêm.

Theo Hoà-Thượng Tịnh -Không, Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm có duyên với người tu niệm Phật Vãng Sanh Tây Phương Cực-Lạc. Người giảng Kinh Lăng Nghiêm hay nhứt là Giao Quang Đại sư. Trước khi chú giải Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm, Giao Quang Đại sư được Phật A-Di-Đà đến đón, vì hằng ngày Ngài tu Niệm Phật cầu vãng sanh. Ngay khi Phật A-Di-Đà đến đón, Giao Quang Đại sư nhớ đến Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm chưa có người chú giải, nên liền xin với Phật A-Di-Đà cho Ngài ở lại để chú giải xong Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm. Phật A-Di-Đà chấp thuận cho nghỉ phép. Ngay lúc đó Giao Quang Đại sư đang trọng bịnh. Khi Phật A-Di-Đà biến mất thì bịnh của Giao Quang Đại sư cũng hết.

Nơi sách này chúng tôi rút một phần bài giảng của Pháp sư Tịnh-Không, cho thích hợp với danh đề của sách là Niệm Phật Cách Nào Chắc Được Vãng Sanh ?

Trở lại việc Giao Quang Đại-sư chú giải Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm.

Giao Quang Đại sư đề xướng: "Bỏ thức dùng căn".

Chữ căn này chỉ cho cái tánh trong căn. Phàm phu chúng ta khi mắt thấy sắc, lấy gì để thấy? Dùng nhãn thức. Tai nghe tiếng, dùng nhĩ thức . Điều này quý vị đọc qua chút duy thức đều biết . Chúng ta thường dùng sáu thức, chẳng biết cách dùng căn tánh của sáu căn. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật chỉ điểm cho chúng ta đừng nên dùng thức. Thức là phân biệt, chấp trước. Lục căn phân-biệt cảnh-giới lục trần bên ngoài, thì gọi là lục thức. Lực lược phân biệt của ý thức, rất mạnh. Công năng chấp trước của thức thứ bảy là Mạt na rất mạnh. A-lại-da là thức thứ tám hàm chứa tất cả chủng tử; cho nên gọi là thức nhiểm ô, đem tâm chơn bản tánh của chúng ta làm

nhiểm ô, chướng ngại; đây gọi là bịnh căn. Chơn chánh tu hành, sự thành tựu của viên đốn dùng phương-pháp này thì không đạt được. Phật dạy chúng ta một phương-pháp khác, là dùng cái tánh trong căn.

Nói một cách khác, chúng ta thấy sắc đừng nên dùng nhãn thức để thấy, mà dùng tánh kiến để thấy . Chúng ta nghe tiếng, đừng dùng nhỉ thức để nghe mà dùng tánh nghe để nghe.

Nói một cách khác, giả như chúng ta biết dùng căn tánh của sáu căn, như vậy thì anh đã nắm được Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm. Thì trong đời này anh đạt được thành tựu vô cùng vĩ đại bất khả tư nghị.

Kỳ thật, tất cả Phật pháp Đại thừa có pháp nào mà chẳng xây dựng trên nguyên lý này .

Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, Ngài Mã Minh dạy chúng ta: "Dùng trạng thái tâm lý nào để tiếp nhận Phật pháp Đài thừa ?

Ngài dạy chúng ta 3 điểm :

1. Lìa tướng ngôn thuyết . 2. Lìa tướng danh tự (tức là danh từ Phật ngữ). 3. Lìa tâm duyên tướng .

Quý vị thử nghĩ, 3 điểm lìa này, tức là Kinh Lăng Nghiêm dạy xả bỏ thức . Ba thứ này đã lìa là dùng cách chi ? Dĩ-nhiên là dùng cái tánh trong căn. Cũng với Phật trong Kinh Lăng Nghiêm, thì danh từ không tương đồng, nhưng nội dung thì hoàn toàn đồng nhất . Do đây có thể biết, đây là căn bản lý luận chung cho Phật pháp Đại Thừa, là nguyên tắc chung của sự tu học . Đây tức là bỏ thức dùng căn.

Còn Mật Nhân, tại sao Phật đem sự việc này gọi là Mật Nhân ?

Nó là hàm ý rất là sâu. Phật dạy chữ Mật này là phá lỗi chấp trước của Tiểu-Thừa. Lại nói thêm chữ Nhân. Là nói đến sự cuồng tuệ trong Đại Thừa Viên giáo. Có một hạng người tự cho là mình có căn tánh Đại thừa viên dung vô ngại. Hình như họ biết rất nhiều, nói rất có mạch lạc thứ lớp; nhưng chẳng thật sự thiết tha tu hành . Đây gọi là có giải mà không hành . Phật đặc biệt nói đến chữ Nhân. Anh tu nhân không viên mãn thì không thể chứng quả được; giải không dùng được (Giải đây là kiến giải). Sau khi giải rồi phải thật sự đi làm mới được . Cho nên sau khi giải rồi nhất định phải thực hành .

Chỉ biết một ít Phật pháp, mà không thể thực hành một cách thiết thực, đây là cái lỗi của hạng người Đại Thừa Viên Giáo cuồng tuệ .

Cho nên Đức Phật đặc biệt đánh thức họ về tầm quan trọng của tu Nhân; dùng Như Lai Mật Nhân. Đây là ba loại "đại định" mà Kinh Lăng Nghiêm nói đến . Diệu Sa-ma-tha là tên gọi của đại định . Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói đến ba thứ, Sa-ma-tha, Tam-ma và Thiền -Na, khi Xiển giáo Đức Thế -Tôn đề ra:

-"Ngài A Nan, quý vị đã biết, ông ta nghe Kinh nhiều nhứt và hoàn chỉnh nhứt, vì ông ta là Thị-giả của Thế-Tôn. Mỗi hội Phật thuyết-pháp đều có ông ta tham gia, những danh từ này ông ta rất thuộc. Vì vậy trong hội này Phật lại nêu ra ba danh xưng này. Nhưng Đại định Thủ-Lăng-Nghiêm, A-Nan chưa từng nghe qua, nên ông ta hỏi ba nghĩa này".

Như Lai Mật Nhân là đáp cho Tôn giả A-Nan chữ Sa-ma-tha. Cho nên chữ Sa-ma-tha thêm vào chữ Diệu là diệu Sa-ma-tha; khác với Sa-ma-tha trong các Kinh luận khác nói đến . Ý nghĩa chữ Sa-ma-tha nặng về phần chỉ . Chỉ tức là đem những thứ vọng tưởng phân biệt chấp trước đều ngừng chỉ nó . Cho nên có một tí cùng với Tông Thiên-Thai nói đến "chỉ quán", chữ chỉ đó rất gần,nhưng thực tế có phải chữ chỉ này không ? Vẫn chẳng phải . Sau chữ "chỉ" đó, công phu cũng còn cần phải gần thêm một tầng.

Khi nãy vừa nói qua, chính yếu là nó dụng tâm khác nhau. Thiên Thai "chỉ quán" dùng ý thức tâm, còn Phật nói ở đây về Sa-ma-tha, Tam-ma-địa, Thiền-Na, tuy cũng là ý-nghĩa "chỉ quán"; nhưng là bỏ thức mà dùng căn. Nó là dùng căn tánh của 6 căn. Một cái là dùng 6 thức của 6 căn. Sai biệt là ở chỗ này .

Cho nên rất giống, rất tương tợ; nhưng thực tại thì là khác nhau. Điều nầy là khi nghiên cứu Kinh Lăng Nghiêm, trước tiên chúng ta phải phân-tách cho rõ ràng .

Đề Kinh đoạn thứ tư: "Tu chứng liễu-nghĩa". Đây là trong "Tam nhân Phật Tánh" tương đương với Liễu-Nhân. Liễu là hiểu rõ . Nói một cách khác tức là Trí tuệ. Không có trí tuệ thì anh sẽ không hiểu rõ . Có được chơn Trí-Tuệ thì anh mới thật hiểu rõ.

Nhơn "tánh" mà khởi "quán" gọi là Tu

Trong Thiền Tông thường dùng thuật ngữ này, gọi là quán chiếu . Đây gọi là chơn tu.

Cái gì gọi là quán chiếu . Ý-nghĩa của chữ quán, khi Sáu căn của chúng ta tiếp xúc với cảnh giới của sáu trần bên ngoài; mắt tôi thấy sắc (mắt có thể thấy được tất cả các thứ đều gọi là Sắc pháp; dùng một danh từ này để đại-biểu), tai nghe được tất cả những âm thanh (đây gọi là thanh pháp), cho đến ý của chúng ta, tâm ý, tâm có thể nghĩ tưởng. Khởi tâm động niệm chúng ta đều gọi nó là pháp. Sáu căn chỗ đối của nó là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Nếu như không dùng phân biệt chấp trước, cũng giống như Bồ Tát Mã Minh nói: "Lìa bỏ ngôn thuyết làm thế nào vận dụng tánh thấy ?"

Lìa bỏ nhãn thức đây gọi là quán chiếu. Nói một cách khác, mắt thấy cảnh giới bên ngoài, không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước; cảnh giới bên ngoài rõ rõ, ràng ràng minh minh bạch bạch đây gọi là quán chiếu. Nếu như gặp cảnh giới bên ngoài khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước thì quán chiếu liền Mất. Quán chiếu là tuệ. Mất đi quán chiếu là mê. Quán chiếu là ngộ. Mê và ngộ là ở chỗ nầy.

Đức Phật quả thật từ bi, dạy chúng ta trong sanh hoạt hằng ngày phải thường huấn luyện quán chiếu. Bởi vì chúng ta đánh mất quán chiếu đã quá lâu rồi. Từ kiếp vô thỉ đến nay mê hoặc điên đảo, chẳng biết dùng phương pháp này, Bây giờ phải xoay chuyển trở lại.

Chư Phật Bồ-Tát, sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần tất cả đều dùng quán chiếu . Chúng ta cũng biết dùng, đây được gọi là Bồ-Tát . Khi công phu quán chiếu đắc lực rồi thì có được sức mạnh, gọi là "chiếu trụ".

Đây là quán chiếu đã có được công phu rất thâm sâu. Chiếu trụ là cảnh giới gì ? Tức là đã được định .

Trong Thiền Tông gọi người này đã được thiền định . Tịnh-độ Tông thì gọi là sự nhứt tâm bất loạn, cũng gọi là Chiếu trụ .

Sau khi được chiếu trụ công phu bước lên một nấc nữa, gọi là "chiếu kiến". Trong Bát Nhã Tâm Kinh: "Quán Tự Tại Bồ-Tát hành thâm Bát -Nhã Ba-La-Mật đa Thời, "chiếu kiến" ngũ uẩn giai không".

Chiếu kiến, trong Thiền Tông gọi là "minh tâm Kiến Tánh" đại triệt đại-ngộ. Trong Tịnh-độ Tông gọi là "lý nhứt tâm bất loạn". Trong giáo hạ gọi là đại khai viên giải .

Danh từ gọi không giống nhau, cho nên Bồ-Tát Mã Minh dạy đừng chấp trước danh từ.

Phật nói các thứ danh tướng đều là giả. Mục đích là bảo chúng ta đừng nên chấp trước.

Vậy thì, chúng ta biết được cái gì gọi là quán, cái gì gọi là chiếu. Mắt thấy sắc gọi là quán chiếu; tai nghe tiếng cũng gọi là quán chiếu; 6 căn tiếp xúc với cảnh giới 6 trần, tất cả đều gọi là quán chiếu . Dùng một danh từ này để đại biểu .

Chỗ đề xướng của Kinh Lăng Nghiêm là lấy quán chiếu làm Chơn tu.

Chơn chính dụng công là ở chỗ nào ?

Tôi, mắt thấy sắc, tôi nghe tiếng, học không khởi tâm không động niệm, không phân biệt, không chấp trước . Tôi thấy rõ, nghe rõ, thứ nào đều rõ ràng, mà tâm thì chẳng động . Tất cả chỗ nào

cũng rõ ràng là tuệ, không khởi tâm động niệm là định . Đây là định tuệ đẳng vận, định tuệ song tu.

Tu nơi nào ?

Là ở trong sinh hoạt hằng ngày. Xử thế, đối người, tiếp vật, là ở trong đây học tu quán. Đây gọi là Chơn tu hành. Đây gọi là thật sự biết dụng công.

Vậy thì dụng công cái tiện lợi nhứt, thiện xảo nhứt là trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật cử ra 25 vị Bồ-Tát làm mô phạm, làm gương mẫu cho chúng ta. Đó là 25 viên thông chương.

Trong các mô phạm, chúng ta được biết Quán Thế Âm Bồ-Tát làm mô phạm bằng Nhĩ âm Viên thông chương; Đại Thế Chí Bồ-Tát làm mô phạm cho chúng ta là Niệm Phật Viên-Thông chương.

Nhưng trong 25 loại phương-tiện, viên mãn nhứt, thiện xảo nhứt, thù thắng nhứt, chẳng hơn nổi Đại-Thế-Chí Niệm Phật Viên-Thông chương.

Với lại trong Kinh nói đến về lý luận, nguyên tắc, tông chỉ, đều phù hợp một cách viên mãn mật thiết. Ngó lại vô cùng dễ tu. Chúng ta thấy sắc nghe tiếng làm sao mà chẳng khởi tâm động niệm? Hễ thấy cảnh thì A-Di-Đà Phật, nghe tiếng thì A-Di-Đà Phật; thảy đều chuyển về A-Di-Đà Phật . Cách này tiện lợi đây. Nếu chúng ta không niệm A-Di-Đà Phật, thì thấy sắc nghe tiếng sẽ nổi vọng tưởng . Vọng tưởng này chẳng dễ gì ngừng chỉ được .

Pháp môn Đại-Thế-Chí này là tuyệt diệu. Tất cả việc khởi tâm động niệm toàn bộ đều quay về trên một câu Phật hiệu, dùng câu Phật hiệu này thay thế cho tất cả phân biệt, chấp trược, vọng niệm . Toàn quay về một câu Phật hiệu này. Pháp môn này cực kỳ tuyệt diệu cho nên Đại-Thế-Chí mới cùng với các đồng môn tu, chí đồng đạo hiệp của Ngài, gọi là đồng luân, đều là tu Pháp môn này. Tức là một câu Phật hiệu, từ khi Sơ-phát -tâm cho đến lúc Thành Phật. Tức là một pháp môn này, không dùng pháp môn thứ hai.

Bất giả phương-tiện tự đắc tâm khai. Tâm khai tức là chiếu kiến; công phu đạt đến cứu cánh viên mãn; thành tựu viên mãn Lăng Nghiêm đại định .

Phương-pháp của Đại-Thế Bồ-Tát so với phương pháp của 24 vị kia, bao gồm luôn Quán Thế Âm Bồ-Tát còn dễ hơn, còn tiện lợi hơn. Vả lại đặt biệt còn vững vàng mau chóng .

Cho nên, Tu Tịnh-Độ phần quan trọng nhất của Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm, cái tinh-hoa chơn chánh của Kinh Lăng Nghiêm tức là chương "Lời Dạy Bảo Thanh Tịnh Rõ Ràng" và chương "Đại-Thế-Chí Niệm Phật Viên-Thông".

Đối với chúng ta vô cùng cốt yếu, vô cùng mật thiết, vô cùng quan trọng . Nếu chúng ta nắm vững được, có thể y theo đó mà tu hành . Chúng ta niệm Phật thì thành tựu Niệm Phật Tam-Muội

Vì thế đây là cách tu cùng những phương pháp tu khác thật không giống nhau. Lấy quán hành để tu, cho nên nó chẳng phải trải qua sự việc để tu theo. Trải qua sự để tu thì cần thời gian dài, thời gian xa...

Do đó trong các Đại-Kinh, Phật thường dạy rằng: "Bồ-Tát từ khi phát tâm muốn tu hành thành Phật phải trải qua ba đại a-tăng-kỳ kiếp, phải trải qua 52 từng cấp".

Câu nói này chúng ta phải nghe cho rõ ràng: "Bồ-Tát chiếu tu", chúng ta có phải Bồ-Tát không ? Không phải là Bồ-Tát thì chúng ta không có phần .

Thế nào mới là Bồ-Tát ?Có phải thọ xong Bồ-Tát giới thì là Bồ-Tát ?

Thọ xong Bồ-Tát giới, anh tự cho mình là Bồ-Tát, nhưng chư Phật, Bồ-Tát không nhìn nhận anh là Bồ-Tát .

Tiêu chuẩn của Bồ-Tát là gì ?

Kinh Lăng Nghiêm là Đại Thừa Viên giáo; Kinh Hoa-Nghiêm, Pháp-Hoa cho đến Kinh Vô Lượng Thọ đều là Đại Thừa Viên-giáo, Bồ-Tát của Đại-Thừa viên-giáo, tiêu-chuẩn thấp nhứt là vị Sơ tín Bồ-Tát, Thập-Tín, Thập-Trụ, Thập-Hạnh, Thập Hồi hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác, năm mươi hai cái vị thứ .

Thấp nhứt là quả vị Sơ tín Bồ-Tát .

Điều kiện của Sơ tín Bồ-Tát, trong Kinh dạy rõ ràng là phải đoạn hết Tam giới, 88 phẩm kiến-hoặc mới là Vị Sơ tín Bồ-Tát . Từ chỗ này của họ mà bắt đầu tính . Khi chúng ta đã thọ Bồ-Tát giới, 88 phẩm Kiến-hoặc đã đoạn hết chưa ?

Hoà-Thượng Tịnh -Không tự thú nhận :

"Tôi chẳng nói kẻ khác mà chính tôi đây một phẩm cũng chưa được. Cho nên là Bồ-Tát giả!"

Trong Phập pháp có một danh từ là "Danh tự Bồ-Tát", tức là hữu danh vô thực . Anh đã thọ Bồ-Tát giới rồi mà chỉ có tên chứ không thật .

Một vị Bồ-Tát chân thật phải đoạn 88 phẩm kiến -hoặc . cho thấy rằng chẳng phải dễ dàng, chẳng phải đơn giản . Chính vì tôi vẫn còn một tí sáng suốt, tự biết mình, biết chính mình là thứ

giả, không thiệt, biết mình không thể được, thì rồi mới theo học Đại-Thế-Chí Bồ-Tát .

Có lợi ích gì ? Là đới nghiệp vãng sanh. Thứ giả cũng có thể trở thành thiệt .

Đây là cái hay của pháp môn này . Pháp môn Niệm Phật Viên thông này (Hoà-Thượng Tịnh-Không dứt câu, hội trường vỗ tay vang dậy).

Ngoài pháp này ra, tứ giả mà tu theo pháp môn của họ, thì dù tu cách nào cũng không thể biến thành thiệt được . Duy độc nhứt chỉ có niệm Phật, là nhờ sự gia trì của bổn nguyện và uy thần của Phật A-Di-Đà; chỉ cần phương hướng và mục tiêu của chúng ta không thay đổi; giả có thể thành chơn; đới nghiệp vãng sanh. Các pháp môn khác chẳng có .

Đây là tại sao tất cả Kinh luận, mười phương chư Phật đều tán thán pháp môn này; khuyến chúng ta tu pháp môn này . Thật là từ bi đã đến cực độ . Chư Phật Bồ -Tát nhìn thấy rất rõ .

Nếu chẳng phải pháp môn này, thì thời mạt pháp, chúng ta, những chúng sanh có nhiều nghiệp chướng sâu nặng trong một đời, nhất định không thể thành tựu được .

Nhưng nếu anh áp dụng pháp môn niệm Phật này, dù nghiệp chướng có nặng hơn, đều có thể thành tựu . Không những có thể thành tựu, nếu anh lý luận thông đạt, biết rõ phương-pháp y giáo phụng hành vốn có thể lấy được phẩm vị rất cao. Ngay cả ba phẩm thượng (tức Thượng Phẩm Thượng sanh, Trung sanh, Hạ sanh) anh cũng có phần .

Thật là một pháp môn vô cùng hy hữu . Cho nên chỗ này nói "tu chứng liễu-nghĩa", không cần chiếu theo giai-cấp của Bồ-Tát; không cần 3 đại a-tăng-kỳ kiếp, trong một đời là viên mãn, là thành tựu .

Như lời Phật dạy trong Kinh Vô Lượng Thọ: "Mọi người đều là trong đời quá khứ nhiều kiếp lâu xa, đã trồng thiện căn ấy . Thiện căn này vô cùng sâu dày . Trong đời này chúng ta mới có thể gặp được Pháp môn này, mới có thể tin Pháp môn này, mới có thể y theo Pháp môn này mà tu học".

Trong một đời này vĩnh-biệt Tam giới, viên thành Phật đạo, Vãng sanh bất thối thành Phật .

Trong một đời thành tựu, đây là căn lành của quá khứ . HIện tiền được A-Di-Đà Phật và mười phương Như Lai oai thần gian-trì. Cho nên chẳng phải là người bình thường .

Phật nói trong Kinh Vô Lượng Thọ, người niệm Phật chẳng phải là phàm phu, chẳng phải người bình -thường đều là những người phi-thường. Chư Phật Bồ -Tát đều rất tán thán, đều rất bội phục .

Ý nghĩa của câu này vẫn chưa giảng hết, chỉ giảng một đoạn mở đầu .

Lời thêm của Tịnh-Hải:

Pháp sư Tịnh-Không trình bày chồ này rất chân thật, giúp cho người tu niệm Phật thật nhiều .

Ngài là một bậc xuất gia học Phật pháp cao thâm, nổi tiếng từ Trung Hoa lục địa ra đến hải-ngoại

. Chúng tôi đã xem một video lúc Ngài giảng đạo tại Mã-Lai, số Phật tử tham dự đông đảo không

thể tưởng được . Trước tiên, cũng như bao nhiêu tăng sĩ khác, Ngài tu Thiền, nhưng tu Thiền

muốn đạt được quả Bồ-Tát phải đoạn 88 phẩm Kiến hoặc và Tư hoặc dứt bỏ mọi phiền não, tà

kiến, thì mới dứt được sanh tử trong Tam giới, mà vượt ra khỏi Tam giới .

Tu đạo Phật là phải thực chứng, còn hiểu nhiều và nói giỏi lý-thuyết chỉ là Kiến-giải. Kinh Thủ-

Lăng-Nghiêm dạy tu chứng liễu-nghĩa, chứ không tu kiến giải .

Các Thiền sư nói "Minh tâm Kiến Tánh thành Phật", đó là nói lý-thuyết . Một vị phát tâm tu Bồ

Tát phải trải qua 3 đại a-tăng-kỳ kiếp, trải qua 52 cấp . Tiêu chuẩn thấp nhứt là quả Sơ tín Bồ-Tát

(tức Sơ Địa) rồi đắc lần lên Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh v.v.... phải vượt qua 52 bậc thứ .

Ngài Tịnh-Không chân thật thú nhận: "Chính tôi đây một phẩm cũng chưa được!".

Đại Kinh nói: "Bồ-Tát từ khi phát tâm muốn tu hành thành Phật phải trải qua ba đại a-tăng-kỳ

kiếp"

Theo Kinh A-Di-Đà Sớ Sao do Hoà -Thượng Thích -Hành -Trụ dịch: "Một đại kiếp là 1200 tỷ 80

triệu năm. Ba đại kiếp là 3600 tỷ 240 triệu năm (trang 115).

Vậy chúng sanh thời này, ai có thể tu để thành Phật ? Thuở tiền thân, Phật A-Di-Đà đi tu con

người sống 80 ngàn tuổi, người ta có thời gian lâu dài để tu tập . Bây giờ con người chỉ sống cao

nhứt 100 tuổi, làm sao đủ thời giờ tu các hạnh Bồ-Tát ? Tu Bồ -Tát hạnh phải thường thường gần

Phật để được hướng dẫn . Thời mạt pháp này không có Phật . Phải chờ trên 56 ức năm nữa Phật

Di-Lặc mói hạ sanh.

Bây giờ Hoà-Thượng Tịnh-Không đã 75 tuổi tính vào năm 2001. Cuộc đời Ngài gần hết rồi, nếu

Ngài chết đi Ngài sẽ đắc được cái gì (?) dù rằng Ngài đã là một Hòa-Thượng .

Chúng tôi kính trọng và quý mến, Hoà-Thượng Tịnh-Không ở chỗ Ngài can-đảm nói lên sự thật

và can đảm nhìn vào sự thật, nên cuối cùng Ngài chọn Pháp môn niệm Phật và cương quyết suốt

đời còn lại giữ chặt trong tâm sáu chữ "Nam Mô A-Di-Đà Phật" để được Vãng sanh Cực-Lạc, từ

Bồ-Tát giả trở thành Bồ-Tát thật .

Viết tới đây, chúng tôi nhớ tới vị Hoà-Thượng xe buýt, một Hoà-Thượng Việt-Nam, tuy già cả

bịnh-hoạn, quanh năm ngồi xe buýt đến các chùa xa xôi dạy Phật tử niệm Phật, giúp cho họ thoát

3 đường dữ mà được vãng sanh về cõi Phật. Đây là chỗ Hoà-Thượng Thích-Trí-Chơn, vị Hoà-

Thượng xe buýt Việt Nam, thông đạt "Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu-Nghĩa". Đây là cái

nhân bí mật mà chư Như Lai dạy, ai hiểu được người đó thức chứng .

CHƯƠNG HAI: VÃNG SANH BIẾT TRƯỚC NGÀY GIỜ, ĐỨNG VÃNG SANH, NGỒI VÃNG SANH!

Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng tiếp Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm. Đây là Tôn Kinh, mà người tu tất cả các pháp môn đều phải tu theo để chứng đắc, gọi là Tu Chứng Liễu -Nghĩa .

Cách giảng của Ngài thật đặt biệt và rất hữu ích cho chư Liên hữu, nên chúng tôi nhân đây giúp cho chư Liên hữu hiểu, tu theo Hoà-Thượng giảng chắc được vãng sanh.

Hoà-Thượng Tịnh-Không nói:

"Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm, đối với người tu Thiền mà nói, thật là hữu hiệu. Lý luận tuy là không sai, trên thực tế về mặt dụng công thì quả thật chẳng phải là một việc quá dễ dàng .

Trong kinh-điển, Phật dạy chúng ta mỗi người đều có sáu căn. Mỗi căn có sáu tiết. Vậy có tất cả 36 cái tiết. Tuy căn, tiết nhiều như vậy, nhưng trên thực tế chỉ cần từ một căn mà hạ thủ. Nói một cách khác, một căn được giải trừ là sáu căn đều viên thông.

(Trong Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm này, mỗi đệ tử của Phật hay các vị Bồ-Tát chỉ chứng được một căn viên thông).

Hoà-Thượng Tịnh-Không tiếp:

- Tuy nhiên, sáu tiết của một căn (muốn giải trừ) thì cũng chẳng dễ gì . Vậy tôi xin đem danh xưng của sáu tiết này nói sơ qua với quý vị .

Sáu tiết, cái thứ nhứt là động, thứ hai là tịnh, thứ ba là căn, thứ tư là giác, thứ năm là sâu, thứ sáu là diệt . Càng về sau càng khó .

Bây giờ không nói hết sáu cái .

Cái thứ nhứt anh có thể đạt được không ? Có thể giải toả được không ?

Động là khởi tâm động niệm. Cho nên Thiền Tông là từ thiền định mà hạ thủ . Sau khi được định rồi thì cái thứ nhất là động. Cái tiết này giải trừ xong, họ ở trong định. Định là cảnh giới của tịnh .

Còn giải cái tiết thứ hai thì kông dễ dàng. Giả như cái tiết thứ hai giải không ra, trụ ở trong tịnh; quả báo của nó là Tứ Thiền Thiên, không ra khỏi Tam giới . Tất cả sáu cái tiết đều giải khỏi, thì mới "Minh Tâm Kiến Tánh", đại triệt đại ngộ .

Cho nên nói thì đơn giản, mà khi làm quả thật là khó khăn.

Để chứng minh điều mà Hoà-Thượng Tịnh-Không nói hoàn toàn đúng, Ngài nói tiếp:

- Trước trong Tông Thiên Thai, Đàm Hư Lão Pháp sư vào thời năm đầu Dân Quốc là vị tổ sư cận đại của Tông Thiên Thai, sau này ngụ tại Hong Kong khi Quốc Dân Đảng bỏ lục đại . Ngài tuổi thọ rất cao, chín mươi mấy tuổi mới vãng sanh, Ngài đã từng nói: "Trong một đời Ngài, cái mà Ngài thấy được, nghe được, những người tu Thiền được định Ngài có thấy qua, nghe qua, như là nhập định bảy ngày, nửa tháng, một tháng mới xuất định. Công phu thiền định rất là thâm hậu. Trong Thiền Tông nói Minh Tâm Kiến Tánh, đại triệt đại ngộ, Ngài nói trong đời Ngài chưa thấy qua; nghe, cũng chưa từng nghe qua".

(Chẳng rõ chư liên hữu có ai được nghe các vị Thiền Sư Việt-Nam có ai được định bảy ngày, nửa tháng chăng ?)

Ngài Tịnh-Không nói tiếp:

- Những người được đinh, căn cứ công phu cạn sâu; quả báo là ở Tứ Thiền Thiên. Căn cứ công

phu thiền định cạn sâu mà đạt Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền . Càng sâu nữa là đến Tứ không Thiên của vô sắc giới, đi vãng sanh. Nhưng không thoát ra ngoài Tam giới . Điều này chúng ta cần phải biết .

(Chữ Vãng Sanh trên đây có nghĩa là sanh về một cõi khác, chứ chưa ra khỏi Tam giới . Mà tu theo Phật là phải chứng quả, vượt khỏi Tam giới. Vì còn ở trong Tam giới là còn phải rơi vào ba đường dữ. Cho nên Hoà -Thượng Tịnh-Không mới nhấn mạnh: "Điều này chúng ta cần phải biết").

Hoà-Thượng Tịnh-Không nói tiếp: "Đàm Hư lão pháp sư bảo: niệm Phật vãng sanh Tịnh-Độ thì thật sự có vãng sanh. Khi lâm chung không sanh bịnh, biết trước ngày giờ. Đúng vãng sanh, ngồi vãng sanh. Ngài bảo trong đời Ngài, chính mắt Ngài thấy được có hai mươi mấy người. Còn nghe kể thì nhiều lắm. Ngài không có tính con số người vãng sanh nghe nói lại. Chính mắt Ngài trông thấy hai mươi mấy người biết trước giờ chết, lâm chung không bịnh khổ, đứng vãng sanh, ngồi vãng sanh. Đó là sự thật không thể nào giả dối. Cách vãng sanh này có thể nói là sau khi chúng ta nhìn thấy. Một tí tơ hào nào nghi ngờ cũng chẳng có".

Lời của Tịnh-Hải:

Trong đời chúng tôi chưa từng thấy đứng vãng sanh, ngồi vãng sanh. Nhưng có nghe nói ngồi vãng sanh, như trường hợp Hoà-Thượng Quảng Khâm, Hoà-Thượng Thiền Tâm. Vừa qua, chúng tôi được Tịnh Thất Viên Âm ở Santa Ana biếu một cuốn sách mang tựa Long Thư Tịnh Độ, do Hoà-Thượng Quảng-Thiệp ấn tống trước khi ngài viên tịch. Tác giả của sách Long-Thư Tịnh-Độ là Cư sĩ Vương-Nhựt-Hưu, đã đắc quả vãng sanh biết trước ngày giờ . Ba ngày trước khi vãng sanh, Cư sĩ Vương-Nhựt-Hưu đi viếng thăm từ giã mọi người trong làng . Sáng hôm sau ông vẫn giảng kinh cho đệ tử . Đến nửa đêm, ông đứng trước bàn Phật chờ vãng sanh. Ông đang niệm Phật liền ngưng lại lớn tiếng nói: "Phật đến rước tôi". Dứt lời ông đứng ngay thẳng, chắp tay mà vãng sanh.

Hoà -Thượng Tịnh -Không nói tiếp:

- Sự thành tựu của Tịnh-Độ Tông đích thật so với Thiền-Tông dễ dàng hơn. Vì thế cho nên, tu chứng liễu - nghĩa, nếu theo pháp môn niệm Phật của chúng ta mà nói, tức là phương pháp mà Đại-Thế-Chí Bồ-Tát dạy chúng ta trong bổn Kinh này, nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối tiếp .

Tám chữ này tức là tu chứng liễu-nghĩa .

Bây giờ thì lại có vấn đề: "nhiếp cả sáu căn tịnh niệm nối tiếp".

Vậy làm sao nhiếp cả sáu căn ?

Lời thêm của Tịnh-Hải:

Để chư liên hữu dễ theo dõi và nắm vững vấn đề, chúng tôi xin được phép trình bày cho rõ thêm một chút . Trong pháp hội Thủ-Lăng-Nghiêm, theo lời yêu cầu của Đức Phật, hai mươi lăm vị Bồ-Tát (Trong số này có một số vị thị hiện làm A-La-Hán) mỗi người trình bày chỗ tu chứng của mình . Đại Bồ-Tát Đại-Thế-Chí trình bày môn Niệm Phật Viên Thông, nguyên văn như sau:

Ngài Pháp-vương-tử Đại-Thế-Chí cùng với năm mươi hai vị Bồ-Tát đồng tu một pháp-môn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi nhớ hằng-sa kiếp trước, có Đức Phật ra đời, tên là Vô-Lượng-Quang; lúc ấy mười hai Đức Như-Lai kế tiếp nhau thành Phật trong một kiếp. Đức Phật sau hết, hiệu là Siêu-Nhật-Nguyệt-Quang, dạy cho tôi phép Niệm-Phật-Tam-Muội . Ví như có người, một đằng chuyên nhớ, một đằng chuyên quên, thì hai người ấy, dầu gặp cũng là không gặp, dầu thấy cũng là không thấy; nếu hai người đều nhớ nhau, hai bên nhớ mãi khắc sâu vào tâm-niệm, thì đồng như hình với bóng, cho đến đời này sang đời khác, không bao giờ cách xa nhau.

Thập-phương Như-Lai thương tưởng chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con trốn tránh, thì tuy nhớ, nào có ích gì; nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì đời đời mẹ con không xa cách nhau.

Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, thì hiện nay hay về sau, nhứt định thấy Phật; cách Phật không xa, thì không cần phương tiện, tâm sự được khai ngộ, như người ướp hương, thì thân thể có mùi thơm, ấy gọi là Hương-quang trang-nghiêm.

Bản nhân của tôi là dùng tâm niệm Phật mà vào pháp Vô-sanh-nhẫn, nay ở cõi này tiếp dẫn những người niệm Phật về cõi Tịnh-Độ .

Phật hỏi về Viên-Thông, tôi thu nhiếp tất cả sáu căn, không có lựa chọn, tịnh niệm nối tiếp, được vào Tam-ma-đề, đó là thứ nhứt .

Quý liên hữu đọc đoạn chót thấy mấy chữ :

"Nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối tiếp".

Theo Hoà-Thượng Tịnh-Không, tám chữ này là chỗ tu chứng liễu nghĩa và Ngài giải thích:

- "Câu tịnh niệm nối tiếp tất phải nhiếp cả sáu căn".

Làm thế nào để đượctịnh niệm nối tiếp ?

Nhiếp cả sáu căn thì là tịnh niệm nối tiếp. Cho nên hai câu này có thể hổ-tương làm chú-giải cho

nhau.

Chúng ta thật dụng công, chú trọng ở câu sau. Chúng ta niệm Phật, người niệm Phật rất đông, mọi người đều niệm, có phù hợp với tiêu-chuẩn này không? Tiêu-chuẩn này tức là tiêu-chuẩn của liễu-nghĩa .

Tịnh là tâm địa thanh tịnh. Nếu chúng ta niệm Phật mà vẫn còn tạp niệm, như vậy là không thanh tịnh, chẳng phải tịnh niệm .

Tịnh niệm nhứt định là không hoài nghi, không tạp niệm, không có một tạp niệm nào. Đây mới gọi là tịnh niệm.

Nối tiếp là không gián đoạn, tức là không trung đoạn . Cổ-đức thường dạy cho chúng ta biết: "Niệm Phật phải không hoài-nghi, không tạp nhạp, không gián đoạn". Đây tức là tịnh-niệm nối tiếp . Niệm cách này nhứt định là nhiếp cả sáu căn.

Nhiếp cả sáu căn thì là không cần gì hỏi, cũng không cần phải nghĩ đến nó, thì tự nhiên sáu căn đều nhiếp.

Cho nên đây là người niệm Phật tu chứng liễu -nghĩa .

Còn chứng liễu -nghĩa cũng y theo cách nói của Tịnh -độ Tông.

Cách nói của Tịnh -độ Tông đều áp dụng Đại -Thế -Chí niệm Phật Viên-thông Chương.

Chứng liễu -nghĩa tức là Đại -Thế -Chí chỗ nói đến, không mượn phương tiện, tự được tâm khai mở . Đây là chứng liễu -nghĩa .

Một câu Phật hiệu niệm đến cùng, không mượn phương tiện, tức là không cần mượn bất cứ một pháp môn nào để giúp đỡ .

Chúng ta ở nhiều nơi nghe được, có người chủ trương Thiền Tịnh song tu. Đó tức là mượn Thiền Tông để giúp đỡ . Có người chủ trương Mật Tịnh song tu. Một mặt niệm Phật, một mặt lại còn trì chú, mượn Mật Tông để giúp đỡ . Đây tức là mượn các phương tiện khác làm trợ tu. Đại-Thế-Chí Bồ-Tát dạy chúng ta không cần, không dùng được . Một câu Phật hiệu niệm đến cùng thì là được . Không mượn bất cứ phương-pháp nào để giúp đỡ .

Tịnh-Độ Tông chỗ nói đến là Chánh trợ song tu. Chánh trợ là trì danh . Trợ tu cũng là trì danh. Liên Trì Đại-sư và Ngẫu-Ích Đại sư đều dạy chúng ta như vậy .

Cho nên tu chứng liễu-nghĩa này kết chặt trong pháp môn niệm Phật của chúng ta . Tức là trong

Kinh Vô Lượng Thọ nói: "Phát Bồ đề tâm một hướng chuyên niệm". Trong Kinh A-Di-Đà chỗ nói: "Nhứt tâm bất loạn". Đây đích thật là "tu chứng liều-nghĩa của Tịnh Độ Tông".

Lời thêm của Tịnh-Hải:

(Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, phẩm Thứ Hai, Đức Phật nói: "Muốn vãng sanh Cực Lạc chỉ cần xưng niệm danh-hiệu Phật là đủ". Vì danh hiệu Phật là biểu -tượng của Pháp Thân, cho nên niệm danh hiệu tức là niệm Pháp Thân Phật . Và người niệm Phật khỏi phải kiêm thêm bất cứ môn tu nào nữa ..."

Khi hướng dẫn người muốn tu niệm Phật, chúng tôi thường đưa ra ví dụ: "Khi chúng ta bị giam giữ trong một căn nhà thật kiên cố, muốn thoát ly, nếu chúng ta phá chỗ này một chút, rồi lại chỗ kia phá một chút, thì sẽ được như ý hay là ta nên tập trung nhắm vào một chỗ để khoan, để phá ? Dĩ-nhiên ai ai cũng trả lời; tập trung vào một chỗ".

Khi nói điều này ra, chắc có người sẽ hỏi chúng tôi, vậy tại sao ông còn nêu ra vấn đề "Niệm Phật trì chú, cứu độ thân nhân ?".

Xin trả lời, hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Chúng ta ai ai cũng có nhiều ông bà cha mẹ trong nhiều đời . Đọc kinh, chúng ta phân vân không biết những ông bà cha mẹ ấy đang luân chuyển ở nơi nào ? Khi áp dụng niệm Phật và trí chú chúng ta chỉ thực hiện một thời gian ngắn rồi thôi, không cần phải hành trì một thời gian dài . Sau đó chúng ta nên nhứt tâm giữ chặt một câu A-Di-Đà Phật hoặc Nam-Mô A-Di-Đà Phật . Vì nếu vừa niệm Phật, vừa trì chú vẫn còn tán tâm.

Trước đây Hoà -Thượng Tịnh -Không nói: " Theo đúng Kinh Thủ -Lăng -Nghiêm là Kinh dạy tu chứng liễu -nghĩa cho hành -giả tu các pháp môn nói chung muốn chứng đắc sơ -địa Bồ -Tát phải đoạn trừ 88 pháp lâu hoặc, rồi phải trải qua đắc chứng từng cấp trong 52 cấp . Đầu tiên từ Sơ địa bồ -Tát tức Sơ tín Bồ -Tát rồi lên Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập hồi hướng, Thập Đại, v.v..."

Còn tu niệm Phật, theo Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Đức Phập nói:

"Pháp môn niệm Phật chính là chuyển biến cái Tâm thể của chúng sanh, bằng cách không để cái Tâm thể ấy duyên với vọng niệm, với lục trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp (đây là chỗ nhiếp cả sáu căn của Bồ-Tát Đại-Thế-Chí).v.v... Mà chỉ đem Tâm-thể ấy duyên mãi với danh hiệu Nam Mô A-Di-Đà Phật, thấy mình sanh vào cõi nước Cực Lạc, thân mình ngồi trên toà sen báu, nghe Phật và Bồ-Tát nói pháp, hoặc thấy Phật lấy tay xoa đảnh ....

Lại nữa, nếu có chúng sanh nào chí thành xưng danh hiệu Nam Mô A-Di-Đà Phật, thì uy-lực bất khả tư nghị của danh hiệu khiến cho Tâm thể ấy thanh tịnh mà chúng sanh ấy không hề biết, tự nhiên chứng nhập Sơ-phần Pháp thân.

Chứng Sơ-phần Pháp thân tức là Chứng Sơ tín hay Sơ-địa Bồ-Tát.

Cho nên phải biết Pháp môn Niệm Phật thật là thần diệu . Đức Phật nói tiếp :

"Nên biết rằng được vãng sanh thì không bao giờ trở lại địa phàm phu với thân xác ngũ uẩn nữa. Do đó mới gọi là Bất-thối-chuyển. Từ đó về sau lần lần thành tựu mười thứ trí lực, mười tám-pháp bất cộng, năm nhãn, sáu thông, vô lượng Đà-ra-ni, vô số Tam-muội, thần thông du-hí, biện tài vô ngại ...đầy đủ bao nhiêu công-đức vô lậu của Đại Bồ-Tát".

Gần 10 năm trước đây (từ 1993) Hoà-Thượng Tịnh-Không nói, một phẩm của quả vị Sơ địa Bồ-Tát Ngài cũng không đạt được . Còn ở đây Đức Phật nói, người niệm Phật tinh chuyên sẽ được đầy đủ bao nhiêu công-đức vô-lậu của một Đại Bồ -Tát . Vì vậy mà Ngài Tịnh -Không quyết tu theo Pháp môn Niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc . Còn niệm Phật cách nào chặc được vãng sanh, Hoà -Thượng Tịnh -Không đã nói rõ ràng trong Chương Niệm Phật Viên Thông của Đại Bồ -Tát Đại -Thế -Chí: "Nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối tiếp". Niệm Phật cho tới khi tâm tình là được "đại định" và nối tiếp "đại định" là sẽ được "đại trí tuệ".

Y cứ vào Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, theo lời trình bày của Trưởng giả cư sĩ Diệu-Nguyệt chúng tôi trích lại:

"Vào thời Chánh-pháp cuối cùng (tức thời mạt pháp này), nếu ai phát khởi tâm-chí-tu-hành, cũng không thể tu tập các môn Giới luật, thiền định, trí tuệ ...không thể tu tập bằng các phương tiện của Quán-Trí để ngộ-nhập Phật-Tri-Kiến . Không thể tu chứng đắc Tu-đà-hoàn, Tư-đà hàm, A-na-hàm. Không thể chứng nhật Sơ-Thiền, nhẩn đến Tứ Thiền ....

Nói chung, không thể tu chứng đắc thiền định .

Hoà-Thượng Tịnh-Không, y cứ vào Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm chứng minh tu thiền định phải dùng "Diệu Sa-ma-tha, Tam-ma-địa, Thiền "Na" khi sáu căn gặp sáu trần, chỉ dùng "căn tánh" chứ không dùng "thức", thì mới được "Minh tâm Kiến -Tánh . Còn tu hành mà chỉ dùng thức, thì dù được "Tứ Thiền thiên" vẫn là được cái định của phàm phu, thì chưa thoát khỏi sanh tử luân hồi .

Trái lại nếu áp-dụng pháp môn Niệm Phật Viên Thông Chương của Ngài Đại-Thế-Chí thì, sẽ "tu chứng liễu-nghĩa Bồ-Tát Vạn-hạnh" của các bậc Bồ-Tát mà Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm đã dạy .

Xét lại, lời trình bày của Pháp sư Tịnh-Không quả là thâm diệu .

CHƯƠNG BA: CẦN HIỂU NGHĨA VỀ "DIỆT ĐOẠN VÀ PHỤC ĐOẠN" TRONG PHẬT PHÁP!

Pháp sư Tịnh-Không giảng tiếp:

- Trong hội Thủ-Lăng-Nghiêm, chương Thanh Tịnh Minh Hối, Đức Phật vì thương chúng sanh đã giảng về "Tứ trọng giới", tức là 4 giới quan trọng cho người tu thiền định - Đức Phật bảo Ngài A-Nan:

"Nếu chúng sanh lục đạo các thế giới, cái tâm không dâm, thì không theo dòng sanh tử tiếp tục . Ông tu phép Tam muội (thiền định) cốt để ra khỏi trần-lao, nếu không trừ lòng dâm, thì không thể ra khỏi trần-lao được . Dẫu có nhiều trí thiền định hiện tiền, nếu không đoạn lòng dâm, cũng chắc lọt vào ma đạo, hạng trên thành Ma-vương, hạng giữa thành Ma-dâm, hạng dưới thành Ma-nữ; các bọn ma kia cũng có đồ-chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô-thượng . Sau khi tôi diệt độ rồi, trong đời mạt pháp, có nhiều bọn ma này sôi nổi trong thế gian, gây nhiều việc tham-dâm, lại giả làm Thiện-tri-thức . Ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-đề (tức tu thiền định), trước hết phải đoạn cái dâm trong tự tâm. Ấy gọi là lời dạy-bảo rõ ràng thanh-tịnh, quyết định thứ nhứt của các Đức Như-Lai Tiên-Phật ThếTôn.

Vậy nên, ông A-Nan, nếu không đoạn lòng dâm mà tu thiền định, thì cũng như nấu cát, nấu đá muốn cho thành cơm, dầu trải qua trăm nghìn kiếp cũng gọi là cát nóng, đá nóng .

Vì cớ sao ?

Vì đó là giống cát, giống đá, không phải là bản nhân của cơm vậy . Ông đem thân dâm cầu diệu quả của Phật, dầu được diệu ngộ, cũng chỉ là gốc dâm, cội gốc đã thành dâm, thì phải trôi lăn trong tam đồ, chắc không ra khỏi, con đường nào tu chứng Niết Bàn Như-Lai ? Chắc phải khiến cho thân tâm đều đoạn hết giống dâm, cho đến tánh-đoạn cũng không còn nữa, thì mới trông mong chứng quả Bồ-đề của Phật . Như lời tôi nói đây, gọi là lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là lời nói của ma Ba-tuần".

Câu trên đây trích nguyên văn lời Kinh dạy . Đức Phật gọi đây là quyết-định thứ nhứt của các Đức Như-Lai Tiên-Phật Thế-Tôn.

Tới đây chúng ta thấy có ba từng lớp:

1. Một là phải vượt qua giai-đoạn đầu của "Mật Nhân Tu Chứng Liều-Nghĩa, Bồ-Tát Vạn-Hạnh" Là phải biết dùng "căn tánh", khi sáu căn tiếp-xúc với sáu trần . Nếu chưa biết được thì chưa bước được vào cửa ngõ của "Diệu Sa-ma-tha", thì vẫn còn ở "Thiền của phàm phu" ngoại đạo .

2. Hai, khi biết áp dụng "tánh căn", thì vượt lên từng thứ hai, bước vào dòng Thánh, áp dụng "Tứ trọng giới" tức 4 giới cấm căn bản của Như-Lai Tiên-Phật Thế-Tôn, là trừ tâm Dâm, tâm Sát, tâm Thâu đạo, tâm Vọng ngữ. Đây không phải là 4 danh từ suông, mà trong mỗi một điều nếu còn một tí tơ hào cũng không qua được. Đơn cử một vài thí dụ thật nhỏ, nếu một người nói pháp mà

trong đó có một chút xíu ẩn ý lợi dưỡng (tức là gây chút lợi để nuôi dưỡng mình cũng là không được, là thâu đạo), hay thí dụ khác, một đề cao pháp môn tu của mình khi giảng pháp, dùng Kinh giải-nghĩa sai ý Phật (dù là cũng giảng Kinh) cũng sẽ kohng^ thể được, sẽ phạm vào giới "đại vọng ngữ", thế gian gọi là "không trung thực". Nhứt thời người giảng pháp được nhiều người theo vì họ không hiểu biết, nhưng phạm một trong bốn trọng giới, cửa địa-ngục khó thoát .

Vượt thắng bốn trọng giới này thì mới được "cái định" của nhà Phật. Đừng bao giờ nghĩ ngồi Thiền, mà chẳng giữ đúng 4 giới Thủ-Lăng-Nghiêm, chẳng những không được cái gì, mà còn mang hoạ .

3. Ba, nếu qua được 4 trọng giới cấm, sẽ bước lên tầng cuối cùng, sẽ tiến vào Bồ-Tát đạo, thực hành Vạn-hạnh, để sau ba đại A-tăng kỳ kiếp trở thành "Bổ xứ Bồ-Tát".

Vậy, trừ chư Tăng Ni xuất gia, chư Phật tử còn sống với gia-đình vẫn còn quay lăn trong dâm dục, không thể tu thiền định để có được kết quả tốt ? Đức Phật nói thật rõ: "Ông đem thân dâm cầu hiệu-quả của Phật, dầu được diệu-ngộ, cũng chỉ là gốc dâm, cổi gốc đã thành dâm, thì phải trôi lăn trong tam đồ" (Tam đồ tức là Địa ngục, Nga quỷ, Súc sanh). Chắc không ra khỏi, con đường nào tu chứng Niết Bàn Như-Lai ?

Tuy nói là Tăng Ni xuất gia có thể tu thiền định, nhưng trong khi hạ thủ công phu cũng đòi hỏi phải đúng pháp thiền định thì mới mong thành công. Phật lại dạy phải niệm chú Thủ-Lăng-Nghiêm thì mới vượt khỏi ma-chướng. Xin hãy đọc lời giảng thật rõ ràng của Hoà-Thượng Tịnh-Không .

"Giới là phương-tiện đi trước của định tuệ cũng tức là căn bản của tu tịnh khai tuệ . Nếu như không có tịnh giơi, cái tiêu chuẩn của tịnh phải theo lời dạy của Phật trong Kinh nầy".

Quý vị học Phật đồng tu của chúng ta.

Ở đây, tu pháp môn niệm Phật chiếm đa số . Có người niệm Phật vì sao không được nhứt tâm bất loạn; thậm chí chúng ta đem tiêu-chuẩn này hạ thấp xuống dưới một tí, là công phu thành một mảng . Niệm Phật đã bao nhiêu năm nay công phu thành một mảng cũng không đạt được . Tham thiền thì không được thiền định . Học giáo cũng không được viên giải . Nguyên nhân này ở chỗ nào ?

Chúng ta từ trong truyện ký, chư vị cổ đức xưa kia bất luận xuất gia hay tại gia, tu đạt cảnh giới này hầu như không khó . Thời gian cũng không quá dài . Người lợi căn thì ba năm, năm năm thì đạt được . Người độn căn thì mười năm, tám năm. Những người thành tựu rất nhiều . Vì sao chúng ta hôm nay không đạt được ? Tỉ mỉ để truy cứu cái nguyên nhân của nó thì chẳng khó hiểu được. Mà là, chúng ta từ nơi công tác cơ bản chưa làm được tốt . Như là cất nhà nền móng không xây được vững. Tuy là cố gắng cất lên, cố gắng chẳng đặng thành công. Đạo lý là ở chổ này.

Nhứt là người thời nay học Phật rất là tân thời. Không những trong nước rất tân thời, mà ở nước ngoài cũng rất tân thời. Đối với Kinh luận họ rất ưa thích, nhưng khi nói đến giới luật thì lắc đầu. Vả lại, đối với giới luật lại con có một từng hiểu lầm .

Hiểu lầm như thế nào ?

Họ đều cho rằng giới luật là quy phạm của sanh hoạt. Nói đến giới luật là nghĩ đến ba ngàn năm về trước, là quy phạm sanh hoạt của người Ấn-Độ thuở xưa, không thích hợp với người hiện đại. Vì vậy, cho nên chúng ta đem giới luật bỏ mất . Cho dù còn lưu lại một vài hình-thức cũng chẳng thật tình để thể hiện. Dĩ-nhiên cũng chẳng thiết tha để thi hành . Đây là vì sao chúng ta chẳng có được công phu thành một mảng; tham thiền vì sao chẳng được thiền định ?

Nguyên nhân căn bản là ở chỗ này .

Cho nên phần chú giải của Giao Quang Đại sư là do Giao Quang Đại sư làm ra. Vừa mở đầu là nói với chúng ta:

"Đây là căn bản của định tuệ . Tiền phương tiện là căn bản . Thông thường hể nói đến giới luật đều là nói Sát-Đạo-Dâm. Đem việc không sát sanh đặt ở điều một. Ngũ giới nó là giới thứ nhứt. Tám giới, nó cũng là thứ nhứt . Bồ-Tát giới nó vẫn còn thứ nhứt. Do đây có thể biết trên hội Lăng Nghiêm. Phật vì chúng ta tuyên nói tứ trọng giới là đem Dâm Giới đặt ở thứ nhứt . Thứ lớp là Sát, Đạo, Vọng .

Tại sao tuần tự đối với các giới luật thông thường không giống nhau?

Giao Quang Đại sư ở đây cũng vì chúng ta mà nói rõ. Chư Phật Bồ-Tát tiếp dẫn tất cả chúng sanh là lấy từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa. Tôi nghĩ điều này các đồng tu đều biết (buổi giảng giải của Pháp sư Tịnh-Không có nhiều Pháp sư. Đại Đức Tăng Ni cả Thiền lẫn Tịnh tham dự ). Từ bi làm gốc, không sát sanh tức là bi chơn thật. Cho nên đem không sát sanh đặt vào điều thứ nhứt . Còn sự thành hình của Kinh này thì khác . Bộ Kinh này chơn duyên của nó rất là đặc thù . Giáo khởi nhơn duyên cùng các Kinh khác không giống nhau, là do Ngài A-Nan khải thỉnh, cùng với sự tu học của A-Nan có quan hệ mật thiết. Kinh Lăng Nghiêm nhơn duyên pháp khởi, A-Nan, chúng ta được biết là thị quả của Đức Thích Ca. Trong các đệ tử của Phật, Ngài là đa văn đệ nhất . Lại là người được truyền thừa Phật pháp . Chúng ta hôm nay có duyên đọc được rất nhiều Kinh Phật đều là do A-Nan kết tập, lưu truyền cho hậu thế. Công đức của Ngài đối với chúng sanh ở hậu thế, thật là vô cùng lớn lao.

Do bởi đa văn nên đối với tu hành Ngài đã xao lãng mất . Quý vị nên biết Phật pháp là giải môn và hành môn. A-Nan lại chú trọng ở Giải môn (tức là chú trọng ở Kiến Giải).

Chú trọng nơi Kinh giáo, xao lãng việc tu học chân chánh . Còn hành môn là tu cái gì ? Điểm

này bất luận các vị đồng tu tại gia hay xuất gia đều phải hiểu rõ. Tu học Phật pháp đều là một chữ "định". Bất luận là Pháp môn nào, Tông phái nào, tất cả tu đó đều là "thiền định". Cho nên quý vị đừng hiểu lầm Thiền Tông mới là tu thiền định .

Còn những Tông phái khác không phải là thiền định sao? Chỉ là các Tông, các Phái dùng danh xưng không giống nhau.

Thiền Tông gọi là định .

Tịnh Độ Tông gọi là Nhứt tâm bất loạn. Nhứt tâm bất loạn tức là thiền định .

Trong giáo hạ gọi là chỉ quán .

Tông Thiên Thai có Thiên Thai Ma-ha chỉ quán, Thiên Thai Tiểu chỉ quán .

Hiền Thủ Tông Hoa Nghiêm có Pháp giới quán,

Danh xưng không giống nhau, kỹ thuật đều là tu định . Nói một cách khác, tất cả đều là trong nhứt tâm. Nhứt tâm tức là định.

Trong hội Lăng Nghiêm, chúng ta xem 25 Viên Thông chương. Hai mươi lăm vị Bồ-Tát này, đại biểu những tông phái khác nhau. Tuy tông phái khác nhau, phương pháp khác nhau; họ tu đó đều là Thủ-Lăng-Nghiêm Đại-Định. Đây là nói rõ với chúng ta, trung tâm tu học Phật pháp là "định".

Giới là giúp cho chúng ta được định, là điều kiện quan-trọng. Bỏ giới mà được định là tuyệt đối không thể được. Nếu như có thể được, thì Phật đối với giới luật chẳng cần nhấn mạnh với chúng ta làm gì .

Đối với chúng ta chẳng cần nghiêm khắc như vậy .

Có thể nói, Giới là cơ sở chơn thật duy nhứt để tu định, chúng ta không thể không coi trọng .

A-Nan do bởi xao lãng việc tu định, đối với lý luận thì Ngài rất thấy hứng thú, ngày ngày đều nghiên cứu giáo lý . Vậy nên, khi gặp phải Ma-đăng-già nữ thì lại gặp nạn . Nếu chính mình có định, có tuệ thì Tiên-Phạm -Thiên chú của Ma-đăng-già nữ không thể câu thúc được A-Nan. Là vì công phu định tuệ của Ngài chưa đủ, cho nên gặp phải nạn này .

Thế Tôn biết được việc này, sau khi Ngài ứng cúng tại hoàng cung, thông thường sau đó đều phải thuyết pháp; nhưng Ngài lật đật trở về giúp đỡ cho A-Nan.

Vì vậy Tôn giả A-Nan lần này mới thật sự giác-ngộ, do không có tu hành . Đây là có giải (kiến

giải) mà không có tu hành cũng vô dụng thôi.

Khi anh tu hành chơn chánh, trong giới luật giới Dâm là đệ nhứt . Tất cả chúng sanh - đây là nói chúng sanh trong lục đạo - đều lấy dâm dục mà chứng sanh mạng . Anh vì sao ở trong lục đạo đầu thai, xả thân và thọ thân, là vì cái niệm này chưa dứt . Nói một cách khác, niệm này không dứt (tức là niệm Dâm) thì không ra khỏi Tam giới . Quý vị nên nhớ cái niệm Dâm về sự tuy không có - Sự không có vẫn chưa được . Anh có cái niệm là không được rồi . Niệm thô tuy không có, nhưng anh còn có cái niệm tế vẫn không được .

Phật trong các kinh luận thường nói: "Tài, sắc, danh, thực, thuỳ ....Dâm dục là sắc, cái sắc trong ngũ dục nói đến và cái sắc trong ngũ uẩn không giống nhau. Cái sắc trong ngũ uẩn là nguyên trọn cả vật chất; lấy chữ này làm đại biểu còn cái sắc trong ngũ dục là chỉ sắc dục của nam nữ, chỉ cho dâm dục là năm cái gốc của địa ngục .

Tất cả lục đạo chúng sanh không lọt khỏi Tam giới luân hồi . Phật nói với chúng ta, nhứt định thời gian trong tam ác đạo (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh) thì dài, tam thiện đạo thì ngắn (Trời, A-tu-la, Người thì ngắn).

Trong Kinh có một tỷ dụ nói rằng: "đầu xuất đầu mọc, đem Tam giới ví dụ cho biển khổ". Chữ đầu xuất tức là dưới đáy biển ló đầu lên, hô hấp một luồng không khí tươi mát, thời gian này rất ngắn, nhào lộn một cái thì lại lặn hụp xuống dưới . Phía dưới là Tam ác đạo, phía trên là nhơn thiên hai đạo . Tỉ dụ này là để nói rằng: lục đạo chúng sanh chúng ta, ở trong hai đạo nhơn thiên thì rất ngắn, cơ hội rất ít . Ở trong Tam ác đạo thời gian rất dài, cơ hội rất nhiều .

Nguyên nhân là ở đâu? Là tham trước tài, sắc, danh, thực, thuỳ . Tham trước ngũ dục, lục trần .

Trong ngũ dục nghiêm trọng nhứt là sắc . Cho nên Phật ở chỗ này, cái thứ nhứt là đem cái nhân tố sanh tử, cái nhân tố chủ yếu nhứt vì chúng ta mà đề ra, chỉ dạy cho chúng ta: nếu quả thật muốn trong một đời vượt khỏi dục đạo luân hồi, thì anh tất phải tuân thủ, "Niệm Phật cầu sanh Tịnh Đồ", cũng chẳng khỏi rời nguyên tắc này . Nếu cái niệm này (tức cái niệm Dâm) không dứt thì dù công phu niệm Phật của anh dù hay hơn, cũng không thể vãng sanh.

Là nguyên nhân gì ?

Anh có một sợi dây buộc vào thế giới Ta bà. Sợi dây này khi chưa cởi ra, Phật A-Di-Đà có vẫy tay tiếp dẫn anh, anh cũng chẳng đi được, vì có người ở chỗ này đang lôi kéo anh, tức là cái vọng niệm lôi kéo anh, khiến anh không thể vãng sanh. Vì thế phải đem nó dứt cho sạch.

Cho nên ở Kinh này, vừa mở đầu, Đức Phật đem cái căn bản sanh tử nói ra: "Nếu lục đạo chúng sanh trong các thế giới". Câu này chúng ta tuyệt đối không thể hàm hồ, sống sượng mà xem sơ qua. Các thế giới chẳng phải là cái Ta bà thế giới của chúng ta. Nói một cách khác, Thập phương

Tam Thế nhứt thiết chư Phật Thế giới, chỉ cần có lục đạo chúng sanh, thế giới ấy đều là tình trạng này, đều không thể lìa khỏi nguyên tắc này .

Phật nói:

"Cái Tâm không dâm, trong tâm thật sự đem cái niệm dâm dục đoạn dứt sạch sẽ, không còn nữa thì họ sẽ không đi theo dòng sanh tử nối tiếp". Sanh tử nối tiếp tức là lục đạo luân hồi . Nói một cách khác, họ không theo, tức là vượt khỏi sanh tử luân hồi rồi .

Giờ đây chỉ biết, chỉ cần niệm này chưa dứt (tức là cái tâm dâm) thì nhất định họ không ra khỏi Tam giới, nhất định phải còn tiếp tục sanh tử luân hồi .

Đây là Phật đem chân tướng chúng ta một đời nói toạt ra hết . Chơn tướng thật sự này, những người biết đến thật sự thời quá ít . Quá ít!

Điều này quý vị nhất định phải biết . Chơn tướng sự thật đã nói ra rồi .

Hoà -Thượng Tịnh -Không nói tiếp, xin xem tiếp Kinh văn ở dưới:

"Ông tu phép tam muội, để ra khỏi trần lao. Nếu không trừ lòng dâm, thì không thể ra khỏi trần lao được".

Chữ ông ở đây là gọi A-Nan, đồng thời cũng là gọi chúng ta. Chúng ta ngày nay niệm Phật. Niệm Phật hy vọng được nhất tâm bất loạn . Nhất tâm bất loạn gọi là Niệm Phật Tam Muội. Thật tế mà nói, công phu cạn, công phu thành một mãng đều được gọi là Niệm Phật Tam Muội. Niệm Phật Tam Muội là tên gọi chung, lấy công phu cạn sâu mà chia ra. Thông thường chia ra thành ba hạng. Cạn nhất là thành một mảng, câu phương ngôn thành phiến (trong câu "đả thành nhứt phiến", lời Tịnh-Hải); kế đến là sự nhất tâm bất loạn; cao nhất là lý nhất tam bất loạn. Tất cả đều gọi là Niệm Phật Tam Muội.

Chúng ta cũng đang tu Niệm Phật Tam Muội .

Tu Niệm Phật Tam Muội mục đích là ở chỗ nào ? Là phải vượt khỏi Tam giới . Trần lao là đại danh từ của Tam giới và lục đạo. Trần là ô nhiễm. Tam giới lục đạo thường làm ô-nhiễm chơn tâm bản tánh của chúng ta. Cho nên dùng chữ trần lao để đại biểu. Chữ lao là phiền não. Vậy thì chúng ta biết, trong Tam giới đã chứa đầy kiến tư phiền não. Nếu kiến tư phiền não không dứt thì ta không ra khỏi Tam giới .

Thiền định của thế gian là tứ thiền bát định . Công phu thiền định tuy rất sâu, vẫn không ra khỏi Tam giới . Nhứt định phải đến cái định thứ 9. Cái định thứ 9 thì đem kiến tư phiền não đoạn dứt, vượt khỏi Tam giới . Cũng tức là như đoạn trên Phật nói: "Sát Đạo Dâm Vọng ngay cả cái niệm

cũng không có". Thật vậy, vọng tưởng đã dứt như vậy mới được ra khỏi Tam giới . Nếu như tâm Dâm không trừ, thì không ra khỏi trần lao, nói một cách khác, ra không khỏi lục đạo luân hồi .

Có một vị đồng tu bảo: "Việc này quá khó!"

Đúng là khó !

Trong Tịnh Độ Tông nói "đới nghiệp vãng sanh", vị đồng tu ấy hỏi tiếp: "Cái niệm này của tôi chưa dứt có vãng sanh được không ?"

Ở đây tôi xinh thành thật thưa với quý vị:

- Đoạn có hai loại. Một loại gọi là diệt đoạn, một loại gọi là phục đoạn. Phục tức là đem nó đè xuống. Tuy nó có niệm, nhưng nó không khởi tác dụng. Diệt đoạn thì khó, nhưng phục đoạn thì dễ . Cái trong Kinh nói là diệt đoạn . Vì Kinh này chẳng phải đối với Tịnh Độ Tông mà nói . Nói một cách khác, tu các pháp môn khác, phải diệt đoạn mới ra được khỏi Tam giới . Còn tu phap môn Niệm Phật, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, không diệt đoạn cũng được, chỉ cần phục đoạn .

Phục đoạn bằng cách nào ?

Dùng một câu A-Di-Đà Phật đem cái niệm này khống chế nó . Có người ví như lấy đá đè cỏ . Pháp môn khác là chặt cỏ, nhổ gốc . Cái đó dĩ nhiên là rất triệt để .

Còn Tịnh Độ Tông chẳng cần chặt cỏ nhổ gốc . Chỉ lấy cục đá đè lên là được . Không còn thấy nữa, như vậy là được . Nó không khởi tác-dụng nữa . Như vậy là được vãng sanh. Cho nên sự thành tựu của Tịnh Độ Tông so với các môn phái khác dễ dàng hơn.

Chúng ta thật tình mà thôi, cảnh giới này trong một đời này, chúng ta không dễ gì thành tựu . Vọng niệm của ngũ dục, lục trần - đối với người tu thiền định - đoạn dứt thật là khó khăn; nhưng một câu Phật hiệu niệm được đắc lực, đem niệm này đè lấp nó, tôi nghĩ mỗi người đều có thể làm được . Đây là chỗ thù thắng không chi sánh bằng của Pháp môn Tịnh Độ .

Anh đoạn dứt càng sạch thì càng thù thắng . Khi nãy đã nói, khi chúng ta có thể đè bẹp được phiền não thì đới nghiệp vãng sanh vào "Phàm Thánh Đồng cư Độ". Nếu chúng ta có thể đem phiền não đoạn dứt, thì vãng sanh Cực Lạc thế giới sẽ là Thật Báu Trang Nghiêm Độ .

(Xin lưu ý hai chữ phục đoạn và diệt đoạn dứt nói trên đây. Lời Tịnh-Hải).

Hoà-Thượng Tịnh-Không nói tiếp:

- "Tu học các Pháp môn khác, đem vọng niệm đoạn dứt như trong kinh nói trên thật đã thành tịnh, tánh diệt cũng không thì cảnh giới của nó mới là cảnh giới Phương Tiện Hữu Dự Độ vì vô minh chưa hết gọi là hữu dư. Còn Tịnh-Độ Tông của chúng ta muốn có cảnh giới này thì đạt đến Thật Báu Trang Nghiêm Độ .

Bây giờ xin nghe Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng tiếp đoạn Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm:

"Nếu như anh không đoạn dứt lòng dâm không những không ra khỏi tam giới, chắc phải đoạ vào loài ma, yêu ma quỷ quái: Dù có nhiều trí thiền định hiện tiền, nếu không đoạn lòng dâm, tức phải lạc vào ma đạo".

Trí từ đâu mà có được ? Dĩ-nhiên nhất định chẳng phải là trí tuệ chơn thật . Chúng ta biết được trí tuệ chơn thật từ thanh tịnh tâm mà sanh ra. Là từ chơn tâm bản tánh lồ lộ ra. Đó là Trí-tuệ Bát-Nhã . Còn trí-tuệ nói ở đây, tức là trong Phật pháp thường nói, Thế-trí Biện-Thông, đó là thông minh trí-tuệ của thế gian. Họ có thiền định hiện-tiền là thiền định thế gian. Nếu như ta học được Vô Cùng Như Pháp, đó tức là như trong Kinh nói Tứ Thiền Bát định, thiền định này khi nó hiện tiền những người thế gian thông thường như chúng ta nếu thấy được cũng vô cùng tán thán ... Giả tỷ như khi họ nhập định có thể mười ngày nửa tháng không xuất định . Thậm chí những người công phu thiền định sâu hơn, khi nhập định có thể hai ba tháng mưới xuất định. Vậy thì chúng ta gặp những hạng người này nhứt định 5 vóc sụp xuống đất bội phục đến tột cùng . Họ thật có công phu. Đây là hạng đạt được thiền định.

(Tứ Thiền Bát Định có nghĩa: Tứ Thiền là Tứ Thiền của trời sắc giới . Bát Định là Trí vô sắc định của trời vô sắc giới . Theo Phật học Từ Điển Hán- Việt ).

Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng tiếp:

- "Đây là hạng được thiền định . Nhưng được thiền định này có ra khỏi Tam giới không ? Không! Nếu như họ có công phu đó, quyết tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, đó thì nhứt định thành công, nhứt định được vãng sanh. Nếu như họ không cầu vãng sanh Tịnh-Độ, tương lai họ sẽ vãng sanh Sắc giới Thiên và Vô Sắc giới thiên, nhưng không thể ra khỏi Tam giới . Nếu như "niệm Dâm" của họ không đoạn, thì họ sẽ rơi vào "Ma đạo" mất . Điều đó là vô cùng, vô cùng đáng tiếc!

Đặc trưng của ma là gì ? Chúng ta dùng phương pháp gì để biết nó là ma ? Phần trước đã nói với quý vị, ma không đáng sợ, quan trọng anh phải nhận biết nó . Anh nhận biết nó, sẽ không bị nó làm hại . Nó cũng không làm chướng ngại anh. Nếu anh không nhận biết nó, thì anh sẽ bị mắc lừa, anh sẽ bị nó hại . Nó sẽ làm chướng ngại cho anh. Đặc trưng của ma là tâm dâm không dứt . Đây nhứt định là ma, cho dù mang mấy chiều bài của Phật, niệm dâm hạnh dâm không dứt, thì chúng ta biết liền . Đây là ma vương xuất hiện .

Hạng trên thành Ma Vương.

Hạng trên là người công phu thiền định sâu (mà còn tâm dâm). Nó có công phu thiền định, nó cũng có trí tuệ, thậm chí nó giảng Kinh nói pháp cũng lớp lang đàng hoàng, thật cũng có thần thông. Có định tức là có thần thông. Thần thông này, theo như Kinh Lăng Nghiêm nói là hai thứ nguyên lai. Một thứ là từ trong thiền định sanh ra. Còn thứ hai là ma nhập vào thân. Thần thông này là chẳng phải của người đó, mà ma nhập vào thân người đó . Ma mà rời khỏi thì năng lực thần thông cũng mất hẳn . Cho nên thần thông có hai loại . Phật, Bồ -Tát tuyệt đối không dùng thần thông làm Phật sự . Nói một cách khác không dùng phương-pháp này tiếp dẫn đại chúng .

Hạng giữa thành ma dâm, hạng dưới thành ma nữ . Các bọn ma kia cũng có đồ chúng . Mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô thượng. Những loại yêu ma quỷ quái này trong xã hội hiện nay của chúng ta, trong Kinh Lăng Nghiêm nói rất rõ ràng . Các ...loại Tà sư nói Pháp như hằng -hà sa. Tức là trong thời đại này, những loại người này thật nhiều, thật nhiều . Nếu chúng ta không nhận biết chúng nó, học Phật mà theo học với chúng nó thì không thể nào thành tựu . Đến cuối cùng dù cho anh học rất giỏi cũng trở thành Ma vương, Ma dâm, Ma nữ, thì thật là quá đáng tiếc . Chúng nó tự xưng là chúng đã thành Phật rồi, cũng đã thành Bồ-Tát rồi, hoặc tự bảo chúng ta là Phật Bồ-Tát tái thế . Trong giáo pháp của chúng không cấm ý-chí dâm dục . Chúng không cấm, thậm chí còn tán thán, thì phiền phức càng phiền phức hơn.

Xin xem tiếp đoạn kinh dưới và xin nhắc lại trong sách này những chữ đậm đứng là lời Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm:

Sau khi ta diệt độ rồi, trong đời mạt pháp, có nhiều bọn ma này sôi nổi trong thế gian, gây nhiều việc tham dâm, lại giả làm người Thiện -Tri-Thức . Phật nói rất minh bạch, nói rằng: sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni diệt độ, pháp vận của Phật là một vạn hai ngàn năm, chia ra ba thời . Thời kỳ thứ nhất gọi là Chánh pháp, là sau khi Phật diệt độ một ngàn năm. Lúc này Phật pháp vô cùng thuần tịnh không có biến chất. Một ngàn năm thứ hai, Phật pháp dần dần biến chất, không còn thuần nữa, gọi là Tượng pháp, tượng là tượng tợ, vẫn còn giống vẻ ấy, tương tợ nhưng không hoàn toàn giống . Đến một ngàn năm thứ ba và về sau, là Mạt pháp; Phật pháp càng truyền càng biến chất với một mức độ lớn . Mạt pháp có một vạn năm. Sau một vạn năm Phật pháp ở trên thế gian này hoàn toàn tiêu mất hết, không còn nữa gọi là Diệt pháp, cần phải một vị Phật khác ra đời; Ngài giảng Kinh thuyết pháp thì thế gian này mới có Phật pháp . Vị Phật sau đó là Di-Lặc Bồ -Tát .

Trong Kinh Di-Lặc Hạ sanh, Đức Thích Ca Mâu Ni Phật nói với chúng ta rất rõ: lấy năm tháng của thế gian mà tính, phải 56 ức mấy mươi vạn năm Di-Lặc Bồ-Tát mới đến thế gian chúng ta thành Phật . Do đây có thể biết, thế gian này thời gian có Phật rất ngắn; thời gian không có Phật rất dài . Hiện nay là mở đầu của một ngàn năm thứ ba. Nói một cách khác, Mạt pháp vẫn còn chín ngàn năm. Mạt pháp là chỉ đời này của chúng ta, lại là có nhiều bọn ma dâm này sôi nổi trong thế gian gây nhiều việc tham dâm, lại giả làm Thiện-Tri-Thức .

Trong ba bốn mươi năm về trước còn có ít thấy . Nhưng trong hiện nay, trong nước cũng như hải ngoại, thường thường nghe thấy . Thậm chí vẫn có người đặc-biệt đề xướng song tu. Đó là như Kinh này nói đến, họ có phải là bực Thiện -Tri-Thức hay không ? Tự vỗ-ngực là Thiện-Tri-Thức, Phật không thừa nhận . Phật ở chỗ này dạy chúng ta. Bọn đó khiến chúng sanh rơi vào hầm ái kiến, bỏ mất con đường Bồ-Đề . Trên đây tức là bị nó hại . Kẻ bị hại rất nhiều . Chúng tôi đã từng gặp người bị hại chẳng ít . Có một số ít giác ngộ hồi đầu, thì là may mắn lắm . Vẫn còn một số chấp mê không ngộ . Vậy thì khó nói lắm, hậu quả không thể lường nổi . Thật là một sự kiện đáng sợ . Cho nên học Phật không thể không phân biệt cho rõ ràng .

Lời Tịnh -Hải:

Đây là chính điểm mà chúng tôi căn cứ vào Kinh Phật để chứng minh rõ ràng: "Chúng sanh thời Mạt pháp này không thể tu thiền định vì tâm dâm chưa dứt, như Phật dạy không thể lấy cát, đá mà nấu thành cơm .

Vậy thử hỏi có vị Phật tử nào dám tự cho rằng mình đã sạch tâm dâm không ? Như đã nói, Ta bà này là cõi do Ma Vương cai quản . Ma Vương muốn tất cả chúng sanh đều phạm dâm để rơi vào các ác đạo hầu làm quyến thuộc của Ma. Vì hiểu thấu điều này nên chúng tôi mới nói sự thật, khuyến cáo mọi người nên dựa vào thần lực của Phật, dựa vào đại nguyện của Đức Phật A-Di-Đà để - dù tâm dâm chưa dứt như Hoà-Thượng Tịnh-Không nói "phúc đoạn", lấy đá đè cỏ - dùng sáu chữ Nam Mô A-Di-Đà Phật vượt thoát khỏi thế lực Ma Vương mà đến cõi Tịnh-Độ Cực Lạc .

Còn như chúng ta không nghe lời Phật dạy, tu sai pháp môn, đến lúc lâm chung vẫn phải theo tình và tưởng mà thọ sanh. Không ai có thể cứu chúng ta hết . Nếu bình thường chúng ta biết niệm Phật theo lời dạy của Đức Phật Thích-Ca trong các Kinh Tịnh-Độ, thì chính chúng ta tự cứu mình . Có người nói, bao nhiêu người đòi Phật đến rước, thì bắt buộc Phật quá, mà Phật lấy thời giờ rảnh đâu ra để mà làm việc ấy ? Nói câu này chứng tỏ vị ấy, hoặc không nghiên cứu Kinh A-Di-Đà hoặc xuyên tạc Kinh A-Di-Đà .

Kinh Vô Lượng Thọ nói: "Các lổ chơn lông Phật A-Di-Đà tuôn ra ánh sánh như núi Tu-Di. Vòng ánh sáng nói thân Phật ấy, lớn như trăm ức đại -thiên Thế giới . Giữa vòng ánh sánh có trăm vạn ức na-do-tha Hoá Phật, nhiều như cát sông Hằng ...."

Đọc câu Kinh trên chúng ta thấy rõ, chúng ta đang sống ở đây chỉ là một tiểu thiên thế giới . Còn vòng hào quang nơi thân Phật A-Di-Đà lớn như trăm ức đại thiên Thế giới và giữa vòng ánh-sáng có trăm vạn ức na-do-tha Hoá Phật nhiều như cát sông Hằng . Như vậy hào quang của Đức Phật A-Di-Đà bao quanh khắp nơi, chiếu soi khắp nơi và Hóa thân Phật A-Di-Đà theo ánh sáng của Ngài luân chuyển bay đến khắp nơi, nên khi cúng ta niệm danh hiệu của Ngài, Ngài biết ngay (gọi là nhiếp thọ). Người nào siêng năng niệm danh hiệu Ngài, lúc gần lâm chung không cần cầu, Ngài cũng hiện đến báo trước ngày giờ . Vì Ngài lúc nào cũng gần với chúng ta đâu cần

phải cầu, phải đòi . Đây là lòng thương chúng sanh của Phật . Nên Kinh mới nói:

"Các Đức Như-Lai hiện ra nơi đời, mục tiêu chân chánh là không chỉ tuyên-dương diệu-pháp bí ảo sâu xa cho những bực Thánh -Giả, hiền nhơn, mà mục tiêu khẩn thiết nhất vẫn là nhằm cứu vớt các loại chúng sanh tội khổ, nặng về tình, nhẹ về tưởng".

Từ khi nghiên cứu các kinh Tịnh-Độ, chúng tôi hết sức quý trọng chư Tăng Ni, đã vì chúng sah mà suốt đời hoằng dương pháp môn Niệm Phật . Và thường tự hỏi những người chống đối niệm Phật là hạng người nào mà Phật đã nói trong Kinh? Mục đích những vị ấy muốn hướng dẫn chúng sanh đi về đâu ?

Nhơn đây, theo lời trình bày của Hoà-Thượng Tịnh-Không, chúng tôi hiểu rõ, người tu Thiền mà chứng được Tứ Thiền Bát Định, có khả năng nhập định nhiều ngày, từ một tuần đến đôi ba tháng, khi lâm chung vẫn chưa ra khỏi Tam giới . Vì được Tứ Thiền, mới chỉ lên tới cõi trời Sắc giới, thêm Bát định thì lên tới trời Vô sắc giới . Chưa ra khỏi Tam giới, nghĩa là vẫn còn phải luân hồi sanh tử . Mà còn luân hồi sanh tử, thì sau khi hưởng hết phước trời; nghiệp dư trong Tàng thức vẫn còn, thì gặp duyên ác vẫn phải đọa ác đạo .

Việc thứ hai mà chúng tôi hiểu, gần một ngàn năm trở lại đây, tức vào thời mạt pháp, hầu hết các Thiền sư khi gần chết đều quy hướng Pháp môn Tịnh Độ, nương vào Phật hiệu để vãng sanh Cực Lạc . Vì chư vị ấy tuy tu thiền được định rất cao như Trung-Hoa có các Tổ Tịnh -Độ, có Ngài Hám -Sơn, Quảng Khâm; Việt Nam có Ngài Giác Lập, nhưng xét lại biết mình chưa ra khỏi Tam giới, thì chỉ còn nhờ vào thần lực và nguyện lực của Phật A-Di-Đà mà xa rời ba đường dữ, Vãng sanh Tây Phương Cực -Lạc .

Đặc biệt có Đại lào Hoà-Thượng Hư Vân, công phu tu tập của Ngài không ai sánh bằng . Nơi chùa của Ngài, ai muốn tu Thiền thì qua khu dành cho người tu Thiền; ai muốn tu Tịnh thì ở khu tu Tịnh, riêng rẻ hai nơi.

Năm 1960, Ngài Hư vân thọ 120 tuổi, Ngài viết thư cho đệ tử khắp nơi từ chối lễ chúc thọ có những câu:

"Việc sống chết ta chưa biết ra sao...Một làn gió nhẹ thổi đến, thân này tan thành bụi . Chưa liễu ngộ được gì . Niệm niệm thẹn thùng vì hư danh...

Ngài rất thành thật với mình . Nhưng, ngài quyết tâm ở lại Ta bà để độ thoát chúng sanh, cho nên dù Ngài dạy để tử tu xưng niệm danh hiệu A-Di-Đà để cầu được vãng sanh, nhưng chính Ngài lại mong về cung Đâu Suất của Đại Bồ-Tát Di-Lặc .

Một ngày trước khi tịch, Ngài bảo thị -giả đem tượng Phật để lên quan tài ngài, ở phòng bên cạnh . Phương trượng cùng ba vị tăng tri sự vào thăm, ngài bảo cho người lên đại điện niệm Phật

. Trưa hôm sau, Ngài tự xuống giường và quỳ xuống đất lạy Phật . Đây là lần lạy Phật cuối cùng trong đời Ngài . Rồi Ngài ngồi kiết già mà niệm Phật . Hơn một giờ sau chư thị-giả vào xem thấy Ngài nằm thế kiết già mà thị tịch . Trong lễ trà tỳ, mùi hương lạ bay khắp núi . Hoả táng xong, tìm thấy hơn một trăm hạt xá -lợi và thấy một lằn khói trắng bay thẳng lên trời . Rõ ràng ngài đã sanh về cõi trời . Sau này Pháp sư Khoan Tịnh gặp Ngài ở cung trời Đâu Suất .

Đây là một Thiền sư mà trong đời chúng tôi kính phục .

CHƯƠNG BỐN: TẠI SAO TRONG QUÁ KHỨ ĐÃ TU, MÀ ĐẾN NAY VẪN CHƯA VÃNG SANH ?

Trở lại bài giảng của Pháp sư Tịnh-Không:

"Đại định là sự thành-tựu của thanh-tịnh tâm. Tâm không thanh tịnh làm sao thành tựu đại -định được ? Ông đem cái "Tâm Dâm", mà cầu diệu quả của Phật, đây là sai rồi . Phải dùng thanh tịnh tâm mới cầu được diệu quả của Phật . Kinh Vô Lượng Thọ, trên đề-Kinh Phật chỉ rõ chúng ta, cương-lĩnh của sự tu hành là "Thanh Tịnh Bình-Đẳng Giác". Đây là nói về những người chân tu (cả xuất gia lẫn tại gia), những người hy vọng trong đời này được thành tựu . Nói một cách khác, mỗi vị đồng tu có mặt tại đây đều là những người có thiện căn thâm hậu, cũng như Phật trong Kinh Vô Lượng Thọ có chỗ nói, từ vô lượng kiếp đến nay quý vị đã từng cúng dường Vô Lượng chư Phật Như-Lai. Nếu như không có thiện căn thâm-hậu như vậy thì hôm nay không thể nào, quý vị gặp đệ nhất pháp môn này, cho dù có gặp quý vị cũng không sanh được tâm hoan-hỷ, cũng không thể tín nguyện thọ trì . Do đây có thể biết, nghe được pháp môn này sanh tâm hoan-hỷ muốn học, tức là thiện căn trong vô lượng kiếp đã thành thục . Vậy là từ trong đời quá khứ quý vị đã tu học lâu dài, tại sao lại không thành tựu ?

Hôm nay học đoạn Kinh văn này chúng ta mới hóat nhiên đại ngộ . Cái niệm dâm dục của chúng ta vẫn chưa đoạn, bị nó làm chướng ngại cho nên không thành tựu được . Trong một đời này đem sự thật này giải-quyết rõ ràng, chúng ta nhất định phải đem chướng ngại này trừ bỏ . Tôi không có chướng ngại này, trong một đời nhứt định thành tựu, quyết định được sanh Tịnh-Độ Cực-Lạc . Một khi vừa sanh về Tịnh Độ, xin thưa với quý vị là trong một đời này viên thành Phật đạo . Không chỉ là nguyện vọng của chúng ta, mà cũng là hy vọng của Thập phương nhất thiết chư Phật đối với chúng ta. Chúng ta nếu thật sự làm được, là không cô phụ ơn đức của chư Phật Như-Lai; không cô phụ sự dạy dỗ của chư Phật Như-Lai. Cho nên nhứt định phải thể hội sâu xa cái nỗi khổ tâm mà chư Phật đã dạy dỗ chúng ta. Nhất định phải y giáo phụng hành .

Nếu như tu sai trên cái nhân, phía dưới nói: "Dù được diệu ngộ chỉ là gốc dâm". Có được diệu ngộ không ? Chắc chắn là có . Diệu ngộ này từ đâu đến ? Một cái là họ tu định . Như kinh này đã nói, họ không phải không có định . Họ thật sự có định, nhưng là thiền định của thế gian. Trí tuệ của họ so với những người thông thường cao hơn. Chúng ta, những người thông thường không bằng họ . Nguyên nhân thứ hai là nhiều đời nhiều kiếp, họ huân tu về nghe pháp . Trong quá khứ,

đời đời kiếp kiếp huân tu Phật pháp những cái này thành ra diệu ngộ . Tiếc thay cái gốc của phiền não (tức là tâm dâm) chưa dứt hết, họ học Phật cuối cùng thành Ma. Cái then chốt thành ra ở chỗ này . Cho nên Phật nói: "Cội gốc đã thành Dâm, thì phải trôi lăn trong Tam đồ . Chắc không thể ra khỏi ! Con đường nào tu chứng Như Lai Niết Bàn?"

Chỗ này ám chỉ những vị xuất gia mà vẫn liên-hệ đến dâm-dục .

Cội gốc đã thành dâm, thì đã đem Phật pháp vào chỗ sai. Dẫn vào chỗ sai có hai thứ:

- Một thứ là cố ý dẫn sai.

- Một thứ là vô-ý dẫn sai.

Bất luận là cố ý hay vô ý đều phải chịu lấy trách nhiệm nhân quả, tự mình uổng phí hết một đời.

Điều này không thể trách người khác. Đây là mình làm mình chịu. Dẫn sai đường cho đại chúng

tội lỗi này thật là ghê gớm lắm .

Chúng sanh có duyên gặp được Chánh-pháp, đời này rõ ràng họ có thể thành tựu (tức tu Tịnh-

Độ), anh lôi họ trở lại để tu theo pháp môn của anh (tu Thiền Định), rốt cuộc vẫn đoạ lạc vào

Tam ác đạo. Tội lỗi này nặng lắm. Cho nên một người mù dẫn đám người mù, lôi kéo nhau rơi

xuống hầm lửa . Hầm lửa là tỷ-dụ cho địa-ngục .

(Hẳn chư Liên hữu còn nhớ bài viết của chúng tôi nơi trang 318 của sách Lưu Xá-Lợi (toàn bộ)

có đoạn "Tại sao hướng dẫn sai cách tu hành làm hại vô số chúng sanh trong vô số kiếp ?" cùng

chung ý này và ở dưới đây sẽ nói rõ hơn).

Pháp sư Tịnh-Không tiếp: "Địa-ngục dễ đoạ lạc, nhưng rất khó ra khỏi".

Trong Kinh Lăng Nghiêm này, Phật vì chúng ta nói rõ chân tướng Thế gian pháp, vì chúng ta

giảng bảy thứ, mà đoạn địa -ngục này đặc biệt nói rất nhiều .

Thật ra dụng ý của Phật là đề ra cho chúng ta một sự cảnh cáo cao độ . Hy vọng chúng ta l ưu ý

cẩn thận . Nhất định không tạo tội nghiệp địa ngục . Những thứ này là tội nghiệp địa ngục .

Ngài Tịnh-Không trở lại câu kinh: "...Cội gốc đã thành Dâm, phải trôi lăn trong Tam đồ, thì

con đường nào tu chứng Niết-Bàn Như-Lai?"

Như-Lai Niết -Bàn nói một cách đơn giản tức là chứng thành Phật quả . Vậy con đường nào để

tu chứng ? Cội gốc đã thành "Dâm" nhứt định không thể thành Chánh quả . Đây là lời dạy bảo

thanh-tịnh rõ ràng, đệ nhất của chư Phật Như-Lai. Chúng ta sao có thể không tin! ? Sao có thể

không nhớ mãi, không quên! ? Ý giáo phụng hành !

Phía dưới, càng khai thị càng nhiều quan trọng. Kinh văn tiếp theo:

"Chắc phải khiến cho thân tâm đoạn hết giống Dâm, cho đến tánh đoạn cũng không còn

nữa, thì mới trông mong chứng quả Bồ-Đề của Phật".

Câu nói này, quý vị đồng tu nhứt định phải niệm thêm nhiều lần, ghi nhớ mãi trong lòng . Đây là

Phật đối với những người muốn viên mãn thành Phật trong một kiếp này .

Đề ra lời yêu cầu của Ngài, không những là dâm cơ, tức là hạt giống dâm, chữ cơ là động cơ, rất

là ý niệm . Không những thân phải đoạn, tâm cũng chẳng có, thân tâm đều đoạn, nếu quả thật đã

đạt đến cảnh giới này, chúng ta niệm Phật: sự nhất tâm sẽ chứng được . Nếu như đạt được cảnh

giới như dưới đây, tánh đoạn cũng không còn, đó là chứng được lý nhất tâm bất loạn . Lý nhứt

tâm bất loạn, khi vãng sanh Cực Lạc là "Thật Báu Trang-Nghiêm Độ", là "Thượng Thượng Phẩm

Vãng Sanh!".

Chúng ta cho dù không thể làm nỗi "Tánh đoạn cũng không còn", nhưng nhứt định sẽ làm

được: "Thân tâm đều đoạn".

Việc này nói thì dễ, làm thì rất khó khăn .

Nguyên nhân tại đâu ?

Nguyên nhân là tập khí trong kiếp vô thỉ . Tập khí phiền não . Người học Phật như chúng ta biết

đó là không tốt, rất muốn đoạn trừ nó . Nhưng vẫn cứ không thể đoạn, vẫn còn có ý niệm này

hiện tiền . Đây là tập khí phiền não trong kiếp vô thỉ đang cản trở . Chẳng phải khả năng chính

mình có thể khống chế nỗi .

Nhưng nếu nó di hại sâu như vậy, thì phải làm sao ?

Tịnh -Độ Tông dạy chúng ta niệm câu Phật hiệu:

- Thứ nhứt không tạp nhạp, không gián đoạn .

- Phật hiệu có sức mạnh, có thể đè lên nó đem Phật hiệu đè nó xuống . Huống hồ trong đại Kinh

thường nói: "Ta niệm Di Đà . Di Đà niệm ta. Ta nghĩ Di Đà, Di Đà nghĩ ta, tự nhiên được

bổn nguyện, oai thần của Đức A-Di-Đà gia trì, khiến cho phiền não từ trong kiếp vô thỉ của

chúng ta tự nhiên không sanh ra".

Đây đều là cái cảm ứng tất nhiên do chơn tâm, chọn niệm mà có được .

Cảm ứng lớn nhỏ, cảm ứng rõ ràng hay không là ở nơi tín nguyện chắc vững, khẩn thiết của

mình .

Nhứt tâm muốn rời khỏi Thế giới Ta bà, nhứt tâm cầu nguyện vãng sanh Cực Lạc, thì sức mạnh

cảm ứng sẽ rõ ràng . Phù hợp được tiêu-chuẩn này cùng với Phật, Bồ -Tát chúng ta đã có hy

vọng, thì mới trông mong chứng quả .

Áp dụng vào Tịnh Độ Tông thì nhất định vãng sanh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới . Phẩm vị

cao thấp là do công phu tu trì của anh cạn hay sâu.

Cái gọi là công phu cạn sâu thực tại mà nói là trình -độ thanh tịnh của tâm anh. Tâm càng thanh

tịnh thì công phu càng sâu, phẩm vị càng cao. Sự thật là như vậy .

Hoà -Thượng Tịnh -Không đọc tiếp Kinh văn:

"Như lời ta nói đây, gọi là lời nói của Phật . Không như lời nói đó, là lời nói của ma Ba

Tuần.

Ba Tuần là tên của Ma Vương.

Nếu như chúng ta thân cận một Thiện -Tri -Thức . Vị Thiện -Tri-Thức này dạy chúng ta, cùng lời

Phật nói trong Kinh Lăng Nghiêm giống nhau. Đây là lời Phật dạy . Đây là Thiện -Tri-Thức của

Phật môn. Chúng ta có thể gần gũi họ . Nếu lời hó nói cùng lời Phật khác nhau, thí dụ: "Không

đoạn dâm dục cũng có thể thành đạo vô thượng, thì đây là khác nhau. Không đoạn dâm

dục cũng có thể tu hành . Đây nhất định là mà nói, chẳng phải Phật nói".

Cho nên phần cuối Phật dạy chúng ta phân biệt; thế nào là Phật ? Thế nào là ma? Từ chỗ này rõ

ràng phân biệt đem đặc trưng của ma vì chúng ta mà nói rõ .

Lời thêm của Tịnh-Hải:

Trên đây là hết phần giảng của Pháp sư Tịnh-Không nói về giói thứ nhất là "dâm" trong 4 giới "Dâm" - Sát - Đạo - Vọng" mà Đức Phật dạy trong Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm. Đức Phật dạy người tu thiền định mà không đoạn dứt 4 giới cấm trnê đây không thể nào tu chứng Thành đạo, đạt được quả Niết -Bàn Như-Lai. Từ xưa đến nay, ít ai giảng giải tận cùng như Pháp-sư Tịnh-Không.

Ở đây chúng tôi xin nói về khía cạnh khác .

Hai câu hỏi cần được giải-đáp .

1. Tại sao chỉ có một chữ "dâm" mà Đức Phật cho rằng nếu người tu không "đoạn dứt" thì không thể chứng được Niết-Bàn Như-Lai ?

2. Tại sao chúng tôi quả quyết nói chúng sanh, tức là Phật tử, không nên tu thiền định ?

Vần -đề tiên quyết, tức vấn đề quyết định đầu tiên được đặt ra là chúng ta có tin lời Phật dạy trong Kinh hay không ?

Tại sao vậy ?

Vì từ lâu nay, chư Tôn Đức Tăng Ni giảng rất nhiều về lời răn dạy của Phật . Phật tử nghe chăm chú thích thú, công nhận thầy nói rất đúng (tức là đúng theo lời Phật dạy trong Kinh). Như Hoà-Thượng Tịnh-Không nói ở trước đây, nhiều người nghĩ rằng Phật nói đúng và đúng cho các đệ-tử Phật hồi thời kỳ ấy, chứ Phật đâu có nói với mình và tự cho mình được miễn giảm khỏi phải thi hành . Đa số không hiểu, khi mình đã quy y Phật, quy y Tam Bảo thì lời Phật dạy mình phải tuân theo. Lời Phật nói là nói chung cho người xuất gia và tại gia. Có những điều Đức Phật nói, nếu làm trái lại là mang tội phỉ báng Phật pháp, mang tội đoạ địa-ngục .

Chúng tôi thấy gần đây, có nhiều người cố ý giảng sai Kinh Phật nói, phủ nhận Kinh Phật nói . Những vị ấy không nghĩ đến sự tai hại cho bản thân mình và cho người nghe theo mình. Vì Thầy và trò cùng mang tội chê bai Kinh Phật nói, dèm chê pháp Phật dạy, thay vì giảng cho đại chúng nghe lời dạy của Phật, thì lại giảng cho đại chúng nghe điều chấp mê của chính mình .

Thay vì giảng pháp để cứu chúng sanh thoát khỏi luân hồi sanh tử mà lại làm cho người nghe rơi vào đường dữ .

Đức Phật nói rất nhiều về địa ngục, Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm Đức Phật đã giành gần một phần ba nói về địa ngục và 3 đường ác . Nhiều người không thích đọc, Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm vì đọc rồi sợ quá .

Nhưng không đọc cho hiểu, không có nghĩa là chuyện ấy không liên-hệ đến mình . Cuộc sống của chúng ta ở cõi đời này chỉ có vài chục năm đến hơn 100 năm. Nhưng cuộc đời địa-ngục, Ngả-quỷ, Súc-sanh lâu dài cả triệu lần hơn, tại sao chúng ta không lo sợ ?

Cuộc đời làm súc-sanh dài hàng trăm ngàn muôn ức kiếp, mà mỗi kiếp hơn 16 triệu năm, thật là đau đớn khủng khiếp tại sao chúng ta chẳng sợ chẳng lo ?

Hết kiếp súc-sanh có khi còn phải mang kiếp Ngạ-quỷ, rồi Địa-ngục. Có khi, sau Địa-ngục thật lâu xa trăm nghìn muôn ức kiếp, lại sang Ngạ-quỷ rồi Súc-sanh, nơi nẻo ác nào cũng trăm ngàn muôn ức kiếp .

Xin tất cả hãy nghĩ lại, chúng tôi chẳng có lợi lộc gì khi viết những sự thật này . Chẳng những chúng tôi không được đón nhận một cách vui vẽ, mà còn có thể bị ngộ nhận . Nhưng chúng tôi vì

tất cả mà chấp nhận tất cả, miễn sao có người nào hiểu và tránh thoát được đường ác là đủ rồi .

Nhưng làm sao chúng sanh hiểu được mình bị, hoặc thoát được địa -ngục ? Đây là điều khó giải thích, nhưng trong Kinh Phật nói rõ trường hợp đoạ địa-ngục của Đề Bà Đạt Đa, của Tỳ kheo Thiện-Tinh, khi vừa lâm chung là rơi xuống địa-ngục liền . Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ nơi phần Hạ Phẩm Trung Sanh có nói như sau:

Hoặc có chúng sanh huỷ phạm năm giới, huỷ phạm tám giới và Cụ túc giới, người ngu như thế ăn trộm những vật thuộc của Thường-trụ, ăn cắp những vật hiện tiền tăng, bất tịnh nói pháp không biết hổ thẹn, dùng các nghiệp xấu để tự tô điểm. Tội nhận như vậy, bởi nghiệp ác nên đáng đoạ địa-ngục .

Đọc đoạn kinh này chúng ta hiểu rõ, kẻ làm ác hoặc huỷ phạm Chánh-pháp, bất tịnh nói pháp, khi dứt hơi thở lửa địa ngục hiện đến ngay, người đó liền đoạ vào địa-ngục .

Có những người nhất thời, vì không hiểu biết hoặc biết mà khinh thường lời Phật dạy bị đoạ vào đường dữ; có người vì quá tin vào Ác-Tri-Thức tưởng là Thiện-Tri-Thức mà phải đoạ thật đáng tội.

Tại sao tu theo Phật mà có tội ?

Vì Kinh Phật nói rất rõ ràng, như Hoà -Thượng Tịnh -Không giảng dạy trước đây . Chúng tôi xin tóm ngắn đại ý dưới đây:

"Tu Phật tức là tu vượt khỏi Tam giới, tâm phải thật sự hoàn toàn thanh tịnh, nên chương Kinh được gọi là THANH-TỊNH MINH-HỐI Chương, có nghĩa là Thanh-Tịnh rõ ràng . Có nghĩa là người muốn tu chứng liễu-nghĩa, đạt đến Niết Bàn cõi Phật phải giữ 4 giới quyết -định . Giới thứ nhất là Dâm, kế đó là Sát, Đao, Vọng . Chỉ một giới Dâm đã là khó khăn rồi . Phật tử tại gia vợ con đùm đề, làm sao tu thiền định ?

Kinh nói rõ:

"Ông tu phép Tam-Muội cốt để ra khỏi trần-lao, nếu không trừ lòng dâm, thì không thể ra khỏi trần-lao được . Dầu có nhiều trí-thiền định hiện-tiền, nếu không đoạn lòng dâm, cũng chắc lạc vào ma đạo".

và một đoạn dưới:

Ông đem thân dâm để cầu diệu-quả của Phật, dầu được diệu-ngộ, cũng chỉ là gốc dâm, cội gốc đã thành dâm, thì phải trôi lăn trong tam đồ, chắc không ra khỏi, con đường nào tu chứng Niết-Bàn Như-Lai ?

Đây là chỗ Phật dạy phải tránh, coi chừng, tu thiền định mà chẳng lìa gốc dâm...phải trôi lăn trong Tam đồ, trở thành quyến thuộc của Ma Vương.

Trong nhà Phật, để đoạn dứt những cái dâm vi tế, nhiều vị sư không dám nhìn thẳng vào mặt, hay nói chuyện cười cợt với nữ Phật tử . Người nữ đưa vật gì, sư nam không dám trực tiếp đưa tay lấy. Đó là vì, vị sư ấy còn sợ cái "dâm vi tế".

CHƯƠNG NĂM: MUỐN VÃNG SANH CỰC LẠC CẦN PHẢI XOÁ BỎ NHỮNG MỐI OÁN THÂN TRÁI CHỦ

Hãy nghe Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng tiếp về giới thứ hai, sau giới dâm:

"A-Nan, lại các chúng sanh lục đạo trong các thế giới, nếu cái tâm không Sát, thì không theo dòng sanh tử tiếp tục".

Chúng ta phải đem câu nói này của Phật xem cho rõ ràng, không phải một thế giới chúng ta, mà mười phương chư Phật thế giới đều chẳng ngoại lệ . Thật vậy, được khỏi sanh tử luân hồi không là đơn giản . Dâm, Sát, Đạo, Vọng, bốn điều này đều phải thanh tịnh . Ba điều thanh tịnh mà còn một điều không thanh tịnh đều vẫn không ra được khỏi Tam Giới, đều trở thành chướng ngại .

Thì ra, tới nay tôi mới hiểu rõ, tại sao chúng ta tu hành từ kiếp vô thỉ mà vẫn còn như thế này . Bốn điều, dứt được ba còn lại một, vẫn chẳng được thành công. Sức mạnh của nó có nặng nhẹ sai biệt, mặc dù là nhẹ nhưng vọng ngữ, vẫn có thể tạo thành nhân tố quyết định, không thể thành tựu .

Đây là nói về Sát Sanh không thể ra khỏi Tam giới . Còn cái nguyên-nhân, chúng ta nên suy nghĩ nhiều một tí .

Nghiên cứu tỉ mỉ cái đạo lý mà Phật dạy cho chúng ta, những sự thật đó, phía trước cái thứ nhất là tâm Dâm, là căn nguyên tội nghiệt của bản thân chúng ta. Quý vị nên biết, thế gian rất nhiều tội nghiệt đều từ đây sanh ra.

Người thế gian thường nói "nghiệp chướng sâu nặng". Đây là căn nguyên của nghiệp chướng . Cái thứ hai là Sát Sanh. Sát Sanh là căn nguyên của "oan gia trái chủ".

Chúng ta tu hành bị rất nhiều người làm chướng ngại, nhiều việc làm phiền não trở ngại . Đây là lực lượng từ bên ngoài .

Tại sao có nhiều người làm chướng ngại ?

Đó là oán thân trái chủ .Oán thân trái chủ làm sao mà kết thành ?Giết mạng người!Ăn thịt sinh vật!

Từ chỗ này kết-thành oán hận rất sâu. Phàm phu chúng ta sơ suất đi, Phật nhìn thấy rất là rõ ràng, rất là minh bạch.

Vậy thì trong xã -hội hiện tại, chúng ta vẫn thường hay nghe thấy, vẫn còn gặp phải việc oan hồn ma quỷ nhập vào thân. Tôi ở Hong Kong gặp được . Ở Đài -Bắc cũng gặp được . Ở Mỹ cũng gặp được .

Hỏi tại sao tìm anh, mà không tìm kẻ khác ? Vì họ có oán thù với anh, đến báo thù .

Trong hội Phật Thất ở Hong Kong, Pháp sư Đàm Hư giảng cho chúng tôi. Băng cassette của Ngài hiện nay chúng tôi vẫn còn giữ . Trong đó có nói đến một người tu Thiền, người này là để tử của Đế Nhàn Lão Pháp Sư. Đàm Hư Đại sư cũng là pháp tử của Đế Nhàn Lão Pháp Sư, là đệ tử truyền -pháp . Nói một cách khác, đó là Sư huynh của Đàm -Hư Đại sư. Người này công phu tham thiền rất giỏi . Lúc bấy giờ Đế -Nhàn Lão Pháp Sư học về giáo . Ngài là Tổ sư Tông Thiên-Thai cuối đời nhà Thanh.

Đệ tử của Đế-Nhàn Pháp Sư nay muốn học Thiền, nên Ngài đem ông gởi vào đạo tràng Thiền-Tông. Lúc ấy, đệ nhứt đạo tràng Thiền-Tông là chùa Giang Thiên ở Trấn Giang. Đưa ông ta vào chỗ này, tức là Chùa Kim Sơn trong chuyện Bạch Xà, cũng gọi là chùa Giang-Thiên. Ngồi chùa này ở trên hòn đảo trên sông Trường -Giang, bốn bề toàn là nước, là một đạo tràng hưng thịnh nhất của Thiền Tông Trung Quốc vào năm đầu Dân Quốc .

Tâm danh lợi nổi lênThần Hộ Pháp đi mất !

Ông ta tu thiền tham học ở đây hết mười mấy năm. Công phu rất là đắc lực, được lão Hoà-Thượng coi trọng và tán-dương, đưa ông ta lên chức vụ Thủ toạ Hoà-Thượng, địa vị chỉ dưới Hoà-Thượng Phương Trượng thôi.

Được làm chức Thủ toạ Hoà-Thượng thì tâm phiền não của ông hiện ra. Nói cách khác, định lực không đủ, bởi vì đồ đệ đến quy y đông, cúng dường cũng nhiều, tâm danh lợi của ông nổi dậy; thái độ hách dịch càng lớn . Điều này thật là phiền phức đấy . Thần hộ pháp đi mất . Quý vị nên biết, khi công phu đắc-lực có Thần hộ pháp bảo vệ . Bất luận là xuất gia hay tại gia, chỉ cần như pháp tu hành chân chánh đều có Thần hộ pháp bảo vệ . Nhưng khi tâm bất tại đạo, thì thần hộ pháp đi mất . Thần Hộ-pháp vừa trông thấy anh đổi tánh, thì than: "Người đã thay lòng rồi. Thối chuyển rồi ! thì họ đi mất !"

Thần Hộ-pháp vừa đi thì oan-gia chủ nợ tìm đến . Ông ta liền bị ma nhập vào .

Ma nhập cách nào ? Xem khi không có người, ông ta bèn nhảy xuống sông tự tử . Lần đầu có người bắt gặp, cứu sống ông ta đem lên. Qua mấy ngày sau ông ta lại nhảy sông. May vừa gặp người, lại cứu sống đem lên. Phương Trượng lão Hoà-Thượng hoảng kinh, một vị Thủ toạ Hoà-Thượng thường làm việc nhảy sông tự tử khiến cho toàn thể đạo tràng bị ảnh-hưởng rất lớn, đông người ai nấy đều hoang-mang. Người tu định đều sanh ra trở ngại . Họ thông báo cho Đế Nhàn lão Pháp sư biết . Sư phụ ông ta lật đật mang ông ta về . Lão Hoà-Thượng ở núi Thiên Thai, Phong Châu tỉnh Triết-Giang nên Ngài đến Trấn Giang đem đệ tử về . Trên đường bình an vô sự, chẳng có triệu chứng chi cả . Nhờ uy-đức của Lão Hoà-Thượng hộ trì ông ta, khiến con quỷ oan đó không dám nhập vào . Suốt đường bình an.

Khi về đến núi Thiên Thai, vì ông ta đã từng làm Thủ toạ Hoà-Thượng trong Phật môn rất có địa vị, cho nên trong chùa dành cho ông một căn liêu phòng. Lúc đó ông rất được đãi-ngộ. Công phu buổi sáng ông có đến hay không cũng không sao. Đạo tràng đối với ông ta đều ưu đãi .

Qua được vài ngày, có một buổi sáng nọ, lúc ăn sáng chẳng thấy ông ta đến. Lào Hoà-Thượng nói ông ta ngủ lười không ra thể thống gì cả, bèn cho người đến trai phòng xem thử . Gõ cửa thì không có người bên trong. Không có tiếng động, bèn đẩy cửa vào, trong phòng không có người . Phía sau phòng có một cửa sổ đã mở . Nghĩ rằng có thể ông ta từ cửa sổ này nhảy ra. Họ trở về thưa lại với lão Hoà-Thượng .

Nghe xong Lão Hoà -Thượng liền la lên: "Không xong rồi! E lại xảy ra chuyện!" Vì bên cạnh núi Thiên Thai có một con sông nhỏ . Tuy không lớn bằng sông Trường-Giang, nhưng cũng có thể ngập chết người . Ngài dặn người tức tốc theo bờ sông mà tìm .

Ngài bảo: "Chắc đã xảy ra chuyện!"

Đi hơn nữa dặm đường thì tìm được . Ông ta đã chết, thi thể nổi lên. Rốt cuộc cũng là nhảy sông tự tử .

Ngay trong lúc đó mới biết ông ta có một đứa con gái . Trước khi xuất gia, ông ta có kết hôn, có một đứa con gái. Khi ông học Phật, nhất thiết đòi xuất gia. Vợ ông không đồng ý, ông vẫn cứ xuất gia, nên vợ ông nhảy sông tự sát. Cho nên con quỷ ấy là vợ ông ta. Nguyên lúc đầu ông tu hành có công phu, có Thần Hộ Pháp bảo hộ, oan hồn không cách chi nhập vào. Đến khi tâm danh lợi của ông nổi dậy, đạo tâm tiêu mất, Thần Hộ Pháp cũng chạy mất . Vợ ông ta tìm cách đến được, cho nên ông ta hai lần nhảy sông, đó chẳng phải là ý của ông ta. Đó là ông ta bị quỷ nhập vào .

Đứa con gái lúc đó còn nhỏ, cha thì xuất gia, mẹ thì nhảy sông tự tử, nhờ người bà con nuôi

dưỡng đến lớn và lấy chồng . Lúc ông chết, đứa con gái đến chùa khóc lóc, Đế-Nhàn Pháp sư thấy cô vừa đến liền bảo:

- "Hay lắm! Cha cô đã xảy ra chuyện!".

Cô ta khóc lóc nói:

- "Đêm qua con nằm mộng thấy cha con nói hôm nay đi nhận sở làm".

Lão Hoà-Thượng nói:

- "À! thì ra đi làm Thổ Địa!

Đế-Nhàn Pháp sư bổng nhiên đại ngộ: "Thì ra, cách nhà họ không xa vừa lập ra ngôi miếu Thổ Địa . Bên trong vừa đúc xong hai tượng Thổ Địa để an vị . Thì ra là hai người này".

Lão Hoà-Thượng nói:

- "Học Phật cả một đời, tham thiền mấy mươi năm, đến cuối cùng lại đoạ lạc làm Thổ-Địa".

Thổ-Địa công la quỷ thần trong quỷ đạo, là Lý-Trưởng trong quỷ-đạo .

Cho nên tôi thường hay đánh thức quý vị: "Khi tâm danh lợi nổi dậy thì hỏng cả, thì đoạ lạc vô cùng đáng sợ".

Rơi vào trong Thần đạo, Quỷ thần đạo, việc này cũng tức là ông ta gián -tiếp sát sanh. Vẫn không ra khỏi điều này .

Hoà-Thượng Tịnh-Không tiếp:

Kinh nói, "Ông tu phép Tam-muội quyết ra khỏi trần lao. Nếu không trừ lòng Sát, không ra khỏi trần lao." (Trần lao tức tam giới).

Phía trước, thứ nhất là tâm Dâm, thứ hai đây là tâm Sát . Nhứt định phải đoạn dứt sạch . Kinh tiếp:

"Dù có nhiều trí thiền định hiện tiền . Nếu không đoạn lòng Sát, thì chắc phải lạc vào Thần-đạo . Người Thượng Phẩm thì thành Đại-lực-quỷ. Đại-lực-quỷ tức là Quỷ Vương.

Người Trung-phẩm thì thành Phi-hành Dạ-Xoa, qua các loại Quỷ-Soái".

Ở Đài -Loan cũng có rất nhiều, nào là Nguyên Soái, Vương-gia công ở trong các ngôi miếu Quỷ Thần đều thuộc về Trung-Phẩm .

"Người Hạ Phẩm đều biến thành Địa-hành, La-Sát . Những loại quỷ này có khi giúp người, cũng có khi hại người ."

Khổng-phu Tử dạy một câu nói không sai: "Kính Quỷ thần mà xa lánh chúng". Tâm Sát không trừ, tất đoạ vào Quỷ thần đạo .

Phật giảng Kinh này là vào 3000 năm về trước . Hậu thế chúng ta ấn chứng, quả nhiên không sai.

Vừa rồi chúng ta nói về độ đệ của Đế-Nhàn Pháp sư. Ông ta không phải cố ý, tạo thành sát nhân làm cho ông ta phải sự sát. Đây là một việc rất xấu .

VÌ YÊU NƯỚC MÀ SÁT SANHVẪN PHẢI RƠI VÀO ÁC-ĐẠO!

Ngoài ra còn có một thí dụ rất rõ rệt . Câu chuyện này xảy ra lúc tôi mới học Phật, 40 năm trước, Lão Cư-sĩ Tô-Kính-Trụ kể cho tôi nghe. Lúc bấy giờ Lão Cư-sĩ 70 tuổi là người đề-xướng in Kinh sớm nhứt. Ông kể cho tôi nghe một câu chuyện có thật .

Ông nói lúc ông còn trẻ, vào năm Tuyên Thống, tức là trước Dân Quốc một năm. Lúc đó ông đang ở quê tại lục địa, là người Thôn Châu, nhà ở miền quê.

Ông học rất giỏi, ở thôn lân cận có một cử -nhân trúng cử vào đời nhà Thanh. Hoàn cảnh gia đình này rất khá . Là con một nên sau khi trúng cử -nhân, ông ta không làm quan, ở nhà để phụng dưỡng cha mẹ . Lấy vợ có được một đứa con. Một hôm ông đang ngủ trưa, nằm mộng. giấc mộng rất rõ ràng. Ông thấy một người đến gõ cửa, ông bèn ngồi dậy ra mở cửa . Gặp kẻ lạ, hắn là tên lính sai, ăn mặc như là quân-nhân. Hắn đưa một bức thư và hỏi ở đây có tên người này hay không ?

Ông ta nhìn thấy trên bì thơ là tên của mình. Ông đáp :

- "Không sai, đây là tên tôi!"

Người ấy mới nói:

- "Đại-tướng quân chúng tôi xin mời ông đi một chuyến."

Ông ta nghĩ: Tuy mình đã đỗ cử-nhân, nhưng không có qua lại với quan Phủ, còn quan võ càng không quen biết nữa . Ông hỏi:

- "Có phải ông đã ghi lộn tên rồi chăng ? Có lẽ trung tên, trùng họ chăng ?"

Kẻ kia không cân chi cả nói:

- "Nếu đúng như vậy thì mời ông lên ngựa ".

Kẻ kia dẫn ngựa đến và đẩy ông lên ngựa. Ông không còn cách chi, liền cỡi lên lưng ngựa. Trên lưng ngựa ông có cảm giác là con ngựa bay lên không. Chẳng bao lâu thì ông đến một địa phương.

Nơi đây đang có rất đông người đang dụm lại . Hình như đang bàn luận việc gì quan trọng . Ông bắt đầu nghe ngóng, để xem vị tướng quân là ai ? Người ta cho ông biết là Nhạc Phi. Ông nghĩ lại giựt mình nói: "Không xong rồi, Nhạc Phi là người đời Tống, vậy ta đã chết rồi sao? Sao ta lại đến chỗ này ?". Rồi ông tự nói: "Tôi không thể chết được . Tôi trên còn có cha mẹ già, vợ và con nhỏ!".

Qua một lúc sau thì Nhạc Phi thăng đường, tiếp kiến ông ta. Dĩ nhiên ông ta là kẻ có học, đối với lịch sử rất quen thuộc . Đối với Nhạc Phi tận trung báo quốc, ông cũng bội phục, vô cùng kính phục .

Nhạc Phi liền nói với ông ta:

- "Họ đang chuẩn bị Bắc phạt, đầu phạt lính Kim, mời ông giúp việc văn phòng". Hình như là công-tác của bí-thư.

Ông ta nghĩ: "Không xong! Cha mẹ già, vợ và con nhỏ không thể rời bỏ!"

Nhạc Phi nói:

- "Chúng tôi còn ba tháng nữa sẽ xuất binh. Tôi có thể để ông trở về lo thu xếp gia đình đàng hoàng . Ba tháng sau tôi phái người đến mời ông".

Ông ta bị bức bách không còn cách chi từ chối, nên đồng ý. Nhạc Phi bèn phái người đưa ông ta về.

Khi tỉnh giấc, ông ta mới thấy mình đã nằm chiêm bao. Bèn thuật lại cha mẹ ông nghe. Ông bảo đây như là cơn mộng, đâu phải thực . Nhưng ông cảm thấy giấc mộng này cùng với bình thường, giấc mơ thì không rò như vậy . Giấc mơ này như là thật, rất rõ ràng, không như giấc mơ bình thường . Cho nên ông ta tin tưởng ba tháng sau Nhạc Phi sẽ cho tiểu yêu đến rước ông ta. Vì vậy, trong ba tháng này ông đã lo gia sự đàng hoàng . Đến ngày hẹn hôm đó, ông thông báo rất đông

bà con và bạn bè cùng đến.

Lão cư-sĩ Tô-kính -Trụ cũng tham gia. Lúc ấy lão cư sĩ hãy còn rất trẻ, cũng muốn biết một

người đang sống không đau bịnh, xem ông ta chết cách nào . Lão cư sĩ dốc lòng tò mò muốn biết

.

Ngày hôm đó ông ta mời tiệc bà con, cũng có vài bàn. Ăn cơm xong thấy thì giờ sắp đến. Ông

tắm rửa ăn mặc đàng hoàng. Trong phòng ông cửa sổ đều như mở hết. Bà con bạn bè đều vào ở

trong phòng ông ta. Ông ta nằm trên giường. Chẳng bao lâu ông nói với cha ông rằng:

- "Nhạc Phi đã phái người đến trước cửa. Con đã trông thấy!"

Trong nhà không ai thấy chỉ có ông ta thấy. Cha ông rất không vui, chửi nói:

- "Ta chỉ có một đứa con dưỡng lão, đều có thể nhờ nó . Sao có thể bảo nó đi được ?"

Đến sau cùng, ông ta nói với cha rằng:

- "Người chỉ có 1 lần chết . Chết được theo hầu Nhạc Phi cũng kể như là một việc rất quang

vinh. Thôi thì để cho con đi".

Cha ông ta bèn nói:

- "Thôi được! Tốt lắm!"

Cha ông vừa bằng lòng, ông bèn tắt thở .

Cuộc cách -mạng ở Võ -Xương thành công. Nên Tô cư sĩ nói: "Trên nhân gian chúng ta lật đổ

quân Mãn Thanh. Ở dưới quỷ đạo trước nửa năm đã bắt đầu khởi chiến . Nói đến chỗ này, Nhạc

Phi niệm niệm tận trung báo quốc, niệm niệm đều không quên đi giết lính Kim".

Hoà-Thượng Tịnh-Không kết luận:

"Cái ý niệm về Sát sanh chưa tận dứt, nên rơi vào quỷ đạo . Thân phân trong Quỷ đạo của ông là

hạng Trung Phẩm . Ông ta là tướng quân trong Quỷ đạo, là thân phận địa vị một Nguyên Soái .

Điều này chứng minh Phật nói trong Kinh một tí cũng chẳng sai".

Trong hạng người chúng ta, Nhạc Phi là một anh hùng dân tộc, công nghiệp muôn đời tồn tại

vĩnh viễn. Người hậu thế ai cũng tôn kính, nhưng tại vì sao Nhạc Phi không thể lên trời? Vì sao

không thể chuyển thế làm người, mà lại rơi vào Quỷ đạo ? Qua Kinh Phật mới hóat nhiên đại

ngộ . Vì ông ấy tâm Sát chưa đoạn, nên ngay cả ba đường Thiện cũng sanh ra chướng ngại .

Huống chi tu hành là phải vượt khỏi luân hồi, phải viên chứng Phật quả . Điều này dĩ nhiên càng

không thể được . Ngay cả ba đường thiện - Người và Trời - đều bị nó chướng ngại . Do đây có

thể biết, tâm Sát hại không trừ thật là đáng sợ .

Vậy thì cái đoạn giáo huấn này của Phật, chúng ta phải ghi nhớ, phải thật lòng mà phụng hành .

Kinh nói tiếp:

"Các loại quỷ thần kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo Vô-thượng ."

Những ngôi miếu quỷ thần tại Trung Quốc chúng ta từ Đại lục cho đến Đài Loan, hầu như mỗi

một thôn nào đều có cả . Hiện giờ thì ít, trước kia mỗi một huyện đều có miếu Thành Hoàng, mỗi

một thôn làng thì có miếu Thổ-Địa . Ngoại thành mỗi khu đều có miếu Sơn Thần . Ngoài những

thứ này ra thế tục thường gọi là Phước, Đức, Chánh thần; còn có Vương gia Công, không thể kể

cho hết được .

Đây thuộc về Quỷ Thần. Ngoài Quỷ thần ra còn có Thiên Thần. Ở Trung Quốc còn có loại được

người ta cúng tế là Thuỷ Thần tức là Long Vương.

Trong Kinh Phật, loại này chúng ta đã đọc qua rất nhiều. Những loại này đích thật vẫn còn tồn

tại. Chúng cũng có oai đức, cũng được nhơn gian cúng tế . Những người có học trên thế gian lấy

Khổng-Phu-Tử làm đại biểu, kính nhi viễn chi. Chử "kính" là vào một thời tiết nhứt định cúng tế

cho chúng . Cúng tế là "kính", còn "viễn" là gì ? Là không thể nghe lời dạy của chúng . Nói cách

khác không thể theo học chúng, vẫn chỉ nghe Thánh Hiền để học . Không theo học với Quỷ thần

. Viễn không có nghĩa là chẳng qua lại với chúng, thì sai. Như là cúng tế vào ngày mùng 1 và

rằm, lễ Trung Thu đây là "kính", phải làm đến Kính. Đệ tử Phật, anh xem như An Sỹ Toàn Thư,

thái-độ của cư-sĩ Châu-An-Sĩ là gương tốt cho người học Phật đối với Quỷ Thần. Khi vào miếu

Quỷ Thần, chúng ta cũng thắp nhanh, cũng xá . Đệ tử Tam Bảo không lạy Quỷ Thần , vì chúng

không đảm đang nổi. Anh lạy chúng, chúng sẽ tránh nhường không dám nhận cái lạy của anh.

Chỉ xá là được.

Châu-An-Sĩ chẳng những xá, mà còn nói Pháp cho Quỷ thần nghe, khuyên chúng Quy y Tam

Bảo . Khuyên chúng đoạn trừ tâm Sát . Quỷ Thần tâm Sát sân hận rất nặng, nghiệp rất nặng .

Anh làm phật ý chúng, chúng sẽ gây rắc rối cho anh. Chỉ khuyên chúng ăn chay, đừng nhận đồ

cúng mặn . Khuyên chúng nên Niệm Phật cầu sanh Cực Lạc . Đây là thái độ tốt nhứt của đệ tử

Phật đối với Quỷ thần .

Hoà-Thượng Tịnh-Không đọc tiếp Kinh:

"Các loại quỷ thần kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô-thượng (và đây

là đoạn chót, nói rõ thời kỳ mạt pháp này). Tu hành mà không đoạn cái ý niệm sát sanh, ý

niệm này sẽ gây chướng ngại trên đường Bồ-Đề; nói một cách khác, chứng quả thì họ sẽ

không có phần, tu học đến cuối cùng sẽ đoạ lạc vào Quỷ thần đạo. Quỷ thần đạo sát nghiệp

rất nặng".

Đoạn văn dài phía trước, Phật dạy chúng ta phân biệt Phật và Ma. Còn đoạn này Phật dạy chúng

ta phân biệt, cái gì là Phật, cái gì là Quỷ, Ma và Quỷ khác nhau. Phàm là người học Phật, nếu

đề xướng học Phật có thể không cần ăn chay. Đề xướng ăn thịt có thể tu thành Chánh quả .

Đây là lời của Quỷ nói . Chúng ta được một kết luận trong phần Kinh Văn này .

Nói tóm lại một câu, sát sanh là đại ác. Chúng sanh mà anh giết hại, nổi oán hận trong tâm của

họ vĩnh viễn không bao giờ tiêu mất . Chỉ cần oán hận của họ còn tồn tại, khi nhơn duyên thành

thục thì họ báo thù. Việc này rất là rắc rối. Cho nên Phật dạy chúng ta, dặn dò bốn chúng đệ tử,

tuyệt đối đừng bao giờ não hại chúng sanh. Anh làm cho chúng sanh sanh phiền não đều không

nên làm; huống chi là hại họ, giết họ. Cho nên phải cùng chúng sanh kết thiện duyên. Tuyệt đối

không kết ác duyên. Thì trên đường Bồ-Đề chướng ngại sẽ giảm thiểu.

Dĩ nhiên mỗi một người chúng ta không chỉ sống ở một đời này . Chúng ta vẫn còn đời quá khứ .

Nếu trong đời quá khứ không học Phật, lại tạo rất nhiều tội lỗi, kết không biết bao nhiêu là oán

thù, thì đời đời kiếp kiếp oan gia trái chủ vô lượng vô biên đếm không hết được. Đây là một sự

thật .

Những oan gia trái củ tuyệt đối không muốn anh vượt khỏi luân hồi .

Vì sao ? Vì anh ra khỏi luân hồi thì, chúng muốn đòi nợ, làm sao đòi được ? Anh muốn

vượt khỏi luân hồi (ra khỏi Tam giới). Chúng đều tìm hết cách để cản trở anh, lôi kéo anh

trở lại .

Vì vậy, trong Kinh Lăng Nghiêm ở đoạn chót, vì chúng ta Phật nói rõ 50 thứ ấm ma.

Chữ ma này là oán thân trái chủ trong vô lượng kiếp đến đấy. Nếu chúng không oan hệ với

chúng ta; chúng nó tuyệt đối sẽ không cản trở chúng ta. Phàm chúng đến gây rắc rối là vì trong

quá khứ chúng ta đã làm mất lòng chúng, từng làm khó chúng. Cho nên chúng ta đã kết cái oán

ấy quá sâu, quá sâu!

Cho nên trên con đường tu hành chúng ta gặp chướng ngại trùng trùng, không cách chi tránh

khỏi .

Lời của Tịnh-Hải:

Chắc chư Liên hữu nhớ lại câu chuyện của bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết trong chuyện Lưu-Xá-Lợi.

Trong sách ấy chúng tôi không kể chuyện người anh ruột của bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết . Ông này

lúc gần chết, cứ thấy có nhiều oan hồn nắm chân ông kéo xuống một hố thẳm . Ông gào la liên

tiếp nhiều ngày . Bà Tuyết dạy ông niệm Phật, ông không niệm được . Cuối cùng, lúc Hoà-

Thượng Tịnh-Không đi vắng, Bà Tuyết rước một Ni Sư người Trung-Hoa đến khai thị, dạy ông

niệm mười niệm Nam-Mô-A-Di-Đà Phật nối tiếp liền nhau, ông ta mới ra đi yên lành .

Pháp sư Tịnh-Không tiếp:

Quý vị nên nhớ chẳng phải ma chỉ có 50 con. Thế thì đơn giản quá . Đó là 50 đại loại, trong mỗi

loại chẳng biết là bao nhiêu .

Ý nghĩa chính của Kinh Lăng Nghiêm là dạy chúng ta nhất định trong đời này là phải thành tựu .

Vì thế Phật dạy chúng ta đối với yêu ma quỷ phái phải có khả năng nhận biết chúng . Anh nhận

biết nó, thì không bị nó hại .

Phải có khả năng phân biệt . Kinh Lăng Nghiêm quả là một trí tuệ cao độ . Cổ -đức có nói:

"Khai trí tuệ là Kinh Lăng Nghiêm". Quả thật không sai.

Ngoài ra, vẫn còn một phương-pháp vô cùng quan-trọng; đó là pháp môn tu hồi-hướng . Hồi-

hướng, thật tại mà nói là thông với Sám-hối . Nhưng phải dùng chơn tâm để hồi hướng . Không

thể thủ khấu vô tâm, sẽ không có hiệu quả . Phải bằng cái tâm chí thành để hồi hướng .

Tôi niệm Phật, tụng Kinh, tu trì, hành thiện tất cả các thứ công đức, tôi đều hồi hướng cho

lịch kiếp oán thân trái chủ, hy vọng họ đều được hoá mê khai ngộ, niệm Phật đồng sanh

Tịnh Độ .

Phải bằng một tấm lòng chơn thành hồi hướng, hy vọng đem cái nút của quá khứ mở ra; oan gia

nên giải không nên kết .

Phải nói với họ: "Trước kia vô tri tôi kết cái oán đó, nay biết rõ, hy vọng chúng ta dùng giải

-pháp hoà bình để đem cái oán kết này giải trì".

Cho nên đây là cách tu tập pháp môn hồi hướng, dụng ý rất sâu. Nếu họ nhận chịu thì họ sẽ

không đến quấy rầy ta nữa . Tương lai chúng ta tu hành chứng quả thì lộn trở lại lục đạo, chu

toàn giúp đỡ họ . Họ nghe được cũng rất vui mừng, tương lai chúng ta sẽ giúp đỡ họ, vẫn cùng

họ có duyên.

Nếu tiến sâu một từng nữa mà nói, những oán thân trái chủ này, nếu chúng ta không thể thành

tựu, không thể vượt khỏi lục đạo luân hồi là vĩnh viễn liên luỵ dây dưa không liễu kết được .

Chúng ta sống trong thế gian này là rất là khổ!

Chúng ta cũng biết, chúng ta không chỉ là một đời này cũng còn có đời sau. Đời sau vẫn còn đời

sau nữa . Vấn-đề này không thể giải quyết thì, tình trạng sanh hoạt của chúng ta: "Một đời

chẳng bằng một đời, một thế hệ chẳng bằng một thế hệ". Quý vị suy nghĩ kỹ có đúng

không ?

Kiếp này chúng ta được thân người, trong một đời này . Từ nhỏ đến lớn, từ đầu năm đến cuối

năm, chúng ta tạo nghiệp lành nhiều hay nghiệp ác nhiều ? Khởi tâm động niệm là niệm lành

nhiều hay niệm ác nhiều ? Nếu như niệm ác nhiều hơn niệm thiện; hạnh ác nhiều hơn hạnh

lành, thì tháng này của kiếp sau sẽ khổ hơn kiếp này .Cho nên thật tại mà nói, một đời không

bằng một đời .

Điều này phải giác ngộ .

Oán thân trái chủ của một đời so với một đời càng tăng gia; nó không thể giảm thiểu, nó chỉ tăng

gia. Nó càng ngày càng nhiều .

Biết rõ chơn tướng sự thật thì yên-định một niệm rằng: "Một đời ta đây quyết định phải vượt

khỏi luân hồi!"

Phương-pháp vượt khỏi luân hồi trong Kinh Tiểu Thừa, Đại-Thừa nói rất nhiều. Tuy nói rằng

Pháp môn bình-đẳng, Pháp môn thật sự bình đẳng; nhưng căn tánh chúng sanh của chúng ta

không bình đẳng . Có thể khiến cho chúng sanh không đồng căn tánh, một đời đều được thành

tựu viên-mãn, chỉ có Niệm Phật Đới Nghiệp Vãng Sanh Cực Lạc Tịnh-Độ . Chỉ có một pháp

môn này .

Hôm qua tôi đã từng nói qua với quý vị, những người niệm Phật sẽ có bổn nguyện và oai thần

của Phật gia trì . Dù cho có những loại yêu ma quỷ quái, oán thân trái chủ đến gây rắc rối cho

anh, oai đức của Phật sẻ bảo vệ cho chúng ta. Chúng không dám cản trở não hại . Đây là Phật lực

gia trì .

Nhất tâm niệm A-Di-Đà Phật cầu sanh Cực Lạc không chỉ là bổn nguyện của A-Di-Đà Phật gia

trì, mà còn thật sự tất cả Thập phương chư Phật Như-Lai hộ niệm; tất cả Hộ pháp Thiên Thần

ủng-hộ . Anh thử nghĩ sức mạnh này lớn biết là bao! Cái thế lực này sẽ bảo đảm chúng ta trong

một đời này được về Cực Lạc một cách bình an.

Ngoài trừ pháp môn này ra, tất cả đều khó chớ không dễ . Đời chúng ta đây may mắn gặp Pháp

Môn Niệm Phật này . Lý và sự đều phải hiểu rõ triệt để, không kết oán thù với chúng sanh. Nhứt

định không sát sanh. Nhứt định không ăn thịt .Tôi học Phật đã 40 năm rồi .Tôi, hồi 26 tuổi mới

học Phật, năm nay 67 tuổi (bài này Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng vào 1993, bây giờ là đầu

2002, cách đây 8 năm). Học Phật từ đầu đến cuối đã 42 năm. Tôi mới vừa học Phật 6 tháng thì

đã ăn trường chay, không có ai khuyến khích tôi.

Tôi tụng hết một bộ Kinh Địa Tạng thì hoảng sợ, cảm thấy đã kết oán với chúng sanh quá sâu.

Trong thời kỳ đi học, tôi rất thích đi săn bắn . Tôi đi săn ba năm, giết hại rất nhiều chúng sanh.

Sau này xem đến Kinh Địa Tạng, quả báo đều là Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh, tôi sợ đến toát cả

mồ hôi lạnh . Từ đó về sau tôi không sát sanh nữa, ăn trường chay, đề xướng phóng sanh để

chuộc tội .

Tôi nhờ đọc bộ Kinh Lăng Nghiêm này được khai thị . Ăn chay hai ba năm đầu, người thì xanh

mét, rất gầy, mọi người bảo anh học Phật, anh đã mê rồi . Anh dinh dưỡng không đủ, thân thể

không xông rồi . Mỗi nữa năm tôi đều đến bịnh viện kiểm tra một lần . Không có bịnh nên tôi rất

an tâm. Dần dần tôi khoẻ lại . Cho nên nhứt định phải kiên trì .

Biết được kết oán thù với chúng sanh vô cùng đáng sợ . Hiện nay tôi có được một chứng minh:

ăn chay là lối ẩm thực lành mạnh nhứt .

Khi thân thể tôi chuyển biến trở lại, đại khái là vào khoảng 40 tuổi . Lúc đó thầy Lý ở thư viện

Đài-Trung, tổ-chức buổi giảng từ quan tại trường Đại học . Tôi ở đó đã tuyên giảng một buổi .

Học sinh đại học đến từ các địa phương toàn tỉnh. Nhóm học sinh này xem tôi, tuổi tác ngang với

chúng nó . Thật ra, tuổi tác của tôi ngang với tuổi cha chúng . Tôi vào lúc 40 tuổi, trông thật

giống như 20 tuổi . Năm nay tôi sắp 70 tuổi, người ta nhìn đại khái 50 tuổi .

Nguyên nhân là ăn chay. Quý vị muốn không già, muốn trẻ trung tôi chỉ cho quý vị ăn trường

chay. Những người ăn trường chay trẻ trung không sanh bịnh .

Đoạn kinh văn phía dưới, Phật nói thật cảnh sanh hoạt hồi lúc đó ở Bắc Ấn-Độ như sau: "Xứ Bà

-la-môn các ông, đất đai phần nhiều nóng ướt, lại thêm cát đá, rau-cỏ không sanh được; tôi

dùng sức đại -bi gia bị, nhân sức đại -từ bi gọi là thịt và các ông cũng nhận được cái vị như

thịt".

Bây giờ chúng ta mới hiểu rõ, thì ra là thần lực của Phật gia trì . Họ ăn thịt đó không có cùng

chúng sanh kết ác duyên.

Chúng ta hãy đọc qua phần Kinh Văn:

"Làm sao, sau khi Như-Lai diệt-độ, người ăn thịt chúng sanh gọi là Thích Tử ? Các ông

nên biết, những người ăn thịt đó, dầu cho tâm được khai, giống như Tam-ma-đề, đều là loại

đại La-sát, quả báo hết rồi, phải chìm trong bể khổ, không phải đệ tử Phật".

Đây là nói, loại nghiệp này là tánh tội . Sát - Đạo - Dâm - Vọng đều là tánh tội . Anh đã thọ giới

lại phạm giới, là có tội . Anh không thọ giới cũng có tội . Không thể nói, tôi không thọ giới,

phạm Sát - Đạo - Dâm ...là không có tội . Không có đạo lý này . Đay là tánh tội, bản thân tức là

tội ác nên lãnh lấy quả báo này . Đó là oan oan tương báo . Đọc tiếp Kinh Văn:

"Những người như vậy, giết nhau, nuốt nhau, ăn nhau chưa thôi, làm sao lại được ra khỏi

ba cõi ?

Đúng là như Phật thường nói trong Kinh: Người chết thành dê, dê chết thành người, anh ăn

thịt nó nữa cân; tương lai phải trả cho nó tám lượng, không chiếm được phần hơn một tí

nào cả .

Vậy làm sao có thể ra khỏi Tam giới ?

Câu này là nói oan gia trái chủ đến gây rắc rối cho anh. Nó không thể dễ dàng bỏ qua cho anh, để

cho anh vượt khỏi Tam giới! ?

Cho nên khi anh dụng công niệm Phật rất là đắc lực, có Thần Hộ Pháp bảo vệ anh, chúng không

dám khiêu khích anh. Nếu như anh sanh ra một tà niệm, Thần Hộ-Pháp chạy mất, oan gia trái

chủ của anh lập tức sẽ tìm đến anh.

KHI CAO TĂNG THẮT NIỆM THẦN HỘ-PHÁP CHẠY MẤT!

Tại tỉnh này, có một đạo tràng hình như từng bái qua Thuỷ Sám . Anh thử xem, nhân duyên của

Thuỷ Sám, Ngộ-Đạt Quốc-sư từng làm cao tăng mười đời . Vì ông ta là cao tăng 10 đời, có Thần

hộ-pháp bảo vệ hồn oan của quỷ không thể nhập vào . Đến đời nhà Đường, đời thứ mười của ông

ta - Quốc-sư là thầy của Vua, một hôm nhà Vua cúng dường ông ta một chiếc ghế quý bằng trầm

hương, là chiếc ghế quý Thái sư do Vua tặng cho ông ta làm bằng gỗ trầm hương rất quý giá,

trầm hương bảo toạ . Ông ta vừa mới sanh tâm vui mừng, ta hôm nay là Thầy của Vua thật phi

thường, cái niệm cống cao ngả mạn vừa nổi dậy, thì Thần Hộ-Pháp biến mất, oan gia trái chủ liền

đến gõ cửa hiến một mụt ghẻ mặt người, thiếu chút nữa là tán mạng .

Điều này chứng tỏ oan gia trái chủ đã theo ông ta mấy trăm năm, thời thời khắc khắc đều ở bên

cạnh chờ cơ hội . Khi Thần hộ-pháp vừa đi thì nó nhập vào .

Lời thêm của Tịnh-Hải:

Như chúng tôi đã trình bày, cõi Ta bà này do Ma Vương khống trị . Những oan hồn chết trong ba

đường dữ đều là quyến thuộc của ma. Cho nên Phật thương chúng ta, thường dạy phải ráng vượt

ra khỏi Tam giới, khỏi vòng kềm toả của Ma Vương. Nhưng đâu phải là chuyện dễ, nếu trong

nhiều đời quá khứ và hiện tại ta giữ được không có niệm Dâm. Nếu còn có tâm Sát, thì luôn luôn

bị oan gia kề cận, cho lúc ta suy yếu, vận xấu, chúng liền đến đòi mạng . Ma Vương lúc nào cũng

muốn tăng cường thêm ma quân dưới trướng, nên khi có người vừa chết là quân ma ập đến đông

đầy, hoặc đòi mạng, hoặc rủ rê người chết theo chúng .

Trong bài giảng của Hoà -Thượng Tịnh -Không cho thấy, Nhạc Phi là một người nghĩa khí, trung

quân ái quốc . Nhưng dù ái quốc, tâm Sát quá nặng, việc giết người quá nhiều, nên sau khi chết

vẫn phải theo luật nhân quả, nên mấy trăm năm sau vẫn còn ở trong Thần đạo . Ông Quan Công

cũng vậy, nhiều người Việt Nam bị ảnh hưởng của người Trung-Hoa nên đông đảo người thờ

ông, nhưng ông Quan Công cũng giống như Nhạc Phi. Người ta thờ cái gương trung liệt của ông.

Phật nói: "Luật nhân quả dung thông ba đời".

Nhơn đây, thấy cũng cần nói rõ thêm, những Phật tử cựu quân-nhân, tu theo đạo Phật nói chung,

nên áp dụng Pháp môn Niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc, nương vào nguyện lực, thần lực và

oai thần của Phật A-Di-Đà để bảo đảm sự an-toàn khi lâm chung, nếu trong đời cầm súng đã bắn

hạ rất nhiều sanh mạng, mà lúc đó họ được coi là kẻ thù, anh được gọi là anh-hùng, được khen

thưởng . Nhạc Phi đã giết vô số lính Kim nên không lên được cõi Trời, không được trở lại làm

người .

Lúc vận nhà Thanh sắp mãn, Nhạc Phi biết trước và tâm sát sanh, trả thù, lại bừng lên.

Anh em cựu quân-nhân đều là người yêu nước . Nhưng luật nhân quả vẫn là luật nhân quả: "giết

người phải đền mạng". [b] Oan hồn bị giết oán hận không cam chịu nên đeo đuổi đòi mạng, có

khi cả hàng trăm năm sau. Xem chuyện của Quốc sư Ngô-Đạt ở trước thì rõ .

Chỉ có pháp môn Niệm Phật và Hồi-Hướng mới giúp cho quân-nhân Phật tử được an toàn thoát

khỏi luân hồi, ra khỏi Tam giới để tránh oan gia của bao nhiêu đời kiếp sau, mà Vãng sanh cõi

Cực-Lạc .

CHƯƠNG SÁU: NGƯỜI ĐƯỢC VÃNG SANH CỰC-LẠC CÓ NÊN HIẾN BỘ-PHẬN CƠ

THỂ ?

Hòa-Thượng Tịnh-Không giảng tiếp tới đoạn Đức Phật dặn Ngài A-Nan:

"Ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-địa, thứ nữa, phải đoạn lòng Sát. Ấy gọi là lời dạy rõ

ràng thanh-tịnh, quyết định thứ hai, của các Đức Như-Lai Tiên-Phật Thế-Tôn.

Tu học Tam-ma-địa là chơn chánh tu hành . Hành là hành vi. Tu là tu chính - Tư tưởng hành vi

của chúng ta có sai trái, phải đem nó tu chỉnh trở lại . Tam-ma-địa, Thiền na là tiêu-chuẩn hành

vi của chư Phật Bồ -Tát, anh y theo đây mà tu chính, tức là chính mình cũng như một vị Phật .

Đây là Phật dạy Ngài A-Nan phải chỉ dạy những người tu hành trên thế gian, phải dạy họ đoạn

hết sát sanh. Kinh dạy tiếp:

"Vậy nên A-Nan, nếu người ấy không đoạn lòng Sát, thì cũng ví như bảo người bịt tai lại,

rồi cả tiếng kêu to, mà trông mong người khác không nghe."

Bọn này gọi là muốn dấu mà càng lộ . Ở đây, Phật đưa ra một thí dụ:

Không đoạn dứt Sát sanh mà tu thiền định có thể thành tựu không ? Không thể thành tựu .

Ở chỗ này các bạn đồng tu nên biết rõ một sự thật . Chúng ta không cần nói đến trong cửa Phật .

Trong thế gian pháp, người xưa thường nói: "Học vấn thâm thời ý khí bình", có nghĩa là "người

càng có học vấn thì càng hàm dưỡng", người càng có "đạo đức thì càng có thể bao dung". Hoà

-Thượng thí dụ: Khi ta ra đường gặp một vị xuất gia tu hành được gọi là đạo đức cao, nhưng nếu

vị ấy còn có tâm ngạo nghễ, keo kiệt, khinh người thì đó là thứ giả không phải thiệt . Cho nên

một vị Đại Đức chơn chánh khi anh gần họ nhất định ôn-hoà từ bi, tuyệt đối không ngạo nghễ

kinh người . Đây là nói rõ, kẻ tu thiền định còn có tâm sân nhuế, vừa hơi phật ý một tí là nổi

giận, nếu làm phật ý họ, họ liền có niệm trả thù; đây là thứ giả .

Đây là loại người gì ? Thì ra là quỷ La-sát . Cho nên trong thời kỳ mạt pháp, yêu ma quỷ quái rất

nhiều . La-sát cũng mặc áo cà sa, cũng đội lốt chiêu bài của Phật huỷ diệt Phật pháp, gạt gẫm

chúng sanh, chúng ta không thể không nhận biết . Ở đây, Phật dạy chúng ta nguyên tắc phân biệt

đó . Hàng Tỳ Kheo thanh-tịnh và các vị Bồ-Tát đi trong đường rẽ không dám cỏ non, huống nữa

là lấy tay nhổ cỏ, thì tại sao lấy máu thịt chúng sanh mà làm đồ ăn ? Trong giới Kinh dạy cho

chúng ta, một vị xuất gia trì giới thanh-tịnh, Bồ Tát có hạng tại gia, có hạng xuất gia, đi đường

còn không đạp lên cỏ non, huống là lấy tay để nhổ . Đối với thực vật còn thương tiếc cỡ đó, thì

đối với loại động vật càng thương tiếc hơn; làm sao có thể giết nó, ăn thịt nó ?

Kinh dạy:

"Nếu các Tỳ Kheo không mặc đồ tơ lụa, là-lượt phương Đông và không dùng giày dép, áo

cừu, áo len hay các thứ bơ sữa, phó mát, đề hồ, thì những Tỳ Kheo như thế, đối với thế

gian, đây thật là giải-thoát trả hết nợ cũ xong, thì không vào ba cõi nữa".

Đây là nói đời sống hàng ngày, sự ăn mặc của chúng ta. Chúng ta không ăn thịt, không kết oán

thù với chúng sanh. Nếu như còn mặc da của chúng sanh, thì cùng với Sát Sanh không khác chi

cả . Giống như Sát Sanh. Thuở xưa Trung Quốc với các nước có một con đường thông thương

buôn bán . Người ta vận chuyển tơ tằm đi buôn bán . Đây là người ta giết tằm để lấy tơ, còn tại

Ấn Độ có giày làm bằng da bò, quần áo làm bằng lông cừu . Những thứ này cũng đều là phải sát

sanh mới có được . Những lạc, đề hồ làm bằng sữa, tuy không Sát Sanh, nhưng cũng giựt lấy đồ

ăn của bò con, cũng không nên làm .

Cho nên trong các giới luật nghiêm khắc cấm chỉ, không những không ăn thịt, cũng không được

mặc đồ bằng da ....Phật bảo: "Tỳ Kheo này mới thật là thanh-tịnh" thì mới thật là giải-thoát,

thì không vào trong ba cõi nữa .

Trong Kinh này, từng câu từng câu Phật nói với chúng ta đều là lời nói thật . Kinh nói:

"Dùng những bộ-phận thân thể chúng sanh, thì đều bị ảnh-hưởng chúng sanh, cũng như

người ăn giống bách cốc trong đất, thì chân không rời khởi đất".

Trong Kinh, Phật cho biết, Tổ Tiên chúng ta tữ cõi trời Quang Âm đến . Nói một cách khác,

chúng ta từ một tinh cầu khác di dân đến đây. Hiện nay chúng ta là người Thái Không, Tổ Tiên

chúng ta từ Thái Không đến . Sau khi đến đây, ăn những thứ mọc trên đất, sau đó năng lực mất

hết, không trở về lại được . Nên đoạn trên Kinh nói: "Ăn giống bách cốc trong đất, thì chân

không rời khỏi đất!"

Phật nói, Tổ Tiên chúng ta từ đây mà có . Kinh dạy tiếp:

"Quyết phải khiến cho thân tâm, đối với thân thể hay bộ-phận thân thể của chúng sanh,

đều không ăn không mặc, thì những người như thế, tôi mới gọi là chơn thật giải-thoát .

Như lời tôi nói đây, gọi là lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là lời của ma Ba-

tuần".

Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng xong về giới Sát . Ngài trình bày thêm ba vấn đề liên hệ đến Sát

Sanh, tức là có liên hệ đến việc vãng sanh Cực-Lạc .

1. Phá Thai Có Tội Không ?

Nhiều người đến hỏi Hoà-Thượng rằng phá thai có tội không ? Ngài đáp chẳng những có tội mà

còn có tội nặng nề, và giải thích: "Quan hệ giữa cha mẹ có 4 thứ chuyện: 'báo ơn, báo oan,

đòi nợ, trả nợ". Trong đời quá khứ anh kết duyên với nó, đời này gặp lại nó . Nếu là ác duyên là

nó đến đòi nợ, nó đến để báo oán . Anh đem nó giết chết, mối oán hận của nó kết càng sâu. Sau

này khi gặp lại, mối oán thù mạnh không biết là bao lần . Cho nên không nên phá thai. Nếu như

nó đến báo ân trả nợ là việc tốt, nhưng nếu anh giết hại, mối ân thành thù . Điểm này người

không học Phật, không hiểu rõ sự lý, không biết sự lợi hại . Người biết học Phật, nhất định phải

biết cái Sát Sanh này, so với giết hại các loài động vật, thậm chí so với Sát Sanh một người, mối

oán thù nầy kết lại càng sâu hơn. Tương lai quả báo càng thảm khốc hơn.

Cho nên phá thai là một điều đáng sợ, muôn ngàn lần không thể làm được . Điều này các vị đồng

tu nên biết .

Lời của Tịnh-Hải:

Như Hoà -Thượng Tịnh -Không nói, người không hiểu Phật pháp không rõ sự lý, không biết rõ

sự lợi hại . Dù rằng bào thai còn nhỏ, chưa tượng hình người . Nhưng đứng về tâm linh thì, thần

thức (hay linh hồn) khi nhập vào thai đã có mạng căn rồi . Phá thai là giết một mạng người .

Theo sách Liễu Sanh Thoát Tử, Thần thức, tức Thân Trung-Ấm của người chết được thác sanh

làm người, cảm thấy hai thân nam nữ giao hợp, liền dấy tà niệm . Khi cảm thọ sự dục lạc liền bị

tối tăm mất cả tri-giác và thân trung-ấm bị diệt . Nhưng thọ mạng chưa thành hình mà bị giết .

Nỗi đau đớn kịch liệt không kể xiết, oan hồn không tiêu tan cứ lẫn quẩn theo cha hoặc mẹ, đợi

lúc vận người ấy xấu, liền báo thù . Nếu có sự phát nguyện vãng sanh, việc Vãng Sanh có thể

không thành, vì sát nghiệp của việc quyết định phá thai quá nặng .

2. Bịnh Người Già

Hiện nay trong xã hội có trường hợp thứ hai là bịnh người già, cũng gọi là người thực vật . Trong

Phật giáo gọi là bịnh nghiệp chướng . Có nhiều người chủ-trương cái chết an lạc. Có người hỏi

tôi, khi người này trí giác không còn gì, chỉ có hơi thở chưa dứt . Không những chính mình rất

đau khổ còn làm liên luỵ cả nhà không bình an. Thì giờ càng kéo dài, người nhà càng vô cùng

buồn chán . Sự việc chẳng biết xử trí ra sao? Trong tình trạng này bảo họ phải chết an lạc . Vậy

có tội hay không ?

Tôi trả lời: theo đạo lý, Phật dạy trong Kinh, nhứt định có tội . Phải nên biết, con người thực vật

tuy tất cả tri-giác đều mất hết; nhưng hơi thở chưa dứt . Là nguyên nhân gì ? Hoặc giả, tuy thọ

mạng của họ không còn nữa, nhưng phước báu của họ chưa hưởng hết . Đời của họ phước báu

quá lớn, chưa hưởng tận, thọ mạng đã hết, nhưng còn lại hơi thở để hưởng phước . Đến khi

hưởng hết thì họ sẽ đi, bởi thế không thể giết họ, giết chết họ nhứt định có tội .

3. Có nên quyên góp bộ phận cơ thể ?

Có người hỏi tôi: Những người niệm Phật chúng ta có thể quyên góp bộ phận cơ thể (khí quan)

không ?

Tôi trả lời: nếu quả đã vãng sanh, thì đây không thành vấn đề. Vãng sanh là lúc còn sống mà

vãng sanh. Điều này quí vị nên biết, chẳng phải chết mới vãng sanh. Những người Vãng Sanh

Tây Phương Cực-Lạc Thế giới khi hơi thở họ chưa dứt. Đầu óc họ còn rất tỉnh táo. Phật A-Di-

Đà, Bồ-Tát Quán-Thế-Âm Đại-Thế-Chí đến tiếp dẫn họ. HỌ hoan hỹ vui mừng theo Phật mà đi.

Theo Phật đi, rồi mới tắt thở. Cho nên vãng sanh toàn là sống mà vãng sanh. Thần thức của họ đã

đi đến Tây Phương Cực Lạc Thế giới, thân thể còn lại đem quyên góp thì không có vấn-đề chi cả

.

Nếu như họ chưa vãng sanh thì việc đó phiền phức lớn lắm .

Phật dạy: "Con người sau khi tắt thở, Thần thức của họ còn 8 tiếng đồng hồ mới rời khỏi

thể xác". Trong vòng 8 tiếng nếu anh đụng vào họ, họ cảm thấy đau đớn . Vậy thì, dù khi sống

họ đã phát nguyện hiến tặng khí quan, lúc chết người ta đem thây đi mổ xẻ, lúc ấy họ không chịu

được sự đau đớn hối hận vậy làm sao đây ?

Lúc tâm sân hận này vừa động thì lập tức lọt vào Tam ác đạo! Thế là một việc rắc rối . Người

học Phật chúng ta không thể không quan tâm lo sợ, không thể không hiểu rõ chơn tướng của sự

thật này .

Trên sự là một việc làm tốt . Nếu anh có công phu tu hành chơn chánh có thể được . Còn nếu

không có công phu tu hành này, anh phải dự phòng kẻo lúc đó thì sẽ hối hận .

Điều này không thể hỏi người khác . Người khác không thể hiểu được . Phải hỏi đương sự . Cho

nên đời sau của họ, đi về đường nào có quan hệ mật thiết, điều này xin quý vị thức tỉnh và lưu ý .

Lời của Tịnh-Hải:

Hoà -Thượng nói: "Nếu anh có công phu tu-hành chơn chánh có thể được". Thế nào gọi là

"công phu tu-hành chơn chánh ?"

Người tu Thiền cao có thể đưa thần thức mình ra khỏi thể xác . Các vị đại Lạt-ma Tây Tạng khi

biết mình sắp hết thọ mạng, thường nhập thất, rồi các Ngài xuất hồn tức thần thức ra khỏi xác, đi

tìm một gia-đình có phước đức, chọn để nhập thai.

Có khi thần thức đi xa qua một nước khác để lựa chọn, vì phước đức của cha mẹ tương lai rất

ảnh hưởng đến đời sau của vị sư ấy . Chọn gia-đình xong, thần thức ghi nhận nhà ấy đang ở

hướng nào, có đặc điểm gì trước nhà; sau đó trở về nhập vô xác trở lại .

Vị Sư bèn ghi xuống giấy, nói trước hướng tái sinh của mình, rồi sau đó mới viên tịch . Về sau

người ta theo hướng mà tìm ra vị tái sanh.

Trường hợp một người có công phu tu hành như vậy, trước khi chết hồn đã ra khỏi xác . Khi đem

thây đi mổ xẻ, cưa, thần thức không bị đau đớn, vì thần thức của vị Lạt ma kia đã nhập thai mẹ

rồi .

Trái với trường hợp này, người bình thường chết, thân xác bị đem đi mổ xẻ, khiến cho thần thức

trông thấy, nổi sân giận . Tâm sân giận vừa nổi lên thì lập tức lọt vào Tam-ác-đạo . Như chúng

tôi đã nói, dù kiếp này một người không hề làm ác, nhưng nghiệp-ác từ muôn kiếp trước vẫn

chứa đầy trong Tàng thức của người ấy. Khi chết, gặp duyên xấu, thí dụ một người chết bình

thường, do lời hứa hiến tặng một bộ phận cơ thể, người ta đem thây đi mổ xẻ, thần thức trong

vòng 8 tiếng đồng hồ chưa ra khỏi thân thể, chứng kiến người ta mổ xẻ xác mình, liền cảm thấy

bị đau đớn nổi tâm sân giận (đây là duyên xấu) thì các nghiệp ác từ lâu (dù đời này không làm

ác, thí dụ như vậy) nổi lên, khiến người ấy phải lọt vào Tam-ác-đạo tức ba đường dữ . Đây là

trường hợp trả lời cho những ai nói đời này tôi không làm ác đâu cần gì tu. Về duyên xấu không

phải chỉ có thí dụ sau khi chết bị đem đi mổ xẻ như nói ở trên, mà còn vô số duyên xấu khác; chư

vị tìm hiểu sẽ thấy rõ ràng . Cho nên, người không tu niệm Phật để nương nhờ thần lực của Phật

mà đi vãng sanh, những trường hợp gặp duyên xấu dễ đoạ vào Tam-ác-đạo.

Trở lại bài giảng của Hoà-Thượng Tịnh-Không. Tại sao Hoà-Thượng nói; "Anh có công phu tu

hành chơn chánh có thể được ?".

Có công phu tu hành là đủ rồi, tại sao còn nói công phu tu hành chơn chánh ? Vì đời này có

người dùng lối Thiền xuất hồn, cũng giống như các vị Lạt-ma Tây Tạng . Nhưng có người xuất

hồn không chơn chánh như, dùng cách này để thoả mãn thú tánh, xem các cặp vợ chồng đang

giao hoan.

Trường hợp xuất hồn này dễ làm cho điên loạn .

Thiết tưởng cũng cần nói thêm. Các vị Lạt ma có công phu tu như đã nói thường đã đắc quả cao.

Kinh sách có nói, dù là Bồ-Tát sau khi cách ấm (tức từ thân trung ấm này qua thân khác) thường

bị ngu mê quên hết quá khứ . Phải là bực Đại Bồ -Tát đắc được Vô-sanh pháp nhẫn thì nhập vào

thai mẹ mới không bị ngu mê. Những vị Đại Lạt-Ma, như Ngài To Mo, mà chúng tôi thường

nhắc tên, khi tái sanh, vừa biết nói là nhớ lại hết quá khứ, mới 7 tuổi đã đậu bằng Tiến sĩ Phật

học .

Sở dĩ Phật-giáo Tây Tạng áp dụng được là vì họ có sự truyền thừa, học tập đúng pháp Phật . Còn

tu Thiền khác, dù là biết xuất hồn đều bị coi là Thiền ngoại đạo. Người tu chẳng có lợi gì, vì lối

Tu không được Đức Phật công nhận .

Quý vị Lạt-ma Tây Tạng muốn đem Phật pháp truyền sang các nước Âu Mỹ, trước khi tịch đã

chuyển thần thức của mình nhập thai vào một người mẹ, người khác giống ở Mỹ và Tây-Ban-

Nha.

Đó là trường hợp của Lạt-ma tái sanh Sanggyal Dorje Rinpoche tại Victorville (California), và

Lạt-ma tái sanh Osel Rinpoche ở Tây-Ban-Nha.

Còn thêm hai trường hợp Lạt-ma Tây Tạng tái sanh tại Mỹ . Nhưng phạm vi sách không phải nói

về các vụ tái sanh, mà muốn nói lên rằng người có công phu tu hành trước khi chết thần thức đã

Vãng sanh Cực-Lac; cho nên sau đó, dù thân xác bị đem đi mổ xẻ cũng không nguy hại cho

người chết, vị họ dã vãng sanh rồi .

(Về các chuyện Tái sanh của Lạt-ma Tây-Tạng, chư vị muốn rõ nên tìm xem cuốn Sự Tái-Sanh

của các Lạt-ma Tây Tạng của cô Phương-Dung).

Vấn đề làm nhiều người khổ !

Hoà-Thượng Tịnh-Không giảng tiếp:

Trong nhà chúng ta, những loại như dán, kiến, ruồi, muỗi, giết chúng có bị oán thù hay không ?

Nếu anh không giết nó, nó làm nhiều loạn đời sống của anh. Huống hồ dán và ruồi còn mang đến

môi trường của bịnh truyền nhiễm . Những thứ này, thật là chán ngấy . Nếu giết nó thì phạm giới

sát sanh, tạo nghiệp không giết nó thì sẽ không yên.

Anh vì học Phật không sát sanh, cả nhà đều chửi anh. Cả nhà đều phỉ báng Phật pháp .

Tôi tuy không sát sanh, nhưng khiến cả nhà mang tội phỉ báng Phật pháp, khiến họ tạo tôi nghiệp

thì sao đành ?

Sự việc này thật là nỗi khổ tâm lớn. Cho nên người học Phật, sanh hoạt phải có quy luật, hoàn

cảnh gia đình nên ngăn nắp sạch sẽ . Ngăn nắp sạch sẽ tự nhiên những thứ này sẽ giảm-thiểu, tìm

biện pháp đuổi chúng nó ra ngoài, đừng nên giết hại chúng .

Như muỗi chúng ta có thể thắp nhang xông muỗi. Nhưng nhớ mở hết cửa ra, cho chúng bay ra

ngoài. Nếu các cửa đóng hết thì lại giết hại chúng .

Còn loài kiến, tìm cách dụ nó ra ngoài . Dùng một ít bánh kẹo dụ chúng nó đi. Chỉ là tốn thì giờ

một ít mà thôi. Chúng ta có thể dùng nhiều phương-tiện mà làm .

Ngoài ra, còn có một cách làm thù thắng nhứt nữa . Điều này có thể làm cả nhà anh cảm động .

Với một tấm lòng chơn thành, tấm lòng đại từ bi, ta tụng Kinh niệm Phật hồi hướng cho chúng

nó . Lại truyền thọ quy y cho chúng nó . Sau đó ra lịnh cho chúng phải dọn nhà . Điều này có thể

làm được . Thật chứ không phải giả . Chúng sẽ dọn đi.

Chúng ta hãy xem truyện ký của Ấn Quang Đại Sư. Trước khi trong phòng Ngài ở có nhiều rệp,

muỗi . Thị giả của Ngài muốn đuổi chúng đi, Ngài lắc đầu . Bảo đừng động đến chúng nó . Ngài

nói với thị giả rằng: "Sự tu trì của ta đức độ chưa đủ . Cứ tuỳ nơi chúng, nếu ta thật sự có

đạo hạnh, chúng nó sẽ tự nhiên di chuyển". Ấn Quang Đại Sư sau 70 tuổi, căn phòng Ngài ở,

ruồi, muỗi, kiến, một con tìm cũng không ra. Kẻ khác vừa ở thì có, Ngài vào ở thì không có .

Anh xem chúng nó có linh tánh đấy . Chúng nó chẳng phải là vô-tri. Đối với người có đại đức,

chúng nó rất tôn trọng .

Tổ Ấn-Quang có đại đức, chúng ta không có đức hạnh đó thì chúng ta dùng tâm chơn thành .

Thành tức linh. Chí thành cảm thông, có thể được cảm ứng .

Đây là khi nãy dạy quý vị tụng Kinh, niệm Phật, hồi hướng, truyền thọ Tam Quy cho chúng nó;

sau đó khuyên chúng di chuyển: "Chúng bây cũng có lợi, ta tránh được vừa sát sanh, vừa phá

giới, chúng bây lại mất mạng . Chúng bây dọn đi, chúng ta hai bên đều có lợi". Rất có hiệu quả,

xin cứ thử xem.

Nên tụng Kinh siêu độ Cho oán thân trái chủ

Vẫn còn một việc nữa, điều này chúng ta cần nên làm. Đặc biệt là thời đại hiện nay, chúng sanh

tao nghiệp ác rất nặng, quả báo quá nhiều lần, khổ không thể tả sao cho xiết! Những đồng tu học

Phật chúng ta phải có lòng từ bi, phải có lòng thương xót; phải thường giúp đỡ chung sanh đã tử

nạn .

Chúng ta mỗi ngày tu trì, tụng Kinh niệm Phật, làm việc thiện, đem những công đức này chơn

thành vì họ mà hồi hướng, nếu như đạo tràng tiện lợi . Như tôi, ở Đài-Bắc có một ngôi đạo tràng

nhỏ, ở trên lầu . Đó là Hoa Tạng thư viện của chúng tôi. Mỗi tháng vào tuần lễ cuối, chúng tôi

làm một Pháp Hội Tạm Thời Hộ Niệm . Những đồng tu ngày thường đến nghe Kinh thường

tham gia, độ chừng một hai trăm người, để tụng Kinh siêu độ tất cả chúng sanh trên toàn thế giới

. Cũng tức là đem những oán thân trái chủ trong nhiều kiếp đến nay có thể hoá giải . Chúng tôi

thành tâm thành ý để làm . Mức độ cảm ứng thật bất khả tư-nghị .

Chúng ta trong sanh hoạt hằng ngày làm thế nào đối diện với những sanh hoạt này, làm thế nào

hoá -giải những oan nghiệp của đời quá khứ và hiện tại .