những điể ớ ạ ế ủ ộ ạm quy định về hoạt động ngân hàng, ho...
TRANSCRIPT
1
Những điểm mới và hạn chế của Tội vi phạm quy định về hoạt động
ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng trong BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về Tội vi
phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt
động ngân hàng. Tuy nhiên, qua các lần sửa đổi, bổ sung thì quy định pháp lý
của tội danh này trong BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 cho thấy
vẫn còn những hạn chế, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật.
Trong những năm gần đây tình hình tội phạm xảy ra trong lĩnh vực tài
chính - ngân hàng diễn biến hết sức phức tạp, gia tăng về số vụ vi phạm, mức độ
thiệt hại về kinh tế rất lớn. Tính chất, hành vi, phương pháp thủ đoạn thực hiện
của các đối tượng phạm tội là hết sức tinh vi, xảo quyệt. Số vụ án được phát
hiện khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử là rất khiêm tốn so với tình hình tội phạm
đã xảy ra. Hậu quả của tội phạm này gây ra là đặc biệt nghiêm trọng như tình
hình nợ quá hạn tăng lên, thị trường tài chính tiền tệ bị lũng đoạn, hoạt động sản
xuất kinh doanh của các tổ chức, cá nhân bị ảnh hưởng và gây ra những hệ quả
xấu trong hoạt động kinh doanh và an ninh tiền tệ ở nước ta, gây thiệt hại đền
hàng ngàn tỷ đồng cho các tổ chức tín dụng (sau đây viết tắt là TCDT). Để đáp
ứng công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm này Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi,
bổ sung năm 2017 đã được sửa đổi tội danh này một cách toàn diện…nhưng bên
cạnh đó thì qua các lần sửa đổi, bổ sung cho thây vẫn còn nhiều điểm chưa phù
hợp với thực tiễn mà còn một số hạn chế vướng mắc trong việc áp dụng pháp
luật.
1. Những điểm mới và những hạn chế trong Tội vi phạm quy định về
hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng
Thứ nhất, về tên tội danh. “Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt
động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng” quy định tại Điều 206 BLHS
năm 2017. So với Điều 179 trong BLHS năm 1999 và Điều 206 trong BLHS
năm 2015 thì trong lần sửa đổi, bổ sung năm 2017 này quy định có liên quan
đến Luật Các tổ chức tín dụng và Luật Ngân hàng. Đây là một điểm mới trong
việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự trong hoạt động của các
TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các tổ chức khác có hoạt động liên
quan đến hoạt động ngân hàng. Vi phạm về hoạt đông ngân hàng là vi phạm về
việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số nghiệp vụ: Nhận tiền
gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản1. Như vậy, nội hàm
của tội danh này không chỉ dừng lại ở vi phạm về “cho vay” như đã quy định tại
Điều 179 của BLHS năm 1999. Bởi lẽ, hoạt động ngân hàng bao gồm nhiều hoạt
động khác nhau như cấp tín dụng, nhận tiền gửi, cung ứng dịch vụ thanh toán và
trong mỗi hoạt động này lại có nhiều hình thức hoạt động kinh doanh của
TCTD. Cho vay chỉ là một trong nhiều hình thức đó. Do đó, việc sửa đổi này
1Khoản 1, Điều 6 Luật ngân hàng năm 2010
2
phù hợp với các quy định trong Luật của các TCTD, các văn bản hướng dẫn có
liên quan và thực tiễn của các hành vi vi phạm diễn ra hiện nay cũng như nhằm
bao quát hết phạm vi quy định của tội danh này. Đây là một điểm tiến bộ trong
lần sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tội phạm này.
Thứ hai, những dấu hiệu định tội mới của Tội vi phạm quy định về hoạt
động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng.
Cấp tín dụng cho những trường hợp không được cấp tín dụng trừ
trường hợp cấp dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng (Điểm a, Khoản 1, Điều
206). Như vậy, trong BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã sử dụng
thuật ngữ rộng hơn là “cấp tín dụng” thay cho thuật ngữ “cho vay” trong BLHS
năm 1999. Cấp tín dụng là một trong ba nghiệp vụ của hoạt động ngân hàng. Cụ
thể,cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền
hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng
nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân
hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác2. Ngoài ra, cấp tín dụng còn được
“…đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, phát hành thẻ tín dụng và các nghiệp vụ cấp
tín dụng khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước3”.
Theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 206 BLHS năm 2015 sửa đổi,
bổ sung năm 2017 “cấp tín dụng cho những trường hợp không được cấp tín
dụng trừ trường hợp cấp tín dụng dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng”. Như
vậy, những trường hợp nào thì không được cấp tín dụng hiện nay cũng chưa có
văn bản hướng dẫn cụ thể của Ngân hàng nhà nước. Theo quan điểm tác giả có
thể hiểu hai trường hợp không được cấp tín dụng theo quy định tại Điểm a,
Khoản 1, Điều 206 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 như sau:
+ Trường hợp 1: Cấp tín dụng cho những trường hợp không được cấp
tín dụngtheo quy định của pháp luật. Theo quy định của Luật CácTCTD năm
2010 và Thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20 tháng 11 năm 2014 quy định
các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các TCTD, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài (gọi tắt là Thông tư số 36/2014/TT-NHNN) quy định
những trường hợp không được cấp tín dụng theo quy định tại Điều 126 của Luật
CácTCTD năm 2010 gồm những trường hợp sau đây:
Tổ chức tín dụng (ngoại trừ TCTD là quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài
chính vi mô), chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cấp tín dụng đối với
những tổ chức, cá nhân sau đây:Thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội
đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó
Tổng giám đốc (Phó giám đốc) và các chức danh tương đương của TCTD, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, pháp nhân là cổ đông có người đại diện phần vốn
góp là thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát của TCTD là
2Khoản 14 Điều 4 Luật Cáctổ chức tín dụng năm 2010.
3Khoản 12 Điều 3 của Thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20 tháng 11 năm 2014 quy định các giới hạn, tỷ lệ
bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
3
công ty cổ phần, pháp nhân là thành viên góp vốn, chủ sở hữu của TCTD là
công ty trách nhiệm hữu hạn; cha, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng
quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám
đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc) và các chức danh tương
đương.
Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cấp tín
dụng cho khách hàng trên cơ sở bảo đảm của những đối tượng(được đề cập ở
trên).
Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được bảo đảm
dưới bất kỳ hình thức nào để TCTD khác cấp tín dụng cho đối tượng (được đề
cấp ở trên).
Tổ chức tín dụng không được cấp tín dụng cho doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán mà TCTD nắm quyền kiểm soát. (quyền
kiểm soát của TCTD đối với công ty kinh doanh chứng khoán được xác định khi
TCTD sở hữu trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần phổ thông của công ty
kinh doanh chứng khoán)4.
Tổ chức tín dụng không được cấp tín dụng trên cơ sở nhận bảo đảm bằng
cổ phiếu của chính TCTD hoặc công ty con của TCTD.
Tổ chức tín dụng không được cho vay để góp vốn vào một TCTD khác
trên cơ sở nhận tài sản bảo đảm bằng cổ phiếu của chính TCTD nhận vốn góp.
Ngoài ra, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cấp tín
dụng cho khách hàng để đầu tư, kinh doanh trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm
yết5.
+ Trường hợp 2: Cấp tín dụng cho trường hợp không được cấp tín dụng,
trừ trường hợp cấp dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng. Cấp tín dụng cho
những trường hợp không được cấp tín dụng là trường hợp theo sự nhận định,
đánh giá, phân tích của TCTD cho rằng khách hàng không có đủ điều kiện để
được cấp tín dụng như năng lực tài chính yếu, tài sản bảo đảm không đủ cho
khoản vay, mục đích vay vốn không khả thi, không đúng mục đích vay hoặc hồ
sơ vay vốn thiếu chứng từ…Đây là những dấu hiệu đặc trưng phổ biến để các
TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài từ chối cấp tín dụng cho khách hàng.
Theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 206 là “Cấp tín dụng cho
những trường hợp không được cấp tín dụng trừ trường hợp cấp dưới hình thức
phát hành thẻ tín dụng”. Như vậy, việc quy định cho vay dưới hình thức phát
hành thẻ thì vẫn được cấp tín dụng bình thường, có thể thấy một điều bất hợp lý
bởi lẽ theo quy định tại Điều 126 Luật Các TCTD và Điều 11 của Thông tư số
36/2014/TT-NHNN cũng không có ngoại lệ này. Do đó, việc quy định những
4Điểm a,Khoản 1, Điều 189 Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Quyết định số 234/2003/QĐ-BTC ngày 30 tháng
12 năm 2003 về việc ban hành và công bố sáu (06) chuẩn mực kế toán Việt Nam (Đợt 3) tr 25. 5Điều 11 của Thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20 tháng 11 năm 2014 quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm
an toàn trong hoạt động của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
4
hành vi này tạo điều kiện cho những trường hợp không được cấp tín dụng ở trên
sẽ “lách” bằng cách TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ cấp tín dụng cho
những trường hợp không được cấp tín dụng dưới hình thức phát hành thẻ tín
dụng. Đây là một hạn chế cần được hướng dẫn để có cơ sở áp dụng thống nhất
pháp luật.
Cấp tín dụng không có bảo đảm hoặc cấp tín dụng với điều kiện ưu
đãi cho đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo quy định của pháp luật (Điểm b,
Khoản 1, Điều 206). Theo quy định tại Khoản 1, Điều 127 Luật Các TCTD năm
2010 quy định về “…cấp tín dụng không có bảo đảm, cấp tín dụng với điều kiện
ưu đãi cho những đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng…”. Theo đó TCTD, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài không được cấp tín dụng không có bảo đảm, cấp
tín dụng với điều kiện ưu đãi cho những đối tượng sau đây: Tổ chức kiểm toán,
kiểm toán viên đang kiểm toán tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
thanh tra viên đang thanh tra tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; kế
toán trưởng của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; cổ đông lớn, cổ đông
sáng lập; doanh nghiệp có một trong những đối tượng quy định tại Khoản 1,
Điều 126 của Luật TCTD năm 2010 sở hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh
nghiệp đó; người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng; các công ty con, công ty
liên kết của TCTD hoặc doanh nghiệp mà TCTD nắm quyền kiểm soát. Trong
trường hợp nếu có việc cấp tín dụng đối với những đối tượng trên phải được Hội
đồng quản trị, Hội đồng thành viên của TCTD thông qua và công khai trong
TCTD6.
Vi phạm quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn cho hoạt động của tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của Luật các tổ chức
tín dụng. (Điểm c, Khoản 1, Điều 206). Chiếu theo quy định về Tỷ lệ bảo đảm
an toàn (Điều 130) của Luật Các TCTD năm 2010 quy định TCTD, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài phải duy trì các tỷ lệ bảo đảm an toàn sau đây: Tỷ lệ khả
năng chi trả; tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% hoặc tỷ lệ cao hơn theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ; tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn
được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn; trạng thái ngoại tệ, vàng tối đa so
với vốn tự có; tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi; các tỷ lệ tiền gửi trung,
dài hạn so với tổng dư nợ cho vay trung, dài hạn.
Cố ý nâng khống giá trị tài sản bảo đảm khi thẩm định giá để cấp tín
dụng đối với trường hợp phải có tài sản bảo đảm (Điểm d, Khoản 1, Điều 206).
Đây là hành vi được chính thức quy định trong BLHS năm 2017. Trước đây,
trong thực tiễn khi xét xử hành vi “cố ý nâng khống giá trị tài sản bảo đảm khi
thẩm định giá để cấp tín dụng” đã được xem xét để truy cứu TNHS tại điểm c
khoản 1 Điều 179 BLHS năm 1999 với “hành vi khác…” Đây là hành vi vi
phạm phổ biến trong hoạt động cấp tín dụng với mục đích để cho khách hàng
vay được số tiền lớn giá trị tài sản đảm bảo để hưởng hoa hồng từ khách hàng,
6Khoản 3, Điều 127 Luật Các TCTD năm 2010.
5
hành vi này được đánh giá để xem xét xác định hậu quả gây thiệt hại của người
phạm tội, hành vi vi phạm này dẫn đến tài sản bảo đảm không đủ giá trị để thu
hồi nợ khi xảy ra nợ quá hạn.
Vi phạm quy định của pháp luật về tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối
với đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng (Điểm đ, Khoản 1,Điều 206).Theo đó tổng
mức dư nợ cấp tín dụng bao gồm tổng số dư nợ cho vay, chiết khấu, tái chiết
khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, thẻ tín
dụng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước, số dư bảo lãnh và các khoản ủy thác cho TCTD, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài khác cấp tín dụng7. Theo quy định tại Điều 127 Luật Các TCTD năm
2010 thì vi phạm quy định về tổng mức dư nợ tín dụng đối với các đối tượng bị
hạn chế cấp tín dụng cụ thể như sau:
+ Tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên đang kiểm toán tại TCTD, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài; thanh tra viên đang thanh tra tại TCTD, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài; kế toán trưởng của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài; cổ đông lớn, cổ đông sáng lập; doanh nghiệp có một trong những đối
tượng là: Thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, thành
viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó giám
đốc) và các chức danh tương đương của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, pháp nhân là cổ đông có người đại diện phần vốn góp là thành viên Hội
đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát của TCTD là công ty cổ phần, pháp
nhân là thành viên góp vốn, chủ sở hữu của TCTD là công ty trách nhiệm hữu
hạn; cha, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội
đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó
Tổng giám đốc (Phó giám đốc) và các chức danh tương đương sở hữu trên 10%
vốn điều lệ của doanh nghiệp đó thì tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với các đối
tượng này không được vượt quá 5% vốn tự có của TCTD, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài.
+ Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một công ty con, công ty liên
kết của TCTD hoặc doanh nghiệp mà TCTD nắm quyền kiểm soát không được
vượt quá 10% vốn tự có của TCTD; đối với tất cả các công ty con, công ty liên
kết của TCTD hoặc doanh nghiệp mà TCTD nắm quyền kiểm soát không được
vượt quá 20% vốn tự có của TCTD.
Như vậy, vi phạm quy định của pháp luật về tổng mức dư nợ tín dụng
đối với các đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo quy định tại Điểm d, Khoản
1, Điều 206 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là hành vi được quy
định tại Khoản 2, Khoản 4, Điều 127 Luật Các TCTD năm 2010.
Cấp tín dụng vượt giới hạn so với vốn tự có đối với một khách hàng và
người có liên quan, trừ trường hợp có chấp thuận của người có thẩm quyền theo
7Khoản 13 Điều 3 Thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20 tháng 11 năm 2014 quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo
đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
6
quy định của pháp luật (Điểm e,Khoản 1, Điều 206). Hành vi khách quan “cấp
tín dụng vượt giới hạn so với vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên
quan8” mà không quy định hành vi về các giới hạn cấp tín dụng đối với một
khách hàng là bất hợp lý. Bởi lẽ, hành vi cấp tín dụng vượt giới hạn so với vốn
tự có đối với một khách hàng sẽ phổ biến hơn là cấp tín dụng vượt giới hạn so
với vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan, mặt khác trong
Khoản 1 và Khoản 2, Điều 128 Luật Các TCTD năm 2010 quy định về hai loại
giới hạn cấp tín dụng là giới hạn đối với một khách hàng; giới hạn một khách
hàng và người liên quan chứ không chỉ quy định cấp tín dụng vượt giới hạn so
với vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan.
Theo quy định Luật Các tổ chức tín dung thì “…tổng mức dư nợ cấp tín
dụng đối với một khách hàng và người có liên quan không được vượt quá 25%
vốn tự có của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín
dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô”9. Ngoài ra, việc quy định hành vi cấp
tín dụng vượt giới hạn so với vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên
quan, trừ trường hợp có chấp thuận của người có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật. Vậy, quy định người có thẩm quyền ở đây là ai ? (Chủ tịch Hội đồng
quản trị hay Tổng giám đốc…) Vấn đề này cần có văn bản hướng dẫn để có thể
xác định một cách thống nhất khi áp dụng quy định tại Điểm e, Khoản 1, Điều
8Đối với người có liên quan của một tổ chức (bao gồm cả TCTD) gồm các trường hợp sau đây: Công ty mẹ hoặc
TCTD là công ty mẹ (sau đây gọi là TCTD mẹ) của tổ chức đó; Công ty con của tổ chức đó; Công ty có cùng
công ty mẹ hoặc cùng TCTD mẹ của tổ chức đó; Người quản lý, thành viên Ban kiểm soát của công ty mẹ hoặc
của TCTD mẹ của tổ chức đó; Cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý, thành viên Ban
kiểm soát của công ty mẹ hoặc TCTD mẹ của tổ chức đó; Người quản lý, thành viên Ban kiểm soát của tổ chức
đó; Công ty, tổ chức có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý, thành viên Ban kiểm soát của tổ chức đó; Vợ,
chồng, cha, mẹ, con (bao gồm cả cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi, bố chồng (bố vợ), mẹ chồng (mẹ vợ), con dâu
(con rể), bố dượng, mẹ kế, con riêng của vợ hoặc chồng), anh ruột, chị ruột, em ruột (bao gồm cả anh, chị, em
cùng mẹ khác cha hoặc cùng cha khác mẹ), anh rể, chị dâu, em dâu, em rể của người quản lý, thành viên Ban
kiểm soát, thành viên góp vốn hoặc cổ đông sở hữu từ 5% vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần có quyền biểu quyết trở
lên của tổ chức đó; Tổ chức, cá nhân sở hữu từ 5% vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần có quyền biểu quyết trở lên tại
tổ chức đó; Cá nhân được ủy quyền đại diện phần vốn góp, cổ phần cho tổ chức đó.
Đối với người có liên quan của một cá nhângồm các trường hợp sau đây: Vợ, chồng, cha, mẹ, con (bao gồm cả
cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi, bố chồng (bố vợ), mẹ chồng (mẹ vợ), con dâu (con rể); bố dượng, mẹ kế, con riêng
của vợ hoặc chồng), anh ruột, chị ruột, em ruột (bao gồm cả anh, chị, em cùng mẹ khác cha hoặc cùng cha khác
mẹ), anh rể, chị dâu, em dâu, em rể của cá nhân đó; Công ty hoặc TCTD mà cá nhân đó sở hữu từ 5% vốn điều
lệ hoặc vốn cổ phần có quyền biểu quyết trở lên; Công ty con mà cá nhân đó là người quản lý, thành viên Ban
kiểm soát của công ty mẹ hoặc TCTD mẹ; Công ty con mà cá nhân đó có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý,
thành viên Ban kiểm soát của công ty mẹ hoặc TCTD mẹ; Công ty hoặc TCTD mà cá nhân đó là người quản lý,
thành viên Ban kiểm soát; Công ty hoặc TCTD mà cá nhân đó là vợ, chồng, cha, mẹ, con (bao gồm cả cha nuôi,
mẹ nuôi, con nuôi, bố chồng (bố vợ), mẹ chồng (mẹ vợ), con dâu (con rể), bố dượng, mẹ kế, con riêng của vợ
hoặc chồng), anh ruột, chị ruột, em ruột (bao gồm cả anh, chị, em cùng mẹ khác cha hoặc cùng cha khác mẹ),
anh rể, chị dâu, em dâu, em rể của người quản lý, thành viên Ban kiểm soát, thành viên góp vốn hoặc cổ đông sở
hữu từ 5% vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần có quyền biểu quyết trở lên của công ty hoặc TCTD đó; Tổ chức, cá
nhân ủy quyền đại diện phần vốn góp, cổ phần cho cá nhân đó; Cá nhân cùng với cá nhân đó được một tổ chức
ủy quyền đại diện phần vốn góp, cổ phần tại một tổ chức khác; Cá nhân được cá nhân đó ủy quyền đại diện phần
vốn góp, cổ phần. Ngoài ra, để đảm bảo kiểm soát rủi ro do tập trung tín dụng trong hoạt động ngân hàng,
TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được bổ sung những trường hợp người có liên quan khác ngoài các
trường hợp quy định trên trong các quy định nội bộ của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. (khoản 15 Điều
3 của Thông tư 36) 9 Khoản 1, Điều 128 Luật các TCTD năm 2010
7
206 “trừ trường hợp có chấp thuận của người có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật”.
Ngoài ra, việc quy định hành vi “cấp tín dụng vượt giới hạn so với vốn
tự có đối với một khách hàng và người có liên quan” theo quy định tại Điểm đ,
Khoản 1, Điều 206 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là chưa phù hợp với
các quy định của BLHS. Bởi lẽ, trường hợp cấp tín dụng này quá lớn nên không
thể do một cá nhân có thẩm quyền quyết định phê duyệt về hạn mức cấp tín
dụng này mà phải là do Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên của TCTD
hoặc ủy quyền cho một nhóm người thực hiện mới có thẩm quyền phê duyệt,
quyết định cấp tín dụng. Do đó, trong trường hợp này việc cấp tín dụng phải do
Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên (pháp nhân thương mại) thông qua. Như
vậy, hành vi khách quan này đã hội đủ các điều kiện chịu TNHS của pháp nhân
thương mại là khi được thực hiện nhân danh, vì lợi ích, có sự chỉ đạo, điều hành
hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại theo điểm a, b, c Điều 75 BLHS
năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 nhưng theo quy định tại Điều 76 BLHS
năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định phạm vi chịu TNHS của pháp
nhân thương mại thì không có quy định tội danh này đây là một hạn chế trong
việc quy định TNHS của pháp nhân ở BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm
2017. Trên thực tế những vụ án lớn được đưa ra xét xử về hành vi cấp tín dụng
vượt giới hạn nhưng ở đây có thể là cấp tín dụng vượt giới hạn trên giá trị tài sản
bảo đảm hoặc vượt giới hạn về hạn mức thẩm quyền của người cho vay. Theo
BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 ví dụ Giám đốc phòng giao dịch
được Tổng giám đốc cho giới hạn về cấp tín dụng là 2 tỷ đồng nhưng đã cho vay
vượt quá 2 tỷ đồng sẽ phải chịu TNHS theo Điểm c,Khoản 1, Điều 179 về “hành
vi khác…” nhưng theo quy định tại Điểm e, Khoản 1, Điều 206 BLHS 2015, sửa
đổi, bổ sung năm 2017 thì những hành vi này sẽ không phải chịu TNHS trong
BLHS năm 2017 vì hành vi này đã quy định cụ thể trong trường hợp cho vay
“vượt giới hạn so với vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan”
chứ không phải quy định chung chung “cho vay quá giới hạn quy định” như
Điểm b, Khoản 1, Điều 179 BLHS năm 1999. Đây là một hạn chế trong điểm
mơi của tội danh này.
Vi phạm quy định của pháp luật về góp vốn, giới hạn góp vốn, mua cổ
phần, điều kiện cấp tín dụng (Điểm e, Khoản 1, Điều 206). Đối với hành vi quy
định tại Điểm e, Khoản 1, Điều 206 thì có thể hiểu gồm hai hành vi vi phạm
khác nhau là vi phạm về góp vốn, giới hạn góp vốn, mua cổ phần; vi phạm điều
kiện cấp tín dụng.
+ Hành vi góp vốn, mua cổ phần của TCTD là việc TCTD góp vốn cấu
thành vốn điều lệ, mua cổ phần và các hình thức khác để trở thành cổ đông,
thành viên góp vốn của các doanh nghiệp, TCTD khác, bao gồm cả việc cấp vốn
điều lệ, góp vốn vào công ty con, công ty liên kết của TCTD; góp vốn vào quỹ
đầu tư hoặc ủy thác vốn cho các tổ chức khác góp vốn, mua cổ phần theo các
8
hình thức nêu trên10
. Vi phạm quy định của pháp luật về góp vốn, giới hạn góp
vốn, mua cổ phần gồm các hành vi sau:
TCTD không được góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp, TCTD
khác là cổ đông, thành viên góp vốn của chính TCTD đó.
Mức góp vốn, mua cổ phần của một ngân hàng thương mại và các công
ty con, công ty liên kết của ngân hàng thương mại đó vào một doanh nghiệp
hoạt động trên lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán, kiều hối, kinh doanh ngoại hối,
vàng, bao thanh toán, phát hành thẻ tín dụng, tín dụng tiêu dùng, dịch vụ trung
gian thanh toán, thông tin tín dụng và những lĩnh vực khác không được vượt quá
11% vốn điều lệ của doanh nghiệp nhận vốn góp.
Tổng mức góp vốn, mua cổ phần của một ngân hàng thương mại vào các
doanh nghiệp, kể cả các công ty con, công ty liên kết của ngân hàng thương mại
đó không được vượt quá 40% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của ngân hàng thương
mại.
Mức góp vốn, mua cổ phần của một công ty tài chính và các công ty con,
công ty liên kết của công ty tài chính vào một doanh nghiệp không được vượt
quá 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp nhận vốn góp.
Tổng mức góp vốn, mua cổ phần của một công ty tài chính vào các
doanh nghiệp, kể cả các công ty con, công ty liên kết của công ty tài chính đó
không được vượt quá 60% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của công ty tài chính11
.
+ Vi phạm điều kiện cấp tín dụng. Theo quy định của Ngân hàng nhà
nước thì điều kiện để được cấp tín dụng cho khách hàng vay vốn thì khách hàng
là pháp nhân có năng lực pháp luật dân sự theo quy định của pháp luật. Khách
hàng là cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy
định của pháp luật hoặc từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất hoặc
hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật; Nhu cầu vay vốn
để sử dụng vào mục đích hợp pháp; Có phương án sử dụng vốn khả thi; Có khả
năng tài chính để trả nợ; Trường hợp khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng
theo thỏa thuận về lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam nhưng không
vượt quá mức lãi suất cho vay tối đa do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam quyết định trong từng thời kỳ nhằm đáp ứng một số nhu cầu vốn trong một
số trường hợp, thì khách hàng được tổ chức tín dụng đánh giá là có tình hình tài
chính minh bạch, lành mạnh12
.
Trên thực tế vi phạm điều kiện cấp tín dụng phổ biến hiện nay ở trong
các TCTD là cho vay khách hàng vay vốn khi không đủ năng lực tài chính,
10Khoản 16, Điều 3 Thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20 tháng 11 năm 2014 quy định các giới hạn, tỷ lệ
bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. 11
Theo Điều 129 của Luật Các TCTD năm 2010. 12
Điều 7 của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
quy định về hoạt động cho vay của TCTD, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.
9
không đủ vốn tự có và không có khả năng chuyên môn để thực hiện dự án; cho
khách hàng vay để sản xuất kinh doanh nhưng trong hồ sơ không có giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh về ngành nghề đó hoặc cho vay đối với khách hàng để
sản xuất kinh doanh ngành, nghề không có trong danh mục được phép kinh
doanh trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; cho khách hàng vay vốn khi
hồ sơ vay thiếu dự án, phương án vay vốn; hồ sơ vay vốn chưa đủ căn cứ chứng
minh nguồn vốn tự có tham gia vào dự án theo quy định; cho khách hàng vay
vốn khi thiếu báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính, tình
hình công nợ; không có phương án sản xuất kinh doanh; cho vay khi biết khách
hàng có nợ quá hạn ở các TCTD khác nhưng vẫn cố tình lập hồ sơ để cho
vay..v.v đấy là những dấu hiệu khách quan đặc trưng của tội phạm này.
Phát hành, cung ứng, sử dụng các phương tiện thanh toán không hợp
pháp; làm giả chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán; sử dụng chứng từ
thanh toán, phương tiện thanh toán giả (Điểm h, Khoản 1, Điều 206). Đây là
hành vi mới được cụ thể hóa trong BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung trong
BLHS năm 2017. Có thể được hiểu như sau:
+ Hành vi phát hành, cung ứng, sử dụng các phương tiện thanh toán
không hợp pháp có thể là hành vi phát hành, cung ứng phương tiện thanh toán;
thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu,
thẻ ngân hàng (ATM), thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách
hàng thông qua tài khoản của khách hàng trái với quy định của Ngân hàng nhà
nước và của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
+ Hành vi làm giả chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán là hành
vi làm giả các hóa đơn, chứng từ, thẻ tín dụng, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm
thu…, hành vi này trái với quy định của ngân hàng nhà nước và của các TCTD,
chi nhánh Ngân hàng nước ngoài.
+ Sử dụng chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán giả là hành vi
của người phạm tội sử dụng các chứng từ, phương tiện thanh toán như các hóa
đơn, chứng từ, thẻ tín dụng, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu…Được làm ra
trái với quy định của Ngân hàng nhà nước và các TCTD, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài.
Kinh doanh vàng trái phép hoặc kinh doanh ngoại hối trái phép
(Điểm i,Khoản 1, Điều 206). Đây là hành vi lần đầu tiên được quy định trong tội
danh này từ thực tiễn trong hoạt động kinh doanh vàng trái phép, kinh doanh
ngoại hối trái phép chứa đựng nhiều nguy cơ trong việc lợi dụng hoạt động kinh
doanh vàng, ngoại hội để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác.
Do đó, nhà làm luật đã bổ sung hành vi kinh doanh vàng trái phép, kinh doanh
ngoại hối trái phép vào trong tội danh này, tức người nào thực hiện kinh doanh
vàng trái phép hoặc kinh doanh ngoại hối trái phép gây thiệt hại cho người khác
về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng thì phải chịu TNHS
theo Khoản 1, Điều 206 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
10
Tiến hành hoạt động ngân hàng khi chưa được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cho phép theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và
Luật các tổ chức tín dụng(Điểm k,Khoản 1, Điều 206).
Hành vi tiến hành hoạt động ngân hàng khi chưa được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cho phép là hành vi Ngân hàng nhà nước chưa cho phép thành
lập, hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật ngân hàng nhà nước và Luật
các tổ chức tín dụng nhưng vẫn tiến hành thành lập, hoạt động. Hành vi này ở
một số nước trên thế giới cũng đã được đưa vào BLHS ví dụ Điều 174 của
BLHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa13
và Điều 172 BLHS của nước Cộng
hòa liên bang Nga14
.
Thứ ba, quy định lỗi người thực hiện hành vi phạm tội phải là lỗi cố ý.
Trong Điều 206 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định
lần sửa đổi, bổ sung năm 2017 chỉ quy định lỗi cố ý ở Điểm d, Khoản 1, Điều
206 là “cố ý nâng khống giá trị tài sản bảo đảm… ” còn các hành khác thì
không ghi quy định cụ thể là lỗi cố ý. Trong khi Điều 206 BLHS năm 2015 Tội
vi phạm quy định trong hoạt động của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài quy định ở cấu thành cơ bản Khoản 1, Điều 206 BLHS năm 2015 “Người
nào trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
mà cố ý thực hiện một trong các hành vi…” trong khi Điều 206 BLHS 2015 sửa
đổi, bổ sung năm 2017 thì quy định tại Khoản 1, Điều 206 “người nào thực hiện
một trong các hành vi sau đây….” Như vậy, điều luật đã bỏ dấu hiệu lỗi cố ý ở
cấu thành cơ bản, chỉ quy định lỗi cố ý ở Điểm d, Khoản 1, Điều 206. Đây là
một sự thiếu hợp lý trong lần sửa đổi, bổ sung tội danh này.
Trong Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác
liên quan đến hoạt động ngân hàng thì mặt chủ quan của tội phạm được biểu
hiện thông qua chủ thể của tội phạm nhận thức được hành vi và hậu quả vi phạm
của người phạm tội gây ra là không đúng quy định, quy trình, quy chế trong hoạt
động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng của các
TCTD nhưng vẫn thực hiện các hành vi vi phạm với mong muốn cho hậu quả
thiệt hại tài sản của TCTD xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho
hậu quả thiệt hại tài sản của TCTD xảy ra.
Như vậy, khi xác định lỗi của Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân
hàng , hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng phải khẳng định đây
là lỗi cố ý, có nghĩa người thực hiện hành vi vi phạm quy định về hoạt động
ngân hàng và hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng được quy định
ở các Điểm a, b, c, d, e, g, h, i, k, Khoản 1, Điều 206 BLHS năm 2015 sửa đổi,
bổ sung năm 2017, khi nhận thức được việc vi phạm các quy định về hoạt động
ngân hàng và hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng không đúng
quy định của pháp luật và quy định nội bộ của TCTD nhưng vẫn cố ý thực hiện
13
Đinh Bích Hà (2007), Bộ luật hình sự của Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, NXB Tư Pháp, Tr 115. 14
Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), BLHS Cộng hòa liên bang Nga, NXB Công an nhân dân, tr 292,294.
11
để gây thiệt hại cho các TCTD. Ví dụ cố ý cấp tín dụng nhưng không tiến hành
thẩm tra thẩm thẩm định mục đích vay, thẩm định hoạt động kinh doanh, thẩm
định năng lực tài chính thực tế của khách hàng vay….trong trường hợp cán bộ,
nhân viên các TCTD đã thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật và quy định
nội bộ của TCTD nhưng đã thiếu kiểm tra, giám sát khi cấp tín dụng hoặc tin
tưởng cấp dưới khi trình hồ sơ cấp tín dụng mà không trực tiếp đi thẩm định hồ
sơ để cho vay dẫn đến gây thiệt hại cho TCTD…. vi phạm quy định về hoạt
động ngân hàng nhưng ở lỗi vô ý thì có thể truy cứu trách nhiệm hình sự ở tội
thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng Điều 360 BLHS năm 2015 sửa đổi,
bổ sung năm 2017.
Thứ tư, BLHS năm 2015 đã cụ thể hóa giá trị gây thiệt hại về tài sản, bổ
sung khung hình phạt tù, tăng hình phạt tiền và quy định mới hình phạt bổ sung.
Cấu thành cơ bản Khoản 1, Điều 206 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung
năm 2017 so với Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các
TCTD (Điều 179 BLHS năm 1999) thì đã định lượng cụ thể “gây thiệt hại cho
người khác về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng, thì bị
phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng
đến 03 năm”; Khoản 2, Điều 206 định khung tăng năng khi gây thiệt hại “tài
sản từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 03 năm
đến 07 năm”; Khoản 3, Điều 206 định khung tăng năng khi gây thiệt hại “tài
sản từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 07
năm đến 12 năm”; Khoản 4, Điều 206 định khung tăng năng khi gây thiệt hại
“tài sản 3.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm”.
Trong quy định khung hình phạt thì quy định mới về một khung hình phạt chính
so với Điều 179 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009, việc bổ sung thêm
khung hình phạt chính góp phần thu hẹp khoảng cách giữa các năm phạt tù trong
một khoản của điều luật tạo cơ sở khi quyết định hình phạt không có sự chênh
lệnh khoảng cách nhau quá nhiều, trong khung hình phạt tù đã giảm mức hình
phạt tù khởi điểm xuống còn “06 tháng đến 03 năm”.
Về dấu hiệu gây hậu quả thiệt hại của Điều 206 BLHS năm 2015 sửa
đổi, bổ sung năm 2017 đã được định lượng cụ thể về hậu quả gây thiệt hại ở các
khoản của điều luật để định tội cũng như định khung của tôi phạm này. Trong
khi đó Điều 179 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì để định tội
cũng nhưng đinh khung phải căn cứ vào dấu hiệu định tính “gây hậu quả nghiêm
trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”
do đó khi xác định TNHS của tội danh này trong BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ
sung năm 2009 không thể xác định hậu quả là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng,
đặc biệt nghiêm trọng. Đây là một bước tiến phát triển trong việc xây dựng và
hoàn thiện lập pháp trong BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Trong quy định hình phạt tiền Điều 206 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ
sung năm 2017 quy định “phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng”
mức phạt tiền cũng được nâng lên rất nhiêu so với BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ
12
sung năm 2009 thể hiện quan điểm của Nhà nước trong việc “giảm hình phạt tù,
mở rộng áp dụng hình phạt tiền15
”, dựa trên sự lạm phát của đồng tiền và đảm
bảo sức răn đe nhằm đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.
Đối với quy định hình phạt bổ sung thì BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung
năm 2017 thì vẫn giữ nguyên nội dung quy định hình phạt bổ sung, chỉ sửa cụm
từ “làm công việc liên quan” thành cụm từ “làm công việc nhất định”.
Như vậy, Các quy định của Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân
hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng (Điều 206) trong
BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã làm rõ hậu quả gây thiệt hại để
xác định dấu hiệu định tội và dấu hiệu định khung; tăng quy định mức hình phạt
tiền; mở rộng và làm giảm khoảng cách hình phạt tù là những điểm mới và tiến
bộ trong BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã giải quyết được những
hạn chế của tội danh này trong BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Bên cạnh đó, Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên
quan đến hoạt động ngân hàng vẫn còn những hạn chế nhất định như: các hành
vi khách quan của tội danh này việc áp dụng pháp luật sẽ không khả thi, đi sâu
phân tích hành vi khách quan cho thấy các hành vi từ điểm a, b, c, đ, e, h, i, k
Khoản 1, Điều 206 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 được luật hóa
từ các điều luật của chương 6 Luật Các TCTD năm 2010 nhưng trong thực tiễn
xét xử các vụ án về tội danh này thì chưa có một vụ án nào được viện dẫn từ các
hành vi được nêu trongchương 6 Luật Các TCTD năm 2010 để định tội. Thực tế,
nội hàm của hành vi khách quan cấu thành tội phạm này là vi phạm về điều kiện
cấp tín dụng; vi phạm trong việc thẩm định cho vay; vi phạm về hồ sơ vay; vi
phạm về nguyên tắc cho vay và kiểm tra giám sát trong việc cho vay; vi phạm
về phát hành, cung ứng, sử dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp… Vi
phạm các quy trình, quy chế, trình tự, thủ tục trong việc cấp tín dụng của từng
TCTD tự ban hành ra. Có thể thấy, các hành vi khách quan của tội danh này đã
cụ thể hóa rõ ràng hơn các hành vi khách quan của Điều 179 BLHS năm 1999
sửa đổi bổ sung năm 2009 như theo quan điểm của tác giả khi nghiên cứu đánh
giá tội danh này thì các hành vi được quy định từ điểm a cho đến điểm k khoản
1 Điều 206 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 cho thấy thực tiễn các
hành vi khách quan thường diễn ra ở các hành vi sau:“Cố ý nâng khống giá trị
tài sản bảo đảm khi thẩm định giá để cấp tín dụng đối với trường hợp phải có
tài sản bảo đảm”; “vi phạm … điều kiện cấp tín dụng”; “Phát hành, cung ứng,
sử dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp; làm giả chứng từ thanh toán,
phương tiện thanh toán; sử dụng chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán
giả”còn các hành vi còn lại tại Khoản 1, Điều 206 năm 2015 sửa đổi, bổ sung
năm 2017 thì quy định còn thiếu khả thi và quy định chưa rõ ràng. Do đó, các
hành vi của Điều 206 sửa đổi, bổ sung năm 2017 vẫn chưa “lột tả” hết nội hàm
của Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến
15
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, tr 5.
13
hoạt động ngân hàng để có cơ sở xử lý đấu tranh, phòng ngừa tội danh này một
cách hiệu quả.
Trên là những điểm mới và hạn chế của Tội vi phạm quy định về hoạt
động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng theo quy
định tại Điều 206 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 so với Tội vi
phạm quy định trong hoạt động của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
Điều 206 BLHS năm 2015 và Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động
của các TCTD quy định tại Điều 179 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm
2009.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về Tội vi
phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt
động ngân hàng
Thứ nhất, bổ sung cụm từ “cố ý” vào trong câu thành cơ bản của điều
luật. Cụ thể “người nào cố ý thực hiện một trong các hành vi sau đây….” Thì
phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 206 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung
năm 2017.
Thứ hai, hinh sự hóa một số hành vi khách quan. Theo quy định cấu
thành cơ bản của Khoản 1 Điều 206 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm
2017 so với Điều 179 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung 2009 thì đã cụ thể hóa
các hành vi khách quan của tội phạm vào trong điều luật, nhưng qua phân tích,
nghiên cứu các hành vi khách quan của Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân
hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàngcho thấy vẫn còn những
hạn chế trong quy định dấu hiệu pháp lý của tội danh này đang diễn ra trên thực
tế hiện nay như vi phạm về nguyên tắc cho vay, vi phạm về hồ sơ cho vay, vi
phạm trong thẩm định cho vay, vi phạm về kiểm tra giám sát khi cho vay, vi
phạm về bảo đảm tiền vay…
Do đó, tác giả kiến nghị bổ sung các hành vi khách quan trong hoạt động
cho vay của tội danh này bao gồm: Vi phạm nguyên tắc cho vay, vi phạm hồ sơ
cho vay, vi phạm trong thẩm định cho vay, vi phạm kiểm tra giám sát khi cho
vay, vi phạm bảo đảm tiền vay là dấu hiệu định tội của tội danh này. Sửa đổi
hành vi “cố ý nâng khống giá trị tài sản bảo đảm khi thẩm định giá để cấp tín
dụng” tại Điểm d, Khoản 1, Điều 206 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm
2017 thay bằng thuật ngữ “vi phạm trong thẩm định cho vay” bởi lẽ, vi phạm
trong thẩm định khi cho vay bao gồm nhiều hành vi trong đó có hành vi cố ý
nâng khống giá trị bảo đảm để cho vay.
Hình sự hóa đối với hành vi huy động vốn trong hoạt động của các
TCTD. Theo quy định của Luật các TCTD năm 2010 thì TCTD là doanh nghiệp
thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng16
. Hoạt động ngân
hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số nghiệp vụ sau
đây: Nhận tiền gửi; cấp tín dụng; cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
16
Theo Khoản 1, Điều 4 của Luật các TCTD năm 2010
14
Như vậy, TCTD kinh doanh tiền tệ thông qua ba hoạt động là nhận tiền gửi (huy
động tín dụng), cấp tín dụng (cho vay), Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài
khoản. Theo quy định tại Điều 206BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017
thì đã bổ sung thêm nhiều hành vi bao gồm các hành vi về cấp tín dụng, cung
ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản và các hành vi có liên quan đến hoạt động
ngân hàng ….nhưng trong Điều 206 sửa đổi, bổ sung năm 2017 lại không quy
định về hành vi nhận tiền gửi (huy động vốn) là sự thiếu hợp lý. Trong thực tế,
có những hành vi nhận tiền gửi của khách hàng nhưng không thực hiện các
nghiệp vụ để gửi tiền dẫn đến gây thiệt hại khoản tiền của khách hàng cũng rất
phổ biến hoặc các TCTD huy động vốn của khách hàng không đúng quy định
làm cho hỗn loạn thị trường tiền tệ. Hành vi này trong BLHS của Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa cũng quy định về hành vi này tại Điều 176 là “người nào huy
động vốn bất hợp pháp hoặc biến tướng huy động tiền gửi của công chúng gây
hỗn loạn trật tự tiền tệ… Đơn vị pháp nhân nào phạm tội nói trên thì bị phạt
tiền”17
. Do đó, kiến nghị sửa đổi, bổ sung về hành vi huy động vốn trong tội
danh này.
Thứ ba, ban hành văn bản hướng dẫn. Để có cơ sở áp dụng pháp luật
thống nhất, đấu tranh phòng ngừa tội phạm này có hiệu quả, tác giả kiến nghị
các cơ quan liên quan cụ thể là Ngân hàng nhà nước, VKSNDTC, Tòa án nhân
dân tối cao, Bộ công an, Bộ quốc phòng và Bộ tư pháp ban hành Thông tư liên
tịch hướng dẫn áp dụng cụ thể đối với các hành vi khách quan của Tội vi phạm
quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân
hàng từ điểm a, b, c, d, đ, e, g, h, i và k, Khoản1, Điều 206 BLHS năm 2015 sửa
đổi, bổ sung năm 2017./.
Th.S Lương Hữu Hải – Giảng viên khoa Kiểm sát Hình sự Trường Đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại TP.Hồ Chí Minh
17
Đinh Bích Hà (2007), Bộ luật hình sự của Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, NXB Tư Pháp, Tr 115.