nhận thức, nhu cầu và các yếu tố tác Động Đến lựa chọn trường cao Đẳng...
DESCRIPTION
Nhận Thức, Nhu Cầu Và Các Yếu Tố Tác Động Đến Lựa Chọn Trường Cao Đẳng - Đại Học Của Học Sinh THPT Hiện NayTRANSCRIPT
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------o0o------------
DƢƠNG NGỌC MAI
NHẬN THỨC, NHU CẦU VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN LỰA CHỌN TRƢỜNG CAO ĐẲNG – ĐẠI HỌC CỦA
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY
(Nghiên cứu trường hợp tại trường trung học phổ thông
Việt Yên 1- Bắc Giang)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành : Xã hội học
HàNội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------o0o----------
DƢƠNG NGỌC MAI
NHẬN THỨC, NHU CẦU VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
LỰA CHỌN TRƢỜNG CAO ĐẲNG – ĐẠI HỌC CỦA HỌC
SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY
(Nghiên cứu trường hợp tại trường trung học phổ thông
Việt Yên 1- Bắc Giang)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành : Xã hội học
Mã số : 60 31 30
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học :PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Hà
HàNội - 2014
LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sĩ của tôi được hoàn thành, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi
đã được sự giúp đỡ rất nhiều của các thầy cô, các bạn sinh viên và gia đình.
Nhân dịp này, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới:
Các thầy cô giáo Khoa Xã hội học Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn – ĐH Quốc gia Hà Nội đã truyền đạt cho tôi có những tri thức để thực
hiện đề tài này.
PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà là người trực tiếp hướng dẫn tôi ngay từ lúc ban
đầu cũng như trong suốt quá trình thu thập thông tin và hoàn thiện báo cáo nghiên
cứu này.
Gia đình và bạn bè cùng lớp cao học Xã hội học khoá 2010-2013 đã có
nhiều động viên, góp ý chân thành cũng như những thông tin quý giá trong quá
trình học tập và thực hiện đề tài.
Ban giám hiệu, cùng các thầy cô giáo, phụ huynh, các em học sinh khối lớp
12 trường THPT Việt Yên 1 – Bắc Giang đã nhiệt tình phối hợp và giúp tôi trong
quá trình thu thập thông tin tại trường để nghiên cứu thu được kết quả tốt.
Ngƣời thực hiện
Học viên
Dương Ngọc Mai
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 6
2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu ............................................................................ 7
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu ....................................................... 15
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 16
6. Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................................... 16
7. Giả thuyết nghiên cứu ........................................................................................... 16
8. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 17
9. Khung lý thuyết .................................................................................................... 19
NỘI DUNG CHÍNH ................................................................................................ 20
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ..................... 20
1.1 Các khái niệm công cụ .................................................................................. 20
1.1.1 Khái niệm nhận thức ................................................................................. 20
1.1.2 Khái niệm nhu cầu ..................................................................................... 20
1.1.3 Khái niệm lựa chọn ................................................................................... 21
1.1.4 Khái niệm định hướng ............................................................................... 22
1.1.5 Khái niệm nghề nghiệp.............................................................................. 22
2.1 Một số lý thuyết xã hội học áp dụng trong nghiên cứu cho đề tài ............ 23
2.1.1 Lý thuyết lựa chọn hợp lý ......................................................................... 23
2.1.2 Lý thuyết hành động xã hội ....................................................................... 24
2.1.3 Lý thuyết xã hội hoá .................................................................................. 25
1.3 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu ....................................................................... 28
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG NHẬN THỨC, NHU CẦU TRONG VIỆC LỰA
CHỌN TRƢỜNG CAO ĐẲNG - ĐẠI HỌC CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG .......................................................................................................... 30
2.1 Nhận thức của học sinh trung học phổ thông về vấn đề lựa chọn trƣờng
cao đẳng, đại học ................................................................................................. 30
2
2.1.1 Nhận thức của học sinh về sự cần thiết xác định trường dự thi cao đẳng,
đại học ................................................................................................................ 30
2.1.2 Thời điểm học sinh suy nghĩ về việc lựa chọn trường cao đẳng, đại học . 32
2.1.3. Tự đánh giá về cơ hội, khả năng thi đỗ cao đẳng, đại học của học sinh
trung học phổ thông ............................................................................................ 34
2.2 Thực trạng lựa chọn trƣờng thi cao đẳng, đại học của học sinh trung học
phổ thông .............................................................................................................. 39
2.2.1 Các dự định chính của học sinh sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông . 39
2.2.2 Dự định lựa chọn nhóm trường cao đẳng, đại học của học sinh sau
khi tốt nghiệp trung học phổ thông ................................................................ 41
2.3 Một số nhu cầu chính của học sinh trung học phổ thông trong việc
lựa chọn trƣờng thi cao đẳng, đại học .................................................... 44
2.3.1 Nhu cầu luyện thi cao đẳng, đại học của học sinh trung học phổ thông ... 44
2.3.2 Nhu cầu tìm hiểu thông tin thi cao đẳng, đại học của học sinh trung học
phổ thông ............................................................................................................ 46
2.3.3 Nhu cầu về các hoạt động hướng nghiệp và cung cấp thông tin phục vụ
mục đích lựa chọn trường thi cao đẳng, đại học của học sinh trung học phổ
thông ................................................................................................................... 48
CHƢƠNG 3. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TRONG VIỆC LỰA CHỌN
TRƢỜNG CAO ĐẲNG - ĐẠI HỌC CỦA HỌC SINH THPT HIỆN NAY ..... 51
3.1 Nhân tố chủ quan .......................................................................................... 51
3.1.1 Những lý do lựa chọn trường thi cao đẳng, đại học của học sinh ............. 51
3.1.2 Khác biệt giới trong lựa chọn nhóm trường cao đẳng, đại học ................. 56
3.1.3 Khác biệt về lực học trong lựa chọn nhóm trường cao đẳng, đại học
của học sinh trung học phổ thông ............................................................ 60
3.2 Nhân tố khách quan ...................................................................................... 63
3.2.1 Ảnh hưởng của gia đình đến lựa chọn trường cao đẳng, đại học của học
sinh trung học phổ thông .................................................................................... 63
3.2.2 Ảnh hưởng của bạn bè tác động đến lựa chọn trường cao đẳng, đại học
của học sinh trung học phổ thông ....................................................................... 69
3.2.3 Ảnh hưởng của hướng nghiệp trong nhà trường đến lựa chọn trường cao
đẳng, đại học của học sinh trung học phổ thông ................................................ 71
3
3.2.4 Ảnh hưởng của truyền thông đại chúng đến lựa chọn trường cao đẳng, đại
học của học sinh trung học phổ thông ................................................................ 75
3.2.5 Ảnh hưởng đặc điểm của trường cao đẳng, đại học .................................. 77
3.2.6 Đánh giá của học sinh trung học phổ thông về các “kênh” tác động
đến lựa chọn trường cao đẳng, đại học ................................................... 79
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ......................................................................... 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 89
PHỤ LỤC
4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT NỘI DUNG
CĐ Cao đẳng
CNTT Công nghệ thông tin
ĐH Đại học
GD&ĐT Giáo dục và đào tạo
GDHN Giáo dục hướng nghiệp
HS Học sinh
KHXH Khoa học xã hội
LĐPT Lao động phổ thông
TCCN Trung cấp chuyên nghiệp
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
5
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 1: Phân bố mẫu nghiên cứu theo giới tính, kết quả học tập của học sinh, nghề
nghiệp của cha mẹ và kinh tế gia đình ...................................................................... 18
Bảng 2.1 : Dự định của học sinh sau khi tốt nghiệp THPT ..................................... 39
Bảng 2.2 : Các nguồn tìm kiếm thông tin về thi CĐ - ĐH của học sinh .................. 46
Bảng 3.1: Đánh giá mức độ quan trọng của lý do lựa chọn trường thi CĐ – ĐH .... 53
Bảng 3.2: Tương quan giới tính và lựa chọn các nhóm trường CĐ – ĐH ................ 56
Bảng 3.3: Giới tính và dự định sau tốt nghiệp THPT .............................................. 58
Bảng 3.4 : Tương quan giữa học lực và chọn nhóm trường thi CĐ – ĐH ................ 60
Bảng 3.5: Tương quan giữa nghề nghiệp của bố mẹ và chọn nhóm trường CĐ - ĐH .... 65
Bảng 3.6 : Tương quan giữa kinh tế gia đình và dự định sau tốt nghiệp THPT ....... 67
Bảng 3.7 : Mức độ ảnh hưởng của đặc điểm trường CĐ – ĐH tới sự lựa chọn của
học sinh ..................................................................................................................... 78
Bảng 3.8: Đánh giá mức độ của các kênh thông tin tác động đến lựa chọn trường
thi CĐ – ĐH .............................................................................................................. 80
6
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Nhận thức của học sinh về sự cần thiết của việc xác định trường
dự thi CĐ – ĐH ............................................................................................ 31
Biểu đồ 2.2: Khối dự thi CĐ – ĐH của học sinh ................................................... 31
Biểu đồ 2.3: Thời điểm học sinh suy nghĩ chọn trường thi CĐ – ĐH ..................... 33
Biểu đồ 2.4: Tự đánh giá của học sinh về mức độ khó của thi tuyển sinh CĐ - ĐH 35
Biểu đồ 2.5: Học sinh tự đánh giá khả năng thi đỗ CĐ – ĐH.................................. 35
Biểu đồ 2.6 : Quyết định lựa chọn trường thi CĐ – ĐH của học sinh ...................... 37
Biểu đồ 2.7 : Dự định lựa chọn nhóm trường thi CĐ - ĐH của HS sau tốt nghiệp THPT . 41
Biểu đồ 2.8: Thời điểm học sinh bắt đầu đi ôn thi CĐ – ĐH ................................... 44
Biểu đồ 2.9 : Nội dung HS cần cung cấp thông tin khi chọn trường thi CĐ – ĐH .. 49
Biểu đồ 3.1: Những lý do chọn trường thi CĐ – ĐH của học sinh ........................... 52
Biểu đồ 3.2: Sự giúp đỡ của gia đình trong việc lựa chọn trường thi ....................... 63
Biểu đồ 3.3: Sự giúp đỡ của bạn bè trong việc lựa chọntrường thi CĐ - ĐH ........... 70
Biểu đồ 3.4 : Những hoạt động hướng nghiệp của nhà trường giúp học sinh chọn
trường thi CĐ - ĐH ................................................................................................... 71
Biểu đồ 3.5 Đánh giá của học sinh về hoạt động hướng nghiệp trong nhà trường .. 74
Biểu đồ 3.6: Nguồn thông tin từ PTTTĐC giúp HS chọn trường thi CĐ – ĐH ....... 76
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghề nghiệp luôn được coi là một trong những yếu tố quan trọng quyết định
tuơng lai của mỗi con người. Vì vậy để lựa chọn cho mình một ngành nghề phù hợp
luôn là ước mơ của rất nhiều các bạn trẻ, đặc biệt là học sinh trung học phổ thông.
Hiện nay có rất nhiều sự chọn lựa cho các em sau khi tốt nghiệp THPT, học tiếp lên
đại học, cao đẳng, học trung cấp chuyên nghiệp, học nghề hay đi làm lao động phổ
thông... các em học sinh chọn hướng đi nào sau tốt nghiệp? Theo thống kê của Bộ
GD&ĐT, năm học 2010 - 2011 cả nước có khoảng 185.000 học sinh tốt nghiệp
THPT nhưng không đỗ vào đại học, cao đẳng hoặc trung cấp chuyên nghiệp. Con số
này tăng lên trong năm sau là 290.000 em. Cộng với số học sinh bỏ học và trượt tốt
nghiệp THPT trong những năm qua thì ước tính mỗi năm có khoảng hơn 350.000
em không tiếp tục được đào tạo, thiếu công ăn việc làm [28]. Kỳ thi tuyển sinh vào
đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp năm 2013, cả nước có 1,4 triệu thí sinh
dự thi. Trong số đó chỉ có 20% thí sinh có nguyện vọng thi vào các trường Cao đẳng,
tỷ lệ vào trung cấp chuyên nghiệp lại càng hạn chế [29]. Những con số đó đã phần nào
phản ánh rõ nét mong muốn cháy bỏng của các em sau 12 năm đèn sách và tâm lý coi
trọng làm “thầy” hơn “thợ”.
Hiện nay, để lựa chọn đúng đắn và thi đỗ vào trường đại học vẫn là mơ ước
của đa số các em học sinh. Bởi thực tế, trong một xã hội coi trọng bằng cấp như
hiện nay thì đối với nhiều người, tấm bằng đại học thực sự là tấm vé để nhiều bạn
trẻ bước vào cuộc sống. Bên cạnh đó các em cũng còn rất nhiều áp lực từ phía gia
đình, nhà trường và xã hội. Do vậy, nhiều bạn trẻ có suy nghĩ rằng, chỉ khi bước
vào cổng trường Đại học thì mới có được một tương lai tốt đẹp. Liệu đây có phải là
lựa chọn duy nhất để có một nghề nghiệp ổn định sau này?
Chính suy nghĩ này dẫn đến thực tế là có sự chênh lệch khá lớn giữa chỉ tiêu
tuyển sinh vào đại học, cao đẳng và số hồ sơ đăng ký dự thi. Và không phải bất cứ
học sinh nào cũng có đủ năng lực để vượt qua được kì thi đại học đầy cam go và
tính cạnh tranh cao như thế. Vậy lựa chọn nào là phù hợp đối với các em có học lực
ở mức trung bình, và đảm bảo cho các em có một tương lai ổn định? Cuối cấp học,
7
nhiều học sinh luôn đứng ở giữa các ngã rẽ, không biết mình nên chọn trường CĐ-
ĐH nào, thậm chí có nhiều học sinh không hề ý thức được mình sẽ làm gì trong
tương lai. Kỳ thi tuyển sinh vào CĐ - ĐH hàng năm luôn là sự kiện quan trọng bậc
nhất đối với mỗi học sinh. Thông tin tuyển sinh dù được đăng tải rất nhiều trên
phương tiện truyền thông nhưng vẫn chưa đủ để các thí sinh yên tâm lựa chọn.
Thành công trong cuộc sống vốn là ước muốn của mỗi người, thành công trong việc
chọn trường, chọn ngành, chọn nghề là con đường dẫn chúng ta đến với thành công
trong cuộc sống. Trong quá trình lựa chọn trường CĐ - ĐH của học sinh THPT, có
nhiều yếu tố tác động tới các em. Vậy những yếu tố đó là gì? Các em chọn trường
CĐ - ĐH nào để dự thi? Dựa vào đâu để các học sinh chọn trường cho mình? giải
pháp nào để phù hợp với nghề nghiệp tương lai của các em? Tất cả những vấn đề
nêu trên khiến tôi quyết định chọn đề tài: “Nhận thức, nhu cầu và các yếu tố tác
động đến lựa chọn trường Cao đẳng - Đại học của học sinh THPT hiện nay”. Từ đó
đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao nhận thức đúng đắn và lựa chọn nghề
nghiệp, chọn trường phù hợp với học sinh THPT.
2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
2.1. Các nghiên cứu trên thế giới
Có thể nói, những tư tưởng về định hướng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ đã có
từ thời cổ đại, tuy nhiên ở dưới dạng rất sơ khai và biểu hiện thông qua việc phân
chia, phân cấp lao động tuỳ thuộc vào địa vị và nguồn gốc xuất thân của mỗi người
trong xã hội. Điều này thể hiện rõ tính áp đặt của giai cấp thống trị và sự bất bình
đẳng trong phân công lao động xã hội. Đến thế kỷ XIX, khi nền sản xuất xãhội phát
triển cùng với những tư tưởng tích cực về giải phóng con người trên khắp thế giới
thì khoa học hướng nghiệp mới thực sự trở thành một khoa học độc lập.
Cuốn sách “Hướng dẫn chọn nghề” xuất bản năm 1949 ở Pháp được xem là một
trong những cuốn sách đầu tiên nói về hướng nghiệp [6]. Nội dung cuốn sách đã đề cập
đến sự phát triển đa dạng của các ngành nghề trong xã hội do sự phát triển của công
nghiệp từ đó đã rút ra những kết luận coi giáo dục hướng nghiệp là một vấn đề quan
trọng không thể thiếu khi xã hội ngày càng phát triển và cũng là nhân tố thúc đẩy xã
hội phát triển.
8
Vào những năm 1940, nhà tâm lý học Mỹ J.L. Holland đã nghiên cứu và thừa
nhận sự tồn tại của các loại nhân cách và sở thích nghề nghiệp.Tác giả đã chỉ ra rằng,
tương ứng với mỗi kiểu nhân cách nghề nghiệp là một số những nghề nghiệp mà cá
nhân có thể lựa chọn để đạt được kết quả làm việc cao nhất. Lý thuyết này của J.L.
Holland đã được sử dụng rộng rãi nhất trong thực tiễn hướng nghiệp trên thế giới.
Trên cơ sở các luận điểm về hướng nghiệp của C.Mác và V.I Lênin, các nhà
giáo dục Liên xô như B.F Kapêep, X.Ia Batưsep, X.A Sapôrinxki, V.A Pôliacôp
trong các tác phẩm và công trình nghiên cứu của mình đã chỉ ra mối quan hệ giữa
hướng nghiệp và các hoạt động sản xuất xã hội. Họ cho rằng, nếu sớm thực hiện
GDHN cho thế hệ trẻ thì đó sẽ là cơ sở để họ chọn nghề đúng đắn, có sự phù hợp
giữa năng lực, sở thích cá nhân với nhu cầu xã hội [6]. Đồng thời, các tác giả này
cũng đã trình bày những nguyên tắc, phương pháp thực hành lao động nghề nghiệp
cho học sinh phổ thông tại các cơ sở học tập - lao động liên trường.
Mei Tang, Wei Pan và Mark D.Newmeyer [26] đã áp dụng mô hình lý thuyết
phát triển xã hội nghề nghiệp (SCCT, Lent, Brown và Hackett, 1994) để khảo sát
các yếu tố tác động đến xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của HS trung học. Những
phát hiện của nghiên cứu này đã chứng minh tầm quan trọng của các yếu tố như:
kinh nghiệm học tập, tự đánh giá năng lực nghề nghiệp, lợi ích và kết quả mong đợi
trong quá trình phát triển nghề nghiệp của học sinh trung học. Mối quan hệ của các
yếu tố này có tính chất động. Vì vậy, để can thiệp thành công cần phải xem xét mối
quanhệ phức tạp giữa các yếu tố và kết hợp một loạt các biện pháp can thiệp ở mức
độ đa hệ thống. Các nhà tư vấn nên góp phần vào sự phát triển và thực hiện một
chương trình phát triển nghề nghiệp toàn diện giúp HS phát triển năng lực nghề
nghiệp thông qua hoạt động học tập thiết thực.
Nghiên cứu của Bromley H. Kniveton [23] được tiến hành trên cơ sở khảo
sát 384 thanh thiếu niên (trong đó có 174 nam và 174 nữ) từ 14 đến 18 tuổi đã đã
đưa ra kết luận: Cả nhà trường và gia đình đều có thể cung cấp những thông tin và
hướng dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề nghiệp của
thanh niên. Giáoviên có thể xác định những năng khiếu và khả năng qua đó khuyến
khích học sinh tham gia các hoạt động ngoại khoá, tham gia lao động hướng nghiệp
9
hoặc tham quan những cơ sở sản xuất. Phụ huynh HS có ảnh hưởng rất lớn đến việc
cung cấp những hỗ trợ thích hợp nhất định cho sự lưa chọn nghề nghiệp, ngoài ra
còn cósự tác động của anh chị em trong gia đình, bạn bè.
Michael Borchert [22], trên cơ sở khảo sát 325 học sinh trung học của trường
Trung học Germantown, bang Wisconsin đã đưa ra nhận xét: trong ba nhóm yếu tố
chính ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề nghiệp là: Môi trường, cơ hội và đặc điểm
cá nhân thì nhóm yếu tố đặc điểm cá nhân có ảnh hưởng quan trọng nhất đến sự
chọn lựa nghề nghiệp của HS trung học.
2.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, giáo dục hướng nghiệp tuy được xếp ngang tầm quan trọng với
các mặt giáo dục khác như đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục nhưng bản thân nó lại
rất non trẻ, mới mẻ cả về nhận thức, lý luận và thực tiễn, rất thiếu về lực lượng,
không mang tính chuyên nghiệp. Vì vậy, việc thực hiện không mang lại nhiều hiệu
quả. Vấn đề hướng nghiệp chỉ thực sự nóng lên và được xã hội quan tâm khi nền
kinh tế đất nước bước sang cơ chế thị trường với sự đa dạng của các ngànhnghề và
nhu cầu rất lớn về chất lượng nguồn nhân lực.
Đảng và Nhà nước ta cũng rất quan tâm đến công tác hướng nghiệp.Điều này
được thể hiện qua các chỉ thị, nghị quyết, văn kiện, các nguyên lý giáodục của Đảng
và nhà nước. Có thể lấy ví dụ như nghị định 126/CP ngày 19/03/1981 của Chính
phủ về công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông vàviệc sử dụng hợp lý HS
các cấp THCS và THPT tốt nghiệp ra trường.Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ
IX đã ghi rõ “Coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh trung học,
chuẩn bị cho thanh niên, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và từng địa phương”.
Luật Giáo dục năm 2005 đã khẳng định: “Giáo dục THPT nhằm giúp cho
học sinh củng cố và phát triển những kết quả của THCS, hoàn thiện học vấn để tiếp
tục học đại học, cao đẳng, trung học nghề nhiệp, học nghề, và đi vào cuộc sống
laođộng”. Chiến lược phát triển giáo dục năm 2001 - 2010 đã xác định rõ “Thực
hiện chương trình phân ban hợp lý nhằm đảm bảo cho học sinh có học vấn phổ
thông, cơ bản theo một chuẩn thống nhất, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát huy
10
năng lực của mỗi học sinh, giúp học sinh có những hiểu biết về kỹ thuật, chú trọng
hướng nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi tiếp sau khi tốt nghiệp”.
Về mặt nghiên cứu khoa học hướng nghiệp ở Việt Nam, theo các chuyên gia
thì ngành hướng nghiệp Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ vào những
năm 1970, 1980. GS.TS. Phạm Tất Dong là người có những đóng góp rất lớn cho
GDHN Việt Nam. Tác giả này đã dày công nghiên cứu các vấn đề lí luận và thực
tiễn cho GDHN như xác định mục đích, ý nghĩa, vai trò của hướng nghiệp; hứng
thú, nhu cầu và động cơ nghề nghiệp; hệ thống các quan điểm, nguyên tắc hướng
nghiệp, các nội dung, phương pháp, biện pháp giáo dục hướng nghiệp... Điều này
được thể hiện ở rất nhiều các báo cáo, bài báo, sách, giáo trình của ông như bài viết:
“Hướng nghiệp cho thanh niên”, đăng trên tạp chí Thanh Niên số 8 năm 1982; báo
cáo: “Một con đường hình thành lý tưởng nghề nghiệp cho học sinh lớn”; các tác
phẩm như: “Nghề nghiệp tương lai - giúp bạn chọn nghề” hay cuốn “Tư vấn hướng
nghiệp - sự lựa chọn cho tương lai”. Trong một công trình nghiêncứu gần đây, tác
giả đã chỉ ra rằng: “Công tác hướng nghiệp góp phần điều chỉnh việc chọn nghề của
thanh niên theo hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế”. Bởi vì theo tác giả, đất nước
đang trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH-
HĐH), cơ cấu kinh tế sẽ chuyển theo hướng giảm tỉ trọng nông nghiệp, tăng tỉ trọng
công nghiệp, dịch vụ. Xu hướng chọn nghề của thanh niên phù hợp với xu hướng
chuyển cơ cấu kinh tế là một yêu cầu tất yếu của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước.
GS.TS. Nguyễn Văn Hộ cũng là một trong những người rất tâm đắc và
nghiên cứu chuyên sâu về GDHN. Trong luận án tiến sĩ của mình, tác giả đã đề cập
đến vấn đề: “Thiết lập và phát triển hệ thống hướng nghiệp cho học sinh Việt
Nam”. Tác giả đã xây dựng được luận chứng cho hệ thống GDHN trong điều kiện
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Gần đây, ông cũng đã xuất bản cuốn sách:
“Hoạt động giáo dục hướng nghiệp và giảng dạy kĩ thuật trong trường THPT”
(2006). Cuốn sách đã trình bày một cách hệ thống về cơ sở lí luận của GDHN, vấn
đề tổ chức GDHN trong trường THPT và giảng dạy kĩ thuật ở nhà trường THPT
trong điều kiện kinh tế thị trường và sự nghiệp CNH - HĐH đất nước hiện nay.
Trong thời gian gần đây, nhằm hiện thực hoá những phương hướng, mục tiêu mà
11
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra về GDHN và phân luồng học sinh phổ
thông, đã có rất nhiều những nghiên cứu về hướng nghiệp ở nhiều cách tiếp cận
khác nhau tạo nên một giai đoạn mới với sự đa dạng trong nghiên cứu khoa học
hướng nghiệp ở Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của giảng viên Khoa Tâm lý - trường Đại học Sư phạm
Hà Nội đã rút ra kết luận: (1) Các hình thức hướng nghiệp trong nhà trường phổ
thông hiện tại chưa thực sự phong phú và chưa được tổ chức thường xuyên. Nhiều
hình thức hấp dẫn, có sức thuyết phục cao như tham quan thực tế các cơ sở sản xuất
địa phương, nghe các nghệ nhân nói chuyện về nghề … ít được quan tâm thực hiện;
(2) Nhu cầu tìm hiểu nghề là nhu cầu chính đáng của học sinh, nhưng khi tìm hiểu
về nghề thì các em gặp phải rất nhiều khó khăn như nhà trường ít tổ chức hướng
nghiệp, các nội dung hướng nghiệp thực hiện không đồng bộ; (3) Do vai trò tác
động của nhà trường trong việc hướng nghiệp chưa cao nên các thông tin về nghề
mà học sinh thu nhận được khi chọn nghề phần lớn từ các kênh ngoài nhà trường
như từ cha mẹ, người thân, từ những người đang làm trong nghề đó hay từ các sách
báo hoặc phương tiện thông tin đại chúng khác.
Nghiên cứu của tác giả Lê khắc Thìn (1996) về vấn đề “Tìm hiểu thực trạng
lựa chọn nghề nghiệp của học sinh lớp 12 và công tác hướng nghiệp ở trường
THPT”. Đã nhấn mạnh đến nguyện vọng chọn nghề của học sinh. Do nước ta mở
cửa phát triển kinh tế nhiều thành phần, hợp tác kinh tế với nhiều nước trên thế giới,
vì vậy các em có xu thế hướng vào các trường thuộc lĩnh vực kinh tế, công nghệ
tiên tiến. Như vậy, sự định hướng của học sinh vào các trường cũng phát triển theo
xu thế phát triển của xã hội. Tuy nhiên, có nhiều em chọn nghề theo rung cảm từ
nhỏ, từ mẫu người lý tưởng, có em chọn nghề theo sự vui thích của cá nhân, theo
yêu cầu của cha mẹ... Do đó có thể có sự không phù hợp giữa sở thích và nguyện
vọng. Hầu hết các em đều cho rằng nghề các em thích là phù hợp sở thích và khả
năng của bản thân, hoặc yêu thích nghề vì phù hợp với nguyện vọng được xã hội coi
trọng. Có 7,38% học sinh cho biết là chưa hiểu rõ về nghề nên không biết thích cái
gì. Bên cạnh đó, sự hiểu biết của học sinh về nghề định chọn là rất ít, chưa sâu sắc,
không rõ ràng, cụ thể. Những nguồn thông tin quan trọng nhất (cha mẹ, thầy cô, các
12
phương tiện thông tin đại chúng) để giúp cho các em có nhận thức đúng đắn về
nghề nghiệp thì chưa phát huy hết tác dụng. Công trình nghiên cứu của tác giả Lê
Khắc Thìn đã phản ánh khá đầy đủ các khía cạnh của hoạt động chọn nghề của HS.
Đặc biệt, dựa trên các nghiên cứu định lượng, định tính và các phương pháp tiếp cận
xã hội học đặc biệt là phương pháp thử nghiệm tác động đối với các em HS, tác giả
đã phân tích khá rõ vấn đề nhận thức nghề và dự định chọn nghề của HS THPT.
Đề tài nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trường đại
học của học sinh phổ thông trung học” của nhóm tác giả Trần Văn Quý và Cao Thi
Hào Trường Đại học Bách Khoa, Đại học Quốc Gia TP.Hồ Chí Minh. Nghiên cứu
đã xác định, đánh giá tác động của các yếu tố then chốt ảnh hưởng đến quyết định
chọn trường đại học của học sinh THPT. Kết quả phân tích 227 bảng hỏi đối với
học sinh lớp 12 năm học 2008 – 2009 của 5 trường THPT tại Quảng Ngãi đã cho
thấy 5 yếu tố bao gồm: (1) cơ hội việc làm trong tương lai, (2) đặc điểm cố định của
trường đại học, (3) bản thân cá nhân học sinh, (4) cá nhân có ảnh hưởng đến quyết
định của học sinh và (5) thông tin có sẵn, ảnh hưởng đến quyết định chọn trường
Đại học.
Tác giả Phan Thị Tố Oanh nghiên cứu với đề tài: “Nghiên cứu nhận thức nghề và dự
định chọn nghề của học sinh phổ thông trung học” (Luận án Phó Tiến Sĩ khoa học sư phạm –
tâm lý – 1996) [4] tiến hành nghiên cứu trên 497 học sinh 4 trường thuộc nội ngoại thành
thành phố Hà Nội và Huế đã cho rằng: HS ở các nhóm nghề đã có nhận thức về nghề nghiệp
nhưng ở mức độ chưa cao, chưa sâu sắc và đầy đủ. Trong ba mặt nhận thức về nghề HS
nhận thức nhu cầu của xã hội đối với nghề nghiệp mình định chọn cao hơn so với nhận thức
về thế giới nghề nghiệp – yêu cầu đặc trưng của nghề và nhận thức về đặc điểm cá nhân (
tương ứng là 0,98; 0,55; 0,375 điểm ). Điều đó chứng tỏ những yếu tố khách quan của nghề
nghiệp đối với cá nhân được HS nhận biết dễ hơn những yêu cầu của nghề nghiệp về các đặc
điểm tâm lý cá nhân.
Và trong ba trình độ nghề thì đa số HS dự định chọn trình độ cao: có tới 80,4% dự định
thi đại học; 36,9% dự định thi trung cấp; 7,3% thi vào sơ cấp và 5,5% không thi vào hệ nào.
Trên cở sở phân tích các yêu cầu của đề tài, tác giả đã đưa ra những nhận xét:
13
Nhận thức nghề đang dừng lại ở những biểu hiện bên ngoài chưa đi sâu tìm hiểu
đặc trưng riêng của nghề và đối chiếu yêu cầu đó với những đặc điểm thể chất và tâm lý của
mình.
Đa số HS chọn đại học, vào những nghề xã hội đánh giá cao, có khả năng tìm việc
ổn định và cần thiết xã hội.
Tác giả Nguyễn Thị Vân Hạnh cũng có bài viết về “Nhu cầu học nghề của
học sinh trung học phổ thông” đăng trên tạp chí Khoa học giáo dục số 16, tháng
1/2007. Bài viết của tác giả đã khẳng định rằng phần đông HS có nhận thức đúng
đắn rằng vào đại học không phải là con đường duy nhất để thành đạt (70% ý kiến
được hỏi), nhưng lại có tới 70% lựa chọn con đường này sau khi tốt nghiệp THPT.
Theo bài viết này, các nhóm nghề được HS lựa chọn nhiều nhất là công nghệ thông
tin, điện, dệt may. Sự lựa chọn này phản ánh tương đối chính xác xu hướng phát
triển của thị trường lao động. Những nghề này, nhất là dệt may đang có nhu cầu lớn
về lao động kĩ thuật, HS những ngành này ra trường hầu hết tìm được việc ngay.
Tác giả Nguyễn Thị Vân Hạnh cũng chỉ ra rằng: đặc điểm giới tính có ảnh hưởng
đến dự định chọn nghề của nam và nữ, và nhận thức nghề và dự định chọn nghề của
HS chưa có sự phù hợp cao, chọn nghề theo ý muốn chủ quan.
Luận văn thạc sĩ của Trần Đình Chiến (2008) về “Xu hướng lựa chọn nghề
nghiệp của học sinh lớp 12 trường THPT dưới ảnh hưởng của nền kinh tế thị
trường” (khảo sát tại tỉnh Phú Thọ) đã chỉ ra được thực trạng về xu hướng nghề
nghiệp của học sinh lớp 12 dưới sự ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường. Tác giả
đã nhận thấy đa số học sinh chịu ảnh hưởng một cách thụ động, không nhận thức
được sự phù hợp của bản thân với nghề. Học sinh lớp 12 chủ yếu có xu hướng,
nguyện vọng thi vào các trường ĐH – CĐ và lựa chọn những ngành nghề đang
được xã hội quan tâm, đánh giá cao, những nghề có thu nhập cao và dễ tìm việc
làm. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn tác giả đã đề ra một số biện pháp cụ
thể nhằm hình thành xu hướng lựa chọn nghề nghiệp tích cực, phù hợp của học sinh
lớp 12 dưới ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường hiện nay.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Phương Toàn (2011) về “ Khảo sát các yếu tố
tác động đến việc chọn trường của học sinh lớp 12 trung học phổ thông trên địa bàn
14
tỉnh Tiền Giang”. Đề tài tiến hành nghiên cứu trên 450 học sinh lớp 12 thuộc 8
trường THPT trên địa bàn tỉnh Tiền Giang. Đề tài đã cho thấy có 5 yếu tố ảnh
hưởng đến quyết định chọn trường đại học của học sinh từ mạnh đến yếu như sau:
(1) yếu tố về mức độ đa dạng và hấp dẫn ngành đào tạo; (2) yếu tố về đặc điểm của
trường đại học; (3) yếu tố về khả năng đáp ứng sự mong đợi sau khi ra trường; (4)
yếu tố về đặc điểm của trường đại học; (5) yếu tố danh tiếng của trường đại học. Đề
tài nghiên cứu cho kết quả có sự khác biệt giữa nhóm học sinh theo đơn vị trường
THPT, theo giới tính và theo học lực trong sự đánh giá tầm quan trọng của các yếu
tố khi quyết định chọn trường đại học để dự thi.
Hầu hết các công trình nghiên cứu trên đã nêu lên được thực trạng chọn nghề
của học sinh THPT (lý do chọn nghề, động cơ chọn nghề, nguyện vọng chọn nghề,
các nhân tố ảnh hưởng đến việc chọn nghề của học sinh, nhận thức về nghề nghiệp
của học sinh), nêu lên được thực trạng tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường THPT
hiện nay cùng với nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh ở năm học cuối cấp.
Đồng thời, các công trình nghiên cứu này cũng tổng hợp được ý kiến của học sinh
với mong muốn trong nhà trường có ban tư vấn hướng nghiệp để giúp các em trong
việc chọn nghề cho tương lai.
Tóm lại, nghiên cứu về đề tài định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT có
nhiều tác giả đã nghiên cứu, những kết quả đó làm tiền đề để chúng tôi tiếp tục
nghiên cứu vấn đề này vào thời điểm hiện tại. Vấn đề nghề nghiệp luôn đổi mới và
phát triển theo xu hướng của thế giới, cho nên nghiên cứu về vấn đề này vẫn luôn
cần được cập nhật mới mẻ.
Nhưng nghiên cứu về đề tài chọn trường thi CĐ – ĐH của học sinh THPT là
chưa nhiều. Với địa bàn nghiên cứu tác giả chọn là một trường THPT thuộc tỉnh
trung du miền núi phía Bắc mà cụ thể chúng tôi tiến hành khảo sát tại trường THPT
Việt Yên 1 – Bắc Giang, là điểm mới để chúng tôi tìm hiểu những nhận thức và nhu
cầu của học sinh tại địa bàn có điểm gì khác so với các em học sinh THPT tại khu
vực ở thành phố lớn và các địa bàn khác trên cả nước. Chúng tôi chọn đề tài này để
tìm hiểu nhận thức, nhu cầu của học sinh lớp 12 về lựa chọn trường CĐ - ĐH và tìm
hiểu xem những yếu tố nào tác động đến lựa chọn trường thi của HS. Đó là lý do mà
15
chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài này.
3.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
3.1 Ý nghĩa khoa học
Đề tài nghiên cứu nhằm vận dụng phạm trù, khái niệm, phương pháp nghiên
cứu và lý thuyết Xã hội học vào mô tả, giải thích thực trạng nhận thức, nhu cầu và
các yếu tố tác động đến lựa chọn trường CĐ, ĐH của học sinh THPT hiện nay. Dựa
trên kết quả thu được, nghiên cứu cũng mong góp phần làm giàu thêm tri thức xã
hội học trong lĩnh vực cụ thể làvấn đề chọn trường thi CĐ - ĐH của học sinh.
3.2 Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở phân tích một cách khoa học, chúng tôi mong muốn nắm bắt kịp
thời nhận thức, nhu cầu đúng đắn/ sai lệch về lựa chọn trường CĐ - ĐH của học
sinh THPT. Từ đó đưa ra những khuyến nghị và giải pháp thiết thực nhằm tác động
tích cực đến nhận thức của học sinh THPT Việt Yên 1 trong việc lựa chọn trường
CĐ- ĐH. Trong một chừng mực nào đó khuyến nghị đó có thể suy rộng ra cho học
sinh các trường THPT nói chung về nhận thức nghề nghiệp trong tương lai từ đó có
sự chọn lựa trường thi CĐ - ĐH phù hợp.
4. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Nhận thức, nhu cầu và các yếu tố tác động đến lựa chọn trường CĐ - ĐH
của học sinh THPT
4.2 Khách thể nghiên cứu
300 Học sinh lớp 12, phụ huynh học sinh và thầy cô giáo tại trường THPT
Việt Yên 1.
4.3 Phạm vi nghiên cứu
+Phạm vi không gian : Trường THPT Việt Yên 1
+Phạm vi thời gian : Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 11/2013 đến tháng
05/2014
+Vấn đề nghiên cứu: Nhận thức, nhu cầu và các yếu tố tác động đến lựa
chọn trường CĐ - ĐH của HS THPT
16
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng nhận thức, nhu cầu và những yếu tố tác động đến lựa
chọn trường CĐ – ĐH của học sinh THPT. Từ đó có thể đề xuất một số khuyến
nghị về giải pháp giúp học sinh THPT có sự định hướng nghề nghiệp, lựa chọn
trường thi CĐ – ĐH một cách phù hợp với năng lực và nguyện vọng của mình.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
(1)Tìm hiểu nhận thức của học sinh về vấn đề chọn trường thi CĐ - ĐH.
Nhận thức của HS về sự cần thiết xác định trường dự thi CĐ - ĐH, thời điểm HS
suy nghĩ về việc lựa chọn trường CĐ - ĐH, tự đánh giá cơ hội và khả năng thi đỗ
CĐ - ĐH của HS THPT
(2) Chỉ rõ những nhu cầu của HS trong việc chọn trường thi CĐ - ĐH
(3) Phân tích những yếu tố chính tác động đến lựa chọn trường CĐ – ĐH của
học sinh THPT.
6. Câu hỏi nghiên cứu
● Học sinh THPT hiện nay nhận thức như thế nào về lựa chọn trường CĐ - ĐH?
● Học sinh có nhu cầu gì trong quá trình lựa chọn trường CĐ - ĐH?
● Những yếu tố nào tác động đến lựa chọn trường CĐ - ĐH của học sinh
THPT hiện nay?
7. Giả thuyết nghiên cứu
(1) Phần lớn học sinh THPT hiện nay đều có nhận thức tương đối đầy đủ và
đúng đắn về việc lựa chọn trường CĐ - ĐH để dự thi.
(2) Học sinh THPT đều có nguyện vọng dự thi vào các trường CĐ - ĐH, HS
THPT hiện nay có nhu cầu cao về việc được luyện thi CĐ - ĐH, tìm hiểu thông tin thi
CĐ - ĐH, các hoạt động hướng nghiệp phục vụ mục đích lựa chọn trường CĐ - ĐH.
(3) Có rất nhiều yếu tố tác động đến việc lựa chọn trường CĐ - ĐH của học
sinh THPT ngoài bản thân mỗi cá nhân HS còn có các yếu tố như : gia đình, bạn bè,
nhà trường, truyền thông đại chúng, đặc điểm của trường CĐ - ĐH.
17
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
8.1 Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu lấy lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử làm nền tảng cơ sở để nhìn nhận vấn đề nghiên cứu trong một bối
cảnh lịch sử xã hội cụ thể và trong sự vận động biến đổi, tác động qua lại của nó với
các điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và của ngành giáo dục nói
riêng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng nhìn các hiện tượng xã hội trong mối quan
hệ nhân quả. Theo đó, mọi hiện tượng trong xã hội không tồn tại độc lập mà luôn
tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau. Do đó, khi nghiên cứu bất kỳ một hiện tượng,
một vấn đề xã hội nào chúng ta cũng cần đặt chúng trong một bối cảnh xã hội cụ
thể, trong một môi trường xác định, nghĩa là cần xem xét hiện tượng, vấn đề xã
hội đó trong mối quan hệ tương tác với các hiện tượng, vấn đề xã hội khác.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử nhìn các hiện tượng xã hội trong một quá trình,
nghĩa là mọi hiện tượng trong xã hội không tồn tại một cách bất biến mà luôn
luôn vận động, có sự hình thành, phát triển và tiêu vong. Do đó, khi nghiên cứu
một hiện tượng, vấn đề xã hội nào thì cần xem xét nó trong một quá trình và đặt
nó trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Những nguyên tắc và quan điểm của xã hội học Mác - Lênin được xác định
là kim chỉ nam xuyên suốt quá trình nghiên cứu của đề tài, do đó nó trở thành phư-
ơng pháp luận của đề tài.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, vấn đề nhận thức, nhu cầu và các yếu
tố tác động tới lựa chọn trường thi CĐ – ĐH của HS được nhìn nhận trong mối
quan hệ qua lại tác động với các yếu tố của môi trường xã hội chung (gia đình, nhà
trường, bạn bè, các phương tiện truyền thông đại chúng) và trong mối quan hệ với
các yếu tố cá nhân của học sinh như (giới tính, học lực)
8.2 Phương Pháp thu thập thông tin
8.2.1 Phương pháp phân tích tài liệu
Trong nghiên cứu này chúng tôi tiến hành phân tích một số tài liệu liên quan
đến vấn đề nghiên cứu như sách báo, tạp chí nghiên cứu chuyên sâu và một số công
18
trình nghiên cứu về nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu đã xuất bản và công
bố. Qua đó, bổ sung thêm cho những thiếu sót trong việc phân tích các số liệu định
lượng thu được từ điều tra thông qua bảng hỏi.
8.2.2 Phương pháp trưng cầu ý kiến
Phiếu trưng cầu ý kiến sẽ được sử dụng nhằm mục đích thu thập những
thông tin định lượng cho đề tài nghiên cứu. Mẫu nghiên cứu được lựa chọn theo
phương pháp ngẫu nhiên, có cân nhắc đến một số yếu tố như giới tính, kết quả học
tập, nghề nghiệp của bố mẹ.
Chúng tôi tiến hành phát 325 phiếu khảo sát đối với học sinh khối 12 thu và
về 300 phiếu với cơ cấu mẫu như sau:
Bảng 1: Phân bố mẫu nghiên cứu theo giới tính, kết quả học tập của học sinh,
nghề nghiệp của cha mẹ và kinh tế gia đình
Tiêu chí phân loại Số ngƣời Tỷ lệ (%)
Giới tính Nam 138 46,0
Nữ 162 54,0
Kết quả học tập Giỏi 17 5,7
Khá 201 67,0
Trung bình 80 26,7
Yếu 2 0,7
Nghề nghiệp của
bố mẹ
Viên chức NN 52 17,3
Nông nghiệp 77 25,7
Lao động tự do 47 15,7
Kinh doanh 90 30,0
Nghề khác 34 11,3
Kinh tế gia đình Giàu có 19 6,3
Khá giả 72 24,0
Trung bình 152 50,7
Cận nghèo 35 11,7
Nghèo 22 7,3
19
8.2.3 Phương pháp phỏng vấn sâu cá nhân
Để có được cái nhìn khách quan và chính xác hơn về vấn đề nhận thức, nhu
cầu và các yếu tố tác động đến lựa chọn trường thi CĐ - ĐH của HS THPT chúng
tôi tiến hành phỏng vấn sâu 14 người gồm: 10 học sinh, 2 giáo viên, 2 phụ huynh
học sinh. Thông tin phỏng vấn sâu mang tính chất định tính, tập trung vào các khía
cạnh liên quan đến lựa chọn nghề, chọn trường thi, công tác giáo dục hướng nghiệp
trong trường THPT hiện nay nhằm bổ sung những thông tin mà phương pháp định
lượng không thực hiện được.
9. Khung lý thuyết
Điều kiện KT - XH
Nhà
trƣờng
Gia
đình
Cá
nhân
Bạn bè
Truyền
thông
đại
chúng
Đặc
điểm
trƣờng
CĐ- ĐH
Nhận thức
- Thời điểm xác định
trƣờng thi CĐ - ĐH
- Đánh giá về cơ hội,
khả năng đỗ CĐ - ĐH
- Lựa chọn trƣờng thi
CĐ - ĐH
Quyết định
lựa chọn
trƣờng
CĐ - ĐH
Nhu cầu
- Luyện thi CĐ - ĐH
- Tìm hiểu thông tin
thi CĐ - ĐH
- Hoạt động hƣớng
nghiệp và cung cấp
thông tin thi CĐ - ĐH
20
NỘI DUNG CHÍNH
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Các khái niệm công cụ
1.1.1 Khái niệm nhận thức
Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, nhận thức được định nghĩa là quá trình
phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính
tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn.
Theo “Từ điển Bách khoa Việt Nam”, nhận thức là quá trình biện chứng của
sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư duy
và không ngừng tiến đến gần khách thể.
Theo Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng – 1994, “Nhận thức là quá
trình hoặc kết quả phản ánh và tái hiện thực tiễn vào trong tư duy, quá trình con
người nhận biết, hiểu biết thế giới khách quan hoặc kết quả quá trình đó nhằm nâng
cao nhận thức. Có nhận thức đúng, có nhận thức sai”.[14]
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (Hoàng Phi chủ biên) nhận thức được
định nghĩa là quá trình hay kết quả phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong tư duy.
Là quá trình con người nhận biết, hiểu biết thế giới quan hay kết quả của quá trình
đó. Nhận thức là nhận ra và hiểu biết được, hiểu được về một ai đó, một vấn đề hay
một hiện tượng nào đó.
Nhận thức là quá trình phức tạp tiếp nhận, xử lý và phân tích thông tin giúp
con người hiểu biết ngày càng đầy đủ, chính xác về thế giới xung quanh.
Trong khuôn khổ của luận văn chúng tôi chỉ tìm hiểu xem nhận thức của học
sinh về xác định trường thi CĐ - ĐH thời điểm học sinh xác định việc chọn trường
thi, học sinh đánh giá về cơ hội và khả năng thi đỗ CĐ - ĐH nhưng lựa chọn về
trường CĐ - ĐH của học sinh.
1.1.2 Khái niệm nhu cầu
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia : Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của
con người; là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người về vật chất và tinh
thần để tồn tại và phát triển. Tùy theo trình độ nhận thức, môi trường sống, những
đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có những nhu cầu khác nhau.
21
Nhu cầu là cảm giác thiếu hụt một cái gì đó mà con người cảm nhận được.
Nhu cầu là yếu tố thúc đẩy con người hoạt động. Nhu cầu càng cấp bách thì khả
năng chi phối con người càng cao. Về mặt quản lý, kiểm soát được nhu cầu đồng
nghĩa với việc có thể kiểm soát được cá nhân (trong trường hợp này, nhận thức có
sự chi phối nhất định: nhận thức cao sẽ có khả năng kiềm chế sự thoả mãn nhu cầu).
Nhu cầu của một cá nhân, đa dạng và vô tận. Về mặt quản lý, người quản lý
chỉ kiểm soát những nhu cầu có liên quan đến hiệu quả làm việc của cá nhân. Việc
thoả mãn nhu cầu nào đó của cá nhân đồng thời tạo ra một nhu cầu khác theo định
hướng của nhà quản lý, do đó người quản lý luôn có thể điều khiển được các cá nhân.
Nhu cầu là tính chất của cơ thể sống, biểu hiện trạng thái thiếu hụt hay mất
cân bằng của chính cá thể đó và do đó phân biệt nó với môi trường sống. Nhu cầu
tối thiểu hay còn gọi là nhu yếu đã được lập trình qua quá trình rất lâu dài tồn tại,
phát triển và tiến hóa.
Nhu cầu chi phối mạnh mẽ đến đời sống tâm lý nói chung, đến hành vi của
con người nói riêng. Nhu cầu được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu và
sử dụng ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống, xã hội.
Trong luận văn này, chúng tôi tôi hiểu nhu cầu về luyện thi CĐ – ĐH của
học sinh, nhu cầu được tìm hiểu thông tin thi CĐ - ĐH, các hoạt động hướng nghiệp
cung cấp thông tin phục vụ mục đích chọn trường thi CĐ - ĐH của học sinh.
1.1.3 Khái niệm lựa chọn
Lựa chọn tức là nhấn mạnh việc phải cân nhắc, tính toán để quyết định sử
dụngphương tiện hay cách thức tối ưu trong số những điều kiện hay cách thức hiện
có để đạt được mục tiêu trong điều kiện khan hiếm các nguồn lực. Cách hiểu này lúc
đầu mang nặng ý nghĩa kinh tế học vì nhấn mạnh yếu tố lợi ích vật chất (lãi, lợi
nhuận, thu nhập) nhưng sau này các nhà xã hội học mở rộng phạm vi của mục tiêu
bao gồm các yếu tố lợi ích xã hội và tinh thần.[1, tr 354]
Áp dụng vào đề tài nghiên cứu có thể thấy HS THPT khi lựa chọn ngành
nghề, chọn trường dự thi cho tương lai của mình cũng phải suy nghĩ để lựa chọn
ngành nghề, chọn trường phục vụ lợi ích bản thân. Mặc dù có thể có sự tác động
của nhiều yếu tố như gia đình, bạn bè, thầy cô, hướng nghiệp trong nhà trường, đặc
22
điểm của trường CĐ - ĐH có tác động tới nhận thức của HS khi đánh giá tầm quan
trọng của nó. Tuy nhiên hành vi lựa chọn của học sinh vẫn cần sự cân nhắc bởi họ
tính toán về phần thưởng mà mình có thể đạt được.
Đây là một thuật ngữ được dùng để nhấn mạnh việc phải cân nhắc, tính toán
để quyết định sử dụng loại phương tiện hay cách thức tối ưu trong số những điều
kiện hay cách thức thực hiện để đạt được mục tiêu trong điều kiện của mình.
1.1.4 Khái niệm định hướng
+ Định hướng là xác định phương hướng, là việc chủ thể hành động đưa ra
một hướng đi với hoạt động nào đó trên cơ sở cân nhắc kỹ khả năng, tài chính của
từng đối tượng. Mục đích cuối cùng của định hướng là có được một hướng đi phù
hợp với mọi điều kiện, hoàn cảnh khách quan và chủ quan của chủ thể [7, tr. 24]
+ Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi quan tâm đến việc những học sinh dựa
trên cơ sở những điều kiện của bản thân như năng lực của bản thân, sở thích, các
mối quan hệ, sự hiểu biết, tài chính, đặc điểm của trường CĐ - ĐH đã chọn ra cho
mình một trường CĐ - ĐH phù hợp với bản thân.
1.1.5 Khái niệm nghề nghiệp
Nghề hay nghiệp, theo đại từ điển Tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên, Nxb
Văn hoá thông tin - 1998) định nghĩa “ Nghề là công việc chuyên làm theo sự phân
công của xã hội”; còn “Nghề nghiệp là nghề nói chung”
Theo từ điển Tiếng Việt (Văn Tân chủ biên, Nxb Khoa học xã hội -1991) thì
định nghĩa “Nghề là công việc hàng ngày làm để sinh nhai”, “ Nghề nghiệp là nghề
làm để mưu sống”. Còn từ điển Larousse của Pháp đưa ra định nghĩa “Nghề nghiệp
(profession) là hoạt động thường ngày được thực hiện bởi con người nhằm tự tạo
nguồn thu nhập cần thiết để tồn tại”.
Theo E.A Klimôp: “Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức mạnh vật chất
và tinhthần của con người một cách có giới hạn, cần thiết cho xã hội (do sự phân
công laođộng xã hội mà có). Nó tạo cho mỗi con người khả năng sử dụng phương tiện
cần thiếtcho việc tồn tại và phát triển.[6].
GS.TSKH Nguyễn Văn Hộ lại cho rằng: “ Nghề nghiệp như là một dạng lao
động vừa mang tính xã hội (sự phân công xã hội) vừa mang tính cá nhân (nhu cầu
bản thân) trong đó con người với tư cách là chủ thể hoạt động đòi hỏi để thoả mãn
23
những nhu cầu nhất định của xã hội và cá nhân.[6]
Qua một số quan niệm về nghề nghiệp có thể hiểu ngắn gọn, nghề nghiệp là
một dạng lao động đòi hỏi ở con người một quá trình đào tạo chuyên biệt, có những
kiến thức, kĩnăng, kĩ xảo nhất định, có phẩm chất, đạo đức phù hợp với yêu cầu của
dạng lao động tương ứng. Nhờ quá trình hoạt động nghề nghiệp, con người có thể tạo
ra sản phẩm thoả mãn những nhu cầu vật chất, tinh thần của cá nhân và xã hội [6]
Như vậy, vận dụng vào đề tài nghiên cứu chúng ta có thể thấy nhà trường có
vai trò to lớn không chỉ truyền đạt cho học sinh kiến thức, kĩ năng mà còn giúp học
sinh có cái nhìn đúng đắn về nghề nghiệp, biết được năng lực, yêu cầu tâm lí cũng
như sức khoẻ phù hợp với ngành nào trong xã hội để từ đó lựa chọn đúng ngành
nghề mà thị trường lao động cần
Đi đôi với khái niệm nghề nghiệp là khái niệm việc làm. Trong luật lao động
quy định tại điều 13: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị
pháp luật cấm đều được nhận là việc làm”. Như vậy, hai khái niệm nghề nghiệp và
việc làm rất gần nhau, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng không đồng nhất.
Nghề nghiệp được coi là việc làm nhưng không phải việc làm nào cũng là nghề
nghiệp. Những việc làm nhất thời, không ổn định do con người bỏ sức lao động
giản đơn và được trả công để sinh sống thì không phải là nghề nghiệp.
2.1 Một số lý thuyết xã hội học áp dụng trong nghiên cứu cho đề tài
2.1.1 Lý thuyết lựa chọn hợp lý
Lý thuyết lựa chọn duy lý hay còn gọi là lý thuyết lựa chọn hợp lý cho rằng
các cá nhân hành động và trong sự lựa chọn là hành động của mình con người luôn
hành động một cách có chủ đích để lựa chọn và sử dụng các nguồn lực một cách
duy lí nhằm đạt được kết quả tốt nhất.
Xã hội học của Georg Simmel đưa ra nguyên tắc “cùng có lợi” của mối
tương tác xã hội giữa các cá nhân và cho rằng mỗi cá nhân luôn phải cân nhắc và
tính toán thiệt hơn để theo đuổi mục đích cá nhân và thỏa mãn nhu cầu cá nhân.
Simmel cho rằng mối tương tác giữa người với người đều dựa vào cơ chế “cho –
nhận” tức là trao đổi mọi thứ ngang giá nhau.
Quá trình lựa chọn duy lý là quá trình tối ưu hóa. Các cá nhân cân nhắc tính
24
toán sử dụng loại phương tiện hoặc những gì mình có thể để đạt được mục tiêu cao
nhất. Khi lựa chọn các trong số các hành động có thể cá nhân sẽ lựa chọn cách thức
theo sơ đồ:
C=(P*V)=Maximum
Trong đó: C: Là tích P : Là xác suất thành công V : là giá trị phần thưởng
của hành động [7].
Khi đối diện với một số cách hành động mỗi người làm cái mà họ tin là có
khả năng đạt được kết quả cuối cùng tốt nhất.
Trong đề tài nghiên cứu, chúng tôi vận dụng lý thuyết này nhằm giải thích sự
lựa chọn của mỗi cá nhân khi quyết định chọn ngành nghề, chọn trường dự thi ĐH –
CĐ. Sau khi có sự định hướng từ gia đình,bạn bè nhà trường, tác động của yếu tố
truyền thông, cân nhắc đặc điểm của trường CĐ - ĐH, đặc biệt là năng lực và sở
thích của bản thân thì cá nhân mỗi người có sự tính toán và cân nhắc để chọn ngành,
chọn trường cho phù hợp nhất với bản thân. Đó chính là sự lựa chọn hợp lý.
2.1.2 Lý thuyết hành động xã hội
Lý thuyết về hành động xã hội bắt nguồn từ V. Pareto, M. Weber, F.
Znaniecki, G. Mead… Các tác giả này đều cho rằng, hành động xã hội là cốt lõi của
mối quan hệ giữa con người và xã hội, là cơ sở của đời sống xã hội của con người.
Theo M. Weber, “hành động xã hội là một hành vi mà chủ thể gắn cho ý nghĩa
chủ quan nhất định theo “Động cơ” bên trong của chủ thể như là nguyên nhân của hành
động. Như vậy, bất kỳ hành động xã hội nào cũng có sự tham gia của yếu tố ý thức với
các mức độ khác nhau. Đây là cái mà M. Weber gọi là ý nghĩa chủ quan và sự định
hướng mục đích, còn G. Mead gọi là tâm thế xã hội của các cá nhân.
Hành động xã hội luôn gắn với tính chủ động của cá nhân và tính chủ động
này bị quy định bởi hàng loạt các yếu tố như: nhu cầu, lợi ích, định hướng giá trị
của chủ thể hành động.
Hành động xã hội được cấu trúc nên bởi nhiều thành tố khác nhau, giữa các
thành tố này có mối liên quan hữu cơ với nhau theo sơ đồ sau:
25
Khởi đầu của hành động xã hội bao giờ cũng là nhu cầu, lợi ích của cá nhân,
đây là động cơ thúc đẩy hành động. Động cơ tạo ra tính tích cực của chủ thể, tham
gia định hướng hành động và quy định mục đích của hành động. Bất kỳ hành động
nào cũng cần có chủ thể. Chủ thể hành động có thể là cá nhân, nhóm, cộng đồng
hay toàn thể xã hội. Ngoài ra, để tạo nên hành động cũng cần có môi trường. Đó
chính là điều kiện mà ở trong đó hành động được diễn ra. Tùy theo từng hoàn cảnh
khác nhau mà các chủ thể sẽ tạo ra hành động phù hợp nhất với hoàn cảnh đó.
Theo lý thuyết hành động xã hội, có thể thấy rằng việc lựa chọn trường CĐ-
ĐH của học sinh THPT xuất phát từ nhiều yếu tố khác nhau như: hướng nghiệp của
nhà trường, tư vấn của cha mẹ, lời khuyên từ bạn bè, thông tin từ các phương tiện
truyền thông đại chúng, đặc điểm của trường CĐ - ĐH, song một yếu tố quan trọng
không thể không nói đến đó là nhu cầu sở thích của bản thân cá nhân khiến cá nhân
quyết định chọn ngành nghề này mà không chọn ngành nghề khác.
2.1.3 Lý thuyết xã hội hoá
Neil Smelser, nhà xã hội học Mỹ, định nghĩa “xã hội hoá là quá trình mà
trong đó cá nhân học cách thức hành động tương ứng với vai trò của mình”,[3] để
phục vụ tốt cho việc thực hiện các mô hình hành vi tương ứng với hệ thống vai trò
mà cá nhân phải đóng trong cuộc đời. Ở đây, vai trò của cá nhân trong quá trình xã
hội hoá chỉ giới hạn trong việc tiếp nhận các kinh nghiệm, giá trị, chuẩn mực mà
chưa đề cập tới khả năng cá nhân có thể tạo ra những giá trị, kinh nghiệm, chuẩn
mực để xã hội học theo.
Một nhà xã hội học khác của Mỹ, Fichter đã xem “xã hội hoá là một quá
trình tương tác giữa người này và người khác, kết quả là một sự chấp nhận những
Hoàn cảnh
Nhu cầu Động cơ Chủ thể Công cụ,
phương
tiện
Mục đích
26
khuôn mẫu hành động và thích nghi với những khuôn mẫu hành động đó”[3]. Định
nghĩa này đã chú ý hơn đến tính tích cực của cá nhân trong quá trình xã hội hoá.
Định nghĩa của nhà khoa học người Nga, G. Andreeva đã nêu được cả hai
mặt của quá trình xã hội hoá: “xã hội hoá là quá trình hai mặt. Một mặt, cá nhân
tiếp nhận kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm nhập vào môi trường xã hội, vào hệ
thống các quan hệ xã hội. Mặt khác, cá nhân tái sản xuất một cách chủ động hệ
thống các mối quan hệ xã hội thông qua chính việc họ tham gia vào các hoạt động
và thâm nhập vào các mối quan hệ xã hội”. [3, tr. 258 - 259].Theo định nghĩa này,
cá nhân trong quá trình xã hội hoá không đơn thuần nhận kinh nghiệm xã hội mà
còn chuyển hoá nó thành những giá trị, tâm thế, xu hướng của cá nhân để tham gia
tái tạo, “tái sản xuất” chúng trong xã hội.
Lý thuyết xã hội hoá cũng đề cập đến môi trường xã hội hoá, đó là nơi cá
nhân có thể thực hiện các tương tác xã hội của mình nhằm mục đích thu nhận và tái
tạo kinh nghiệm xã hội. Các môi trường xã hội hoá chủ yếu thường được kể đến là
gia đình, trường học và các tổ chức trước tuổi đi học, các nhóm thành viên và thông
tin đại chúng.
1. Gia đình: Đây là môi trường xã hội hoá quan trọng bậc nhất của cá nhân
bởi mỗi cá nhân đều sinh ra và lớn lên trong gia đình. Mỗi gia đình có một tiểu văn
hoá riêng được xây dựng trên nền tảng của văn hoá chung của xã hội và được tạo
thành bởi nền giáo dục gia đình, truyền thống gia đình, lối sống của gia đình... Các
cá nhân sẽ tiếp nhận các giá trị, chuẩn mực của tiểu văn hoá này.
Môi trường gia đình được tiếp cận trong nghiên cứu này dưới các khía cạnh
kinh tế gia đình (tự đánh giá), và nghề nghiệp của cha mẹ… Tất cả được xem như
những nhân tố tác động đến nhận thức, nhu cầu của HS trong việc lựa chọn trường.
2. Trường học: Trong nhà trường, các cá nhân thu nhận những kiến thức
khoa học cơ bản về tự nhiên và xã hội, các kiến thức văn hoá chủ yếu làm nền tảng cho
cuộc sống sau này.
Trong nghiên cứu này, trường học được tiếp cận như một kênh cung cấp
thông tin về kì thi tuyển sinh CĐ – ĐH hàng năm. Trường học cũng được xem như
là một yếu tố tác động đến nhận thức của học sinh trong vấn đề lựa chọn ngành
nghề và chọn trường CĐ – ĐH.
27
3. Các nhóm thành viên/Nhóm bạn bè: Các nhóm này có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc cá nhân thu nhận các kinh nghiệm xã hội theo cả con đường chính
thức và không chính thức, tức là không phải chỉ qua những bài giảng, các phương
tiện thông tin đại chúng mà cả qua kênh giao tiếp cá nhân.
Nhóm thành viên, bạn bè cũng được xem xét như một nhân tố môi trường quan
trọng có tác động đến nhận thức, lựa chọn trường thi CĐ – ĐH của học sinh THPT.
4. Thông tin đại chúng: Trong xã hội hiện đại, chúng ta không thể bỏ qua vai trò
của các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài, vô tuyến truyền hình và các loại
phương tiện thông tin khác, trong quá trình xã hội hoá cá nhân. Hiện nay các phương tiện
thông tin đại chúng là kênh cung cấp thông tin chủ yếu cho các cá nhân. Đồng thời
chúng cũng sẽ cung cấp cho các cá nhân những định hướng, quan điểm đối với các sự
kiện và những vấn đề xảy ra trong cuộc sống hàng ngày .[3, tr.257-262]
Các nhà xã hội học khi nghiên cứu về các giai đoạn của quá trình xã hội hoá
đã chỉ ra rằng, xã hội hoá ở lứa tuổi thanh niên là giai đoạn vô cùng quan trọng vì
lứa tuổi này là lúc tốt nhất để kiểm nghiệm những tri thức thu nhận thụ động qua
hoạt động thực tiễn. Những kinh nghiệm xã hội cũng được bổ sung qua quá trình
lao động. Cá nhân lúc này đã có thể phán xét, đánh giá về các giá trị chuẩn mực mà
họ phải tuân thủ, cân nhắc xem lựa chọn như thế nào là có lợi nhất để làm theo.
Mặt khác, theo lý thuyết về xã hội hoá của nhà xã hội học và tâm lý học xã
hội người Nga – G. Andreeva, học sinh là những người đang trong giai đoạn bước
đệm giữa giai đoạn trước lao động và giai đoạn lao động. Đặc thù của độ tuổi này là
tính năng động và dễ thích ứng với cái mới. Xét về mặt định hướng giá trị, hệ giá trị
của nhóm học sinh đang trong giai đoạn định hình, chính vì vậy nó cũng dễ bị thay
đổi. [3, tr.257-262]
Mỗi cá nhân, trong quá trình phát triển của mình sẽ tiếp thu tri thức, học tập
các giá trị chuẩn mực theo hai kênh chính thức (trường học) và không chính thức
(gia đình, bạn bè, truyền thông đại chúng…). Nhận thức, nhu cầu và các yếu tố tác
động đến việc lựa chọn trường thi CĐ - ĐH của mỗi cá nhân học sinh chịu ảnh
hưởng rất nhiều từ những khuôn mẫu, chuẩn mực giá trị của gia đình, cộng đồng xã
hội. Như vậy, có thể thấy lý thuyết xã hội hoá rất có ý nghĩa trong việc giải thích
nguyên nhân của quá trình nhận thức, nhu cầu và lựa chọn của cá nhân. Trong
28
nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng lý thuyết xã hội hoá để tìm hiểu và lý giải những
yếu tố môi trường sống xung quanh (gia đình, nhà trường và xã hội) tác động như
thế nào đến nhận thức, nhu cầu và sự lựa chọn thi vào các trường CĐ - ĐH của học
sinh THPT.
1.3 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
Việt Yên là huyện trung du của tỉnh Bắc Giang. Xuôi theo Quốc lộ 1A cũ, rẽ
sang quốc lộ 37 đi khoảng 10 km, bạn sẽ tới trung tâm huyện lỵ là thị trấn Bích
Động. Việt Yên cách thủ đô Hà Nội chỉ 40 cây số theo quốc lộ 1A cũ, có tuyến
đường sắt Hà Nội- Lạng Sơn chạy qua, thuận lợi cho việc giao lưu thương mại.
Chính vì vậy, địa bàn Việt Yên được xây dựng khu công nghiệp lớn nhất của tỉnh
Bắc Giang.
● Vài nét về địa bàn nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này tác giả chọn trường THPT Việt Yên 1 thuộc địa
bàn của huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang là địa bàn để nghiên cứu. Việt Yên 1 là
trường chuẩn của huyện, tỉ lệ học sinh thi vào cấp 3 với điểm chuẩn hàng năm cao
nhất trong số các trường THPT trực thuộc huyện. Trường THPT Việt Yên 1 với vị
trí nằm ở ngay trung tâm văn hóa – chính trị của thị trấn, trình độ dân trí cao.
Trường THPT Việt Yên 1 được thành lập vào năm 1966, theo Quyết định số
772 TCDC ngày 05 tháng 05 năm 1966 của Uỷ Ban hành chính tỉnh Hà Bắc. Với
tên gọi ban đầu là trường Cấp III Việt Yên. Lịch sử phát triển của trường trải qua
nhiều tên gọi: năm 1981 có tên là trường PTTH Việt Yên, năm 1993 là trường
THPT Việt Yên, đến năm 1994 có tên là trường THPT Việt Yên I như hiện nay.
Đến nay nhà trường đã trải qua 47 năm xây dựng và trưởng thành. Từ 03 lớp với
148 học sinh và 14 thầy, cô giáo đến nay nhà trường đã có 1541 học sinh với 92
thầy, cô. Quy mô nhà trường được mở rộng, chất lượng giáo dục đào tạo được nâng
lên, số học sinh thi đỗ vào các trường CĐ - ĐH hàng năm ở mức cao. Năm học
2007 - 2008 và 2010 -2011 nhà trường được xếp vào tốp 200 trường THPT có điểm
trung bình thi CĐ – ĐH cao nhất trên toàn quốc. Đội ngũ cán bộ giáo viên đoàn kết,
thống nhất, không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, được đào tạo
chuẩn và trên chuẩn đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của GD - ĐT trong giai
đoạn hiện nay xứng đáng là địa chỉ tin cậy trong sự nghiệp “Trồng người” của Đảng
29
bộ và nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
Được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Sở GD - ĐT Bắc
Giang, trong những năm qua trường THPT Việt Yên 1 đã làm tốt công tác đào tạo
mũi nhọn, bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh đại trà nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục, nhà trường luôn chú trọng công tác khuyến học, khuyến tài nhằm động viên,
khích lệ các tập thể, cá nhân đạt được nhiều thành tích trong công tác GD - ĐT. Nhà
trường lấy chất lượng giáo dục toàn diện làm nền tảng, đầu tư có chiến lược và
trọng điểm cho công tác giáo dục mũi nhọn, quan tâm đến công tác phát hiện, tuyển
chọn và bồi dưỡng giáo viên dạy giỏi, học sinh có năng khiếu làm nòng cốt cho nhà
trường và ngành giáo dục tỉnh Bắc Giang.
Với bề dày truyền thống, trong những năm qua các thế hệ thày và trò trường
THPT Việt Yên 1 đã không ngừng nỗ lực phấn đấu, hoàn thành tốt các nhiệm vụ,
mục tiêu giáo dục đặt ra. Chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường phát triển
một cách vững chắc. Tỷ lệ tốt nghiệp hàng năm bình quân trên 99%, chất lượng mũi
nhọn từng bước được nâng cao, tỷ lệ học sinh thi đỗ các trường CĐ – ĐH hàng năm
đạt trên 70%. Đứng trong tốp 3 trường chất lượng cao trên toàn tỉnh.
Các thành tích được công nhận:
- Năm 2000 nhận bằng khen của Bộ GD&ĐT
- Năm 2002 nhận bằng khen của Thủ tướng Chính phủ.
- Năm 2006 được công nhận trường chuẩn quốc gia giai đoạn 2004 - 2010
- Năm 2004 nhận Huân chương lao động hạng ba.
- Năm học 2004 : được Uỷ ban nhân dân Tỉnh khen
- Năm 2011 nhà trường được Nhà nước tặng Huân chương Lao động Hạng nhì.
- Năm 2013 nhà trường được công nhận lại trường đạt Chuẩn quốc gia. Cơ
sở vật chất nhà trường thường xuyên được bổ sung, nâng cấp.
● Đội ngũ cán bộ và nhân viên của trường
Hiện tại trường có tổng số giáo viên, cán bộ quản lý và nhân viên của trường
là 92 người, trong đó có 1 hiệu trưởng, 2 hiệu phó, 7 nhân viên hành chính, 82 giáo
viên. Về trình độ đội ngũ cán bộ, trường có 13 giáo viên đạt trình độ thạc sĩ và 79
giáo viên và nhân viên còn lại có trình độ đại học.
30
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG NHẬN THỨC, NHU CẦU TRONG VIỆC LỰA CHỌN
TRƢỜNG CAO ĐẲNG – ĐẠI HỌC CỦA HỌC SINH THPT
2.1. Nhận thức của học sinh THPT về vấn đề lựa chọn trƣờng CĐ - ĐH
Kỳ thi tuyển sinh CĐ - ĐH đang tới gần, việc lựa chọn trường CĐ - ĐH đang
là một quyết định khó với các em HS. Điều này đòi hỏi phải có sự tìm hiểu kỹ
lưỡng, sở thích và đánh giá đúng khả năng học tập của chính mình. Hiện nay, HS
THPT có nhận thức như thế nào trong việc lựa chọn cho mình một tương lai nghề
nghiệp sau này. Chúng tôi tiến hành khảo sát 300 HS lớp 12 trường THPT Việt Yên
1 để hiểu rõ hơn nhận thức của các em về sự cần thiết phải xác định trường thi CĐ –
ĐH, thời điểm học sinh xác định việc lựa chọn trường CĐ – ĐH, đánh giá về cơ
hội, khả năng thi đỗ CĐ - ĐH của học sinh THPT hiện nay.
2.1.1 Nhận thức của học sinh về sự cần thiết xác định trường dự thi CĐ - ĐH
Học sinh THPT nói chung và học sinh lớp 12 nói riêng là lứa tuổi bắt đầu
bước vào ngưỡng cửa của cuộc đời. Một cuộc sống tương lai đầy hấp dẫn, lý thú
song cũng đầy bí ẩn và khó khăn đang chờ đợi các em. Ở độ tuổi của các em HS lớp
12 đã có những suy nghĩ chín chắn hơn khi quyết định kế hoạch đường đời cho
mình. Khảo sát 300 học sinh về việc đánh giá như thế nào về mức độ cần thiết của
việc xác định trường thi CĐ - ĐH chúng tôi thu nhận được kết quả sau:
Có tới 82,3% số học sinh trả lời việc xác định trường thi là cần thiết, với việc
các em xác định được trường dự thi CĐ - ĐH sắp tới, các em sẽ có sự chuẩn bị kỹ
lưỡng trong học tập để nâng cao kiến thức trình độ và kỹ năng của bản thân mình,
các em sẽ có nhiều thời gian để tìm hiểu về ngành nghề mình lựa chọn. Đối với
những em chọn trường CĐ - ĐH dự thi môn năng khiếu, các em sẽ đầu tư nhiều
thời gian hơn để học tập và nghiên cứu kỹ về môn học này.
“ Em xác định sẽ thi Đại học Thể dục Thể thao Bắc Ninh nên ngay từ đầu
năm em đã tham gia các lớp tập thể lực để chuẩn bị cho môn thi năng khiếu” (PVS
5. Học sinh nam, học lực khá)
31
82.3
13.34.3
Có cần thiết
Không cần thiết
Chưa biết
Biểu đồ 2.1: Nhận thức của học sinh về sự cần thiết của việc xác định
trường dự thi CĐ – ĐH (đơn vị:%)
(Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
Vẫn còn một tỷ lệ 13.3% học sinh trả lời không cần thiết trong việc xác định
trường dự thi CĐ – ĐH, có 4,3% học sinh trả lời chưa biết. Tại thời điểm khảo sát là
cuối học kỳ I chuẩn bị sang kỳ II của năm học cuối cấp, tuy nhiên số HS này vẫn
chưa xác định được trường dự thi là cần thiết. Điều này cho thấy số HS này vẫn bị
động trong việc lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân mình.
Hầu hết HS đều nhận thấy việc xác định trường dự thi CĐ - ĐH là rất cần
thiết chiếm số lượng rất cao bởi khi đó các em sẽ có nhiều thời gian dành cho ôn
luyện chuẩn bị hành trang kiến thức để bước vào kỳ thi tuyển sinh quan trọng nhất
cuộc đời mà không bị phân tán hay phải suy nghĩ quá nhiều ở thời gian cuối khi
đăng ký ghi danh chọn trường.
53.0
20.7
28.3
7.3
32.3
6.3 4.7
0.0
10.0
20.0
30.0
40.0
50.0
60.0
Khối A Khối A1 Khối B Khối C Khối D Khối M Khối
khác
Biểu đồ 2.2: Khối dự thi CĐ – ĐH của học sinh (đơn vị: %)
(Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
32
Nhìn vào đồ thị 2.2 thấy rằng, 3 khối thi được phần nhiều học sinh lựa chọn
là A, D, và B, tỷ lệ lần lượt là 53%, 32,3%, và 28,3%. Sở dĩ có sự tập trung trong
lựa chọn khối thi như vậy là vì theo các em, hầu hết các trường CĐ - ĐH hiện nay
đều có ngành dự thi là 3 khối này và do đó đồng nghĩa với việc các em có nhiều sự
lựa chọn để đăng ký dự thi trong đợt tuyển sinh sắp tới.
“Học kinh tế là sở thích của em. Nó phổ biến, dễ kiếm tiền, phù hợp với con
gái. Công việc này cũng dễ xin việc nên em lựa chọn thi khối A”. (PVS 2. Học sinh
nữ, học lực khá)
Một lý do nữa, HS lựa chọn nhiều ở 2 khối A và D, hay A và B là các em có
thể thi hai khối vì thời điểm thi hai khối ĐH là khác nhau. Hiện nay, Bộ GD&ĐT tổ
chức thi tuyển sinh ĐH theo 2 đợt - đợt 1: (ngày 4 – 5 tháng 07), cho các khối A,
A1 và V; và đợt 2: (ngày 9 – 10 tháng 07) là các khối B, C, D và các khối năng khiếu.
Do đó, các em học sinh có nhiều sự lựa chọn hơn cho mình, có rất nhiều học sinh
chọn thi cả 2 khối là khối A và khối B, hay khối A và khối D.
“Em thi khối A đợt 1, và đợt 2 em thi khối D. Lỡ trượt trường này em còn
trường khác nữa” (PSV 2. Học sinh nữ , học lực khá)
Ở hai khối C, M học sinh có sự lựa chọn ít, nhiều trường CĐ - ĐH các ngành
học không thi khối C, khối M và theo suy nghĩ của các em thì học khối C ra trường
khó xin việc làm, thu nhập thấp.
“Chị gái em học khối C, thi vào trường ĐH Công Đoàn ra trường xin việc
phải chạy vạy nhờ vả khắp nơi mà công việc không đúng chuyên ngành học, thu
nhập lại thấp nên rút kinh nghiệm em chuyển sang khối A để thi được nhiều trường
hơn.” (PSV 2. Học sinh nữ , học lực khá)
Điều dễ nhận thấy là HS lựa chọn nhiều ở khối A, D, B mà theo lý giải của
các em là dễ tìm cho mình trường CĐ - ĐH để dự thi hơn, đồng thời các em có thể
thi được cả 2 khối là khối A và khối B, hay khối A và khối D trong kỳ thi CĐ - ĐH
thì cơ may đỗ ĐH sẽ được nhân đôi vì thế những học sinh có năng khiếu về môn
học thuộc các khối khác nhau đã quyết định ôn cả 2 khối.
2.1.2 Thời điểm học sinh suy nghĩ về việc lựa chọn trường CĐ - ĐH
Kết quả khảo sát cho thấy, mỗi học sinh có nhận thức và suy nghĩ về lựa
chọn trường thi ở những thời điểm khác nhau tuỳ theo sở thích, nguyện vọng của
33
mỗi cá nhân. Cụ thể là: phần lớn học sinh (khoảng 2/5 số học sinh trong mẫu khảo
sát) bắt đầu nghĩ đến việc lựa chọn trường thi CĐ - ĐH ở thời điểm hiện tại khi
đang học lớp 12. Việc lựa chọn trường thi CĐ - ĐH cũng được các em suy nghĩ, cân
nhắc từ khi học lớp 11 và lớp 10 với tỷ lệ lần lượt là 27,0% và 22,3%, chỉ có một tỷ
lệ nhỏ dưới 10% học sinh có suy nghĩ về việc lựa chọn trường thi CĐ - ĐH từ trước
khi vào lớp 10. (Xem Biểu đồ 2.3)
7.7
1.7
41.3
27.0
22.3
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
Trước khi vào
lớp 10
Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Chưa có ý
định gì
Biểu đồ 2.3: Thời điểm học sinh suy nghĩ chọn trường thi CĐ – ĐH (đơn vị: %)
(Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
Biểu đồ 2.3 cũng cho thấy vẫn có 1,7% học sinh chưa có ý định gì trong việc
chọn trường CĐ - ĐH để thi. Qua trao đổi với HS chúng tôi được biết tỷ lệ HS chưa
có dự định gì trong việc lựa chọn trường thi thường rơi vào các em có học lực trung
bình, yếu hay những học sinh cá biệt không tin vào khả năng của bản thân có vượt
qua được kỳ thi tốt nghiệp THPT hay không nên chưa dám nghĩ tới chọn trường
CĐ, ĐH để dự thi.
Như vậy, hầu hết HS đã có suy nghĩ về chọn trường thi, nhưng khi xét theo
mức độ thì các em có suy nghĩ về vấn đề này hơi muộn, tức là có số đông các em
đến lớp 12 khi chuẩn bị làm hồ sơ đăng ký dự thi mới suy nghĩ đến việc chọn
trường cho mình, nghĩa là số đông học sinh THPT vẫn chưa có sự chuẩn bị sớm cho
việc chọn nghề nghiệp cho mình. Điều này chứng tỏ sự bị động trong phần lớn học
sinh THPT, bởi lẽ học sinh ở thời điểm lớp 12 mới suy nghĩ tới việc chọn trường thì
34
các em không có đủ thời gian để tìm hiểu kỹ ngành nghề mà mình chọn để theo học
sau này. Hậu quả là, đến thời điểm đăng ký hồ sơ, các em mới vội vàng trong việc
chọn ngành, chọn trường này cũng đồng nghĩa với xác suất rủi ro sẽ rất lớn. Câu hỏi
đặt ra là công tác hướng nghiệp, phân luồng cho các em học sinh THPT hiện nay
như thế nào? Bởi nếu làm tốt công tác định hướng nghề nghiệp cho các em thì học
sinh THPT sẽ có những lựa chọn và suy nghĩ từ sớm thì sẽ có những hành vi chuẩn
bị kỹ lưỡng hơn cho nghề nghiệp tương lai về các mặt như: kiến thức các môn học
để thi vào ngành đó, kiến thức về nghề, các đòi hỏi lien quan đến nghề như trình độ
anh văn, vi tính… còn nếu các em có suy nghĩ muộn thì sẽ gây khó khăn cho các
em trong việc tìm hiểu nghề, tham khảo các thông tin liên quan đến nghề nghiệp,
chuẩn bị kiến thức cho nghề, tìm hiểu về các ngành nghề đào tạo trong các trường
CĐ - ĐH, thậm chí có nhiều em không tìm hiểu kỹ về ngành nghề dẫn đến chán nản
và bỏ học khi không thấy phù hợp.
2.1.3 Tự đánh giá về cơ hội, khả năng thi đỗ CĐ – ĐH của học sinh THPT
Kỳ thi tuyển sinh CĐ – ĐH hàng năm luôn là kỳ thi cam go nhất, quyết định
tương lai của các em học sinh THPT. Hiện nay, rất nhiều em cảm thấy hoang mang
lo lắng về cơ hội trúng tuyển của mình, bên cạnh đó những em chắc kiến thức lại rất
tự tin để lựa chọn cho mình vào một trường ĐH phù hợp với thực lực, sở thích, đam
mê của mình.
Việc đánh giá được mức độ khó khăn của thi tuyển sinh CĐ – ĐH sẽ tạo ra
mục tiêu, động lực để các em phấn đấu học tập tốt hơn để thi được vào các trường. Khi
được hỏi “thi CĐ – ĐH có khó không” thì đa phần học sinh đều có suy nghĩ thi CĐ
– ĐH là rất khó. Số lượng HS trả lời rất khó chiếm 46,3%, khó chiếm 33,3%. Trong
mẫu khảo sát, chỉ có số ít (4,3 %) học sinh cho rằng thi CĐ - ĐH dễ, 10,7% cho rằng
tương đối dễ. Con số này phần nào cho thấy sự tự tin của những em học sinh này đối với
kỳ thi CĐ - ĐH sắp tới.
Vẫn còn 4,7% số học sinh trả lời không biết thi CĐ – ĐH khó hay dễ. Điều
này có thể do, những học sinh này vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng vào bản thân mình,
các em vẫn còn mơ hồ về khối lượng kiến thức của bản thân cũng như thông tin thi
CĐ – ĐH sắp tới.
35
4.3
11.3
46.3
33.3
4.7
Dễ
Tương đối dễ
Khó
Tương đối khó
Không biết
Biểu đồ 2.4: Tự đánh giá của học sinh về mức độ khó của thi tuyển sinh CĐ - ĐH
(đơn vị: %)
(Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
Để làm rõ hơn thực lực cũng như kết quả học tập 12 năm của các em HS lớp
12, chúng tôi tiến hành đánh giá cơ hội và khả năng thi đỗ CĐ – ĐH sắp tới của các
em HS. Với số lượng 300 phiếu khảo sát chúng tôi thu về được kết quả như sau:
11.0
23.3
37.3
19.0
9.3Chắc chắn đỗ
Có thể đỗ
Không chắc chắn
Không biết
Không trả lời
Biểu đồ 2.5: Học sinh tự đánh giá khả năng thi đỗ CĐ – ĐH
(đơn vị: %)
( Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
36
Biểu đồ 2.5 thì có tới 56,3% HS không chắc chắn và không biết khả năng thi
đỗ của mình trong kỳ thi CĐ – ĐH sắp tới. Điều này thể hiện rõ các em không tự tin
về năng lực, kiến thức và khả năng của mình để thi đại học, tuy nhiên vẫn làm hồ sơ
để dự thi.
“Em thi ĐH cho biết, theo bạn bè và theo nguyện vọng của bố mẹ thôi. Em
không tự tin về kiến thức của mình cho kỳ thi ĐH năm nay” (PVS 1. Học sinh nam,
học lực trung bình)
Theo bản tin cập nhật của thị trường lao động quý I – 2014 do Bộ LĐ -TB
&XH cùng Tổng cục Thống kê công bố, trong quý IV-2013, cả nước có 900.000
người thất nghiệp (tăng 48.000 người so với cùng kỳ 2012) và hơn 1,2 triệu lao
động trong độ tuổi thiếu việc làm. Đặc biệt, nhóm thanh niên từ 20-24 tuổi tốt
nghiệp CĐ – ĐH trở lên (sinh viên mới ra trường) có tỷ lệ thất nghiệp rất cao, lên
tới 20,75% [27]. Đây là một con số đáng báo động đối với những cử nhân có bằng
cấp ĐH. Câu hỏi được đặt ra đại học có phải là con đường duy nhất dẫn đến thành
công hay không? Mặc dù hiện nay, cử nhân thất nghiệp rất nhiều, số tìm được việc
làm phần lớn cũng chỉ là những công việc “đủ ăn”, chứng tỏ con đường này không
hề bằng phẳng, nhưng người ta vẫn “đổ xô” thi đại học. Có lẽ cả xã hội, nhà trường,
gia đình, bạn bè và chính bản thân HS còn quá đề cao tấm bằng đại học và đánh giá
thấp những con đường học nghề và học nghề dường như chưa tỏ ra đủ sức thuyết
phục trước HS và xã hội. Nếu các em được định hướng nghề nghiệp, chọn nghề phù
hợp với năng lực bản thân, phù hợp với nhu cầu của xã hội thì thì có thể tỷ lệ thất
nghiệp sẽ giảm đáng kể.
Hiện nay, nhận thức của các em về thi CĐ – ĐH còn khá đơn giản, các em
không tự lượng được sức học, khả năng của bản thân để tìm con đường học nghề
phù hợp. Do tư duy của nhiều gia đình chưa thể thoát khỏi suy nghĩ “đại học là con
đường duy nhất để thành công” nên họ không có được sự định hướng đúng đắn cho
con em mình.
Hơn nữa, với tâm lý muốn thoát ly lao động chân tay nặng nhọc nên nhiều
học sinh không kể đến năng lực của bản thân, không cần quan tâm đến nhu cầu của
xã hội mà cứ nhất quyết nộp hồ sơ dự thi vào các trường ĐH, còn nếu vào học nghề
37
tại các trường là do bí quá không có con đường nào khác hơn nữa. Cùng với đó, các
thông tin tư vấn và hướng nghiệp dạy nghề còn yếu kém, chưa đủ làm cho học sinh
hiểu để có sự lựa chọn đúng đắn.
“ Em phải học để thoát khỏi công việc đồng ruộng chị ạ, bố mẹ em làm nông
vất vả lắm nên dù thế nào em cũng phải nộp hồ sơ thi bằng được vào ĐH trong
năm nay”( PVS 5. Học sinh nam, học lực trung bình)
Chúng tôi cũng tiến hành khảo sát quyết định của HS về việc chọn trường thi
CĐ – ĐH cho kỳ thi tuyển sinh sắp tới để làm rõ hơn nhận thức của các em trong
việc chọn trường thi.
28.7
35.3
21.7
7.7
6.7
0 5 10 15 20 25 30 35 40
Đã quyết định chắc chắn
Đã quyết định nhưng chưa chắc chắn
Đang phân vân
Chưa có ý định gì
Chưa nghĩ tới
Biểu đồ 2.6 : Quyết định lựa chọn trường thi CĐ – ĐH của học sinh
(đơn vị: %)
(Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
Qua nghiên cứu chúng tôi được biết ở thời điểm khảo sát có 28,7% số lượng học
sinh được hỏi trả lời là đã quyết định chắc chắn trong việc lựa chọn trường thi CĐ –
ĐH sắp tới. Với việc đã lựa chọn được trường thi, học sinh có sự chuẩn bị đầy đủ cả
về tinh thần, vật chất lẫn tri thức cho việc ôn tập từ đó học sinh sẽ chủ động và tự
tin hơn trong mục tiêu học tập của mình.
Bên cạnh đó vẫn còn 35,3% đã quyết định nhưng chưa chắc chắn , có 21,7%
đang phân vân, có 7,7% chưa có ý định gì, có 6,7% chưa nghĩ tới.
Tuy thời điểm các em học sinh chuẩn bị ra trường sắp cận kề nhưng dường như
38
phần đông các em chưa có sự chuẩn bị một cách chu đáo đối với việc chọn nghề của
mình. Điều này thể hiện ở việc học sinh chưa tích cực tìm hiểu những thông tin có
liên quan đến nghề để làm căn cứ lựa chọn nghề nghiệp, chọn trường thi ở thời
điểm này.
“ Em chưa quyết định được là sẽ thi trường gì, gần tới sát ngày đăng ký hồ
sơ em xem bạn đăng ký trường gì rồi đăng ký theo bạn” (PVS 5. Học sinh nam, học
lực trung bình)
Phần lớn HS đều đánh giá kỳ thi CĐ – ĐH là một kỳ thi khó, cơ hội trúng
tuyển không cao. Tính đến thời điểm chúng tôi khảo sát các em đánh giá cơ hội về khả
năng thi đỗ CĐ - ĐH là rất thấp chỉ có 11,0% là chắc chắc còn lại với 89,0% học sinh
không chắc chắn, không biết, và không trả lời. Cùng với đó là tỷ lệ HS còn đang phân
vân, chưa chắc chắn, chưa nghĩ tới, và chưa có ý định gì trong việc chọn trường nào để
thi cũng chiếm tỷ lệ khá cao chiếm tới 71,3%. Chúng tôi quan tâm tới thời điểm khảo
sát đã là cuối học kỳ I chuẩn bị qua học kỳ II, tuy nhiên phần lớn HS chưa chọn được
trường ĐH trong khi thời gian làm hồ sơ thi ĐH chỉ còn chưa đầy 4 tháng. Câu hỏi đạt
ra là liệu với thời gian ngắn như vậy các em có đủ thời gian để lựa chọn đúng nghề
nghiệp cho mình hay không? nguyên nhân là do đâu? Chúng ta cần nhìn lại công tác
giá dục hướng nghiệp (GDHN) trong nhà trường phổ thông. Thông qua những buổi
học nghề, những buổi nói chuyện, hướng dẫn của thầy cô trong vấn đề nghề nghiệp sẽ
giúp HS biết được khả năng, năng lực của mình phù hợp với ngành nghề nào. Thế
nhưng công tác GDHN thế nào để các em tiếp thu, hứng thú thì không phải là đơn giản.
Việc GDHN giờ đây không phải là vấn đề của riêng ngành giáo dục mà là vấn đề
chung của toàn xã hội, bởi HS THPT chính là nguồn nhân lực quan trọng của sự
nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Qua đây chúng ta nhận thấy một thực tế mặc dù các em nhận thức được việc thi
đỗ vào CĐ - ĐH là rất khó, cơ hội trúng tuyển không cao, chưa chắc chắn chọn trường
đại học nào để dự thi, tuy nhiên các em vẫn chọn việc thi ĐH thay vì học các trường
TCCN hay đi học nghề. Điều đó cho thấy công tác phân luồng, hướng nghiệp cho học
sinh sau trung học hiện nay còn chưa hiệu quả. Do đó, gây lãng phí nhiều về thời gian,
tiền của đối với chính bản thân các em học sinh, gia đình và xã hội.
39
2.2 Thực trạng lựa chọn trƣờng thi CĐ – ĐH của học sinh THPT
Học sinh hiện nay có những dự định gì sau khi tốt nghiệp THPT, các em tiếp tục thi
lên CĐ – ĐH, đi học TCCN, học nghề hay đi làm những công việc khác. Các em
lựa chọn những nhóm trường nào để thi trong kỳ thi tuyển sinh CĐ - ĐH sắp tới.
Chúng tôi tiến hành khảo để hiểu rõ hơn những dự định chính của học sinh trong
việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai cho bản thân.
2.2.1 Các dự định chính của học sinh sau khi tốt nghiệp THPT
Bảng 2.1 : Dự định của học sinh sau khi tốt nghiệp THPT
(đơn vị %)
Dự định Tần số Tỉ lệ
Thi CĐ – ĐH nếu không đỗ năm sau thi lại 101 33,7
Thi CĐ – ĐH nếu không đỗ xem xét chuyển xuống học hệ
TCCN hoặc dạy nghề 133 44,3
Đi làm công nhân hoặc những ngành nghề lao động chân tay
phổ thông 38 12,7
Đi làm kinh doanh buôn bán 22 7,3
Dự định khác 6 2,0
Tổng 300 100,0
( Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
Những số liệu trong bảng 2.1 cho chúng ta thấy học sinh có dự định sau khi
tốt nghiệp THPT sẽ thi vào CĐ - ĐH nếu không đỗ xem xét chuyển xuống học hệ
TCCN hoặc dạy nghề chiếm 44,3%. Sự lựa chọn tiếp theo của họ là thi CĐ – ĐH
nếu không đỗ năm sau thi lại là 33,7%. Sự lựa chọn thứ 3 là đi làm công nhân hoặc
những ngành nghề lao động chân tay phổ thông chiếm 12,7%, tiếp theo là đi làm
kinh doanh buôn bán chiếm 7,3%, dự định khác là 2%. Chúng ta nhận thấy một
thực tế là tỷ lệ học sinh có nguyện vọng được thi vào CĐ – ĐH là rất lớn, tỷ lệ học
sinh đi làm công nhân hoặc những ngành nghề lao động chân tay phổ thông, đi làm
kinh doanh buôn bán chiếm tỷ lệ thấp. Qua trao đổi chúng tôi được biết được hầu
hết học sinh đều mong muốn thi ĐH, mặc dù các em biết thực lực học của mình tới
đâu, các em nhận thức được bản thân có khả năng không đủ để thi vào một trường
40
ĐH nhưng các em vẫn quyết định thi ĐH. Với nhận thức “thi cho biết, học tài thi
phận” tìm kiếm cho mình một vận may, đại học là con đường duy nhất dẫn đến
thành công cho mỗi người.
Với quan niệm phải vào và học ĐH thì mới có nghề nghiệp tốt, còn lại học
hệ TCCN, dạy nghề sau này sẽ rất khó khăn để có một sự nghiệp vững vàng, đó là
một áp lực rất lớn đối với mỗi học sinh. Một phần nữa ở Việt Nam, đa phần mọi
người nghĩ rằng phải có một tấm bằng ĐH, như một vé thông hành sau 12 năm học
ở THPT, việc “coi trọng bằng cấp” nhiều bậc phụ huynh ép con em phải thi bằng
được ĐH để làm rạng rỡ bộ mặt gia đình dòng họ. Đây dường như là rào cản lớn mà
các bậc phụ huynh và xã hội đề ra để buộc con em họ phải gồng mình vượt qua.
Điều này không chỉ gây ra một sự lãng phí về công sức, thời gian, tiền của không ít
đối với gia đình và xã hội, mà còn gây phức tạp, khó khăn cho công tác tuyển sinh
CĐ, ĐH hàng năm.
“Nếu không thi được ĐH em không biết sẽ phải làm gì nên chỉ có cách cố
gắng hết sức. Nếu năm nay em không thi đỗ thì sang năm em sẽ thi tiếp để vào bằng
được ĐH hay một trường CĐ bởi em không còn lựa chọn nào khác là để làm hài
lòng bố mẹ”. (PVS 3. Học sinh nam , học lực khá)
Với tỷ lệ 12,7% HS chọn đi làm công nhân hoặc những ngành nghề lao động
chân tay phổ thông. Điều này có thể lý giải ở nông thôn có nhiều gia đình hoàn
cảnh khó khăn, không có điều kiện cho con tiếp tục theo học ở bậc cao hơn nên
học sinh phải lựa chọn học nghề hay đi làm công nhân để sớm có việc kiếm tiền
phụ giúp gia đình
“Ai chẳng muốn học đại học hả cô nhưng gia đình em nghèo bố mẹ không có điều
kiện cho em tiếp tục học nên tốt nghiệp xong em đi làm công nhân để có tiền giúp
đỡ bố mẹ cô ạ” (PVS 1. Học sinh nam , học lực trung bình).
Tỉ lệ 7,3% HS chọn đi làm kinh doanh buôn bán, còn lại 2% là những dự
định khác. Con số này tuy không lớn nhưng nói lên một xu hướng mới, một nhận
thức mới về vấn đề việc làm và nghề nghiệp hiện nay của HS. Công việc kinh
doanh, buôn bán, làm giàu đang ngày càng thu hút giới trẻ và đương nhiên đó cũng
là những nghề tạo ra thu nhập trong xã hội. Tuy nhiên, những HS này đa số là con
em gia đình làm kinh doanh, buôn bán nên có sự định hướng, giúp đỡ của cha mẹ
và được thừa kế từ nghề của bố mẹ.
41
Như vậy, sau khi tốt nghiệp THPT đại bộ phận HS tiếp tục thi lên CĐ – ĐH nếu
không đỗ năm sau thi lại, thi lên CĐ – ĐH nếu không đỗ xem xét chuyển xuống học hệ
TCCN. Chỉ có một số ít đi làm công nhân hoặc ngành nghề lao động chân hay chọn đi
làm kinh doanh buôn bán. Điều này phản ánh một thực trạng chung hiện nay của học
sinh THPT sau khi tốt nghiệp các em đều có mong ước được học tiếp lên CĐ – ĐH.
2.2.2 Dự định lựa chọn nhóm trường CĐ - ĐH của học sinh sau khi tốt
nghiệp THPT
Kỳ thi CĐ - ĐH đang đến gần làm thế nào để chọn trường cho phù hợp là
điều băn khoăn không ít của các bậc phụ huynh và HS lớp 12. Việc chọn cho mình
một ngành nghề phù hợp nghĩa là chọn cho mình một tương lai. Xã hội ngày càng
phát triển, nghề nghiệp ngày càng đa dạng, sự ra đời của nhiều ngành nghề mới HS
càng có nhiều cơ hội lựa chọn các trường CĐ - ĐH để dự thi. Xu hướng lựa chọn
nghề nghiệp và chọn trường thi CĐ – ĐH của HS lớp 12 trường THPT Việt
Yên 1 hiện nay như thế nào, chúng tôi đã khảo sát và thu được kết quả như sau:
Biểu đồ 2.7 : Dự định lựa chọn nhóm trường thi CĐ - ĐH của HS sau tốt nghiệp
THPT (đơn vị: %) ( Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
1. Nhóm trường CĐ - ĐH Điện tử, CNTT
2. Nhóm trường CĐ - ĐH Kinh tế, Tài chính,
Ngân hàng
3. Nhóm trường CĐ - ĐH Y, dược
4. Nhóm trường CĐ - ĐH Sư phạm
5. Nhóm trường CĐ - ĐH Xây dựng, Kiến trúc,
Giao thông
6. Nhóm trường CĐ - ĐH Nông, Lâm, Thủy sản
7. Nhóm trường CĐ - ĐH KHXH
8. Nhóm trường CĐ - ĐH Luật, Báo chí, truyền hình
9. Nhóm trường CĐ - ĐH Ngoại ngữ
10. Nhóm trường CĐ - ĐH Quân đội, Công an
11. Nhóm trường CĐ – ĐH khác
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
30.7
39.7
19.0
15.7
24.3
10.7
7.3
22.3
28.3
11.0
6.0
42
Những số liệu trong bảng 2.7 đã chỉ rõ xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của
học sinh THPT tập trung vào một số nhóm trường nhất định.Thứ bậc ưu tiên trong
lựa chọn các nhóm trường được phản ánh rõ ràng, cụ thể như sau:
Nhóm trường thuộc tốp đầu được học sinh lựa chọn là nhóm trường CĐ –
ĐH Kinh tế, Tài chính, Ngân hàng chiếm 39,7%, nhóm trường CĐ – ĐH Điện tử,
CNTT chiếm 30,7%.
Nhóm trường thuộc tốp thứ 2: Nhóm trường CĐ – ĐH Ngoại Ngữ chiếm
28,3%, nhóm trường CĐ – ĐH Xây dựng, Kiến trúc, Giao thông chiếm 24,3%,
nhóm trường CĐ – ĐH Luật, Báo chí, Truyền hình chiếm 22%.
Nhóm trường tốp thứ 3 : Nhóm trường CĐ – ĐH Y, Dược chiếm 19%, nhóm
trường CĐ – ĐH Sư phạm chiếm 15,7%, nhóm trường CĐ – ĐH Quân đội, Công
An chiếm 11%.
Nhóm trường đứng thứ 4: Nhóm trường CĐ – ĐH Nông, Lâm, Thuỷ sản
chiếm 10,7%, nhóm trường ĐH - CĐ Khoa học xã hội (KHXH) 7,3%. Các nhóm
trường khác chiếm 6%.
Như vậy, rõ ràng trong lựa chọn trường CĐ - ĐH của học sinh THPT hiện
nay đang tập trung vào một số nhóm trường và các em cho đó là những trường
“hot” đang được xã hội trọng dụng, được đánh giá cao như: Kinh tế, Tài chính,
Ngân hàng, Điện tử, CNTT, Ngoại ngữ. Các em nghĩ được học ở những nhóm
trường này ra trường có nhiều cơ hội tìm việc làm tốt, được làm việc trong môi
trường tiện nghi, hiện đại, đồng thời đó cũng là những trường đang được mở rộng
đem lại thu nhập cao và có khả năng xin việc tốt hơn các trường khác.
“Em thi Học viện Ngân hàng ngành tài chính, chị em nói học ngành này ra
làm việc ở ngân hàng nước ngoài lương cao lắm chị ạ , môi trường làm việc rất
tốt” (PVS 9. Học sinh nữ, học lực giỏi)
Tiếp đến là nhóm trường CĐ – ĐH Quân đội, Công an, Y, Dược theo học sinh
đó là những trường có đầu ra tốt nhưng điểm đầu vào rất cao chỉ có người thực sự giỏi
hay có đầu ra xin được việc mới chọn thi nên HS không ưu tiên chọn nhiều.
Các nhóm trường CĐ – ĐH khác như: Sư phạm, các nhóm trường KHXH
được học sinh lựa chọn ít, và không hào hứng bởi lí do đầu ra rất khó
43
“ Chị em học trường ĐH Lao động Xã hội ra trường ba năm rồi chưa xin
được việc đúng chuyên ngành rút kinh nghiệm em không theo học khối xã hội nữa”
(PVS 3. Học sinh nam, học lực khá)
“Anh trai em học sư phạm 2 ra trường không xin được việc ở quê nên phải
đi gia sư ở thành phố đã hai năm nay rồi. Nên em không chọn ngành sư phạm thi
nữa”.(PVS 2. Học sinh nữ, học lực khá)
Ở nhóm trường CĐ – ĐH Nông, Lâm, Thuỷ sản tỷ lệ chọn thấp. Điều dễ
nhận thấy ở các HS và phụ huynh không muốn cho con học ở những trường này vì
cho rằng, học 4 năm mà ra làm nông dân.
“ Bố mẹ em nói học trường Nông nghiệp hay Lâm nghiệp ra trường con gái
sẽ vất vả, phải làm việc chân tay đồng ruộng như người nông dân mà thu nhập lại
thấp” (PVS 6. Học sinh nữ, học lực trung bình)
Như vậy, chúng ta nhận thấy học sinh THPT hiện nay lựa chọn các nhóm
trường tập trung nhiều ở các các nhóm trường CĐ – ĐH Kinh tế, Tài chính, Ngân
hàng, nhóm trường CĐ – ĐH Điện tử, CNTT, nhóm trường CĐ – ĐH Ngoại ngữ.
Học sinh lựa chọn ít ở các nhóm trường CĐ – ĐH KHXH, nhóm trường CĐ – ĐH
Nông, Lâm, Thủy Sản. Thực trạng trên phần nào cho thấy sự cảm tính trong lựa chọn
ngành, chọn trường CĐ – ĐH của các em HS THPT, việc lựa chọn nghề ngiệp của các
em vẫn mang tính bị động, phụ thuộc nhiều vào yếu tố khách quan coi trọng giá trị của
nghề: nghề được nhiều người chọn, đầu ra tốt, thu nhập cao, ổn định… các em chưa
thực sự căn cứ vào yếu tố chủ quan như lựa chọn nghề căn cứ vào năng lực, tố chất,
điều kiện sức khoẻ, tâm lí có phù hợp với ngành đó hay không. Điều này làm cho các
em dễ đưa ra những quyết định lựa chọn nghề một cách sai lầm... và kết quả là chán
nghề và bỏ nghề trong các quá trình đào tạo và làm việc sau này.
Bởi lẽ, nhu cầu nhân lực đang thiếu hiện nay tập trung vào các ngành liên
quan đến các nhóm trường thuộc khối công tác xã hội, nông, lâm , thủy sản. Nhóm
trường CĐ – ĐH Nông, Lâm, Thủy sản là nhóm trường hiện nay có rất nhiều cơ hội
kiếm việc bởi Nhà nước đầu tư rất lớn vào ngành này để thúc đẩy sản xuất. Hiện
nay, nhóm ngành thuộc các trường ĐH này cũng được rất nhiều các tổ chức quốc tế
đầu tư các dự án tại Việt Nam cũng là cơ hội cho rất nhiều bạn trẻ được làm việc
trong môi trường quốc tế với thu nhập cao. Trong khi đó những ngành thuộc khối
44
tài chính - ngân hàng thuộc các nhóm trường CĐ – ĐH Tài chính, Ngân hàng hiện
nay đang thừa nhân lực thì HS lại chọn nhiều. Theo các chuyên gia dự báo nguồn nhân
lực thì khối ngành tài chính - ngân hàng trong thời gian tới đang thừa nhân lực.
Sự sai lầm trong lựa chọn của học sinh xuất phát từ nhiều lí do khác nhau
trong đó có nguyên nhân từ phía nhà trường là chưa có sự định hướng đúng đắn khi
cung cấp thông tin về sự thay đổi nguồn lực trong các ngành nghề cho học sinh.
Muốn một đất nước, một xã hội phát triển bền vững thì lĩnh vực giáo dục đào tạo,
mà trước hết là công tác GDHN cần phải được quan tâm và đầu tư đúng mức.
2.3 Một số nhu cầu chính của học sinh THPT trong việc lựa chọn trường thi CĐ – ĐH
Để tìm hiểu những nhu cầu của học sinh THPT trong việc lựa chọn nghề
nghiệp hiện nay chúng tôi đã tìm hiểu những nội chính sau: Nhu cầu luyện thi CĐ -
ĐH, nhu cầu tìm hiểu thông tin thi CĐ - ĐH, nhu cầu về các hoạt động hướng
nghiệp và cung cấp thông tin phục vụ mục đích lựa chọn trường thi CĐ - ĐH
2.3.1 Nhu cầu luyện thi CĐ – ĐH của học sinh THPT
Để thi được vào các trường CĐ - ĐH có rất nhiều HS và các bậc phụ huynh
đã đầu tư cho con em mình học luyện thi với mục đích giúp các em có được kiến
thức, nền tảng vững chắc để có thể thi đỗ được vào một trường ĐH theo đúng
nguyện vọng của HS và gia đình. Học sinh lớp 12 ở trường Việt Yên 1 ôn luyện
kiến thức thi ĐH từ khi nào, chúng tôi đã tìm hiểu và thu nhận được kết quả sau.
4.7
18.7
48.3
23.3
5.0
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
50
Trước khi
vào lớp 10
Bắt đầu
vào lớp 10
Lớp 11 Lớp 12 Không
nghĩ tới
Biểu đồ 2.8: Thời điểm học sinh bắt đầu đi ôn thi CĐ – ĐH
(đơn vị :%)
( Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
45
Theo số liệu điều tra thì có tới 95% học sinh sẽ theo học ở các lớp ôn luyện
thi. Tỷ lệ số học sinh tham gia vào các lớp ôn luyện thi CĐ – ĐH ở các lớp học là
khác nhau. HS đi luyện thi chiếm số đông nhất là các lớp học là lớp 11 và lớp 12.
Đây cũng là một thực tế rất phổ biến trong giới học sinh hiện nay đặc biệt là học
sinh các lớp cuối cấp THPT. Với tâm lý chung của HS cuối cấp cho rằng đi ôn thi
ĐH thì an tâm hơn, các thầy cô luyện thi lâu năm sẽ cung cấp nhiều hơn, đầy đủ
hơn kiến thức và cách làm bài thi. Do đó theo HS thì các em có thể yên tâm hơn khi
vào phòng thi vì đã được ôn học nhiều dạng, nhiều bài.
“ Em đi ôn thi được làm nhiều bộ đề để biết được các dạng bài thi như
thế nào, lúc đi thi sẽ tự tin hơn là không đi ôn thi chị ạ” ( PVS 2. Học sinh nữ,
học lực khá)
Bên cạnh đó vẫn còn số ít học sinh không nghĩ tới việc đi ôn thi CĐ - ĐH
chiếm 5% . Có thể sau khi tốt nghiệp THPT, số HS này sẽ đi làm, học nghề hoặc có
những lựa chọn khác cho bản thân, có em lại có suy nghĩ không cần thiết phải đến
các lớp ôn thi với sự thay đổi như hiện nay của Bộ GD & ĐT cách ra đề thi chỉ tập
trung vào chương trình cơ bản của sách giáo khoa thì việc một số em HS chọn
không đi ôn thi mà tự học ở nhà là điều đáng mừng. Điều này cũng chứng tỏ các em
đã sắp xếp được thời gian học hợp lý và hoàn toàn tin tưởng vào bản thân trong vấn
đề tự học ôn thi ở tại nhà.
“Với cách ra đề như Bộ Giáo dục những năm gần đây chỉ tập trung trong
sách giáo khoa em nghĩ kiến thức học trên lớp là đủ rồi sau đó tự mình học ở nhà
và nghiên cứu tài liệu cũng có thể thi được vào các trường ĐH, CĐ” ( PVS 3. Học
sinh nữ, học lực khá)
“ Học xong lớp 12 nếu thi trượt ĐH em đi học học nghề luôn nên em không
đi ôn thi chị ạ”. ( PVS 1. Học sinh nam, học lực trung bình)
Như vậy, đại đa số học sinh đều có nhu cầu đi ôn thi ĐH và thời điểm HS bắt
đầu ôn luyện kiến thức để thi ĐH từ lớp 11, 12 chiếm tỷ lệ cao nhất. Điều đó cho
thấy một thực trạng chung hiện nay nhu cầu đi ôn thi ĐH của học sinh là tương đối
lớn, qua đó cũng nói lên mong muốn của hầu hết học sinh sau khi tốt nghiệp THPT
là tiếp tục thi tiếp lên ĐH.
46
2.3.2 Nhu cầu tìm hiểu thông tin thi CĐ – ĐH của học sinh THPT
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ và bùng nổ của các nguồn thông tin và
thông tin liên lạc, cùng với sự quan tâm của gia đình, anh chị, bạn bè, thầy cô, nhà
trường, giáo dục hướng nghiệp… chính là các nguồn thông tin rất hữu ích giúp cho
HS tiếp cận và tìm hiểu thêm những thông tin chính thống phục vụ cho nhu cầu tìm
kiếm các nguồn thông tin để đăng ký chọn ngành thi, trường thi phù hợp. Có thể nói
các nguồn thông tin mà HS tiếp nhận được cũng đến từ nhiều con đường khác nhau.
Tuy nhiên, cũng tùy thuộc vào mỗi cá nhân HS mà các em có mức độ tiếp cận sử
dụng các nguồn thông tin ở các mức độ không giống nhau. Vậy HS ở trường THPT
Việt Yên 1 tìm hiểu thông tin thi CĐ – ĐH từ nguồn thông tin nào? Chúng tôi đã
tiến hành khảo sát và kết quả thu nhận được.
Bảng 2.2 : Các nguồn tìm kiếm thông tin về thi CĐ - ĐH của học sinh
(đơn vị: %)
Thứ tự
ưu
tiên
Nguồn thông tin
Sách báo
Đài
truyền
hình,
radio
Internet Bố mẹ Anh
chị
Thầycô
giáo
Bạn
bè GDHN
1 20,0 19,7 29,7 28,7 22,3 6,7 22,3 4,7
2 10,0 19,3 17,3 18,3 8,7 3,7 14,0 1,3
3 24,0 14,7 22,3 14,3 9,0 11,0 9,7 6,7
4 23,0 22,3 8,7 11,7 12,3 4,3 3,3 10,7
5 10,0 7,0 6,7 12,0 29,3 3,7 8,3 15,0
6 4,7 3,3 11,0 4,3 3,0 27,3 7,0 18,3
7 3,0 9,7 2,7 1,3 5,7 19,0 22,3 21,0
8 5,3 4,0 1,7 9,0 9,7 24,3 13,0 22,3
Tổng 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
( Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
Bảng 2.2 chúng ta nhận thấy nguồn thông tin mà các em có thể tìm kiếm rất
đa dạng và phong phú, nhưng mức độ tiếp cận và sử dụng các nguồn thông tin này
của các em lại rất khác nhau. Các thứ tự ưu tiên được chúng tôi đánh số theo mức
47
độ ưu tiên cao xuống thấp (với mức độ ưu tiên cao nhất là 1 và thấp nhất là 8) được
thể hiện qua số liệu chúng tôi điều tra.
Các phương tiện thông tin đại chúng là kênh thông tin mà học sinh thường
tìm hiểu nhiều nhất về thông tin tuyển sinh CĐ - ĐH. Internet chiếm vị trí số 1, điều
này cho thấy rằng hiện nay internet là phương tiện truyền thông phổ biến và hiệu
quả đối với các em HS, là nguồn thông tin quan trọng và nhanh nhất để các em cập
nhật thông tin về kỳ tuyển sinh hàng năm của các trường CĐ - ĐH cũng như những
thông tin liên quan đến ngành nghề mà các em lựa chọn.
“ Tìm kiếm nguồn thông tin trên mạng internet rất nhanh chóng và thuận
tiện, chỉ cần vào mạng và tra cứu là em đã tìm ra được rất nhiều thông tin liên quan
đến tuyển sinh đại học” (PVS 7. Học sinh nam, học lực khá)
Nguồn thông tin từ gia đình là nguồn thông tin được các em HS lựa chọn
đứng thứ 2. Điều này có thể giải thích bố mẹ là những người thân cận và gần gũi
với các em, là người mà các em có thể chia sẻ và tâm sự . Do đó bố mẹ có một vị trí
rất quan trọng trong việc chọn ngành, chọn trường của các em HS lớp 12.
“ Trong gia đình em, bố mẹ là người em rất tin tưởng, họ là người cho em
những nguồn thông tin rất đáng tin cậy để em có thể đưa ra được quyết định cuối cùng
của mình trong việc chọn trường thi năm nay. ” (PVS 2. Học sinh nữ , học lực khá)
Anh chị và bạn bè là nguồn thông tin tiếp theo được học sinh chọn lựa. Anh
chị là những người đi trước sẽ cho các em HS những kinh nghiệm quý báu về việc
chuẩn bị hồ sơ đăng ký chọn ngành, chọn trường để phù hợp nhất với các em. Còn
bạn bè là những người cùng trang lứa, các em dễ dàng chia sẻ kinh nghiệm và bày
tỏ quan điểm với nhau về tương lai của mình, đây cũng là kênh thông tin rất hiệu
quả đối với các em HS.
Nguồn thông tin tiếp theo được HS chọn là sách báo và đài truyền hình. Đây
cũng là những nguồn thông tin rất dễ để HS tìm cho mình những thông tin nhanh
chóng, và được cập nhật thường xuyên về lĩnh vực nghề nghiệp.
Nguồn thông tin từ thầy cô giáo và GDHN học sinh lựa chọn thấp nhất. Thầy
cô là những người chỉ dạy cho các em không chỉ kiến thức văn hóa mà còn cả các
kỹ năng sống, thầy cô cũng là người hiểu rõ năng lực học tập của các em HS nhưng
lại xếp ở vị trí thấp. Còn GHDN là hoạt động quan trọng giúp các em học sinh định
hướng chọn lựa nghề nghiệp của mình đáng lẽ đây phải là nguồn thông tin hữu ích
48
được các em đánh giá cao. Tuy nhiên thứ tự ưu tiên lại được xếp sau các nguồn
thông tin khác, điều đó chứng tỏ đây là kênh thông tin chưa thu hút được nhiều sự
quan tâm đặc biệt của các em HS. Mặc dù, hiện nay nhà trường là nơi chiếm ưu thế
nhất trong giáo dục, thông qua các hoạt động trong giảng dạy, các giờ ngoại khóa và
các giờ hướng nghiệp để cung cấp cho các em HS những thông tin về nghề nghiệp
Có thể nói nhà trường chưa hoàn thành tốt vai trò của mình trong việc giúp HS tìm hiểu
kỹ và đầy đủ thông tin tuyển sinh CĐ – ĐH hàng năm.
Hiện nay, có rất nhiều cách thức để tiếp cận với thông tin về kỳ thi tuyển
sinh CĐ - ĐH như : gia đình, bạn bè, anh chị em, internet, sách báo, giờ hướng
nghiệp… nhưng HS lựa chọn tìm kiếm nguồn thông tin nào phù hợp vào nhu cầu và
năng lực của chính các em HS đó. Kết quả nghiên cứu ở trên cho thấy phần lớn các
em HS tìm hiểu thông tin về thi CĐ - ĐH từ internet, gia đình.
2.3.3 Nhu cầu về các hoạt động hướng nghiệp và cung cấp thông tin phục vụ
mục đích lựa chọn trường thi CĐ – ĐH của HS THPT
Trong nhà trường phổ thông, hướng nghiệp là bộ phận quan trọng của nền
giáo dục. Công tác hướng nghiệp trong nhà trường nhằm mục đích bồi dưỡng,
hướng dẫn học sinh chọn nghề phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội, đồng thời
phù hợp với nhu cầu và nguyện vọng của cá nhân. Các hoạt động tư vấn tuyển sinh,
hướng nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng với học sinh THPT. Thông qua việc được tư
vấn hướng nghiệp, các em sẽ được trang bị các thông tin về nhu cầu của thị trường
lao động, định hướng phát triển kinh tế - xã hội một cách đầy đủ.
Qua tìm hiểu chúng tôi được biết HS lớp 12 ở trường THPT Việt Yên 1 khi
được tham gia vào các hoạt động hướng nghiệp HS có rất nhiều kì vọng vào nhà
trường, muốn có được thông tin đầy đủ về nghề, được đánh giá đúng năng lực bản
thân, biết được những yêu cầu của nghề đối với người lao động, được tư vấn chọn
ngành học, trường ĐH để dự thi.
“ Em luôn hi vọng ở các giờ học nghề có được lời khuyên phù hợp của thầy
cô về việc chọn trường thi của mình bởi bản thân em cũng chưa biết được hết các
ngành nghề trong xã hội, nghề đó được đào tạo ở những trường ĐH nào, yêu cầu
của nghề đối với người lao động ra sao...” (PVS 3. Học sinh nam, học lực khá)
Có thể nói, hiện nay HS THPT đang dần ý thức được nguyện vọng chọn
nghề của bản thân và có mong muốn được thầy cô đánh giá đúng năng lực của mình
49
xem với học lực như vậy có thể tiếp tục học ở bậc học cao hơn hay đi học nghề để
sớm có việc làm tạo thu nhập. Điều quan trọng hơn là HS có kì vọng được thầy cô
cho lời khuyên về chọn trường phù hợp với năng lực, sở thích và nhu cầu nhân lực
của xã hội. Bởi hiện nay ở các trường mặc dù đã có môn học hướng nghiệp song
bản thân các em chưa nhận được lời khuyên từ thầy cô là với sức khoẻ và học lực
như vậy các em phù hợp với ngành nghề gì mà chỉ nhận được tư vấn với học lực
như vậy các em nên thi trường nào thôi.
“ Nếu em được thầy cô hướng dẫn tư vấn đầy đủ tìm hiểu về các ngành học,
trường ĐH có những ngành dự thi phù hợp với năng lực học tập của em, phù hợp
với yêu cầu của xã hội, học xong ra trường không bị thất nghiệp thì em sẽ chọn
trường đó để dự thi ạ” (PVS 3. Học sinh nam, học lực khá)
“ Nếu nhà trường mời được các chuyên gia tư vấn thường xuyên của các
trường ĐH về trao đổi về các ngành đào tạo, công việc sau khi học xong chúng em
làm gì, ở đâu, chúng em sẽ hiểu biết hơn để chọn được trường thi phù hợp với
chúng em”. (PVS 2. Học sinh nữ , học lực khá)
HS cũng cho rằng, nếu các hoạt động hướng nghiệp của nhà trường thực hiện
tốt sẽ giúp các em có được sự lựa chọn nghề, chọn trường đúng với năng lực bản
thân và nhu cầu của xã hội.
Chúng tôi làm rõ hơn những nội dung HS cần cung cấp thông tin khi các em
lựa chọn trường dự thi CĐ - ĐH.
28.7
14.3
31.0
19.3
6.7
0.0
5.0
10.0
15.0
20.0
25.0
30.0
35.0
Điểm thi tuyển
của các năm
trước
Tỷ lệ chọi của
trường ở các
năm trước
khả năng có
việc làm sau
khi ra trường
Mức thu nhập
bình quân
Uy tín của cơ
sở đào tạo
Biểu đồ 2.9 : Nội dung HS cần cung cấp thông tin khi chọn trường thi CĐ – ĐH
( đơn vị: %)
( Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
50
Với 5 nội dung được đưa ra, học sinh hiện nay quan tâm nhiều nhất đến vấn
đề khả năng có việc làm sau khi ra trường chiếm 31,3%. Qua đó cho thấy phần lớn
HS đều mong muốn có việc làm ổn định sau khi ra trường.
Hiện nay nhiều sinh viên ngay từ khi lựa chọn ngành học và trong quá trình
học tập cũng không được định hướng cụ thể về các nghề gắn bó với việc học của
mình. Sự tiếp cận với ngành học, nghề nghiệp của các em là do tác động của gia
đình, bạn bè hoặc đơn giản chỉ “cần có bằng đại học”, dẫn tới một tình trạng đáng
báo động là tỷ lệ sinh viên các trường ĐH ra trường thất nghiệp nhiều. Do đó việc
chọn thi trường ĐH nào để ra trường có cơ hội xin được việc làm là mối quan tâm
rất lớn đối với HS THPT hiện nay.
“ Chị gái em học đại học ra trường cả 4 năm nay rồi mà công việc không ổn
định, học đại học xong không xin được việc thời gian đầu còn đi bán hàng quần áo
với mấy chị cùng lớp chị ạ” (PVS.3. Học sinh nam , học lực khá)
Điểm thi tuyển của các năm trước cũng là vấn đề các em rất quan tâm chiếm
28,7%. Dựa vào điểm thi của các năm trước để cân nhắc lực học của mình chọn
trường có mức điểm phù hợp nhất và tính toán hợp lý cho mình một trường thi ĐH
năm nay để cơ hội đỗ cao hơn.
Mức thu nhập bình quân và “tỷ lệ chọi”của các trường ở các năm trước cũng
là vấn đề được các em mong muốn tư vấn nhiều, dựa vào đó các em có sự lựa chọn
để đăng ký dự thi vào trường ĐH vừa phù hợp với lực học và sở thích của mình, lại
có khả năng đỗ cao.
Các hoạt động tư vấn, hướng nghiệp cho học sinh là công tác, nhiệm vụ quan
trọng trong trường phổ thông. Thông qua hoạt động này sẽ giúp học sinh hiểu về
nghề, hiểu về chính bản thân mình để có thể lựa chọn cho mình một ngành nghề
tương lai phù hợp với sở thích, năng lực bản thân, hoàn cảnh gia đình, nhu cầu thực
tế của xã hội. Trước khi lựa chọn trường ĐH dự thi các em cũng cần được tư vấn
nhiều thông tin khác nhau để cân nhắc trong việc chọn trường. Trong các nội dung
hướng nghiệp và cần để tìm hiểu thông tin về ngành nghề, để đăng ký dự thi nội
dung mà học sinh thường quan tâm nhiều nhất đó là khả năng có việc làm sau khi ra
trường, điểm thi tuyển của các năm trước.
51
CHƢƠNG 3
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TRONG VIỆC LỰA CHỌN
TRƢỜNG CĐ – ĐH CỦA HỌC SINH THPT HIỆN NAY
Việc lựa chọn trường CĐ - ĐH của HS bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách
quan và chủ quan. Khi chọn trường thi HS hướng tới sự thỏa mãn những nhu cầu
của cá nhân như sở thích, năng lực, nguyện vọng của bản thân. Mặt khác, các em lại
chịu sự chi phối tác động của nhiều yếu tố bên ngoài như gia đình, bạn bè, nhà
trường, yếu tố đặc điểm trường CĐ - ĐH. Mức độ tác động của các yếu tố này đến
sự lựa chọn của cá nhân HS ở mức nào tùy thuộc vào khả năng tiếp nhận của mỗi cá
nhân HS. Tại thời điểm chúng tôi tiến hành khảo sát, học sinh lớp 12 chuẩn bị thi
hết học kỳ I, các em vẫn chưa có nhiều sự chuẩn bị kỹ lưỡng trong vấn đề chọn
trường thi. Nhiều em còn đắn đo suy nghĩ không biết lựa chọn ngành nghề nào,
trường CĐ - ĐH nào để đăng ký dự thi. Do đó, chúng tôi để cho mỗi em học sinh có
thể được lựa chọn nhiều các nhóm trường CĐ – ĐH. Từ đó chúng tôi có thể đánh
giá được ở những nhóm trường CĐ – ĐH nào được học sinh THPT lựa chọn nhiều
nhất và có những yếu tố chủ quan và khách quan nào tác động khiến các em có sự
lựa chọn đó.
3.1 Nhân tố chủ quan
3.1.1 Những lý do lựa chọn trường thi CĐ – ĐH của học sinh
Đối với học sinh lớp 12 hiện nay, vấn đề lựa chọn trường thi, chọn ngành
học như thế nào cho đúng đã trở thành mối quan tâm lớn chi phối suy nghĩ và hành
động của các em. Việc lựa chọn trường, chọn ngành học đúng không chỉ xác định
hướng đi của cuộc đời mỗi cá nhân mà còn có ảnh hưởng đối với toàn xã hội. Bởi vì
mỗi cá nhân với tư cách là một chủ thể xã hội luôn có đóng góp nhất định vào sự
phát triển xã hội, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình này. Nếu mỗi cá nhân HS
có sự lựa chọn đúng đắn trong việc chọn cho mình một ngành nghề, một trường CĐ
– ĐH phù hợp với năng lực và nguyện vọng của các em sẽ thúc đẩy mỗi cá nhân
khám phá, say sưa hoạt động sáng tạo không ngừng để phát triển nghề nghiệp của
52
mình, ngược lại nếu các em không có sự chọn lựa đúng đắn sẽ ảnh hưởng tới quá
trình học tập và cơ hội nghề nghiệp về sau của các em.
Những lý do nào khiến HS lớp 12 trường THPT Việt Yên 1 lựa chọn trường
CĐ - ĐH để dự thi? Chúng tôi đã tiến hành khảo sát và thu được kết quả sau:
Biểu đồ 3.1: Những lý do chọn trường thi CĐ – ĐH của học sinh
(đơn vị : %)
( Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
5 lý do ảnh hưởng đến việc lựa chọn trường thi CĐ – ĐH được học sinh lớp
12 của trường Việt Yên 1 lựa chọn nhiều nhất lần lượt là: Phù hợp với năng lực học
tập (42,7%), phù hợp với sở thích (41,3%), cơ hội trúng tuyển cao (39,7%), cơ hội
xin việc làm sau khi ra trường (37,7%), có thu nhập cao khi ra trường (36,7%).Tuy
không chiếm tỷ lệ cao như 5 lý do trên nhưng học phí thấp, khả năng thăng tiến cao
hay có cơ hội học lên cao sau khi ra trường cũng là những lý do có ảnh hưởng nhất
định đến việc lựa chọn trường thi CĐ – ĐH của học sinh.
Để hiểu rõ hơn nhận thức của học sinh về nghề nghiệp, bên cạnh những lý do
chọn trường đã đưa ra cho HS lựa chọn chúng tôi yêu cầu HS đánh giá mức độ quan
trọng của từng yếu tố đó đối với HS. Thang đánh giá gồm 5 mức độ với mức đo từ
1 đến 5 trong đó 1 là quan trọng nhất.
53
Bảng 3.1: Đánh giá mức độ quan trọng của lý do lựa chọn trƣờng thi CĐ – ĐH
Các yếu tố
Mức độ
Tổng Rất quan trọng Quan trọng Bình thường Ít quan trọng
Không quan
trọng
Cơ hội xin việc
làm sau khi học xong
N 52 94 49 60 45 300
% 17,3 31,3 16,3 20,0 15,0 100,0
Cơ hội trúng
tuyển cao
N 79 94 51 36 40 300
% 26,3 31,3 17,0 12,0 13,3 100,0
Phù hợp với sở thích
N 118 89 27 38 28 300
% 39,3 29,7 9,0 12,7 9,3 100,0
Phù hợp với năng lực
N 104 82 45 42 27 300
% 34,7 27,3 15,0 14,0 9,0 100,0
Học phí thấp N 28 56 81 64 71 300
% 9,3 18,7 27,0 21,3 23,7 100,0
Có thu nhập cao
khi ra trường
N 57 78 80 69 16 300
% 19,0 26,0 26,7 23,0 5,3 100,0
54
Có khả năng
thăng tiến cao
N 50 55 52 80 63 300
% 16,7 18,3 17,3 26,7 21,0 100,0
Được học lên cao
sau khi ra trường
N 21 40 64 94 81 300
% 7.0 13,3 21,3 31,3 27,0 100,0
( Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
55
Bảng 3.1 Học sinh đánh giá cao ở mức độ quan trọng của việc trường có
ngành đào phù hợp với sở thích rất quan trọng và quan trọng chiếm 66,0%. Điều
này chứng tỏ có nhiều bạn học sinh vẫn hướng đến cái mình yêu thích, có bạn thích
nghiên cứu về lĩnh vực đem lại nhiều lợi ích cho con người, cho xã hội hoặc các em
lựa chọn cho mình một ngành nghề phù hợp với tính cách và sở thích của bản thân.
Dù nội dung ý thích đó là gì thì rõ ràng nó đã có tác động tích cực đến quá trình đào
tạo cũng như hoạt động nghề nghiệp sau này của HS.
Trường có ngành đào tạo phù hợp với năng lực được HS đánh giá rất quan
trọng và quan trọng chiếm 62,0%. Điều này cũng phản ánh một thực tế nhiều HS có
sự cân nhắc giữa năng lực học tập với trường để dự thi ĐH, các em đã “biết mình
biết ta”và thận trọng hơn trong việc chọn trường thi, biết cân bằng năng lực học tập
của mình các em sẽ dễ dàng thi đỗ hơn vào trường mình lựa chọn.
Một tiêu chí nữa được HS đánh giá quan trọng là “cơ hội trúng tuyển
cao” được HS lựa chọn rất quan trọng và quan trọng chiếm 57,6%. Việc lựa chọn
một trường ĐH để cơ hội trúng tuyển cao là ước mơ của nhiều HS và phụ huynh.
“ Năm nay em định thi Đại học Kinh tế Quốc dân, nhưng gia đình em khuyên
em thi Đại học Sư phạm Thái Nguyên, vì trường này năm ngoái điểm chuẩn không
cao lắm em sẽ dễ đỗ hơn. Bố mẹ lo em thi ĐH Kinh tế Quốc dân sẽ trượt vì trường
này điểm chuẩn năm nào cũng cao.” (PVS 8. Học sinh nữ, học lực khá)
Tiếp theo là sự lựa chọn “cơ hội xin được việc làm ngay sau khi học xong”,
“có thu nhập cao sau khi ra trường” lần lượt tỷ lệ chọn rất quan trọng và quan trọng
là 48,6% và 45%. Hiện nay việc học xong ra trường có việc làm là vấn đề mà mỗi
cá nhân đều mong muốn mau chóng có việc làm để có thể làm chủ bản thân, để có
thể thực hiện được ước mơ và hoài bão về nghề nghiệp và góp một phần công sức
vào sự nghiệp phát triển của xã hội.
Bên cạnh đó, hai tiêu chí còn lại có tỷ lệ chọn thấp hơn là học phí thấp và được
học lên cao sau khi ra trường, hai tiêu chí này đứng sau trong đánh giá của học sinh.
Các yếu tố mà học sinh đánh giá là rất quan trọng và quan trọng để căn cứ
khi quyết định chọn trường CĐ - ĐH là phù hợp với sở thích, phù hợp với năng lực
học tập, cơ hội trúng tuyển cao. Mặt khác các em cũng chú ý đến có thu nhập cao
56
khi ra trường, học phí thấp, khả năng thăng tiến cao, cơ hội học lên cao sau khi ra
trường là điều kiện có tính quyết định để dựa vào đó các em có sự lựa chọn cho
riêng mình trường CĐ - ĐH phù hợp nhất.
Tóm lại, phần lớn học sinh chọn nghề, chọn trường thường căn cứ vào các lý
do chủ yếu như: trường có ngành đào tạo phù hợp với sở thích, phù hợp với năng
lực học tập, cơ hội trúng tuyển cao và đó cũng là ba lý do được HS đánh giá có
mức độ quan trọng nhất trong việc lựa chọn trường dự thi của các em.
3.1.2 Khác biệt giới trong lựa chọn nhóm trường CĐ - ĐH
Sự lựa chọn nghề, chọn trường hay những dự định sau tốt nghiệp THPT của
HS cũng có sự khác nhau giữa nam và nữ bởi đặc trưng giới tính với đặc điểm, sức
khỏe, thể chất và tính cách khác nhau nên phù hợp với các loại ngành nghề và cách
lựa chọn trường CĐ – ĐH khác nhau. Điều này thể hiện rõ qua bảng dưới đây:
Bảng 3.2: Tƣơng quan giới tính và lựa chọn các nhóm trƣờng CĐ – ĐH
Các nhóm trƣờng Giới tính
Nam Nữ
CĐ - ĐH Điện tử, CNTT N 47 45
% 34,1 27,8
CĐ - ĐH Kinh tế, Tài chính, Ngân
hàng
N 54 65
% 39,1 40,1
CĐ - ĐH Y, Dược N 6 18
% 4.3 11,1
CĐ - ĐH Sư phạm N 13 34
% 9,4 21,0
CĐ - ĐH Xây dựng, Kiến trúc,
Giao thông
N 37 36
% 26,8 22,2
CĐ - ĐH Nông, Lâm, Thủy sản N 14 18.0
% 10,1 11,1
CĐ - ĐH KHXH N 12 10
% 8,7 6,2
57
Các nhóm trƣờng Giới tính
Nam Nữ
CĐ - ĐH Luật, Báo chí, Truyền
hình
N 22 44
% 15,9 27,2
CĐ - ĐH Ngoại ngữ N 27 58
% 19,6 35,8
CĐ - ĐH Quân đội, Công an N 18 15
% 13,0 9,3
CĐ - ĐH khác N 7 11
% 5,1 6,8
( Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
Qua biểu đồ cho thấy ở nhóm trường CĐ – ĐH Điện tử, CNTT, Xây dựng,
Kiến trúc, Giao thông, Quân đội, Công an, là những nhóm trường nam giới có tỷ lệ
chọn nhiều hơn nữ giới. Điều này cũng dễ hiểu bởi đây là nhóm ngành đòi hỏi sức
khỏe nhiều, phù hợp với tính cách và năng lực của nam giới nhiều hơn.
“Học các trường Đại học Xây dựng, Kiến trúc, Giao thông khi ra trường
phù hợp với nam giới hơn bởi nghề nghiệp đòi hỏi nhiều về sức khoẻ, sự vận động
của cơ bắp”(PVS 7. Học sinh nam, học lực khá)
Các nhóm trường khác nữ giới lại có xu hướng chọn nhiều hơn nam giới như
CĐ - ĐH Kinh tế, Tài chính, Ngân hàng, nhóm trường về CĐ – ĐH Ngoại ngữ,
nhóm trường CĐ – ĐH Sư phạm, nhóm trường CĐ – ĐH Luật, Báo chí, Truyền
hình CĐ – ĐH Y, Dược.
“Em thấy các trường đại học Sư phạm, Luật, Báo chí, Y, Dược hợp với các
bạn nữ bởi sự dịu dàng có tài ăn nói và khéo léo, tỉ mỉ, cẩn thận chứ bản thân em
thấy mình không thích hợp với các trường này chút nào”.(PVS 7. Học sinh nam,
học lực khá)
Đối với các nhóm trường còn lại sự chênh lệch giữa hai giới cũng không có
sự khác biệt nhiều.
Qua đây chúng ta nhận thấy giới tính có tác động đến việc lựa chọn nhóm
trường CĐ – ĐH của học sinh. Học sinh nữ thường có xu hướng thích những ngành
nghề ổn định hơn như: Bác sĩ, giáo viên.. còn nam giới có xu hướng lựa chọn những
58
công việc đi lại nhiều hơn như: xây dựng, kiến trúc, giao thông. Điều này cho thấy
những quan điểm về đặc trưng giới tình như quan niệm nam giới làm những công
việc nặng nhọc, nữ giới thì chọn những công việc có nhiều thời gian để chăm lo gia
đình. Điều này cũng ảnh hưởng đến việc lựa chọn trường thi CĐ – ĐH của học sinh.
Bảng 3.3: Giới tính và dự định sau tốt nghiệp THPT
Lựa chọn Giới tính
Nam Nữ
Thi CĐ – ĐH nếu không đỗ năm sau thi tiếp N 41 60
% 29,7 37,0
Thi CĐ – ĐH nếu không đỗ
xem xét chuyển xuống học TCCN hoặc
học nghề
N 58 75
% 42,0 46,3
Đi làm công nhân hoặc LĐPT N 21 17
% 15,2 10,5
Kinh doanh buôn bán N 13 9
% 9,4 5,6
Dự định khác N 5 1
% 3,6 0,6
Tổng N 138 162
% 100,0 100,0
( Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
Khảo sát cho kết quả ở cả nam giới và nữ giới các em đều có xu hướng lựa
chọn tiếp tục thi CĐ – ĐH sau khi tốt nghiệp THPT, tỷ lệ ở nam giới lựa chọn là
71,7% tiếp tục thi CĐ – ĐH nếu không đỗ năm sau thi lại hoặc sẽ xem xét chuyển
xuống học hệ TCCN hoặc học nghề. Trong khi đó tỷ lệ này ở nữ giới là 83,3%,
Trong đó nam giới thi CĐ – ĐH nếu không đỗ năm sau thi tiếp là 29,7%, thi CĐ –
ĐH nếu không đỗ xem xét chuyển xuống học hệ TCCN hoặc học nghề 42,0%. Còn
ở nữ giới sự lựa chọn của các em là thi CĐ – ĐH nếu không đỗ năm sau thi tiếp là
37,0%, thi CĐ – ĐH nếu không đỗ xem xét chuyển xuống học hệ TCCN hoặc học
nghề là 46,3%.
59
Điều đó cho thấy ở nữ giới các em có nhu cầu học lên cao nhiều hơn so với
nam giới. Lý giải về điều này các em nữ cho biết
“Nếu không học ĐH thì các em không biết làm gì, những công việc nặng
nhọc tay chân theo các em chỉ phù hợp cho nam giới”.(PVS 10. Học sinh nữ, học
lực khá)
Qua trao đổi với các em được biết HS thi vào các trường trung cấp với lý do
những em có sức học loại trung bình, trung bình yếu không có khả năng trúng tuyển
đại học nên đã thi vào các trường trung cấp.
“ Nếu không đỗ đại học em chuyển xuống học trung cấp rồi sau thi liên
thông lên để lấy bằng CĐ - ĐH tiếp” ( PVS 6. Học sinh nữ, học lực trung bình)
Như vậy, trong trường hợp nếu không đỗ CĐ – ĐH thì các em chọn con
đường ngắn hơn là học TCCN hoặc học nghề chỉ mất 2 năm sau đó học tiếp lên cao
vẫn lấy được bằng CĐ - ĐH. Một thực tế cho thấy tuy các em có sự lựa chọn ở bậc
học thấp hơn nhưng không dừng lại ở đó, trong suy nghĩ của các em vẫn luôn mong
muốn mình sẽ lấy được bằng CĐ - ĐH.
“Em phải học lên cao hơn để lấy bằng, vì nếu chỉ học trung cấp thì khi cầm
tấm bằng này ra trường sẽ khó xin việc làm, công việc bấp bênh không ổn định”
(PVS 6. Học sinh nữ, học lực trung bình).
“ Nếu không đỗ ĐH năm nay em dự định sẽ học 1 trường trung cấp rồi sang
năm em ôn thi lại ĐH” (PVS 7. Học sinh nam, học lực khá)
Hiện nay, hầu hết học sinh ở cả nam và nữ đều có xu hướng học CĐ – ĐH,
chỉ có một bộ phận nhỏ là đi học TCCN, học nghề hay những dự định khác.Tuy
nhiên, dự định học TCCN của các em chưa dừng lại tại đó các em vẫn mong muốn
học cao hơn nữa. Các em HS đi học TCCN chỉ là con đường trượt ĐH tìm một nơi
để học và năm sau sẽ dự định thi lại hay học xong sẽ thi chuyển tiếp lên bậc CĐ –
ĐH. Một thực tế để chúng ta cần quan tâm trong công tác hướng nghiệp là hầu hết
học sinh sau khi tốt nghiệp THPT đều đổ xô đi thi đại học, chỉ có những học sinh
trượt tốt nghiệp hay CĐ - ĐH mới tính đến chuyện học trung cấp, tuy nhiên trong
những em học sinh này có rất nhiều em vẫn cố thi lại CĐ - ĐH vào năm sau. Tâm lý
chuộng bằng cấp, thích làm “thầy” không thích làm “thợ” đã ăn sâu vào suy nghĩ
60
của các em học sinh và cả phụ huynh, chính vì vậy mà các em phải thi vào đại học
mà không cần quan tâm đến năng lực bản thân có hay không. Các em xem nhẹ việc
học nghề, trong khi đó học đại học không phải là yếu tố duy nhất quyết định hay
đảm bảo sự thành công của các em trong công việc hay trong cuộc sống, mà còn
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhất là trong tình trạng thừa thầy thiếu thợ như
hiện nay.
3.1.3 Khác biệt về lực học trong lựa chọn nhóm trường CĐ – ĐH của học sinh THPT
Cả nước hiện nay có trên 4.000 ngành tuyển sinh ở trình độ CĐ - ĐH ở nhiều
cơ sở đào tạo khác nhau. Vì vậy, học sinh có nhiều cơ hội lựa chọn ngành nghề phù
hợp với sở thích nghề nghiệp bản thân. Tuy nhiên, do điểm đầu vào của các ngành
học ở các trường khác nhau nên học sinh cần xác định khả năng học tập của mình
để chọn trường thi cho phù hợp. qua khảo sát 300 học sinh trườngTHPT Việt Yên 1
với trình độ năng lực học tập khác nhau các em có sự lựa chọn ở các nhóm trường
CĐ - ĐH như thế nào, có dựa vào kết quả học tập của mình để lựa chọn hay không?
Chúng tôi làm rõ mối tương quan giữa học lực và chọn nhóm trường dự thi CĐ -
ĐH của học sinh.
Bảng 3.4 : Tƣơng quan giữa học lực và chọn nhóm trƣờng thi CĐ – ĐH
Nhóm trường Học lực
Giỏi khá Trung bình Yếu
CĐ – ĐH Điện tử, CNTT N 3 65 24 0
% 17,6 32,3 30,0
CĐ – ĐH Kinh tế,
Tài chính, Ngân hàng
N 6 78 33 2
% 35,3 38,8 41,2 100,0
CĐ – ĐH Y, Dược N 1 18 4 1
% 5,9 9,0 5,0 50,0
CĐ – ĐH Sư phạm N 3 34 9 1
% 17,6 16,9 11,2 50,0
CĐ – ĐH Xây dựng,
Kiến trúc, Giao thông
N 3 56 14 0
% 17,6 27,9 17,5
CĐ – ĐH Nông, Lâm, N 4 18 9 1
61
Thuỷ sản % 23,5 9,0 11,2 50,0
CĐ – ĐH KHXH N 1 16 5 0
% 5,9 8,0 6,2
CĐ – ĐH Luật, Báo chí,
Truyển hình
N 1 52 12 1
% 5,9 25,9 15,0 50,0
CĐ – ĐH Ngoại ngữ N 4 57 23 1
% 23,5 28,4 28,8 50,0
CĐ – ĐH Quân đội,
Công an
N 2 23 8 0
% 11,8 11,4 10,0
CĐ - ĐH khác N 0 14 3 1
% 7,0 3,8 50,0
( Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)
Qua tiến hành khảo sát chúng tôi nhận thấy một thực trạng chung về xu
hướng lựa chọn các nhóm trường CĐ – ĐH của học sinh tập trung ở các nhóm
trường sau:
Đối với các em HS giỏi các em có xu hướng lựa chọn ở các nhóm trường CĐ -
ĐH Kinh tế, Tài chính, Ngân hàng (35,3%), Ngoại ngữ, Nông, Lâm Thủy sản (23,5%)
“ Em nghe nói học kinh tế bây giờ ra nếu không làm ở các cơ quan thì có thể
mở công ty tự kinh doanh kiếm tiền cũng dễ mà chóng giàu nữa” (PVS 2. Học sinh
nữ, học lực khá)
Với những HS có học lực khá xu hướng chọn những nhóm trường CĐ - ĐH
Kinh tế, Tài chính, Ngân hàng chiếm tỷ lệ 38,8%, ở các nhóm trường CĐ – ĐH
Điện tử, CNTT chiếm 32,3%, nhóm trường CĐ – ĐH Ngoại Ngữ chiếm 28,4%.
Với những HS có học lực trung bình sự lựa chọn của các em cao nhất ở
nhóm trường CĐ – ĐH Kinh tế,Tài chính, Ngân hàng chiếm 41,2%, nhóm trường
CĐ – ĐH Điện tử, CNTT chiếm 30,0%, nhóm trường CĐ – ĐH Ngoại ngữ 28,0%.
Học sinh có học lực yếu cũng có xu hướng tập trung chọn ở nhóm trường
CĐ – ĐH Kinh tế, Tài chính, Ngân hàng, Y, Dược, Sư phạm, Quân đội, Công an.
Như vậy ta nhận thấy rõ xu hướng chọn trường của học sinh hiện nay đa phần
nghiêng về nhóm trường CĐ – ĐH Kinh tế, Tài chính, Ngân hàng, Điện tử, CNTT.
Tuy nhiên có sự không phù hợp trong việc lựa chọn của các em, vì tỷ lệ lựa chọn
62
nhóm trường Kinh tế - Tài chính, Ngân hàng của học sinh trung bình, yếu còn
chiếm khá nhiều và chưa phù hợp với học lực hiện tại của các em. Các em học lực
trung bình, yếu nhưng vẫn đăng ký thi ở các trường học “top đầu” có điểm chuẩn
hàng năm rất cao như nhóm trường CĐ – ĐH Y, Dược, Quân đội, Công an hay các
trường về Kinh tế , Tài chính Ngân hàng.
Hay với tâm lý đã thi đại học thì phải thi trường “ oách” có trượt cũng phải
trượt “ vẻ vang” đã phần nào làm cho công tác tuyển sinh hàng năm gặp khó khăn
gây lãng phí tiền của, công sức của gia đình và xã hội.
“ Em xác định với lực học của em thì không đỗ ĐH được nhưng em sẽ đăng
ký thi ĐH Kinh tế quốc dân nếu có trượt cũng không lo bố mẹ mắng vì đây là
trường có điểm chuẩn rất cao” ( PVS 1. Học sinh nam, học lực trung bình)
Những áp lực cha mẹ đặt ra cho con cái phải thi được vào đại học đã khiến
cho các em học sinh rơi vào tình trạng lo lắng, có những em học lực trung bình, yếu
kém không đủ năng lực để dự thi vào một trường đại học nhưng các em vẫn đăng
ký chọn cho mình một trường để dự thi vào năm nay. Phải chăng bố mẹ dường như
đã đặt quá nặng vấn đề phải vào bằng được đại học? điều này khiến các em mang
tâm lý hoang mang, sợ sệt đó là cả một áp lực tâm lý rất lớn ở lứa tuổi này của các
em. Dù biết lực học không thể đỗ được vào đại học nhưng các em vẫn gồng mình
để thi mà không chọn giải pháp học TCCN hay dạy nghề, những con đường ngắn
hơn phù hợp với năng lực của các em mà không tốn công sức, thời gian và tiền bạc
của gia đình và xã hội. Thiết nghĩ, những bậc phụ huynh nên có cái nhìn nhận đúng
đắn để định hướng đúng nghề nghiệp tương lai cho con mình.
Chúng ta nhận thấy kết quả học tập của HS không có sự tác động đến việc
lựa chọn trường thi CĐ - ĐH của HS. HS hiện nay lựa chọn các nhóm trường thi
CĐ - ĐH không dựa vào kết quả học tập. Với những em học sinh có học lực giỏi, khá,
trung bình thậm chí những em có kết quả học lực yếu vẫn có xu hướng lựa chọn những
nhóm trường thuộc top đầu như Kinh tế, Tài chính, Ngân hàng, hay các nhóm trường
Y, Dược, Quân đội, Công an để dự thi CĐ - ĐH. Điều này cho thấy thực trạng về phân
luồng HS chưa tốt ở THPT, công tác GDHN chưa thực sự hiệu quả.
63
3.2 Nhân tố khách quan
3.2.1 Ảnh hưởng của gia đình đến lựa chọn trường CĐ – ĐH của học sinh THPT
Chúng ta đều biết gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên đối với mỗi cá
nhân để từng bước trở thành con người của xã hội. Ngoài việc đảm nhận chức năng
tái sản xuất con người, chăm sóc nuôi dưỡng chúng ta về mặt thể chất, gia đình còn
là môi trường xã hội hóa đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và hoàn
thiện nhân cách, giáo dục về mặt nhận thức các vấn đề xã hội cho các cá nhân.
Trong xã hội Việt Nam truyền thống và hiện đại, việc chọn nghề nghiệp cho
con luôn là vấn đề tâm huyết và hệ trọng đối với các phụ huynh. Chọn nghề gì cho
con không chỉ biểu hiện việc bố mẹ quan tâm, chăm lo đến tương lai, đến sự ổn
định đời sống vật chất tinh thần cho con, mà còn chứng tỏ thái độ, niềm tin của họ
về vai trò vị trí của ngành nghề đó trong xã hội. Vậy gia đình có vai trò như thế nào
trong việc giúp sinh học sinh chọn trường thi CĐ – ĐH.
17.0
40.7
13.3
25.3
3.7
0.0 10.0 20.0 30.0 40.0 50.0
Bố mẹ hoàn toàn chọn trường thi cho
bạn
Bố mẹ tư vấn chọn trường thi cho bạn
Bố mẹ để bạn tự quyết định chọn
trường thi
Bạn và các thành viên khác trong gia
đình cùng bàn bạc để chọn trường thi
khác
Biểu đồ 3.2: Sự giúp đỡ của gia đình trong việc lựa chọn trường thi
CĐ – ĐH cho học sinh
(đơn vị: %)
( Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
64
Biểu đồ 3.2 có 40,7% bố mẹ giúp HS tư vấn chọn trường thi, 25,3% HS và
các thành viên khác trong gia đình cùng bàn bạc chọn trường thi, thậm chí bố mẹ
hoàn toàn chọn trường thi cho HS chiếm tới 17,0% . Chúng ta biết rằng HS trước
khi có định hướng nghề nghiệp cho mình thì ý kiến tư vấn của bố mẹ cũng rất quan
trọng. Chính bố mẹ sẽ hướng các em đi đúng hướng của mình trong việc chọn
trường, chọn nghề nghiệp cho mình. Chính vì vậy mà nhiều học sinh khi chọn
trường ĐH đều được bố mẹ tư vấn.
Xã hội hóa cá nhân có kết quả tích cực hay tiêu cực là do sự đóng góp một
phần môi trường của gia đình. Trong các gia đình Việt Nam cha mẹ vẫn là nhân tố
quan trọng tác động đến việc học hành của của con cái. Từ việc học thêm, chọn thầy
cô, lớp học, tới vấn đề chọn trường, chọn ngành thi.
“ Mẹ em chọn nghề cho em ngay từ khi em thi vào lớp 10, mẹ muốn em thi
Sư phạm theo nguyện vọng của gia đình để sau khi em ra trường trở thành cô giáo
giống mẹ”.(PVS 8. Học sinh nữ, học lực khá)
Điều này cũng chứng tỏ giả thuyết mà tác giả đưa ra là hoàn toàn hợp lý,
những sự lựa chọn đó không chỉ xuất phát từ ý kiến cá nhân của HS mà có sự tác
động rất lớn từ phía gia đình ( đặc biệt là các bậc cha mẹ HS)
65
Bảng 3.5: Tương quan giữa nghề nghiệp của bố mẹ và chọn nhóm trường CĐ - ĐH
Nhóm trường
Nghề nghiệp bố mẹ
Viên chức
NN Nông nghiệp LĐTD Kinh doanh Nghề khác
CĐ – ĐH Điện tử, CNTT N 16 30 17 30 6
% 30,8 29,9 36,2 33,3 16,7
CĐ – ĐH Kinh tế, Tài chính, Ngân hàng N 15 35 20 36 13
% 28,8 45,5 42,6 40,0 38,2
CĐ – ĐH Y, Dược N 6 10 3 4 1
% 11,5 13,0 6,4 4,4 2,9
CĐ – ĐH Sư phạm N 7 10 6 15 9
% 13,5 13,0 12,8 16,7 26,5
CĐ – ĐH Xây dựng, Kiến trúc,
Giao thông
N 20 16 12 20 5
% 38,5 20,8 25,5 22,2 14,7
CĐ – ĐH Nông, Lâm,
Thuỷ sản
N 7 11 8 6 0
% 13,5 14,3 17,0 6,7
CĐ – ĐH KHXH N 6 8 4 3 1
% 11,5 10,4 8,5 3,3 2,9
CĐ – ĐH Luật, Báo chí,
Truyển hình
N 17 18 6 18 7
% 32,7 23,4 12,8 20,0 20,6
CĐ – ĐH Ngoại ngữ N 22 37 4 18 4
% 42,3 48,1 8,5 20,0 11,8
CĐ – ĐH Quân đội,
Công an
N 5 11 3 9 5
% 9,6 14,3 6,4 10,0 14,7
CĐ - ĐH khác N 7 5 1 3 2
% 13,3 6,5 2,1 3,3 5,9
( Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
66
Nhìn vào bảng số liệu trên chúng ta thấy rằng đối với gia đình có bố mẹ là
viên chức nhà nước con cái có sự lựa chọn nhiều ở các nhóm trường CĐ – ĐH
Ngoại ngữ (42,3%), nhóm trường CĐ - ĐH Xây dựng, Kiến trúc, Giao thông
(38,5%), nhóm trường CĐ - ĐH Điện tử, CNTT (30,8%), nhóm trường CĐ - ĐH
Kinh tế, Tài chính, Ngân hàng (28,8%).
Đối với bố mẹ làm nông nghiệp con cái có sự lựa chọn nhiều ở các nhóm
trường, CĐ - ĐH Ngoại ngữ (48,1%), nhóm trường CĐ - ĐH Kinh tế, Tài chính,
Ngân hàng chiếm (45,5%), nhóm trường CĐ - ĐH Điện tử, CNTT( 29,9%)
Đối với bố mẹ làm nghề lao động tự do con cái có sự lựa chọn nhiều ở các
nhóm trường CĐ - ĐH kinh tế, tài chính (42,6%), nhóm trường CĐ - ĐH Điện tử,
CNTT(36,2%), nhóm trường CĐ - ĐH Xây dựng, Kiến trúc, Giao thông (25,5%).
Đối với bố mẹ ở những ngành nghề khác có xu hướng cho con cái chọn theo
CĐ – ĐH Kinh tế, Tài chính, Ngân hàng ( 38,2%) và CĐ – ĐH Sư phạm (26,5), CĐ
– ĐH Luật, Báo chí, truyền hình (20,6%).
Chúng ta nhận thấy nghề nghiệp của bố mẹ không có tác động lớn đến con
cái, không có sự ảnh hưởng nghề nghiệp của bố mẹ tới nghề nghiệp của con. Không
phải cứ bố mẹ làm việc trong lĩnh vực gì thì con cái phải chọn theo chọn nghề, chọn
trường theo nghề đó. Hiện nay chọn nghề nghiệp, chọn trường của con cái thường
theo xu hướng của thị trường, ngành nghề nào “ hot”, trường nào “ hot” bố mẹ sẽ
hướng con cái chọn theo
“ Chúng tôi hướng cho con cái tới những ngành nghề mà khi con học ra
trường dễ xin việc, gia đình chúng tôi cũng không có mối quan hệ để xin việc cho
con nên muốn con theo học kinh tế cơ hội nghề nghiệp sẽ rộng mở hơn với cháu.”
(PVS 1. Phụ huynh học sinh)
67
Bảng 3.6 : Tƣơng quan giữa kinh tế gia đình và dự định sau tốt nghiệp THPT
Kinh tế gia đình
Dự định sau tốt nghiệp THPT của học sinh
Thi CĐ - ĐH nếu không đỗ
năm sau thi lại
Thi CĐ - ĐH nếu không đỗ
xem xét chuyển xuống học
TCCN hoặc học nghề
Đi làm công nhân
hoặc LĐPT
Kinh doanh
buôn bán Dự định khác Tổng
Giàu có
N 22 19 41
% 53,7 46,3 0 0 0 100,0
Khá giả
N 25 43 3 3 74
% 33,8 58,1 0 4,1 4,1 100,0
Trung bình
N 41 53 24 10 128
% 32,0 41,4 18,8 7,8 0 100,0
Cận nghèo
N 7 13 6 9 3 38
% 18,4 34,2 15,8 23,7 7,9 100,0
Nghèo
N 6 5 8 19
% 31,6 26,3 42,1 0 0 100,0
( Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
68
Bảng 3.6 cho thấy với những em được sinh trong gia đình giàu có thì có
100% chọn thi tiếp CĐ - ĐH nếu không đỗ năm sau thi tiếp và thi CĐ - ĐH nếu
không đỗ sẽ xem xét chuyển xuống học TCCN hoặc học nghề. Không có HS nào ở
những gia đình có kinh tế giàu có chọn đi làm công nhân hay LĐPT sau khi tốt
nghiệp THPT.
Còn ở gia đình khá giả chiếm (91,9%), chỉ có 3 em lựa chọn chiếm (4,1%)
dự định làm kinh doanh và có những dự định khác sau khi tốt nghiệp THPT.
Đối với gia đình ở mức trung bình thì tỷ lệ này chiếm (73,4%) sẽ thi lên CĐ -ĐH
(18,8%) các em chọn đi làm công nhân hoặc LĐPT, (7,8%) chọn đi làm kinh doanh.
Với gia đinh cận nghèo tỷ lệ HS chọn tiếp tục thi CĐ - ĐH hoặc xem xét
nếu không đỗ chuyển xuống học TCCN là (52,6%), (15,8%) chọn đi làm công nhân
hoặc LĐPT, (23,7%) chọn đi làm kinh doanh, (7,9%) chọn có những dự định khác.ở
những gia đình có kinh tế nghèo các em chọn thi tiếp lên CĐ - ĐH hoặc xem xét
nếu không đỗ chuyển xuống học TCCN là (57,9%), (42,1%) chọn đi làm công nhân
hoặc LĐPT để kiếm sống sau tốt nghiệp THPT.
Một điều rõ ràng nhận thấy, khi điều kiện kinh tế gia đình cho phép thì các
em HS có thể định hướng nghề nghiệp của mình mà không phải lo nghĩ gì hết, thậm
chí các em còn có nhiều cơ hội được tham gia vào các hoạt động vui chơi giải trí,
học tập nâng cao kiến thức hơn so với các em có hoàn cảnh khó khăn. Với những
gia đình khó khăn các em lại có những sự lựa chọn phù hợp với hoàn cảnh của gia
đình. Có nhiều em còn tự mình đề nghị với cha mẹ về nghề nghiệp tương lai của
mình để phù hợp hơn với kinh tế gia đình.
“ Kinh tế gia đình ảnh hưởng lớn lắm cháu à, nhiều đứa phải nghĩ tới việc
đi làm ngay sau khi tốt nghiệp vì kinh tế gia đình khó khăn quá. Như con cô đây có
lúc nó nói con chỉ học trung cấp thôi vừa nhanh ra trường, bố mẹ đỡ vất vả lo tiền
đóng học phí vì nó thấp hơn học cao đẳng, đại học”.(PVS 2. Phụ huynh học sinh)
Như vậy, kinh tế gia đình cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến dự
định chọn nghề sau tốt nghiệp THPT của HS. Điều kiện kinh tế gia đình khác nhau
69
khiến các em HS có những lựa chọn khác nhau để phù hợp với hoàn cảnh kinh tế
gia đình.
Gia đình là yếu tố rất quan trọng trong việc định hướng nghề nghiệp cho con
cái, hơn hết bố mẹ là người gần gũi, hiểu rõ các em nhất nên bố mẹ có thể hiểu
được những sở thích, năng lực của các em ra sao. Mặt khác, bố mẹ cũng là người đi
trước có nhiều kinh nghiệm thực tế, có sự hiểu biết về nghề nghiệp trong xã hội hơn
các em. Vì vậy, các em có sự ảnh hưởng rất lớn từ bố mẹ trong việc lựa chọn nghề
nghiệp, chọn trường thi cho bản thân. Trong điều kiện xã hội hiện nay, vấn đề đáp
ứng việc làm sau khi học xong còn phụ thuộc nhiều vào mối quan hệ, tài chính của
gia đình đối với lựa chọn nghề nghiệp cho các em. Tuy nhiên, nếu bố mẹ không
nắm rõ được những nhu cầu và sở thích mong muốn của các em, không dựa vào kết
quả học tập, năng lực của con cái mà lựa chọn nghề nghiệp theo ý của mình, dẫn
đến nhiều em không đạt kết quả như ý muốn. Việc thi CĐ – ĐH chỉ để hài lòng bố
mẹ, chọn nghề nghiệp theo gia đình dẫn đến các em không có hứng thú với nghề, dễ
chán nản, bỏ nghề sau này.
3.2.2 Ảnh hưởng của bạn bè tác động đến lựa chọn trường CĐ – ĐH của học
sinh THPT
Bên cạnh gia đình và các tổ chức, các nhóm xã hội (đặc biệt là nhóm bạn)
cũng là môi trường xã hội hóa quan trọng ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách
của mỗi cá nhân. Trong suốt cuộc đời của mình, mỗi người trong chúng ta sống
trong rất nhiều nhóm xã hội khác nhau và có rất nhiều người bạn, cả thân thiết lẫn
không thân thiết, nhưng ít nhiều có ảnh hưởng đến suy nghĩ của mỗi người.
Quan hệ bạn bè là một nhu cầu không thể thiếu đặc biệt là ở độ tuổi HS
THPT, nhất là bạn bè đồng trang lứa. Các em dễ chia sẻ tâm tư, nguyện vọng,
những dự định về nghề nghiệp trong tương lai. Chính vì vậy, bạn bè cùng lớp, cùng
trường là một yếu tố quan trọng tác động đến lựa chọn nghề nghiệp của HS THPT.
Vậy bạn bè có giúp gì cho các em trong việc lựa chọn trường dự thi CĐ - ĐH?
70
Biểu đồ 3.3: Sự giúp đỡ của bạn bè trong việc lựa chọntrường thi CĐ - ĐH
(đơn vị: %)
( Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
Số liệu điều tra cho thấy thông qua bạn bè HS nhận được chia sẻ tài liệu về
tuyển sinh CĐ - ĐH là nhiều nhất chiếm 29%, có 27,3% HS nhận được từ bạn bè về
việc cung cấp thông tin về điểm thi tuyển của năm trước, 17,0% HS nhận được từ
bạn bè về việc cung cấp thông tin về nghề nghiệp tương lai của bạn, 18,0% cùng
nhau trao đổi về chọn trường thi.
Bạn bè là những người đồng trang lứa, chung trường chung lớp chuẩn bị
bước vào kỳ thi quan trọng nhất là thi ĐH, nên các em tìm kiếm rất nhiều thông tin
cho kỳ thi tuyển sinh ĐH năm nay.
“ Bạn bè chúng em thường xuyên trao đổi với nhau về kiến thức, chia sẻ tài
liệu học tập, cùng học nhóm trên lớp và đi học thêm cùng nhau. Chúng em trao đổi
rất nhiều về việc thi ĐH năm nay thi, trường gì để đỗ ngay trong năm thi đầu tiên
này”. (PVS 2. Học sinh nữ , học lực khá)
Trên cơ sở thực tế, có rất nhiều HS chọn trường không theo ý của bố mẹ, anh
chị hay thầy cô mà chọn trường theo lời khuyên, rủ rê của bạn bè.
“ Nhóm em chơi thân có 3 đứa, tụi em cùng lớn lên và cùng học với nhau từ
hồi cấp 2, lên cấp 3 lại học chung 1 lớp. Bọn em học cùng một khối và rủ nhau thi
chung vào 1 trường ĐH năm nay.” (PVS 2. Học sinh nữ, học lực khá)
71
Một lần nữa, vai trò quan trọng của môi trường xã hội hóa lại được chứng
minh bạn bè là một môi trường xã hội hóa quan trọng, là nơi giúp HS chia sẻ sở
thích, quan điểm về nghề nghiệp tương lai… Hơn nữa, những bạn bè chung trường,
chung lớp các em có sự gắn kết rất bền chặt. Chính môi trường học tập tạo cho các
em có nhiều thời gian chia sẻ kinh nghiệm, kỹ năng cũng như kiến thức để các em
có những sự lựa chọn tốt cho nghề nghiệp của mình.
3.2.3 Ảnh hưởng của hướng nghiệp trong nhà trường đến lựa chọn trường CĐ –
ĐH của học sinh THPT.
Bên cạnh gia đình, bạn bè, nhà trường là môi trường xã hội hóa không kém
phần quan trọng. Đặc biệt đây còn là môi trường xã hội hóa cung cấp những thông
tin mang tính “chính quy”, là nền tảng quan trọng giúp HS có sự hiểu biết liên quan
đến kiến thức, văn hóa, kinh nghiệm… làm nền tảng quan trọng trong quá trình
chọn trường thi CĐ – ĐH.
Biểu đồ 3.4 : Những hoạt động hướng nghiệp của nhà trường giúp học sinh
chọn trường thi CĐ - ĐH
(đơn vị: %)
( Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
Trong các hoạt động hướng nghiệp của nhà trường giúp định hướng nghề
nghiệp và chọn trường cho các em thì hoạt động tổ chức học nghề được các em
đánh giá cao nhất. Qua các giờ học nghề nhằm cung cung cấp cho các em những
72
thông tin về nghề nghiệp. Thông qua đó, HS phần nào hiểu được ý nghĩa xã hội
của nghề, yêu cầu của nghề đối với người lao động, có hiểu biết về một số nghề cơ
bản. Đồng thời, HS cũng học được kĩ năng thực hành để ứng dụng vào công việc tương
lai góp phần tăng thêm hứng thú đối với nghề, tinh thần làm việc độc lập, tính chủ động,
sáng tạo trong công việc. Từ đó các em có sự lựa chọn cho mình một ngành nghề, một
trường thi phù hợp.
“Học sinh ở trường một nửa được học nghề tin học, một nửa còn lại được học
nghề điện. Qua các giờ học nghề chúng em được cung cấp nhiều thông tin về nghề
nghiệp”(PVS.6. Học sinh nữ, học lực trung bình)
Tiếp đến là giáo viên chia sẻ kinh nghiệm (20,7%). Mỗi thầy cô giáo như là
một “chuyên gia” tư vấn có thể giúp HS tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong
việc lựa chọn trường thi cho các em. Bởi hơn ai hết, thầy cô là người hiểu nhất về năng
lực học tập, sự chuyên cần tiến bộ của mỗi học sinh để từ đó có những lời khuyên bổ ích
nhất cho các em.
“Môn học yêu thích của em là Tiếng Anh, nhưng qua các kỳ thi khảo sát
định kỳ ở trường, điểm ba môn thi của em chỉ đạt trung bình 19, 20 điểm mà điểm
chuẩn vào trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội và trường Đại học sư phạm ngoại
ngữ Hà Nội là 28 đến 30 điểm (điểm ngoại ngữ tính hệ số 2). Em được cô giáo
tiếng anh tư vấn nên năm nay em lựa chọn Đại học Đà Nẵng để có cơ hội thi đỗ
cao hơn vào ngành học mà em luôn yêu thích ” (PVS.10. Học sinh nữ, học lực khá)
Lồng ghép vào các môn học (18,7%), Trong quá trình giảng dạy các môn
học cụ thể giáo viên lồng ghép GDHN vào đó. Thông qua việc học các môn học cơ
bản, giáo viên bộ môn sẽ giúp HS phần nào đánh giá được năng lực bản thân phù
hợp với ngành nào, nghề nào, có khả năng thi vào ĐH, CĐ hay đi học nghề tức là
giúp HS phân luồng sau khi tốt nghiệp. Ngoài ra những kiến thức qua các môn học
mà HS lĩnh hội tạo nền móng cho sự tiếp thu kiến thức nghề nghiệp bởi lẽ đó là hệ
thống tri thức chung nhất được tất cả các ngành lấy làm điểm tựa. Qua các môn
học, học sinh đều có cái nhìn sâu sắc hơn về nghề nghiệp bởi nội dung kiến
thức phổ thông bao gồm lượng thông tin khá phong phú về nghề nghiệp.
73
“ Công nghệ là môn học có khả năng ứng dụng cao bởi kiến thức của môn
học bao hàm nhiều vấn đề liên quan đến ngành nghề mang tính thực tiễn như công
việc làm đất, chọn giống trong nông nghiệp, khí tượng, thuỷ văn, môi trường hay
những nghề liên quan đến điện, sửa chữa máy móc. Điều này giúp HS có cái nhìn
tổng quát về một số ngành nghề trong xã hội”.(PVS.1. Giáo viên giảng dạy môn
công nghệ)
Hoạt động mời chuyên gia đến trao đổi (15,7%), hiện nay có nhiều trường
CĐ - ĐH tới trường trực tiếp tham gia tư vấn tuyển sinh cho HS tuy nhiên hoạt
động này lại theo hướng “chọn trường chứ không chọn nghề”, đại diện các trường
CĐ - ĐH, TCCN đến trao đổi và giải đáp thắc mắc cho HS về ngành nghề đào tạo
của trường, chỉ tiêu, điều kiện dự thi, xét tuyển... Song hoạt động này cũng không
được HS đánh giá cao vì thực chất người đại diện trường CĐ - ĐH và TCCN chỉ
giới thiệu và quảng bá về trường với mục đích thu hút đông đảo học sinh nộp hồ sơ
đăng ký dự thi vào trường.
“Hàng năm cũng có các trường từ Hà Nội về trường em tư vấn tuyển sinh chị
ạ. Tuy nhiên, họ chỉ giới thiệu về trường của họ thôi, phát hồ sơ và lấy thông tin
của học sinh chứ không tư vấn cụ thể về ngành nghề cho chúng em”( PVS.9. Học
sinh nữ, học lực giỏi)
Trong nhà trường, giáo dục hướng nghiệp là một hoạt động nhằm giúp các
em có những thông tin cần thiết trong việc định hướng nghề nghiệp. Hiện nay, phần
lớn HS đã nhận thức rất rõ tầm quan trọng của hoạt động hướng nghiệp trong nhà
trường: có tới 30,7% học sinh cho rằng, hoạt động hướng nghiệp trong trường “rất
quan trọng”; 26,0% học sinh nhận xét hoạt động hướng nghiệp trong trường đóng
vai trò “quan trọng”, 14,0% học sinh cho rằng hoạt động hướng nghiệp trong trường
bình thường. Còn lại 29.3% HS cho rằng hoạt động hướng nghiệp “ít quan trọng”
và “không quan trọng.
74
Biểu đồ 3.5 Đánh giá của học sinh về hoạt động hướng nghiệp trong nhà trường
(đơn vị:%)
( Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
HS cho rằng, nếu hoạt động hướng nghiệp được thực hiện tốt sẽ giúp học
sinh có được sự lựa chọn nghề nghiệp đúng với năng lực của bản thân và nhu cầu
của xã hội, giúp học sinh có thể tự đánh giá đúng khả năng của mình nên thi ĐH,
CĐ hay đi học nghề sau khi tốt nghiệp THPT sẽ phù hợp. Nếu hoạt động tư vấn
hướng nghiệp được diễn ra thường xuyên dưới nhiều hình thức phong phú và hấp
dẫn như: Mời đại diện các cơ sở sản xuất đến để trao đổi và hướng dẫn HS tìm hiểu
thông tin về nghề được đào tạo, đưa ra yêu cầu nghề, những điều kiện để thành đạt
trong nghề…Mặt khác, nếu được đầu tư nhiều thời gian cho hoạt động HN như
được tham quan tìm hiểu các cơ sở sản xuất gần khu vực sẽ giúp HS học hỏi thêm
kinh nghiệm trong công việc để có định hướng đúng đắn.
“Theo em hoạt động hướng nghiệp trong nhà trường sẽ có vai trò quyết định
đến lựa chọn trường ĐH của HS bởi thông qua hoạt động tư vấn hướng nghiệp HS
sẽ có thông tin về trường ĐH, quan trọng hơn với điều kiện sức khoẻ, học lực, tính
cách như vậy sẽ phù hợp với ngành nghề nà, trường nào. Tuy nhiên, do nhà trường
chưa đáp ứng đầy đủ kì vọng của HS nên ảnh hưởng của nó đối với chọn ngành nghề,
chọn trường của HS còn thấp.” (PVS 9. Học sinh nữ, học lực giỏi)
“ Việc học hướng nghiệp ở trường em chủ yếu được lồng ghép vào các môn
75
học cơ bản, các hoạt động như tham quan, dã ngoại hiếm khi được tổ chức nên
chúng em ít có cơ hội tìm hiểu về ngành nghề mặt khác do giáo viên dạy bộ môn
GDHN không phải giáo viên chuyên trách về hướng nghiệp nên kiến thức về ngành
nghề còn hạn chế bởi vậy chúng em chưa có được lời khuyên phù hợp về sự lựa
chọn ngành nghề.” ( PVS.10. Học sinh nữ , học lực khá)
Nhà trường là môi trường xã hội hoá đóng góp một vai trò quan trọng giúp
học sinh hình thành nhân cách, thu nhận được các kỹ năng, được đào tạo chuyên
môn nghiệp vụ, có thông tin và hiểu biết về các nghề mà xã hội đang cần đáp ứng
với trình độ, năng lực cũng như sở thích của bản thân để có thể lựa chọn được nghề
phù hợp với bản thân, gia đình và xã hội. Trường THPT Việt Yên 1 cũng đã có một
số các hoạt động về GDHN lồng ghép trong các môn học, tổ chức học nghề, mời
các trường ĐH, CĐ về tư vấn tuyển sinh và tổ chức các đợt khảo sát năng lực học
tập. Qua đó giúp học sinh nhận thức được năng lực học tập của mình, những hứng thú
với nghề, lĩnh hội được thông tin về nghề nghiệp trong xã hội, nắm bắt được các yêu cầu
của từng nghề nghiệp để các em có lựa chọn tốt nhất trong việc chọn trường thi CĐ –
ĐH đúng đắn cho mình. Tuy nhiên, các hoạt động GDHN trong nhà trường cần phải
được tiến hành sâu rộng hơn nữa, các thầy cô giáo giảng dạy về hướng nghiệp cần
phải được đào tạo chuyên sâu cũng như các hoạt động GDHN cần phải phong phú
hơn để đem lại hiệu quả cao hơn trong công tác hướng nghiệp cho học sinh để có
thể đáp ứng được sự kì vọng của học sinh THPT hiện nay.
3.2.4 Ảnh hưởng của truyền thông đại chúng đến lựa chọn trường CĐ – ĐH của
học sinh THPT
Ngày nay với sự bùng nổ và phát triển ngày càng mạnh mẽ của công nghệ
thông tin và truyền thông, vai trò của truyền thông đại chúng ngày càng trở nên
quan trọng trong đời sống xã hội. Internet, báo chí, ti vi, tạp chí… là những nguồn
thông tin hữu ích và phong phú được cập nhật thường xuyên. Mỗi dịp tuyển sinh
CĐ - ĐH phương tiện truyền thông đại chúng góp phần quan trọng định hướng nghề
nghiệp cho các em học sinh biết thêm được nhiều thông tin cần thiết để lựa chọn
trường thi, ngành thi phù hợp.
76
Biểu đồ 3.6: Nguồn thông tin từ PTTTĐC giúp HS chọn trường thi CĐ – ĐH
( đơn vị: %)
( Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
Biểu đồ 3.6 có tới 34,0% HS chọn PTTTĐC giúp các em biết được điểm thi
tuyển của các năm trước, 32,3% PTTTĐC cung cấp thông tin việc làm sau khi ra
trường, 22,7% cung cấp thông tin về uy tín của cơ sở đào tạo, 6,3% cung cấp thông
tin về cơ hội học lên cao. Các phương tiện truyền thông đại chúng internet, sách
báo, radio, truyền hình là những phương tiện hỗ trợ đắc lực cho học sinh tìm kiếm
thông tin trong các kỳ thi ĐH. Đồng thời cũng hỗ trợ các em trong việc định hướng
nghề nghiệp, lựa chọn trường, ngành thi phù hợp. Hiện nay, giới trẻ không quá khó khăn
tiếp cận với nguồn thông tin trên internet để chuẩn bị cho việc chọn trường thi ĐH.
“ Em thường xuyên vào mạng internet cập nhật tình hình tuyển sinh đại học
năm nay xem chỉ tiêu tuyển sinh của các trường từ đó em đăng ký làm hồ sơ dự thi
(PVS 8. Học sinh nữ, học lực khá)
Có thể nói trong thời đại bùng nổ thông tin và các phương tiện truyền thông
như hiện nay đã tác động không nhỏ tới lựa chọn nghề nghiệp của HS. Các em dễ
dàng nắm bắt nhanh các nguồn thông tin đa dạng về mọi mặt của xã hội.
Điều này cho thấy PTTTĐC có tác động rất lớn đến lựa chọn trường ĐH của
HS, là nguồn kênh thông tin hiệu quả giúp HS nhanh chóng tra cứu thông tin về kỳ
thi tuyển sinh ĐH hàng năm. Tỷ lệ “ chọi”, tra cứu điểm chuẩn các trường… để từ
đó HS có sự tham khảo và chọn trường chính xác nhất.
77
PTTTĐC cũng là một trong những yếu tố có tác động tích cực đến việc chọn
trường thi của HS, nếu các em biết quan tâm và chọn lọc đúng cách. Xã hội ngày
nay là xã hội thông tin, đặc biệt là thông tin điện tử, HS không khó để có thể tiếp
cận và tìm kiếm thông tin. Bên cạnh ưu điểm, hạn chế của môi trường xã hội hóa
này là thông tin mang tính tràn lan, không có hệ thống… Để HS có thể sử dụng hiệu
quả kênh thông tin này, vai trò định hướng của gia đình và nhà trường là vô cùng
quan trọng.
3.2.5 Ảnh hưởng đặc điểm của trường cao đẳng, đại học
Học sinh THPT hiện nay dựa vào những tiêu chuẩn nào của trường CĐ – ĐH
để tìm cho mình một trường thi phù hợp với mong muốn của các em và gia đình.
Chúng tôi thu nhận được kết quả điều tra từ 300 em học sinh lớp 12 trường Việt
Yên 1 đánh giá từng mức độ ảnh hưởng đặc điểm trường CĐ - ĐH có ảnh hưởng
như thế nào đến lựa chọn trường của các em với 5 thang đo theo thứ tự từ 1 đến 5,
trong đó 1 là mức độ đồng ý cao nhất.
78
Bảng 3.7 : Mức độ ảnh hƣởng của đặc điểm trƣờng CĐ – ĐH tới sự lựa chọn của học sinh
Đặc điểm của các nhóm trƣờng
Mức độ đồng ý
Rất đồng
ý Đồng ý Phân vân
Không
đồng ý
Rất không
đồng ý Tổng
Do trường có nhiều ngành
đào tạo hấp dẫn
N 51 61 108 50 30 300
% 17,0 20,3 36,0 16,7 10,0 100,0
Do trường có thương hiệu
danh tiếng
N 62 133 48 28 29 300
% 20,7 44,3 16,0 9,3 9,7 100,0
Do trường có hỗ trợ
ký túc xá
N 17 60 72 99 52 300
% 5,7 20,0 24,0 33,0 17,3 100,0
Do trường có tỷ lệ
chọi thấp N 92 72 86 15 35 300
% 30,7 24,0 28,7 5,0 11,7 100,0
Do trường gần nhà N 35 47 56 82 80 300
% 11,7 15,7 18,7 27,3 26,7 100
Học phí thấp N 20 47 124 73 36 300
% 6,7 15,7 41,3 24,3 12,0 100
( Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
79
Kết quả thu nhận được theo thứ tự lựa chọn cao nhất của HS thứ tự như sau:
Do trường có thương hiệu danh tiếng mức độ rất đồng ý và đồng ý chiếm 65,0%,do
trường có tỷ lệ chọi thấp mức độ rất đồng ý và đồng ý chiếm 54,7%,do trường có
nhiều ngành đào tạo hấp dẫn với tỷ lệ rất đồng ý và đồng ý chiếm 36,7%.
Hiện nay, danh tiếng trường ĐH luôn là yếu tố quan trọng để HS quyết định
có lựa chọn dự thi hay không. Các em cũng cho rằng học ở những trường danh
tiếng cơ hội tìm được việc sau khi ra trường sẽ tốt hơn.
“Chị gái em học trường ĐH Ngoại Thương có điểm thi đầu vào rất cao ra
trường nộp hồ sơ xin được việc làm ngay mà không mất tiền để xin như mấy bạn chị
học các trường ĐH khác”. ( PVS 8. Học sinh nữ, học lực khá)
Lý do trường có tỷ lệ chọi thấp, cũng là tiêu chí quan trọng để HS dựa vào đó
chọn trường thi. HS tự lượng sức mình, “liệu cơm gắp mắm” là cách hiệu quả nhất
dẫn đường cho thí sinh tới giảng đường đại học.
Một tiêu chí nữa được nhiều HS chọn là “trường có nhiều ngành đào tạo hấp
dẫn”. Học sinh sẽ có nhiều cơ hội để lựa chọn và đăng ký hồ sơ thi tuyển. Học ở
một trường ĐH có nhiều ngành đào tạo hấp dẫn theo các em đó chắc chắn là những
trường lâu năm, uy tín, chất lượng giảng dạy tốt ra trường với thu nhập cao.
“ Em nghĩ với những trường đại học có nhiều ngành đào tạo được mở ra
đáp ứng nhu cầu của xã hội đó là trường có uy tín và chất lượng tốt”( PVS 5. Học
sinh nam, học lực trung bình)
Những lý do trường có hỗ trợ ký túc xá, trường gần nhà, học phí thấp cũng là một
trong những tiêu chí để HS lựa chọn. Tuy nhiên những lý do này chưa được học sinh
đánh giá cao và không có mức độ ảnh hưởng lớn đến chọn trường thi của HS.
Như vậy, với nhiều yếu tố của trường đại học được chúng tôi đưa ra về đặc
điểm của trường ĐH để HS lựa chọn thì trường có thương hiệu danh tiếng, trường
có tỷ lệ chọi thấp, trường có nhiều ngành đào tạo hấp dẫn là ba yếu tố có mức độ
ảnh hưởng lớn nhất đến chọn trường thi của học sinh.
3.2.6 Đánh giá của học sinh THPT về các “kênh” tác động đến lựa chọn trường CĐ - ĐH
Sự định hướng lựa chọn ngành nghề, chọn trường chịu ảnh hưởng từ nhiều
“kênh” thông tin khác nhau. Những kênh thông tin nào có ảnh hưởng lớn nhất đến
việc lựa chọn trường CĐ – ĐH học sinh THPT. Để đánh giá vấn đề này, tác giả đã
sử dụng thang đo với 5 mức độ sau:
80
Bảng 3.8: Đánh giá mức độ của các kênh thông tin tác động đến lựa chọn trƣờng thi CĐ – ĐH
Các kênh thông tin
Mức độ đồng ý
Tác động
rất nhiều
Tác động
nhiều
Tác động
bình thƣờng Tác động ít
không có
tác động Tổng
Bố mẹ
N 102 103 45 37 13 300
% 34,0 34,3 15,0 12,3 4,3 100,0
Anh chị
N 67 68 74 40 51 300
% 22,3 22,7 20,7 18,3 15,7 100,0
Bạn bè
N 60 76 62 55 47 300
% 20,0 25,3 20,7 18,3 15,7 100,0
Thầy cô
N 36 58 94 72 40 300
% 12,0 19,3 31,3 24,0 13,3 100,0
Hướng nghiệp nhà trường
N 28 60 102 86 24 300
% 9,3 20,0 34,0 28,7 8,0 100,0
Chuyên gia tư vấn
N 21 35 77 119 48 300
% 7,0 11,7 25,3 39,7 16,0 100,0
PTTTĐC
N 81 80 83 15 41 300
% 27,0 26,7 27,7 5,0 13,7 100,0
Đặc điểm của trường CĐ -ĐH
N 79 76 51 54 40 300
% 26,3 25,3 17,0 18,3 13,3 100,0
( Nguồn: kết quả xử lý phiếu điều tra)
81
Bảng 3.8 chúng ta nhận thấy qua các kênh thông tin tác động đến lựa chọn
trường CĐ – ĐH của HS thì tác động nhiều nhất là từ gia đình, truyền thông đại
chúng và đặc điểm của trường CĐ – ĐH. Kênh thông tin từ bạn bè và anh chị được
HS đánh giá ở mức trung bình. Nguồn Kênh thông tin từ thầy cô, hướng nghiệp của
nhà trường và chuyên gia tư vấn không được HS đánh giá cao thậm chí HS bị cho là
có “ít có sự tác động”.
Với những số liệu ở bảng trên có thể lý giải sự lựa chọn kênh thông tin từ bố mẹ là
nhiều nhất cho thấy rằng gia đình vẫn là kênh thông tin có ảnh hưởng lớn nhất đối
với các em học sinh khi các em quyết định chọn trường thi. Lý do được đưa ra là bố
mẹ là những người gần gũi nhất với học sinh nên học sinh nhận được sự động viên,
hỗ trợ rất lớn từ tinh thần, bố mẹ là có vai trò lớn trong lựa chọn ngành học bởi với
kinh nghiệm đã từng trải qua cộng với sự hiểu biết về sự phát triển các nghề hiện
nay bố mẹ khuyến khích con thi vào các ngành sau này ra trường dễ xin việc. Có
thể do điều kiện kinh tế gia đình các em sẽ chọn học trường này mà không phải
trường khác: Học sư phạm để đỡ tốn kinh phí học tập; hay chọn các trường về quân
đội để không lo lắng về đầu ra cũng có thể học để sau theo nghề của cha mẹ.
“Bố em khuyên em nên thi vào Học viện Kỹ thuật Quân sự, hay Học viện
cảnh sát vì ngành này giúp con người rèn luyện bản thân, ra trường không phải lo
xin việc”.(PVS 4. Học sinh nam, học lực khá).
Kênh thông tin PTTTĐC chỉ đứng sau gia đình, chỉ cần một cú nhấp chuột là
có thể biết nhiều nguồn thông tin về kỳ thi tuyển sinh CĐ – ĐH hay bất cứ ngành
nghề nào trong xã hội. Kênh thông tin này hiện nay thực sự rất phổ biến và tiện ích.
Bên cạnh gia đình, nhà trường cũng là một môi trường xã hội hóa quan trọng,
là nơi HS gắn bó phần lớn khoảng thời gian trong quãng đời đi học. Nếu như gia
đình là nơi giúp cá nhân hình thành nên các giá trị, cách ứng xử… trong cuộc sống
thì nhà trường là nơi cung cấp kiến thức làm nền tảng cho cuộc sống của cá nhân
trong tương lai. Trong trường hợp này, vai trò của thầy cô; hoạt động hướng nghiệp
của nhà trường; các chuyên gia tư vấn là ba nguồn kênh thông tin không phát huy
được hết vị trí và vai trò của mình trong việc cung cấp thông tin hoạt động về nghề
nghiệp, hướng nghiệp chọn ngành nghề và chọn trường cho HS ở trường THPT
Việt Yên 1.
82
“Vừa rồi, cũng có một số trường ĐH - CĐ họ về trường tư vấn tuyển sinh,
nhưng họ chỉ giới thiệu về ngành học, chỉ tiêu tuyển sinh chứ không tư vấn cụ thể
học ngành nghề nào thì phù hợp với chúng em, ra trường làm gì đâu ạ” (PVS.9,
học sinh nữ, học lực giỏi)
Có rất nhiều các kênh thông tin có tác động đến lựa chọn trường CĐ - ĐH
của HS như: gia đình, bạn bè, thầy cô, hướng nghiệp của nhà trường, chuyên gia tư
vấn, đặc điểm của trường CĐ - ĐH…. Tuy nhiên kênh thông tin được HS lựa chọn có
tác động nhiều nhất là kênh thông tin từ gia đình, truyền thông đại chúng, đặc điểm của
trường CĐ – ĐH. Kênh thông tin từ phía thầy cô, hướng nghiệp của nhà trường và các
chuyên gia tư vấn là kênh thông tin là những kênh thông tin chưa được HS đánh giá
cao. Điều này cho thấy những kênh thông tin này chưa phát huy hết vai trò và trách
nhiệm của mình trong công tác giúp HS định hướng ngành nghề và chọn trường một
cách hiệu quả nhất. Có thể do nguyên nhân từ nhiều phía, không có lực lượng chuyên
trách về tư vấn hướng nghiệp, giáo viên không được đào tạo về chuyên môn để hướng
nghiệp, cơ sở vật chất không đủ điều kiện để tổ chức những loại hoạt động khác nhau,
kinh phí đầu tư cho hướng nghiệp còn thấp hay sự nghèo nàn về phương tiện thông tin.
Do vậy các hoạt động hướng nghiệp trong trường phổ thông nếu làm tốt giúp học sinh
ý thức được những vấn đề cần tư vấn, trên cơ sở đó chọn cho mình một nghề phù hợp
với năng lực, sở thích của bản thân, đáp ứng được yêu cầu của nghề nghiệp đặt ra cũng
như nhu cầu của thị trường lao động.
83
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Đề tài nghiên cứu: “ Nhận thức, nhu cầu và các yếu tố tác động đến lựa chọn
trường Cao đẳng, Đại học của học sinh THPT hiện nay” (Nghiên cứu trường hợp tại
trường THPT Việt Yên 1 - Bắc Giang).Tuy được tiến hành khảo sát trên quy mô
không phải là rộng lớn nhưng cũng đã thu được những kết quả khả quan, đáp ứng
được mục tiêu nghiên cứu ban đầu đề ra.
Trong luận văn đã trình bày trên, chúng tôi tập trung chú trọng đến hai vấn đề là:
Nhận thức, nhu cầu và các yếu tố tác động trong việc lựa chọn trƣờng CĐ - ĐH
của học sinh THPT.
Nhận thức của học sinh THPT về sự cần thiết xác định trường dự thi CĐ - ĐH.
Nghiên cứu cho thấy hầu hết học sinh đều xác định việc chọn trường thi
CĐ - ĐH là rất cần thiết. Bởi khi đó, các em sẽ có nhiều thời gian dành cho ôn
luyện chuẩn bị hành trang kiến thức để bước vào kỳ thi tuyển sinh quan trọng nhất
của cuộc đời mà không bị phân tán hay suy nghĩ quá nhiều ở thời gian cuối khi đặt
bút ghi danh chọn trường.
Học sinh lựa chọn thi nhiều ở các khối A, D, B mà theo lý giải của các em là
dễ tìm cho mình trường CĐ - ĐH để dự thi hơn, đồng thời các em có thể thi được cả
2 khối là khối A và khối B, hay khối A và khối D trong kỳ thi CĐ – ĐH thì cơ may
đỗ ĐH sẽ được nhân đôi vì thế những học sinh có năng khiếu về môn học thuộc các
khối khác nhau đã quyết định học và dự thi cả 2 khối.
+ Thời điểm suy nghĩ về lựa chọn trường thi CĐ – ĐH của HS
Phần lớn các em HS đến lớp 12 mới nghĩ đến chọn trường thi CĐ - ĐH nghĩa
là số đông học sinh THPT vẫn chưa có sự chuẩn bị sớm cho việc lựa chọn nghề nghiệp
cho mình qua đó cho thấy công tác hướng nghiệp ở bậc THPT còn chưa đạt hiệu quả,
chưa đáp ứng được sự mong đợi của HS. Nếu làm tốt công tác định hướng nghề nghiệp
cho các em thì học sinh THPT sẽ có những lựa chọn và suy nghĩ từ sớm thì sẽ có những
hành vi chuẩn bị kỹ lưỡng hơn cho nghề nghiệp tương lai của mình.
+ Tự đánh giá cơ hội, khả năng thi đỗ CĐ – ĐH của HS THPT
Học sinh THPT nhận thức được việc thi đỗ vào CĐ - ĐH là rất khó, cơ hội
84
trúng tuyển không cao. Tuy nhiên, các em vẫn chọn việc thi CĐ - ĐH thay vì học các
trường TCCN hay đi học nghề.
+ Thực trạng lựa chọn trường thi CĐ – ĐH của HS THPT
Sau khi tốt nghiệp THPT đại bộ phận HS tiếp tục thi lên CĐ - ĐH nếu không
đỗ năm sau thi lại, thi lên CĐ – ĐH nếu không đỗ xem xét chuyển xuống học hệ
TCCN. Chỉ có một số ít lựa chọn đi làm công nhân hoặc ngành nghề lao động chân
hay chọn đi làm kinh doanh buôn bán.
Học sinh THPT hiện nay có xu hướng lựa chọn tập trung nhiều ở các các
nhóm trường CĐ – ĐH Kinh tế, Tài chính, Ngân hàng, nhóm trường CĐ- ĐH Điện
tử, CNTT, nhóm trường CĐ - ĐH Ngoại ngữ. Học sinh lựa chọn ít ở các nhóm
trường CĐ - ĐH KHXH, nhóm trường CĐ - ĐH Nông, Lâm, Thủy Sản.
Một số nhu cầu chính của học sinh THPT trong việc lựa chọn trường CĐ – ĐH
Đại đa số HS THPT đều có nhu cầu được đi ôn thi ĐH và thời điểm HS bắt
đầu ôn luyện kiến thức để thi ĐH từ lớp 11, lớp 12.
Nguồn thông tin học sinh tìm hiểu nhiều nhất về thi CĐ - ĐH là internet và
gia đình. Nguồn thông tin từ thầy cô và GDHN là những nguồn thông tin chính
thống từ phía nhà trường tuy nhiên học sinh lại không tìm hiểu nhiều từ hai nguồn
thông tin này.
Trong các nội dung hướng nghiệp và nội dung học sinh cần cung cấp thông
tin về ngành nghề, trường để đăng ký dự thi nội dung mà học sinh quan tâm nhiều nhất
đó là khả năng có việc làm sau khi ra trường, điểm thi tuyển của các năm trước.
Các yếu tố tác động đến lựa chọn trƣờng CĐ – ĐH của học sinh THPT
Nhân tố chủ quan
Trong các lý do lựa chọn trường thi CĐ – ĐH của các em HS lý do phù hợp
sở thích và phù hợp năng lực học tập, cơ hội trúng tuyển cao được các em lựa chọn
nhiều nhất và ba lý do này cũng được HS đánh giá có mức độ quan trọng nhất.
Yếu tố giới tính cũng có sự tác động nhất định trong việc lựa chọn nhóm
trường CĐ - ĐH. Với các nhóm trường Đại học Kiến trúc, Xây dựng, Giao thông,
Quân đội, Công an những ngành đòi hỏi về sức khỏe nam giới có xu hướng lựa
chọn nhiều hơn nữ giới. Còn ở các nhóm trường Sư phạm, Luật, Báo chí, Truyền
85
hình, Y, Dược những ngành đòi hỏi sự tỉ mỉ, cẩn thân, tính cách nhẹ nhàng thì nữ
giới có xu hướng lựa chọn nhiều hơn. Có thể thấy quan điểm đặc trưng về giới trong
việc chọn ngành nghề, chọn trường thi của các em.
Dự định sau tốt nghiệp THPT của nam giới và nữ giới không có sự khác biệt
chênh lệch lớn. Hầu hết cả nam giới và nữ giới đều chọn thi lên CĐ – ĐH sau khi
tốt nghiệp, chỉ có một bộ phận nhỏ lựa chọn đi làm công nhân, lao động phổ thông
hoặc kinh doanh.
Kết quả học tập của HS không có sự tác động đến việc lựa chọn trường thi
CĐ - ĐH của HS. HS hiện nay lựa chọn các nhóm trường thi CĐ - ĐH không dựa
vào kết quả học tập. Với những em học sinh có học lực giỏi, khá, trung bình thậm
chí những em có kết quả học lực yếu vẫn có xu hướng lựa chọn những nhóm trường
thuộc top đầu như Kinh tế, Tài chính, Ngân hàng, hay các nhóm trường Y, Dược,
Quân đội, Công an để dự thi CĐ - ĐH. Điều này cho thấy thực trạng về phân luồng
HS chưa tốt ở THPT, công tác GDHN chưa thực sự hiệu quả
Nhân tố khách quan
Bên cạnh nhân tố chủ quan thì các nhân tố khách quan cũng là những nhân tố
có ảnh hưởng đến lựa chọn trường thi CĐ – ĐH của HS.
+ Gia đình
Vai trò của gia đình và đặc biệt là bố mẹ trong định hướng chọn nghề, chọn
trường cho con là rất lớn. Những kinh nghiệm và thực tế của cha mẹ sẽ giúp các em
tự tin hơn trong việc hiểu rõ hơn hướng đi tương lai của mình. Qua đó cũng cho
thấy rằng cha mẹ là người mà các em tin cậy nhất, hiểu rõ tâm lý sở thích và biết rõ
năng lực của các nhất. Do đó các em rất tin tưởng cha mẹ trong việc hỏi ý kiến, tham
khảo và đi đến quyết định chọn trường thi cho mình.
Nghề nghiệp của bố mẹ không có tác động lớn đến chọn trường của con cái,
không có sự ảnh hưởng nghề nghiệp của bố mẹ tới con cái, bố mẹ làm việc
trong lĩnh vực gì thì con cái phải chọn theo chọn nghề, chọn trường theo nghề
đó. Hiện nay chọn nghề nghiệp, chọn trường của con cái thường theo xu hướng
của thị trường, ngành nghề nào “ hot”, trường nào “ hot” bố mẹ sẽ hướng con
cái chọn theo.
86
Kinh tế gia đình cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến dự định chọn
nghề sau tốt nghiệp PTTH của HS. Điều kiện kinh tế gia đình khác nhau khiến các
em HS có những lựa chọn khác nhau để phù hợp với hoàn cảnh kinh tế gia đình.
+ Bạn bè
Bạn bè là những người gần gũi và thân thiết trong cuộc sống của HS khi học
ở trường. Cách suy nghĩ, hành động, quan điểm, và sự lựa chọn của các em có phần
tác động không nhỏ đến lựa chọn trường ĐH của các em. Hơn nữa, bạn bè chung
trường, chung lớp các em có sự gắn kết bền chặt. Chính môi trường học tập tạo cho
các em có nhiều thơi gian chia sẻ kinh nghiệm, kỹ năng cũng như kiến thức để các
em có những hành trang tốt bước vào kỳ thi tuyển sinh sắp tới.
+ Hướng nghiệp trong nhà trường
Nhà trường có nhiều hoạt động liên quan đến vấn đề hướng nghiệp cho học
sinh như lồng ghép trong các môn học, tổ chức học nghề mời các trường CĐ – ĐH
về tư vấn tuyển sinh, tổ chức các đợt khảo sát năng lực học tập. Qua đó giúp HS
nhận thức được năng lực học tập của mình, hứng thú đối với nghề, lĩnh hội được
thông tin vê nghề nghiệp trong xã hội, nắm bắt được các yêu cầu của nghề.
Học sinh cũng đánh giá cao vai trò của nhà trường trong hoạt động hướng
nghiệp. Tuy vậy, mức độ ảnh hưởng trong việc lựa chọn nghề nghiệp của họ đối
với các hoạt động này còn chưa cao. Do đó hoạt động hướng nghiệp trong nhà
trường cần phải được tiến hành sâu rộng hơn nữa, các thầy cô giáo giảng dạy về
hướng nghiệp cần phải được đào tạo chuyên sâu cũng như các hoạt động hướng
nghiệp cần phải phong phú hơn để đem lại hiệu quả cao hơn trong công tác hướng
nghiệp cho HS.
+ Yếu tố Truyền thông đại chúng
Phương tiện truyền thông đại chúng cũng là một trong những yếu tố có tác
động tích cực đến việc chọn trường thi của HS, nếu các em biết quan tâm và chọn
lọc đúng cách. PTTĐC giúp cho HS biết được các thông tin về điểm thi tuyển của
các năm trước, cung cấp thông tin việc làm sau khi ra trường, cung cấp thông tin về
uy tín của cơ sở đào tạo.
+ Đặc điểm của trường CĐ - ĐH
87
Những lý do được đưa ra về đặc điểm của trường CĐ – ĐH để HS chọn
trường thì trường có thương hiệu danh tiếng, trường có tỷ lệ chọi thấp, trường có
nhiều ngành đào tạo hấp dẫn là ba yếu tố được HS lựa chọn nhiều nhất.
● Đánh giá về các kênh tác động đến lựa chọn trường CĐ – ĐH của HS
Kênh thông tin được HS lựa chọn có tác động nhiều nhất là kênh thông tin từ
gia đình, truyền thông đại chúng, đặc điểm của trường CĐ – ĐH. Kênh thông tin từ
phía thầy cô, hướng nghiệp của nhà trường và các chuyên gia tư vấn là kênh thông tin
là những kênh thông tin chưa được HS đánh giá cao.
2. Khuyến nghị:
Trên cơ sở những phân tích ở trên về : Nhận thức, nhu cầu và các yếu tố tác
động đến việc lựa chọn trường CĐ – ĐH của HS THPT. Chúng tôi xin đưa ra một
số khuyến nghị sau.
Đối với nhà trƣờng:
Nhà trường kết hợp với các cơ quan chức năng, gia đình và toàn xã hội để
định hướng nghề nghiệp cho học sinh.
Trước hết cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức cho
học sinh và phụ huynh về hướng nghiệp khắc phục tâm lý học để làm thầy không
thích làm thợ. Cần cho các em thấy rằng có nhiều cách lập nghiệp không chỉ có con
đường vào đại học là duy nhất, học nghề và đi làm thợ không phải là ngõ cụt.
Nhà trường cũng nên tổ chức mời cán bộ tư vấn ở các trường Đại học, Cao đẳng,
TCCN trường dạy nghề về để trao đổi, giới thiệu với các em về các ngành nghề đào
tạo, môn thi vào, khả năng xin việc và phương pháp học tập để các em khỏi bỡ ngỡ
khi đỗ vào trường.
Nhà trường cần biết kết hợp với hội phụ huynh học sinh, Đoàn thanh niên để định
hướng nghề nghiệp cho các em.
Đối với gia đình
Cha mẹ là những người luôn luôn gần gũi thân thiết với con em mình. Bởi vậy,
những lời khuyên từ cha mẹ sẽ có ích rất lớn cho con. Để phát huy hiệu quả tác động
trong định hướng lựa chọn ngành nghề, chọn trường ĐH cho con, mỗi phụ huynh phải
không ngừng tìm hiểu thông tin về sự phát triển ngành nghề trong tương lai, sự thay đổi
88
nguồn nhân lực trong xã hội đồng thời phải thay đổi tư tưởng trọng bằng cấp, hãy
khuyên con đi học nghề nếu con không có khả năng tiếp tục học ở bậc cao hơn.
Đối với bản thân học sinh
Bản thân mỗi học sinh cần có sự cân nhắc kỹ càng và quyết đoán khi lựa chọn
ngành nghề, chọn trường phù hợp và đúng đắn theo sở thích, năng lực học tập và
nguyện vọng của mình. Cần nâng cao nhận thức của mình về tầm quan trọng của
hoạt động hướng nghiệp thông qua các phương tiện truyền thông, qua các hoạt động
của đoàn thể để mỗi HS có suy nghĩ và cân nhắc kĩ càng trước khi lựa chọn ngành
nghề, chọn trường CĐ – ĐH để dự thi.
Đối với truyền thông
Cần phải thay đổi nhận thức của xã hội về trọng dụng bằng cấp như hiện nay.
Thay đổi nhận thức của các em HS, cha mẹ các em tránh tình trạng HS biết rõ năng
lực, kiến thức của mình còn hạn chế xong vẫn mong muốn thi CĐ – ĐH. Dẫn đến
tình trạng thừa thầy thiếu thợ, gây lãng phí về thời gian, công sức và tiền của của
gia đình và xã hội.
Đối với các trƣờng CĐ - ĐH
Cần xây dựng các website để cung cấp thông tin chi tiết về đặc điểm của các
trường CĐ - ĐH, phát triển các tập san giới thiệu về ngành nghề mà trường đào tạo,
giới thiệu về tỷ lệ chọi, điểm chuẩn hay các tỷ lệ khác về đầu ra như tỷ lệ tốt nghiệp,
tỷ lệ có việc làm của sinh viên qua đó HS THPT có sự lựa chọn tốt nhất trước khi
đăng kí dự thi vào trường CĐ - ĐH.
89
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Đình Chiến (2008), “Xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh lớp 12
trường THPT dưới ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường”, (khảo sát tại tỉnh Phú
Thọ), Luận văn thạc sĩ Giáo dục học, Trường Đại học Sư Phạm, Đại học Thái
Nguyên )
2. Phạm Huy Cường (2009), Các yếu tố tác động đến định hướng nghề nghiệp của
sinh viên năm cuối các ngành khoa học xã hội (Nghiên cứu trường hợp trường
Đại học khoa học xã hội và nhân văn), Luận văn thạc sĩ Xã hội học, Trường Đại
học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội
3. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (1997), Xã hội học đại cương, Nhà xuất bản Đại
học quốc gia Hà Nội, Hà Nội
4. Phạm Tất Dong (chủ biên) - Đặng Danh Ánh - Nguyễn Thế Trường - Trần Mai
Thu - Nguyễn Dục Quang, Hoạt động giáo dục hướng nghiệp lớp 10, Nhà xuất
bản Giáo dục, 2004
5. Nguyễn Thị Vân Hạnh : Tạp chí khoa học giáo dục số 16, tháng 12/2007 : Nhu
cầu học nghề của học sinh phổ thông.
6. Nguyễn Văn Hộ (Chủ biên), Nguyễn Thị Thanh Huyền (2006), Hoạt động hướng
nghiệp và giảng dạy kỹ thuật trong trường trung học phổ thông, Nhà xuất bản
giáo dục, Hà Nội
7. Lê Ngọc Hùng, Lịch sử và lí thuyết xã hội học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia,
Hà Nội
8. Nguyễn Hùng (chủ biên) (2008), Sổ tay tư vấn hướng nghiệp và chọn nghề, Nhà
xuất bản giáo dục, Hà Nội
9 .Mai Quang Huy (2006), Hướng nghiệp và cơ cấu hệ thống giáo dục nghề nghiệp,
Tạp chí Dạy và học ngày nay, số 2, tr 46 – 47
10. Phạm Văn Quyết, Nguyễn Quý Thanh (2001), Phương pháp nghiên cứu xã hội
học, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội
11. Trần Văn Quý, Cao Thi Hào (2009),“Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định
chọn trường Đại học của học sinh phổ thông trung học”. Tạp chí phát triển
90
KH&NC tập 12, số 15- 2009, Trường Đại học Bách Khoa, Đại học Quốc Gia
TPHCM
12. Nguyễn Minh Ngọc (2008), Nhận thức nghề và lựa chọn nghề của học sinh
THPT Dân tộc nội trú tỉnh Bac Giang, Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học, Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội
13. Nguyễn Thanh Ngọc (2012), Yêu cầu của nhà tuyển dụng về những kỹ năng cơ
bản đối với sinh viên tốt nghiệp Đại học, Luận văn thạc sĩ Xã hội học, Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội
14. Phan Thị Tố Oanh (1996) “Nghiên cứu nhận thức nghề và dự định chọn nghề
của học sinh phổ thông trung học”, Luận án Phó Tiến Sĩ khoa học sư phạm –
tâm lý học
15. Lê Khắc Thìn (1998) “Tìm hiểu thực trạng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh lóp
12 và công tác hướng nghiệp ở trường THPT ”, Luận văn thạc sĩ tâm lý học
16. Nguyễn Phương Toàn (2011) “Khảo sát các yếu tố tác động đến việc chọn
trường của học sinh lớp 12 THPT trên địa bàn tỉnh Tiền Giang ” Luận văn thạc
sĩ - đo lường và đánh giá giáo dục, Viện đảm bảo chất lượng giáo dục, Đại học
Quốc Gia Hà Nội
17. Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010, ban hành kèm Quyết định
201/2001/QĐ-TTg ngày 28/12/ 2001 của Thủ tướng nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam
18. Nghị định 126/CP ngày 19/03/1981 của Chính phủ về công tác hướng nghiệp
trong trường phổ thông và việc sử dụng hợp lý học các cấp THCS và THPT tốt
nghiệp ra trường
19.Trung tâm Từ điển Tiếng Việt (Văn Tân chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học
xã hội -1991)
20. Trung tâm Từ điển, “Từ điển tiếng Việt”, Nhà xuất bản Đà Nẵng - 1998
21.Trung tâm Từ điển Tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản Văn hoá thông
tin - 1998)
22. Borchert M(2002), Career choice factorsof highschool students, University of
Wisconsin-Stout,USA.
91
23. Bromley H. Kniveton (2004), Influences and motivations on which students
base their choice of career, Loughborough University, UK.
24. ChapmanD.W(1981),“ A model of student college choice”, The Journal of
Higher Education, 52(5),490-505.
25. Joseph Sia Kee Ming (2010), “Institutional Factors Influencing Students’ College
Choice Decision in Malaysia: A Conceptual Framework”, International Journal of
Business and Social Science, Vol. 1 No. 3; December 2010
26. Mei Tang, Wei Pan, Mark D. Newmeyer (2008), Factors influencing High
School student’s career aspriations, University of Cincinnati, USA
22. Russayani ISMAIL (2010), Factors affecting choice for eduation
destination: A case study of international students at Universiti Ltara Malaysia,
Department of Economics, College of Arts and Sciences UNIVERSITI UTARA
MALAYSIA.
27.RuthE.Kallio(1995), Factors influencing the college choice decisions of
graduate students. Researchin HigherEducation,Vol.36,No.1.
28.http://antv.gov.vn/xahoi/hang-van-hs-khong-hoc-gi-sau-tot-nghiep/3218.html
29.http://laodong.com.vn/tuyen-sinh/tuyen-sinh-dhcd-2014-cao-dang-lien-thong-
trung-cap-khon-don-188758.bld
30.http://www.tienphong.vn/giao-duc/72000-cu-nhan-thac-si-that-nghiep-
688752.tpo
31.http://sgdbinhduong.edu.vn/Tintuc/Tonghop/tabid/261/Mode746/3/catId/14/New
sId/2718/Default.aspx
PHỤ LỤC
PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN
Xuất phát từ mong muốn tìm hiểu Nhận thức, nhu cầu và các yếu tố tác động
đến lựa chọn trường Cao đẳng, Đại học của học sinh THPT hiện nay. Chúng tối
tiến hành nghiên cứu đề tài “ Nhận thức, nhu cầu và các yếu tố tác động đến lựa
chọn trường Cao đẳng, Đại học của học sinh THPT hiện nay.
Để thu thập những thông tin cần thiết, rất mong các bạn giúp đỡ trả lời một số
câu hỏi trong mẫu phiếu.
Các thông tin trả lời chỉ được sử dụng vào mục đích nghiên cứu và đảm bảo
tính khuyết danh.
Hãy tích dấu (X) vào ô bạn chọn.
Xin trân trọng cảm ơn
I/ Nhận thức, Nhu cầu trong việc lựa chọn trƣờng thi CĐ – ĐH của học sinh
THPT
Câu 1. Bạn thấy việc xác định trƣờng thi CĐ – ĐH có cần thiết không?
□ Rất cần thiết □ Không biết
□ Không cần thiết
Câu 2. Bạn bắt đầu nghĩ đến thi ĐH – CĐ từ khi nào?
□ Trước khi vào lớp 10 □ Lớp 12
□ Lớp 10 □ Chưa có ý định gì
□ Lớp 11
Câu 3: Theo bạn Thi CĐ – ĐH có dễ đỗ không?(có khó ko?)
□ Dễ □ Tương đối khó
□ Tương đối dễ □ Không biết
□ khó
Câu 4. Bạn tự đánh giá khả năng thi đỗ CĐ – ĐH sắp tới của bạn?
□Chắc chắn đỗ □ Không biết
□Có thể đỗ □ Không trả lời
□Không chắc chắn
Câu 5. Bạn bắt đầu ôn luyện thi CĐ – ĐH từ khi nào?
□ Trước khi vào lớp 10 □ Đến lớp 12
□ Bắt đầu vào lớp 11 □ Không nghĩ tới
□ Đến lớp 11
Câu 6. Sau khi tốt nghiệp THPT bạn sự định sẽ làm gì?
□ Thi CĐ – ĐH nếu không đỗ năm sau
thi lại
□ Đi làm kinh doanh buôn bán
□ Thi CĐ – ĐH nếu không đỗ xem xét
chuyển xuống học hệ TCCN hoặc dạy
nghề
□ Dự định khác
□ Đi làm công nhân hoặc những ngành
nghề lao động chân tay phổ thông
Câu 7. Năm nay bạn lựa chọn khối nào để thi CĐ – ĐH (Có thể chọn nhiều
phƣơng án)
□ Khối A □ Khối D
□ Khối A1 □ Khối M
□ Khối B □ Khối khác
□ Khối C
Câu 8. Bạn dự định chọn nhóm trƣờng nào dƣới đây để dự thi vào trƣờng ĐH
– CĐ sắp tới? (có thể chọn nhiều phƣơng án)
□ Nhóm trường CĐ - ĐH Điện tử, CNTT □ Nhóm trường CĐ - ĐHKHXH
□ Nhóm trường CĐ - ĐH Kinh tế, Tài
chính, Ngân hàng
□ Nhóm trường CĐ - ĐH Luật, Báo chí,
Truyền hình
□ Nhóm trường CĐ - ĐH Y, Dược □ Nhóm trường CĐ - ĐH Ngoại ngữ
□ Nhóm trường CĐ - ĐH Sư phạm □ Nhóm trường CĐ - ĐH Quân đội,
Công an
□ Nhóm trường CĐ - ĐH Xây dựng,
Kiến trúc, Giao thông
□ Nhóm trường CĐ – ĐH khác
□ Nhóm trường CĐ - ĐH Nông, Lâm,
Thuỷ sản
Câu 9. Bạn tìm hiểu thông tin thi CĐ – ĐH từ đâu? Sắp xếp theo thứ tự ƣu tiên từ
1 đến 8 (Trong đó 1 là mức ƣu tiên nhất)
□ Sách báo □ Anh chị
□ Đài truyền hình, radio □ Bạn bè
□ Internet □ Thầy cô
□ Bố mẹ □ Giờ hướng nghiệp của nhà trường
Câu 10. Bạn đã quyết định chọn đƣợc trƣờng thi CĐ – ĐH sắp tới chƣa?
□ Đã quyết định chắc chắn □ Chưa có ý định gì
□ Đã quyết định nhưng chưa chắc chắn □ Chưa nghĩ tới
□ Đang phân vân
Câu 11. Bạn có mong muốn gì khi lựa chọn trƣờng CĐ – ĐH đó để dự thi? (có
thể chọn nhiều đáp án)
□ Có cơ hội xin việc làm ngay saukhi
học xong
□ Học phí thấp
□ Cơ hội trúng tuyển cao □ Có thu nhập cao khi ra trường
□ Phù hợp với sở thích □ Có khả năng thăng tiến cao
□ Phù hợp với năng lực học tập □ Được học lên cao sau khi ra trường
Câu 12. Bạn cần tƣ vấn gì khi chọn trƣờng CĐ – ĐH để dự thi?
□ Điểm thi tuyển của các năm trước □ Cơ hội học cao hơn
□ Tỷ lệ chọi của các năm trước □ Uy tín của cơ sở đào tạo
□ Khả năng có việc làm khi ra trường
II. Các yếu tố tác động đến lựa chọn trƣờng thi CĐ – ĐH của học sinh THPT
Câu 13. Bạn hãy đánh giá mức độ quan trọng ở lý do lựa chọn trƣờng CĐ – ĐH
để thi? (1) Rất quan trọng, (2) Quan trọng, (3) Bình thƣờng (4) ít quan trọng,
(5) Không quan trọng.
Vấn đề quan tâm
Mức độ
1 2 3 4 5
Có cơ hội xin được việc làm ngay sau khi học xong
Cơ hội trúng tuyển cao
Phù hợp với sở thích
Phù hợp với năng lực học tập
Học phí thấp
Có thu nhập cao khi ra trường
Có khả năng thăng tiến cao
Được học lên cao sau khi ra trường
Câu 14. Bạn hãy đánh giá mức độ tác động của các yếu tố đến lựa chọn trƣờng
CĐ – ĐH cuả bạn? (1) tác động rất nhiều, (2) tác động nhiều, (3) tác động bình
thƣờng, (4) tác động ít, (5) không có tác động.
STT Kênh thông tin Mức độ
1 2 3 4 5
1 Bố mẹ
2 Anh chị
3 Bạn bè
4 Thầy cô
5
Hướng nghiệp của nhà
trường
6 Chuyên gia tư vấn
7 PTTTĐC
8
Đặc điểm của trường
CĐ - ĐH
Câu 15. Gia đình giúp gì cho bạn trong việc lựa chọn trƣờng CĐ – ĐH?
□ Bố mẹ hoàn toàn chọn trường thi cho
bạn
□ Bố mẹ tư vấn chọn trường thi cho bạn
□ Bạn và các thành viên khác trong gia
đình cùng bàn bạc để chọn trường thi
□ Khác
□ Bố mẹ để bạn tự quyết định chọn
trường thi
Câu 16. Bạn bè giúp gì cho bạn trong việc lựa chọn trƣờng CĐ – ĐH?
□ Chia sẻ tài liệu về tuyển sinh CĐ - ĐH □ Cùng nhau trao đổi và chọn trường thi
CĐ - ĐH
□ Cung cấp thông tin về điểm thi tuyển của
năm trước
□ khác
□ Cung cấp thông tin về nghề nghiệp
tương lai của bạn
Câu 17. Nhà trƣờng có những hoạt động hƣớng nghiệp gì giúp bạn chọn trƣờng
CĐ - ĐH?
□ Tổ chức học nghề □ Giáo viên chia sẻ kinh nghiệm
□ Mời chuyên gia đến trao đổi □ Khác
□ Lồng ghép vào các môn học
Câu 19. Bạn đánh giá nhƣ thế nào hoạt động hƣớng nghiệp trong nhà trƣờng ?
□ Rất quan trọng □ Ít quan trọng
□ Quan trọng □ Không quan trọng
□ Bình thường
Câu 19. Truyền thông đại chúng giúp gì cho bạn trong việc chọn trƣờng
CĐ – ĐH?
□ Điểm thi tuyển của các năm trước
□ Cung cấp thông tin cơ hội việc làm khi ra trường
□ Cung cấp thông tin về uy tín của cơ sở đào tạo
□ Không giúp gì
□ khác
Câu 20. Khi chọn trường thi CĐ – ĐH bạn quan tâm đến vấn đề gì? (đánh giá mức độ)
(1) Rất đồng ý, (2) Đồng ý, (3) phân vân, (4) không đồng ý, (5) Rất không đồng ý
STT Vấn đề quan tâm
Mức độ
1 2 3 4 5
1
Do trường có nhiều ngành đào tạo đa
dạng hấp dẫn
2 Do trường có thương hiệu, danh tiếng
3 Do trường có hỗ trợ ký túc xá
4 Do trường có tỷ lệ chọi thấp
5 Do trường gần nhà
6 Do trường có mức học phí thấp
Thông tin về đối tƣợng khảo sát
Câu 1. Giới tính
□ Nam □ Nữ
Câu 2. Kết quả xếp loại học lực năm học 2012 – 2013 của bạn?
□ Giỏi □ Trung bình
□ Khá □ Yếu
Các yếu tố về đặc điểm gia đình
Câu 3. Hoàn cảnh kinh tế gia đình bạn hiện nay nhƣ thế nào?
□ Giàu có □ Cận nghèo
□ Khá giả □ Nghèo
□ Trung bình
Câu 4. Bạn hãy cho biết nghề nghiệp của bố mẹ bạn?
□ Viên chức nhà nước □ Kinh doanh
□ Nông nghiệp □ Nghề khác
□ Lao động tự do
HƢỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU
1. Bạn thấy việc xác định trường thi CĐ – ĐH có cần thiết không? tại sao?
2. Bạn xác định trường thi CĐ – ĐH từ khi nào?
3. Theo bạn thi CĐ – ĐH dễ hay khó? tại sao lại dễ? tại sao lại khó? Bạn
đánh giá khả năng thi đỗ CĐ – ĐH của bạn trong kỳ thi CĐ – ĐH sắp tới?
4. Bạn bắt đầu ôn luyện thi CĐ – ĐH từ khi nào?
5. Sau khi tốt nghiệp THPT bạn dự định làm gì?
6. Bạn chọn khối nào để thi CĐ - ĐH?
7. Bạn dự định chọn nhóm trường nào để thi CĐ - ĐH
8. Hiện nay có rất nhiều nguồn thông tin để tìm hiểu về các trường CĐ -
ĐHVậy bạn thường tìm kiếm nguồn thông tin ở đâu? Theo bạn, nguồn thông tin nào
quan trọng và tin cậy nhất?
9. Bạn đã quyết định chọn được trường CĐ – ĐH để dự thi chưa? bạn chọn
trường gì?
10. Lý do bạn chọn trường CĐ – ĐH để dự thi? Lý do gì là quan trọng nhất?
11. Bạn cần tư vấn những gì khi chọn trường thi CĐ - ĐH?
12. Khi chọn trường thi CĐ – ĐH bạn quan tâm tới vấn đề gì? điều gì bạn
quan tâm nhất
13. Tìm hiểu về các yếu tố tác động
- Cá nhân HS
- Gia đình
- Bạn bè
- Giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường
- PTTTĐC
- Yếu tố đặc điểm trường CĐ - ĐH
14. Đánh giá của bạn về mức độ quan trọng của các kênh tác động? lý do?
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU TIÊU BIỂU 1
Ngƣời hỏi : Dương Ngọc Mai
Ngƣời trả lời: NTH học sinh lớp 12, học lực giỏi trường THPT Việt Yên 1
Hỏi: Chào bạn, tôi là học viên cao học khóa 2010 – 2013 xã hội học trường Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn - ĐH Quốc Gia Hà Nội. Chúng tôi đang thực hiện đề
tài “ Nhận thức, nhu cầu và các yếu tố tác động đến lựa chọn trường Cao đẳng, Đại
học của học sinh THPT hiện nay”. Bạn có thể vui lòng trả lời những câu hỏi sau của
tôi được không?
Trả lời: Vâng, em đồng ý ạ
Hỏi: Bạn thấy việc xác định trường thi CĐ – ĐH có cần thiết không? Tại sao?
Trả lời: Em thấy việc xác định trường thi CĐ – ĐH là rất cần thiết ạ, vì khi đã xác
định được trường nào mình sẽ thi thì em sẽ tìm hiểu kỹ về trường đó, và thời gian
tới khi mà phải làm hồ sơ thi đại học em sẽ không suy nghĩ quá nhiều về việc chọn
trường này, trường kia mất thời gian lắm chị ạ. Thời gian đó em tập trung để ôn thi,
vì đó là thời gian nước rút với chúng em rồi.
Hỏi: Bạn bắt xác định việc lựa chọn trường thi CĐ – ĐH từ khi nào?
Trả lời: : Em xác định từ khi em học lớp 11 chị ạ.
Hỏi: Theo bạn thi CĐ – ĐH dễ hay khó?
Trả lời: Em nghĩ là rất khó chị ạ.
Hỏi: Tại sao lại khó?
Trả lời: Vì kiến thức dàn trải chị ạ, từ lớp 10, 11, 12 kiến thức phải chắc mới đỗ
được.
Hỏi: Bạn đánh giá khả năng thi đỗ ĐH của bạn trong kỳ thi sắp tới?
Trả lời: Em nghĩ mình có thể đỗ chị ạ.
Hỏi: Bạn có đi ôn thi đại học không?
Trả lời: Em có đi ôn chị ạ
Hỏi: Bạn bắt đầu đi ôn thi đại học từ khi nào?
Trả lời: Em đi ôn thi bắt đầu vào lớp 11
Hỏi: Sau khi tốt nghiệp THPT bạn dự định làm gì?
Trả lời: Em sẽ thi lên đại học
Hỏi: Bạn dự định thi khối gì?
Trả lời: Khối D
Hỏi: Bạn đã chọn được trường thi chưa?
Trả lời: Em đã chọn được rồi
Hỏi: Bạn dự định chọn thi trường nào?
Trả lời: Em thi Ngân hàng chị ạ
Hỏi: Tại sao bạn lại chọn thi vào trường Ngân hàng?
Trả lời: Em thi Học viện Ngân hàng ngành tài chính, chị em nói học ngành này ra
làm việc ở ngân hàng nước ngoài lương cao lắm chị ạ, môi trường làm việc rất tốt.
Hỏi: Hiện nay có rất nhiều nguồn thông tin để tìm hiểu về các trường CĐ – ĐH, bạn
thường tìm kiếm nguồn thông tin từ đâu?
Trả lời: Em tìm kiếm nguồn thông tin trên mạng internet rất nhanh chóng và thuận
tiện, chỉ cần vào mạng và tra cứu là em đã tìm ra được rất nhiều thông tin. Em lên
mạng để tìm hiểu về trường đại học năm nay em dự thi.
Hỏi: Bạn cần được tư vấn những gì khi chọn trường đại học để dự thi?
Trả lời: Em cần được tư vấn về việc khi em học xong đại học thì khả năng có việc
làm sau khi ra trường là như thế nào.
Hỏi: Khi chọn trường thi đại học bạn quan tâm nhất tới vấn đề gì?
Trả lời: Em quan tâm nhất tới việc trường đại học đó có phù hợp với năng lực của
em hay không.
Hỏi: Bạn lựa chọn trường thi đại học là do bạn tự quyết định hay ai chọn cho bạn?
Trả lời: Trong gia đình em, bố mẹ là người em rất tin tưởng, họ là người cho em
những nguồn thông tin rất đáng tin cậy để em có thể đưa ra được quyết định cuối
cùng của mình trong việc chọn trường thi năm nay.
Hỏi: Bố mẹ bạn làm nghề gì?
Trả lời: Bố mẹ em là giáo viên
Hỏi: Theo bạn nguồn thông tin từ gia đình trong việc chọn trường thi đại học có tin
cậy không?
Trả lời: Rất tin cậy chị ạ, vì gia đình là người mình đáng tin cậy nhất rồi.
Hỏi: Bạn bè em có trao đổi với nhau về việc chọn trường thi đại học năm nay
không?
Trả lời: Có chị ạ
Hỏi: Các em thường trao đổi với nhau về vấn đề gì?
Trả lời: Chúng em thường hỏi nhau năm nay thi trường gì, trường đấy năm ngoái
lấy bao nhiêu điểm
Hỏi: Ở trường em có hoạt động hướng nghiệp không? Là những hoạt động gì?
Trả lời: Có chị ạ, chúng em được học nghề tin học, qua một số tiết học các thầy cô
cũng lồng ghép các hoạt động vào giảng dạy cho chúng em. Hàng năm cũng có các
trường từ Hà Nội về trường em tư vấn tuyển sinh chị ạ. Tuy nhiên, họ chỉ giới thiệu
về trường của họ thôi, phát hồ sơ và lấy thông tin của học sinh chứ không tư vấn cụ
thể về ngành nghề cho chúng em.
Hỏi: Em thấy các hoạt động hướng nghiệp của nhà trường có có vai trò như thế nào
đến lựa chọn nghề nghiệp cho các em?
Trả lời: Theo em hoạt động hướng nghiệp trong nhà trường sẽ có vai trò quyết định
đến lựa chọn ngành nghề, chọn trường thi cho học sinh bởi thông qua hoạt động tư
vấn nghề học sinh sẽ có thông tin về nghề. Với điều kiện sức khỏe, học lực, sở thích
như vậy sẽ phù hợp với ngành nghề nào.
Hỏi: Các hoạt động hướng nghiệp của nhà trường có đáp ứng đầy đủ những thông
tin cần thiết về lựa chọn nghề nghiệp cho các em không?
Trả lời: Nhà trường cũng chưa đáp ứng đầy đủ kỳ vọng của học sinh đâu chị nên
ảnh hưởng của nó đối với chọn nghề còn thấp. Vừa rồi, cũng có một số trường ĐH -
CĐ họ về trường tư vấn tuyển sinh, nhưng họ chỉ giới thiệu về ngành học, chỉ tiêu
tuyển sinh chứ không tư vấn cụ thể học ngành nghề nào thì phù hợp với chúng em,
ra trường làm gì đâu ạ
Hỏi: Em đánh giá thế nào về các hoạt động hướng nghiệp ở trường?
Trả lời: Theo em hoạt động hướng nghiệp trong nhà trường sẽ có vai trò quyết định
đến lựa chọn trường ĐH của HS bởi thông qua hoạt động tư vấn hướng nghiệp HS
sẽ có thông tin về trường ĐH, quan trọng hơn với điều kiện sức khoẻ, học lực, tính
cách như vậy sẽ phù hợp với ngành nghề nà, trường nào. Tuy nhiên, do nhà trường
chưa đáp ứng đầy đủ kì vọng của HS nên ảnh hưởng của nó đối với chọn ngành nghề,
chọn trường của HS còn thấp.
Hỏi: Em thấy truyền thông đại chúng hiện nay giúp gì cho các em khi chọn trường
thi?
Trả lời: Em tìm hiểu các thông tin qua mạng internet, em biết được nhiều thông tin
lắm chị ạ.
Hỏi: Đó là những thông tin gì?
Trả lời: Em tra điểm chuẩn của những năm trước, tìm hiểu xem trường đại học đó
có những ngành đào tạo gì.
Hỏi: Trường CĐ – ĐH em lựa chọn thi phải có những yếu tố gì?
Trả lời: Theo em nghĩ là danh tiếng của trường cao đẳng, đại học đó là rất quan
trọng ạ. Bởi vì nếu được học ở một trường ĐH danh tiếng thì sau khi học xong ra
trường sẽ dễ xin việc, cơ hội tìm việc cũng rất nhiều chị ạ.
Hỏi: Em thấy nguồn thông tin nào có tác động lớn nhất đến việc chọn trường thi của
em?
Trả lời: Là bố mẹ chị ạ.
Hỏi: Nhận xét chung của em về xu hướng lựa chọn trường thi đại học của học sinh
THPT hiện nay?
Trả lời: Bạn bè em thường nói rằng, các bạn sẽ chọn những trường học xong mà
kiếm được nhiều tiền, dễ xin việc làm, được làm việc trong môi trường tốt. Theo em
đó là xu hướng lựa chọn trường hiện nay của học sinh phổ thông hiện nay.
Hỏi: Xin cám ơn em đã tham gia vào cuộc phỏng vấn này.
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU TIÊU BIỂU 2
Ngƣời hỏi : Dương Ngọc Mai
Ngƣời trả lời: TTTH học sinh lớp 12, học lực khá trường THPT Việt Yên 1
Hỏi: Chào bạn, tôi là học viên cao học khóa 2010 – 2013 xã hội học trường Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn – ĐH Quốc Gia Hà Nội. Chúng tôi đang thực hiện đề
tài “ Nhận thức, nhu cầu và các yếu tố tác động đến lựa chọn trường Cao đẳng, Đại
học của học sinh THPT hiện nay”. Bạn có thể vui lòng trả lời những câu hỏi sau của
tôi được không?
Trả lời: Vâng, em đồng ý.
Hỏi: Bạn thấy việc xác định trường thi CĐ – ĐH có cần thiết không? Tại sao?
Trả lời: Em thấy việc xác định trường thi CĐ – ĐH là rất cần thiết ạ, vì khi đã xác
định được trường nào mình sẽ thi thì em sẽ tìm hiểu kỹ về trường đó, và thời gian
tới khi mà phải làm hồ sơ thi đại học em sẽ không suy nghĩ quá nhiều về việc chọn
trường này, trường kia mất thời gian lắm chị ạ. Thời gian đó em tập trung để ôn thi,
vì đó là thời gian nước rút với chúng em rồi.
Hỏi: Bạn bắt nghĩ đến việc lựa chọn trường thi CĐ – ĐH từ khi nào?
Trả lời: : Em bắt đầu nghĩ đến vấn đề chọn trường nào để thi ĐH năm nay bắt đầu
vào học lớp 12. Ngày bé cũng có nghĩ đến trường này, trường kia thích làm nghề
này nghề nọ nhưng hồi đó chỉ là suy nghĩ trẻ con thích là thích thôi ạ. Bây giờ thì
không vậy được phải suy nghĩ kỹ rồi mới chọn.
Hỏi: Theo bạn thi CĐ – ĐH dễ hay khó?
Trả lời: Em nghĩ cũng khó chị ạ.
Hỏi: Tại sao lại khó?
Trả lời: Vì chỉ tiêu các trường ĐH có giới hạn thôi còn hồ sơ nộp vào thi thì rất
nhiều cho nên tỷ lệ đỗ cũng rất khó. Hơn nữa lúc vào phòng thi tâm lý nữa có thể
mình học khá nhưng vào đó do có một vài vấn đề gì xung quanh gây áp lực làm bài
sẽ không tốt.
Hỏi: Bạn đánh giá khả năng thi đỗ ĐH của bạn trong kỳ thi sắp tới?
Trả lời: Em nghĩ mình tỷ lệ thi đỗ ĐH của em năm nay là có thể đỗ được, em vẫn
phải cố gắng nhiều chị ạ
Hỏi: Bạn có đi ôn thi đại học không?
Trả lời: Em có đi ôn chị ạ
Hỏi: Bạn bắt đầu đi ôn thi đại học từ khi nào?
Trả lời: Em đi ôn thi từ khi vào học lớp 11.
Hỏi: Sau khi tốt nghiệp THPT bạn dự định làm gì?
Trả lời: Em sẽ thi đại học
Hỏi: Bạn dự định thi khối gì?
Trả lời:Em thi 2 khối A và Khối D
Hỏi: Bạn đã chọn được trường thi chưa?
Trả lời: Em đã chọn được rồi chị ạ.
Hỏi: Bạn dự định chọn thi trường nào? Tại sao?
Trả lời: Học kinh tế là sở thích của em, nó phổ biến, dễ kiếm tiền phù hợp với con
gái. Em nghe nói học kinh tế bây giờ ra nếu không làm ở các cơ quan thì có thể mở
công ty tự kinh doanh kiếm tiền cũng dễ mà chóng giàu nữa. Công việc này cũng dễ
xin việc nên em lựa chọn khối A. Em thi khối A đợt 1 và đợt 2 em thi khối D. Lỡ
trượt trường này e, còn trường khác nữa. Chị gái em học khối C, thi vào trường ĐH
Công Đoàn ra trường xin việc phải chạy vạy nhờ vả khắp nơi mà công việc không
đúng chuyên ngành học, thu nhấp lại thấp nên rút kinh nghiệm em chuyển sang khối
A để thi được nhiều trường hơn.Anh trai em học sư phạm 2 ra trường không xin
được việc ở quê nên phải đi gia sư ở thành phố đã hai năm nay rồi. Nên em không
chọn ngành sư phạm thi nữa
Hỏi: Hiện nay có rất nhiều nguồn thông tin để tìm hiểu về các trường CĐ – ĐH, bạn
thường tìm kiếm nguồn thông tin từ đâu?
Trả lời: Em cũng thường vào mạng để tìm hiểu thông tin về các trường tuyển sinh
năm ngoái để rút kinh nghiệm cho em trong năm nay, với lại năm nay em thi ĐH
nên gia đình em mọi người trong nhà cũng hay trao đổi và bàn bạc về việc nghề
nghiệp em sẽ theo học sau này ạ
Hỏi: Bạn cần được tư vấn những gì khi chọn trường đại học để dự thi?
Trả lời: Em cần được tư vấn về nghề nghiệp, nên học ngành gì ra trường để dễ xin
việc, chứ như chị gái em học xong ra trường công việc khó khăn quá.
Hỏi: Khi chọn trường thi đại học bạn quan tâm nhất tới vấn đề gì?
Trả lời: Em quan tâm nhất tới việc có được việc sau khi học xong hay không, chứ học
xong rồi không xin được việc như mấy anh chị ở xóm em thì cũng buồn lắm chị ạ.
Hỏi: Bạn lựa chọn trường thi đại học là do bạn tự quyết định hay ai chọn cho bạn?
Trả lời: Gia đình em cùng bàn bạc và để cho em tự quyết định ạ
Hỏi: bố mẹ bạn làm nghề gì?
Trả lời: Bố mẹ em làm cán bộ công chức ở huyện
Hỏi: Theo bạn nguồn thông tin từ gia đình trong việc chọn trường thi đại học có tin
cậy không?
Trả lời: Tin cậy chứ chị, vì gia đình là người mình tin tưởng nhất, bố mẹ em cũng
hay đọc báo và tìm hiểu thông tin lắm, các anh chị em cũng thường xuyên hỏi han
em và cho em lời khuyên học thi bổ ích lắm.
Hỏi: Bạn bè em có trao đổi với nhau về việc chọn trường thi đại học năm nay
không?
Trả lời: Có chị ạ
Hỏi: Các em thường trao đổi với nhau về vấn đề gì?
Trả lời: Bạn bè chúng em thường xuyên trao đổi với nhau về kiến thức, chia sẻ tài
liệu học tập cùng nhau, cùng học nhóm trên lớp và đi học thêm cùng nhau. Chúng
em trao đổi rất nhiều về việc thi ĐH năm nay ngành gì, trường gì để đỗ ngay trong
năm thi đầu tiên này. Nhóm em chơi thân có 3 đứa, tụi em cùng lớn lên và cùng học
với nhau từ hồi cấp 2, lên cấp 3 lại học chung 1 lớp. Bọn em học cùng một khối và
rủ nhau thi chung vào 1 trường ĐH năm nay.
Hỏi: Ở trường em có hoạt động hướng nghiệp không? Là những hoạt động gì?
Trả lời: Cũng có đấy, chúng em được học nghề ở trường này, đầu năm vừa qua thì
có mấy trường ở Hà Nội về tư vấn cho chúng em về nghề nghiệp nữa.
Hỏi: Em thấy các hoạt động hướng nghiệp của nhà trường có có vai trò như thế nào
đến lựa chọn nghề nghiệp cho các em? Qua các hoạt động hướng nghiệp đó các em
có được những thông tin gì về nghề nghiệp?
Trả lời: Em nghĩ là Hoạt động này quyết định nhiều đến thi đỗ đại học hay không
đấy chị, vì nếu chúng em được tư vấn xem nên thi trường gì cho phù hợp thì tỷ lệ đỗ
của học sinh sẽ rất cao.
Hỏi: Các hoạt động hướng nghiệp của nhà trường có đáp ứng đầy đủ những thông
tin cần thiết về lựa chọn nghề nghiệp cho các em không?
Trả lời: chưa đâu chị, hầu hết học sinh vẫn phải tự đi tìm hiểu thêm thôi, chứ nhà
trường không đáp ứng hết được những nhu cầu, thắc mắc của học sinh đâu ạ. Thầy
cô ở trường chỉ dạy kiến thức là chủ yếu thôi. Nếu nhà trường mời được các chuyên
gia tư vấn thường xuyên của các trường ĐH về trao đổi về các ngành đào tạo, công
việc sau khi học xong chúng em làm gì, ở đâu, chúng em sẽ hiểu biết hơn để chọn
được trường thi phù hợp với chúng em
Hỏi: Nguồn thông tin hướng nghiệp từ nhà trường em đánh giá thế nào? Có quan
trọng không?
Trả lời: Em thấy cũng quan trọng ạ.
Hỏi: Em thấy truyền thông đại chúng hiện nay giúp gì cho các em khi chọn trường
thi?
Trả lời: Em biết được nhiều thông tin từ truyền hình và internet giúp em biết nhiều
hơn thông tin ạ.
Hỏi: Đó là những thông tin gì?
Trả lời: Em xem trường đó lấy bao nhiêu điểm, mỗi ngành chỉ tiêu tuyển sinh là
bao nhiêu để em lựa chọn làm hồ sơ thi ĐH năm nay.
Hỏi: Trường CĐ – ĐH em lựa chọn thi phải có những yếu tố gì?
Trả lời: Đó là trường ĐH đấy có uy tín không, có thuận lợi cho việc đi lại hay
không ạ, chứ xa quá thì đi lại cũng vất vả lắm chị ạ. Bạn em năm nay có người
chọn thi tận Huế đấy, nhưng em thì chỉ thi ở Hà Nội thôi đi lại cho gần.
Hỏi: Em thấy nguồn thông tin nào có tác động lớn nhất đến việc chọn trường thi của
em?
Trả lời: Chính là bố mẹ em chị ạ, vì bố mẹ em là người hiểu biết nhiều có thể tư
vấn cho em về thi ĐH năm nay.
Hỏi: Nhận xét chung của em về xu hướng lựa chọn trường thi đại học của học sinh
THPT hiện nay?
Trả lời: Em nghĩ là hầu hết các bạn đều chọn thi các trường ở Hà Nội vì ở Hà Nội
có nhiều trường ĐH danh tiếng đi lại lại gần nhà. Nhiều bạn học giỏi sẽ thi vào các
trường tốp đầu, các em học kém hơn thì sẽ thi những trường thấp hơn, em nghĩ là
thế thôi ạ.
Hỏi: Xin cám ơn em đã tham gia vào cuộc phỏng vấn này.