nguyễn công hoan - cây bút hiện thực xuất sắc...
TRANSCRIPT
NGUYỄN CÔNG HOAN CÂY BÚT HIỆN THỰC XUẤT SẮCNGUYỄN CÔNG HOAN
CÂY BÚT HIỆN THỰC XUẤT SẮC
(Tái bản có bổ sung)
VŨ THANH VIỆT (Tuyển chọn và biên soạn)
LỜI NÓI ĐẦU
Nguyễn Công Hoan (1903-1977) là nhà văn hiện thực xuất hiện sớm,
"là người đặt những viên gạch đầu tiên xây đắp nền móng cho văn xuôi hiện
thực phê phán Việt Nam”. Sự nghiệp của ông được tạo dựng trong chiều sâu
bằng hàng trăm truyện ngắn và hàng chục pho tiểu thuyết, nổi lên với những
tập truyện Kép Tư Bền và tiểu thuyết Bước đưòng cùng có nhiều giá trị mang
tính mở đường cho một dòng văn học. Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan là
một sử liệu sống chân thực và sinh động về xã hội Việt Nam phong kiến nửa
thuộc địa những năm đầu thế kỷ XX.
Ngay từ khi xuất hiện, Nguyễn Công Hoan luôn gây được sự chú ý,
quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình và nhiều thế hệ độc giả. Mặc dù có
rất nhiều ý kiến khác nhau, kẻ khen, người chê... song "truyện ngắn, truyện
dài của Nguyễn Công Hoan sừng sửng tạo thành một thế Tam Đảo, Ba Vì
hùng vĩ" (Tô Hoài).
Nhân kỷ niệm 100 năm sinh nhà văn (1903-2003), Nhà xuất bản Văn
hóa - Thông tin trân trọng giới thiệu cuốn Nguyễn Công Hoan - cây bút hiện
thực xuất sắc (tái bản có biên soạn bổ sung). Cuốn sách gồm 2 phần:
Phần I: Nguyễn Công Hoan - Nhà văn hiện thực lớn, bậc thầy truyện
ngắn trào phúng.
Phần II: Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan - Những thành công và
đóng góp.
Ngoài ra còn có Niên biểu và tác phẩm Nguyễn Công Hoan để bạn đọc
tham khảo.
Với dung lượng hạn chế của cuốn sách và mục đích muốn khẳng định
những đóng góp, vị trí của nhà văn trong nền văn học Việt Nam, chúng tôi
không thể trích in, giới thiệu toàn bộ những đánh giá của các nhà văn, nhà
nghiên cứu, phê bình... Quả thật, Nguyễn Công Hoan đã để lại cho hậu thế
một di sản đồ sộ và quý báu vô cùng. Đặc biệt là truyện ngắn, thể loại thành
công nhất của ông. Đúng như GS Phan Cự Đệ đã nhận xét: "Nhiều truyện
ngắn và tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan đã trở thành những tác phẩm văn
học "cổ điển" trong chương trình của các nhà trường phổ thông và đại học.
Nguyễn Công Hoan đã gây được một ảnh hưởng sâu đậm với những thế hệ
văn xuôi về sau... "
Cuốn sách chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế. Rất mong được
bạn đọc lượng thứ.
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - THÔNG TIN
LỜI NGƯỜI BIÊN SOẠN
Nguyễn Công Hoan, nhà văn tiêu biểu của chủ nghĩa hiện thực phê
phán Việt Nam. Ông bắt đầu viết văn từ năm 1920 và đã đạt được nhiều
thành công trong cuộc đời văn nghiệp.
Trải qua sự sàng lọc của thời gian và lòng người, Nguyễn Công Hoan
đã tạo nên một thế đứng vững vàng trong văn mạch Dân tộc. Đến nay đã có
hàng chục công trình nghiên cứu và nhiều bài viết về ông (kể cả của những
người nước ngoài), khai thác, tìm hiểu nhiều góc cạnh, nhiều tầng vỉa trong
cái di sản lớn ông để lại.
Với mục đích cung cấp cho bạn đọc những tư liệu cần thiết để ghi nhận
những đóng góp quý báu của một nhà văn hiện thực thế hệ mở đường - nhân
kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Nguyễn Công Hoan (1903-2003) - chúng
tôi biên soạn bổ sung để tái bản cuốn sách: "Nguyễn Công Hoan - cây bút
hiện thực xuất sắc". Song vói sự hạn hẹp của dung lượng một cuốn sách,
chúng tôi không thể chuyển tải được hết hoặc trọn vẹn tất cả các ý kiến, đánh
giá về ông, nên chúng tôi xin nghiêng hơn về phần TRUYỆN NGẮN, thể loại
sở trường, nơi gặt hái nhiều thành công nhất của nhà văn.
Vì vậy chúng tôi xin phép một số tác giả có bài viết trong cuốn sách này
cho phép được lược bớt, trích in theo khuôn khổ và ý nghĩa của cuốn sách.
Chúng tôi rất mong sự lượng thứ và xin trân trọng cảm ơn.
NGƯỜI BIÊN SOẠN
Phần 1. NGUYỄN CÔNG HOAN – NHÀ VĂN HIỆN THỰC LỚN, BẬC THẦY TRUYỆN NGẮN TRÀO PHÚNG
MỘT NGỌN BÚT MỚI - ÔNG NGUYỄN CÔNG HOAN
TRÚC HÀ
Từ mục "Xã hội ba đào ký" xuất hiện trên mặt Annam tạp chí thì những
ai là độc giả tất đã nhận thấy một ngọn bút mới: ngọn bút ông Nguyễn Công
Hoan.
Trong mục ấy, ông chép những cảnh ba đào trong xã hội, lối viết văn
theo thể tiểu thuyết, ngoài ra ông còn soạn nhiều bài đoản thiên tiểu thuyết
khác.
Không réo rắt như một khúc đàn, không nhẹ nhàng như một bài thơ,
không "man mác như gió thổi mặt nước", không "bóng bẩy như cành hoa
trong gương”, văn ông có cái hay, rõ ràng, sáng sủa, thiết thực, hơi văn
nhanh và gọn. Lời văn hàm một giọng trào phúng, lại thường hay đệm vào
một vài câu hoặc một vài chữ có ý khôi hài, bông lơn thú vị. Như trong bài
Oẳn tà roằn, Annam tạp chí số 12 - kể cái lo của một đôi tình nhân khi quá cả
nể:
"Hai vẻ mặt cùng lo, nhưng hai cái lo khác nhau. Ả thì lo vì quá nhẹ dạ,
nên phải nặng lòng, cái khối lo nó nằm co ở trong bụng. Cậu P.H lo vì vô tình
định thoả bụng muốn, bây giờ phải cố tình đẩy cái không muốn ra".
Hay tả bộ dạng anh kéo xe:
"Anh xe kéo giờ, cho nên cũng chỉ chạy "dưỡng lão" thôi, đít nhổm
mạnh mà bước ngắn, vì thì giờ là tiền bạc, chậm phút nào tiền phút ấy."
Người ngựa và ngựa người (Nam phong số 18)
Hoặc là cười một anh học trò biếng học mà mê gái như trong bài Bố
anh ấy chết:
"Thi đến nơi rồi mà anh chẳng lo lắng gì cả, chỉ nay trả lời cái thư tim
tím, mai học thuộc cái thư hồng hồng".
(Annam tạp chí số 29)
Ấy đại khái những bài văn đã đăng trong Annam tạp chí trước sau đều
có ý khôi hài, giọng trào phúng như thế dầu là câu chuyện nó thương tâm thế
nào, trong khi đọc văn cũng phải buồn cười, nhưng mà cái cười đắng cay
chua chát, theo sau nụ cười thường là cái buồn ngấm ngầm trong tâm hồn.
Như bài Ngựa người và người ngựa, kể "cái vết ba đào của cảnh phu xe
trong kiếp ngựa người, tình cờ bị vạ lây với cái bước ba đào của cảnh giang
hồ trong kiếp người ngựa..." đọc qua rất lấy làm buồn cười, đọc xong lại thấy
cảm động vô hạn. Tiếc rằng không thể trích lấy một đoạn nào được, chỉ phải
đọc trọn bài mới lĩnh hội hết lý thú, cái lý thú ở trên lời nói của các nhân vật
trong truyện, lối văn vấn đáp viết được tự nhiên linh hoạt lắm, hoặc giọng nói
nghiêm trang hoặc lả lơi, hoặc nài nỉ hay mắng mỏ, giọng nào ra giọng ấy,
người nào ra người ấy như đứng trước cảnh thực vậy.
Ông có xuất bản quyển Kiếp hồng nhan, một tập đoản thiên tiểu thuyết
mà Kiếp hồng nhan là câu chuyện đầu, trong ấy có nhiều bài như: Sóng vũ
môn, Tri kỷ trần ai, Không biết sướng... ngụ ý sâu xa về sự đời, truyện đọc có
hứng thú lắm.
(Trích trong bài Lược thảo về sự tiến hóa của quốc văn
trong lối viết tiểu thuyết, Nam phong, tháng 7-1932)
MỘT NHÀ VĂN XUẤT SẮC CỦA DÒNG VĂN HỌC HIỆN THỰC PHÊ PHÁN
NHƯ PHONG
Nguyễn Công Hoan bắt đầu cầm bút viết vào khoảng những năm 1920
- 1923 và bắt đầu tự khẳng định được mình một cách mạnh mẽ và vững chắc
vào khoảng từ những năm 1929 - 1931 trở đi.
Trong thời gian này, văn học nước ta đang có những chuyển biến, tìm
tòi bước đầu để tự đổi mới cho phù hợp với những nhu cầu mới về tư tường
và tình cảm của xã hội. Nhiều khuynh hướng văn học đã xuất hiện. Lẽ tất
nhiên dưới chính sách văn hoá nô dịch và ngu dân, dưới các thủ đoạn đàn áp
tư tưởng và ngôn luận của thực dân Pháp, văn học yêu nước công khai của
nước ta hồi ấy không thể tự do phát triển như nó đã phải và có thể phát
triển... Và cũng tất nhiên, mỗi nhà văn tuỳ theo bản chất giai cấp của mình,
tuỳ theo quá trình tiếp thu những gì của cuộc sống và của các ý thức hệ
đương thời, tuỳ theo cả thái độ chính trị đối với chế độ thực dân và phong
kiến mà tự chọn khuynh hướng này hay khuynh hướng khác.
Ngay từ buổi đầu cầm bút, Nguyễn Công Hoan đã tự vạch cho mình
một con đường đi, một con đường không phải ngay từ đầu đã rõ nét ngay và
cả về sau này không phải là không có những lúc chệch choạc, nhưng căn bản
là một con đường tích cực tiến bộ nhất so với tình hình văn học công khai
nước ta hồi ấy - trước khi Đảng ta phát biểu và đấu tranh cho một đường lối
văn nghệ chính xác, phù hợp với yêu cầu của Cách mạng và yêu cầu phát
triển của bản thân văn nghệ.
Ngay từ trong một số truyện ngắn đầu tiên của anh, Nguyễn Công
Hoan đã chú ý lấy đề tài trong những chuyện đáng cười, đáng khinh, đáng
ghét và đáng thương trong xã hội lúc bấy giờ và qua suốt hàng mấy trăm
truyện ngắn, vài chục truyện dài mà anh viết về sau này, đó là loại đề tài hầu
như duy nhất mà anh theo đuổi và ngày càng mở rộng phạm vi quan sát, đối
tượng miêu tả và nội dung đả kích... Hiện thực xã hội nước ta dưới chế độ
thực dân và phong kiến có thiếu gì những chuyện như vậy! Chuyện những
quan lại lớn nhỏ mà bọn thống trị thực dân cất nhắc lên từ đủ mọi nguồn bẩn
thỉu để làm tay sai thu thuế, đốc phu, bắt lính cho chúng, đối với quan trên thì
hết sức quỵ luỵ, cúi luồn, hầu hạ, nhưng đối với dân đen thì ra oai hống hách,
ức hiếp bóp nặn, đục khoét không từ thủ đoạn bất nhân nào không làm...
Chuyện những địa chủ hoặc tư sản làm giàu bằng bóc lột hay lừa bịp, mà lại
hiếu danh, bỏ ra hàng nghìn, hàng vạn để mua một phẩm hàm, một chức
"nghị gật" thì chẳng tiếc, nhưng tính toán với người cấy rẽ, làm thuê trong nhà
hay những người khốn khó vay nợ, đợ con thì so kè từng xu một... Chuyện
những công chức "làm việc tây", bị "sếp" làm nhục, hay quá nữa lại còn phải
đưa vợ con đến cho chúng làm nhục, nhưng vẫn cúi đầu bưng tai nuốt nhục,
vì sợ mất việc, vì sợ "sếp" đã thành một thiên tính thứ hai trong người... Còn
biết bao nhiêu chuyện như vậy, còn bao nhiêu chuyện xấu xa độc ác hèn hạ,
thảm hại hơn vậy nữa mà người đương thời thấy xảy ra hằng ngày, chung
quanh mình, trước mắt mình, bất cứ chỗ nào cũng có... Đó là những chuyện
có thật và không thể nào không xảy ra vì chúng nằm ngay trong bản chất,
trong quy luật của chế độ thực dân phong kiến chuyên sống bằng cướp đoạt,
áp bức và gian trá...
Nguyễn Công Hoan đã dùng ngòi bút của mình vạch toạc tất cả những
sự thật ấy ra, những sự thật đen tối của một chế độ xã hội tàn nhẫn và mục
nát đến xương tuỷ, những sự thật mà nhiều người có thể biết nhưng chưa
nhận thức hết cái tính chất vô đạo, bất nhân của nó. Anh thiên về lối kể
chuyện hài hước và trào phúng, do vậy ngòi bút phê phán và tố cáo của anh
lại càng lợi hại hơn. Cái cười mỉa mai khinh bỉ có sức công phá mạnh hơn là
những lời kêu ca than vãn, đánh mạnh vào cái chế độ độc ác nhưng lại mơn
trớn, đểu cáng, giả đạo đức.
Nếu như hồi đầu việc lựa chọn đề tài của anh còn có vẻ phân tán, còn
nhằm cả vào những con người tuy có lố lăng buồn cười, nhưng xét ra chẳng
có tội tình gì mà chỉ đáng thương hại, thì càng về sau nó càng tập trung vào
những hạng người thực sự đáng khinh, đáng ghét, đáng thù trong xã hội bây
giờ. Anh đặc biệt chú ý đến bọn quan lại làm tay sai cho Pháp, mà nhờ có
hoàn cảnh riêng, anh đã có dịp quan sát, nghiên cứu kỹ từ đời công đến đời
tư, từ diện mạo, cử chỉ bề ngoài đến tâm lý bên trong. Qua các tác phẩm của
anh, người ta có thể lập một bảng liệt kê chi tiết các hạng quan tham lại
nhũng, đủ các hạng lớn nhỏ của cái loại sâu bọ nhơ nhớp dựa vào thế đế
quốc để hút máu hút mủ đồng bào. Mà anh nhằm vào hạng người ấy làm một
đối tượng đả kích chủ yếu cũng là đúng thôi: đó là những công cụ đắc lực
nhất của đế quốc Pháp để đàn áp, khủng bố, bóc lột nhân dân ta...
Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ 1935 - 1939, Nguyễn Công Hoan có dịp
được gần gũi phong trào cách mạng của quần chúng và gặp gỡ một số chiến
sĩ cách mạng. Ảnh hưởng của cách mạng vào sâu trong anh thế nào và gây
được những biến chuyển về nhận thức và tư tưởng ở trong anh thế nào, nhà
văn của chúng ta đã từng kể lại. Rõ ràng là nó đã có tác động quan trọng
trong sự nghiệp sáng tác của anh. Chính trong thời kỳ này mà anh đã viết
được nhiều truyện ngắn xuất sắc và tiểu thuyết Bước đường cùng.
Không có phong trào của nông dân lao động đấu tranh dưới sự lãnh
đạo của Đảng, chống địa chủ và quan tham lại nhủng trong thời kỳ cách mạng
ấy, thì nhà văn của chúng ta cũng khó có đầy đủ chất liệu và nhận thức để
viết nên một tác phẩm có giá trị phê phán và tố cáo mạnh mẽ như vậy.
Nguyễn Công Hoan, cùng với Ngô Tất Tố là những nhà văn xuất sắc
nhất của dòng văn học hiện thực phê phán. Trước cách mạng, cái khuynh
hướng văn học giàu tính chiến đấu này chưa phải là cách mạng, nhưng rất
gần với cách mạng, đóng góp được nhiều cho cách mạng. Bọn thống trị thực
dân và phong kiến hồi ấy, trong khi giở ra đủ thủ đoạn tàn bạo để bóc lột, áp
bức dân tộc ta, trong khi áp đặt lên đầu nhân dân ta một chế độ xã hội vừa
độc ác lại vừa thối nát vẫn không ngớt tìm đủ cách che đậy bộ mặt thật của
chúng bằng nhiều hình thức man trá, lừa bịp, mê hoặc, trong đó có thứ "văn
học" của bọn bồi bút chuyên tán tụng, quảng cáo cho "nhà cầm quyền". Hồi
ấy, vạch trần những sự thật của chế độ ấy, gây cho người ta lòng khinh bỉ,
ghê tởm, căm ghét đối với chế độ ấy, khiến cho người ta không thể nào chịu
đựng, chung sống được với nó chính là một sự cần thiết, là một trong những
công việc chuẩn bị về nhận thức và tinh thần cho cách mạng. Một số lớn tác
phẩm của Nguyễn Công Hoan, khi đi vào quần chúng, đã đạt được những
hiệu quả cách mạng này.
Ngay từ khi sự nghiệp văn học của nhà văn Nguyễn Công Hoan đương
trong thời kỳ phát triển, Đảng đã đánh giá đúng giá trị và tác dụng của anh.
Một trong những nhà lý luận văn nghệ đầu tiên của Đảng, anh Hải Triều, đã
giới thiệu tập truyện Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan và nhân đó phát
biểu quan điểm văn nghệ của Đảng. Từ đó, Đảng luôn luôn ân cần theo dõi,
biểu dương và khi cần thiết phê bình, giúp đỡ nhà văn Nguyễn Công Hoan
trong sự nghiệp sáng tác của mình.
Từ khi bắt đầu viết văn đến nay, vừa đúng trong một nửa thế kỷ,
Nguyễn Công Hoan đã sáng tác không mỏi, không ngừng, nếu một tấm
gương về tinh thần trách nhiệm của một nhà văn trước xã hội, về tinh thần lao
động nghệ thuật cần cù và bền bỉ.
(In trong báo Nhân dân số 6008, Chủ nhật, ngày 25-3-1973)
NGUYỄN CÔNG HOAN VÀ NHỮNG TRUYỆN NGẮN CỦA ANHVŨ NGỌC PHAN
Sau khi cùng học lớp nhất tiểu học trường Bưởi. Hoan và tôi đi học tại
hai trường khác nhau. Tôi rất nhớ Hoan, nhưng không biết cậu ta trọ học ở
phố nào. Khi còn học ở trường Bưởi, có lần Hoan bảo tôi:
- Mày thì nghịch ngầm, còn tao vừa nghịch ngầm vừa nghịch bừa trước
mắt thiên hạ.
Hồi nhỏ, hai thằng thích chơi với nhau có lẽ vì có mặt giống nhau như
vậy.
Vào trường Nam Sư phạm phố cửa Bắc năm 1922 thì năm sau, Hoan
đã có một quyển sách ra đời: Quyển Kiếp hồng nhan. Có được quyển sách
để ra mắt với đời năm 1923 là hiếm lắm. Lúc bấy giờ chữ in còn có một sức
mạnh ghê gớm. Chỉ nhìn thấy quyển sách in, chứ chưa đọc thấy nửa chữ,
người ta đã phục lăn tác giả ra rồi. Vào những năm 20 của thế kỷ này, viết
báo là viết văn. Viết văn, viết báo là một, vì văn muốn có người ta đọc thì chỉ
có cách đăng lên báo. Loại sách, món ăn tinh thần, gần như không có. Ấy thế
mà anh chàng Hoan ta lại ra được một quyển sách, một tập truyện ngắn. Ông
Tản Đà ra được quyển Khối tình con năm 1916 cũng là tự xoay lấy tiền và đi
tìm lấy nhà in. Bìa sau quyển Khối tình có vẽ một anh chàng rụt cả cổ lại để
gánh hai túi sách đi bán rong Tản Đà có bài thơ đề:
Khối tình con (quyển nhất), trong câu có:
...Còn non, còn nước, còn trăng gió,
Còn có câu thơ ca bán phố phường.
Thật ra thì những truyện ngắn trong Kiếp hồng nhan đã qua một "kiếp"
rồi, tức là đã in năm 1922 trong hai Truyện thế gian của Nguyễn Khắc Hiếu,
rồi năm 1923 Hoan mới rút ra để in thành một quyển riêng.
Xa nhau khá lâu, một hôm, vào năm 1925, tình cờ tôi gặp Hoan ở Bờ
Hồ. Anh vẫn xúng xính trong cái áo the thâm và lê đôi giày Gia Định. Hoan
hồng hào, rắn rỏi, những lông tơ xanh xanh ngày xưa trên mép anh bây giờ
đã đen đen. Tôi khen Hoan chịu khó viết lách. Anh cười hê hê và vẫn cái lối
hồi còn bé, anh rỉ vào tai tôi:
- Ấy mình viết là do một chuyện rất lạ.
- Không phải tiểu thuyết đấy chứ? - Tôi hỏi anh.
Hoan cười xoà, kể cho tôi nghe:
- Nguyên ở làng mình có một người con gái trạc tuổi mình, con nhà thi
lễ. Năm mình và cô ta mới sáu bảy tuổi mà cả làng đã yên trí là lớn lên mình
sẽ lấy cô ta làm vợ. Đến nỗi vài người trong gia đình cô ta cũng tin như thế.
Nhưng sự thực thì thầy mẹ mình không có ý định ấy. Rồi lớn lên, cô ta đi làm
dâu một ông quan to. Chồng cô ta cứ ít lâu lại tuồn ra một bài thơ. Hãnh diện
về nhà chồng và về chồng, cô ta đem thơ của chồng về nhà cô ta và đọc cho
mọi người nghe...
Kể đến đây, Hoan ngừng lại và cười ngất.
Tôi hỏi anh, thơ của chồng cô ta như thế nào, có hay không, thì
Hoan giơ tay lên, giả vờ bịt mũi và đọc:
...Hoa có tàn hoa ủ mấy thu,
Thương ôi! Mây khói mịt mù...
Bừng con mắt, biết tiêu du cảnh nào!
Hoan lại nói cho tôi biết anh chàng "thi sĩ" này khi nói chuyện với Hoan,
cứ tỏ ra "ưu thời mẫn thế" nên Hoan có làm một bài ca trù để chế giễu, và
Hoan đọc cho tôi nghe. Bài khá ngộ nghĩnh, lúc ấy tôi có chép vào sổ tay.
Lo gì lo lắm,
Vắt tay nằm trên trán để mà lo.
Lo đủ điều lo nhỏ lại lo to,
Lo đến hết thở dài, rồi thở vắn,
Lo nước bể Đông ngày dãi nắng
Lo Vưòn Con Cóc khuyển làm thơ
Lo để mặt méo xệch, chân cẳng quắp co,
Lo đến cả con bò răng vẫn trắng.
Thế mới biết cái lo là lắng đắng,
Khách đa sầu gánh nặng những điều lo.
Ai ơi, lo lỏ lò lo...
Đọc xong bài ca trù, Hoan nói:
- Làm thơ kiểu thằng cha ấy thì mình có thể suy ra hàng tràng. Nhưng
mình không thèm làm. Mình sẽ viết văn xuôi và nhất định phải hơn nó, cho vợ
nó mất làm bộ.
Từ lần ấy, bẵng đi mười năm chúng tôi lại không gặp nhau. Hỏi thăm
biết Hoan làm giáo học ở Kinh Môn và vẫn viết. Tôi viết thư nhắn Hoan về
chơi Hà Nội, không nhận được trả lời, tôi yên trí Hoan phải ở liền nơi dạy học,
không rút chân đi đâu được. Bỗng một hôm, vào mùa hè năm 1935, Hoan ăn
mặc Tây chỉnh tề, ôm cái cặp da to phồng, bước vào nhà tôi. Từ ngày từ giã
trường Bưởi, thấm thoát đã 15 năm. Chúng tôi đều có vợ con cả. Gặp Hoan
lần này là lần đầu, Hằng Phương có vẻ lấy làm lạ. Con người củ mỉ cù mì như
vậy mà sao viết truyện lại sắc sảo và dí dỏm như thế. Tôi ngỏ ý muốn anh về
dạy ở Hà Nội, để anh em năng gặp nhau, thì anh cho tôi biết anh khó mà về
Hà Nội được. Cứ viết về bọn quan lại, về bọn tổng lý cường hào và thực dân
thì Nha học chính nó còn tống anh đi các tỉnh xép mãi, có khi còn lên mạn
ngược.
Từ nhỏ anh đã biết nhiều về những thối nát của bọn quan lại. Cu Huấn
thân sinh ra anh đã kể cho anh nghe rất nhiều về những chuyện ấy. Cách
sống đồi trụy của bọn quan lại, bọn hàn nghị, những thói xu nịnh của chúng
đối với quan thầy Tây, những mánh khóe bòn hút nhân dân của chúng, anh
kể cho tôi nghe tỷ mỉ. Nhờ biết được những chuyện như vậy, nên tôi đã viết
được vài bài về những cảnh khổ cực của người nông dân Việt Nam dưới
nhanh vuốt của bọn quan nha và tổng lý, tay sai của thực dân Pháp, đăng
trên những số đặc biệt của báo L’EFFORT INDOCHI- NOIS vào năm 1939,
1940 theo yêu cầu của tờ báo này.
Nguyễn Công Hoan nói động cơ viết của anh lúc đầu là một chuyện
tình duyên, nhưng theo tôi nghĩ thì anh viết được trước hết là do bản thân anh
có khả năng, có tích luỹ về văn hóa, về cuộc sống. Tôi biết anh rất nhạy cảm,
có cái nhìn sâu về cuộc đời, có trí nhớ dai, lại lớn lên trong một gia đình nhà
nho yêu nước. Dân tộc Việt Nam ta có nhiều gia đình nho sĩ bậc trung có lòng
yêu Tổ quốc và ghét phi nghĩa. Khi có phong trào khởi nghĩa thì họ là người
sẵn sàng hưởng ứng, sẵn sàng ủng hộ. Có nhiều gia đình nho sĩ ở nông thôn
rắt gần với nông dân và đã có một số người trong các gia đình ấy là tác giả
những văn thơ yêu nước, những bài ca, bài vè chống quan lại tham ô, chống
thực dân Pháp. Cũng lại chính ở những gia đình ấy người ta đã nghe được
một cách thầm kín những thơ văn khuyết danh chế giễu những "quan đại
thần" ôm váy cho "đầm, xách giày cho Tây, những bài ca về phong trào Đông
du và những bài vè đánh giặc Pháp xâm lược. Nhiều người trong đám nhà
nho ấy cũng ra làm những chức quan nhỏ để sinh sống, nhưng trung thành
với "nhà nước bảo hộ" thì không. Đó là một trong nhiều đặc điểm của dân tộc
ta, nên ở nhiều thời kỳ lịch sử của dân tộc, cả nước đã đứng lên chống ngoại
xâm, tầng lớp trí thức cũng như nhân dân lao động, đều một lòng đánh giặc
cứu nước, chỉ một thiểu số theo giặc và cuối cùng bị tiêu diệt.
Chính ở trong gia đình mình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe
những câu thơ, câu đối đả kích những kẻ quan thì to nhưng tài đức thì lại quá
nhỏ. Thí dụ những loại câu như câu về một "quan đại thần" nọ đập đầu lạy
vua để con được đỗ tiến sĩ và chị tên khoa bảng thì ra vào công sứ để em
được bổ nhiệm:
Em nên khoa mục, cha mòn trán
Em được công danh, chị nát đồ
Và câu của Trần Tán Bình về mụ Tư Hồng vợ Tây và bố mụ được sắc
phong:
Một đạo sắc phong hàm cụ lớn
Trăm năm danh giá của bà to
Nguyễn Công Hoan thuộc rất nhiều câu loại trên này, và cũng rất nhiều
giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm. Những thơ ca và giai thoại này có
ảnh hưởng sâu sắc đến lối viết của anh, một đặc điểm Việt Nam, tuy là văn
xuôi mà rõ ràng kế tục dòng Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương về cách nhìn
con người và cách đánh giá mọi việc trong xã hội.
Hồi mới bước vào nghề văn, Nguyễn Công Hoan đã tích lũy được
nhiều vốn về xã hội đương thời, về văn hóa văn nghệ truyền thống, phần
nhiều là truyền miệng; anh lại có một kỹ thuật khá độc đáo về miêu tả con
người và sự việc, nhưng trong bước đầu anh cũng long đong như nhiều nhà
văn khác.
Kiếp hồng nhan (viết năm 1921 và in thành sách năm 1923) quyển sách
đầu tay của anh, ra đời vào buổi bình minh của văn xuôi viết bằng chữ quốc
ngữ, nên anh đã cặp kè được với Nguyễn Khắc Hiếu. Những truyện ngắn của
Phạm Duy Tốn như Sống chết mặc bay và Con người Sở Khanh cũng chỉ
mới đăng trong một tạp chí, tạp chí Nam Phong, vào những năm 1918 và
1919, trước Nguyễn Công Hoan có vài năm. Nhưng vào thời ấy, những người
chú ý đến truyện ngắn cũng không nhiều và họ cũng chưa đánh giá được
đúng. Tôi đọc An Nam tạp chí để theo dõi công việc viết văn của Hoan, vì tôi
nghe nói Hoan có viết cho tạp chí này, nhưng đọc Annam tạp chí, tôi thấy
ngấy quá. Một hôm, tôi đọc một bài của Tản Đà và thấy ông khen Nguyễn
Công Hoan làm thơ hay. Đó là câu vịnh Ông Táo của Hoan:
Thân tớ ví không lành tựa đất,
Cuộc đời hồ dễ đã ra tro.
Tôi tự nghĩ: "Quái cậu ta bảo mình là cậu ta sẽ viết văn xuôi, sao bây
giờ lại đi làm thơ! Hay cậu ta viết văn xuôi bí rồi?".
Hoan đi với Tản Đà, nhưng chính Tản Đà cũng long đong. Annam tạp
chí của Tản Đà ra đời năm 1926, in được mười ba số thì chết. Tản Đà phải
vào Nam theo lời mời của Diệp Văn Kỳ.
Năm 1928, Hoan ở gần Nguyễn Trọng Thuật, ông này đem một đống
Nam phong về nhà. Hoan vùi đầu vào đọc. Sau khi đã bỏ viết bảy năm, bây
giờ anh lại ngứa nghề cũ. Anh viết Những cảnh khốn nạn, nhưng viết xong,
không biết đăng vào đâu.
Năm 1931, Tản Đà lại ra Bắc và cho Annam tạp chí sống lại. Muốn cho
tại chí của mình hấp dẫn, nhà thơ mở hai mục: "Việt Nam nhị thế kỷ xã hội ba
đào ký" và "Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội thiển đàn". Tản Đà tưởng lúc nào
Nha học chính Bắc kỳ cũng đẩy Nguyễn Công Hoan đi thật xa, nên ông vội
mua vé xe hoả đi Lào Cai để tìm Hoan, nhưng lên đến cái tỉnh giáp giới Trung
Quốc, ông không tìm thấy Hoan ở đâu cả. Thì ra lúc đó, Hoan đang dạy học ở
Kinh Môn. Tản Đà mời Hoan giúp Annam tạp chí, viết về những "cảnh xuống"
của xã hội Việt Nam. Hoan viết truyện ngắn Hai thằng khốn nạn và Oẳn tà
roằn đăng vào mục "Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội ba đào ký". Trừ Kiếp
hồng nhan in thành sách, còn từ 1928 đến 1931, truyện ngắn của anh đều chỉ
đăng tên các báo chí: đầu tiên đăng ở Annam tạp chí, rồi ở Nhật Tân và về
sau ở Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san. Tuy vậy những sáng
tác của anh đã được một người ký biệt hiệu là Trúc Hà giới thiệu trong tạp chí
nam phong (tháng 7 năm 1932). Đây cũng là một sự hiếm có. Thường
thường tác phẩm văn học đăng trên báo chí ít khi được có người giới thiệu,
phê bình.
Năm 1932, tập truyện dài Những cảnh khốn nạn của anh được in thành
sách, nhưng không có lấy một tiếng vang. Từ tập truyện Kép Tư Bền (do Tiểu
thuyết thứ bảy xuất bản và in tại Tân Dân năm 1935). Nguyễn Công Hoan
mới bắt đầu nổi tiếng. Hải Triều, một trong những nhà lý luận văn nghệ đầu
tiên của Đảng đã đánh giá cao tập truyện. Trong truyện Kép Tư Bền, anh đã
miêu tả những mánh khoé bóc lột rất tinh vi của tên chủ gánh hát và cái mâu
thuẫn chua cay của cuộc đời vui nhộn bên ngoài với cái bi kịch ngấm ngầm
bên trong. Ngoài cái truyện mang tên tập này, còn những truyện ngắn khác
cũng sâu sắc. Đó là những truyện: Thằng ăn cắp, Samandji, Mất cái ví, Nỗi
vui sướng của thằng bé khốn nạn...
* * *
Từ năm 1935 cho đến 1940, cứ đến nghỉ hè là Nguyễn Công Hoan lại
về chơi với tôi. Bao giờ anh cũng vẫn ôm cái cặp da phồng trong để ít quần
áo và một số bản thảo. Anh ở chơi với tôi ba, bốn ngày có khi dăm ngày. Anh
đến với chúng tôi như một người trong gia đình. Vừa trông thấy anh ngoài
ngõ mấy đứa con của chúng tôi còn ngọng đã reo lên: "Bác Hoang! Bác
Hoang!". Vợ chồng tôi coi anh như một người anh của mình mới ở quê ra. Tôi
nói: "Ở quê ra" không phải nói ngoa. Tôi vốn người Bắc Ninh, còn anh Hoan,
cho đến bây giờ, cũng vẫn cứ nhận mình là người tỉnh Bắc, tuy Xuân Cầu quê
anh thuộc Văn Giang và Văn Giang thì đã thuộc Hưng Yên (Hải Hưng) từ lâu
rồi.
Đời viết văn của Nguyễn Công Hoan là một đời viết văn gương mẫu.
Cảnh nhà thanh bạch, trong gia đình hết người này bị bắt đến người kia bị
bắt, bọn mật thám thỉnh thoảng lại xông đến khám nhà, toà kiểm duyệt Pháp
lúc nào cũng như trói tay người viết, nhưng anh vẫn luôn luôn say sưa với
nghề nghiệp, không lúc nào nao núng. Thời gian anh hay đến chơi với tôi
(1935-1940) cũng là thời gian anh hay đến ăn nằm ở nhà Tân Dân để vay
trước "Vũ Đình Long tiên ông" ít tiền. Rồi về một tỉnh xép, đêm đêm dưới ánh
đèn dầu anh khom lưng ngồi viết để trả nợ "tiên ông".
Câu chuyện của anh với chúng tôi phần nhiều là giai thoại và những
chuyện éo le ở đời. Những chuyện này có thể là đề tài cho những truyện
ngắn của anh, tôi nghe cũng rất thú vị. Phần nhiều nó có những cái đột ngột,
ngẫu nhiên, đầy kịch tính. Chuyện anh kể rất giản dị, chua cay, điểm những
nét vui cười, vừa sâu sắc vừa phong phú.
Anh nói cho chúng tôi nghe những điều tai nghe mắt thấy. Người nông
dân Việt Nam rất khổ cực. Ngày thường họ đã khổ; những ngày sưu thuế,
những ngày Tết, cưới xin, ma chay, họ còn bị bọn quan nha, cường hào áp
bức bóc lột, bị phong tục xưa ràng buộc, họ lại càng cùng cực. Họ không còn
cái gì để bán, để cầm, nên họ bán cả con, đem cả bài vị tổ tiên đến nhà địa
chủ để cầm, hòng vay mấy đồng bạc, rồi đến tết họ chạy tiền chuộc về.
Câu chuyện ấy tôi thấy về sau anh viết thành một truyện ngắn nhan đề
là Chuộc Cụ. Anh kể cho nghe cái hồn nhiên của một cô gái quê và cái tò mò
không được "trí thức" của mấy anh tiểu trí thức về ở nông thôn, về sau anh
viết thành Cái nồi hông khá dí dỏm.
Anh kể nhiều chuyện nhất về người nông dân, về bọn quan lại và tay
sai, thứ đến những người tiểu trí thức, tiểu công chức, bọn tư sản, hàn, nghị
và lưu manh, rồi đến bọn thực dân. Về người công nhân, anh biết ít. Đọc
truyện ngắn của anh, tôi nhận thấy đề tài về nông dân và về quan nha, tổng lý
là nhiều hơn cả. Anh có quan hệ nhiều với nông dân, vói tầng lớp tiểu tư sản
trí thức và bọn hàn, nghị ở những nơi anh dạy học, nên anh nắm rất chắc tính
chất những "nhân vật" ấy.
Anh thương xót rất nhiều những gia đình nông dân thất cơ lỡ vận, phải
ra Hà Nội kéo xe; anh thương vô cùng những trẻ em ở nông thôn còn ngây
thơ, đã phải xa cha mẹ đi ở và bị bọn chủ hành hạ. Đó là truyện Ngựa người
và người ngựa, Được chuyến khách, Tấm giấy 100, miêu tả cảnh khổ của
những người phu xe, đó là những truyện Thanh! Dạ! Thằng Quýt, Phành
phạch phản ánh những cảnh địa ngục của những em nhỏ phải đi ở và những
sự đối xử cực kỳ tàn bạo của bọn chủ.
Đối với những kẻ lưu manh, anh cũng nhìn với con mắt khác những
người đồng thời với anh. Anh đã nhìn thấy những kẻ ấy là nạn nhân của xã
hội nước ta dưới ách thực dân Pháp. Đọc những truyện Giá ai cho cháu một
hào, Thằng ăn cắp, Bữa no đòn, ai cũng phải xót thương những trẻ em thiếu
ăn, thiếu mặc và chưa bao giờ được bước chân đến nhà trường. Anh tiếp thu
truyền thống dân gian, nên cũng như truyện cười Việt Nam, nhiều truyện của
anh có tính chất đấu tranh trong nội bộ nhân dân, hướng sự phê phán nghiêm
khắc vào những kẻ có thói xấu, như lười biếng, dốt nát, tham ăn, chuộng hư
danh, nịnh hót. Truyện cười Việt Nam chế giễu những ông đồ dốt thì có
những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan cũng châm biếm rất chua cay một
số người trí thức. Đó là những truyện Tôi chủ báo, anh chú báo, nó chủ báo;
Xin chữ cụ Nghè, Ông chủ báo chẳng bằng lòng. Trong truyện Nỗi vui sướng
của thằng bé khốn nạn, anh phanh phui những tâm tình giả dối của cặp tình
nhân tiểu tư sản mà người phụ nữ trai lơ là một gái mới goá chồng đã có một
con trai. Truyện Tôi xin hết lòng của anh cho chúng ta thấy một mụ phán chỉ
vì một lợi nhỏ là có được cái độn tóc đẹp không mất tiền mua, đã nhẫn tâm
cắt luôn mớ tóc đen dài của một cô gái ốm liệt giường mà mẹ cô ta đã nhờ
mụ trông giúp một đêm. Ngay đối với thói lười biếng của một số dân nghèo,
anh cũng đả kích rất mạnh (truyện Cái vốn để sinh nhai).
Nhưng đối với bọn quan lại, hàn, nghị và cường hào thì anh đả kích
không khoan nhượng. Đó là những truyện Hai thằng khốn nạn, Báo hiếu: trả
nghĩa cha, trả nghĩa mẹ, Răng con chó... về bọn quan lại, chánh phó lý,
Nguyễn Công Hoan miêu tả rất tài tình trong những truyện: Đàn bà là giống
yếu, Cái nạn ô tô, Đồng hào có ma, Cụ Chánh Bá mất giầy...
Về những cái kệch cỡm và quan liêu của bọn thực dân, anh vẽ nên bức
tranh hài hước trong hai truyện Tinh thần thể dục và Lại chuyện con mèo.
Còn về giai cấp công nhân Việt Nam, có lẽ anh chưa chú ý đến mấy, nên anh
mới chỉ phác hoạ một chị công nhân mỏ chống đối quyết liệt một tên chủ Tây
định hãm hiếp chị, và chị ta đã thắng thế, thoát được tay thằng khốn nạn. Đó
là truyện Sáng, chị phu mỏ.
* * *
Nguyễn Công Hoan viết rất nhanh, nhưng thật ra mỗi truyện ngắn anh
đã phải tập hợp rất lâu những nhận xét của anh về một nhân vật. Rồi những
hành động của nhân vật cũng phải được nhuần nhuyễn khá lâu trong tâm trí
anh trước khi anh đặt bút viết. Công việc của anh lâu ở suy nghĩ và nhanh ở
thể hiện bằng lời văn.
Truyện ngắn viết rất khó. Nguyễn Công Hoan đã đạt tới kỹ thuật cao
trong sự miêu tả hiện thực đươg thời. Có nhiều truyện ngắn của Nguyễn
Công Hoan toàn là truyện khôi hài mang những tính chất phóng đại, cường
điệu với những yếu tố bất ngờ. Đó là những truyện Samandji, Thầy cáu, Cái
lò gạch bí mật, Truyện con mèo.
Lại có những truyện tác giả miêu tả chủ yếu những cảnh truỵ lạc,
những sự thối nát, lố bịch trong xã hội cũ, như những truyện Oẳn tà roằn, Lập
gioòng, Chồng cô Kếu tân thời, Cái thú tổ tôm, Tinh thần thể dục, nhưng trong
đó vẫn có nhiều yếu tố trào phúng. Ở những chuyện thật bi thảm, đôi khi tác
giả cũng điểm vào những nét châm biếm và giễu cợt làm cho truyện có tính
chất bi hài.
Tuy có mặt này mặt nọ, nhưng nếu so sánh truyện ngắn của Nguyễn
Công Hoan với những truyện ngắn của các tác gia Việt Nam khác, tôi nhận
thấy chỉ riêng những truyện ngắn của anh viết trong giai đoạn 1930-1942
cũng đủ đưa anh tới đỉnh cao của nghệ thuật. Nhân vật trong các truyện ngắn
của anh thuộc đủ các tầng lớp người trong xã hội Việt Nam vào thời mà chế
độ thực dân và nửa phong kiến suy tàn nhất.
Trong các truyện ngắn của anh, gần như không có bóng dáng người
công nhân. Nhưng cho đến nay cũng chưa có tác giả Việt Nam nào thể hiện
được công nhân nước ta cho tương đối thoải mái không ngượng nghịu, chứ
chưa nói đến vẽ nên những nét điển hình. Phải chăng người công nhân nước
ta còn mang nhiều tính chất nông dân, tính chất của những con người đã ra
đời cùng với đất cổ Việt Nam này, nên khi miêu tả thì "nhân vật công nhân" lại
giống người nông dân đến tám, chín phần mười.
Đã có lần đi sưu tầm ca dao và dân ca hiện đại của công nhân, tôi thấy
đa số những sáng tác mới ấy vẫn ca ngợi đồng ruộng, luỹ tre đầu làng, và
con cò bay bổng, không thấy ai sáng tác về cái ống khói, về nhà máy của
mình. Như vậy thì Nguyễn Công Hoan và nhiều tác giả khác cũng không đáng
trách.
Từ sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Công Hoan vẫn viết khoẻ như
con người lực lưỡng của anh. Anh đã viết không mệt mỏi trong nửa thế kỷ.
Nhưng bây giờ, cũng như nhiều nhà văn khác, trước những quan hệ xã hội
mới, anh còn có những cái chưa tìm hiểu sâu được. Nhưng Nguyễn Công
Hoan vẫn là nhà văn hiện thực có phong cách đặc biệt, làm cho anh khác hẳn
những nhà văn hiện thực đồng thời với anh. Đó là tính chất trào lộng không
nhiều thì ít trong hầu hết các truyện ngắn của anh, đó là sự phong phú về đề
tài của các truyện, và đặc biệt là trong tất cả các truyện ngắn của anh, thiên
nhiên rất ít được miêu tả, vậy mà truyện của anh vẫn hấp dẫn một cách lạ
thường, đố ai đọc nửa chừng mà có thể thôi không đọc tiếp.
Tôi nhớ mãi, cách đây trên ba mươi năm, có những đêm anh kể hết
chuyện này sang chuyện khác cho tôi nghe. Tôi thì nghe mê mải, còn anh thì
cứ kể thao thao bất tuyệt. Rồi về sau tôi lại đọc thấy một số chuyện ấy trong
những truyện ngắn của anh trên Phổ thông bán nguyệt san của nhà Tân Dân.
Tôi đã có cái cảm tưởng như mình được nếm sống nhiều món ăn anh sắp
đem xào nấu, những món ăn, cho đến bây giờ và cả mai sau, chắc chắn mọi
người vẫn thấy đầy hương vị.
(In trong tạp chí Tác phẩm mới, số 24, tháng 3-4 năm 1973)
NGUYỄN CÔNG HOANPHAN CỰ ĐỆ
Nguyễn Công Hoan là người đã đặt những viên gạch đầu tiên xây đắp
nền móng cho nền văn xuôi hiện thực phê phán. Ông thuộc lớp nhà văn
những năm 20 đầu thế kỷ, lớp người đang mò mẫm, tìm đường, khai phá.
Công lao của ông là giữa những con đường đan nhau ở các ngã ba, ngã tư,
nơi mà những người cầm bút còn đang phân vân, thậm chí có thể lạc lối giữa
những nguồn ảnh hưởng phức tạp, cũ mới tốt xấu lẫn lộn, ông đã chọn con
đường đi về phía truyền thống dân tộc, về phía quần chúng bị áp hức, con
đường của chủ nghĩa hiện thực phê phán Việt Nam.
Nguyễn Công Hoan bắt đầu viết truyện ngắn từ cái buổi bình minh của
văn xuôi viết bằng quốc ngữ. Năm 1922, ông đã có một số truyện ngắn in vào
tập Truyện thế gian của Tản Đà thư cục và một năm sau, ông tự xuất bản tập
truyện ngắn Kiếp hồng nhan. Khuynh hướng hiện thực của Nguyễn Gông
Hoan được dư luận chú ý từ khi những truyện ngắn của ông (trong thời kỳ
1928 -1931) được đăng dần trong Annam tạp chí của Tản Đà dưới mục Việt
Nam nhị thập thế kỷ xã hội ba đào ký. Cho đến năm 1935, ông đã cho ra mắt
bạn đọc khoảng 80 truyện ngắn và một số tiểu thuyết có giá trị như Lá ngọc
cành vàng (1935), Ông chủ (1935). Sau khi tập truyện ngắn Kép Tư Bền
được xuất bản (1935), thì tên tuổi Nguyễn Công Hoan đã nổi tiếng khắp
Trung Nam Bắc. Có thể nói Nguyễn Công Hoan là người đầu tiên khẳng định
phương pháp hiện thực phê phán trong lĩnh vực truyện ngắn và là ngọn cờ
đầu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam thời kỳ 1930 - 1935.
Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, nhờ ảnh hưởng của Đảng, của sách
báo Mác xít, của phong trào quần chúng khắp nông thôn và thành thị, các cây
bút hiện thực phê phán có điều kiện tung hoành thoải mái hơn trước và
dường như những tài năng đều gặp mùa nở rộ. Ngoài tiểu thuyết Cô làm
công, (1936) Bước đường cùng (1938), Cái thủ lợn (1939), Nguyễn Công
Hoan còn có nhiều tập truyện ngắn chất lượng cao hơn thời kỳ trước như Hai
thằng khốn nạn (1937), Đào kép mới (1937), Sóng vũ môn (1938), Ngưòi vợ
lẽ bạn tôi (1939). Riêng về truyện ngắn, Nguyễn Công Hoan đã viết tới hơn
80 truyện, trong đó có khoảng 30 truyện đả kích bọn quan lại và chế độ thực
dân. Từ những truyện viết về nỗi khổ của dân nghèo thành thị (trước 1935),
Nguyễn Công Hoan đã nhanh chóng chuyển sang những đề tài chính trị.
Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, ông đã trở thành người bạn đường đáng tin
cậy của giai cấp công nhân.
Với những thành tựu xuất sắc đã đạt được trước Cách mạng tháng
Tám (hơn 200 truyện ngắn vào hơn 20 truyện dài), Nguyễn Công Hoan xứng
đáng là một nhà văn lớn, tiêu biểu cho nền văn học hiện thực phê phán Việt
Nam. Nếu như Ngô Tất Tố tập trung viết về nông thôn, Vũ Trọng Phụng đả
kích vào giai cấp tư sản thì đóng góp chủ yếu của truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan là đã xây dựng thành công một phòng tranh châm biếm và đả kích các
kiểu quan lại và địa chủ cường hào ở nông thôn.
Trong kho tàng truyện ngắn của dân tộc, Nguyễn Công Hoan đã đóng
góp một khối lượng lớn và có một nghệ thuật khá điêu luyện. Đi vào thế giới
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, ta có cảm tưởng như bước vào một khu
triển lãm phong phú, nhiều màu nhiều vẻ về những cảnh ngộ, những con
người đang múa may, khóc cười trong chế độ cũ. Có những chuyện độc ác
tàn nhẫn, những chuyện xấu xa rởm hợm, những chuyện thương tâm ai oán
cùng những chuyện nực cười lố lăng trong cái xã hội thực dân phong kiến
đầy những ngang trái bất công. Bên cạnh đó là phác thảo chân dung của một
số vị tai to mặt lớn mà nhiều kẻ hách dịch, đầy quyền thế đang sống phè
phỡn trong giới thượng lưu lúc bây giờ.
Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan sinh động, hấp dẫn là vì tác giả
luôn luôn thay đổi các thủ pháp nghệ thuật, thay đổi màu sắc và cung bậc tình
cảm. Có truyện viết để gây căm hờn (Sáng - chị phu mỏ), có truyện viết để
làm kinh tởm (Gói đồ nữ trang), có truyện viết để gọi lòng thương (Anh xẩm),
có truyện chỉ để cười cho khoái trá (Samandjil, Anh hùng tương ngộ).
Nguyễn Công Hoan là người biết tổ chức cấu trúc chặt chẽ và thay đổi
cấu trúc hình thức rất linh hoạt. Có những truyện là tấn bi hài kịch ba màn (Ai
khôn, Đàn bà là giống yếu, Một tấm gương sáng) hoặc tấn bi kịch ba màn (ba
truyện Chiếc quan tài), có khi là bi hài kịch lẫn lộn (Thằng ăn cắp). Có truyện
kể theo lối viết thư (Thế là mợ nó đi Tây), có truyện nhân vật là một vật vô tri
(Chiếc quan tài), có truyện tác giả tự xưng là nhân vật chính (Tôi tự tử), có
truyện đả kích thẳng tay (Thịt người chết, Báo hiếu: trả nghĩa cha), lại có
truyện phải viết ngụ ngôn, bóng gió (Đào kép mới, Ngậm cười, Người vợ lẽ
bạn tôi)
Nếu như truyện ngắn của Thạch Lam tác động chủ yếu vào tình cảm và
cảm giác người đọc, truyện của Nam Cao đi sâu vào tâm lý bên trong của
nhân vật, thì truyện của Nguyễn Công Hoan nhằm nâng cao năng lực nhận
thức và khám phá các hiện tượng phức tạp của xã hội. Chế độ thực dân
phong kiến đầy rẫy những chuyện lừa bịp, khôi hài. Thế những kẻ đạo diễn
tấn hài kịch là bọn vua quan, bọn đế quốc thì lại làm ra vẻ nghiêm chỉnh, luôn
mồm nói chuyện đạo đức, nhân nghĩa, khai hoá, văn minh! Cho nên hầu hết
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan là nhằm bộc lộ mâu thuẫn giữa bản chất
và hiện tượng, giữa nội dung và hình thức để làm bật lên một tiếng cười đả
kích (Đào kép mới, Tinh thần thể dục). Mâu thuẫn toát lên từ tính chất phi lý
bên trong của một chính sách (Giá ai cho cháu một hào), một hiện tượng
(Xuất giá tòng phu), một con người (Thầy cáu), từ sự đối lập giữa hai cảnh
ngộ, hai tâm lý trong kết cấu của truyện (Hai cái bụng, Hai thằng khốn nạn,
Báo hiếu: trả nghĩa cha, Báo hiếu: trả nghĩa mẹ)
Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan có nhiều nét gần với truyện cười dân
gian. Nhìn chung cốt truyện quan trọng hơn nhân vật. Tiếng cười châm biếm
thường đến bất ngờ trong phần kết thúc của cốt truyện (Oẳn tà roằn, Thằng
ăn cắp, Đồng hào có ma, Thầy cáu, Samandj, Cái lò gạch bí mật). Nhiều
truyện được xây dựng theo kiểu tiếu lâm, cốt truyện đột ngột, bất ngờ, đầy
kịch tính. Từ những nụ cười tủm tỉm, độc giả bỗng cười phá lên vì ngạc nhiên
trước cái kết thúc không ai lường được. Có khi nhà văn hãm tình cảm của
độc giả lại, hoặc dùng lối nghi binh, đẩy đi chệch hướng một chút để làm cái
đà cho nó nhảy vọt đến kết thúc bất ngờ của chuyện (Lại chuyện con mèo,
Oẳn tà roằn). Nhiều truyện ngắn hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta
nhằm khẳng định một mẫu người (Anh Keng, Đất, Khói, Bông hoa súng), một
thái độ sống (Hãy đi xa hơn nữa), một quan hệ, một lối đánh giá (Người trở
về). Nhưng kết thúc truyện ngắn Nguyễn Công Hoan thì lại nhằm lật ngược
một cảnh ngộ, một tình huống, vạch mặt trái một chân dung, phanh phui một
mâu thuẫn nội tại. Chân lý được nhận ra thông qua một tiếng cười kinh ngạc.
Tất nhiên không phải lúc nào sự bất ngờ cũng làm bật ra tiếng cười. Có khi
sự kinh ngạc chỉ mang đến một nỗi sợ hãi khủng khiếp. Sự kinh ngạc trong
truyện châm biếm của Nguyễn Công Hoan là một sự kinh ngạc mang dấu trừ
và gây nên một hứng thú thẩm mỹ. Trong truyện Oẳn tà roằn người ta đều
đoán con của Nguyệt có thể là một đứa bé kháu khỉnh, đẹp đẽ. Nó là con
hoặc của Phong, hoặc của Bắc. Nhưng thật không ai ngờ nó lại giống "Oẳn tà
roằn" không biết chống gậy! Người ta kinh ngạc vì không ngờ giữa lý tưởng
xã hội thẩm mỹ tiến bộ và đối tượng bị châm biếm lại có một khoảng cách quá
xa đến như vậy. Độc giả bỗng nhiên khám phá ra được chân lý và điều đó gợi
nên những rung động, khoái cảm về mặt thẩm mỹ.
Nguyễn Công Hoan rất có sở trường về mặt khắc hoạ tính cách của
nhân vật phản diện. Ông thường dựng lên những chân dung biếm hoạ theo
kiểu phóng đại (Đàn bà là giống yếu). Có người cho rằng thủ pháp phóng đại
làm cho nhân vật trở thành dị dạng, thiếu tính hiện thực. Chúng ta đều biết, ở
các tác giả hài kịch, sự phóng đại chân chính không làm giảm giá trị hiện thực
của tính cách điển hình. Khi nhà văn đả kích một nhân vật nào đó thì có nghĩa
là ông ta đã đối lập lý tưởng xã hội thẩm mỹ của mình với đối tượng bị châm
biếm. Thủ pháp phóng đại nhằm tăng cường sự đối lập đó, nhằm làm cho
người đọc thấy rõ hơn khoảng cách quá xa giữa lý tưởng tiến bộ và nhân vật
bị phê phán (Oẳn tà rroằn). Sự phóng đại cũng nhằm cường điệu thêm cái
mâu thuẫn (giữa nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng) vốn có trong
bản thân đối tượng bị đả kích. Phóng đại nhân vật phản diện, làm cho người
đọc tập trung chú ý vào những nét chủ đạo đó. Nguyễn Công Hoan đã sử
dụng thủ pháp phóng đại trong cả ba trường hợp nói trên và có những thành
công nhất định. Tuy nhiên cần phải thấy rằng phóng đại tính cách và hoàn
cảnh là đặc trưng của tiểu thuyết trào phúng và hoạt kê. Do chưa nắm vững
những đặc điểm riêng về mặt thể loại đó, do có khuynh hướng muôn ngả về
hoạt kê hoặc chạy theo tiếng cười mà coi nhẹ ý nghĩa của nội dung, hoặc có
thiên kiến với nhân vật, nên đôi khi trong truyện Nguyễn Công Hoan có những
tiếng cười, những màn hài kịch không đúng lúc, đúng chỗ, hoặc có lúc nhà
văn chạy theo thủ pháp phóng đại một cách dễ dãi mà không đi sâu được vào
tâm lý xã hội của nhân vật.
Ở những truyện ngắn thành công, tiếng cười của Nguyễn Công Hoan
thường có chiều sâu bên trong. Đó là tiếng cười cay đắng, chua chát, cười ra
nước mắt (Thằng ăn cắp, Kép Tư Bền, Ngựa người và người ngựa, Tôi cũng
không hiểu tại làm sao.) hoặc tiếng cười đả kích sâu cay, gây cho người đọc
một thái độ căm phẫn, khinh miệt, một tinh thần phủ định triệt để (Thịt người
chết, Tinh thần thể dục). Nguyễn Công Hoan đã tiếp thu được truyền thống
lạc quan của quần chúng muốn dùng tiếng cười để tiễn đưa tất cả những cái
lỗi thời vào quá khứ. Nhưng cần chú ý là tiếng cười dân gian tuy hồn nhiên,
khoẻ khoắn, lành mạnh nhưng đôi khi còn bản năng, kinh nghiệm chủ nghĩa.
Nhìn chung một số truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan cần phải giải quyết
tốt hơn mối quan hệ giữa dân gian và trí tuệ, dân tộc và hiện đại.
Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan rất tập trung, cô đọng, cảm hứng
đi liền một mạch từ đầu đến cuối: "Ngắn (là hình thức) và thanh giản (là tinh
thần), đó là hai đức tính cơ bản của truyện ngắn". Mỗi chuyện chỉ mô tả một
việc, một cảnh, một nỗi lòng. Gọi là truyện ngắn mà lắm khi chẳng có chuyện
gì. Vì thế truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan rất khó kể lại cho người khác
nghe. "Truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng
bằng chi tiết”, "một bộ máy chạy bằng chi tiết. Trong việc viết truyện, quân là
chi tiết, nhà văn là tướng chỉ huy. Nếu đánh trận, là đánh vào đồn thì viết
truyện là tập trung đánh vào tình cảm nhất định của người đọc". Nguyễn Công
Hoan có lối viết lý luận rất Việt Nam, giản dị mà dí dỏm. Theo ông, viết truyện
ngắn không khác gì đánh cá bằng lờ ở chỗ nước chảy. Người đánh cá cắm
đăng, chăng lưới, rồi gõ cạch cạch để lừa cho cá chui tọt vào hom. "Thế thì
trong việc viết tiểu thuyết, cách cắm đăng, chăng lưới là cách trình bày các
chi tiết, tiếng gõ là câu văn để dẫn tư tưởng của độc giả... vào một ý mà tác
giả định nói". Ví dụ truyện ngắn Đào kép mới. Chúng ta thấy rất nhiều chi tiết
thú vị. Đây là bà chủ rạp tuồng An Lạc bán vé nhưng ế khách, "ngồi thừ mặt,
vạch vú ra cho con bú"; đây là bọn vua quan trên sân khấu, "vai vua gầy gò,
ngồi trên cao, trước cái phông sơn thuỷ, vuốt bộ râu đuôi ngựa làm bức rèm
mồm, nhìn hai dãy bá quan, hát những câu không ai nghe rõ. Bá quan nghiêm
chỉnh thỉnh thoảng sờ nạm râu anh em ruột với râu của vua, mắt liếc ngang
liếc dọc ra vẻ trịnh trọng". Rồi hai anh kép hát pha trò rẻ tiền "xắn áo thêu, xốc
lại mũ, múa may uốn éo, làm bộ giương súng, cưỡi ngựa, vặn ô tô, nhảy xe
đạp. Người xem hát cười rầm rầm." Lúc cả rạp im phăng phắc thì "một luồng
gió, qua chỗ đi tiểu đượm mùi cống, lọt vào cửa tò vò, làm cho cả rạp thấy
thoang thoảng mùi không khí hăng hăng"! Đó là chưa kể đến đoàn xe quảng
cáo mười lăm vị đào kép mới, có những cô tiểu thư "mắt toét, mặt trắng, má
đỏ", những "ông thì mặt đỏ, ông thì râu dài, ông thì mũi hin, tai bẹp, ông trông
ra phết thái sư"; lại có một cô tân thời, môi đỏ, đường ngôi rẽ lệch, "chiếc áo
căng lườn trông tức anh ách như một bài thơ thất luật"... Những chi tiết trên
được sắp xếp tài tình để cuối cùng dẫn đến một kết luận: "Từ hôm sau trở đi,
chiều nào cũng vậy, cứ độ năm giờ, bọn đào kép ban An Lạc lại mũ quăng,
phấn sáp, râu ria, ngồi trơ tráo trên xe cao su, đi giễu qua các phố để phơi
nắng cái đời hát tuồng còn ngắc ngoải. Nhưng những người đã xem diễn qua
một tối họ đều chán ngán, nghe tiếng trống kèn cổ động ầm ĩ, họ cũng biết
rằng gánh hát còn sống đó, song chẳng ai muốn để ý xem tối nay, trong rạp,
bọn vua quan trò hề ấy họ ậm oẹ với nhau những trò gì!". Đoạn kết trong
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan rất quan trọng. Chủ đề của truyện bao
giờ tác giả cũng gửi vào câu kết. "Câu kết truyện của tôi là một cái lờ. Nó
thường làm cho độc giả đột ngột, cũng như đến chỗ hẹp, nước chảy mạnh,
thì cá bất thình lình bị đẩy tuột vào hom".
Nguyễn Công Hoan đã để lại cho chúng ta một khối lượng truyện ngắn
phong phú với một nghệ thuật viết khá điêu luyện. Dư luận đều thống nhất
đánh giá cao công lao của ông trong việc xây dựng một nền truyện ngắn Việt
Nam hiện đại. "Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan cũng có thể nói là một
"bách khoa toàn thư" về xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
Nguyễn Công Hoan là bậc thầy về truyện trào phúng trong nền văn xuôi hiện
đại, nhưng ông còn là một nhà văn giàu tình cảm, viết những truyện xúc động
người đọc một cách sâu sắc. Chúng ta có thể so sánh ông với những nhà văn
viết truyện ngắn trào phúng nổi tiếng nhất như Guy đơ Môpatxăng (Guy de
Maupassant), Sêkhôp (Tchékov), Caragialơ (Caragiale)... Ông có tiếng cười
muôn hình nghìn vẻ, đặc biệt sảng khoái của người Việt Nam trong nhiều
truyện rất hấp dẫn, rất sống, vừa phong phú vừa dễ nhớ... càng đọc càng thú
vị; và đóng góp của ông vào văn học thế giới là đề tài của ông đều rút từ cuộc
sống thực ở Việt Nam, chứ ông không bắt chước, viết theo (...) một nhà văn ở
châu Âu, mặc dù ông cũng viết nhiều truyện ngắn trào phúng xuất sắc như ba
nhà văn nổi tiếng trên".
* * *
Trong thời kỳ hoạt động văn học trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn
Công Hoan dốc hết sức vào việc viết truyện ngắn chứ không đặt nhiều công
phu vào việc viết tiểu thuyết. Tắt lửa lòng(1933), Lệ Dung (1934), Lá ngọc
cành vàng (1935) là những cuốn tiểu thuyết lãng mạn, trong đó Lá ngọc cành
vàng có ý nghĩa tiến bộ nhất.
Những cuốn tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Công Hoan đã tố cáo bọn
quan lại nhưng đứng ở góc độ phê phán lễ giáo phong kiến và đấu tranh cho
hạnh phúc lứa đôi. Từ cuối năm 1935 và bước sang thời kỳ Mặt trận Dân chủ,
các tiểu thuyết Ông chủ, Bà chủ (1935), Bước đường cùng (1938) và Cái thủ
lợn (1939) mới trực tiếp nêu lên vấn đề giai cấp, trình bày mâu thuẫn xã hội ở
mặt trung tâm và bước đầu đã xây dựng được những tính cách điển hình
trong hoàn cảnh điển hình, do đó chất lượng hiện thực của tác phẩm cũng
càng ngày càng sâu sắc hơn. Từ những tiểu thuyết lãng mạn trước 1935,
Nguyễn Công Hoan dần dần khẳng định chủ nghĩa hiện thực phê phán trong
thể loại tiểu thuyết.
Ông chủ, Bà chủ là tiểu thuyết đầu tiên trong văn học công khai thời
Pháp thuộc đề cập trực diện đến xung đột giai cấp giữa nông dân và địa chủ,
giữa vợ chồng anh đĩ Nuôi - tá điền - và vợ chồng lão chủ ấp. Nguyễn Công
Hoan đứng hẳn về phía những người bị áp bức, bóc lột, tố cáo bọn địa chủ
dâm ô tàn ác đã làm tan nát một gia đình nông dân lương thiện: vợ bị bắt đi ở
vú rồi bị ông chủ làm nhục, chồng bị bà chủ sai người trói vào gốc cây đánh
đến chết, con lên sài vài ngày rồi cũng bỏ vì không có ai chăm sóc! Tuy thể
hiện người nông dân còn sơ lược, nhưng nhìn chung Ông chủ, Bà chủ là một
bản tố khổ chân thật, gây xúc động trong lòng người đọc. Cuốn tiểu thuyết đã
thể hiện sự kết hợp bút pháp châm biếm với bút pháp trữ tình theo kiểu
những truyện ngắn Kép Tư Bền, Anh xẩm, Con ngựa già.
Trên kia đã nói, trong những tác phẩm của Nguyễn Công Hoan thời kỳ
Mặt trận Dân chủ thì Bước đường cùng là cuốn tiểu thuyết có tính tư tưởng
cao và nội dung hiện thực sâu sắc nhất. Đề tài của Bước đường cùng là do
ảnh hưởng của sách báo Cộng sản thời bấy giờ. Có thể nói Bước đường
cùng đã phần nào minh hoạ một cách sinh động bằng hình tượng nghệ thuật
cuốn Vấn đề dân cày của Qua Ninh và Vân Đình. Cái vốn sống phong phú là
của Nguyễn Công Hoan. Nhưng được ánh sáng tư tưởng của Đảng rọi vào,
mọi vấn đề đều hiện lên sáng rõ hơn, mang tính quy luật và có chiều sâu trí
tuệ hơn. Sau khi viết xong Bước đường cùng, Nguyễn Công Hoan còn định
viết tiếp Bước đường ngoặt và Bước đường sáng mô tả quá trình vô sản hoá
và giác ngộ lý tưởng Cộng sản của anh Pha. Tất nhiên, do những điều kiện
chủ quan và khách quan ý định đó không thực hiện được.
Bước đường cùng là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Nguyễn Công Hoan
thực hiện được cái yêu cầu mà Ănghen đề ra cho chủ nghĩa hiện thực: xây
dựng những tính cách điển hình trong những hoàn cảnh điển hình. Hoàn cảnh
điển hình trong Bước đường cùng đã phản ánh được những mâu thuẫn cơ
bản của xã hội bấy giờ, đã tạo điều kiện cho các nhân vật như Nghị Lại, anh
Pha bộc lộ hết tính cách của mình. Anh Pha tuy chưa được cá thể hoá cao độ
nhưng đã mang đầy đủ những nét bản chất, điển hình cho một bộ phận nông
dân bị bọn địa chủ, quan lại đẩy vào con đường bần cùng, phá sản.
Bước đường cùng là một tác phẩm có tiếng vang lớn trong thời kỳ Mặt
trận Dân chủ. Các báo chí tiến bộ, đặc biệt là báo Tin tức của Đảng khen ngợi
và nhiều hội Ái hữu thợ thuyền xin diễn kịch. Bọn thống trị liền tìm cách đối
phó. Sáu tháng sau khi cuốn sách được xuất bản, thống sứ Bắc Kỳ ra lệnh
cấm lưu hành và tàng trữ Bước đường cùng ở Bắc. Rồi sau đó chúng cấm
lưu hành trong toàn Đông Dương. Tuy nhiên 5000 cuốn Bước đường cùng đã
đi vào giữa lòng quần chúng đóng góp vào những giá trị tinh thần của một
thời kỳ lịch sử.
Nếu như Ngô Tất Tố có Tắt đèn rồi lại có Việc làng thì sau cuốn tiểu
thuyết thành công Bước đường cùng, Nguyễn Công Hoan lại viết tiếp Cái thủ
lợn (1939). Cũng như Việc làng, Cái thủ lợn tố cáo bệnh hiếu danh của bọn
tổng lý cùng những hủ tục ở chốn nông thôn. Đây là câu chuyện tranh nhau
ngôi thứ để được phần biếu là cái thủ lợn. Ký Liễu và Lý Trung tranh nhau cái
ngôi tiên chỉ trong bảy năm liền, rút cục cả hai đều khuynh gia bại sản vì kiện
cáo và khao vọng linh đình, chỉ bở lũ quan lại đục nước béo cò.
Và trâu bò húc nhau thì ruồi muỗi chết. Để có tiền ném vào cuộc chạy
đua kiếm một chỗ ngồi cao hơn ở chốn đình trung, bọn hào lý càng ra sức
đục khoét những người nông dân vô tội.
Cái thủ lợn khép lại một giai đoạn của tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan,
bởi vì sau thời kỳ Mặt trận Dân chủ, ông đã lâm vào tình trạng bi quan, mất
phương hướng, từ con đường của chủ nghĩa hiện thực đi chệch sang con
đường của chủ nghĩa lãng mạn bảo thủ! Đời viết văn của Nguyễn Công Hoan
đến 1943 có thể gọi là bế tắc. Buồn vì những truyện ngắn chống chiến tranh
như Hồi còi báo động, Êu êu Mê đo bị kiểm duyệt, Pháp xoá hết rồi lại bị treo
giò một thời gian, buồn vì "vụ án Thanh đạm" cho là người đời không hiểu
mình, mặt khác, cảnh nhà lại vắng vẻ, cho đến 1945 không còn có bóng một
người đàn ông, hết người nợ bị đế quốc bắt lại đến người kia bị tù đày,
Nguyễn Công Hoan đâm ra chán đời, làm thơ lãng mạn. Nhà văn cho rằng
đời mình đang xuống dốc và sắp đến ngày cáo chung. Nhưng Nguyễn Công
Hoan không chết. Cách mạng tháng Tám đã kịp cứu sống nhà văn, giải phóng
cho gia đình, đồng thời giải phóng cho ngòi bút viết tiểu thuyết của ông.
Nguyễn Công Hoan chào đón Cách mạng với tất cả tấm lòng hân hoan
của mình và ngay khi chính quyền Cách mạng còn trứng nước, phải liên tiếp
đương đầu với thù trong giặc ngoài, ông đã hăng hái nhận mọi nhiệm vụ
Cách mạng giao cho. Ông làm Giám đốc Sở tuyên truyền Bắc Bộ rồi khi cuộc
kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông tình nguyện gia nhập quân đội, làm báo
Vệ quốc quân rồi làm Giám đốc Trường văn hoá quân nhân trung cấp, chủ
nhiệm tờ Quân nhân học báo. Chính những năm sống gian khổ trong núi rừng
Việt Bắc, Nguyễn Công Hoan đã trở thành đảng viên Cộng sản (1948) và khi
cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, do công lao phục vụ quân đội, ông
được tặng thưởng Huân chương Chiến thắng. Thủ đô Hà Nội được giải
phóng, Nguyễn Công Hoan mới trở lại hoạt động trong Hội văn nghệ Việt
Nam, được bầu làm Chủ tịch Hội nhà văn, khoá chấp hành đầu tiên (1957) và
sau đó là Uỷ viên Ban thường vụ Hội trong các khoá tiếp theo. Điều đáng
mừng là từ 1955 về sau, Nguyễn Công Hoan lại viết đều tay và những tác
phẩm của ông đã góp phần vào "sự lớn lên của thể loại tiểu thuyết đài những
năm 60". Ta có Tranh tối tranh sáng (1956), Hỗn canh hỗn cư (1961), Đống
rác cũ (tập I - 1963), Anh con trai người bạn đọc ấy (1965 - chưa in), Nếu
không có anh (chưa in). Ngoài tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan còn có một số
bút ký và tuỳ bút có giá trị.
Nhìn chung tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan trước và sau Cách
mạng tháng Tám, tuy nội dung có khác nhau nhưng vẫn có chung một số đặc
trưng thể loại.
Nguyễn Công Hoan viết văn cùng thời vói Hồ Biểu Chánh, Nguyễn
Trọng Thuật, Vũ Đình Long, cái thời người ta vẫn còn mang nặng quan niệm
dùng văn chương để chở đạo đức, để dạy luân lý cho người đời. Vượt qua
khuôn khổ của chủ nghĩa giáo huấn và chủ nghĩa quy phạm, nhà văn hiện
thực phê phán Nguyễn Công Hoan đã tuân theo chủ nghĩa khách quan lịch sử
trong khi phản ánh và bình giá hiện thực. Tuy nhiên, một số truyện ngắn,
truyện dài của ông vẫn còn có khuynh hướng chứng minh cho những luận đề
đạo đức. Khi ý đồ giáo huấn toát ra một cách khách quan, tự nhiên qua cốt
truyện và nhân vật, khi quan điểm đạo đức của nhà văn thống nhất với quan
điểm giai cấp của quần chúng lao động thì những truyện ngắn có ý nghĩa giáo
huấn đó mang tính chất tiến bộ (Báo hiếu: trả nghĩa cha, Báo hiếu: trả nghĩa
mẹ, Con ngựa già, Xuất giá tòng phu).
Nhưng khi quan điểm đạo đức có màu sắc bảo thủ hoặc cải lương
phong kiến thì những tác phẩm của Nguyễn Công Hoan có khuynh hướng rơi
vào chủ nghĩa chủ quan, dần dần đi xa chủ nghĩa hiện thực (Cô giáo Minh,
Thanh đạm, Danh tiết).
Trước 1945, tiểu thuyết Bước đường cùng không giấu giếm cái ý đồ
của một tác phẩm mang luận đề xã hội. Trong tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan,
thái độ yêu ghét, nhiệt tình bênh vực lý tưởng của tác giả cũng như khuynh
hướng của tác phẩm rất rõ rệt. Đó là một ưu điểm nổi bật. Tuy nhiên có lúc
Nguyễn Công Hoan đã hiểu một cách đơn giản quan niệm văn học phục vụ
chính trị: "Nghệ thuật là phương tiện vận tải nội dung chính trị. Khi ngồi vào
bàn viết, nhà nghệ thuật chỉ còn phải nghĩ việc dùng nghệ thuật cho khéo để
đưa cái đề tài có tính chất chính trị ấy cho nó mềm mại, hấp dẫn mà thôi".
"Nghệ thuật là hình thức, chính trị là nội dung". Nghệ thuật nào cũng có tính
khuynh hướng, những nội dung tác phẩm nghệ thuật không phải chỉ có chính
trị. Nghệ thuật phản ánh cuộc sống một cách sinh động, trong tính toàn vẹn
phức tạp của nó chứ không phải chỉ minh hoạ chính trị. Do cái quan niệm còn
có phần phiến diện và đơn giản đó, nên đôi khi Nguyễn Công Hoan có khuynh
hướng mượn nhân vật phát ngôn cho những vấn đề đạo đức (Cô giáo Minh)
hoặc chính trị (Tranh tối tranh sáng, Hỗn canh hỗn cư, tập truyện ngắn Nông
dân với địa chủ), nhân vật thường bị hiện đại hoá, không có một đời sống
riêng, một ngôn ngữ được cá thể hoá.
Tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan cứ như là một tranh liên hoàn của
những truyện ngắn nối liền nhau. Nhân vật, tuy có chân dung, lý lịch, có vận
mệnh riêng, nhưng đôi khi vẫn bị coi như một công cụ mà tác giả dẫn dắt qua
nhiều hoàn cảnh, môi trường của xã hội cũ, từ đó có dịp tố cáo những kiểu
người khác nhau của đẳng cấp thượng lưu (Đống rác cũ), những cảnh khổ
điển hình của nông dân và dân nghèo thành thị (Bước đường cùng).
Lối xây dựng tiểu thuyết theo kiểu xâu chuối các sự kiện và biến cố,
theo kiểu những truyện ngắn liên hoàn - mỗi truyện là một tháp đoạn
(épisode) hoàn chỉnh - về thực chất vẫn chưa vượt ra ngoài khuôn khổ lối kết
cấu của những truyện kể dân gian theo lối chương hồi của phương Đông
hoặc các tiểu thuyết trung thế kỷ và thế kỷ XVI ở châu Âu, trong đó nhân vật
phiêu du qua nhiều hoàn cảnh, môi trường khác nhau của xã hội phong kiến.
Lối kết cấu tiểu thuyết này, nếu tôn trọng sự phát triển hợp lôgic nội tại của
nhân vật, nếu xem việc xây dựng tính cách nhân vật là một trong những
nhiệm vụ trung tâm của tiểu thuyết thì vẫn có thể có những tác phẩm xuất
sắc. Nhưng nếu như lúc nào đó, nhà văn hiểu nó theo một quan niệm dễ dãi
thì có nguy cơ biến nhân vật thành một phương tiện. Trên kia đã nói, trong
Bước đường cùng, chương thành công nhất là lúc anh Pha lên công đường
hầu kiện. Nhưng ở chương đó, anh Pha chỉ được nhà văn coi như một "cái
cớ để tả nổi bật những cảnh ức hiếp, bóc lột ở cửa quyền. Rõ ràng là ở đây
anh Pha đóng vai phụ mà những vai chính phải là những tên quan huyện, lính
cơ, lính lệ, đội lệ, thừa hái v.v... Cho nên cái gọi là "nội tại" của nhân vật, tức
là anh Pha, ở mấy chục trang này, vì lẽ ấy mà không có". Còn trong Đống rác
cũ thì ở một số chương, Anbe Thừa bị tác giả giật dây, đi ngật ngưỡng giữa
cuộc đời đen bạc như một con rối! Nguyễn Công Hoan sẽ cho nó, bằng ngón
võ lừa bịp, leo dần lên những bậc thang phú quý. Nó sẽ làm lang thuốc, làm
chủ báo, làm chủ tầu thuỷ, làm hàn lâm, làm nghị viện dân biểu được thưởng
Nam Long bội tinh! Nó sẽ đi qua những môi trường khác nhau, giữ những
chức vị khác nhau để tác giả có dịp tố cáo những thủ đoạn tráo trở, lừa bịp
của các tầng lớp thượng lưu trong xã hội thực dân phong kiến. Tiểu thuyết
Nguyễn Công Hoan mở ra theo chiều rộng của các môi trường, hoàn cảnh
bên ngoài nhưng lại chưa quan tâm đúng mức đến chiều sâu bên trong, đến
sự vận động tâm lý của các nhân vật.
Trước Cách mạng, có lúc Nguyễn Công Hoan đã nghĩ rằng mình chưa
hề viết tiểu thuyết xã hội mà chỉ viết tiểu thuyết phong tục. Theo ông, Bước
đường cùng là tiểu thuyết phong tục. Những chuyện đẻ đái, chửi bới nhau vì
mất gà mất qué, thù hằn nhau rồi bỏ rượu lậu vào ruộng nhau, những cảnh
thu thuế, đốc thuế, vay nợ, ăn khao, phạt vạ đều là phong tục. Thật ra, Bước
đường cùng là một cuốn tiểu thuyết có luận đề xã hội, nó không lấy việc miêu
tả phong tục làm cứu cánh. Tuy vậy, không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Công
Hoan lại gán cho Bước đường cùng cái tên tiểu thuyết phong tục. Trong tiểu
thuyết, Nguyễn Công Hoan hay mượn các nhân vật, các chương để tái hiện
các sự kiện lịch sử quan trọng hoặc gửi gấm vào đấy cái vốn hiểu biết phong
phú, đồ sộ của mình về các tầng lớp, các môi trường, các nghề nghiệp khác
nhau của xã hội đương thời. Nguyễn Công Hoan rất có ý thức khôi phục lại
cái không khí xã hội, các phong tục, sinh hoạt, ngôn ngữ, tín ngưỡng... của
một thời kỳ lịch sử. Về mặt này ông là người có biệt tài.
Ông am hiểu lịch lãm xã hội cũ, biết rất tỉ mỉ về các địa phương, các
danh nhân, đặc sản từng vùng của đất nước; ông lại có một trí nhớ rất đặc
biệt, nhớ chính xác đến từng chi tiết nhỏ, nhớ từ cái áo the nước dưa và cái
quần cháo lòng lộn trái của tên lý trưởng đến từng lời từng chữ trong cái trát
của một viên tri huyện sức về làng, "nhớ như chôn vào ruột" lời ăn tiếng nói,
cử chỉ hành động trong đời công đời tư của những kẻ có thế lực, có địa vị
trong cái xã hội thực dân phong kiến lúc bấy giờ. Cũng có thời kỳ cái ý định
phục hiện lịch sử của ông mang mầu sắc của tư tưởng phục cổ (Thanh đạm),
nhưng nhìn chung những trang tiểu thuyết cung cấp cho chúng ta nhiều tài
liệu quý về xã hội, sử học, văn học, ngôn ngữ học, kinh tế học... Chúng ta hãy
đọc chương XX của Tranh tối tranh sáng, trong đó, qua các phiên chợ của
một huyện nhỏ, Nguyễn Công Hoan muốn dựng lại không khí xã hội của thời
kỳ nạn đói bắt đầu hoành hành ở nông thôn 1945. Trước hết là bọn đầu cơ
tích trữ ùn ùn đổ về, làm cho gạo tăng vọt lên mấy giá trong một ngày. Bọn họ
từ Hà Nội xuống, Hải Dương, Hưng Yên sang, là những bà hàn, bà nghị, là
người của hãng Chiêu hoà, của An bộ đội, của Yamađa thương cục Nhật
Bản, của Viển Đông công ty, của nhà Sa-lê của hãng Măng-đét, của sở Binh
lương Pháp. Trên trời dưới gạo nhưng những người đói vẫn kéo nhau từng
đoàn rách rưới đi ăn xin và mỗi phiên chợ lại xuất hiện những "người ngồi
hàng mới". Trước hết họ bán áo ba-đờ-suy, giầy Gia Định hoặc những thứ xa
xỉ như bát đĩa cổ, hoành phi, câu đối khảm, ảnh thống chế Pêtanh. Hồi sau đã
thấy bày những thứ cần thiết cho đời sống hàng ngày: bát đĩa phố, mâm gỗ,
nồi đồng, nồi đất, chảo gang.... Hồi sau nữa là những mâm bồng sơn, bát
hương, ỉ và áo chủ. Cuối cùng họ dỡ nốt gian nhà ra bán với những cột, xà,
rui mè, bó lạt, ôm lá.... Từ đó trở đi không thấy người "ngồi hàng mới" đâu
nữa. Trên chiếc nền nhà cũ lộ thiên, rêu mọc mỗi ngày một xanh, rau sam lan
rộng ra và cỏ lên mỗi ngày một cao. Con có vàng thoát chết nay bò về, cuộn
khoanh trên nền hè cũ, chờ người chủ nhà không biết đi ăn xin lang thang tận
đâu hay đã chết đói ở các lề đường cầu chợ nào...
Đọc một chương tiểu thuyết Hỗn canh hỗn cư, ta thấy Nguyễn Công
Hoan nghiên cứu rất sâu các tổ chức cộng đồng ở nông thôn Việt Nam trước
Cách mạng tháng Tám, những mặt hay và những mặt dở của các phường,
các hội, các họ. Hội thì như hội Kỳ Anh của các cụ đến 50 tuổi, phường thì
như phường hoạn lợn, phường hát chèo, họ thì như họ cơm, họ thịt, họ rượu.
"Có hội, có phường, có họ người ta mới có thể nói đến chuyện vào nóc ở
trong làng như nóc làng, nóc giáp, nóc chạ, nóc tư văn, nóc các cụ... Những
hội, phường, họ, nống cho cái tệ hương ẩm, nhưng một mặt cũng thành thói
quen tốt cho làng Văn Chương là có ý thức tương trợ. Bởi vậy mấy năm Bình
dân, nhiều hội mới (hội tương tế, hội bài trừ hủ tục, hội dạy quốc ngữ, hội tập
thể dục) được thành lập".
Những tài liệu về xã hội cũ mà trước đây Nguyễn Công Hoan chưa có
dịp đưa được vào truyện ngắn, truyện dài thì ông đã viết lại một phần trong
Đời viết văn của tôi và đặc biệt từ năm 1970, ông đã ghi lại được khoảng 600
sự việc lớn nhỏ. Hồi ký Đời viết văn của tôi làm ta nhớ lại các sự kiện lịch sử
60 năm văn học, đặc biệt là quá trình hình thành từ những bước đầu của các
ngành báo chí xuất bản, giáo dục. Tác phẩm này cũng ghi lại phác thảo chân
dung của một số nhà văn, nhà thơ như Tản Đà, Vũ Đình Long, Vũ Trọng
Phụng, Khái Hưng, Nhất Linh, Vũ Bằng, Lê Văn Trương... Năm 1978, Nhà
xuất bản Tác phẩm mói đã chọn một số đoạn tiêu biểu (trong số 600 đoạn) in
thành Nhớ vào ghi. Trong hoàn cảnh nước ta, trước đây các ngành bảo tồn
bảo tàng, xã hội học, dân tộc học chưa phát triển thì đây là những tài liệu rất
tốt giúp cho các thế hệ về sau dựng lại bức tranh chân thật về một thời kỳ lịch
sử đã qua, đồng thời cung cấp cho họ những chi tiết chính xác về cái xã hội
tù túng, quằn quại dưới ách thực dân phong kiến.
Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài... là
những nhà văn đã có tên tuổi từ trước Cách mạng tháng Tám. Thông qua tác
phẩm của các nhà văn ấy chúng ta có thể rút ra những vấn đề lý luận trong
quá trình chuyển hoá về thế giới quan, phương pháp sáng tác và phong cách
nghệ thuật của các nhà văn lớp trước, những bài học kinh nghiệm khi viết về
đề tài xã hội cũ, những đặc điểm cách tân của tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ
nghĩa so với tiểu thuyết hiện thực phê phán, những yêu cầu nghệ thuật khi
xây dựng những bộ tiểu thuyết có quy mô sử thi, có dung lượng lớn và sức
mạnh tổng hợp, bao quát được những thời kỳ lịch sử quan trọng của dân tộc.
Những tác phẩm Nguyễn Công Hoan viết sau Cách mạng tháng Tám
dường như có ý thức bổ sung những mảng hiện thực trước đây chưa có
trong truyện và tiểu thuyết hiện thực phê phán của ông. Đống rác cũ viết về
thời kỳ 1916 - 1920, trước khi ông viết truyện Sóng vũ môn (1920), Tranh tối
tranh sáng và Hỗn canh hỗn cư viết tại thời kỳ 1940 - 1945, thời kỳ có những
chuyển biến dữ dội trong xã hội Việt Nam, chuẩn bị những điều kiện để bùng
nổ Cách mạng tháng Tám. Như thế có thể thấy một ý đồ của nhà văn muốn
dựng lại trong tác phẩm của mình một chặng đường của xã hội Việt Nam
trong 30 năm đầu (1915 - 1945) của thế kỷ XX. Mặt khác, cần thấy rằng văn
học hiện thực phê phán Việt Nam có những hạn chế nhất định do đặc trưng
của phương pháp sáng tác, do những điều kiện hoạt động công khai ở một
nước thuộc địa. Văn xuôi hiện thực xã hội chủ nghĩa cần phải làm nhiệm vụ
bổ sung và hoàn chỉnh bức tranh hiện thực trong các tác phẩm văn xuôi hiện
thực phê phán, nhất là các mảng đả kích vào bọn đế quốc và bè lũ tay sai,
miêu tả phong trào cách mạng của quần chúng lao động, đặc biệt là thời kỳ từ
khi Đảng ta thành lập cho đến Cách mạng tháng Tám. Tiểu thuyết Tranh tối
tranh sáng, Hỗn canh hỗn cư, Anh con trai người bạn đọc ấy đã có ý thức làm
nhiệm vụ đó. Có những mảng hiện thực hoàn toàn mới mẻ, có những mảng
hiện thực cũ được tô đậm lại với một cách nhìn sâu sắc, chính xác và toàn
diện hơn.
Tranh tối tranh sáng và Hỗn canh hỗn cư đã phát huy được những mặt
mạnh vốn có trước đây của Nguyễn Công Hoan trong văn học hiện thực phê
phán. Ngòi bút Nguyễn Công Hoan vẫn tỏ ra sắc sảo khi tố cáo bọn nhà giàu
tham lam vô độ ở thôn quê, những bọn hào lý kỳ mục sâu mọt, hống hách và
ăn bẩn, những bọn quan lại coi việc đục khoét là hành động khôn ngoan "bất
độc lớp anh hùng", những thủ đoạn lừa lọc, dâm ô của các tầng lớp thượng
lưu xã hội. Nhưng nếu như trước đây nhà văn tô đậm mặt tham nhũng, dâm
ô, đểu cáng thì giờ đây, với một thế giới quan mới, ông đã tập trung tố cáo
mặt chính trị phản động và những thủ đoạn bóc lột kinh tế của chúng. Tri
huyện Lê Sung (trong Hỗn canh hỗn cư) có cả một chiến thuật khôn ngoan và
độc ác để bắt bớ Cộng sản, triệt hạ những thôn xóm và gia đình cách mạng.
Hàn Thưởng (trong Tranh tối tranh sáng) là tay chân đắc lực của lão công sử
già Vamê trong những âm mưu chống phá cách mạng. Thời kỳ Nhật vào
Đông Dương, chúng đứng ra thu mua thóc gạo cho nhà nước và giở những
thủ đoạn gian trá để bóc lột dân chúng.
Tranh tối tranh sáng cũng dành cả một chương XXXII để lột mặt trái
những trò hề chính trị nhạt nhẽo của Bảo Đại và nội các Trần Trọng Kim, để
tố cáo những tấn hài kịch và bi kịch của mấy cái đảng thân Nhật mà thực chất
là những ổ phản động và lưu manh đang tìm cách phất lên trong cái không
khí lộn xộn, nhố nhăng, ông hoá ra thằng, thằng hoá ra ông! Cứ trở về cái
giọng hài hước, châm biếm quen thuộc khi lột trần bản chất hài kịch của giai
cấp thống trị suy vong là Nguyễn Công Hoan rất thành công.
Tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa của Nguyễn Công Hoan đã khắc
phục được những mặt hạn chế trước đây của tiểu thuyết hiện thực phê phán.
Dưới ách kiểm duyệt gắt gao, văn xuôi hiện thực phê phán không có điều kiện
tập trung mũi nhọn đả kích vào kẻ thù số một của dân tộc. Giờ đây, lần đầu
tiên trong tác phẩm Nguyễn Công Hoan, xuất hiện những phác thảo chân
dung châm biếm của các vị thượng quan người Pháp. Đó là toàn quyền
Paskiê buôn bán làm giàu bằng cách lừa bịp, toàn quyền Đờcu truỵ lạc, bất
lực và hèn nhát, thống sứ Saten được vợ các viên tri phủ, tri huyện khen là
tuổi tuy đã cao nhưng tính khí hãy còn "vui vẻ trẻ trung”, công sứ già Vamê
đục khoét nổi tiếng mà vẫn cứ muốn được khen là thanh liêm theo kiểu "một
thứ cô đầu già, giữ tiếng vô lý là không đĩ"! Cũng lần đầu tiên, trong tiểu
thuyết Nguyễn Công Hoan (Anh con trai người bạn đọc ấy) xuất hiện cả một
lý lịch đầy đủ về ngài tổng giám mục Đulây-khâm mạng toà thánh Đông
Dương và Thái Lan, một người Ái Nhĩ Lan nhưng nhập quốc tịch Mỹ, về ngài
Fr. Anselmô Tađêô Lê Hữu Từ, giám mục địa phận Phát Diệm, quyền nhiếp
chính địa phận Bùi Chu, đại diện quân sự của Quốc trưởng Bảo Đại tại Phát
Diệm! Nguyễn Công Hoan có nhiều tài liệu về lý lịch "bất hảo" của bọn phản
động chóp bu, nhưng ngòi bút tiểu thuyết của ông thường chỉ sắc sảo, sinh
động khi khắc hoạ tính cách bọn tay sai lớp dưới. Đó là linh mục Phan Thành
Nhân đưa Pháp về xứ Đồng bắn giết, hãm hiếp, biến gác chuông nhà thờ
thành lô cốt giặc và xung quanh thành trại giam người và tra tấn. Cha Nhân
đích thân dẫn quân đi càn quét các làng bên lương, cắm thánh giá lên nóc
chùa, sai lính đập tượng Phật để "mở rộng nước Chúa"! Hàng ngày Nhân đeo
lon trung uý sang bốt làm việc như một sĩ quan trong đội lính đánh thuê, chỉ
có sáng chủ nhật Nhân mới mặc áo chùng thâm bịt tà, luồn súng lục vào
quyển Kinh Thánh lúc làm lễ! Độc đáo nhất là hình tượng cha Phước, người
Y-pha-nho với những thủ đoạn bóc lột và ngu dân vừa trắng trợn, vừa tinh vi
xảo quyệt. Là người truyền giảng ở nhà thờ những lúc cần cha Phước cũng
chống gậy đi đòi tiền nhà con chiên ở ngoài phố, giàu sụ lên, nhưng vẫn bủn
xỉn chi ly từng đồng một với kẻ dưới, tự xưng là "nhà tu hành sống một đời
khổ hạnh" nhưng tích trữ vàng như một con buôn và cha thường "lấy hắc ín
sơn ra ngoài những thỏi vàng rồi đem nhét chặt vào những đệm." Cha hành
nghề tôn giáo nhưng vẫn làm cả việc thuyết lý, dụ dỗ, doạ nạt công nhân nhà
in khi họ đình công và báo mật thám bắt những con chiên dại dột trót xưng tội
là đã liên hệ với Việt minh Cộng sản. Cha chỉ huy cả một hệ thống tay sai
được phân công tỷ mỉ là thầy Ấn, thầy Điền, thầy Gia, thầy Lễ. Thầy Ấn giúp
cha mọi việc kinh doanh in ấn, kể cả việc theo dõi khám xét công nhân và cúp
phạt lương tháng. Thầy Gia trông nom việc mua bán xây dựng và thu thuế
nhà đất. Công việc của thầy Điền "mặt sắt" là thu tô đòi nợ, "thầy phải vừa
cứng rắn cho người ta sợ, vừa mềm dẻo cho người ta khỏi trả ruộng. Nghĩa
là cột chặt hai cánh tay người dân cày vào đất đai của Nhà Chung". Khác hẳn
với thầy Điền, thầy Lễ "đẹp kiểu con gái”, da trắng, má phình, đi đứng khoan
thai kiểu nhà nho. Nhiệm vụ của thầy không phải chỉ trông nom việc lễ lạy ở
nhà thờ mà Cha giao cho thầy từ việc trong đến việc ngoài, việc chung và
việc riêng, việc nhỏ đến việc lớn. Thầy phải theo dõi giáo dân, xem họ có gì
sai trái, phạm thời thế hay không? Thầy phải đóng vai trò của người nội trợ,
ghi sổ xem ai biếu xén cha những gì, "trong bếp còn bao nhiêu mỡ, bao nhiêu
trứng, bao nhiêu bơ, bao nhiêu pho mát, bao nhiêu thịt cá, hoa quả". Thầy
còn giúp cha việc cho vay nặng lãi, tích trữ hàng hoá, trong mấy năm chiến
tranh thầy đã chất trong kho nào là xà phòng Con ngựa, nào là sợi Nam Định,
nào là vải chúc bâu, nào là giấy nhật trình cùng nhiều thứ khan hiếm khắc
như dầu hoả, rượu bổ, thuốc đagiênăng, đá lửa". Cha giao cho thầy toàn
quyền quản lý của cải, dường như buông lỏng không nhòm ngó gì, nhưng đố
thày có thể "tơ hào nửa đồng kẽm"! Lần đầu tiên trong tác phẩm Nguyễn
Công Hoan, tên cố đạo nước ngoài, kẻ được giao nhiệm vụ chăm sóc phần
hồn cho bầy con chiên ngoan đạo ở một nước thuộc địa, đã hiện nguyên hình
là tên tay sai nguy hiểm của chính quyền thực dân trong việc ru ngủ, mua
chuộc, doạ dẫm những người nông dân công giáo yêu nước, là tên bóc lột
vừa thu tô và cho vay nặng lãi theo kiểu phong kiến, vừa đầu cơ tích trữ, kinh
doanh theo kiểu con buôn tư sản.
Anh con trai người bạn đọc ấy là một bước tiến đáng kể của tiểu thuyết
Nguyễn Công Hoan trong những năm 60. Trong cuốn tiểu thuyết này, Nguyễn
Công Hoan đã biết tự kiềm chế mình, ông sử dụng một bút pháp hiện thực
tỉnh táo, không pha trộn tuỳ tiện phóng đại và hoạt kê, nên các đối tượng bị đả
kích hiện ra chân thật hơn, tác dụng phê phán sâu sắc hơn. Ông cũng không
sa vào cái bệnh hiện đại hoá nhân vật và đôi khi vi phạm tính lịch sử một cách
tuỳ tiện, chủ quan như ở một vài cuốn tiểu thuyết khác.
Tuy có những nhược điểm nói trên, truyện và tiểu thuyết những năm 60
của Nguyễn Công Hoan đã góp phần bổ sung và hoàn chỉnh thêm cái tập hợp
chân dung của bọn thống trị trong văn học hiện thực phê phán trước đây. Mặt
khác, những tập ký như Những ngày tháng Tám ở Côn Đảo (ghi theo lời các
chiến sĩ cách mạng), Người cặp rằng hầm xay lúa năm 1930 (ghi hồi ký cách
mạng của Chủ tịch Tôn Đức Thắng) cũng như những tiểu thuyết Tranh tối
tranh sáng, Hỗn canh hỗn cư đã cố gắng dựng lại hình ảnh những chiến sĩ
Cộng sản đấu tranh trong nhà tù đế quốc hoặc hoạt động bí mật của phong
trào Mặt trận Dân chủ và Mặt trận Việt Minh. Hỗn canh hỗn cư tập trung tái
hiện phong trào yêu nước và cách mạng của một làng quê ở vùng đồng bằng
Bắc Bộ những năm trước Cách mạng tháng Tám. Hình ảnh nhân dân trong
cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm cũng được ghi lại trong tiểu thuyết
Xổng cũi (1947), tập truyện ngắn Nông dân với địa chủ (1956) và đặc biệt
trong tiểu thuyết Anh con trai người bạn đọc ấy (1965). Tuy còn có những mặt
yếu về vốn sống và khả năng thể hiện, nhưng tác phẩm trên đây đã nói lên rất
rõ tấm lòng yêu mến và khâm phục của nhà văn Nguyễn Công Hoan đối với
các chiến sĩ Cộng sản và nhân dân anh hùng. Đặc biệt trong Anh con trai
người bạn đọc ấy, lần đầu tiên hình ảnh người dân công giáo yêu nước và
những cán bộ hoạt động bí mật trong vùng tề Bùi Chu, Phát Diệm đã hiện lên
khá sinh động và gây những ấn tượng rất đẹp đẽ. Đây là một cố gắng của
Nguyễn Công Hoan trong quá trình chuyển hoá từ hiện thực phê phán sang
hiện thực xã hội chủ nghĩa, lúc nhà văn đã ngoài 60 tuổi.
Thông qua sự chuyển hoá của ông cũng như của các nhà văn hiện
thực phê phán khác, chúng ta có thể rút ra những quy luật chi phối sự chuyển
biến về thế giới quan, phương pháp sáng tác và phong cách của các nhà văn
lớp trước trong quá trình chiếm lĩnh phương pháp sáng tác mới.
Lao động nghệ thuật là một quá trình lao động công phu, liên tục và đòi
hỏi phải hết sức say mê. Trước Cách mạng tháng Tám, trong hơn 15 năm,
Nguyễn Công Hoan đã tập trung với nghề viết văn. Tuy bận dạy học, nhưng
lúc ăn, lúc sắp ngủ, lúc đứng thẫn thờ một mình, bao giờ ông cũng suy nghĩ
đăm chiêu về các cốt truyện và nhân vật, "đến nỗi đối với những sự việc,
những nhân vật ở đời, tôi như người đãng trí, vô tình". Lao động nghệ thuật
đối với ông lúc đó là một nhu cầu nội tại. Những trong kháng chiến chống
Pháp, Nguyễn Công Hoan bận nhiều công tác khác trong quân đội, ông coi
công việc viết văn chỉ là phụ, mãi đến sau hoà bình, khi trở lại Hội nhà văn,
ông mới tập trung vào chuyện sáng tác. Cái hiện tượng gần như đứt quãng
này đã xảy ra đối với một số nhà văn hiện thực phê phán, nó gần như là một
quy luật trong thời kỳ quá độ của quá trình chuyển hoá. Nguyễn Công Hoan,
cũng như Ngô Tất Tố, lúc bấy giờ có cái dè dặt của một người cầm bút mà
tuổi đời đã cao, không còn cái "vui vẻ hồn nhiên", cái nhạy bén sắc sảo như
trước. Nhưng ở đây có những nguyên nhân phổ biến hơn. Đối với cuộc sống
mới, con người mới, các nhà văn hiện thực phê phán còn quá bỡ ngỡ. Họ
"như cái cây mới đánh lên để trồng lại ra chỗ khác, rễ chưa ăn với đất mới".
Mà vốn sống về xã hội cũ thì chưa biết để làm gì? Trong thời kỳ kháng chiến
chống Pháp, chúng ta chưa khuyến khích các nhà văn lớp trước viết lại về đề
tài xã hội cũ. Cho nên có lúc Nguyễn Công Hoan đã nghĩ một cách hồn nhiên:
"Tây đi, Nhật cút, vua quan tổng lý đã về vườn, còn đâu là đế quốc và phong
kiến nữa mà phải đả kích". Viết về đề tài xã hội cũ bằng phương pháp hiện
thực phê phán thì không được nữa rồi. Mà phương pháp sáng tác mới thì
chưa chiếm lĩnh được. Đây là nguyên nhân cơ bản của hiện tượng lúng túng
hoặc chưa thành công trong thời kỳ quá độ.
Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa kế thừa những thành tựu của chủ
nghĩa hiện thực phê phán, nhưng từ chủ nghĩa hiện thực phê phán chuyển
sang chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa không phải là một gạch nối thẳng
tắp. Ở đây có những nhiệm vụ phải giải quyết như những quy luật trong quá
trình chuyển hoá. Trong thế giới quan của các nhà văn hiện thực phê phán
nước ta có những ảnh hưởng tích cực của phong trào vô sản và các phong
trào dân tộc, nhưng cũng có nhiều ảnh hưởng phức tạp của hệ tư tưởng tư
sản và hệ tư tưởng phong kiến. Đó là chủ nghĩa cải lương tư sản, chủ nghĩa
nhân đạo tiểu tư sản, tư tưởng bảo thủ phong kiến. Mặt khác, như trên đã nói,
trong chủ nghĩa hiện thực phê phán Việt Nam có những ảnh hưởng của chủ
nghĩa lãng mạn tiêu cực và chủ nghĩa tự nhiên. Không phủ định một cách có ý
thức những mặt tiêu cực nói trên, không thể chuyển hoá tốt sang phương
pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa. Nam Cao chuyển hoá được sớm, một phần
là vì anh đã được chuẩn bị trong thời kỳ hoạt động văn hoá Cứu quốc bí mật,
mặt khác là vì sau này trong Đôi mắt và Nhật ký ở rừng, anh đã có ý thức phủ
định một cách mạnh mẽ những mặt yếu trong thế giới quan cũ của mình,
nhằm chuẩn bị điều kiện cho sự hình thành một thế giới quan mới. Trong
những trường hợp sự phủ định đó diễn ra một cách dễ dãi hoặc có phần chủ
quan, thì sớm hay muộn, những mặt tiêu cực sẽ bộc lộ một cách tự phát trong
quá trình chuyển hoá. Sự xuất hiện có vẻ như đột nhiên của một số tiểu
thuyết mang màu sắc tự nhiên chủ nghĩa (Đống rác cũ) những năm trước sau
1960 chính là nằm trong quy luật đó.
Sự chuyển biến về thế giới quan là một điều kiện tiên quyết, nhưng
chưa đủ để bảo đảm cho một nhà văn lớp cũ chuyển mình sang phương
pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa. Phương pháp sáng tác mới có những yêu
cầu mới về mặt điển hình hoá và phản ánh hiện thực, những yêu cầu này quy
định nhiệm vụ xây dựng hình tượng con người mới xã hội chủ nghĩa và miêu
tả cuộc sống mới một cách lịch sử - cụ thể trong quá trình phát triển cách
mạng. Ở nhà văn Nguyễn Công Hoan, vốn sống cũ, nhất là sự hiểu biết
những mặt xấu của xã hội thì đã quá thuần thục, nhưng vốn sống mới và sự
hiểu biết con người mới thì có những mặt chưa nhuần nhị. Trong những năm
kháng chiến chống Pháp, ông ở trong rừng với cơ quan, xa nơi làng bản, hơn
nữa tuổi đã cao, không có điều kiện xông xáo xuống các cơ sở hoặc tham gia
các chiến dịch lớn. Mặt khác, những điển hình con người cũ đã định hình, đã
thành khuôn, tạo nên bằng hàng nghìn năm của chế độ phong kiến và bằng
ngót trăm năm của chế độ thực dân, còn con người mới thì tính cách chưa
định hình, còn đang phát triển, nên rất khó nắm bắt. Điều đáng chú ý là nếu
vốn sống cũ không được hoàn chỉnh và bổ sung bằng một vốn sống mới,
không được đánh giá lại dưới ánh sáng của một thế giới quan mới thì nhà văn
cũng không thể nào thành công khi muốn dựng lại toàn cảnh những phong
trào cách mạng dân tộc dân chủ trước Cách mạng tháng Tám.
Văn xuôi hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta đã đi qua một chặng
đường hơn 30 năm. Nhìn lại con đường đi của một số thế hệ nhà văn lớp cũ,
lớp mới, chúng ta rút ra được một bài học: không thể tiếp cận phương pháp
hiện thực xã hội chủ nghĩa bằng một lối viết năng khiếu, kinh nghiệm chủ
nghĩa. Muốn có những tác phẩm hiện thực xã hội chủ nghĩa thành công,
không thể giẫm chân mãi trên một lối mòn bản năng mà phải vươn cao hơn.
Trước Cách mạng, Nguyễn Công Hoan tiếp thu khá tốt truyền thống thơ ca
của dân tộc và những truyện cười dân gian. Nhưng chủ nghĩa hiện thực xã
hội chủ nghĩa đòi hỏi dân gian mà phải trí tuệ, dân tộc mà phải hiện đại. Trong
quá trình chuyển hoá, một số nhà văn hiện thực phê phán đã không giải quyết
được tốt yêu cầu này của phương pháp sáng tác mới. Cho nên khi dựng
những cảnh ngắn sinh động như trong cuộc đời thật, họ thường thành công
hơn khi viết một truyện dài hoặc xây dựng những tiểu thuyết có quy mô lớn
đòi hỏi một trình độ tổng hợp và khái quát cao.
* * *
Nguyễn Công Hoan là người có công khai phá, mở đường cho chủ
nghĩa hiện thực phê phán Việt Nam và góp phần đặt nền móng cho văn xuôi
hiện thực với một khối lượng tác phẩm đồ sộ. Những thành tựu sáng tác vẻ
vang đó trước Cách mạng tháng Tám đủ khẳng định ông là một nhà văn xuôi
lớn của dân tộc. Năm 1963, nhìn lại bước đường đi và sự nghiệp lớn của một
bậc đàn anh đáng kính, nhà văn Tô Hoài viết:
"Nếu ta nhẩm từ cái hồi mà lời văn bổng trầm khóc đứng khóc ngồi đến
thời kỳ văn chương sạch sẽ kiểu "Tự lực", thì lực lưỡng như một tay đô vật
không có địch thủ từ Kiếp hồng nhan tới nay, truyện ngắn, truyện dài Nguyễn
Công Hoan sừng sững tạo thành một thế Tam Đảo, Ba Vì hùng vĩ, vượt qua
cả hai thời kỳ, tiến vào Cách mạng tháng Tám."
Nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết Bước đường cùng của Nguyễn Công
Hoan đã trở thành những tác phẩm văn học "cổ điển” trong chương trình của
các trường phổ thông và đại học. Nguyễn Công Hoan đã gây được một ảnh
hưởng sâu đậm đối với những thế hệ văn xuôi về sau như Tô Hoài, Bùi Hiển,
Nguyễn Khải, Chu Văn...
Những tập bút ký, những tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan sau Cách
mạng tháng Tám đã góp phần bổ sung, hoàn chỉnh thêm bức tranh xã hội và
cái tập hợp chân dung của giai cấp thống trị mà ông đã dựng lên trong văn
học hiện thực phê phán. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Công Hoan sau
1954 không phải chỉ có văn xuôi mà nó còn phong phú hơn, toàn diện hơn.
Tuy tuổi đã cao nhưng ông vẫn lao động không mệt mỏi, đóng góp phần tích
cực của mình vào nhiều lĩnh vực khác nhau trong sự nghiệp chung của dân
tộc.
Nguyễn Công Hoan đã viết đều cho các báo, tạp chí (Văn nghệ, Tác
phẩm mới (Tạp chí Văn học) và các Nhà xuất bản (Văn học, Tác phẩm mới).
Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, ông còn cộng tác mật thiết với ban địch
vận của quân đội, thường xuyên có bài trên Đài phát thanh, nói chuyện với
đồng bào, đồng nghiệp trong cách thành thị còn bị tạm chiếm ở miền Nam.
Nguyễn Công Hoan là người đã theo dõi, đã chứng kiến nhiều sự kiện xã hội,
chính trị và văn học những năm đầu thế kỷ XX; từ khi còn là học sinh, ông đã
rất say mê truyền thống văn học trào phúng của dân tộc. Cho nên không phải
ngẫu nhiên mà Nguyễn Công Hoan đã viết được nhiều tiểu luận nghiên cứu
có giá trị về Nguyễn Khuyến, Nguyễn Thiện Kế, Tú Xương, Tản Đà, Tú Mỡ,
trong đó đáng chú ý nhất là những bài Con người Tú Xương, về cuốn Thơ
văn Nguyễn Khuyến. Những bài hồi ký, biên khảo của Nguyễn Công Hoan,
mặc dầu có những điểm còn phải trao đổi bàn bạc thêm, nhưng đã cung cấp
cho người đọc những nhận định, những tư liệu quý để khắc hoạ một chân
dung văn học (Tản Đà, Tú Mỡ), xác định một văn bản, một tiểu sử, một chi
tiết về phong tục sinh hoạt của xã hội Việt Nam thời trước. Vốn là người hiểu
biết khá rõ về gia đình các nhà nho và từng lớp quan lại Bắc Kỳ hồi đầu thế
kỷ, nên ông có khả năng đính chính xuất xứ và chú thích các bài thơ rất tốt.
Qua những bài viết về Nguyễn Khuyến, Tú Mỡ, ta thấy Nguyễn Công Hoan
còn làm thơ trào phúng và hiểu biết về thơ khá sâu sắc.
Trong Hội nhà văn, Nguyễn Công Hoan là một nhà văn thuộc lớp anh
cả, lại là một cây bút bực thầy, nhưng ông vẫn khiêm tốn viết hàng loạt bài
phỏng vấn các đồng nghiệp để khéo léo giới thiệu kinh nghiệm sáng tác cho
thế hệ trẻ (Hỏi chuyện các nhà văn). Ông khuyên các nhà văn trẻ phải "giữ
vững bản sắc dân tộc", "cố gắng dùng cho hết tiếng nói Việt Nam", "dùng cho
đúng lối nói Việt Nam". Muốn thế phải có một vốn ngôn ngữ giàu có, phải luôn
luôn "học" quần chúng để hiểu biết tiếng mẹ đẻ. "Tôi rất lấy làm xấu hổ vì
mang tiếng nói là người viết văn, tôi chưa biết hết nghĩa của tiếng nói Việt
Nam. Nhất là những nghĩa của phương ngôn, tục ngữ. Và tôi chưa tận dụng
được tiếng nói và lối nói đặc biệt của dân tộc Việt Nam. Ví dụ thế nào là Con
dao hai, con dao ba, thế nào là vớ cọc chèo. Nguyễn Công Hoan đã cộng tác
với các cơ quan khoa học xã hội trong việc soạn từ điển và ngữ pháp Việt
Nam. Nhờ vốn hiểu biết sâu sắc về xã hội cũ mà trong các bài viết về ngôn
ngữ, ông có biệt tài khi xác định từ nguyên của các chữ và đính chính lại một
số phương ngôn, thành ngữ bị hiểu sai nghĩa.
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Công Hoan phong phú nhiều mặt.
Những tác phẩm của ông không những được bạn đọc trong nước hâm mộ,
yêu mến mà còn có tiếng vang rộng khắp ở nước ngoài. Nhiều truyện của
ông đã được dịch ở Liên Xô, Bungari, Hunggari, Anbani, Cộng hoà dân chủ
Đức, Cu Ba, Ba Lan, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản...
Nhà nước ta đã tặng thưởng nhà văn Huân chương Lao động hạng
nhất về sự nghiệp sáng tác của ông. Nguyễn Công Hoan là tấm gương của
một người đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho sự nghiệp văn học, tấm
gương của một nhà văn đã lao động không mệt mỏi suốt nửa thế kỷ, từ khi
còn là một học sinh trên ghế nhà trường cho đến lúc đã nằm trên giường
bệnh, tấm gương của một nhà văn yêu nước, một ngòi bút chiến đấu vì lẽ
phải, không sợ bất cứ một sự đe doạ nào của chính quyền thực dân phong
kiến, tấm gương của một nhà văn Cộng sản chiến đấu cho độc lập tự do và lý
tưởng xã hội chủ nghĩa.
(Lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Công Hoan
Nxb Văn học, 1983).
NGUYỄN CÔNG HOAN (6/3/1903 – 6/6/1977)NGUYỄN HOÀNH KHUNG
Nhà văn Việt Nam; một trong những đại biểu ưu tú của trào lưu văn học
hiện thực phê phán trước Cách mạng tháng Tám. Sinh tại làng Xuân Cầu,
huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay là thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện
Châu Giang, tỉnh Hải Hưng, trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học
thất thế, bất mãn với xã hội thực dân và bọn quan lại mới. Lúc nhỏ, học ở
trường Bưởi; 1922, học Trường cao đẳng sư phạm. Sau khi tốt nghiệp
(1926), dạy học cho tới Cách mạng tháng Tám. Bị chính quyền thực dân
không ưa, Nguyễn Công Hoan phải đổi đi nhiều nơi: thị xã Hải Dương, huyện
Nam Sách, Kinh Môn, thị xã Lào Cai, thành phố Nam Định, Trà cổ... Ông bắt
đầu viết truyện từ 1920; 1922, viết những tập Truyện thế gian giúp Tản Đà
thư điếm ở Hà Nội. Tập truyện ngắn in đầu tiên là Kiếp hồng nhan (1923). Từ
1930, thường xuyên viết mục Xã hội ba đào ký trên Annam tạp chí của Tản
Đà và được dư luận chú ý. Từ đó, Nguyễn Công Hoan sáng tác liên tục vừa
truyện ngắn, vừa truyện dài, có mặt thường xuyên trên báo chí và văn đàn
công khai đương thời.
Nguyễn Công Hoan có biệt tài về truyện ngắn trào phúng. Đó chính là
bộ phận sáng tác có ý nghĩa nhất của ông đối với văn học dân tộc. Tập Kép
Tư Bền gồm 15 truyện xuất bản tháng 6 năm 1935, gây một tiếng vang lớn
khi đó. Với hàng trăm truyện ngắn trào phúng, ông đã dựng nên bức tranh
sinh động về cái xã hội thực dân nửa phong kiến tàn ác, đầy dẫy bất công, giả
dối, thối tha đương thời; đả kích không thương tiếc bọn quan lại tàn ác, tham
lam, bỉ ổi, bọn địa chủ cường hào keo bẩn, ngu dốt, bọn tư sản vô lương tâm
chỉ biết chạy theo đồng tiền và lối sống tư sản lố lăng, đồi bại... Đồng thời,
nhà văn thể hiện khá chân thực, cảm động tình cảnh cơ cực của những
người nghèo khổ, từ người phu xe, anh kép hát, em bé ăn mày, những "con
sen", "thằng nhỏ" ở thành phố... đến người nông dân ở nông thôn, người
công nhân ngoài hầm mỏ... Ông đã bênh vực họ khi họ bị xã hội ức hiếp
khinh miệt, vu oan giá hoạ. Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ (1936 - 1939),
ngòi bút trào phúng của ông càng sắc bén và mang tính chiến đấu mạnh mẽ.
Ở nhiều truyện, nhà văn hướng tới những vấn đề thời sự, chính trị nóng bỏng
đương thời, đả kích những âm mưu, chính sách lừa bịp của chính quyền thực
dân. Tuy vậy, tiếng cười trào phúng của Nguyễn Công Hoan cũng có khi còn
thiếu một nội dung xã hội nghiêm túc. Do chưa có được sự gắn bó thật sâu
sắc với nhân dân lao động nghèo khổ nên tuy đứng về phía họ, bênh vực họ,
ông vẫn nhìn họ chưa thật chính xác, tin yêu, có khi còn hài hước mỉa mai. về
nghệ thuật, Nguyễn Công Hoan tỏ ra khá già dặn, độc đáo trong thể loại
truyện ngắn trào phúng. Ông giỏi phát hiện những tình huống mâu thuẫn đáng
cười và có cách kể chuyện thật tự nhiên, có duyên, hấp dẫn, với một ngôn
ngữ sinh động, rất gần khẩu ngữ hàng ngày.
Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Công Hoan còn là tác giả của
hơn hai chục truyện dài. Nhìn chung, truyện dài Nguyễn Công Hoan không có
giá trị như truyện ngắn của ông. Những truyện viết thời kỳ đầu (Tắt lửa lòng,
1933; Lệ Dung, 1934; Lá ngọc cành vàng, 1935...) thường kể những mối tình
éo le, trắc trở, bi thảm; tuy có những yếu tố phê phán xã hội, nhưng chủ yếu
được viết bằng phương pháp lãng mạn chủ quan, nhiều tưởng tượng dễ dãi,
ít chân thực. Khá hơn cả là Lá ngọc cành vàng, một truyện cảm động, phê
phán lễ giáo và bọn quan lại phong kiến tàn ác, khinh miệt người nghèo. Cô
giáo Minh (1935) là một tiểu thuyết luận đề mang nặng tư tưởng bảo thủ, chủ
trương giải quyết xung đột "mới, cũ" bằng sự thoả hiệp, thực chất là đầu hàng
của "phái mới" đối với "phái cũ", trái với giải pháp "đoạn tuyệt" đại gia đình
phong kiến để giải phóng cá nhân trong Đoạn tuyệt của Nhất Linh. Trong thời
kỳ Mặt trận Dân chủ, truyện dài Nguyễn Công Hoan chuyển mạnh sang
khuynh hướng hiện thực phê phán với Ông chủ (1935), Bà chủ (1935), Bơ vơ
(1936), Nhật ký cô làm công (1936), Bước đường cùng (1938), Cái thủ lợn
(1939)... Ông chỉ đề cập đến chủ đề nông dân địa chủ khá thành công. Đó là
chuyện một tên chủ ấp dâm đãng, quỷ quyệt, tàn bạo, đã bày mưu đặt kế
cướp vợ người tá điền nghèo, rồi vợ chồng hắn lại vu oan cho anh, đánh đập
anh đến chết. Bước đường cùng là một tác phẩm đặc sắc viết về nông thôn
Việt Nam đương thời, vạch rõ quá trình phá sản không cưỡng được của
người nông dân dưới sự áp bức, bóc lột tàn tệ của giai cấp địa chủ phong
kiến, đồng thời hé ra con đường đấu tranh để giành quyền sống của họ. Ngòi
bút Nguyễn Công Hoan đang sung sức, tiến bộ do tiếp thu được ảnh hưởng
của phong trào Mặt trận Dân chủ do Đảng lãnh đạo thì xã hội Việt Nam bước
vào một thời kỳ hết sức đen tối. Vốn dễ gần gũi với tư tưởng phong kiến bảo
thủ, khi mất phương hướng, Nguyễn Công Hoan đã viết những tác phẩm bảo
thủ, lạc hậu, tiêu biểu là Thanh đạm (1942). Thanh đạm lý tưởng hoá một
nhân vật quan lại phong kiến xuất thân khoa bảng. Tác phẩm còn thi vị hoá lễ
giáo và trật tự phong kiến với cái tôn ti trật tự có tính chất nô lệ, do đó, hạ
thấp vai trò và nhân cách nhân dân lao động. Tác phẩm đã bị báo chí cách
mạng bí mật và dư luận tiến bộ phê phán.
Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Công Hoan hăng hái tham gia
công tác cách mạng: ông làm Giám đốc kiểm duyệt báo chí Hà Nội, rồi Phó
giám đốc Sở tuyên truyền Bắc Bộ. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, nhà văn
gia nhập bộ đội, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân và Giám đốc Trường
văn hoá cán bộ quân nhân của Bộ Tổng tư lệnh, đồng thời, là Chủ nhiệm và
biên tập tờ Quân nhân học báo. Sau khi hoà bình lập lại (1953), ông công tác
hẳn ở Hội văn nghệ Việt Nam, làm cán bộ Nhà xuất bản Văn nghệ. Khi Hội
nhà văn thành lập (1957), ông được bầu làm Chủ tịch Hội khoá đầu (1957 -
1958) và Uỷ viên Ban thường vụ trong các khoá chấp hành Hội tiếp sau đó,
đồng thời, là Uỷ viên ban chấp hành Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Việt
Nam. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Công Hoan ít sáng
tác, nhưng sau ngày hoà bình, ông trở lại sáng tác đều đặn. 1955, Nguyễn
Công Hoan cho in Nông dân và địa chủ, tập truyện ngắn về cải cách ruộng
đất. Những ngày tháng Tám ở Côn Đảo và Người cặp rằng hầm xay lúa ở
ngục Côn Lôn năm 1930 (1960) ghi lại những hồi ức của các chiến sĩ cách
mạng và của Chủ tịch Tôn Đức Thắng trong nhà tù Côn Đảo. Nguyễn Công
Hoan có ba truyện dài về xã hội Việt Nam trước cách mạng: Tranh tối tranh
sáng, (1956), Hỗn canh hỗn cư (1961), Đống rác cũ (mới in tập I, 1963). Với
vốn sống phong phú và ánh sáng của nhận thức mới, Nguyễn Công Hoan đã
lên án chính sách bóc lột, đàn áp tàn bạo của thực dân Pháp, phát xít Nhật và
bộ mặt phản động, xấu xa của bọn quan lại, tư sản, địa chủ, cường hào; đồng
thời, đã cố gắng thể hiện vai trò quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng vô sản. Nhưng những tác phẩm đó còn có những nhược điểm về tư
tưởng và nghệ thuật: chất liệu hiện thực bề bộn chưa được khái quát sâu sắc,
các nhân vật chưa thật có sức sống, kết cấu chưa chặt chẽ, nhiều chi tiết vụn
vặt, rườm rà, đôi khi sống sượng, đậm tính chất tự nhiên chủ nghĩa, nhất là
trong Đống rác cũ. Với sự quan tâm và hiểu biết phong phú về truyền thông
văn học và ngôn ngữ dân tộc, Nguyễn Công Hoan còn viết những tiểu luận về
Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Nguyễn Thiện Kế, Ngô Tất Tố, Tản Đà... đăng
trên các báo chí văn học. Tập hồi ký Đời viết văn của tôi (1971) cung cấp
nhiều tài liệu sinh động về đời sống văn học Việt Nam trước 1945.
Nguyễn Công Hoan mất tại Hà Nội, để lại một số bản thảo truyện dài,
bút ký, hồi ký, tiểu luận đã hoặc đang hoàn thành. Với hơn năm mươi năm lao
động văn học bền bỉ, có mặt trên văn đàn ngay từ khi nền văn xuôi "quốc
ngữ" còn non nớt, Nguyễn Công Hoan có những đóng góp đáng kể vào sự
phát triển của văn xuôi Việt Nam. Hàng trăm truyện ngắn đặc sắc và tiểu
thuyết Bước đường cùng đã khẳng định vị trí hàng đầu của nhà văn trong trào
lưu văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
(Từ điển văn học, tập II, NXB KHXH.1984)
NGÒI BÚT NHÀ VĂN NGUYỄN CÔNG HOAN, LỰC LƯỠNG, DŨNG KHÍ, LẠ LÙNG
TÔ HOÀI
Nhà văn Nguyễn Công Hoan sinh ngày 6 tháng 3 năm 1903, mất ngày
6 tháng 6 năm 1977. Thọ 74 tuổi.
Khối lượng sáng tác của Nguyễn Công Hoan thật đồ sộ, từ 1920 - ấy là
năm mà người viết lời bạt này mới chào đời, Nguyễn Công Hoan đã sáng tác
liên tiếp hơn nửa thế kỷ, đến bây giờ thống kê chưa đầy đủ mà đã tới hơn 30
truyện dài, hơn 200 truyện ngắn và mấy chục bài nghiên cứu, phê bình văn
học nghệ thuật.
Nhà văn Nguyễn Công Hoan, khi thiếu thời đã từng ở lâu Hà Nội.
Không kể sau này, khi Cách mạng tháng Tám thành công và từ 1954, nhà văn
đã sống và làm việc ở thủ đô, từ sơ học đến trung học cậu bé và chàng thanh
niên Nguyễn Công Hoan đều đi học, trọ học ở trung tâm thành phố, các quận
Hoàn Kiếm, Ba Đình ngày nay. Không phải ngẫu nhiên, các truyện ngắn, đề
tài thành phố của nhà văn đều bắt nguồn từ đời sống Hà Nội ở thời kỳ ấy.
Một gia tài tác phẩm lớn lao của Nguyễn Công Hoan mà thời gian sống
và ảnh hưởng của nhà văn phản ánh trong sáng tác đã trải dài cả thế kỷ, là
những mốc, những chứng tích, những nguyên vật liệu mắt thấy tai nghe cho
những lập luận, kết luận của cả một thời kỳ văn học.
Các tác phẩm Kiếp hồng nhan và tập Xã hội ba đào ký của Nguyễn
Công Hoan được in vào đầu thập kỷ 20 - đến nay sắp sang những năm 90,
thế mà ngạc nhiên xiết bao - bạn đọc có thể đọc một truyện ngắn trong Kiếp
hồng nhan viết ở những năm tháng xa xôi ấy, với truyện ngắn Chiếc xe lam,
một trong những sáng tác sau cùng, khi nhà văn vào Sài Gòn giải phóng năm
1975, không hề thấy khoảng cách thời gian ở truyện ngắn Chiếc xe lam với
truyện ngắn Sóng vũ môn. Tại sao Nguyễn Công Hoan không lúc nào cũ,
trong khi ngày nay bạn đọc khó lòng còn để mắt thêm một lần đọc các tác
phẩm văn chương biền ngẫu hay văn chương tín điều, trung hiếu tiết nghĩa,
thiện ác đơn giản của giai đoạn văn học quốc ngữ thời kỳ đầu.
Bí quyết ấy có thể cắt nghĩa dễ dàng. Được chắt lọc từ ý nghĩa tư
tưởng đời sống xã hội, văn Nguyễn Công Hoan đã sáng tạo bằng tiếng nói
hàng ngày của xung quanh. Ở Nguyễn Công Hoan, tả chân, tả thực kia và
Nguyễn Công Hoan hiện thực sau này chỉ là rút kinh nghiệm sai đúng hay
thiếu sót rồi bổ sung, phát triển tuyệt nhiên không phải trăn trở "lột xác", "nhận
đường". Khi cách mạng chuyển giai đoạn, khi đất nước thoát vòng nô lệ, dân
tộc được độc lập, tự do thì bút pháp nhà văn càng được tăng lực.
Một khi sáng tác đã là chứng tích, là chất liệu tấm gương phát triển văn
học và khi một sáng tác vào cuộc sống đã gợi lên những tác động khác nhau
thì bao giờ cũng đem lại những lập luận, những lý giải giúp ích cho nhận định
của mỗi giai đoạn văn học. Ở nước ta, hiếm có những cây bút hơn được Vũ
Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan trong đời văn đã trải những tranh luận
quyết liệt. Riêng Nguyễn Công Hoan, một số tác phẩm, ở từng giai đoạn khác
nhau đã là mấu cứ cho những tranh cãi gay go nhưng rất cần thiết cho phong
trào và lực lượng văn học Việt Nam qua các thời kỳ.
Ít nhất cũng đếm được 4 cuộc quan trọng.
1. Bây giờ các nhà nghiên cứu thường nhắc đến thời kỳ Mặt trận Bình
dân 1936 - 1939, cuộc tranh luận của phái văn học Vị nghệ thuật và phái văn
học Vị dân sinh mà sau cùng lực lượng văn học Vị dân sinh do một số nhà lý
luận phê bình tiến bộ chủ trương đã thắng lợi. Chất liệu để có được cuộc
tranh luận mà chân lý nghệ thuật tiến bộ lần đầu tiên đã thắng lợi trên bình
diện văn học nước ta, đó là tập truyện ngắn Kép Tư Bền, rồi đến tiểu thuyết
Bước đường cùng của nhà văn Nguyễn Công Hoan.
2. Cuối thời kỳ Bình dân, cuộc tranh luận về thuyết bảo thủ hay tự do
trong luân lý gia đình đã thông qua tiểu thuyết Cô giáo Minh và Đoạn tuyệt
của Nhất Linh. Người ta ít nhắc đến cuộc tranh luận này, sự việc đã xảy ra khi
sắp có chiến tranh thế giới lần thứ hai, vấn đề bị nhạt hẳn tính chất xã hội. Số
người tham gia không rộng khắp các báo ba kỳ, mà chỉ bài của tác giả Cô
giáo Minh cùng một số người ủng hộ ở báo Tiểu thuyết thứ bẩy, báo Tin văn
với một bên là hai cây bút Tự lực văn đoàn. Rồi cũng không ngã ngũ.
3. Tiểu thuyết Danh tiết và tiểu thuyết Thanh đạm (1942) hai truyện đều
được in khi đã bắt đầu chiến tranh thế giới thứ hai, thực dân Pháp đặt lại cơ
quan kiểm duyệt từng bài báo, từng trang sách. Bây giờ có một bài đọc sách
ngắn khoảng nửa gang tay chữ trên báo Cờ giải phóng, cơ quan tuyên truyền
của Đảng Cộng sản Đông Dương, in litô phát hành bí mật, phê bình tư tưởng
bảo thủ trong tiểu thuyết Thanh đạm. Rất tiếc khi nước nhà độc lập, các nhà
phê bình nghiên cứu văn học vẫn cứ nguyên tinh thần bài đọc sách ngắn ngủi
ấy mà nói lại. Tôi không có ý bênh vực sẵn cho tiểu thuyết Thanh đạm.
Nhưng, ừ thì tác phẩm ấy có thể chứa đựng tư tưởng bảo thủ, nhưng phải
được lý giải rằng bảo thủ thế nào, cái gì không thể chỉ im lặng và lặp lại một
bài điểm báo thông thường.
4. Tiểu thuyết Đống rác cũ (Tập I, in 1963) cuốn tiểu thuyết sau cùng
của Nguyễn Công Hoan gây dư luận khác nhau. Nhưng trong một tình hình
khá là bi hài. Tiểu thuyết này gồm hai tập, Nhà xuất bản Văn học in xong tập I,
nhưng cũng chưa phát hành rộng cuộc tranh luận đã tùm lum. Thế là tập II
không tiếp tục ra đời. Cho tới nay cũng không mấy bạn đọc biết câu chuyện
đầu và đuôi thế nào, chỉ mới đọc các bài báo chê Đống rác cũ tự nhiên chủ
nghĩa. Nêu lại vấn đề này, tôi cũng không đơn giản đòi khôi phục giá trị tiểu
tuyết Đống rác cũ. Mà chỉ muốn có phê bình, có sự nghiên cứu, phân tích,
đánh giá nhiều chiều, nhiều mặt một tác phẩm để tiến tới chân lý được. Hay
làm lại một hoạt động văn học bình thường, lành mạnh trong tình hình hiện
nay.
Tư tưởng và văn phong Nguyễn Công Hoan, từ sáng tác đầu tiên đến
tác phẩm sau cùng, xuyên suốt một nét. Tác phẩm Nguyễn Công Hoan đã tới
với người đọc, gây phản ứng và tác động mạnh mẽ đến độ nhiều cuộc tranh
luận đã nổ ra. Một đời viết, tác phẩm chồng lên kể hàng trăm, hàng trăm tác
phẩm trải 4 trận phê bình ra trò, mỗi cuộc một nội dung khác nhau đã có thể
thấy ngòi bút nhà văn lực lưỡng, dũng khí, lạ lùng.
* * *
Nhân dịp phát hành tiểu thuyết Một kiếp người, tôi xin chép lại một kỷ
niệm của tôi về tiểu thuyết ấy với nhà văn. Tuy câu chuyện nhỏ, cũng thật rõ
nét con người, thái độ làm việc, cả đến trang nghiêm túc nhất nhưng lúc nào
cũng vui tính của nhà văn.
Bấy giờ vào khoảng 1967.
"Cục địch vận Quân đội nhân dân tổ chức gặp mặt văn nghệ sĩ làm việc
sáng tác phục vụ nhiệm vụ địch vận. Các vùng bị tạm chiếm miền Nam
đương ngập ngụa sách vở phản động, văn chương đồi truỵ. Ta cần tìm cách
thổi luồng gió mới vào. Các anh ấy đề nghị chúng tôi viết những truyện - viết
theo lối sách chưởng, tình báo, lãng mạn đương thịnh hành, nhưng nội dung
lành mạnh, có tính chiến đấu. Và ký tên khác. Để in công khai trong thành
hoặc in ngoài chiến khu, đem lồng bìa giả, bí mật đưa vào các đô thị.
"Chưa ai làm gì thì anh Nguyễn Công Hoan đã xong một tiểu thuyết
trên một trăm trang bản thảo. Hồi kháng chiến chống Pháp anh đã viết một
truyện theo yêu cầu như thế do Quân đội in, quyển tiểu thuyết tên là Xổng cũi,
ký tên tác giả Nguyễn Văn Lung, (anh cắt nghĩa Lung là lung tung thiên ấy
mà).
"Tôi đọc quyển tiểu thuyết vừa ráo tay của anh rồi nói:
- Nhưng đoạn anh tả tình yêu chưa được.
- Sao?
- Anh cho trai gái Sài Gòn bây giờ còn viết thư tình như thư tình trong
truyện của anh từ hồi "min nớp xăng cà cộ". Có cả sợi tơ lòng, đài gương,
dấu bèo, nhạn én đổi thay, tháng ngày thấm thoát."
Anh vỗ đùi, cười to:
- Ờ nhỉ, cái việc ấy lâu nay mình không có thực tế. Hỏng!
Anh bằng lòng với nhận xét ấy của tôi và tự giải thích theo cách hài
hước riêng. Rồi anh bỏ cả cuốn tiểu thuyết. Không phải là việc dễ dàng đâu.
Một số nhà văn khác trạc tuổi anh bấy giờ, còn có chủ trương viết biền
ngẫu lối cổ như vậy. Nhưng chịu nghe, anh Nguyễn Công Hoan vẫn trẻ trung
như thường.
Ít lâu sau, Nguyễn Công Hoan viết hẳn lại cuốn tiểu thuyết ấy. Chính là
cuốn tiểu thuyết có hôm nay trên tay bạn đọc. Thoạt đầu Nguyễn Công Hoan
lấy tên là Nếu không có anh. Nhưng anh bảo tiểu thuyết này còn đưa bên địch
vận xem, nếu chưa được và cần sửa nữa, anh cũng sẽ sửa và có ký tên "lung
tung thiên" cũng chẳng sao, miễn là tác phẩm của anh đến được với bạn đọc
cần thiết nhất của anh.
(Lời nói đầu in trong tiểu thuyết Một kiếp người
(tên của tác giả Nếu không có anh) NXB Hà Nội, Hà Nội, 1989)
MỘT NHÀ VĂN TIÊU BIỂU CỦA CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC PHÊ PHÁNHỒNG CHƯƠNG
Nguyễn Công Hoan là một trong những nhà văn tiêu biểu của chủ
nghĩa hiện thực phê phán Việt Nam. Ông bắt đầu viết văn từ năm 1920,
nhưng từ năm 1935, ông mới được nổi tiếng với tác phẩm Kép Tư Bền. Ông
đã viết rất nhiều, nhất là truyện ngắn. Những truyện ngắn của ông được in
thành nhiều tập. Chỉ tính riêng về truyện dài ông cũng đã viết trên mười cuốn.
Những truyện ngắn của ông rất có giá trị. Tính chất hiện thực của Nguyễn
Công Hoan chủ yếu là ở trong các truyện ngắn của ông (nhất là những tập
Kép Tư Bền, Đào kép mới), về truyện dài của ông thì Bước đường cùng là có
giá trị hơn cả.
Nguyễn Công Hoan chuyên tả những cảnh xấu xa bỉ ổi, những cảnh bất
công, vô lý trong xã hội nước ta dưới thời thuộc Pháp. Trong truyện Báo hiếu:
trả nghĩa mẹ ông công kích hạng trọc phú ăn ở với mẹ không ra gì. Tên này
gọi mẹ bằng "con vú già", để vợ đầu độc mẹ chết cho khuất mắt, rồi "trả nghĩa
mẹ" bằng cách làm đám ma thật linh đình để báo hiếu. Trong truyện Hai thằng
khốn nạn ông dựng lên một tên trọc phú keo kiệt khác: một ông Nghị bỏ ra ba
hào mua một thằng bé nhưng vì lưng thằng bé có nhiều nốt ruồi nên hắn ta
đã bớt lại hai xu mà vẫn còn tiếc là đắt quá! Trong truyện Mất cái ví ông đã
nhạo báng lão tham đểu cáng giả vờ mất ví để vu cho người bà con nghèo
của hắn, làm cho người này không thể đến quấy nhiễu, nhờ vả nó. Những
nhân vật phản diện trong các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan đều lấy trong
giai cấp thống trị hồi bấy giờ: một ông quan hà lạm hay áp bức dân, sách
nhiễu dân, một cụ bá biển lận keo kiệt, một bà phán ăn không ngồi rồi chuyên
đánh tổ tôm, đọc tiểu thuyết nhảm nhí, đi ve trai rồi lại "bán trôn” để cho chồng
được thăng quan tiến chức... Với truyện Đào kép mới Nguyễn Công Hoan
chế giễu một cách kín đáo trò hề thực dân Pháp đưa Bảo Đại "hồi loan" bày
ra trò "cải tổ Triều đình" để lừa gạt nhân dân. Ông ví nó với lối quảng cáo bịp
bợm của một gánh hát đã mất hết tín nhiệm. Nguyễn Công Hoan thường đặt
nhân vật của ông vào trong những cảnh ngộ éo le buồn cười để làm một trò
đùa cho bạn đọc. Trong nhiều tác phẩm của ông, Nguyễn Công Hoan thường
cho những người giàu chạm trán với những người nghèo. Sự chạm trán giữa
người giàu và người nghèo là cái cốt của hầu hết các truyện ngắn, truyện dài
của ông. Trong cuộc xung đột giữa người giàu và người nghèo này bao giờ
cảm tình của Nguyễn Công Hoan cũng nghiêng hẳn về phía người nghèo.
... Nguyễn Công Hoan có lối miêu tả rất sinh động, khéo léo làm cho
người đọc tưởng chừng thấy ngay trước mắt cái cảnh tả trên trang giấy.
Chúng ta hãy nghe tác giả tả "Thằng ăn cắp" trong Kép Tư Bền. Đứa trẻ nửa
ăn mày nửa ăn cắp xuất hiện giữa đám hàng rong:
"Một hôm, nó vơ vẩn giữa đám hàng bán rong.
"Thấy nó, bà hàng rau đứng dậy, quẩy gánh hàng lên vai, đi chỗ khác.
Bà hàng thịt rờ lại ruột tượng. Bà hàng bún riêu nắn túi tiền. Bà hàng lê bấm
cô hàng bánh đúc. Chị bán bánh rán sốt ruột đưa mắt cho bác hàng khoai.
"Họ thì thào:
- Thằng ăn cắp!" (tr.21)
Tác giả mới tả đứa bé ăn cắp một cách gián tiếp qua những cử chỉ, lời
nói, khoé mắt của những người bán hàng rong. Bây giờ tác giả tả thẳng vào
đứa bé ăn cắp:
"... Nó ngồi sán vào cô hàng bánh đúc. Nó chìa tay ra xin một miếng.
Cô hàng ôm khư khư lấy mẹt vào lòng, xua lấy xua để:
- Chưa bán mở hàng đây! Khỉ ạ!
"Nó lại dịch sang kề nồi bún riêu.
- Lạy bà, con ăn mày bà một bát.
- Ba mươi sáu cái nõn nường! Mỗi bát mấy đồng xu của người ta đấy.
Thôi đi! Dơ!
"Nó lại mó vào củ khoai lang, tủm tỉm cười.
"Bà ấy vội hắt tay nó ra và mắng:
- Bà thì tát cho một cái bây giờ, đừng láo!
"Bà hàng lê chắc chẳng đời thuở nào nó dám động đến hàng mình, là
thứ xa xỉ phẩm, đùa nói rằng:
- Một hào một quả, bỏ tiền đây, tao bán cho.
"Nó cười, lắc đầu.
"Bà ấy ném vào lòng nó một mảnh vỏ quýt. Nó đỡ được, bỏ vào mồm,
nhai gau gáu.
"Rồi nghĩ thế nào, nó đứng dậy, tay nó đếm xu trong túi, nói với bà
hàng bún riêu:
- Bà bán cho cháu một bát.
- Mày có tiền không?
"Nó gật đầu, mạnh bạo. Rồi đắc chí, nó lắc túi.
"Bà ấy múc cho nó một bát đầy. Nó ăn. Phù phù! Nóng! Suỵt soạt! Cay!
Ngon quá!"
Đứa bé ăn cắp là cái gai trong mắt mấy mụ hàng rong. Mỗi người đều
coi nó là một con chiên ghẻ. Ai cũng xua đuổi nó.
Ăn xong bát bún đứa bé bỏ chạy:
- Ối ông đội xếp ơi! Thằng ăn cắp! Ai đuổi hộ tôi!
"Bọn bán hàng nhốn nháo. Chạy tứ tung. Quang gánh vướng. Người
ngã. Hàng đổ. Bát vỡ.
- Bắt lấy nó!"
Người ta đuổi bắt nó. Người thì bảo nó giật khăn, người thì đồn nó giật
đôi khuyên tai vàng. Cuối cùng người ta bắt được nó, khám người nó không
có gì, người ta cho là nó có bè có đảng nên đã tẩu thoát tang vật. Người ta
đánh nó nhừ tử:
"Ức! Một cái đá vào mạng mỡ... Hự! Một cái tống vào ngực! Huỵch!
Huỵch! Bốp! Bốp... A lê! Lên cẩm!... Nó mềm như sợi bún, không dậy được..."
Bà hàng bún riêu "áo lấm, khăn sổ, tóc rũ", chạy "lạch xạch như con vịt"
còn mãi phía sau. Đến lúc tới gần người ta xúm lại hỏi: Bà mất cái gì?
"Bà ấy cố trả lời, nói rời rạc như người sắp tắt thở:
- Nó ăn... của... tôi... hai xu... bún riêu... rồi... nó quỵt... nó chạy...!
Cả một cảnh sống thực bày ra trước mắt chúng ta. Lối tả tỉ mỉ các chi
tiết là một đặc điểm của phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa của
Nguyễn Công Hoan. Câu chuyện kết thúc một cách đột ngột. Hai xu bún riêu,
một trận đòn nhừ tử! Đó, giá trị con người dưới thời thuộc Pháp! Nguyễn
Công Hoan đã giáng mọt đòn chí mạng vào chế độ coi mạng người như cỏ
rác.
... Bước đường cùng ra đời vào năm 1938 giữa lúc phong trào Mặt trận
Dân chủ Đông Dương lên cao nhất. Điều đó có ảnh hưởng quyết định đến xu
hướng chung của tác phẩm. Bước đường cùng là tác phẩm có giá trị cao nhất
của Nguyễn Công Hoan. Với Bước đường cùng lần đầu tiên trong lịch sử văn
học Việt Nam có một tác phẩm nói đến đời sống nông thôn Việt Nam một
cách sâu sắc, vạch trần được một trong hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội
nước ta dưới thời thuộc Pháp là mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong
kiến. Trong Bước đường cùng Nguyễn Công Hoan kể chuyện một nông dân
nghèo là anh Pha bị tên địa chủ Nghị Lại cướp mất ruộng bằng cách làm văn
tự giả rồi bắt anh ấn dấu tay vào. Anh Pha cùng hai nông dân khác cũng bị
Nghị Lại tịch thu ruộng vì không trả được nợ là Trương Thi và San đoàn kết
nhau lại để giữ ruộng không cho thợ gặt của Nghị Lại xuống gặt lúa của mình.
Nghị Lại đưa lính huyện về hộ vệ cho thợ gặt cướp lúa của anh Pha. Anh Pha
chống lại bị bọn lính ôm ghì lấy, đè ngửa ra và trói gô lại khiêng đi... Truyện
kết thúc một cách nghẹn ngào, uất ức.
Trong Bước đường cùng Nguyễn Công Hoan đả kích mạnh mẽ vào tên
địa chủ Nghị Lại, vào tên tri huyện, vào bọn lính lệ... nghĩa là những đại biểu
của giai cấp địa chủ phong kiến đang cấu kết với đế quốc để thống trị nhân
dân ta hồi đó. Trong Bước đường cùng người ta tìm thấy những nét chính
của xã hội cũ trong đó tên trọc phú bụng phệ ăn không ngồi rồi bóc lột nông
dân từng xu, tên tri huyện chuyên ăn hối lộ đục khoét nông dân lao động
nghèo không có miếng đất cắm dùi, tên lính lệ đểu cáng thấy đàn bà như mèo
thấy mỡ và những điều chướng tai gai mắt khác. Trong tác phẩm này tác giả
tỏ ra là hoàn toàn đồng tình với những người bị áp bức. Ở đây sự đồng tình
này không bị tiếng cười mỉa mai châm biếm và thái độ hài hước cay độc che
lấp như trong các tác phẩm khác của ông. Tác giả cũng đã phần nào thấy
được sức mạnh của người nông dân. Các nhân vật chính diện của ông đã
thấy được "hai cánh tay mạnh mẽ" của mình là "hai cánh tay làm cho đất cát
có giá trị". Họ đã nhìn thấy được sự bất công trong xã hội. Họ cũng đã biết
được đoàn kết là sức mạnh. Thái độ của anh Pha khi đã hăng tiết lên "vớ
được một chiếc đòn càn, xông vào Nghị Lại, phang một cái thật mạnh vào
đầu: "Đồ ăn cướp!" đã nói lên điều đó. Người nông dân trong Bước đường
cùng không còn thụ động như người nông dân trong văn học Việt Nam ngày
trước nữa. Đó là một hiện tượng rất mới trong văn học nước ta hồi bấy giờ.
Hiện tượng mới này trong văn học đã phản ánh được hiện tượng mới ngoài
xã hội đã xảy ra từ 7, 8 năm về trước (tức lúc có phong trào Xô Viết Nghệ
Tĩnh), nhất là từ khi có phong trào Mặt trận Dân chủ. Phản ánh được sự kiện
lịch sử này, chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Công Hoan tỏ ra là đã cao hơn
một bực so với chủ nghĩa hiện thực của Vũ Trọng Phụng và của nhiều nhà
văn hiện thực chủ nghĩa khác hồi bấy giờ.
...Nguyễn Công Hoan thường tả những cảnh oái oăm vô lý trong xã hội
cũ, làm cho người đọc thấy được sự thối nát của xã hội cũ: một bọn người vô
tình nhẫn tâm bắt một anh kép hát bông lơn trong lúc cha anh đang hấp hối;
một anh phu xe hôm ba mươi Tết kéo phải một chị giang hồ không tiền cũng
đi tìm khách; một người mẹ bỏ con nằm một mình để đi theo trai... tất cả tình
đời éo le, chua cay đau xót trong xã hội cũ hiện ra dưới ngòi bút Nguyễn
Công Hoan.
...Toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Công Hoan là cả một pho tài liệu rất
quý về "lịch sử xã hội" nước ta thời thuộc Pháp. Vì vậy chúng ta rất quý trọng
các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan.
(Trích "Phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật".
NXB Sự thật, Hà Nội, 1962)
NHÀ VĂN NGUYỄN CÔNG HOANN.I.NICULIN
Một hôm, hồi trước Cách mạng tháng Tám 1945 - Nguyễn Công Hoan
kể lại - nhà văn Việt Nam nổi tiếng Nguyễn Tuân phải ra trước toà của bọn
thực dân. Theo quy định, viên quan toà người Pháp hỏi cung qua một viên
thông ngôn, mặc dù hoàn toàn không cần thiết phải làm như vậy vì nhà văn
biết tiếng Pháp rất giỏi. Quan toà hỏi họ, tên, nghề nghiệp của bị can. Khi
nghe câu trả lời "Nhà văn", viên thông ngôn vốn quen giọng nghề nghiệp toà
án, chẳng cần mảy may suy nghĩ dịch ngay: "Vô nghề nghiệp". Mấy chữ ấy lộ
rõ thái độ ngạo mạn và khinh bỉ của bọn cầm quyền thực dân đối với nền văn
học cùng các nhà văn của Việt Nam.
Bọn "khai hoá" ấy chỉ lo sao tiệt trừ "phiến loạn" nên chúng không ngần
ngại đẩy những người yêu nước lên máy chém, đày biệt xứ, khổ sai, thiết lập
trong nước một chế độ kiểm duyệt gắt gao nhất. Trong năm gian khó ấy đã
trưởng thành tài năng của Nguyễn Công Hoan, nhà văn lão thành bậc nhất
của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Vào thời buổi này phải có lòng dũng
cảm không nhỏ, niềm tin lớn lao mới dám bước lên con đường của ông - con
đường không dễ dàng chút nào của nhà văn châm biếm.
Nguyễn Công Hoan sinh ngày 6-3-1903 tại làng Xuân Cầu tỉnh Hưng
Yên. Cụ thân sinh ra ông làm quan hạng nhất - thanh tra các trường phổ
thông. Gia đình sinh sống có phần khó khăn nên cậu bé từ năm lên bốn đã
phải gửi sang ở nhà người bác ruột hồi đó làm tri huyện, nuôi dạy. Trong gia
đình, nơi Nguyễn Công Hoan lớn lên, ngọn lửa yêu nước và căm thù sâu sắc
bọn thực dân không ngừng cháy: chẳng phải ngẫu nhiên mà từ gia đình ấy đã
xuất hiện những nhà cách mạng Cộng sản nổi tiếng (trong đó có em ruột nhà
văn là ông Nguyễn Công Mỹ).
Thoạt đầu, theo truyền thống, người ta dạy cậu bé chữ Nho; bà nội -
một người đàn bà có học - cho cậu làm quen với nền văn học cổ điển Việt
Nam và Trung Hoa. Nhưng bố mẹ, những con người rất nhạy cảm với cái
mới, năm 1912 gửi nhà văn tương lai vào học trường công; song, vì đau yếu,
cậu không học hết.
Từ năm 1922, Nguyễn Công Hoan tiếp tục học tập tại trường sư phạm.
Thời kỳ này ở Hà Nội nhà thơ nổi tiếng Nguyễn Khắc Hiếu (Tản Đà) thành lập
"Tu thư cục" - một quán sách và một nhà xuất bản nhỏ. Nguyễn Công Hoan
hợp tác với nhà thơ, ông viết chủ yếu những truyện ngắn giải trí ngộ nghĩnh.
Năm 1923 nhà văn trẻ bỏ tiền riêng (hồi đó nhiều nhà hoạt động văn học chỉ
được nghe đồn về tiền nhuận bút) cho in tập truyện ngắn nhan đề "Kiếp hồng
nhan" trong đó tuy còn bộc lộ sự thiếu kinh nghiệm của tác giả, nhưng đã làm
bật lên cái nhìn thông minh và tinh tế vốn có ở những tác phẩm văn xuôi của
Nguyễn Công Hoan. Sau khi tốt nghiệp trường sư phạm năm 1926 ông làm
giáo học và gắn bó với mái trường mãi đến tận Cách mạng tháng Tám.
Sự công nhận trên văn đàn đến với ông vào những năm 30 khi ông trở
thành nổi tiếng trước hết như một bậc thầy về truyện ngắn châm biếm mà ông
đã cho đăng ở nhiều tạp chí khác nhau.
Nhà cầm quyền dĩ nhiên đã dò xét nhà văn châm biếm làm nghề giáo
ấy và đã chuyển ông khắp nơi này đến nơi khác, từ tỉnh lỵ đến xóm quê, từ
châu thổ sông Hồng đến rừng núi Lào Cai. Vô tình các quan chức ngành giáo
dục đã giúp ông một việc không nhỏ: chu du đây đó để tìm nhân vật và đề tài
cho các tác phẩm tương lai là việc vượt quá túi tiền riêng của ông.
Năm 1935, tập truyện đầu tiên Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan ra
đời đã trở thành một sự kiện thực sự trong đời sống văn học của đất nước và
là thắng lợi thực sự của nhà văn: 18 tờ báo và tạp chí đã hoan nghênh sự ra
đời của cuốn sách. Ngoài ra, tập truyện còn trở thành điểm xuất phát cho một
cuộc tranh luận rộng rãi mà các nhà phê bình mácxít phát động để chống lại
phái "Nghệ thuật vị nghệ thuật". Nhà sách "Sông Hương" của Hải Triều (1908
- 1954) - người tuyên truyền nhiệt thành cho nền văn học Xô Viết - đã tổ chức
cuộc họp mặt của Nguyễn Công Hoan với độc giả.
Thời bấy giờ có khi nhà văn phải viết theo kiểu ngụ ngôn. Trong truyện
Đào kép mới ông mượn việc chê bai một gánh hát tồi, đã làm mọi người chán
ngấy, để phỉ báng cay độc tên vua Bảo Đại mà báo chí quảng cáo rùm beng
như một "nhà khai sáng”, một đấng trị vì từng du học bên Tây, một "nhà cải
cách" "... Tôi hãnh diện về những mẩu chuyện ấy hơn bất kỳ truyện nào khác.
- Nguyễn Công Hoan viết, - bởi vì mỗi khi bằng cách đó đánh lừa được
bọn kiểm duyệt, tôi cảm thẫy mình là kẻ chiến thắng."
Trong thời kỳ Mặt trận Bình dân (1936 - 1939), khi chế độ kiểm duyệt
về hình thức bị bãi bỏ (các nhà biếm hoạ đã vội sung sướng chôn nó như
chôn một mụ già tai ác), các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan bắt đầu phê
phán trật tự và sự độc đoán thực dân một cách dũng cảm và thẳng thừng
(truyện Thịt người chết và Sáng - chị phu mỏ).
Những năm này, Nguyễn Công Hoan gần gũi với nhiều đảng viên Cộng
sản nguyên là tù chính trị. Công nhân thành phố Nam Định, nơi ông sống hồi
ấy, đã bầu ông vào Ban chấp hành công đoàn. Thế cũng đủ để trong hồ sơ
mật thầy giáo Nguyễn Công Hoan bị coi là "tay sai nguy hiểm của Cộng sản,
phải tống khứ không chậm trễ thật xa nơi tập trung công nhân này". Tiếp liền
đó là lệnh chuyển ông ra Trà Cổ, một hòn đảo xa tít ở vịnh Bắc Bộ mà thực tế
là một kiểu đi đầy trá hình. Nhưng trước khi ra đấy, mùa hè năm 1938, ông đã
kịp hoàn thành cuốn tiểu thuyết Bước đường cùng - kể lại cuộc đời khó nhọc
của anh nông dân Pha bị đẩy vào cảnh cùng quẫn bởi các thủ đoạn nham
hiểm của tên địa chủ và "ông dân biểu" Lại, đại biểu cho "giống da xanh bủng
của những gã nghiện thuốc phiện". Đây là một trong những cuốn tiểu thuyết
hiện thực chủ nghĩa đầu tiên của nền văn học Việt Nam, trong đó Nguyễn
Công Hoan miêu tả người nông dân đã ý thức được sự cần thiết phải đấu
tranh có tổ chức giành quyền của mình. Nhà văn ấp ý định viết làm ba tập,
nhưng tập đầu đã bị bọn cầm quyền cấm ngay nên không thành.
Đại chiến thế giới thứ hai bùng nổ, Nguyễn Công Hoan cho in hai
truyện ngắn vạch mặt quân phiệt Nhật. Nhà cầm quyền thực dân sợ Nhật, đã
phản ứng tức khắc và tàn bạo: Nguyễn Công Hoan bị truy tố và kết án 3 năm
tù. May sao, người ta phát hiện ông sinh trưởng tại Hà Nội, không thuộc
quyền phán xử của toà án địa phương.
Năm 1940, Nhật chiếm Đông Dương. Sở kiểm duyệt lại bắt Nguyễn
Công Hoan im tiếng. Ông nhớ lại: "Tôi phải nghỉ viết một thời gian. Cuộc đời
buồn tẻ cứ trôi đi. Tôi đau khổ vì không được lao động cho văn học hệt như
người ta phải xa người yêu vậy". Năm 1945, bọn chiếm đóng Nhật thẳng tay
ném ông vào nhà tù. Tin đồn lan truyền khắp nơi rằng Nguyễn Công Hoan đã
chết, thậm chí những người hâm mộ tài năng của ông đã làm lễ tuy điệu
ông...
Cùng với Cách mạng tháng Tám, mọi sự đều đổi thay. Ông làm việc
nhiều, tích cực. Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà giao cho ông lãnh đạo
Sở kiểm duyệt báo chí Hà Nội, nơi mà vào những năm 1945 - 1946 xuất bản
hơn một nửa tổng số báo chí đủ mọi khuynh hướng. Những truyện mới của
ông lại xuất hiện. Năm 1946, khi quân đội nhân dân và hầu hết nhân dân Hà
Nội vừa chiến đấu vừa rút lên rừng hoặc tản về nông thôn, nhà in đã không
kịp in cuốn truyện mới Tranh tối tranh sáng của ông. Ở ngoài ấy, chốn rừng
sâu, năm 1948 Nguyễn Công Hoan trở thành một đảng viên Cộng sản và mãi
đến năm 1954 sau khi hoà bình lập lại, ông mới trở về Hà Nội. Năm 1955 ông
sáng tác tập truyện Nông dân với địa chủ, sử dụng rộng rãi tư liệu của các
cuộc đại hội nông dân trong thời kỳ cải cách ruộng đất.
Tác giả xây dựng những truyện ấy trên nguyên tắc tượng trưng. Chẳng
hạn, trong truyện Trung thành cái kết cục đáng thương của tên quan tay sai
thực dân bị chủ thẳng tay trừ khử là tượng trưng cho sự sụp đổ của toàn bộ
hệ thống thực dân ở Việt Nam. Nhưng lúc này hấp dẫn tác giả nhiều nhất là
thể loại tiểu thuyết. Ông hoàn chỉnh lần nữa cuốn Tranh tối tranh sáng (1956).
Đống rác cũ (tập I in năm 1963), hồi ký Đời viết văn của tôi (1971). Ông không
rời đề tài vốn quen thuộc của mình - cuộc sống trong xã hội cũ, ra sức mài
sắc phương pháp nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa. Thái độ mới đối với
chất liệu cuộc sống không chỉ thể hiện ở chỗ Nguyễn Công Hoan đã miêu tả
sức mạnh phản kháng của nhân dân và sức mạnh của cách mạng đã trưởng
thành thế nào. Với tất cả sự sắc nhọn vốn có trong văn châm biếm của ông,
Nguyễn Công Hoan chứng minh trong các cuốn tiểu thuyết của mình số phận
diệt vong mà lịch sử đã định cho chế độ xã hội thuộc địa - phong kiến đang lui
vào dĩ vãng và ông làm việc này với cả tầm lớn và tầm rộng mà nền văn học
hiện thực phê phán của Việt Nam chưa từng đạt tới.
Một thời kỳ dài, Nguyễn Công Hoan làm thư ký kiêm Chủ tịch Hội nhà
văn Việt Nam. Hiện nay ông dốc nhiều tâm sức vào việc dìu dắt lớp người trẻ
tuổi kế tục sự nghiệp văn học. Nhà văn đã nhiều lần sang thăm nước ta.
Qua tác phong thoải mái, trầm tĩnh, giọng nói chậm rãi và sáng sủa của
ông, thật dễ đoán nhận trong ông một người thầy giáo già. Và chẳng phải
ngẫu nhiên mà từ bao đời nay ở Việt Nam người ta coi văn học là người thầy
của cuộc sống.
* * *
Lịch sử nền văn xuôi hiện đại Việt Nam khởi đầu tương đối muộn - một
phần tư đầu của thế kỷ XX. Năm 1971, người bạn hơn tuổi của Nguyễn Công
Hoan, nhà thơ Tản Đà (1888 - 1939), chịu ảnh hưởng của những tư tưởng
khai sáng phổ biến thời bấy giờ đã cho in tập truyện Giấc mộng con của
mình, trong đó nhân vật đã đi du lịch khắp đây đó trên hoàn cầu, sang cả
nước Nga, và tìm được một hòn đảo không tưởng, nơi ngự trị của công bằng,
bình đẳng và hạnh phúc. Từ 1918 nhà văn Phạm Duy Tốn (1887 - 1924), học
tập các bậc thầy về văn xuôi hiện thực Pháp thế kỷ XIX, bắt đầu viết những
truyện ngắn mang lại cho ông vinh quang của "người sáng lập chủ nghĩa hiện
thực" trong nền văn học Việt Nam. Cùng những năm ấy, người Cộng sản trẻ
tuổi Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) đang sống ở Paris dưới ấn tượng sâu sắc
về nghệ thuật miêu tả hiện thực cuộc sống trong những truyện vừa của Lép
Tônxtôi, đã sáng tác những ký và truyện ngắn trở thành những tác phẩm đầu
tiên của nền văn học cách mạng đang ra đời ở Việt Nam. Trên cơ sở truyền
thống dân tộc và học tập một cách sáng tạo kinh nghiệm của các nền văn học
châu Âu (trước hết là Pháp) và Nga, đã nảy sinh một hiện tượng phức tạp
mới - nền văn xuôi hiện đại Việt Nam.
Nguyễn Công Hoan - nhà văn đã lớn lên cùng với nền văn học đó.
Những cuộc thí nghiệm văn học vững tay của ông ngay từ những năm 20 đã
đi đúng luồng trào lưu cơ bản là hiện thực chủ nghĩa mà người ta vẫn gọi là
"tả chân". Các đại biểu của trào lưu này, quan tâm và thông cảm với những
người khốn cùng và bị áp bức, đã đứng lên đối chọi với cái thời trang trong
văn học hồi đó là khuynh hướng tô hồng cuộc sống. Nhà văn Nguyễn Công
Hoan đã góp phần cống hiến không nhỏ vào sự phát triển nền văn học hiện
thực chủ nghĩa.
Cuốn Đồng hào có ma chủ yếu bao gồm những tác phẩm Nguyễn Công
Hoan viết trước Cách mạng - đó là những truyện ngắn nhưng đầy sức thể
hiện, tái tạo bức tranh xác thực về cuộc sống của nước Việt Nam thuộc địa -
phong kiến.
Đề tài thường xuyên thu hút nhà văn là quan hệ giữa kẻ áp bức và
người bị áp bức. Thường thường địa vị xã hội của nhân vật quyết định thái độ
của nhà văn đối với nhân vật đó. Thậm chí, đọc đi đọc lại hàng trăm truyện
mà Nguyễn Công Hoan viết, bạn đọc cũng không thể tìm được trong đó hình
ảnh một viên "quan cai trị" nào liêm khiết hoặc cao thượng - thời kỳ này giới
quan lại Việt Nam đã hoàn toàn bôi nhọ mình.
Phanh phui những bất công xã hội trong truyện của Nguyễn Công Hoan
không phải là để "làm dáng" như ở một số nhà văn trong những năm 30 đã
"hạ cố" đến cái đề tài "dân đen" mà chính là lập trường tư tưởng duy nhất ông
chấp nhận.
Trong các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, vạch trần "tính phi lôgic
của cái bình thường", tính phi lý của tất cả những gì được chấp nhận chung
trong cái xã hội Việt Nam thuộc địa - phong kiến, chiếm vị trí quan trọng nhất.
Để làm việc đó, Nguyễn Công Hoan đã sử dụng toàn bộ vũ khí muôn hình
muôn vẻ của cái hài - từ cái cười thương hại anh chàng trẻ tuổi háo danh
trong Tôi chủ báo, anh chủ báo, nó chủ báo... đến thái độ tởm lợm và phẫn nộ
trong Răng con chó của nhà tư sản hoặc Một tấm gương sáng.
Nguyễn Công Hoan thích xây dựng câu chuyện của mình trên những
nghịch lý, do đó các truyện của ông phần nào mang tính chất đánh đố: hoặc
độc giả không đoán được động cơ hành động của nhân vật, hoặc đoán sai.
Trong truyện Xuất giá tòng phu người chồng đang tay đánh đập người vợ trẻ
xinh đẹp của mình không phải vì chị bất trung mà như ta thấy ở cuối truyện,
lại chính vì chị muốn giữ trọn chữ trung với chồng, không chịu đi làm "quà tết"
cho ông chủ của chồng mình.
Hầu như trong bấy kỳ truyện nào của nhà văn châm biếm đều có
những sự kiện, những sự việc hay hành động của nhân vật đi ngược hẳn với
cái bình thường, ở một số truyện của ông thực ra đó là sự nhạo lại những gì
đã xảy ra trong thực tế. Truyện Cụ Chánh Bá mất giày được xây dựng theo
kiểu truyện trinh thám - xáo trộn thời gian: thoạt đầu bạn đọc thấy một vụ mất
cắp rồi sau đó là hai đoạn tả cảnh mất cắp tưởng tượng và mất cắp thật, bóc
trần bộ mặt tên chuyên nghề lường gạt đóng vai bên "bị". Nhà văn có tài dẫn
truyện tới mức sự "thông cảm" của ông đối với nhân vật phản diện cuối cùng
quay ngược thành cái cười mỉa mai đối với nhân vật đó.
Cuối câu chuyện thường là sự xoay chuyển đột ngột và kết cục bất
ngờ. "Phần kết trong các truyện của tôi, - Nguyễn Công Hoan, viết, - cũng
như cái hom. Nó bất ngờ với độc giả hệt như miệng hom nhỏ mà kéo được
con cá vào".
Mỗi truyện dường như Nguyễn Công Hoan viết một mạch. Chính nhà
văn kể lại rằng ông chỉ cần chứng kiến một chuyện gì đó xảy ra trên đường
phố, nghe một mẩu hội thoại là lập tức trong đầu ông đã hình thành đề tài cho
một truyện ngắn tương lai. Tối tối, đi dạy học về, ông ngồi vào bàn viết và
chưa đứng dậy chừng nào chưa hoàn thành một truyện ngắn. Ông thể hiện
ngay thành lời và hình ảnh tất cả những gì ông đã thấy và trải qua.
Suy nghĩ về nghệ thuật viết truyện ngắn, Nguyễn Công Hoan đặc trưng
phong cách viết của mình như sau: "Ở chúng tôi thường gọi độc giả là bạn
đọc... Và bản thân tác giả trở thành người bạn lâu năm hiền lành, bình
thường, giản dị, vui tính, không hoa mỹ, kiểu cách và tự cao tự đại".
Nguyễn Công Hoan vốn có năng lực tuyệt vời tinh mắt nhìn thấy những
tình huống hài hước và có tài nhận ra đằng sau những sự việc thoạt tưởng
nhỏ nhặt các vấn đề quan trọng của thời đại. Văn châm biếm của Nguyễn
Công Hoan là vũ khí của cái thiện. Chính vì các cuốn sách của ông rất tiếng
tố cáo dữ dội, chính vì lòng nhiệt thành của ông phục vụ con người mà
Nguyễn Công Hoan trở nên thân yêu đối với bạn đọc.
(Lời giới thiệu tập truyện ngắn Đồng hào có ma in bằng tiếng Nga đầu
tiên do Niculin dịch từ tiếng Việt Nam.) NXB Văn học - Matxcơva, 1973. Số
lượng phát hành 30.000 cuốn
NGUYỄN CÔNG HOANTRƯƠNG CHÍNH
Trong các nhà văn hiện thực của ta, Nguyễn Công Hoan là người kỳ
cựu nhất và có nhiều tác phẩm nhất. Ông bắt đầu viết năm 1920, và từ 1935
trở đi thì mỗi năm, ít ra cũng có hai, ba tác phẩm xuất bản. Truyện ngắn đã
nhiều, góp lại thành nhiều tập, mà truyện dài của ông cũng có đến trên mươi
cuốn. Như thế tỏ ra rằng ông sáng tác rất nhanh, rất đều tay, mặc dù, trước
đây ông không phải là một nhà văn, nhà báo chuyên nghiệp, như Vũ Trọng
Phụng chẳng hạn. Ông là một nhà giáo, và mãi đến khi Cách mạng thành
công, năm 1954, ông mới thực sự bỏ nghề "gõ đầu trẻ".
...Ngày nay, đọc tác phẩm của ông, ta cũng tìm thấy được những nét
chính của xã hội cũ, trong đó có những ông trọc phú bụng phệ, ăn không ngồi
rồi, tìm cách bóc lột nông dân từng đồng hào, những ông quan chuyên môn
ăn hối lộ, những người nghèo khổ, một miếng đất cắm dùi cũng không có, và
bao nhiêu chướng tai gai mắt khác. Tất cả những nét ấy được biểu lộ rõ rệt
trong cuốn Bước đường cùng là tác phẩm trong đó ông có thay đổi ít nhiều
bút pháp và thái độ của ông. Ở đây, ông đã thật sự đồng tình với nhân vật
của mình. Hơn nữa, ông đã nhìn thấy người nông dân bị bóc lột quá đỗi,
không chịu nhẫn nhục mãi, đã vùng dậy. Anh Pha - nhân vật chính trong
truyện - cùng Trương Thi và San là những người cùng một số phận với anh,
cũng bị Nghị Lại tịch ký mất ruộng vì không trả được nợ, cả ba anh đã đoàn
kết chặt chẽ với nhau, không cho thợ gặt của tên địa chủ ấy xuống gặt lúa
của mình. Rồi đến khi hắn đưa lính khố xanh về hộ vệ cho thợ gặt cướp lúa
của anh, anh đã hăng tiết lên "vớ được một chiếc đòn càn, xông vào Nghị Lại,
phang một cái thật mạnh vào đầu.
- Đồ ăn cướp!".
Cố nhiên, rồi anh bị bọn lính ôm ghì lấy, đè ngửa ra và trói gô lại,
khiêng đi... có lẽ để đưa lên trình quan. Và truyện kết thúc một cách nghẹn
ngào, ấm ức. Sức phản ứng của người nông dân trong Bước đường cùng
cũng mãnh liệt hơn sức phản ứng của người nông dân trong Tắt đèn nhiều
lắm.
Và cùng tả sự thất bại của người nông dân trước lực lượng còn mạnh
của địa chủ, Nguyễn Công Hoan không bi quan như Ngô Tất Tố.
Ngoài điểm mấu chốt đó ra, Nguyễn Công Hoan còn cho các nhân vật
chính diện của mình những lời nói và những hành động tỏ ra sức phản ứng
nói trên bắt nguồn từ một sự giác ngộ tuy chưa mạnh mẽ nhưng đã khá rõ.
Họ đã thấy "hai cánh tay mạnh mẽ" của họ là "hai cánh tay làm cho đất cát có
giá trị".
Họ đã biết đoàn kết là sức mạnh. Họ cũng đã nhìn thấy sự bất công
trong xã hội. Có thể là tác giả đã nói thay cho nhân vật mình những điều đó,
nhưng nhất định những ý nghĩ như vậy trước Cách mạng cũng đã nằm sẵn
trong tâm trí người bần cố nông làm lụng vất vả quanh năm để làm giàu cho
địa chủ, nhưng nào có phải như thế mà được yên tâm đâu, còn bao phen bị
tủi nhục, bị hành hạ! Cho mãi đến ngày phát động quần chúng, họ mới nói nỗi
khổ của họ lên được một cách trơn tru, mạch lạc, hùng biện như những nhân
vật trong Bước đường cùng. Dù sao cách đây 17, 18 năm, mà viết được một
tác phẩm như thế, thì không thể không chú ý được.
... Theo dõi Nguyễn Công Hoan từ trước đến nay, người ta còn giữ về
Nguyễn Công Hoan một cảm giác tốt. Trong khi văn chương của ta còn là một
thứ văn chương lãng mạn và sáo cũ, ông đã có một cách hành văn ngắn gọn,
mỗi lối nhận xét tỉ mỉ, sát thực tế, làm cho các nhà văn sau ông có một lợi khí
sắc bén để phản ánh đúng đắn xã hội. Và, người ta rất hoan nghênh ông khi
ông viết được một tác phẩm như Bước đường cùng, tuy tác phẩm đó còn một
vài khuyết điểm. Cuối cùng, mặc dù nhiều tác phẩm khác của ông không
được bắt nguồn từ một ý định đúng đắn, người ta vẫn phải nhận ông là một
nhà văn hiện thực đàn anh, dẫn đầu trong việc đi sâu vào nông thôn, cảm
thông với người nông dân để nói lên nỗi lòng của họ.
(Trích trong Lược thảo lịch sử Văn học Việt Nam Tập III.
NXB Xây dựng, Hà Nội, 1957)
NHÂN KỶ NIỆM 90 NĂM NGÀY SINH NHÀ VĂN LỚN NGUYỄN CÔNG HOAN (1903-1993)
MỘT NHÂN CÁCH, MỘT SỰ NGHIỆPVÀ NHỮNG BÀI HỌC LỚN
Nhà văn lớn Nguyễn Công Hoan, vị Chủ tịch đầu tiên của Hội Nhà văn
Việt Nam, sinh năm 1903, đến nay vừa tròn 90 năm. Trong năm 1993 này,
nhiều hoạt động kỷ niệm nhà văn đã được các cơ quan văn học, báo chí, xuất
bản, phát thanh, truyền hình thực hiện. Và, mới đây, ngày 5-11-1993, lễ chính
thức kỷ niệm nhà văn Nguyễn Công Hoan đã được Hội Nhà văn Việt Nam,
Viện Văn học, Uỷ ban Nhân dân và Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Hải Hưng,
Trường viết văn Nguyễn Du phối hợp tổ chức trọng thể.
Từ sáng 5-11, đông đảo các nhà văn thuộc nhiều thế hệ, các nhà
nghiên cứu phê bình văn học, các cán bộ giảng dậy và học viên (khoá 5)
trường viết văn Nguyễn Du đã tề tựu tại Hội trường mới xây dựng của trường
viết văn Nguyễn Du. Về phía các cơ quan tổ chức buổi lễ, có mặt: nhà văn Vũ
Tú Nam - Tổng thứ ký - và các đồng chí uỷ viên Ban Chấp hành Hội nhà văn
Việt Nam; nhà nghiên cứu Phong Mê - Viện trưởng Viện Văn học; đồng chí
Vũ Dong - Chủ tịch Hội văn học nghệ thuật Hải Hưng; Đồng chí Phạm Vĩnh
Cư - Hiệu phó Trường viết văn Nguyễn Du. Về phía các vị khách, có các đồng
chí: đại tướng Võ Nguyên Giáp, trung tướng Trần Độ, và đồng chí Trương
Quang Được - Uỷ viên Trung ương Đảng. Tổng cục trưởng Tổng cục Hải
quan... Đại diện của các nhà xuất bản, các báo chí, phát thanh, truyền hình,
Tổng công ty phát hành sách cũng có mặt. Tới dự lễ kỷ niệm với tư cách đại
diện thân quyến nhà văn Nguyễn Công Hoan có: ông bà Lê Văn Lương - em
ruột nhà văn, ông bà Hà Ngọc Tiết - em ruột nhà văn, ông bà Nguyễn Tài -
con trai và con dâu nhà văn, ông bà Trần Diệp và Lê Minh - con rể và con gái
nhà văn, cùng các cháu nội, ngoại của nhà văn.
Chương trình kỷ niệm nhà văn Nguyễn Công Hoan gồm hai phần: buổi
sáng - lễ kỷ niệm chính thức; buổi chiều - viếng mộ và thăm quê hương nhà
văn ở Xuân Cầu, Nghĩa Trụ - huyện Mỹ Văn, Hải Hưng.
Dưới đây, chúng tôi xin trân trọng trích giới thiệu các ý kiến phát biểu
trong lễ kỷ niệm.
V.N.
Nhà văn Nguyễn Công Hoan đã để lại cho giới cầm bút chúng ta nhiều
bài học lớn. Suốt quá trình sống và làm việc, ông đã từng đồng thời là nhà
văn, nhà giáo, nhà báo và là một con người đôn hậu, khiêm tốn và tận tuỵ.
Thật đáng khâm phục tài năng, nghị lực và sức làm việc của Nguyễn
Công Hoan. Trong năm 1937, ông cho ra bốn đầu sách: Những cảnh khốn
nạn, Tấm lòng vàng, Tình khuyển mã, Một công trình vĩ đại. Năm 1938, ba
đầu sách: Đào kép mới, Tơ vương, Bước đường cùng. Năm 1939, ba đầu
sách: Lá ngọc cành vàng, Sóng vũ môn, Người vợ lẽ bạn tôi. Năm 1940, ba
đầu sách: Ông chủ bút, Nợ nần, Những cảnh khốn nạn (tập II). Năm 1943, ba
đầu sách: Lệ Dung, Thanh đạm, Nghịch cảnh. Năm 1944, bốn đầu sách: Ông
chủ - bà chủ, Bơ vơ, Cô làm công, Danh tiết...
Phải là một người tâm huyết lắm với cuộc sống và văn chương mới có
được cường độ lao động như ông. Ông có ý thức chính trị rất sớm, từ 1936
chịu ảnh hưởng trực tiếp của Đảng Cộng sản Đông Dương và sau này ông
trở thành một nhà văn Cộng sản.
57 năm cầm bút, Nguyễn Công Hoan đã để lại cho dân tộc ta những di
sản vô giá. Tác phẩm của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
Lưu Trọng Lư đã từng đánh giá về ông: "Một cây bút khai sơn phá thạch cho
nền văn xuôi trào phúng Việt Nam". Thanh Tịnh thì nhận xét: "Nguyễn Công
Hoan là một nhà văn châm biếm có biệt tài, nhưng lại mang tâm hồn thơ đôn
hậu trữ tình.
Năm 1963, kỷ niệm 60 năm ngày sinh Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài
viết: "Nếu ta nhầm từ cái hồi mà lời văn bổng trầm khóc đứng khóc ngồi đến
thời kỳ văn chương sạch sẽ kiểu Tự Lực, thì lực lưỡng như một tay đô vật
không có địch thủ, từ Kiếp hồng nhan tới nay, truyện ngắn, truyện dài Nguyễn
Công Hoan sừng sững tạo thành một thế Tam Đảo Ba Vì hùng vĩ, vượt qua
hai thời kỳ, tiến vào Cách mạng tháng Tám...".
Hôm nay, kỷ niệm 90 năm ngày sinh của cố chủ tịch Hội nhà văn Việt
Nam, chúng ta có thể mượn lời đánh giá của Tô Hoài để tưởng nhớ và học
tập nhà văn Nguyễn Công Hoan kính mến.
VŨ TÚ NAM
Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam
Tôi cứ nghĩ rằng: làm sao cuộc đời tôi lại có cái hạnh phúc lớn là có
một thời gian được làm việc, được là bạn với một nhà văn lớn như thế.
Nguyễn Công Hoan hơn tôi hai chục tuổi, nhưng trong khi làm việc, tôi thấy
ông đối xử như những người đồng lứa, không có gì phân biệt.
Tôi nhớ có một chuyến đi công tác cùng Nguyễn Công Hoan; tôi có ý
định làm thân với ông và hỏi ông: "Anh có kinh nghiệm viết văn gì, xin anh
truyền lại cho tôi với". Thấy tôi hỏi nghiêm túc quá, ông ấy phá ra cười, cười
mãi rồi mới bảo: "Có gì đâu, cứ bịa giỏi là được". Và ông ấy thêm: "Nhưng
phải bịa như thật!" Thực ra nói như vậy nghĩa là người viết văn phải có đầu óc
tưởng tượng rất lớn, chứ không phải cứ bê nguyên si những điều mình quan
sát được vào văn. Một bài học khác mà ông truyền lại... tôi định giữ bí mật,
nhưng hôm nay trong không khí thân mật, tôi xin nói lại. Cái kinh nghiệm thứ
hai mà ông truyền cho tôi, tôi xin dịch lại cho dễ hiểu và cho đỡ bất tiện, là:
Muốn viết văn thì phải có tình yêu. Ông bảo: "Tớ yêu nhiều lắm...".
Tôi thấy Nguyễn Công Hoan là người rất vui, ông sống hồn hậu, trung
thực.
Ông nhìn bất cứ cái gì cũng tìm thấy chuyện buồn cười. Văn tài của
ông đã nhiều người đánh giá. Tôi không thể nói gì hơn. Tôi thấy đúng là
Nguyễn Công Hoan có một vị trí rất lớn trong văn học Việt Nam, cả về tác
phẩm lẫn nhân cách. Quí nhất ở Nguyễn Công Hoan là ông làm việc gì cũng
tận tuỵ. Nguyễn Công Hoan là một hình ảnh mà tôi muốn học tập suốt đời. Tôi
luôn tự nhận là một người học trò của Nguyễn Công Hoan và coi đó là một
điều vinh dự đối với tôi.
Nhà văn TRẦN ĐỘ
Tôi thấy Nguyễn Công Hoan là một nhà văn lớn. Có lần anh Hoan tự
nói mình là một người bi quan. Nhưng tôi thấy anh là một con người bi quan
mà tin tưởng. Anh Hoan châm biếm, trào phúng, mà rất nghiêm chỉnh. Cái
quý nhất ở Nguyễn Công Hoan là con người có tâm huyết, có bản lĩnh. Anh
Hoan vừa có tâm vừa có tầm. Anh đã đặt cơ sở cho nền văn xuôi và văn học
hiện thực phê phán nước ta, Tôi cũng rất quí nhà văn Nguyễn Công Hoan về
mặt ngôn ngữ. Ngôn ngữ của anh rất dễ hiểu. Anh đã làm giàu ngôn ngữ Việt
Nam. Từ rất sớm, Nguyễn Công Hoan đã thấy con đường chính nghĩa để đi
tới một xã hội tốt đẹp, tới tương lai của dân tộc ta. Anh là người không viết
theo chiều gió, mà viết theo lý tưởng của mình, có nghị lực, có lòng dũng
cảm.
Là một người có tâm huyết, gắn bó với sự nghiệp cách mạng, anh
Hoan đã tham gia vệ quốc quân, viết báo vệ quốc quân. Anh Hoan từng chủ
trì một lớp học, dạy văn hoá cho 53 chiến sĩ nam và 2 chiến sĩ nữ mà trình độ
của họ không đồng đều. Thú thực tôi không hình dung nổi anh Hoan dạy
những người này như thế nào. Anh Hoan bảo: Anh đã dạy cho người ta biết
những điều người ta cần, để từ đó đi vào cuộc sống chiến đấu.
Tuy chỉ là một thời gian ngắn làm việc với lớp học đó, nhưng anh Hoan
đã thể hiện tất cả nhiệt tình của mình. Hôm nay, tôi muốn nói lên lời cảm ơn
của quân đội đối với anh. Chung lại, tôi thấy vai trò của anh Hoan rất lớn.
Chúng ta nên làm cho sự nghiệp của anh Hoan đi sâu vào đời sống
hơn nữa. Sự nghiệp của anh Hoan sẽ còn mãi mãi.
Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP
Những năm trước Cách mạng tháng Tám, thế hệ thanh niên chúng tôi
đọc một cách say mê những tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, trước hết để
giải trí. Nhưng rồi, những số phận, những nhân vật, những tư tưởng, tình cảm
mới mẻ cứ thấm dần vào tâm trí chúng tôi, hoà nhập vào tình cảm và nhận
thức của chúng tôi. Bên cạnh tiếng vang của phong trào cách mạng lúc đó,
tác phẩm của Nguyễn Công Hoan và một số nhà văn tiến bộ khác đã góp
phần cổ vũ chúng tôi, giúp chúng tôi hiểu dần dần cái ý nghĩa chân chính nhất
của văn học. Ý nghĩa chân chính ấy, cho đến bây giờ vẫn chưa hề mất đi, và
cần phải mở rộng, đào sâu thêm cho phù hợp với yêu cầu đổi mới sau này.
Có lần tôi hỏi: "Tôi đọc, tôi thấy anh viết rất dễ dàng và thoải mái. Có đúng thế
không anh?" Ông cười và bảo: "Thế cậu tưởng mỗi khi mình viết mình không
nghĩ gì à! Cái gì cũng phải nghĩ, nghĩ rồi mới viết, vừa viết vừa nghĩ, viết xong
lại nghĩ. Có điều muốn viết thì phải cầm lấy bút, chứ cứ ngồi mà nghĩ mãi thì
cũng chẳng viết được gì". Có lẽ đấy cũng là một điểm trong cách làm việc của
ông. Ngoài ra, gặp ông bao giờ cũng được nghe những câu nói đùa lý thú. Sự
hóm hỉnh, tính lạc quan của ông cũng được thể hiện trong tác phẩm của ông.
Nhà thơ VŨ CAO
Khi anh Hoan làm Chủ tịch Hội thì tôi tham gia thường vụ, do đó có
điều kiện gặp gỡ, bàn bạc, công tác với anh. Đọc anh, tôi thấy Nguyễn Công
Hoan là một tài năng trời cho. Làm việc với anh, thấy anh vui tính, mặc dầu
văn anh nói những chuyện chua chát ở đời. Có những cái rất khó nhưng khi
anh nói ra thì rất dễ hiểu, dễ nhớ. Tôi kể một kỷ niệm. Trong thường vụ Hội,
công tác đối ngoại trước do anh Nguyễn Xuân Sanh phụ trách; sau anh Sanh
bàn giao cho anh Hoan; rồi sau, anh Hoan lại giao cho tôi. Khi giao việc, anh
Hoan bảo: "Ông Sanh giao việc cho mình một ngày mới hết, mình chỉ nói với
cậu một phút thôi. Đối ngoại là việc rất khó, nhưng cũng rất dễ. Vì những nhà
văn nước ngoài họ đến rồi họ lại đi. Để họ nói nhiều, còn ông nói ít thôi. Khi
người ta đi rồi, nếu họ viết thư cho ông thì ông hãy trả lời "Thật giản dị".
Nhà thơ TẾ HANH
Nguyễn Công Hoan khởi bút khi ông 17 tuổi, ấy là năm 1920. Vậy là,
khi tôi chào đời, ông đã có 30 năm cầm bút. Khi tôi có điều kiện tiếp cận và
hiểu được văn chương, ông đã có ngót nửa thế kỷ gắn bó với Văn học. Và khi
tôi chập chững vào nghề nghiên cứu, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã ở
chặng cuối của con đường sáng tạo bền bỉ, dẻo dai suốt trên nửa thế kỷ với
một sự nghiệp vừa độc đáo, vừa đồ sộ gồm 300 truyện ngắn và trên 30 tập
tiểu thuyết, truyện dài.
Viết, đối với Nguyễn Công Hoan trước hết là sự trang trải với cuộc đời
và số phận của những con người mà trái tim nhậy cảm của ông, tấm lòng
nhân ái, biết đau đời của ông, tình yêu thương đồng loại sâu xa nơi ông, đã
khiến ông phải vì nó mà đa mang. Viết với ông, dường như một cách sống,
để ông gửi gấm những yêu thương hay căm giận, bênh vực, bảo vệ hay phê
phán, đả phá, chở che, san sẻ hay bóc trần, tố cáo... văn là đời, ít thấy và hầu
như không thấy qua trang văn những dấu tích riêng của cuộc đời ông, ông lặn
mình, quên mình đi giữa thế giới những con người mà ông yêu thương.
Cũng chính vì thế, ngòi bút Nguyễn Công Hoan cũng chỉ tố cáo, đả phá
những gì từng đè nén chà đạp lên những con người xung quanh ông, chưa
bao giờ ông tố cáo, bênh vực cho chính mình, dẫu cuộc đời ông đầy những
gian truân và lận đận...
Biết vượt lên cái tầm thường để sống cao, sống đẹp. Biết quên mình đi
để vì người. Biết vượt trên nỗi đau của riêng mình để đau nỗi đau của đồng
loại... Phải vì thế mà Nguyễn Công Hoan sớm thành nhà văn và đã là một nhà
văn lớn, một tài năng lớn.
Phó tiến sĩ MAI HƯƠNG
Tôi biết Nguyễn Công Hoan qua Hải Triều. Xin trích một đoạn của sách:
"Thành công của chủ nghĩa Mác - Lênin - Tư tưởng Hồ Chí Minh" (730 trang,
xuất bản 20 tháng 3 năm 1993 tại t/p Hồ Chí Minh), trích trang 426, chương
VI, mục "Đấu tranh tư tưởng trên mặt trận văn nghệ".
... Cuộc đấu tranh ngắn ngủi giữa Hải Triều và Thiếu Sơn tuy đã được
nhiều người chú ý nhưng chưa gây thành phong trào đấu tranh trên báo chí.
Phong trào đấu tranh trên báo chí bắt đầu sau khi tập sách "Kép Tư Bền” của
Nguyễn Công Hoan được Hải Triều giới thiệu, được nhiều nhà phê bình văn
học xem như một lời tuyên chiến nữa của phe nghệ thuật vị nhân sinh đối với
khuynh hướng nghệ thuật vị nghệ thuật.
Từ nay theo Hải Triều - mà cũng đúng như vậy trong thực tế - tình thế
thay đổi, có triệu chứng rõ rệt của một hiện tượng văn học mới ở đó văn nghệ
coi vị nhân sinh là phương châm. Tác phẩm Kép Tư Bền theo Hải Triều, có
tính chất khai mở kỷ nguyên, (il faut souligner cette phrase - G).
"Nay tôi có thể tự đắc mà nói rằng: có rồi, có rồi, ông cứ xem Kép Tư
Bền đi. Cái chủ trương nghệ thuật vị nhân sinh của tôi ngày nay đã biểu hiện
bằng những bức tranh rất linh hoạt dưới ngòi bút tài tình của nhà văn sĩ
Nguyễn Công Hoan mà người ta đã tặng cho cái tên hay hay là nhà văn của
hạng người khốn nạn".
Mượn lời của một độc giả, Hải Triều nhận định tiểu thuyết của Nguyễn
Công Hoan là gần với người hơn tiểu thuyết của Khái Hưng, và mượn lời một
nhà phê bình văn học Hải Triều kết luận.
"Với Khái Hưng là cái thế giới đang tàn, mà với Nguyễn Công Hoan thì
là cái thế giới đang nhóm dậy".
Trích thư của Giáo sư TRẦN VĂN GIÀU
Chúng tôi là những đọc hậu sinh trung thành và chuyên cần của nền
văn chương quốc ngữ, chúng tôi càng quí trọng một trong những người đặt
nền móng đầu tiên là Nguyễn Công Hoan. Cũng chính ông là người tiếp tục
cần mẫn lần lượt leo lên nhiều tầng giàn giáo của công trường văn xuôi quốc
ngữ Việt Nam. Một công trường thật sự là đông đúc, nhưng những bậc thợ cả
trong số đó như Nguyễn Tuân, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố,
Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Khái Hưng, Tô Hoài, Nguyên Hồng... thì quả
chưa phải là nhiều. Còn chưa nhiều nên mới quí. Và càng quí khi tất cả họ,
khi trong con số ít ỏi ấy ở họ, lại là những chân dung rất khác nhau, những
gương mặt hoàn toàn không lẫn vào nhau. Nghĩ về Nguyễn Công Hoan tôi
luôn luôn nhớ đến một tiếng cười riêng, tiếng cười Nguyễn Công Hoan, tiếng
cười gây cười, lập tức làm ta bật cười, cười không cản được, cười to lên
hoặc tủm tỉm, nhưng rồi ngay sau đó là một vị chát, có lúc như nghẹn đắng,
có lúc làm cay nơi mắt ta. Ngẫm ra thật là "sợ" cho ngữ ngôn, cho văn tự, cho
chữ nghĩa Nguyễn Công Hoan.
Nhà lý luận phê bình PHONG LÊ
Với sự nghiệp văn học vĩ đại, Nguyễn Công Hoan đã làm giàu có thêm
truyền thống văn hiến của quê hương Hải Hưng và của đất nước. Chúng tôi
cùng các đồng chí làm việc trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, văn hoá giáo
dục và đào tạo sẽ tiếp nhận những hiểu biết thêm về nhà văn Nguyễn Công
Hoan trong dịp kỷ niệm rất có ý nghĩ này để rồi sẽ tiếp tục nghiên cứu, phát
huy hơn nữa những giá trị tư tưởng và nghệ thuật của những tác phẩm văn
học của ông trong việc bồi dưỡng nhận thức, tình cảm, nhân cách con người
mới, nhất là trong việc giáo dục đào tạo thế hệ trẻ.
VŨ DONG
(Chủ tịch Hội Văn nghệ Hải Hưng)
Nguyễn Công Hoan nổi tiếng bởi nghệ thuật trào phúng, nghệ thuật
châm biếm hết sức sắc sảo. về mặt này chưa mấy ai cạnh tranh được với
ông trong nền văn xuôi nước ta. Nhưng tiếng cười yêu đời của Nguyễn Công
Hoan tuyệt nhiên không mang tính phá phách, tính hư vô chủ nghĩa. Nó bắt
nguồn cảm hứng từ một lý tưởng nhà văn sâu sắc, và kiên định và thấm
đượm nhuần nhuyễn chất trữ tình. Chính sự kết hợp tinh tế chất châm biếm
với chất trữ tình ấy tạo nên cái duyên riêng, cái thi vị khó diễn tả của ngòi bút
Nguyễn Công Hoan, có sức hướng dẫn lớn đối với bạn đọc trong nước và
ngoài nước. Một sự kết hợp độc đáo như thế không dễ đạt được ngay ở các
nền văn học phát triển trên thế giới.
PGS PHẠM VĨNH CƯ
Đầu mùa hè năm 1977. Cha tôi vào nằm bệnh viện; ban đầu chỉ tưởng
là bệnh thông thường; lúc đó tôi công tác ở Bộ Nội vụ, rất bận, chỉ có thể
thăm Cha vào các ngày nghỉ. Bỗng một chiều, tôi được báo là Cha tôi phải
đưa vào phòng cấp cứu; tôi đã thu xếp vào ngay. Suốt đêm hôm đó ngồi cạnh
Cha trên giường bệnh, khi đó Ông đã bắt đầu hôn mê, tôi thấy nét mặt của
Cha tôi sao mà hồn nhiên thế, sao mà hiền từ thế! Lần đầu tiên trong đời và
cũng là lần cuối trong đời, tôi được ngắm nhìn Cha tôi lâu như thế. Biết bao
kỷ niệm thân thương hiện ra, từ thời tôi còn thơ ấu đến khi ra ngoài đời và
dần dần trưởng thành; tôi thấy như tìm ra một sự thật: Các con của Cha,
người đã mất trước Cha, người còn sống, người theo bước chân của Cha,
người làm nghề khác, trong con đường đi của từng người, đều có phần ảnh
hưởng tâm hồn và tính cách của Cha và Mẹ, hình ảnh của Cha luôn luôn sâu
đậm trong tâm trí của các con, cháu trong gia đình.
Từ cơn hôn mê, Cha tôi đã ra đi thanh thản.
Từ sau ngày 6-6-1977, tất cả những chuyện vui hay đau buồn xảy ra
đối với gia đình tôi, cũng như đối với ngoài xã hội, đã không chút gì ảnh
hưởng đến sự yên nghỉ của Cha tôi.
Riêng về cuộc đời văn của Cha tôi, cho đến nay sách của Người vẫn
đến tay bạn đọc, không chỉ là tái bản, mà có một số xuất bản lần đầu, thông
qua Tổng Công ty phát hành sách và các Nhà xuất bản như: Văn học, Hội
Nhà văn, Trường viết văn Nguyễn Du, Thanh niên, NXB Hà Nội, NXB TP Hồ
Chí Minh; và chuyển thể từ tiểu thuyết thành phim ảnh.
Trong dịp đúng ngày sinh của Ông, 6-3 năm nay, các báo chí trong
Nam ngoài Bắc, đài Tiếng nói Việt Nam đã có những bài viết hoặc dành số
riêng để nhớ về Ông.
Nhân dịp này, xin cho tôi thay mặt gia đình cám ơn các cơ quan xuất
bản, các cơ quan thông tin đại chúng về những tình cảm chân thành đối với
đời văn của Cha chúng tôi.
Trước khi nhường lời, xin cho phép tôi trình bày rằng Mẹ tôi do sức
khoẻ, đã không thể đến dự buổi lễ kỷ niệm hôm nay, được tổ chức tại Trường
viết văn Nguyễn Du. Chiều hôm qua, đại diện Hội Nhà văn, Trường viết văn
Nguyễn Du, cơ quan Truyền hình đã đến thăm Mẹ tôi tại nhà. Mẹ tôi đã ngỏ
lời cảm tạ.
Đối với lễ kỷ niệm hôm nay, cũng xin cho tôi thay mặt gia đình cám ơn
Hội Nhà văn Việt Nam, Viện Văn học, Trường viết văn Nguyễn Du, Uỷ ban
Nhân dân tỉnh và Hội Văn nghệ tỉnh Hải Hưng quê nhà, Ban tổ chức buổi lễ kỷ
niệm; cám ơn các Bác, các Anh, các Chị, bạn văn hoặc bạn đọc của Cha
chúng tôi, cùng các bạn bè thân quen; đã biểu lộ sự trân trọng đối với đời văn
của Cha chúng tôi, cũng như tình cảm yêu thương quí mến đối với Cha chúng
tôi; tuy hôm nay Người vắng mặt. Tôi xin cám ơn về tất cả những lời tốt đẹp
đã dành cho Cha chúng tôi.
NGUYỄN TÀI
(Con trai thứ của nhà văn Nguyễn Công Hoan)
(Văn nghệ 46-13-XI-1993)
NHÀ VĂN NGUYỄN CÔNG HOANNGUYỄN MINH CHÂU
Đời văn Nguyễn Công Hoan nằm vắt ngang chiều dài nền văn xuôi
nước ta, một đời văn thật dài và thật đồ sộ. Ngày sinh thời nhà văn, một lần
ngồi trò chuyện văn chương với ông, được biết rằng ông đã viết và in tác
phẩm đầu tay từ năm 1920, nghĩa là phải nhiều năm sau mình mới ra đời, tự
nhiên tôi cứ ngỡ ngàng nhìn ông đầy tôn kính và sợ sệt, như trước một con
khủng long đã sống từ thời cổ đại; và tôi chỉ muốn tìm thấy ở trong nhà văn
rất lão thành ấy, đâu là cái phần người cầm bút cùng thời với các nhà văn Hồ
Biểu Chánh, Nguyễn Trọng Thuật, và đâu là cái phần con người của ông
đang ngồi trò chuyện với mình.
Chúng ta thường hình dung vào nhà văn Ngô Tất Tố, tác giả Lều chõng
như một nhà nho cuối thời, cầm bút sắt mà búi tó, khăn xếp, áo dài. Nguyễn
Công Hoan thua Ngô Tất Tố 10 tuổi, nhưng Nguyễn Công Hoan viết sớm hơn
cụ đồ Tố nhiều. Năm 1939 Ngô Tất Tố in Tắt đèn thì Nguyễn Công Hoan đã in
tất cả 6 tập truyện ngắn (cả in báo bao gồm gần 100 truyện và nhiều truyện
vừa, tiểu thuyết).
Đọc Nguyễn Công Hoan và Ngô Tất Tố, tôi cứ nghĩ giá hai ông viết một
chút gì về cái nghề dập bút sắt vừa ra đời ở nước ta (hay là cái công nghiệp
ấy bấy giờ vẫn chưa có?) cùng với cảm tưởng của một lớp người đã quen
dùng cây bút lông vừa viết vừa ngắm nghía cái hoa tay của mình gieo xuống
trong từng nét bút, thế mà bây giờ, phải cầm lóng ngóng cái quản bút đeo
bằng gỗ ở đầu có chêm một cái ngòi bút bằng sắt tây cứng đơ - cả ngòi bút
và tờ giấy tây đều cứng - chắc là cái tiếng loạt xoạt đầu tiên phát ra đó, dội
vào tai người cầm bút sẽ làm nảy ra ở trong cái đầu óc vốn tràn đầy trào lộng
của Nguyễn Công Hoan nhiều sự bất ngờ và lý thú lắm.
Văn xuôi của ta ra đời vào cái thời buổi Tàu đi Tây đến - cái buổi giao
thời của hai nền văn hoá như thế. Giữa biết bao nếp nghĩ vay mượn, cách
diễn tả vay mượn, giữa biết bao sự mời gọi đầy quyến rũ tưởng không cưỡng
nổi của ảnh hưởng văn hoá ngoại lai, giữa cái thời mà ngay từ đầu văn xuôi
của ta đứng trước nguy cơ bật gốc trốc rễ ra khỏi miếng đất dân tộc của
mình, thì sự ra đời rất sớm của một cây bút như Nguyễn Công Hoan thật
đáng quí.
Nguyễn Công Hoan chẳng chịu ảnh hưởng hoặc vay mượn một chút
nào của nước ngoài. Không biết có đúng không. Nghe nói ông cũng biết tiếng
Tây nhưng chẳng đọc được hết một cuốn sách truyện bằng tiếng Tây nào cả.
Ở trong con người ông có một thứ bản năng tinh thần dân tộc mạnh mẽ đến
mức gần như bảo thủ. Thêm vào đó, như ông đã viết trong hồi ký đời viết văn
của mình, những điều tai nghe mắt thấy ở ngoài đời, ông đều nhìn bằng con
mắt của người hay pha trò, hay ỡm ờ, hay chế giễu. Thế mà trong khi ấy chế
độ thực dân phong kiến lại đầy ra những chuyện bịp bợm, bỉ ổi. Đã thế,
những kẻ đạo diễn tấn hài kịch là bọn quan Tây, quan bản xứ lại luôn mồm
diễn thuyết đạo đức, khai hoá, văn minh. Trong một bối cảnh xã hội như thế,
Nguyễn Công Hoan đã ra đời như một tác giả truyện cười dân gian, mà ngày
xưa vào thời nào trong nông thôn ta cũng có.
Ngoài ra, cũng cần phải kể thêm một hoàn cảnh khách quan nữa góp
vào sự định hình cách viết của ông là văn khoảng những năm 1928-1930,
Nguyễn Công Hoan gần như chiếm được độc quyền mục "Việt Nam nhị thập
thế kỷ xã hội ba đào ký" trên tờ Annam tạp chí của Tản Đà. Cái mục báo đã
đặt tên như vậy thì người viết phải viết như vậy. Ngòi bút hiện thực của
Nguyễn Công Hoan lôi kéo được chú ý của dư luận từ khi những truyện ngắn
"xã hội ba đào ký" của ông được liên tiếp đăng ở cái mục báo ấy trên tờ
Annam tạp chí.
Cái mới trong văn học đã ra đời như vậy. Với những truyện ngắn đăng
báo, Nguyễn Công Hoan cũng không biết mình là người đang đặt viên gạch
đầu tiên xây nền móng cho nền văn xuôi hiện thực phê phán. Nhưng ông biết
ông đang làm một điều khác với những người cầm bút viết văn đương thời.
Phải nói rằng văn xuôi của ta trong hồi mới ra đời bấy giờ, như được người
mẹ văn vần vừa cho ra ở riêng, còn trầm bổng, véo von lắm. Sau đó lại phải
trải qua một giai đoạn sạch sẽ như văn Tây dịch ra của Tự lực văn đoàn.
Giữa khi ấy, cả nội dung lẫn hình thức truyện Nguyễn Công Hoan chẳng có
màu mè văn chương mây gió gì hết, truyện lại đầy những nghịch cảnh, trái
khoáy, y như những tấn trò đời, loại truyện này cho đến nhiều năm về sau có
cả một loạt nhà văn viết những lúc bấy giờ, có vẻ nó nôm na, trần trụi quá.
Thậm chí có người còn coi Nguyễn Công Hoan chỉ là "một kép hát được vài
câu bông lơn có duyên".
"Việc cuốn Kép Tư Bền được hoan nghênh làm tôi tin rằng tôi có thể
viết nổi tiểu thuyết và tôi có thể theo đuổi được nghề văn". Trong hồi ký Đời
viết văn của tôi ông đã phải thốt lên như vậy. Khuynh hướng hiện thực của
Nguyễn Công Hoan hồi bấy giờ đã được nhà phê bình văn học mác xít Hải
Triều nhìn ra rất sớm và viết nhiều bài khen ngợi như một khuynh hướng
sáng tác "nghệ thuật vị nhân sinh".
Sau khi cuốn Kép Tư Bền in ra năm 1935, ngòi bút hiện thực của
Nguyễn Công Hoan mới được giới phê bình trong cả nước công nhận, và
cuốn sách của ông được coi như một thứ vũ khí của phái "nghệ thuật vị nhân
sinh" của Hải Triều.
* * *
Ngày nay, đọc lại truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, ở trong cái khối đồ
sộ về số lượng (200 truyện ngắn) đã nói lên hết tư chất con người lẫn văn tài
của ông. Bao giờ chúng ta cũng nghe thấy được từ phía sau những vô vàn
cung cách, hình thức mà ông liên tục xoay xở, phía sau những câu tiếng Việt
lấy ra từ nghĩa gốc gác mà ông đã dùng để tả từ một mụ me Tây đến một tên
quan huyện, quan phủ, đang vẳng lên một lời khuyên nhủ đầy chí tình của
ông: "Đừng bao giờ lười biếng nằm ỳ ra trên một cách viết như một sự tự
khuôn định, và cũng đừng bao giờ để cho văn chương trở nên xa lạ với đời
sống dân tộc của mình" mà có lẽ cũng vì thế, ông đã đem ra tả rất nhiều kiểu
cách con người lai căng kể cả với loại người này, ông cũng mô tả bằng ngôn
ngữ dân tộc, bằng cái lối nói nôm na đầy ý vị của người Việt Nam.
Ngày nay, ta có thể chê ông là thủ cựu, nhưng phải thừa nhận dòng
máu Việt Nam ở trong con người ông thật thuần khiết. Dòng máu ấy đã có
trong một con người tượng trưng cho trí thông minh của dân gian là Trạng
Quỳnh, truyền sang một người đàn bà cầm bút tài năng là Hồ Xuân Hương,
dòng máu ấy từ lâu đã thấm sâu vào trong đất, biến thành truyện tiếu lâm và
ca dao, tục ngữ, rồi bà mẹ ông đã giẫm lên cái lốt chân của một người nào đó
chuyên môn bịa những truyện cười kiểu như "bong bóng thì chìm, gỗ lim thì
nổi" để sinh ra ông - một thể chất văn xuôi hiện thực và trào lộng, đầy vóc vạc
và đầy năng động tính. Ngòi bút ông có đủ sức vừa cười cợt và lột trần mọi
thói ác, thói tham, thói rởm, trong cái chế độ thực dân và phong kiến để cho
tên ông - ba chữ Nguyễn Công Hoan - đối với chúng ta ngày nay không chỉ là
một tên riêng, mà còn như một tính từ, một hình dung từ, để chỉ ra tính cách
của một ngòi bút. Nguyễn Công Hoan là thế, nhọn sắc và đổ những trận cười
đôi khi cũng hơi nhẫn tâm, nhưng ông lại là một con người rất đỗi trung thực
và cũng đầy ngây thơ. Ông thật đáng yêu biết bao vào những lúc ông say sưa
giảng giải cho lớp người cầm bút hậu thế nghe về những "mẹo" những "ngón"
mà suốt đời ông đã đem dùng trong nghệ thuật cấu trúc truyện. Tuy là một
con người rất hiểu đời nhưng ông vẫn chưa ý thức được đầy đủ rằng cái ông
làm ra lớn hơn những lý thuyết văn học của ông rất nhiều.
Nhà văn Nguyễn Công Hoan đã viết hai chục cuốn tiểu thuyết. Nhưng
cái phần đặc sắc chỉ riêng Nguyễn Công Hoan mới có, lại ở truyện ngắn.
Những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan hiện ra trước mắt chúng ta với
những lớp lang và đối thoại như trong một màn kịch, và từ cuộc sống đã thối
rữa dưới chế độ cũ mà Cách mạng tháng Tám năm 1945 sắp sửa đem chôn
đi ấy, Nguyễn Công Hoan có biệt tài tóm bắt lấy những dáng nét tiêu biểu mà
lại nực cười, tự cho phép mình từ đầu chí cuối một truyện ngắn chỉ viết những
câu ngắn - mà câu nào câu nấy cứ rắn như một nhát búa, nhát sau đập chồng
vào nhát trước, cứ thế, cho đến nhát cuối cùng mới là lời tuyên án.
Chính đời sống ngột ngạt trước Cách mạng đã dâng hiến cho nhà văn
cái nghệ thuật biểu hiện ấy. Nó cũng là cái ngữ điệu của thời đại, cái ngữ
pháp nghệ thuật của thời đại. Những văn tài của các thời đều là lỗ tai thính,
lắng nghe và lọc ra được giữa muôn tầng âm thanh hỗn độn, cái điệu của thời
mình, cái tinh cốt tiếng nói của thời mình.
Sự vật hiện ra dưới con mắt của chúng ta ngày nay với muôn mặt,
muôn vẻ khách quan của nó, và trong muôn vàn mối tương quan nhân quả
đầy chằng chịt luôn luôn tác động lẫn nhau.
Vì thế mà một cái nhìn con người và cuộc sống bao giờ cũng chỉ thấy
hai mặt (thật và giả) của nhà văn Nguyễn Công Hoan - dưới con mắt nhìn sự
vật của chúng ta ngày nay - có cái gì đó có phần cực đoan và hơi đơn giản.
Nhưng phải công nhận rằng chính nhờ có một cái nhìn như vậy mà trong giai
đoạn hiện thực phê phán trước cách mạng, ông đã tạo cho mình một cách
viết gây thật nhiều ấn tượng, những truyện của ông có một sức tố cáo mạnh
mẽ. Và cũng với con mắt ấy - vừa cực đoan vừa trào lộng - đã tạo nên phong
cách truyện ngắn vô cùng độc đáo, đứng riêng một mình một miếng đất và
không hề giống một ai của ông.
Một lần trong khi bình luận về Ba Ben, I. Êrenbua đã viết đại ý: có nhà
văn nhìn những cái bình thường bằng con mắt không bình thường, có nhà
văn nhìn cái không bình thường bằng con mắt bình thường. Riêng Ba Ben lại
nhìn cái không bình thường bằng con mắt không bình thường. Hình như lời
bình luận của I. Êrenbua về Ba Ben có phần nào ứng nghiệm với cả Nguyễn
Công Hoan. Ví dụ, truyện ngắn Đào kép mới là một truyện rất hay, toàn bộ
câu chuyện ông đem ra kể về một gánh hát, rệu rã, lại được ông nhìn dưới
một con mắt không bình thường chút nào. Điều này chúng ta có thể tìm thấy
trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, thậm chí thấm đượm trong
từng câu văn. Chính cái nhìn không bình thường ấy - bộc lộ từ chủ nghĩa
nhân văn độc đáo của ông - đã tạo nên cốt cách hoạt kê, trào phúng mà sau
ông, chúng ta không còn tìm thấy xuất hiện ở một người nào như thế nữa
trong làng văn xuôi. Hình như cái mạch trào lộng của những truyện kể dân
gian chảy đến Nguyễn Công Hoan thì ngừng. Đấy là điều chúng ta phải nên
tìm hiểu thêm, để khơi lại, đặng làm giàu có thêm truyền thống văn xuôi mang
tính nhân dân của chúng ta.
Đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, dân tộc Việt Nam vùng dậy bẻ
gãy xiềng xích nô lệ, thở căng lồng ngực bầu không khí tự do, hiên ngang
trong tư thế dân tộc của một nước độc lập. Từ những ngày đầu, tác giả Bước
đường cùng chào đón Cách mạng tháng Tám với tất cả tấm lòng hân hoan.
Ngay khi chính quyền nhân dân còn trứng nước, phải đương đầu với thù
trong giặc ngoài, ông đã hăng hái nhận nhiệm vụ Giám đốc Sở tuyên truyền
Bắc Bộ. Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông vào bộ đội: giữa những năm
tháng đầy gian khổ của núi rừng Việt Bắc, Nguyễn Công Hoan trở thành Đảng
viên Cộng sản (1948). Kháng chiến kết thúc, ông mới trở lại nghề viết văn với
cương vị Chủ tịch Hội Nhà văn (1957).
Giai đoạn này ông ít viết truyện ngắn. Những tập bút ký, hồi ký và tiểu
thuyết của Nguyễn Công Hoan sau Cách mạng đã bổ sung hoàn chỉnh bức
tranh xã hội cũ và chân dung giai cấp thống trị mà ông đã vẽ bằng ngòi bút
trào lộng đầy sắc sảo trong giai đoạn hiện thực phê phán.
Một nhà văn mà sở trường là đả kích, tố cáo chế độ cũ, khi ra nhập
hàng ngũ cách mạng - nghĩa là bây giờ những lý tưởng của chế độ cũng là lý
tưởng của nhà văn - nhà văn và chế độ đã là một - thì sự rèn luyện để làm
biến đổi thói quen ngòi bút phải tự đặt ra thật nghiêm khắc và ý thức.
Tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa của Nguyễn Công Hoan đã có
phần khắc phục được những mặt hạn chế trước đây của ông. Nếu như trước
đây ông chỉ chú ý nhiều đến các hiện tượng quan sát được bên ngoài thì bây
giờ, với một cái nhìn mới, bọn nhà giàu tham lam, bọn hào lý sâu mọt, bọn
quan lại đục khoét đã được ông nhìn từ bản chất chính trị phản động và thủ
đoạn bóc lột kinh tế của chúng. Tranh tối tranh sáng, Hỗn canh hỗn cư, Anh
con trai người bạn đọc ấy có những mảng hiện thực hoàn toàn mới mẻ, có
những mảng hiện thực cũ được vẽ lại kỹ lưỡng hơn, dưới một con mắt nhìn
rành rẽ hơn. Đi đến với nhân dân, cái nhìn của ông đối với những người lao
động nghèo khổ đúng đắn hơn. Anh con trai người bạn đọc ấy là một bước
tiến đáng kể của ngòi bút tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan sau Cách mạng.
Phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa đã giúp ông biết tự kiềm
chế không pha trộn tuỳ tiện phóng đại và trào lộng, nên các hình tượng chân
thực hơn, ý nghĩa phê phán sâu hơn. Tác phẩm này là một cố gắng của nhà
văn trên bước đường đi từ hiện thực phê phán sang hiện thực xã hội chủ
nghĩa - vào lúc ông đã sáu mươi tuổi.
Thời nào một đời nhà văn cũng có lúc khởi đầu, giai đoạn sáng tạo rực
rỡ nhất và cũng phải đến lúc hao cạn dần. Mặc dầu nhà văn vẫn sống, vẫn
viết, nhưng chẳng có thể làm thêm cái gì hay hơn nữa. Đấy là cả một tấn bi
kịch của bao nhiêu nhà văn lớn, mãi mãi sẽ không bao giờ hết tấn kịch nghề
nghiệp ấy của những nghệ sĩ sáng tạo.
Đối với một đời văn, cái đáng kể là những điều nhà văn ấy đã làm được
cho đời. Nhà văn Nguyễn Công Hoan đủ để lại cho chúng ta ngày nay những
truyện ngắn hay và nhiều truyện dài, trong đó có cuốn Bước đường cùng. Chỉ
để lại thế, ông đã phải lao động cật lực suốt đời.
Những năm về già, nhà văn Nguyễn Công Hoan vẫn giữ được tính tình
hồn hậu - một ông già đôn hậu và nhân từ, trong con mắt vẫn lấp lánh những
tia sáng nhìn người của một nhà văn hoạt kê đầy tài năng. Điều đó gây cho
mọi người chúng ta cảm tưởng Nguyễn Công Hoan - cái con khủng long ấy,
vẫn trẻ trung mãi. Biết rằng cái mặt mạnh của mình là kho vốn sống xã hội cũ
đã trút ra hết, ông viết tiểu luận về Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Tản Đà, cộng
tác làm từ điển và ngữ pháp. Ông khiêm tốn viết hàng loạt bài phỏng vấn các
đồng nghiệp bậc đàn em (Hỏi chuyện các nhà văn). Sự nghiệp văn học của
ông thật phong phú, nhiều mặt, như một cây cổ thụ sum suê trái. Tác phẩm
của ông đã được dịch ra ở Liên Xô, Bungari, Hunggari, Anbani, Cộng hoà dân
chủ Đức, Cuba, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản.
(Báo Văn nghệ số 40, ngày 5-10-1985)
NGUYỄN CÔNG HOANPHONG LÊ
Nguyễn Công Hoan là một trong số không nhiều nhà văn đã có thể in rõ
dấu ấn bản sắc riêng mình lên bối cảnh văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt là
văn học 1930-1945. Ông viết khá nhiều sáng tác văn xuôi thuộc mọi thể loại,
nhưng trong đó truyện ngắn có lẽ là phần đặc sắc hơn cả; và do vậy, đó cũng
là phần chắc chắn sẽ còn sống lâu dài với thời gian. Tuy vậy bàn về Nguyễn
Công Hoan nếu chỉ xét riêng truyện ngắn thì có thể sẽ không có được một cái
nhìn toàn bộ về nhà văn trong cả mặt mạnh lẫn mặt yếu của nó, cũng như
trong cả quá trình phát triển đi lên, lắm lúc khá quanh co của nó.
Không cần phải là người nghiên cứu sâu sắc cũng có thể thấy rõ chính
sự từng trải và kinh nghiệm sống dồi dào mà bộ mặt xã hội trong sáng tác của
Nguyễn Công Hoan hết sức phong phú, nhiều vẻ hơn một số nhà văn tiến bộ
khác cùng thời. Đó là cả một xã hội gồm đủ mặt các loại người nông dân, địa
chủ, lý dịch cường hào, nghị viện, quan lại (huyện, phủ, án, tuần...), công
nhân, phu phen thuyền thợ, con buôn, tư sản, thầu khoán, các loại tiểu tư sản
trí thức, người làm nghề tự do, thầy thuốc, nhà báo, nhà giáo, nhà văn, nghệ
sĩ, học trò, công chức, cô đầu, gái điếm, phu xe, con sen, đứa ở, kẻ cắp, hát
xẩm, bồi bếp, lính tráng, hàng rong, tây trắng, tây đen, me tây, kép hát, lính
cơ, thầy quyền, phán, than, chủ báo... Tất cả họ lại, làm thành một bức tranh
đời khá nhiều màu sắc, một tấn trò đời với nhiều cung bậc khác nhau của tình
cảm: hài hước, đau xót, thương tâm, uất ức, khinh bỉ, căm giận... Nếu có
hiếm hoi thì là hiếm hoi một thứ màu sắc tươi sáng, một niềm vui, một tình
cảm lạc quan... Nhưng biết làm thế nào, khi đó là nét chính, là mặt chủ đạo
của xã hội cũ.
Điểm đặc sắc của Nguyễn Công Hoan là những đòn công kích chế độ
quan trường, công kích bộ mặt quan lại. Ấy là những đòn rất mạnh mẽ, cay
độc, nghe rất sướng tai. Nhưng cũng do hạn chế trong chỗ đứng, trong cách
nhìn như đã nói trên, nên tiếng chửi của nhà văn tuy cay độc, tuy có lúc rát
mặt rát mày nhưng vẫn chưa điểm đúng huyệt, chưa đi được vào các mặt cốt
lõi để đánh gục chúng. Ở đây, phạm vi công kích của Nguyễn Công Hoan vẫn
còn bị hạn chế trong mặt luân lý, nếp sống, nhân cách, sinh hoạt... Tố cáo
nhân cách, sinh hoạt, những ngọn đòn của Nguyễn Công Hoan đối với quan
lại về mặt này phải nhận là đau. Nhà văn đã thực sự làm nhục chúng trong dư
luận xã hội. Những chuyện thương luân bại lý, chuyện nhân cách sinh hoạt,
chưa phải là mặt chính, càng chưa phải là toàn bộ sự thối nát của giai cấp
thống trị lúc này. Hơn nữa, những mặt đó, tuy giai cấp có chịu phần trách
nhiệm, nhưng trách nhiệm cá nhân vẫn nhiều hơn, dễ thấy hơn. Người ta có
thể nghĩ: chế độ quan trường thối nát xấu xa, chính là do các cá nhân cá biệt
chịu trách nhiệm. Chẳng hạn tên huyện này, tên phủ kia. Cho nên cũng có thể
có những viên quan tốt, có nhân cách trong sạch, có ý thức trách nhiệm về
nghĩa vụ của mình, không làm những chuyện thương luân bại lý... và trong
điều kiện như vậy, với những bậc thực sự là "phụ mẫu" như vậy, dân có thể
sống yên ổn, dễ chịu được. Có thể đó là nguyên nhân khiến cho Nguyễn
Công Hoan có lúc vẫn mơ ước một chế độ quan trường tốt với những kiểu
quan tốt như Lê Sĩ Cư trong Thanh đạm (1943).
Nếu không tính đến các truyện ngắn, thì có thể xem đỉnh cao của
Nguyễn Công Hoan là Bước đường cùng (1938). Do ảnh hưởng của phong
trào quần chúng trong thời kỳ Mặt trân Dân chủ, trên tác phẩm này, nhà văn
đã tiếp cận được với cái nhìn của nhân dân, đã thấy ở bọn địa chủ không
phải chỉ có mặt thương luân bại lý mà còn biết đào sâu vào các âm mưu, thủ
đoạn kinh tế và chính trị của chúng. Ở đây bản chất giai cấp, động cơ giai cấp
của nhân vật đã được nhà văn nhìn nhận một cách đúng đắn, nghiêm chỉnh.
Mới hay phong cách hài hước, trào lộng không phải lúc nào cũng thích hợp
với nhà văn ưa châm biếm này, mặc dù quan niệm của ông về xã hội cũ là cả
một tấn trò đời oái ăm.
...Điểm đặc sắc ở Nguyễn Công Hoan còn là cái nhìn trào lộng.
Đặc điểm này bộc lộ rõ trong truyện ngắn. Ông sử dụng tiếng cười như
một thứ vũ khí. Ông đứng lên trên tất cả mà cười. Cười với mọi cung bậc: hả
hê, khoái trá, chua chát, chế giễu, khinh bỉ, đau xót, căm giận... Có cái cười ra
nước mắt của một tấm lòng ưu ái, nhân hậu. Nhưng cũng lại có cái cười để
mà cười, của một người vui tính hoặc vô tâm, thậm chí có khi lạc điệu. Cho
nên cần thấy nét đặc sắc trong cái cười của Nguyễn Công Hoan, nhưng cũng
phải thấy không phải cái cười nào của ông cũng đúng chỗ và có ý nghĩa. Mặt
khác người hay cười đời ấy lại là một kẻ bi quan. Vì đời đáng cười nghĩa là
đời toàn những chuyện vô nghĩa, nhố nhăng, không có gì đáng cho ông tin
yêu hy vọng. Do cái nhìn bi quan ấy nên đóng góp chính của Nguyễn Công
Hoan, thiên về mặt phê phán, là sự xây dựng những hình tượng phản diện.
Nguyễn Công Hoan từng nói: "Tôi vẽ người xấu nhạy hơn người tốt.
Bởi vì tôi vốn bi quan nên nhìn mọi vật bằng con mắt hoài nghi, chỉ thấy
phía xấu. Phía xấu dễ nhập tâm hơn phía tốt". Trong tình hình xã hội cũ và
trong yêu cầu của văn học hiện thực phê phán, đóng góp đó của Nguyễn
Công Hoan rất đáng quí. Nhưng cũng chính vì chỉ mới dừng lại ở mặt phê
phán đó nên văn học hiện thực không thể đi xa hơn. Cố nhiên, đối với
Nguyễn Công Hoan, sự phê phán không phải là sự phủ định sạch trơn, sự
đập phá vô chính phủ như Vũ Trọng Phụng. Hình như đâu đây vẫn còn le lói
một chút ánh sáng toát ra từ một ít lòng tốt ở đời. Tuy vậy, từ ánh sáng đó
vẫn chưa thật đậm đà, thật nổi hẳn, với tất cả sức hấp dẫn, làm cho con
người tin tưởng chắc chắn, vì dường như chính bản thân nhà văn cũng chưa
thật tin hẳn. Ta hiểu vì sao trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan thỉnh
thoảng vẫn xuất hiện một vài nhân vật chính diện như cô giáo Minh (Cô giáo
Minh), như thầy giáo Nhượng, hoặc anh học trò Đức (Tấm lòng vàng) biết
cách cư xử, hoặc biết sống tu nhân tích đức, biết giúp đỡ những người nghèo
khổ hơn mình. Có điều các nhân vật đó thường ít sinh động, bởi lẽ đối với
Nguyễn Công Hoan, đó không phải là sự đúc kết những mẫu người có thực
của cuộc sống mà chỉ là kết quả của một niềm mơ ước. Cho nên người ta lại
nghĩ, đối với Nguyễn Công Hoan, nhân vật tốt chỉ có thể có trong tưởng
tượng, trong ý muốn, còn trong cuộc đời thì rất hiếm.
Tập truyện ngắn Nông dân với địa chủ (1955) viết về đời sống nông
thôn với những đau khổ và quá trình vùng lên của người nông dân trong cải
cách ruộng đất vẫn chưa phải là sáng tác hay và bản thân nhà văn cũng
không thoả mãn. Ông thông cảm với những đau khổ của họ, nhưng nguyên
nhân gốc rễ của những đau khổ đó, lại là một thực tế, cho đến lúc này ông
mới nhận ra. Rồi quá trình vùng lên, quật khởi ở họ, đối với ông lại càng là
chuyện mới mẻ. Tất cả những nhận thức mới ấy chưa thật sự biến thành ấn
tượng, thành kinh nghiệm trong vốn sống của ông.
Mặt mạnh của Nguyễn Công Hoan vẫn là những kinh nghiệm về mặt
trái của đời sống xã hội cũ. Ông lại trở về đề tài quen thuộc của mình trong
Tranh tối tranh sáng (1958), Hỗn canh hỗn cư (1961). Các tác phẩm trên đều
có những ưu điểm, những đổi mới, trong nhận thức, trong cách nhìn, so với
trước. Người đọc thấy rõ có một sự nỗ lực của nhà văn trong việc miêu tả
những mặt tích cực của con người lao động, nhất là miêu tả cách mạng.
* * *
Cho đến bây giờ chỗ mạnh của Nguyễn Công Hoan vẫn là chỗ mạnh
của một cây bút hiện thực sắc sảo về nhiều mặt xâu xa của xã hội cũ. Ưu
điểm này thể hiện rất rõ ràng trong hệ thống truyện ngắn của Nguyễn Công
Hoan trước Cách mạng, và nhiều chương đoạn của các truyện dài ông viết
sau này.
Nguyễn Công Hoan tuy đã già nhưng niềm mong muốn sáng tạo, theo
chỗ hiểu biết của chúng tôi, thì vẫn còn rất dồi dào. Nói như nhà văn "còn sức
thì cố mà viết". Cách mạng đã cho ông một chỗ đứng cao hơn, một tầm nhìn
xa hơn. Mong rằng với ưu thế đó, có hướng đi sâu vào lĩnh vực quen thuộc
nhất của mình, Nguyễn Công Hoan vẫn còn tiếp tục có khả năng đóng góp.
Tuy vậy với những gì ông đã đem lại cho người đọc trên hơn bốn mươi
năm qua, Nguyễn Công Hoan thực sự đã giữ được cho mình một vị trí riêng
trong văn học Việt Nam hiện đại.
(Trích trong Văn và người, NXB Văn học, Hà Nội, 1976)
NGUYỄN CÔNG HOAN - VĂN VÀ NGƯỜIBÙI VIỆT THẮNG
Nguyễn Công Hoan sinh ngày 6-3-1903 tại làng Xuân Cầu, huyện Văn
Giang, tỉnh Hưng Yên, mất ngày 6-6-1977 tại Hà Nội. Ông đã sống qua cái
mức "cổ lai hy" và đã theo nghiệp văn hơn nửa thế kỷ, vì thế văn và người
Nguyễn Công Hoan là một tấm gương cho các thế hệ văn chương Việt Nam.
Có thể nói, Nguyễn Công Hoan đã ươm giống, chăm xới để làm ra hoa kết
quả một di sản lớn trên 200 truyện ngắn, gần 30 truyện dài và nhiều tiểu luận
văn học có giá trị.
Những tác phẩm văn học của Nguyễn Công Hoan được Giải thưởng
Hồ Chí Minh (đợt I- 1996) gồm Kép Tư Bền (truyện ngắn 1935), Bước đường
cùng (tiểu thuyết, 1938), Nông dân với địa chủ (truyện ngắn, 1955), Tranh tối
tranh sáng (truyện dài, 1956), Người cặp rằng hầm xay lúa ở ngục Côn Lôn
năm 1930 (1960), Hỗn canh hỗn cư (truyện dài, 1961), Đời viết văn của tôi
(hồi ký, 1971) và Tuyển tập Nguyễn Công Hoan (3 tập).
Xuất thân làm nghề giáo, và qua nhiều lần thay đổi địa bàn làm việc
Nguyễn Công Hoan có dịp đi nhiều, chứng kiến nhiều cảnh sống của nhiều
tầng lớp xã hội. Cuộc sống thôi thúc ông cầm bút viết về "những điều trông
thấy mà đau đớn lòng". Nguyễn Công Hoan bắt đầu văn nghiệp của mình vào
những năm hai mươi của thế kỷ này khi ở Việt Nam, văn học được viết bằng
quốc ngữ đã phổ biến. Mười bảy tuổi, ông đã có truyện in báo và đến năm 19
tuổi (1922) cho in tập Truyện thế gian do Tản Đà thư cục xuất bản. Năm
1923, Nguyễn Công Hoan lại tự xuất bản tập truyện ngắn Kiếp hồng nhan.
Nhưng phải đến năm 1935 với tập truyện Kép Tư Bền, Nguyễn Công Hoan
trở thành nhà văn có danh tiếng trên văn đàn Việt Nam lúc bấy giờ. Năm
1938, Nguyễn Công Hoan cho xuất bản tiểu thuyết nông dân, một tác phẩm
góp phần vào bức tranh chung về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng bên
cạnh những trước tác bất hủ của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng... Từ sau Cách
mạng tháng Tám. Nguyễn Công Hoan tham gia nhiều công tác văn hoá xã hội
ở nhiều cương vị khác nhau và tiếp tục sáng tác. Các tác phẩm Nông dân với
địa chủ, Tranh tối tranh sáng, Hỗn canh hỗn cư của ông tiếp tục phản ánh
cuộc sống và con người nông thôn Việt Nam trong những thời điểm lịch sử
quan trọng trước và sau Cách mạng. Là một nhà văn lão thành, Nguyễn Công
Hoan đã có ý thức đúc rút, tổng kết kinh nghiệm sáng tác kinh nghiệm của
mình để truyền lại cho các thế hệ sau trong nghiệp văn. Vì lẽ đó mà Đời viết
văn của tôi (1971) như là một cẩm nang văn học đối với những "hậu duệ văn
học". Tuyển tập Nguyễn Công Hoan có thể xem là một bộ sưu tập khá đầy đủ
về thành tựu sáng tác của Nguyễn Công Hoan trong hơn 50 năm cầm bút.
Nói đến Nguyễn Công Hoan trước hết là nói đến một bậc thầy truyện
ngắn trong văn học Việt Nam hiện đại. Thế giới truyện ngắn của Nguyễn
Công Hoan đa dạng, phong phú như một "bách khoa thư", một "tấn trò đời"
mà đặc trưng là xã hội phong kiến của thực dân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ
hai mươi. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan có nhiều nét gần với truyện cười
dân gian, tiếp thu được truyền thống lạc quan của nhân dân muốn dùng tiếng
cười như một "vũ khí của người mạnh" để tống tiễn cái lạc hậu, cái xấu xa
vào dĩ vãng. Năm 1935 khi Kép Tư Bền xuất hiện đã làm cho phái "nghệ thuật
vị nhân sinh" mà Hải Triều là người khởi xướng, có đủ chứng cứ để đấu tranh
với phái "nghệ thuật vị nghệ thuật". Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan với đặc
điểm của nó đã nâng cao khả năng nhận thức và khám phá các hiện tượng
của xã hội phức tạp. Chế độ phong kiến nửa thực dân ở Việt Nam trước 1945
đầy rẫy sự lừa bịp và khôi hài thế nhưng kẻ thống trị luôn luôn tìm mọi cách
tạo ra cái vẻ ngoài "nghiêm chỉnh" của nó. Cần phải phanh phui mâu thuẫn
nội tại đó để làm lộ rõ sự không khớp giữa bản chất và hiện tượng, giữa nội
dung và hình thức, làm bật lên tiếng cười đả kích sâu cay tất cả sự xấu xa
của xã hội cũ. Đào kép mới và hàng loạt truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
trước 1945 là chĩa vào các thói xấu của kẻ thống trị và phê phán một cách
không thương tiếc. Chúng ta có quyền tự hào về Nguyễn Công Hoan và coi
ông là bậc thầy truyện ngắn.
Nguyễn Công Hoan cũng đã thử sức mình trong truyện dài và gặt hái
nhiều thành công. Trong số các tác phẩm viết vào thời kỳ 1936-1939 thì Bước
đường cùng là cuốn tiểu thuyết có tính tư tưởng và nội dung hiện thực sâu
sắc, Bước đường cùng chính là vấn đề dân cày, vấn đề của cuộc cách mạng
dân tộc - dân chủ ở Việt Nam được thể hiện bằng hình tượng nghệ thuật sinh
động, là cuốn tiểu thuyết trong đó nhà văn đã xây dựng được những tính cách
điển hình trong hoàn cảnh điển hình theo yêu cầu của chủ nghĩa hiện thực.
Tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan có một tiếng vang lớn trong thời kỳ Mặt
trận Dân chủ (sau khi xuất bản, sách bị cấm lưu hành và tàng trữ trong toàn
Đông Dương). Sau này, ngòi bút Nguyễn Công Hoan còn tiếp tục viết về nông
thôn Việt Nam trong thời kỳ chuyển biến cách mạng. Các tác phẩm Tranh tối
tranh sáng, Hỗn canh hỗn cư được viết trên cơ sở kinh nghiệm vốn sống dồi
dào của ông về xã hội cũ, về nông thôn Việt Nam với một cảm xúc và một ánh
sáng tư tưởng mới, cho nên đã tạo ra được sức hấp dẫn.
Nguyễn Công Hoan là nhà văn có công khai phá, mở đường cho chủ
nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam thời kỳ hiện đại. Sau năm 1930, và
đặc biệt với sự xuất hiện của Kép Tư Bền đã ghi sâu sự trưởng thành của
nhà văn hiện thực phê phán. Nguyễn Công Hoan viết văn cùng thời với Hồ
Biểu Chánh, Nguyễn Trọng Thuật, Vũ Đình Long... những người theo cách
gọi của ông Vũ Ngọc Phan là "các nhà văn đi tiên phong". Đó là thời kỳ mà
quan niệm "Văn dĩ tải đạo" còn chi phối ảnh hưởng mạnh đến sáng tác.
Nguyễn Công Hoan đã đột phá vào những thành trì, khuôn khổ của giáo huấn
và tiếp nhận, tuân theo một chủ nghĩa khách quan lịch sử khi miêu tả hiện
thực. Giới nghiên cứu văn học khi bàn đến sự hình thành chủ nghĩa hiện thực
trong văn học Việt Nam đều nhất trí đánh giá cao vai trò, vị trí của Nguyễn
Công Hoan, người có những tác phẩm được coi là "cổ điển" trong nền văn
học hiện đại. Từ khi còn là học sinh, nhà văn tương lai Nguyễn Công Hoan đã
say mê truyền thống trào phúng của dân tộc. Vì thế không phải ngẫu nhiên
mà Nguyễn Công Hoan mến yêu Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà, Tú Mỡ
và đã có những bài nghiên cứu sắc sảo, thú vị về các tác giả này.
Nguyễn Công Hoan là người lao động nghệ thuật đích thực, là người
sống giản dị, khiêm nhường với tất cả sự chân thành của mình. Ngay khi viết
hồi ký Đời viết văn của tôi, ông tâm sự: "Tuổi tôi tuy cao, nhưng sức chưa
yếu, tôi còn làm việc được lâu. Ngay từ lần này, tôi viết cuốn này, mà có hôm
say mê, tôi cặm cụi tới mười hai, mười ba giờ đồng hồ chưa thấy mỏi",
Nguyễn Công Hoan là tấm gương của một người đã trọn vẹn đời mình công
hiến cho sự nghiệp văn học, tấm gương của một người đã miệt mài lao động
sáng tạo nghệ thuật hơn nửa thế kỷ. Nói đến Nguyễn Công Hoan là nói đến
một nhà văn yêu nước, một ngòi bút chiến đấu vì lẽ phải bằng tiếng cười
chính nghĩa và tài năng trong văn chương.
(Các nhà văn được giải thưởng Hồ Chí Minh.
NXB Hội nhà văn, H. 1997)
NHỮNG CÁI NHÁY MẮT TINH NGHỊCHVƯƠNG TRÍ NHÀN
Trong các từ điển cùng các cuốn sách giáo khoa dùng ở phổ thông và
đại học, Nguyễn Công Hoan thường được đánh giá xác đáng như nhà văn tả
chân độc đáo, một trong những tác giả tiêu biểu của trào lưu hiện thực phê
phán trong văn học tiền chiến. Nhưng với các truyện ngắn của Nguyễn Công
Hoan thời kỳ đó, luôn luôn người ta còn có thể đọc ra những mối liên hệ sâu
xa với văn học dân gian và qua ông, hiểu thêm thực trạng của những người
cầm bút đương thời.
Trạng là một nhân vật đặc biệt của văn học dân gian Việt Nam, biểu
tượng tập trung của trí thông minh và cách sống khôn ngoan mà những người
dân bình thường vốn ưa thích. Dù sống ở thời nào và khoác tên gì, song các
nhân vật trạng đều giống nhau ở chỗ tinh ranh ma quái, giỏi biến báo và nhất
là giỏi đối đáp. Trước những tình thế khốn quẫn, những nghịch cảnh trớ trêu,
họ linh hoạt tìm ngay được cách thích ứng. Không làm gì, nhưng họ biết tất
cả. Không để bị ai lừa, họ còn luôn luôn "đi guốc trong bụng thiên hạ". Lại
cũng do biết nhiều quá, nên như một triết lý hư vô thường cũng phảng phất
trong cách nhìn đời của các trạng. Óc thực tế chắc chắn cộng với một trí
tưởng tượng hồn nhiên thường trực, đã giúp cho các trạng nhìn đâu cũng
thấy truyện buồn cười, dù sau khi cười, họ cũng không biết làm gì hơn!
Trước khi trở thành nhân vật của các truyện cười dân gian, các loại
trạng nói trên đã thả sức tung hoành trong xã hội trung cổ Việt Nam nhiều thế
kỷ. Sang thời hiện đại, trong khi các mẩu chuyện trạng trong quá khứ bắt đầu
sưu tầm ghi chép, thì các trạng hiện đại tiếp tục hành nghề. Lại có những nhà
văn hấp thụ được cái mạch truyện cười dân gian đó để viết đều đều, chẳng
hạn như trường hợp Nguyễn Công Hoan, cây bút cả đời sống đạo mạo trong
nghề dạy học, song vẫn mang tâm hồn nghịch ngợm trẻ trung của một thứ
trạng hiện đại.
Tấn kịch dân gian
Có nhiều dấu hiệu khác nhau để xác nhận sự vững vàng và lý do tồn tại
thật sự của ngòi bút, song dấu hiệu quan trọng nhất là do khả năng của ngòi
bút đó trong việc áp đặt một cách nhìn đời riêng cho bạn đọc. Thế giới do nhà
văn tạo nên có thể lớn, có thể nhỏ. Nhưng thế giới đó phải có sức sống nội
tại, phải thống nhất lại theo những qui luật riêng mà chỉ nhà văn đó mới có.
Trong giới cầm bút ở xứ ta thế kỷ này, Nguyễn Công Hoan thuộc về
một số ít ỏi những người tìm được lý do tồn tại thật sự như vậy. Từ cách khái
quát hiện thực, cho tới cách dựng truyện tìm nhân vật, cách đặt câu dùng
chữ, văn ông luôn luôn có một thần thái riêng trộn không lẫn. Mà nguồn gốc
của tất cả những cái làm nên thần thái riêng ấy là một lối nhìn đời theo kiểu
trạng dân gian trên kia đã nói. Vào các trang sách của ông, cuộc sống xã hội
Việt Nam thuở giao thời hiện lên với không biết bao nhiêu là vớ vẩn nhảm nhí.
Đám giàu sổi mới nảy nòi, nhố nhăng lố bịch (Cô Kếu gái tân thời, Nỗi lòng ai
tỏ, Một tấm gương sáng); bọn quan lại keo bẩn ngu dốt, sẵn sàng làm bất cứ
việc gì xấu xa, miễn bóp nặn được người dân và thăng quan tiến chức (Thật
là phúc, Cái nạn ô tô, Xuất giá tòng phu...). Sự suy đồi phong hoá diễn ra ở
khắp nơi, trong mọi gia đình (Mất cái ví, Nỗi vui sướng của thằng bé khốn
nạn...). Từ thành thị đến nông thôn những người dân túng bấn, nghèo khổ,
chìm đắm trong cảnh tối tăm vô nghĩa (Sáng, chị phu mỏ, Thanh! Dạ!, Quyền
chủ, Chính sách thân nhân...) Bằng một cách nói có phần táo tợn, trong cuốn
hồi ký Đời viết văn của tôi (in ra năm 1971, lúc nhà văn đã 68 tuổi), Nguyễn
Công Hoan từng nhiều lần trình ra những đức tính bẩm sinh chẳng có gì hay
ho của mình lúc còn trẻ, nào là "khinh thế ngạo vật", "nghịch ngợm ranh
mãnh", thích tìm những thói xấu của người chung quanh để trêu ghẹo, đôi khi
tôi trở thành bất nhẫn "hư đốn, mất dạy" (trích ở Đời viết văn của tôi, các
tr.42, 45). Trong những lời lẽ đó, không phải chỉ có chút ít thậm xưng, mà còn
rất nhiều sự thực. Bàng bạc sau các câu chuyện tức cười là một khái quát
thản nhiên về thói đời đen bạc. Ở đời có ai tốt bụng với ai đâu, người ta chỉ tỏ
ra tử tế khi thấy có lợi, giống như người đàn bà nọ, hết lòng trông nom người
ốm chỉ biết chẳng bao lâu người ốm đó sẽ chết và mình sẽ xin được mái tóc
(Tôi xin hết lòng).
Hoặc ông chủ nhà đòn đám ma mang lê táo đến thăm một gia chủ, cốt
để xí phần trông nom ma chay (Một tin buồn). Bởi vậy, sẽ là ngớ ngẩn nếu ta
tin ở những lời hứa hão, như lời hứa trở về của người vợ đi du học ở nước
ngoài (Thế là mợ nó đi Tây), hoặc lời mời chào của một kẻ thị dân trong cơn
túng quẫn (Thằng điên). Theo cách trình bày của Nguyễn Công Hoan, sự
nông nổi phải được xem như một thứ bản tính thứ hai của con người. Với sự
nông nổi ấy, người ta đã làm bao tội ác mà không hay biết, tình thế trớ trêu
chẳng khác cảnh đám lính huyện lỵ nọ hùa nhau chôn sống rồi cười cợt trên
sự đau đớn của một con ngựa già hoặc một ông tri châu bắn bừa bắn bãi sáu
mạng người - thực ra là những kẻ vô tội - sau đó vu cho họ là giặc, và đi báo
trên lĩnh thưởng. Không phải ngẫu nhiên, trong hồi ký, Nguyễn Công Hoan kể
lại rằng khi đi học, có lần thầy giáo ra đầu bài "Ở đời anh có hy vọng gì", ông
đã viết mỗi một câu "Ở đời tôi không hy vọng gì cả", rồi đem nộp. Để hiểu cái
đành hanh khinh bạc trong nhiều truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, có lẽ nên
xem mẩu chuyện bâng quơ đó như một thứ chìa khoá đích thực.
Khinh bạc, hư vô, bi quan đến cùng cực trước sự đời, nên trong nhiều
tác phẩm, ông đã đứng ra vạch vôi vào những gì gọi là giá trị, là tốt đẹp, từ vẻ
nghiêm chỉnh của một ông giáo (Thầy cáu) tới cái mải miết của một kẻ đi theo
dõi các hành tung nghi vấn (Cái lò gạch bí mật), từ sự trịnh trọng của một ông
đồ già viết phúng điếu (Xin chữ cụ nghè) cho tới những lời quảng cáo của một
gánh hát nghèo nơi tỉnh nhỏ (Đào kép mới). Với Nguyễn Công Hoan, hình
như bao giờ cũng thế, không có gì mới trên đời này cả!
Kẻ sống bên lề
Trong số các nhà văn Việt Nam sống và viết ở thế kỷ XX, Nguyễn Công
Hoan thuộc loại viết khoẻ, viết nhiều bậc nhất. Truyện dài của ông ta đã lên
tới 30 quyển, bao gồm cả những tiểu thuyết dài dài và nổi tiếng bởi những lý
do rất khác nhau như Tắt lửa lòng, Lá ngọc cành vàng, Bước đường cùng.
Truyện ngắn - lĩnh vực bộc lộ đầy đủ văn tài của ông - cũng vậy, số lượng
những cái ông đã cho in đâu những trên 200, mà riêng số thật hay, thường
được in đi in lại cũng đến dăm sáu chục. Vào dịp Nguyễn Công Hoan lên lão
60, với tư cách một kẻ hậu sinh, một cậu học trò Nguyễn Công Hoan Tô Hoài
đã ghi nhận: "Lực lưỡng như một tay đô vật không có địch thủ, từ Kiếp hồng
nhan tới nay, truyện ngắn truyện dài Nguyễn Công Hoan sừng sững tạo thành
một thế Tam Đảo, Ba Vì hùng vĩ, vượt qua cả hai thời kỳ, tiến vào Cách mạng
tháng Tám” (Kiếp hồng nhan là tập truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Công
Hoan in ra năm 1923; hai thời kỳ nói ở đây là trước và sau 1930 - V.T.N).
Ấy vậy mà trước sau Nguyễn Công Hoan không sống hẳn về nghề văn.
Nghề tay phải của ông vẫn là nghề dạy học. Chẳng ai ngăn cản, mà ý ông
chủ vậy. Nghe người ta gọi mình là nhà văn, ông thấy ngần ngại. Nguyễn
Công Hoan chỉ nhận mình là người viết văn, thế thôi! Mỗi lần có thể được,
ông đều tìm cách làm ngược những điều thiên hạ quen hình dung về các nhà
văn, coi đó làm vui. Ví như xưa nay ai cũng nghĩ người viết văn phải đọc sách
nhiều.
Thì ông công khai bảo là rất ngại đọc sách, có những cuốn rất nổi tiếng
đã cầm lấy rồi, chỉ đọc ít trang rồi bỏ.
Người ta chỉ có thể hiểu được những điều ấy, nếu nhớ tới cá tính riêng
của Nguyễn Công Hoan và nhất là đặt con người ông, nhân cách ông, trong
mối quan hệ với cái môi trường mà ông chịu nhiều ảnh hưởng. Thời gian hình
thành tính cách của ông là hai chục năm đầu của thế kỷ. Tuy lúc ấy chế độ
thực dân đã được xác lập để dần hướng xã hội theo hướng tư bản, song tàn
tích phong kiến còn rất nặng. Bản thân Nguyễn Công Hoan lại lớn lên trong
một gia đình quan lại, loại quan nhỏ, sống có phần thanh bạch. Lý tưởng
phong kiến - ở cái phần thanh cao tốt đẹp - cộng với cảm hứng dân gian lành
mạnh đã giúp cho ông một thái độ sống có lương tri, thương người nghèo,
ghét kẻ giàu, nhất là luôn luôn cười giễu những cái xấu xa dơ bẩn. Nhưng
quan niệm phong kiến về văn hoá vốn nghiệt ngã. Nó rất ghét những gì gọi là
phi chính thống vượt ra ngoài khuôn khổ. Nói chung thì đó là một quan niệm
hẹp hòi khô cứng. Có lẽ là do tâm thức ăn sâu những quan niệm kiểu đó, nên
một người thạo viết quen viết, sinh ra để viết như Nguyễn Công Hoan, chỉ coi
những truyện mình viết ra là để cười cợt cho vui, mà không phải việc nghiêm
chỉnh. Mặt khác, cũng phải nhận là vào thời Nguyễn Công Hoan viết nhiều
viết khoẻ, nghề viết văn ở Việt Nam chưa ra quy củ nề nếp gì cả. Những điều
mà Nguyễn Công Hoan mang rêu rao nào là ở đây "như một cái chợ", quá
nhiều kẻ tầm thường đeo đuổi những cái danh hão: nào là "một dạo người ta
sợ những người làm nghề cầm bút như sợ... hủi", không phải là không có lý.
Quá trình dân chủ hoá trong xã hội bấy giờ vừa mới bắt đầu thì đã bị làm
hỏng. Cách nhìn cao ngạo lối sống bên lề mà Nguyễn Công Hoan lựa chọn là
một cách phản ứng trước thời đại. Sự phản ứng ấy lại nhiều phần phù hợp
với bản chất tự do của sự sáng tạo và cũng ăn nhịp với xu hướng vận động
của lịch sử, nên đã góp phần giải phóng ở Nguyễn Công Hoan một sức làm
việc dồi dào mà mỗi lần nghĩ tới, không ai là không kính phục.
(Cánh bướm và đoá hướng dương, NXB Hải Phòng, 1999)
CÓ NHIỀU TÁC GIẢ NGUYỄN CÔNG HOAN TRONG MỘT NGUYỄN CÔNG HOAN
HOÀNG NHƯ MAI
Độc giả, nhất là lớp độc giả mới đến với văn học bằng con đường nhà
trường trung học, đại học không ai không biết nhà văn Nguyễn Công Hoan.
Ấy là một nhà văn có một địa vị rất cao trong lịch sử văn học hiện đại. Tên
tuổi của nhà văn gắn liền với sự khâm phục đối với một cây bút sắc sảo, vạch
trần những xấu xa, những lố lăng của cái xã hội thời Pháp thuộc; bằng sự
trào phúng - cái trào phúng giết chết, như một ngạn ngữ phương Tây đã
tuyên bố - nhà văn giáng những đòn chí mạng vào cái xã hội thực dân nửa
phong kiến ấy.
Là vì, khi ngồi trên ghế lớp học, các độc giả này chỉ được giới thiệu một
Nguyễn Công Hoan của Bước đường cùng và vài ba truyện ngắn hiện thực
phê phán.
Các khán giả của sân khấu cải lương - nhất là lớp khán giả gọi là bình
dân thì lại say mê với một Nguyễn Công Hoan kia, một Nguyễn Công Hoan -
nếu dùng những từ ngữ mà một số nhà nghiên cứu phê bình quen dùng khi
viết về giai đoạn văn học trước 1945 - "Lãng mạn, tiêu cực, thoát ly, sướt
mướt". Là vì các khán giả này đã được "bi luỵ" với Lan và Điệp (cũng gọi là
Hoa rơi cửa Phật), vở cải lương đã nhiếp hồn hàng triệu hàng triệu con người
mộ diệu.
Thực ra có nhiều tác giả Nguyễn Công Hoan trong một Nguyễn Công
Hoan. Ấy là thường tình của các nhà văn thời kỳ 30-45. Ngày nay, ta hay áp
đặt cho họ một căn cước chỉ lấy trong toàn bộ các tác phẩm của họ một số và
lờ đi những số khác, có thể do động cơ tốt để cứu họ, hoặc do tư tưởng trừng
phạt để xoá hộ tịch của họ trong văn học sử.
Nói chung, làm như vậy không thực thà, không công bằng, và dù muốn
trừng phạt hay muốn cứu, kết quả đều làm cho họ không phải là họ, thành tàn
tật, chỉ còn là một phần trong cái tổng thể của họ.
Thời kỳ 30-45 là một thời kỳ bão táp, gió cấp 10 cấp 12 và xoay chuyển
đủ bốn phương tám hướng. Cái phong vũ biểu nhà văn giao động dữ dội.
Những tương quan lực lượng trong xã hội không ổn định. Thật giống như một
cuộc kéo co, trước khi một bên thắng dứt khoát, lúc thì bên này kéo bên kia
về phía mình, lúc thì bên kia co bên này về phía họ.
Trong tình trạng ấy nhà văn, nếu đúng là nhà văn, chỉ là nhà văn không
hơn không kém, chuyển từ vị trí này sang vị trí kia, đang nhìn theo hướng này
bỗng quay nhìn hướng khác là chuyện thường xảy ra và không có gì khó
hiểu.
Nếu ta cố gắng thực sự khách quan thì sẽ thấy trong số nhà văn được
xếp vào hạng nhà văn hiện thực cũng có một hai tác phẩm lãng mạn và trong
số bị coi là lãng mạn không phải chỉ thuần lãng mạn.
Tôi viết đoạn văn trên để một số độc giả nào đó đừng ngỡ ngàng với
cuốn sách đang đọc của Nguyễn Công Hoan.
Dường như đã có một định kiến là nhân vật của tác giả Bước đường
cùng toàn là xấu, là tồi, là hèn kém.
Ở đây trái lại ta gặp đông đảo những con người tốt, khoẻ, đẹp. Sơn một
người viết văn có lương tâm, có lý tưởng. Sinh, Thuỷ những người bạn chân
thành và trung thành. Ngọc, Tham Khai người chị và người anh rể hào hiệp.
Huyện Hậu và vợ, những con người vị tha. Cả Ông Cửu Bà Cửu cũng không
phải những thứ cha mẹ "làm hại" con. Cả độc giả của nhà văn Sơn, thính giả
của diễn giả Sơn, các cây bút phê bình Sơn đều là những người quí tài năng
Minh Châu thì quá trong sáng, đúng là một viên minh châu.
Độc giả khó tính - bây giờ số độc giả này không phải ít ỏi (đối với văn
chương cần khó tính, không được dễ dãi, nhưng khó tính như kiểu các ông
bà già trái tính trái nết, hễ thấy ai, thấy cái gì hơi khác ý mình là quát lác, sợ
vả thì không nên) - có thể chê cuốn tiểu thuyết là có luận đề, lãng mạn.
Cũng đúng thôi.
Nhưng, mà trong lẽ phải có người có ta...
Nhà văn đập phá, cũng là việc để xây dựng cái gì. Ước mơ là cái quyền
của con người. Mà nó cũng là một thuộc tính của nhân loại, là bông hoa tự
nhiên mọc trên miếng đất hiện thực.
Là nhà văn - cái thứ "nhà văn An nam khổ như..." đã được miêu tả
trong một bài thơ của Nguyễn Vỹ ấy - Nguyễn Công Hoan ước mơ và hình
dung ra một xã hội mà người ta hiểu giá trị của văn chương, biết quý trọng
nó, nuôi nó sống và tạo mọi điều kiện tinh thần và vật chất cho nó đơm hoa
kết trái. Cuốn tiểu thuyết trình bày một luận đề. Đúng thế. Nói chung bất kỳ
sáng tác nào cũng có luận đề. Chỗ khác nhau chỉ là phơi bày hay ẩn kín,
nhiều hay ít thiếu thiện chí, hữu lý hay vô lý, lý giải khéo hay vụng.
Cái luận đề trong cuốn tiểu thuyết không phải hoàn toàn lãng mạn, với
nghĩa thuần tuý tưởng tượng.
Cái xã hội thời Pháp thuộc không phải dày đặc bùn tanh và bóng tối, chỉ
toàn là ma quỷ đầu trâu mặt ngựa - như ngày nay những người ưa suy diễn
từ một quan điểm ý thức hệ máy móc sơ lược thường miêu tả. Một xã hội như
thế, ai sống nổi?
Có những người tốt, tất nhiên là hiếm, nhưng có. Những người như
Minh Châu, Sinh, Thuỷ... và Sơn có mặt trong cuộc sống. Đương nhiên từ
thực tế vào tác phẩm có hư cấu. Đừng nên phê phán tác giả là ảo tưởng, nếu
cần có lẽ gọi là viễn tưởng cũng được. Có thứ lãng mạn đánh lạc hướng hiện
thực, nhưng cũng có thứ lãng mạn gợi ý, chỉ hướng thúc đẩy hiện thực, nó
đem cho ta hy vọng để cố gắng phấn đấu, chờ đợi.
Tôi trân trọng - và không rụt rè miễn cưỡng chút nào - giới thiệu với độc
giả một Nguyễn Công Hoan - Nguyễn Công Hoan của Tắt lửa lòng, Lá ngọc
cành vàng, Cô giáo Minh... để chúng ta thấy rõ Nguyễn Công Hoan đích thật
là một nhà văn lớn vì sáng tác của ông rất phong phú, đa dạng, đa diện.
(Lời nói đầu cuốn tiểu thuyết Bóng người qua
(tên của tác giả: Trên đường sự nghiệp) Nxb Văn Nghệ, 1988)
NGUYỄN CÔNG HOAN NHƯ TÔI BIẾTHOÀNG TRUNG THÔNG
-I-
Người thầy giáo Nguyễn Công Hoan với bài báo “Godautre” lúc bấy giờ
tôi không hiểu nhưng cũng thấy thú vị. Gõ đầu trẻ. Thật là hóm hỉnh. Là một
ông thầy giáo mới nghĩ ra một từ như vậy. Người nói là gõ đầu trẻ ấy chẳng
gõ vào đầu trẻ bao giờ mà chỉ gõ vào đầu những bọn bóc lột, những bọn giả
nhân giả nghĩa. Cụ chánh bá mất giày, Báo hiếu trả nghĩa cha, Báo hiếu trả
nghĩa mẹ. Và cũng người đó đã viết Xã hội ba đào ký.
Nguyễn Công Hoan viết văn rất sớm, mà tôi lại được làm quen với anh
rất muộn vì tuổi tôi chỉ bằng tuổi con anh. Mặc dầu tuổi anh đã cao mà tâm
hồn của anh luôn luôn trẻ. Cho đến phút cuối cùng cuộc đời của mình anh
vẫn hóm hỉnh và như chế nhạo với những cái gì không phải là sự sống.
Người ta thường nói văn anh ít nhiều rơi vào chủ nghĩa tự nhiên. Có
thể như vậy. Nhưng đối với bạn bè, anh không hề rơi vào tự nhiên chủ nghĩa.
Anh là một người chí tình chí nghĩa cho nên đọc văn của anh chúng ta cũng
phải nên đọc thận trọng, không nên nói một cách giản đơn "ông ấy chỉ bông
đùa cười cợt" vì nếu không có sự nhận xét và trí tuệ sắc sảo thì không thể đả
kích bọn cường hào ác bá một cách sâu cay đến thế, dầu rằng dưới hình
thức bông đùa đi nữa, và phải chăng bông đùa không phải là trí tuệ.
Nguyễn Công Hoan xuất thân trong một gia đình quan lại mà là một gia
đình cách mạng, anh hiểu sâu sắc xã hội phong kiến, anh căm ghét xã hội
thời Tây. Tất nhiên anh không phải không có khuyết điểm nào trong sáng tác
văn học của mình nhưng chúng ta phải hiểu anh cho rõ hơn. Có lần anh đã
nói với tôi là vì ghét các quan tri phủ tri huyện Tây học nên tôi viết Thanh đạm
đề cao quan thanh liêm. Sự phê phán cuốn sách ấy lúc bấy giờ là đúng.
Nhưng chúng ta cũng phải thể tất cho những quan điểm của anh chống
những tri phủ tri huyện tân thời.
Có một lần ở Trung Quốc trong khi nói chuyện với một sinh viên Trung
Quốc, tôi nói đã đọc quyển Gia đình của Ba Kim rồi, và bằng tiếng Trung
Quốc võ vẽ, tôi đã lược thuật Tắt lửa lòng và Lá ngọc cành vàng của Nguyễn
Công Hoan ra tiếng Trung Quốc, thì người ta nói với tôi rằng quyển truyện
này tích cực hơn cuốn Gia đình của Ba Kim, mặc dù đây là một bộ ba Gia,
Hạ, Thu và ta mới chỉ dịch Gia. Một tờ báo Pháp lại gọi quyển Gia (famille) có
giá trị ngang với Chiến tranh và hoà bình và Ana-Ka-rê-ni-na của Lép Tônxtôi.
Chúng ta đã in Gia đình của Ba Kim và ta hiểu rõ giá trị của nó. Tại sao ta lại
không in Tắt lửa lòng và Lá ngọc cành vàng của Nguyễn Công Hoan để có
dịp so sánh xem ai hơn ai kém. Theo tôi biết thì Lan và Điệp đã trở thành kịch
bản và diễn hàng mấy trăm lần ở Hà Nội và Sài Gòn. Còn Gia nghĩa là "nhà"
thì ở Việt Nam mấy ai đọc.
-II-
Cùng đi với tôi trong nhiều chuyến, anh Nguyễn Công Hoan tỏ ra là một
người sống chân thực. Nhưng con người chân thực ấy vẫn biểu lộ tâm hồn và
cá tính của mình. Hơn ai hết Nguyễn Công Hoan viết văn rất Việt Nam. Việt
Nam từ cốt truyện, từ lời văn và từ đó những truyện ngắn của anh đã mang
một cốt cách Việt Nam rõ rệt. Chúng ta phải gạt đi một đôi chỗ tự nhiên chủ
nghĩa trong văn, trong tiểu thuyết của anh. Và chúng ta thấy anh hiểu sâu xã
hội Việt Nam mặc dầu anh là nhà giáo đồng thời lại là nhà văn. Tôi biết anh
đã từng dạy học ở Trà cổ, rồi lại dạy học ở Thái Bình. Nhưng rồi anh vẫn là
nhà văn Nguyễn Công Hoan. Một nhà văn rất nhân dân.
Những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan đã ghi dấu ấn một thời và
còn ghi dấu ấn nhiều thời nữa. Vì cái tài của anh không phải tài kể chuyện mà
còn vì nội dung của những truyện ngắn ấy đã tác động xã hội thời đại chúng
ta đã đổi thay rồi, con người của chúng ta đã đổi thay rồi. Nhưng tác phẩm
của Nguyễn Công Hoan người ta vẫn còn đọc. Tại sao như thế? Là vì những
tác phẩm đó vẫn có một giá trị không chỉ có ý nghĩa lịch sử mà còn có ý nghĩa
xã hội. Không những có một ý nghĩa quá khứ mà còn có ý nghĩa đương đại.
Không những có ý nghĩa đương đại mà còn có ý nghĩa nghệ thuật sâu sắc.
-III-
Nguyễn Công Hoan thường nói với tôi là anh không đọc ai cả. Nhưng
tôi biết rằng anh có đọc. Không thể một người như anh mà không đọc Guy đơ
Môpátxăng hay Anatôn Phrăngxơ và nhất là không đọc Tản Đà, một người
mà anh say mê với lối viết văn vừa trữ tình vừa châm biếm đó.
Nguyễn Công Hoan đã viết mấy trăm truyện ngắn. Tất nhiên có những
truyện hay và những truyện chưa hay lắm, nhưng cái sức viết của con người
ấy với những áng văn ngắn dài thật rất đáng khâm phục. Tôi gặp Nguyễn
Công Hoan ở Việt Bắc và sau này ở Hà Nội, nơi sơ tán ở Đôn Thư, thỉnh
thoảng anh lại hỏi tôi đôi câu chữ Hán mà anh tưởng tôi giỏi chữ Hán lắm.
Nhưng có biết không, tôi hiểu rằng anh thuộc thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương,
Tản Đà còn giỏi hơn tôi nhiều lắm. Tôi phải học anh đúng hơn là anh đến hỏi
tôi. Anh là một người viết văn cho đến hơi thở cuối cùng.
Chị Nguyễn Công Hoan là một nội trợ rất giỏi. Chị làm món bún thang
rất ngon. Giucôpxki nhà văn Ba Lan, Nguyễn Tuân và tôi đã được ăn món
bún thang ấy ở tại nhà anh Nguyễn Công Hoan. Chúng tôi khen lấy khen để
món ăn ngon lành này. Anh Nguyễn Công Hoan đã từng nói với tôi: "Nếu chị
Thông muốn học làm món bún thang thì chuyển sơ tán sang làng chúng tôi
đang ở. Làng đó là làng Đôn Thư". Tôi vẫn thường qua lại ở đó và anh
Nguyễn Công Hoan đã từng nói vói tôi: "Tôi đã nhắm cho gia đình anh một
chỗ ở cạnh nhà tôi và tôi đã về làng Quỳnh của anh, học được việc đào hầm
ở dưới đất, trên để bộ phản".
Tôi hỏi nhà tôi thì bà ấy không bằng lòng vì đây có cơ quan Báo Văn
nghệ.
Còn đi vào Đôn Thư thì khó khăn quá, khi cần xe cộ thì lấy gì mà đi.
Đùng một cái Mỹ ném bom xuống ngôi nhà mà anh Nguyễn Công Hoan
dạm hỏi cho gia đình tôi ở. Sau đó anh Nguyễn Công Hoan chuyển về bên kia
sông Nhuệ. Tôi có đến thăm anh và anh hỏi các cháu của anh: "Có biết chú
này là chú nào không?". Hoà Bình trả lời: "Làm sao cháu lại không biết. Đây
là chú Đồ Nghệ kể chuyện Đồ Nghệ đi Matxcơva và Bắc Kinh". Anh Nguyễn
Công Hoan cười hà hà.
Tôi không ngờ sau này lại cùng ở với anh trong bệnh viện, những ngày
anh ốm rất nặng. Tôi sực nhớ lại ngày cưới con gái thứ hai của tôi, trời mưa
to thế mà anh vẫn đội mưa đến nhà để chúc mừng cháu gái. Cái tình của anh
đối với chúng tôi vẫn thiết tha mặn nồng không bao giờ quên được. Từ anh
Pha trong Bước đường cùng đến Anh con trai người bạn đọc ấy, tôi tuy
không phải là một người trong bước đường cùng, nhưng cũng là người con
trai người bạn đọc ấy. Tôi yêu anh, kính trọng anh.
-IV-
"Chốc đà mười mấy năm trời". Câu thơ ngậm ngùi của Nguyễn Du nói
về nàng Kiều nào đó hiện ra trong tác phẩm là người đang sống, còn Nguyễn
Công Hoan nhà văn kiệt xuất, vĩnh biệt chúng ta tính đến nay là năm thứ
mười (1987).
Mười năm!
Rất thực
Mà rất mơ.
Di hài của anh được đưa về quê, quê anh không xa Thủ đô bao lăm,
nhưng nơi đó vẫn là "quê quán mình", nơi chôn rau cắt rốn.
Chợt nhớ có lần anh Nguyễn Tuân nói với tôi: "Ở nước ta có hai nhà
văn không nghịch ngộ gì lắm mà lại làm thơ, viết văn trào phúng".
Tôi hiểu anh Tuân có ý muốn nói đến hai người: Tú Mỡ và Nguyễn
Công Hoan.
Tài trào phúng của hai người thì ta đã rõ. Nhưng chi tiết này thì chưa
mấy người biết. Một hôm ở Việt Bắc, nhà văn Nguyễn Công Hoan chỉ tay vào
nhà thơ Tú Mỡ mà nói với tôi:
"Anh xem, cứ xem kỹ đi, Tú Mỡ có giống Lý Toét trong Ngày Nay,
Phong Hoá không?"
Tôi đã xem, và xem rất kỹ. Quả giống thật, chỉ thiếu có cái ô cắp nách
thôi.
Còn bác Tú Mỡ thì sao? Sau khi nghe câu ấy, bác trả lời ngay không
một chút ngại ngùng:
"Đúng, đúng, tôi nghĩ ra Lý Toét, nhưng rồi hoạ sĩ lấy tôi làm người
mẫu".
Tú Mỡ và Nguyễn Công Hoan cũng cười sảng khoái một cách thật thà.
Cả hai người cùng đánh vào bọn cường hào một thời ấy, họ hiểu nhau,
họ thân nhau, họ đùa nhau mà không bợn một chút gì riêng tây nhỏ nhặt.
Tôi còn nhớ nhà văn Nguyễn Công Hoan và tôi vào nói chuyện ở
Trường Đại học Sư phạm Vinh, sơ tán về Quỳnh Lưu. Sau buổi nói chuyện
thú vị với sinh viên, Nguyễn Công Hoan ghé về làng tôi và ăn cơm ở nhà chị
tôi, do nhà tôi nấu nướng. Anh Hoan nói: "Trong Đại hội Đảng, có hai làng
được chụp ảnh chung với Bác Hồ, đó là làng anh và làng tôi".
Thú thật tôi không quan tâm đến vấn đề này lắm, nhưng anh đã nói thì
tôi lắng nghe.
Cơm dọn ra. Chén vừa cầm tay, tôi mới bắt đầu chú ý. Người nói đầu
tiên là anh lái xe: "Thức ăn rất ngon, nhưng rượu nhạt như bia ngoài Hà Nội".
Anh Nguyễn Công Hoan nâng chén rượu lên, cười rồi mới từ từ nói:
"Thức ăn làm món nào ra món ấy, nhấp rượu xong, ăn một miếng,
thưởng thức xong, hạ đũa xuống mới bắt đầu bình phẩm". Sau đó tôi chờ sự
bình phẩm của anh. Quả nhiên tôi có ngay. Anh nói: "Thức ăn rất ngon,
nhưng rượu hơi nhẹ".
Tôi sướng quá, vợ tôi cũng sướng quá. Giá như nhà văn cũng nói nhạt
như bia thì còn gì. Nhưng anh nói rượu hơi nhẹ. Đã nhẹ mà còn hơi nhẹ.
Đó là sự tế nhị của người Bắc. Đừng ai chỉ hiểu anh viết văn tự nhiên
chủ nghĩa. Với cái xã hội tây, ta lộn xộn hồi đó, không tự nhiên chủ nghĩa
không được, nhưng quá đi thì không nên.
* * *
Thế rồi tôi phải vào bệnh viện sau một cơn đau cấp cứu vì cao huyết
áp: 250/150. Các cô y tá đo cho tôi hai ba lần đều lắc đầu. Không thể có một
trường hợp quá cao như thế. Đo đi, đo lại, cũng vẫn thế thôi. Gọi bác sĩ trực
lên. Bà hơi chau mày. Cũng vẫn thế thôi. Nhưng bà trấn tĩnh ngay: Phải tiêm
ngay cho đúng liều lượng. Liều lượng ghi trên giấy. Trên giấy là cho đơn. Vợ
tôi bồn chồn. Còn tôi ngơ ngác.
Chỉ hai ngày sau, tôi giảm huyết áp. Vợ tôi rất vui.
Nhưng bên kia tôi bỗng bùi ngùi, nhìn thấy một người, tôi không thể
nào quên được: Nguyễn Công Hoan.
Bây giờ tôi đã sống. Tôi đang mơ màng. Chao ơi, những nàng, những
nàng áo trắng. Tiếng hát xa xôi như gần gũi mà như xa vắng. Tôi, từ chiếc
giường con nhổm dậy và hét ra ngoài: Nguyễn Công Hoan thế nào? Nhưng
bao lần hét mà chẳng một lần nghe tiếng đáp. Lá cây lao xao. Tôi nào được
gặp, huống chi tiếng chào.
Thế rồi bỗng nhiên tôi được chuyển sang khoa tiêu hoá vì bạch cầu
xuống rất thấp.
Duyên may tôi được gần anh Hoan cùng với Chế Lan Viên và Huỳnh
Văn Gấm. Thực ra sức tôi chưa đến nỗi yếu lắm. Sức anh đã gầy mòn. Anh
nói: So với anh tôi yếu hơn.
Những ngày ở bệnh viện, tôi qua lại với anh luôn. Trên mặt anh lấm
tấm đỏ. Người ta nghi là bị dị ứng. Nhưng là một chứng bệnh khác. Dầu ốm
nặng, anh vẫn rất vui. Và tôi không ốm đau đến thế, tôi cũng vui lây.
Một hôm anh hỏi tôi:
- Này anh Thông, anh khá về Hán học, chắc anh giỏi chơi cờ.
Tôi ngớ ra, nào tôi chơi cờ bao giờ đâu, nhưng tôi có hiểu đôi chút. Tôi
trả lời anh:
- Tôi có biết nhưng tôi chưa đánh bao giờ. Anh Hoan ạ, tôi đã từng đọc
"Quất trung bí" mà người ta nói mở đầu qua quít rồi thấy hai ông già đánh cờ
ngồi trong đó. "Quất trung bí" đưa ra những thế cờ hiểm hóc rồi hướng dẫn
người ta phá những thế cờ đó. Sau đó tôi có đọc "Tương kỳ tâm đắc” một
tổng kết hiện tại của Trung Quốc rất hay. Nhưng tôi chỉ xem cho biết và liên
hệ với việc viết văn của mình. Tôi chưa bao giờ đánh cờ.
Anh Hoan vội nói:
"Cờ thế là xong, cờ đến tay ai người nấy phất, nhưng còn tổ tôm?"
Tôi lúng túng hồi lâu mới nói.
- Anh Hoan ạ, tôi khổ sở quá nhiều năm để tìm hiểu chữ "tổ tôm", tổ
tam chăng? Đánh năm người kia mà. Nhưng thời đó là việc của các nhà ngôn
ngữ học. Tôi mới bắt đầu học đánh ở bệnh viện, "chèo đò" luôn anh ạ. Thế
mà cũng có lần được một ván chi nẩy đấy.
Nguyễn Công Hoan cười hà hà:
- Thảo nào chị ấy vẫn làm món ốc, lươn cho anh.
Anh Hoan ơi! Tôi có tham gì ăn những ốc, lươn. Tôi thích sao viết được
và viết hay.
Tôi chưa nói hết thì anh Hoan có việc cần. Tôi dìu anh đi. Anh đi chậm
rãi, tựa mình vào tôi cũng đang mệt mỏi. Nhưng tôi còn đủ sức. Tôi chờ một
lúc, rồi anh lại ra. Không phải đi về nhà mà đi về phòng bệnh viện.
Có ai đến đây chưa?
Dù đẹp bao nhiêu, thương bao nhiêu
Dù có bao phương tiện
Cũng không bằng một ánh mắt một nụ cười của người thân
Cũng không bằng người của mình hò hẹn không tính toán phân vân.
Tôi dìu anh đi...
Đã biết không có lần dìu anh nữa.
Bỗng một hôm mới khổ.
Anh nắm tay hỏi tôi:
"Tác phẩm tôi, anh đọc đến đâu rồi?"
Tôi nói vội vàng: "Đọc hết.
Hay, nhưng phải chữa đôi chỗ, những nơi còn chưa đạt".
Anh quắc mắt lên: Những chỗ nào?
Tôi nói với anh: Anh ơi hãy nghỉ.
Cô Lê Minh sẽ làm việc đó.
Để rồi còn xem sao, càng xem càng tỏ, chuyện này không nhỏ nhưng
chưa đâu vào đâu.
Anh gật đầu
Bác sĩ đến
Mọi người giục giã đưa anh đến nơi nào
Anh không rõ
Tôi cũng không rõ
Nhưng mọi người tiếng to tiếng nhỏ
Anh sang phòng cấp cứu chỉ riêng anh.
Tôi đứng trước gian phòng bệnh viện
Nhìn lên anh lần cuối bạn bè chung
Anh không gọi mà tôi đã đến
Đến đưa anh vào cõi vô cùng.
Tôi mặc quần áo bệnh viện bước vào căn phòng đó, một căn phòng
lạnh lẽo như chúng ta biết, nhưng ở đây bỗng ấm lên trái tim những người
thân, và bạn bè,
Anh nằm thẳng trong bộ quần áo mới may, nét mặt vẫn như xưa không
giấu nổi cái miệng có hơi châm biếm. Tất cả các thủ tục tôi không nhớ gì
nhưng đã phải ghi hình ảnh và lời nói của chị Tài (con dâu của nhà văn) khóc
thút thít khi chị cho vào túi anh một đồng 20 và nói: "Để ông xuống đó mà
tiêu".
Anh Hoan ơi. Anh chưa từ giã được đâu. Anh và những tác phẩm đồ sộ
tới mức khổng lồ của anh vẫn ở trong lòng chúng tôi và mọi người mãi mãi.
-V-
Nguyễn Công Hoan 85 tuổi.
Có lẽ cũng có người nghĩ rằng đó là một nhà văn lão thành đã khuất,
mà chúng ta tưởng nhớ. Nhưng anh không già, vì văn anh luôn luôn trẻ và sẽ
còn trẻ mãi. Nhà văn đó đã trải qua một đời văn khó nhọc và phong phú biết
bao nhiêu.
Xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, nhưng dấu vết nhà nho
trong văn chương anh rất ít, vì anh phải lặn lội trong cuộc đời thực, cuộc đời
thực dân nửa phong kiến mà anh đã trải qua.
Sống giữa không khí văn chương thời đó với lối chương hồi biền
ngẫu của Trung Quốc, văn chương cổ điển và hiện đại của Pháp, anh
vẫn tìm ra con đường đi của mình, con đường Việt Nam.
Là một nhà giáo, anh đã sớm theo nghề văn và tác phẩm của anh đã
được hoan nghênh, nhưng thầy giáo nhà văn đó đã bị đầy đi khắp nơi khắp
chốn, và do đó anh lại hiểu rõ được hai mặt của cuộc đời.
Anh tham gia cách mạng từ trước, nhưng vì hoàn cảnh gia đình, các
em và các con đều đi theo chí hướng cách mạng của anh, anh đành chịu đưa
vai gánh vác huynh trưởng gia đình. Nhưng anh không hề khom lưng cúi cổ
cúi đầu trước thực dân và lũ cường quyền.
Tác phẩm của anh có lúc bị kiểm duyệt, bị cấm lưu hành và ngòi bút
của anh có lúc cũng bị cấm viết. Thế mới biết con mắt của anh nhìn vào cuộc
đời, tấm lòng của anh hướng theo cách mạng, theo những người nghèo khổ,
xấu số, ngòi bút của anh không chịu lùi lại trước bất kỳ thế lực nào.
Anh nhìn thấu suốt cái xã hội ba đào, anh đã nếm đủ cay đắng của
những cuộc đời oan trái, và hơn nửa, anh thấy rõ những quan lại vô lương,
dối trá, dâm ô, tàn nhẫn... mà anh không chịu nổi. Nhìn thấy rõ những thảm
kịch của xã hội và số phận những con người, những gì đẹp đẽ mà anh chứng
kiến, những gì là độc ác bất công đã đập vào mắt anh thì anh ghi lại thành
văn, có khi bằng truyện ngắn, cũng có khi bằng truyện dài.
Tất cả những tác phẩm của anh đã chứng minh điều đó, không phải
chờ đến sau này đọc hồi ký Đời viết văn của tôi chúng ta mới rõ. Anh đã từng
nghe và viết, nghĩ về "chuyện Tây chuyện ta, chuyện quan nha tổng lý,
chuyện hàng phố, chuyện dân quê, chuyện dối trên lừa dưới, chuyện trai gái
bịp bợm...", và rồi anh "nghĩ đến tương lai đất nước nó ảm đạm như cảnh
chiều tà".
Tác phẩm của anh cứ liên tiếp ra đời, vạch trần những mâu thuẫn xã
hội, mặc cho chúng tìm cách kiểm duyệt, và có lúc anh phải đổi tên.
Tác phẩm của anh cứ tiếp tục ra đời, được nhân dân cả nước đón đọc
và coi như anh đã nói hộ cho họ những điều họ muốn nói.
Nhìn thẳng vào sự thật và viết sự thật bằng tác phẩm văn học, đó là
Nguyễn Công Hoan.
Viết sự thật, trung thành với sự thật, mà không sợ áp lực của bọn
cường quyền, đó là Nguyễn Công Hoan.
Đừng ai hiểu lầm câu nói của anh, "tiểu thuyết nghĩa là bịa mà y như
thật". Đó là anh không thích dùng chữ hư cấu đó thôi. Anh không bịa chút
nào. Anh rất thời sự. Anh chỉ viết những điều mắt thấy tai nghe, viết những
điều có thực trong cuộc đời, với sự sáng tạo của riêng anh và mọi người đều
nhận thấy đó là sự thật.
Viết với cả tấm lòng, với cả tình thương những người nghèo khổ,
những người bị áp bức, bị chà đạp, tính xã hội kết hợp tính nhân đạo. Đó
cũng là Nguyễn Công Hoan. Nếu bảo anh chỉ có tố cáo, anh chỉ châm biếm
thôi là không đủ.
...Có người nói, từ Ông chủ, bà chủ, Nguyễn Công Hoan đã có ý thức
về giai cấp giữa nông dân và địa chủ. Lúc đó người nông dân vẫn còn bị
động. Nhưng sau cách mạng, anh viết Nông dân và địa chủ, thì nông dân lại
ở thế chủ động. Đúng như thế.
Nguyễn Công Hoan là nhà văn sớm biết phát hiện ra những mâu thuẫn,
những trái khoáy của cuộc đời, rồi lần lần tìm ra mâu thuẫn dân tộc, mâu
thuẫn giai cấp. Đến khi cách mạng thành công, anh lại biết lật ngược lại vị trí
của những con người trong xã hội mới, dầu còn rất mới. Đống rác cũ cũng là
một cách nghĩ, cách làm việc, cách viết đó của anh. Ai có thể viết được như
anh, những trang cuộc sống quá khứ hay như thế.
Đừng nghĩ rằng sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Công Hoan viết
kém đi. Đúng ra đáng lẽ anh còn phát huy được truyện ngắn của anh hơn,
nhưng anh viết nhiều truyện dài. Truyện dài của anh không phải chỉ là khôi hài
trào lộng như có người phê bình, mà với hiểu biết hơn về cách mạng, anh đã
cắm sâu được những sự việc, những con người, nhất là những nhân vật
phản diện thời đó, mà lớp nhà văn trẻ sau này không sao xây dựng nổi.
Chúng ta thường nói Nguyễn Công Hoan là nhà văn kiện tướng của
chủ hiện thực phê phán. Nếu chỉ phê phán không, thì làm sao tác phẩm của
nhà văn lại được trong chúng ta những hình tượng không thể nào quên.
Trong phê phán của anh có tính trữ tình rất sâu đậm. Chính vì vậy truyện anh,
văn anh đã được người đọc yêu mến.
Anh có cuộc sống dồi dào cũng như vốn học dồi dào, nhất là vốn văn
học dân tộc. Trong thế hệ nhà văn cùng với anh, chẳng ai làm được hơn anh.
Trong một chuyến đi vào Nghệ Tĩnh, có Nguyễn Công Hoan, Nguyễn
Đình Thi, Bùi Huy Phồn, Vũ Thị Thường, Hoàng Trung Thông, chúng tôi có
đến thăm mộ Nguyễn Du. Tìm quanh tìm quẩn mãi rồi cũng ra mộ thi hào họ
Nguyễn. Chúng tôi đứng trước mộ và cử anh Nguyễn Công Hoan cắm
hương, đứng nghiêm trang mặc niệm.
Tại sao năm nay 85 tuổi Nguyễn Công Hoan (1988), một nhà văn kiệt
xuất của thời đại chúng ta, chúng ta không đứng nghiêm trang thắp bó
hương, đặt vòng hoa trên mộ.
("Tuyển tập Nguyễn Công Hoan" NXB Văn Học, 1983)
NGUYỄN CÔNG HOANVŨ NGỌC PHAN
Ông là một nhà tiểu thuyết kỳ cựu nhất trong các nhà văn lớp sau.
Ngay hồi ông còn thanh niên lắm, hồi Hồ Biểu Chánh nổi tiếng về tiểu thuyết
trong Nam và Hoàng Ngọc Phách nổi tiếng về tiểu thuyết ngoài Bắc, ông đã
có tiểu thuyết do Tản Đà thư cục (Hà Nội) xuất bản rồi. Nhưng những truyện
ngắn, truyện dài của ông được mọi người chú ý đến một cách đặc biệt, mới
trong khoảng mười năm trở lại đây. Những truyện ấy đều đăng trong Tiểu
thuyết thứ bảy và Phổ thông bán nguyệt san, do Tân Dân (Hà Nội) xuất bản.
Hãy kể những tiểu thuyết chính nhất của Nguyễn Công Hoan:
Cô giáo Minh (Tân Dân - Hà Nội, 1936), Tắt lửa lòng (P.T.B.N.S. Số 1 -
1-12-1936), truyện ngắn (P.T.B.N.S. Số 8 - 1-7-1937), Tơ vương (P.T.B.N.S.
Số 18 - 1-7-1938), Bước đường cùng (P.T.B.N.S. Số 23 - 16-7-1938), Lá
ngọc cành vàng (P.T.B.N.S. Số 34 - 1-5-1939), Tay trắng, trắng tay
(P.T.B.N.S. Số 55 - 16-3-1940), Chiếc nhẫn vàng (P.T.B.N.S. Số 58 -1-10-
1940), Nợ nần (P.T.B.N.S. Số 68 - 1-5-1940), Trên đường sự nghiệp (3
quyển, P.T.B.N.S. Số 94, 95, 96 - 1 và 16-11, và 1-12-1941).
Đến những truyện ngắn của ông, phải kể những tập sau này:
Kép Tư Bền (T.T.T.B. Xuất bản, in tại Tân Dân - Hà Nội, 1935), Hai
thằng khốn nạn (P.T.B.N.S. Số 5 - 1-4-1937), Đào kép mới (P.T.B.N.S. Số 13
- 1-12-1937), Sóng vũ môn (P.T.B.N.S. Số 26 - 1-12-1938), Người vợ lẽ bạn
tôi (P.T.B.N.S. Số 48 1-12-1939), Ông chủ báo (P.T.B.N.S. Số 61 - 16-6-
1940).
* * *
Tất cả tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan, dù là truyện ngắn hay truyện
dài, đều là tiểu thuyết tả thực, tiểu thuyết tả về phong tục Việt Nam, về hạng
trung lưu và hạng nghèo.
Tập Cô giáo Minh của ông là một tiểu thuyết tả những tục cổ hủ ở một
nhà quan; ông đã đặt một cô gái tân tiến vào, để những hủ tục ấy nổi lên.
Vào hồi Cô giáo Minh ra đời (1936), báo Phong Hoá (số 180-ngày 27-3-
1936) đã nêu lên "một vụ án văn" và bảo khi viết tập tiểu thuyết này, Nguyễn
Công Hoan đã phỏng theo Đoạn tuyệt (Đời Nay - Hà Nội, 1935) của Nhất
Linh.
Nếu đem hai tập tiểu thuyết đối chiếu, người ta thấy ở Đoạn tuyệt cái
mới với cái cũ không thể dung nhau được; còn ở Cô giáo Minh, mới và cũ tuy
có xung đột với nhau lúc đầu, nhưng rồi sau điều hoà cùng nhau, và điều hoà
trong phạm vi luân lý và lễ giáo.
Cố nhiên, trong Cô giáo Minh, rút cục cá nhân bị xoá nhoà, để cho đại
gia đình chiếm đoạt hết cả; còn trong Đoạn tuyệt, cá nhân kết cục được trội
hơn lên và có sự chia rẽ.
Đó là toàn thể hai tập tiểu thuyết, còn nếu xét riêng từng nhân vật,
người ta thấy ở cả hai tập, vai mẹ chồng đều là vai cổ hủ cực điểm và ác liệt
đến điều, vai em chồng ở cả hai tập đều là vai nanh nọc và chua ngoa, vai
thiếu phụ có óc tân tiến ở hai tập tiểu thuyết đều là những người bị gả ép và
đã thầm yêu một thanh niên lỗi lạc.
Nhưng có một điều khác nhau rất quan hệ là ở tiểu thuyết Cô giáo
Minh, người con gái tân tiến là người không mơ mộng và bao giờ cũng được
chồng yêu, tuy anh chồng là người nhu nhược, hết sợ mẹ quá đáng lại hay
nghe em gái xui xiểng; còn ở tiểu thuyết Đoạn tuyệt, người con gái tân tiến là
người mơ mộng rất nhiều, và người chồng bao giờ cũng vào hùa với mẹ để trị
vợ mình. Có lẽ vì thế mà một đằng, mới cũ có thể điều hoà (cái tình yêu nồng
nàn của chồng thật là mối dây khó gỡ cho người vợ) còn một đằng có thể dứt
đường ân ái mà đi đến chỗ "đoạn tuyệt".
Còn như bảo Nguyễn Công Hoan phỏng theo Đoạn tuyệt, tôi cho là
không đúng. Bảo tác giả Cô giáo Minh viết phản lại, có lẽ đúng hơn. Hai
quyển tiểu thuyết đều tả những phong tục cổ hủ trong những gia đình thuộc
giai cấp phong lưu Việt Nam, nhưng nếu đem so sánh với nhau thì cả hai đều
là hai tập luận thuyết. Một đằng kết luận: Mới cũ không điều hoà được; còn
một đằng cãi: mới cũ có thể điều hoà được.
* * *
Lá ngọc cành vàng mà Nguyễn Công Hoan đặt vào loại xã hội tiểu
thuyết thật ra chỉ mới hơi đả động đến vấn đề giai cấp thôi.
Nga, con gái một quan phủ, yêu một thanh niên có học thức,
nhưng chàng lại là con một người đàn bà goá bán xôi chè ở cổng phủ,
nên cha mẹ nàng nhất định không ưng thuận, đến nỗi nàng đã có mang với
chàng rồi, mà cha mẹ vẫn ép nàng uống thuốc thôi thai để đến nỗi ngộ
độc mà chết.
Một tấn bi kịch về tình mà nguyên nhân ở như giai cấp phong lưu
không thể gần gũi được giai cấp nghèo hèn.
Đây là tâm sự của Nga, con gái yêu ông phủ, và vai chính trong truyện:
"... Nga thấy cái phú quí nó làm cho người ta cao xa quá. Mà cao xa
quá thì cô độc. Cô độc thì buồn vì không được hưởng những cái vui vẻ bình
dân, cái vui vẻ dễ kiếm, đầy rẫy.
Nga hiện đang sống bằng cái đời học sinh, cái đời bình đẳng ở trong
trường, không có sự phân biệt giàu, nghèo, sang, hèn. Nay nàng thấy Chi,
người thiếu niên mà nàng gặp đầu tiên, là một người thanh cao, giản dị. Có lẽ
vì nghèo, nên Chi mới có tính cách thanh cao, giản dị chăng?..." (trang 50).
Rồi từ đây, nàng mê Chi, luôn luôn muốn gặp mặt Chi, nhưng chàng
này không dám "chơi chòi" sợ luỵ đến thân. Nga bị cha mẹ cấm đoán, thất
vọng rồi hoá điên. Đối với bệnh của con, ông Phủ, bà Phủ chỉ tin có thuốc ta,
ở sự cúng lễ và tin ở phúc ấm tổ tiên, về những quan niệm cổ hủ, về những
thói kênh kiệu của cha mẹ Nga, ngòi bút tả chân của Nguyễn Công Hoan rất
sắc sảo.
Hãy xem tác giả tả ông Phủ khi mới về nhà:
"Ông Phủ trước khi ngồi xuống ghế, thì đứng thẳng người, giơ hai cánh
tay quặt ra đằng sau. Nga biết hiệu, chạy lại cởi áo ba-đờ-xuy lót lông cừu ra,
treo lên mắc và tháo cái khăn len lù xù ở cổ. Lúc ấy người mới trông rõ cái cổ
áo trắng không gài khuy mà mé bên phải tụt hẳn xuống. Mãi đến khi ông móc
cái ví to xù ra để ở bàn, hai bên cổ áo mới lại cao đều nhau. Ông ngồi xuống
tháo thẻ bài ném xuống bàn, tức thì một tên lính xách đôi guốc kinh, ngồi thụp
bên cạnh, cởi giầy, bí tất. Anh ta nhớ cả việc lấy bí tất lau các khe ngón rồi
khe khẽ nâng chân đặt vào guốc" (trang 23).
Cách tả tỉ mỉ là lối đặc biệt của Nguyễn Công Hoan. Ông Phủ không nói
một lời, nhưng điệu bộ ông đủ làm cho người ta thấy ông là người mà sự giàu
sang đã làm cho mất nết.
Những lời ông Phủ nói với đốc tờ thật đúng là lời một ông quan nhà
nho và nệ cổ, không biết tiếng Pháp và cũng không biết ứng đối:
Ông đốc tờ hỏi bằng tiếng Pháp, ông Tham thông ngôn rằng:
- Ngài hỏi từ lúc nãy, cháu ra sao?
Ông Phủ đương ngồi, đứng dậy chắp hai tay, đáp:
- Dạ, cám ơn quan lớn, cháu vẫn điên”, (trang 91)
"Rồi quan Phủ bàn với ông đốc tờ:
- Bẩm quan lớn, chúng tôi nghĩ nếu bệnh tâm lý thì có thể giảng giải
cho nó nghe lẽ phải được.
Bác sĩ lắc đầu:
- Với người điên, không có gì là lẽ phải nữa. Có khi ông rồi cũng bị
cô ấy chửi đó.
Ông Phủ gật đầu, chịu.
- Dạ, thường cháu vẫn chửi tôi và bà nó nhà tôi luôn. Mới đầu chúng tôi
thấy con nhà gia giáo lại làm những cái trái ngược với luân lý như thế, chúng
tôi giận lắm, nhưng rồi chúng tôi cũng quen đi và sẵn lòng tha thứ", (trang 94)
Thật là lời một bác hủ nho chỉ biết câu nệ và lễ giáo, đến nỗi không biết
bệnh điên là thứ bệnh như thế nào. Những chữ "chúng tôi giận lắm" và "sẵn
lòng tha thứ" vừa tả cái thói con người lúc nào cũng muốn lấy uy quyền xử
sự, lại vừa tả con người dớ dẩn, không biết ứng phó với người ngoại quốc,
chỉ là tài nghệ quát tháo kẻ dưới. Cái câu mà tác giả đặt vào miệng ông tham,
em ông Phủ, là một câu tả rất đúng tính tình một số đông các ông nhà nho
nước ta: "Nhưng nhà nho còn câu nệ bằng trăm, bằng nghìn đàn bà ấy. Lại
còn tự phụ nữa. Có khi cũng tin, cũng chịu, nhưng nhất định không làm. Nhất
là xui làm những điều trái với cổ tục thì càng khó", (trang 108).
Trong Lá ngọc cành vàng những đoạn Nguyễn Công Hoan tả Nga điên
là những đoạn ông quan sát rất tỉ mỉ và rất đúng. Đọc những đoạn ấy người
ta thấy sự xét nhận của tác giả thật là tinh vi. Đây là đoạn tả Nga còn ở trong
trường nữ học và bắt đầu rối trí.
"Đến đêm, Nga lần sang giường bên cạnh, đánh thức người bạn dậy.
Tuy người bạn không lấy gì làm thân, nhưng nàng cũng thở dài, tưởmg như
sắp thổ lộ những câu tâm sự.
- Chị ạ, tôi đau đớn lắm, Chà! Nói ra nó dài lắm. Thôi chị ngủ đi. Rồi
Nga lại chạy đến giường khác, cũng thân mật nói như thế. Được một lát, cả
buồng thức dậy mà Nga chỉ cười sặc sụa, như có vẻ đắc chí lắm..." (trang 81)
Đó là thời kỳ Nga mới loạn óc, các bạn chỉ mới lấy làm lạ. Đến lúc Nga
đã phải bỏ học về ở nhà chú là ông Thám để tĩnh dưỡng, vì bệnh nàng đã
nặng hơn, nàng mới thật tỏ ra người điên nhưng vẫn còn là điên hiền. Đây là
lúc mẹ nàng đang bàn với ông Tham về cách chữa chạy cho nàng:
"Ngẫm nghĩ, bà Phủ nói:
- Chị là đàn bà, chẳng biết thế nào là nên. Hay là chú thím viết giấy
bẩm anh xem.
Nga nghe tiếng nói chêm vào:
- Anh cũng chẳng cho phép được.
Rồi nàng cười sằng sặc nhưng đang cười dở thì giơ tay sờ soạng câu
đối, và như quên hẳn việc vừa mới làm.
Bà Phủ cau mặt:
- Con chớ nói càn.
Nga trợn mắt đáp:
- Anh không có phép mắng tôi.
Rồi hầm hầm lên gác, nằm cười khanh khách.
Các con ông Tham thấy Nga như thế, đều thích xem lắm. Chúng nó coi
như những trò ngộ nghĩnh nhưng thỉnh thoảng Nga đánh chúng nó đau quá,
lại có lúc vỗ về, kể chuyện cho chúng nó nghe. Song chuyện chẳng đâu vào
đâu, Nga phệnh phạo kể:
- Một hôm, chị ăn mặc như con ăn mày. Chị đội cái nón rách bươm. Chị
mặc cái quần rách bướp. Chị khoác cái áo tam tài. Chị đi bộ từ nhà sang tận
bên Tàu, chị vào cung vua ông Tưởng Giới Thạch. Chị thấy cái súng, cầm lấy
chị bắn đánh đùng! Ơ kìa! Ông Tưởng Giới Thạch ông ấy bắt tay chị đấy.
Các em phá ra cười, hỏi:
- Thế ông ấy có khen chị không?
Nga gật:
- Có, ông ấy bảo: C’est bien!" (trang 82, 83).
Thật là một trò điên tả tuyệt khéo. Đến những cảnh điên sau là lúc Nga
đã điên một cách hung tợn, xé hết cả quần áo và trần truồng, tác giả tả cũng
rất tài tình. Cái đoạn ông Tham để Chi vào thăm Nga (từ trang 123 đến 126)
là một đoạn thật cảm động; rồi đến những đoạn sau, đoạn ông Phủ doạ Chi
và bắt Nga uống thuốc thôi thai và Nga chết là những đoạn cảm động nhất
trong cuốn tiểu thuyết.
Trong các truyện dài của Nguyễn Công Hoan, Lá ngọc cành vàng là
cuốn tiểu thuyết hay nhất. Song ở vài đoạn ông vẫn không tránh được sự quá
đáng.
Thí dụ, ông Phủ là một người rất cổ hủ, điều đó, tác giả đã cho người ta
thấy rồi, những giữa thế kỷ XX này, làm gì còn có người khấn ông vải về để
trừng trị em:
"Ông Phủ lấy cái khăn bàn phủ lên lò sưởi và đặt hai cây nến đồng hai
bên, rồi cung kính, ông bưng cái ảnh cụ cố, đặt ngay ngắn vào giữa...
Rồi ông giải chiếc chiếu trước chỗ thờ; ông đứng nghiêm trang, chắp
tay, đoạn thụp xuống lễ bốn lễ; rồi quỳ, suỵt soạt khấn...
Cả nhà im lặng. Ông Tham mặt cắt không còn hột máu, rất lo sợ. Ông
biết rằng vì anh quá khắt, nên mới sửa phạt ông bằng cách khấn các cụ về để
trừng trị ông là đứa con vô phúc.
... Ông Phủ đứng cạnh chỗ thờ, nghiêm chỉnh nói giọng dõng dạc như
giọng quan toà:
- Tội chú đáng đánh đòn. Nhưng anh nghĩ thương cho chú đã lớn, và
đã là ông nọ ông kia, nên anh trình các cụ tha cho chú. Vậy chú vào lễ tạ các
cụ, rồi nằm xuống đây.
Ông Tham rưng rưng nước mắt, vào lễ tạ bốn lễ... Đoạn, ông Phủ nói:
- Bây giờ chú chịu tôi đi.
Lập tức ông Tham nằm sấp trên chiếu, duỗi thẳng cẳng, gục đầu xuống
ván gác. Ông Phủ lấy chiếc ba toong, nâng hai tay, quay về phía thờ, vái dài
một cái, rồi để ở ngang mông em. Rồi ông đứng cạnh bàn thờ, nhìn ông
Tham mà diễn thuyết..." (trang 114, 115, và 116).
Đó là một cảnh đại khôi hài. Nếu ông Phủ gàn dở đến thế, thì ông
Tham là một người tân học và có nhiều lương tri, như tác giả đã viết, lẽ nào
lại "mặt cắt không được hột máu" và "rất lo sợ" rồi cái ông tân học ấy lại "rưng
rưng nước mắt", lại "nằm sấp trên chiếu" nữa. Thì ra ông Tham người có óc
tân tiến, đã biết theo lời thầy thuốc Tây để chữa cho Nga, đã dám đưa cả Chi
là người yêu của Nga vào dỗ dành Nga cho Nga khỏi bệnh, mà lại sợ "cụ cố"
đã qua đời từ lâu đánh như thế ru? Đó là một đoạn tức cười mà không hiểu
sao Nguyễn Công Hoan lại đặt vào một quyển tiểu thuyết rất cảm động như
quyển Lá ngọc cành vàng? Người ta thấy hình như bao giờ ông cũng muốn
ngả về hoạt kê, nên ông hay già tay trong món vui cười bất cứ ở đoạn nào.
Ông ngả về mặt này nhiều hơn nữa trong các truyện ngắn của ông.
* * *
Người ta nhận thấy Nguyễn Công Hoan sở trường về truyện ngắn hơn
truyện dài. Trong các truyện dài, nhiều chỗ ông lúng túng, rồi kết thúc giản dị
quá, không xứng với một truyện to tát ông đã dựng. Trái lại, ở truyện ngắn,
ông tỏ ra một người kể chuyện rất có duyên. Phần nhiều truyện ngắn của ông
linh động, lại có nhiều cái bất ngờ, làm cho người đọc khoái trá vô cùng.
Những truyện ngắn của ông tiêu biểu cho một thứ văn rất vui, thứ văn mà có
lẽ từ ngày nước Việt Nam có tiểu thuyết viết theo lối mới, người ta chỉ thấy ở
ngòi bút ông thôi.
Trong tập Kép Tư Bền, có những truyện: Thằng ăn cắp (trang 21),
Samandji (trang 55), Nỗi vui sướng của thằng bé khốn nạn (trang 87), Mất cái
ví (trang 133) là những truyện hay hơn cả.
Truyện Thằng ăn cắp là một truyện linh hoạt và bình dị vô cùng; tác giả
tả khéo quá, người đọc tưởng như thấy ngay trước mắt cái cảnh tả trên trang
giấy.
Đây là một thằng nửa ăn mày nửa ăn cắp "ra trò" giữa đám hàng rong:
"Một hôm, nó vơ vẩn giữa đám hàng bán rong.
Thấy nó, bà hàng rau đứng dậy, quảy gánh lên vai, đi chỗ khác. Bà
hàng thịt sờ lại ruột tượng. Bà hàng bún riêu nắn lại túi tiền. Bà hàng lê bấm
cô hàng bánh đúc. Chị bán bánh rán sốt đưa mắt cho bác bán khoai.
Họ thì thào:
- Thằng ăn cắp!" (trang 21).
Ấy là nó mới sán lại gần mà đã gây được sự hoạt động và sự liên kết
của các cái mồm, cái mắt, cái tay của bọn bán quà rong như thế.
Bây giờ thằng ăn cắp mới bắt đầu hoạt động:
"... Nó ngồi sán vào cô bán bánh đúc. Nó chìa tay ra xin một miếng. Cô
hàng ôm khư khư lấy mẹt vào lòng, xua lấy xua để.
- Chưa bán mở hàng đấy! Khỉ ạ!
Nó lại lê dịch sang kề nồi bún riêu.
- Lạy bà, con ăn mày bà một bát.
- Ba mươi sáu cái nõn nường! Mỗi bát mấy đồng xu của người ta đấy!
Thôi đi! Dơ!
Nó lại mó vào củ khoai lang, tủm tỉm cười.
Bà ấy vội hất tay nó ra và mắng:
- Bà thì tát cho một cái bây giờ, đừng láo!
Bà hàng lê chắc chẳng đời thuở nào nó dám động đến hàng mình, là
thứ xa xỉ phẩm, đùa nói rằng: .
- Một hào một quả, bỏ tiền đây, tao bán cho.
Nó cười, lắc đầu.
Bà ấy ném vào lòng nó một mảnh vỏ quít. Nó đỡ được bỏ vào mồm,
nhai gáu gáu.
Rồi nghĩ thế nào, nó đứng dậy, tay nó đếm xu trong túi, nói với bà hàng
bún riêu:
- Bà bán cho cháu một bát.
- Mày có tiền không?
Nó gật đầu mạnh bạo. Rồi đắc chí, nó lắc túi.
Bà ấy múc cho nó một bát đầy. Nó ăn, Phu phù! Nóng! Suỵt soạt! Cay!
Ngon quá!" (trang 23)
Thằng ăn cắp tuy cũng là thằng người, nhưng các bà hàng rong coi nó
như một con khỉ ghẻ. Họ ghê tởm nó, họ sợ nó, nhưng nó cũng là một trò giải
trí cho họ trong khi họ không thiệt hại gì. Đến khi họ bị thiệt hại, thì dù là vài
đồng xu, họ cũng kêu trời kêu đất, nhất là họ thiệt hại về một thằng không
đáng thiệt hại. Ở đời vẫn thế, chỉ những kẻ giàu mới được ăn người và được
người ta sẵn lòng để cho ăn, có khi kẻ bị thiệt còn lấy làm vinh dự nữa.
"Thì quả nhiên, ăn xong bát bún, thằng ăn cắp cắp đít chạy thật:
- Ối ông đội sếp ơi! Thằng ăn cắp! Ai đuổi hộ tôi!
Bọn bán hàng nhốn nháo. Chạy tứ tung. Quang gánh vướng. Người
ngã. Hàng đổ. Bát vỡ.
- Bắt lấy nó!" (trang 24)
Và rồi nó bị hàng chục người đuổi, sự tuyên truyền mỗi lúc một sai từ
phố nọ sang phố kia: người thì bảo nó giật khăn, người thì bảo nó giật đôi
khuyên vàng; sau người ta bắt được nó, khám túi nó không thấy gì, người ta
lại cho là nó có đảng, tẩu thoát tang vật rồi:
Ức! Một cái đá vào mạng mỡ... Hự! Một cái tống vào ngực... Huỵch!
Huỵch! Bốp! Bốp!.. Alê! lên cẩm!... Nó mềm như sọi bún, không dậy được...”
(trang 25, 26, 27).
Còn "sự chủ" thì "áo lấm, khăn xổ, tóc rũ” chạy "lạch đạch như con vịt"
còn ở mãi phía sau, xa thằng ăn cắp đến sáu bảy mươi thước. Đến khi tới
gần, người ta xúm lại hỏi:
" - Bà mất gì?
Bà ấy cố trả lời, nói rời rạc như người sắp tắt:
- Nó ăn... của... tôi... hai xu... bún... riêu... rồi... nó quịt... nó chạy!"
(trang 28)
Tả chân đến thế thì tuyệt khéo đặc kiểu Guy de Maupassant.
Truyện Samandji của ông cũng là một truyện rất ngộ nghĩnh, trong có
những cái bất ngờ làm cho người đọc không nhịn cười được. Trong truyện
này, tác giả lại cho người ta thấy một tâm hồn giản dị và chất phác của người
da đen nữa.
Nguyễn Công Hoan viết tất cả ba truyện ngắn về tây đen của ông và
đều lấy một nhan đề là Samandji.
Trong tập Kép Tư Bền (trang 55), Samandji (đó là tên anh tây đen) mới
lấy vợ và cô vợ của anh ta làm cho bạn anh ta hết hồn về cái chân ngoèo ở
gậm bàn và lời trách của anh ta - trách sao sắp lấy vợ mà không báo cho
biết!!!
Trong tập Hai thằng khốn nạn (P.T.B.N.S. Số 5, trang 9) Samandji lại
làm cho bạn anh ta hoảng hồn lần nữa; lần này vợ chú tây đen chạy vào nhà
bạn chồng và nhảy tọt vào màn để trốn chồng thì vừa ngay lúc ấy chồng chị ả
đến với nét mặt hầm hầm, sừng sộ. Ông bạn hết vía, nhưng rút cục, Samandji
nói cho biết là đi tìm con sen và vợ anh cũng đang... đi tìm!
Trong tập Đào kép mới (P.T.B.N.S. Số 13, trang 56) Samandji làm cho
bạn anh ta khiếp sợ đến run lên như dẽ; vợ chú oẳn đến lấy mất tấm ảnh của
chồng rồi hôm sau thình lình anh tây đen vốn giận bạn từ lâu đến tìm bạn, rủ
lại nhà và trách bạn như mọi lần: "Anh không tốt!" Ông bạn đã tưởng anh da
đen bắt được tấm ảnh của mình và nghi mình có ngoại tình với vợ hắn.
Nhưng rút cục anh Samandji tuyên án:
"Phải. Anh nghe đây. Anh với tôi bạn bè bao nhiêu lâu rồi, khi vui có
nhau, lúc buồn có nhau, thế mà anh nỡ lòng nào không cho tôi đứng cùng với
anh để chụp ảnh. Anh khinh tôi, anh không tốt!" (P.T.B.N.S. Số 13, trang 69).
Thật là những tấn đại hài kịch do ở sự động chạm của người văn minh
với người óc còn cổ sơ. Tác giả đã xét đoán về những n như Samandji bằng
mấy câu này rất đúng:
"Tôi tưởng có một con cừu và một con sư tử cùng ở trong óc họ. Có lúc
họ hiền lành, phúc hậu, thực đáng thương. Có khi thì đùng đùng thịnh nộ,
tưởng chừng như có thể ghé răng cắn vỡ đôi cả quả đất". (P.T.B.N.S. Số 13,
trang 57).
Truyện Mất cái ví trong tập Kép Tư Bền là một truyện nhạo đời, đáng
để răn những người hay đến quấy nhiễu và ăn bám bà con, và để mai mỉa cả
những kẻ muốn xa lánh họ hàng nghèo. Một truyện nửa nhạo báng, nửa khôi
hài, nhất là cái câu bất ngờ: "Tôi vờ thế, chứ ví đây này..." (trang 141) của lão
Tham làm cho người đọc phải phì cười về cái tính đểu cáng của con người
phong lưu và thương hại thay cho người bà con nghèo của hắn.
Đến truyện Nỗi vui sướng của thằng bé khốn nạn trong tập Kép Tư Bền
(trang 87) là một truyện rất có nghệ thuật. Tính tình một đứa trẻ thơ ngây
được tác giả phô diễn ra hết trong cái cảnh mẹ nó đú đởn với trai trước bàn
thờ cha nó. Hãy đọc đoạn văn rất kín đáo sau này:
"Được mua bóng nó sướng mê. Cầm lấy tiền, nó chạy tọt ra cửa,
nhưng còn ngoái cổ lại nói rằng:
- Thế đến mai bác Phán mua cho Dần cái ô tô nhé. Chốc nữa cậu Dần
về, rồi mai Dần vặn máy cho cậu mợ Dần và bác Phán đi chơi cho mà xem.
Ừ khép chặt cửa lại.
Vừa mới một lát, đã thấy nó đẩy cửa vào, nét mặt tiu nghỉu. Nhưng nó
vội chạy ngay lại đứng cạnh bác Phán mà làm nũng:
- Bác Phán hôn cả Dần nữa kia!" (trang 91)
Dần là đứa lên bốn, mới mồ côi cha. Mẹ nó dan díu với người mà nó
gọi là bác Phán. Cái câu người ta bảo thằng bé: "khép chặt cửa lại" thật là
một câu ý nhị. Đến câu: "Bác Phán hôn cả dần nữa kia!" của thằng bé đủ cho
người đọc hiểu bác Phán đã hôn ai rồi, nên nó mới ghen. Thật là đoạn văn
kín đáo.
"... Nó thong thả đến gần mợ nó, nó lại làm nũng:
- Mợ ơi mợ khấn cậu về nữa đi.
Mợ nó thở dài một cái, cầm hai tay nó, nhìn nó rồi đưa mắt lên giường
thờ cậu nó, rồi lại liếc sang bên bác Phán. Mợ nó ôm nó vào lòng ra cách âu
yếm, cúi đầu, kề cái miệng lên làn tóc lơ thơ của nó. Rồi hình như trông thấy
hai cái dải khăn ngang rũ đằng trước ngực, thì không biết mợ nó nghĩ những
gì nó thấy mợ nó lại thở dài, mà xung quanh mắt thì ươn ướt. Nó liền giơ hai
tay bé tí tẹo lên vuốt má mợ nó, rồi bá cổ xuống hít một cái thật dài mà hỏi
rằng:
- Mợ ơi, mợ làm sao thế?" (trang 92)
Thật không cần phải lời nói, chỉ những dáng điệu của người đàn bà
cũng tỏ hết nỗi băn khoăn của nàng. Con nàng như nhắc cho nàng biết chồng
nàng chết chưa được trăm ngày (nàng còn thắt khăn tang), nhưng người tình
nhân của nàng lại hứa hẹn cho nàng biết bao điều vui thú...
Những đoạn bác Phán đưa cho mợ thằng Dần cái ảnh của cậu nó để
mợ nó quạt màn, rồi mợ nó doạ cho nó ngủ để tự do hú hí với trai, và đến khi
nó tỉnh dậy giữa ban đêm, không thấy mợ nó đâu, chỉ thấy cái ảnh cậu nó úp
sấp trên bàn, ướt đẫm nước, là những đoạn rất cảm động. Tính tình con trẻ,
tả đến như thế thật là sâu sắc. Nguyễn Công Hoan ít viết những truyện về
tình cảm, vậy mà truyện này có lẽ là một truyện hay nhất của ông về tình cảm.
Ông còn mấy truyện ngắn nữa cũng thú vị chẳng kém những truyện
trên này. Đó là truyện Chiếc quan tài, in trong tập Sóng vũ môn (P.T.B.N.S.
Số 26, trang 59), Tôi nói dối bà thì tôi làm kiếp chó, in trong tập Hai thằng
khốn nạn (P.T.B.N.S. số 5, trang 19), truyện Anh hùng tương ngộ trong tập
Sóng vũ môn (P.T.B.N.S. số 26, trang 99). Những truyện này - không kể
truyện Chiếc quan tài – đều rất vui, có tính cách đặc Việt Nam, vừa hoạt kê,
vừa chua chát, ai đọc cũng phải phì cười.
Trong truyện Chiếc quan tài, tác giả tả cái cảnh nghèo nàn của người
dân quê Việt Nam thật là thê thảm, thê thảm đến cả trong khi chết. Cái cảnh
lụt ở nơi đồng ruộng đã được Nguyễn Công Hoan tả bằng ngọn bút chân xác
tuyệt khéo. Hay nhất là đoạn cái quan tài tự bật lên và theo dòng nước, trôi
hết trong vườn, ra đến ngoài lạch, rồi ra đến cánh đồng, để rồi giạt vào vườn
một bác Khoá - gieo tai vạ cho bác này - và được treo lên cây, để rồi lại bị gió
đánh rơi xác chết xuống, mình một nơi đầu một nẻo.
Trong truyện Tôi nói dối bà thì tôi làm kiếp chó, quả thật về sau vì trốn
nợ, bác nhà quê ấy tự nằm vào củi chó, rồi tự chui qua lỗ chó chui. Trong
truyện Oẳn tà rroằn, cô ả có đến một trăm nhân tình, không biết ngủ với anh
nào mà bụng ễnh, nên hết gạ lấy anh này, lại gạ lấy anh nọ, và đối với anh
nào chị ta cũng đổ là đã làm chị ta có mang. Rút cục có mấy anh hứa sẽ nhận
đứa bé làm con sau khi chị đẻ và rồi sẽ cưới chị làm vợ. Đến khi chị ta ở cữ
tại một nhà thương, hết anh nhân tình nọ lễ mễ đem quà vào thăm, đến anh
nhân tình khác ôm đồm các thứ lại cho đứa bé, nhưng rút cục anh nào cũng
chuồn cả, vì đứa con chị ta đẻ ra là một thằng bé... tóc quăn như bụt ốc và da
đen như than.
Đến truyện Anh hùng tương ngộ thì thật là tuyện tức cười, chẳng khác
nào những truyện vui của Ả Rập. Ba chàng mê một ả mặt rỗ nhằng nhịt ở bên
cạnh nhà bạn, mà chỉ vì cái nồi nước tiểu để ở hàng rào; rồi ba anh cùng gửi
thư tán cô ả và nhờ bạn viết, ông bạn chép luôn một đoạn thư trong một cuốn
tiểu thuyết cho cả ba người – cố nhiên là cả ba không biết nỗi riêng của nhau.
Rồi đến lượt chị ả láng giềng đến nhờ ông bạn đọc lần lượt cả ba bức thư,
ông ta mới vỡ ra cả ba người bạn của ông đều say cô mặt rỗ, mà chỉ vì... cái
nồi hông. Họ đã nhìn và họ đã cảm. Ông viết hộ cô ả ba bức thư đều giống
nhau, dặn cả ba chàng đến một chỗ hẹn và nhớ ăn mặc giả gái giống như cô
ta. Thế là chỉ có ba anh gặp nhau, và đó là câu chuyện "anh hùng tương ngộ".
Cả ba truyện đều có thể coi như những tấn hài kịch rất ngộ nghĩnh, làm
cho người đọc khoái trá vô cùng.
Ông còn nhiều truyện ngắn khác tuy không xuât sắc bằng mấy truyện
trên này, nhưng so với những văn phẩm của nhiều nhà văn, thì nó vẫn có một
dấu riêng, vẫn có chỗ đặc sắc hơn nhiều. Những truyện ấy là: Kép Tư Bền
(Kép Tư Bền, trang 5), Ngựa người và người ngựa (Kép Tư Bền, trang 43 -
truyện này giống một cảnh trong Tôi kéo xe của Tam Lang), Báo hiếu trả
nghĩa cha (K.T.B trang 61), Bố anh ấy chết (K.T.B trang 77), Tôi chủ báo, anh
chủ báo, nó chủ báo (K.T.B trang 97), Giết nhau (K.T.B trang 143), Ai khôn
(P. T.B.N.S. Số 5, trang 40), Đào kép mới (P.T.B.N.S. Số 13, trang 31), Xà lù
(P.T.B.N.S. Số 13, trang 88).
* * *
Hầu hết các truyện ngắn, truyện dài của Nguyễn Công Hoan đều thuộc
loại tả chân và rặt tả những cái chướng tai gai mắt, cùng đồi phong bại tục,
mà phần nhiều đều ngả về mặt hoạt kê.
Bảo ông là một nhà tiểu thuyết xã hội là lầm. Ông không hề viết một
quyển tiểu thuyết nào về những cảnh lầm than hay về sự sống giản dị của
dân quê và thuyền thợ. Trong số những nhà viết tiểu thuyết về phong tục, ông
đã đứng riêng hẳn một phái: phái tả chân và phái khuynh hướng về hoạt kê,
nhưng ông không hoạt kê như Vũ Trọng Phụng khi viết Số đỏ, hay như Đồ
Phồn khi viết Một chuỗi cười, cái cười của ông là cái cười sặc sụa, cái cười
hể hả của người sung sướng và ngoại cuộc.
Tuy vậy, nếu xét về những vấn đề ông thường quan tâm và luôn luôn
nó khêu gợi nguồn hứng của ông trong các truyện, chúng ta thấy ông băn
khoăn nhất về những sự đụng chạm của cái giàu với cái nghèo trên đường
đời. Sự xung đột giữa kẻ giàu người nghèo là cái cốt của hầu hết các truyện
ngắn truyện dài của Nguyễn Công Hoan. Khi hạng nghèo động chạm với
hạng giàu, bao giờ người ta cũng thấy ông ngả về hạng nghèo; nhưng khi tả
riêng hạng nghèo, ông cũng tả bằng ngọn bút hoạt kê như khi ông tả riêng
hạng giàu, mà nhiều khi cũng cay độc.
Ông tả đủ hạng người trong xã hội, nhưng ít khi ông tả những ý nghĩ
của họ - nhất là những điều u ẩn của họ thì không bao giờ ông đả động đến.
Bao giờ ông cũng đặt họ vào những khuôn riêng, đó là khuôn lễ giáo hay
khuôn phong tục mà họ đã "ra trò" với những bộ mặt phường tuồng của họ.
Ông là một nhà tiểu thuyết tả chân, mà tả về phong tục, nhưng ông đã có một
nụ cười riêng, một nụ cười chỉ ông mới có, chỉ ông mới diễn ra một cách điềm
đạm ở những văn phẩm của ông trong khoảng mười năm nay.
Ông có một lối văn vui và giản dị, không giống một nhà văn nào, nên
ông viết truyện nhi đồng rất tài tình. Truyện Phần thưởng danh dự của ông,
đăng trong báo Truyền bá (do Tân Dân - Hà Nội, xuất bản năm 1942) là một
truyện nhi đồng có tính cách hoàn toàn giáo dục: trong đó người ta vẫn thấy
cái khuynh hướng bênh vực người nghèo của ông. Trong truyện, cậu học trò
con nhà nghèo là cậu đã được phần thưởng danh dự.
Nhân nhắc đến loại truyện nhi đồng mà Nguyễn Công Hoan rất sở
trường, tôi xin nói để độc giả biết rằng trong bộ phê bình văn học Việt Nam
hiện đại này, tôi chỉ nhắc qua đến truyện nhi đồng thôi, vì dù là hay đến mấy,
phần nhiều những truyện nhi đồng hiện thời ở nước ta vẫn còn chưa tới cái
trình độ văn chương và giáo dục như những truyện nhi đồng của các nước,
như vậy thiết tưởng không nên vội xét đoán trong khi nó đang tiến hoá.
Về Nguyễn Công Hoan, tôi còn nhận thấy điều này nữa: ông viết rất
đều tay, và đọc ông, không bao giờ người ta phải phàn nàn rằng ông chỉ
quanh quẩn trong mấy đầu đề như nhiều nhà văn khác. Trong luôn mười năm
nay, ngòi bút tả chân của ông vẫn giữ nguyên tính chất tả chân và lối văn ông
viết vẫn nguyên một lối văn bình dị. Tương lai sẽ cho ta biết ông có thay đổi gì
không, nhưng tôi tin rằng chỉ trong phạm vi tả chân và trào lộng, cây bút của
Nguyễn Công Hoan mới có thể vững vàng, còn ngoài phạm vi ấy, tôi e rằng
nó sẽ lung lay.
(Nhà văn hiện đại, trong Tổng tập văn học, tập 24A -
Nxb KHXH H. 199)
SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN TRƯỚC CÁCH MẠNGVIỆN VĂN HỌC
Về văn xuôi hiện thực, người được độc giả miền Nam đọc nhiều trong
thời kỳ này là Hồ Biểu Chánh. Xét cho kỹ, khuynh hướng của tác giả này khá
phức tạp. Trong một số tác phẩm, Hồ Biểu Chánh có phê phán những kẻ giàu
sang cậy thế áp bức nhân dân lao động. Một mặt khác ông cũng tỏ ra hiểu
biết sinh hoạt của thợ thuyền, nông dân, dân nghèo ít nhiều. Nhưng ông ta
cho rằng trong tầng lớp nào cũng có kẻ xấu người tốt. Cho nên ông ta mô tả
nhiều bác nông dân như những kẻ cục cằn, nhiều chị nông dân như những
người đĩ thoã. Những đức tính của nhân dân lao động mà ông ta ca ngợi lại
có màu sắc phong kiến: nhân, hiếu, tiết, nghĩa. Trên cơ sở đó, ông ta giải
quyết các vấn đề xảy ra trong quan hệ giữa mọi hạng người, phần nhiều giải
quyết ổn thoả, câu chuyện kết thúc một cách "có hậu", "giáo dục" một thứ
luân lý cũ không thích hợp với hoàn cảnh đấu tranh gay gắt đương thời. Do
đó, truyện của Hồ Biểu Chánh tuy có một số yếu tố hiện thực, nhưng có nhiều
yếu tố bảo thủ. Lời văn của ông ta giản dị, đại chúng, nhưng nhiều khi cẩu
thả, dễ dãi.
Nhà văn hiện thực tiêu biểu trong thời kỳ này là Nguyễn Công Hoan.
Ông bước vào làng văn từ những năm 20. Đến năm 1931, ông bắt đầu nổi
tiếng. Bước sang thời kỳ Mặt trận Dân chủ, ông đã là một trong mấy nhà văn
được chú ý nhiều nhất. Những nhà lý luận văn học theo chủ nghĩa Mác như
Hải Triều đã dựa vào phần thành công trong sáng tác của ông giao chiến với
phái Nghệ thuật vị nghệ thuật. Vì vậy, mặc dầu đại bộ phận tác phẩm của ông
được xuất bản thành sách từ 1935 đến 1943 (nhiều tác phẩm được đăng báo
trước đó, sau mới in thành sách hay một loại sách dưới danh nghĩa "tạp chí"
là Phổ thông bán nguyệt san).
...Phần tiến bộ, có giá trị hiện thực cao trong sáng tác trước Cách mạng
của Nguyễn Công Hoan là phần chủ yếu. Chúng tôi sẽ đi sâu vào phần này.
(Trong các tác phẩm phức tạp, cũng có yếu tố hiện thực).
Ông sở trường về cách mô tả tư cách hèn hạ, đê tiện hết chỗ nói của
bọn quan lại sâu mọt, bọn nha lại, bọn hãnh tiến giàu có sang trọng và khinh
người. Trong Ông chủ (1934), bọn phong kiến đã bị vạch trần là những kẻ
dâm ô. Hai thằng khốn nạn (1934), một mặt nêu lên cảnh thương tâm của
người nghèo gặp năm đói phải gánh con đi bán, mặt khác nêu lên tư cách
của một "quan nghị" mua đứa bé trả ba hào nhưng lại trừ hai xu vì thấy lưng
đứa bé có nhiều nốt ruồi. Trong Báo hiếu: trả nghĩa mẹ, một tên trọc phú
khinh rẻ bà mẹ là người sống một cách nghèo nàn ở thôn quê, làm cho bà mẹ
phải chết; nhưng đến khi mẹ chết thì hắn lại làm ma linh đình. Xuất giá tòng
phu là một truyện ngắn nêu bật tư cách đốn mạt của hạng người hiến vợ cho
chủ để leo lên bậc thang danh lợi. Mất cắp cái ví (trong tập Kép Tư Bền) nói
lên một khía cạnh khác trong tư cách đểu cáng của hạng người phong lưu:
khinh rẻ bà con họ hàng đến nhờ vả mình.
Bọn quan lại lũng lạm một cách bẩn thỉu bị vạch mặt trong các truyện
ngắn Đồng hào có ma (1937), Thịt người chết (1938).
Bọn đế quốc thực dân cũng bị nhà văn công kích ít nhiều trong các
truyện như Người vợ lẽ bạn tôi (1939). Những thói hư tật xấu của tư sản và
tiểu tư sản thành thị, mặt trái của lối sống tư sản, lối sống "tân thời" cũng bị
nhà văn đả kích đích đáng: xu hướng "theo mới" một cách kệch cỡm, lố bịch
(Chồng cô Kếu tân thời viết năm 1933); xu hướng mất gốc, sống theo lối
"đầm" trở nên người vô tình bạc nghĩa của một số ít phụ nữ (Thế là mợ nó đi
Tây trong Kép Tư Bền); xu hướng hiếu danh của bọn con nhà giàu và tư cách
xâu xa của một loại nhà báo (Tôi chủ báo, anh chủ báo, nó chủ báo trong Kép
Tư Bền); thói chim chuột lăng nhăng của một số thanh niên thành thị (Anh
hùng tương ngộ trong Sóng vũ môn); tính ham mê truyện trinh thám, (Cái lò
gạch bí mật, 1936),... Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan nói chung là một
bức tranh khá phong phú về cái xá hội nhố nhăng đương thời.
Nhà văn tuy nổi tiếng là người giỏi trào phúng, nhưng lại cũng ưa nói
những chuyện thương cảm, buồn giận, phẫn uất. Người ta không thể cười
được khi đọc những truyện ngắn như Kép Tư Bền, hoặc đọc nhiều trang
trong Bước đường cùng.
Nhân vật tích cực trong nhiều truyện của Nguyễn Công Hoan, hạng
người mà ông chú ý đề cao ca ngợi, phần nhiều là trí thức, tiểu trí thức xuất
thân nghèo hèn, hoặc có một địa vị hèn kém (Tắt lửa lòng, Tấm lòng vàng).
Những người này vừa có học, có chí khí nghị lực, lại biết thương người, ăn ở
có tình nghĩa, muốn làm việc có ích cho đời. Đây không phải là những kẻ
khuếch khoác kiểu Lộc trong Nửa chừng xuân hoặc những kẻ anh hùng rơm
như Dũng, trong Đoạn tuyệt. Những nhân vật ấy của Nguyễn Công Hoan có
tính chất chân thực tiêu biểu cho tiểu tư sản tốt mà chúng ta vẫn thấy trong xã
hội cũ. Nhưng họ không phải là những người đóng góp phần tích cực nhất
cho việc cải tạo xã hội, nên khi tác giả ca ngợi họ thì chúng ta đọc lại vẫn thấy
hơi nhạt nhẽo.
Trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan trước Cách mạng, một số
truyện ngắn và cuốn tiểu thuyết Bước đường cùng là những tác phẩm có giá
trị cao nhất.
Nhà văn vốn là người có hiểu Cách mạng ít nhiều. Trong thời kỳ Mặt
trận Dân chủ, ông đã được một số đảng viên cộng sản tuyên truyền ít nhiều
về chủ nghĩa cộng sản. "Càng gần gũi anh em chính trị phạm cũ, tôi càng hiểu
chủ nghĩa cộng sản là nhân đạo, đấu tranh giai cấp chính là để giải phóng cho
đất nước, cho quảng đại nhân dân" (Thời kỳ Mặt trận Bình dân, tôi đã chịu
ảnh hưởng Đảng. Tập san Nghiên cứu văn học, 1-1960). Cuốn sách được
viết đúng vào lúc phong trào lên cao nhất trong thời kỳ 1936-1939, tức là năm
1938.
Chủ đề của Bước đường cùng là quá trình phá sản của một nông dân
bị địa chủ dựa vào đế quốc quan lại, thi hành nhiều thủ đoạn thâm độc để
chiếm đoạt ruộng nương, ở Bước đường cùng cả một hệ thống người từ tên
địa chủ Nghị Lại đến viên quan huyện, thừa phái, nho, lính lệ, cường hào,
nghĩa là bọn người xưa nay vẫn dựa vào nhau mà đè đầu cưỡi cổ nông dân,
đều được tác giả chú ý mô tả. Bọn công chức Pháp như Tây đoan cũng được
nhà văn phác hoạ qua mấy nét để nêu lên tính chất tàn nhẫn của chúng. Kẻ
có nhiều thế lực thì bóp nặn nhân dân nhiều, và có cái "phong cách đểu cáng"
riêng của "quan trên". Bọn có ít thế lực thì dựa dẫm vào quan trên mà kiếm
chác miếng thịt, cút rượu. Chúng cũng có cái tư cách đê tiện của bọn vũ phu
hống hách, nạt nộ người, đấm đá người, lần từng đồng hào trong khố rách
của người dân cày có việc đến cửa công. Địa chủ Nghị Lại được tác giả kể rõ
lai lịch từ đầu. "Vì lăn lộn trong xã hội phồn hoa sớm thế, nên ông sớm học
được đủ các ngón, mà ngón nào cũng rất tinh"; "Ông chỉ chửi lại cha mẹ có
hai lượt, vì ngày xưa, ông ở nhà rất ít để phụng dưỡng song thân"... Từ cái
tường cắm tua tủa "những mảnh chai sáng nhoáng" "như lưỡi lê của đội quân
canh", đến cái nhà, cái buồng, cái cách bày biện trang hoàng trong phòng
khách của hắn đều vẽ ra tính chất con người hắn: trên tường là bức tranh
khiêu dâm kiểu "Tàu"; góc nhà là một pho tượng khiêu dâm kiểu "Tây"; nhưng
ở gậm giường phòng khách thì "một mùi tanh tanh ở trong gậm xông ra. Nó là
mùi han đồng của những đỉnh, những đèn, những mâm, những nồi, xếp la liệt
dưới sập". Đó hẳn là của ăn cướp được của nông dân bằng cách này, cách
khác, tích luỹ lại! Cái kẻ vừa ngu xuẩn lại vừa láu lỉnh, vừa ốm yếu nghiện
ngập lại vừa dâm dục, vừa có một ngôn ngữ hạ tiện lại biết mềm mỏng khúm
núm khi cần thiết, vừa giàu nứt đố đổ vách lại vừa keo kiệt bẩn thỉu, cái kẻ ấy
đã dùng nhiều mưu mô như xui nguyên giục bị, lợi dụng sự dốt nát của nông
dân, nhân những khi người nông dân phải nộp sưu cao thuế nặng, phải phạt
vạ, chứa đám, để cho vay nợ lãi, chiếm đoạt ruộng nương của nông dân, làm
cho người nông dân không tài nào sống nổi. Thêm vào những cái ách đó, bọn
lý dịch lại còn phù thu lạm bổ, lợi dụng hủ tục khiến nông dân phải kiệt quệ...
Mỗi trang trong cuốn sách là một niềm uất ức khiến người đọc phải nghẹt thở.
Người đọc rất dễ hiểu tại sao anh Pha từ một người hiền lành, nhẫn nhục,
dần dần uất quá phải vùng dậy đấu tranh, dù chỉ mới biết đấu tranh một cách
tự phát, một cách tuyệt vọng. Ngoài một vài chỗ còn sơ lược, tính chất phong
phú của cuốn sách, việc mô tả sắc nét nhiều nhân vật, việc dẫn dắt các tình
huống một cách biện chứng, tác dụng gây căm thù sâu sắc và kích động đấu
tranh của tác phẩm làm cho Bước đường cùng đã vượt khỏi ít nhiều giới hạn
của chủ nghĩa hiện thực phê phán và đi gần tới chủ nghĩa hiện thực cách
mạng.
(Trích Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945.
NXB Văn học, H. 1964).
TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN VÀ TRUYỆN NGẮN CỦA SÊKHÔP
JAN MUCKA
Hãy cho phép tôi đề cập đến đề tài của tôi bằng cách dẫn lời của
Sêkhôp: "Tôi chỉ muốn nói một cách thành thực với mọi người rằng: "Anh hãy
tự nhìn vào bản thân. Hãy xem mình sống khổ sở và trong bực dọc!"... "Điều
quan trọng hơn cả là có người hiểu được điều đó và một khi đã hiểu thì chắc
chắn họ sẽ tự tạo cho mình một đời sống tốt hơn... Một người sẽ trở nên tốt
hơn khi anh chỉ cho người đó thấy họ là người như thế nào".
Theo ý tôi, những suy nghĩ đó thể hiện đúng cái đặc thù trong sự tìm tòi
mỹ học đối với con người về phía Sêkhôp cũng như về phía Nguyễn Công
Hoan. Trên cơ sở đó, cái cơ sở trong chừng mực nào, như là một mẫu số
khách quan.
Tôi muốn so sánh ở đây những tác phẩm ngắn của hai nhà văn lớn
thuộc hai nền văn học và văn hoá khác nhau và rất xa nhau, hai nhà văn
được nghiên cứu chẳng những với tư cách những sáng tạo cá nhân khác
nhau mà còn với tư cách những đại biểu của một kiểu loại thể và một phong
cách khá gần gũi nhau về phương diện tư tưởng mỹ học. Dĩ nhiên, ở đây
không phải là vấn đề hồi tưởng lại Sêkhôp trong tác phẩm của Nguyễn Công
Hoan, mục đích của chúng tôi, đúng hơn, là làm nổi bật lên những sự tương
ứng nhất định trong sự hiểu biết của các nhà văn này về đời sống bên trong
của con người. Đồng thời, chúng tôi chú ý đến một sự kiện rất quen thuộc là
ở thời kỳ trước cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đã xuất hiện trong các nhà
văn Việt Nam một thể loại truyện ngắn, có khuynh hướng đi vào tâm lý nhân
vật...
Cho phép chúng tôi chọn hai cặp truyện ngắn để rút ra một vài khía
cạnh tương ứng. Trong trường hợp thứ nhất là truyện ngắn của Những người
bạn gái (1937) của Nguyễn Công Hoan và truyện Anh béo và anh gầy (1883)
của Sêkhôp. Ở tác giả Việt Nam, có thể nói rằng đây là một tác phẩm viết
dưới ngòi bút của một nhà văn mà tài năng đã già dặn và kết tinh. Trong lúc ở
nhà kinh điển Nga, đó là công trình của một tác giả đang trên đường hình
thành về phương diện mỹ học, nhưng là một công trình mà tuyệt nhiên không
thể xem là "một thí nghiệm văn học". Nhiều hoàn cảnh đã khiến cho chúng tôi
quyết định việc lựa chọn này, những yếu tố chính được xem xét tới là sự
tương tự về chủ đề và tính chất châm biếm của hai truyện. Chúng tôi thử so
sánh giữa hai truyện, chủ yếu ở hai lĩnh vực cụ thể, sự gần nhau và sự xa
nhau về mặt tư tưởng mỹ học và nghệ thuật.
Mọi tác phẩm nghệ thuật ở vào một giai đoạn nào đó đều biểu hiện một
hệ thống phức tạp mà các yếu tố của nó chỉ có thể hiểu được trong mối quan
hệ qua lại và sự gắn bó của chúng với các lĩnh vực bên ngoài, phi văn học (ví
dụ hệ tư tưởng), Ở Sêkhôp cũng như ở Nguyễn Công Hoan, có một "quan
niệm sáng tác chung" nhất định, quan niệm này được thực hiện ở chỗ toàn bộ
"cái chung" phải được hiểu là "chung về mặt xã hội". Hiện thực thẩm mỹ đối
với họ chỉ có thể có được là cái xấu được nguỵ trang trong cái hàng ngày,
một cái xấu mà họ cách điệu hoá và bằng cách đó đem lại cho cái thông tục
hoặc cái tầm thường một ý nghĩ mỹ học tâm lý. Họ dùng nhiều sắc thái, từ
khôi hài đến châm biếm, trong lúc ở Nguyễn Công Hoan khuynh hướng đó
đôi khi xuất hiện như một mục đích tự thân và cách cường điệu sự phủ định
(ví dụ kết luận của truyện). Ở Trung tâm của hài hước hoặc châm biếm,
người ta tìm thấy bản thân nhà văn trong sự đối lập với những tính cách hài
hước và như là hiện thân của nguyên tắc không thâm nhập và xa lạ với các
nhân vật của truyện. Một sự tương tự nhất định cũng tồn tại giữa Sêkhôp và
Nguyễn Công Hoan trong việc miêu tả và tính chức năng của chi tiết mà vượt
lên trên những chi tiết này là cuộc sống với tất cả sự rộng lớn của nó đã ẩn
náu. Tuy nhiên, chỉ cần người ta tưởng tượng điều mà các tác giả dành cho
sáng kiến của người đọc. Ở họ, bằng ý nghĩa của nó, chi tiết thông thường
đồng nghĩa với trật tự xã hội chống con người và đồng thời cũng là yếu tố
năng động của sự phát triển chủ đề cũng giống như trong trường hợp
Sêkhôp, giới phê bình trách Nguyễn Công Hoan đã miêu tả cuộc sống và con
người với một sự bàng quan, thậm chí một thái độ thiếu thông cảm. Thực ra,
tình trạng dốt nát của quần chúng mà ông thường minh hoạ một cách hài
hước, đối với ông, chủ yếu là chất nguyên liệu nhằm tố cáo xã hội thực dân
nửa phong kiến, xã hội mà ngay từ lúc đầu đã nhấn chìm quần chúng trong
sự dốt nát. Vì vậy, đây là một thứ hài hước ở mức độ cao mà bằng một hình
thức đặc biệt đối với bản thân nó, đã bóc trần những mâu thuẫn của cuộc
sống và có thái độ phê phán đối với trật tự xã hội. Độc giả cảm thấy cái hài
hước ấy ở chỗ họ tự nâng mình lên trên tính chất hài hước, mà họ xem như
một sự đi chệch nhất định ra ngoài chuẩn mực, một sự phá rối lý tưởng có ý
thức về phẩm giá của chính mình. Đồng thời, cả Sêkhôp lẫn Nguyễn Công
Hoan không xem sự đi chệch chuẩn mực ấy là một nét gắn liền với nhân vật,
mà chỉ như kết quả tác động của hoàn cảnh cuộc sống trong đó nhân vật ấy
hành động.
Trong hai tác phẩm châm biếm cỡ nhỏ này, đều có cuộc gặp gỡ bất
ngờ giữa hai người bạn trai hoặc hai người bạn gái. Cái khác là ở chỗ trong
truyện của Sêkhôp, họ là hai người bạn thực sự từ tuổi thơ, đã lâu không gặp
nhau, vì vậy không biết gì về nhau cả (chính sự phát triển về sau của truyện
được xây dựng trên sự kiện này), trong lúc ở Nguyễn Công Hoan, họ là
những người gọi là bạn gái, dĩ nhiên biết nhau rất rõ, nhưng thực tế chưa bao
giờ là những người bạn theo nghĩa chân chính của từ này mà trở thành bạn
theo nghĩa hài hước. Ở Sêkhôp, sự tan vỡ đột ngột xảy ra vào lúc người này
biết người kia đạt tới một danh vọng hết sức cao, là được bổ nhiệm làm hội
viên tư vấn (người gầy đột nhiên tái mặt, sửng sốt...). Ớ Nguyễn Công Hoan,
một tình huống như vậy xảy đến vào lúc vợ viên tuần phủ nắm lấy cổ tay
người kia, ở địa vị xã hội thấp hơn (vợ viên chánh tổng Đồng Quân) (Hé! Hé!
Hé! Bà chị lên tỉnh từ bao giờ thế?). Ngay cả khi hình thức phản ứng của hai
nhân vật khác nhau thì những nhân vật ấy về cơ bản vẫn hoạt động một cách
như nhau. Bắt đầu từ lúc ấy, dưới con mắt của các tác giả đó không còn là
những con người mà chỉ là những giá trị xã hội, một cao hơn, một thấp hơn.
Trong lời đối thoại của họ được đánh dấu bằng sự ca tụng quá đáng của
nhân vật thấp hơn, hai tác giả đều gợi cho độc giả thấy ý nghĩa ẩn ở phía sau
văn bản, trong đó tác giả nhấn mạnh tính chất quỵ luỵ của sự kính trọng đối
với những người nói chung ở địa vị cao hơn, độc lập đối với phẩm chất cá
nhân của con người. Hơn thế, Sêkhôp còn nhấn mạnh cái hài hước của tình
huống bằng việc nhân cách hoá đồ vật ("các thứ vali, gói và hộp của anh ta
cũng chợt lún xuống, bĩu môi"). Truyện ngắn Anh béo và anh gầy phân làm
hai bình diện rõ rệt: Bình diện thứ I là sự gặp gỡ giữa hai người, bình diện thứ
II là sự gặp gỡ của những phẩm chất xã hội. Điều đó cũng toát ra từ kết luận
của cả hai phần, trong đó chúng ta hầu như tìm thấy một câu nói giống nhau
được lặp đi lặp lại: "... họ lấy làm ngạc nhiện một cách thú vị", nhằm nhấn
mạnh sự tương phản giữa tình bạn chân thực và sự tuỳ thuộc của kẻ tôi đòi.
Truyện ngắn Những người bạn gái không có sự phân chia như vậy. Trong khi
miêu tả, Nguyễn Công Hoan dựa trên tính năng động của đối thoại và của
những tình cảm bên trong hơn là dựa vào môi trường xung quanh ("Cụ lớn
phải kéo mãi bà mới dám ngồi trên chiếc ghế bành đánh bóng"). Trái với
truyện ngắn của Sêkhôp, sự đụng độ xảy ra trong truyện ngắn của Nguyễn
Công Hoan và lúc bằng một bức thư, tác giả cho thấy "người bạn gái" ăn
không 500 đồng. "Khi nghe xong thư, bà Chánh Tiền nhăn nhó rồi thở dài
mãi. Thì té ra bây giờ, xoay ngược lại. Bà ta là con nợ của cụ lớn".
Nguyễn Công Hoan giải quyết mâu thuẫn này bằng sự châm biếm trật tự xã
hội, cái trật tự phân chia con người một cách máy móc bằng sức mạnh ngu
dại và không chịu tính đến phẩm cách của con người... (nhưng chỉ cần bà ta
nghe: "Ấy kìa! Hé! Hé! Hé! Bà chị! Tôi mong mãi!", bà Chánh Tiền bỗng
quên hết mọi sự. Bà lại cảm động, rơm rớm nước mắt và hởi lòng, hởi
dạ như thường").
Ở cả hai truyện ngắn, chủ nghĩa nhân đạo và nhân phẩm chỉ là những
giá trị thứ yếu trong quan hệ giữa con người với con người, trong khi giá trị
hàng đầu là địa vị của người đó trong xã hội. Thực tế, ý nghĩa đáng buồn của
cái hài hước là ở đó và đồng thời cái hài hước thực sự của các tác giả cũng ở
đó.
Trong cả hai truyện ngắn, bố cục được dắt dẫn bằng vai trò trung gian
có điều kiện của người kể chuyện (ngôi thứ ba), người kể này không trở nên
nhân vật có thật và không thuộc vào số người của tác phẩm nghệ thuật. Vì
vậy, vấn đề ở đây là hình thức tường thuật chủ quan hoàn chỉnh bằng một sự
đánh giá trực tiếp đối với biến cố. Chẳng hạn, ở Sêkhôp, truyện mở đầu
bằng: "Ở nhà ga xe lửa Ni-cô-la, hai người bạn thân, một anh gầy, một anh
béo đã gặp nhau. Anh béo vừa mới ăn cơm tối xong ngay tại nhà ga",... Cũng
giống như vậy, đoạn đầu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là: "Lúc ấy, bà
Chánh Tiền đương đi vội vàng trên hè. Bà không để ý đến đường phố, bởi vì
ở nhà quê ra tỉnh, bà định sắm ít xẻng cuốc, cùng vài thứ lặt vặt nên đi đi lại
lại ở phố Khách đến mười lượt, để khảo giá các hiệu bán đồ sắt...". Trong cả
hai trường hợp, lời của người kể chuyện tham gia vào biến cố hoàn toàn chỉ
với tư cách bình luận sự phát triển của câu chuyện. Trái với tính chất truyền
thống khép kín của chủ đề (Nguyễn Công Hoan theo sát điều này cho đến
cùng), Sêkhôp đã bỏ ngỏ kết thúc, do đấy tạo ra một khoảng cách cho ý muốn
giải thích của độc giả theo kinh nghiệm của riêng họ. Nhiều lần, giới phê bình
đã trách ông về chỗ ấy, như là đã viết thiếu quá trình xây dựng hoặc thiếu nói
rõ, nhưng chính sự sáng tạo có tính toán của Sêkhôp là ở chỗ đã bỏ lửng
"không kết thúc" đó. Sự ăn ý giữa hai tác giả về chức năng của người kể
chuyện là không để cho họ thâm nhập vào ý thức của nhân vật mà chỉ ghi
nhận ngôn ngữ, điệu bộ và cử chỉ của nhân vật mà thôi. Một điểm giống nhau
quan trọng khác là hai tác giả nắm chủ đề biểu hiện của mình (ở đây là mối
quan hệ con người - nhân cách), một cách sao cho mỗi một chi tiết được
miêu tả xuất hiện như sự thể hiện của một tổng thể.
Hai truyện ngắn không có những sự miêu tả độc lập đối với bản chất,
nhưng đều có xung đột sâu xa và đều rung lên độ căng về nội tâm. Sự hài
hước chuyển từ việc châm biếm sang việc tha hoá phẩm cách con người ở
nước Nga Sa hoàng độc đoán và ở nước Việt Nam thực dân nửa phong kiến.
Chúng ta cũng có thể tiến hành sự so sánh như vậy giữa hai truyện
ngắn khác của Sêkhôp và của Nguyễn Công Hoan, cụ thể là Cái chết của một
viên công chức (1883) và Thằng điên (1935). Truyện thứ nhất mang tính chất
hài hước hơn truyện thứ hai. Trong truyện thứ hai này chỉ có cái ngây thơ
mang ít nhiều tính chất hài hước của một người nông dân được đem đối lập
với lôgic của chủ nghĩa nhân đạo là điều duy nhất làm cho tác giả quan tâm.
Người nông dân tội nghiệp là Mùi đã mang đỡ hành lý cho một ông có tầm cỡ
quan trọng, là người ở Hà Nội trong lúc đang gặp khó khăn. Ông này thân ái,
nồng nhiệt mời anh ta đến chơi. Với tâm hồn chất phác, anh Mùi thực sự
muốn đến thăm ông ta. Nhưng khi anh đến nơi, ông này không còn nhận ra
anh ta, hết lời chửi rủa, gọi anh ta là thằng điên và đuổi ra khỏi nhà. Bị sỉ nhục
và tuyệt vọng, theo lời khuyên của người đầy tớ ông nọ, Mùi trở về nhà để
khỏi bị xem là thằng điên. Trong truyện ngắn Cái chết của một viên công
chức, tác giả miêu tả sự cố gắng tức cười của người thư ký Bộ tư pháp
Secviacôp tìm đủ cách thanh minh với viên tướng Bơritgialôp rằng trong một
buổi xem biểu diễn sân khấu, tình cờ trong lúc hắt hơi đã làm bắn nước bọt
vào viên tướng này. Cuối cùng, viên tướng đuổi anh ra khỏi cửa vì cho anh ta
là kẻ nhạo báng mình hay một thằng điên, Secviacôp tuyệt vọng đến mức đã
chết.
Ở đây cũng vậy, phong cách kể chuyện được một người thứ ba thể
hiện. Tuy nhiên, lời bình luận của người kể chuyện của Sêkhôp có một sắc
thái hài hước hơn ("Viên thư ký Bộ tư pháp cũng không kém phần đẹp đẽ”).
Và chuyển thành một ngôn ngữ hài hước ("người ta không cấm bất cứ ai hắt
hơi và hắt hơi ở bất kỳ đâu"). Hơn nữa, chỉ riêng tên gọi của hai nhân vật
(Secviacôp, Bơritgialôp) cũng đã đưa một không khí hài hước vào cách hành
động của họ. Trong truyện của Nguyễn Công Hoan chủ yếu chỉ là sự thể hiện
thái độ đối với sự phát triển của biến cố (yêu cầu sự giúp đỡ của người nông
dân, đó là việc thường và Mùi không từ chối) hoặc "một câu mời dơi, một câu
hứa vượn", hành động trong truyện Sêkhôp cô đúc, diễn ra theo một nhịp điệu
nhanh, không miêu tả thiên nhiên hoặc môi trường, ở Nguyễn Công Hoan,
người ta thấy những câu miêu tả thiên nhiên trong một hình thức tiết kiệm
("Trời nắng, cái nắng mới làm cho người ta khó chịu, dễ sinh giận dữ, gắt
gỏng với cả mọi người"). Trong phần kết luận, người đọc nhận thấy ngoài tác
dụng hài hước còn thêm một cảm giác buồn bã. Cũng như Sêkhôp, Nguyễn
Công Hoan tính đến trực giác của người đọc và xây dựng tác phẩm của mình
sao cho có giá trị thẩm mỹ khái quát được thể hiện triệt để trong mối liên hệ
với những mặt hết sức khác nhau của đời sống tinh thần của người đọc. Vì
vậy, tác giả tính đến những yếu tố chủ quan của độc giả.
Một điểm của chủ đề được nêu lên qua vấn đề điển hình hoá, cái mà cả
hai tác giả miêu tả. Đối tượng của mọi thứ văn hoá nghệ thuật là hệ thống đặc
biệt của những chân dung, ở Sêkhôp, hệ thống này được xây dựng sao cho
trong đó thể hiện nguyên lý phổ biến của con người trong những xung đột
hàng ngày, một nguyên lý mà trong những hậu quả tối hậu của nó, với những
quy tắc có hiệu lực phổ biến của nó đã dẫn tới sự từ bỏ cuộc sống. Tính chất
miêu tả chân dung của Nguyễn Công Hoan đơn giản hơn trong hệ thống
những chi tiết tượng trưng, nhưng cũng dẫn tới một hiệu lực phổ biến. Đến
với cái hài trong truyện của tác giả không bao giờ thể hiện sự nhập cuộc của
người viết. Ở ông, mô típ hài hước thực sự của tình huống và mô típ giải
thích độc đáo của nhân vật gặp nhau; cái mô típ thứ hai này vẫn gây ấn
tượng phi lôgic và ấn tượng hài hước, mặc dù về bản chất là lôgic trong tình
huống được trình bày.
Trong hai truyện ngắn trên đây của hai tác giả, vấn đề chính là đặt
những nhân vật trong mối mâu thuẫn, tuỳ theo vị trí của họ mà trật tự xã hội
quy định. Chính điều này đã giải thích rõ ràng cách thức hoạt động của những
nhân vật. Sự vắng mặt tư tưởng của người kể trong cấu trúc của truyện nhằm
nhấn mạnh sự có mặt của tư tưởng như là một triệu chứng, một dấu hiệu của
phương pháp sáng tạo nghệ thuật của hai nhà văn.
Đúng là những truyện ngắn kể ở đây chỉ mới trình bày một thế giới thu
nhỏ trong bộ khung sáng tác phong phú của hai tác giả, nhưng chúng giữ một
vị trí xứng đáng trong quá trình phát triển nghệ thuật của mỗi nhà văn. Vào
cuối thế kỷ trước, Sêkhôp đã đóng góp những bức tranh nhỏ đặc sắc vào mô
thức văn học Nga lúc đó. Cũng như vậy, trong những năm 30 ở thế kỷ này,
Nguyễn Công Hoan đã đưa vào văn học Việt Nam một cách không theo
truyền thông một thể loại truyện ngắn mang tính chất xã hội mạnh mẽ, truyện
ngắn châm biếm.
(Tham luận tại Hội nghị Văn học so sánh thế giới, 1976).
CHẤT HÀI TRONG CÂU VĂN NGUYỄN CÔNG HOANNGUYỄN THANH TÚ
Như chúng ta đều biết, chất văn tiềm ẩn ở tất cả các cấp độ của ngôn
ngữ văn bản: ngữ âm, từ vựng, câu, đoạn, toàn bài. Nó không chỉ có ở trong
mỗi yếu tố mà chủ yếu ở quan hệ giữa các yếu tố cùng cấp độ và các cấp độ
khác với nhau. Đấy chính là quan niệm nghiên cứu ngôn ngữ như là một hệ
thống mà "giá trị của bất cứ một yếu tố nào cũng đều do những yếu tố xung
quanh quy định".
Đi tìm chất hài hước trong truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công
Hoan người nghiên cứu cũng phải làm công việc như đi tìm chất văn ở các
văn bản của các nhà văn khác. Ở đây chúng tôi chỉ dừng lại xem xét chất hài
trong câu văn của ông.
Trước hết phải thấy rằng Nguyễn Công Hoan có một quan niệm nghệ
thuật độc đáo. Đó là quan niệm đời chỉ là một sân khấu hài kịch:
"Tôi là một người bi quan, hoài nghi, nên khinh thế ngạo vật hay đùa và
hay chế nhạo. Sống dưới chế độ thống trị của tiểu thuyết, tôi thấy cái gì cũng
là giả dối, lừa bịp, đáng khôi hài. Thế mà thằng làm trò khôi hài, là thằng thực
dân, lại làm ra mặt nghiêm chỉnh. Thật là buồn cười. Cho nên tôi hay chế
giễu, mỉa mai để khôi hài tác giả việc khôi hài. Tôi coi thường tất cả. Tất cả,
đối với tôi, chỉ là trò cười. Vì vậy, tôi hay pha trò cười. Tôi viết tiểu thuyết cũng
mang cái giọng nói thường tôi là trào phúng và hài hước".
Chính từ quan niệm nghệ thuật này đã cho phép nhà văn có một thái độ
tiếp cận cuộc sống một cách hết sức suồng sã, xoá bỏ mọi khoảng cách ngôi
thứ, đạp đổ mọi tôn ti trật tự, bóc trần mọi giáo lý giả tạo... để trơ ra một "thế
giới bị lộn trái".
1. Ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan là một thứ ngôn ngữ suồng sã để
"lật ngửa, lộn trái, nhòm ngó từ dưới và từ trên, đập vỡ vỏ ngoài để nhìn vào
bên trong". Đó chính là "một thái độ không biết sợ". Nhà văn không ngần ngại
khi tả cái râu của ông quan huyện một cách mỉa mai, ví đó chỉ là "lông tơ"
(Đồng hào có ma). Tả bộ mặt quan bà lại trông ra là chiếc bánh giầy đám
cưới (Đàn bà là giống yếu). Lại ví ông quan, bà quan là "một con nhái bén
bám vào một quả dưa chuột" (Đàn bà là giống yếu). Khi tả, nhà văn lại hay
xen vào các thán từ tỏ thái độ: "Chà! Chà! Béo ơi là béo!..." (Đồng hào có
ma); "Gớm! Béo đâu có béo lạ béo lùng thế!" (Hai cái bụng)... để mỉa mai.
2. Trong nội bộ câu văn của Nguyễn Công Hoan thường mang mâu
thuẫn hài hước đối chọi ở bên trong. Có khi là hài hước: "Nàng vì quá nhẹ dạ,
nên phải nặng lòng, cái khối lo nó đương nằm co ở trong bụng. Chàng lo vì vô
tình định thoả bụng muốn, bây giờ phải cố tình đẩy cái không muốn ra" (Oẳn
tà rroằn). Có khi là mỉa mai: "Bởi cần kiếm thêm nhiều tiền, nên tôi phải bớt
nhiều sự liêm chính" (Tôi tự tử). "Đối với lời nói ngọt ngào của quan phụ mẫu
này, người ta sợ như gà phải cáo" (Chính sách thân dân). Có khi vừa hài
hước vừa tàn nhãn: "Ít người chết thì mình sống làm sao" (Một tin buồn).
Cũng có mâu thuẫn hài hước ra nước mắt: "Nỗi vui sướng của thằng bé khốn
nạn"; "Sự thành công của anh cu Bản đã làm vợ anh goá chồng" (Ngậm
cười).
3. Cường điệu là một trong những thủ pháp nghệ thuật cơ bản của văn
học trào phúng. Có thể nói, không có cường điệu thì không có trào phúng.
Văn học dân gian thường sử dụng thủ pháp này để tạo nên tiếng cười. Lối
cường điệu của Nguyễn Công Hoan thường làm biến chất sự vật:
"Hình như trời đã đặt một cái khuôn riêng để đúc nặn các người làm bà
lớn. Nên chẳng mấy chốc, bà phủ đã được đúng kiểu mẫu. Chỉ riêng bộ mặt
cũng đã đủ long trọng. Người ta tưởng chiếc bánh giầy đám cưới, ở giữa đặt
một quả chuối ngự, và ngay đầu quả chuối, nằm dài hai múi cà chua. Rồi khi
hai múi cà chua tách ra để theo nhịp với cặp mắt híp, đưa quan ông vào chỗ
nát bàn, thì ai cũng phải thấy một cái hố sâu thăm thẳm, sâu như bụng dạ một
người đàn bà" (Đàn bà là giống yếu).
Tả người mà hoá vật. Đấy là cách tả Nguyễn Công Hoan và trong văn
học Việt Nam chỉ có ở Nguyễn Công Hoan:
"Vậy thì bà nằm đó. Nhưng thoạt trông, đố ai dám bảo là một người.
Nếu người ta chưa nom rõ cái mặt phị, cái cổ rụt, cái thân nung núc và bốn
chân tay ngắn chùn chùn, thì phải bảo là một đống hai ba cái chăn bông cuộn
lại với nhau, sắp đem cất đi" (Phành phạch).
4. Nhà văn có những lối ví von so sánh, độc đáo, những liên tưởng bất
ngờ, thú vị; "Quan ngắm một lúc, hai con mắt sáng quắc như hai ngọn đèn
giời..." (Thật là phúc). Lại có cách so sánh để "đá móc" một sự vật, hiện
tượng khác: "Mỹ thuật nhất là cái ngực đầy như cái ví của nhà tư bản, chứ
không như cái óc của ông Nghị ngay cả trước ngày họp hội đồng" (Samandji).
Có so sánh bất ngờ mà ngộ nghĩnh: "Xe thứ bảy, thì một cô xấu nhưng tân
thời, mặt phấn má hồng, môi đỏ, rẽ lệch, chiếc áo căng lườn, trông tức anh
ách như một bài thơ thất luật" (Đào kép mới).
5. Lối chơi chữ và phép nghịch nghĩa được dùng rất phổ biến trong câu
văn Nguyễn Công Hoan. Ngoài lối chơi chữ ở hầu hết khắp các tên truyện,
phép nghịch nghĩa cũng được coi như một thủ pháp tạo dựng cái hài. Ông đối
lập từ Hán Việt có sắc thái trang trọng và từ thuần Việt có sắc thái thông tục
để làm bật ra tiếng cười:
"Thì lúc ấy, trên bờ đầm, quan huyện tư pháp là một, cụ lục sự là hai,
cậu lính lệ là ba, cùng trịnh trọng làm việc và cùng trịnh trọng khạc nhổ" (Thịt
người chết).
Từ "Trịnh trọng" (Hán Việt) và từ "khạc nhổ" (thuần Việt) đi liền nhau lại
không hợp nhau về nghĩa. Đã "khạc nhổ" hẳn chẳng có gì là "trịnh trọng" cả.
Từ sự đối lập về sắc thái này mà bật ra sự mỉa mai về cách "làm việc" của vị
"quan huyện tư pháp".
"Mà thực, giá ông này có khôn thiêng mà nhìn thấy sau linh cữu mình,
một vị đeo thẻ bài ngà lững thững đi một cách nghiêm trang, thì có lẽ sung
sướng quá đến nỗi sống lại mất" (Chính sách thân dân).
Hai từ "lững thững" và "nghiêm trang" cũng đối lập nhau về sắc thái. Đã
"lững thững" hẳn chẳng còn gì là "nghiêm trang" cả. Chất mỉa mai toát ra
chính nhờ sự vô lý này.
Hầu như từ Hán Việt lại được dùng để gây ra sự hài hước. Bản thân
những từ này mang sắc thái trang trọng nhưng lại để chỉ những việc chẳng
trang trọng tí nào.
"Cái áo dài vải tây đen, nay chỉ còn giữ được màu nước dưa, thì ở
lưng, vai, tay, ngực bướp ra, mà năm khuy thì về hưu trí bốn. Mỗi chỗ rách là
kỷ niệm một trận đòn mê tơi, kết quả của một kỳ công về sự nghiệp trong đời
sinh sống của nó" (Bữa no đòn).
Hoặc:
"Lắm đứa sợ thầy đánh, hoặc vô ý không biết, cứ đưa cả vào lớp cho
thầy và bạn hưởng chung cái tác phẩm của nhà soạn giả ẩn danh" (Thầy
cáu).
"Tác phẩm" của "nhà soạn giả ẩn danh” là cái gì vậy? Đó là mùi thối đã
làm náo loạn lớp Đồng ấu của ông thầy nọ. Nếu nói kiểu thông tục: "Lắm đứa
sợ thầy đánh, hoặc vô ý không biết, cứ đưa cả vào lớp cho thầy và bạn
hưởng chung cái mùi thối" thì đâu còn hài hước, đâu còn là Nguyễn Công
Hoan.
6. Nhằm mục đích tạo ra sự hài hước mỉa mai, văn trào phúng có thể
chấp nhận kiểu tư duy phi lôgic. Sự cố tình mâu thuẫn trong tư duy này để
gây ra tiếng cười, kiểu như: gió sợ bờ tường, bờ tường sợ chuột cống, chuột
cống sợ mèo, mèo sợ mẹ đĩ nhà hề... trong văn chương dân gian. Câu văn
của Nguyễn Công Hoan cũng có trường hợp ấy:
"Con ngựa ô ấy, ông huyện, hồi ở Yên Dũng, đã mua lại của ông phó
công sứ Bắc Giang, sắp về Tây. Vì lẽ đó, nó cũng có tên là ngựa Tây. Và
cũng vì là ngựa Tây, nên nó không hiền lành như ngựa ta. Nó dữ, khoẻ mạnh
và hung hăng lắm" (Con ngựa già).
7. Cơ chế của phép châm biếm, mỉa mai là nói A sao để cho độc giả
thấy rằng cái mà mình muốn nói không phải là A. Chẳng hạn nói "Đẹp (mặt)
nhỉ!" nghĩa là "Xấu hổ chưa?". Trong lời văn, nó thể hiện ở cách nói vòng:
"Tang vật đó to bằng vành khăn đàn bà, cuộn khoanh lù lù trên mặt đất
thành một bãi, đầu hình búp măng, màu vàng, mà đứt đuôi là có hơi ngạt, thôi
thối" (Cái lò gạch bí mật).
Đọc lên, người đọc hiểu ngay tác giả muốn chỉ vật gì. Cách nói vòng
cho phép tạo ra những liên tưởng gợi lên sự thú vị ở độc giả, đồng thời cho
phép đưa vào lời văn những từ mang dụng ý hài:
"Nhất là mũi ông không thể lúc nào tránh được mà không giao thiệp với
cái không khí không được êm đềm" (Thầy cáu).
Nếu nói thẳng: "Nhất là mũi ông không thể tránh được mùi thối" thì chất
muốn hài sẽ giảm hẳn.
8. Câu văn Nguyễn Công Hoan thường ngắn gọn. Đó là cách cần thiết
để tạo ra kịch tính cho câu chuyện:
"Nó đứng ở cạnh bàn, run lên bần bật. Nó liếc nhìn quan. Ngài oai vệ
quá.
Nó lại sợ hơn nữa. Nhưng dù run hay sợ, nó cũng không quên được
việc vi thiềng quan" (Đồng hào có ma).
Câu ngắn có tác dụng tạo ra nhiều hình ảnh. Đoạn văn như là một đoạn
phim ngắn:
"Xong đâu đấy, cô lận đôi giầy mang cá, ôm cái ví đầm, đến trước tủ
gương mà đứng: Cô quay đằng trước, cô quay đằng sau. Cô đi đi. Cô lại lại.
Cô uốn éo. Cô thướt tha. Rồi cô đứng yên. Cô ngắm. Cô bàn. Cô bình
phẩm... Cô khoái lắm!" (Cô Kêu, gái tân thời). Nhờ câu ngắn mà hình ảnh cô
Kếu hiện ra rõ mồn một. Chất hài toát ra từ chính những động tác của nhân
vật này.
Câu văn nhiều khi lại bị lược chủ ngữ theo một ý đồ nào đấy.
"Anh này hiểu ý, ra hiên đứng nhìn, rồi đến cạnh cụ, cúi xuống nhặt...
rồi thu thu vào trong bọc. Rồi len lén ra ngoài ao. Rồi giơ thẳng cánh tay, ném
xuống nước. Tõm!..." (Cụ chánh Bá mất giầy).
9. Câu văn Nguyễn Công Hoan có sự tuân thủ phép lặp cú pháp vì mục
đích nghệ thuật gia tăng sắc thái hài hước.
"Nào hoa tai, nào hột vàng, nào tráp đồi mồi, nào ống nhổ sứ, ai trông
cũng đoán được là nhà giàu" (Báo hiếu: trả nghĩa mẹ).
Ngoài diễn tả hình ảnh, phép lặp cú pháp diễn tả hành động:
"... Rồi cô rẽ lệch đường ngôi. Rồi cô uốn lại mái tóc cho cong xuống,
và thò ra mang tai, rồi cô bôi phấn khắp mặt, tai và gáy. Rồi cô vươn cổ ra để
xoa cho đều. Rồi cô rề dài môi ra để tô son..." (Cô Kếu, gái tân thời).
Nhờ phép lặp cú pháp này mà người đọc cảm thấy nhân vật như là một
con rối diễn hề.
10. Để tạo nên sự sống động tự nhiên, giễu cượt nhẹ nhàng, tác giả để
cho lời kể chuyện và lời thoại của nhân vật giao hoà đến mức khó phân biệt:
"Bà cắt cho nó việc ấy, thật là bà đủ lòng nhân đạo đối với một con bé
ở mười hai, mười ba tuổi đầu. Phải, còn gì nhẹ nhàng bằng việc ngồi yên một
chỗ, cầm chiếc quạt, khẽ đưa đi đưa lại. Bà đã vì thương người mà nuôi cơm
không cho nó là tốt. Chứ ngữ ấy, cơm chẳng biết thổi, nước chẳng biết gánh,
quần áo chẳng biết giặt, nếu chẳng xin ở công không để kiếm ăn, tất chỉ có đi
ăn mày..." (Phành phạch).
Những trường hợp như vậy, sự tường thuật được đi từ ngôi thứ ba vừa
có giọng người kể, vừa có giọng nhân vật. Do vậy, xuất hiện tính chất hội
thoại chung của ngữ điệu, của cú pháp, của từ ngữ vốn là thuộc tính người
kể. Có thể tìm nhiều ví dụ như thế trong Cô Kếu, gái tân thời, Cái nạn ô tô...
11. Yếu tố nhại trong truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan rất đa
dạng, phong phú. Đó có thể là nhại phong cách lời văn của các thể loại văn
khác hoặc nhại phong cách giọng nói của một tầng lớp xã hội nào đấy. Nhại
văn hành chính, công vụ (Tinh thần thể dục, Đi giầy, Chính sách thân dân).
Nhại văn báo chí - công luận (Thằng Quýt, Ông chủ báo chẳng bằng lòng,
Một tấm gương sáng). Nhại văn cáo phó (Báo hiếu: trả nghĩa mẹ). Nhại văn
trữ tình lãng mạn (Thế là mợ nó đi Tây). Nhại văn trinh thám (Cái lò gạch bí
mật). Nhại giọng hát tuồng (Đào kép mới). Nhại giọng cải lương (Anh sẩm).
Nhại giọng trí thức Tây học (Cái ví ấy của ai). Nhại giọng nhõng nhẽo tiểu thư
(Nỗi lòng ai tỏ). Nhại giọng con buôn thớ lợ (Hé! Hé! Hé!)...
Chức năng của lời văn nhại là hạ bệ, là làm trúi nhào những gì gọi là
nghiêm túc, lột cái vỏ hào nhoáng để trơ ra cái giả dối, cái lố bịch, cái đáng
cười. Nói như M.Bakhtin: "Phỏng nhại hoá là tạo ra những kẻ đồng dạng bị hạ
bệ, đó cũng là thế giới lộn trái".
Đáng chú ý hơn, trong lời văn Nguyễn Công Hoan có nhiều kiểu nhại
một cách nhìn, một suy nghĩ (có thể gọi là nhại tư tưởng):
"Thằng bé cúi đầu, sợ sệt. Ông nhìn nó một lúc, rồi hỏi cả lớp:
- Chúng mày có dám vô phép như nó không?
Cả lớp đồng thanh
- Bẩm không ạ.
- Ừ, chúng mày phải...
Học trò tiếp:
-... nghe lời, kính trọng, yêu mến thầy như cha ạ.
Ông giáo gật đầu:
- Hễ hỗn láo thì phải...
-... phạt ạ". (Thầy cáu).
Đám học trò nhại theo ý nghĩ của thầy như những con vẹt, không hơn.
Có thể nói đây là một chứng tích về lối dạy học của một thời đã qua.
Để gây hài, nhiều khi người kể chuyện tự nhại lại giọng mình. Sự cố ý
này làm bật ra ý mà tác giả muốn giễu. Chi tiết "đôi giầy mới nguyên, kiểu Gia
Định, đế cờ lếp" nhại đi nhại lại trong "Cụ Chánh Bá mất giầy" mang dụng ý
nghệ thuật rõ rệt.
Vũ Trọng Phụng cũng thường hay dùng thủ pháp nhại để tạo nên cái
hài:
"Xuân tóc đỏ điên tiết lên mà rằng:
- Thế ông, ông có là con nhà bình dân không? Ông lạ lắm! Ông không
đúng mốt, phải biết cái gì là hợp thời trang chứ?
Người kia ra vẻ hổ thẹn lắm! Quần áo đã hủ lậu mà lại đến cả dòng
giống cũng lại là con nhà tử tế không hợp thời trang! Thật là hỏng bét cả" (Số
đỏ).
Ở đây, lời của Xuân tóc đỏ, một kẻ vô học được nhại lại trong lời kể
chuyện đã làm bật ra ý mỉa mai, châm chọc của tác giả.
Ở Nguyễn Công Hoan, nhại cũng là để mỉa mai:
“-Thầy đem Tết tôi, thầy cứ thử ngắm xem cái mả khoai lang của nhà
thầy bầy ở giữa buồng giấy này trông có đẹp không đã?
Ông Lý sợ hãi, trống ngực thình thịch. Quả là cái mả khoai lang đã làm
tiêu cả vẻ hùng vĩ của bộ da cọp và hai khoanh quất treo trên tường..." (Gánh
khoai lang).
Trên đây là một số thủ pháp nghệ thuật biểu hiện cái hài trong câu văn
của Nguyễn Công Hoan. Chúng tôi hy vọng sẽ trở lại vấn đề này trên cấp độ
khác, cấp độ văn bản.
(Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, 1995)
LỜI VĂN SONG ĐIỆU TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN
NGUYỄN THANH TÚ
Lời văn song điệu, hiểu một cách đơn giản là lời mà trong đó vừa có
giọng của tác giả (hay người kể chuyện), vừa có giọng nhân vật. Người đầu
tiên nghiên cứu về lời văn song điệu là M. Bakhtin trong công trình nghiên
cứu về Đôtxtôiepxki. Ở ta, lời văn kiểu này mới được chú ý, tuy nhiên chỉ có
vài ba công trình mang tính chất giới thiệu. Dưới đây chúng tôi xin đề cập đến
lời văn song điệu trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan.
Trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, lời văn này xuất hiện không
nhiều nhưng nó góp phần làm nổi bật mục đích nghệ thuật của tác giả là dùng
để gây cười với nhiều cung bậc: hài hước, châm biếm, mỉa mai.
"Hai vẻ mặt cùng lo, nhưng hai cái lo khác nhau. Nàng vì quá nhẹ dạ,
nên phải nặng lòng, cái khối lo nó đương nằm co ở trong bụng. Chàng lo vì vô
tình định thoả bụng muốn, bây giờ phải cố tình đẩy cái không muốn ra". (Oẳn
tà rroằn).
Xét về mặt ngữ pháp, lời văn kết câu theo lối đối chọi tạo lên kịch tính
trong lời văn (chủ ý của lời kể chuyện). Trong lời văn lại rõ ràng có giọng cả
hai nhân vật (Nguyệt và Phong) tuân theo một hệ quy chiếu tâm lý: "lo" (Chữ
"lo" được nhắc lại tới 4 lần trong đoạn). Chất bài toát ra từ sự giao hoà hai
giọng này (Người kể chuyện và nhân vật) cũng với nguyên nhân nỗi "lo"!!!
"Bà cắt cho nó việc ấy, thật là bà đủ lòng nhân đạo đối với một con bé
mười hai, mười ba tuổi đầu. Phải, còn gì nhẹ nhàng cho bằng việc ngồi yên
một chỗ cầm chiếc quạt, khẽ đưa đi đưa lại. Bà đã vì thương người mà nuôi
cơm không cho nó là tốt. Chứ ngữ ấy, cơm chẳng biết thổi, nước chẳng biết
gánh, quần áo chẳng biết giặt, nếu chẳng xin ở công không để kiếm miếng
ăn, tất chỉ có đi ăn mày. Con đỏ con, cả ngày chỉ có việc bế anh, rồi làm phụ
dưới bếp. Rồi đến khi anh ngủ, có chuông bà gọi, thì lên quạt hầu bà. Bà có
khiến nó làm việc gì nặng nhọc quá sức nó nữa đâu?" (Phành phạch).
Tác giả dường như trao chức năng tự bộc lộ "lòng nhân đạo" cho nhân
vật. Giọng lưỡi nhân đạo nhưng thực chất lại cực kỳ vô nhân đạo. Nuôi đứa
bé ở "công không" với công việc "bế anh", "làm phụ bếp" và "quạt hầu bà".
Mảnh đoạn sau tả cảnh bà bắt quạt suốt đêm. Nó mệt, nó ngủ gật. Bà "giúi
vào nó một cái thực mạnh". Cảnh tương phản: "Bà mát, dễ chịu lắm. Nó mệt
khó chịu lắm!", đủ thấy giọng lưỡi nhân đạo kia giả dối đến mức nào.
Có thể đặt tên cho lời văn trên là lời nhân vật mang quan điểm tác giả.
Tương tự, một ví dụ khác:
"Ừ thì gật, thì câm, thì cừu, thì hám danh, thì hại nước, ông hãy biết
hiện giờ ông ăn tiên chỉ trong làng cái đã. Cái khoanh bí mọi khi làng đem
biếu ông bá Văn, thì từ nay ông được ăn. Thành ra danh lợi lưỡng toàn, sung
sướng quá!
Thôi thì hay hớm gì cái bướng với nhà nước. Ai yêu cầu chính phủ thây
ai, ai chất vấn quan trên thây ai. Ông là dân ông cứ giữ cho phải đạo, lôi thôi
lắm thì bị ghét nhiều. Ở đời, hay ở nghị trường cũng vậy, ngu si hưởng thái
bình. Cho nên, cứ yên phận là đáng quý hơn hết" (Đi giầy).
Người kể chuyện hoà giọng mình vào giọng nhân vật, mượn giọng
nhân vật để đay đả, chỉ trích. Trước hết là công kích nghị viện giả hiệu. Sau
nữa là đả kích chính nhân vật. Chính giọng ông nghị Xuân chấp nhận mọi
người coi ông là nghị "gật", "câm", "cừu", "hám danh", "hại nước”. Nhưng ông
"sung sướng" vì ông "ăn tiên chỉ trong làng". Ông là nghị viện nhưng ông lại
kệ "thây ai". Quan điểm của ông là "ngu si hưởng thái bình". Giọng ông nghị
Xuân vạch trần bản chất các nghị viện: chỉ biết lợi cho riêng mình ”ăn tiên chỉ
trong làng", vô trách nhiệm "thây ai", và "yên phận" cùng với sự "ngu si".
"Vả lại, không nhân ngày giỗ bố, mà làm bữa tiệc cho thực linh đình,
mời mọc cho thật đông khách, để tỏ rằng mình tuy nhờ trời làm ăn được khá,
nhưng chẳng phải hạng uống nước quên nguồn – bởi đạo làm con phải báo
hiếu cho cha mẹ, để khỏi phụ công sinh thành dưỡng dục - thì thế gian họ
cũng cười cho". (Báo hiếu: trả nghĩa cha)
Dưới góc độ lôgic, câu văn được cấu trúc theo phương thức nguyên
nhân - kết quả. Trong phần cấu trúc nguyên nhân của câu lại tồn tại các cặp
nguyên nhân - kết quả bộ phận: "Nhờ trời làm ăn được khá", "đạo làm con
phải báo hiếu cho cha mẹ". Cả phần nguyên nhân này chỉ đi đến kết quả: "thế
gian họ cười".
Lời song điệu có mặt ở cấu trúc nguyên nhân - kết quả này - nhất là kết
quả "thế gian họ cười" đã lột chân dung chủ nhà: kẻ hám danh tiếng, kẻ cơ
hội bẩn thỉu (nhân ngày giỗ bố...).
"Nhờ được cái nhanh nhảu, láu lỉnh, liều lĩnh, mà chẳng biết nó làm ăn
ra sao, nó có được ít vốn, rồi lấy được ở đâu một con vợ giàu. Từ đó, thằng
ấy ngày một khá, buôn bán phát tài. Nay giàu đến hàng mươi vạn". (Báo hiếu:
trả nghĩa cha).
Lời văn được giao hoà hai giọng: giọng người kể và giọng bà cụ (tức
mẹ "nó"). Sự giao hoà giọng này tạo nên hai hiệu quả nghệ thuật: vì có giọng
bà cụ nên đảm bảo được tính chân thực của "tiểu sử" ông chủ hãng ôtô Con
Cọp (tức "nó”); Có giọng người kể chuyện lại nêu bật ra được công thức làm
giàu trong xã hội tư sản. Nguyên nhân (cả chủ quan lẫn khách quan): nhanh
nhảu, láu lỉnh, liều lĩnh + vốn + vợ giàu + buôn bán. Kết quả: giàu. Công thức
này khó ai phản bác được.
Lời văn song điệu quả là có một sức mạnh nghệ thuật riêng, độc đáo,
cần được nghiên cứu sâu hơn.
(Tạp chí Trung học phổ thông số 11-9-1946)
KỊCH HOÁ TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN CÔNG HOAN
NGUYỄN THANH TÚ
Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đã đem lại tiếng cười bằng một hình
thức nghệ thuật mới: kịch hoá trần thuật. Đây có thể xem là một yếu tố đổi
mới trần thuật, làm phong phú loại hình kể chuyện, làm giàu cho nghệ thuật
tự sự trong văn học Việt Nam ở thế kỷ này.
I. VỀ KHÁI NIỆM "KỊCH HOÁ TRẦN THUẬT"
Trần thuật là "phương diện cơ bản của phương thức tự sự, là việc giới
thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự
vật theo cách nhìn của một người trần thuật nhất định".
Lý thuyết tự sự trước nay ghi nhận hai hình thức trần thuật: trần thuật ở
ngôi thứ ba (khách quan hoá) và trần thuật ở ngôi thứ nhất (chủ quan hoá).
Nhưng cách phân biệt này mới chỉ dừng ở hình thức bề ngoài chứ chưa đi
sâu vào phương thức tự sự bên trong. Có khi trần thuật ở ngôi thứ nhất
nhưng vẫn khách quan. Sự phân biệt này còn dẫn đến chưa xem người kể
đứng gần hay xa các sự kiện, nhân vật trong truyện một cách cụ thể.
Hiện nay, người ta còn nêu vấn đề kịch hoá trần thuật. Kịch hoá trần
thuật là một bước cụ thể hoá hình thức trần thuật ở ngôi thứ nhất. Người kể
được nhân vật hoá. Nó thoả mãn hai chức năng: chức năng miêu tả các biến
cố, sự kiện và chức năng phát hiện ra thế giới bên trong của nhân vật - người
trần thuật. Người kể đóng vai nhân vật, do vậy tất yếu phải tự biểu diễn với
một thái độ, tình cảm nhất định, với ngôn ngữ, giọng điệu của một con người
cụ thể. Vì thế, câu chuyện không chỉ lôi cuốn sự chú ý của người đọc theo
dòng các biến cố mà còn lôi cuốn người đọc vào cả lời kể, cách kể.
Từ đó mà nảy sinh hai hiệu quả: tạo ảo giác ở độc giả về tính khách
quan của nội dung câu chuyện và thể hiện đậm nét dấu ấn chủ quan của
người kể chuyện.
II. KỊCH HOÁ TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN CÔNG HOAN
1. Một vài vấn đề chung
Truyện cười dân gian kể về một câu chuyện tự nó vốn đã buồn cười.
Cái cười ở đây lộ liễu, dễ thấy. Ví dụ truyện Đến chết vẫn hà tiện thì dân gian
cười tính hà tiện của anh nhà giàu nọ. Do vậy, truyện cười dân gian không
được kịch hoá.
Đến truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan, theo quan niệm của
chúng tôi, đã xuất hiện cái cười mới, cao hơn, sâu sắc hơn cái cười thông
thường. Tiếng cười của ông chĩa vào từng sự tha hoá trong xã hội, qua đó
mà tầm phổ quát của nó là tố cáo trạng thái tha hoá của toàn xã hội. Ngoài
nhu cầu mỉa mai, đả kích, trong truyện ngắn của ông còn có cả nhu cầu biểu
hiện thái độ, tình cảm... Ngoài bản thân câu chuyện tự nó vốn đã buồn cười,
nhà văn còn gây cười bằng chính lời kể, có cách kể kéo người đọc vào
truyện. Để cho "xôm trò", tác giả cũng nhảy vào làm trò với nhiều kiểu cách
khác nhau.
Khi tác giả nhảy vào làm trò, tức tác giả nhập vai nhân vật. Lúc này,
điểm nhìn trần thuật là điểm nhìn từ nhân vật, từ bên trong. Kẻ cao đạo nói về
thằng lưu manh là giọng bề trên nói về kẻ dưới. Như vậy, tất yếu tạo lập một
khoảng cách. Kẻ khốn nạn nói về kẻ khốn nạn, khoảng cách sẽ bị phá vỡ. Vì
đó là cái nhìn từ bên trong, cái nhìn tận gan ruột. Do vậy, nó rất thật. Nếu có
bịa cũng là "bịa y như thật".
Nhà văn xưng "tôi" hoặc cho "tôi" xuất hiện là để phá vỡ khoảng cách
trần thuật giữa chủ thể trần thuật và các sự kiện được trần thuật. Nói khác đi,
là xuất phát từ nhu cầu kịch hoá trần thuật.
2. “Tôi” đóng trò ngốc nghếch, dớ dẩn
Theo Nguyễn Công Hoan, "... viết truyện là - đánh vào tình cảm của
người đọc". Sự xuất hiện nhân vật "tôi" ngốc nghếch dớ dẩn này cũng là một
cách đóng kịch. Cái tài của nhà văn là để "tôi" giả vờ (mà độc giả biết là giả
vờ) nhưng độc giả cứ bị cuốn hút theo dòng biến cố. Ở đây là giả vờ chứ
không phải nói dối. Nói dối là không thật, là đánh lừa. Giả vờ là vừa giả vừa
thật. Giả vờ, trước hết phải như thật nhưng phải hé cho người đọc thấy điều
giả vờ này không phải là thật. Như vậy "giả vờ" mang hiệu quả nghệ thuật
lưỡng tính: thật mà giả, giả mà thật. Độc giả hồ nghi cứ muốn theo dõi tiếp sự
phát triển của truyện.
Ngay ở phần đầu được mở rộng ở truyện Cái lò gạch bí mật, người kể
đã "vô phép" độc giả vì "trong khi kể chuyện có điều gì sơ xuất xin được bỏ
quá đi cho”. Nghĩa là chuyện sắp kể chưa chắc đã thật, mà nếu có thật hẳn
chưa chắc đã tin được.
Trinh, có lẽ vì đọc quá nhiều tiểu thuyết trinh thám, nên mắc bệnh "trinh
thám". Trinh nhìn điều gì cũng thấy cần phải "trinh thám” cả. Còn nhân vật
"tôi" dớ dẩn đến mức Trinh bảo cái gì làm cái ấy. Người đọc buồn cười vì
những câu nói ngây ngô này của "tôi":
"- Tiếng súng lục to bằng tiếng pháo tép hay pháo đùng?"
“- Nó (tức tang vật) treo trên tường hay để dưới đất?"
Nhưng cũng "tôi" lại có những liên tưởng thú vị chả dớ dẩn tí nào:
"Trông bốn thằng chồm chỗm, đen ngòm, ngồi trên bốn góc thành tường cũng
đen ngòm, tôi nghĩ ngay đến cái xe đám ma. Mà cũng may, nghĩ vậy, tôi tự
nhiên thấy phấn chấn trong lòng. Vì nếu cảnh này giống cái xe đám ma, thì
sao chả có một xác chết. Cái xác chết ấy bao giờ cũng ở giữa xe. Thế vị chi
là thằng giết người chốc nữa nó chui vào giữa lò. Thế thì nó chết. Chúng tôi
sống".
Như vậy, "tôi" giả vờ dớ dẩn với độc giả để dẫn chuyện. Chẳng dớ dẩn
để đủ tỉnh táo xen vào ý nghĩ "xôm trò".
Ở truyện Lại chuyện con mèo, "tôi" lôi cuốn người đọc từ bất ngờ này
đến bất ngờ khác qua các câu hỏi rồi tự trả lời: "Đi nhà thương?... Hay thằng
Jean...?". Nhưng "Nó vẫn hồng hào, ngoan ngoãn...", "Đẻ? Ai đẻ? Hay bà
chủ? Không có lý. Bà ấy mới có mang được bốn tháng... Hay là đẻ non?"
Những câu hỏi cứ dồn dập và sự ước đoán vẫn "dớ dẩn": "Ô hay? Ba thằng
Jean sắp đi? Chủ tôi sắp đi? Đi đâu? Không có lẽ ông lại đi nhà thương để
đẻ". Người đọc dù có ngây ngô đến đâu cũng thừa hiểu "tôi" này giả vờ, vì
làm gì có chuyện có mang "bốn tháng" mà "đẻ non", càng không có chuyện
"ông chủ lại đi nhà thương để đẻ". Tất cả những sự "dớ dẩn" ấy, để kết thúc
câu chuyện "tôi" mới bật mở nguyên nhân quá đỗi bình thường: con mèo Mini
của ông chủ sắp đẻ.
Ở những truyện Mánh khoé, Samandji, "tôi" cũng đóng trò ngốc nghếch
dớ dẩn. Riêng ở truyện Tôi chủ báo, anh chủ báo, nó chủ báo lại là quá trình
từ "ngốc nghếch" tới "khôn" của chàng Lê Hùng Dũng. Nhưng cái "khôn" của
"tôi" là để tạo ra sự ngốc nghếch của "tôi" mới, tức một Lê Hùng Dũng mới.
3. “Tôi” đểu cáng, khốn nạn.
Mình khen mình, ngườì đời khó tin. Mình chê mình, người đời thường
là tin, vì ở đời mấy ai "vạch áo cho người xem lưng".
Kể xấu người mà lấy "tôi" ra kể thì "thâm" thật. Còn phải kể đến có ai
"bị chạm nọc, họ cũng không giận tác giả đã lật tẩy họ".
Trong Tôi tự tử, "tôi" tự kể chuyện của mình về "ngày ấy", thời "tôi" làm
quan: "Tính tôi thích chơi bời" và "Bởi cần kiếm thêm nhiều tiền, nên tôi phải
bớt nhiều sự liêm chính". "Tôi" vô trách nhiệm để đê vỡ, "nào những nhà trôi,
người chết, nào những của cải tan tành”. "Tôi" trốn tránh bằng cách giả vờ tự
tử. Kết quả "Nhờ việc tự tử tôi thoát nạn. Và sự gian dối ấy có lợi cho tôi trong
những lần thăng thưởng về sau".
Giả sử không có "tôi" trong truyện mà thay vào đó là một nhân vật
mang ngôi thứ ba, độc giả sẽ nghi ngờ: chắc là tác giả tố cáo một tay đểu giả
mà người viết thù hằn. "Tôi" có mặt phá tan sự nghi ngờ này. Độc giả càng tin
hơn khi cuối truyện chính "tôi" bổ sung "sự thật": "Bây giờ, đến tuổi về hưu, tôi
nhớ lại việc cũ, cho là có nói thật cũng không hại gì cho bước đường công
danh của tôi".
Truyện Con ngựa già điển hình cho quan niệm về con người tha hoá,
phi nhân tính của nhà văn. Đám lính đem con ngựa già đi chôn sống. Họ bày
trò chặt cụt bốn cẳng con vật. Con vật tội nghiệp đau đớn nằm ngửa trong
huyệt "phi” bằng bốn cẳng cụt. Con vật kiệt sức, người ta bổ lưỡi dao vào mặt
nó, nhắc nó chạy tiếp để "tiếng cười lại nổi lên rầm rĩ”. "Tôi cười, nhảy lên mà
cười, vỗ tay mà cười. Vui quá!".
Câu chuyện tưởng không có gì nhưng lại là cả một vấn đề lớn ẩn đằng
sau đó: sự vô ơn bạc nghĩa, sự tha hoá thảm hại tính người, tình người.
Sự việc xảy ra do "tôi", cùng "tôi", mang rõ dấu ấn cảm xúc của "tôi".
Tôi kể sự việc ấy với độc giả như nó vốn có: trung thực và sống động.
4. "Tôi" là nhân vật chính, tự kể lại chuyện mình
Nhân vật chính chiếm vị trí trung tâm, tập trung cao độ nhất xung đột
của cốt truyện. Chính vì thế nó thể hiện rỏ nhất tư tưởng chủ đề của truyện.
Khi "tôi" là nhân vật chính, "tôi” trực tiếp chứng kiến mọi biến cố. Mọi
biến cố xoay quanh "tôi". Từ thời hiện tại, "tôi” kể lại thời quá khứ (ngày ấy).
Vì kể lại chuyện trong đời mình, khoảng cách giữa hai thời hiện đại và quá
khứ không quá xa nhau, do vậy, truyện kể vẫn đậm tính thời sự. Một số
truyện: Tôi tự tử, Tôi chủ báo, anh chủ báo, nó chủ báo, Chiến tranh, Thằng
ăn cướp... nằm ở dạng này.
Truyện Chiến tranh tố cáo sự tàn bạo của bọn sĩ quan Nhật đang tâm
giết những người lính bị trọng thương của chính quân Nhật khi thấy họ không
thể đánh nhau được nữa. Đây là một truyện có giá trị tư tưởng cao. Xét về
mặt nghệ thuật xây dựng cốt truyện, công bằng mà nói, có chỗ phi lý. Đầu
truyện, "tôi" cho biết "Chiến địa thực là mênh mông", "tôi đã biết vết thương ở
bụng nặng nhất. Xương đùi bên trái của tôi gãy, và cánh tay bên phải chỉ còn
dính lỏng lẻo vào vai bằng một lượt da. Tôi ê ẩm, đau đớn, nhắm mắt lại, chờ
chết". Nhưng đến cuối truyện, "đến tận tối mịt, tôi mới cố bò về Trương
Châu". Một người bị trọng thương "chờ chết" không thể "bò về Trương Châu"
được, nghĩa là phải vượt qua khoảng cách "mênh mông" từ "chiến địa" đến
Trương Châu? Đúng như một nhà phê bình đã nhận xét, nhiều khi ông hy
sinh cả tính chân thật của cốt truyện.
Điều quan tâm là sự có mặt của "tôi" làm tăng thêm sức mạnh tố cáo.
Chính "tôi" cầm súng. Chính "tôi" bị thương. Chính "tôi" nhìn thấy viên đại uý
cầm súng lục "gí vào thái dương Hítto". Chính "tôi", "ngày nay" kể lại câu
chuyện. Ai còn bắt bẻ vào đâu được!
Truyện Thằng ăn cướp là những lời trò chuyện giữa nhân vật chính
xưng "tôi" với một người khác (có thể là tác giả mà tên ăn cướp gọi bằng
"anh"). Tất cả mọi sự kiện có liên quan đều bao choán trong trường nhìn của
"tôi". "Tôi" đi ăn cưóp. "Tôi" gặp thằng ăn cướp khác cao tay hơn nhiều, đó là
viên quan huyện. Điểm nhìn trần thuật từ "tôi" chiếu thẳng ống kính sang viên
quan. Như thế, viên quan huyện lại là đối tượng phản chiếu. Lúc này người
chiếu ống kính mặc sức lia ống kính của mình dưới góc độ nào là tuỳ thuộc
vào ý muốn chủ quan. "Tôi" đã chiếu "ống kính" vào tận tim đen của tên quan:
Tao giữ kín cho mày tội này, và sẽ cho mầy về nhà, đem tiền lên đây nộp
tao".
Đây là một truyện được nhà văn khách quan ghi lại từ câu chuyện chủ
quan của thằng ăn cướp. Hiện thực câu chuyện (viên quan) được khúc xạ
qua nhân vật "tôi", khúc xạ một lần nữa qua tác giả. Nếu hiện thực câu
chuyện chỉ khúc xạ một lần qua tác giả, nghĩa là không có nhân vật "tôi", tên
truyện Thằng ăn cướp là chính nó, chính thằng ăn cướp. Trong truyện có
"tôi", nghĩa là hiện thực được khúc xạ qua hai lần, tên truyện Thằng ăn cướp
không còn là thằng ăn cướp nữa mà chính là viên quan ăn cướp kia. Nếu nhà
văn không tuân theo quy luật khúc xạ này lại đặt tên truyện là "Quan ăn
cướp", quả thực sẽ quá non tay, vì, nói như nhà văn là "nói toẹt" cả truyện ra
rồi!
Đến đây, chúng tôi xin nói thêm, nếu chỉ nói "hiện thực cuộc sống được
khúc xạ qua lăng kính nhà văn", e rằng đúng nhưng chưa đủ. Những truyện
như truyện Thằng ăn cướp trên, hiện thực còn được khúc xạ qua nhân vật
nữa.
5. “Tôi" là nhân vật phụ kể lại các biến cố được trực tiếp chứng kiến
Nhân vật phụ chỉ đóng vai trò thứ yếu so với nhân vật chính trong sự
phát triển của cốt truyện. Nhưng trong những tác phẩm tự sự không thể thiếu
vắng kiểu nhân vật này.
Người kể chuyện xưng "tôi" tức người kể chuyện cũng được "nhân vật
hoá". Nhân vật này kể lại tất cả những gì mắt thấy, tai nghe. Có khi chứng
kiến trung thực, khách quan. (Gói đồ nữ trang, Người vợ lẽ bạn tôi, Mánh
khoé, Nhân tài, Xin chữ cụ Nghè...), có khi tham gia hẳn vào các biến cố
(Samandji, Cái lò gạch bí mật, Con ngựa già, Thằng Quýt). Loại truyện có
"tôi" chứng kiến trung thực, khách quan để nhấn mạnh giọng điệu hiện thực
và tái hiện sự kiện theo cái nhìn của "tôi", cách kể của "tôi" chứ không phải ai
khác. Thậm chí lấy "tôi" ra để đối sánh với nhân vật khác ("tôi" và cụ Nghè
trong Xin chữ cụ Nghè, "Tôi" ù cạc như vịt nghe sấm. Cụ Nghè dù nổi tiếng
"hay chữ", nghĩ mãi cuối cùng cũng chỉ viết được bốn chữ "Hạc giá tiên du"
rậm rì, to tướng đã quá quen thuộc. Truyện này có thể xếp vào thể nhại. Nhại
hình tượng (cụ Nghè), nhại khuôn mẫu (bốn chữ "Hạc giá tiên du").
Sự hiện diện của "tôi" có xu hướng rút ngắn khoảng cách trần thuật
giữa người kể và sự kiện. Sự kiện được tái hiện trực tiếp như phơi bày trước
mắt người đọc.
Khi "tôi" tham gia hẳn vào các biến cố, sẽ có hai khả năng xảy ra. "Tôi"
là người kể chuyện nên có quyền điều chỉnh các biến cố. "Tôi" là nhân vật
nên chịu tuân theo quy luật diễn biến của các biến cố. Do vậy, "tôi" bị co kéo,
bị phân thân giữa hai thời điểm: hiện tại (kể chuyện) và quá khứ (nhân vật).
Vấn đề ở chỗ, điều này mang lại hiệu quả gì? Trước hết, nó cố gắng che mờ
khoảng cách thời gian giữa hiện tại và quá khứ tạo nên tính thời sự. Đồng
thời cho phép "tôi" (người kể chuyện) xen vào những lời bình luận mang tính
chủ quan, thường là để châm chọc: "Đời nó sẽ phẳng lặng, sung sướng một
cách buồn tẻ như đời một vị quốc trưởng, có gì đáng ghi thêm" (Thằng Quýt).
6. “Tôi” là người kể chuyện
Khi người kể chuyện là "tôi", "tôi" kể việc "tôi" biết cho độc giả nghe.
"Tôi" đối thoại, tranh luận với độc giả. "Tôi" dẫn độc giả từ sự kiện này đến sự
kiện khác theo ý "tôi".
Mạch trần thuật đang trôi theo dòng sự kiện bỗng bị rẽ ngang bởi sự
xuất hiện của người kể chuyện. Sự xuất hiện này, có thể là để "hãm tình cảm
của độc giả đi chậm lại". Căn cứ vào sự phát triển của cốt truyện, có thể coi
nó là cái bản lề khép mở kết quả và nguyên nhân của một hiện tượng. Phần
"kết quả" của truyện "Lập gioòng" là chú quyền Ván cách bị "lập gioòng".
Trước khi chuyển sang phần "nguyên nhân" có sự xuất hiện của nhà tiểu
thuyết:
"Nhà tiểu thuyết chẳng để chỗ thủng ấy vừa chỗ cho độc giả đánh dấu
hỏi. Vậy xin kể cái miếng võ nó rình đánh vào chỗ yếu của thầy quản, và mưu
mẹo nó lừa ra sao".
Có khi tận cuối truyện, người kể chuyện mới xuất hiện để "góp vui":
"Vậy xin độc giả đoán nét mặt ông nghị Đào tôi lúc bấy giờ thế nào. Và ông có
lên nhà xơi nước hay không?" (Cái thú tổ tôm). Nhưng "tôi" là người kể
chuyện thường xuất hiện ở đầu truyện tranh luận mang tính chất định hướng
với độc giả, hay "rào đón", "thuyết phục", khơi gợi sự tò mò ở độc giả:
"Tôi cực lực công kích sách vệ sinh đã dạy ta ăn uống phải sạch sẽ,
nếu ta muốn được khoẻ mạnh béo tốt. Thuyết ấy sai! Trăm lần sai! Nghìn lần
sai! Vì tôi thấy sự thực, ở đời này, bao nhiêu những anh béo khoẻ, đều là
những anh thích ăn bẩn cả" (Đồng hào có ma).
Chất mỉa mai bật ra từ mâu thuẫn giữa "sách vệ sinh" và "sự thực ở
đời". "Tôi" khẳng định cái "sai” của sách bằng một phép tăng cấp để nhấn
mạnh: "Thuyết ấy sai! Trăm lần sai! Nghìn lần sai”. Để cho sự khẳng định ấy
được chấp nhận, "tôi" chứng minh bằng thực tế hẳn hoi: "...Ở đời này, bao
nhiêu những anh béo khoẻ, đều là những anh thích ăn bẩn". Đây lại là một
mâu thuẫn nữa, mâu thuẫn trong thực tế: những anh béo khoẻ là những anh
ăn bẩn.
Đến cuối truyện, độc giả mới thấy những mâu thuẫn tưởng chừng vô lý
này lại thành có lý.
Vào truyện Một tấm gương sáng, "tôi" rào đón độc giả bằng ngay đoạn
mở đầu:
"Điều tôi lấy làm bực mình nhất, là thế nào cũng có một độc giả đa nghi,
xem xong câu chuyện này, bảo một người bạn rằng:
- Hắn bịa.
Tôi hay cãi trước rằng:
- Thưa không bịa tí nào".
Đồng thời định hướng cho độc giả cảm nhận về "Đời" bằng một câu
thật khinh bạc: "Đời" đã hoá ra một con mụ chửa hoang đẻ bậy, sinh non ra
toàn những hạng hoặc mất dạy, hoặc đói cơm". Qua câu chuyện về cuộc đời
"tiết hạnh khả... nghi" của bà Nguyễn Thị Bống, "tôi" chứng minh câu nói này.
Có khi "tôi" lại vòng vo thuyết phục độc giả bằng một loạt hiện tượng
đáng ra Sở cẩm phải phạt. Từ giả định: "Nếu có luật Cẩm phạt như trên kia
thật", để đi đến khẳng định "thì cái tác phẩm của Lê Văn Tám mới in thành
sách, còn đáng Cẩm phạt nặng gấp đôi". Sau đó "tôi" kể lại câu chuyện bẩn
thỉu giữa nhà phê bình Việt Sỹ và "tác giả" Lê Văn Tám để chứng minh cho
khẳng định này (Nhân tài).
(Thông báo khoa học của các trường Đại học 1996,
Ngôn ngữ - Văn học).
CHẤT TRÍ TUỆ CỦA TIẾNG CƯỜI VÀ ÓC CHÂM CHỌC TINH QUÁI CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN
TRẦN VĂN HIẾU
Là tác giả của trên 200 truyện ngắn và gần 30 truyện dài, truyện vừa,
trong đó tác phẩm có phẩm chất nghệ thuật cao chiếm một tỉ lệ không nhỏ,
Nguyễn Công Hoan được đánh giá là một nhà văn lớn. Tuy nhiên, nói đến tài
năng và phong cách Nguyễn Công Hoan, trước hết người ta nhớ đến ông
như nhớ đến một nhà truyện ngắn trào phúng bậc thầy. Nhiều nhà nghiên
cứu đã khẳng định tài năng nổi trội của Nguyễn Công Hoan ở phương diện
nghệ thuật trần thuật và nghệ thuật sử dụng ngôn từ tạo chất hài. Bài viết này
đi sâu vào một phương diện khác không kém phần quan trọng của tài năng và
phong cách trào phúng Nguyễn Công Hoan: nghệ thuật tạo dựng cấu trúc trí
tuệ và "máu" châm chọc, óc tinh quái của nhà văn trào phúng.
1. Chất trí tuệ trong tiếng cười của Nguyễn Công Hoan.
Tiếng cười bao giờ cũng có tính trí tuệ bởi không có trí tuệ, không thể
nhận ra những mâu thuẫn trong cuộc sống, vì thế, không thể cười. Ở bản
thân mỗi con người cũng như ở cuộc sống xã hội nói chung luôn có những
mâu thuẫn trái với tự nhiên, những điều vô lý, ngớ ngẩn, rất buồn cười. Nhà
triết học hiện sinh Đan Mạch thế kỷ XIX Kierkegaard nói rằng "Có cuộc sống
thì có mâu thuẫn" và "chỗ nào có mâu thuẫn thì chỗ ấy có cái hài hiện diện".
Tiếng cười nảy sinh để phản ứng những gì trái với tự nhiên. Có những người
nghiêm túc là do bị hạn chế không thấy được những mâu thuẫn. Những
người có trí tuệ thông minh mà nghiêm túc là giả vờ nghiêm túc. Tất cả những
gì trái với tự nhiên không lọt qua được mắt họ. Tất nhiên, để có thể cười, còn
nhiều yếu tố khác như cái nhìn thế giới và năng khiếu nghệ sĩ chẳng hạn.
Như vậy, có thể coi trí tuệ là một thuộc tính của hài hước. Thuộc tính này
thường được thể hiện dưới dạng một cấu trúc: cấu trúc trí tuệ.
Cấu trúc trí tuệ là khái niệm của Arthur Koestler, người Mỹ, tác giả cuốn
The Act of Creation (1946) - Hành động sáng tạo - một công trình lý thuyết
tổng hợp về sự cười. Khái niệm này thực chất cũng nhằm diễn tả mâu thuẫn
hài hước nhưng nhấn mạnh yếu tố quan trọng của tiếng cười: yếu tố trí tuệ.
Nó thể hiện sự nhận thức cụ thể hơn và diễn tả chính xác hơn cách nhận
thức và diễn tả thông thường về bản chất của hài hước (mâu thuẫn hài
hước). Thực ra, tác phẩm văn học nào cũng được xem như một cấu trúc trí
tuệ (hiểu theo nghĩa rộng). Tuy nhiên, chất trí tuệ trong cấu trúc của mỗi tác
phẩm lại không giống nhau, nhất là đối với những tác phẩm văn học trào
phúng. Do sự chi phối của đặc trưng thể loại, các tác phẩm văn học trào
phúng của mỗi tác giả có những nét tương đồng nhưng cũng có nhiều điểm
khác biệt, sự khác biệt này, thậm chí thể hiện ngay trong những sáng tác của
cùng một tác giả. Giá trị trào phúng của mỗi tác phẩm cao thấp phụ thuộc
không chỉ ở sự phản ánh cái đáng cười như nó vốn có mà còn ở sự gia công
sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Vấn đề quan hệ giữa hài hước và trí tuệ
sắc sảo đã được các tác giả kịch Anh thế kỷ XVII, thế kỷ XVIII đề cập. Thực
ra, từ thế kỷ I, Quintilian đã nêu vấn đề này. Tác giả này cho rằng những điều
nực cười tự nó đã buồn cười nhưng những điều này càng buồn cười nếu như
nhà văn thêm cái gì đó của chính mình, cụ thể là thêm trí tuệ sắc sảo của
chính mình. Một câu đối đáp hóm hỉnh vừa linh hoạt, vừa duyên dáng thường
là sản phẩm của một sự sáng tạo nghệ thuật có ý thức. Trong tiểu luận Bàn
về trí tuệ sắc sảo và hài hước, Hazlitt (1778-1830) cũng cho rằng hài hước là
sự miêu tả cái gì đó tự nó đã buồn cười; trí tuệ sắc sảo là sự trình bày cái gì
đó, so sánh, đối chiếu nó với cái gì khác. Hài hước là những gì sinh trưởng
trong tự nhiên với những sự rủi ro, tình cờ, còn trí tuệ sắc sảo là sản phẩm
của nghệ thuật và trí tưởng tượng sáng tạo. Sử dụng khái niệm cấu trúc trí
tuệ của Arthur Koestler, chúng tôi muốn nhấn mạnh vai trò sáng tạo của chủ
thể nhà văn trong việc tạo dựng tiếng cười.
Thử phân tích truyện cười anh keo kiệt "thà chết còn hơn" để thấy rõ
hơn bản chất cấu trúc hài hước và lời nói dí dỏm. Trong tác phẩm này, tiếng
cười nảy sinh từ xung đột của hai lôgic: lôgic của lương tri và lôgic của sự keo
kiệt. Ở đây, người bạn đã xử sự theo lôgic của lương tri (cứu sinh mạng của
bạn mình bằng mọi giá). Nhưng anh keo kiệt cứ khăng khăng theo lôgic keo
kiệt của mình (tiền là tất cả, thậm chí hơn cả tính mạng mình). Có một chi tiết
thú vị: người bạn có sự nhân nhượng (từ 5 quan hạ xuống 3 quan) nhưng
anh keo kiệt trước sau vẫn nhất quán với các lôgic keo kiệt của mình. Ở đây
không chỉ có sự đối lập giữa lôgic của lương tri với lôgic của sự keo kiệt mà
còn có sự đối lập giữa sự mềm dẻo, uyển chuyển và sự cứng nhắc, cực
đoan. Truyện kết thúc mà không rõ anh keo kiệt chết đuối hay được cứu
sống. Câu nói "3 quan vẫn đắt, thà chết còn hơn" kết thúc truyện - không làm
chức năng mở nút, nó nhằm hoàn chỉnh tính keo kiệt, lôgic keo kiệt, càng làm
nổi bật sự tương phải giữa hai khung quy chiếu: khung quy chiếu thứ nhất -
lôgic lương tri và khung quy chiếu thứ hai - lôgic người hà tiện.
Cảm nhận con người và sự vật, tình thế và sự vật cùng một lúc ở hai
khung quy chiếu bất khả dung hợp. A. Koestler xem đây là cấu trúc trí tuệ của
mọi hình thức hài hước, lời nói dí dỏm, bông đùa và những trò đùa khác. Đây
là một phương diện cơ bản nhất tuy không phải duy nhất của hài hước nói
chung cũng như của tiếng cười Nguyễn Công Hoan nói riêng.
Là người có trí tuệ sắc sảo, bản thân lại có năng khiếu hài bẩm sinh,
Nguyễn Công Hoan rất nhạy cảm trong việc nhận ra những mâu thuẫn trái tự
nhiên vốn đầy rẫy trong xã hội đương thời. Dưới mắt nhà trào phúng, con
người luôn tồn tại dưới dạng tương phản giữa tốt và xấu, chân thật và giả dối,
đạo đức và vô đạo, tử tế và đểu giả, có lương tâm và bất lương, công lý và
bất công... Đối với nhà trào phúng, con người luôn được nhìn nhận ở hai bình
diện lủng củng, xung khắc nhau: con và người, bản năng thân xác và trí tuệ lý
trí, nói và làm, thực sự sống như thế nào và lẽ ra phải sống như thế nào. Tác
phẩm của ông là sự nắm bắt con người ở xung đột giữa sự thuyết giáo và lối
sống thực tại, giữa sự rao giảng đạo đức và hành động thực tiễn xấu xa, giữa
lời nói trống rỗng và việc làm bậy bạ... Tiếng cười của ông thường bật ra khi
bản chất nhân vật diễn trò bộc lộ qua hai khung quy chiếu bất khả dung hợp
này.
Cũng như các nhà văn hiện thực phê phán khác, Nguyễn Công Hoan
luôn hướng ngòi bút vào cuộc sống và phản ánh một cách chân thực cuộc
sống như nó vốn có vào tác phẩm của mình. Thế giới hình tượng trong tác
phẩm của ông thường được tạo dựng trên nguyên tắc đối lập giữa các nhân
vật và các sự cố. Đọc Nguyễn Công Hoan, thấy nổi lên hai cặp xung đột phổ
biến: xung đột đẳng cấp trong quan hệ xã hội và xung đột đạo đức trong quan
hệ gia đình.
Loại xung đột thứ nhất: xung đột giữa kẻ giàu và người nghèo, giữa kẻ
có quyền và tiền bạc với người nghèo khổ lép vế. Những tác phẩm loại này
thường mang tính đối kháng giai cấp, thể hiện chủ đề phê phán xã hội. Nhà
phê bình văn học Vũ Ngọc Phan đã có một nhận định xác đáng: "Nếu xét về
những vấn đề ông thường quan tâm và luôn nó khêu gợi nguồn cảm hứng
của ông trong các truyện, chúng ta thấy ông băn khoăn nhất về những sự
đụng chạm của cái giàu với cái nghèo trên đường đời. Sự xung đột giữa kẻ
giàu người nghèo là cái cốt của hầu hết các truyện ngắn, truyện dài của
Nguyễn Công Hoan".
Loại xung đột thứ hai: xung đột này thường diễn ra giữa hai thế hệ: già
và trẻ, hai giới tính: nam và nữ. Đôi khi lại diễn ra giữa vợ cả và vợ lẽ. Đây là
loại xung đột trong những mối quan hệ gia đình, chủ yếu xoay quanh các vấn
đề luyến ái nam nữ, vấn đề hôn nhân, thể hiện chủ đề luân lý đạo đức trong
phạm vi hẹp của những quan hệ này. Ở những truyện loại này, nhìn chung,
Nguyễn Công Hoan thường đứng về phía người già, nam giới, vợ lẽ để phê
phán. Nhân vật diễn trò thường là nữ giới, người trẻ, vợ lẽ (Oẳn tà rroằn, Thế
là mợ nó đi Tây, Nỗi vui sướng của thằng bé khốn nạn, Người vợ lẽ bạn tôi,
Truyện Trung kỳ...) Cách giải quyết xung đột này thể hiện rất rõ và nhất quán
quan điểm đạo đức có tính chất bảo thủ phong kiến của Nguyễn Công Hoan.
Những xung đột xã hội như nói ở trên, bản thân nó chưa hẳn là những
xung đột trào phúng, nghĩa là xung đột trực tiếp gây cười. Đó là những xung
đột có tính chất nền tảng thể hiện khuynh hướng tư tưởng chung của truyện
ngắn Nguyễn Công Hoan. Trên nền tảng tư tưởng này, nhà văn đã sáng tạo
ra hàng loạt cấu trúc phong phú, đa dạng. Nhìn một cách tổng quát, có thể
thấy Nguyễn Công Hoan đã sáng tạo cấu trúc, tác phẩm theo hai loại lớn.
Loại thứ nhất: Chất trí tuệ thể hiện như những xung đột bên ngoài giữa
nhân vật này và nhân vật khác. Ở loại này, Nguyễn Công Hoan lại sáng tạo
nhiều tiểu loại khác nhau nhưng tựu trung có ba loại chính:
Loại xung đột giữa hình thức và nội dung: những vấn đề xã hội, vấn đề
đạo đức trong quan hệ gia đình mà Nguyễn Công Hoan phản ánh trong tác
phẩm của mình thường mang một vẻ ngoài đẹp đẽ, có ý nghĩa nhưng thực
chất bên trong xấu xa, vô nghĩa. Tiếng cười thường bật ra khi người đọc cảm
nhận cùng một lúc hai khung quy chiếu: khung quy chiếu thứ nhất (hình thức
có vẻ đẹp đẽ, có ý nghĩa) và khung quy chiếu thứ hai (nội dung xấu xa, vô
nghĩa). Hai khung quy chiếu này là bất khả dung hợp như đã nói. Đây là loại
xung đột được khai thác phổ biến trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan cũng
như trong các tác phẩm trào phúng nói chung. Nhưng điều thú vị là dưới ngòi
bút nhà trào phúng Nguyễn Công Hoan, loại mâu thuẫn này thể hiện ở rất
nhiều dạng thức khác nhau. Chẳng hạn, ở truyện Xuất giá tòng phu, xung đột
giữa hình thức và nội dung được biểu hiện dưới dạng ngôn từ rất đạo đức
nhưng lại để đạt được mục đích vô luân, ở truyện Đồng hào có ma là bề
ngoài oai nghiêm sang trọng nhưng thực chất là ăn cắp vặt một cách ti tiện
của viên tri huyện, ở truyện Đào kép mới là hình thức có vẻ mới nhưng nội
dung cũ, ở truyện Cái ví ấy của ai là bề ngoài lịch sự sang trọng nhưng thực
chất xỏ xiên, bần tiện, ở Tinh thần thể dục là mục đích bên ngoài có vẻ chính
nghĩa nhưng thực chất phi nghĩa của chính sách thể thao, thể dục của thực
dân, ở truyện Báo hiếu: trả nghĩa cha và Báo hiếu: trả nghĩa mẹ là hình thức
đại hiếu thực chất đại bất hiếu, ở truyện Xin chữ cụ Nghè là bề ngoài có vẻ
hay chữ nhưng thực chất dốt nát, ở truyện Chính sách thân dân là bề ngoài
nhân đức nhưng thực chất bất lương, ở truyện Thế là mợ nó đi Tây lại là
dạng bề ngoài tiết hạnh thuỷ chung, thực chất dối trá, hư hỏng... Thật khó có
thể liệt kê đầy đủ những dạng thức của loại xung đột này. Có thể nói, cấu trúc
trí tuệ tạo dựng nên trên cơ sở tạo xung đột giữa hình thức và nội dung chiếm
đại bộ phận trong truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan. Ngoài loại chủ
yếu này, tác giả còn sáng tạo hai loại xung đột khác, tuy về bản chất nó cũng
là xung đột giữa hình thức và nội dung.
Loại xung đột giữa phúc và hoạ: những tác phẩm loại này tuy chiếm tỉ
lệ không cao nhưng là những sáng tạo độc đáo của Nguyễn Công Hoan.
Nhân vật trào phúng trong những tác phẩm loại này thường được mô tả như
những người gặp được điều may mắn, hạnh phúc nhưng thực ra lại gặp phải
những tai hoạ khôn lường (Hé! Hé! Hé!, Được chuyến khách, Thật là phúc...).
Loại xung đột giữa nguyên nhân nhỏ nhặt, bình thường, kết quả to tát
nghiêm trọng: những truyện như Thằng ăn cắp, Thế cho nó chừa, Nỗi lòng ai
tỏ, Cái lò gạch bí mật, Lại chuyện con mèo... được Nguyễn Công Hoan xây
dựng theo nguyên tắc đối lập giữa nguyên nhân và kết quả: nguyên nhân
nhỏ, bình thường nhưng kết quả to, nghiêm trọng. Trong Thằng ăn cắp, tác
giả mô tả một thằng ăn mày bị mọi người đuổi bắt và đánh đập hết sức dã
man (kết quả to, nghiêm trọng) chỉ vì nó ăn hai xu bún riêu rồi nó chạy, tức nó
ăn quỵt tiền để bà bán bún riêu hô hoán ầm ĩ lên là "Thằng ăn cắp", (nguyên
nhân nhỏ, bình thường).
Loại thứ hai: những cấu trúc thể hiện như những xung đột trong nội tâm
nhân vật: loại này số lượng không nhiều nhưng rất sâu sắc. Ở đây, nhân vật
hài thường diễn trò với chính mình. Tính bi hài kịch thường diễn ra chủ yếu
trong nội tâm nhân vật. Loại cấu trúc trí tuệ này thường xuất hiện trong những
sáng tác mà cốt truyện không có gì đáng cười nhưng do tác giả tạo được
những tương phản thể hiện như những xung đột trong nội tâm nhân vật diễn
trò, do đó tiếng cười vẫn bật ra. Nhưng đó là tiếng cười chua chát, cười ra
nước mắt. Chẳng hạn trong Tôi cũng không hiểu tại làm sao (I) và Tôi cũng
không hiểu tại làm sao (II), xung đột diễn tả trong nội tâm nhân vật chính thể
hiện ở sự "bất hoà" giữa hai khung quy chiếu: khung quy chiếu thứ nhất là
lòng tự trọng của người có học và khung quy chiếu thứ hai là thái độ hèn nhát
của kẻ mất quyền tự do. Đây là hai trong số không nhiều những tác phẩm viết
về cái nhục của người dân nô lệ. Cuối tác phẩm Tôi cũng không hiểu tại làm
sao (II), nhân vật Nghĩa nói với nhân vật Sinh: "Cái kiếp chúng mình như thế.
Nô lệ thì còn đâu có nhân cách mà giữ. Chúng mình nên đành chịu, chứ biết
làm thế nào?". Ở những sáng tác loại này, tiếng cười tác giả có nội dung trữ
tình cảm động.
Những cấu trúc tác phẩm trào phúng như đã nói ở trên, tự nó đã gây
cười. Nhưng hiệu quả trào phúng tăng lên nhiều lần do Nguyễn Công Hoan
phóng đại những xung đột đó lên theo cách của ông. Nhà văn sử dụng phóng
đại nhằm tăng cường sự đối lập lý tưởng thẩm mỹ của mình với đối tượng
châm biếm để độc giả thấy rõ hơn khoảng cách quá xa giữa lý tưởng tiến bộ
và nhân vật hài hước. Nguyễn Công Hoan tỏ ra rất sở trường về lối gây cười
trực tiếp bằng cách phóng đại những xung đột trào phúng để làm nổi bật tính
hài hước của đối tượng trào phúng. Nhìn chung, tác giả đã sử dụng phóng
đại như một thủ pháp chính để tạo nên những trận cười hả hê thể hiện một
phong cách trào phúng bộc trực, bạo khoẻ, có tác dụng đả kích sâu sắc. về
phương diện này, Nguyễn Công Hoan có nét tương đồng với Vũ Trọng
Phụng. Chẳng hạn, trong Ngựa người và người ngựa, tác giả đã tạo dựng
xung đột bi hài kịch của anh phu xe đồng thời dẫn dắt các tình tiết nhằm
phóng đại xung đột đó lên theo lối tăng cấp. Truyện kể cứ như "bịa" nhưng
đây là "chuyện bịa có thật" bởi mọi chi tiết, tình tiết được tác giả sắp xếp, dẫn
dắt theo một mạch kể hợp lôgic. Tất cả đều tham gia vào việc tăng cấp xung
đột trào phúng để cuối cùng bộc lộ xung đột ấy một cách đột ngột, bất ngờ khi
cô gái giang hồ chuồn mất. Tiếng cười đã bật ra. Nhưng đó là tiếng cười đau
xót cho những kiếp "ngựa người và người ngựa", tiếng cười hoà nước mắt.
Nói chung, nghệ thuật trào phúng chấp nhận rộng rãi thủ pháp phóng
đại. Nhưng phóng đại quá cái độ cần thiết, lập tức tính chân thực của hình
tượng sẽ bị vi phạm và tiếng cười sẽ thiếu cơ sở hiện thực, tính thuyết phục
sẽ bị giảm đi. Nhà trào phúng bậc thầy Nguyễn Công Hoan trong một số
trường hợp đã không tránh khỏi những hạn chế trên. Ấy là khi nhà văn hoặc
mải chạy theo tiếng cười, ít chú ý đến tính tư tưởng, hoặc là không kìm chế
được thiên kiến chủ quan dẫn đến thiếu tỉnh táo và khách quan trong phản
ánh hiện thực. Hạn chế này thể hiện rõ nhất trong những truyện xây dựng
mẫu thuẫn trào phúng trên nguyên tắc xung đột đạo đức (quan hệ luyến ái,
hôn nhân và gia đình), về điểm này, so với Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công
Hoan tỏ ra không có sở trường bằng Vũ Trọng Phụng, trong Số đỏ chẳng
hạn, đã sử dụng phóng đại hết sức thoải mái nhưng hình tượng trào phúng
vẫn đầy sức thuyết phục bởi nhà văn luôn giữ cho hình tượng của mình cái
hạt nhân hiện thực cần thiết.
So với Vũ Trọng Phụng và Nam Cao, chất trí tuệ tiếng cười Nguyễn
Công Hoan có nét khác. Nguyễn Công Hoan thường xây dựng xung đột trào
phúng đơn giản nhằm bộc lộ một tật xấu, một thói hư nào đó của một loại
người nhất định. Mỗi truyện ngắn của ông thường chỉ có một xung đột trào
phúng, đối tượng trào phúng thường được người đọc cảm nhận cùng một lúc
ở hai khung quy chiếu bất khả dung hợp tạo ra tiếng cười đơn. Vũ Trọng
Phụng trong Số đỏ chẳng hạn, lại thường xây dựng những cấu trúc trí tuệ
nhằm bộc lộ những nét đáng cười của nhiều hạng người trong cả một xã hội
vô nghĩa lý. Đọc Số đỏ ta thấy tác giả đã sáng tạo cả một hệ thống xung đột
trào phúng hết sức phức tạp. Đối tượng trào phúng có khi được cảm nhận
cùng một lúc ở hai khung quy chiếu tạo tiếng cười đơn, cũng có khi lại được
cảm nhận cùng một lúc ở nhiều khung quy chiếu tạo tiếng cười kép. Nam Cao
tuy không chuyên về trào phúng nhưng những tác phẩm mang tính chất trào
phúng của ông cũng thường tạo ra những cấu trúc trí tuệ nhằm bộc lộ một nét
xấu nào đó của nhân vật mang tính hài (chủ yếu là loại nhân vật tiểu tư sản trí
thức) và trong một số trường hợp, tuy không nhiểu, nhưng Nam Cao cũng
xây dựng những cấu trúc trí tuệ phức tạp tạo ra tiếng cười kép như Vũ Trọng
Phụng. Cùng xây dựng cấu trúc trí tuệ theo nguyên tắc xung đột giữa nội
dung và hình thức nhưng ở Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng Phụng, sân
khấu trò diễn chủ yếu là bối cảnh xã hội, nhân vật diễn trò thường thông qua
cử chỉ, hành vi và ngôn ngữ (nhân vật diễn trò của Nguyễn Công Hoan
thường chủ động làm trò, nhân vật diễn trò của Vũ Trọng Phụng lại diễn trò
theo sự giật dây của bàn tay định mệnh), còn ở Nam Cao thì sân khấu các trò
diễn là ở nội tâm nhân vật, nhân vật của Nam Cao nhiều khi diễn trò không
hẳn có ý thức, nghĩa là diễn trò ngoài ý muốn chủ quan. Nhân vật có tính trào
phúng của ông thường bị lưỡng hoá. Trong nhân vật, cùng một lúc tồn tại hai
con người: con người triết lý cao siêu đối lập với con người bản năng phàm
tục. Xung đột tư tưởng giữa hai con người trong nhân vật thường diễn ra âm
thầm, lặng lẽ nhưng quyết liệt giằng dai trong đời sống nội tâm.
Ở Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng Phụng xung đột trào phúng thường
được phóng đại nhiều lần, tuy mức độ thành công ở mỗi nhà văn có khác
nhau. Những xung đột ấy thường được đặt trong những tình huống hài kịch.
Nam Cao là một trường hợp khác. Ông hầu như không dùng phóng đại để
tăng cấp xung đột, nói đúng hơn, Nam Cao ít dùng phóng đại và nếu có dùng
thì sự phóng đại thường không thật rõ nét. Bí quyết tiếng cười của nhà văn là
ở chỗ: sau khi phát hiện xung đột trào phúng, tác giả thường đặt hai mặt đối
lập của xung đột ấy cạnh nhau và đưa nó vào một tình huống trào phúng
(thường là tình huống bi hài kịch nội tâm) để xung đột trào phúng tự bộc lộ.
Do không được phóng đại nên xung đột trào phúng thường không thật nổi bật
và khó nhận ra một cách nhanh chóng. Người đọc thường chỉ nhận ra những
xung đột ấy sau khi ngẫm nghĩ, liên tưởng. Từ sự ngẫm nghĩ liên tưởng mà
tiếng cười xuất hiện một cách lặng lẽ, trầm lắng. Khác với Nguyễn Công Hoan
và Vũ Trọng Phụng, Nam Cao không cười to mấy khi, nghĩa là không bật cười
một cách giòn giã, hả hê mà chỉ cười nhếch mép, cười nửa miệng, cười
không thành tiếng. Đó là tiếng cười nuốt vào bên trong cái vị chát mặn của
nước mắt, những giọt nước mắt của sự xấu hổ bởi sự tự ý thức về tình trạng
"sống mòn" của chính mình và giai cấp mình.
2. Óc châm chọc tinh quái của Nguyễn Công Hoan
Tạo xung đột giữa hai "khung quy chiếu", hai "văn cảnh liên tưởng" là
phương diện cơ bản của mọi hình thức hài hước, lời nói dí dỏm, bông đùa và
những trò đùa khác. Ngoài phương diện cơ bản này, còn một phưong diện
khác không kém phần quan trọng: đó là sự "châm ngòi" tạo ra động lực cảm
xúc của hài hước, châm chọc và óc tinh quái, cần thấy rằng, trong hài hước,
"máu" châm chọc có những mức độ rất khác nhau: ở những mức nhẹ là đùa
yêu, đùa vui, đùa chơi, đùa giỡn, đùa nghịch... cao hơn là trêu chòng, châm
chọc..., những mức độ mạnh, gay gắt là công kích, xâm kích, đả kích... óc tinh
quái cũng cố nhiều sắc thái khác nhau: có khi ác ý bộc lộ công khai, sát phạt,
phỉ báng, mạt sát... xúc phạm thô bạo... có những ác ý khiến người ta nghĩ
đến chơi khăm, chơi đểu, chơi xỏ và cũng có khi ác ý chỉ loáng thoáng, nhẹ
nhàng hoà vào những tình cảm tốt đẹp như cảm tình, thân thiện, yêu thích...
không phải trường hợp hài hước nào "máu" châm chọc và óc tinh quái cũng
lộ rõ, dễ nhận thấy. Hài hước thường hướng về một đối tượng bị cười, nhằm
vào những khuyết điểm, nhược điểm của đối tượng đó. Nếu như tác giả hài
hước có tinh thần khoan hoà với con người của đối tượng thì nụ cười hài
hước đậm đà hương vị nhân văn. Tinh thần khoan hoà có thể làm dịu đi óc
châm chọc tinh quái nhưng không phải vì vậy tiếng cười hài hước trở nên tẻ
nhạt. Tẻ nhạt hay đậm đà là ở sự hóm hỉnh, trí tuệ sắc sảo của tác giả hài
hước.
Đọc truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan, ta thấy chất muối hài
hước dường như đã hoà tan trong "món ăn chế biến và nấu giỏi". Tuy nhiên,
nếu tinh ý, vẫn có thể nhận ra cái "máu" châm chọc và óc tinh quái của nhà
trào phúng. Cái "máu” này, cái tính này thể hiện ở tất cả các cấp độ nghệ
thuật song đậm nét và nổi bật nhất là ở hình bóng một Nguyễn Công Hoan cứ
ẩn hiện thấp thoáng trên từng trang viết của nhà văn. Điều này được thể hiện
tập trung ở những lời bình luận trữ tình ngoại đề hết sức độc đáo, ở lối giễu
nhại phong cách ngôn ngữ nhân vật, nhất là ở hình ảnh những nhân vật có vẻ
ngờ nghệch, ngu ngơ của tác giả.
Trước hết ta thấy hình ảnh tác giả hiện lên một cách trực tiếp qua
những lời trữ tình ngoại đề hết sức độc đáo của nhà văn. Truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan được xem như cái cầu nối giữa truyện truyền thống
thuyết lý đạo đức (tiêu biểu là truyện của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học) với
truyện hiện đại (thời kỳ 1930-1945). Trong tác phẩm truyện đạo lý, nhà văn
thường đứng ra thuyết giảng đạo đức một cách trực tiếp. Trung tâm hứng thú
của người viết truyện là cốt truyện chứ không phải là nhân vật, tính cách. Ở
đây, bút pháp ngoại hiện được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật chủ
yếu. Tâm lý, tính cách nhân vật được thể hiện trực tiếp qua hành vi bên ngoài
hay hành động nghệ thuật ngoại hiện của nhân vật. Đây là điểm hạn chế
trong nghệ thuật trần thuật của truyện truyền thống. Hạn chế này còn để lại
dấu vết trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Tuy nhiên, ở Nguyễn Công
Hoan, cùng với sự tồn tại những hạn chế mang tính quá độ của lối trần thuật
truyền thống (thể hiện chủ yếu ở giai đoạn sáng tác đầu) là sự xuất hiện yếu
tố mới mẻ và hấp dẫn tính cách tân của nghệ thuật trần thuật hiện đại (thể
hiện rõ nét ở những sáng tác ở giai đoạn sau) ấy là lời trữ tình ngoại đề hết
sức độc đáo của nhà văn. Trử tình ngoại đề là một yếu tố quan trọng thường
gặp ở những tác phẩm văn xuôi hiện đại. Ở nhà văn nào cũng có trữ tình
ngoại đề nhưng trữ tình ngoại đề một cách hóm hỉnh, tinh quái với những lời
suồng sã, đùa vui thoải mái và mang lại hiệu quả nghệ thuật cao thì có lẽ
Nguyễn Công Hoan là một trong không nhiều nhà văn đã tỏ ra thành công
xuất sắc. Thông thường người ta sử dụng trữ tình ngoại đề trong văn trữ tình
để thuyết minh, biện luận nhằm mở rộng tâm tưởng tác giả (những tác phẩm
văn xuôi trử tình của Nguyễn Tuân, Nhất Linh là những ví dụ tiêu biểu). Là
"chuyên gia" về trào phúng, Nguyễn Công Hoan khác các tác giả cùng thời ở
việc sử dụng trữ tình ngoại đề. Trong truyện ngắn trào phúng của mình, ông
thường xây dựng những tình huống đối lập, những tình huống này tự nó đã
hấp dẫn nhưng sự hấp dẫn như được nhân lên bởi tác giả chen vào những
lời trữ tình ngoại đề hết sức độc đáo. Cái riêng, cái độc đáo, cái không thể
trộn lẫn của lời trữ tình ngoại đề này thường không dài, được đưa vào tác
phẩm một cách điểm xuyết, thích hợp với từng trường hợp cụ thể (có khi ở
đầu truyện, có khi ở giữa truyện, có khi ở cuối truyện). Nó thường ngắn gọn
nhưng hết sức độc đáo, sắc sảo và mang lại hiệu quả trào phúng cao. Mặt
khác trữ tình ngoại đề của Nguyễn Công Hoan không chỉ nhằm dựng tâm tư
tình cảm thuần tuý mà còn thể hiện lý trí, trí tuệ của người viết. Tính lý trí, trí
tuệ này thể hiện ở lời nói suồng sã, vui đùa thoải mái nhưng đầy chất thông
minh, hóm hỉnh, tinh quái của tác giả. Đây là nét độc đáo của phong cách trào
phúng Nguyễn Công Hoan. Chẳng hạn, mở đầu truyện ngắn Đồng hào có
ma, Nguyễn Công Hoan đã lập luận một cách vừa dí dỏm tinh quái, vừa hiểm
hóc phũ phàng về một tên tri huyện như thế này: "Tôi cực lực công kích sách
vệ sinh đã dạy ta ăn uống phải sạch sẽ, nếu ta muốn được khoẻ mạnh, béo
tốt. Thuyết ấy sai. Trăm lần sai! Nghìn lần sai! Vì tôi thấy, ở đời này, bao
nhiêu những anh béo, khoẻ đều là những anh thích ăn bẩn cả". Ta có thể tìm
những ví dụ tương tự trong nhiều tác phẩm khác (Một tấm gương sáng, Cái lò
gạch bí mật, Chính sách thân dân...).
Hình ảnh tác giả cũng có khi hiện lên qua thủ pháp giễu nhại phong
cách ngôn ngữ nhân vật. Giễu nhại lại biến thành trò cười tất cả những gì
được xem là trang nghiêm bằng cách mô phỏng hay hí phỏng một cách hài
hước lời nói, giọng điệu của nhân vật nào đây hoặc phong cách ngôn ngữ
của một tầng lớp xã hội nào đấy thuộc thế giới có vẻ nghiêm trang ấy. Sự mô
phỏng này thường được cường điệu, phóng đại để tô đậm tính chất giả dối và
lố bịch của đối tượng chế giễu, làm bật ra tiếng cười tự nhiên. Thủ pháp này
được sử dụng phổ biến trong văn trào phúng song mỗi nhà văn lại có sở
trường và tài nghệ riêng. Nếu Vũ Trọng Phụng (trong Số đỏ) giễu nhại ở tầm
vĩ mô, nghĩa là giễu nhại cả một xã hội vô nghĩa lý thì Nguyễn Công Hoan chủ
yếu giễu nhại ở tầm vi mô, nghĩa là giễu nhại ở cấp lời nói, nói đúng hơn là
giễu nhại phong cách ngôn ngữ nhân vật. Lối giễu nhại của ông cũng rất
phong phú đa dạng: giễu nhại ngôn ngữ quan lại (Gánh khoai lang), giễu nhại
ngôn ngữ lính tráng (Thật là phúc), giễu nhại ngôn ngữ hành chính (Tinh thần
thể dục), giễu nhại ngôn ngữ trí thức Tây học (Cái ví ấy của ai), giễu nhại
ngôn ngữ văn chương lãng mạn (Thế là mợ nó đi Tây), giễu nhại ngôn ngữ
văn trinh thám (Cái lò gạch bí mật), giễu nhại ngôn ngữ hát tuồng (Đào kép
mới), giễu nhại lối văn cáo phó (Báo hiếu: trả nghĩa mẹ), giễu nhại ngôn ngữ
thầy đồ (Thầy cáu), giễu nhại ngôn ngữ hối lộ (Tinh thần thể dục)...
Hình ảnh tác giả có khi lại hiện lên qua thủ pháp xây dựng nhân vật có
vẻ ngu ngơ, ngờ nghệch của nhà văn. Đọc Nguyễn Công Hoan, thấy sắc thái
tiếng cười của ông có một cái gì tinh quái kiểu Trạng Quỳnh. Điều này thể
hiện rõ nét ở nghệ thuật sáng tạo nhân vật giả vờ ngu ngơ, ngờ nghệch,
nghĩa là tác giả dựng lên một loại nhân vật đóng vai người trong cuộc hay
người chứng kiến. Nhân vật này có vẻ ngờ nghệch để làm người đọc cũng
như bị ngờ nghệch theo. Người đọc có thể nhận ra rằng sau nhân vật có vẻ
ngờ nghệch này một Nguyễn Công Hoan với tất cả sự thông minh, hóm hỉnh,
tinh quái (Oẳn tà rroằn, Cái lò gạch bí mật, Nỗi lòng ai tỏ, Lại chuyện con
mèo). Trong Lại chuyện con mèo chẳng hạn, nhân vật "Tôi" là nhân vật ngờ
nghệch trước lý do không khí căng thẳng trong gia đình ông chủ người Tây có
mèo đẻ. Ai đi nhà thương? Ai cần bông băng? Những câu hỏi có vẻ ngờ
nghệch ấy của nhân vật làm cho người đọc cũng như ngờ nghệch theo mà tự
hỏi như thế. Truyện Nổi lòng ai tỏ, nhân vật ngờ nghệch là bà mẹ. Nhân vật
này ngờ nghệch trước nguyên nhân nỗi buồn của cô con gái yêu. Những
phán đoán ngờ nghệch của bà mẹ về lý do nỗi buồn của người con gái ấy
khiến người đọc cũng như bị ngờ nghệch theo vậy. Nhà nghiên cứu Nguyễn
Đăng Mạnh đã đưa ra một nhận định xác đáng: "... Một trong những thủ pháp
hóm hỉnh nhất của nhà văn (tức Nguyễn Công Hoan - TVH) là dùng những chi
tiết đánh lạc hướng độc giả khỏi cái đích thực sự của câu chuyện. Người đọc
càng bị lạc đi xa bao nhiêu thì khi kết thúc, càng bị bất ngờ bấy nhiêu. Đây là
chỗ mà nhà trào phúng có thể nghĩ ra đủ thứ "cạm bẫy" thú vị. Cũng là thủ
thuật đánh lạc hướng, nhưng ở nhiều trường họp, tác giả lại dùng một loại
nhân vật đóng vai người trong cuộc hay người chứng kiến. Nhân vật này bộ
dạng thường thật thà, ngớ ngẩn, kỳ thực mang tất cả cái hóm hỉnh, ranh
mãnh của nhà văn". Ngoài ra chứng ta còn có thể thấy hình ảnh tác giả hiện
lên qua những thủ pháp gây cười khác của nhà văn: so sánh ví von, chơi
chữ, xáo trộn các phong cách ngôn ngữ.
Nếu nói Nguyễn Công Hoan là một tác giả xuất sắc của truyện ngắn
hiện đại thì cũng có nghĩa nói ông là "cây” truyện ngắn trào phúng xuất sắc
nhất bởi phần đóng góp quan trọng và nổi bật của ông cho văn học hiện đại
Việt Nam chính là truyện ngắn trào phúng. Nguyễn Công Hoan là một trong
số không nhiều nhà văn hiện đại đã kế thừa và phát huy truyền thống trào
phúng của văn học dân tộc. Tác phẩm của ông được xem như một mảng mầu
không thể thay thế trên bức tranh trào phúng toàn cảnh vốn hết sức phong
phú và đa dạng của những thời kỳ 1930-1945. Đặc sắc truyện trào phúng
Nguyễn Công Hoan được thể hiện trên nhiều phương diện và ở nhiều cấp độ
song nghệ thuật tạo dựng chất trí tuệ và óc châm chọc tinh quái có thể được
xem như một đóng góp riêng, độc đáo và quan trọng của nhà trào phúng
Nguyễn Công Hoan.
Hà Nội, tháng 11 năm 1998 (Tạp chí Văn học số 2-1999)
NGUYỄN CÔNG HOAN (1903-1977)NGUYỄN HOÀNH KHUNG
Nguyễn Công Hoan là nhà văn thuộc lớp kỳ cựu, sáng tác từ hồi văn
xuôi "quốc ngữ" còn chập chững. Sau hơn năm mươi năm cầm bút, ông đã
để lại sự nghiệp văn học có thể nói là đồ sộ. Ông là một trong những tên tuổi
tiêu biểu của trào lưu văn học hiện thực phê phán Việt Nam đương thời.
Nguyễn Công Hoan là cây bút được nhiều người chú ý từ sớm. Tên tuổi của
ông nhanh chóng trở nên quen thuộc với đông đảo bạn đọc trong nước.
Nhiều tác phẩm của ông thuộc vào những tác phẩm "cổ điển" trong nền văn
xuôi trước Cách mạng, được in lại nhiều lần và được dịch ra nhiều thứ tiếng
nước ngoài. Tuy vậy, trong sự nghiệp văn học có thể nói là đồ sộ của Nguyễn
Công Hoan chứa đựng nhiều mâu thuẫn và chất lượng không đồng đều một
cách rõ rệt. Và việc khẳng định những đóng góp to lớn và độc đáo của nhà
văn đối với văn học dân tộc, đồng thời, lý giải những mâu thuẫn trong tư
tưởng và sáng tác của ông, dù đã được giới nghiên cứu văn học chú ý vẫn
còn cần được tiếp tục làm sáng tỏ.
I. VÀI NÉT VỀ TIỂU SỬ VÀ Ý THỨC SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN
1. Nguyễn Công Hoan sinh ngày 6 tháng 3 năm 1903 tại làng Xuân
Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc tỉnh Hưng Yên), trong một
gia đình quan lại phong kiến xuất thân khoa bảng bắt đầu sa sút. Ông thân
sinh là Nguyễn Đạo Khang, đỗ tú tài, làm Huấn đạo. Vì nhà nghèo đông con
nên ông Huấn đạo phải gửi Nguyễn Công Hoan ở nhà anh ruột là ông Phó
bảng Nguyễn Đạo Quán làm tri huyện. Sinh ra và lớn lên ở nhà quan, Nguyễn
Công Hoan từ nhỏ đã nghe và đã thấy đủ chuyện của quan trường.
Tốt nghiệp trường Sư phạm, năm 1926, Nguyễn Công Hoan đi dạy học
và vừa dạy học, vừa viết văn, cho tới Cách mạng tháng Tám 1945. Nhà giáo
tiểu học đó không được cấp trên ưa vì không thuộc loại trung thành, dễ bảo,
nên thường bị "đổi" đi nhiều nơi, chẳng ở nơi nào được lâu. Ông đã ngồi "gõ
đầu trẻ" ở thị xã Hải Dương, huyện Nam Sách, huyện Kinh Môn; thị xã Lào
cai, thành phố Nam Định, đảo Trà Cổ... Song, nỗi long đong của nghề giáo lại
là điều may mắn trong nghề văn nhà văn Nguyễn Công Hoan có điều kiện "đi
thực tế" nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người, quan sát nhiều cảnh đời...
Từ nhỏ, cậu bé Nguyễn Công Hoan đã nghe trong nhà nói đến ông Đề
Thám, cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh, "ông" Đông Kinh nghĩa thục và
rất cảm phục họ. Sau ông được đọc các báo Việt Nam hồn, Le Paria (Người
cùng khổ) gửi bí mật từ Pháp về, đọc những sách viết về Tôn Dật Tiên, Phan
Bội Châu, Lê Nin, sách của Nam đồng thư xã, Cường học thứ xã. Gia đình
(các em ruột, các con trai), họ hàng, bè bạn của ông có nhiều người thoát ly
làm cách mạng và bị tù đày. Năm 1928, Nguyễn Công Hoan gia nhập Việt
Nam Quốc dân đảng song chưa hoạt động được mấy thì gặp khủng bố. Thời
kỳ Mặt trận Dân chủ, Nguyễn Công Hoan có tiếp xúc với một số chiến sĩ cộng
sản ở Nam Định như Lê Đức Thọ, Lê Văn Phúc... được nghe giảng về "thặng
dư giá trị", "đấu tranh giai cấp". Thời kỳ này, nhà văn chịu ảnh hưởng của
Đảng Cộng sản rõ rệt. Sở mật thám thực dân cho ông là "một tay cộng sản
nguy hiểm và chuyển ông từ thị xã Nam Định - nơi tập trung nhiều thợ thuyền
- ra hòn đảo Trà cổ hẻo lánh. Nhà văn đã tranh thủ viết hối hả tiểu thuyết
Bước đường cùng để "trang trải món nợ lòng với anh em cộng sản ở Nam
Định" trước khi đi. Bước đường cùng (1938) là kết quả tích cực của ảnh
hưởng đó. Chính quyền thực dân đã ra lệnh cấm lưu hành Bước đường
cùng, và trong thời kỳ Đại chiến lần thứ hai, lại mật lệnh cho Sở kiểm duyệt
không in bất cứ những gì ông viết. Chúng theo dõi ông, thường khám nhà và
có lần truy tố ông trước toà. Năm 1945, ông còn bị Nhật bắt vì hoạt động
chính trị và vì gia đình có người làm cách mạng.
Nguyễn Công Hoan đã hết sức hào hứng đón Cách mạng tháng Tám.
Ông được giao làm Phó giám đốc Sở tuyên truyền Bắc Bộ. Khi kháng chiến
toàn quốc bùng nổ, ông gia nhập quân đội, làm báo Vệ quốc quân rồi Giám
đốc trường Văn học quân nhân trung cấp, chủ nhiệm tờ Quân nhân học báo,
được kết nạp vào Đảng Cộng sản (1948). Từ ngày hoà bình (1954) ông trở lại
sáng tác một cách tập trung và khi Hội Nhà văn thành lập (1957), ông được
bầu làm Chủ tịch Hội khoá chấp hành đầu tiên và uỷ viên thường vụ Hội các
khoá tiếp theo.
2. Sinh trưởng trong một gia đình quan lại khoa bảng, Nguyễn Công
Hoan chịu ảnh hưởng khá nặng của hệ tư tưởng phong kiến từ rất sớm.
Trong thời buổi Tây, Tầu nhố nhăng ấy, đám quan lại xuất thân khoa bảng bị
thất thế nên họ bất mãn với thực dân với thời cuộc. Sự đắc chí của bọn quan
lại hãnh tiến, vốn từ cai đội, bồi bếp, thông ngôn... nhờ nịnh Tây và có thành
tích chống phá cách mạng mà ngoi lên, là sự xúc phạm đối với họ. Song vì
bất lực, họ chỉ biết phản ứng một cách tiêu cực bằng cách cố giữ nền nếp
Nho phong cùng đạo đức phong kiến lỗi thời, tự an ủi bằng thứ ưu thế quý tộc
tinh thần, khinh bỉ bọn quan lại mới, bọn tư sản thành thị "Âu hoá" và cả cái
trật tự thuộc địa mới. Ở họ vẫn có nhiều tinh thần dân tộc, và trong hệ thống
tư tưởng, tình cảm nhà Nho thanh bạch của họ vẫn có những yếu tố lành
mạnh tích cực của văn hoá truyền thống, mang tính nhân dân, tuy sự bất mãn
của họ có phần là do địa vị quyền lợi giai cấp bị đụng chạm.
Đứng trên lập trường của lớp quan lại lỗi thời, lép vế, Nguyễn Công
Hoan có khi đả kích không thương tiếc bọn quan lại hãnh tiến hắt chấp lễ
nghĩa liêm sỉ, bọn tư sản chạy theo lối sống "Âu hoá" nhố nhăng đồi bại cũng
bao nhiêu chuyện vô đạo vô luân trong xã hội thực dân thối nát đương thời,
tất cả đều như lăng nhục đối với những giá trị đạo đức cổ truyền. Khi phủ
định, lập trường đạo đức đó của nhà văn nói chung phù hợp với lập trường
đạo đức của nhân dân, ngoài trừ trong vấn đề phụ nữ và hôn nhân gia đình,
ông tỏ ra khá bảo thủ. Nhưng khi khẳng định, lập trường đạo đức bảo thủ đã
khiến ông đi chệch khỏi con đường của chủ nghĩa hiện thực, rơi vào phương
pháp chủ quan với khuynh hướng giáo huấn. Nếu trong truyện ngắn, ngòi bút
trào phúng Nguyễn Công Hoan đã dựng nên cả hệ thống nhân vật phản diện
rất sinh động, rất chân thực thì trong truyện dài, ông đưa ra một loạt những
mẫu người lý tưởng không mấy chân thực: những trí thức tiểu tư sản nghèo
xuất thân Nho gia, nhất là những phụ nữ theo khuôn mẫu nền nếp phong
kiến. Tư tưởng phong kiến bảo thủ của Nguyễn Công Hoan biểu lộ tập trung,
đầy đủ nhất trong tiểu thuyết Thanh đạm (1943), trong đó, nhà văn hầu như
thần thánh hoá một nhân vật quan lại với tất cả đạo lý, lễ giáo, phong tục
phong kiến lỗi thời ngày xưa.
Song qua toàn bộ sáng tác của Nguyễn Công Hoan trước Cách mạng,
có thể thấy rõ quan điểm đạo đức phong kiến mặc dù sâu sắc cũng không
phải là quan điểm nhìn nhận hiện thực duy nhất và chủ yếu nhất của nhà văn.
Có thể nói chủ đề bao trùm trong truyện ngắn, truyện dài của Nguyễn Công
Hoan không phải là chủ đề đạo đức phong kiến là là Sự mâu thuẫn giàu -
nghèo trong xã hội. Mâu thuẫn giàu - nghèo trong xã hội là nỗi ám ảnh
thường trực, trở thành ý thức nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan, chi phối cả
cách dựng truyện, cách kết cấu, xây dựng nhân vật trong phần lớn tác phẩm
của ông. Quan điểm giàu - nghèo của Nguyễn Công Hoan tuy còn trừu tượng,
chưa phải là quan điểm giai cấp thật chính xác, song điều đáng chú ý là nhà
văn tỏ ra khá nhạy cảm trước mối mâu thuẫn xã hội đó và ông luôn đứng về
phía người nghèo bị ức hiếp bóc lột để lên án bọn giàu có quyền thế mà bất
nhân bất nghĩa... Đó là quan điểm xã hội căn bản của Nguyễn Công Hoan, là
cảm quan hiện thực khoẻ khoắn, tiến bộ của nhà văn, khiến ông sớm đi ngay
vào con đường chủ nghĩa hiện thực. Mặc dù nhiều khi chao đảo, phức tạp,
nhìn chung, chủ nghĩa hiện thực phê phán vẫn là phương pháp sáng tác chủ
yếu trong phần nhiều tác phẩm của ông.
Quan điểm đạo đức phong kiến và nhất là quan điểm giàu - nghèo là
hai quan điểm nhìn nhận hiện thực chủ yếu ở Nguyễn Công Hoan. Hai quan
điểm này vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn và có sự diễn biến do tác động của
hoàn cảnh xã hội - lịch sử. Chính việc tìm hiểu sự vận động của mối quan hệ
biện chứng giữa hai quan điểm nhìn nhận hiện thực đó là đi vào cái đầu mối,
cái lôgic của sự nghiệp sáng tác phong phú nhưng chứa nhiều mâu thuẫn và
có quá trình diễn tiến không hoàn toàn xuôi chiều của nhà văn.
Trên nét lớn, có thể thấy rằng khi chịu ảnh hưởng mạnh của cách
mạng, nhà văn thường đứng trên lập trường xã hội tiến bộ, màu sắc quan
điểm giàu - nghèo, còn khi ảnh hưởng của cách mạng bị giảm sút do hoàn
cảnh lịch sử không thuận lợi, nhà văn dường như từ bỏ quan điểm giàu -
nghèo và chỉ đứng trên lập trường đạo đức phong kiến bảo thủ để sáng tác.
Đó là nói trên nét lớn, chứ trong thực tiễn sáng tác của Nguyễn Công Hoan,
sự tranh chấp, xen kẽ của hai quan điểm còn phức tạp hơn nhiều.
Là một trí thức "Tây học" thuộc thế hệ 1930, song do ảnh hưởng sâu
sắc của truyền thống và môi trường văn hoá lúc thiếu thời, do tuổi đời, có thể
nói Nguyễn Công Hoan là con đẻ của hai nền văn hoá lúc giao thời: "cựu học"
và "tân học". Sáng tác của ông là bằng chứng về tính chất quá độ của hai thời
đại. Ông bước vào làng văn khi mà nền văn học truyền thống đang chuyển
mình sang phạm trù hiện đại; ngòi bút dồi dào của ông đã đóng góp tích cực
vào quá trình hiện đại hoá khẩn trương của văn xuôi khi đó, đồng thời, cũng
biểu lộ những dấu vết của một thời kỳ chuyển biến chưa xong, còn bị chi phối
ít nhiều bởi cái cũ.
Khuynh hướng giáo huấn, quan điểm "nghệ thuật vị nghệ thuật" tư sản,
quan điểm vị nhân sinh, quan điểm hiện thực tiến bộ cùng đồng thời tồn tại
trong ý thức sáng tác của Nguyễn Công Hoan, xen kẽ nhau và tranh chấp
nhau. Tuỳ theo sự phát triển diễn biến của điều kiện xã hội - lịch sử và hoàn
cảnh riêng của nhà văn, quan điểm sáng tác của ông cũng có biến đổi qua
các thời kỳ.
Quan điểm văn học, phương pháp sáng tác, tư duy nghệ thuật ở
Nguyễn Công Hoan đều không thật nhất quán và đều mang dấu vết rõ rệt của
thời kỳ quá độ. Không thấy rõ điều đó thì khó lý giải thoả đáng những mâu
thuẫn trong sáng tác và chỗ mạnh, chỗ yếu trong bút pháp nghệ thuật của
nhà văn.
II - TRUYỆN NGẮN
Nguyễn Công Hoan sáng tác hầu như song song cả truyện ngắn và
truyện dài, song có thể nói, chính ở truyện ngắn, vị trí vẻ vang trong văn học
sử của ông mới thật sự được khẳng định. Ông viết rất nhiều - có tới trên hai
trăm truyện ngắn - một con số kỷ lục trong văn học Việt Nam. Không phải mọi
truyện đều có giá trị, song số truyện có giá trị là phần nhiều, trong đó có
không ít truyện thật xuất sắc.
1. Vài nét về quá trình sáng tác truyện ngắn
Sự nghiệp của nhà truyện ngắn Nguyễn Công Hoan thật sự bắt đầu là
từ 1929, khi ông ra mắt khá thường xuyên trên mục Xã hội ba đào ký của An
Nam tạp chí do Tản Đà chủ trương. Sau đó, ông viết đều trên báo Nhật Tân
rồi Tiểu thuyết thứ bảy và Phổ thông bán nguyệt san của nhà Tân Dân. Trước
Cách mạng, một số lớn truyện ngắn của ông đã được tập hợp xuất bản thành
tập: Hai thằng khốn nạn (1934), Kép Tư Bền (1935), Đào kép mới (1938),
Sóng vũ môn (1939), Người vợ lẽ bạn tôi (1939), Ông chủ báo (1940).
Cũng như với truyện dài, quá trình sáng tác của truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan trước Cách mạng có thể chia làm ba thời kỳ, khá phù hợp với ba
thời kỳ vận động phát triển của toàn bộ văn học dân tộc của tình hình xã hội:
thời kỳ 1929-1935, thời kỳ 1935-1939, thời kỳ 1940-1945.
Thời kỳ 1929-1935
Trong khi Tự lực văn đoàn với "tiếng cười Phong hoá" và những truyện
ngắn, truyện dài lãng mạn đang lôi cuốn công chúng tiểu tư sản mạnh mẽ, thì
ngay từ khi ra mắt trong mục Xã hội ba đào ký trên An Nam tạp chí - là mục
chuyên viết những "cảnh xuống” như lời "đặt hàng" của Tản Đà - Nguyễn
Công Hoan tự vạch con đường riêng: nhìn thẳng vào hiện thực, bằng tiếng
cười trào phúng, phơi ra mặt trái của xã hội đầy bất công thối nát, kẻ giàu
sống phè phởn, vô đạo, còn người nghèo thì bị ức hiếp và đói khổ cùng cực.
Tập Kép Tư Bền, xuất bản 1935, gồm 15 truyện ngắn sáng tác trong khoảng
1929-1935, đã gây tiếng vang lớn, được Hải Triều biểu dương nhiệt liệt, coi
đó là "cái tác phẩm thuộc về trào lưu tả thực xã hội của nước ta".
Với Kép Tư Bền, Nguyễn Công Hoan vừa là một trong những người
mở màn, vừa là người cắm ngọn cờ chiến thắng cho khuynh hướng văn học
hiện thực - được gọi bằng "tả chân", "xã hội", "tả thực" - trên khu vực văn học
hợp pháp đương thời.
Trong khi "tiếng cười Phong hoá" của nhóm Tự lực văn đoàn là nhằm
vào cái hủ lậu, "nhà quê", thể hiện mối mâu thuẫn mới - cũ, “văn minh" và cổ
hủ, thì tiếng cười trào phúng của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan lại làm nổi
bật lên sự bất công có tính chất giai cấp của xã hội, "sự xung đột giữa kẻ giàu
- nghèo", "sự đụng chạm của cái giàu và cái nghèo trên đường đời", như lời
Vũ Ngọc Phan (Nhà văn hiện đại, quyển tư, tập hạ).
Trong Răng con chó của nhà tư bản, sự đụng độ giàu - nghèo thể hiện
thật rõ rệt. Ông chủ hãng ôtô đã phóng xe đuổi theo người ăn mày vì người
này đã dám đánh gãy răng con chó Tây của ông khi nó chồm vào cắn anh ta.
"A mày tát gãy răng chó ông, ông chỉ kẹp cho mày chết tươi, rồi ông đền
mạng. Bất quá ba chục bạc là cùng!" - câu nói của nhà tư bản bộc lộ đầy đủ
bản chất giai cấp lang sói của ông ta và cho thấy cái giá trị thảm hại của
người nghèo trong xã hội đồng tiền lạnh lùng đó.
Người nghèo trong cái xã hội ấy không những khổ vì đói rách mà còn
khổ vì bị xúc phạm về nhân phẩm và bị chà đạp phũ phàng. Dư luận thành
kiến bất công trút lên kẻ nghèo đói đủ mọi thứ tội lỗi xấu xa, trong khi họ chỉ
có "tội"... nghèo đói! Vì đói quá mà những "thằng ăn cắp" phải ăn quỵt hai xu
bún riêu, vài củ khoai luộc, một chiếc bánh... để rồi bị gán cho những tội tầy
đình và bị đánh đập" rất dã man; tất cả đều coi chúng như những kẻ hết sức
nguy hiểm (Thằng ăn cắp, Bữa no đòn, Thế cho nó chừa)! Trong khi đó,
những kẻ giàu sang, ông Huyện, ông Đốc, kỹ sư, cử nhân, bà Tham, bà Cử,
rất lịch sự, văn minh, nhưng lại... ăn cắp ví tiền của nhau (Cái ví ấy của ai)!
Nhà văn chua chát so sánh hai hạng ăn cắp: một hạng vì đói khát phải "ăn
cắp dấm dúi để nuôi thân", một hạng giàu có sang trong lại “ăn cắp đường
hoàng”.
Khinh ghét hạng giàu mà bất nhân, vô đạo, ngòi bút trào phúng của
Nguyễn Công Hoan đặc biệt sắc sảo trong việc vạch trần bộ mặt tàn ác và
nhem nhuốc của chúng, từ những quan phụ mẫu, những cụ Chánh, ông Lý ở
nông thôn đến các ông chủ, bà chủ ở thành phố.
Thật là phúc là câu chuyện rất tiêu biểu về thói nhũng nhiễu, hống hách
của đám nha lại, lính tráng, dựa thế quan làm mọi trò ngang ngược; đồng
thời, cho thấy sự thối nát của bộ máy pháp luật khi ấy qua cách xử của một
ông quan về vụ án "lấy thịt đè người" của tên lính cơ "ván cách". Ngài mải ván
tổ tôm nên chẳng buồn để ý nghe những lời kể lể của kẻ bị ức hiếp khốn khổ.
Và cuối cùng: "Khi câu chuyện bẩm xong thì vừa hết ván bài. Quan ngẩng
đầu lên nhìn anh Tam rồi cho gọi chị Tam vào. Quan ngắm một lúc, hai con
mắt sáng quắc như hai ngọn đèn trời, khiến cho hai vợ chồng nhà hàng bánh
giò phải thất đảm (...). Một lúc, ngài sang sảng tiếng truyền xuống, như ông
Long thần ban hạnh phúc cho chúng sinh mà dạy rằng: "Đáng lẽ đương đêm
chúng bay đánh nhau, thì không biết nếp tẻ ra sao, ông hãy bỏ tù hăm bốn
giờ cái đã! Nhưng ông tha cho về mà làm ăn lương thiện, không được lôi thôi
nữa. Vả lại vợ mày mặt mũi thế kia chắc hẳn cũng có thế nào với nó thì nó
mới thế chứ! Thôi ông cho về! Ông đang bận". Thật tồi tệ hết chỗ nói! Lính
tráng thì đểu cáng, trắng trợn, quan phụ mẫu thì vô trách nhiệm tới quái gở,
không thèm đếm xỉa đến công lý và luật pháp. Người dân lương thiện bị ức
hiếp liệu còn biết kêu vào đâu!
Cái nạn ôtô, Đàn bà là giống yếu... tiếp tục đả kích cay độc giới quan
lại. Không những hống hách bóp nặn của dân đen, các quan còn thẳng tay
bóp nặn cả của đám thuộc hạ một cách trắng trợn. Và các quan lớn bề ngoài
oai nghiêm nhưng lắm khi rắt mực thảm hại trước các bà lớn trong tư thất...
Cụ Chánh bá mất giày vừa đả kích cay độc bọn cường hào địa chủ vẫn
tác oai tác quái ở nông thôn, vừa vạch trần thói ăn cắp đê tiện của "hạng
giàu”. Đằng sau bộ mặt tôn nghiêm đáng sợ "khét tiếng trong hàng tổng", "hét
ra lửa" của "cụ Chánh Bá" là tâm địa ti tiện một tên ăn cắp... chính tông! Cụ
dàn dựng màn kịch mất giày để kiếm giày mới rất xuất sắc: ăn cắp mà cứ...
oai nghiêm như không!
Những "ông chủ”, "bà chủ" tư sản và cả xã hội đồng tiền cũng bị
Nguyễn Công Hoan đả kích thẳng tay trong hàng loạt truyện. Bọn chúng giàu
có, sang trọng mà bất hiếu bất nghĩa, giả đạo đức tới kinh tởm (Báo hiếu: trả
nghĩa cha; Báo hiếu: trả nghĩa mẹ). Khi cần thì chúng ngọt ngào tử tế, khi
không cần thì giở mặt đểu cáng (Thằng điên). Và còn bao nhiêu chuyện chua
chát về thế thái nhân tình trong cái xã hội phong hoá suy đồi ấy (Mất cái ví,
Bà chủ mất trộm, Thế là mợ nó đi Tây).
Ngòi bút trào phúng của Nguyễn Công Hoan tỏ ra thật sắc sảo khi miêu
tả đám "gái mới" lãng mạn con nhà giàu nhõng nhẽo, đua đòi ăn diện và yêu
đương tự do. Trước làn sóng "Âu hoá", "vui vẻ trẻ trung" lan tràn ở thành thị
khi đó, Nguyễn Công Hoan dứt khoát lên án. Về căn bản, sự lên án đó là lành
mạnh, tiến bộ. Vừa từ lập trường đạo đức, vừa từ quan điểm xã hội giàu -
nghèo, ông không khoan nhượng với lối sống xa hoa, đú đởn, tự do cá nhân
quá trớn của xã hội tư sản "Âu hoá", đang là sự phỉ báng đối với nền nếp đạo
lý truyền thống cũng như với tình cảnh lầm than của đám dân nghèo khổ. Cô
Kếu gái tân thời, Chồng cô Kếu gái tân thời châm biếm thói đua đòi ăn diện
đang là cơn sốt trong thanh niên nhà giàu thành thị khi đó. Nỗi lòng ai tỏ là
chuyện một tiểu thư suốt ngày chỉ ngắm vuốt trước gương và nằm ườn
nghiền tiểu thuyết tình rẻ tiền. Cái "nỗi lòng" sâu kín khiến cô đau đớn thổn
thức mà cô chỉ có thể thổ lộ với bạn thân, nó là thế này: "Gớm, mình đọc đến
chỗ tả Vân chết, mình buồn - buồn - buồn là..."!
Cái lò gạch bí mật đã châm biếm những "nhà viết truyện trinh thám An
Nam" khá cay độc. Cái hóm hỉnh sắc sảo kết hợp với cái hài hước lành mạnh
giàu lương tri và có phần mặn mà của tiếu lâm khiến nhà văn đả kích khá
trúng thứ văn chương "hiện đại" lai căng toàn những sự ly kỳ rẻ tiền đó.
Với Nguyễn Công Hoan, văn chương lãng mạn thời thượng khi đó là
những tiểu thuyết Mịt mù của văn sĩ Lê Văn Tầm bút danh Lãng Mạn tử, bất
tài nhưng thèm nổi tiếng. Những "gái mới" lãng mạn nói năng văn hoa kiểu
cách được Nguyễn Công Hoan đặt vào miệng những phụ nữ hư hỏng rẻ tiền
trong Oẳn tà rooằn, Một công trình vĩ đại, những truyện đả kích rất ác đám
"gái mới" phóng đãng, truỵ lạc đương thời.
Thời kỳ này, Nguyễn Công Hoan có một số truyện ngắn cảm động thể
hiện tình cảnh khổ cực của người nghèo, hầu hết là dân nghèo thành thị,
thuộc đám "dưới đáy": phu xe, thằng quýt, con sen, ăn mày, lưu manh, gái
điếm... (Thằng ăn cắp, Vợ, Được chuyến khách, Thanh! Dạ!, Ngậm cười...).
Đáng chú ý có mấy truyện gây ấn tượng mạnh trong thời kỳ này là Kép Tư
Bền, Ngựa người người ngựa, hai truyện đều có cái cười mang dư vị chua
chát thấm thía, đi vào những tình huống oái oăm dở cười dở khóc và làm toát
lên nỗi cay cực khốn khổ của người nghèo trong xã hội đồng tiền. Tư Bền là
một kép hát nghèo đã ký hợp đồng biểu diễn cho một ông chủ gánh hát. Mặc
dù bố ốm nặng sắp chết, lòng dạ đau đớn, anh vẫn phải ra sức pha trò bông
lơn trên sân khấu để cho đám khán giả có tiền kia được cười thoả thích, hả
hê... Vì phải kiếm tiền mà kẻ nghèo không được tự do trong cả việc khóc
cười; trong lúc muốn khóc lại phải cười, chỉ vì cái cười của anh đã được trả
tiền rồi (Kép Tư Bền)! Ngựa người, người ngựa lại là một câu chuyện trớ trêu
khác. Đây là sự đụng độ oái oăm bất đắc dĩ trong đêm giao thừa giữa một
anh phu xe ế khách với một gái giang hồ cũng đang đi kiếm khách. Vì không
có khách, không trả được tiền xe nên cô gái điếm đã lừa quỵt anh xe, bỏ mặc
anh một mình trong đêm giao thừa sau khi chạy suốt mấy tiếng đồng hồ
không công. Cái kết thúc thật buồn: anh phu xe bàng hoàng khi biết mình bị
lừa, bao nhiêu hy vọng đặt vào chuyến khách đêm tất niên thế là tan thành
mây khói, lòng chết cay chết đắng, anh lủi thủi dắt xe đi giữa lúc tiếng pháo
chào năm mới nổ ran khắp nơi!... Ở mấy truyện này, đằng sau tiếng cười trào
phúng là niềm thương cảm chân thành của nhà văn đối với số phận kẻ
nghèo.
Như vậy, khuynh hướng hiện thực, ý thức phê phán xã hội đã được
khẳng định rõ rệt trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan thời kỳ này.
...
Bên cạnh tiếng cười trào phúng có ý nghĩa xã hội rõ rệt thì trong một số
truyện ngắn thời kỳ này của Nguyễn Công Hoan còn có tiếng cười khôi hài
mà nội dung phù phiếm, không có mấy ý nghĩa (Samandji, Quan tham nữa
giờ, Kìa con!, Nhân tình tôi...). Chủ nghĩa hiện thực tuy được khẳng định rõ
rệt ở sáng tác Nguyễn Công Hoan thời kỳ này, nhưng ngòi bút nhà văn vẫn
có lúc chông chênh, dao động, chưa thật vững vàng trên lập trường hiện
thực. Đây cũng là tình trạng chung của các cây bút "tả chân" thời kỳ này
(Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang...).
Thời kỳ 1936-1939
Bước sang thời kỳ cao trào Mặt trận Dân chủ, được tiếp xúc với các
chiến sĩ cộng sản và sách báo cách mạng, lại được không khí đấu tranh sôi
nổi cổ vũ, ngòi bút Nguyễn Công Hoan xông xáo tung hoành, đứng vững hơn
trên lập trường hiện thực để đánh mạnh, đánh trúng hơn trước. Tiếng cười
trào phúng của ông càng sảng khoái, hả hê, nhưng lại có ý nghĩa xã hội
nghiêm túc, sâu sắc hơn rõ rệt. Đối tượng đả kích chủ yếu vẫn là bọn quan
lại, địa chủ cường hào, tư sản... song nhà văn nhìn rõ hơn, sâu sắc hơn vào
bản chất giai cấp của chúng.
Với bọn quan lại, bên cạnh những truyện ngắn tiếp tục đả kích cay độc
thói dâm ô bỉ ổi (bộ ba truyện ngắn Vẫn còn trịnh thượng, Chiếc đèn pin, Nạn
râu kể lại những chuyện bê bối của một ông quan huyện "dê già", mấy lần bị
bắt quả tang mà vẫn chứng nào tật ấy một cách trơ tráo đến quái gở), một
loạt truyện khác tập trung vạch trần thói ăn tiền hết sức tệ hại của chúng. Thịt
người chết đúng là một chuyện "ăn bẩn" ghê tởm: một ông huyện tư pháp cố
tình dây dưa doạ dẫm không cho chôn ngay một cái xác chết đã trương thối
để kiếm chác. Ông thản nhiên mặc cả món tiền đút bên xác chết. Truyện kết
thúc bằng chi tiết mỉa mai cay độc: "Và một giờ sau, lũ muỗi, lũ nhặng, lũ cá,
lũ quạ, tiếc ngẩn ngơ. Chúng có biết đâu rằng quan huyện tư pháp đã tranh
mất món mồi ngon của chúng"! Trước miếng mồi béo bở là món "thịt người
chết", ngài quan huyện cũng chỉ là một thứ ruồi, nhặng, cá, quạ, không hơn
không kém! Những truyện như Thằng ăn cướp, Cái nạn ôtô, Ngượng mồm,
Gánh khoai lang, Chính sách thân dân... mỗi truyện là một thủ đoạn ăn tiền
bẩn thỉu khác nhau của bọn quan lại.
Trong Thằng ăn cướp, nhà văn nói thẳng vào mặt bọn quan lại rằng
chính chúng mới là ăn cướp, ăn cướp ghê gớm hơn cả kẻ cướp! Kẻ ăn cướp
bất hợp pháp phải xin thua kẻ ăn cướp hợp pháp! Ăn cướp một cách trắng
trợn, vô liêm sỉ cao độ, không hề biết "ngượng mồm" khi vòi của đút - đó là
đặc tính của quan lại.
Truyện Sáu mạng người kể về tội ác đẫm máu của một tên quan. Đây
là hiện tượng có thật, và vì vậy, truyện có ý nghĩa như một hành động tố cáo
dũng cảm của nhà văn trước dư luận một vụ giết người của tên quan sát
nhân.
Đòn đả kích nhằm vào giới "ông chủ" của truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan thời kỳ này cũng mạnh mẽ, sắc sảo hơn trước. Sự đối lập giàu - nghèo
càng được phơi bày thật chướng mắt (Quyền chủ, Phành phạch, Hai cái
bụng, Lại chuyện con mèo...). Với bọn "ông chủ", đồng tiền đã giết chết
những tình cảm tự nhiên giữa người và người. Một tin buồn là chuyện một
ông chủ hiệu xe đòn đám ma, do cái nghề đặc biệt của mình - đúng hơn là do
đạo lý đồng tiền của tầng lớp ông ta - mà có những cái vui - cái buồn khác
thường: nghe tin có người sắp chết thì hí hửng mở cờ trong bụng, còn nghe
tin người ấy sắp khỏi không chết nữa thì buồn bực, cáu bẳn! Truyện Tấm giấy
một trăm đã nói đến bóc lột giá trị thặng dư của tư bản! Một bà chủ xưởng dệt
đánh mất tấm giấy một trăm, tuy "bà có thể một buổi vặn chậm đồng hồ ở
xưởng lại năm phút, là đủ thu lại xấp xỉ món tiền bị thiệt", "hàng ngày chồng
bà có thể thu hơn ngần ấy lại" ở xưởng dệt đó, nhưng bà nhất định không
chịu thiệt; bị mất của bà cứ đổ riệt tội ăn cắp cho người nghèo. Các ông chủ,
bà chủ giàu có luôn gán tâm lý vụ lợi, hám tiền của họ cho người nghèo, với
các lôgic tư sản: "Trăm thằng nhà nghèo, thằng nào không có tính ăn cắp?
(...) Thấy đồng tiền, đến thánh cũng híp mắt, nói chi người phàm tục như bọn
mình, nói chi bọn nghèo khổ?". Và đây là giọng lưỡi kẻ đại diện pháp luật:
"Trăm thằng thằng nào cũng có một lối nói. Bà ấy có quyền lơ đễnh. Nhưng
hễ mày lấy thì mày phải tù". Rõ ràng pháp luật, cảnh sát chỉ là công cụ của
bọn giàu mà không đếm xỉa đến người nghèo.
Ngòi bút Nguyễn Công Hoan khi viết về người nghèo thời kỳ này cũng
sâu sắc, thấm thía hơn trước. Họ không chỉ là phu xe, gái điếm, ăn mày, ăn
cắp... mà còn có nông dân, công nhân, và cách nhìn của nhà văn đối với họ
cũng tri âm, trân trọng hơn.
Chiếc quan tài (I) là bức tranh thương tâm về số phận thê thảm của
người nông dân lao động. Truyện không có chuyện này lại nói được những gì
thật xúc động. Cái xác chết người nghèo đã chôn rồi còn bị bật lên để trôi nổi
dập dềnh trên cánh đồng quê lụt lội mênh mông kia, chẳng là biểu tượng xót
xa kiếp sống khốn khổ, chết còn bị đày đoạ gió dập sóng dồi không yên của
người nông dân trong cõi trần gian mà như địa ngục rùng rợn đó sao!
Được chuyến khách nói về nghề kéo xe vô cùng vất vả, cay đắng, mỗi
miếng ăn phải đổi bằng bao nhiêu mồ hôi nước mắt, có khi cả bằng máu!
Truyện bớt đi tiếng cười nhưng thấm thía dư vị trữ tình, cảm thương.
Sáng, chị phu mỏ là truyện đặc sắc, khá đột xuất, viết về người phụ nữ
công nhân. Không những nhà văn nói được phần nào tình cảnh lầm than khổ
cực của người thợ mỏ bị bóc lột tàn tệ mà còn phát hiện và khẳng định nhân
phẩm đẹp đẽ và sức phản kháng tiềm tàng mà mãnh liệt của họ. Sáng là một
chân dung đẹp đẽ khoẻ khoắn về người phụ nữ lao động, với lòng hiếu thảo
cảm động, có ý thức nhân phẩm mạnh mẽ. Cô đã chống cự quyết liệt tên chủ
Tây, con quỷ dâm dục, khiến nó hết sức ngạc nhiên. Hình ảnh "ông chủ nhì"
người Tây được miêu tả khá sắc sảo. Chỉ vài câu, nhà văn đã lột trần bộ mặt
đểu cáng, miệt thị người bản xứ một cách hỗn xược của tên tư bản thực dân
dâm ô: "Sáng vừa vào, ông chủ đã làm ngay như mọi bận. Ông đến cửa, vặn
khoá, bỏ chìa vào túi, và nhăn nhở cười, ôm thốc lấy người con gái. Không
nếp tẻ gì cả. Bởi vì ông yên trí là hạng này chỉ là những vật cho ông tiêu khiển
khi vắng vợ. Họ với ông cách nhau một vực một trời, thì nói chuyện làm gì
cho mất thì giờ. Ông là chủ kia mà, cần gì phải tán tỉnh lôi thôi".
Cùng với nhận thức tiến bộ về bản chất mâu thuẫn xã hội và tình cảm
yêu ghét chính xác, sâu sắc hơn, ngòi bút Nguyễn Công Hoan thời kỳ này đã
cố gắng hướng tới những chủ đề chính trị - thời sự và có tính chiến đấu trực
tiếp, mạnh mẽ hơn. Nếu trong thời kỳ trước, nhà văn về căn bản mới đứng
trên lập trường đạo đức phong hoá để phê phán, thì thời kỳ này, không
những quan điểm xã hội của ông đã tiếp cận với quan điểm giai cấp, mà ở
nhiều truyện còn có màu sắc chính trị thời sự mang tính chiến đấu rõ rệt.
Kể ra, đả kích thẳng những ông chủ Tây (Lại chuyện con mèo, Sáng,
chị phu mỏ...), đả kích quan trường đương thời một cách mãnh liệt, liên tục,
cũng đã có ý nghĩa chính trị thời sự rồi. Song bên cạnh đó, Nguyễn Công
Hoan còn có những truyện ngắn đề cập thẳng tới những chủ trương chính
sách của nước thực dân với thái độ chế giễu cay độc.
Tinh thần thể dục (I, II) là hai truyện ngắn chung chủ đề, đã lật mặt trái
cái chủ trương thể dục thể thao bịp bợm của chính quyền thực dân nhằm tô
vẽ cho cái trật tự thối nát đó và làm lạc hướng thanh niên. Cuộc đá bóng mà
quan trên, quan dưới dàn dựng hết sức hăng hái và hò hét, đôn đốc người
xem một cách gắt gao ấy, đối với người nông dân nghèo chỉ là một tai hoạ, họ
phải van xin, lạy lục, đút lót, lẩn trốn... và cuối cùng, trời chưa sáng, cả làng
náo loạn vì cuộc lùng sục tróc nã những kẻ... được cử đi xem đá bóng mà lẩn
trốn!
Đào kép mới là một truyện ngắn ám dụ, đả kích vào trò hề cải tổ Nam
triều - một âm mưu thâm độc của thực dân Pháp, được tuyên truyền rầm rộ
và không phải không lừa bịp được một số người. Nguyễn Công Hoan nhìn rất
rõ trò bịp đó và dựng nên hình ảnh gánh hát khổ An Lạc đã mất hết tín nhiệm
với người xem, bèn giở trò thay ria đổi mũ cho mấy đào kép đã cũ, rồi quảng
cáo rùm beng "Đào kép mới! Bản rạp chấn chỉnh" để câu khách... Thực ra
bên trong cái cổng kết lá dừa với hàng chục lá cờ Pháp, Nam bay tíu tít, vẫn
cái màn lở sơn cũ, vẫn cái triều đình cũ, khác chăng là vai vua lần này mặt
mũi phương phi không đeo râu và: "Cái anh lần trước ngồi kia thì bây giờ bỏ
bộ râu ra và ngồi đây. Cái anh ngồi bên này bây giờ vận mũ khác áo khác và
vẽ mặt khác"! Truyện kết thúc bằng một hình ảnh thảm hại, nhiều dư vị: "Từ
hôm sau trở đi, chiều nào cũng vậy, cứ độ năm giờ, bọn đào kép ban An Lạc
lại mũ măng, phấn sáp, râu ria ngồi trơ tráo trên xe cao su, đi diễu qua các
phố để phơi nắng cái đời hát tuồng còn ngắc ngoải.
"Nhưng những người đã xem diễn qua một tối, họ đều chán ngán.
Nghe tiếng trống kèn cổ động ầm ĩ, họ cũng biết rằng gánh hát còn sống đó,
song, chẳng ai muốn để ý xem tối nay, trong rạp, bọn vua quan trò hề ấy họ
ậm oẹ với nhau những trò gì!".
Chủ đề "vua quan phường chèo" đã được Nguyễn Khuyến, Tú Xương,
Phan Bội Châu sử dụng để đả kích. Nguyễn Công Hoan tiếp tục truyền thống
đó và nhằm vào một sự kiện thời sự đương thời, bằng hình thức truyện với
nhiều chi tiết sống động, lại có nghệ thuật trào phúng sắc sảo, nên có tính
chiến đấu mạnh.
Nguyễn Công Hoan cũng như mọi cây bút hiện thực khác khi đó sáng
tác trong điều kiện hợp pháp, nên chưa đả kích bọn thực dân thống trị bằng
những đòn thật thích đáng. Kẻ thù chính của dân tộc chưa trở thành nhân vật
phản diện chính trong tác phẩm. Đó là điều đáng tiếc. Song, đây đó, nhà văn
không quên những ông chủ Tây phè phỡn, khinh miệt dân thuộc địa. Cặp
truyện Tôi cũng không hiểu tại sao (I, II) không những đã thể hiện khá chân
thực kiếp làm thuê thảm hại của anh viên chức nghèo trước cái uy quyền láo
xược của đồng tiền mà còn có ý nghĩa thức tỉnh cái thân phận tủi nhục của
người nô lệ mất nước. Kỷ luật của thực dân là kỷ luật của chết đói và với thân
phận nô lệ, con người không còn có thể tự trọng và có nhân cách. Dù cho
nhân phẩm trí thức của anh có bị xúc phạm thì anh vẫn cứ phải chịu nhục một
cách hèn hạ. Không thể tự trọng, giữ nhân cách bằng cách chăm chỉ làm việc;
cũng không thể bằng cách không đi làm; mà chỉ có một cách: phá bỏ cái trật
tự ngang với sự thống trị của những sếp Tây, chấm dứt kiếp nô lệ. Câu
chuyện toát lên một ý nghĩa chính trị tích cực.
Tóm lại, truyện ngắn Nguyễn Công Hoan thời kỳ này có sự chuyển biến
tiến bộ rõ rệt. Nội dung phản ánh phong phú, sâu sắc hơn, chất lượng tư
tưởng và tính chiến đấu cao hơn. Cao trào cách mạng thời kỳ Mặt trận Dân
chủ đã có ảnh hưởng tích cực đến Nguyễn Công Hoan, phát huy mạnh mẽ
những nhân tố tiến bộ trong tư tưởng và tài năng của nhà văn.
Thời kỳ 1940-1945
Nếu trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, ngòi bút Nguyễn Công Hoan xông
xáo, sắc mạnh thì thời kỳ này, khi cách mạng bị đàn áp, xã hội Việt Nam
thuộc địa trở nên hết sức đen tối, ngòi bút đang có đà ấy bị chặn lại và có sự
sa sút rõ rệt. Sự sa sút đó thể hiện ở truyện dài rõ hơn truyện ngắn. Mấy năm
1940-1945, trên Tiểu thuyết thứ bảy ông vẫn cho đăng nhiều truyện ngắn tiếp
tục mạch hiện thực trào phúng, trong đó có những truyện có giá trị (Công
dụng của cái miệng, Người thứ ba, Con ve, Chuộc cụ, ba truyện trích từ
truyện dài Cái thủ lọn, Rước sắc, Đọc văn, Phần biếu). Ông còn viết Hồi còi
báo động, gồm một loạt mẩu chuyện vừa bi vừa hài mỗi khi hồi còi báo động
nổi lên. Ý nghĩa hiện thực của tác phẩm không nhiều; có chăng là sự châm
biếm tâm lý và sinh hoạt tư sản, tiểu tư sản thành thị. Vậy mà tác phẩm cũng
vẫn bị kiểm duyệt bỏ vì thực dân cấm không được nói đến chiến tranh. Nhà
văn còn sáng tác truyện Êu êu Mê đo, chế giễu cay độc bọn thực dân Pháp ở
Đông Dương sau khi thất thế. Cả truyện này cũng bị cấm và tác giả bị "treo
giò": chính quyền thực dân ra mật lệnh cho Sở kiểm duyệt không cho in tất cả
những gì Nguyễn Công Hoan sáng tác, và sự nghiệp viết truyện ngắn của
Nguyễn Công Hoan trước Cách mạng kết thúc.
2. Nghệ thuật truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan
Khối lượng truyện ngắn Nguyễn Công Hoan sáng tác khá lớn, chất
lượng nghệ thuật (và tư tưởng) rất không đồng đều, một số truyện dễ dãi,
song khá nhiều truyện hay, có những truyện rất hay, thuộc vào những sáng
tác hay nhất, "cổ điển" trong văn xuôi quốc ngữ Việt Nam hiện đại. Nếu
Nguyễn Công Hoan xứng đáng được coi là "một cây bút bậc thầy" "một tài
năng lớn", thì có thể nói, "tài năng lớn" của Nguyễn Công Hoan chủ yếu thể
hiện ở thể loại truyện ngắn. Đúng như nhận xét của nhà nghiên cứu Xô Viết
N. Niculin, "chính trong loại truyện ngắn trào phúng đó, thiên tài xuất sắc của
nhà văn được nảy nở hết sức mạnh mẽ. Cho đến nay, kinh nghiệm nghệ
thuật truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan vẫn đang còn nhiều ý
nghĩa đối với các thế hệ nhà văn sau ông.
Nguyễn Công Hoan có một năng khiếu trào phúng dường như bẩm
sinh. Ngay khi còn học tiểu học, cậu bé Hoan đã rất thích hài kịch Molière và
mấy anh em đả diễn những đoạn kịch Molière trong nhà, "chỉ có mục đích làm
cho mọi người cười sặc sụa". Rồi sau đó "tìm những thói xấu của người xung
quanh làm đề tài, dựng nên kịch để chế nhạo". Lớn lên như nhà văn kể lại "tôi
là một người bi quan hoài nghi, nên khinh thế ngạo vật, hay đùa và hay chế
nhạo, sống dưới chế độ thực dân tôi thấy cái gì cũng là giả dối, lừa bịp (...)
Tôi coi thường tất cả. Tất cả, đối với tôi, chỉ là trò cười. Vì vậy, tôi hay pha trò
cười". Như vậy hoàn cảnh xã hội, môi trường gia đình, thế giới quan nhà văn
đã mài sắc, phát huy năng khiếu trào phúng của ông, và ngay từ sớm, cảm
quan trào phúng đã bắt gặp cảm quan xã hội tiến bộ của nhà văn.
Nguyễn Công Hoan rất nhạy bén phát hiện ra những tình huống gây
cười, những mâu thuẫn hài hước trong các sự vật, hiện tượng xung quanh.
Có thể nói, sự nhạy bén đặc biệt trước những mâu thuẫn trào phúng trong đời
sống là đặc điểm quan trọng nhất trong tư duy nghệ thuật của Nguyễn Công
Hoan. Dường như nhà văn luôn luôn nhìn xã hội đương thời dưới lăng kính
trào phúng. Bản thân cái xã hội thuộc địa nửa phong kiến đầy rẫy mâu thuẫn
thối nát, "rất chi là ối a ba phèng" ấy, cái "tấn trò đời" ấy, vốn rất trào phúng.
Song vẫn phải có sự nhạy bén của người nghệ sĩ trào phúng thì điều đó mới
trở nên sinh động, nổi bật.
Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan thường là một cảnh tượng,
một tình thế mâu thuẫn đầy tính chất hài hước trong cái "tấn trò đời" nhố
nhăng đồi bại ấy. Một ông quan to béo oai vệ rất sang trọng nhưng ăn tiền
một cách... mất vệ sinh; mộ cụ Chánh bá oai nghiêm dữ tợn "chúa ghét thói
ăn cắp" nhưng lại bày trò đi ăn cắp một cách đê tiện; một ông quan khác đã
phẫn nộ thẳng tay đánh vợ và dạy vợ bài học "tam tòng tứ đức" vì vợ ông
không chịu nghe ông để... đi hầu quan trên cho ông chóng thăng chức; một
bà Phủ ngủ với trai ngay trong buồng quan Phủ bị chồng bắt quả tang nhưng
chính quan Phủ lại bị bà mắng xa xả...; Lý trưởng, Trương tuần đốt đuốc cầm
tay thước đi lùng sục bắt giải những người... được cử đi xem đá bóng mà lẩn
trốn như trốn giặc; ông Tri châu giết một lúc sáu mạng người vô tội lại hy
vọng sẽ được thăng chức, v.v...
Để làm nổi bật mâu thuẫn trào phúng của sự vật, hiện tượng, nhà văn
thường dùng biện pháp phóng đại. Phóng đại có thể coi như là đặc điểm
không thể thiếu của sự hư cấu nghệ thuật trong văn trào phúng. Đó không
phải là đi chệch ra ngoài hiện thực mà chỉ thể hiện "một thái độ nào đó châm
biếm hoặc hoài nghi những cái được thừa nhận, có khuynh hướng lật mặt
trái, hơi xuyên tạc đi một ít, chỉ ra cái không hợp lý trong cái bình thường" -
như lời Lê Nin nhận xét về nghệ thuật trào phúng. Biện pháp phóng đại được
sử dụng khá rộng rãi trong sáng tác Nguyễn Công Hoan và làm cho mâu
thuẫn càng nổi bật và chất muối trào phúng càng đậm đà. Trong thực tế, ít có
những tình thế oái oăm, "trào phúng" như trong Kép Tư Bền, Ngựa người
người ngựa, Thật là phúc, Cụ Chánh bá mất giày, Lập gioòng, Vẫn còn trịch
thượng... Càng khó có những chuyện như trong Báo hiếu: trả nghĩa cha; Báo
hiếu: trả nghĩa mẹ, Hai thằng khốn nạn... Song, trong xã hội thối nát mà hình
thức bề ngoài với nội dung bên trong, hiện tượng và bản chất... là luôn luôn
mâu thuẫn một cách phi lý ấy, không thiếu những kẻ oai quyền tôn nghiêm
mà kỳ thật lèm nhèm đê tiện, những tên nhà giàu bất hiếu bất mục nhưng lại
làm ma bố mẹ linh đình để lây tiếng, phô trương với thiên hạ... Chuyện có thể
không thật song có cái lý của sự thật nên vẫn có sức thuyết phục. Sẽ không
đúng nếu phản đối nhà văn hay sử dụng biện pháp phóng đại; vấn đề là sử
dụng như thế nào và hiệu quả nghệ thuật của sự phóng đại ấy. Phóng đại thế
nào đó thì sự vật không còn là nó, hình tượng mất ý nghĩa chân thực và
không thuyết phục; còn phóng đại thế nào đó thì hình tượng lại thật hơn sự
thật, vì cái thần sự thật bộc lộ rõ hơn. Ở truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, nói
chung sự phóng đại của tác giả là chấp nhận được, song cũng có những
trường hợp mà người đọc thấy quá đáng, lộ rõ bàn tay của tác giả, câu
chuyện có phần thiếu chân thực (Báo hiếu: trả nghĩa mẹ, Thằng Quýt I, II).
***
Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan thường ngắn gọn, chủ đề rõ ràng, chỉ
một tuyến tình tiết đơn giản. Kết cấu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan rất gần
với kết cấu truyện kể dân gian, trong đó, cốt truyện có vai trò quan trọng hàng
đầu. Đó là kiểu cốt truyện có tính kịch, có thắt nút, cởi nút và nói chung là rất
hấp dẫn. Trên tinh thần đó, nhà văn có thể thử nghiệm sáng tạo nhiều hình
thức cốt truyện, nhiều cách dựng truyện linh hoạt. Có truyện không có chuyện
(Hai cái bụng), có truyện không có nhân vật (Chiếc quan tài), có truyện chỉ
gồm những bức thư (Thế là mợ nó đi Tây), có truyện do ghép những mẩu đối
thoại riêng biệt (Tinh thần thể dục)... Song dù cách nào, nhà văn cũng thường
dẫn dắt tình tiết sao đó để mâu thuẫn trào phúng ngày càng nổi lên và cuối
cùng, bộc lộ một cách bất ngờ, tiếng cười vang lên và truyện "hạ màn"... Nhà
văn rất chú ý chỗ kết thúc sao cho bất ngờ, tạo ấn tượng mạnh: "Câu kết của
tôi là một cái lờ. Nó thường làm độc giả đột ngột cũng như đến chỗ hẹp, nước
chảy mạnh, thì cá bất thình lình bị đẩy tuột vào hom" (Đời viết văn của tôi).
Để làm nổi bật mâu thuẫn trào phúng, nhà văn còn chú ý tạo nên sự so
sánh đối lập, sự lắp lại - một cảnh tượng, một tình huống, một lời nói... - vì để
dẫn chuyện một cách tự nhiên và gây hứng thú bất ngờ, tác giả thường dùng
thủ thuật đánh lạc hướng người đọc bằng những ngôn ngữ, chi tiết lập lờ,
đánh bẫy, khiến người đọc phán đoán lầm (Truyện con mèo, Nỗi lòng ai tỏ,
Samandji, Xuất giá tòng phu...). Đặc biệt, nhà văn thường dựng lên một nhật
vật "tôi" thật thà, ngơ ngác, hiểu lầm để đánh lạc hướng người đọc (Samandji,
Truyện con mèo, Cái lò gạch bí mật...). Giọng văn kể chuyện của Nguyễn
Công Hoan cũng có vai trò quan trọng trong việc gây hứng thú và tạo bất ngờ:
ông làm ra vẻ kính trọng đối với nhân vật phản diện đáng kính và làm như
khinh ghét, chế giễu nhân vật mà ông thương xót bênh vực (Cụ Chánh bá
mất giày, Thằng ăn cắp...). Nói chung, ngòi bút Nguyễn Công Hoan khá linh
hoạt, phong phú trong việc sử dụng các biện pháp kể chuyện hấp dẫn, gây
cười, ông có thể già tay "thắt nút" để câu chuyện "ly kỳ, hồi hộp", và khi "cởi
nút" bất ngờ, tiếng cười càng giòn giã, sảng khoái; một cách "gói kín, mở
nhanh" kiểu truyện trào phúng dân gian, nhằm đạt kịch tính cao nhất, hứng
thú nhiều nhất.
Cũng như trong tự sự truyền thống, nhà văn không chú ý nhiều đến
việc xây dựng tính cách. Ở truyện ngắn và trong truyện dài Nguyễn Công
Hoan, tính cách có phần đơn giản. Mỗi nhân vật, nhà văn thường chỉ nêu lên
một nét tính cách cơ bản, bộc lộ qua hành động, ngôn ngữ, tình huống nào
đó. Ngòi bút trào phúng sắc sảo ấy lại ít khả năng đi sâu thăm dò thế giới nội
tâm phong phú, phức tạp của con người. Tâm lý nhân vật của ông thường
giản đơn, một chiều, thiếu đa dạng. Là nhà văn "thế hệ 1930" nhưng tư duy
nghệ thuật của ông còn đậm tính chất truyền thống, lối viết truyện của ông
chưa xa kiểu truyện kể dân gian, cổ điển. Ở đây, cốt truyện thường lấn át tính
cách, hành động lấn át tâm lý. Nhân vật truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
chưa có bề sâu tâm lý. Song không vì vậy mà chúng không chân thực, không
sinh động. Có thể nói trái lại: chỉ bằng vài nét, nhà văn đã phác ra được một
bộ mặt, một tư thế, một chân dung khá sinh động với nét tâm lý chủ yếu nổi
bật, rất phù hợp với bản chất xã hội nhân vật. Song nhà văn chỉ khắc hoạ một
nét tâm lý nổi bật chứ không xây dựng được một tính cách đa dạng, đầy đặn,
cũng như ông chỉ giỏi thể hiện một khoảnh khắc tâm lý đơn giản chứ không
thành công trong việc miêu tả quá trình tâm lý phức tạp. Ở truyện ngắn,
nhược điểm này ít bộc lộ hơn trong truyện dài, chưa làm yếu giá trị nghệ thuật
của truyện.
Về mặt ngôn ngữ văn học, ngòi bút Nguyễn Công Hoan có những đặc
sắc, góp phần đáng kể vào sự phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Hơn
hai mươi năm cầm bút trước Cách mạng, có mặt trên văn đàn ngay từ khi câu
văn xuôi quốc ngữ còn đang chập chững, Nguyễn Công Hoan có quá trình
sáng tác phản ánh sinh động sự trưởng thành nhanh chóng đến kỳ diệu của
ngôn ngữ văn xuôi quốc ngữ. Nếu những truyện ngắn trong Kiếp hồng nhan
(1923) và cả trong tiểu thuyết Tắt lửa lòng (1933), nhà văn còn thỉnh thoảng
viết những câu văn du dương trầm bổng, xen lẫn văn vần, thì trong truyện
ngắn 1929-1930 trở đi, ông đã có một ngôn ngữ phong phú sống động rất gần
đời sống, khác hẳn với thứ ngôn ngữ sạch sẽ, kiểu cách của Tự lực văn đoàn
khi đó. Văn Nguyễn Công Hoan là thứ văn rất tự nhiên, thoải mái, linh hoạt vô
cùng. Ông mạnh dạn đưa lời ăn tiếng nói hàng ngày của quần chúng vào văn
chương một cách rộng rãi, khiến văn chương mất hết vẻ "đài các", "văn
chương", mà trở thành ngôn ngữ của đời sống hàng ngày đậm đà. Đọc văn
ông, người đọc có cảm giác nhà văn đang nói chuyện một cách hết sức tự
nhiên với mình; điều đó khiến cho truyện có một sắc thái sinh động đặc biệt.
Cũng đôi khi, ngòi bút Nguyễn Công Hoan có phần sa đà, đem cả một ít ngôn
ngữ dung tục hàng ngày vào tác phẩm. Song nhìn chung, văn truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan là thứ văn xuôi trong sáng, sống động, đặc biệt là rất vui.
Vũ Ngọc Phan nhận xét: "Những truyện ngắn của ông tiêu biểu cho một thứ
văn rất vui, thứ văn mà có lẽ từ ngày nhà văn Việt Nam có tiểu thuyết viết
theo lối mới người ta chỉ thấy ở ngòi bút ông thôi" (Nhà văn hiện đại).
Để có "thứ văn rất vui" ấy, nhà văn đã sử dụng nhiều biện pháp ngôn
ngữ linh hoạt phục vụ cho việc gây cười. Ông thường chơi chữ, dùng từ ngữ
hai nghĩa: "thế là mợ nó đi Tây" "hai thằng khốn nạn", "thích ăn bẩn", "xuất giá
tòng phu”, “hai con mắt sáng quắc như ngọn đèn giời”... Thỉnh thoảng có
những so sánh bất ngờ thú vị: cái áo của cô Kếu vẽ hoa "rắc rối như thời cục
nước Tàu", cái ngực của chị vợ anh lính da đen Samandji "đầy như cái ví của
nhà tư sản, chứ không như cái óc của ông Nghị ngay cả trước ngày họp hội
đồng"...
Đặc biệt, ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan thật
đặc sắc. Nhà văn rất thuộc lời ăn tiếng nói của mỗi hạng người trong xã hội.
Quan lại, lính tráng, chánh tổng, lý trưởng, mẹ Tây, gái mới lãng mạn... loại
nào có ngôn ngữ của loại ấy, không trộn lẫn. Chính ngôn ngữ nhân vật đã làm
bản chất tính cách nhân vật tự bộc lộ một cách sinh động.
Đây là ngôn ngữ một mụ me Tây giàu có: "Thế mới biết người ta nói
phú quý sinh chữ nghĩa là phải. Chẳng giấu gì ông, từ ngày đánh bạn với
quan nhà tôi, tôi mới được học. Thành ra bây giờ, sách Tây, sách Tầu tôi đã
được xem qua. Nhưng tôi suy nghĩ, không quyển nào có giá trị bằng bộ La
Thông Tảo Bắc".
Và đây là khẩu khí một lý trưởng, khi nhận lễ khấn: "Ông lý nhăn mặt,
nhặt ba hào bỏ túi: "Làm việc mà cứ gặp phải những người như bà, thì tôi đến
chết mất". Và khi ông áp giải đám dân Ngũ Vọng đi xem đá bóng: "Chín mươi
tư thằng ở đây, xếp hàng năm lại, đi cho đều bước. Tuần chúng bay phải kèm
chung quanh giúp tao. Đứa nào mà trốn về thì ông bảo (...). Mẹ bố chúng nó,
cho đi xem đá bóng chứ ai giết chết mà phải trốn như trốn giặc"!
Rồi giọng đon đả thớ lợ của bà lớn Tuần (Hé! Hé! Hé! - bà lớn đã luyện
được giọng điệu đó để dùng vào việc moi tài sản kẻ khác!); giọng nhõng nhẽo
của tiểu thư con nhà giàu (Nỗi lòng ai tỏ); giọng cải lương Sài Gòn của đám
vua quan phường hề (Đào kép mới); ngôn ngữ đám hàng quà trong Thằng ăn
cắp, v.v...
Ngay trong ngôn ngữ kể chuyện của tác giả, nhiều khi nhà văn cũng
dùng lối nói của nhân vật với những từ ngữ, tiếng lóng, vừa gián tiếp bộc lộc
tính cách, vừa làm câu chuyện thêm sống động, chân thực và hóm hỉnh.
Trong Thật là phúc kể về câu chuyện.... "lấy thịt đè người" của gã lính cơ
"Ván cách", ông cũng dùng giọng lính tráng, xen lẫn những tiếng Tây bồi lính
tẩy: "ma phăm anh hàng giò", "đề mi tua", "lập gioòng", "cẩm ma lách", "sú ca
nia", "đi la mát" "kèn la vầy", "măng den", "a la văng", "tăng xương"... Giọng
kể chuyện và cách viết câu của nhà văn cũng rất linh hoạt, thoải mái. Có khi
câu rất ngắn. Đây là đoạn tả "thằng ăn cắp" ngồi ăn bún riêu: "Bà ấy múc cho
nó một bát đầy. Nó ăn. Phù phù! Nóng! Xuỵt xoạt! Cay! Ngon quá! Ai cũng
yên bụng, không ai để ý đến nó nữa. Họ nghênh xe đạp. Họ nhìn ôtô. Họ pha
trò. Họ cười ha hả. Nó vẫn ăn. Ngon quá. Năm phút... Mười phút... Bỗng
chốc: - Ối ông đội xếp ôi! Thằng ăn cắp! Ai đuổi hộ tôi! Bọn bán hàng nhốn
nháo. Chạy tứ tung. Quang gánh vướng. Người ngã. Hàng đổ. Bát vỡ"
(Thằng ăn cắp).
Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan không giống truyện ngắn Thạch Lam
với chất thơ trong đời sống bình lặng hàng ngày, nhẹ mà thấm; cũng không
giống truyện ngắn Nam Cao, chân thực đến nỗi tưởng chừng chỉ là cuộc đời
thực không hề hư cấu nhưng lại mang triết lý sâu xa... Truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan thuộc loại hồn nhiên, mặn mà, có cái hóm hỉnh thông minh của trí
thức tiểu tư sản, song chủ yếu gần với truyện cười dân gian khoẻ khoắn.
Tiếng cười trào phúng trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan không thuộc loại
nhẹ nhàng, thâm trầm mà thường giòn giã, sảng khoái, ném thẳng vào mặt kẻ
thù. Tiếng cười ấy là sự kế thừa và phát huy tiếng cười lạc quan, giàu tính
chiến đấu trong truyền thống trào phúng của văn học dân tộc. Truyện ngắn
trào phúng của Nguyễn Công Hoan là một biểu hiện cụ thể về sức sống mạnh
mẽ của truyền thống đó trong thời kỳ hiện đại.
III - TRUYỆN DÀI
Nhìn chung, truyện dài của Nguyễn Công Hoan không có giá trị cao
bằng truyện ngắn. Tuy nhiên, khối lượng truyện dài của nhà văn khá lớn,
trong đó có những truyện có giá trị đặc sắc, thuộc vào những tác phẩm tiêu
biểu nhất của văn học hiện thực phê phán, có những truyện giá trị có hạn
song đã từng được dư luận chú ý hoan nghênh vì nhiều lẽ. Mặt khác, trong
truyện dài, tư tưởng và nghệ thuật của nhà văn, cũng như quá trình diễn biến
có tính quy luật của sự nghiệp văn học của ông, đã bộc lộ khá hệ thống. Do
đó, mảng sáng tác quan trọng đó của nhà văn cũng cần được nghiên cứu
nghiêm chỉnh.
1. Nhìn chung quá trình sáng tác truyện dài của Nguyễn Công Hoan trước Cách mạng.
Nếu không kể truyện vừa Phải gió, Quyết chí phiêu lưu viết từ rất sớm
không xuất bản, chưa có một nội dung và nghệ thuật nghiêm túc, cũng không
kể truyện dài Những cảnh khốn nạn mới viết và xuất bản chưa đầy đủ, chưa
có gì đặc sắc, thì có thể coi sự nghiệp sáng tác truyện dài của Nguyễn Công
Hoan thật sự bắt đầu từ cuốn Tắt lửa lòng (đăng trên báo Nhật Tân, 1933).
Cho đến hết 1935, Nguyễn Công Hoan đã viết và đăng báo liên tiếp các
truyện dài: Tắt lửa lòng (báo Nhật Tân, Lệ Dung (Nhật Tân, 1934), Tấm lòng
vàng (Cậu Ấm, Lá ngọc cành vàng (Tiểu thuyết thứ bảy, 1935), Ông chủ
(Tiểu thuyết thứ bảy, 1935), Bà chủ (Tiểu thuyết thứ bảy, 1935), Một cái
chương trình quyết thực hành (Tiểu thuyết thứ bảy, 1935), Cô giáo Minh (Tiểu
thuyết thứ bảy, 1935)...
Nếu trong truyện ngắn, ngay từ khi ra mắt bạn đọc trên mục Xã hội ba
đào ký của An Nam tạp chí chuyên nói về những "cảnh xuống" của xã hội,
Nguyễn Công Hoan đã tự giới thiệu như một cây bút "xã hội", "tả chân", tự
vạch ra con đường riêng cho mình, thì trong truyện dài thời kỳ đầu, nhà văn
lại đi vào những truyện tình lãng mạn lâm ly nhuốm màu đạo đức Nho phong.
Tiêu biểu cho loại này là Tắt lửa lòng, ngay từ khi còn đăng dần trên báo đã
làm cho khá nhiều độc giả nữ giới say mê. Khi tác phẩm được đưa lên sân
khấu cải lương Nam Kỳ với nhan đề Lan và Điệp, rồi những lời ca não nùng
của nó được thu đĩa, thu băng thì từ đó trở đi, từng làm nhiều thế hệ công
chúng cải lương từ Nam chí Bắc say sưa thổn thức. Nội điều đó cũng nói lên
nhiều về tính chất cuốn tiểu thuyết.
Giá trị của cuốn tiểu thuyết chủ yếu ở mặt phê phán xã hội, trước hết là
phê phán bọn quan lại thối nát đương thời. Mối tình trong sạch, cao thượng
của Lan và Điệp vì đâu mà bị tan vỡ cay đắng? Chính là do lão phủ Trần (sau
thăng Chánh án) độc ác, thâm hiểm, có những âm mưu đê tiện, ra tay phá
hoại. Dưới ngòi bút Nguyễn Công Hoan, bọn quan lại thường được vẽ bằng
những nét biếm hoạ già tay, tô đậm cái hình thù ít nhiều quái dị và cái tâm địa
độc ác, bỉ ổi, mất cả tính người của chúng. Chúng là tai hoạ đối với người
lương thiện. Điệp cứ nghĩ đến lão phủ Trần "như nghĩ đến một con cọp, một
con ma".
Sự phê phán quan lại trong tác phẩm rất dứt khoát, mạnh mẽ, nhưng
Tắt lửa lòng vẫn chưa phải là một tác phẩm hiện thực. Nhà văn chưa phản
ánh hiện thực trên bình diện xã hội mà mới dừng lại ở bình diện đạo đức. Tác
giả đã lý tưởng hoá dễ dãi nhân vật của mình để bắt họ trở thành những tấm
gương đạo đức. Ông Tú gây dựng cho Điệp, dù anh nghèo, thi trượt; Lan,
vừa là nhân vật chuyện tình bi luỵ, vừa như hiện thân của sự hy sinh cao
thượng, có lòng vị tha đến mức cực đoan gàn dở; Điệp, đúng là kiểu nhân vật
nam giới lý tưởng của Nguyễn Công Hoan: anh học trò nghèo có chí, có lòng,
trong tình yêu thì cao thượng, vị tha, thuỷ chung. Chàng từ bỏ phú quý vì Lan,
quyết học thành tài - đỗ "y khoa bác sĩ" - nhưng chỉ làm vì nghĩa không vì tiền;
chàng đã đứng ra gây dựng cho Xuân, em Lan, lén gài tiền vào mũ thằng Vũ,
lặng lẽ cứu sống vợ chồng Thuý Liễu vốn là kẻ thù... Đúng Tắt lửa lòng là một
truyện tình lãng mạn, song đây là thứ lãng mạn vẫn rất nền nếp "Nho phong";
gần với Tuyết Hồng lệ sử, Người quay tơ, Giọt lệ sông Hương - thứ lãng mạn
"tiền Tự Lực" - hơn là với Hồn bướm mơ tiên, Đoạn tuyệt, Đời mưa gió... Có
lẽ do chiều theo thị hiếu thời thượng của công chúng tiểu tư sản khi đó đang
bị cuốn hút mạnh mẽ bởi phong trào lãng mạn, Nguyễn Công Hoan đã đưa ra
câu chuyện tình éo le mùi mẫn, đủ cả chôn hoa chôn bướm, đi tu, ốm tương
tư, chết chóc... Song dù vậy, cảm hứng chủ đạo của tác phẩm không hẳn là
tình yêu mà chính là đạo đức. Tình tiết câu chuyện, tính cách nhân vật đều bị
uốn nắn để phục vụ cho chủ đề đạo đức và do đó, ít chân thực. Mối tình phải
đẫm lệ, đồng thời, phải thật đậm màu sắc đạo đức, đậm vị hy sinh. Nghệ
thuật tiểu thuyết Tắt lửa lòng cũng chưa thật mới mẻ, đặc sắc. Vừa có một
chút Tuyết Hồng lệ sử, vừa mang dáng dấp kiểu truyện giáo huấn đạo đức, lại
pha tính chất trinh thám (chương kể chuyện thằng Vũ tìm cha và bí mật tẩm
thuốc độc và gói kẹo để gửi cho Thuý Liễu), đồng thời, có những trang trào
phúng, "tả chân", Tắt lửa lòng là sự pha trộn nhiều bút pháp khác nhau. Rõ
ràng, tác giả đang dao động về phương pháp sáng tác và bị lôi cuốn bởi trào
lưu lãng mạn đang chiếm ưu thế khi đó. Về phương diện kỹ thuật thể loại, Tắt
lửa lòng cũng như hầu hết truyện dài Nguyễn Công Hoan - đánh dấu thời kỳ
phát triển buổi đầu của tiểu thuyết quốc ngữ lối mới. Ông chưa vượt qua
khuynh hướng giáo huấn và cách viết chưa mấy hiện đại, mải chạy theo tình
tiết mà chưa thật chú ý đến tính cách.
Lập trường đạo đức có phần bảo thủ của Nguyễn Công Hoan bộc lộ rõ
hơn trong những tiểu thuyết đề cập trực tiếp đến vấn đề phụ nữ, vấn đề hôn
nhân gia đình. Cô giáo Minh (1935) là một tiểu thuyết luận đề, trong đó,
Nguyễn Công Hoan đã chống lại cách giải quyết của Tự lực văn đoàn về vấn
đề này. Trong phần trên của Cô giáo Minh, ngòi bút Nguyễn Công Hoan với
sự châm biếm sắc sảo, sử dụng phóng đại, đã mạnh hơn cả Nhất Linh trong
việc miêu tả cái hủ lậu lố lăng đến quái gở của bà mẹ chồng phong kiến.
Cảnh cưới chạy tang được miêu tả như một cuộc bắt cóc thê thảm, mẹ chết
cô dâu không được khóc, không được về nhìn mẹ lần cuối cùng... Nhà văn
cũng thể hiện mối xung đột mẹ chồng nàng dâu, cũ và mới, hết sức căng
thẳng. Sau khi "thắt nút" thật chặt, tác giả đã gỡ ra cách nào? Phản đối cách
giải quyết của Nhất Linh - phái mới "đoạn tuyệt" với phái cũ, "theo mới đến
cùng” - Nguyễn Công Hoan cho cô giáo Minh cứ ở lại nhà chồng, "ăn ở lại với
mẹ chồng, với chồng", để cảm hoá họ. Vì "nếu ly dị, bỏ đi là suốt đời tai tiếng"
làm cho phái cũ khinh thường! Và Minh đã dứt hẳn Nhã, người tình cũ, ra sức
chiều chuộng thờ phụng mẹ chồng, lại làm những việc rất "cao thượng" như
lặng lẽ giúp em chồng thoát khỏi cảnh gia đình tan nát, bỏ tiền của nàng (vừa
trúng số độc đắc!) ra cúng cho tổ chức từ thiện nhưng đứng tên là bà Tuần để
bất ngờ đem danh giá cho bà... Cô gái mới đó đã ngoan ngoãn tự nguyện
chịu đựng cảnh làm dâu đại gia đình phong kiến, cố trở nên người dâu thảo
vợ hiền theo quan điểm cổ hủ: "Tôi đi làm dâu có gì là khổ (...). Mẹ yêu thì mẹ
phải dạy, đó là lẽ thường". Rõ ràng đó là sự đầu hàng tiêu cực, là thủ tiêu tình
yêu và hạnh phúc cá nhân, chủ trương khôi phục lễ giáo và chế độ hôn nhân
gia đình phong kiến. Ấy thế nhưng Nguyễn Công Hoan lại đề lên thành sự
chiến thắng vẻ vang của phái mới: phe cũ đã bị cảm hoá, "cái cũ phục cái
mới" và cũng theo mới! Bà Tuần rất đỗi cổ hủ bỗng hăng hái tập đánh phấn tô
môi, tuyên bố bỏ kiêng tên, tập bắt tay!... Và sự từ bỏ hạnh phúc cá nhân lại
được coi là hạnh phúc, sung sướng: "Cái sung sướng này là cái sung sướng
cao thượng về tinh thần!". Sự nguỵ biện dễ dãi và việc miêu tả bất chấp lôgic
của tính cách, không che giấu được thực chất tư tưởng bảo thủ của tác giả.
Năm 1935, Nguyễn Công Hoan sáng tác rất dồi dào. Có thể coi đây là
năm bản lề, chuyển sang một thời kỳ mới trong sự nghiệp sáng tác của nhà
văn. Về truyện dài, bên cạnh Cô giáo Minh là một loạt tiểu thuyết hướng tới
đề tài xã hội, có khuynh hướng phê phán và giá trị hiện thực rõ rệt. Trong số
đó, đáng chú ý hơn cả là Lá ngọc cành vàng và Ông chủ. Về nhiều mặt, hai
truyện dài này có ý nghĩa đánh dấu sự chuyển biến của ngòi bút Nguyễn
Công Hoan nói riêng, trào lưu hiện thực phê phán nói chung, sang giai đoạn
phát triển rực rỡ thời kỳ Mặt trận Dân chủ.
Nếu trong Cô giáo Minh nhà văn đã rơi vào lập trường đạo đức phong
kiến bảo thủ khi giải quyết vấn đề phụ nữ và hôn nhân gia đình, thì trong Lá
ngọc cành vàng, Nguyễn Công Hoan đã bênh vực tình yêu tự do ngoài lễ
giáo, phê phán mạnh mẽ lực lượng bảo thủ đã phá hoại hạnh phúc của thanh
niên. Sẽ không thể giải thích được sự mâu thuẫn đó trong quan điểm Nguyễn
Công Hoan nếu không thấy mối mâu thuẫn - thống nhất giữa hai quan điểm
nhìn nhận hiện thực của nhà văn: quan điểm đạo đức phong kiến và quan
điểm giàu - nghèo, trong đó, quan điểm giàu - nghèo là quan điểm xã hội cơ
bản của ông. Trong Lá ngọc cành vàng, sự xung đột giữa mối tình Nga - Chi
với vợ chồng phủ Lê không chỉ là sự xung đột mới - cũ, giữa tình yêu tự do
với lễ giáo phong kiến, mà trước hết, đó là mối xung đột giàu - nghèo. Lão
phủ Lê ngăn cấm một cách tàn ác, lạnh lùng mối tình của con gái lão không
phải chỉ vì đây là tình yêu ngoài lễ giáo, mà chủ yếu vì Chi là con nhà "hèn
hạ", không xứng với Nga "lá ngọc cành vàng". Với Lá ngọc cành vàng, nhà
văn đã đề cập tới sự đụng độ giai cấp, sự đối lập giàu - nghèo, và đứng hẳn
về phía người nghèo bị ức hiếp, xúc phạm. Lập trường xã hội tiến bộ đó của
Nguyễn Công Hoan đã khiến ông chiến thắng được tư tưởng bảo thủ phong
kiến cố hữu của bản thân để có quan điểm khá tiến bộ trong vấn đề tình yêu
và hôn nhân, một vấn đề mà ông vốn bảo thủ.
Ông chủ là truyện dài đầu tiên đã đề cập trực diện tới mối mâu thuẫn
giai cấp gay gắt ở nông thôn, giữa người nông dân lao động nghèo khổ và
bọn địa chủ thống trị. Với cuốn tiểu thuyết có giá trị tố cáo mạnh mẽ này,
Nguyễn Công Hoan đã đứng hẳn về phía người nông dân bị áp bức bóc lột và
vạch trần bộ mặt tàn ác, dã man của bọn địa chủ, sống trên mồ hôi nước mắt
của người nghèo lương thiện. Câu chuyện tập trung tố cáo thói dâm ô đểu
cáng và tâm địa độc ác của giai cấp địa chủ. Nhà văn cũng bước đầu thấy sự
bóc lột kinh tế thậm tệ của chúng đối với tá điền.
Nhìn chung, truyện dài Nguyễn Công Hoan sáng tác thời kỳ 1935-1939
có sự chuyển biến rõ rệt theo khuynh hướng hiện thực phê phán. Tuy có
truyện vẫn đi vào những mối tình éo le và đầy sự hy sinh giả tạo (Tơ vương,
1938) song xu hướng chính là hướng về đề tài xã hội - chính trị, tố cáo hiện
thực bất công thối nát. Bà chủ (1935) dựng nên nhân vật "bà chủ" đóng vai
đức hạnh - Trưởng ban chấn hưng đạo đức - song kỳ thật rất đĩ thoã, chẳng
qua nhờ đồng tiền mà che giấu đời tư nhem nhuốc, lại được xã hội tôn kính.
Truyện Bơ vơ miêu tả số phận trớ trêu lạ lùng của một tên cướp vốn là một
đứa con hoang bị bỏ rơi, qua đó, lên án cái xã hội giả dối vô nhân đạo, nhất là
bọn quan lại. Một công trình vĩ đại (1937) cũng đả kích thẳng tay bọn quan lại
độc ác, nhất là hạng công tử con quan với lối sống ăn chơi dâm ô tàn bạo,
đồng thời đả kích phong trào "Âu hoá", "vui vẻ trẻ trung" có tính chất truy lạc
đương thời. Truyện Một chương trình quyết thực hành (1935) có tính chất
hoạt kê châm biếm một tên nhà giàu vừa hiếu danh và hiếu sắc, bị lừa bởi
một gái đĩ thập thành. Tình khuyển mã (1936-1937) tiếp tục đả kích cay độc
bọn quan lại tàn ác đã đối xử một cách tàn nhẫn với cả bọn tay chân khuyển
mã rất mực trung thành với chúng. Cô làm công-(1936), dưới hình thức nhật
ký của nhân vật chính, một cô làm công cho một hãng buôn lớn, đã phản ánh
khá chân thực đời sống khổ nhục của đám tiểu tư sản nghèo bị xã hội đồng
tiền hắt hủi, nhân phẩm bị xúc phạm.
Năm 1938, Nguyễn Công Hoan sáng tác Bước đường cùng. Đây là tác
phẩm xuất sắc đánh dấu đỉnh cao về tư tưởng của nhà văn trước Cách mạng
và là một trong những thành tựu tiêu biểu nhất của trào lưu văn học hiện thực
phê phán Việt Nam.
Năm 1939, Nguyễn Công Hoan viết Cái thủ lợn "cùng một tinh thần với
Bước đường cùng", như lời tác giả gửi ông Giám đốc Nhà xuất bản Đời mới,
in ở đầu sách. Tác phẩm bị kiểm duyệt không được in, sau khi Nhật đảo
chính, mới ra mắt.
Câu chuyện xoay quanh một vụ tranh chấp ngôi tiên chỉ ở một làng
quê, giữa hai tay cường hào trong làng; qua đó, tác phẩm đả kích trước hết
vào bọn cường hào địa chủ tác oai tác quái ở nông thôn đương thời. Chúng lo
lót quan trên để được làm chỗ đầy tớ đi lại của quan nên được quan che chở
và tha hồ áp bức bóc lột dân đen. Mũi đả kích thứ hai là nhằm vào quan lại,
chủ yếu là vạch ra thói ăn tiền trâng tráo, đê tiện của chúng. Trong cái xã hội
thối nát ấy, tệ đục khoét hoành hành từ dưới lên trên: "Rút cục, chỉ con em là
khổ. Mà ghê thế, dột từ nóc dột xuống, trong làng lý trưởng, chánh hội đã là
hạng mọt già, thì cả phó lý lẫn ban hương hội, cho chí khán thủ, trương tuần
đều hùa nhau làm hại làng. Người dưới làm liều đã được người trên bênh
vực", "một loạt đều ăn tàn phá hại đểu giả ngang nhau". Thái độ của tác giả
đối với bộ máy thống trị, trật tự xã hội đó hoàn toàn phủ nhận. Ý nghĩa phê
phán mạnh mẽ của tác phẩm chính là ở đó. Song Cái thủ lợn chưa có được
nội dung hiện thực phong phú, sâu sắc với khái quát rộng rãi của Bước
đường cùng. Mặc dù bề bộn chi tiết, sự việc, có nhiều tài liệu về sinh hoạt
đình đám, việc làng ở thôn xã... tác phẩm chưa dựng được bức tranh xã hội
rộng lớn có tính chân thực, ý nghĩa điển hình cao.
Thời kỳ 1940-1945 là thời kỳ bế tắc và lạc hướng của ngòi bút Nguyễn
Công Hoan. Đúng ra, trong truyện ngắn, ông vẫn còn hướng về đề tài xã hội
và thời sự chính trị, có truyện đả kích bọn thực dân Pháp thất thế (Êu êu Mê
đo), châm biếm tâm lý sinh hoạt tiểu tư sản (Hồi còi báo động). Nhưng trong
truyện dài, nhà văn đã từ bỏ con đường hiện thực; tư tưởng phong kiến bảo
thủ vốn có gốc rễ sâu xa trong con người của ông, nay gặp ngọn gió phục cổ
thổi tới trong lúc ông đang mất hướng, đã trỗi dậy chi phối ngòi bút của ông.
***
2. Bước đường cùng
Bước đường cùng đánh dấu đỉnh cao tư tưởng Nguyễn Công Hoan
trước Cách mạng và là một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học hiện
thực phê phán đương thời. Nguyễn Công Hoan đã viết Bước đường cùng một
cách hối hả, khẩn trương - chỉ trong 16 ngày, như một sự thôi thúc bên trong
mạnh mẽ, "để trang trải món nợ lòng đối với anh em cộng sản ở Nam Định".
BỊ nghi là "phần tử cộng sản nguy hiểm", nhà văn nghĩ "bướng": "ừ, ông cộng
sản đấy: và lao vào viết Bước đường cùng. Tác phẩm mang chủ đề xã hội
chính trị tiến bộ đó chính là sự hưởng ứng tích cực của nhà văn đối với phong
trào Mặt trận Dân chủ. Bước đường cùng đã trực tiếp phản ánh nông thôn
Việt Nam trước Cách mạng trên bình diện xung đột giai cấp, đã làm nổi bật bộ
mặt tàn bạo thối nát của giai cấp địa chủ phong kiến cùng toàn bộ "chế độ
thối nát chống hương thôn” và đời sống cùng khổ của người nông dân bị áp
bức bóc lột, bị đẩy tới "bước đường cùng" không cách gì cưỡng nổi. Với ba
mươi chương sách, Bước đường cùng đã cố gắng dựng nên một bức tranh
rộng lớn về đời sống nông thôn đương thời. Tác giả có ý thức phản ánh thật
đầy đủ những nỗi khổ điển hình của người nông dân, với bao nhiêu tai hoạ
khác nhau, cứ chồng chất đè nặng lên số phận của họ. Bước đường cùng đề
cập đến đủ cả: nạn Tây đoan bắt rượu lậu, nạn quan lại tham nhũng, nạn sưu
cao thuế nặng, nạn cường hào ức hiếp bóp nặn, nạn xôi thịt chè chén, khao
vọng, ngả vạ, rồi cảnh phu phen tạp dịch, cảnh lụt lội đói kém, bệnh dịch
hoành hành, tình trạng dốt nát tối tăm, mê tín dị đoan, ăn ở mất vệ sinh, v.v...
Về một mặt nào đó, Bước đường cùng có thể coi là một tiểu thuyết phóng sự,
đã cung cấp nhiều tài liệu cụ thể về nhiều mặt của đời sống nông thôn sau luỹ
tre xanh trước Cách mạng.
Trong đủ mọi thứ tại hoạ đối với người nông dân, tác phẩm làm nổi bật
lên tai hoạ chủ yếu: sự bóc lột của giai cấp địa chủ. Tuy mở ra trên bề rộng,
tác phẩm đã tập trung xoáy sâu vào việc lên án tội ác của giai cấp địa chủ
phong kiến, kẻ thù không đội trời chung của người nông dân lao động, đã xây
dựng một hình tượng nhân vật địa chủ khá thành công, có ý nghĩa điển hình:
Nghị Lại. Nghị Lại có ngoại hình và đời sống đạo đức chẳng lấy gì làm đẹp:
nước da xanh mét và cặp môi thâm sịt của dân nghiện, thêm hai nếp nhíu
soạc hai bên mép như "khủng bố" mọi người, lúc trẻ đã từng chơi bời đĩ điếm
lêu lổng... Lão chẳng có mấy chữ nghĩa và rắt keo bẩn, ăn bớt từng lẻ gạo
cho vay... Song, miêu tả địa chủ, lần này nhà văn không dừng lại ở bình diện
đạo đức, văn hoá mà tập trung tố cáo tội ác bóc lột của chúng. Đáng chú ý là
ở Bước đưòng cùng, Nguyễn Công Hoan xoáy sâu vào tội ác cướp đoạt
ruộng đất của giai cấp địa chủ. Chiếm đoạt ruộng đất của nông dân bằng đủ
mọi cách, đó là niềm say mê, dục vọng điên cuồng của Nghị Lại. Tư bản chạy
theo lợi nhuận, say mê vàng - vàng là "tư bản" đẻ ra lợi nhuận, thì địa chủ làm
giàu bằng bóc lột địa tô, một thứ bóc lột siêu kinh tế, nên rất thèm khát nhiều
ruộng đát. Cốt truyện Bước đường cùng đã xoay quanh việc Nghị Lại dùng
mọi thủ đoạn cướp kỳ được tám sào ruộng của anh Pha. Cùng với Pha là bao
nhiêu nông dân khác, Trương Thi, San, bác đám Ích, Thị Anh... trước sau lần
lượt đều bị mất ruộng vào tay Nghị Lại.
Đáng chú ý, khi miêu tả giai cấp địa chủ, Nguyễn Công Hoan đã đặt
chúng trong mối quan hệ với hệ thống trật tự thực dân phong kiến đương thời
và vạch ra bản chất chính trị phản động của chúng. Là nghị viện của cái Viện
dân biểu do thực dân nặn ra, từng được thưởg kim thánh, mề đay, phẩm
tước của "nhà nước", Nghị Lại tỏ ra hết sức trung thành với chế độ thực dân.
Cảnh Nghị Lại xun xoe vồ vập tên Tây đoan, mời rượu sâm banh và bàn việc
đổ tội cho người nông dân lương thiện, tuy chưa phải đã phản ánh đầy đủ sự
câu kết giữa địa chủ phong kiến và thực dân, song cũng rất có ý nghĩa. Nghị
Lại còn là "cánh hẩu" của quan, thường dắt mối cho quan, chi phối cả việc xử
án của quan, rồi dựa thế quan, hắn chỉ huy bọn hào lý địa phương trong việc
đàn áp, đục khoét nhân dân. Và tất nhiên là hắn rất thù ghét cộng sản. Hắn
bảo anh Pha: "Mày không nên ngu dại, nghe hoặc bắt chước đứa vô luân
thường đạo lý, những đứa ngông cuồng, những đứa cộng sản, làm sách, viết
báo để chúng nó nói xấu quan này, nói xấu quan kia. Người ta xấu, người ta
cũng là ông quan cai trị mình"(!).
Trước Bước đường cùng, chưa có tác phẩm văn học nào phơi bày tội
ác của giai cấp địa chủ một cách sâu sắc và toàn diện đến thế.
Mặt khác, với Bước đường cùng, Nguyễn Công Hoan đã có những tiến
bộ quan trọng trong việc thể hiện người nông dân. Trước đó, ông đã có
những sáng tác về nông dân: các truyện ngắn Hai thằng khốn nạn, Thằng
điên, Ngậm cười, Thịt người chết, Chiếc quan tài... và một truyện dài Ông
chủ. Nhưng trong truyện ngắn, ông chưa thể đi sâu vào nỗi khổ của người
nông dân một cách toàn diện, cụ thể và cũng chưa chú ý đến sự phản kháng
của họ.
Đến Bước đường cùng, Nguyễn Công Hoan không những đã đi sâu
miêu tả nổi khổ cực nhiều mặt dẫn tới "bước đường cùng" không gì cưỡng lại
được của người nông dân bị áp bức bóc lột thậm tệ mà còn cố gắng thể hiện
sự phản kháng tích cực của họ để giành quyền sống. Nhân vật Pha có một vị
trí đặc biệt trong văn học hiện thực trước Cách mạng: đó là hình tượng nhân
vật nông dân duy nhất có sự phát triển về ý thức đấu tranh chống kẻ thù giai
cấp đòi quyền sống. Ở nhân vật này có cái gì mới mẻ, tiến bộ và chỉ có thể
giải thích bằng ảnh hưởng của phong trào cách mạng thời kỳ Mặt trận Dân
chủ đối với tác giả. Bước đường cùng vừa là câu chuyện thương tâm về số
phận thê thảm của người nông dân, vừa là lời kêu gọi nông dân vùng lên đấu
tranh để tự cứu. Có áp bức, có đấu tranh, con đường sống duy nhất của
người nông dân là đoàn kết nhau lại, dũng cảm đấu tranh đến cùng với kẻ thù
giai cấp - đó là ý nghĩa toát lên từ hình tượng tác phẩm, cũng còn là chủ đề
tác phẩm, là tâm huyết của tác giả.
Pha, nhân vật trung tâm của tác phẩm - được xây dựng dưới ánh sáng
của tư tưởng đó. Đây là một tính cách có quá trình phát triển về giác ngộ
quyền lợi giai cấp, về ý thức và tinh thần đấu tranh.
Ở những trang cuối cùng của tác phẩm, Pha thể hiện một tinh thần
chiến đấu thật dũng cảm triệt để. Anh nói: "Tôi thề rằng sẽ chiến đấu đến
cùng". Anh đã giữ lời thề. Chiếc đòn gánh phang vào đầu Nghị Lại với tiếng
quát "Đồ ăn cướp" của Pha không còn là sự phản kháng mù quáng liều lĩnh
của kẻ cùng đường bế tắc. Bị trói khiêng đi, biết chắc chắn sẽ bị tù tội song
Pha không tuyệt vọng. "Trông đôi môi mím chặt, thì biết rằng không phải vì
đau mà anh không nói, nhưng chính là anh muốn nuôi trong lòng một mối hận
nghìn năm". Anh còn nói thẳng với những bạn đi theo anh: "Tôi không ở làng
nữa. Tôi không còn gì ở làng nữa. Ngày này sang năm, các anh sẽ biết
chuyện tôi". Anh đang nghiền ngẩm một đường đi. Lời lẽ của Pha mập mờ
nhưng thực ra anh đã có chủ định: sẽ ra mỏ với Hoà, và tiếp tục đấu tranh.
Bước đường cùng đã xây dựng thành công hai nhân vật chính: Nghị
Lại và Pha. Do cái nhìn xã hội tiến bộ, gần với quan điểm giai cấp, nhà văn đã
thể hiện khá sâu sắc bản chất giai cấp bọn địa chủ và số phận người nông
dân lao động.
IV - KẾT LUẬN
Trong mấy năm tiền khởi nghĩa, Nguyễn Công Hoan rơi vào tình cảnh
bế tắc đáng buồn. Có lúc ông làm cả thơ tình bi luỵ, khóc gió than mưa! Sau
này nhớ lại, ông bảo: "Đúng là một trái tính của người viết tiểu thuyết xã hội
sắp đến ngày cáo chung”.
Cách mạng tháng Tám đã giải phóng dân tộc đồng thời giải phóng nhà
văn khỏi sự bế tắc. Nhà văn phấn khởi chào đón cách mạng và hăng hái tham
gia công tác ngay từ buổi đầu. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực
dân Pháp, Nguyễn Công Hoan tận tuỵ trong mọi công tác lớn nhỏ, chủ yếu là
viết báo và dạy học trong quân đội. Ông là một trong số văn nghệ sĩ đầu quân
sớm nhất. Thời kỳ này ông sáng tác ít và không mấy đặc sắc, một phần vì bỡ
ngỡ trong việc phản ánh cuộc sống mới của nhân dân cách mạng. Đối với
một cây bút chỉ quen viết những "mặt trái" dơ dáy, những "cảnh xuống" của
cái xã hội thối nát, điều đó không có gì lạ. Chỉ từ sau khi trở về Thủ đô giải
phóng (1954), Nguyễn Công Hoan mới thật sự chuyên vào công việc sáng
tác, và từ đó, bắt đầu giai đoạn sáng tác dồi dào mới của ông. Giai đoạn này,
ông tập trung sức vào những truyện dài phản ánh xã hội Việt Nam trước Cách
mạng. Ông lần lượt cho in: Tranh tối tranh sáng (1958), Hỗn canh hỗn cư
(1961), Đống rác cũ (tập I, 1963), Anh con trai người bạn đọc ấy (viết 1965 in
1976).
Việc sáng tác của Nguyễn Công Hoan sau Cách mạng chưa có những
thành tựu thật xuất sắc, chưa tương xứng với chủ đề lớn của các tác phẩm
đó và với tên tuổi của nhà văn lớn, có lẽ một phần quan trọng là do nhà văn
đã gần như từ bỏ thể loại sở trường - truyện ngắn trào phúng - để tập trung
sử dụng thể loại mà ông sở đoản - truyện dài.
Chỉ đáng tiếc là, thể loại truyện ngắn trào phúng mà Nguyễn Công
Hoan là cây bút bậc thầy, đã không được ông tiếp tục phát huy. Ở đây có
những khó khăn khách quan và chủ quan, nhưng phải chăng, có phần là do
suốt một thời gian dài sau Cách mạng, vẫn chưa có quan niệm thật đúng, thật
rõ vai trò và tính chất của vũ khí trào phúng trong nền văn xuôi mới, vẫn ngại
tiếng cười phê phán?
Sau Cách mạng, hoạt động văn học của Nguyễn Công Hoan mở rộng
nhiều mặt hơn trước. Ngoài truyện ngắn, truyện dài, ông còn viết ký sự, hồi
ký, trong đó Những ngày tháng Tám ở Côn Đảo (1960, ghi theo lời các chiến
sĩ cách mạng bị tù ở nhà tù Côn Đảo) và Người cập rằng xay lúa năm 1930
(viết 1960, kể lại những ngày ở Côn Đảo của Chủ tịch Tôn Đức Thắng). Đặc
biệt là tập hồi ký về cuộc đời cầm bút của nhà văn: Đời viết văn của tôi
(1971), không chỉ có giá trị ở chỗ đã kể lại trung thực, sinh động quá trình
hoạt động văn học phong phú của tác giả, một nhà văn lớn, mà còn qua đó,
đã dựng lại diện mạo, không khí của đời sống văn học khu vực hợp pháp Việt
Nam thời kỳ trước Cách mạng, một thời kỳ văn học sôi động, phức tạp, lý thú,
trong đó nổi lên những phác hoạ sinh động chân dung nhiều khuôn mặt văn
học đương thời: Tản Đà, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Tam
Lang, Vũ Bằng... Những kinh nghiệm nghệ thuật của nhà văn về viết truyện,
nhất là truyện ngắn trào phúng, được tổng kết trong cuốn sách, cũng có nhiều
ý nghĩa. Sau này, để cung cấp những tài liệu cụ thể về lịch sử, xã hội, văn
hoá, văn học... thời kỳ trước Cách mạng, nhà văn đã "nhớ và ghì" lại hơn 600
sự việc, hiện tượng lớn nhỏ về đời sống Việt Nam cũ (NXB Tác phẩm mới đã
xuất bản một phần sau khi ông mất).
Suốt nửa thế kỷ cầm bút, tiếng nói nghệ thuật vang dội nhất của
Nguyễn Công Hoan là tiếng nói tố cáo gay gắt, đanh thép xã hội Việt Nam
thuộc địa nửa phong kiến đầy bất công và hết sức lố lăng thối nát, là tiếng nói
bênh vực chân thành những con người nghèo khổ bị chà đạp, xúc phạm. Đó
là tiếng nói mạnh khoẻ, đầy tính chiến đấu, đã kế thừa và phát huy tiếng cười
trào phúng đặc sắc giàu sức sống trong văn mạch dân tộc.
Là người khơi nguồn cho dòng văn học "tả chân", "vị nhân sinh" tiến bộ
chảy xiết và cắm ngọn cờ chiến thắng vẻ vang cho nó trong đời sống văn học
khu vực hợp pháp, Nguyễn Công Hoan còn là một trong những người đặt nền
móng cho nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Có mặt ngay từ buổi bình minh của
văn học "quốc ngữ", bằng sức sáng tạo dồi dào dẻo dai, bằng một tài năng
xuất sắc, độc đáo, thấm đậm bản sắc dân tộc, Nguyễn Công Hoan đã đóng
góp quan trọng vào sự phát triển mạnh mẽ đặc biệt của văn xuôi dân tộc
trong thời kỳ đang hiện đại hoá hết sức khẩn trương. Khi nhà văn 60 tuổi, Tô
Hoài đã viết: "Nếu ta nhẩm từ cái hồi mà lời văn bổng trầm khóc đứng khóc
ngồi đến thời kỳ văn chương sạch sẽ kiểu Tự lực thì, lực lưỡng như một tay
đô vật không có địch thủ, từ Kiếp hồng nhan tới nay, truyện ngắn, truyện dài
Nguyễn Công Hoan sừng sững tạo thành một cái thế Tam Đảo, Ba Vì hùng
vĩ, vượt qua hai thời kỳ, tiến vào Cách mạng tháng Tám..." (Người bạn đọc
ấy).
(Trích "Văn học Việt Nam 1900-1945" NXB Giáo dục, Hà Nội 1997)
Phần 2. TÁC PHẨM NGUYỄN CÔNG HOAN NHỮNG THÀNH CÔNG VÀ ĐÓNG GÓP
ĐỌC "TUYỂN TẬP NGUYỄN CÔNG HOAN"
TRƯƠNG CHÍNH
Chúng ta đã viết nhiều về Nguyễn Công Hoan. Ông cũng đã viết về ông
khá đầy đủ trong tập hồi ký Đời viết văn của tôi. (Nhà xuất bản Văn học,
1971).
Nhân tuyển tập của ông ra mắt bạn đọc, tưởng nên có một nhận định
về ông cho toàn diện. Muốn vậy không gì bằng đọc lại tác phẩm đồng thời
dựa vào tập hồi ký trên, tập này có một điều đáng quý là rất trung thực. Ông
không tô son điểm phấn đã đành, nói kỳ hết những điều mình suy nghĩ một
cách thật thà, ngay những lời khen, thấy không đúng, ông cũng không nhận.
Chẳng hạn như về cuốn Bước đường cùng, ông có nhắn nhủ các nhà nghiên
cứu, phê bình mấy lời, chắc ai đọc cũng giật mình: "... Nghiên cứu về những
nhà văn lớp trước, tôi xin anh em chớ gán cho chúng tôi những ưu điểm mà
chúng tôi không có, làm chúng tôi phát ngượng". "Các nhà nghiên cứu phê
bình văn học, coi cuốn Bước đường cùng như là tác phẩm tiêu biểu của tôi.
Mỗi lần nhắc đến những truyện tiến bộ trước Cách mạng, người ta đều nói
đến cuốn ấy. Tôi cho việc này là không đúng". Cho hay viết phê bình về
những nhà văn tiếng tăm, đừng tưởng tìm cách hạ được một lời khen là đắc
sách.
* * *
Điều ông không thể từ chối được là trong các nhà văn hiện thực của ta,
thì ông đứng hàng đầu, không những trước Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô
Hoài, mà cả trước Ngô Tất Tố nữa, mặc dầu tác giả Tắt đèn hơn ông những
mươi tuổi. Thiên truyện có ít nhiều tính chất hiện thực của ông mà chúng ta
được đọc, Sóng vũ môn, là viết năm 1920, một truyện, về nội dung cũng như
về hình thức nghệ thuật, không sút kém so với những truyện của ông sau
này. Tái bản năm 1939, đặt nó đứng cạnh nhiều truyện khác, không thấy
vướng. Khuynh hướng hiện thực của ông càng rõ rệt với những truyện đăng
trên An Nam tạp chí dưới mục Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội ba đào ký. Cho
đến năm 1939, là năm Ngô Tất Tố xuất bản Tắt đèn, ông đã cho in ít nhất 6
tập truyện ngắn hiện thực, gộp lại có đến 89 truyện. Đó là chưa kể những tập
truyện vừa, truyện dài khác. Nguyễn Công Hoan là nhà văn có ngòi bút dồi
dào không ai sánh kịp. Tô Hoài viết về ông một câu nhận định có hình ảnh
như sau:
"Nếu ta nhẩm từ cái hồi mà lời văn bổng trầm, khóc đứng khóc ngồi
đến thời kỳ văn chương sạch sẽ kiểu Tự lực thì lực lưỡng như một tay đô vật
không có địch thủ, từ Kiếp hồng nhan tới nay, truyện ngắn, truyện dài,
Nguyễn Công Hoan sừng sững tạo thành một thế Tam Đảo, Ba Vì hùng vĩ,
vượt qua cả hai thời kỳ, tiến vào cách mạng tháng Tám!" (Người bạn đọc ấy,
Văn nghệ số 2, ngày 10-5-1963).
Một điều nữa cũng khó phủ nhận là tính chất hiện thực của ông bắt
nguồn từ cuộc sống Việt Nam nửa đầu thế kỷ này, chứ không phải mô phỏng
các nhà văn hiện thực Pháp. Ông đủ tiếng Pháp để đọc họ, nhưng ông không
đọc. Về Mô-pat-xăng, ông chỉ đọc có mỗi truyện Lão ăn mày trong một tập
nào đó, "rồi không xem thêm nữa!" Những kẻ khốn nạn của Victo Huygô
mười một quyển, "trông thấy một chồng dầy, tôi mới ngại làm sao. Tôi cố đọc.
Nhưng cũng chỉ được gần một nửa, thì tôi bỏ dở”. Alech-xăng Đuy-ma, mà
ông cho là tài tình nhất, ông cũng chỉ đọc có một chương đầu cuốn Le comte
de Mont Cristo. Có thể nói ông chẳng chịu ảnh hưởng của ai. Nhưng ông
trung thành với yêu cầu của Tản Đà khi mở mục Việt Nam nhị thập thế kỷ xã
hội ba đào ký trên tờ Annam tạp chí tục bản (1930): "Viết những điều mắt thấy
tai nghe trong khoảng 30 năm nay để giao dịch kiến văn, sau là làm tài liệu
cho người sau viết sử". "Những điều mắt thấy tai nghe" đó là "những cảnh
xuống của xã hội", cũng là đề tài mấy lâu nay ông đã viết thành truyện ngắn
rồi, bây giờ ông đem vào. Mục ấy tự nhiên trở thành mục đăng truyện ngắn
của Nguyễn Công Hoan, và truyện ngắn Nguyễn Công Hoan độc quyền mang
cái tên đầy ý nghĩa: "Xã hội ba đào ký". Những cảnh ấy ông lấy ở thời sự
hàng ngày, lấy ở những người thật, việc thật mà ông biết, "chỉ thêm bớt một
đôi chi tiết để làm nổi bật được ý định của mình mà thôi".
Thực ra, những truyện đi xuống trong xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX thì nhan nhản, và là nội dung chủ yếu của thơ Nguyễn Khuyến,
Trần Tế Xương, Nguyễn Thiện Kế. Rất dễ hiểu vì sao Nguyễn Công Hoan
gần gũi và có cảm tình với các nhà thơ ấy, xem các vị như là những người
đồng tình, đồng điệu. Cho nên không phải là nhà nghiên cứu văn học, mà ông
vẫn có những kiến giải khá sâu sắc về các vị. Khi Nguyễn Công Hoan bước
vào làng văn, tính hiện thực từ thơ ca đã chuyển sang kịch nói: Chén thuốc
độc, Toà án lương tâm của Vũ Đình Long, Bạn và vợ của Nguyễn Hữu Kim,
ông Tây An Nam của Nam Xương, rồi lại chuyển sang một thể tài mới là
phóng sự với những cây bút như Tam Lang, Vũ Trọng Phụng. Tam Lang thì
có Những cái mắt thấy, Nạn thất nghiệp ở Hải Phòng, Màn trời chiếu đất, Tôi
kéo xe, Một đêm trước. Vũ Trọng Phụng cũng đã có Cạm bẫy người. Mục Xã
hội ba đào ký của Tản Đà đặt ra để đăng bài viết về "những cảnh đi xuống"
của xã hội là nằm trong phong trào hiện thực ấy. Nhưng Nguyễn Công Hoan
là người có sáng kiến đưa truyện ngắn vào mục này, thật ra ông đã đưa vào
văn chương Việt Nam một cách phản ánh hiện thực xã hội sinh động khái
quát hơn là phóng sự, và đầy đủ, tỉ mỉ hơn là thơ ca. Công của ông ở chỗ đó.
Có thể nói, trước ông, chỉ có mỗi một thiên truyện Sống chết mặc bay của
Phạm Duy Tôn, ngày nay còn đọc được, nhưng truyện này ai cũng biết là
phảng phất truyện Ván bi-a của An-phông-xơ Đô-đê. Một con chim én bay về
chưa thể nói đã là mùa xuân. Phải từng đàn. Với Nguyễn Công Hoan, chúng
ta mới thấy cả đàn chim én.
Nguyễn Công Hoan cũng là người đầu tiên khai thác nguồn cảm hứng
dồi dào của văn học dân tộc. Ấy là truyện cười, truyện tiếu lâm. Những "điều
mắt thấy tai nghe", "cảnh xuống của xã hội", ông đều nhìn bằng con mắt của
người "hay pha trò, hay ỡm ờ, hay chế giễu, hay chua chát" - như chính ông
nhận xét về mình. Nhìn vào đâu, ông cũng thấy toàn những trò cười. Một
người bạn đã nói với ông như sau:
- Mày biết lắm chuyện buồn cười, và hay nói chuyện buồn cười thì mày
nên viết hài kịch.
Quả tình, ông rất thích hài kịch. Nghe người anh đọc, một đoạn hài kịch
Mô-li-e, ông đã từng bắt chước Mô-li-e, cũng làm hài kịch, lấy trộm mũ áo đại
trào của ông bác ra mặc để đóng kịch. Đó là hồi nhỏ. Nhưng khi bắt
đầu cầm bút viết văn, thì ông không viết kịch, vì ông cho là gò bó, mà viết tiểu
thuyết, viết truyện ngắn. Và truyện ngắn của ông chủ yếu là truyện trào
phúng, truyện khôi hài. Ông cho rằng những ai không dám cười là "lãng phí
quá mức sự đứng đắn một cách không cần thiết", nhất là khi trong xã hội Việt
Nam buổi giao thời, có không biết bao nhiêu là chuyện buồn cười! Thế là ông
tìm ra được phong cách độc đáo cho truyện hiện thực của mình. Cũng như
truyện cười dân gian, truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan sử
dụng tiếng cười như một vũ khí đả kích vào thói hư tật xấu trong xã hội.
Hầu như truyện nào của ông cũng xen yếu tố hài hước vào. Ông đặt
nhân vật vào những cảnh ngộ buồn cười để rồi đi đến những kết thúc ngộ
nghĩnh làm cho người ta không thể nhịn cười được. Ông lại dùng thoải mái
những thủ thuật của truyện tiếu lâm, ông thích nói chuyện quan hệ nam nữ, vì
chuyện quan hệ nam nữ cũng dễ gây cười. Mục đích của ông là đánh ngã kẻ
thù và gây tiếng cười, cách nào cũng tốt cả. Thành thử, truyện của ông cũng
xây dựng thành hài kịch. Trong cuốn Đời viết văn, ông tự nhận xét về mình
như sau:
"Tôi là một người bi quan, hoài nghi, nên khinh thế, ngạo vật, hay đùa
và hay chế nhạo. Sống dưới chế độ thống trị của thực dân, tôi thấy cái gì
cũng giả dối, lừa bịp, đáng khôi hài. Thế mà thằng làm trò khôi hài là thằng
thực dân lại làm ra mặt nghiêm chỉnh. Thật là buồn cười. Cho nên tôi hay chế
giễu, mỉa mai để khôi hài tác giả việc khôi hài. Tôi coi thường tất cả. Tất cả
đỗi với tôi chỉ là trò cười. Vì vậy, tôi pha trò cười. Tôi viết tiểu thuyết cũng
mang cái giọng nói của tôi là trào phúng và hài hước... Viết lối văn hài hước
và trào phúng, tôi muốn độc giả đọc mỗi truyện của tôi đều có tiếng cười chua
chát để khinh để ghét, để thù những kẻ đáng khinh, đáng ghét, đáng thù".
Nói như thế là đúng, không cường điệu chút nào. Chỉ có điều là "Tác
giả việc khôi hài" dưới mắt ông không phải lúc nào cũng là bọn thực dân
phong kiến, quan lại, nhà giàu, ông tham, bà phán, tên lính lệ.... Mục đích viết
truyện của ông không phải lúc nào cũng là vạch "những mặt trái của xã hội",
mà rõ ràng có khi ông viết "chỉ để cười cho khoái trí" mà thôi. Có những đối
tượng không nên đem ra làm trò cười, có những chuyện thương tâm, có chi
tiết nào đó cũng buồn cười, nhưng không ai cười được, dưới ngòi ông, vẫn là
đề tài để ông mua vui và mua vui cho người khác. Điều này dính đến lập
trường, quan điểm.
* * *
Lập trường, quan điểm của Nguyễn Công Hoan khi đi vào văn chương
hiện thực là quan điểm, lập trường của một nhà trí thức tiểu tư sản, như phần
lớn các nhà văn của chúng ta trước Cách mạng. Căm thù thực dân phong
kiến và lũ tay sai, ghét cay ghét đắng bọn nhà giàu đê tiện. Nhưng còn mơ
hồ, vì không hiểu rõ bản chất của những đối tượng ấy. Thành ra, đối với
chúng, miếng đòn của ông ác nhưng có khi chưa thật trúng. Tố cáo chúng
dâm ô, hay keo kiệt là vạch những khía cạnh không cơ bản. Còn thương xót
bất cứ ai "không có tiền" thì có khi thương xót nhầm phải một thằng ăn cắp,
một tên lưu manh. Trong một số truyện, ông lẫn lộn bạn và thù, khi nhìn ra kẻ
thù rồi, ông cũng không biết nhằm vào chỗ hiểm mà đánh. Chỉ sau thời kỳ Mặt
trận dân chủ, chịu ít nhiều ảnh hưởng của Cách mạng, sự phê phán của ông
mới sắc bén hơn. Kiểm duyệt bãi bỏ. Ngòi bút ông "tung hoành", chuyển từ
đề tài xã hội sang đề tài chính trị. Có điều, lúc này, những nhà văn hiện thực
trở nên đông đảo, ai cũng có dịp "tung hoành". Ai cũng đả kích không dè dặt
đủ các hạng người trong xã hội thực dân phong kiến, đặc biệt là bọn tư sản,
quan lại, cường hào. Truyện ngắn của ông tuy tiến bộ, nhưng không hấp dẫn
như trước nữa. Nếu như không có Bước đường cùng.
Phải nói ngay rằng, viết tác phẩm này, ông định đưa vào nhiều phong
tục tập quán của nông thôn như các cuốn tiểu thuyết phong tục đương thời.
Lại nữa, tư tưởng chủ đạo trong Bước đường cùng là tư tưởng cải lương,
người nông dân bị áp bức đè nén là vì ngu dốt không được học hành. Và ông
cũng "chưa có ý thức tố cáo" gì cả, chỉ là do "tiềm thức” nên ông chọn những
cảnh như cảnh lên quan, cảnh thu thuế, đốc thuế, cảnh vay nợ, cảnh ăn khao,
cảnh mê tín dị đoan... Nhưng những điều thuộc chủ quan ấy của tác giả
không làm cho tác phẩm giảm bớt ý nghĩa. Bước đường cùng vẫn là tác
phẩm thành công nhất của ông. Ở đây, ông đã thật sự đồng tình với nhân vật
của mình. Ông đã thấy người nông dân bị bóc lột quá đỗi, không nhẫn nhục
được nữa, đã vùng dậy. Pha, nhân vật chính trong truyện, cùng với những
người cùng số phận, đã đoàn kết với nhau, không cho thợ gặt của tên địa chủ
xuống ruộng gặt lúa của mình. Rồi đến khi hắn đưa lính khố xanh về hộ vệ
cho bọn thợ gặt cướp lúa của anh, anh đã hăng tiết lên, vơ được một chiếc
đòn càn, xông vào Nghị Lại, phang một cái thật mạnh vào đầu:
- Đồ ăn cướp!
Sức phản ứng của người nông dân trong Bước đường cùng mãnh liệt
hơn sức phản ứng của người nông dân trong Tắt đèn nhiều. Và cũng tả sự
thất bại của người nông dân trước lực lượng còn mạnh của địa chủ, Nguyễn
Công Hoan không bi quan như Ngô Tất Tố.
Về cuốn Bước đường cùng, trong hồi ký Đời viết văn của tôi, Nguyễn
Công Hoan có viết một đoạn như sau: "Cái sự kiện vùng dậy chưa đúng với
thực tế hồi bấy giờ. Tôi suy nghĩ mãi. Vì chưa bao giờ tôi viết cái gì mà lại
không đúng với thực tế. Đó là vì tôi đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng trong
các sách báo cộng sản hồi bấy giờ". Ông chịu ảnh hưởng của tư tưởng cộng
sản trong sách báo, điều ấy đã rõ. Nhưng nói rằng "cái sự kiện "vùng dậy"
chưa đúng với thực tế, thì lại chứng tỏ ông hiểu chữ "thực tế" một cách hẹp
hòi, và chưa thấy nhiệm vụ của nhà văn. Có thể sự kiện vùng dậy, chưa phổ
biến khắp nơi, nhưng nó đã xảy ra nhiều lần nhất là những năm 30-31 trong
phong trào xô viết Nghệ Tĩnh, và có tính chất điển hình, hợp với quy luật cuộc
sống, có ý nghĩa đối với cách mạng. Nhiệm vụ của nhà văn là phải phản ánh
cái thực tế điển hình đó, có lợi cho cách mạng. Đủ biết ảnh hưởng của tư
tưởng cộng sản đối với ông lúc bấy giờ chưa lấy gì làm sâu sắc.
Cũng chính vì lẽ đó mà sau khi Cách mạng thành công, ông theo cách
mạng, làm việc cho cách mạng, mà cầm bút viết thì lại lúng túng. Những tác
phẩm của ông về sau cũng không gây được tiếng vang như mọi người mong
mỏi. Ông không chịu tìm hiểu chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa một cách
nghiêm túc. Ông quan niệm văn học phục vụ chính trị hết sức đơn giản và
phiến diện. Cho nên tư liệu về xã hội cũ ông dồn vào các cuốn Tranh tối tranh
sáng, Hỗn canh hỗn cư, Đống rác cũ vô cùng phong phú, nhưng chỉ đáp ứng
được sự tò mò của một số độc giả, chứ không đáp ứng được yêu cầu của
cách mạng, không đáp ứng được đòi hỏi của Đảng đối với nhà văn. Trong tập
hồi ký của mình, ông có cho biết một vài kinh nghiệm sáng tác của ông. Ông
nói:
Tôi đã nhìn vào đời hoạt động văn học của tôi mà rút ra một sự thực.
Sự thực ấy là sở dĩ tôi đã viết được tiểu thuyết là do tôi có khiếu, có nhiệt
tình, và nhất là có sống”. Chính câu nói ấy giải thích vì sao, sau cách mạng
ông không có một thành tựu nào đáng kể. Kinh nghiệm của ông là kinh
nghiệm của người viết văn thời trước, khi chưa có Đảng, chưa có chủ nghĩa
hiện thực xã hội chủ nghĩa, ai muốn viết gì, viết thế nào thì viết, không cần
theo đường lối nào cả.
Ngày nay khác. Có những vấn đề mà nhà văn không thể không biết.
Ví dụ như phản ánh thực tế, nhưng là thực tế nào? Hiện thực phê phán khác
hiện thực xã hội chủ nghĩa ở chỗ nào? Viết về đời sống cũ như thế nào cho
hợp với yêu cầu của thời đại? Nói chuyện dâm loạn thời trước, đến mức độ
nào thì có ý nghĩa tố cáo, mức độ nào thì có tác dụng ngược lại? Phản ánh
cái xấu của xã hội mới như thế nào? Xây dựng nhân vật tích cực, chính diện
ra sao? Vân vân và vân vân. Quả có như ông nói: "Nghề viết văn, không phải
do đọc lắm kinh nghiệm và lý luận mà thành thạo được. Muốn thành thạo,
trước hết ta phải làm và làm nhiều. Anh muốn biết bơi thì anh phải nhảy
xuống nước mà tập. Chỉ đứng trên cạn mà hỏi cách thì thiên vạn cổ anh cũng
chẳng biết bơi".
ĐỌC LẠI TRUYỆN NGẮN TRÀO PHÚNG CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN
NGUYỄN ĐĂNG MẠNH
Phong cách Nguyễn Công Hoan không thiên về lối thâm trầm kín đáo.
Ông thích bốp chát, đánh vỗ ngay vào mặt đối phương. Tiếng cười đả kích
của Nguyễn Công Hoan, vì thế, thường là những đòn đơn giản mà ác liệt.
Những vấn đề chỉ có ý nghĩa khi nhà văn nhằm trúng đối tượng cần
đánh, nghĩa là kẻ thù thật sự của nhân dân, của cách mạng. Cái gì đã chỉ đạo
nhà văn trào phúng của chúng ta trong việc xác định đối tượng đả kích?
Trước hết, đó là một quan điểm xã hội tạm gọi là quan điểm giàu
nghèo. Hầu hết truyện ngắn, truyện dài của Nguyễn Công Hoan đều xoay
quanh sự đối chọi giữa kẻ giàu và người nghèo. Một đằng chẳng làm gì cả
mà ăn ngập mày ngập mặt không hết tiền, hết của. Một đằng thì vất vả đủ
đường mà suốt đời đói rách. Hai cái bụng có thể coi là dạng kết cấu đơn giản
nhất nhưng tiêu biểu của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan theo quan điểm nói
trên. Đây là một thứ quan điểm xã hội có tính chất kinh nghiệm chủ nghĩa,
nhưng dù sao cũng có nội dung chân lý phổ biến của nó. Ở Nguyễn Công
Hoan, quan điểm này đã trở thành một niềm tin, một nguyên tắc nhận thức
luận bền vững giúp ông khám phá ra biết bao chuyện bất công, vô lý, vô
nghĩa trong xã hội cũ.
Trong sự đối lập giàu nghèo ấy, dĩ nhiên nhà văn đứng về phía người
nghèo. Vì lối đánh là lối đánh ác, nên một khi đánh trúng thì truyện ngắn của
Nguyễn Công Hoan thường đem đến cho độc giả những giây phút hả lòng hả
dạ. Đó là những khi đòn châm biếm giáng vào bọn thực dân, quan lại (cả
quan ông lẫn quan bà), bọn tư sản, địa chủ, cường hào, lính tráng. Ông ghét
cay ghét đắng hai tội này của chúng: cậy quyền cậy thế lấy thịt đè người và
tham lam vô độ, vơ vét cả đến đồng xu cuối cùng của người dân nghèo.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Công Hoan tả chứng nhất loạt đều to béo,
béo đến chảy mỡ, đến phát phì ra. Đây là cách giải thích rất Nguyễn Công
Hoan: "Tôi cực lực công kích sách vệ sinh đã dạy ta ăn uống phải sạch sẽ,
nếu ta muốn được khoẻ mạnh, béo tốt. Thuyết ấy sai. Trăm lần sai! Nghìn lần
sai! Vì tôi thấy sự thực, ở đời này, bao nhiêu những anh béo khoẻ, đều là
những anh thích ăn bẩn cả" (Đồng hào có ma). "Ăn bẩn" nghĩa là đục khoét
dân, hút máu hút mủ của dân. Hàng loạt truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan
chỉ xoay quanh các mánh khoé "ăn bẩn" của bọn quan lại, cường hào thôi mà
không hề trùng lặp. Có những cách "ăn uống" thật oái ăm, kỳ lạ và hết sức đê
tiện. Nghĩ lại, thấy người dân đen ngày trước thật cực khổ vô cùng: Khổ vì
nghèo đói đã đành, đến con chết cũng không được chôn (Thịt người chết),
mẹ chết không được đưa ra đồng (Người thứ ba), thậm chí khóc cũng không
được khóc.
"Cụ thư ký (...) mặt hầm hầm, trỏ ba toong vào mặt chị Cu, hất hàm hỏi:
- Ai cho phép mày khóc?
- Lạy cụ, mẹ con chết thì con khóc.
Rồi không nhịn được nỗi thương tâm, chị ti tỉ:
- Mẹ ơi!
Hai mắt long lên, cụ Ký giơ năm đầu ngón tay:
- Ông thì vả vỡ tan họng mày ra bây giờ! Mẹ mày chết, mày đã trình
báo gì tao chưa, mà đã dám khóc?" (Công dụng của cái miệng).
Có một đề tài cứ trở đi trở lại luôn trong truyện ngắn của Nguyễn Công
Hoan: Chuyện ăn cắp, thói ăn cắp. Có lẽ xoay quanh những vụ trộm cắp, nhà
văn dễ tìm ra những tình tiết ly kỳ hấp dẫn chăng? Có phần chắc là, viết về đề
tài này, Nguyễn Công Hoan có dịp thuận tiện để đem công lý của người
nghèo chọi lại một cách thú vị "công lý" của nhà giàu. Nghĩa là ông đóng vai
trạng sư cãi trắng án cho những kẻ ăn cắp do nghèo đói mà phải ăn quỵt hai
xu bún riêu, bốc trộm củ khoai, một tấm bánh (Thằng ăn cắp, Bữa no đòn,
Thế cho nó chừa...), ngược lại, ông chỉ đích danh thủ phạm chính là bọn nhà
giàu. Cách dựng truyện ở đây dắt dẫn độc giả bắt quả tang những vụ trộm bất
ngờ: Chẳng hạn, Cái ví ấy của ai? là chuyện mấy ông huyện, ông đốc, bà
tham, bà cử nào đó rất chi là sang trọng lịch sự, đang khiêu vũ với nhau, nói
toàn tiếng Tây, tưởng đâu chỉ có say vì nhạc, mê vì tình. Ấy thế mà xoay ra
lần ví của nhau. Thằng Quýt tố cáo một ông phán ăn cắp tiền của đầy tớ một
cách đểu giả, độc ác. Cụ Chánh Bá mất giày cũng là một kiểu ăn cắp không
hơn không kém: dựng đứng lên chuyện mất cắp để thực sự ăn cắp một đôi
giày mới. Đê tiện và bất ngờ nhất có lẽ là vụ Đồng hào có ma: người dân đen
ngày trước đã vào đến cửa quan thì như con sâu cái kiến, ai chửi bới, bóp
nặn cũng phải chịu. Nhưng có ngờ đâu quan huyện oai vệ là thế mà lại đi ăn
cắp mà ăn cắp một đồng hào đánh rơi của người dân nghèo, mặt cứ tỉnh như
không, đúng là ăn cắp chính tông! Một trường hợp khác còn có phần ly kỳ
hơn: quan huyện ăn cướp của một thằng ăn cướp đến nỗi nó phải giải nghệ
vì lỗ vốn to với quan lớn (Thằng ăn cướp)...
Thế là trong cái xã hội của truyện ngắn, truyện dài Nguyễn Công Hoan,
bọn thống trị chỉ là một lũ ăn cắp, ăn cướp. Luật pháp của chúng bày ra chỉ là
để đè đầu người dân xuống mà ăn cắp, ăn cướp. Nguyễn Công Hoan đã
phản ánh được chính xác, một khía cạnh bản chất của hiện thực.
Quan điểm gọi là giầu nghèo dĩ nhiên là có nhiều nhược điểm. Bởi vì
giàu, nghèo là những khái niệm khá mơ hồ. Ta hiểu vì sao ngòi bút của
Nguyễn Công Hoan nhiều phen chuệch choạc, lẫn lộn bạn thù, nhất là trong
những sáng tác thời kỳ đầu. Đến thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936-1939), chịu
ảnh hưởng của Cách mạng, ngòi bút Nguyễn Công Hoan có những bước
chuyển biến rõ rệt: quan điểm giàu nghèo có xu hướng đi tới gần quan điểm
giai cấp. Vì thế, tuy cũng nhằm vào những đối tượng cũ, nhưng những đòn đả
kích của ông bây giờ nhiều khi đã đụng được đến bản chất giai cấp của
chúng. Sức tố cáo của ngòi bút Nguyễn Công Hoan do đó càng mãnh liệt
hơn, ý nghĩa khái quát của hình tượng càng rộng lớn, sâu sắc hơn (Sáu mạng
người, Thịt người chết, Tấm giấy một trăm...) Nhiều tác phẩm khác dám đánh
thẳng vào bọn thực dân và những chính sách xảo quyệt của chúng (Sáng, chị
phu mỏ, Đào kép mới, Tinh thần thể dục,...)
Một chuyển biến quan trọng nữa của nhà văn là từ chỗ chỉ quẩn quanh
với những lớp dân nghèo thành thị (phu xe, kép hát, người ở, ăn mày, gái
điếm, lưu manh...), ông đã mở rộng thế giới nhân vật của mình, đi vào đời
sống công nhân, nông dân. Mà không phải chỉ mô tả như những nạn tiêu cực,
mà còn phát hiện ở họ bản chất ngoan cường bất khuất. Hình ảnh chị công
nhân Sáng quyết liệt chống lại thằng chủ Tây dâm ác trong Sáng, chị phu mỏ,
và hình ảnh anh Pha phang đòn gánh vào đầu tên địa chủ Nghị Lại trong
Bước đường cùng, cũng xuất hiện năm 1938, tuy chưa chứng tỏ nhà văn đã
nhận thức được điều gì rõ ràng, chính xác về đường lối cách mạng, nhưng
trong khuôn khổ của chủ nghĩa hiện thực phê phán, đó là những dấu hiệu tư
tưởng mới mẻ, táo bạo chỉ có thể có được trong không khí cách mạng sôi nổi
lúc bấy giờ.
Về thời kỳ sáng tác này của Nguyễn Công Hoan, riêng tôi rất chú ý đến
mấy truyện ngắn này: Chiếc quan tài (I), Tôi cũng không hiểu tại làm sao? (I
và II). Có một cái gì như là sự thay đổi về bút pháp một cách đặc biệt. Câu
chuyện về chiếc quan tài lênh đênh trên đồng nước lụt, cứ ám ảnh người đọc,
gợi lên biết bao suy nghĩ về kiếp sống thê thảm của người dân cày; sống đã
không thước đất cắm dùi, chết cũng không có chỗ mà chôn, sống điêu đứng
vất vả, chết lại đành chịu cho gió dập, sóng vùi... Tôi cũng không hiểu tại làm
sao? lại thuộc vào số những tác phẩm không phổ biến lắm của nhà văn viết
về cái nhục của người dân nô lệ: "Nô lệ thì đâu có nhân cách mà giữ", ở
những tác phẩm như thế, tiếng cười của Nguyễn Công Hoan có nội dung trữ
tình cảm động, thật sự là tiếng cười ra nước mắt.
Tiếng cười của Nguyễn Công Hoan xét về một phương diện nào đó,
như là muốn kế tục mạch trào phúng của Tú Xương vậy. Cũng như Tú
Xương, ông cảm thấy đau đớn, phẫn uất trước tình trạng chủ nghĩa thực dân
và sinh hoạt tư sản đã đẻ ra biết bao quái thai, ngang nhiên xéo lên những
truyền thống đạo đức của cha ông.
Tú Xương từng chứng kiến:
Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.
Đến thời Nguyễn Công Hoan, tình trạng còn thối nát hơn nhiều. Nhà
văn đã ghi lại nhiều cảnh thật tồi tệ; Một ông chủ xe ô tô Con Cọp nào đó giỗ
cha rất linh đình, nhưng mà mẹ nghèo còn sống sờ sờ ra đây thì cấm cửa
(Báo hiếu: trả nghĩa cha), một bà tham hay bà đốc gì đó đã đền ơn chồng
bằng cách "Thế rồi mợ nó đi Tây"; một ông viên chức nọ vác ba toong dạy vợ
về đạo tòng phu, hiểu theo nghĩa phải vâng lệnh chồng đi ngủ với cấp trên
(Xuất giá tòng phu), một bà quả phụ quan tuần phủ kia kiếm được bốn chữ
"Tiết hạnh khả phong" bằng cách vứt bỏ chính cái tiết hạnh của mình (Một
tấm gương sáng), Hai thằng khốn nạn, Thật là phúc, Mất cái ví, Thằng điên...
cũng đều là những truyện đặc sắc nói về tính cách "khốn nạn" của bọn thống
trị, bóc lột trong xã hội cũ. Ở những tác phẩm như thế, quan điểm đạo đức đã
thống nhất chặt chẽ với quan điểm giàu nghèo, giúp nhà văn luyện được
những đòn vừa chính xác vừa hiểm hóc.
Đối với nhà văn trào phúng, việc tìm ra mâu thuẫn trào phúng cũng có ý
quyết định hệt như việc tìm ra tứ thơ đối với một nhà thơ. Nhưng nếu từ tứ
thơ đến bài thơ còn biết bao việc phải làm, thì từ mâu thuẫn trào phúng đến
một truyện ngắn trào phúng hoàn chỉnh cũng thế. Công việc quan trọng nhất
phải giải quyết là sắp xếp cốt truyện, xây dựng nhân vật và chọn cách kể
chuyện. Ở những nhà văn nào khác, tính cách là trung tâm, tính cách chi phối
cốt truyện, nhưng ở Nguyễn Công Hoan thì ngược lại, cốt truyện là điều quan
trọng nhất, nhiều khi để cho cốt truyện ly kỳ hấp dẫn, nhà văn sẵn sàng hy
sinh cả tính hợp lý, tính chân thực của những quá trình diễn biến tâm lý nhân
vật (Chồng cô Kếu, Gái tân thời, Cái vốn để sinh nhai, Tôi xin hết lòng, Truyện
Trung Kỳ...). Nhược điểm này càng bộc lộ rõ hơn, nặng hơn ở truyện dài của
Nguyễn Công Hoan. Nhưng để bù lại, ông có một cái duyên kể chuyện hết
sức hấp dẫn. Người ta nói có nhà văn hài hước nào đó đã buộc cả kẻ thù
phải bật cười. Sự thực, có nhiều người thuộc một xu hướng thẩm mỹ khác,
không tán thành Nguyễn Công Hoan về quan điểm này, quan điểm khác,
thậm chí cho những điều ông viết là bịa đặt, vô lý nữa, vậy mà vẫn bị ông lôi
cuốn không sao cưỡng lại được. Thành công của Nguyễn Công Hoan do
nhiều nguyên nhân: phương thức kể chuyện biến hoá, tài vẽ hình, vẽ cảnh
sinh động, khả năng dựng đối thoại có kịch tính, giọng kể chuyện tự nhiên
hoạt bát, lối ví von so sánh độc đáo, cách chơi chữ táo bạo, dí dỏm... Nhưng
về đại thể, bí quyết chủ yếu vẫn là nghệ thuật dẫn dắt tình tiết sao cho mâu
thuẫn trào phúng, tình thế hài hước bật ra ở cuối tác phẩm một cách thật đột
ngột bất ngờ. Ở đây, một trong những thủ thuật hóm hỉnh nhất của Nguyễn
Công Hoan là dùng những chi tiết đánh lạc hướng độc giả khỏi cái đích thật
sự của câu chuyện. Người đọc càng bị lạc đi xa bao nhiêu thì khi truyện kết
thúc, càng bị bất ngờ bấy nhiêu. Đây là chỗ mà nhà trào phúng có thể nghĩ ra
đủ thứ "cạm bẫy” thú vị. Cũng là thủ thuật đánh lạc hướng, nhưng ở nhiều
trường hợp, tác giả lại dùng một loại nhân vật đóng vai người trong cuộc hay
người chứng kiến. Nhân vật này bộ dạng thường thật thà, ngớ ngẩn, kỳ thực
mang tất cả cái hóm hỉnh, ranh mãnh của nhà văn (Lại chuyện con mèo, Nỗi
lòng ai tỏ, Oẳn tà rroằn, Cái lò gạch bí mật, Lập gioòng...)
Nói chung, nghệ thuật trào phúng chấp nhận rộng rãi biện pháp phóng
đại. Thực ra, trong văn học trào phúng thường có hai lối gây cười. Có lối gây
cười gián tiếp, nghĩa là cứ trình bày khách quan và bình luận sự việc, để mặc
cho người đọc tự mình rút ra kết luận trào phúng từ chính cái vô lý, vô nghĩa,
cái lố bịch, ngu xuẩn của hiện thực được phản ánh. Lối gây cười này thường
thấy ở những phong cách thâm trầm, kín đáo. Nhưng cũng có lối gây cười
trực tiếp, nghĩa là nhà văn không giấu giếm vai trò bố trí sắp xếp của mình đối
với câu chuyện và đặc biệt thường dùng lối phóng đại để làm nổi bật tính chất
hài hước của nó. Tiếng cười Nguyễn Công Hoan thuộc loại thứ hai này.
Muốn đánh giá đầy đủ vị trí văn học sử của Nguyễn Công Hoan, cần
nhớ lại nền văn xuôi nước ta trong buổi đầu xây dựng khoảng trước sau năm
1930. Lúc bây giờ trên sách báo còn đầy rẫy thứ văn biền ngẫu ước lệ sáo
rỗng, dài dòng, luộm thuộm. Lối viết của Hoàng Tích Chu có nhu cách tân táo
bạo đây nhưng lại quá cộc lốc. Sau này những cây bút Tự lực văn đoàn có
đưa đến cho câu văn xuôi khả năng diễn đạt nhuần nhị và trong sáng hơn,
nhưng là thứ trong sáng của ngôn ngữ trí thức trưởng giả, cũng nhanh chóng
trở thành kiểu cách, mòn sáo. Chính lúc ấy Nguyễn Công Hoan xuất hiện, đã
tìm được cho mình hướng đi đúng đắn: hướng đi của chủ nghĩa hiện thực,
của tiếng nói giàu có và đầy sức sống của nhân dân. Bị lôi kéo bởi nhu cầu
trào phúng có lúc mất tỉnh táo, ông đã đem lầm vào văn học một ít rác rưởi
của ngôn ngữ vỉa hè. Nhưng nhìn chung tiếng nói văn học của Nguyễn Công
Hoan là thứ tiếng nói giản dị, trong sáng, linh hoạt, mới mẻ, và rất đỗi Việt
Nam.
Cũng cần đánh giá cao vai trò của Nguyễn Công Hoan trong việc xây
dựng và phát triển thể tài truyện ngắn hiện đại ở nước ta. Mấy năm sau này
sẽ xuất hiện hàng loạt cây bút truyện ngắn xuất sắc như Thạch Lam, Nam
Cao, Nguyên Hồng, Thanh Tịnh, Tô Hoài, Bùi Hiển... Nhưng lịch sử văn học
vẫn mãi mãi ghi đậm nét tên tuổi của những người có công phá lối, mở
đường, tiêu biểu là Nguyễn Công Hoan.
Tuy nhiên nếu như thể tài truyện ngắn nói chung đã được nhiều nhà
văn có tài năng nối tiếp nhau phát triển và hoàn thiện mãi, thì riêng lối truyện
ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan, chưa thấy có cây bút kế thừa. Điều
đáng chú ý là ngay bản thân Nguyễn Công Hoan, sau Cách mạng tháng Tám,
cũng không tiếp tục thể tài rất sở trường này của mình nữa.
Trong nhiều lý do, có thể lý do này chăng: chúng ta chưa chú ý đúng
mức tới văn xuôi trào phúng cũng như chưa chú ý đúng mức tới nhiệm vụ
phê phán của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, bản thân nghệ
thuật trào phúng hiện thực xã hội chủ nghĩa cũng có khó khăn riêng của nó.
Hình như ở đây, tính đảng phái thật sự trở thành bản năng, phải thấm sâu
vào thói quen tư duy nghệ thuật thì mới có thể có được tiếng cười chân thực,
thoải mái mà chính xác.
Trong văn học cũng như trong đời sống, cười cợt tự nhiên mà sâu sắc
chính xác vẫn chứng tỏ bản lĩnh cao hơn là nói chính xác một cách nghiêm
nghị khô khan.
Dù sao cũng không thể đi đến kết luận nào khác là cần phải chú ý phát
triển mạnh mẽ hơn nữa các thể loại văn học trào phúng, nhất là văn xuôi, và
hiện tượng cho đến nay, chưa có ai vận dụng và phát huy kinh nghiệm của
truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan là một hiện tượng đáng tiếc.
8-1978
(Nhà văn, tư tưởng và phong cách. NXB Văn học, Hà Nội, 1983)
NGUYỄN CÔNG HOANNGUYỄN ĐỨC ĐÀN
1. Mấy ý kiến về truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan
Nguyễn Công Hoan là nhà văn viết sớm và viết nhiều. Ông có cái vinh
dự là người đi tiên phong của trào lưu văn học hiện thực phê phán. Ông bước
vào làng văn từ những năm 20. Riêng truyện dài có ngót hai chục tác phẩm.
Truyện ngắn phải tính đến hàng trăm. Hai tập chọn lọc do Hội nhà văn xuất
bản gồm 68 truyện mới chỉ là một số ít.
Với một số lượng khá lớn như vậy, truyện ngắn của Nguyễn Công
Hoan họp lại thành một bức tranh rộng lớn, khá đầy đủ về xã hội cũ. Hầu hết
các tầng lớp trong xã hội thực dân phong kiến đều có mặt: nông dân, công
nhân, tiểu tư sản, trí thức làm các nghề tự do như thầy thuốc, nhà làm báo,
nhà văn, nhà giáo, các nghệ sĩ, rồi tư sản, nhà buôn, nhà thầu khoán, địa chủ,
quan lại, cường hào, nghị viện, công chức, học sinh, cô đào, nhà thổ, đứa ở,
phu xe, kẻ cắp, anh hát xẩm, chị bán hàng rong, binh lính, bồi bếp... từ các
giai cấp bị áp bức bóc lột, các giai cấp thống trị và các tầng lớp trung gian cho
đến những người ở dưới đáy (bas-fond) của một xã hội hết sức phức tạp. Tất
cả đều có vai trò trong tấn bi hài kịch đồ sộ với bao nhiêu màn, lớp.
Trên sân khấu ấy đã diễn ra hầu như đủ mọi tân trò đời, bao nhiêu
truyện ngắn là bấy nhiêu cảnh sống của cái xã hội thối nát cũ. Tất nhiên đó
đây cũng có những nét vẽ lệch lạc hoặc ít hoặc nhiều nhưng toàn phòng triển
lãm toát lên một ý nghĩa tố cáo mạnh mẽ. Người xem tranh có thể tự mình rút
ra một kết luận: xã hội ấy thật là đen tối, bất công, bẩn thỉu, và như vậy thì
nhất định không thể tồn tại lâu dài được. Thay đổi như thế nào đây, chúng ta
chưa biết và cố nhiên nhà văn cũng chưa thể nói cho ta biết được nhưng nhất
định là phải thay đổi.
Chúng tôi nghĩ rằng nhà nghệ sĩ làm cho người xem đi đến kết luận
như vậy là đã thành công. Trong bức thư gửi Mina Kaoxki năm 1885,
Ăngghen có viết: "Một cuốn tiểu thuyết có xu hướng xã hội chủ nghĩa đã hoàn
thành sứ mệnh của nó khi vẽ lên một bức tranh trung thành với các mối quan
hệ hiện thực, nó đã phá huỷ những ảo tưởng giả tạo về bản chất của các mối
quan hệ ấy, làm lung lay chủ nghĩa lạc quan của xã hội tư sản, buộc người ta
phải nghi ngờ tính chất trường cửu của trật tự hiện hành mặc dầu tác giả
không trực tiếp chỉ ra giải pháp, mặc dầu có trường hợp tác giả không đứng
về một phía nào rõ ràng".
Ở trường hợp Nguyễn Công Hoan nếu chúng ta xếp các nhân vật
thành hai tuyến đối lập, ta sẽ thấy rằng mặc dầu có đôi khi nhà văn chưa hẳn
đã đứng ở tuyến những người bị áp bức bóc lột nhưng khi nào ông cũng
đứng ở thế đối lập với tuyến thống trị.
Ngay từ năm trước 1930, có lần Nguyễn Công Hoan đã đưa lên sân
khấu cái mâu thuẫn gay gắt trong đời sống giữa bọn tư sản và những người
cùng khổ trong xã hội.
Một em bé vì quá đói đã liều mạng tranh nhau đĩa cơm với một con chó
của nhà tư sản. Tên tư sản đã phóng bừa ô tô đuổi theo, định tâm đâm chết
em vì em đã làm gãy mất chiếc răng của con chó trong lúc tự vệ. Cái răng của
con chó còn quí hơn sinh mạng của em bé! Tên tri huyện trong Đồng hào có
ma đang tâm ăn một đồng hào của người đàn bà nghèo khổ. Hắn lấy chân
giậm lên đồng hào chờ cho người đàn bà tìm mãi không thấy, phải bỏ đi mới
cúi xuống với tay nhặt đồng hào lên, phủi sạch bỏ vào túi. Đồng hào có ma
làm cho chúng ta liên tưởng đến một truyện ngắn của Sêkhôp, trong đó có
một viên chức vừa giơ tay cầm đồng tiền hối lộ thì cũng vừa lúc lão giám đốc
vào phòng. Hắn sợ quá cứ để nguyên đồng tiền trong lòng bàn tay và nói với
người dân: "Kìa, mày để quên cái gì trong tay tao đấy kìa!".
Năm 1933, Nguyễn Công Hoan viết Kép Tư Bền, câu chuyện một
người nghệ sĩ, hôm cha chết cũng còn phải hò hét trên sân khấu cho thiên hạ
mua vui. Số phận của người nghệ sĩ trong xã hội cũ là như vậy. Tài năng của
họ chỉ là một món hàng hoá, người ta có thể mua. Cũng như câu chuyện có
thật ở vùng tạm chiếm miền Nam năm trước về cái chết của một nghệ sĩ hài
hước, một "ông vua cười" đã làm cho thiên hạ phải cười rất nhiều nhưng bản
thân ông lại chưa bao giờ được cười bởi lẽ cuộc đời của ông quanh năm suốt
tháng chỉ vùi đầu vào những lo lắng về đời sống vật chất. Kép Tư Bền được
dư luận khen ngợi và đã mở đầu cho cuộc tranh luận lớn về nghệ thuật. Tôi
cũng không hiểu tại làm sao là một truyện đặc sắc về tâm sự đau xót của
những người công chức còn có lương tri, lòng tự trọng nhưng cuối cùng chỉ vì
miếng cơm manh áo mà phải luồn cúi, phải chịu nhục với bọn chủ. Sáng, chị
phu mỏ viết về tư sản và công nhân, tuy chưa đề cập đến quan hệ bóc lột lao
động nhưng nhà văn đã miêu tả một hình tượng nhân vật công nhân khá đẹp
đẽ bên cạnh một nhân vật tư sản hết sức bất nhân, đểu cáng.
Nguyễn Công Hoan đả kích, châm biếm những thói tục lố lăng cùng cái
thế thái nhân tình của một xã hội trong đó đồng tiền làm bá chủ: Nỗi lòng ai tỏ,
câu chuyện một cô gái nhà giàu đâm ra ngớ ngẩn vì mê tiểu thuyết, Xuất giá
tòng phu, người đàn bà vì chồng mà phải lấy thân mình làm quà cho ông chủ,
Báo hiếu: trả nghĩa cha, Báo hiếu: trả nghĩa mẹ... Nhưng thành tựu chính của
Nguyễn Công Hoan là trong một loạt truyện ông đã đưa bọn thống trị lên sân
khấu cho chúng tự lột mặt nạ trước quần chúng. Cái sở trường của Nguyễn
Công Hoan chính là ở chổ đó, cái sở trường tố cáo, vạch mặt bọn thống trị.
Chúng ta thấy rõ ràng Nguyễn Công Hoan là nhà văn có tài xây dựng
nhân vật phản diện. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật phản diện của
Nguyễn Công Hoan, Trương Chính cho rằng "cách tập trung tất cả những tính
xấu vào nhân vật phản diện là cách sáng tạo điển hình màu nhiệm nhất. Cách
đó sẽ làm cho nhân vật trở thành kỳ dị, thiếu tính chất hiện thực và do đó mất
tác dụng của nó". Chúng tôi không nghĩ như vậy. Việc xây dựng nhân vật
phản diện cho phép nhà văn được tô đậm, khuếch đại những nét tiêu biểu.
Chúng tôi nghĩ rằng trong thực tế đời sống xã hội ngày xưa, quả nhiên bọn
thống trị xâu xa, bẩn thỉu vô cùng, e rằng nếu nhà văn cố tình tô vẽ một vài
nét sáng sủa cho có vẻ "thực" hơn thì chính lại là không thực. Banzăc đã từng
nói rằng những câu chuyện bịa trong tuyết thuyết thực ra còn thua xa so với
những câu chuyện có thực trong cuộc đời. Đúng như vậy. Chỉ sợ nhà văn
chưa nói hết cái xấu của bọn thống trị trong xã hội thực dân phong kiến thối
nát chứ không sợ nhà văn nói quá.
Biểu hiện thành công các nhân vật phản diện là sở trường của nhà văn
hiện thực phê phán. Chúng ta thấy khi xây dựng nhân vật chính diện, có khá
nhiều trường hợp Nguyễn Công Hoan không thành công, cố nhiên cũng có
những truyện trong đó nhân vật chính diện là nhân vật trung tâm và tốt: Sáng,
chị phu mỏ, Anh xẩm, Kép Tư Bền, Thằng Quýt, Phành phạch... Ở đây nhân
vật chính diện chưa có gì sâu sắc lắm nhưng biểu hiện một cái nhìn đúng
đắn, một thái độ thông cảm trung hậu của tác giả. Nhưng các trường hợp
không thành công của Nguyễn Công Hoan về mặt này không phải ít. Không
phải không có lý do khi Nguyễn Công Hoan viết trong Đời viết văn của tôi:
"Nhân vật quen thuộc của tôi đều là những nhân vật xấu trong xã hội thuộc
Pháp. Họ là bọn nhà giàu cậy quyền thế mà áp bức bóc lột người nghèo. Họ
là quan lại, là địa chủ, là tư sản, là tiểu tư sản lớp trên. Vẽ họ tôi tìm đủ các
nét nhơ bẩn về vật chất cũng như về tinh thần. Còn nhân vật chính diện thì tôi
thường chỉ tả họ qua ngôn ngữ, cử chỉ để thấy được con người của họ". Tác
giả viết tiếp: "Tôi vẽ người xấu nhạy hơn người tốt. Bởi vì tôi vốn bi quan nên
nhìn mọi nhân vật bằng con mắt hoài nghi, chỉ thấy phía xấu. Phía xấu dễ
nhập tâm hơn phía tốt". Chính vấn đề là ở chỗ này. sống trong một xã hội mà
bọn thống trị bày ra trước mắt đủ mọi thứ xấu xa, nhà văn đi đến chỗ hoài
nghi con người và nhìn tầng lớp nào trước hết cũng thấy mặt xấu. Do thiếu
một quan điểm giai cấp chính xác, vững vàng mà Nguyễn Công Hoan nhiều
khi đã nhìn quần chúng nghèo khổ một cách lệch lạc, thậm chí có những tiếng
cười châm biếm, rất lạc điệu.
Về nghệ thuật viết truyện ngắn, phải nói rằng Nguyễn Công Hoan là
người có nhiều khả năng và kinh nghiệm. Truyện của ông thường rất ngắn.
Lời văn khúc triết, giản dị. Cốt truyện được dẫn dắt một cách có nghệ thuật để
hấp dẫn người đọc. Thường kết cục bao giờ cũng đột ngột. Mỗi truyện
thường như một màn kịch ngắn có giới thiệu, thắt nút và mở nút.
2. Đọc lại Bước đường cùng
Trước hết phải nói rằng Bước đường cùng là một tập tư liệu có giá trị
về xã hội cũ. Nguyễn Công Hoan đã từng nói rằng lúc viết tiểu thuyết, thực ra
ông chưa hiểu gì về lý luận của chủ nghĩa hiện thực phê phán mà thường
nghĩ rằng mình viết những tiểu thuyết phong tục. Quả thật trong Bước đường
cùng, tác giả đã ghi lại rất nhiều tư liệu về phong tục của xã hội thực dân
phong kiến. Những cảnh vợ đẻ ở nông thôn, cảnh nông dân thù hằn nhau,
cảnh vào cửa quan với bao nhiêu nhũng nhiễu, phiền phức, cảnh khao làng
xóm họ mạc khi có con thi đỗ, cảnh thu sưu thuế và kìm kẹp đánh đập, bắt
trâu bò như ăn cướp, cảnh lính lệ về sách nhiễu nhân dân... Đọc Bước
đường cùng những anh em trẻ tuổi của thế hệ sau cách mạng sẽ hiểu được
rất nhiều những cảnh lố lăng, ngang trái của xã hội cũ. Những cảnh ấy đã
được ngòi bút của Nguyễn Công Hoan ghi lại bằng những nét thật sinh động.
Nhưng trong Bước đường cùng, cái thành công chính của Nguyễn Công
Hoan không phải ở đấy mà là ở chủ đề tư tưởng tiến bộ của tác phẩm thể
hiện thông qua hệ thống hình tượng nhân vật.
Bước đường cùng là câu chuyện về số phận một người nông dân bị áp
bức bóc lột trong xã hội thực dân phong kiến, bị bần cùng hoá đến mức phải
đứng dậy phản kháng lại bọn thống trị. Cũng như ở truyện ngắn, trong Bước
đường cùng Nguyễn Công Hoan dàn nhân vật thành hai trận tuyến rõ rệt. Ở
đây nhà văn tập trung sự chú ý vào hai nhân vật, một chính diện (Pha) và một
phản diện (Nghị Lại) trong đó chủ yếu là nhân vật chính diện. Điều này không
giống như ở nhiều truyện khác của Nguyễn Công Hoan trong đó tác giả
thường chỉ tập trung sự chú ý vào nhân vật phản diện.
Đó là một chuyển biến mới của nhà văn. Khuynh hướng của Nguyễn
Công Hoan thường nghiêng về mặt nhân vật phản diện nhưng phong trào đấu
tranh rộng lớn của quần chúng trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ đã dội vào nhà
văn, tạo nên một chuyển hướng mạnh mẽ, làm cho ông quan tâm theo dõi số
phận của những người cùng khổ hơn.
Đọc Bước đường cùng điều đáng cho chúng ta chú ý là Nguyễn Công
Hoan đã bước đầu trông thấy quy luật đấu tranh trong xã hội. Cố nhiên cái
nhìn của nhà văn còn có hạn chế nhưng rõ ràng là Bước đường cùng đã nói
lên cái nhận thức của Nguyễn Công Hoan về quy luật đấu tranh giai cấp:
quần chúng lao động bị đè nén bóc lột nhất định cuối cùng sẽ nổi dậy đấu
tranh với lực lượng thống trị. Trước đây trong các tác phẩm của mình có thể
nói Nguyễn Công Hoan chưa bao giờ trông thấy điều đó. Thường nhà văn chỉ
mới nói lên được cái cực khổ của quần chúng, cái xấu xa của bọn thống trị và
rồi dừng lại ở đây để cho chúng ta hoài nghi trật tự hiện hành chứ chưa cho
chúng ta thấy một cái gì mới.
Trong Bước đường cùng, tác giả đã nêu lên quá trình phá sản của một
gia đình bần nông, gia đình anh Pha. Sưu cao, thuế nặng, tô tức, đói rét đã
làm cho gia đình ấy lụn bại dần. Gánh hàng của vợ là một nguồn sinh sống
quan trọng trong gia đình cũng phải bán lại cho người khác. Cuối cùng vợ
chết, con chết, ruộng đất rơi vào tay Nghị Lại. Anh Pha sa vào bước đường
cùng. Nhưng anh không khoanh tay đầu hàng số mệnh thực tế là đầu hàng
bọn thống trị. Ớ chỗ này tác giả đã giải quyết vấn đề như thế nào? Một nhóm
bốn người Dự - Pha - Thi - San đều là những nạn nhân của bàn tay bóc lột
tàn bạo, độc địa của Nghị Lại, bốn người đã đoàn kết với nhau kiên quyết đấu
tranh không cho Nghị Lại cướp ruộng lúa của họ. Cuộc đấu tranh của họ đã
tranh thủ được sự đồng tình của những anh em thợ gặt nhà Nghị Lại và đã
làm cho Pháp, tên tay sai của Nghị Lại phải chùn. Với hoàn cảnh lúc bấy giờ,
với tính chất một hành động tự phát riêng lẻ, dĩ nhiên họ chưa thành công.
Nhưng điều đó cũng đã là một lời cảnh cáo mạnh mẽ đối với bọn bóc lột.
Con đường mà Dự, Pha, Thi, San đã đi cũng là con đường mà quần
chúng lao động bần cố nông sẽ đi và qua đó đến với cách mạng. Trên cơ sở
căm thù và bất khuất ấy, được sự giáo dục của giai cấp công nhân, những
người nông dân sẽ trở thành một lực lượng cách mạng hùng hậu.
Ở đây có một vấn đề mà chúng ta cũng nên suy nghĩ thêm. Đó là sự
chuyển biến trong Bước đường cùng từ nhận thức có tính chất cải lương đến
nhận thức có tính chất cách mạng. Trong lịch sử văn học, chúng ta cũng đã
thấy có những trường hợp như vậy. Một là do hiện thực cuộc sống đang phát
triển có ảnh hưởng đến nhận thức của nhà văn, hai là do lô gíc phát triển của
tình huống và nhân vật trong truyện buộc nhà văn phải sửa đổi ý đồ chủ quan
của mình.
Nhiều nhà văn đã làm đề cương chi tiết về các chương trong truyện
nhưng lúc viết lại phải thay đổi chứ không giữ vững được đề cương như cũ.
Cuộc sống trong tác phẩm cũng có quy luật riêng của nó, nhà văn không thể
cưỡng lại được. Cưỡng lại tức là giả tạo. Nhiều người trách Tônxtôi sao lại để
cho Anna Karênina phải chết, Tônxtôi trả lời rằng chính nhà văn cũng không
muốn thế nhưng không thể nào làm khác được. Có thể lấy một ví dụ về một
tác phẩm nổi tiếng mà chúng ta đều biết: Những người khốn khổ của Victo
Huygô định lấy giám mục Mirien làm cái trục trung tâm của tác phẩm nhưng
chừng như Huygô thấy con đường Mirien không ổn, nên về sau đã chuyển
trung tâm tác phẩm sang phía chiến luỹ và do đó hình ảnh giám mục Mirien
cũng mờ dần. Enjôret và Gavrôt nổi hẳn lên. Điều đáng chú ý là cuối cùng
Huygô đã dẫn tất cả các nhân vật nghèo khổ của mình lên chiến luỹ. Cả Jăng
Vanjăng cũng đến chiến luỹ nhưng có điều là Jăng Vanjăng không chiến đấu
chống quân thù mà chỉ lo bảo vệ các chiến sĩ cách mạng. Tác giả Những
người khốn khổ có một sự chuyển hướng như vậy chính là do lô gic nội tại
của tác phẩm và cũng là do nhà văn nhận thức được hiện thực khách quan
của xã hội Pháp trong sự phát triển có quy luật.
Trở lại Bước đường cùng, Nguyễn Công Hoan viết Bước đường cùng
không phải với một dàn truyện để trước mặt. "Nếu ai đọc kỹ cuốn ấy cũng có
thể nhận thấy là độ 20 trang đầu, tôi đã tả những chi tiết loanh quanh, đẻ đái
với mất gà mất qué, bởi vì lúc ấy tôi chưa nghĩ ra chuyện". Nghĩa là đại khái
nhà văn định viết về con đường cùng khổ của một người nông dân nhưng sự
việc sẽ diễn ra cụ thể như thế nào thì chưa có dự định trước. Đó cũng là một
điều kiện khách quan thuận lợi cho sự chuyển biến của nhà văn trong tác
phẩm. Cho nên thoạt đầu ta thấy Tân và Pha quan niệm rằng mọi sự khổ cực,
tình trạng bị đè nén, bóc lột là do sự dốt nát mà ra, do họ là những người
không được học hành hiểu biết. Tân nói: "Dân quê còn chết về nhiều cái nạn
khác nữa, nạn ăn ở bẩn thỉu, dại dột, nạn sưu cao thuế nặng, nạn lụt, nạn đại
hạn, nạn hủ lậu, rút cục nạn gì cũng do cái dốt nát nó đẻ ra cả". Cố nhiên thất
học có nhiều cái hại nhưng thất học, dốt nát không phải là nguyên nhân của
đời sống cực khổ của quần chúng. Lúc bị Nghị Lại lừa, Pha nghĩ: "Tôi căm thù
ông Nghị Lại bao nhiêu, tôi oán ông huyện bấy nhiêu, tôi lại bực mình về cái
dốt bấy nhiêu. Cho nên tôi quyết thế nào cũng phải học cho biết chữ quốc
ngữ".
Nhưng rồi nhân vật Tân mờ dần và sau đó nhân vật Dự xuất hiện với
một quan điểm khác: "Nếu ở nông thôn không có thằng nhà giàu nó bóc lột
đến nỗi dân cầy chúng ta không còn cái khố mà đeo thì đâu đến nỗi làng ta
tiều tuỵ, dân ta dốt nát”. Dự đã thấy rằng nguyên nhân của cái cực khổ, cái
dốt nát là cái nghèo mà nghèo là do bị địa chủ bóc lột. Sự phát triển sau này
sẽ làm sáng tỏ quan điểm của Dự. Pha ngày càng bị Nghị Lại đè nén, bóc lột
thậm tệ. Cũng chính quan điểm của Dự đã dẫn Pha, Thi, San cùng nhau hợp
sức lại đấu tranh chống Nghị Lại. Họ giải quyết bằng con đường dùng bạo lực
để đấu tranh chứ không phải bằng con đường học chữ. Điều đáng chú ý là
càng về sau, nhân vật Dự càng có những luận điểm tiến bộ, đúng đắn. Dự
giải thích cho anh em thợ gặt của nhà Nghị Lại: "Những ruộng lúa chín vàng
kia phần nhiều là của ông Nghị. Nhưng tôi hãy hỏi không có công chúng ta
làm thì nó đáng giá bao nhiêu tiền. Để kệ ông ấy một mình thì cả bốn trăm
mẫu ấy chỉ là đất bỏ hoang, một xu cũng không đáng. Vậy chính chúng ta là
người có công nhất, làm cho ông ấy giàu mà ông ấy đền cho ta cái gì? Chẳng
đền cái gì cả. Trái lại, ông ta lại còn đối xử tàn nhẫn với chúng ta, chỉ rình dịp
để cướp ruộng chúng ta...". Dự cũng có nói đến việc phải học chữ nhưng rõ
ràng anh xem đó là một phương tiện để hiểu biết về xã hội mà đấu tranh
chống các thế lực thống trị. Nhân vật Dự tuy xuất hiện không nhiều nhưng là
nhân vật đã dẫn dắt đến kết cục phản kháng quyết liệt ở cuối truyện. Dự đã
thuyết phục và tổ chức Pha, Thi, San lại để đấu tranh với địa chủ mặc dầu Dự
không trực tiếp bị Nghị Lại cướp ruộng. Dự là một nông dân tiến bộ. Bên cạnh
Dự, trong Bước đường cùng còn có Hoà, anh ruột của Pha, một công nhân,
tuy chỉ xuất hiện thoáng qua nhưng tác giả đã lưu ý chúng ta: "Lúc nào anh
(Pha) cũng nghĩ đến Hoà, với cái áo tây xanh, với câu nói hoạt bát, với lý sự
cứng cỏi mà trước kia khi còn ở nhà, Hoà không có". Có lần Hoà đã nói vói
Pha: "Dân cày chỉ chết về cái sống rời rạc nhau quá, cho nên dễ bị áp chế tàn
nhẫn. Chính ra hai cánh tay mình qúi lắm. Nó làm giàu cho người làm mình
nghèo. Vậy phải họp tất cả những cánh tay ấy lại cho mạnh thì ai chả phải
sợ".
Nếu chúng ta theo dõi sự phát triển của tiểu thuyết phương Tây trong
thế kỷ XIX chúng ta sẽ thấy rằng trong khoảng nửa đầu thế kỷ, các tình huống
và nội tâm nhân vật trong tác phẩm thường vận động, biến đổi và sinh thành.
Càng về nửa thế kỷ sau thì tình huống và nội tâm nhân vật ngày càng
có tính chất cố định, ít chuyển biến. Cho đến lúc chủ nghĩa tự nhiên ra đời thì
trong tác phẩm, tính chất định mệnh của số phận nhân vật càng rõ rệt. Người
ta giải thích hành động và số phận con người bằng tính di truyền, bằng
nguyên nhân sinh lý, chứ không phải bằng nguyên nhân xã hội.
Nhìn lại Bước đường cùng, chúng ta thấy tâm lý và hành động của
nhân vật luôn luôn vận động theo sự vận động của các tình huống. Sự vận
động của nhân vật ở đây rõ ràng không có tính chất định mệnh mà có những
nguyên nhân xã hội. Pha là một nông dân thật thà, hiền lành, có khi nhút nhát
nữa là khác. Nhưng dần dần với sự áp bức bóc lột quá đáng và trắng trợn
của Nghị Lại, với sự giúp đỡ của những người xung quanh đặc biệt là Dự,
anh đã hiểu tại sao và vì ai mà anh cực khổ. Do đó, dần dần anh đã trở thành
mạnh dạn, bướng bỉnh và đi đến hành động đấu tranh quyết liệt. Từ chỗ cúi
đầu, gãi tai: "bẩm quan lớn", "thưa quan lớn" với một sự kính trọng và sợ hãi,
dần dần Pha đã dám đương đầu với Nghị Lại. Trước mặt tên địa chủ hống
hách quen thói, định gặt lúa ruộng anh, anh nói thẳng: Quan để sau vụ gặt
hãy hay, vì lúa của con cấy, con có quyền gặt". Nghị Lại giơ tay toan tát
nhưng Pha chống lại: Ông không có phép đánh tôi. Ông ăn hiếp vừa chứ!".
Đến đây ta thấy đã có một khoảng cách rất xa giữa anh Pha khúm núm
sợ sệt với anh Pha dám chống đối lại tên địa chủ thống trị ở địa phương. Ai
đã sống trong nông thôn thời trước mới biết cái uy thế truyền từ đời này qua
đời khác của bọn địa chủ là một thế lực rất đáng ghê sợ, đè nặng xuống đầu
xuống cổ người nông dân tưởng không còn gì có thể lay chuyển được. Cho
nên đứng trước thái độ chống đối của Pha ta phải thấy hết cái đổi thay lớn lao
trong con người anh. Nhưng đến màn cuối thì Pha đã chuyển lên một bước
cao hơn nữa. Anh thuyết phục các bạn nghèo: "... Người ta chỉ lợi dụng sự rời
rạc của anh em mình để bắt nạt. Nhưng đến khi anh em mình biết hợp sức
nhau thì người ta cũng phải kiêng dè. Đẩy một người có thể làm ngã được
chứ đẩy ba người chụm lại nhau thật chặt chẽ, tôi tính khó lòng nổi... Tôi thề
rằng sẽ chống đến cùng". Sau khi công khai gặt lúa về nhà và trước thái độ
hung hãn của Nghị Lại, Pha đã xông vào, phang chiếc đòn càn thật mạnh vào
đầu hắn và thét lên: Đồ ăn cướp!". Tính cách của nhân vật đã được tác giả
đẩy đến mức phát triển cao nhất. Pha ở đầu tác phẩm với Pha ở cuối tác
phẩm khác nhau như trắng với đen, nhưng người đọc không ngạc nhiên vì
tính cách của nhân vật đã trải qua một quá trình phát triển lôgic nghĩa là hợp
với qui luật. Thực tế cuộc sống đã giác ngộ Pha. Từ chỗ có lúc thành thật
cám ơn Nghị Lại, cho Nghị Lại là tốt, cuối cùng anh đã thấy hắn là một tay địa
chủ gian ác và cái giàu của hắn chính là do những người nghèo như anh mà
ra. "Thì ra chính bọn anh đã cứu sống ông Nghị, trong khi ông nằm khểnh
khơi hút thuốc phiện, nghĩ kế bóp hầu bóp cổ bọn anh". Nhân vật Trương Thi
cũng đáng cho ta chú ý. Thoạt đầu Trương Thi thù Pha đến nỗi bỏ rượu lậu
vào ruộng Pha rồi đi báo đoan. Nhưng cuối cùng nhận ra kẻ thù chung là Nghị
Lại, Thi lại đoàn kết với Pha để chống Nghị Lại. "Tôi với anh Pha thực chả có
thù hằn gì nhau, chẳng qua chúng ta mắc lừa tay bợm già". Sự phát triển của
tính cách nhân vật này cũng là sự phát triển lôgic hợp với qui luật.
* * *
Trước nay một số trong chúng ta thường xem chủ nghĩa hiện thực phê
phán chỉ có giá trị duy nhất là phê phán, tố cáo. Cố nhiên nhiệm vụ chủ yếu
của nó là phê phán nhưng bên cạnh đó, ở một vài nhà văn ưu tú cũng có thể
có mặt khẳng định tuy là ở vị trí thứ yếu. Nhân nói đến mâu thuẫn trong
Banzăc, Ăngghen viết: "Những người duy nhất mà ông bao giờ cũng cảm
thấy khâm phục khi nói tới, đó lại là những người chống đối rõ ràng nhất của
ông, những người theo chế độ cộng hoà, những anh hùng của phố Cloatơrơ,
Xanh Meri, những con người mà khi ấy (1830-1836) thực sự là đại biểu của
quần chúng nhân dân. Tôi cho rằng một trong những thắng lợi to lớn nhất của
chủ nghĩa hiện thực, một trong những đặc điểm quí giá nhất của Banzăc là ở
chỗ ông bắt buộc phải đi ngược lại những cảm tình giai cấp và các chính kiến
của bản thân, ông nhìn thấy sự sụp đổ tất nhiên của những người quí tộc mà
mình yêu và miêu tả họ là những con người không đáng hưởng một số phận
tốt hơn thế và ông nhìn thấy những con người thực sự của tương lai ở nơi mà
chỉ ở đấy mới tìm thấy họ". Chúng ta biết rằng văn học hiện thực phê phán
thường phát triển trong môi trường có các cuộc đấu tranh xã hội gay gắt. Ở
Việt Nam cũng vậy, chính nhờ những cuộc đấu tranh xã hội ấy mà một mặt
các nhà văn hiện thực thấy được những ung nhọt thối tha của xã hội, mặt
khác cũng nhờ đó mà một số nhà văn hé thấy được các lực lượng đang lên
trong lịch sử. Điều mà Ăngghen thấy được ở Banzăc cũng là điều mà ta thấy
ở một vài nhà văn hiện thực phê phán Việt Nam. Đặc biệt là các nhà văn hiện
thực Việt Nam lại sống trong hoàn cảnh một cuộc đấu tranh giai cấp sâu rộng
do chính Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo. Điều này nhất định có ảnh
hưởng đối với một số cây bút tiến bộ mà chúng tôi sẽ có dịp nói đến ở phần
bài về các đặc trưng của văn học hiện thực Việt Nam. Ở đây chúng ta chỉ nói
trong phạm vi Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan. Muốn hay không
muốn chúng ta cũng thấy rằng chẳng những Nguyễn Công Hoan tố cáo quá
trình bần cùng hoá của nông dân trong xã hội thực dân phong kiến mà còn hé
ra cho ta thấy kết cục quá trình bần cùng hoá ấy tất yếu sẽ dẫn đến đâu. Nhà
văn đã đề cập đến và đã khẳng định trong tác phẩm của mình tính tích cực
của quần chúng bị áp bức bóc lột. Đó là điều mà các nhà văn tự nhiên chủ
nghĩa không thể thấy được. Những người cùng khổ trong các tác phẩm tự
nhiên chủ nghĩa không hiểu được vì đâu mà họ nghèo khổ cho nên thái độ
của họ là khoanh tay đầu hàng trước định mệnh khắc nghiệt và tìm cách sống
yên phận. Nhiều nhà văn hiện thực và ngay cả Nguyễn Công Hoan ở nhiều
tác phẩm cũng chưa đến mức khẳng định được tính tích cực của quần chúng
lao động. Bước đường cùng và một số ít tác phẩm giống như vậy là sản
phẩm của một thời kỳ lịch sử nhất định, thời kỳ mà phong trào đấu tranh của
quần chúng rầm rộ nổi lên khắp nơi dưới lá cờ lãnh đạo của giai cấp vô sản.
Do đó, ta thấy rằng kết cục của Bước đường cùng dường như nhuộm vẻ bi
quan (Pha bị đánh và bị bắt) nhưng thực ra toàn bộ tác phẩm toát lên một sức
sống và một niềm tin. Nhân đây cũng nhắc lại là bên cạnh Pha, có nhân vật
Dự. Dự chưa phải là Đảng viên cộng sản nhưng ít nhất anh cũng là một nhân
vật có tính chất tiên phong. Anh am hiểu khá sâu sắc các mâu thuẫn giai cấp
ở nông thôn, rất căm thù địa chủ, có ý thức chú ý giác ngộ chân lý cho những
người nghèo khác và cuối cùng tuy anh không phải là nạn nhân trực tiếp bị
địa chủ cướp ruộng nhưng anh đã đứng ra tập hợp Pha, Thi, San lại để lãnh
đạo họ đấu tranh chống Nghị Lại. Bóng dáng thấp thoáng của người công
nhân ở nhân vật Hoà cũng là một dấu ấn của thời đại trong tác phẩm.
Bước đường cùng chứng minh rằng trong những điều kiện xã hội nhất
định - sự áp bức bóc lột tàn khốc, giai cấp thống trị sa đoạ, phong trầo quần
chúng mãnh liệt - thì trong văn học, vấn đề tính tích cực của quần chúng lao
động được đặt ra theo một chiều hướng khẳng định. Đây là một trong những
vấn đề cần nghiên cứu kỹ bởi có liên quan đến vấn đề kế thừa của chủ nghĩa
hiện thực xã hội chủ nghĩa đối với chủ nghĩa hiện thực phê phán. Nếu như
trong văn học hiện thực phê phán tính tích cực của người bị áp bức bóc lột
bắt đầu được thể hiện trong thái độ phản kháng trật tự xã hội cũ thì tính tích
cực của người lao động trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là tính tích
cực có ý thức cao, có tổ chức và lãnh đạo, biểu hiện trong sức mạnh phá vỡ
xã hội ấy để xây dựng một xã hội mới có những con người mới, những con
người có sức làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên và làm chủ số phận của
mình.
(Trích Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt Nam.
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1968)
NHÂN XEM QUYỂN KÉP TƯ BỀN NGUYỄN CÔNG HOAN, NHÀ VĂN CÓ NHIỀU HY VỌNG
HOÀI THANH
Nhà văn có thể lấy tài liệu hoặc trong những điều mắt thấy tai nghe,
hoặc trong những mối cảm xúc, nói một cách khác, cuộc đời thực tế cùng tâm
linh của mình là hai cái kho vô tận của nhà văn, hai cái thế giới đầy những
điều hay sự lạ, chỉ chờ nhà văn đưa về làm câu chuyện vui, buồn, mừng, giận
cho người đời.
Xét cho đúng, hai cái thế giới ấy không có giới hạn rõ ràng. Trong một
tác phẩm văn nghệ, ngoại giới vẫn thường đúc theo một cái hình riêng và
muốn nhuốm lấy một cái sắc riêng, cái hình sắc nhà văn đã trao cho nó. Trái
lại, những sáng tác xuất tự thiên tài của nhà văn, những ý tứ hay, những mối
cảm lạ vẫn không khỏi chịu ảnh hưởng của ngoại giới và thường vẫn phải vin
vào ngoại giới, vào những sự thực giữa đời để phô diễn ra với người đời.
Tuy vậy, tuy không có thể dựng bờ cõi ngăn đôi tâm giới với ngoại giới,
người ta vẫn có thể nhận thấy hai xu hướng trong văn chương, hai hạng văn
sĩ có tính cách khác nhau rõ rệt. Một hạng chú trọng về nghe thấy, một hạng
chú trọng về ý tứ. Một bên sáng tạo, một bên tìm kiếm.
Tôi muốn để Nguyễn Công Hoan vào hạng sau này: hạng tìm kiếm.
Cho dễ hiểu, tôi lại tìm một nhà nữa tiêu biểu cho hạng trên, hạng sáng tạo.
Tôi có thể lấy hoặc Lưu Trọng Lư hoặc Khái Hưng. Tôi chọn Khái Hưng, vì
Khái Hưng có ra quyển Tiếng suối reo cũng là một tập truyện ngắn như tập
Kép Tư Bền, tiện cho sự so sánh của tôi hơn. Có người cho Khái Hưng là một
nhà văn tả thực. Nhưng cái thực của Khái Hưng là cái thực đầy thi vị, một thi
vị nhẹ nhàng mà trong trẻo. Thi vị ấy xuất ở tài sáng tạo, ở tâm hồn của Khái
Hưng. Quyển Tiếng suối reo xem xong ta thấy mát mẻ thực đúng với cái tên
của nó: một tiếng suối bên đường khách giang hồ dừng chân nghe trong chốc
lát, cho đỡ nỗi nhọc nhằn rồi đi qua. Ngoài sự tiêu khiển trong giây phút, Khái
Hưng hình như không mong ước cho sáng tác của mình có cái ích lợi gì khác
nữa. Cho nên người xem có cái vui nhẹ nhàng, vô tội và hồn nhiên.
Quyển Kép Tư Bền không thế. Kép Tư Bền là góp nhặt những sự tìm
kiếm của Nguyễn Công Hoan. Nguyễn Công Hoan thực đã dày công quan sát
những người, những việc ở chung quanh mình. Một tý gì có thể thêm ý vị cho
câu văn, hình như là nhà làm văn cố ghi lấy không bỏ sót. Tôi tưởng tượng
Nguyễn Công Hoan là một người có đôi mắt tinh ranh lắm, tò mò lắm. Tôi sợ
những người như thế...
Cái khó nhọc của nhà làm văn trong lúc quan sát nó lây đến cả người
xem văn. Văn Nguyễn Công Hoan xem mệt mà có ích. Văn như thế xem khôn
người ra.
Tình đời, chua, cay, mặn, lạt như vẽ ra dưới ngòi bút Nguyễn Công
Hoan. Không phải chỉ vẽ ra trong cốt truyện: Một đám người vô tình bắt một
kẻ kép hát bông lơn giữa lúc cha anh hấp hối, một anh phu xe ba mươi tết
kéo phải một chị giang hồ không tiền cùng đi tìm khách hay một người mẹ bỏ
con nằm một mình đi theo trai.
Cốt truyện không quan hệ cho lắm, quan hệ là ở cách kể chuyện. Tài
nghệ của nhà văn là ở cách kể chuyện. Nguyễn Công Hoan đã khéo lấy
những điều quan sát có ý vị lắp vào những cốt truyện không có gì. Đó là cái
đặc sắc của ông.
Chính vì đặc sắc ấy mà Nguyễn Công Hoan, như tôi nói trên đầu đề, là
một nhà văn rất nhiều hy vọng.
Alphonse Daudet kể chuyện một người có bộ óc rất quí, bộ óc bằng
vàng. Anh ta cứ moi ra mỗi ngày một ít tiêu dùng. Nhưng moi mãi, vàng hết.
Rồi anh ta chết. Anh chàng lạ lùng ấy là nhà văn, đúng hơn nữa, là nhà văn
chuyên moi óc ra mà viết, như người ta vẫn thường nói. Nhưng óc moi mãi
cũng ngày phải hết, sức sáng tạo của một người, cho dầu người có thiên tài
cũng vậy, nó có hạn. Chỉ cuộc đời thực tế, cảnh trí thiên nhiên muôn hình vạn
trạng mới là kho tài liệu vô tận cho nhà văn biết nghe biết xem. Nguyễn Công
Hoan quả là một nhà văn biết nghe biết xem. Cái sự thực ông nghe thấy lại là
cái sự thực của hết thảy mọi người, thiếu những nét, những âm thanh nên
thơ do một tâm hồn thơ tô điểm, nhưng dồi dào và tinh vi.
Cho nên Nguyễn Công Hoan có rất nhiều hy vọng. Khái Hưng vừa
bước vào làng văn đã được chói lọi vì những sáng tác của Khái Hưng không
cần phải trau dồi lắm, tự nhiên đã gần được hoàn toàn. Nguyễn Công Hoan
ra đời từ 1920, tới nay hơn mười lăm năm mà danh tiếng vẫn phải đi sau Khái
Hưng vì những văn liệu của Nguyễn Công Hoan lấy giữa thực tế phiền phức
và hỗn độn, cần phải có tài nhà nghề khéo léo sắp đặt, chọn lựa mới có thể
vừa ý người xem.
Nhưng Khái Hưng là một ngôi sao rực rỡ mà chóng mờ. Hiện nay ta đã
thấy mờ dần. Khái Hưng có lẽ phải nghỉ đi ít lâu mới viết lại được như trước,
vì trí sáng tạo của người ta không phải một bộ máy có thể chạy được luôn
luôn. Giữa lúc đó thì Nguyễn Công Hoan càng lâu càng được công chúng
hoan nghênh. Mà hoan nghênh là phải vì càng lâu nghệ thuật của Nguyễn
Công Hoan càng luyện hơn, càng tinh tế hơn.
Nguyễn Công Hoan trước sau viết hơn tám mươi truyện ngắn và mười
truyện dài. Trong những nhà văn có tiếng bây giờ ông vào hạng viết nhiều
nhất và lâu nhất. Làng văn phải tôn ông vào bậc lão làng, nhưng một ông lão
còn tráng kiện, mỗi ngày một thêm dẻo dai.
Từ quyển Những cảnh khốn nạn đến quyển Kép Tư Bền gần đây, tôi
thấy nghệ thuật Nguyễn Công Hoan tiến bộ nhiều lắm. Những đoạn vụng về,
những đoạn vô ích, những đoạn rườm rà nhan nhản trong quyển trước, trong
quyển sau thấy ít lắm - tuy vẫn còn. Tài quan sát của Nguyễn Công Hoan
trước sau không thay đổi mấy nhưng nghệ thuật của ông thay đổi rất nhiều.
Có hồi người ta thấy ông chịu ảnh hưởng nghệ thuật lãng mạn viết những câu
văn sỗ sàng và ngô nghê. Gần đây người ta lại thấy văn ông đã nhiễm được
vẻ kín đáo của văn thuật hiện giờ. Tôi mong ông gắng lên; một ngày kia nghệ
thuật ông sẽ hoàn toàn và tự khắc sẽ được công chúng hoan nghênh một
cách hoàn toàn.
(Báo Tràng An, ngày 28-6-1935)
KÉP TƯ BỀN MỘT TÁC PHẨM THUỘC VỀ CÁI TRIỀU LƯU "NGHỆ THUẬT VỊ DÂN SINH"
Ở NƯỚC TA
HẢI TRIỀU
Ở xứ này muốn chủ trương một vấn đề gì mà đến khi tìm vài cái chứng
giải thiết thực về xã hội, thật nhiều khi không biết vớ vào đâu. Tôi nhận thấy ở
nước ta, trong văn học giới đã bắt đầu có cái triều lưu "Nghệ thuật vị dân
sinh", tôi đã thừa nhiều cơ hội để đề khởi đến nó và đã có phen bút chiến với
ông Thiếu Sơn về vấn đề ấy (Báo Đời mới số 1,3,4). Nhưng đến khi ai hỏi tôi
cái tư triều văn nghệ vị dân sinh ở nước ta đầu nào? Thật tôi cũng tự thấy
lúng túng mà không "biết kiếm đâu cho ra một cái chứng cớ đích xác. Nhưng
đến ngày nay, tôi đã có thể tự đắc mà nói rằng: "Có rồi, có rồi, ông cứ xem
quyển Kép Tư Bền đi. Cái chủ trương "Nghệ thuật vị dân sinh" của tôi ngày
nay đã biểu hiện bằng những bức tranh rất linh hoạt dưới ngọn bút tài tình
của nhà văn sĩ Nguyễn Công Hoan mà người ta đã tặng cho cái tên hay hay
là "nhà văn của hạng người khốn nạn".
Tôi có người bạn gái rất thích đọc tiểu thuyết của Khái Hưng, Nhất
Linh,... Nhưng ngày nay tôi lại thấy bạn tôi thích đọc tiểu thuyết Nguyễn Công
Hoan làm cho tôi lấy làm lạ mà hỏi duyên cớ. Bạn tôi trả lời bằng một câu gọn
gẫy mà rất có ý nghĩa: "Tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan gần người hơn".
* * *
Sau những cuộc khủng hoảng về chính trị, kinh tế và xã hội, nước ta
mấy năm gần đây, người nào có ý khảo sát về hiện tượng xã hội, đều nhận
thấy có một sự tiến chuyển "revirement" trong tinh thần của phần đông trí
thức nước ta. Họ, hoặc vì kinh khiết và sinh ra bi quan, hoặc vì thất bại mà
sinh ra hoài nghi, hoặc vì cùng kế mà sinh ra hưởng lạc. Những cái tư tưởng
lãng mạn, thần bí, tôn giáo, cá nhân khoái lạc do đó mà bồng bột phát sinh
giữa cuộc phân tranh của xã hội, họ muốn kiếm một cái địa thế trung lập
(Zone neutre) để tránh hết những sự gay go, bực bội đã đem đến cho họ gần
mấy năm về trước. Văn học chịu ảnh hưởng trực tiếp của tình trạng ấy rất
nhiều, nên chúng ta thấy sản xuất ra không biết bao nhiêu là tác phẩm đầy
rẫy những tư tưởng "yêu đời, vui đời, chán đời, lãng mạn, du dương, mơ
mộng, thần bí". Tác giả tự đưa văn nghệ ra khỏi cái tình trạng thiệt hiện của
xã hội, họ đánh cắp văn học lên núp trên những "cái tháp ngà" (tour d’ivoire)
rồi ngồi trên ấy họ tự đắc mà bảo chúng ta: "Ở trên này chúng tôi lấy làm mãn
nguyện lắm, chúng tôi lấy nghệ thuật mà phụng sự cho nghệ thuật cũng
sướng chán. Chẳng những thế, chúng tôi còn giúp ích cho đời nữa. Các anh
khổ à? Hãy leo lên mà nếm những cái quả mà chúng tôi biếu đây, các anh
cũng sẽ vui sướng như chúng tôi và quên hết nỗi khổ ở trần gian". Vô tâm
hay hữu ý, các ông ấy đã lừa chúng ta bằng cái thủ đoạn "nhìn rừng mơ cho
đỡ khát nước".
Giữa sự sống vất vả và khốn khổ, đầy những mâu thuẩn của xã hội
ngày nay, người ta đang ao ước, về mặt tinh thần, đọc những tác phẩm có
thể diễn dịch được nỗi lòng của họ. Cái buồn, cái vui, cái giận, cái tiếc, cái
thương, cái mơ ước đều sáng suốt đẹp đẽ hay là cục cằn thô lỗ, cũng cứ việc
tô vẽ ra cho họ bằng những câu văn chân thật, cứng cỏi, mạnh bạo. Họ không
cần những lời văn hoa mỹ mà điêu ngoa. Họ ưa những thể văn bình dị mà
thiết thực. Bao nhiêu những tác phẩm đương lưu hành trong xã hội hiện tại
đều làm cho họ chán nản vô cùng, vì họ chỉ thấy rặt những chuyện tình với
tình, cái tính mơ mộng ở đâu trong mây, trong mưa, còn những cái khổ sở
lầm than của họ, sự bực tức tối tăm của họ, không mấy ai để ý đến. Giữa tình
trạng ấy, quyển Kép Tư Bền ra đời, dầu nó chưa được hoàn toàn, nhưng
cũng có thể nói rằng nó phù hợp với cái khuynh hướng chung của một số
đông người đương khát vọng. Thời các ngài hãy đọc những truyện như
Người ngựa và ngựa người, Thằng ăn cắp, Kép Tư Bền... các ngài sẽ thấy
trong xã hội, một số đông người phải bán thân nuôi miệng, hoặc các ngài thấy
một giai cấp đủ ăn mặc, chực mua cái cười, cái vui bên cái khổ của kẻ nghèo
khó. Rồi các ngài lại đọc qua những truyện như Báo hiếu, Mợ nó đi Tây, Tôi
chủ báo... các ngài sẽ thấy trình bày biết bao nhiêu những sự xấu xa, mục nát
của một chế độ xã hội. Những cái đạo đức, luân lý, tình ái mà trước họ cho là
thiêng liêng cao quí lắm, thì ngày nay đã hoá ra một bức màn che đậy biết
bao nhiêu sự thối tha hèn mạt ở trong.
Sau khi nếm cái vị cay chua, bực tức, buồn cười của cái xã hội nhố
nhăng này, gấp quyển sách lại, dầu các ngài vô sự đến mấy, các ngài cũng
nghe thấy như bồi hồi, man mác, cái bồi hồi man mác tự nhiên của con người
có một chút tình đối với nhân loại. Cái mục đích của thuyết nghệ thuật vị nhân
sinh đến đây gọi là có chút thành quả vậy.
Thứ văn nghệ mà ngày nay trên thế giới được công chúng hoan
nghênh hơn hết là thứ văn nghệ có hàm xúc được hai cái đặc điểm này:
1 - Về hình thức (Forme) khuynh hướng về "tả thực".
2 - Về nội dung (fond) khuynh hướng về xã hội.
Hình thức và nội dung có đi đôi với nhau thì tác phẩm mới có giá trị.
Xem văn của Kép Tư Bền, chúng ta nhận thấy rõ tác giả đứng về mặt tả thực
chủ nghĩa (réalisme). Với những câu văn rất thành thực, chắc chắn, hí hởn,
ngộ nghĩnh, nhiều khi cục cằn thô bỉ nữa, chúng ta phải phục Nguyễn Công
Hoan là một nhà kể chuyện rất thiệt và rất có duyên, về phươg diện tả thực,
có thể nói tác giả đã đạt đến mục đích phần lớn rồi vậy. Nhưng về phương
diện xã hội thì thật chưa hoàn toàn. Cái đó cũng không đáng trách: vì dưới cái
ngọn bút tài tình của tác giả, chúng ta vẫn thấy cái quan niệm kia còn đang
phôi thai mà thôi. Vả chăng bị hoàn cảnh bó buộc dầu muốn nói chưa chắc đã
nói nên lời. Kép Tư Bền có thể nói rằng đã mở một kỷ nguyên mới cho cái tư
triều văn nghệ tả thiệt và xã hội ở nước ta.
Viết đến đây, tôi nghĩ không gì bằng nhắc lại câu phê bình của Thái Phỉ
để kết thúc bài này: "Với Khái Hưng thì là cái thế giới đang tàn, mà với Công
Hoan thì là cái thế giới mới nhóm dậy". Chính cái "thế giới mới nhóm" ấy nên
mới có bài phê bình này.
(Tiểu thuyết thứ bảy số 62, 3-8-1935)
CẦN XÁC ĐỊNH LẠI GIÁ TRỊ CỦA MƯỜI NĂM VÀ ĐỐNG RÁC CŨHÀ MINH ĐỨC
Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi và cách mạng chuyển
sang một thời kỳ mới. Những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra
nhiều vấn đề phong phú và phức tạp cho sự phát triển văn học. Đề tài sáng
tác được mở rộng, nhiều tác phẩm đã tiếp cận và miêu tả hiện thực trên nhiều
bình diện mới. Ngoài những tác phẩm tiếp tục viết về đề tài chiến tranh, về
xây dựng chủ nghĩa xã hội, còn nhiều tác giả viết về thời kỳ trước cách mạng
như Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, Sóng gầm, Cơn bão đã đến của Nguyên
Hồng, Mười năm của Tô Hoài, Đống rác cũ của Nguyễn Công Hoan. Viết về
xã hội cũ là một vấn đề khó. Từ vốn hiểu biết đời sống đến cách xử lý vấn đề
đều đòi hỏi người viết năng lực sáng tạo và bản lĩnh vững vàng. Đa số các
nhà văn viết về đề tài trên đều đã có những tác phẩm thành công từ thời kỳ
trước cách mạng như Bỉ vỏ và Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Kép Tư
Bền và Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Dế mèn phiêu lưu ký và
Quê người của Tô Hoài. Yêu cầu đặt ra trong hoàn cảnh mới là phải nhận
thức và miêu tả xã hội cũ theo quan điểm mới. Lúc này trong đời sống văn
học đang đề cao việc miêu tả con người mới xã hội chủ nghĩa. Cuộc sống xã
hội thì phong phú và phức tạp. Chuẩn mực về con người mới còn nặng về lý
thuyết. Do đó trong nhiều cuốn tiểu thuyết chưa tạo được sự thống nhất giữa
con người xã hội và con người riêng tư, chưa làm nổi bật được phẩm chất
con người mới trong quan hệ đời thường. Vấn đề miêu tả cái riêng tư và
những chất liệu tiêu cực trong cuộc sống cũng là một thử thách với người
viết. Thiếu sự hiểu biết đầy đủ cuộc sống, một số tác phẩm rơi vào sự gò bó,
và lý thuyết sách vở. Tránh công thức sơ lược nhưng lại thiếu định hướng và
chuẩn mực nên nhiều trang viết mang nặng tính chất tự nhiên chủ nghĩa, phê
bình văn học đã nhạy cảm và chỉ ra những thiếu sót của những sáng tác trên
nhưng đồng thời đã phê phán quá mức một số tác phẩm văn xuôi như Mười
năm của Tô Hoài, Vào đời của Hà Minh Tuân, Mạch nước ngầm, của Nguyên
Ngọc, Những người thợ mỏ của Võ Huy Tâm.
... Cùng loại đề tài viết về xã hội cũ ở giai đoạn sau, Đống rác cũ cũng
là một tác phẩm cần được đánh giá lại. Viết Đống rác cũ, Nguyễn Công Hoan
muốn phơi bày bộ mặt xấu xa của xã hội cũ qua vốn hiểu biết sâu rộng của
ông về quá khứ! Trong một lần trò chuyện với những người viết và bạn đọc
bàn về tác phẩm này, tác giả nói rõ ý định của mình nhằm giúp độc giả thanh
niên hiểu biết xã hội cũ để càng yêu mến cuộc đời mới. Nguyễn Công Hoan
một lần nữa đã nêu lại ý này trong Đời viết văn của tôi: "Đống rác cũ là
chuyện xã hội cũ, dưới chế độ cũ. Dưới chế độ cũ người nào không giữ được
bản lĩnh thì gái thành đĩ bợm, trai phải lừa lọc để sống. Họ chạy theo đồng
tiền, làm những việc thối tha, rất kinh tởm khiến bọn thống trị đã gây được
biết bao cảnh bất công. Nhưng giữa lúc cái bóng đen dầy đặc làm cho xã hội
nghẹn thở, thì ánh sáng của Đảng đã le lói hiện ra... Viết cuốn sách này, tôi
có ý định dựng lại xã hội ta dưới thời Pháp thuộc để giúp anh em thanh niên
thêm một sự hiểu biết. Anh em thanh niên sống trong chế độ mới tươi đẹp
của chúng ta chỉ biết là sung sướng hơn chế độ cũ nhơ bẩn. Nhưng anh em
chỉ biết chung chung là nhơ bẩn, chứ không biết cụ thể nó nhơ bẩn như thế
nào, đến mức nào. Thì đọc Đống rác cũ anh em có thể thấy được một vài
phần. Và khi đã biết chế độ cũ thế nào anh em mới thấy công ơn của Đảng là
vĩ đại và mới yêu quý chế độ mới, mới tha thiết bảo vệ chế độ mới" (NXB Văn
học, 1971).
Ý định của ông đã không được thực hiện như ông mong muốn. Nhiều
chất liệu về xã hội cũ được khai thác tuỳ tiện, thiếu chắt lọc làm cho bên cạnh
những mạch truyện hay còn lẫn lộn nhiều chuyện đời nhảm nhí. Tác phẩm bị
dư luận phản ứng qua một loạt bài phê bình nặng nề như một cuộc đấu tranh
và kết quả là người đọc chưa được đọc tiếp tập II để có một nhận định đầy đủ
hơn về giá trị tác phẩm. Thực tế Đống rác cũ là một bộ tiểu thuyết viết công
phu, có nhiều chương hay bộc lộ rõ lối viết sắc sảo về tài năng của Nguyễn
Công Hoan. Tác phẩm chứa đựng một khối lượng lớn kiến thức về xã hội cũ
từ cách làm ăn phất lên của bọn giàu có đến những chuyện xấu xa bẩn thỉu,
khôi hài tràn lan trong cuộc sống. Tác phẩm cũng khái quát được qua những
nhân vật và cảnh sống sinh động nhiều quy luật thế giới lần thứ 1 cho đến
khoảng sau năm 1930. Đây là thời kỳ giai cấp tư sản đang tìm mọi thủ đoạn
bóc lột, xoay sở làm giàu và khuếch trương thanh thế chính trị. Giai cấp
phong kiến dần mất hẳn vị trí xã hội và lễ giáo phong kiến đi vào suy thoái,
giai cấp vô sản bước lên vũ đài chính trị với sức mạnh của một giai cấp đang
lên hợp với quy luật phát triển lịch sử. Đống rác cũ đã phản ánh chân thực và
sinh động bản chất và quy luật của những cuộc đấu tranh giai cấp ở thời kỳ
lịch sử này. Thừa là một kiểu nhân vật tư sản bị tác giả chụp đúng hình dạng
và bóc trần chân tướng. Quá trình xoay sở làm giàu với nhiều thủ đoạn của
kẻ vô học lại pha chất lưu manh hoá đã tạo cho nhân vật những nét riêng.
Đống rác cũ có nhiều chương miêu tả hay. Các chương viết về gia đình cụ
Phúc Lâm đại diện cho giai cấp phong kiến hết thời trở thành thất thế và bị
bọn tư sản mới phất lên lừa đảo, về bi kịch của chuyện tình duyên của cô Lễ
với tên Thừa (Tập I) về những hành động của Thừa tham gia bóc lột ở đồn
điền và phá cơ sở cách mạng (Tập II) là những chương viết rất tốt. Tước bỏ
đi một số tình tiết có tính chất tự nhiên chủ nghĩa, Đống rác cũ là một tác
phẩm có giá trị hiện thực, một đóng góp không thay thế được của Nguyễn
Công Hoan về sự hiểu biết bản chất xã hội cũ. Nhà văn Tô Hoài nhận xét về
tác phẩm Đống rác cũ: "Chỉ mới nói riêng về những chương miêu tả gia đình
một nhà nho, một gia đình phong kiến điển hình với những thói tục hủ lậu và
giam hãm và hành hạ những người phụ nữ trong cửa của gia đình, người đọc
phải sửng sốt trước tài năng của ông. Ông đã phơi bày, đã kết tội chế độ
phong kiến, giai cấp bóc lột một cách đặc sắc nhất". Chính đó cũng là giá trị
tư tưởng và nghệ thuật của bộ tiểu thuyết, đồng thời nó cũng nói lên vốn hiểu
biết lớn lao của tác giả về xã hội cũ. Đời văn của ông chủ yếu cũng viết về xã
hội cũ. Ông thường sử dụng bút pháp hiện thực pha lẫn lối trào phúng châm
biếm. Phương thức miêu tả ấy rất thích hợp để miêu tả những chuyện đời lố
bịch mà đau lòng xót xa. Trong Đống rác cũ, hai lối viết trên chưa tạo được
sự hoà hợp nhuần nhuyễn nên nhiều khi lẫn lộn giữa chuyện thực nghiêm
chỉnh và chuyện vui hài hước.
Hai cuốn tiểu thuyết Mười năm và Đống rác cũ đã đặt ra nhiều vấn đề
có thể trao đổi ý kiến, rút kinh nghiệm những chất liệu quá phức tạp dễ làm
sai lệch đi bức tranh về cuộc đời cũ và ảnh hưởng đến sự tiếp nhận của
người đọc hôm nay. Mặt khác, cũng cần tránh xu hướng tước bỏ hết những
tình huống phức tạp làm cho những cảnh ngộ trở nên trong trẻo quá, không
phản ánh đúng thực trạng của cuộc đời cũ.
Đánh giá lại Mười năm của Tô Hoài và Đống rác cũ của Nguyễn Công
Hoan là biểu thị tinh thần công bằng trong việc nhận định các tác phẩm văn
học và cũng biểu thị ý thức trân trọng những giá trị văn học đích thực mà lúc
này, lúc khác chúng ta đã có cái nhìn còn thiên lệch, hạn chế.
(Báo Giáo viên nhân dân, số 27, 28, 29, 30, 31 tháng 7-1989)
TẤM LÒNG CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CÔNG HOAN DÀNH CHO TRẺ EM
LÊ MINH QUỐC
Từ thuở văn xuôi viết bằng chữ quốc ngữ còn chập chững đi những
bước đầu tiên, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã xuất hiện. Sự có mặt của tập
truyện ngắn Kiếp hồng nhan xuất bản năm 1923 đã ghi nhận điều này. Trong
trào lưu của dòng văn học hiện thực phê phán, bằng tác phẩm của mình, ông
đã khẳng định vị trí hàng đầu và được xem như một trong những người đặt
nền móng cho nền văn học bằng những tác phẩm xuất sắc nhất. Hơn 50 năm
cầm bút. Ông đã có dành một khoảng thời gian để sáng tác cho thiếu nhi.
Trong hồi ký Đời viết văn của tôi (NXB Văn Học 1971) có đoạn ông viết: "Lại
một người bạn của tôi là Nguyễn Đức Phong, tức Thái Phỉ, xuất bản tờ báo
nhi đồng lấy tên là Cậu Ấm. Báo Cậu Ấm đăng hai truyện dài và một truyện
ngắn. Một truyện dài là Tấm lòng vàng" (tr. 181). Xin đặt câu hỏi: - Ngoài tác
phẩm đã nêu trên thì một truyện dài và một truyện ngắn còn lại tên gì? Lâu
nay, do thiếu tư liệu nên các nhà nghiên cứu văn học đã không đề cập đến.
Theo tìm hiểu của chúng tôi thì đó là truyện dài Đảng Rổ Bẫy và truyện
ngắn Đồng trinh Gia Long. Trước hết xin đề cập đến tờ báo mà trong hồi ký
của nhà văn Nguyễn Công Hoan có đề cập đến. Tờ báo này từ số 1 đến số
12 (ra ngày 8-5-1935) có tên Cậu Ấm báo con trai. Bắt đầu từ số 13 (ra ngày
15-5-1935) được đổi tên thành báo Cậu Ấm Cô chiêu. Chủ nhiệm của báo là
ông Nguyễn Đức Phong, toà soạn đặt tại 82 Rue du Coton (phố Hàng Bông
Hà Nội), báo in theo khổ 19 X 29cm, dày 20 trang. Truyện dài Tấm lòng vàng
được tin từ số 1 đến số 13, trước khi chấm dứt có giới thiệu thêm: "Tấm lòng
vàng đã đặt ông Nguyễn Công Hoan vào vị trí số 1 nhà viết truyện cho trẻ em
có biệt tài, muốn biết ông Hoan hơn nữa thì đón xem Đảng Rổ Bẫy". Qua số
báo sau, tức số 14 (ra ngày 22-5-1935) bắt đầu in Đảng Rổ Bẫy và kết thúc
vào số 30 (ra ngày 11-9-1935). Còn truyện ngắn Đồng trinh Gia Long thì in
trên báo số 6 (ra ngày 27-3-1935).
Do truyện dài Đảng Rổ Bẫy chưa được in thành sách nên hầu như các
nhà nghiên cứu không biết đến cũng là điều dễ hiểu. Từ sự phát hiện này,
chúng tôi có viết thư báo cho nhà văn Lê Minh - con gái của nhà văn Nguyễn
Công Hoan. Và chúng tôi thật sự vui mừng khi trong thư phúc đáp, bà Lê
Minh cho biết cũng mới tìm được hai tác phẩm của bố. Đó là vở kịch Tấm
lòng vàng gồm 5 hồi, 3 cảnh do chính nhà văn chuyển thể từ truyện dài cùng
tên và truyện vừa Một đứa con đã khôn ngoan. Hai tác phẩm này thuộc tủ
sách Truyền Bá của NXB Tân Dân in vào năm 1942. Có được hai tác phẩm
này là do Bibliothèque Paris tặng cho Thư viện quốc gia - Bộ Văn hoá - Thông
tin, và nơi đây đã cho bà Lê Minh chụp từ microfim. Từ những sự phát hiện
này, chúng ta biết thêm một biệt tài của nhà văn bậc thầy Nguyễn Công Hoan
khi viết cho trẻ em. Ở đó sự giáo dục, hướng thiện đã được lồng vào cốt
truyện ly kỳ, gay cấn để hấp dẫn người đọc, chứ không chỉ là những lời giáo
huấn khô khan. Và điều đáng quý hơn nữa là những vấn đề mà nhà văn đặt
ra thì ở thời điểm này nó vẫn còn mang ý nghĩa thời sự.
Trong truyện Một đứa con đã khôn ngoan, nhà văn giáo dục cho trẻ em
đức tính yêu tiếng Việt. "Ta có tiếng nói riêng. Bổn phận ta là phải giữ lấy
tiếng ta, vì tiếng ta tức là tinh thần nước ta" (tr. 12). Cậu bé Chỉ trong truyện
này chỉ mê tiếng Pháp và cho rằng tiếng Việt không đủ để diễn tả hết mọi suy
nghĩ và sự vật. Ngay cả lúc viết thư cho bạn thì cậu cũng phải dùng chêm
tiếng Pháp. Cậu (bố) của cậu bé Chỉ không đồng ý và phân tích cho cậu rằng:
"Con thấy thiếu chứ tiếng ta không thiếu. Nếu thiếu chăng, thì nó thiếu ở ý
mới, vật mới xưa kia không có. Còn những ý cũ vật cũ thì tiếng nước ta vẫn
đủ như thường. Xem như về gia đình, ta có biết bao nhiêu tiếng: kỵ, cụ, ông,
bà, cha, mẹ, con, cháu, chắt, chút, chít, bác, cậu, mợ, dì, cô, thím, âu yếm,
thân, hiếu, đễ, từ và biết bao nhiêu tiếng nữa. Lại nói như cách mang đồ đạc,
ta có: đội, gánh, xách, vác, cầm, khênh, ôm, cõng, bê, tải, cắp, khuân, bế, mỗi
tiếng một nghĩa riêng” (tr. 13) và “Cậu dám đánh cuộc với các ông cử; ông
nghè Tây dùng tiếng Pháp mà dịch nổi tiếng "lôi thôi" của ta đấy" (tr. 13). Dù
được phân tích thấu đáo, nhưng cậu bé Chỉ vẫn không tin. Và cậu chỉ thật sự
tin khi mợ (mẹ) của cậu bị ốm và nhờ cậu đọc giùm tiểu thuyết tiếng Việt. Cậu
bất ngờ là không ngờ nó lại hay đến thế! "Truyện Tây cũng đến thế là cùng”
(tr 29). Chúng tôi bùi ngùi khi đọc lại những lời của người mẹ nói với con" "Mợ
mua sách Quốc văn, được sách hay đã đành, dù phải sách dở mợ cũng vui
lòng. Mình không có tài làm cho Quốc văn hay đẹp hơn lên, thì phải có chút
khuyến khích những người có công quý hoá ấy vậy" (tr. 18). Đừng quên rằng,
nhà văn Nguyễn Công Hoan đã tôn vinh tiếng Việt từ thập niên 40 - lúc mà
tiếng Pháp còn ngự trị trong mối quan hệ xã hội. Ngay lúc tiếng Việt còn bị rẻ
rúng thì sự mẫn cảm của nhà văn đã giúp cho ông thấy tương lai lớn mạnh tất
yếu của nó. Bây giờ, mọi người đang đổ xô nhau học ngoại ngữ như một
"mốt" thời thượng, thì truyện Một đứa con đã khôn ngoan đã nhắc nhở chúng
ta rất nhiều điều.
Đã từng đọc truyện dài Tấm lòng vàng thì chắc hẳn đã đôi lần chúng ta
phải ứa nước mắt trước hoàn cảnh bi đát của cậu học trò tên Đức. Đức có
biệt danh vua Zéro vì học dốt. Nào phải vì lười biếng, nhác học đâu, mà vì gia
đình nghèo. Bố mất, mẹ đi lấy chồng khác, cậu phải ở trọ. Không có tiền trả,
bà chủ sai cậu làm quần quật tối ngày, cậu không có thời giờ ôn bài. Biết
chuyện này, một thầy giáo đã âm thầm giúp Đức: mỗi tháng bỏ 3 đồng vào vở
để Đức trả tiền trọ. Từ đó, Đức học giỏi hẳn lên. Đây là một câu chuyện cảm
động. Cảm động vì thầy thương yêu học trò và sau này, khi công thành danh
toại thì học trò tìm cách giúp đỡ lại thầy trong cơn hoạn nạn. "Rồi đây, dù các
em có làm nên đến gì, mà dầu chẳng được đội ơn thầy nhiều như anh đây,
thì lúc nào cũng nhớ ơn thầy, tức là ơn người cha thứ hai vậy" (tr. 30). Đọc lại
vở kịch này, chúng tôi tin rằng, bây giờ trong môi trường sư phạm vẫn còn
những tấm lòng cao thượng như thế. Cho dù nó có phai nhạt đi ít nhiều thì sự
có mặt của vở kịch Tấm lòng vàng ở thời điểm này vẫn là điều cực kỳ đáng
quý và cần thiết trong việc giáo dục thế hệ trẻ.
Trong truyện Đảng Rổ Bẫy thì nhà văn viết về một thiếu niên tên là
Tâm. Trên đường trở về nhà, lòng đang nao nức muốn báo tin cho cha mẹ
biết là mình vừa đỗ Sơ học yếu lược. Không ngờ, khi đặt chân đến nhà thì
nghe tin cha bị bắt vì tội ăn cướp! Thế là Tâm lên tận huyện đường để minh
oan cho cha. Lần thứ hai lên gặp quan huyện thì chẳng may Tâm bị đảng
cướp Rổ Bẫy bắt cóc. Sau đó, nhờ trí thông minh và lòng dũng cảm, Tâm đã
khám phá ra tổ chức của đảng cướp này. Phải thừa nhận rằng, câu chuyện
này được nhà văn viết cực kỳ lôi cuốn, đã đọc thì không thể gấp sách lại nửa
chừng.
Được sự đồng ý của gia đình nhà văn Nguyễn Công Hoan (1903 -
1977), NXB Trẻ tái bản lại bốn tác phẩm này. Chúng tôi tin rằng, những tác
phẩm này hoàn toàn phù hợp với lý tưởng giáo dục trẻ em hiện nay.
(Lời giới thiệu cuốn: "Một đứa con đã khôn ngoan" -
NXB Trẻ 1998).
BƯỚC ĐƯỜNG CÙNG TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN CÔNG HOANTRƯƠNG CHÍNH
Bây giờ đọc lại Bước đường cùng ta mới biết tại sao cuốn này vừa ra
đời đã bị bọn thực dân phong kiến bóp chết ngay, chúng cấm lưu hành và
tàng trữ trong toàn cõi Đông Dương. Trước kia, và bắt đầu từ những truyện
ngắn đầu tiên của ông, Nguyễn Công Hoan đã từng tìm đề tài trong những
con người nghèo khổ, cùng khốn của xã hội. Nhưng những lần đó, ông chỉ
tìm những cảnh hài hước, buồn cười, những kết cục bất ngờ, ngộ nghĩnh. Ta
chưa kịp đau thương thì đã bật cười, cười rủ rượi. Tiếng cười làm dịu mất nỗi
chua xót, đánh tan mất lòng căm phẫn. Với Bước đường cùng ông thay đổi
cách viết, thay đổi thái độ. Ông nghiêm túc hơn và nhất là đã đồng tình với
nhân vật của mình. Hơn nữa, khác với những nhà văn hiện thực đương thời,
ông đã nhìn thấy người nông dân bị bóc lột quá đỗi, không chịu nhẫn nhục
mãi, đã vùng dậy. Anh Pha - nhân vật chính trong truyện - cùng Trương Thi
và San là những người cùng chung một số phận với anh, cùng bị Nghị Lại tịch
ký mất ruộng vì không trả được nợ, cả ba anh đã đoàn kết chặt chẽ với nhau,
không cho thợ gặt của tên địa chủ ấy xuống gặt lúa của mình. Rồi đến khi hắn
đưa lính khố xanh về hộ vệ cho bọn thợ gặt cướp lúa của anh, anh đã hăng
tiết lên, "vớ được một chiếc đòn càn, xông vào Nghị Lại, phang một cái thật
mạnh vào đầu:
- Đồ ăn cướp
Nghị Lại ngã rúi, kêu rầm rĩ".
Cố nhiên, rồi anh bị bọn lính ôm ghì lây, đè ngửa ra và trói gô lại,
khiêng đi... có lẽ là để đưa lên trình quan. Và truyện kết thúc một cách ấm ức,
nghẹn ngào:
"Pha giơ hai cánh tay bị trói lên trời, nắm chặt bàn tay run run vào ngực
để tỏ nỗi căm hờn, nghiến răng, rồi nhắm nghiền mắt lại, kệ cho hai dòng lệ
nó tuôn ra, và kệ cho ba anh em theo mình, không biết đến đâu mới trở lại...".
Sức phản ứng của người nông dân trong Bước đường cùng mãnh liệt
hơn trong Tắt đèn nhiều lắm và, cùng tả sự thất bại của người nông dân
trước lực lượng còn mạnh của địa chủ, Nguyễn Công Hoan không bi quan
như Ngô Tất Tố. Ngoài điểm mấu chốt ấy ra, Nguyễn Công Hoan còn cho các
nhân vật chính diện của mình những ý nghĩ, những lời nói và hành động tỏ ra
sức phản ứng nói trên của người nông dân bắt nguồn từ một sự giác ngộ về
giai cấp khá rõ rệt. Họ đã thấy "hai cánh tay mạnh mẽ" của họ là "hai cánh tay
làm cho đất cát có giá trị" (tr.203). Họ đã biết đoàn kết là sức mạnh; Pha nói:
"... Người ta chỉ lợi dụng sự rời rạc của anh em mình để bắt nạt. Nhưng
đến khi anh em mình biết hợp sức với nhau thì người ta cũng phải kiêng dè.
Đẩy một người, có thể làm ngã được, chứ đẩy ba người chụm lại nhau thật
chặt chẽ, tôi tính khó lòng nổi" (tr.197). Anh cũng đã nhìn thấy sự bất công
trong xã hội phong kiến. Anh nghĩ: "Nghị Lại quanh năm không rời cái bàn
đèn thì mỗi ngày thêm giàu có vì ruộng. Mà những người không ngày nào
không làm việc cho ruộng, như anh chẳng hạn, thì lại không được hột thóc
mà ăn..." (tr.190). Trời lụt, đi đắp đê dưới làn roi vọt của lính, và dưới những
trận mưa tầm tã, anh đã thấy rõ rằng: "Ba phần tư lúa má ở nơi mênh mông
này mà bọn dân đen vào cứu vớt được, là của Nghị Lại. Thì ra chính bọn anh
đã cứu sống Nghị Lại trong khi thằng này khểnh khơi nằm hút thuốc phiện,
nghĩ kế bóp hầu bóp cổ bọn anh” (tr.179)...
Có thể là Pha chưa nói được trơn tru như vậy, mạch lạc như vậy, có
thể là tác giả đã gợi ý cho anh những điều đó, nhưng nhất định những ý nghĩ
đó trước cách mạng cũng đã nằm sẵn trong tâm trí của người bần cố nông
làm lụng vất vả quanh năm, để làm giàu cho địa chủ, nhưng nào có phải như
thế là đã được yên thân đâu, còn bao nhiêu phen bị tủi nhục, bị hành hạ.
Ngày nay, trong phát động quần chúng, người nông dân còn hùng biện hơn
anh Pha nhiều, nhưng sở dĩ tôi trích dẫn những câu trên là vì, cách đây 17,
18 năm, mà tác giả Bước đường cùng viết được như thế, thì không thể không
chú ý được.
Tuy vậy, cũng chưa nên vội kết luận rằng, hồi bấy giờ, Nguyễn Công
Hoan đã có một lập trường đúng. Nguyễn Công Hoan 1938 không phải là
Nguyễn Công Hoan 1956. Điều đó không ai trách. Nhưng cần phải nói ra cho
được trung thực, bởi vì bản Bước đường cùng vừa mới xuất bản, so với bản
cũ có ít nhiều chỗ đã được sửa chữa lại, có thể khiến cho người đọc hiểu
nhầm.
Theo bản cũ thì, viết Bước đường cùng, Nguyễn Công Hoan có một ý
dụng rõ rệt, ý định đó thể hiện ở cách bố trí cốt truyện cũng như ở cách sáng
tạo một số nhân vật phụ. Ông chủ trương rằng: thảm trạng của nông thôn Việt
Nam sở dĩ kéo dài được là vì người nông dân dốt. Vì dốt, anh Pha mới bị
Nghị Lại xúi giục kiện cáo, vì dốt, anh mới không biết trong văn tự hắn viết
những gì để đến nỗi tám sào ruộng nhà bị đoạt mất mà gánh hàng xén của vợ
đáng giá ba mươi đồng cũng lọt vào tay quan huyện và các hào lý, lính lệ.
Nhiều lần, Pha đã thở dài nói với vợ: "Tôi bị bao nhiêu tai hoạ vì dốt nát...",
"Tôi căm ông Nghị Lại bao nhiêu, tôi oán ông huyện bao nhiêu, tôi lại bực
mình vì cái tội dốt bấy nhiêu..." (tr.117) Và theo lời bác Tân, anh đã bàn với
vợ học cho biết chữ quốc ngữ rồi mượn sách báo về đọc. Dự, anh ruột chị
Pha, và là người về sau đã giác ngộ cho Pha rất nhiều cũng nói: "... Tôi may
được bác Tân khuyên bảo học hành, nên bây giờ mới rạng ra một tí, biết thế
nào là lẽ phải, thế nào là áp bức...". Rồi y còn cho biết rõ chủ trương của y
hơn: "Những làng có người, đứng đắn trông nom công việc thì chỉ ba năm, bỏ
lệ ăn uống hủ lậu, là đủ có đường giải gạch, có trường dạy trẻ, và làm bao
nhiêu việc công ích. Làng ta, dân thất học, nhà cửa ẩm thấp, đường xá lầy lội,
nhất là cái ao nửa để tắm giặt rửa ráy, nửa để gánh nước ăn, thật là bẩn thỉu
tai hại" (tr.120). Những ý đó trong bản mới của Văn nghệ vẫn y nguyên. Tôi
tưởng không cần phê bình một chủ trương như thế. Đó cũng là chủ trương
của Khương, Duy trong Con đường sáng.
* * *
Sau cùng, tôi có một số ý kiến về những nhân vật phản diện. Sau khi
đọc Tắt đèn của Ngô Tất Tố, đọc đến Bước đường cùng của Nguyễn Công
Hoan, tôi thấy hơi ngấy. Cùng một đề tài nên hai tác giả đã xây dựng những
nhân vật giống nhau. Tuy ngòi bút của mỗi người có một lối riêng, nhưng các
nhân vật đó có những nét chung chung, làm cho người ta không chú ý nhìn kỹ
nữa. Đành rằng, địa chủ thì ác, quan thì tham, lính thì nhiễu nhưng có cần
phải tả một thằng địa chủ đểu như Nghị Lại, làm văn tự giả mạo bắt anh Pha
ấn dấu tay vào, một thằng quan vừa có một diện mạo kỳ khôi, vừa ăn tiền một
cách trắng trợn và có những thủ đoạn thu thuế ít thấy như thằng quan huyện
này, và những tên lính lệ huyện này,v.v..., người ta mới ghét chế độ phong
kiến, mới thấy cần phải đạp đổ giai cấp địa chủ. Đành rằng, trong thực tế, có
những thằng như thế. Trong cuộc phát động quần chúng vừa qua, chúng là
những tên đầu sỏ bị đưa ra đấu và bị nhân dân trừng phạt một cách xứng
đáng. Nhưng tôi tưởng, chúng ta có thể tả những nhân vật phản diện có tính
cách... người hơn, mà sức phản ứng của chúng ta không vì thế mà bớt mãnh
liệt. Trái lại chúng ta sẽ đau xót hơn khi thấy, trong chế độ phong kiến, con
người đã trở thành chó sói, ngoài ý muốn của mình, không cưỡng lại được.
Cách tập trung tất cả những tính xấu vào nhân vật phản diện có lẽ không phải
là cách sáng tạo nhân vật điển hình mầu nhiệm nhất. Cách đó sẽ làm cho
nhân vật trở thành kỳ dị, như bị phóng đại, thiếu tính chất hiện thực và do đó
mất tác dụng của nó. Tại sao một số tiểu thuyết ngày nay về cải cách ruộng
đất dễ rơi vào bệnh công thức, bệnh sơ lược chủ nghĩa? Có lẽ vì chúng ta chỉ
tìm tả bọn địa chủ gian ác đầu sỏ, mà gạt ra ngoài không tả bọn địa chủ
thường. Chúng ta sợ gặp phải phần... con người ở chúng chăng? Có khi gặp
thì đã sao! Không phải vì bọn địa chủ còn có tính chất người mà chúng ta
không ghét chế độ bóc lột địa tô, chiếm hữu ruộng đất nữa. Xây dựng nhân
vật phản diện như vậy ấu trĩ chẳng khác gì xây dựng nhân vật chính diện
bằng cách gán cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời. Những nhân vật đó
nhất định sẽ trở thành giả tạo, không hiện thực.
Đọc Bước đường cùng, tôi có cảm tưởng như đọc một tác phẩm vừa
sáng tác trong phong trào cải cách ruộng đất vừa qua. Đó là một lời khen.
Giữa lúc đế quốc và phong kiến còn có thế lực mà tác giả dám nói lên nỗi
phẫn uất cùng độ của người nông dân, thật phải can đảm lắm. Xã hội mục nát
đến nỗi một lời mỉa mai, giễu cợt không còn có tác dụng nữa, phải đả kích,
vạch mặt chỉ tên thật sự. Với Bước đường cùng, Nguyễn Công Hoan đã làm
việc đó. Có thể nói Nguyễn Công Hoan là nhà văn đàn anh dẫn đầu trong việc
đi sâu vào nông thôn, cảm thông với người nông dân để nói lên nỗi lòng của
họ.
(Thời báo Văn nghệ, số 144, 11-1956)
ĐỌC LẠI BƯỚC ĐƯỜNG CÙNG CỦA NGUYỄN CÔNG HOANNAM MỘC
Bước đường cùng ra đời vừa chẵn một phần tư thế kỷ. Đây là một
trong những cuốn tiểu thuyết trước Cách mạng đã hiếm hoi vượt qua thử
thách sống đến ngày nay và ngày càng tỏ ra có một giá trị tư tưởng và nghệ
thuật không ai chối cãi. Cuốn sách vừa được in lại lần thứ V với hai vạn bản
cách đây một năm và được đông đảo bạn đọc hoan nghênh. Đối với bạn đọc
cùng lứa tuổi với tác giả hoặc tác phẩm, Bước đường cùng làm cho họ nhớ
lại những năm đen tối đã qua, ôn cũ để càng biết mới, yêu mới, dũng cảm
xoá bỏ tàn tích cái cũ, thiết tha xây dựng cái mới. Đối với bạn đọc trẻ tuổi,
Bước đường cùng giúp họ thấy rõ được một phần đời sống cùng khổ của
người nông dân ta dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, trên cơ sở nhận
thức cái cũ họ càng hiểu giá trị của cuộc sống mới mà Cách mạng tháng
Tám, cải cách ruộng đất và phong trào hợp tác hoá nông nghiệp xã hội chủ
nghĩa đã và đang xây dựng ở nông thôn. So với cuộc đời của anh Pha,
những người nông dân lao động dưới hai ba tầng áp bức bóc lột trước Cách
mạng, thì cuộc đời của những người nông dân xã viên ngày nay - quả đã là
một bước tiến từ mười tầng địa ngục đến ngưỡng cửa thiên đình. Họ đã vĩnh
viễn thoát khỏi áp bức bóc lột; cách làm ăn tập thể trong hợp tác xã đảm bảo
cho họ khỏi bị phá sản từ trung bần nông rớt xuống thành vô sản, cố nông,
đảm bảo cho họ ngày càng đuổi kịp và vượt mức sống trung nông lớp trên.
Anh Pha, nhân vật chính trong tiểu thuyết và cũng là một hình tượng chân
thật của hàng triệu anh Pha trong cuộc sống, nếu thoát được cảnh nhà tù đế
quốc và cảnh chết đói 1945, thì năm nay anh đã trên dưới năm mươi tuổi; và
sau khi vợ con anh chết đói, chết dịch hết, nếu anh "rổ rá cạp lại" và mắn ra
thì đứa con đầu lòng của anh đang độ thành niên. Hai thế hệ "cha và con", già
và trẻ ấy hiện nay đang kề vai sát cánh nhau xây dựng chủ nghĩa xã hội và
đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Những anh Pha ấy và các con anh
suy nghĩ những gì khi đọc Bước đường cùng, khi qua tác phẩm nhớ lại, sống
lại cuộc đời cũ của mình, của cha ông mình cách đây không xa lắm?
Bước đường cùng, chỉ ghi lại một bước đường ngắn ngủi, khoảng vài
bốn tháng trong cuộc đời đầy đau khổ dằng dặc của anh Pha trước Cách
mạng tháng Tám. Hồi đó anh đang tuổi trai tráng, khoẻ mạnh, một vợ một
con, có tám sào ruộng tư và một gánh hàng xén đáng giá ba chục đồng (bằng
khoảng ba trăm đồng bây giờ). Kể ra với tuổi tác, sức vóc và vốn liếng đó,
cộng thêm tính cần cù, cơ chỉ, chồng cầy cấy vợ chạy chợ, thì đời sống của
gia đình anh cũng không đến nỗi lao đao, vất vả; nếu cứ mưa thuận gió hoà
và mạnh chân khoẻ tay thì còn có thể khấm khá là khác. Nhưng chế độ thực
dân nửa phong kiến với bao nhiêu nanh vuốt của nó không cho phép anh Pha
cũng như hàng triệu nông dân lao động như anh được an cư lạc nghiệp. Tên
địa chủ Nghị Lại, do cướp bóc nông dân đã giàu nứt đố đổ vách với hai mẫu
vườn và bốn trăm mẫu ruộng, còn tìm cách thâm độc để chiếm nốt tám sào
ruộng của anh Pha. Hắn cấu kết với tên tri huyện sở tại, xui nguyên giục bị,
đẩy nông dân đi đến chỗ kiện cáo nhau để đục nước béo cò: quan thì ăn của
đút, địa chủ thì cho vay nặng lãi chiếm ruộng chiếm nhà. Nghị Lại xúc xiểm
Trương Thi và Pha đi kiện nhau. Hắn cho cả hai bên vay tiền để lễ quan. Vì
vụ kiện mà chính Pha không muốn có này, anh đã vấp nợ Nghị Lại ba chục
đồng. Rút kinh nghiệm đau đớn của bao nhiêu gia đình nông dân đã khánh
kiệt vì nợ lãi, vợ chồng Pha bán gánh hàng xén để lấy tiền trả nợ. Nhưng
Nghị Lại tìm cách chần chừ không chịu nhận tiền, vì hắn đã có âm mưu nuôi
lãi mẹ đẻ lãi con để cuối cùng chiếm ruộng của Pha. Kế đến vụ sưu thuế ập
tới. Cường hào có quan trên đồng loã, được dịp phù thu lạm bổ. Món tiền bán
gánh hàng xén của vợ Pha bị tiêu tán vào món thuế tám sào ruộng và ba suất
sưu của Pha và hai người anh ruột Pha tha phương cầu thực mà bọn cường
hào bắt anh phải đóng đậy. Hoạ vô đơn chí. Để tránh nạn đói giáp hạt, Pha lại
phải vay của Nghị Lại 5 thùng thóc. Nhưng 5 thùng thóc đó cũng không đủ
cứu đói cho cả gia đình. Vợ chồng Pha phải ăn củ chuối. Do đói và ăn bậy, lại
bị nạn mưa lũ úng thuỷ, nhân dân trong vùng nhiều người mắc bệnh dịch tả.
Vợ rồi con Pha cũng lần lượt chết về bệnh dịch. Nhân việc vợ con ốm, chết,
Pha lại bị mê tín và lệ làng làm cho thêm tốn kém: lễ bái, bốc mộ, cúng quan
ôn, tạ thần. Anh phải bán nhà và vay Nghị Lại thêm mười đồng nữa. Cuối
cùng gần đến vụ gặt và giữa lúc Pha trắng tay, Nghị Lại gọi Pha đến tính nợ:
30 đồng vay lễ quan, 10 đồng vay tạ thán cộng với 5 thùng thóc vay lúc giáp
hạt, tính cả vốn lẫn lãi thành 20 thùng, và tuyên bố: "Mày phải viết nhượng
cho tao chỗ tám sào của mày".
Nhưng việc đời cùng tắc biến, con giun bị xéo mãi cũng quằn. "Bước
đường cùng" mà Nghị Lại và cả cái chế độ tàn ác sau lưng hắn dồn anh Pha
tới, đã buộc anh và những người cùng cảnh ngộ với anh phải vùng dậy.
Trong cái làng An Đạo có dinh cơ của Nghị Lại, không riêng gì gia đình anh
Pha bị phá sản. Bà Ánh, hàng xóm của Nghị Lại bị hắn cướp vườn. Bác đám
ích hai lần mất nhà, mất ruộng vào tay hắn. Bác San cũng bị hắn lừa phỉnh,
vay tiền rồi mua bò mua lợn của hắn để mời cả làng ăn khao cái bằng sơ học
yếu lược của đứa con trai đầu lòng. Tất cả những con người đó đều thù oán
Nghị Lại, đồng bệnh tương liên với Pha. Ngay giữa Trương Thi và Pha, hai
người hàng xóm vốn hiềm khích nhau về chuyện người nọ lấy tên huý cha,
ông người kia để đặt tên cho con mình, đến nỗi Trương Thi định bỏ rượu lậu
vào ruộng Pha (nhưng không may lại bỏ lầm vào ruộng Nghị Lại) rồi báo Tây
đoan về bắt Pha, sau đó cả hai bị Nghị Lại gièm pha, xúc xiểm, đi kiện nhau
và vay tiền của hắn để đút quan, kết cục cả hai đều bị hắn cướp lúa, cắm
ruộng; ngay giữa hai người đó cuối cùng cũng san bằng mọi hiềm khích, thân
ái giúp đỡ nhau lúc tắt lửa tối đèn. Cuốn tiểu thuyết kết thúc bằng sự đoàn kết
giữa ba nhà Pha, San, Thi để chống lại sự cướp lúa, cắm ruộng của Nghị Lại.
Họ đã giúp nhau gặt chạy trót lọt lúa ở ruộng San và ruộng Thi. Nhưng đến
lượt ruộng Pha, thì Nghị Lại cầu cứu lính khố xanh về đàn áp. San, Thi chưa
kịp tới. Nhưng một mình Pha cũng liều chết chống lại. "Anh vớ được chiếc
đòn càn, xông vào Nghị Lại, phang một cái thật mạnh vào đầu" rồi "phang
huyên thiên. Nhưng anh thế cô, chẳng mấy chốc bị ba người lính khoẻ túm
chặt được, đè anh ngã ngửa và trói gô lại" (tr.166) giải lên huyện.
Hành động chống đối của Pha và bè bạn chưa phải là hoàn toàn tự
giác (theo ý nghĩa giác ngộ về lợi ích của giai cấp), nhưng cũng không hẳn là
hoàn toàn tự phát, hăng máu gà trong giây lát. Quá trình chuyển biến của Pha
từ một con người nhút nhát, cả tin, sợ và coi Nghị Lại như một ân nhân đến
một con người có suy nghĩ, mạnh bạo, thù ghét và đánh lại Nghị Lại, quá trình
ấy tuy ngắn ngủi, chỉ diễn ra trong vòng mấy tháng nhưng là một quá trình tất
yếu. Tai hoạ dồn dập đến với gia đình Pha, kinh nghiệm xương máu của anh
những khi chạm trán với Nghị Lại, quan huyện, nha lại, lính tráng, cường hào
là cơ sở thực tế để anh có thể chuyển biến về nhận thức, tư tưởng sự tiếp
xúc giữa anh với Dự (em vợ anh), Tân (anh cọc chèo của anh), Hoà (anh ruột
anh, một công nhân đi làm ở xa về) là những người hiểu biết hơn anh, đã
thúc đẩy sự chuyển biến đó từ khả năng đến hiện thực. Cố nhiên sự chuyển
biến đó cũng chỉ mới là bước đầu, bước đầu của quá trình cách mạng hoá lâu
dài và gian khổ của các tầng lớp nhân dân lao động, quá trình này đòi hỏi
phải được sự lãnh đạo sáng suốt, sự giáo dục kiên trì của Đảng, của giai cấp
công nhân. Nhưng dẫu sao đó cũng là một bước đầu đầy hứa hẹn. Những
người nông dân ấy, từ Pha đến San, Trương Thi đã bắt đầu có ý thức về sự
nghèo khổ của mình, đúng như lời Dự nói lúc Pha bị bắt:
"Chúng ta sống để làm gì? Không để ăn ngon, không để mặc đẹp,
không để sướng, nhưng là để chịu những sự bóc lột của địa chủ tàn nhẫn,
những nỗi áp bức của quan lại tham nhũng, những cái bất công của chế độ
thối nát chốn hương thôn, để bước đường cùng là đi đến chỗ phá sản" (tr.
167). Chỉ cần được tiếp xúc với ánh sáng chân lý của Đảng là những người
nông dân tự phát ấy có thể trở thành những người nông dân cách mạng,
hoàn toàn tự giác, những người nông dân cứu quốc của Mặt trận Việt Minh và
hơn nữa trở thành những người đảng viên cộng sản dẫn đầu toàn thể nông
dân lao động tiến lên như sóng cuộn trong những ngày bão táp của Cách
mạng tháng Tám để lật đổ cái "chế độ thối nát" chẳng riêng gì ở "chốn hương
thôn" mà trong phạm vi cả nước.
Nhiều người đọc trước Cách mạng đã đánh giá cao Bước đường cùng,
coi nó cùng với Tắt đèn của Ngô Tất Tố (ra đời năm 1939) là hai tác phẩm
văn học anh em đã lần đầu và bước đầu phản ánh một cách tài tình, sinh
động bằng hình tượng nghệ thuật trong một vài điểm cơ bản đã được nêu lên
trong vấn đề dân cày, một tác phẩm khoa học xã hội của Qua Ninh và Vân
Đình (bút danh của các đồng chí Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp hồi đó)
xuất bản trong những năm 1937-1938.
Qua các hình tượng nhân vật chính diện Pha và phản diện Nghị Lại,
Bước đường cùng đã phản ánh được một số khía cạnh điển hình trong các
mâu thuẫn cơ bản giữa nông dân và phong kiến, đế quốc, trong các vấn đề
nợ lãi, sưu cao thuế nặng, quan lại cường hào tham nhũng là những cái ách
đè nặng trên vai nông dân dưới chế độ cũ. Bước đường cùng có những trang
rất hay, rất sống về cảnh địa chủ bóc lột nợ lãi, Tây đoan bắt rượu, cường
hào thu thuế, tri huyện đốc thuế, quan nha lính tráng nhũng nhiễu nhân dân
và ăn hối lộ. Ngòi bút vốn sở trường về châm biếm của Nguyễn Công Hoan ở
đây đã tỏ ra sắc sảo khi tả những nhân vật phản diện từ Nghị Lại, Tây đoan,
tri huyện, cai lệ, lính lệ đến chánh tổng, lý trưởng, chánh hội. Nhiều nhân vật
kể cả những nhân vật không có tên tuổi, lai lịch rõ rệt, chỉ mới được phác qua
vài nét, về hình dáng, ngôn ngữ và hành động, nhưng qua một số nét chấm
phá đó, người đọc cũng đã hình dung được khá rõ bản chất và cả cá tính của
chúng với những màu sắc thời đại và màu sắc địa phương khá đậm.
Đây là chân dung và phần nào chân tướng Nghị Lại qua một cái ảnh
truyền thần: "Ta nên nhớ rằng ông Lại chỉ mới là nghị viên. Song vì người
làng phải nghe ông mà gọi là quan, nên ông không cần nể ai, chụp ngay cái
hình mặc mũ áo đại triều và thuê vẽ. Hoạ sĩ lại là tay đồng chí của chủ nhân,
càng không cần nể ai nữa. Y đã tô màu tía lên trên áo rồng và vẽ thêm đôi
giao long dưới cầu mũ có rắc kim nhũ. Song trời ạ, cả một bộ triều phục uy
nghi ấy lại dùng để lồng ra ngoài một tấm thân có bộ mặt hom hem, dăn dúm,
khủng bố người ta bằng hai nét nhăn xoạc cong sang bên má, làm cho đôi
mắt đã xếch lại càng xếch thêm. Hoạ sĩ muốn tôn người có của, đã hoà màu
hồng cho khéo để tô da mặt hồng hào như người Mỹ tráng kiện, song sự thực
Nghị Lại là dòng dõi một giống người thuộc chủng tộc thứ sáu trên toàn cầu
(...) đích danh là thứ da của chủng tộc người nghiện" (tr.28).
Đây là hình tượng một tên lính lệ khi hắn bước vào nhà Pha: "Người lạ
mặt (tức tên lính lệ - N.M) có cái đặc biệt là mặc hai áo cộc. Áo trong bằng
vải, áo ngoài bằng đũi nhuộm vỏ sò mà cũng dài đến đầu gối, cùng may lối
năm thân và cũng có cổ rất cao. Người ấy mặt khinh khỉnh, đội khăn lượt
quấn có năm vòng, nhưng đằng trước đếm được hơn mười nếp. Người ấy
tay cầm chiếc roi mây quấn tròn đầu, đi tuột vào trong nhà, leo lên phản ngồi,
không chào ai cả" (tr.42-43). Khi thấy Pha bưng mâm cơm rượu lên, thì
"người lính ngồi nhổm dậy, duỗi khục hai cánh tay, đứng lên, vươn vai, vặn
lưng, bẻ đầu và vẫy cẳng rồi lại ngồi xuống (...). Khách kề cà vừa uống vừa
nhắm rất thô tục. Trong khi ăn anh ta chẳng nói với chủ một tiếng nào. Đánh
loáng hai đĩa thịt luộc đã gần hết. Pha phát ngượng về sự thiếu đồ nhắm, phải
làm lối lịch sự, xuống bếp chặt nốt chỗ thịt định để dành chiều hai vợ chồng
ăn với nhau. Thấy được tiếp đồ ăn, khách càng ăn càng uống dài. Hắn nốc
từng hụm rượu và nuốt ừng ực" (tr.42-45).
Và đây là hình tượng quan huyện: "Quan phụ mẫu là một người có
nhiều cái đặc biệt. Đứng trước ngài người ta có cảm tưởng như lại phải ăn
một mâm cỗ đầy ăm ắp những thịt mỡ khi người ta đã no nê. Nghĩa là người
ta phát ngấy về sự phì nộn của ngài. Ngài cúi mặt xuống, cả tấm thịt trên quai
hàm bị cổ áo là cứng nó đùn lên, nó vẽ nên một nét nhăn, chia má làm hai
khu đều nhau, khu nào cũng phinh phính và nung núc những thịt. Cái tấm má
ấy đầy đặn, đến nỗi giá chỉ một mũi kim nhỏ lỡ đụng vào, là có thể làm chảy
ra hàng lít nước nhờn nhờn mà người ta quen gọi là mỡ...". Khi Pha vào hầu
kiện, trình bức thư của Nghị Lại thì thấy: "Quan vừa đọc thư, vừa với tay vào
cái đĩa không để ở góc bàn. Ngài vét mấy lượt, chẳng được gì. Bỗng ngài
ngẩng lên nhìn thẳng vào Pha, ngạc nhiên hỏi: - Đâu?" (tr.52). Té ra Pha
quên đặt vào đĩa năm đồng bạc tiền trình theo lệ nhà quan. Vì thế anh bị quan
sai lính tống cổ xuống trại giam.
Địa chủ cường hào ấy, lính ấy, quân ấy, chúng hùa nhau cấu kết với
thực dân, làm tay sai đắc lực cho thực dân vơ vét nhân dân, đặc biệt là trong
những vụ sưu thuế, nhờ gió bẻ măng, tha hồ phù thu lạm bổ: sưu thuê vốn đã
nặng, thế mà thực dân đánh một, chúng còn thu gấp rưỡi, gấp đôi. Hàng năm
cứ đến vụ thuế đánh gióng ba là người nông dân rùng mình, có cảm tưởng
như là trống giặc, trống cướp, trống cháy nhà vỡ đê. Riêng gia đình Pha, có 8
sào ruộng và 3 suất đinh, phải nộp tới 13 đồng rưỡi, bằng khoảng 4 tạ gạo.
Chính một phần vì món sưu thuế đó, mà Pha phải mất hết ruộng vào tay Nghị
Lại, Những người khác như anh Cò định bán con để nộp sưu, nhưng không ai
mua, bị lý trưởng sai tuần phu bắt ra đình kìm kẹp bên cạnh hàng chục người
khác. Bà cụ Trứ có con trai chết đã 5, 6 tháng vẫn phải chạy tiền nộp sưu cho
con. Trong khi nông dân méo mặt vì thuế, thì địa chủ lại có dịp làm giàu thêm.
Đây là cảnh nông dân chen chúc nhau trước cổng nhà Nghị Lại để cầm đồ lấy
tiền nộp thuế:
"Người nào người nấy vẻ mặt buồn bã vì ốm đói, vì lo lắng, cố lách vào
đứng sát cánh cửa tò vò đóng kín. Trên chòi cổng lớn, Phát (đầy tớ của Nghị
Lại - N.M) luôn miệng hô:
- Chị nào cầm đôi đèn kia, hãy đứng giãn ra cho bà đám Rót vào trước!
Hoặc:
- Ai ôm cái áo bông kia mang về, đây không lấy áo.
Lúc hai cánh cửa hé mở, một người ra thì mấy chục người chen vào.
Ngọn roi mây như mưa vào các đầu và Phát đứng trên rát cổ vì hò hét ầm ĩ.
Hai cánh lại đóng ập lại sau khi nuốt chửng một người. Bác Thứ chen được
đến chỗ rộng, xổ cả khăn, mặt đỏ dừ. Vậy mà bác hể hả cười và khoe:
- Quan ông không nhận hoa tai, chê là vàng giả, nhưng quan bà cho
vay hai đồng.
Mọi người thèm muốn, nhìn bác Thứ, ước ao được may mắn như bác,
Pha hỏi:
- Lãi bao nhiêu?
- Mỗi đồng một ngày năm xu" (tr.107).
"Mỗi đồng một ngày năm xu"! Người nông dân "hể hả" vì vay được tiền
để nộp thuế, khỏi cái cảnh kìm kẹp, tù tội trước mắt. Nhưng nhất tội nhì nợ.
Để thoát tù tội vì sưu thuế của thực dân, người nông dân đã đút cổ vào cái
thòng lọng nợ lãi của địa chủ. "Mỗi đồng một ngày năm xu”! Một tháng sau,
hai đồng bạc vay nộp thuế sẽ biến thành năm đồng cả vốn lẫn lãi trong sổ nợ
nhà địa chủ, một thứ "sổ đoạn trường". Nông dân một khi đã mắc vào tròng
nợ lãi thì ít ai có thể gỡ ra. Rồi lãi mẹ đẻ lãi con, rút cục vẫn là "bước đường
cùng": phá sản, chết vợ, chết con, mất nhà mất ruộng và tù tội vẫn hoàn tù tội,
như Pha vậy.
* * *
Đối với lịch sử dân tộc Việt Nam, xã hội Việt Nam, cách mạng Việt
Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, vấn đề
nông dân là một vấn đề rất lớn, phức tạp, nhiều mặt. Trong "Lời nói đầu" tác
phẩm Vấn đề dân cày, các đồng chí Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp đã
tuyên bố: Xét đến tình cảnh dân cày, chúng tôi không quên những vấn đề
ruộng đất, địa tô, sưu thuế, cho vay nợ lãi, hối lộ, giáo dục...". Sau đó, các
đồng chí đã khái quát một cách vừa súc tích vừa toàn diện thái độ các giai
cấp đối với dân cày và tính chất, lực lượng, khả năng của dân cày:
"Ở nước ta, bọn quan lại, quý tộc thường khinh miệt dân cày, cho là
một hạng "thấp cổ bé miệng". Bọn địa chủ thì cho dân cày là một hạng "ăn no
vác nặng" chỉ tốt cho họ bóc lột. Đối với bọn tư bản thì dân cày là một hạng
nhà quê ngờ nghệch, ngu xuẩn, không đáng cho người ta đếm xỉa đến.
(...) Chúng quên rằng một xứ nông nghiệp như Đông Dương, dân cày
chiếm 90 phần trăm dân số, 90 phần trăm ấy suốt ngày đầu tắt mặt tối ở
ngoài đồng để cho một số ít người no nê, phè phỡn một cách hỗn xược trước
cảnh lầm than đói rách của quần chúng.
Cái hạng người đen đủi, chất phác kia chịu khổ là vì không hiểu bởi đâu
mình khổ. Họ đành cầu trời, khấn Phật, mong cho con cháu sau này đỡ phải
điêu linh. Gặp nắng hạn thì họ tế lễ cầu mưa; gặp năm đói kém, ăn nhảm ăn
nhí cho đầy dạ dầy, không may dịch tả thì họ cúng quan ôn; bị bóc lột trăm
đường, làm ăn sa sút thì họ đi cất mồ cất mả, cầu khấn ông vải; hơn nữa họ
đi kiện quan, mặc sức cho bọn quan lại, thầy dùi đục khoét.
Nhưng mỗi khi không thể nào chịu nổi, họ liền tỉnh giấc, nhìn vào thực
tế thì bao nhiêu sự mơ màng dẹp lại mà nhường chỗ cho sự phẫn uất. Lúc đó
họ nhảy lên trường chiến đấu, quyết sống mái với kẻ bóc lột mình, cho hả
giận. Họ say máu đấu tranh, hình như nghĩ cứu mình không được thà chết!
Ấy chính cái tinh thần đấu tranh, phẫn uất hy sinh đó đã giúp cho cuộc
tiến hoá của dân tộc".
Cố nhiên là Nguyễn Công Hoan chưa thể có cái nhìn khái quát toàn
diện và sâu sắc của các tác giả vấn đề dân cày. Tuy nhiên, như đã phân tích
trên kia, Bước đường cùng phản ánh được một vài điểm cơ bản đề ra trong
vấn đề dân cày. Nguyễn Công Hoan chưa có dịp nghiên cứu mọi mặt vấn đề
dân cày khi viết Bước đường cùng. Nhưng quả thật ở đây nhà văn đã gặp
các nhà cách mạng ở một số nhận định. Đúng là Nguyễn Công Hoan hồi đó
đã vượt qua "mấy nhà văn quí phái, tư sản phóng ô tô chạy vụt qua nhà quê,
thấy cánh đồng bát ngát, xanh rì, buổi chiều mấy nóc nhà tranh khói lên nghi
ngút, (...) liền thêu dệt nên những bức tranh đầy "thi vị", nào có biết đâu...".
Mấy nhà văn đó "nào có biết đâu", nhưng qua Bước đường cùng,
Nguyễn Công Hoan đã tỏ ra có biết, biết khá nhiều, khá sâu đến hoàn cảnh
nông thôn, tính cách nông dân, mâu thuẫn giai cấp, phong tục tập quán trong
xã hội sau các luỹ tre xanh. Bước đường cùng thành công tốt đẹp, chính vì
Nguyễn Công Hoan đã hiểu biết đề tài và chủ đề mà mình lựa chọn để sáng
tác. Và Nguyễn Công Hoan hiểu biết chính vì ông đã "không phóng ô tô chạy
vút qua nhà quê", mà thực tế đã sống lâu với những cảnh và người mà ông
miêu tả. Ông xuất thân trong một dòng họ có cả quan lại, địa chủ, cường hào,
nông dân lao động, chiến sĩ cách mạng; và trong nghề dạy học của ông
trước, ông đã có nhiều dịp sống gần nông dân. Dù muốn hay không, Nguyễn
Công Hoan cũng đã "đi thực tế" lâu dài ở nông thôn: Trong các cửa phủ, cửa
huyện ở Thanh Oai, ở Phù Ninh, ở Thái Ninh rồi các cửa trường ở Nam Sách,
Kinh Môn, Trà cổ... Mặt khác, thời Mặt trận Dân chủ, ông đã có dịp tiếp xúc
với những người cộng sản đã được đồng chí Nguyễn Văn Phúc giảng cho
nghe về chủ nghĩa cộng sản, về giá trị thặng dư, đã đọc sách báo cách mạng,
và do đó thế giới quan của ông đã bắt đầu có chuyển biến, tiếp thu thêm
nhiều yếu tố tiến bộ. Trong bài hồi ký Thời kỳ Mặt trận Bình dân tôi đã chịu
ảnh hưởng của Đảng, Nguyễn Công Hoan đã kể lại: "Từ khi tôi hiểu thế nào
là thặng dư giá trị, thế nào là bóc lột, thế nào là giai cấp, thế nào là đấu tranh,
từ khi tôi đi theo dõi các cuộc đình công của công nhân đòi quyền lợi về kinh
tế và chính trị, từ khi có các cuộc điều tra của Chính phủ bình dân phái Gô-đa,
Vi-an sang Đông Dương và tự khi tôi thích đọc sách báo của Mặt trận Dân
chủ, thì tôi bắt đầu thông cảm với nỗi thông khổ của anh em lao động. Tôi tìm
hiểu dân cày, tìm hiểu thợ thuyền". Bước đường cùng chính là kết quả tốt đẹp
của sự "tìm hiểu dân cày", sự kết hợp vốn sống thực tế ở nông thôn với việc
"hiểu thế nào là thặng dư giá trị..." việc "thích đọc sách báo của Mặt trận Dân
chủ", việc "bắt đầu thông cảm với nỗi khổ của anh em lao động", nghĩa là sự
kết hợp kinh nghiệm sống phong phú với tư tưởng và tình cảm tiến bộ của
nhà văn.
Tô Hoài trong bài Người bạn đọc ấy có kể lại rằng: mùa hè 1938, trong
khi Nguyễn Công Hoan còn ở thị xã Nam Định, để hoàn thành Bước đường
cùng, thì một buổi trưa, có "một người "nhà quê" (...) trạc bốn mươi tuổi (...)
khuôn mặt (...) vừa rám đen nắng vừa vàng nghệ thành màu đất thó xám,
không thể đoán được là người đương ốm hay người khoẻ, (...) quấn khăn
lượt, mặc áo the lửng, tay cầm cái ô vải trắng lơ, đi đất" đến gõ cửa. Người
ấy tự giới thiệu quê ở Yên Mô, Ninh Bình rồi thốt lên một câu: "Ông ôi! Đời tôi
rất khổ". Rồi người ấy kể khổ với nhà văn, cuối cùng người ấy kết luận và yêu
cầu nhà văn: "Tôi chỉ thấy khổ như cảnh tôi là khổ đến tuyệt trần rồi, cho nên
tôi phải kể cho ông viết, nếu không thì chẳng ai biết dân đen chúng tôi cực
nhục đến như thế nào, bọn hào lý, quan trên kia độc ác đến như thế nào".
Rất có thể người "nhà quê" trên đây vừa là một bạn đọc lại vừa là một
nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan. "Người bạn đọc ấy" đã coi
nhà văn như là người thân thiết ruột rà của mình, coi tác phẩm văn học như là
một lời tố khổ, một bản cáo trạng, một vũ khí đấu tranh và dốc tất cả những
dòng mồ hôi, nước mắt và máu trong cuộc đời mình cho tuôn chảy vào ngòi
bút của nhà văn. Và biết đâu trong sự thành công của Bước đường cùng lại
không có sự đóng góp trực tiếp của "người độc giả ấy". Biết đâu sự thành
công của Bước đường cùng không phải một phần là do nhiệt tình của nhà
văn muốn "trang trải món nợ lòng" đối với "người độc giả ấy" ở Ninh Bình
cũng như "đối với anh em cộng sản ở Nam Định"
Có người chê Bước đường cùng về mặt nội dung chưa phản ánh được
những điều cơ bản nhất của "Vấn đề dân cày", như ruộng đất và địa tô, và về
mặt nghệ thuật ngoài Pha ra, còn nhiều nhân vật quá tĩnh, đơn điệu, sơ lược,
thiếu diễn biến biện chứng trong tính cách, có những chi tiết tự nhiên chủ
nghĩa như cảnh vợ Pha đẻ, kỳ hào đánh chủ, lính lệ bóp vú, vợ Trương Thi
chửi mất gà... Lời chê ấy có phần nào đúng, nhưng quả là quá khe khắt.
Không nhất thiết tác phẩm văn học ưu tú nào cũng phải phản ánh đầy đủ
những mặt bản chất của hiện thực. Lê-nin đánh giá rất cao sáng tác của L.
Tônxtôi, coi đó là "tấm gương phản chiếu cách mạng Nga", mặc dầu trong
các tác phẩm của mình, L.Tônxtôi chỉ mới phản ánh "vài khía cạnh chủ yếu
của cuộc cách mạng". Tắt đèn của Ngô Tất Tố hầu như chỉ đề cập đến một
khía cạnh là vấn đề sưu thuế, nhưng qua vấn đề đó cũng đã đề cập đến khá
nhiều vấn đề khác đặt ra trong đời sống nông thôn và tố cáo một cách đanh
thép chế độ quan lại, địa chủ, cường hào thối nát và chính vì thế mà Tắt đèn
đã trở thành một tác phẩm ưu tú. Bước đường cùng, ngoài vấn đề sưu thuế,
đã đề cập tới vấn đề nợ lãi và qua hai câu sưu thuế và nợ lãi cũng đã phê
phán nghiêm khắc bọn địa chủ, cường hào, quan lại, ngoài ra còn phê phán
một số hủ tục mê tín. Và nhờ những chi tiết cụ thể, bề ngoài có vẻ như là tự
nhiên chủ nghĩa, Bước đường cùng đã phần nào tránh được công thức, sơ
lược, có màu sắc thời đại, địa phương sinh động. Nếu Bước đường cùng có
chỗ yếu, thì chỗ yếu ấy căn bản không phải là vì cách chọn đề tài, chủ đề, mà
chính là ở cách nhìn của tác giả. Cách nhìn này tuy đã có những yếu tố tiến
bộ nhờ ảnh hưởng của Mặt trận Dân chủ, nhưng cũng còn có những mặt bị
hạn chế. Chẳng hạn cảnh sinh nở khó khăn của vợ Pha, cách đỡ đẻ luộm
thuộm của bà trùm Sủng, cảnh nhà cửa chật chội, bẩn thỉu của gia đình Pha,
cảnh nhân dân kéo nhau đi xem Tây đoan bắt Pha... đáng được miêu tả với
một thái độ thương xót hơn là hài hước. Nhưng mặt hạn chế chủ yếu trong
Bước đường cùng là tác giả chưa thấy rõ ràng, dứt khoát quá trình vận động
cách mạng của hiện thực, chưa nhận ra hướng đi lên của giai cấp nông dân
và đà xuống dốc của chế độ quan lại, địa chủ, cường hào, chỉ mới nhìn thấy
"Bước đường cùng" của nông dân mà chưa nhìn thấy "Bước đường cùng"
của chế độ thực dân nửa phong kiến, mặc dầu về chủ quan tác giả đã được
bước đầu tiếp xúc với chủ nghĩa cộng sản và đã có "dự định viết tiếp đời anh
nông dân bị phá sản trong cuốn Bước đường ngoặt và viết cuốn Bước đường
sáng để nối vào Bước đường ngoặt là hai bước đường đưa nông dân tới
cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Do mặt hạn chế này mà nhà văn chưa nhìn thẳng vào nguyên nhân
chính làm cho nông dân phá sản là cơ sở xã hội, là bản thân chế độ thực dân
nửa phong kiến, là chế độ địa chủ chiếm đoạt ruộng đất bóc lột nông dân
bằng công tức, nhà văn lại nhìn chệch sang những nguyên nhân thứ yếu khác
thuộc phạm vi kiến trúc thượng tầng như hủ tục và nhất là trình độ văn hoá.
Về nguyên nhân "trình độ văn hoá này", trong tác phẩm đã có tới 11 đoạn đề
cập tới (tr.75, 76, 88, 90, 95, 96, 97, 98, 131, 155, 165). Ở chương cuối cùng,
Dự, một nhân vật có "giác ngộ" đã khuyên Pha muốn thoát khỏi cảnh khổ thì
"phải hiểu biết, và muốn hiểu biết phải học chữ" (tr.165). Có lẽ khi viết những
đoạn trên đây, tác giả đã ít nhiều chịu ảnh hưởng của phong trào Truyền bá
chữ quốc ngữ đương thời có lúc khá rầm rộ. Có người căn cứ vào đó mà quy
cho tác giả là có khuynh hướng cải lương xã hội chủ nghĩa. Lời quy kết này
cũng quá nghiêm khắc. Nhưng dẫu sao mặt hạn chế về cách nhìn của tác giả
cũng đã giảm một phần giá trị tư tưởng của tác phẩm.
Mặc dầu có chỗ yếu như trên, Bước đường cùng vẫn là một tác phẩm
văn học hiện thực ưu tú và có sức sống lâu dài. Cho đến nay nó vẫn là truyện
dài thành công nhất của Nguyễn Công Hoan. "Với Bước đường cùng lần đầu
tiên trong lịch sử văn học Việt Nam có một tác phẩm nói đến đời sống nông
thôn Việt Nam một cách sâu sắc, vạch trần được một trong hai mâu thuẫn cơ
bản của xã hội nước ta dưới thời Pháp thuộc là mâu thuẫn giữa nông dân và
địa chủ phong kiến".
(Tạp chí Văn học, số 3, 1963).
HỖN CANH HỖN CƯ CỦA NGUYỄN CÔNG HOANNAM MỘC
Hỗn canh hỗn cư là cuôn tiểu thuyết xuất bản gần đây nhất của Nguyễn
Công Hoan, sau Tranh tối tranh sáng của cùng một tác giả và Mười năm của
Tô Hoài, Một luồng gió mới của Hồng Chương, nó là một trong những tác
phẩm văn học đầu tiên sau hoà bình, đề cập một cách rộng rãi tới đề tài trước
Cách mạng tháng Tám.
Nội dung cụ thể của Hỗn canh hỗn cư là các đợt đấu tranh của nông
dân làng Văn Chương (một làng ở đồng bằng Bắc Bộ) dưới hai tầng áp bức,
bóc lột của phát xít Nhật-Pháp: chống đón rước tri huyện đi kinh lý, đòi chia lại
công điền, không trồng đay và đắp đường cho Nhật, cướp kho thóc. Văn
Chương là một làng có truyền thống cách mạng từ phong trào Văn thân và
phong trào Đề Thám, và có cơ sở của Đảng ngay từ sau khi Đảng mới thành
lập. Nhưng cơ sở bị thực dân Pháp khủng bố trắng làm cho tan rã; mãi tới
năm 1936, trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, sau khi Na, người làng, đi tù về,
phong trào mới dần dần được phục hồi và phát triển qua các đợt đấu tranh
trên đây. Sau khi Na thoát ly để tránh khỏi bị đi tù lần thứ hai, Hùng được
Đảng điều tới thay để chỉ đạo phong trào. Cuối cùng, chi bộ Đảng được thành
lập gồm có Hùng, Lê (em Na), Nhã, Phùng. Câu chuyện chính thức bắt đầu
ngót một năm sau khi năm tên lính cơ về đóng ở làng, ý chừng vào khoảng
năm 1941 và kết thúc bằng việc chi bộ Văn Chương lãnh đạo nhân dân cướp
kho thóc của Nhật ở đình làng sau ngày Nhật đảo chính Pháp 9-3-1945.
Trong Hỗn canh hỗn cư, Nguyễn Công Hoan đã dàn thành mặt trận khá
nhiều nhân vật. Về phía ta, ngoài Na, Hùng, Lê, Nhã, Phùng còn có cụ Na
(mẹ Na), chị Na (vợ Na), Lưu (con Na), Thái, Ban, cụ từ Hoài (bố Ban), cụ
giáo Quý và một số nhân vật khác, về phía đối phương, từ cấp thấp đến cấp
cao có: Lý trưởng Sinh, chánh hội Tuy, phó hội Dương, phó lý Kiên, tộc biểu
Chưng, trùm Hiệu, khoá Hường, bọn lính cơ, thông sự Hảo, tri huyện Lê
Sung, tuần phủ, chánh mật thám Phu-tít và Xi-va, tuần phủ, công sứ Vát-xi,
Duy-cu-roa, toàn quyền Đờ-cu, đại sứ Nhật Mát-sư-mô-tô và một số nhân vật
khác nữa như vợ lẽ Lê Sung, võ quan Nhật, chánh lục lộ.
Qua nội dung của tác phẩm, người đọc nhận thấy Nguyễn Công Hoan
đã cố gắng thông qua những nhân vật và sự kiện cụ thể, nói lên cuộc đấu
tranh giai cấp sống mái giữa một bên là nông dân lao động do Đảng lãnh đạo
và một bên là bọn đế quốc Nhật-Pháp và bọn quan lại, cường hào tay sai của
chúng, trong một thời kỳ lịch sử đen tối nhất của dân tộc, dưới hai tầng áp
bức bóc lột của phát xít Nhật-Pháp. Ưu điểm nổi bật của Hỗn canh hỗn cư so
với Bước đường cùng (truyện dài tiến bộ nhất và thành công của Nguyễn
Công Hoan trước Cách mạng viết về cùng một đề tài) là tác giả đã nhận thức
được vai trò lãnh đạo của Đảng tiền phong của giai cấp công nhân trong
phong trào nông dân làm cho phong trào này từ tự phát, mù quáng tiến tới tự
giác, có tổ chức, có tiền đồ. Những người nông dân ở đây không còn là
những người nông dân bi quan, tự ti, mê tín, thường chịu an phận, nhẫn nhục
một cách tiêu cực, chỉ đôi lúc cùng quá mới phản đối lại những kẻ áp bức bóc
lột, như con giun bị xéo lắm phải quằn, nhưng đó cũng chỉ là một sự phản
ứng lẻ loi, tuyệt vọng, đi vào "bước đường cùng". Những người nông dân ở
đây được cán bộ của Đảng kiên trì giáo dục đã tự tin ở lực lượng đoàn kết
của mình, vùng lên đấu tranh với kẻ thù, từ đợt này đến đợt khác, bước đầu
có ý thức kết hợp lợi ích kinh tế với lợi ích chính trị, lợi ích trước mắt và lợi ích
lâu dài, lợi ích bản thân, gia đình với lợi ích giai cấp, dân tộc. Trên cơ sở nhận
thức tư tưởng mới đó, Nguyễn Công Hoan đã vận dụng vốn sống của một
người đã từng trải nhiều dưới chế độ cũ, miêu tả được những bức tranh cụ
thể khá sinh động và đôi khi cảm động nữa, như cuộc đấu tranh chung quanh
đám ma cụ quản A (bố Thái), việc tri huyện Lê Sung tới trường bắt cụ giáo
Quý, đuổi không cho Lưu học nữa, trận đấu tranh giữa tri huyện Sung và một
số cốt cán nông dân Văn Chương chung quanh việc đắp đường cho Nhật,
việc dân phu lãn công trên công trường làm đường.
Nhưng Hỗn canh hỗn cư có nhiều nhược điểm về cả mặt nội dung hiện
thực, tư tưởng lẫn mặt hình thức nghệ thuật.
Nguyễn Công Hoan là một nhà văn có phong cách độc đáo, giàu kinh
nghiệm (kinh nghiệm sống cũng như kinh nghiệm viết), có một quá trình sáng
tác lâu dài (gần 40 năm kể từ tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan ra đời năm
1923), viết khoẻ, viết nhiều và cũng tỏ ra "càng già càng dẻo càng dai". Trước
Cách mạng tháng Tám, ông là một trong số rất ít những nhà văn tiến bộ, đã
có những tác phẩm hiện thực phê phán giá trị như Kép Tư Bền, Đào kép mới,
Bước đường cùng. Sau Cách mạng tháng Tám, ông lại tiếp thu được thế giới
quan, nhân sinh quan cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và đường lối,
chính sách cách mạng của Đảng; ông đã có nhiều dịp đi vào đời sống đấu
tranh và lao động của công nông trong kháng chiến, cải cách ruộng đất, cải
tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cách nhìn mới và vốn
sống mới của nhà văn cách mạng ở ông đã bổ sung và cải tạo về nhiều mặt
cho cách nhìn và vốn sống của nhà văn tiểu tư sản trước Cách mạng. Tất
nhiên người đọc rất tôn trọng và yêu mến một nhà văn như thế, nhưng đồng
thời cũng mong muốn, đòi hỏi nhà văn ấy nâng cao thêm một bước chất
lượng tác phẩm của mình về cả hai mặt nội dung tư tưởng và hình thức nghệ
thuật. Hỗn canh hỗn cư cũng như Tranh tối tranh sáng có những điều kiện
khách quan và chủ quan thuận lợi hơn so với Bước đường cùng, cũng viết về
đề tài nông dân trước Cách mạng, nhưng sở dĩ chưa thoả mãn được yêu cầu
của người đọc (mặc dầu có một số ưu điểm mà Bước đường cùng, do còn bị
hạn chế về thế giới quan, nên chưa thể có), có lẽ một phần lớn là vì nhà văn
chưa bồi dưỡng, vận dụng và kết hợp được tới mức cần thiết vốn sống mới
và tư tưởng mới với kinh nghiệm sống trước Cách mạng, và một phần nữa là
vì nhà văn chưa chủ động cải tiến thêm một bước lối trào phúng của mình,
chưa chú trọng xây dựng tính cách điển hình sinh động có nội tâm phong phú,
còn để cho sự việc bên ngoài (nhiều khi không tiêu biểu) lấn mất những cảm
nghĩ sâu kín trong lòng và những quan hệ xã hội rộng rãi nhiều mặt của con
người trong tác phẩm.
(Nghiên cứu văn học, số 6, 1962)
ĐỌC LẠI THANH ĐẠMNGUYỄN THỊ NAM
Thanh đạm là cuốn tiểu thuyết gần năm trăm trang của Nguyễn Công
Hoan được viết năm 1942. Đọc THANH ĐẠM chúng ta sẽ bắt gặp một
Nguyễn Công Hoan không giống như ta đã từng thấy Ông trong nhiều tiểu
thuyết hoặc truyện ngắn khác.
Nhân vật chính là ông huyện Lê Sĩ Cư xuất thân học trò nghèo, văn hay
chữ tốt, đỗ đạt cao, được bổ làm quan huyện (như chức vị Chủ tịch UBND
huyện ngày nay). Ông huyện Cư là hình mẫu đẹp của một bậc cai trị dân. Và
như Nguyễn Công Hoan đã viết trong ĐỜI VIẾT VĂN CỦA TÔI: "Cuốn
THANH ĐẠM chia làm hai phần đều nhau. Phần trên là đời làm quan của vai
chủ động, phần dưới là đời dậy học".
Là một viên quan, ông huyện Cư hết lòng vì dân. Ông từng đã lặn lội rét
mướt mưa gió cùng dân phu hộ đê. Ông từng tìm cách cải thiện cuộc sống
của những người dân vùng lũ lụt, tìm cách dậy thêm nghề phụ cho dân kiếm
thêm thu nhập. Dân chúng từng đã bảo nhau: "Ngài bảo, thấy nhân dân khổ,
ngài không nỡ sung sướng một mình". Ông dậy nghề cho bọn tù để chúng có
công ăn việc làm khi về đời, theo dõi và giúp đỡ những kẻ tù tội đã hoàn
lương. Ông hiền từ không muốn ốp dân phu bằng roi vọt như người ta vẫn
làm. Ông nhân hậu trong việc phá án, thận trọng và mưu mẹo minh mẫn tránh
việc đánh đập tra khảo. Ông làm việc tận tuỵ và giữ gìn từng hành vi của
mình. "Ông kính trọng tục lệ trong dân nhưng không muốn sự xa xỉ ăn chơi.
Ông không dự hội hè vì nghĩ như vậy tức là xui ngầm dân làm trái ý ông. Rồi
vì ông về, họ lại đón rước tốn kém và có khi bọn đàn anh bầy vẽ ra, lợi dụng".
Nghĩ như vậy thì ông huyện Cư quả có lý và Nguyễn Công Hoan thật
giàu kinh nghiệm. Ở làng có người nghèo chết, không gọi được đủ người
khiêng (vì chắc chắn tang chủ không có gì để đãi họ), huyện Cư ăn mặc chỉnh
tề đến đưa tang, ghé vai khiêng đòn. Lẽ nào dân chúng lại để bậc phụ mẫu
phải làm thế. Họ đến xin ông để họ khiêng đòn. Quan kết luận: "Cho nên bao
giờ người đàn anh cũng phải làm gương tốt cho con em, dù có thiệt thân,
không nên kỳ quản".
Huyện Cư không phải là tham quan. Ông sống thanh bạch. Khi mẹ ông
qua đời, mọi người về làng phúng viếng mới phát hiện ra rằng: "Có một điều
ai nấy đều ngạc nhiên là không ngờ nhà quan phụ mẫu họ, thanh bạch quá.
Họ tưởng tượng nhà ông phải rộng chừng non mẫu, quây tường kín, có cổng
gạch đi vào, và trong, nào nhà thờ, nhà tiền tế, nhà cầu, nhà ngang, sân lát
gạch Bát. Ngờ đâu chỉ mấy gian nhà tranh với cái sân đất và khu vườn hẹp,
đến nỗi có bọn đi đông, phải ngồi xít lại với nhau mới đủ chỗ. "Ông cũng
không tham quyền nên đã hai lần từ chối sự cất nhắc: một lần thăng chức,
một lần chiếu vời ra làm quan sau khi đã từ quan về cư tang mẹ. Tác giả yêu
quý nhân vật của mình trọn vẹn đến cả việc miêu tả vẻ ngoài của huyện Cư.
"Người ông phương phi nhưng là cái đẫy đà thanh tú của con người phúc
phậu". "Ta có thể thấy trong dáng điệu của ông, tất cả một ông quan. Một ông
quan, nghĩa là một hạng người thiêng liêng, một hạng người trên hẳn những
người phàm thường, chỉ kém bậc thần thánh một chút..."
Và đã có một quan niệm đẹp như thế về ông quan, nên Nguyễn Công
Hoan đã đặt nhân vật chính của mình trong một thế giới "vua sáng, tôi hiền".
Mối quan hệ của huyện Cư với các chức sắc trong huyện, vừa kính vừa
nhường, quý mến nhau. Ông từ chối sự thăng thưởng, từ chối thông gia với
quan trên, nhưng các vị ấy không lấy thế làm mếch lòng. Đấng vua trên cửu
trùng biết đến ông quan giỏi và thanh liêm vời ra làm quan sau khi hết tang,
viên quan nhỏ ấy từ chối, cũng không làm vua bực tức. Một không khí thuận
hoà từ trên xuống dưới. Và như vậy trong khi vẽ nên hình mẫu lý tưởng về
một viên quan, Nguyễn Công Hoan cũng đồng thời xây dựng một môi trường
đẹp chốn quan trường. Ông quan này khuyến khích sự học, mở mang dân trí,
dân đức, giúp đỡ học trò nghèo có chí vươn lên. Thậm chí với những kẻ lạc
đường, ông cũng đem lòng cứu giúp, tạo công ăn việc làm...
Trong mối quan hệ hẹp hơn của quan huyện là gia đình. Nguyễn Công
Hoan cũng viết theo cùng một đích. Huyện Cư thanh đạm vì có người mẹ
trọng nghĩa, luôn dậy con những điều tốt, sống thanh bạch. Những tư tưởng
tốt, đạo đức hay của huyện Cư được vợ con ông tán đồng và làm theo. Vợ
quan đầu huyện nhưng bà vẫn hay lam hay làm, cửi canh chợ búa. Bà tán
thành cách lựa chọn của chồng, không tham địa vị chốn quan trường mà
dành sức dậy học trò, giúp đỡ dân cư nơi làng xóm. Bà đã có lần nói với ông:
"Dù ông làm đến Tổng đốc ngay bây giờ tôi không bỏ được cái khung cửi, cái
gánh làng. Vả lại dù sau này ông bổ gần hay xa, tôi cũng xin ở lại để trông
nom nhà cửa và dậy trẻ con, đàn bà trong làng ít nghề". Con gái lớn của họ
được bố dậy chữ, mẹ dậy cách làm ăn, cũng biết quý trọng tài năng và vui
theo quyết định của bố mẹ, từ chối những đám sang trọng, nhận lời lấy anh
trò nghèo, học giỏi... Cả một gia đình lớn sống đầm ấm, trong sạch. Những
điều tốt, những việc tốt được truyền bảo từ đời cha sang đời con như trong
nhà ông huyện Cư là cách Nguyễn Công Hoan đề cao giáo dục gia đình, đề
cao văn hoá gia đình Việt Nam được truyền nối, và truyền nối từ Mẹ.
Mặc dù Nguyễn Công Hoan có chia ra hai giai đoạn cuộc đời của "nhân
vật chủ động" trong cuốn tiểu thuyết của mình, nhưng nhìn xuyên suốt thì
chính là ông đã "trình bày cái tư tưởng của nhà nho ta ngày xưa. Ngày xưa
nhà nho học để đi thi. Thi đỗ thì tất được nhà vua cho làm. Nhưng làm quan
không phải là nguyện vọng của nhà nho có đạo đức chân chính. Nguyện vọng
của nhà nho có đạo đức chân chính là nhân việc làm quan mà đem tài trí đức
độ để phụng sự, mở mang dân trí, dân đức, dân sinh. Nhưng vì làm quan là
nắm vận mệnh của nhân dân trong hạt, nên nhà nho có đạo đức chân chính
bao giờ cũng áy náy rằng mình không làm tròn nhiệm vụ của người làm cha
mẹ. Ba đức chính: THANH, THẬN, CẦN, nếu thiếu sót thì người làm quan coi
như phạm tội..." (trích ĐỜI VIẾT VĂN CỦA TÔI).
Khi xây dựng hình tượng quan huyện nhà nho chân chính giữa một gia
đình và môi trường làm việc rất lý tưởng, tác phẩm THANH ĐẠM của Nguyễn
Công Hoan gần gụi với chủ nghĩa lãng mạn. Nhưng trong cái lãng mạn bao
trùm ấy lại là chất hiện thực.
Trước hết, hai nhân vật quan trọng là huyện Cư và bà mẹ ông được lấy
từ nguyên mẫu là những người thân của nhà văn: "Vai chủ động truyện, tôi tả
na ná giống bác tôi. Mẹ vai chủ động giống hệt bà tôi. Gia đình ấy chính là gia
đình tôi" (ĐVVCT). Cũng trong tập hồi ký đã dẫn, Nguyễn Công Hoan viết
rằng: "Sống ở trong quan trường lâu năm, tôi tự hào là biết rõ hơn ai hết về
cách sinh hoạt cổ và những nghi lễ cổ... tôi lại am hiểu lối sống giản dị của gia
đình quan lại nhà nho, và sự liên hệ giữa các nhà khoa bảng. Cho nên cuốn
THANH ĐẠM cũng là một phóng sự tiểu thuyết, tôi chiếu lại một số phim mà
độc giả thời nay không có dịp nhìn kỹ thấy nữa". Theo những "bộ phim" của
Nguyễn Công Hoan, người ta biết được về cảnh bình văn nơi Văn Miếu, ở lớp
học, những lễ nghi lịch sự trong các mối quan hệ giữa những người trí thức
và các gia đình gia giáo, cách cư xử, cách ăn mặc, cách tổ chức ở huyện
đường (với những danh từ như "cai việc", "lính nhà chè", "đội lệ"...) quả thật
đã chỉ còn trong truyện của Ông. Người đời nay cũng thấy được người đời
trước tôn trọng chức vụ như thế nào ở những trang tả hộ đê, tả ngày I Tết với
lễ khai bút, khai ấn được tổ chức trang nghiêm mà không hình thức, thấy
được người đời trước đã có nền nếp hiếu học như thế nào, kính yêu thầy dạy
của mình ra sao. (Thầy mất, học trò để tang, khi cụ Cử chết, ông huyện hỏi:
Cụ có đông học trò không?“ Người nhà trả lời: "Lạy quan lớn, Cụ con có đến
ba trăm khăn trắng"). Ngay việc cô Vy thường xấu hổ ngượng nghịu khi gặp
những chàng trai cùng lứa, khi nghe người thân bàn tán về chuyện hôn nhân
của mình cũng là nét hiện thực của một nền văn hoá gia đình Việt Nam mà
người phụ nữ lấy chữ đức làm gốc.
Rõ ràng những khát khao mà Nguyễn Công Hoan xây dựng lên trong
THANH ĐẠM đã có ở cuộc Sống xã hội nước ta, nếu nhìn từ thời xa xưa khi
tìm lại di sản văn hoá dân tộc để truyền nối và phát triển. Như Ông đã bộc
bạch trong ĐVVCT: "Viết THANH ĐẠM là để chửi rủa quan trường thời Pháp
thuộc một cách kín đáo". Tại sao Ông phải vòng vèo như vậy? Xin được trình
dẫn dưới đây:
"Vốn tôi thích đả kích quan trường. Ít lâu nay, quan trường càng tệ hại.
Nếu các sách báo không vạch mạch bọn mọt dân hại nước, tức là dư luận cứ
để vậy cho họ tự do hoành hành. Tôi phải làm cái việc phơi bầy tội ác của họ.
Nhưng nếu công kích thẳng quan trường như từ trước đến giờ tôi vẫn làm, tất
kiểm duyệt xoá hết sách của tôi. Tôi viết phí công. Tôi cần thay đổi chiến
thuật. Chiến thuật mới mà tôi cho là rất không khéo, thế nào kiểm duyệt cũng
mắc mưu, là tôi công kích quan trường một cách gián tiếp. Cách công kích
gián tiếp quan trường thời Pháp thuộc, không gì tốt hơn là nêu một số đức
tính của quan trường xưa, trước thời Pháp thuộc. Nếu được như vậy, tất độc
giả yêu quan ngày xưa, thì so sánh với quan ngày nay, họ sẽ khinh ghét, kinh
tởm bọn đỉa đói. Thế là tự độc giả làm cái việc công kích quan trường hiện
đại" (ĐVVCT. T.200).
Có nhiều cách để tiếp cận mục tiêu. Đi đường vòng, hiệu quả có thể
không mạnh bằng đi đường thẳng nhưng dù sao mũi tên cũng tới được đích.
THANH ĐẠM đã đạt được ý muốn của nhà văn. Và hình ảnh môi trường quan
lại trong sạch không bị ô nhiễm, hình ảnh những chuẩn mực đạo đức, tình
cảm mà Nguyễn Công Hoan đã dành công sức và tình cảm trau chuốt chẳng
là để khẳng định vai trò của trí thức ở mọi thời đại, luôn luôn phải là tấm
gương phản chiếu những tinh hoa của văn hoá dân tộc, và người giữ trọng
trách cai trị, phải biết quên mình vì nhân dân, cuộc sống đời thanh đạm, đem
trí tuệ đến mọi cuộc đời, đem nghề nghiệp đến cho dân được ấm no hạnh
phúc, kể cả với những kẻ lầm lẫn.
Tiểu thuyết THANH ĐẠM đến nay vẫn mang
giá trị riêng. Hà Nội, tháng 5-2001
SỨC TRẺ CỦA MỘT CÂY BÚTLÊ MINH
Đối với người cộng sản, tất nhiên chẳng có gì gọi được là định mệnh.
Vậy mà câu chuyện xa xưa ấy như đã vạch trước con đường sau này tôi sẽ đi
liền với cha. Có lẽ ngay cả khi ký tên tôi dưới truyện ngắn của mình, tên đứa
con gái nhỏ vừa mới chào đời, cha tôi cũng không hề ao ước, khi lớn lên tôi
sẽ theo nghề của cha. Nghiệp văn chương khi ấy chẳng là gì đối với một
người đàn ông như cha tôi, huống hồ đối với một đứa con gái. Truyện ngắn
xuất hiện trên trang báo với tên ký Nguyễn Thị Tài Hồng đã làm cho Tản Đà
sửng sốt. Là một nhà thơ lớn, một nhà nghiên cứu văn học thời bấy giờ, ông
quyết đi tìm để được gặp gỡ người nữ tác giả.
Mấy chục năm qua, Tản Đà không còn nữa, người đọc cũng đã quên
cái tên chỉ xuất hiện một lần trên văn đàn ấy, xã hội Việt Nam biến đổi qua
bao nhiều chặng đường cách mạng, và người viết văn phụ nữ không còn là
một chấn động trước độc giả, thì một lần trong vui câu chuyện, cha tôi kể kỷ
niệm này. Khi ấy tôi đương cũng ở một Hội nhà văn với cha, đi họp, đi học, đi
hội thảo các vấn đề văn học, hai cha con sóng đôi xe đạp, cùng đến, cùng về.
Bè bạn trong giới thường đùa vui: "Đi đến đâu cũng gặp hai cha con ông lão
này”. Không có ý niệm trước sẽ đến một lúc hạnh phúc kia không còn nữa,
chẳng bao giờ tôi kịp hỏi cha tôi, đằng sau những dòng chữ mà cha viết, ẩn
náu một cuộc đời thứ hai mà cha tôi đã tưởng tượng, đã xây đắp. Tôi vẫn
nghĩ, câu chuyện bếp núc đó chưa phải đến lúc cần bàn.
Trong một chuyến đi xa Hà Nội đến nhà máy Liên hợp gang thép, nơi
mà từ lâu tôi đã chọn làm quê hương sáng tác của mình, cha tôi đột ngột lâm
bệnh.
Trong gia đình không ai ngờ, vì vừa hôm trước cha tôi còn đi xe đạp
đến Hội nhà văn họp chấp hành. Không ai nghĩ cần phải báo tin ngay cho tôi.
Sau một tuần lâm bệnh, cha tôi khắc khoải nhắc ngay tôi về, và giây phút
trước lúc hôn mê, câu cuối cùng của đời người, cha gọi tên tôi.
Ngồi bên giường bệnh cầm tay cha im lặng, trong nỗi thổn thức bàng
hoàng, ngắm kỹ những ngón tay khô ráp của cha, một câu hỏi nghẹn ngào
trong tâm khảm tôi. Những ngón tay này là tay thợ cầm cưa, cầm búa, cầm
kéo xén cây, hay là tay cầm bút của một nhà văn. Mọi việc sửa sang lặt vặt
trong nhà, ngoài vườn, cha tôi là người thích làm hăm hở. Và những trang
truyện làm say mê lòng người, làm rạng rỡ nền văn học Việt Nam mở đường
cho một giai đoạn văn xuôi hiện thực Việt Nam, đã viết xuống cũng từ những
ngón tay thô ráp này ư - Đến tận bây giờ sao tôi mới nghĩ ra điều ấy.
Đối với tôi, một đứa con gái nhỏ, thì lúc nào cha tôi cũng chỉ là cha như
mội người cha khác ở trên đời này. Nhưng truyện cha tôi viết khác nào
chuyện thật hàng ngày cha tôi gặp, và ông vẫn kể trong bữa cơm gia đình
buổi chiều đi dạy học về, những tai nghe mắt thấy, chuyện thời sự với nỗi
lòng của cha tôi, những buồn vui uất ức, những hy vọng và cả những chuyện
khiến cả nhà bật rộ lên tiếng cười. Chưa bao giờ tôi kịp nghĩ cha tôi là nhà
văn. Trước mắt tôi, ông là một thầy giáo trường tiểu học thì đúng hơn. Vì từ
khi sinh ra, tôi đã nghe mọi người gọi cha tôi là ông giáo. Ông giáo nhân hậu
và vui tính, mà đã có lần tôi là học trò, khi tôi theo cha ra Trà cổ. Ở hòn đảo
nhỏ gần biên giới phía bắc đó không có trường tiểu học riêng cho con gái. Tôi
ngồi cùng bàn với những học trò trai và đứa nào cũng rất tinh nghịch. Họ là
con những người dân chài nghèo khổ, mùa đông gió thổi lạnh cứng tai, tái
mặt, khi đi học, bọn bạn tôi cũng chỉ một chiếc áo cánh mỏng và quần đùi.
Nhưng nhộn nhạo và nghí ngoáy trong lớp thì không ai bằng họ. Vào trường,
mấy tướng ấy không đi đường cổng mà nhảy vót qua hàng rào. Họ méo mặt,
phùng mang làm các kiểu mặt buồn cười để gỡ tội khi bắt gặp cha tôi nhìn
thấy họ. Ít khi cánh này thuộc bài. Ở nhà, họ phải làm đủ việc giúp đỡ cha mẹ
chuẩn bị đi khơi, kéo lưới. Nhưng họ cũng đủ trí thông minh để đối phó với
những câu hỏi của thầy giáo. Trong lớp, có mình tôi là đứa bé nhất. Còn họ,
cao lêu đêu bằng thầy, người hơn tuổi tôi ít nhất cũng phải cả chục. Vì ở vùng
thượng du heo hút như hòn đảo Trà cổ này, rất ít trẻ con được đi học, và nhà
trường cũng nhận những học sinh không theo hạn định tuổi, như ở vùng đồng
bằng. Chiều chiều, họ ra bãi biển chờ thuyền về, kéo lưới. Đã có một anh
cùng lớp tôi. khi lưới kéo vào đến mấp mé bờ nước, cá đang quẫy nhẩy đặc
trong lưới, thì một con cá mập phóng vọt lên, đóp trúng bọng chân anh. Anh
được mang tên đùa la Mập. Trong lớp. cha tôi cũng gọi anh là Mập.
Chiều nào chúng tôi cũng kéo nhau ra bờ biển từ lúc nắng mới bắt đầu
nghiêng bóng, quần đùa trong cát nóng chờ thuyền cá về, hoặc đuổi bắt nhau
trong nước, luồn dưới những gậm thuyền, gậm mảng, bập bềnh, hò hét vang
động mặt biển. Nhô lên nhìn nhau, mặt mũi tóc tai đứa nào cũng ướt mèm và
chúng tôi chạy ùa đến thầy giáo là cha tôi, khi ấy đương đứng lặng nhìn xa
khơi, trong tay điếu thuốc lá đương hút dở. Nụ cười và ánh mắt đầy nhân hậu
của cha nhìn chúng tôi đã tha thứ tất cả những trò chúng tôi tinh nghịch.
Những lúc ấy, lủ bạn lớn của tôi cũng đua nhau thầy thầy con con với ý nghĩa
không phải là thầy giáo nữa, mà là cha con trong nhà. Họ biết, cha tôi thương
yêu họ.
Mãi sau này đọc Đời viết văn của tôi, tôi mới hiểu ra, khi nhỏ cha tôi
cũng là một mũi nghịch, nghịch hơn cả lũ chúng tôi nữa. Vốn không tin vào
trời, Phật, cúng bái, một lần nhà có giỗ, cha tôi đã cùng người bác họ tôi - mà
hai người thân nhau từ thuở nhỏ - nhón vụng thức ăn bầy trên mâm cúng.
Hai người muốn thử xem có bị thần vặn cổ như lời doạ của người lớn
không.
* * *
Cái dáng cha tôi đứng lặng lẽ với điếu thuốc lá trong tay nhìn vào vô
tận, về sau tôi bắt gặp được nhiều lần. Những buổi chiều ăn xong cơm, tôi
đứng nép bên chân cha nhìn phố xá kẻ đi người lại. Sau này lớn lên đọc
truyện ngắn Đào kép mới tôi biết cha tôi đã viết từ hình ảnh chợt nảy đến
trong một buổi chiều hai cha con đứng chơi như vậy. Một gánh tuồng vừa
diễu xe quảng cáo đi qua, đào kép phấn son loè loẹt giấu cái nghèo nàn trong
những bộ cân đai ngũ áo đã sờn bạc, ngồi chồng lên nhau ba tầng, sàn xe,
đệm xe, tựa xe. Chiếc xe kéo đi trong phố buồn vắng, nổi trống, thanh la,
phèng phèng, gọi trẻ con chạy bu theo như đàn ong. Cái biển quảng cáo buộc
ấp sau lưng xe vẽ một cảnh trong vở diễn mà ai cũng đã thuộc nhẵn, nhưng
tên vở thì được kẻ lại bằng hàng chữ mới, đập vào mắt mọi người. Cha tôi
nhìn theo, cười mỉm:
- Đào kép mới!
Những suy nghĩ về thời cuộc đã nung nấu trong lòng ông từ lâu, về
những tên vua bù nhìn, con đẻ của thực dân cai trị Pháp nặn ra dưới cái
phông màn gọi là triều đình Huế, vừa được bôi mặt đổi tên hòng lừa dối thiên
hạ về chính sách cách tân của chúng. Những việc xảy ra hàng ngày dường
như chỉ thoáng qua và vô nghĩa đối với người khác, chỉ là câu chuyện bông
đùa, mà ông có thói quen kể trong những bữa cơm gia đình, đã là cái nút bật
ra tác phẩm.
Cha tôi là người hay quan tâm đến thời cuộc. Những chuyện xảy ra
ngoài đời, các tin tức đăng báo chí hàng ngày, ông đọc không bỏ sót. Ngày
ấy, cũng như cho đến tận sau này khi cao tuổi, lúc nào cha tôi cũng có một
cuốn sách đang đọc dở. Đọc, đánh dấu ở lề trang, và ghi những ý chợt đến
vắn tắt. Cha tôi rất ghét bọn người rởm chữ, đọc sách cóc nhảy để ăn cắp,
hoặc lười biếng cốt đi nghe lỏm rồi khoe mẽ. Phải chăng vì thế mà ông đã
từng trả lời những người đến phỏng vấn ông: ông không đọc của ai cả. Một
cách nói, kiểu của ông. Ông thường chế giễu, ở phòng khách nhà Nghị Nức
có một ô tủ dài trong để toàn sách bìa gấm, đóng gáy vàng, nhưng cả đời hắn
chưa bao giờ biết đến tên một cuốn sách hắn có trong tủ. Sách là đồ
trang sức theo mốt của bọn địa chủ vô học và bọn thị của.
Trong ba anh em, tôi là người sống với cha nhiều nhất. Không phải vì
sau này hai cha con cùng một nghề mà ngay khi còn bé, là đứa con gái út sau
hai anh, nên bất cứ cha tôi bị đổi đi dạy học ở đâu tôi cũng được theo cha.
Gia đình lênh đênh nay đây mai đó, không được ở đâu yên sau một
hoặc hai năm, chỉ vì những trang truyện của cha tôi không làm vừa lòng
những quan cai trị thời bây giờ. Khoang hầm tầu thuỷ là phương tiện di
chuyển vừa với túi tiền của gia đình tôi nhất. Ngột ngạt, nóng bức, hôi thối,
chúng tôi nằm lăn ngay trên sàn cùng với hàng hoá, đồ vật chất ngất bao
quanh. Mỗi khi bọn làm tầu đi qua, tiện lợi nhất là họ xéo luôn lên chỗ người
nằm cho khỏi vướng cẳng. Những lúc ấy cha tôi thường bật nhỏm dậy, thu
kéo chân tay tôi để che đỡ, và những tràng chửi phun ra từ những cái miệng
bóng nhờn của bọn làm tầu khi bất đồ một hình người nào đó dám phản ứng
giẫy cựa dưới cái xéo của họ. Đêm trên tầu là những cuộc sát phạt. Những
bàn mạt chược, bàn xóc đĩa mở ra thâu đêm suốt sáng trong ánh đèn vàng
nhờ. Những cuộc bán mua, những cãi lộn, những đâm chém. Tôi núp trong
cánh tay che chở của cha, mơ màng nghe tiếng máy tầu chạy xình xịch, nước
vỗ mạn réo rào rào, và mỗi khi còi tầu cất lên báo hiệu cặp bến, sao nghe
sông nước như mênh mông hơn, tiếng í ới người ta gọi nhau như tan trong
gió tròi, và giữa cái thế giới đầy khổ ải này, cha tôi vẫn là một mái nhà ấm ru
tôi trong những niềm ao ước trẻ thơ.
... Cha tôi thức thâu đêm là chuyện rất thường. Tôi ngủ một giấc, mờ
mắt ra thấy cha tôi ngồi gầm ghì trước bàn. Ngủ giấc nữa, hé mắt ra vẫn ánh
sáng của cây đèn vàng và khói thuỗc lá nghi ngút. Bừng mở mắt, tôi bắt gặp
cha tôi tỳ tay dưới cằm, ngước nhìn xa xa, cặp mắt vừa dịu hiền vừa cười
cợt. Tôi trở về với giấc ngủ yên lành trong bóng thức của cha tôi cúi xuống
trang giấy.
Sáng nào tôi cũng có một việc quen thuộc là đi đổ tàn thuốc lá cha tôi
hút suốt đêm qua. Một cái nồi con bằng đồng có hai quai cầm, hình như là nồi
nấu cơm cho cụ tôi khi đã già và bị loà. Đầy một nồi tàn thuốc. Cha tôi chỉ hút
một loại thuốc, thuốc Bastô. Tôi vừa rón rén đi, vừa nhìn cha tôi ngủ. Cả nhà
có thói quen ấy, đi khẽ, nói khẽ để cha tôi có thể ngủ thêm tý chút trước khi
đến trường dạy học. Ngày hai buổi cha tôi vắng nhà đến lớp, đêm mới là lúc
cha tôi ngồi vào bàn viết. Cả nhà không ai đụng đến chỗ bàn của cha tôi. Dù
chỉ là một mẩu giấy nhỏ chợt gió bay xuống đất, mẹ tôi cũng cẩn thận nhặt lên
để bàn và chặn lại. Tuổi thơ không cho tôi hiểu đầy đủ, nhưng cảm giác tôn
kính việc làm của cha đã cho tôi ý thức rằng đó là công việc thiêng liêng.
Một lần, khi tôi đã làm nghề viết truyện, tôi kể ý định của mình với cha,
sẽ viết truyện làng du kích, như làng tôi ở ven đường quốc lộ 5 chẳng hạn.
Không ngờ điều đó đã làm cha tôi vô cùng xúc động. Cha tôi kể về
những ngày cha còn nhỏ, cụ nội là người thông minh, dòng dõi nhà nho nên
thuộc rất nhiều sách vở thơ phú. Tối tối trước khi đi ngủ, cụ bà thường ngâm
nga rồi dạy truyền khẩu cho các cháu. Niêm luật của thơ ca, nhạc điệu của
ngôn ngữ được luyện vào tai cậu bé là cha tôi ngay từ ngày ấy.
Và không hiểu có phải nhờ truyền thống chống ngoại xâm vốn có ở
vùng Bắc Ninh quê tôi, mà cụ nội và bà tôi cũng đã ý thức được công cuộc
chống Pháp của nhiều lớp sĩ phu yêu nước, do đấy mà cha tôi đã mang sẵn
đầu óc ghét bọn Tây và quan ngay từ nhỏ. Bọn chúng thường được cha tôi
nhắc đến để phỉ nhổ mỗi khi bữa cơm có tý rượu, nhân ngày giỗ hoặc ngày
Tết. Những lúc ấy tôi thường níu cổ cha:
- Bố kể nữa đi, chuyện Nghị Lại ấy mà.
Anh em chúng tôi cười giòn tan hùa theo cha, còn mẹ tôi chau mày:
- Nói bé chứ, ở bên kia người ta nghe tiếng đấy.
Cha tôi càng nói to hơn:
- Thì chỉ cốt nói cho chúng nó nghe được mà lại.
Cha tôi quen biết Nguyễn Thái Học và đã tham gia hoạt động cùng với
ông. Song vì gánh nặng gia đình, cha sợ bỏ đi làm hội kín cả nhà sẽ bấu víu
vào ai. Một chú tôi đương học trường Bưởi trên Hà Nội, do hưởng ứng phong
trào để tang Phan Chu Trinh đã bị đuổi học và về ở với cha tôi. Một chú thứ
“hai, đột nhiên về thăm nhà trong dịp nghỉ hè và nói thật với cha tôi, bỏ vào
Sài Gòn làm thợ, gia đình đừng đi tìm. Cha tôi hiểu điều đó. Mãi bao nhiêu
năm sau, khi Mặt trận Bình dân lên cầm quyền ở bên Pháp, ân xá một số tù
Côn Đảo. Trong đó có Nguyễn Đức Chính là người cùng tham gia phong trào
Nguyễn Thái Học với cha tôi, ông đến báo một tin đầy hy vọng, ở Côn Đảo,
ông có gặp một người tù tên là Phạm Văn Khương. Người này khai làm nghề
chăn vịt, không biết chữ, không còn cha mẹ. Nhưng ông Chính ngờ, người ấy
có thể là chú ruột tôi. Chú bị kết án tử hình trong vụ giết tên cặp rằng Nhà Bè,
Sài Gòn. Nhờ phong trào đấu tranh do Đảng Cộng sản Pháp lãnh đạo, các án
tử hình được hạ xuống trung thân và chú bị đày ra Côn Đảo. Theo ông Chính,
người tù tên là Khương ấy không bao giờ có thư gia đình và rất kín miệng về
tông tích riêng. Song, căn cứ trên những biểu hiện sinh hoạt hàng ngày,
người tù ấy tỏ ra có văn hoá và thông minh, không thể là một người mù chữ
chuyên đi chăn vịt, mặc dù từ khi vào tù người ấy mới bắt đầu học chữ. Nghe
tả hình dáng và ước tính tuổi, cha tôi liền viết một bức thư gửi cho số tù ấy.
Trang thư mở đầu: "Thưa ông. Nếu phải ông là em tôi thì xin ông viết thư về
theo địa chỉ như sau cho gia đình hay tin. Cho phép tôi được coi như thư gửi
đến đúng em tôi vậy. Từ ngày em đi, mẹ hết sức mong ngóng và sót thương,
không hiểu em sống chết thế nào. Những người Tết đến, cả gia đình, nhất là
mẹ, không an vui được vì bặt tin em. Cũng đã tám năm...".
Tôi hiểu, nếu chỉ qua những truyện ngắn đầy tính hài hước, có thể
người đọc hình dung cha tôi là một người dễ tính, hồn nhiên đến vô tâm nên
hay bông đùa và lúc nào cũng thư thái. Đó đúng là vẻ bề ngoài biểu hiện một
phong cách của ông. Thật vậy, trong cuộc sống hàng ngày ông là ngưòi vô
cùng dễ tính và vui vẻ. Trong một dịp nghỉ hè (khi tôi mới được vài tuổi và cha
tôi đương là một ông giáo, nhưng những cuốn truyện của ông đã nổi tiếng
trong nước), cha tôi đi chơi khắp Đông Dương theo lời mời của những người
hâm mộ ông. Trước ngày về, ông đánh một bức điện báo cho gia đình chuẩn
bị đón khách và bữa cơm đầu tiên phải có món cá. Mẹ tôi vốn là người đàn
bà chiều chồng, nên đã làm đúng y lời dặn. Nhưng khi cha tôi bước vào nhà,
không thấy khách đâu cả. Từ từ, cha tôi mở một cái túi. Một chú mèo xiêm rất
xinh, mắt sáng, lông trắng, ngơ ngác nhìn mọi người và rón rén những đôi
chân run rẩy vì bị tù túng nhiều ngày, hay vì còn quá non nót, chú nép ngay
vào tôi là đứa bạn có lẽ cũng cùng lứa tuổi. Cha tôi cười:
- Khách đây. Món cá mời khách mang ra đi chứ.
Một lần ông cầm vải đi cắt áo, bước chân về đến cửa nhà đã khoe như
một chiến công:
- Mình tìm được một ông thợ may thật tài tình. Miếng vải ấy mà anh ta
cắt được những hai áo ngắn tay.
Mẹ tôi sửng sốt:
- Sao, chỗ vải ấy đủ may hai áo dài tay chứ.
Tiếng cười trong truyện của ông là tiếng cười nhân hậu. Ông không có
tiếng cười ác độc, ngay cả trong những chuỗi cười chua chát, sâu cay. Ai bảo
rằng đời ông chỉ có những tiếng cười. Sau chuỗi cười sảng khoái khi đọc
truyện ông, sao ta thấy lòng thắt lại, nghẹn ngào. Tiếng cười của người lóng
lánh những giọt nước mắt. Cái sâu sắc của một truyện ngắn cười, sức mạnh
lay động lòng người của tác phẩm ông, đã được ấp ủ trong mối tình người
trong sáng, bằng tính giản dị mang đầy nhựa sống dân gian. Ngôn ngữ truyện
của ông là ngôn ngữ ta nói hàng ngày được chọn lọc và nâng cao, có khi ông
đưa ca dao tục ngữ vào truyện một cách tự nhiên, thoải mái. Chữ ông dùng
giàu hình ảnh, từng nhân vật mang sắc thái ngôn ngữ riêng, bộc lộ tâm lý xã
hội. "Khi văn chương mà viết đúng như lối nói của dân tộc thì nó hay và đứng
vững. Bởi vì ngôn ngữ dân tộc sống mãi". Ông thường nhắc nhở những
người viết văn thế hệ sau như vậy. Truyện của ông đã không lẫn với bất kỳ
truyện cười nào khác trên thế giới, chính vì lẽ truyện cười của ông đã mang
tính dân gian và rất trữ tình.
Sống gần ông, tôi càng nhận rõ điều đó. Tôi hiểu rằng những tác phẩm
ông viết đều bật ra từ những cơn đau nhức nhối cho số phận con người,
những giận buồn không xoá nổi, và cả những thiết tha suốt đời người không
thể với tới. Chứng kiến những bất công của xã hội mà ông cũng có phần là
nạn nhân, càng đi nhiều càng thấy nhiều, ông càng không chấp nhận nổi.
Phải chăng vì lúc đó nghề thầy giáo của ông, nếu nhìn trong giới trí thức của
xã hội bấy giờ chỉ toàn là những công chức làm thuê cho bọn thống trị, mà ta
không thể coi đó là nghề của trí thức được, thì nghề dạy học dù sao cũng vẫn
coi là nghề truyền bá tri thức, truyền bá tư tưởng. Công việc hàng ngày ấy
nhắc người thầy giáo ý thức với dân tộc, với lớp trẻ. Cộng thêm bản chất
nghệ sĩ trong ông vốn nhạy cảm và trân trọng trước cái toàn thiện, toàn mỹ,
do đấy ông không chịu nổi những sự xúc phạm đến cái đẹp, cái tốt, đến con
người. Ông đã có sức rung động mạnh mẽ hơn người khác và cũng có sức
chống lại quyết liệt những gì đi ngược.
Có hai lần trong đời, tôi được chứng kiến cha tôi trong những nỗi đau
không hàn gắn được. Chưa phải là lần cha tôi đương dạy học và bị mật thám
bắt vì khám nhà thấy cuốn sách cấm, Xtalin viết về Lênin. Cũng không phải
lần cuối cùng cha tôi ngồi tù cho đến ngày khởi nghĩa tháng Tám. Cái chết
của những người trong gia đình đã cho tôi hiểu thêm về cha tôi, sau những
tiếng cười sảng khoái của ông mà tôi đã quen từ tấm bé. Những người cười
nhiều, ấy là người có cuộc đời tràn đầy nước mắt. Mỗi khi nhắc đến bà tôi,
bao giờ cha tôi cũng ôn kỷ niệm khi bà phải rời làng đi tản cư, đầu ngoái trông
về đám lửa cháy rừng rực đương thiêu huỷ xóm làng bị giặc tàn phá. Lần đầu
tiên trong đời phải lìa bỏ nơi chôn nhau cắt rốn của mình, bà vẫn tâm niệm có
ngày được trở lại. Nhưng một buổi chiều ở nơi tản cư xa lắc làng quê, một
đàn máy bay giặc đã ập đến trút bom trúng sập nhà. Căn nhà lá bốc cháy. Và
khi xóm giềng chạy đến cứu chữa, đã tìm thấy bà tôi trong đống tro than. Còn
thím tôi, tay bồng chặt đứa con út mới chập chững biết đi, cả hai ngã đổ ngay
trước cửa hầm. Sáu tháng trước chú tôi vừa hy sinh vì bom giặc trên đường
công tác nên bà tôi đến ở cùng với thím. Những cái chết dồn dập và đau
thương bất ngờ ấy đã khiến cha tôi câm lặng.
Ít lâu sau, trong khu rừng Việt Bắc, vì những cơn sốt rét dữ dội, cha tôi
nằm lại một cái lán của cơ quan. Một người bạn đã nhắn tin cho tôi đến.
Thật sửng sốt, khi trèo hết những bậc thang nhà sàn ọp ẹp, tôi không
thể nhận ra người đương nằm co, đắp chiếc tơi lá, mặt tái nhợt vì cơn sốt kia
là cha tôi. Cha tôi vụt nhỏm bật dậy khi nhận ra con gái, và một nét rạng rỡ
hiện nhanh trên gương mặt. Đã từ lâu lắm, cha con tôi mới được nhìn thấy
nhau. Ở rừng, cơ quan bí mật, nhất là chỗ cha tôi làm việc, trường dạy văn
hoá cho cán bộ cao cấp trong quân đội, đâu phải ai cũng được tới. Cha tôi
tòng quân ngay từ ngày đầu nổ ra cuộc kháng chiến chống Pháp, đã làm việc
tại tờ báo Vệ quốc quân và lúc bấy giờ, giám đốc Trường văn hoá Lý Thường
Kiệt.
Cha tôi mới đi dự cuộc tập trận của bộ đội quân khu 4 và trên đường
về, cha tôi đã ghé thăm mộ anh cả của tôi. Anh là người con mà cha tôi dành
nhiều xót thương nhất, vì những năm tháng anh bị tù đày từ khi chưa đủ tuổi
thành niên, do đã tham gia hoạt động cách mạng. Anh là người đầu tiên hy
sinh trong gia đình tôi ngay từ năm thứ hai của cuộc chiến đấu, khi anh mới
hai mươi tuổi. Không hy vọng có thể tìm gặp được tôi sớm, cha tôi viết một
bức thư dài sáu trang giấy, kể tỉ mỉ chặng đường đi tìm đến nơi anh đã ngã
xuống, gặp gỡ những đồng chí sống với anh giây phút cuối cùng, và ông đã
đến nghĩa trang liệt sĩ, nơi anh yên nghỉ. Cha tôi còn vẽ một sơ đồ nhỏ để nếu
có dịp về xuôi, tôi tìm đến với anh. Người anh mà ngay từ tấm bé đã dạy tôi
biết vẽ, biết âm nhạc, và biết đi vào con đường cách mạng. Những truyện cổ
tích ngày nay tôi còn nhớ là do anh tôi kể, những buổi tối khi tôi còn bé tí, anh
vừa xoa lưng, vừa ru tôi vào giấc ngủ. Trong ba anh em, anh là người giống
như đúc gương mặt cha tôi.
Đột nhiên cha tôi bật khóc. Một nỗi đau bấy lâu vùi kín, trỗi dậy xé nát
lòng tôi. Tiếng khóc của người cha. Người cha mà xưa nay tôi chỉ nghe tiếng
cười, chỉ nhận sự bồng bế nâng niu, ấp ủ. Đứa bé gái là tôi trong phút chốc
hiểu rằng mình phải "người lớn” hơn, phải đứng vào chỗ của anh, thay thế
anh, mang niềm vui và an ủi đến cho cha mẹ, để bù đắp... Tôi chưa kịp nói
một câu gì với cha tôi - rồi sau này mãi mãi cũng chưa bao giờ tôi kịp nói -
một chú bé giao thông xuất hiện ở đầu thang. Chú đem đến cho cha tôi một
bức thư dày. Tất cả đã đứt khúc. Chuyện cũ không bao giờ tôi dám khuấy
động lại nữa vì hy vọng nỗi đau sẽ trôi đi, nhưng những gì xảy ra buổi sáng
ấy, suốt đời không bao giờ tôi quên được. Một kỷ niệm xa xưa vẫn thường
hiện đến an ủi tôi, chia sẻ cùng tôi, ấy là khi tôi còn là đứa bé gái mới cắp
sách đến trường. Cha tôi có cái thích là bồng tôi xuống thang gác, đến cửa rồi
mới thả tôi xuống đi một mình. Ấy vậy mà giữa cái tuổi êm đềm đó, tôi đã phải
chứng kiến những cảnh nát tan của tổ ấm.
Đêm ấy nhiều tiếng đập cửa đùng đùng dữ tợn làm tôi giật bắn mình
tỉnh giấc. Nghe mơ màng tiếng cha tôi đứng ngoài bao lơn hỏi vọng xuống
đường:
- Ai?
- Có giấy của quan đốc học.
Giọng hách dịch, gắt gỏng. Tôi tỉnh hẳn ngủ. Cha tôi đã vào nhà, bật
đèn bàn. Mẹ tôi trở dậy rồi.
- Để tôi xuống mở cửa.
Mẹ tôi đã cảm nhận được điều không hay, nên đứng ra đó đỡ thay cha
tôi. Nhưng tôi vẫn nghe tiếng bước chân cha tôi xuống thang nặng nề, bực
bội. Tôi lóng tai xuống giường. Vì tiếng rằng nhà có gác, nhưng chỉ là gác ở
căn ngoài, căn trong là nhà ngang, cửa ván quay chốt kiểu thôn quê. Gác sơ
sài, nhà dưới nói gì, trên nhà nghe được hết.
Cửa mở khoá. Tiếng xí xố đông người, ồ vào khác thường. Giọng Tây
lai lơ lớ:
- Nguyễn Công Bông. Nguyễn Tài Khoái.
Trống ngực tôi đánh thình thịch. Chú tôi và anh tôi.
Mẹ tôi đáp dõng dạc:
- Để tôi đánh thức. Nửa đêm các ông đừng làm kinh động.
Giầy Tây xộc rối loạn gian nhà ngang.
Giọng mẹ tôi lúc này dịu ngọt và nâng niu làm sao:
- Con. Em. Dậy. Từ từ. Tỉnh ngủ hẳn đã.
Khoá xích khua loảng xoảng. Tiếng xích khua giữa đêm khuya vang
rợn vào tận tâm khảm đứa bé gái là tôi. Căn gác đột ngột rung chuyển.
Những tiếng giày dận mạnh lên thang. Tưởng như bao nhiều ván thang, ván
gác rã rời hết mộng mẹo, và đổ sập tức thì. Tôi dán chặt người xuống
giường.
- Còn những ai trên này?
Một phản ứng đột ngột xốc tôi ngồi bật dậy. Tôi giương to mắt. Đã lừng
lững trước mặt những đứa "đem giấy của quan đốc học" đến gọi một giáo
viên tiểu học nửa đêm là cha tôi.
- Ngồi im, không chết.
Doạ nạt một đứa trẻ gái.
Mẹ tôi nhẹ nhàng vắt màn. Tròn xoe một họng súng lục ở bàn tay "nó"
chĩa thẳng vào ngực tôi. Ngón tay "nó" lông lá đặt sẵn vào chỗ mà tôi hiểu
ngay rằng sẽ phát đi lập tức cái chết. Nhưng, trẻ thơ như tôi thì ngày nào tôi
đã chẳng "chết". Đến trường, cưỡi trên "lưng ngựa" (một đứa bạn), tay cầm
"kiếm" (cành lá xoan tây), tôi xông lên. Đối phương ngã lăn đùng, nhắm tịt
mắt. "Chết". Trống gọi vào lớp. Và hai đứa tôi lại nắm tay nhau đứng vào
hàng.
Nhìn cái nòng súng, tôi hiểu không phải chuyện đùa. Tôi giương mắt
nhìn "nó", cái thằng mà tôi đoán biết đây chính là tên mật thám thường ngày
cha tôi đã có lúc nhắc đến một cách khinh bỉ. Sách vở học của chúng tôi, qua
mỗi năm cất giữ trên giá, bị lôi tuột hết xuống, rũ rối tinh. Sách báo của cha
tôi, đến cả những trang vừa viết xong để trên bàn, cũng bị lật lộn xộn.
Những trang giấy bay lả tả xuống sàn. Cha tôi thức viết, vừa mới đi
nằm. Vậy mà "nó" không biết xấu. Chăn màn quần áo cũng bị lôi thốc ra. "Nó"
làm những việc mà cha tôi nghiêm cấm đối với chúng tôi. "Phải ngăn nắp trật
tự". "Đụng vào thứ gì của người khác, phải hỏi trước". "Trong khi người khác
nằm nghỉ hoặc làm việc, không được nói to làm mạnh”.
Tôi hiểu lập tức, bọn mật thám bao giờ cũng làm ngược những cái
thông thường con người làm. Chẳng thế mỗi lần gọi đến tên chúng, cha tôi đã
có chữ riêng, "bọn liếm gót giày cho Tây". Còn những bạn bè của chú và anh
tôi, thì thầm thào: "bọn chó".
Lũ "chó" đến quỳ trước chủ:
- Bẩm không có gì ạ.
Cặp mắt cha tôi gần như nảy lửa. Còn mẹ tôi, vẫn ở dưới nhà, có lẽ
còn canh chừng cho anh tôi và chú tôi chăng. Bọn "chó" chia đôi, vẫn một
nửa núp dưới nhà. Bọn được xuỳ lên gác lúc này đã cùng chủ nhao vội
xuống. Tôi nghe tiếng sủa dữ tợn:
- Đi.
Tiếng mẹ tôi cao giọng:
- Để tôi lấy cho con tôi cái áo sợi. Trời lạnh thế này.
Bấy giờ tôi mới kịp nhớ, đương mùa đông. Anh tôi nói như vừa mím
miệng:
- Thôi mẹ. Không sao.
Như là chú tôi ngoái đầu lại:
- Chị đừng phiền. Chúng em đi.
Sao lúc ấy tôi không biết chạy ngay ra cửa gác nhìn xuống, nhìn lần
cuối những người ruột thịt của mình bị bứt lìa khỏi tổ giữa lúc nửa đêm, để rồi
đàn "chó" ấy thả sức cắn xé. Tôi nghe vọng lên tiếng ô tô rồ máy. Ra là ô tô
chúng nó đỗ tận đầu phố, mà vì làm lụng nhọc mệt cả ngày, những người lớn
trong nhà không một ai biết.
Hôm sau tan học, cha tôi soạn lại nhà cửa giấy má, soát kỹ trong đống
sách vở của chúng tôi. Cha gọi tôi đến, nhếch cười:
- Lũ chúng nó mù.
Bức chân dung Lênin và Goócki do anh tôi vẽ vẫn còn nguyên trong
đống sách vở. Cha tôi ôm xiết tôi vào lòng.
... Bàn tay thô ráp là bàn tay thợ, hay bàn tay nhà văn. Tôi ve vuốt
những ngón tay. Tôi nắm chặt bàn tay không rời trong suốt một ngày cuối
cùng tôi được sống bên cha. Tôi không tự trả lời được câu hỏi. Những bàn
tay ấy đã sưởi ấm bước đường tôi đi và cho đến suốt đời.
Một câu mà cha tôi nhận xét về tôi, nói với người bạn, mà sau khi ông
mất rồi tôi mới được nghe kể:
- Nó viết cũng được đấy. Nhưng sao mình vẫn thấy nó là đứa trẻ con.
Tính cách ấy ở trong ông đã nuôi cho ông những trang viết đầy sức trẻ.
Tính cách ấy đã đưa ông vào vị trí các nhà phê bình đương thời đã đánh giá,
một nhà văn xuôi trào phúng Việt Nam duy nhất, lắm phen làm cho bọn thống
trị căm uất và những người cùng cực được nâng lên.
Cho đến hôm nay, vẫn nhiều bạn đọc hỏi tôi: trong Người bạn đọc ấy,
nhà văn Tô Hoài viết mừng 60 năm sinh cha tôi, có đoạn miêu tả nhà văn
Nguyễn Công Hoan trên bãi biển Trà Cổ, tay dắt cô con gái nhỏ, hai cha
con... Bạn đọc muốn biết người con gái nhỏ ấy bây giờ ở đâu?
Hình ảnh mà Tô Hoài bắt gặp một lần và ghi lại ấy đến hôm nay vẫn
nguyên vẹn trong tôi và mãi mãi nguyên vẹn. Bởi hôm nay và cho đến suốt
đời, tôi vẫn được trong bàn tay ấm nóng của cha dắt dìu như ngày nào trên
bãi biển Trà Cổ. Tôi vẫn được nép bên cha, lòng đầy thơ dại, được nhận
những vỗ về, những chỉ bảo, những an ủi, và nhiều lắm, tôi vẫn được nhìn
thấy cha tôi đứng trước mặt mình, nói với tôi bằng ánh mắt nhân hậu và cười
cợt của Người.
Trong nhiều năm nay, cạnh công việc văn học của mình, tôi còn được
một hạnh phúc làm nhiệm vụ sưu tầm và biên soạn những bộ sách của cha
tôi để lại. Từ những trang viết của Người đã đặt ra trước tôi biết bao nhiêu
câu hỏi, gợi nhớ biết bao kỷ niệm, trong tư cách tôi là một học trò của Người,
đồng thời còn là con gái nhỏ đã được chứng kiến và cùng chia sẻ những
đoạn đường văn học mà Người đã trải, đầy gập ghềnh đến khó hiểu.
Đọc nhiều đoạn viết của Người, tôi phải dừng lại. Tưởng như những
nét chữ viết tay kia biết thốt lên những lời tâm sự cùng tôi, và tôi đã chiêm
ngưỡng, đã kinh ngạc. Sau khi đọc đến trang chót của bộ tiểu thuyết Đống
rác cũ, ông hoàn thành vào năm ông 60 tuổi, mà bạn đọc chúng ta lúc ấy còn
chưa được trông thấy sách, thì quả thật tôi bàng hoàng.
Những nhân vật hiện hình như chính tôi đã trong cuộc, dù bối cảnh xã
hội của tiểu thuyết thuộc một thời cách xa thế hệ chúng tôi lắm. Nhưng sao từ
sâu kín tâm khảm, những nhân vật tự nó cứ thức dậy bám riết lấy tôi, diễn
những cảnh đời ngay trước mắt tôi, không vội vã, không khoa trương, như
thường tình, như mộc mạc, như đương ở ngoài đời kia. Chỗ thì vạch như
chân tơ kẽ tóc cho mà thấy, chỗ thì thoáng lướt qua cho mà hiểu. Như bảo
rằng hãy nhìn kỹ đi. để mà nhận diện, để kịp nghĩ ra, để mà biết giật mình, để
bật cười phá, để mà giận căm, mà phỉ nhổ, mà xót thương đến phải thổn
thức.
Bản cáo trạng, lời cảnh tỉnh, những nỗi niềm tâm sự cay đắng ngọt
ngào, cứ thế sừng sững dâng lên. Và nhân vật thì người nào ra người nấy, từ
gương mặt, quần áo, tóc tai, đến điệu bộ, tâm lý ẩn núp sau hành động, sau
những mưu toan, sau những cạm bẫy vừa tàn ác vừa lừa mị của một bọn,
cắn xé nhau đấy, liên kết nhau đấy, hoành hành trên lưng những người lương
thiện, những người nhân hậu, để cuối cùng đẩy họ vào nhiều kiểu chết.
Gập bản thảo, tôi còn nghe được những giọt máu trong tim ông nhỏ
xuống những trang viết. Biết bao ngày sau đó, ngồi trước tiểu thuyết mình
đang viết dở, tôi chỉ còn ngồi lặng, bất lực. Nỗi bất lực hiếm có trong một đời
văn, thúc giục ta phải lục lại vốn liếng, lục lại nhân vật, lục lại mối quan hệ
giữa người cầm bút với đời. Câu hỏi lại dấy lên trong tôi những kỷ niệm.
Ai cũng biết, và tất nhiên ông là người biết rõ hơn ai hết, có những kẻ
đã từng ăn ở tàn tệ bất lương đối với ông, công khai giày đạp tên tuổi ông,
phản bội tấm lòng ông. Nhưng cũng chưa bao giờ tôi thốt câu hỏi đó, và cũng
chưa bao giờ Người nhắc chuyện đó, dù trong giây phút tôi cảm nhận được
Người im lặng. Như rằng cũng là cái vốn trời cho, cứ để nó lặn vào trong ta,
để rồi tự nó sẽ sống bật dậy trong những nhân vật tiểu thuyết. Đến giây phút
cuối cùng của đời người, quả là tôi vẫn thấy ông cầm bút, ông còn ghi cả
những dự định tác phẩm sẽ phải làm. Mặc dù một thời, có lúc tay chân ông
cử động khó khăn và ông đề nghị có một người ghi chép giúp. Thì đến hôm
nay, di sản ông để lại, tất không chỉ như chúng ta đã biết.
Một tài năng nở rộ ở hai thời điểm của một đời người, khi ông ở tuổi trẻ
đang sung sức (Kép Tư Bền, Bước đường cùng) và khi ông ở tuổi đã thật
chín (Đống rác cũ). Lại một sự thật nữa đặt ra trước tôi. Cả hai thời điểm nở
rộ tài năng, ông đều phải gặp những cảnh ngang trái. Hàng mấy chục năm
sau, dần dần bạn đọc xác định. Quả vậy một thời rất dài, ghi những sự thật tai
nghe mắt thấy, dù của lịch sử đã qua chứ không kể là chuyện hôm nay. Nhớ
gì ghi nấy có giá trị đóng góp như với bộ bách khoa toàn thư sống về một thời
kỳ xã hội, người viết bị lên án. Phơi bầy những rác rưởi ghê tởm và sự tàn
bạo ở một xã hội cũ nhằm bảo vệ những giá trị con người, tác phẩm Đống rác
cũ bị đình chỉ lưu hành.
Bản lĩnh nhà văn lại một lần nữa được thử thách.
Đời nhà văn là đời toàn bộ tác phẩm. Một cuộc đời đi cạnh đời thường
mà nhà văn đã dốc sức, đã chắt lọc, đã chăm chút và xả thân vì nó. Ở cuộc
đời ấy, nhà văn sống vẫy vùng bằng nhịp đập của chính quả tim mình, bằng
cái đầu của chính mình, không chịu đội mũ của ai khác đè dấn xuống, hoặc
rượt đuổi theo cái bả người khác dứ gọi.
Sưu tầm và in lại toàn bộ tác phẩm của những nhà văn như ông đương
là một chủ trương của Đảng và Nhà nước, được thể hiện từ tinh thần nghị
quyết 05 Bộ Chính trị đã ban hành về công tác lãnh đạo văn hoá văn nghệ. Vì
đất nước ta trải qua chiến tranh, việc lưu trữ tác phẩm tại các thư viện không
còn đầy đủ. Vì đối với nhân dân, có một yêu cầu khẩn thiết về bảo vệ các di
sản của dân tộc. Vì những thế hệ đi sau chúng tôi, rất cần được đọc toàn bộ
những tác phẩm thuộc thế hệ trước trong nước mình. Một nền văn học muốn
phát triển theo hướng dân tộc hiện đại, không thể không đi lên từ cái nền mà
những thế hệ đi trước ta xây đắp. Kính trọng và nối tiếp những gì người trước
đã khám phá, đó là đạo đức xã hội chủ nghĩa. Trong lĩnh vực tài năng, làm
sao tồn tại được sự cào bằng, hoặc việc tẩy xoá. Một lần cha tôi đã đùa vui
bằng câu nói ấy. Hàng năm, cứ vào mùa xuân, ngày xưa, bè bạn cha tôi
thường kéo nhau lên Bưởi. Và khi ấy tôi được làm chân phụ bếp dọn mâm
giúp mẹ. Những kỷ niệm yên vui sao lúc nào cũng vẫn quấn quýt bên tôi.
Trong những giây phút buồn nản nhất, những giây phút mà tôi được nghe
hoặc chứng kiến những cảnh ngược đời đến phải thầm thì với cha, thì những
kỷ niệm kia dắt tôi đứng dậy và tôi lại được trong bàn tay ấm nóng của Người
dắt dìu, như ngày nào còn thơ bé trên bãi biển Trà Cổ.
Thỉnh thoảng lên Bưởi thăm một người bạn, mỗi khi đến đoạn rẽ vào
làng Võng Thị, có lẽ từ một nếp quen ẩn sâu trong tiềm thức, xe tôi đạp chậm
lại. Nhưng rồi chợt nhớ ra, tôi phóng vội. Một lần đã dắt xe vào con đường đi
về làng, nhưng cũng chỉ đến chỗ ngoặt sắp mở ra một khoảng rộng đi thẳng
đến tận cổng nhà cũ của mình thì tôi quay trở ra. Tôi không muốn có một hình
ảnh gì mới lạ in hằn trên những cảnh cũ đã gắn bó thân thuộc.
Con đường lát gạch nghiêng không bị các nhà đứng ven san sát ép
chặt hai bên như ở đoạn phía ngoài, đã mở ra thoáng đãng với những cảnh
ao sáng trưng dưới ánh mặt trời, những khu vườn xinh xinh với diềm hàng
rào cúc tần đội những sợi tơ hồng rối lồng bồng. Những hàng xoan đứng xít
vào nhau, đến mùa hoa nở tím bạc một khoảng không như sương phủ, và
đến mùa đông này, đeo lúc lỉu những quả vàng.
Cổng nhà tôi sơ sài hai cánh gỗ cài then. Một rặng nhãn ven theo ngõ
dẫn vào sân trước. Tường hoa thấp ngăn sân với vườn. Một phiến đá to nhẵn
thín kê nằm, có lẽ đã từ lâu lắm người ta dùng để đập lụa nhuộm thâm. Phiến
đá ấy nay thành cỗ ngồi chơi. Hai cây roi to xùm xoà cả bóng. Vào mùa hè,
sau một đêm mưa rào có những tiếng lộp bộp ngoài vườn, sáng ra chúng tôi
đi nhặt những quả roi chín trắng đã bị gió mưa vặt xuống hộ. Những trái roi
đường ngọt lừ. Mãi mãi sau này, chưa một làn nào chúng tôi được ăn những
quả roi ngọt mọng như thế. Trong vườn trước nhà có hai cây hoa mộc,
hương thơm toả đượm khí trời, và những gốc hồng nhung, hoa đỏ rực rỡ
điểm xuyết vào màu xanh của cây cỏ.
Sau những giờ ngồi viết miệt mài, cha tôi thường đi thong thả trong
vườn với điếu thuốc lá trên môi, xem ngắm từng gốc cây, từng cái lá, bắt sâu,
xáo gốc. Những giây phút im lặng một mình. Và sau đó là những trang giấy
được phủ kín bằng những hàng chữ viết đều đặn, rõ ràng, tỏ ra rằng mọi sự
ghi xuống đã được sắp đặt chau chuốt, tỉ mỉ và chính xác từ trong bộ não.
Trang bản thảo của cha tôi rất ít chỗ bị rập xoá lằng nhằng khó đọc. Một cách
làm việc của người viết tuyết thuyết mà thế hệ chúng tôi còn phải theo đuổi.
Mùa đông gió từ ngoài Hồ Tây thổi vào hút qua khe cửa lạnh cóng. Hồi
ấy làng Võng Thị chưa có điện, phải thắp bằng đèn dầu. Đêm đêm dưới ánh
đèn dầu, ông khoác chiếc áo dạ màu sẩm, dựng ngược cổ áo lên che ấm gáy
và khói thuốc lá toả nghi ngút. Chỉ có tiếng ngòi bút của ông lạo xạo trên giấy
cùng với quanh quất là bóng cây phủ xuống. Lấp loáng ánh đèn từ nội thành
hắt ra nhỏ li ti như những vụn sao trời.
Những ngày áp Tết, ông nghỉ viết. Năm nào cũng vậy, ông lặp lại câu
hỏi:
- Năm nay nhà ta có gói bánh chưng không?
Ông săng sái đi vác những cây củi rải rác trong vườn, gom vào bếp.
Ông nhận phần trước:
- Đêm nay cả nhà cứ ngủ yên, tôi thức canh nồi bánh.
Nửa đêm thức giấc nhìn ra, đúng là ông ngồi đó trước ánh lửa bập
bùng sáng rực một góc bếp. Ông nhìn ngọn lửa. Ông im lặng hàng giờ ngồi
nhìn ngọn lửa. Và cái bóng của ông in lên vách lung linh.
Người bạn mà ông đến chơi đầu năm bao giờ cũng là ông Tú Mỡ. Ông
Tú ở bên Láng. Từ Võng Thị ra chợ Bưởi, theo đường Đê la Thành đi thẳng
sang là tới. Nhà ông Tú có cây hoa mai. Hoa mai trắng bây giờ rất hiếm, và vì
nhiều người đã gọi lẫn hoa mận, hoa song mai, với hoa mai. Hoa mai trắng
cánh kép, bông to như hoa đào, nhưng thơm, rất thơm. Trong vườn có một
cây mai thì chỉ cần đến ngõ đã biết, nó phảng phất như phấn như hương mà
không bắt được. Mai hoa không kết quả. Những cánh hoa mai trắng rập rờn
bay trước gió rồi đậu xuống bờ cỏ quanh gốc. Cành mai khẳng khiu, dáng cây
gầy guộc, nhưng hoa trắng phủ kín cành và cánh hoa rơi đậu tản dưới gốc.
Mùa đông dưới nắng hanh, màu trắng lấp loáng rực rỡ và tinh khiết. Bao giờ
đến thăm nhau, hai ông cũng thăm vườn trước, và đến với gốc mai...
Hôm nay... Hình như cảnh vật đã không còn như cũ. Mọi sự đổi thay tốt
đẹp bao giờ cũng có đôi điều đáng tiếc. Vì thế tôi đã không dám quay trở lại
thăm ngôi nhà cũ đầy kỷ niệm. Tôi được biết, những người chủ mói đã nâng
cấp ngôi nhà và khu vườn khác lạ lắm rồi. Tôi muốn giữ nguyên những hình
ảnh đẹp một thời, mà vĩnh viễn sẽ không bao giờ trở lại.
Trước mắt tôi vẫn là ngọn lửa bập bùng chiếu sáng gương mặt của
ông. Ông ngồi trầm tư nhìn ngọn lửa. Và cái bóng của ông in trên vách lung
linh.
Phải chăng đó chính là giây phút thiêng liêng đã tụ hội những gì ông
chiêm nghiệm trong đời để sau này chảy vào tác phẩm.
Giây phút im lặng của người cầm bút. Giây phút đầy sóng gió nhưng vô
cùng quí hiếm.
Tết chuẩn bị cho người anh thứ hai của tôi đi vào chiến trường miền
Nam cũng là cái Tết cuối cùng gia đình chúng tôi ở Võng Thị.
Cha tôi chấp nhận việc ra đi của anh, người con trai duy nhất còn lại
sau người anh lớn của tôi đã hy sinh từ ngày đầu kháng chiến chống Pháp,
cũng bằng sự im lặng. Nhiều lần cha mẹ tôi ngồi trước ấm trà, cả hai tránh
nhìn nhau, cả hai cũng không nói. Xót thương đang phải nén xuống. Vì cần
cho người ra đi được yên lòng. Trên hết là nhiệm vụ với Tổ quốc.
Phút chia tay không ồn ào. Anh tôi ôm hôn cha mẹ và chúng tôi. Lặng lẽ
nhìn anh. Đúng lúc ấy, con trai nhỏ của anh tung bổng quả bóng bay qua cửa
sổ. Thế là buộc lòng người lớn phải bồng bế xuống thang để nhặt bóng. Linh
tính trẻ thơ đã mách bảo, không phải là bố đi một lát như mọi ngày, cũng
không phải vài ngày hoặc chủ nhật bố về như thường đi công tác. Bé phải
được gần bố thêm đến tận chót đường là cái sân dưới kia, mà ở đó là những
bác đang chờ để đưa bố đi xa, xa lắm. Bé không đòi, không khóc nhè, vì đây
là giây phút bé cảm nhận được đang là sự thiêng liêng. Ôi, trẻ thơ có đôi mắt
trong veo. Đôi mắt ấy đã là ngọn lửa soi sáng cho người ra đi trên những
đoạn đường tối tăm cay cực, mãi về tận sau này.
Cha tôi trầm ngâm nhìn xuống đường hút theo cái dáng đi dứt khoát,
cắm cúi, không ngoái lại một lần ấy. Ngôi nhà của chúng tôi vừa bị rút đi một
cây cột. Và lúc này gánh nặng gia đình lại chất lên vai người đàn ông sức vóc
nhất là cha tôi. Cha mẹ tôi dọn về ở cả trong căn phòng nhỏ của nhà 66 Hàng
Bông Thợ nhuộm để gia đình anh đỡ vắng thiếu.
Vài năm đầu thấp thoáng có tin anh mạnh khoẻ. Rồi kháng chiến chống
Mỹ lan ra miền Bắc, Hà Nội đi sơ tán. Từ nơi sơ tán, lâu lâu cha tôi về Hà Nội
để xếp hàng mua các thứ theo tem phiếu, và ngóng hỏi tin anh. Không có tin.
Hy vọng có thể là sự chậm trễ của đường dây liên lạc chăng. Nhưng càng
mong càng bặt. Nhiều năm bặt hẳn. Người gia đình không dám hỏi nhau,
không ai dám nhắc với nhau, vì cùng chung một đoán biết. Cha tôi dồn tâm
sức viết những tác phẩm văn học nhằm đóng góp trực tiếp với cuộc chiến đấu
trực tiếp của miền Nam. Anh con trai người bạn đọc ấy, Nếu không có anh
(sau này khi tôi đưa xuất bản đã đổi tên là Một kiếp người), Trong ấy... ngoài
này...
Ngày kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ là niềm hân hoan chung của
dân tộc, nhưng cũng là những ngày đầy thấp thỏm lo âu thử thách đè nặng
trĩu xuống đôi vai những người gia đình tôi. Ngày thứ nhất qua đi, không có
tin của anh. Ngày thứ hai qua đi, vẫn không tin tức. Ngày thứ ba, ngày thứ
tư... Những ngày dài đằng đẵng. Trẻ thơ trong nhà đã lớn, các bé không dám
hỏi, không dám nhắc, không dám đùa nghịch, không dám nói to. Như trên tay
cả nhà đang nâng một cái bình dễ vỡ.
Khuya ấy đã sang ngày thứ bảy của chiến thắng, nỗi thất vọng và khiếp
sợ đã sắp nổ bung ra. Nếu cha mẹ tôi, nếu chị tôi và các bé nhận được tin...
Tôi không dám nghĩ hết điều ấy. Tôi cầu mong ở sự linh thiêng câu nói một
lần cha tôi đã thốt lên trong những năm bặt tin anh: "Kháng chiến chống Pháp
gia đình ta hy sinh sáu người, nhưng đến chống Mỹ thì được toàn vẹn".
Những đêm giao thừa Hà Nội, giữa tiếng pháo nổ râm ran, bùng cao rền trầm
rồi vút lên mạnh mẽ như những con sóng xô dạt, tiếng Bác Hồ đọc thơ chúc
Tết. Tôi đứng một mình trên sân gác thượng tầng ba nhìn về phương nam
thầm gọi tên anh, gọi thay cho cha mẹ, thay cho chị và các cháu, ở nơi xa nào
mà tôi không được biết, nếu nghe được tiếng gọi, anh trở về... về quây quần
đoàn tụ với gia đình...
Chợt nghe tiếng guốc lên thang. Thang gác bằng đá granitô, trong đêm
khuya, tiếng guốc giòn vang. Tôi bật choàng dậy. Tôi nhận ra ngay tiếng guốc
của cha gấp gáp. Trống ngực tôi thình thịch. Tôi mở vội cửa, thì cũng vừa lúc
cha tôi bước tới. Như ngọn gió mạnh ào đến, cha tôi vừa thở vừa nói: “-Có tin
anh Tài sống rồi". Nước mắt tôi tràn ùa xuống, tôi gục vào cha. Tiếng guốc lên
thang ấy mãi mãi vang lên trong tâm khảm tôi.
Sau khi Đống rác cũ của ông ra đời được toàn vẹn - sau 26 năm - bạn
đọc càng nhắc đến tên ông. Gặp những cảnh đời, gặp những cảnh trớ trêu
rác rưởi, những mưu đồ ám khí, bạn đọc lại nghĩ đến ngòi bút của ông, gọi
tên những nhân vật của ông.
Ông vẫn đang đi cùng với thời đại. Cây bút Nguyễn Công Hoan mãi mãi
ở độ tuổi của sức trẻ.
(Tuyển tập Nguyễn Công Hoan, tập I, NXB Văn học, Hà Nội, 1983)
CẢM NHẬN CỦA MỘT NGƯỜI ĐỌC TRẺMAI HƯƠNG
Nguyễn Công Hoan khởi bút khi ông 17 tuổi, ấy là năm 1920. Vậy là,
khi tôi chào đời, ông đã có 30 năm cầm bút. Khi tôi có điều kiện tiếp cận và
hiểu được văn chương, ông đã có ngót nửa thế kỷ gắn bó với Văn học. Và khi
tôi chập chững vào nghề nghiên cứu, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã ở
chặng cuối của con đường sáng tạo bền bỉ, dẻo dai suốt trên nửa thế kỷ với
một sự nghiệp vừa độc đáo, vừa đồ sộ gồm 300 truyện ngắn và trên 30 tập
tiểu thuyết truyện dài.
Tôi thuộc lứa tuổi cháu của ông và thuộc thế hệ bạn đọc thứ ba của văn
ông. Trước tôi ít nhất đã có hai thế hệ độc giả và hai thế hệ nghiên cứu đọc
và nghiên cứu về ông. Chính bởi thế và trên ý nghĩa ấy, tôi coi mình là một
người đọc trẻ, và xin phép được nói một đôi cảm nhận của tôi về ông, một tài
năng lớn.
I - Trong cuốn Đời viết văn của tôi, Nguyễn Công Hoan tâm sự: "Chưa
bao giờ tôi có ý định viết văn để được gọi là nhà văn"... "Lòng muốn viết
những cái mà mình thấy cần viết, không viết không an tâm, không viết thì bứt
rứt, hậm hực, thấy canh cánh bên lòng" - Đó cũng là điều đầu tiên tôi cảm
nhận được qua những trang văn của ông.
Viết, đối với Nguyễn Công Hoan trước hết là sự trang trải với cuộc đời
và số phận của những con người mà trái tim nhạy cảm của ông, tấm lòng
nhân ái, biết đau đời của ông, tình yêu thương đồng loại sâu xa nơi ông, đã
khiến ông phải vì nó mà đa mang. Viết với ông, dường như một cách sống,
để ông gửi gắm những yêu thương hay căm giận, bênh vực, bảo vệ hay phê
phán, đả phá, chở che, san xẻ hay bóc trần, tố cáo... văn là đời, ít thấy và hầu
như không thấy qua trang văn những dấu tích riêng của cuộc đời ông, ông lăn
mình, quên mình đi giữa thế giới những con người mà ông yêu thương. Cũng
chính vì thế, ngòi bút Nguyễn Công Hoan cũng chỉ tố cáo, đã phá những gì
từng đè nén chà đạp lên những con người xung quanh ông, chưa bao giờ
ông tố cáo, bênh vực cho chính mình, dẫu cuộc đời ông cũng đầy những gian
truân và lận đận...
Biết vượt lên cái tầm thường để sống cao, sống đẹp. Biết quên mình đi
để vì người. Biết vượt trên nỗi đau của riêng mình để đau nỗi đau của đồng
loại... Phải vì thế mà Nguyễn Công Hoan sớm thành nhà văn, và đã là một
nhà văn lớn, một tài năng!
II - Ở thế hệ chúng tôi, đọc tác phẩm của những nhà văn tiền bối sống
và viết trước hàng nửa thế kỷ, thường không khỏi có những điều khó hiểu,
những sự cách biệt, hoặc ít ra cảm nhận về cái hơi hướng cổ cổ, kể cả từ ý
tứ đến văn phong, chữ nghĩa. Nhưng thật lạ, đọc Nguyễn Công Hoan, tôi thấy
thoải mái và thanh thản. Ông như người của hôm nay - Người đồng hành
cùng chúng tôi và văn ông cũng vậy, nó hoà nhập, đồng thời với văn chương
hôm nay. Có khác biệt đâu giữa những truyện cuối cùng ông viết: Trong
chuyến xe lam (Văn nghệ 4-10-1975), Câu chuyện của cô ấy (Văn nghệ 27-
12-1975), với Sóng Vũ Môn và những truyện đầu tay của ông viết năm 1920,
cả về văn phong và ý tưởng? Và nếu đem đặt những sáng tác của Nguyễn
Công Hoan vào dòng chung của văn học Việt Nam hiện đại, đương đại, cũng
khó tìm thấy dấu hiệu của sự khác biệt, xưa cũ. Ngay giữa cuộc đời hôm nay,
gặp một điều gì nhiễu nhương, nhăng nhố, một điều gì thương tâm hay đen
bạc, tôi đã nghe nhiều người ao ước thốt lên: "Ôi, giá như cụ Nguyễn Công
Hoan còn sống, thế nào cũng lại có một truyện ngắn thật hay!"
Ngay trong văn phong - cái dễ bị "cũ", bị "lạc hậu" nhất - cũng không
cảm thấy sự xa, cũ khi đặt văn Nguyễn Công Hoan trong dòng chảy của Văn
học đương đại - Giản dị, dân giã, xúc tích mà giàu hình tượng, tự nhiên và
linh hoạt, bình dị và chắt lọc, tinh tế, tất cả những cái đó là gì nếu không phải
dấu hiệu của một tài văn đích thực, nó không cần đến sự gân cốt, không cần
phải làm duyên làm dáng, phải tỉa tót, công phu, không cần đến bất cứ một kỹ
nghệ "làm văn" nào.
Đọc Nguyễn Công Hoan, do vậy, tôi có cảm giác ông thật gần gặn, ông
là nhà văn của hôm nay, nhà văn của đương thời, người vẫn luôn luôn mang
đến cho tôi những điều mới lạ. Có lẽ trong lịch sử văn học Việt Nam, hiếm
nhà văn mang lại được cho mọi thế hệ độc giả cảm giác nhà văn của và luôn
của đương thời như thế!
Cùng đọc Nguyễn Công Hoan, cái cảm nhận ấy trong tôi rõ ràng, càng
đậm. Có một giới hạn nào không, có sự cũ càng, lạc lõng nào không ở những
tài năng? Văn nghiệp và văn tài của Nguyễn Công Hoan đã giúp tôi trả lời câu
hỏi ấy. Không, mọi sự phân chia ranh giới về thế hệ, về không gian, về thời
gian dường như đều vô nghĩa trước một tài năng đích thực.
III - Nhiều người đã nhắc đến số phận người nông dân và những người
lao động nghèo dưới đáy xã hội, đặc biệt cách nhìn nhận của nhà văn
Nguyễn Công Hoan với những lớp người nghèo khổ, bất hạnh ấy. Cố nhiên,
đó là đóng góp rất lớn của cây bút hiện thực xuất sắc Nguyễn Công Hoan.
Riêng tôi, một người phụ nữ, tôi thực sự xúc động trước tấm lòng và
những trang văn ông dành cho những người đàn bà bất hạnh trong cuộc đời.
Nếu nói văn chương lớn ở tấm lòng và tài năng văn chương chỉ thực sự có
được khi có cái tình, cái tâm làm "lõi cốt" thì hơn ở đâu hết, người đọc cảm
nhận được cái lớn cái tài của nhà văn Nguyễn Công Hoan qua tấm lòng nhân
ái và cái tình ông dành cho những người phụ nữ bất hạnh, lận đận này.
Trước Hết, phải thấy rằng: "Nguyễn Công Hoan có cái nhìn rất mới về
số phận người phụ nữ. Giữa xã hội thực dân, phong kiến, người đàn bà là
người phải gánh chịu tất cả mọi chua cay, đè nén của xã hội và gia đình. Đàn
bà là những số phận cùng cực nhất trong xã hội, đến nỗi, dường như họ
không còn được coi là những số phận, những con người - Ngay từ thời ấy,
Nguyễn Công Hoan đã công bằng để khẳng định, để viết về những số phận
đàn bà, và xẻ chia với những số phận đớn đau của họ - thực ra, ở thời ông,
cũng đã có những cây bút đàn ông "ghé xuống" đoái thương đến những phận
đàn bà, nhưng ở trang viết của họ, vẫn dễ nhận thấy cách nhìn của con mắt
đàn ông, nhìn vào, nhìn xuống, nhìn từ xa - Nguyễn Công Hoan trái lại đã
hiểu thấu đáo về người phụ nữ, ông đã thực sự là người trong cuộc để cùng
đau nỗi đau của họ, buồn nỗi buồn của họ, san xẻ nỗi nhọc nhằn, đớn đau
của họ, cảm thông và bênh vực họ đến cùng. Đồng thời ông cũng là người đã
phát hiện vẻ đẹp nhân hậu, bao dung tiềm ẩn tận thẳm sâu trong tâm hồn họ.
Tôi đã đọc bao lần truyện ngắn "Ngựa người và người ngựa", càng đọc
càng thấy xót xa, chua chát cho tình cảnh thê thảm của người đàn bà giang
hồ, cho cái con "người ngựa" mà chắc chắn chỉ có tình yêu thương và nỗi đau
với số phận đàn bà của Nguyễn Công Hoan, chỉ có ngòi bút tài tình của ông
mới có thể lẫy lách được đến những tầng vỉa cuối cùng của nỗi đau để mang
lại cho người đọc sự cảm thương sâu xa và chua chát đến dường ấy.
Vẫn tấm lòng ấy trong những số phận đàn bà trong Tắt lửa lòng, trong
Cô giáo Minh, trong Lá ngọc cành vàng, trong bao truyện dài và hàng trăm
truyện ngắn súc tích, đậm đà của ông. Và dường như tất cả đã đọng lại,
thăng hoa đến diệu kỳ ở Đống rác cũ.
Lần giở lại và suy ngẫm trên hơn một ngàn trang bộ tiểu thuyết đồ sộ
"Đống rác cũ” của ông, tôi càng rưng rưng thổn thức trong nỗi thương cảm,
day dứt về những số phận đàn bà được khắc hoạ trong những trang viết xuất
thần của một tài năng. Nhà văn Tô Hoài đã khẳng định những đóng góp đặc
sắc, lớn lao của Đống rác cũ. Theo ông "chỉ nói riêng về những chương miêu
tả gia đình một nhà nho, một gia đình phong kiến điển hình, với những thói
tục hủ lậu đã giam hãm và hành hạ những người phụ nữ trong ngưỡng cửa
của gia đình, người đọc đã phải sửng sốt trước tài năng của ông. Ông đã
phơi bầy, đã kết tội giai cấp bóc lột một cách đặc sắc nhất. Ông tố cáo xã hội
phong kiến thối nát thời kỳ mà thực dân Pháp mới xâm lược nước ta, đem giá
trị cao cho bộ tiểu thuyết công phu ấy của ông. Phần thành công trong biểu
hiện và mổ xẻ tư tưởng cũng như khung cảnh những nhân vật phong kiến ấy
hoạt động, đã là sự tích tụ biết bao từng trải cuộc đời với những cảm xúc và
suy nghĩ của riêng ông".
Quả đúng như vậy. Và cũng không chỉ trong Đống rác cũ, toàn bộ tác
phẩm của Nguyễn Công Hoan, như một bộ cẩm nang quý giá, đối với những
người đọc trẻ chúng tôi, giúp chúng tôi hiểu cả một xã hội, một thời kỳ lịch sử
dân tộc mà chúng tôi không được sống trải. Nếu như Ban zắc đã dựng được
một Tấn trò đời của xã hội phương Tây, thì ở Việt Nam hơn ai hết, Nguyễn
Công Hoan đã dựng được một "Tấn trò đời” của xã hội Việt Nam thời thực
dân phong kiến. Trong đó, là những tấn bi kịch thảm thương của phận đàn bà
đủ các giai tầng, hoàn cảnh, đủ các lứa tuổi, nghề nghiệp...
Những người đàn bà trong "Đống rác cũ" chịu số phận nổi chìm đau
đớn trong cả hai vòng quay đảo của xã hội và gia đình. Gắn với Anbe Thừa -
sự lai tạp giữa thằng Sở Khanh Á Đông với tên Tác Tuýp phương Tây - là
năm người đàn bà được chằng lại với nhau trong cái quan hệ gọi là "gia
đình": Mẹ Mão, cô Múi, cô Lễ, Xuy Dan và Mari. Trong đó ngoại trừ con quỷ
Tây lai Mari, là bốn người đàn bà Việt Nam chất phác. Từ những phương trời,
những cảnh ngộ khác nhau, cuộc đời đã dun dủi họ gặp Thừa để cùng rơi
vào cạm bẫy của tên Sở Khanh và thành vật hy sinh của nó. Quả trong văn
học Việt Nam hiếm có những bộ tiểu thuyết tập trung được nhiều những trang
viết đọng đậm lại ấn tượng sâu sắc đến thế về người phụ nữ. Mỗi chương,
trói lại một kiếp đàn bà, mở ra một tấn thảm kịch. Những chương viết về cái
chết tội nghiệp của cô Lễ, về tình cảm của mẹ Mão sau khi bị tù oan, về cuộc
"kỳ ngộ" đau lòng của Xuy Dan với người cha - để lại thành gái giang hồ,
thành "người ngựa" với chính người cha từng bỏ rơi cô khi còn đang bụng mẹ
sau khi đã lừa vét đến những đồng tiền cuối cùng của mẹ cô, để lại sinh ra
một "kiếp đàn bà" mới với những tấm thảm kịch chắc chắn còn muôn lần tồi tệ
hơn những gì Bà và Mẹ nó từng phải nếm trải.. Ngay khi ngồi viết những
dòng này, vẫn cứ day dứt, sâu xoáy trong tôi cái hình ảnh cô Lễ tội nghiệp với
những tiếng kêu, những trận đòn, những mũi giày đạp tới tấp vào mặt, vào
hai mạng sườn, vào khắp cái thân hình đã quá tiều tuỵ của cô, chỉ vì tội cô
không chịu cho thằng lừa đảo tiếp tục "đào mỏ”, một cái xác chết bé xíu, co
quắp, dưới chân tường bệnh viện, thế nhưng cái xác cô đơn và oan khốc ấy
vẫn tiếp tục bị hành hạ, bị mổ ra để làm cái gọi là bằng chứng cho một mưu
đồ bẩn thỉu mới của Anbe Thừa mà cả Pháp giới, Y giới và Giáo giới đã túm
tụm cùng hiệp sức để "phát minh" ra... vẫn cứ xoay vòng trong đầu tôi, hình
ảnh cái bè chuối nửa chìm, nửa nổi, quay đảo trong dòng nước lũ hung tợn
đang sắp nhấn chìm đi cái gọi là một kiếp người của mẹ Mão. Cái bè chuối
nửa chìm, nửa nổi, cái khung xương gầy gò, mù loà, đang kiệt đi vì đói, dậm
một nửa trong nước, vẫn cứ níu mãi trong tư tưởng của tôi... Và vẫn đang
hiển hiện bên tôi cô bé Xuy Dan trong trắng, hồn hậu, tay ôm đứa con mới
sinh, ngơ ngác, chua chát khi ngã ngủ ra rằng: cả hai mẹ con cô đều có
chung một người cha - tên Sở Khanh mang tên Anbe Thừa, vẫn đang hiển
hiện trước mắt tôi phút hấp hối của Anbe Thừa. Cả bốn người đàn bà tội
nghiệp lại hiện diện trong sự sám hối muộn màn của hắn, trong sự đối lập của
con quỷ Tây lai Mari với bốn người đàn bà Việt Nam nhân hậu, chất phác.
Nguyễn Công Hoan đã cho người đọc một lần nữa cảm thông đến tận cùng
nỗi đau của những kiếp đàn bà và mến phục vẻ đẹp nhân hậu, tiềm ẩn và
được gìn giữ sâu xa nơi họ. Vẻ đẹp ấy là vũ khí của cái thiện, nó đủ sức
mạnh khiến một tên sở Khanh, đểu cáng đên như Anbe Thừa cũng phải sám
hối...
Quả đó là những trang tuyệt bút, thật dữ dội, thật xót xa. Vừa tố cáo,
vừa bênh vực, bảo vệ. Nguyễn Công Hoan đã tố cáo quyết liệt những thế lực
chà đạp người phụ nữ để thiết tha bênh vực họ. Chỉ một người vốn sống gần
gũi, hoà đồng trong nhân quần lao khổ; vốn có sự quan sát tinh tế, sắc sảo;
vốn do tình yêu thương sâu nồng với những người đàn bà, như với người
mẹ, người chị, người em, người con, người cháu của chính mình và nhất là
sự một sự đồng cảm thường trực với những nỗi đau của con người... Chỉ có
một người như thế, mới có được những trang văn như thế, mới có được sự
mô tả, xẻ chia và lý giải nhất quán thấu lý, thấu về tình thân phận đàn bà
trong hàng loạt tác phẩm, trong suốt cả đời văn như thế.
Chính đó là dấu hiệu của tài năng và chính đó là cơ sở để khối tác
phẩm đồ sộ tới mức khổng lồ của Nguyễn Công Hoan vượt qua mọi giới hạn
để đến được với mọi thế hệ độc giả, và lưu lại mãi mãi trong lòng mến mộ
sâu xa của họ...
6-3-1993
NHỮNG PHÚT LẶNG TRONG MỘT ĐỜI VĂNLÊ MINH
Đã hơn nửa thế kỷ. Những năm tháng đầy sóng gió và bão táp dội
xuống gia đình tôi, mà Cha là người đứng mũi chịu sào. Tất cả vẫn thức dậy.
Phải đến khi trưởng thành, tôi mới dần hiểu, những năm 1939 - 1945 ấy đã
tạo biết bao biến đổi cho xã hội và cho cả gia đình mình.
Mở đầu là năm 1939, cha tôi vừa chuyển từ Trà Cổ về dạy học ở Thái
Bình. Ngày 29-9-1939, mật thám xộc vào khám nhà, sau đó ra trường bắt ông
giữa giờ đang lên lớp, giải sang sở mật thám Nam Định để tống giam. "Tội
tàng trữ một tài liệu của Đệ tam Quốc tế, hiện vật là cuốn Staline - Thuộc điều
3 và 4 của Sắc luật ngày 22-9-1939..., là một tài liệu tuyên truyền cộng sản...".
Nhờ sự can thiệp của Đảng xã hội Pháp (SFIO) mà ông đã gia nhập, khi dạy
học ở Nam Định, ông được ở tại ngoại và vì ông có giấy khai sinh là người Hà
Nội, nên toà Nam Án không có hiệu lực. Bản án đã kết tội ông 3 năm tù bị huỷ
bỏ.
Năm 1940. Nửa đêm, lần đầu trong đời, tôi nghe tiếng gọi cửa giật
giọng:
- Có giấy của quan đốc học.
Cha tôi đang dạy ở trường Monguillot. Bọn mật thám Tây, ta xồ vào nhà
như cơn bão. Khi chúng cuốn xéo, đồ dùng, sách vở lộn tung toé, nhà cửa
tan hoang. Chú Bông và anh Khoái tôi bị chúng xích tay cướp đi mất. Hai
ngày sau cha mẹ tôi bổ đi dò tìm mới biết, chúng giải cả hai sang sở mật
thám. Các anh Cương (Nguyễn Cơ Thạch), Đống (Mai Chí Thọ), Lộc (Thép
Mới)... Các anh vốn thân nhau từ lâu, chẳng chủ nhật nào không đến nhà tôi
khi còn ở gác số 7 phố Chợ Rồng, bên Nam Định. Khi Cha tôi bị tống ra đảo
Trà Cổ, một trường thượng du mà cha đã phải đi một lần, là Lao Cai - kỷ luật
giáng xuống Cha vì "đã quan hệ với thợ thuyền" - các anh và chú ở lại Nam
Định học tiếp.
Cha đổi về dạy ở Thái Bình, gia đình ở gọn một nơi. Sáng chủ nhật
nghỉ học, chú và anh thường xin phép đi chơi pic-nic. Thực là các anh ra bến
Tân Đệ. Khi bị bắt cả rồi, tôi mới hiểu, đó là địa điểm trung tâm giữa Thái Bình
và Nam Định ít bị để ý, khi hai bên các anh đến gặp nhau. Họ cùng trong một
tổ chức Thanh niên phản đế. Ba tháng sau bị giam giữ và tra khảo ở sở mật
thám Nam Định, anh tôi được tha về, còn tất cả đều nhận án tù đầy lên Sơn
La. Thời ấy đã có nhà tù cho trẻ dưới 17 tuổi gọi là "Nhà trừng giới", ở vùng
đồi hoang Tri Cụ (Bắc Giang). Anh tôi mới 16 tuổi, nhưng nhà chạy chọt lo lót
nhiều cửa, anh thoát và tiếp tục đi học.
Năm 1942. Tôi học năm thứ 2 trường thành chung và anh học năm thứ
4. Chiều thứ năm, lớp có một giờ libre (tự do), nên hơn 2 giờ tôi mới đi học.
Vừa rẽ vào con đường đến trường đã giật bắn mình. Chiếc xe ô tô
căng bạt kín đậu ngay trước cổng, lố nhố nhiều học sinh bị đẩy giúi lên xe. Tôi
nhận ra ngay anh Khoái. Trống ngực tôi đánh thình thình. Chờ xe rồ máy, tôi
chạy vù vào trường. Xôn xao, nhốn nháo. Tất cả 11 học sinh bị mật thám xích
khoá tay ngay giữa giờ học. Các bạn đến nắm tay tôi:
- Chắc cậu đã biết, các anh bình tĩnh lắm. Chúng mình thật khâm phục.
- Nhưng đáng khinh là có đứa đã báo mật thám.
Ngay sau đấy tôi được biết, chính là cháu lão đốc học. Lão vào làng
Tây, cho cháu ở ngay trong pensionnat (nhà lưu trú học sinh) do lão cai quản.
Từ ngày anh Khoái được tha về, hắn vẫn theo dõi. Thời ấy, xã hội rất ngại
giao dịch với gia đình luôn bị khám nhà và có người bị bắt vì làm cộng sản.
Vậy mà... các bạn của cha mẹ tôi vẫn đến. Lần này lo lót chạy chọt, anh phải
chịu án một năm tù. Tháng tháng, có một ngày phép, gia đình được vào đề
lao thăm, gặp nhau chỉ 15 phút trước mặt cai ngục. Cha đã làm quen bao giờ
không rõ, lần nào ông cũng mời thuốc lá và hai người chuyện trò vui vẻ. Vì
thế anh đủ thời gian dặn khéo tôi các việc. Có lần tôi vẫn kịp giúi cho anh ít
giấy gói thuốc lá rất mỏng vê nhỏ ra ngoài mẩu chì như que tăm, theo lời anh
dặn. Ở trong tù, tổ chức cách mạng vẫn hoạt động, anh viết tài liệu huấn
luyện chuyển qua các khám. Mẹ tôi đứng che chắn. Cha nói chuyện thời sự
với cai ngục, cốt đem thông tin mới cho anh.
Năm 1943 anh ra tù, bị quản thúc - tức là không được đi đâu ra khỏi thị
xã nếu không được phép của sở mật thám. Mỗi tháng, anh phải cầm sổ đến
trình diện. Thời kỳ này tôi vẫn có liên lạc với chị Kền ở Kiến Xương lên, từ
sau khi anh Đát (Lê Thành), người kết nạp tôi vào tổ chức bị bắt. Thư từ giữa
anh Khoái và tổ chức, tôi chuyển qua chị Kền. Ngày ngày, anh ngồi đọc sách
và viết. Lúc nhà vắng người, anh huấn luyện tôi về chủ nghĩa cộng sản, về
công tác cách mạng. Suốt đời không thể quên bài học: "Khi bị mật thám bắt,
phải thế nào?". Anh dạy tôi nhiều bài hát, trong đó có một bài gây nhiều xúc
động: "Kìa xa xa nơi Côn đảo, sóng nước muôn trùng". Hát thì thầm mà lòng
cũng thật lãng mạn. Tuổi trẻ, chỉ biết vươn tới. Tôi lần trên đàn măng-đô-lin
để ghi nốt nhạc, rồi in để phổ biến. Đồ lề in ấn, chúng tôi cất giấu trong thị xã
mà anh cần, đã có Cha. Tôi là con gái, dễ bị lộ, vì trong xã hội thời ấy, nam
nữ thụ thụ bất thân.
Ba tháng sau, chị Kền báo tin, đã tổ chức xong việc đưa anh tiếp tục đi
hoạt động. Tôi rà soát trong nhà, không để vương một dấu vết. Còn anh, anh
căn dặn tôi mọi việc tiếp tục. Biết rằng anh lại ra đi, sẽ khó được gặp và gian
truân thì quá nhiều. Tôi nhìn trộm anh lúc ngồi cắm cúi viết, anh đang cố để
lại cho tôi những bài huấn luyện. Thương mà xót. Những trận đòn tra tấn các
anh khi tôi đi đưa cơm vào sở mật thám vẫn còn văng vẳng bên tai, những
tiếng kêu, tiếng thét. Tôi đánh bạo thì thầm: "Để em cùng đi với". Anh nhìn tôi,
nghiêm khắc: "Bé, đi quẩn chân". Tôi chớp chớp mắt. Anh dịu giọng: "Đâu
cũng là việc, phải cùng cố gắng". Tôi nuốt nước mắt.
Mùa hè ấy, mọi tối, các anh trong nhà vẫn cùng các bạn ra chơi ở sân
vận động, trượt pa-tanh. Anh Khoái cũng tham gia. Khuya ấy mọi người
hoảng hốt về báo với Cha, không tìm thấy anh đâu chỉ có đôi guốc của anh để
trên bãi cỏ ven bờ sông. Có lẽ trời nóng, anh lội xuống bơi rồi trượt chân. Tôi
lặng lẽ. Sớm hôm sau, rồi liền trong 3 ngày, cha mẹ tôi thuê người đi tìm vớt
anh nhưng không thấy. Cha tôi phải cầm sổ quản thúc của anh đến trình sở
mật thám. Tôi nghe cha thốt với mẹ: "Để con còn kịp thời gian...". Cha tôi
ngầm hiểu.
Ba tháng sau, tin dữ đến với gia đình, anh bị bắt khi qua đò. Do cận thị
mà mặc giả nông dân thì không thể đeo kính, anh bị "chó" theo, không kịp
phát hiện. Đò đã nhổ sào. Lần này anh bị kết án 5 năm tù. Ít tháng sau, một
vụ án khác liên quan đến anh, anh bị giải lên Hà Nội. Được tin mật báo, tôi
đến bến ô tô, lên xe để ra Tân Đệ, nơi có tầu thuỷ đi Hà Nội. Trưa mùa hè
nắng chang chang. Lát sau, quả nhiên thấy anh. Đầu cạo trọc, áo số tù, chân
đi đất, tay xích khoá, lính áp giải đến bến xe, đẩy anh lên ô tô ngồi. Lính
xuống hàng nước ngồi, chờ đủ khách. Tôi nói vội các việc từ sau khi anh đi và
anh cũng cho tôi biết, lần này có thể anh phải án 20 năm và thế là bị đầy ra
Côn Đảo. Đêm nay, trên đoạn nào tầu thuỷ cập bến thuận tiện, anh sẽ trốn.
Tôi đứng trên bờ, nhìn anh bị lính đẩy xuống tầu. Người và hàng đông
nghịt. Tầu hú còi rời bến cũng là lúc tôi tìm được bóng dáng anh trên boong,
hai tay xích khoá đưa lên cao. Trong bóng chiều buông bảng lảng, vẳng bên
tai câu hát: "Kìa xa xa nơi Côn đảo, sóng nước muôn trùng". Con tầu nhoà
mờ.
Cha tôi luôn bị gọi đến sở mật thám. Một lần chúng doạ ông: "Có đứa
khai ra con gái ông, liệu mà bảo nó". Không một lời răn đe, trách mắng, cho
đến một hôm, học trò cũ của Ông làm trong sở đến báo tin, tên tôi có trong
danh sách. Ông đưa tôi đi trốn. Nhà một y tá mà ông quen biết, ở dưới Kiến
Xương. Dăm ngày vẫn yên ả, ông đón tôi về. Không hề nói ra mối quan hệ
của ông với ông y tá.
Những năm 1942-1943 ấy, đêm đêm Cha vẫn ngồi viết và luôn canh
chừng mọi động tĩnh. Ngày vẫn đi dạy học, còn mẹ trông nom cửa nhà. Tôi
xin thôi học, lấy cớ bị viêm phổi và đi dạy Truyền bá quốc ngữ, để phát triển
đoàn thể Phụ nữ cứu quốc. Thấp thoáng có người đến gặp Cha, thầy thầy
con con, như học trò cũ. Dần dần gia đình tôi là nơi đi về của cán bộ. Các anh
luôn nhớ những nắm cơm với tôm rang mẹ tôi gói theo khi các anh lại ra đi.
Mẹ còn giúp tôi đi bán tín phiếu cho Việt Minh, quyên quần áo để gửi lên
chiến khu. Còn Cha, giúp các anh nhiều việc khi các anh "nhờ".
Sau này mới biết, có anh là Tỉnh uỷ viên, Xứ uỷ viên. Họ rất tâm đắc khi
chuyện trò với Cha. Và Cha cũng thật quý trọng họ ở tầm hiểu biết. Ngày ấy
trong nhà tôi còn giấu một máy thu thanh tự tạo, để hàng đêm các anh nghe
tin đài phương Tây, theo sát những diễn biến của cuộc chiến tranh giữa hai
phe phát xít và đồng minh. Đến thời phát xít Nhật ngự trị ở Thái Bình, thì
nhiều lần Cha tôi đến gặp cụ Phan Kế Toại, lúc đó là Tổng đốc tỉnh. Ông
thuyết phục cụ đứng về phía Tổ quốc Việt Nam. Từ tình thế quân đội Nhật hất
cẳng Pháp và nông dân Thái Bình phải phá ruộng để trồng đay cho Nhật, nạn
đói hoành hành, người chết xám đen như ngả rạ khắp trong tỉnh... Cụ nên
ủng hộ tổ chức Việt Nam...
Đầu năm 1945, khi Cha tôi bị phát xít Nhật bắt về tội làm Cách mạng,
trong gia đinh chỉ có mẹ. Chú cháu, anh em tôi đều mỗi người mỗi địa
phương, hoạt động bí mật, không tin tức gì về với gia đình. Cuộc sống của
những người gia đình tôi tham gia cách mạng năm 1939-1945 đã như trong
bão tố, lúc im lìm, lúc nổi sóng. Mỗi người mỗi nhiệm vụ, tuỳ theo hoàn cảnh,
sức lực, kiên quyết theo đuổi lý tưởng đến cùng. Trong khi đó, không phải
không có những trường hợp đã xảy ra trong Đảng thời kỳ khốc liệt này. Có
những người ra tù vẫn hoạt động tiếp, không sờn lòng, dù đã nếm trải mọi tra
tấn, đầy đoạ. Nhưng cũng có người tìm cách lảng tránh, "trùm chăn" nằm im,
không dám liên lạc với cách mạng. Có kẻ đi làm tay sai cho phát xít, đế
quốc...
Lần giở những trang "Đời viết văn" của Cha, tôi nhìn rõ hơn con đường
Cha đã ghé vai gánh vác cùng anh em, chú cháu tôi và cả trong những đối
phó của Cha với cường quyền để giành giật một đời văn, như Hoàng Trung
Thông đã viết: "Khó nhọc và phong phú bao nhiêu".
Chính phủ thực dân phát xít hoá dần chế độ kiểm duyệt sách báo bị tái
lập. "Thấy tôi viết một vài truyện gây tinh thần phản chiến (Chiến tranh) và đề
cao ý thức kháng nhật của phụ nữ Trung Quốc (Thiếu Hoa), bọn thực dân
doạ tôi, khám nhà, suýt kết án tôi 3 năm tù. Nhưng tôi khai sinh ở Hà Nội,
không thuộc toà Nam Án xét xử" (Trích T.211).
"Quân đội phát xít Nhật tràn vào Đông Dương, việc kiểm duyệt càng
khắc nghiệt. Tôi bắt đầu viết một loạt truyện lấy tên chung là "Hồi còi báo
động". Tôi gửi đăng báo. Nhưng kiểm duyệt xoá gần hết. Trước đó, tôi có viết
một truyện ”Êu, êu Mê-đo), cũng bị xoá gần hết. Rồi "Công dụng của cái
miệng", "Người thứ ba", "Chuộc cụ"... đều bị cấm" (Trích T. 212 - T. 213).
"Nhân nhà xuất bản Tân Dân mở báo "Truyền bá" đăng truyện nhi
đồng, tôi viết cho "Truyền bá". Muốn cẩn thận, tôi không ký tên thật, xoay lại
những chữ thành tên giả là Ngọc Oanh. Truyện Ngọc Oanh được kiểm duyệt,
cho ra trót lọt... Lần thứ hai viết cho "Truyền bá", tôi ký hẳn tên tôi. Quả nhiên,
sách được ra. Tôi viết vài truyện nữa cho "Truyền bá" rồi lấn thêm một bước
nữa, viết tiếp tục cho người lớn đọc" (Trích T.217).
Quả là Ông "không chịu lùi trước bất kỳ thế lực nào. Ông không hề
khom lưng cúi cổ, cúi đầu trước thực dân và lũ cường quyền" (Hoàng Trung
Thông). Quả là một "ngòi bút sức lực, dũng khí, lạ lùng" (Tô Hoài).
Nghề viết là nhu cầu tự thân của nhà văn. Những dòng viết mang tư
tưởng và phẩm cách của nhà văn. Ngày 8 giờ, ông dạy học ở trường, về nhà
chấm bài cho học sinh. Ông đứng mũi chịu sào cả một gia đình lớn, triền miên
bị đế quốc rình rập, truy đuổi. Người Cha, người Anh phải thực mắt chứng
kiến số phận của các con, các em mình, tiếp nối tiếp đi trong bão lốc, bản
thân cũng trong bão lốc, trong nghèo nàn và cả... nợ nần. Bình tâm và quả
cảm xiết bao trong niềm tin ở lý tưởng, người nhà văn mới tự tách được mình
để "sống" số phận các nhân vật tiểu thuyết mà mình theo đuổi, gắn bó, mà
mình tự ý thức trách nhiệm phải tố cáo để bênh vực.
Nhà xuất bản lảng tránh Ông. Sở kiểm duyệt ra lệnh, bất cứ Ông viết gì
cũng không cho ra. Các ngả đường để tác phẩm của Ông đến được bạn đọc
đã bị chặn đứng. Hoặc tìm nghề khác kiếm sống? Hoặc bẻ queo ngòi bút, đầu
hàng? Hoặc cam chịu an phận? Ông vật lộn bằng nhiều kiểu mẹo, kể cả
"chiến thuật" đi vòng vèo để nguỵ trang tác phẩm (Thanh đạm), kể cả tìm
cách đưa xuất bản những tiểu thuyết mang ý tưởng của mình đăng trên báo
trước đây (Ông chủ - Bà chủ, Cô làm công...)- Riêng "Cái thủ lọn", Nhà xuất
bản Đời Mới hối lộ 15 đồng cho kiểm duyệt, vẫn ra đời được vào năm 1944.
Làm những việc "quẫy đạp", không phải Ông không biết đến sự theo
dõi và đòn thù của đế quốc sẽ giáng xuống con, em mình đang hoạt động
cách mạng bí mật, đang bị cầm tù - và chính bản thân Ông cũng đang làm
nhiều việc tự thấy cần thiết cho cách mạng, cũng như những việc do Đảng
giao phó. Sách và truyện của Ông bị "kiểm duyệt cấm" luôn là niềm tự hào
của Ông, của cả gia đình và bè bạn Ông. Cũng như việc gia đình thường
xuyên bị mật thám khám xét, bị bắt người, không làm bất kỳ ai trong gia đình
nao núng.
Tình cờ năm 2001, tôi thấy những dòng viết đánh giá đời văn của
Nguyễn Công Hoan trong giai đoạn này:
"Nguyễn Công Hoan đang như diều gặp gió thì việc "Bước đường
cùng" bị cấm và "Cái thủ lợn" không được in làm cho ông chán nản sáng tác"
("Nguyễn Công Hoan - Tác giả và tác phẩm" - T. 27). Có lẽ nên dùng từ chính
xác hơn. "Cái thủ lọn" bị kiểm duyệt cấm, khác nghĩa hoàn toàn với "không
được in". Chán ngán không thể đồng nghĩa với "Chán nản".
Khi Như Phong viết: "Nguyễn Công Hoan bắt đầu tự khẳng định được
mình một cách mạnh mẽ và vững chắc vào khoảng những năm 1929 - 1931.
Nguyễn Công Hoan đã tự vạch cho mình một con đường đi, một con đường
tích cực tiến bộ nhất so với tình hình văn học công khai nước ta hồi ấy". Vậy
đâu phải nhờ "gió" mà "diều" lên!
"... Vô hình chung Ông đã tuyên truyền không công cho phong kiến phụ
hoạ với thực dân..." (T. 87 - "Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan -
1979).
"Do Nguyễn Công Hoan còn thiếu nhận thức về mặt lý luận và phương
pháp sáng tác của bản thân nên đến thời kỳ đen tối của những năm 40, Ông
dễ bị phân hoá theo khuynh hướng xấu (lãng mạn, tiêu cực) rồi bế tắc, lúng
túng" (T. 91) - Cùng sách).
"Đầu thời kỳ Mặt trận dân chủ, Nguyễn Công Hoan có chịu ảnh hưởng
của Đảng... nhưng ông vẫn để lộ những nhược điểm vẫn có... ông vẫn đứng
trên cương vị một trí thức tiểu tư sản, chưa thật giác ngộ mà tiếp thu ảnh
hưởng đó... Nói thực ra ông chưa dám làm cách mạng, mới chỉ là nhà văn có
cảm tình với phong trào" (T. 72 - "Nguyễn Công Hoan 1903 - 1977").
"Quả là khi gặp những khó khăn khách quan thì những chỗ yếu vốn có
trong tư tưởng nhà văn lại bộc lộ và đời viết văn của Ông đến 1943 coi như
hoàn toàn xuống dốc" (T. 28 - "Nguyễn Công Hoan - Tác giả và tác phẩm).
"Qua một thời rực rỡ, đến lúc Nguyễn Công Hoan đang lâm vào tình
trạng bế tắc (1943) thì may thay cuộc Cách mạng tháng Tám thành công"
(T.33 - Cùng sách).
Đến đây thì những đánh giá về Nguyễn Công Hoan không còn thuộc
lĩnh vực văn chương, tác phẩm, mà thuộc về phẩm chất chính trị một nhà văn
trong những thời điểm gian nan nhất của cách mạng. Một con người phụ hoạ
với thực dân là con người đi lầm, đi chệch, mất phương hướng vì chưa thật
giác ngộ, chưa dám làm cách mạng. Vậy mà "đang lâm vào tình trạng bế tắc"
thì "may thay Cách mạng tháng Tám thành công). Chính phủ Cách mạng đưa
ngay Ông vào nhiệm vụ Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Chẳng hoá ra
Chính quyền Cách mạng quá dễ dãi? Ông bị phát xít Nhật bắt, bỏ tù về tội
chính trị, đến Cách mạng tháng Tám mới được tự do, chẳng hoá ra không lý
giải gì về cái gọi là ”1943-1945"? Và đến năm 1948, Ông được kết nạp vào
Đảng Cộng sản Đông Dương, khi đang công tác ở Tổng cục Chính trị Quân
đội nhân dân Việt Nam?
Đã thật tiên đoán khi Nguyễn Công Hoan viết một đoạn trong "Đời viết
văn của tôi”, từ năm 1957:
"Có một số hiện tượng văn học của ta hồi trước Cách mạng tháng Tám,
anh em làm nghiên cứu bây giờ có nhận thấy nhưng chưa tìm ra lý do...
Nghiên cứu để thấy hiện tượng là tốt, nhưng tìm ra lý do của hiện tượng mới
càng tốt hơn. Nếu không, sẽ suy luận... Người phê bình độc lập suy nghĩ và
phán đoán, không nhắc lại điều người trước đã viết. Chẳng lẽ có một khuyết
điểm của một tác phẩm mà người này nói rồi, người khác cũng nói lại. Chỉ lợi
cho mình là chẳng lẽ ta lại chẳng nói gì. Nên tránh cái lối quái gở thiếu vinh
dự ấy" (T. 388).
"Nếu công kích thẳng quan trường như từ trước đến giờ tôi vẫn làm, tất
kiểm duyệt xoá hết sách của tôi. Tôi cần thay đổi chiến thuật... Thế nào kiểm
duyệt cũng mắc mưu... Độc giả yêu quan ngày xưa, so sánh với quan ngày
nay, sẽ khinh ghét, kinh tởm bọn đỉa đói" (T. 388).
Tô Hoài cũng đã viết:
"Bây giờ có một bài đọc sách ngắn khoảng nửa gang tay chữ trên báo
Cờ Giải phóng in litô, phát hành bí mật (Vậy đâu phải là báo Cứu Quốc, như
người viết phê bình - T. 79 - "Nguyễn Công Hoan 1903 - 1977". Chắc người
ấy cũng chỉ nghe kể. Nghe rồi nói theo!). Rất tiếc khi nước nhà độc lập, các
nhà phê bình nghiên cứu văn học vẫn cứ nguyên tinh thần bài đọc sách ngắn
ngủi ấy mà nói lại... Ừ thì tác phẩm ấy có thể chứa đựng tư tưởng bảo thủ
nhưng phải được lý giải rằng bảo thủ thế nào, cái gì không thể chỉ im lặng và
lặp lại một bài điểm báo thông thường".
Sáng tạo văn học nghệ thuật mang nhiều đặc thù, hoàn toàn khác biệt
với mọi hình sản xuất khác, dù sản phẩm của nó cuối cùng cũng trở thành
hàng hoá. Lao động sáng tạo văn học nghệ thuật hoàn toàn không rập khuôn,
đầu này vào nguyên liệu, tức khắc đầu kia tọt ra sản phẩm, với năng suất đều
đặn như gà đẻ trứng.
Tiểu thuyết "Tranh tối tranh sáng", Nguyễn Công Hoan viết ngay khi
vừa mới ra tù tháng 8-1945 (do phát xít Nhật bắt về tội chính trị), viết ngoài
giờ gánh vác trách nhiệm giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ bộn bề và mới
mẻ. Nhà xuất bản "Sự thật" ấn hành năm 1946, đang in dở dang thì kháng
chiến toàn quốc, nhà in phải di chuyển, bản thảo bị thất lạc, tình cờ Tô Hoài
nhặt được ở nhà in Tiến Bộ trong rừng, khoảng 40 trang. Mười năm sau
(1956), Ông viết lại, dày khoảng 463 trang in.
Cả hai sự kiện kể trên trong một đời văn dường như hiếm và cũng
đáng để ta suy nghĩ. Nếu không từ những vốn tích luỹ, quan sát tỉ mỉ, xuất
phát từ ý tưởng giác ngộ cách mạng quyết liệt và bền bỉ, từ tầm nhìn sâu sắc
được trang bị mạnh mẽ trong những tiếp xúc với Đảng ở giai đoạn 1942 -
1945, thì dù có sống giữa cơn lốc của nạn chết đói khủng khiếp mà tỉnh Thái
Bình là điển hình của cả nước, người nhà văn cũng chỉ còn ôm nỗi kinh
hoàng. Hoặc cho dù đến sau Cách mạng tháng 8 - 1945, nhà văn mới "bừng
tỉnh" để "đi lấy tài liệu", thì tiểu thuyết cũng không thể tọt ra như con gà đẻ
trứng để năm 1946 đã có ngay bản thảo ở nhà in. Và những nhân vật tiểu
thuyết làm sao đủ thời gian để hiện hình!
Bản thảo bị thất lạc, 10 năm sau (1956) nhà văn vẫn viết lại được,
chẳng là minh chứng về thực tế cuộc sống khốc liệt thời trước Cách mạng
tháng 8 mà Ông đã trải ở Thái Bình vẫn bám riết Ông, thôi thúc Ông. Nó
chứng minh giai đoạn mà đời văn của Ông buộc có những "phút lặng", do đế
quốc ngáng chặn ngòi bút, đến mức Ông phải dùng mọi "chiến thuật" để đến
với bạn đọc (tất nhiên kết quả không phải thuộc quyền của Ông). Cùng lúc,
Ông tìm một lối đi: tích luỹ, tạo độ chín để vượt cao hơn, và vì thế khi đất
nước vừa giành được độc lập, Ông mới kịp sinh ra được hàng loạt tiểu
thuyết, mà mở đầu là "Tranh tối tranh sáng" - NXB Sự Thật ấn hành năm
1946.
"Yếu tố quyết định một tác phẩm bao giờ cũng là sự sống. Trong "Tranh
tối tranh sáng", tôi đã viết một chuyện xảy ra ở nơi tôi đã sống, trong hoàn
cảnh xã hội tôi đã trải, với những nhân vật tôi đã thuộc" (T. 236 - Đời viết văn
của tôi). "Tranh tối tranh sáng" viết năm 1956 dày gấp 3 cuốn đã viết năm
1946. Tiếc rằng mất những trang có nhiều con số - mà có thể bây giờ không
tìm đâu ra... Những con số về diện tích Pháp, Nhật bắt nhân dân ta trồng đay,
những con số về số lương thực mà giặc thu từng mùa, ở từng tỉnh, số ấy tăng
dần từ vụ mùa 1942 cho đến vụ chiêm 1945" (T. 234 - T. 235).
Vậy mà cũng đã có một đoạn đánh giá "Tranh tối tranh sáng” đấy chứ,
trong "Nguyễn Công Hoan 1903 - 1977" (T. 85 - T. 86):
"Tranh tối tranh sáng viết về lúc giao thời; thời kỳ tiền khởi nghĩa, chủ
yếu lên án sự áp bức bóc lột của bọn địa chủ cấu kết với thực dân, đế quốc...
Ông đã nhìn thấy nhiều phẩm chất tốt đẹp của những cán bộ hoạt động bí
mật như: Hựu, "anh ấy"... Nguyễn Công Hoan đã chú ý xây dựng cả một hệ
thống hình tượng, từ những tên thực dân cáo già Vamê, Vatxi,... đến những
tên cha đạo, tên dự thẩm. Nhiều loại nhân vật khác đã xuất hiện như mật
thám,... nhiều sự việc với thái độ rõ ràng".
Vậy đã chẳng từ những tích luỹ, những nung nấu của những năm đế
quốc "treo giò" rồi cuối cùng bỏ tù ông, những năm trong nhà ông luôn có cán
bộ bí mật đi về và ông trực tiếp gánh vác nhiều việc của cách mạng. (Đến
năm 1998, bà Nguyễn Công Hoan được nhận bằng "Có công với nước").
Chính những cán bộ hoạt động mà ông tiếp xúc thời bí mật ấy, đã hoá thân
vào tác phẩm: "Hựu, anh ấy”. Bởi có một khắc nghiệt trong nghề văn, nếu
nhân vât được nhào nặn từ "tài" lấy mẫu của tác phẩm người khác, người đọc
nhận ra ngay. Nó không có phần hồn mang dấu ấn tác giả, để "sống thành
một hệ thống hình tượng trong tác phẩm".
Trong ký ức đời tôi, chưa phút nào gặp nguy nan Cha đứng ngoài lề
hoặc ngả nghiêng, trốn chạy. Không có Cha và Mẹ hoạt động theo cách của
riêng mình, cuộc đời tham gia cách mạng trong bí mật luôn bị khủng bố của
anh em, chú cháu tôi từ tuổi 13 - 14, đâu có thể kiên cường và liên tục cho
đến hôm nay. Vậy mà bước vào kháng chiến chống Pháp chưa được 6 tháng,
Ông đã chịu ngay nỗi đau, anh Khoái tôi hy sinh mới hơn 20 tuổi. Rồi liên tiếp,
6 tháng một lần, 6 người ruột thịt ngã xuống. Đến kháng chiến chống Mỹ vào
chiến trường miền Nam ông chấp nhận để người con trai duy nhất còn lại đi
vào chiến trường miền Nam. ít năm sau, anh bị bắt và biệt giam trong xà lim
trắng. Cuối cùng không khai thác được gì ở anh, "ngay trước khi xe tăng Bắc
Việt Nam tràn vào Sài Gòn, một quan chức cao cấp của CIA đã gợi ý với nhà
chức trách Sài Gòn là tiện nhất là y "biến mất" Bởi vì Tài là một tay khủng bố
có kinh nghiệm nên khó có thể mong đợi y là một người thắng trận rộng
lượng. Người Nam Việt đồng ý. Tài bị đưa lên một máy bay và ném xuống
biển Nam Hải từ độ cao 10 ngàn bộ. Đến đây thì ông ta đã trải qua 4 năm bị
biệt giam trong một phòng quét trắng toát và cũng chưa khi nào nhận một
cách đầy đủ mình là ai cả" (Decent Intervalt - dịch là "Khoảng cách thích hợp"
- của Frank Snepp, nguyên phụ trách phân tích chiến lược của CIA tại Việt
Nam, xuất bản tại Mỹ năm 1977 (Bản dịch của Cục Tình báo Bộ Nội Vụ (BCA)
ngày 2-6-1981).
Ông viết một loạt tiểu thuyết "Nếu không có anh", "Anh con trai người
bạn đọc ấy", “Trong ấy ngoài này", đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến đấu giải
phóng miền Nam. Làm cha mẹ rồi, tôi mới thấu hiểu, ứng xử được như Ông
trước biết bao tình huống khốc liệt của đời người, triền miên dội xuống gia
đình, dội xuống đời văn, không thể từ một người mất phương hướng, lúng
túng, đi chệch và trượt xuống dốc.
Kẻ nào xô Ông xuống dốc? Nếu không là bọn đế quốc cấm đường, truy
diệt, rồi bỏ tù, can gì Ông phải tìm chiến thuật, đi đường vòng vèo, nguỵ
trang, để ý tưởng nung nấu của mình vẫn đến được với bạn đọc. Vậy đâu
phải tự Ông trượt xuống dốc? Không lẽ cuộc sống của một nhà văn khi trực
tiếp hoạt động cho cách mạng đã đẩy Ông xuống dốc? Những cuộc gặp gỡ
trao đổi với nhiều cán bộ hoạt động bí mật, có trình độ lý luận, am tường
chiến lược – những nhiệm vụ được giao cao hơn nhiều so với lần đầu tiếp
xúc thấp thoáng năm 1936 - mà từ đó Ông sinh ra "Bước đường cùng" - thực
chất đã mở ra trước Ông những tầm nhìn mới. Phút lặng - cho dù bắt đầu từ
bọn cường quyền, nhằm triệt hạ cấm đường Ông đến với bạn đọc - thì Ông
đã sử dụng như tấm màn nguỵ trang cho một giai đoạn mới tự vượt chính
mình trong đời làm cách mạng và đời văn. (Tất cả được phản chiếu những
vệt sáng trong "Tranh tối tranh sáng, "Hỗn canh hỗn cư",...). Nhiều người
sống ở thị xã Thái Bình thời ấy vẫn còn nhắc đến hình ảnh Ông giáo Hoan,
ngày ngày vào buổi trưa, đẩy xe bò cùng anh em thanh niên đi quyên gạo,
quyên cơm cứu tế đồng bào bị nạn đói. Đêm hôm bọn Nhật giải hai tên Công
sứ và phó Công sứ Pháp qua thị xã Thái Bình, một cuộc biểu tình lớn nổ ra
tập hợp nhân dân diễu hành kéo lên dinh Tổng đốc với khẩu hiệu: "Đả đảo
Varê, Valăng xô" - "Việt Nam độc lập". Ông giáo Hoan đi gõ cửa từng nhà.
Từng nhà đi theo Ông giáo Hoan, hô khẩu hiệu theo Ông giáo. Mà trời thì
đang mưa lạnh. Cuộc mít tinh họp ngay đêm ấy giữa sân dinh Tổng đốc và
mọi người thật ngạc nhiên đến thán phục - cán bộ Việt Minh diễn thuyết chính
là anh Tài Khoái, con trai ông giáo Hoan mới vừa từ nhà tù vượt ra, đầu còn
trọc tóc.
Rồi chỉ một thời gian rất ngắn ngay sau đó, chính ông phải vào nhà tù
của phát xít Nhật. Cách mạng tháng Tám thành công đâu phải "may thay" với
nhà văn Nguyễn Công Hoan! Và việc gọi là quay ra "làm thơ tình", đến bản
thân mình đã thấy nó không hay nên không thuộc, thì thơ gửi cho ai? Chẳng
cũng là một lối nói trào phúng của Ông vậy sao!
Một bài học Ông vẫn thường căn dặn thế hệ trẻ chúng tôi: Khi đi thực tế
nghiên cứu sự kiện, nhân vật, không thể chỉ đọc các báo cáo, nghe tự kể
hoặc mọi người kể, rồi nhìn hiện tượng. Có khi người ta kể thế, nhưng lại ẩn
đằng sau những điều ngược lại ta còn phải khám phá, bỏ công tìm tòi lý giải,
tự trả lời những câu hỏi từ bản chất cuộc sống, trong thời điểm lịch sử ấy.
Nếu không, ai cần đọc tiểu thuyết. Đời phong phú hơn nhiều.
Suy diễn tuỳ tiện đến chà đạp nhân phẩm của nhà văn, đâu phải
khuynh hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong phê bình nghiên cứu văn
học. Với nghề văn, đòi hỏi trước tiên là cái tâm và cái đức. Đọc những dòng
tâm sự của Ông, càng thấu hiểu Ông hơn.
"Kể ra thì hồi này tôi còn viết được nhiều. Còn nhiều đề tài tôi chưa viết.
Có nhiều chuyện, tôi định viết, nhưng không viết nổi vì không nỡ, nó thương
tâm quá. Chẳng hạn một cảnh trong gia đình một anh phu xe. Ngày mà tên
đốc lý Hà Nội ra lệnh cấm ngồi xe cao-su hai người, và định giá mỗi cuốc
ngắn, khách phải trả một hào, thì ai cũng tưởng nó tốt với anh em lao động.
Nhưng cái áo ngoài nhân đạo che đậy cái âm mưu bên là nó giết anh em kéo
xe. Bởi vì trong khi ấy, nó hạ giá xe điện xuống mỗi chặng đỗ có hai xu. Cho
nên xe điện đương ế thì chật những khách. Người ta không đi xe kéo nữa, vì
đáng lẽ hai người thuê hai xe, phải trả hai hào, thì đi xe điện, mỗi người chỉ
mất có hai xu. Vì lẽ ấy mà anh phu xe tôi nói trên kia, không kiếm ra tiền để
nuôi nổi vợ và một con. Vợ anh vì bận con mọn, cũng chỉ đi gánh nước thuê,
mỗi ngày chẳng đủ ăn. Hai vợ chồng bèn đổi cách sinh sống, vợ làm nghề
mại dâm. Chồng dắt khách về. Cứ tối tối, người vợ trang điểm xong, thì mang
gửi con bên hàng xóm. Chồng đưa khách về nhà, thì ngồi chờ ở ngoài
đường. Rồi khách ra, anh kéo người ấy đi. Tôi đã ngồi vào bàn giấy, nghĩ ra
cảnh ấy để viết. Tôi đã tưởng tượng hai trường hợp để chọn lấy một. Một là
người khách ở trong nhà anh khá lâu, thì anh vui sướng thế nào. Hai là người
ấy vừa vào đã ra ngay, tức là không vừa lòng vợ anh, thì anh thất vọng và lo
buồn thế nào. Nhưng tôi không chọn được trường hợp nào. Và tôi đã khóc.
Không thể nào hạ bút được..." (T. 214 - T. 215).
Một tấm lòng. Một tâm hồn đáng kính. Một ý tưởng quyết liệt, từ giác
ngộ cách mạng. Suốt đời, Nguyễn Công Hoan trung thành với Tổ quốc, nhất
quán trong mọi ứng phó, trước biết bao tình huống khắc nghiệt (dù với việc
của gia đình, của đoàn thể, của ngòi bút). Ông coi nghề viết là sứ mạng
thiêng liêng. Ông không bao giờ "bứt lìa" hoặc "bán” ngòi bút của mình và
cũng không bao giờ ông tự "cãi" cho chính mình. Như một cây cổ thụ cam
chịu đứng trước giông bão. Như một con khủng long mà Nguyễn Minh Châu
đã từng "nhìn" thấy. Và Hoàng Trung Thông phải thốt lên: "Trong thế hệ nhà
văn cùng với Anh, chẳng ai làm được hơn Anh".
* * *
Tháng Chạp, Hà Nội trong những ngày sang mùa vừa thiêng liêng, vừa
xao xuyến. Những cơn gió heo may mát lạnh. Những đợt lá sấu già trút xuống
lòng đường, lăn lăn xào xạc. Người đi trong gió lạnh đầu mùa như vứt lại
đằng sau những gì nặng nề, những gì gay gắt và cáu kỉnh. Không khí thở nhẹ
nhàng. Những ý nghĩ bay bổng. Những ao ước thoáng đãng. Phía trước là cả
một chân trời. Mặc dầu ngày mai, ngày mai còn chưa biết thế nào. Không ai
tưởng tượng hết được.
Ở cuộc họp lần cuối cùng những người tình nguyện ở lại với Thủ đô,
chúng tôi chia tay nhau, không bịn rịn lo âu, chỉ lắc tay thật mạnh, rồi tan đi rất
nhanh. Ai về với công việc ấy. Đêm nay, 19 tháng 12 năm 1946, 7 giờ kém 5
phút, tất cả đều phải có mặt ở địa điểm chiến đấu đã được phân công.
Buổi chiều, tôi trở về nhà. Gọi là nhà để cho hợp với cách nói thời đại
hôm nay, chứ đó là nơi một số cán bộ chúng tôi thường đi về như một trạm
hẹn. Cha tôi, lúc đó làm việc ở Sở tuyên truyền Bắc Bộ. Ông đã ở đây từ
nhiều tháng trước. Vì thế, những ngày sắp nổ súng, tôi đi về để tiện với công
việc - ngõ Tân Hưng, nhà số 1 Bis, nay là ngõ Tức Mạc, rất gần ga Hàng Cỏ.
Gọi là cùng một nhà, nhưng cha con tôi rất ít dịp được gặp nhau. Mỗi
người đi về một giờ, mỗi người bận bịu một kiểu. Một tuần nay rồi, các cơ
quan Chính phủ đã không còn ở trong thành phố. Cha tôi chỉ thấp thoáng đi
về. Mà những khi ấy, tôi còn bận các việc được phân công ở lại. Mọi người
đều khẩn trương chuẩn bị cho Hà Nội kháng chiến và vận động nhân dân Hà
Nội nhất thiết phải tản cư ra khỏi thành phố.
Chiều 19 tháng 12, tôi trở về. Ngõ Tân Hưng vắng lặng. Đến nỗi tiếng
xích xe đạp cùng với bước chân tôi như vang lên rất to. Các nhà trong ngõ đã
không người. Ngôi nhà xế cửa không tiếng nhạc, không ánh đèn xanh. Rặng
y lan lặng phắc. Một mình tôi chạy lên thang. Tiếng khoá mở cửa sắc lạnh.
Tôi hé cánh và chợt lặng người. Dưới khe cửa có thư. Những dòng chữ viết
vội. Chữ của Cha.
"Tối nay không được ở nhà nữa. Nhớ giữ gìn sức khoẻ".
Không mùi thuốc lá vương lại. Vậy là Cha tôi đã trở về từ sớm? Cha đã
được nhận lệnh... Tôi như thấy bóng dáng Cha, vội vã chạy lên cửa. Cửa
không khoá xích. Vội vã viết dòng chữ. Dòng chữ đọng mọi nỗi niềm ấp ủ của
Cha với đứa con gái nhỏ. Dù đã là cán bộ thì vẫn là đứa con gái nhỏ đang
đứng trước phút giây biến cố sắp rung chuyển toàn đất nước, và cũng là giây
phút có thể quyết định số phận của con, mà cũng là của cả Cha.
Một tháng sau, khi tôi đang ở trong nhà in, bỗng cha tôi xuất hiện. Ba-lô
trên lưng, trấn thủ xám quân đội. Không hiểu sao cha tôi biết được cơ quan
đóng trong nhà dân ở đây mà tìm đến. Hàng ngày chúng tôi ra báo (Báo "Mê
Linh kháng chiến", cơ quan tuyên truyền của Quận VI, Hà Nội), in truyền đơn
và tài liệu do cấp trên đưa xuống. Đêm đêm, Đội tuyên truyền xung phong của
chúng tôi len lỏi vào những nơi địch chiếm trong nội thành, đem báo và tài liệu
đến nhân dân. Bốn chiếc máy in "Mi-nec đạp chân, những thợ in, một phóng
viên mặt trận, cùng với đội tuyên truyền xung phong làm việc không phân biệt
ngày đêm. Máy bay rú xoẹt trên đầu, thả bom, xả liên thanh. Chúng tôi bám
sát trận Vĩnh Tuy.
Cha tôi cũng chỉ ngồi được một lát để tôi giới thiệu với bà chủ nhà
đã cho cơ quan đóng, rồi phải đi. Cha lấy trong ba-lô ra mấy trái cam vàng đặt
vào đĩa biếu bà chủ, và tôi đi tiễn cha ra đến bờ đê. Không một dặn dò, không
một băn khoăn làm nhụt chí con. Như ngày mai cha con sẽ gặp lại. Vậy mà,
sao đến tận hôm nay tôi mới biết ngỡ ngàng. Có lẽ Cha tìm đến tôi vì sau khi
Cha nhập ngũ, khó còn có kịp khác. Mà tôi thì vẫn ở lại mặt trận Hà Nội không
biết sẽ thế nào.
Một lần Cha tôi nói:
- Kháng chiến chống Pháp, gia đình ta hy sinh 6 người. Nhưng đến
kháng chiến chống Mỹ, gia đình mình toàn vẹn.
Lòi ước của Cha nhói đau trong tim tôi.
Sau này Tô Hoài viết:
"Bấy giờ vào khoảng 1967, các vùng tạm chiếm miền Nam đương ngập
ngụa sách vở phản động, văn chương đồi truỵ. Ta cần tìm cách thổi luồng gió
mới vào. Cục Địch vận họp với một số nhà văn, đề nghị viết tác phẩm phù
hợp có thể in công khai trong thành, hoặc in ngoài chiến khu rồi bí mật đưa
vào các đô thị. Nhưng chưa ai làm được gì thì anh Nguyễn Công Hoan đã
xong một tiểu thuyết, trên một trăm trang bản thảo. Hồi kháng chiến chống
Pháp, anh đã viết một truyện theo yêu cầu như thế để quân đội in. Quyển tiểu
thuyết mang tên "Xổng cũi" dày 219 trang - Nxb quân đội (mà ông ký tên tác
giả là Nguyễn Văn Lung).
"Không chỉ một cuốn tiểu thuyết ấy, anh còn viết: "Anh con trai người
bạn đọc ấy", “Trong ấy, ngoài này..." đều trong kế hoạch đóng góp với chiến
trường miền Nam, của một nhà văn với đất nước".
Đã hơn nửa thế kỷ, từ kháng chiến chống Pháp. Đã hơn 60 năm, từ
1939 - 1945. Những việc xảy ra vẫn đi cùng với đời ta như hình với bóng, bất
chấp thời gian. Và sự tìm, để hiểu biết về một con người, vẫn chưa phải hết.
Vậy mà sự hoá thân của tác giả vào tác phẩm, đâu chỉ có thể chỉ cần đọc lướt
một lần.
Tôi cắm cúi xuống những trang tiểu thuyết của Cha, như người địa chất
đi tìm quặng gốc. Ngoài kia gió bấc đang lại tràn về.
Xuân Cầu 18-1-2002
NHÀ VĂN NGUYỄN CÔNG HOAN, NIÊN BIỂU VÀ TÁC PHẨM1. Ngày sinh: 6-3-1903 (8-2 năm Quý Mão). Quê quán: làng Xuân Cầu,
huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay là huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Hưng.
2. Cha là Nguyễn Đạo Khang, đỗ tú tài khoa Canh Tý (1900), làm huấn
đạo (tức nghề dạy học) cho đến khi mất.
Mẹ là Tô Thị Tám, làm ruộng.
Bà nội dòng dõi nhà nho, thuộc lòng nhiều sách như Kiều, Nhị độ mai,
thơ Đường. (Dịch giả tập thơ Đường: Thiên thai, là ông Đặng Tích Trù, em
ruột bà). Bà làm nghề dệt vải.
3. Gia tộc họ Nguyễn, nhiều đời có người thi đỗ cao, được ghi tạc trên
tấm bia thân thế sự trạng họ Nguyễn để ở Xuân Cầu.
- Cụ Nguyễn Hằng, đỗ tiến sĩ năm 29 tuổi, khoa Bính Tuất, niên hiệu
Quang Hưng 9, (Mạc Đoan Thái thứ nhất - 1586), làm quan đến chức Tham
chính.
- Cụ Nguyễn Tính, đỗ tiến sĩ năm 30 tuổi, khoa Canh Thìn, niên hiệu
Dương Hòa 6 (1640), làm tới Lễ bộ hữu thị Lang Nghĩa quận công. Hiện còn
văn bia dựng tại Quốc Tử Giám, Hà Nội.
- Cụ Nguyễn Hành, đỗ tiến sĩ năm 33 tuổi, khoa Mậu Thìn, niên hiệu
Chính Hòa 9 (1688), có đi sứ, làm quan đến lại bộ tả thị lang Tước tử. Hiện
còn văn bia dựng tại Quốc Tử Giám, Hà Nội.
- Cụ Nguyễn Gia Cát, đỗ tiến sĩ khoa Đinh Mùi, niên hiệu Chiêu Thống
nguyên niên (1787).
4. Năm Nguyễn Công Hoan lên bốn tuổi (1907), đến ở với người bác
ruột là Nguyễn Đạo Quán, đỗ phó bảng khoa Mậu Tuất (1898) là đại khoa,
được bổ nhiệm tri huyện, sau thăng đến tri phủ. Ông Nguyễn Đạo Quán là tác
giả cuốn "Lịch sử 18 Hùng Vương" và cuốn "Hán văn khai tâm", do Tản Đà
thư cục xuất bản năm 1923.
- Lên sáu tuổi (1909) Nguyễn Công Hoan học chữ nho tại nhà, do bác
dạy. Lên bảy tuổi, bác dạy chữ quốc ngữ, học ca dao... Bác cho học chữ
Pháp vỡ lòng, nhờ thày ký rượu dạy, nhưng lại là học đánh đàn Quảng Đông
với thầy (Phù Ninh - Vĩnh Phú).
5. Năm 1912, Nguyễn Công Hoan 9 tuổi, lên Hà Nội học trường Bưởi,
lớp Đồng ấu (cours Enfantin), ăn ở trong trường.
1913, lên lớp Sơ đẳng B, ra trọ học ở số 8 phố Hàng Hài. (Từ cuối phố
Hàng Gai sang đầu Cửa Nam bây giờ gọi là Hàng Bông. Tên cũ chia theo
từng đoạn phố: Hàng Hài, Bông Đệm, Cây đa Cửa Quyền, Hàng Lờ). Tản Đà
thi sĩ ở xế cửa, nhà số 13. Từ đây quen biết Tản Đà và những nhà văn
thường lui tới đó.
1919, đậu sơ học Pháp - Việt nhưng không thi vào cấp Thành Chung,
trường Bưởi mà về quê.
1922, (17 tuổi), bỏ nhà ra Hải Phòng đi với người anh con bác Nguyễn
Đạo Quán, trọ ở bến Sáu Kho. Quen biết những người làm công Việt Nam và
Hoa kiều. Học các thứ nhạc cụ Phúc Kiến, viết "Quyết chí phiêu lưu" (10 trang
giấy học trò).
1923, trở về quê hương, viết truyện tai nghe mắt thấy khi ở phố phủ và
khi ở Hải Phòng. Lập gia đình. Vợ là Vũ Thị Yến, người làng Đôn Thư, huyện
Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, con gái một thầy thuốc có tiếng trong vùng, thuộc
gia đình nho giáo.
1924, (19 tuổi), ra Hà Nội học ôn để chuẩn bị thi vào trường Nam sư
phạm (école normale d’instituteurs ở phố Cửa Bắc, nay là trường trung cấp
đào tạo giáo viên mẫu giáo). Bắt đầu viết truyện dài "Phải gió". Tháng 7
ngừng viết để thi. Trúng tuyển, tháng 9 vào ở nội trú. Chủ nhận ra chơi nhà
Tản Đà, lúc này ông đã mở Tản Đà thư cục. Tiếp tục viết truyện "Phải gió"
vào những buổi tối khi lên phòng ngủ. Bè bạn xem, cười rúc rích, do đó giám
thị biết và tịch thu mất. Bắt đầu đưa đăng một vài truyện đã viết ở quê vào tập
"Truyện thế gian" của Tản Đà thư cục.
6-1923, (20 tuổi), ra ở ngoại trú. Tập hợp những truyện viết hồi ở trong
quê, chưa đăng trong "Truyện thế gian", thành một tập với tên sách là "Kiếp
hồng nhan", Tản Đà thư cục xuất bản, gồm 10 truyện ngắn: Kiếp hồng nhan,
Sóng vũ môn, Cụ đồ Ba, Cô hàng nước, Trần ai tri kỷ...
1924, sinh con trai đầu lòng, đặt tên là Nguyễn Tài Khoái.
1926, bắt đầu đi dạy học tại trường thị xã Hải Dương. Sinh con trai thứ
hai, đặt tên là Nguyễn Tài Đông. Nhà ở 18 phố Đông Thị.
1928, dạy học ở phủ Hồng Châu (Nam Sách bây giờ) cũng trong tỉnh
Hải Dương. Gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thái học. Sinh
con thứ ba, con gái, đặt tên là Nguyễn Tài Hồng.
1931, dạy học ở thị xã Lào Cai. Liên tục ra mắt bạn đọc những truyện
ngắn đăng dưới mục Xã hội ba đào ký, trong An Nam tạp chí của Tản Đà: Cô
Kếu gái tân thời, Báo hiếu trả nghĩa mẹ, Thế là mợ nó đi Tây. Viết Những
cảnh khốn nạn.
1934, xuất hiện bài phê bình của Trúc Hà đăng ở tạp chí Nam Phong
số tháng 3-1932, trong đó có một đoạn dài, lần đầu tiên đánh giá về Nguyễn
Công Hoan.
1935, dạy học ở phủ Kinh Môn.
Tháng 9-1935, dạy học ở thị xã Nam Định, nhà ở số 7 phố Chợ Rồng
(trên gác). Ra tập truyện ngắn thứ hai gồm 15 truyện, lấy tên truyện ngắn
đứng đầu sách làm tên tập truyện: Kép Tư Bền. Ngay khi sách vừa xuất hiện,
18 tờ báo đã đăng bài khen ngợi. Kép Tư Bền cũng là đề tài cho một cuộc bút
chiến giữa hai chủ trương về nghệ thuật. Phái nghệ thuật vị nhân sinh của Hải
Triều viết nhiều bài đanh thép (tháng 8-1935).
Nhà sách Hương Giang (Huế) tổ chức cuộc gặp mặt tác giả với bạn
đọc để tác giả ký tên tác phẩm của mình do độc giả đưa đến. Cuộc gặp gỡ
kéo dài trên bốn tiếng đồng hồ. Cuộc trưng cầu ý kiến của hiệu sách Hương
Giang, kết quả bạn đọc trả lời, tác giả Kép Tư Bền đang được bạn đọc hoan
nghênh nhất. Cũng những năm này, gặp gỡ những người tù chính trị phạm từ
nhà tù Côn Lôn được phóng thích về. Tham gia ban trật tự trong cuộc biểu
tình 1-5-1936 do Mặt trận Bình dân tổ chức tại Nhà Đấu xảo, Hà Nội (nay là
Cung văn hóa Việt - Xô, đường Trần Hưng Đạo). Liên lạc với công nhân các
nhà máy dệt, máy tơ. Được bầu vào Đoàn Hội trưởng chi đoàn Ánh Sáng,
một tổ chức công khai của Đảng. Hồ sơ bí mật của Sở Mật thám ghi về
Nguyễn Công Hoan: "Một tay Cộng sản nguy hiểm cần đưa ra khỏi nơi tập
trung thợ thuyền này". Nghị định của Nha học chính Bắc kỳ thuyên chuyển
Nguyễn Công Hoan đi trường mạn ngược một lần nữa, ra đảo Trà Cổ. Trước
ngày rời Nam Định, trong 16 ngày (1-16 tháng 7 năm 1938) viết xong tiểu
thuyết Bước đường cùng. Báo Tin Tức có bài khen Bước đường cùng. Nhiều
hội ái hữu thợ thuyền xin phép chuyển ra kịch để diễn. Mấy tháng sau, lệnh
cấm lưu hành Bước đường cùng ở Bắc Bộ, rồi Trung Kỳ, rồi Nam Kỳ và Ai
Lao, Cao Miên. Năm nghìn cuốn Bước đường cùng đã bán hết sạch.
1938, dạy học ở trường Trà cổ, thuộc tỉnh Móng Cái.
1939, dạy học ở trường Monguillot, thị xã Thái Binh. Nhà ở thuê, phố
Armand Rousseau (bên trên cầu Kiến Xương). Ngày 29-9-1939, nhà ông bị
khám và ông bị bắt tại trường, trong giờ lên lớp và bị giải sang sở Mật thám
Nam Định để tống giam. Báo cáo mật như sau: "Tội tàng trữ một tài liệu của
Đệ tam quốc tế, hiện vật là cuốn Staline. Thuộc điều 3 và 4 của sắc luật ngày
22-9-1939. Nhận xét: Ngày 29-9-1939, Hoan, 35 tuổi, giáo học ở Thái Bình,
đã bị phát hiện tàng trữ tập sách "Staline", là một tài liệu tuyên truyền cộng
sản. Đương thẩm xét". Nhờ sự can thiệp của Đảng Xã Hội Pháp (SFIO) mà
ông đã gia nhập, ông được ở tại ngoại và vì ông có giấy khai sinh là người Hà
Nội nên toà Nam án không có hiệu lực đối với ông. Bản án đả kết tội ông 3
năm tù, bị hủy bỏ.
Cũng năm 1939, viết Cái thủ lọn, cuốn tiểu thuyết bị cấm và không
được in. Tiếp đó, các truyện ngắn bị kiểm duyệt liên tiếp, xóa bỏ gần hết hoặc
xóa sạch: Êu êu mê-đo, Hồi còi báo động, Công dụng của cái miệng, Người
thứ ba, Chuộc cụ... Ông bị treo bút.
1945, bị bắt về tội chính trị và giam tại nhà tù của Hiến binh Nhật, nay là
số 39 đường Trần Hưng Đạo, Hà Nội.
19-8-1945, ra tù, làm Giám đốc Sở kiểm duyệt báo chí Bắc bộ, kiêm
Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ.
1946 (43 tuổi). Viết Tranh tối tranh sáng (bản thảo đang in thì toàn quốc
kháng chiến nên thất lạc). Rời thủ đô đi kháng chiến. Gia nhập quân đội nhân
dân Việt Nam... làm Chủ nhiệm tờ Quân nhân học báo, chủ bút báo Vệ quốc
quân, tiền thân của tờ Quân đội nhân dân hôm nay.
1947. Viết Xổng cũi (theo tài liệu của Nha Công an), ký tên Nguyễn Văn
Lung. 20-5-1947, con trai đầu lòng của ông hy sinh tại Nam Định.
1948 (45 tuổi). Được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam tại Chi bộ
Cục chính trị quân đội nhân dân Việt Nam. Viết truyện ngắn Bà lái đò Việt
Nam, đăng trên tạp chí Văn Nghệ. Em trai ông, Nguyễn Công Mỹ, Giám đốc
Nha Bình dân học vụ, hy sinh ở bến đò Nhật Lệnh, Hưng Yên.
1949. Chiều 19-12-1949, mẹ ông bị bom giặc sát hại ở nơi tản cư, làng
Hòa Xá (Hà Đông). Làm Giám đốc Trường Văn hóa quân nhân Lý Thường
Kiệt.
1952. Viết Bà Năm đi tản cư (chưa xuất bản). Làm ở Ban tu thư, Bộ
Giáo dục, soạn sách giáo khoa lịch sử.
1954. Trở về Thủ đô Hà Nội giải phóng, làm việc ở Hội Văn nghệ Việt
Nam. Viết một số truyện ngắn.
1955. Xuất bản tập truyện ngắn Nông dân và địa chủ, tiểu thuyết Tôi
quyết sống.
1956. Xuất bản tiểu thuyết Tranh tối tranh sáng (đã viết lại hoàn toàn).
1957 (54 tuổi). Hội Nhà văn Việt Nam thành lập, được bầu là Chủ tịch
Hội. Tháng 12-1957 viết xong sơ thảo cuốn Đời viết văn của tôi.
1961. Xuất bản tiểu thuyết Hỗn canh hỗn cư.
1962. Xuất bản tập bút ký Thăm nhà ngưòi anh em chiến đâu anh
dũng.
1963 (60 tuổi). Xuất bản bộ tiểu thuyết nhiều tập Đống rác cũ. Tập 1,
vừa mới ra đời đã bị cấm và thu hồi, đồng thời tập 2 đã có bản in rập thử đến
chương cuối, bị đình chỉ xuất bản.
1964 (21-3). Người con trai thứ hai của ông và là người con trai còn lại
duy nhất, đi công tác vào chiến trường miền Nam.
1965. Viết tiểu thuyết Anh con trai người bạn đọc ấy.
1967. Viết tiểu thuyết Nếu không có anh (theo yêu cầu của Cục địch
vận Quân đội nhân dân Việt Nam, để sẽ đưa vào vùng địch chiếm ở miền
Nam.
1968. Viết tiểu thuyết Trong ấy ngoài này... (theo yêu cầu của Cục địch
vận). Bắt đầu viết Hỏi chuyện các nhà văn.
1969. Hoàn thành bản thảo Đời viết văn của tôi. Tham gia Ban biên
soạn Từ điển tiếng Việt.
1970. Bắt đầu viết Nhớ gì ghi nấy (14-3-1970).
1971. Xuất bản Đời viết văn của tôi. Bặt tin của con trai (sau này mới
biết anh đã bị bắt và bị biệt giam từ 1970).
1973 (70 tuổi). Tái bản hai tập Truyện ngắn chọn lọc.
1975 (72 tuổi). Thăm miền Nam sau giải phóng, viết một số truyện
ngắn: Trong chuyến xe lam, Chuyện của cô ấy...
1977 (74 tuổi). Tiếp tục viết Chữ và nghĩa đăng trên các báo. Bài Về
chữ nhà (báo Văn nghệ số 21, ra ngày 21-5-1977).
6-6-1977, hồi 8 giờ 5 phút, từ trần tại Bệnh viện Hữu nghị Việt - Xô.
DANH MỤC TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN (Xếp theo thứ tự năm viết)
1920. Quyết chí phiêu lưu, Kiếp hồng nhan, Sóng vũ môn (20-21-5-
1920).
1921. Cụ đồ Ba, Cô hàng nước, Trần ai tri kỷ...
1923. Tôi nói dối bà thì tôi làm kiếp chó...
1929. Nhân tình tôi, Răng con chó của nhà tư sản (12-1929).
1930. Oẳn tà roằn (27-2), Hai thằng khốn nạn (7-6), Thật là phúc (9-10),
Lập Giòong (11-12).
1931. Ngựa người và người ngựa (11-2), Nỗi vui sướng của thằng
bé khốn nạn (25-3), Hà thành nữ sĩ, Một cái chương trình quyết thực hành, Sỹ
diện, Chương trình năm năm.
1932. Ông chủ báo chẳng bằng lòng (3-4), Thế là mợ nó đi Tây (18-5),
Xin chữ cụ Nghè (6-6), Gói đồ nữ trang (16-6), Thằng ăn cắp (17-9), Bố anh
ấy chết, Kìa! Con..., Nổi tam bành, Quan tham nửa giờ, Chuyện chó chết,
Chuyên trình năm năm, Cái khổ tâm của người viết "Xã hội ba đào ký". 1930-
1932.
1933. Giết nhau (25-3), Báo hiếu: trả nghĩa cha (28-3), Báo hiếu: trả
nghĩa mẹ (31-3), Cô Kếu- gái tân thời (30-5), Chồng cô Kếu "tân thời" (4-6),
Mất cái ví (21-7), Kép Tư Bền (27-7), Cái ví ấy của ai (19-9), Cái vốn để sinh
nhai (24-11), Samandji (13-12), Đàn bà là giống yếu, Bà chủ mất trộm, Tôi
yêu quý nương, Xà lù, Chúc Tết, Anh hùng tương ngộ, Con ma nghề, Đời
đáng chán, Rồi đôi ta tự vẫn cũng cam lòng, Mày ngu lắm, Người tiết phụ, Ai
không, Tôi xin hết lòng.
1934. Cái nạn ô tô (1-1934), Bà chủ mất trộm (2-1934), Đàn bà là giống
yếu (2-1934), Tôi chủ báo, anh chủ báo, nó chủ báo (16-4), Thầy cáu (3-7),
Một tấm gương sáng (7-1934), Cái thú tổ tôm (19-9), Bữa no... đòn (24-10),
Được chuyến khách, Bạc đẻ, Bạch định kính chi chi, Số đào hoa, Xác thịt,
Cho tròn bổn phận, Vâng! thưa cô..., Mũi tẹt, Godautre, Anh xẩm.
1935. Samandji (4-1), Samandji (2-5), Thanh! Dạ! (2-7), Nhân tài (19-9),
Thế cho nó chừa (7-1935), Mánh khóe (14-9), Xuất giá tòng phu (12-1935),
Nguội điện, Bạn quý, Số độc đắc, Bốp! Bốp! Be be..., Đoạn trường có ai qua
cầu mới hay, Kiếp tài tình, Một bài tính đó, Trái tim với khúc ruột, Thằng điên,
Nỗi lòng ai tỏ, Ngậm cười.
1936. Đào kép mới (5-8), Một tin buồn (27-7), Cái lò gạch bí mật (2-10),
Nghĩ thương người ăn gió nằm mưa, Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng, Con
lợn vàng, Phi phi.
1937. Thằng Quýt 1 (1-1937), Thằng Quýt 2 (1-1937), Quyền chủ (10-
7), Phành phạch (7-1937), Tôi cũng không hiểu tại làm sao (9-1937), Tôi cũng
không hiểu tại làm sao (30-9), Chiếc quan tài I, Chiếc quan tài II, Chiếc quan
tài III (30-9), Đồng hào có ma (12-1937), Hé! hé! hé!, Mở hàng, Năm mới, Bộ
ấm chén cổ, Tựa cửa chiều hôm, Vui vẻ, trẻ trung, Chuyến tài nam, Thằng ăn
cướp, Anh có vợ chưa, Tôi xà lù trời, Chiến tuyến bình, Giời.
1938. Cái nạn ô tô (1-1938), Con ngựa già (2-10), Ái tình tiểu thuyết,
Trần Thiện, Lê Văn Hà, Mưu làng bẹp, Mua bánh, Chiếc đèn pin, Biểu tình,
Phở, Đã bảo mà, Trên xe điện, Phúc tính, Srey keng, Mua lợn, Danh lợi
lưỡng toàn, Gánh khoai lang, Cái tốt của nhà đại văn hào, Tôi tự tử, Ngượng
mồm, Chuyện con mèo, Chính sách thân dân, Thịt người chết, Sáu mạng
người, Tinh thần thể dục, Sáng, chị phu mỏ, Giá ai cho cháu một hào, Nạn
râu, Đi giày, cấm chợ, Cho êm thấm, Đổi bạc, vẫn còn trịch thượng.
1939. Hai cái bụng (1-1939), Truyện con mèo (2-1939), Tấm giấy một
trăm (7-1939), Lại truyện con mèo (8-1939), Người vợ lẽ bạn tôi, Hồn quê,
Đánh bạc bịp, Nước gì, Tôi xin hết lòng, Con lợn vàng, Cậu ấy may lắm đấy,
Thụt két, Chiến tranh, Thiếu Hoa, Quả mít, Chừa thuốc phiện, Vừa láo vừa
bướng, Một đám cưới, Hồi còi báo động, Êu êu mê-đo.
1940. Người thứ ba (4-1940), Hai bữa cỗ, Những nhà đại văn hào,
Nhân và quả, Kẻ có tội, Hai mặt ấy, Rước sắc, Đọc văn, Phần hiếu, Một bài
học trong nghề xuất bản, Công dụng của cái miệng.
1941. Con ve (6-1941), Tầu đắm.
1948. Bà lái đò Việt Nam.
1955. Nắm cơm, Mười năm trong ngục, Địa chủ, Quanh cái xác chết,
Công dụng của giấy nhật trình cũ, Chị Liều, Cây mít, Bãi cứt trâu, Chị vú em,
Thằng Giảng với Đảng, Trung thành, Xóm bản Sim, Lưu manh, Chị Trân học,
Phấn khởi.
1957. Anh Dụ, Xây dựng.
1959. Người cặp rằng hầm xay lúa ở ngục Côn Lôn năm 1930.
1960. Những ngày tháng Tám ở Côn Đảo.
1975. Trong chuyến xe lam, Thủ tiêu tù chính trị, Nỗi ray rứt của một
đại tá tỉnh trưởng ngụy quyền, Chuyện cái ví, Chuyện của cô ấy.
NGUYỄN CÔNG HOAN DANH MỤC TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN
(Ghi theo năm xuất bản)*
1923. Kiếp hồng nhan – Tập truyện ngắn Tản Đà thư cục
1929. Vần chữ Việt Nam (sách giáo dục) – Văn Hải thư điếm xb
1932. Những cảnh khốn nạn (còn có tên: Tay trắng, trắng tay). – Tiểu
thuyết (tập I), Dương Xuân thư quán xb
1934. Chuyện chó chết - Xã hội ba đào ký, tập I Mai Lĩnh xb
1934. Người ngựa ngựa người - Xã hội ba đào ký, tập II Mai Lĩnh xb
1934. Hai thằng khốn nạn - Xã hội ba đào ký, tập III Mai Lĩnh xb
1935 . Kép Tư Bền (1931) - Tập truyện ngắn, Nhà in Tân Dân
1935. Đảng Rổ Bẫy - Truyện dài cho thiếu nhi Tân Dân xb
1936. Tắt lửa lòng (1933) - Tiểu thuyết - In lần thứ nhất - Tân Dân xb, In
lần thứ hai - Tân Dân xb, (Chuyển thể sang sân khấu cải lương).
1936 . Cô giáo Minh (1935) - Tiểu thuyết, Tân Dân xb.
1937. Hai thằng khốn nạn - Tập truyện ngắn, Tân Dân xb.
1937. Tấm lòng vàng (1934) - Tiểu thuyết, Tân Dân xb
1937. Tình khuyển mã - Tiểu thuyết, Tân Dân xb
1937. Một công trình vĩ đại - Tiểu thuyết, Tân Dân xb
1938. Đào kép mới - Tập truyện ngắn, Tân Dân xb.
1938 . Tơ vương - Tiểu thuyết, Tân Dân xb
1938. Bước đường cùng - Tiểu thuyết. (Bị kiểm duyệt cấm khi đã phát
hành hết 5.000 cuốn).
1939. Lá ngọc cành vàng (1934) - Tiểu thuyết, Tân Dân xb (Chuyển thể
sang sân khấu cải lương).
1939. Cái thủ lợn - Tiểu thuyết, Tân Dân xb (Bị kiểm duyệt cấm).
1939. Sóng vũ môn - Tập truyện ngắn. Tân Dân xb.
1939. Người vợ lẽ bạn tôi - Tập truyện ngắn. Tân Dân xb.
1940. Ông chủ báo - Tập truyện ngắn. Tân Dân xb.
1940. Nợ nần - Tiểu thuyết, Tân Dân xb
1940. Những cảnh khốn nạn (còn có tên là Chiếc nhẫn vàng - Tiểu
thuyết (tập II) Tân Dân xb
1941. Trên đường sự nghiệp - Tiểu thuyết, Tân Dân xb
1942. Tấm lòng vàng (kịch) - Tân Dân xb
1942. Một đứa con đã khôn ngoan - Truyện thiếu nhi Tân Dân xb
1943. Lệ Dung (1933) - Tiểu thuyết, Đời Mới xb
1943. Thanh Đạm (1942) - Tiểu thuyết, Đời Mới xb
1943. Nghịch cảnh - Tiểu thuyết, Đời Mới xb
1944. Ông chủ, bà chủ - Tiểu thuyết, Đời Mới xb
1933. Bơ vơ - Tiểu thuyết, Đời Mới xb
1944. Cô làm công - Tiểu thuyết, Đời Mới xb
1944. Danh tiết - Tiểu thuyết, Đời Mới xb
1944. Tấm lòng vàng - Tiểu thuyết, Đời Mới tái bản lần 1
1945. Cái thủ lợn -Tiểu thuyết, Đời Mới xb
1945. Người An Nam - Tiểu thuyết, Đời Mới xb
1946. Tranh tối tranh sáng - Tiểu thuyết, Nxb Sự thật (Kháng chiến toàn
quốc, bản thảo đang in dở bị thất lạc)
1946. Đồng chí Tơ - Tiểu thuyết. (In trong báo Sao Vàng từ số 2-21
năm 1946)
1947. Xổng cũi - Tiểu thuyết. Tủ sách Vệ quốc quân xb
1951. Tấm lòng vàng - Tiểu thuyết, Đời Mới tái bản lần 1
1952. Bà Năm đi tản cư - Tiểu thuyết.
1955. Nông dân và địa chủ - Tập truyện ngắn. Nxb Văn Nghệ.
1955. Tôi quyết sống -Tiểu thuyết. Nxb Văn Nghệ.
1955. Bước đường cùng - Tiểu thuyết. Nxb Văn nghệ tái bản lần 1
1956. Tranh tối tranh sáng (Viết lần thứ hai) - Tiểu thuyết. Nxb Văn
Nghệ tái bản lần 2
1956. Bước đường cùng -Tiểu thuyết. Nxb Hội Nhà văn tái bản lần 2
1957. Truyện ngắn chọn lọc - Tập truyện ngắn. Tập 1. Nxb Hội Nhà
văn.
1958. Truyện ngắn chọn lọc - Tập truyện ngắn. Tập 2. Nxb Hội Nhà
văn.
1958. Bước đường cùng - Tiểu thuyết. Nxb Văn học tái bản lần 3
1961. Hỗn canh hỗn cư - Tiểu thuyết. Nxb Văn học.
1962. Thăm nhà người anh em chiến đấu anh dũng - Bút ký. Nxb Văn
học.
1963. Đống rác cũ - Tiểu thuyết (tập 1). Nxb Văn học. (Bị cấm).
1971. Đời viết văn của tôi - Nxb Văn học
1973. Truyện ngắn chọn lọc - Tập I. Nxb Văn học
1974. Truyện ngắn chọn lọc - Tập II. Nxb Văn học
1977. Hỏi chuyện các nhà văn - Nxb Tác Phẩm Mới
1978. Nhớ và ghi (trích Nhớ gì ghi nấy 14-3-1970) - Nxb Tác Phẩm Mới
1983. Tuyển tập Nguyễn Công Hoan - Tập I - Nxb Văn Học
1984. Tuyển tập Nguyễn Công Hoan (trong đó có: Anh con trai người
bạn đọc ấy 28-12-65) - Tập II - Nxb Văn học - Tiểu thuyết.
1986. Tuyển tập Nguyễn Công Hoan (trong đó trích: Nhớ gì ghi nấy 14-
3-1970) - Tập II - Nxb Văn học
1988. Lá ngọc cành vàng - Tiểu thuyết. Tái bản lần 1. Nxb Văn Nghệ
Tp. HCM
1988. Bóng người qua (tên tác giả đặt: Trên đường sự nghiệp) - Tiểu
thuyết. Tái bản lần 1. Nxb Văn Nghệ tp. HCM
1988. Ngựa người người ngựa - Tập truyện ngắn. Nxb Văn Học
1989. Một kiếp người (tên tác giả đặt: Nếu không có anh. 1967) - Tiểu
thuyết Nxb Hà Nội.
1989. Tắt lửa lòng - Tiểu thuyết. Tái bản lần 1. Nxb Văn Nghệ T/P Hồ
Chí Minh.
1989. Cái thủ lợn - Tiểu thuyết. Tái bản lần 1. Nxb Hải Phòng
1989. Lá ngọc cành vàng - Chuyển thể phim vidêô
1989. Đống rác cũ (1963) - 4 tập - Tiểu thuyết. Nxb Thanh Niên.
1990. Trên đường sự nghiệp - Tiểu thuyết. Tái bản lần 2. Trường cao
đẳng sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.
1990. Cô giáo Minh - Tiểu thuyết. Tái bản lần 1. Nxb Cửu Long.
1991. Nợ nần - Tiểu thuyết. Tái bản lần 1. Nxb Hà Nội.
1991. Tấm lòng vàng - Tiểu thuyết. Tái bản lần 2. Nxb Văn Nghệ T/P
Hồ Chí Minh.
1992. Nguyễn Công Hoan - Chân dung văn học Tiểu luận chọn lọc.
Trường viết văn Nguyễn Du xuất bản.
1993. Nhớ về một thuở (trích Nhớ gì ghi nấy) - Nxb Hà Nội.
1993. Tơ vương - Tiểu thuyết. Tái bản lần 1. Nxb Hà Nội.
1993. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan - Nxb Hà Nội. Tái bản.
1993. Tấm lòng vàng - Tiểu thuyết. Tái bản lần 3. Nxb Hà Nội
1993. Nguyễn Công Hoan - Nhà văn hiện thực lớn - Nxb Hội Nhà văn.
1994. Đời viết văn của tôi - Tái bản lần 1 Nxb Hội Nhà văn.
1995. Tơ vương- Tiểu thuyết. Tái bản lần 2. Nxb Văn Nghệ T/P Hồ Chí
Minh.
1995. Bước đường cùng - Tiểu thuyết. Tái bản lần 4. Nxb Văn Nghệ
T/P Hồ Chí Minh.
1995. Ngựa người, người ngựa- Tập truyện ngắn Nxb Văn Nghệ T/P
Hồ Chí Minh.
1995. Tấm lòng vàng - Tiểu thuyết. Tái bản lần 4. Nxb Văn Học.
1996. Truyện ngắn tuyển chọn - (Tập I) - Nxb Văn Học
1996. Truyện ngắn tuyển chọn (Bổ sung những truyện mới sưu tầm) -
(Tập II) - Nxb Văn Học.
1996. Nợ nần - Tiểu thuyết. Tái bản lần 2. Nxb Văn Nghệ T/P Hồ Chí
Minh.
1996. Tắt lửa lòng - Tiểu thuyết. Tái bản lần 2. Nxb Văn Học
1996. Người cặp rằng hầm xay lúa - Nxb Kim Đồng
1997. (Tủ sách chọn lọc - Nguyễn Công Hoan - Nhân kỷ niệm 95 năm
sinh nhà văn): - Bước đường cùng - Nxb Hội Nhà văn Tiểu thuyết. Tái bản lần
5.
- Lá ngọc cành vàng - Tiểu thuyết. Tái bản lầh 2
- Trên đường sự nghiệp - Tiểu thuyết. Tái bản lần 3
- Những cảnh khốn nạn - (Tập I) Tiểu thuyết - Tái bản lần 1
1998. (Tủ sách Nguyễn Công Hoan - Nhân kỷ niệm 95 năm sinh nhà
văn)
- Tắt lửa lòng - Tiểu thuyết. Tái bản lần 3
- Đời viết văn của tôi - Tái bản lần 2
- Cô giáo Minh - Tiểu thuyết. Tái bản lần 1
- Đống rác cũ (Tập I) - Tiểu thuyết. Tái bản lần 1
- Đống rác cũ (Tập II) - Tiểu thuyết. Tái bản lần 1
- Lá ngọc cành vàng - Tiểu thuyết. Tái bản lần 3
1998. Một đứa con đã khôn ngoan (Tập truyện cho thiếu nhi: Một đứa
con đã khôn ngoan - Đồng trinh Gia Long - Đảng Rổ Bẫy (Tiểu thuyết) - Tấm
lòng vàng (Kịch) - Nxb Trẻ - T/P Hồ Chí Minh.
1998. Cái thủ lợn - Tiểu thuyết. Tái bản lần 2. Nxb Hải Phòng
1998. Tấm lòng vàng - Tiểu thuyết. Tái bản lần 5. Tủ sách Vàng. Nxb
Kim Đồng.
1998. Ông chủ - Tiểu thuyết. Tái bản lần 1. Nxb Hồ Chí Minh.
1998. Nhớ gì ghi nấy (Toàn tập) - Nxb Hội Nhà văn.
1998. Nghịch cảnh - Tiểu thuyết. Tái bản lần 1. Nxb Văn Nghệ T/P Hồ
Chí Minh.
1999. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan - Tủ sách Vàng - Nxb Kim Đồng
(in lần 1 - lần 2)
1999. Bước đường cùng - Tiểu thuyết. Tủ sách Vàng - Nxb Kim Đồng.
Tái bản lần 6
1999. Bước đường cùng - Tiểu thuyết. Tái bản lần 7. Nxb Văn Nghệ
T/P Hồ Chí Minh.
1999. Tuyển tập truyện ngắn (Tập I) - Nxb Hội Nhà văn.
1999. Tuyển tập truyện ngắn (Tập II) - Nxb Hội Nhà văn
1999. Nợ nần - Tiểu thuyết. Tái bản lần 3. Nxb Văn Nghệ T/P Hồ Chí
Minh
2000. Tuyển tập tiểu thuyết -I - Nxb Hội Nhà văn
* Bước đường cùng - Tái bản lần 8
* Cái thủ lợn - Tái bản lần 3
2000. Tuyển tập tiểu thuyết-II - Nxb Hội Nhà văn
* Lá ngọc cành vàng - Tái bản lần 4
* Tấm lòng vàng - Tái bản lần 6
* Trên đường sự nghiệp - Tái bản lần 4
2000. Tuyển tập tiểu thuyết-III - Nxb Hội Nhà văn
* Tranh tối tranh sáng - Tái bản lần 1
2000. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan - Tái bản lần 3. Tủ sách Vàng -
Nxb Kim Đồng
2000. Nhớ và ghi - Nxb Hải Phòng
2001. Đống rác cũ (Toàn tập) - Tiểu thuyết. Tái bản lần 2. Nxb Hội Nhà
văn
2001. Bước đường cùng - Tiểu thuyết. Tái bản lần 9. Nxb Văn Học
2002. Ông chủ - Bà chủ - Cô làm công (In chung tập) - Tiểu
thuyết. Tái bản lần 1. Nxb Thanh Niên
2002. Danh tiết - Tiểu thuyết. Tái bản lần 1. Nxb Thanh Niên
2002. Bơ vơ - Tiểu thuyết. Tái bản lần 1. Nxb Hải Phòng
2002. Lệ Dung - Tiểu thuyết. Tái bản lần 1. Nxb Hải Phòng
2002. Nhân kỷ niệm 100 năm sinh nhà văn Nguyễn Công Hoan (1903 -
2003), ấn hành các tập tác phẩm. - Nxb Thanh Niên
* Tập I: Tiểu thuyết
- Hỗn canh hỗn cư - Tái bản lần 1
- Cái thủ lợn - Tái bản lần 4
- Nợ nần – Tái bản lần 4
* Tập II: Tiểu thuyết.
- Tơ vương - Tái bản lần 3
- Thanh đạm - Tái bản lần 1
- Những cảnh khốn nạn - Tái bản lần 2
* Tập III: Nguyễn Công Hoan, nhà văn hiện thực xuất sắc
* Tập VI: Nguyễn Công Hoan với nghề văn
* Ghi chú: Từ năm 1977 - 2002 (25 năm sau khi nhà văn yên nghỉ) đã
xuất bản 79 tác phẩm trong đó 16 tác phẩm lần đầu xuất bản và 22 tác phẩm
gồm tiểu thuyết và nhiều truyện ngắn, tập văn mới sưu tầm được để lần đầu
tái bản.
MỤC LỤCLời nói đầu
Lời người biên soạn
PHẦN ICHÂN DUNG PHÁC THẢO NGUYỄN CÔNG HOAN
NHÀ VĂN HIỆN THỰC LỚN, BẬC THẦY TRUYỆN NGẮN TRÀO PHÚNG
TRÚC HÀ - Một ngọn bút mới - ông Nguyễn Công Hoan
NHƯ PHONG - Một nhà văn xuất sắc của dòng văn học hiện thực phê
phán
VŨ NGỌC PHAN - Nguyễn Công Hoan và những truyện ngắn của anh
PHAN CỰ ĐỆ - Nguyễn Công Hoan
NGUYỄN HOÀNH KHUNG - Nguyễn Công Hoan
TÔ HOÀI - Ngòi bút nhà văn Nguyễn Công Hoan, lực lượng, dũng
khí, lạ lùng
HỒNG CHƯƠNG - Một nhà văn tiêu biểu của chủ nghĩa hiện thực phê
phán
N.I.NICULIN - Nhà văn Nguyễn Công Hoan
TRƯƠNG CHÍNH - Nguyễn Công Hoan
KỶ NIỆM 90 NĂM SINH NHÀ VĂN LỚN NGUYỄN CÔNG HOAN - Một
nhân cách lớn, một sự nghiệp và những bài học lớn
NGUYỄN MINH CHÂU - Nhà văn Nguyễn Công Hoan
PHONG LÊ - Nguyễn Công Hoan
BÙI VIỆT THẮNG - Nguyễn Công Hoan - văn và người
VƯƠNG TRÍ NHÀN - Những cái nháy mắt tinh nghịch
HOÀNG NHƯ MAI - Có nhiều Nguyễn Công Hoan trong một Nguyễn
Công Hoan
HOÀNG TRUNG THÔNG - Nguyễn Công Hoan như tôi biết
VŨ NGỌC PHAN - Nguyễn Công Hoan
VIỆN VĂN HỌC - Sáng tác và tác phẩm của Nguyễn Công Hoan trước
Cách mạng
JAN MUCKA - Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn Sê
Khốp
NGUYỄN THANH TÚ - Chất hài trong câu văn Nguyễn Công Hoan
NGUYỄN THANH TÚ - Lời văn song điệu trong truyện ngắn của
Nguyễn Công Hoan
NGUYỄN THANH TÚ - Kịch hoá trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan
TRẦN VĂN HIẾU - Chất trí tuệ của tiếng cười và óc châm biếm tinh
quái của Nguyễn Công Hoan
NGUYỄN HOÀNH KHUNG - Nguyễn Công Hoan
PHẦN IITÁC PHẨM NGUYỄN CÔNG HOAN THÀNH CÔNG VÀ ĐÓNG GÓP
TRƯƠNG CHÍNH - Đọc tuyển tập Nguyễn Công Hoan
NGUYỄN ĐĂNG MẠNH - Đọc lại truyện ngắn trào phúng của Nguyễn
Công Hoan
NGUYỄN ĐỨC ĐÀN - Nguyễn Công Hoan
HOÀI THANH - Nhân xem quyển Kép Tư Bền
HẢI TRIỀU - Kép Tư Bền, một tác phẩm thuộc về cái triều lưu "nghệ
thuật vị dân sinh" ở nước ta
HÀ MINH ĐỨC - Cần xác định lại giá trị của "Mười năm" và "Đống rác
cũ"
LÊ MINH QUỐC - Tấm lòng của nhà văn Nguyễn Công Hoan dành
cho trẻ em
TRƯƠNG CHÍNH - Bước đường cùng, tiểu thuyết của Nguyễn Công
Hoan
NAM MỘC - Đọc lại Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan
NAM MỘC - Hỗn canh, hỗn cư của Nguyễn Công Hoan
NGUYỄN THỊ NAM - Đọc lại "Thanh đạm"
LÊ MINH - Sức trẻ của một cây bút
MAI HƯƠNG - Cảm nhận của một người đọc trẻ
LÊ MINH - Thay lời bạt: Những phúc lặng trong một đời văn
Nhà văn Nguyễn Công Hoan niên biểu và tác phẩm
---//---
NGUYỄN CÔNG HOANCÂY BÚT HIỆN THỰC XUẤT SẮC
(Tái bản có bổ sung)
VŨ THANH VIỆT (Tuyển chọn và biên soạn)
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - THÔNG TIN
43 Lò Đúc - Hà Nội
Chịu trách nhiệm xuất bản: VŨ AN CHƯƠNG
Chịu trách nhiệm bản thảo: PHẠM NGỌC LUẬT
Biên tập: VŨ THANH VIỆT
Trình bày sách: NGỌC BÁCH
Sửa bản in: THẢO LINH
Vẽ bìa: LƯU CHÍ CƯƠNG
In 700 cuốn, khổ 14,5 x 20,5 cm. Tại Trường THKT In. Giấy phép xuất bản số:
868-XP-QLXB/32-VHTT. In xong và nộp lưu chiểu quý IV – 2003.