nghiên cứu địa mạo phục vụ quản lý môi trƣờng bờ biển tỉnh quảng
TRANSCRIPT
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------
Trần Văn Bình
NGHIÊN CỨU ĐỊA MẠO PHỤC VỤ QUẢN LÝ MÔI TRƢỜNG
BỜ BIỂN TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Hà Nội – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------
Trần Văn Bình
NGHIÊN CỨU ĐỊA MẠO PHỤC VỤ QUẢN LÝ MÔI TRƢỜNG
BỜ BIỂN TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành: Địa mạo và Cổ địa lý
Mã số: 60.44.0218
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. VŨ VĂN PHÁI
Hà Nội – 2014
LỜI CẢM ƠN
Luận văn đƣợc hoàn thành tại bộ môn Địa mạo - Địa lý và môi trƣờng biển,
Khoa Địa lý, trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên, dƣới sự hƣớng dẫn của PGS. TS.
Vũ Văn Phái. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc sự hƣớng dẫn tận tình của Thầy
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Đồng thời, em xin chân thành cảm ơn tập thể các thầy giáo, cô giáo trong
khoa Địa lý đã trực tiếp giảng dạy và hƣớng dẫn em trong suốt những năm vừa qua.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu và quan trọng của các thầy
giáo: PGS. TS. Đặng Văn Bào, PGS. TS. Nguyễn Hiệu, GS. TS. Đào Đình Bắc và
GS. TS. Nguyễn Cao Huần, đã hƣớng dẫn và tạo điều kiện cho em trong quá trình
học tập, cũng nhƣ nghiên cứu khoa học để hoàn thành luận văn.
Tác giả bày tỏ lòng cảm ơn tới Ban lãnh đạo Viện, tập thể các cán bộ khoa
học phòng Địa chất - Địa mạo biển, phòng Vật lý biển, Viện Hải dƣơng học đã quan
tâm giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình học tập, nghiên cứu hoàn
thiện luận văn.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn tới TS. Lê Đình Mầu, chủ nhiệm đề tài
“Nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc bảo vệ bờ biển, cửa sông phục vụ việc quản
lý, phát triển bền vững vùng ven biển tỉnh Quảng Nam”, đã cho phép sử dụng số
liệu của đề tài.
Tác giả xin chân thành cảm ơn sự góp ý, trao đổi của các nhà khoa học trong
và ngoài cơ quan, các bạn đồng nghiệp trong quá trình hoàn thiện luận văn.
Tác giả xin gửi lòng biết ơn sâu sắc nhất đến gia đình và bạn thân, những
ngƣời đã đồng hành cùng tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thiện luận văn.
Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 2014
HỌC VIÊN
Trần Văn Bình
i
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2. Mục tiêu................................................................................................................... 2
3. Nội dung và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 2
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ................................................................................. 2
5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................. 3
6. Cơ sở tài liệu ........................................................................................................... 3
7. Cấu trúc luận văn .................................................................................................... 4
Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ VÀ CÁC PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .... 5
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ........................................................... 5
1.2. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ............................................ 8
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới ............................................................ 8
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc có liên quan về khu vực .................... 13
1.2.3. Nghiên cứu địa mạo phục vụ quản lý môi trƣờng bờ biển ..................... 17
1.3. CƠ SỞ PHƢƠNG PHÁP LUẬN ................................................................... 20
1.4. CÁC PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................................................ 22
1.4.1. Nhóm các phƣơng pháp địa chất, địa mạo .............................................. 22
1.4.2. Phƣơng pháp viễn thám và GIS .............................................................. 24
1.4.3. Phƣơng pháp khảo sát và đo đạc ............................................................. 25
1.4.4. Phƣơng pháp đƣờng cong đẳng sâu và phân tích cán cân trầm tích ....... 26
1.4.5. Phƣơng pháp bản đồ ................................................................................ 26
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA MẠO KHU VỰC NGHIÊN CỨU ............................. 28
2.1. CÁC NHÂN TỐ THÀNH TẠO ĐỊA HÌNH ................................................. 28
2.1.1. Khái quát về đặc điểm địa hình ............................................................... 28
2.1.2. Các nhân tố quy định đặc điểm hình thái và cấu trúc ............................. 29
2.2. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA MẠO KHU VỰC NGHIÊN CỨU .................................... 38
2.2.1. Nguyên tắc thành lập bản đồ địa mạo ..................................................... 38
2.2.2. Đặc điểm địa mạo ................................................................................... 39
A. ĐỊA HÌNH LỤC ĐỊA VEN BIỂN ............................................................... 41
B. ĐỊA HÌNH ĐÁY BIỂN VEN BỜ ................................................................ 51
C. CÁC KIỂU BỜ BIỂN .................................................................................. 58
2.3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN ĐỊA HÌNH TRONG KỶ ĐỆ TỨ ... 59
ii
2.3.1. Pha biển tiến sau Băng hà lần cuối ......................................................... 60
2.3.2. Pha biển lùi Holocen muộn ..................................................................... 62
2.3.3. Pha phát triển địa hình trong giai đoạn hiện nay .................................... 63
Chương 3: PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH BIẾN ĐỔI BỜ BIỂN...... 64
3.1. CÁC QUÁ TRÌNH THỦY THẠCH ĐỘNG LỰC ........................................ 64
3.1.1. Các đặc trƣng sóng, gió và dòng chảy ven bờ khu vực nghiên cứu ....... 64
3.1.2. Nguồn cung cấp trầm tích ....................................................................... 66
3.1.3. Quá trình vận chuyển trầm tích ............................................................... 67
3.2. HIỆN TRẠNG BIẾN ĐỔI BỜ BIỂN VÀ CÁC CỬA SÔNG ...................... 69
3.2.1. Hiện trạng và xu thế biến đổi bờ bãi biển ............................................... 69
A. Khu vực bãi biển Cửa Đại (Hội An) ........................................................ 70
B. Khu vực Cửa Lở và bãi Bà Tình (Núi Thành) ......................................... 76
3.2.2. Đặc điểm biến đổi địa hình đáy các khu vực cửa sông ........................... 84
3.2.3. Cán cân vật liệu trên mỗi đoạn bờ trong khu vực nghiên cứu ................ 88
3.3. ĐÁNH GIÁ TAI BIẾN DO XÓI LỞ - BỒI TỤ ............................................ 90
3.3.1. Biến động đƣờng bờ do quá trình xói lở - bồi tụ từ năm 1965 đến nay.. 90
A. Khu vực Cửa Đại (Hội An) ...................................................................... 93
B. Khu vực Cửa Lở và bãi Bà Tình (Núi Thành) ....................................... 101
3.3.2. Khai thác tài nguyên và tai biến địa mạo bờ biển ................................. 108
3.3.3. Những nguyên nhân gây ra xói lở và hậu quả ...................................... 111
3.4. ĐỊA MẠO VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ MÔI TRƢỜNG BỜ ............................ 113
3.4.1. Ảnh hƣởng của tai biến đến cảnh quan môi trƣờng vùng bờ ................ 113
3.4.1. Đia mạo ứng dụng trong quản lý môi trƣờng bờ ................................. 115
3.5. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP GIẢM NHẸ CÁC TAI BIẾN PHỤC VỤ QUẢN LÝ
MÔI TRƢỜNG BỜ...................................................................................... 117
3.5.1. Phân vùng cảnh báo tai biến địa mạo bờ biển ....................................... 117
3.5.2. Các giải pháp giảm nhẹ tai biến phục vụ quản lý môi trƣờng và phát . 121
triển bền vững vùng bờ tỉnh Quảng Nam ........................................................ 121
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 125
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 127
iii
CÁC THUẬT NGỮ, KÍ HIỆU VIẾT TẮT
DGPS Differential Global Positioning System (Hệ
định vị toàn cầu vi sai)(Promark2)
ĐB-TN Đông Bắc-Tây Nam
ĐB Đông bắc
GIS Geographic Informations System (Hệ thông
tin địa lý)
H Độ cao
IPCC Ủy ban liên chính phủ về Biến đổi khí hậu
KV Khu vực
MC Mặt cắt
m Mét
nnk Nhiều ngƣời khác
NOAA National Oceanic and Atmospheric
Administration (Cục quản lý Hải dương và
Khí Quyển Hoa Kỳ)
TB Trung bình
TB-ĐN Tây Bắc-Đông Nam
TN Tây nam
QLTHĐB Quản lý tổng hợp đới bờ
iv
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Sơ đồ vị trí khu vực nghiên cứu .................................................................. 4
Hình 1.2: Sơ đồ biểu diễn các thuật ngữ về bờ biển đƣợc sử dụng [29]. .................... 6
Hình 1.3: Sơ đồ khái quát mối quan hệ giữa các yếu tố ở đới bờ biển [28] ............. 19
Hình 1.4: Mô hình nghiên cứu và các bƣớc thực hiện .............................................. 27
Hình 2.1: Sơ đồ phân bố các đới cấu trúc địa chất kiến tạo vùng nghiên cứu .......... 29
Hình 2.3: Hoa gió mùa đông (A) và mùa hè (B) tại trạm Đà Nẵng [2]. ................... 32
Hình 2.4: Hoa gió mùa chuyển tiếp đông sang hè (A) và mùa hè sang đông (B) .... 32
Hình 2.5: Bản đồ địa mạo dải ven biển tỉnh Quảng Nam ......................................... 40
Hình 2.12: Vách mài mòn bị ngập nƣớc thể hiện trên băng đo sâu hồi âm từ độ sâu
4-15m tại vùng biển xã Tam Quang (08/06/2014) .................................................... 56
Hình 2.13: Đƣờng bờ biển trên thềm lục địa Sunda vào 21.000 năm trƣớc (trái) và
vào 4.2000 năm trƣớc (phải) [62] ............................................................................. 60
Hình 3.1: Hoa gió thời kỳ gió mùa đông bắc tháng 11 (trái) và gió mùa tây nam
tháng 7 (phải) tại trạm Đà Nẵng (1977-1997) [27] ................................................... 64
Hình 3.2: Hoa sóng tính toán ngoài khơi khu vực Quảng Nam (trái), tháng 1 (giữa)
và tháng 8 (phải) (1987-2012) [27] ........................................................................... 65
Hình 3.3: Đặc trƣng dòng chảy thời kỳ gió mùa đông bắc, pha triều lên (trên trái) và
pha triều xuống (trên phải); thời kỳ gió mùa tây nam, pha triều lên (dƣới trái) và pha
triều xuống (dƣới phải) [27]. ..................................................................................... 66
Hình 3.4: Các nguồn trầm tích cần xét đến khi đánh giá cơ chế vận chuyển [71] ... 67
Hình 3.5: Bar cát ngầm trên ảnh landsat ở khu vực Cửa Đại 2009 (trên trái) và 2013
(trên phải); ảnh Google Earth khu vực Cửa Lở 2011 (dƣới trái) và 2014 (dƣới) ..... 68
Hình 3.6: Sơ đồ vị trí đo trắc diện địa hình bãi biển tỉnh Quảng Nam ..................... 69
Hình 3.9: Trắc diện địa hình bãi biển tại (MC.1-1), phía bắc phƣờng Cửa Đại ....... 73
Hình 3.11: Trắc diện địa hình bãi biển tại mặt cắt 2 (MC.2-2), phƣờng Cửa Đại .... 74
Hình 3.13: Trắc diện địa hình bờ biển tại mặt cắt 3 (MC.3-3), phƣờng Cửa Đại ..... 75
Hình 3.14: Trắc diện địa hình bãi biển tại mặt cắt 4 (MC.4-4), phƣờng Cửa Đại .... 75
Hình 3.15: Bờ biển phƣờng Cửa Đại 2004 (trái) và 2014 (phải) .............................. 76
Hình 3.18: Trắc diện địa hình bãi biển tại mặt cắt 5 (MC.5-5), bắc xã Tam Tiến.... 78
Hình 3.19: Trắc diện địa hình bãi biển tại mặt căt 6 (MC.6-6), nam xã Tam Tiến .. 79
Hình 3.20: Trắc diện địa hình bãi biển tại mặt cắt 7 (MC.7-7), nam xã Tam Hòa ... 79
Hình 3.22: Trắc diện địa hình bãi biển tại mặt cắt 8 (MC.8-8), bờ phía đông Cửa Lở
thuộc khu vực phía tây bắc xã Tam Hải, Núi Thành ................................................ 81
Hình 3.23: Trắc diện địa hình bãi tại mặt cắt 8a (MC.8a-8), khu vực bờ phía đông
nam Cửa Lở, xã Tam Hải .......................................................................................... 81
Hình 3.25: Trắc diện địa hình bãi biển tại mặt cắt 9 (MC.9-9), KV bãi Bà Tình ..... 82
v
Hình 3.27: Mô phỏng tính toán biển đổi khối lƣợng trầm tích địa hình đáy ............ 84
Hình 3.28: Mô hình số độ sâu địa hình đáy khu vực Cửa Đại (6/2014) ................... 84
Hình 3.29: Sơ đồ vị trí mặt cắt và vùng tính biến đổi địa hình đáy KV Cửa Đại ..... 85
Hình 3.30: Biến động địa hình đáy khu vực Cửa Đại tại mặt cắt AB-BC-CD. ........ 85
Hình 3.31: Sơ đồ vị trí mặt cắt và vùng tính biến đổi địa hình đáy ở KV Cửa Lở ... 86
Hình 3.32: Biến động địa hình đáy khu vực Cửa Lở tại mặt cắt AB-BC ................. 86
Hình 3.34: Sơ đồ biến đổi đƣờng bờ biển tỉnh Quảng Nam thời kỳ 1965 - 2013. (a-
khu vực Cửa Đại (Hội An); b - khu vực Cửa Lở và bãi Bà Tình (Núi Thành)......... 92
Hình 3.35: Sơ đồ xói lở-bồi tụ tại KV Cửa Đại giai đoạn 1965–1973 ..................... 94
Hình 3.36: Sơ đồ xói lở-bồi tụ tại KV Cửa Đại giai đoạn 1973–1989 ..................... 95
Hình 3.37: Sơ đồ xói lở-bồi tụ tại KV Cửa Đại giai đoạn 1989–2000 ..................... 96
Hình 3.38: Sơ đồ xói lở-bồi tụ tại KV Cửa Đại giai đoạn 2000-2009 ...................... 97
Hình 3.40: Sơ đồ xói lở-bồi tụ tại KV Cửa Đại giai đoạn 2009-2013 ...................... 99
Hình 3.41: Sơ đồ xói lở-bồi tụ tại KV Cửa Đại thời kỳ 1965-2013 ....................... 100
Hình 3.42: Biến động đƣờng bờ tại KV Cửa Đại (Hội An) vào các thời điểm khác
nhau từ năm 1965-2003 [24] ................................................................................... 100
Hình 3.43: Sơ đồ xói lở-bồi tụ KV Cửa Lở và bãi Bà Tình giai đoạn 1965-1973 . 102
Hình 3.44: Sơ đồ xói lở-bồi tụ KV Cửa Lở và bãi Bà Tình giai đoạn 1973–1989 . 103
Hình 3.45: Sơ đồ xói lở-bồi tụ KV Cửa Lở và bãi Bà Tình giai đoạn 1989-2000 . 104
Hình 3.46: Sơ đồ xói lở-bồi tụ KV Cửa Lở và bãi Bà Tình giai đoạn 2000-2009 . 105
Hình 3.48: Sơ đồ xói lở-bồi tụ KV Cửa Lở và bãi Bà Tình giai đoạn 2009-2013 . 107
Hình 3.49: Sơ đồ xói lở-bồi tụ KV Cửa Lở và bãi Bà Tình thời kỳ 1965-2013 ..... 108
Hình 3.55: Mô phỏng quá trình xói lở bờ biển trong điều kiện thời tiết cực đoan . 113
Hình 3.59: Sơ đồ phân vùng cảnh báo tai biến địa mạo bờ biển tỉnh Quảng Nam . 118
Hình 3.61: Trƣờng độ cao sóng hữu hiệu tại vùng biển bãi Bà Tình (gió đông bắc, V
= 9m/s; kè nổi) [27] ................................................................................................. 124
vi
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Một số nguyên nhân gây xói lở bờ biển và hậu quả của chúng [17]. ....... 20
Bảng 1.2 : Tƣơng quan giữa kích thƣớc hạt và độ dốc bãi [43] ............................... 24
Bảng 2.1: Đặc trƣng sóng do các cơn bão ngoài khơi vùng bờ Hội An gây ra. ....... 34
Bảng 2.2: Tuổi và tốc độ tích tụ trầm tích tại một số điểm trên thềm lục địa Miền
Trung Việt Nam [63] ................................................................................................. 61
Bảng 2.3: Tƣớng trầm tích và độ sâu dự đoán vào lúc thành tạo chúng [64] ........... 61
Bảng 3.1: Vị trí đo các trắc diện địa hình bãi biển tại Quảng Nam .......................... 70
Bảng 3.2: Thành phần độ hạt mẫu trầm tích bãi biển tại các (MC) KV Cửa Đại ..... 71
Bảng 3.3: Thành phần độ hạt mẫu trầm tích bãi biển tại các (MC) KV Cửa Lở ...... 78
Bảng 3.4: Kết quả biến đổi lƣợng trầm tích đáy KV cửa sông (qua 03 đợt đo). ...... 86
Bảng 3.5: Lƣợng bồi tích thu hoặc chi tại các trắc diện bãi (qua 03 đợt đo) ............ 89
Bảng 3.6: Kết quả đánh giá biến đổi bờ biển KV Cửa Đại cho từng giai đoạn ........ 93
Bảng 3.7: Kết quả đánh giá biến đổi bờ biển KV Cửa Đại thời kỳ 1965–2013 ..... 101
Bảng 3.8: Kết quả đánh giá biến đổi bờ biển KV Cửa Lở và bãi Bà Tình ............. 101
Bảng 3.9: Kết quả đánh giá biến đổi bờ biển KV Cửa Lở thời kỳ từ 1965–2013 .. 108
Bảng 3.10: Đánh giá tổng hợp mức độ xảy ra nguy cơ tai biến xói lở-bồi tụ tại dải
ven biển tỉnh Quảng Nam ....................................................................................... 119
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 2.2: Đá bazan tại bờ biển mũi An Hòa (trái, ảnh Trịnh Thế Hiếu, 2007) và tại
bờ biển xã Tam Quang (phải, ảnh Trần Văn Bình, 2013)......................................... 30
Hình 2.6: Bề mặt tích tụ hiện đại và thảm rừng ngập mặn tại vụng An Hòa (Núi
Thành) (ảnh Trần Văn Bình, 7/2013) ........................................................................ 50
Hình 2.7: Cồn cát cao 6-7m bị xói lở tạo vách dốc (trái, 7/2013), sau đó đang đƣợc
tái tạo lại do gió vun lấp dƣới chân cồn (phải, 6/2014) (ảnh Trần Văn Bình) .......... 51
Hình 2.8: Bãi biển tích tụ hiện đại ở bờ phía tây cửa Lở xã Tam Hải ...................... 52
Hình 2.9: Cấu tạo các bộ phận bãi biển (trái): bãi trên triều hơi nghiêng về phía
biển, bãi triều tƣơng đối dốc; Phân lớp tích tụ trầm tích bãi biển (phải) .................. 54
Hình 2.10: Bãi biển đang bị xói lở mạnh tại khu vực phƣờng Cửa Đại – Hội An
(trái), xã Tam Tiến (giữa) và khu vực Cửa Lở, Tam Hải, Núi Thành (phái) ............ 54
Hình 2.11: Bãi biển mài mòn-tích tụ phát triển trên đá bazan hệ tầng Đại Nga tại bờ
biển xã Tam Quang , Vách xói lở trên đá bazan bị phong hóa (trái) ........................ 55
Hình 2.14: Xói lở bờ biển ở phƣờng Cửa Đại (trái), khu vực Cửa Lở (giữa) và tại
bãi Bà Tình, Tam Quang (phải)(ảnh Trần Văn Bình, 2013 và 2014) ....................... 63
Hình 3.7: Bãi tắm phƣờng Cửa Đại 7/2013 (trái, ảnh Trần Văn Bình, 2013) và Vách
xói lở sau bão 10/2013 (phải, ảnh Nguyễn Chí Công, 2013) .................................... 72
vii
Hình 3.8: Vƣờn Dừa bị sóng biển quật đổ và kè bảo vệ bờ bị phá hủy trong bão (cơn
bão số 11 tháng 10/2013) tại bãi biển phƣờng Cửa Đại ........................................... 72
Hình 3.10. Bãi biển phƣờng Cửa Đại tại mặt cắt 1, 7/2013(trái) và 12/2013(phải) . 73
Hình 3.12: Bãi biển phƣờng Cửa Đại tại mặt căt 2, 7/2013 (trái) và 12/2013 .......... 74
Hình 3.16: Bãi biển bị đẩy lùi vào đất liền tại mặt cắt 2, phƣờng Cửa Đại .............. 76
Hình 3.17: Vách xói lở trên cồn cát cổ tại xã Tam Hòa (trái, ảnh Trần Văn Bình,
2013) và xói lở ở bờ phía đông nam, tích tụ ở mũi bờ phía tây khu vực Cửa Lở
(phải, ảnh Lê Đình Mầu, 2013) ................................................................................. 77
Hình 3.21: Bãi biển phía bắc xã Tam Tiến tại mặt cắt 5 vào 7/2013 (trên trái) và
12/2013 (trên phải); bãi biển phía bắc xã Tam Hòa tại mặt căt 7 vào 12/2013 (dƣới
trái) và 6/2014 (dƣới phải)(ảnh Trần Văn Bình) ....................................................... 80
Hình 3.24: Vách xói lở bờ Nam Cửa Lở tại mặt cắt 8a vào 7/2013 (trái) và vào
6/2014 (phải) (ảnh Trần Văn Bình) ........................................................................... 82
Hình 3.26: Vách xói lở bờ biển Bà Tình tại mặt cắt 9 đợt 1 tháng 7/2013 (trái) và
đợt 3 tháng 6/2014 (trái) (ảnh Trần Văn Bình) ......................................................... 83
Hình 3.33: Vách xói lở chân cồn cát cổ ở độ cao 2–4m, (trái) và bờ kè bằng bao tải
chống xói lở trên bờ cao 2-4m (phải) tại xã Tam Tiến (ảnh Trần Văn Bình, ........... 91
Hình 3.39: Dấu vết của rễ cây phi lao (trái, ảnh Trần Văn Bình, 2009) và công trình
kè bảo vệ của cac resort ở bãi biển phƣờng Cửa Đại đã bị phá hủy (phải, ảnh Lê
Đình Mầu, 2009) do ảnh hƣởng cơn bao sô 9 vào 23/9/2009 ................................... 98
Hình 3.47: Xói lở bờ phía nam Cửa Lở xã Tam Hải 2009 (trái) và 10/2013 ........ 106
Hình 3.50: Bờ biển bị xói lở mạnh là hậu quả của việc khai thác vật liệu ............. 109
Hình 3.51: Thân sa khoáng trên bãi biển xã Duy Hải (trái, ảnh Trịnh Thế Hiếu) và
có lẫn trong cát khu vực bờ phía mam Cửa Lở (phải, ảnh Trần Văn Bình, 2013) . 110
Hình 3.52: Khai thác cát quặng Ti – Zr tại vùng bờ biển xã Duy Hải (trái), xã Tam
Hiệp (giữa) và xã Tam Nghĩa (trái) (ảnh Trịnh Thế Hiếu, 2005, 2006, 2007) ....... 110
Hình 3.53: Xói lở làm sập kè bảo vệ, đe dọa công trình khách sạn bên trong tại
phƣờng Cửa Đại (ảnh trái); xói lở mạnh tại Cửa Lở (ảnh giữa) và bãi Bà Tình (ảnh
trái), do sóng hoạt động và phá hủy bờ khi gió bão (ảnh Trần Văn Bình,. ............. 112
Hình 3.54: Xói lở bờ biển phƣờng Cửa Đại do sóng biển hoạt động trong khi gió
bão đã tàn phá và đe dọa nhiều công trình nơi đây (ảnh Trần Văn Bình, ............... 112
Hình 3.56: Xói lở làm sập đổ công trình ở phƣờng Cửa Đại (trái), và phá hủy công
trình kè chống xói lở ở xã Tam Hải (phải) (ảnh Trần Văn Bình, 2013) ................. 116
Hình 3.57. Xói lở đe dọa làm sập đổ công trình ở phƣờng Cửa Đại (trái)(ảnh Vũ
Văn Phái, 2012), mất đất quân sự ở Tam Quang (phải)(ảnh Trần Văn Bình, ........ 116
Hình 3.58: Đang thi công công trình bảo vệ bờ ở phƣờng Cửa Đại 5/2012 (ảnh Vũ
Văn Phái, 2012) ....................................................................................................... 117
Hình 3.60: Công trình đang xây dựng phải bỏ lại do xói lở (trái, 2013), và xói lở nền
móng công trình ở phƣờng Cửa Đại (phải, 2009)(ảnh Trần Văn Bình) ................. 122
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia ven biển, có bờ biển dài hơn 3.260km và có nhiều
cửa sông lớn nhỏ là nơi phát triển các hệ sinh thái đặc trƣng và thƣờng đƣợc quy
hoạch tập trung phát triển các cảng, các hoạt động công nghiệp, hàng hải, dịch vụ và
du lịch đi kèm. Bờ biển và cửa sông là một dạng tài nguyên địa hình đã và đang
đƣợc khai thác triệt để cho việc phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo an ninh quốc
phòng và chính trị. Những năm gần đây, do ảnh hƣởng của biến đổi khí hậu, hiện
tƣợng xói lở bờ biển, bồi cạn và lấp dần cửa biển ở các tỉnh ven biển nƣớc ta xảy ra
rất mạnh ở nhiều nơi, đặc biệt là khu vực Miền Trung, trong đó có tỉnh Quảng Nam.
Quảng Nam là tỉnh thuộc duyên hải Nam Trung Bộ, có đƣờng bờ biển dài
hơn 125km với nhiều cửa sông. Thuộc dải ven biển có 02 thành phố quan trọng là
Hội An và Tam Kỳ, đồng thời có tiềm năng về du lịch với nhiều bãi tắm đẹp và nổi
tiếng nhƣ: Hà My (Điện Bàn), Cửa Đại (Hội An), Bình Minh (Thăng Bình), Tam
Thanh (Tam Kỳ), Bãi Rạng (Núi Thành), … hàng năm đón tiếp hàng chục vạn
khách du lịch. Đi cùng với đó là hàng loạt khách sạn và khu nghỉ dƣỡng trong tuyến
du lịch Đà Nẵng-Hội An, đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế-xã
hội của tỉnh. Ngoài ra, các cửa sông còn có vai trò tiêu thoát lũ cho vùng hạ lƣu và
nơi trú ẩn của tàu thuyền khi có bão. Vùng cửa sông không những là nơi để phát
triển kinh tế chung mà còn có vị thế quan trọng trong chiến lƣợc quân sự của vùng.
Tuy nhiên, do hoàn cảnh địa lý tự nhiên trong khu vực diễn ra đa dạng, hết
sức phức tạp và khốc liệt, đặc biệt trong những năm gần đây do điều kiện thời tiết,
nắng hạn kéo dài vào mùa khô, mùa mƣa bị tác động của gió mùa đông bắc, áp thấp
nhiệt đới và thƣờng có gió bão, điều này đã dẫn đến lũ lụt, nƣớc biển dâng kết hợp
với bão lũ đã tác động mạnh đến vùng bờ biển các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ nói
chung và bờ biển tỉnh Quảng Nam nói riêng, làm thay đổi hình thái địa hình bãi, bờ
và địa hình đáy các vùng cửa sông rất nghiêm trọng nhƣ: đoạn bờ và bãi biển phía
bắc Cửa Đại (Hội An), bờ nam Cửa Lở thuộc xã Tam Hải và bờ biển bãi Bà Tình
thuộc xã Tam Quang (Núi Thành), những nơi này đã và đang bị xói lở mạnh mẽ.
2
Mặt khác, địa hình đáy tại các khu vực Cửa Đại và Cửa Lở lại đang bị bồi cạn và lấp
dần. Những hiện tƣợng này đã xảy ra hàng năm và ngày càng mạnh hơn, gây ra
những thiệt hại rất lớn về tài sản và tính mạng của nhân dân, cũng nhƣ của Nhà
nƣớc và chắc chắn sẽ còn gây ra thiệt hại lớn hơn nữa, nếu không có những giải
pháp xử lý kịp thời. Do đó, nghiên cứu điều kiện địa hình, các vấn đề về địa mạo
trong khu vực để đánh giá tai biến xói lở bờ biển, bồi cạn và lấp dần các cửa sông
trên toàn dải ven biển của tỉnh phục vụ quản lý môi trƣờng bờ biển là việc làm cấp
bách, nhằm giảm thiểu thiệt hại do tai biến địa mạo một cách hiệu quả và đề xuất
các giải pháp giảm nhẹ, chủ động ứng phó phù hợp là việc làm cần thiết.
Trên cơ sở các vấn đề nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Nghiên cứu địa mạo
phục vụ quản lý môi trường bờ biển tỉnh Quảng Nam”
2. Mục tiêu: Làm rõ hiện trạng và nguyên nhân biến đổi bờ biển tỉnh Quảng Nam
phục vụ quản lý môi trƣờng bờ biển.
3. Nội dung và nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nội dung: - Nghiên cứu đặc điểm địa mạo dải ven bờ biển tỉnh Quảng Nam,
các yếu tố động lực liên quan đến quá trình xói lở-bồi tụ vùng bờ biển, cửa sông.
- Xây dựng các sơ đồ biến động đƣờng bờ qua các giai đoạn từ năm 1965 đến
nay và các trắc diện địa hình bãi biển tại các khu vực Cửa Đại (Hội An), Cửa Lở
và bãi Bà Tình (Núi Thành).
- Phân tích, đánh giá các tai biến do xói lở bờ biển, bồi lấp cửa sông.
- Đề xuất các giải pháp thích hợp nhằm giảm nhẹ tai biến, phục vụ cho công tác
quy hoạch và quản lý môi trƣờng dải ven bờ biển tỉnh Quảng Nam.
+ Nhiệm vụ: - Thu thập, phân tích và xử lý các tài liệu liên quan đến vấn đề biến
đổi bờ biển khu vực nghiên cứu trong quản lý môi trƣờng bờ.
- Khảo sát và đo đạc địa hình bờ, bãi biển và các yếu tố động lực ven bờ tại các
mặt cắt địa hình trong khu vực nghiên cứu.
- Xây dựng các bản vẽ, sơ đồ, bản đồ liên quan đến biến đổi bờ biển.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Ý nghĩa khoa học: Góp phần bổ sung cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu và hoàn
3
thiện cơ sở khoa học bảo vệ bờ biển, trong mối quan hệ giữa đặc điểm địa hình
với các quá trình xói lở bờ biên, bồi cạn và lấp dần cửa sông tỉnh Quảng Nam.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu góp phần lý giải nguyên nhân gây ra xói lở
bờ biển, bồi cạn và lấp dần cửa sông. Đặc biệt góp phần đánh giá chi tiết tai biến
xói lở bờ biển, phục vụ công tác quy hoạch và quản lý môi trƣờng bờ biển.
5. Phạm vi nghiên cứu
Về khoa học: Tập trung phân tích sự biến đổi bờ biển trên cơ sở nghiên cứu địa
mạo.
Về không gian: Dải ven biển (chủ yếu là vùng đồng bằng) của các huyện, thành
phố và đáy biển gần bờ trong phạm vi độ sâu từ 0-20m (hình 1.1).
6. Cơ sở tài liệu
Luận văn đƣợc xây dựng trên cơ sở tài liệu của chính bản thân tác giả thu
thập, thực hiện trong các đề tài nghiên cứu khoa học từ năm 2007 đến nay. Đề tài
“Khảo sát, đánh giá và đề xuất các giải pháp bảo vệ, phục hồi các hệ sinh thái đất
ngập nước ven biển Quảng Nam”, do Sở Thủy sản Quảng Nam chủ trì thực hiện
với sự phối hợp của Viện Hải dƣơng học và Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh
Quảng Nam, đã kết thúc năm 2008, trong đó tác giả với vai trò là ngƣời tham gia;
Đề tài “Nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc bảo vệ bờ biển, cửa sông phục vụ việc
quản lý, phát triển bền vững vùng ven biển tỉnh Quảng Nam” chủ nhiệm: TS. Lê
Đình Mầu. Thời gian thực hiện 2013-2014, trong đó tác giả với vai trò là ngƣời
tham gia chính, đƣợc sử dụng số liệu từ các đợt khảo sát để thực hiện luận văn.
Các tài liệu khác
- Các loại bản đồ liên quan: Bản đồ địa hình khu vực tỷ lệ 1:50.000 (xuất bản
2004); Hải đồ Mỹ tỷ lệ 1:50.000 (xuất bản 1965); Bản đồ địa chất và khoáng sản tỷ
lệ 1:200.000 (xuất bản 1994); Sơ đồ phân bố các kiểu trầm tích tầng mặt vùng biển
Đà Nẵng-Dung Quất [10]; Các loại ảnh vệ tinh (Landsat MSS, TM, ETM+) vào các
năm 1973, 1989, 2000 và ảnh Alos 2009 tại dải ven biển tỉnh Quảng Nam.
- Các báo cáo tổng kết của các đề tài, dự án do Viện Hải dƣơng học thực hiện
ở khu vực nghiên cứu, các báo cáo chuyên đề đƣợc thu thập từ Trung tâm Địa chất
4
và Khoáng sản biển và các tài liệu của các thầy ở Bộ môn Địa mạo cung cấp.
- Ngoài ra, tác giả còn tham khảo hàng loạt các công trình nghiên cứu đã
đƣợc công bố có liên quan tới đề tài (xem tài liệu tham khảo).
7. Cấu trúc luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, cấu trúc
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1. Tổng quan vấn đề và các phƣơng pháp nghiên cứu
Chương 2. Đặc điểm địa mạo khu vực nghiên cứu
Chương 3. Phân tích và đánh giá quá trình biến đổi bờ bờ biển phục vụ quản lý môi
trƣờng bờ.
Hình 1.1: Sơ đồ vị trí khu vực nghiên cứu
5
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ VÀ CÁC PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
Địa mạo bờ biển là nghiên cứu về địa hình, nguồn gốc và sự biến đổi địa
hình bờ biển, lịch sử hình thành khu bờ, mà ở khu bờ biển lại là nơi chịu tác động
tƣơng hỗ của thủy quyển, thạch quyển, khí quyển, sinh quyển và cả hoạt động kinh
tế mạnh mẽ của loài ngƣời đã làm thay đổi nó phần lớn theo chiều hƣớng tiêu cực.
Chính vì vậy, từ đầu những năm 70 của thế kỷ 20 cho đến nay, đã có rất nhiều nhà
khoa học kể cả các nhà quản lý thuộc các lĩnh vực khác nhau trên thế giới quan tâm
nghiên cứu bờ biển, Từ đó, cũng có một số khái niệm đƣợc sử dụng trong nghiên
cứu bờ biển còn đƣợc hiểu rất khác nhau giữa các nhà khoa học cũng nhƣ các nhà
quản lý. Do vậy, một số khái niệm sử dụng trong luận văn này sẽ đƣợc trình bày
dƣới đây.
Bờ biển (Coast) là một dải đất có chiều rộng không xác định mở rộng từ
đƣờng bờ vào sâu trong đất liền tới sự thay đổi đầu tiên về địa hình. Các vách, các
cồn cát tiền tiêu, hoặc đƣờng thực vật có mặt thƣờng xuyên. Trên các bờ có các
đảo/cồn chắn (barrier), một tổ hợp đầm phá sau barrier, bãi lầy, lạch triều cũng
đƣợc xem là một phần của bờ. Trên các vùng đồng bằng châu thổ (delta), ranh giới
về phía đất liền khó xác định hơn. Còn ranh giới về phía biển vƣơn tới vị trí mức
sóng bão-đó chính là đường bờ trong (coastline). Trên các đoạn bờ dốc đứng, thì
đƣờng bờ trong và đƣờng bờ ngoài (shoreline) có thể trùng nhau. Theo Bách khoa
Toàn thƣ về Địa lý Xô-Viết (1988) [3], thì bờ biển là một dải hẹp gồm có cả bãi
biển chạy dọc theo đƣờng bờ có giới hạn về phía biển là đƣờng mực triều thấp nhất.
Bãi biển (Beach/shore) đƣợc mở rộng từ đƣờng nƣớc thấp về phía đất liền tới
vị trí tác động của sóng bão (đƣờng bờ trong). Bãi có thể đƣợc chia thành 2 đới: bãi
sau (backshore) và bãi trƣớc (foreshore). Bãi trƣớc thƣờng xuyên chịu tác động của
các nhân tố động lực biển tính từ đƣờng mực nƣớc thấp tới giới hạn sóng vƣơn tới
vào lúc thủy triều cao. Bãi sau gần nhƣ nằm ngang, trong khi đó bãi trƣớc lại
nghiêng về phía biển.
6
Đường bờ biển. Theo quan niệm chung, đƣờng bờ biển là ranh giới tiếp xúc
giữa biển và đất liền. Đƣờng này luôn dịch chuyển theo sự dao động của mực nƣớc
biển theo chu kỳ ngắn (thủy triều), chu kỳ dài (chu kỳ thiên văn) hoặc không theo
chu kỳ. Trong thực tế, ngƣời ta thƣờng lấy đƣờng bờ biển là mực nƣớc triều trung
bình nhiều năm.
Tuy nhiên, để nghiên cứu biến động đƣờng bờ biển cần phải xác định rõ 2
đƣờng bờ: đƣờng bờ trong và đƣờng bờ ngoài (hình 1.2). Đường bờ trong
(coastline) là ranh giới tác động cao nhất của sóng trong năm (thƣờng là sóng bão)
với đất liền, còn đường bờ ngoài (shoreline) là ranh giới tác động của sóng vào lúc
thủy triều cao trung bình.
Hình 1.2: Sơ đồ biểu diễn các thuật ngữ về bờ biển đƣợc sử dụng [29].
Khu bờ biển là đới tƣơng tác giữa 4 quyển trên bề mặt Trái đất là: thủy
quyển, thạch quyển, khí quyển và sinh quyển, trong đó sóng biển đƣợc xem là nhân
tố động lực chủ yếu trong sự hình thành và biến đổi địa hình của nó. Trong thời đại
ngày nay, các hoạt động kinh tế-xã hội của con ngƣời cũng có những tác động to
lớn đến khu bờ biển, thậm chí còn mạnh hơn cả các nhân tố tự nhiên. Giới hạn của
khu bờ biển đƣợc xác định nhƣ sau. Ranh giới phía lục địa đƣợc xác định là đƣờng
7
sóng sóng leo cao nhất (thƣờng là sóng khi có bão) trong năm; còn ranh giới về phía
biển đƣợc xác định tại độ sâu sóng bắt đầu tác động đến đáy và ngƣợc lại đáy biển
cũng ảnh hƣởng đến sự truyền sóng. Thông thƣờng, độ sâu này đƣợc lấy bằng một
nửa chiều dài (bƣớc) sóng, hoặc đƣợc xác định bằng biểu thức h/H = 0,14, trong đó
h là độ cao của sóng, còn H là độ sâu đáy biển. Khái niệm trên đây đƣợc hiểu là khu
bờ biển hiện đại để phân biệt với khái niệm khu bờ cổ được nâng lên (hiện nay là
phần lục địa ven biển) và khu bờ cổ bị hạ xuống (phần đáy biển nằm phía ngoài khu
bờ biển hiện đại). Những điều trình bày trên đây cho thấy, khu bờ biển là một nơi
động nhất và việc phạm vi không gian của nó thƣờng xuyên thay đổi hàng ngày
(theo thủy triều), hàng năm (theo mùa) và nhiều năm. Do đó, việc đƣa ra ranh giới
nhƣ vậy cũng chỉ là tƣơng đối để thuận lợi trong quá trình nghiên cứu.
Đới bờ biển (Coastal zone) là đới chuyển tiếp từ đất liền ra biển chịu ảnh
hƣởng trực tiếp của các quá trình thủy động lực của biển. Đới bờ đƣợc mở rộng ra
ngoài khơi đến mép thềm lục địa và về phía đất liền tới sự thay đổi đầu tiên về địa
hình bên trên tầm với của sóng bão. Hầu hết các nƣớc Phƣơng Tây, khái niệm đới
bờ chỉ đƣợc sử dụng trong quản lý [6].
Cũng cần nhấn mạnh rằng, hiện nay, hai khái niệm khu bờ và đới bờ biển
đƣợc nhiều nƣớc đang phát triển sử dụng gần nhƣ giống nhau. Tuy nhiên, Kay và
Elder (2005) [56] đã phân tích sự khác nhau giữa 2 khái niệm này. Các tác giả này
đã sử dụng thuật ngữ: vùng bờ hay khu bờ (coastal area) theo quan niệm của
Ketchum B.H., cho rằng, đó là “một dải lục địa khô và khoảng không gian đại
dƣơng lân cận (cả nƣớc và vùng đất bị ngập), mà trong đó các quá trình trên lục địa
và sử dụng đất liền có ảnh hƣởng trực tiếp đến các quá trình và việc sử dụng đại
dƣơng, và ngƣợc lại” Ketchum B.H (1974) [57]. Mặc dù có đề cập đến không gian,
nhƣng khái niệm này thiên về sử dụng cả phần lục địa ven biển lẫn vùng biển ven
bờ. Muốn sử dụng không gian này có hiệu quả, thì cần phải có các giải pháp quản lý
đúng đắn. Nhƣ vậy, khái niệm của Ketchum cũng mang hàm ý quản lý rất rõ ràng.
Vì vậy, giới hạn của nó cũng không giống nhau đối với mỗi quốc gia khác nhau.
Thông thƣờng, trong nghiên cứu bờ biển, ngƣời ta còn sử dụng các thuật ngữ
8
khác, nhƣ bãi trên triều, bãi triều, bãi dƣới triều. Bãi trên triều tƣơng ứng với bờ/bãi
sau (backshore), bãi triều ứng với mặt bãi (shoreface), còn bãi dƣới triều là phần
đáy biển ven bờ thƣờng xuyên ngập nƣớc (đƣợc xác định đến độ sâu khoảng 5 mét).
Xói lở bãi (beach erosion) là hiện tƣợng mất vật liệu trên bãi một cách
thƣờng xuyên dƣới tác động của các nhân tố cả tự nhiên lẫn con ngƣời dẫn đến thu
hẹp và hạ thấp bãi biển.
Xói lở đường bờ (shoreline erosion) là hiện tƣợng dịch chuyển đƣờng bờ
biển một cách liên tục về phía đất liền trong một khoảng thời gian nào đó.
Tiến hóa địa hình bờ và bãi là sự tiến hóa đƣờng bờ ở tất cả các quy mô
không gian và thời gian với sự biểu hiện một cách rõ ràng về một trong những lĩnh
vực phức tạp nhất trong nghiên cứu địa mạo bờ biển. Bởi vì, tác động của các quá
trình bờ với quy mô không gian và thời gian khác nhau đều có ảnh hƣởng lẫn nhau.
Việc hiểu biết tiến hóa đƣờng bờ với quy mô lớn đòi hỏi những nghiên cứu không
những từ các sự kiện ngắn mà còn cả các quá trình lâu dài.
Quản lý môi trường bờ biển là một lĩnh vực vừa mang tính khoa học, vừa
mang tính nghệ thuật. Quản lý là một quá trình liên tục tìm kiếm các giải pháp
(gồm cả tổ chức hành động và các công cụ đƣợc sử dụng) thích hợp để đạt đƣợc
mục tiêu của quy hoạch đã đề ra. Do đó, trong quản lý cần ƣu tiên đến tính đặc thù
của lãnh thổ, cũng nhƣ tính đặc thù của các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
1.2. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Bờ biển là nơi nhạy cảm của nhiều vấn đề, luôn chịu tác động giữa môi
trƣờng lục địa và biển, điều đó đã thu hút sự quan tâm rộng rãi trên thế giới. Những
năm gần đây do biến đổi khí hậu toàn cầu dẫn đến mực nƣớc biển dâng lên đã làm
gia tăng cả về cƣờng độ lẫn quy mô về hiện tƣợng xói lở bờ biển. Do đó, trên thế
giới đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về xói lở bờ biển.
Del Rio, L. và nnk, 2002 [46], định lƣợng các quá trình xói lở ven biển ở bờ
biển phía Nam Đại Tây Dƣơng Tây Ban Nha, đã đƣa ra nguyên nhân quan trong
gây ra xói lở bờ biển trong thời gian ngắn hạn (vài tháng, vài năm) là cơ cấu kỹ
9
thuật bờ biển tạo ra xói lở bờ biển khu vực nhƣ: xây dựng kè, cầu tàu, bến cảng, tạo
ra một số điểm bồi tụ nhanh chóng. Tuy nhiên, một tái cân bằng thƣờng đạt đến sau
một thời gian. Còn trong thời gian trung hạn (thập kỷ), đập và hồ chứa trên lƣu vực
sông làm gia tăng sự lƣu giữ trầm tích. Giảm trong việc cung cấp trầm tích sông
ngòi cũng góp phần làm xói lở bờ biển.
Keqi Zhang (2004) [58], toàn cầu nóng lên và xói lở bờ biển, đã xác định
rằng: nƣớc biển dâng hoạt động nhƣ một khả năng tạo xói lở, vì mực nƣớc cao hơn
thì sóng sẽ tác động tiếp tục lên phía trên mặt nghiêng bãi biển và mang trầm tích
hƣớng ra biển. Quy tắc Bruun mô tả các hình dạng bãi biển ứng phó với nƣớc biển
dâng, nếu các điều kiện khác (ví dụ, cung cấp phù sa) vẫn không thay đổi, thì quá
trình xói lở sẽ xảy ra khi có sự gia tăng mực nƣớc biển. Carter và Johnston (1982)
[42], sử dụng các bụi cây trong việc kiểm soát xói lở do gió trên bờ biển mềm mại ở
Ai-len, đã nhận định rằng, với bờ biển mềm mại chủ yếu là cát bị xói lở do gió ít
nhất 2 mét mỗi năm.
Jane F. Denny và nnk (2005) [55], nghiên cứu xói lở bờ biển phía nam
Carolina, đã đƣa ra mô hình các quá trình vật lý ảnh hƣởng đến lƣu thông và vận
chuyển bùn cát khu bờ biển. Từ đó, xác định đƣợc nguồn trầm tích, các đƣờng vận
chuyển và vai trò của quá trình vận chuyển trầm tích trong việc hình thành bờ biển
hiện đại. Gerd Masselink và Paul Russell (2013) [51], ảnh hƣởng của biến đổi khí
hậu về xói lở bờ biển, đã nhận định rằng, tỷ lệ lớn các bờ biển của Vƣơng quốc Anh
và Ireland hiện đang bị xói lở là sự tƣơng tác giữa các quá trình khí quyển, trên đất
liền và biển.
Ngoài ra, còn có một số mô hình tính toán, dự báo các quá trình sóng, dòng
chảy, vận chuyển bồi tích và biến đổi địa hình đƣợc xây dựng ở các trƣờng đại học
và viện nghiên cứu khác nhau với những thế mạnh và những hạn chế khác nhau
nhƣ: WAMDI Group (1988) [67]; Guenther và đồng nghiệp (1992) [53], mô hình
tính sóng vùng khơi WAM; Tolman 1991 [66], STWAVE; Young (1988) [69], mô
hình tính sóng trong bão; Ebersole, Cialone, and Prater 1986 [47], mô hình tính
sóng vùng ven bờ: RCPWAVE, RDE, PBCG,…Nhìn chung, các mô hình đều đƣợc
10
xây dựng với tổ hợp nhiều mô đun. Chúng cho phép tính toán các quá trình thuỷ
thạch động lực trong khoảng thời gian dài với các điều kiện biên ban đầu, từ kết quả
đo đạc thực địa, sau đó lý giải hiện tƣợng xói lở-bồi tụ trong khu vực. Tuy nhiên,
những phƣơng pháp nghiên cứu nay vẫn đƣợc áp dụng rộng rãi trong việc nghiên
cứu xói lở, bồi tụ. Edelvang và đồng nghiệp, (2002) [48], tính toan v ận chuyển vật
chất lơ lửng; Gavin (1982) [50], tính toan sự bồi lấp luồng lạch, cƣa sông. Do việc
đo đạc, tính toán các quá trình ven bờ rất phức tạp, nên các phƣơng pháp thực
nghiệm, thống kê vẫn đóng vai trò chủ đạo. Những năm gần đây công nghệ ảnh
viễn thám đã đƣợc áp dụng rộng rãi, nhằm đánh giá sự biến đổi đƣờng bờ với độ
phân giải lớn. Cùng với sự phát triển của phƣơng pháp mô hình hóa, thống kê trong
việc nghiên cứu các quá trình thuỷ thạch động lực vùng ven bờ là sự phát triển các
thiết bị khảo sát, dựa trên các thành tựu mới nhất về quang học và sóng âm đo đạc
các đặc trƣng thuỷ thạch động lực ven bờ nhƣ, máy đo sóng-dòng chảy, máy đo lƣu
lƣợng nƣớc sông. Đặc biệt là máy đo hàm lƣợng trầm tích lơ lửng, đo vận chuyển
trầm tích đáy (bed load transport). Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau nhƣ
độ nhạy cảm của sensor, độ bền,…nên các thiết bị hiện đại đo đạc suất vận chuyển
trầm tích lơ lửng đƣợc sử dụng rất hạn chế. Ngƣợc lại, các thiết bị đo đạc kinh điển
vẫn đƣợc sử dụng rộng rãi (White, 1998) [68].
Với các công trình nghiên cứu địa mạo nói chung và địa mạo bờ biển trong
các mối quan hệ động lực hình thái nói riêng, những năm gần đây đã đạt đƣợc nhiều
kết quả mới cả về lý thuyết cũng nhƣ ứng dụng trong thực tiễn nhờ những tiến bộ về
kỹ thuật quan trắc, thu thập số liệu và các mô hình số. Tuy nhiên, do khu bờ biển
nói chung, đặc biệt là bãi biển, chúng có tính linh động rất cao và rất nhạy cảm đối
với những yếu tố cực đoan, có chu kỳ ngắn và ngày càng gia tăng về tần suất, nên
các kết quả nghiên cứu về lĩnh vực này vẫn còn khá xa với những gì mong đợi.
Mặc dù, khoa học về bờ biển chỉ mới đƣợc hình thành từ khoảng giữa thế kỷ
20, với sự ra đời công trình “Cơ sở học thuyết về phát triển bờ biển”, của Zencovich
V.P. (1962) [70], nhƣng những nghiên cứu về mối quan hệ giữa địa hình bờ biển và
các quá trình động lực đã đƣợc các nhà khoa học đề cập đến từ lâu. Vào nửa sau của
11
thế kỷ 20, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về động lực và hình thái bờ
biển, trong đó đáng quan tâm hơn là “Động lực vùng bờ biển không có thủy triều”
của Longinov V.V. (1963) [21], “Địa mạo bờ biển” của Leontyev O.K., Nikiforov
L.G. và Safianov G.A. [20]. Ngoài ra, một số công trình của các tác giả Phƣơng Tây
về hƣớng nghiên cứu này [45, 52, 61].
Từ cuối thế kỷ 20 đến nay, việc nghiên cứu động lực hình thái bờ biển đã có
những bƣớc phát triển cao hơn: Đó là xây dựng các mô hình vật lý, mô hình toán,
mô hình mô phỏng, v.v. Đi tiên phong trong nghiên cứu các quá trình động lực ở
đới bờ, có thể kể là những nhà nghiên cứu ở các nƣớc Nhật Bản, Hà Lan, Đan
Mạch, Mỹ,... Trong đó, nghiên cứu để áp dụng trực tiếp các kết quả có đƣợc vào
thực tế nhằm bảo vệ bờ, các công trình về biển đƣợc phát triển đặc biệt mạnh ở
Nhật Bản, Hà Lan,v.v..
Các nghiên cứu về quá trình biến đổi địa hình ở đới bờ là một trong những
hƣớng phát triển của địa mạo học. Trong giai đoạn đầu, việc nghiên cứu chủ yếu
dừng lại ở mức mô tả, tiếp đó là đo vẽ. Trong quá trình đó, các nhà địa mạo nhận
thấy rằng mỗi hình thái địa hình ở đới bờ thƣờng do một quá trình động lực chủ đạo
tạo ra “hình thái nào, động lực ấy” (quả nào thì nhân ấy). Tức là từ các thành tạo địa
hình có thể phỏng đoán đƣợc các quá trình động lực trong quá khứ đã tạo ra chúng.
Sau này, từ nhu cầu thực tiễn, phải dự báo đƣợc các quá trình phát triển của các
dạng địa hình, đặt ra vấn đề phải hiểu biết các quá trình động lực cũng nhƣ cơ chế
thành tạo địa hình (động lực nào thì hình thái đó). Đó là lý do để hƣớng nghiên cứu
động lực hình thái bờ biển đã ra đời và phát triển. Đây chính là một trong những
hƣớng nghiên cứu của địa mạo bờ biển đã đƣợc Zencovich V.P.- ngƣời đầu tiên đặt
nền móng khoa học về bờ biển, đƣa ra vào giữa thế kỷ 20. Theo hƣớng nghiên cứu
này, việc mô phỏng các quá trình thủy-thạch động lực bằng các mô hình toán là cần
thiết. Nó cho phép các nhà nghiên cứu có thể tính toán các trƣờng động lực bằng
các công thức toán học, giảm bớt khó khăn trong đo đạc thực tế, nhất là trong thời
gian xảy ra các hiện tƣợng thời tiết nguy hiểm.
12
Để giải quyết các vấn đề trên, gần đây, những nghiên cứu địa mạo nói chung,
và đặc biệt là nghiên cứu địa mạo bờ biển, các nhà nghiên cứu đã đƣa ra một số
quan niệm cơ bản, trong đó có các quan niệm mới nhƣ: các hệ địa mạo, độ mạnh và
tần suất, cân bằng và tiến hóa và quy mô trong địa mạo. Liên quan đến nghiên cứu
xói lở bờ biển, nghiên cứu động lực hình thái bãi biển có vai trò rất quan trọng.
Nghiên cứu động lực hình thái bãi biển (nghiên cứu sự điều chỉnh lẫn nhau
giữa hình thái bãi và các quá trình bờ bao gồm cả di chuyển trầm tích) có thể đƣợc
tiến hành bằng đo đạc ngoài thực tế và phân tích với sự trợ giúp bằng những mô
phỏng trên máy tính. Phân tích biến dạng sóng khi vào vùng nƣớc nông và tới bãi
đã chỉ ra rằng, năng lƣợng sóng bị phản xạ một phần trên các bãi dốc (> 3o) (đặc
biệt đối với các bãi cuội), trong khi các bãi nghiêng thoải (là bờ cát) lại làm phân
tán năng lƣợng sóng, do sóng vỡ tràn qua đới vỗ bờ rộng. Kết quả là trạng thái của
bãi phù hợp với các loại quy mô vỗ bờ trên cơ sở kích thƣớc của sóng vỡ. Dean
R.G. (1991) [45], đã đề nghị tham số tỷ lệ sóng vỗ bờ (surf scaling parameter): Ω
trên cơ sở độ cao sóng vỡ Hb theo công thức:
Ω = Hb /ws T
Trong đó ws tốc độ lắng chìm trung bình của trầm tích và T là chu kỳ sóng.
Điều này cho phép phân chia các bãi thành 3 trạng thái: trạng thái bãi phản xạ (Ω <
1), ở đó chúng nhận đƣợc sóng vỡ trào lên và có tỷ lệ cao về năng lƣợng sóng phản
xạ từ mặt bãi; trạng thái bãi tiêu tán (Ω > 5) ở đó, năng lƣợng sóng vỡ bị mất khi đi
qua các bãi rộng, thoải và trạng thái bãi trung gian (Ω = 1-5). Đối với các bãi phản
xạ, đới sóng vỗ bờ thƣờng có chiều rộng dƣới 10 mét, nhƣng có thể rộng ít nhất 100
mét đối với các bãi tiêu tán. Trắc diện bãi phản xạ có độ dốc ở phía trên giữa 6o và
12o, thƣờng với một bậc khác biệt và dốc hơn tại chân, sau đó độ dốc thoải dần cho
đến 0,5-1o và có nhiều ngấn cát đƣợc hình thành, thƣờng song song với đƣờng bờ,
do sự tác động của sóng phản xạ làm năng lƣợng sóng tới bị suy giảm. Các trắc diện
bãi tiêu tán rộng hơn và phẳng hơn.
Việc phân chia thành các trạng thái bãi phản xạ, tiêu tán và trung gian đƣợc
đƣa ra bắt nguồn trên các bờ thủy triều thấp. Vì khi độ lớn triều tăng lên, tác động
13
sóng bị phân tán trên những đới nằm ngang và thẳng đứng rộng hơn, dòng triều
tƣơng tác với sóng tới làm giảm gradient nằm ngang, đồng thời làm phẳng địa hình
bar và biến đổi dòng rip. Trắc diện bãi lộ ra ở mực triều thấp cho thấy các bar và
rãnh trũng rộng hơn và thoải hơn, hoặc các thềm triều thấp.
Masselink và Short (1993) [60], đã khảo sát các đặc điểm hình thái bãi có
quan hệ với tƣơng tác giữa độ cao sóng và độ lớn triều và đƣa ra khái niệm về độ
lớn triều tƣơng đối (RTR-Relative Tide Range), mà tại đó độ lớn triều thực sự (TR-
Tide Range) đƣợc phân chia bởi độ cao sóng vỡ (Hb):
RTR = TR/Hb
Để phân biệt các loại hình thái bãi sóng chiếm ƣu thế vì độ lớn triều tƣơng
đối tăng lên. Trên các bãi biển có dòng sóng tiến vào bờ chiếm ƣu thế (swash-
dominated beach), phạm vi này từ trạng thái phản xạ (Ω < 2 và RTR < 3) đến các
thềm triều thấp có các rãnh rip (Ω < 2 và RTR = 3-7), sau đó là các thềm triều thấp
không có các rãnh rip (Ω < 2 và RTR > 7); từ trạng thái trung gian (Ω = 2-5 và RTR
< 7) đến bar triều thấp và các rãnh rip (Ω < 2 và RTR > 7) và từ trạng thái tiêu tán
có bar (Ω > 5 và RTR < 3) đến trạng thái tiêu tán không có bar (Ω > 5 và RTR > 7)
và tiêu tán cực đoan (Ω > 2 và RTR > 7) với nhiều đƣờng sóng vỡ chuyển động trên
trắc diện có gradient rất thấp.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc có liên quan về khu vực
Ở Việt Nam, vùng ven biển và cửa sông thƣờng là nơi tập trung các khu dân
cƣ lớn, các trung tâm kinh tế, văn hoá, chính trị rất quan trọng,... nhƣng lại thƣờng
xuyên chịu tác động xấu do các tai biến thiên nhiên gây ra nhƣ xói lở bờ biển, bồi
lấp luồng lạch cửa sông, biến đổi lòng dẫn,... dẫn đến suy thoái và thiệt hại nặng nề
đến tài nguyên môi trƣờng, tài sản của nhân dân và nhà nƣớc. Vì vậy, nhu cầu
nghiên cứu và đánh giá các tai biến xói lở bờ biển-bồi lấp cửa sông, quản lý tổng
hợp đới ven biển ngày càng cao, điều đó đã đƣợc nhiều nhà quản lý cũng nhƣ các
nhà khoa học quan tâm, trong đó có những công trình đáng chú ý nhƣ:
Nguyễn Văn Cƣ và nnk (1990) [7], đã nghiên cứu động lực vùng ven biển và
cửa sông Việt Nam. Ngô Ngọc Cát và nnk (2001) [5], đã đánh giá điều kiện Địa
14
chất công trình phục vụ nghiên cứu sạt lở bờ biển miền Trung; Lê Xuân Hồng
(2001) [18], đã xác định hiện trạng sạt lở bờ biển cửa sông miền Trung; Phạm Huy
Tiến và nnk (2005) [35], đã nghiên cứu và đƣa ra dự báo phòng chống sạt lở bờ
biển miền Trung. Tiếp đến, Nguyễn Thọ Sáo (2003) [32], đã đƣa ra dự báo hiện
tƣợng xói lở, bồi tụ bờ biển cửa sông Đà Rằng. Từ năm 1993 đến 1998, Nguyễn
Ngọc Thụy đã đƣa ra kết quả nghiên cứu về sự dâng lên của mực nƣớc biển dâng và
nƣớc dâng do gió mùa và bão ở Việt Nam. Trịnh Thế Hiếu và nnk (2005) [13], Hiện
trạng và dự báo sự biến động bờ biển-các cửa sông ven biển Việt Nam, đã nhận
định rằng, hầu hết các cửa sông lớn ở khu vực Trung và Nam Trung Bộ đều có sự
biến đổi phức tạp theo thời gian, với xu thế biến đổi chính là xu thế dịch chuyển
cửa. Đây là hậu quả của của quá trình hoạt động tân kiến tạo và tác động của các
yếu tố động lực đới bờ, điều này đƣợc thể hiện qua diễn thế của quá trình bồi tụ-xói
lở. Sự dịch chuyển cửa diễn ra theo quy luật, hƣớng dịch chuyển cửa luôn hƣớng về
các vùng bờ bị hạ lún.
Theo hƣớng nghiên cứu các giải pháp khoa học và công nghệ để chống bồi
lấp cửa sông ở khu vục Nam Trung Bộ, Trịnh Việt An (2012) [72], trong công trình
“Một vài nét về ảnh hƣởng bồi lấp cửa sông đến sự ra/vào của thuyền vào cảng cá
các khu neo đậu trú bão và hƣớng giải quyết” đã xác định đƣợc hiện tƣợng bồi lấp
và các vấn đề liên quan tại một số cửa sông nhƣ: Cửa Nhật Lệ (Quảng Bình), cửa
Tam Quan (Bình Định), cửa Mỹ Á, cửa biển Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), cửa sông Đà
Rằng (Phú Yên), cửa Đông Hải (Ninh Thuận), cửa La Gi (Bình Thuận).
Theo hƣớng đánh giá hiện tƣợng bồi lấp cửa sông, Nguyễn Trọng Yêm
(2001) [41], trong công trình “Điều tra đánh giá các tai biến xói lở, bồi lấp vùng
ven biển tỉnh Quảng Ngãi và đề xuâtt các giải pháp xử lý, phòng tránh, giảm thiểu
thiệt hại, góp phần đẩy mạnh kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội trên cơ sở môi
trƣờng bền vững”, đã xác định đƣợc động lực gây ra tai biến xói lở-bồi lấp là kết
quả của mối tác động tƣơng hỗ, qua lại giữa các nhân tố tự nhiên và nhân tạo.
Chúng nằm trong ba nhóm chính là: 1) Nhóm các nhân tố nội sinh: điều kiện mặt
đệm địa chất- địa mạo, biểu hiện qua các dạng địa hình tự nhiên - nhân tạo và quá
15
trình phát triển của chúng; 2) Nhóm các nhân tố ngoại sinh: điều kiện khí hậu-thuỷ-
hải văn, những biến động của chúng trong những năm gần đây mang tính chất qui
mô khu vực và địa phƣơng. 3) Nhóm các nhân tố nhân tạo: các dạng địa hình nhân
tạo, nạn phá rừng đầu nguồn sông ngòi, khai thác vật liệu ven sông- ven biển …
Trong đó, các nhân tố ngoại sinh thƣờng là động lực trực tiếp chủ yếu gây ra tai
biến. Các nhân tố nội sinh và hoạt động nhân tạo thƣờng ảnh hƣởng gián tiếp thông
qua các nhân tố ngoại sinh. Trong số các nhân tố ngoại sinh thì sóng biển và các
nhân tố sinh ra chúng (gió, nƣớc dâng, thuỷ triều) đƣợc đánh giá là những nhân tố
có ảnh hƣởng quyết định tới tai biến xói lở-bồi lấp ven biển.
Mới đây nhất, Vũ Văn Phái và nnk (2012) [31], đã đƣa ra kết quả biến động
bờ biên trong mối quan hệ với mực nƣớc biển dâng tại các tỉnh cực Nam Trung Bộ -
Đông Nam Bộ, …
Nghiên cứu, dự báo các quá trình thuỷ thạch động lực và biến động đƣờng
bờ, cửa sông tại vùng biển Quảng Nam đã đƣợc tiến hành ở các qui mô khác nhau,
đáng kể nhất là đề tài cấp nhà nƣớc KHCN.06.08: “Nghiên cứu qui luật và dự đoán
xu thế bồi tụ-xói lở vùng ven biển và cửa sông Việt Nam” (1996-2000); dự án hợp
tác quốc tế Việt Nam-Ấn Độ (2002-2003): “Nghiên cứu, dự báo quá trình xói lở-bồi
tụ tại dải ven biển Việt Nam” với khu vực nghiên cứu trọng điểm là vùng biển Hội
An do TSKH Lê Phƣớc Trình (chủ trì) (2000) [37], đã thành lập đƣợc tập bản đồ
biến động địa hình và đƣờng bờ cho khu vực cửa Đại - Hội An. Trong công trình
của Đào Đình Bắc (chủ trì) “Nghiên cứu tai biến thiên nhiên trên cơ sở phƣơng
pháp địa mạo phục vụ phát triển đô thị dải đồng bằng ven biển Đà Nẵng-Quảng
Ngãi” (1999-2000) [4], đã cung cấp một số tƣ liệu về tai biến thiên nhiên nhất là
hiện trạng xói lở, bồi tụ bờ biển, cửa sông tại khu vực cửa Đại. Đề tài cấp tỉnh
(2007-2008) [15] “Khảo sát, đánh giá và đề xuất các giải pháp bảo vệ, phục hồi các
hệ sinh thái đất ngập nƣớc ven biển Quảng Nam” (do Sở Thủy sản Quảng Nam chủ
trì thực hiện với sự phối hợp của Viện Hải dƣơng học và Chi cục Bảo vệ nguồn lợi
thủy sản tỉnh Quảng Nam) đã đo đạc 20 mặt cắt địa hình trải dài từ Điện Dƣơng đến
Cửa Lở. Đây là những số liệu rất quý phục vụ cho việc đánh giá biến động địa hình
16
bãi và bờ tại khu vực nghiên cứu. Trong công trình của Vũ Tuấn Anh (2010) [2].
Nghiên cứu động lực hình thái vùng biển cửa sông Thu Bồn, cũng đã nhận đinh
rằng quá trình biến đổi địa hình khu vực nghiên cứu là do tác động của sóng đóng
vai trò chủ đạo, bên ngoài khu vực và xung quanh cửa sông chịu tác động tƣơng tác
của cả sóng, dòng chảy sông, dòng tổng hợp, do đó sự biến đổi địa hình khu vực
phức tạp hơn.
Dự án “Áp dụng bƣớc 3,4,5 mô hình QLTHĐB cho tỉnh Quảng Nam” của
Nguyễn Tác An (2006) [1] đã xây dựng chiến lƣợc QLTHĐB tỉnh Quảng Nam bao
gồm các huyện thị ven biển Điện Bàn, Hội An, Duy Xuyên, Thăng Bình, Núi Thành
và thành phố Tam Ký, nhằm sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên, phục vụ phát
triển kinh tế, xã hội, nâng cao điều kiện sống của ngƣời dân. Đề tài cấp nhà nƣớc
mã số: KC.09.24/06-10 (2008-2010) [23] “Luận chứng khoa học kỹ thuật phục vụ
cho quản lý tổng hợp và phát triển bền vững dải ven bờ biển NTB đáp ứng mục tiêu
chiến lƣợc phát triển kinh tế biển” do PGS.TS. Bùi Hồng Long (chủ trì) và đề tài
cấp Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam (2008-2009) [25] “Đánh giá những tác
động của các công trình bảo vệ đến môi trƣờng vùng cửa sông ven biển NTB” do
TS. Lê Đình Mầu (chủ trì) đã cung cấp hiện trạng xói lở-bồi tụ và biến động địa
hình cũng nhƣ những tác động của các công trình bảo vệ tại Quảng Nam. Những
công trình có liên quan trực tiếp đến vùng biển cửa Đại (Quảng Nam) đã đƣợc công
bố nhƣ: Bùi Hồng Long, Lê Đình Mầu (2000) [22]; Lê Đình Mầu (2006, 2009,
2012) [ 24, 25, 26]. Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu của các tác giả khác
cũng đề cập đến vấn đề này.
Tóm lại, vùng ven biển và cửa sông là nơi chịu tác động phức tạp của chế độ
động lực sông - biển đã đƣợc rất nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm nghiên
cứu. Các kết quả đã đạt đƣợc là đáng trân trọng, góp phần lý giải và làm sáng tỏ
nhiều vấn đề về địa chất, địa mạo và tai biến thiên nhiên liên quan trong khu vực.
Tuy nhiên, các nghiên cứu trƣớc đây trong khu vực, mới chủ yếu tập trung tại khu
vực Cửa Đại (Hội An) về động lực hình thái mà chƣa quan tâm nhiều đến vai trò và
nội dung nghiên cứu địa mạo trong khu vực để lý giải các quá trình xói lở - bồi tụ
17
trên toàn dải bờ biển tỉnh Quảng Nam. Vì vậy, cần thiết tiếp tục bổ sung và hoàn
thiện nghiên cứu chi tiết các nhân tố tác động đến xói lở - bồi tụ trên toàn toàn dải
ven biển tỉnh Quảng Nam. Từ đó, đề xuất những giải pháp giảm nhẹ tai biến phục
vụ quản lý môi trƣờng bờ biển.
1.2.3. Nghiên cứu địa mạo phục vụ quản lý môi trƣờng bờ biển
Quản lý môi trƣờng bờ biển là một hợp phần trong quản lý tổng hợp vùng bờ
biển. Đóng góp của địa mạo đối với quản lý tổng hợp vùng bờ biển đƣợc thể hiện
qua các nội dung nhƣ: tìm hiểu bản chất các điều kiện đới bờ; nhận xét về lịch sử
phát triển và dự báo sự phát triển của địa hình trong tƣơng lai; nghiên cứu tốc độ
bồi tụ - xói lở; nghiên cứu địa mạo phục vụ xây dựng các công trình bờ và nghiên
cứu sự tiến hoá của bờ. Qua các nội dung nêu trên, ở góc độ quản lý có thể thấy nội
dung nghiên cứu địa mạo đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý tài nguyên và
quản lý tai biến ở vùng bờ biển vốn là nơi tƣơng tác giữa môi trƣờng lục địa và môi
trƣờng biển. Nó đƣợc xem nhƣ là một hệ động lực mở mà ở đó các quá trình vật lý
và sinh thái học tƣơng tác và chịu sự chi phối bởi sự tác động và những sức ép từ
các hoạt động kinh tế - xã hội của con ngƣời. Cho đến nay, rất nhiều các quốc gia
đã nhận thấy đƣợc tầm quan trọng của các hệ sinh thái, điều kiện môi trƣờng và các
nền văn hoá ở vùng bờ biển, từ đó đã có những hành động nhằm nỗ lực bảo vệ giữ
gìn chúng. Vùng bờ biển, một mặt rất giàu có, đa dạng nhƣng lại hết sức nhạy cảm,
dễ bị biến đổi, mặt khác lại là nơi tập trung rất đông dân cƣ sinh sống và hầu hết
sống chủ yếu nhờ vào nguồn tài nguyên ở đây. Chính bởi vậy, vấn đề quản lý một
cách hiệu quả và bền vững tài nguyên vùng bờ biển là vô cùng quan trọng đối với
mỗi quốc gia có biển. Hiểu biết một cách sâu sắc về các quá trình tự nhiên, các
thành tạo địa hình, những quy luật thành tạo và biến đổi của chúng là một nhiệm vụ
không thể thiếu đƣợc đối với công tác điều tra và quy hoạch cho vùng bờ biển.
Theo Cooke R.U., và Doornkamp J.C (1990) [44], cho rằng: việc nghiên cứu
sự biến đổi đƣờng bờ nói riêng, nghiên cứu địa mạo đới bờ nói chung là rất phù hợp
với công tác quản lý đới bờ trong những hoàn cảnh cụ thể nhƣ đánh giá điều kiện về
nền móng cho các công trình; Bảo tồn các vùng đầm lầy, cửa sông và bãi biển; Điều
18
kiện lũ lụt; mối quan hệ giữa xói lở bờ và bồi tích, đặc biệt là các điều kiện về cầu,
cảng, cửa sông cho tàu đi lại và bảo vệ các bãi biển ... Mặt khác, vùng bờ biển là
một hệ mở nên các yếu tố, các hợp phần của nó tƣơng tác và quan hệ chặt chẽ với
nhau, còn các quá trình bờ thƣờng diễn ra trên quy mô rộng lớn chứ không chỉ trong
phạm vi của mỗi địa phƣơng hay một vùng nào đó. Bởi vậy, chính sách liên quan
đến sử dụng đất của vùng này có thể sẽ ảnh hƣởng tới đới bờ ở vùng khác cạnh nó.
Cơ sở nghiên cứu địa mạo phục vụ cho quản lý vùng bờ biển bao gồm:
- Địa hình là sản phẩm có thể quan sát thấy của mối tác động tƣơng hỗ giữa
các nhân tố nội sinh và ngoại sinh mà trong đó có tác động của con ngƣời, giữa các
nhân tố tích cực và nhân tố thụ động,... Các nhân tố này luôn thay đổi, do đó địa
hình cũng luôn biến động theo cả không gian và thời gian. Những biến động này
diễn ra thƣờng xuyên, liên tục và thể hiện rất rõ đối với địa hình bờ biển.
- Địa hình đƣợc xem là “nền rắn” của mọi hệ sinh thái. Chức năng của địa
hình trong bất kể hệ sinh thái nào cũng là kiểm soát sự phân bố năng lƣợng và vật
chất trong đó. Địa hình là một dạng của vật chất, nên địa hình cũng không ngừng
vận động, biến đổi và tuân theo các quy luật chung là biến đổi lƣợng thành chất. Sự
biến đổi này có thể diễn ra từ từ hoặc đột biến. Các nhân tố gây ra sự biến đổi có thể
là tự nhiên hoặc do tác động của con ngƣời. Khi địa hình bị biến đổi thì sự phân bố
năng lƣợng và vật chất trong hệ sinh thái cũng bị thay đổi theo. Cuối cùng hệ sinh
thái cũng bị thay đổi. Những thay đổi này diễn ra nhanh chóng khi có tác động của
con ngƣời [28].
Trên cơ sở đó tác giả Vũ Văn Phái và đồng nghiệp trong các công trình
nghiên cứu về đới bờ biển Việt Nam, đã đƣa ra sơ đồ mô tả mối quan hệ giữa các
yếu tố tự nhiên và con ngƣời ở đới bờ biển và vấn đề quản lý (hình 1.3). Trong đó,
tác giả đã khái quát toàn bộ mối quan hệ giữa các yếu tố tự nhiên gồm cấu trúc địa
chất, khí hậu, thuỷ văn và ảnh hƣởng của chúng đến nguồn bồi tích và năng lƣợng ở
đới bờ. Đặc biệt, trong sơ đồ tác giả đã nhấn mạnh vai trò của con ngƣời, đƣa lên
ngang với các yếu tố lớn là khí hậu, kiến tạo, trong vai trò ảnh hƣởng đến những
19
biến đổi, mà cụ thể là các hoạt động bồi tụ xói lở ở đới bờ-một trong những vấn đề
đối với quản lý đới bờ, trong đó những nghiên cứu địa mạo đóng vai trò trung tâm.
Hình 1.3: Sơ đồ khái quát mối quan hệ giữa các yếu tố ở đới bờ biển [28]
Nhƣ vậy, ở mọi quy mô, địa hình đƣợc xem là một loại tài nguyên thiên
nhiên có ý nghĩa quyết định đến việc xây dựng kế hoạch quản lý môi trƣờng kể cả ở
vùng bờ biển. Mặt khác, quá trình tiến hoá của địa hình, dù do nguyên nhân nào, tự
nhiên hay nhân sinh, cũng dẫn đến sự đột biến chuyển từ trạng thái này sang trạng
thái khác sau một khoảng thời gian nào đó, nhiều khi gây ra tai biến với hậu quả
không lƣờng trƣớc đƣợc (nhƣ làm sập đƣờng xá, kho tàng, bến cảng, mất đất, bồi
lấp luồng tàu, v.v…). Vì vậy, để đạt đƣợc hiệu quả cao trong quản lý vùng bờ biển,
nghiên cứu địa mạo cùng với các nghiên cứu khác ở vùng bờ biển phải xuất phát từ
những nguyên lý chung nhất thông qua các mô hình khái niệm để phân tích và đánh
giá nhƣ sau: Sức ép tác động đến hệ thống đới bờ phản ứng những vấn đề
20
mới phát sinh. Theo tác giả Nguyễn Hiệu, các nguyên nhân gây xói lở bờ biển và
hậu quả của chúng đƣợc thể hiện ở bảng 1.1.
Bảng 1.1: Một số nguyên nhân gây xói lở bờ biển và hậu quả của chúng [17].
Xói lở bờ do tự nhiên Xói lở bờ do tác động nhân sinh
Nguyên
nhân
Hậu quả Nguyên nhân Hậu quả
1. Đặc điểm
hình thái và
hƣớng đƣờng
bờ
Làm thay đổi cơ chế di
chuyển bồi tích (dọc
hoặc ngang)
1. Khai thác
khoáng sản
(quặng, vật liệu
xây dựng,...)
Làm mất cát ở bãi biển
2. Đất đá cấu
tạo bờ
Khả năng kháng xói
của chúng (bờ cát là
yếu nhất)
2. Xây dựng
công trình (công
trình bảo vệ bờ,
cầu cảng,...)
Làm thay đổi sự phân bố
năng lƣợng sóng và dòng
chảy, phần lớn vật liệu bị
di chuyển ra xa bờ hơn
3. Bão tăng
kèm theo
sóng mạnh
Năng lƣợng sóng tăng
làm cho bồi tích bị di
chuyển mạnh hơn (chủ
yếu ra xa bờ)
3. Hỏa hoạn,
khai thác rừng
ngập mặn
Làm mất lớp thực vật –
“lớp áo” bảo vệ bờ
4. Tác động
của gió
Làm mất vật liệu bãi
biển (hoặc ra biển,
hoặc vào đất liền)
4. Chăn thả gia
súc (trâu, bò,..)
Làm mất lớp cỏ và phá
hủy lớp thực vật bảo vệ
5. Thay đổi
nguồn cung
cấp bồi tích
Làm giảm hay tăng vật
liệu cung cấp cho đới
bờ
5. Xây dựng các
tuyến đƣờng ven
biển, hoặc luồng
tàu
Tạo luồng cho gió (trên
cạn) và dòng chảy (dƣới
nƣớc) hoạt động mạnh
dẫn đến làm mất vật liệu
6. Mực nƣớc
biển tăng
Trực tiếp làm ngập
phần đất thấp, làm
tăng độ dốc của bãi
6. Khai hoang –
lấn biển
Làm thay đổi hình dạng
đƣờng bờ dẫn đến làm
thay đổi cơ chế di chuyển
bồi tích
1.3. CƠ SỞ PHƢƠNG PHÁP LUẬN
Cơ sở của việc nghiên cứu địa mạo phục vụ quản lý môi trƣờng bờ về cơ bản
là dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của địa mạo học, nghiên cứu mối tƣơng tác giữa
các quá trình nội sinh và ngoại sinh. Riêng đối với địa mạo bờ biển, thì yếu tố sóng
biển và dòng chảy đƣợc sinh ra do nó là nhân tố quyết định tạo nên các thành tạo
21
địa hình bờ biển trong mối quan hệ rất chặt chẽ với điều kiện khí hậu và địa chất
kiến tạo khu vực. Với quan niệm sóng biển là nhân tố chủ đạo trong quá trình thành
tạo và tiến hoá địa hình bờ biển, do đó ở khu bờ biển hiện đại đã đƣợc chia ra 3 đới
động lực là: 1) đới sóng vỗ bờ; 2) đới sóng vỡ và biến dạng và 3) đới sóng lan
truyền. Việc phân chia nhƣ vậy là tuỳ thuộc vào khả năng tác động của sóng đến
đáy và ngƣợc lại, đáy biển ảnh hƣởng đến sự biến dạng của sóng. Các kết quả
nghiên cứu từ trƣớc đến nay đều xác nhận rằng, khi giá trị h/H = 0,14 là lúc giữa
sóng và đáy có tác động lẫn nhau và khi h/H = 0,78 là lúc sóng bị phá huỷ mạnh
nhất và tác động đến đáy lớn nhất để tạo ra địa hình đặc trƣng- đó là các bar cát
ngập nƣớc (ở đây h là độ cao của sóng, còn H là độ sâu đáy biển). Dựa trên cơ sở lý
thuyết nhƣ vậy, thì khu vực nghiên cứu đƣợc chia thành 2 đới động lực có tác động
mạnh nhất đến đới bờ là: đới sóng vỗ bờ, đới sóng vỡ và biến dạng. Các đới hình
thái tƣơng ứng với chúng là đới bãi, đới val ngầm-sƣờn bờ ngầm và đới thềm lục
địa phía trong [30].
Ngoài ra, trên quan điểm bất kỳ một hệ thống nào cũng gồm nhiều hợp phần
cấu thành, giữa các hợp phần lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Do đó, cách tiếp
cận hệ thống cũng là cơ sở phƣơng pháp luận của khoa học, sẽ đƣợc sử dụng xuyên
suốt quá trình làm việc. Khi sử dụng cách tiếp cận này, bờ biển được xem là một hệ
mở nằm trong hệ thống các khoa học Trái đất, trong đó có sự trao đổi vật chất và
năng lƣợng với các hệ khác (môi trƣờng bên ngoài) trên đất liền cũng nhƣ ngoài đại
dƣơng hoặc vùng biển bên cạnh. Trong hệ bờ lại đƣợc chia thành 2 phụ hệ: phụ hệ
tự nhiên (natural subsystem) và phụ hệ nhân văn (human subsystem).
Từ những điều trình bày trên, cho thấy để đạt đƣợc hiệu quả tốt trong nghiên
cứu các hợp phần của tự nhiên, trong đó có địa hình, cần phải đi theo hƣớng tiếp cận
hệ thống. Theo cách tiếp cận này, toàn bộ khu vực nghiên cứu đƣợc xem là một hệ
thống địa mạo mở. Sự phát triển và tiến hoá của nó phụ thuộc vào mối tác động
tƣơng hỗ giữa nhiều nhân tố cả bên trong của hệ (các nhân tố chủ quan) với các nhân
tố khác từ bên ngoài hệ (tức là các hệ khác, nhân tố khách quan) cả của biển lẫn của
lục địa. Trong hệ thống này, con ngƣời vừa là chủ thể vừa là khách thể. Trong thời kỳ
22
hiện đại, ngoài những biến động khách quan từ tự nhiên, các hoạt động của con ngƣời
đều có ảnh hƣởng hoặc là trực tiếp hoặc là gián tiếp đến sự biến đổi địa hình mặt đất
nói chung và địa hình khu bờ biển nói riêng.
Để phục vụ các lợi ích xã hội, đặc điểm phát triển địa hình và các nhân tố tác
động tại đới bờ thƣờng đƣợc nghiên cứu ở nhiều mức độ khác nhau từ khu vực rộng
lớn đến địa phƣơng, thì đây là cơ sở phƣơng pháp mang lại hiệu quả cao không chỉ
trong nghiên cứu địa mạo bờ mà còn cho cả các khu vực khác. Qua cơ sở phƣơng
pháp luận giúp chúng ta đánh giá sự tham gia của các nhân tố vào quá trình hình
thành và tiến hoá địa hình cũng nhƣ vai trò của chúng một cách đúng đắn hơn. Trên
cơ sở này có thể xác định một cách tƣơng đối nguồn năng lượng và vật chất thâm
nhập vào vùng biển nghiên cứu. Từ đó, cho phép phân tích một cách tƣơng đối về các
hoạt động gây ra biến đổi bờ biển trong khu vực.
1.4. CÁC PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.4.1. Nhóm các phƣơng pháp địa chất, địa mạo
1.4.1.1. Phương pháp phân tích hình thái - động lực
Thực chất đây là phƣơng pháp hình thái- nguồn gốc. Giữa hình thái địa hình
bờ biển và các nhân tố động lực thành tạo chúng có mối liên quan rất mật thiết với
nhau theo quan hệ nhân - quả. Chẳng hạn, các doi cát kéo dài và mở rộng hình quạt
về một phía nào đó, chứng tỏ trong khu vực có sự di chuyển dọc bờ của bồi tích rất
đáng kể vào một vùng nƣớc tự do. Hay một đoạn bờ nào đó từ tích tụ chuyển sang
xói lở, chứng tỏ rằng dòng vật chất ở đó đã giảm đi so với khả năng vận chuyển của
dòng năng lƣợng hoặc dòng năng lƣợng đƣợc tăng lên, v.v. Trong trƣờng hợp nhƣ
vậy, ngƣời ta thƣờng nói la thiếu hụt trầm tích ở bờ biển.
Về quá trình địa mạo hiện đại thì xói lở, xâm thực hay tích tụ đều phản ánh
yếu tố động lực tham gia vào quá trình. Tiêu chí này chỉ có tính chất định tính tƣơng
đối dựa vào mối quan hệ giữa độ sâu của địa hình đáy và kích thƣớc hạt trầm tích
tầng mặt. Chẳng hạn, nếu địa hình đáy nổi cao và trầm tích là hạt lớn so với xung
quanh, thì ở đó đang bị xói lở; hoặc trong các rãnh trũng lạ có vật liệu hạt thô, thì ở
đó có thể đang bị xâm thực do tác động của dòng chảy gần đáy, v.v.
23
1.4.1.2. Phương pháp phân tích trắc lượng-hình thái
Đây là một trong những phƣơng pháp nghiên cứu địa mạo truyền thống và
mang lại hiệu quả cao. Tài liệu đƣợc sử dụng trong phƣơng pháp này là các bản đồ
địa hình của vùng nghiên cứu. Dựa vào bản đồ địa hình và quan sát ngoài thực tế,
có thể cho ta thấy bờ biển dốc hay thoải. Trên cơ sở độ mau-thƣa và sự phân bố của
các đƣờng bình độ, có thể thấy đƣợc hình dạng của địa hình: kéo dài, đẳng thƣớc,
lồi hay lõm. Nếu trên một vùng bằng phẳng, độ mau của các đƣờng bình độ, có thể
cho thấy đó là đá gốc có độ bền vững cao.
- Về trắc lượng hình thái, khác với địa hình trên đất liền bị chia cắt mạnh
dƣới tác động của mƣa và dòng chảy mặt, nên có độ nghiêng khá lớn, thƣờng có thể
tính bằng độ, trong khi địa hình bờ và bãi biển bị chia cắt rất yếu, nên độ nghiêng
rất nhỏ, nên thƣờng đƣợc tính bằng %. Dựa vào độ nghiêng của bãi biển, có thể chia
ra các mức độ sau:
Nghiêng: khi tgα > 0,01;
Nghiêng thoải: khi tgα = 0,01-0,001;
Hơi nghiêng: khi tgα = 0,001-0,0001
Gần nằm ngang: khi tgα < 0,0001
- Về hình thái, dựa vào mức độ chia cắt của bề mặt đáy biển để chia ra: bằng
phẳng (khi đáy biển có sự chênh lệch độ sâu 1-3 mét), lƣợn/gợn sóng (khi có các gờ
cao và rãnh trũng nằm xen kẽ và song song với nhau với sự chênh lệch độ sâu 3-10
mét) và chia cắt mạnh (đáy biển gồ ghề và phân bố hỗn loạn).
1.4.1.3. Phương pháp phân tích hình thái - thạch học
Cơ sở của phƣơng pháp phân tích hình thái-thạch học là mối liên hệ chặt chẽ
giữa các đặc điểm hình thái địa hình với đặc điểm các loại đất đá tạo nên chúng bao
gồm cả các đá có độ bền vững cao cũng nhƣ các đá trầm tích bở rời. Đặc điểm hình
thái thƣờng đƣợc quy định bởi đặc điểm thạch học.
Đặc điểm của trầm tích bở rời (thành phần độ hạt, thành phần khoáng vật, sự
phân bố trong không gian, trong mặt cắt, ...) cũng có ý nghĩa rất quan trọng khi
nghiên cứu địa mạo bờ biển. Các đặc điểm trầm tích nêu trên là một trong những
24
chỉ tiêu để phân tích lịch sử phát triển của địa hình đang đƣợc nghiên cứu. Chẳng
hạn, trên sự phân bố chung của các trầm tích hạt mịn, có các dải trầm tích hạt thô
nằm ở vị trí cao hơn thì đó là dấu vết của các bar cát cổ đã bị nƣớc biển tràn ngập,
hoặc nếu nó nằm ở vị trí thấp hơn, thì hiện nay chúng đang bị xâm thực mạnh do tác
động của dòng chảy gần đáy. Ngƣợc lại nếu trên phông chung là hạt thô xen các dải
trầm tích hạt mịn nằm ở vị trí thấp hơn thì có thể đó là dấu tích của các đầm phá cổ.
Mặt khác, chính kích thƣớc hạt trầm tích cũng có ảnh hƣởng rất lớn đến độ dốc của
địa hình bãi biển theo mối quan hệ thuận với nhau. Kích thƣớc hạt càng lớn thì độ
dốc của bãi càng lớn (bảng 1.2).
Bảng 1.2: Tương quan giữa kích thước hạt và độ dốc bãi [43]
Tên trầm tích Kích thƣớc (mm) Độ dốc bãi (độ)
Tảng
Cuội
Sỏi
Cát thô
Cát lớn
Cát trung bình
Cát nhỏ
Cát mịn
64 – 256
4 – 64
2 – 4
1 – 2
0,5 – 1
0,25 – 0,5
0,125 – 0,25
0,0625 – 0,125
24
17
11
9
7
5
3
1
1.4.2. Phương pháp viễn thám và GIS
Trong những năm gần đây, áp dụng công nghệ viễn thám và GIS đã giải
quyết đƣợc nhiều vấn đề về địa mạo. Đặc biệt là trong nghiên cứu và quan trắc đới
bờ. Phƣơng pháp này sử dụng các loại ảnh viễn thám (Alos, Landsat TM, ETM,...),
các loại bản đồ địa hình và các phần mềm GIS (Mapinfo, Erdas Imagine, Envi,
Ilwis, Arc GIS...) để nắn chỉnh hình học, xây dựng mô hình DEM, tính toán, phân
tích và quản lý số liệu,...
Đặc điểm của ảnh viễn thám có thể thu nhận đồng thời nhiều đối tƣợng của bề
mặt Trái Đất trên một diện tích rộng lớn tại thời điểm bay chụp. Việc chiết xuất thông
tin liên quan đến địa hình nhƣ hình thái của đƣờng bờ từ nhiều tấm ảnh khác nhau tại
các thời điểm khác nhau trong vùng nghiên cứu, sẽ giúp chúng ta phân tích hiện trạng
25
địa hình đới bờ thuận lợi và kinh tế. Do đó, trong đề tài đã sử dụng các ảnh vệ tinh
chụp khu vực nghiên cứu trong nhiều năm từ 1973 đến 2013 cùng với các bản đồ địa
hình năm 1965, 2004 cho phép xác định đƣợc hiện trạng của đƣờng bờ vào các thời
kỳ khác nhau. Từ các loại ảnh viễn thám sau khi đƣợc nắn chỉnh hình học, cùng bản
đồ địa hình với các phần mềm GIS giúp tính toán các dữ liệu không gian và liên kết
chúng, đồng thời đƣa về cùng một hệ toạ độ VN2000, từ đó có thể tính toán chính
xác đƣợc tốc độ xói lở của bờ biển theo thời gian, đồng thời có đƣợc bức tranh toàn
cảnh về diễn biến của đƣờng bờ trên toàn bộ không gian của vùng nghiên cứu.
Sử dụng phƣơng pháp viễn thám còn có hiệu quả trong việc xác định các hệ
thống val ngầm trong khu vực nghiên cứu, làm cơ sở cho việc phân tích địa mạo một
cách trực quan, nhanh chóng và thuận lợi. Ngoài ra, phân tích các thông tin trên ảnh
có thể biết đƣợc các yếu tố động lực nhƣ hƣớng dòng chảy sông, hƣớng dòng bồi tích
ven bờ, hƣớng sóng, ... và theo dõi đƣợc sự biến đổi của chúng theo từng thời kỳ khác
nhau, đồng thời có thể quan sát đƣợc động lực phát triển của địa hình bờ nhƣ xói lở
hay tích tụ.
Bên cạnh việc phân tích, tính toán và liên kết các dữ liệu viễn thám, GIS còn
có khả năng rất mạnh trong việc lƣu trữ, quản lý và tích hợp thông tin. Đây là một
tính năng quan trọng có thể giúp các nhà quản lý đƣa ra những quyết định cuối cùng
cho công tác quy hoạch và quản lý đới bờ nhờ khả năng phân tích và tích hợp thông
tin của hàng loạt các lớp thông tin khác nhau.
1.4.3. Phƣơng pháp khảo sát và đo đạc
Đây là phƣơng pháp truyền thống và cũng bắt buộc đối với các cuộc nghiên
cứu địa mạo nói chung, đặc biệt là địa mạo bờ biển nhằm phát hiện các đặc điểm
đặc trƣng địa mạo của vùng, kiểm tra và bổ sung thêm các tài liệu đã có hoặc đi sâu
nghiên cứu thêm một số vấn đề hay ý tƣởng mới. Trong thời gian thực hiện luận
văn này, tác giả đã tiến hành 4 đợt khảo sát thực địa, trong đó có 3 đợt khảo sát và
đo đạc chi tiết tại 10 mặt cắt bãi biển gồm: đo trắc diện bãi biển bằng máy DGPS
(Promark2 của Mỹ), thu mẫu bãi, thu mẫu bẫy trầm tích (Nagata) và các yếu tố
sóng, gió tại 3 khu vực trọng điểm trong phạm vi khu vực nghiên cứu nhƣ: khu vực
26
Cửa Đại (Hội An), khu vực Cửa Lở và bãi Bà Tình (Núi Thành), đặc biệt là trong
đó có 1 đợt khảo sát đƣợc tiến hành sau khi bão vừa đổ bộ vào khu vực nghiên cứu,
để thấy đƣợc hiện tƣợng thời tiết cực đoan gây ra (trình bày ở các phần sau).
Kết quả của các đợt khảo sát thực địa là những tài liệu, số liệu để tính toán và
xây dựng các hình vẽ, ảnh chụp, mô tả, cấu tạo địa hình, đặc điểm thành phần vật
chất và động lực phát triển địa hình, cùng với số liệu đo trong các chuyến khảo sát
thực địa, đƣợc tổng hợp làm kết quả kiểm chứng hiện trạng xói lở bờ biển. Từ đó
tìm hiểu, đánh giá sự biến động đƣờng bờ của khu vực nghiên cứu theo thời gian.
1.4.4. Phƣơng pháp đƣờng cong đẳng sâu và phân tích cán cân trầm tích
Phƣơng pháp nghiên cứu cán cân bồi tích ở khu bờ phổ biến nhất hiện nay là
phƣơng pháp so sánh từ các trắc diện ngang của sƣờn ngầm và những phần khô cạn
của bãi biển trong khoảng thời gian đã biết. Tiến hành nội suy giữa những cặp trắc
diện ngang cạnh nhau. Đƣờng cong cán cân thu đƣợc bằng cách tƣơng ứng là hình
những biến đổi đã xảy ra trong địa hình sƣờn ngầm và bãi biển. Để thực hiện
phƣơng pháp này, vùng nghiên cứu đã đƣợc tiến hành đo lặp với 3 đợt đo khác nhau
trên cùng một vị trí nhất định. Đồng thời với phƣơng pháp này để xử lý số đo các
trắc diện ngang là thành lập những bình đồ các đƣờng đẳng trị biến dạng của địa
hình trong khoảng thời gian giữa các lần đo đạc và có ý nghĩa đặc biệt khi phải xác
định vị trí không gian của những biến đổi nào đó của cán cân bồi tích (Leontyev
O.K., Nikiforov L.G. và Safianov G.A.) [20]. Từ kết quả tính toán, cho ta phân tích
quá trình biến đổi bờ cũng nhƣ bãi diễn ra trên mỗi đoạn bờ theo thời gian giữa mùa
khô và mùa mƣa.
1.4.5. Phƣơng pháp bản đồ
Tác giả đã sử dụng các bản đồ có sẵn của khu vực nghiên cứu (bản đồ địa
chất, bản đồ địa hình,v.v..), nhƣ một dạng tài liệu hữu ích của luận văn. Đồng thời
phân tích, đánh giá, khảo sát đo đạc kết hợp với bản đồ nền địa hình, địa chất để
tiến hành thành tập bản đồ địa mạo theo quan điểm nguồn gốc-hình thái-động lực.
Phƣơng pháp bản đồ là phƣơng pháp hữu hiệu thể hiện sự phân bố không gian của
27
đối tƣợng, định hƣớng quy hoạch sử dụng lãnh thổ trong tƣơng lai, giúp cho các nhà
quản lý đƣa ra những quyết định có hiệu quả về tổ chức, sử dụng lãnh thổ hợp lý.
Với các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ trên và dựa vào cơ sở phƣơng pháp
luận, các bƣớc nghiên cứu thực hiện đề tài luận văn đƣợc trình bày trên hình 1.4.
Hình 1.4: Mô hình nghiên cứu và các bƣớc thực hiện
Nắn chỉnh hình học
Giải đoán hiện trạng
đƣờng bờ
Tính toán biến động
đƣờng bờ
QUẢN LÝ MÔI TRƢỜNG BỜ BIỂN
Quản lý tài nguyên Quản lý tai biến
Phân vùng mức độ tai biến địa mạo
Thành lập bản đồ
địa mạo
Thành
phần vật
chất
Hình thái
nguồn gốc
động lực
Tai biến địa mạo bờ
biển (xói lở - bồi tụ)
Mô phỏng mô hình số
độ cao (DEM)
Xây dựng trắc diện
địa hình bờ, bãi biển
Các quá trình thủy
thạch động lực
Phân tích cán cân bồi
tích ở khu bờ
Ảnh vệ tinh
(Landsat, Alos)
Các bản đồ liên quan
(địa chất, địa hình)
Khảo sát, đo đạc
và các tài liệu khác
28
Chƣơng 2
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA MẠO KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2.1. CÁC NHÂN TỐ THÀNH TẠO ĐỊA HÌNH
2.1.1. Khái quát về đặc điểm địa hình
Phạm vi nghiên cứu là dải ven biển có đƣờng bờ dài hơn 125km, bao gồm
đồng bằng ven biển ở trên lục địa và đáy biển ven bờ ở độ sâu từ 0-20m nƣớc.
Nhìn chung, địa hình trên lục địa ven biển có tính phân dị rõ ràng theo chiều
từ bắc xuống nam, ở phía bắc là đồng bằng đƣợc mở rộng và giáp với đồng bằng
thành phố Đà Nẵng, đồng thời đƣợc kéo dài không liên tục xuống phía nam theo
hƣớng tây bắc-đông nam và bị thu hẹp dần ở phía nam huyện Núi Thành, giáp với
tỉnh Quảng Ngãi. Ở phía tây là đồng bằng giáp với địa hình đồi núi khối tảng kéo
dài, bị phân cắt mạnh bởi thung lũng sông Thu Bồn ở Đại Lộc và phía tây Duy
Xuyên, đồng thời có sự tham gia của các sông suối nhỏ tạo nên sƣờn dốc và có dạng
lƣợn sóng. Mặt khác, bề mặt địa hịnh còn bị phân cắt mạnh bởi các hệ thống sông
nhƣ: sông Thu Bồn, Hội An, Tam Kỳ, Trƣờng Giang, Bến Đình, Bến Ván, v.v… Ở
giữa đồng bằng còn có xen lẫn một số gò đồi núi sót cao từ 20-40m nhƣ tại Bình
Nguyên, Bình Nam (Thăng Bình), Tam Phú (Tam Kỳ), Tam Anh, Tam Xuân, Tam
Nghĩa (Núi Thành). Song song với bờ biển còn có các dải cồn cát cao từ 5 - 10m, có
nơi cao hơn 15m, kéo dài và bị phân cắt bởi các cửa sông Thu Bồn tại Cửa Đại, cửa
sông Trƣờng Giang tại Cửa Lở và hệ đầm phá vụng An Hòa.
Địa hình đáy biển ven bờ phần lớn là đồng bằng nghiêng thoải đang chịu tác
động mạnh bởi các yếu tố động lực hiện đại. Còn các dạng địa hình bờ đƣợc thể
hiện là vách mài mòn đang hoạt động trên đá bền vững, vách xói lở đang hoạt động
trên trầm tích bở rời và các val cát ngầm hiện đại thuộc kiểu bờ biển xói lở trên trầm
tích bở rời và cát. Nhìn chung, địa hình bờ biến vùng nghiên cứu chủ yếu có hƣớng
á kinh tuyến, nên thƣờng xuyên chịu tác động của sóng từ các hƣớng đông bắc,
đông và đông nam. Những nơi địa hình đồi núi cấu tạo bởi các đá bền vững lộ ra ở
bờ biển, địa hình đáy biển ở đây tƣơng đối dốc, năng lƣợng sóng tác động đến bờ
mạnh hơn. Nhƣng do đá bền vững, nên sự biến đối của địa hình bờ chậm và hầu
29
nhƣ không đáng kể. Ngƣợc lại, trên những đoạn bờ cấu tạo bởi trầm tích bở rời,
đƣờng bờ tƣơng đối thẳng, đất đá cấu tạo bờ có mối liên kết bền vững không cao
nên dễ dàng bị sóng phá hủy và gây ra tình trạng xói lở bờ và bãi.
2.1.2. Các nhân tố quy định đặc điểm hình thái và cấu trúc
2.1.2.1. Các nhân tố nội sinh
a. Các đới cấu trúc địa chất - kiến tạo
Vùng nghiên cứu nằm trong các đới cấu trúc địa chất - kiến tạo là khối Sơn
Trà, trũng Thu Bồn và khối nâng Lý Sơn (hình 2.1).
Hình 2.1: Sơ đồ phân bố các đới cấu trúc địa chất kiến tạo vùng nghiên cứu [30]
Khối Sơn Trà: đƣợc giới hạn bởi đứt gãy Cửa Tƣ Hiền theo phƣơng á vĩ
tuyến ở phía bắc và đứt gãy Thu Bồn có phƣơng tây bắc - đông nam ở phía tây -
nam. Ở đáy biển ven bờ dƣới lớp trầm tích mỏng Cenozoi (<0,3km) là các đá phức
hệ Hải Vân (G/T3hv) và đá vôi hoa hoá (C-P). Trầm tích Đệ tứ có chiều dày 0-
100m, dày nhất ở vùng biển bắc Cù Lao Chàm.
Trũng Thu Bồn: đƣợc giới hạn bởi đứt gãy Thu Bồn ở phía đông-bắc và đứt
gãy Tam Kỳ-Hiệp Đức có phƣơng á vĩ tuyến ở phía nam là di chỉ đới khâu Tam Kỳ-
Hiệp Đức, tƣơng ứng với phụ đới Thu Bồn, có lớp phủ Cenozoi dày 0,3-1km gồm
trầm tích lục sinh Neogen (Miocen) bị biến dạng nhẹ, gắn kết yếu, có thế nằm tạo
30
khớp vuông góc với các trầm tích trẻ hơn hƣớng cắm đông bắc 15 - 20o và có diện
tích khá lớn. Trầm tích Pliocen và Đệ tứ bao gồm trầm tích vụn cơ học và tro núi
lửa. Đây là thung lũng cổ sông Thu Bồn.
Khối Lý Sơn nằm giữa đứt gãy Tam Kỳ - Hiệp Đức và đứt gãy Ba Tơ - Kom
Tum tƣơng ứng với phụ đới Bồng Miêu có phần đáy là đá hệ tầng Khâm Đức
(PR2kd) lộ ra ở mép biển và các phức hệ đá magma Proterozoi - Paleozoi sớm.
Trầm tích Cenozoi chiều dày 0-104m. Đồng thời, vào giai đoạn Cenozoi, khối này
có hoạt động kiến tạo nâng lên khá mạnh, bị dập vỡ và xuất hiện các thành tạo phun
trào bazan đƣợc phân bố cả trong phần đất liền ở khu vực bờ biển mũi An Hòa và
xã Tam Quang (hình 2.2 ). Đồng thời, lúc bấy giờ, đây là vùng bào mòn trên lục địa
để cung cấp trầm tích cho các vùng trũng ở bên canh.
Hình 2.2: Đá bazan tại bờ biển mũi An Hòa (trái, ảnh Trịnh Thế Hiếu, 2007) và tại
bờ biển xã Tam Quang (phải, ảnh Trần Văn Bình, 2013)
b. Đặc điểm thạch học
Các loại đất đá lộ ra cả trên bề mặt dải lục địa ven biển lẫn đáy biển ven bờ
bao gồm cả loại rắn chắc lẫn các trầm tích bở rời.
Các đá rắn chắc bao gồm đá granit biotit dạng porphyr thuộc phức hệ Hải
Vân (γa T3hv) phân bố rải rác và lộ ra trên bờ biển các đảo trong quần đảo Cù Lao
Chàm, thuộc phức hệ Đại Lộc (γaD1 đl) tại Đai Lộc, phức hệ A Vƣơng (Є2-O1 av)
tại Đại Lộc, Bình Quế, Bình Trị (Quế Sơn), Tam Thanh (Tam Kỳ) và Tam Hiệp
(Núi Thành). Các đá bột kết, cát kết chứa vôi xen sét vôi, đá vôi sét thuộc hệ tầng
Khe Rèn (J1 kr). Các đá cát kết, cuội kết xen bột kết, thấu kính sét than, thanh đá
thuộc phân hệ tầng trên, hệ tầng Nông Sơn (T3n-r ns2) và các đá bột kết xen cát kết,
31
cuội kết đa khoáng màu đỏ thuộc phân hệ tầng dƣới, hệ tầng nông sơn (T3n-r ns1).
Các đá granit horblend-biotit, granodiorit, grabrodiorit thuộc phức hệ Bến Giàng –
Quế Sơn (γPZ3bg-qs). Các đá phiến thạch anh – mica, đá phiến thạch anh sericit, đá
phiến silic thuộc hệ tầng Núi Vú (PR3- Є1 nv). Các đá biến chất gồm đá phiến
sericit, đá phiến thạch anh-muscovit-sericit, đá phiến silic, quarzt, v.v. thuộc hệ
tầng A Vƣơng (Є2-O1 av) lộ ra trên bờ biển ở mũi Bàn Than, Tam Quang (Núi
Thành, Quảng Nam). Dƣới đáy biển ven bờ khu vực bãi Bà Tình còn lộ ra đá bazan
đặc xít, màu xám đen có tuổi Pliocen - Pleistoxen hạ (N2 Q1).
Các thành tạo bở rời lộ ra trên mặt có thành phần độ hạt rất đa dạng từ cuội
tảng (dƣới chân các vách biển ở khu vực mũi Bàn Than và bãi Bà Tình) đến cát-sạn
và bùn-sét gặp cả trên đất liền lẫn dƣới đáy biển. Các thành tạo này, do chƣa đƣợc
gắn kết, nên độ bền vững không cao, rất dễ bị biến đổi dƣới tác động của các nhân
tố động lực ngoại sinh, nhƣ sóng, gió, dòng chảy, v.v.
2.1.2.2. Các nhân tố ngoại sinh
a. Đặc điểm khí hậu
Khí hậu là nhân tố có ảnh hƣởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến các quá trình
hình thành và biến đổi địa hình cả trên đất liền, cũng nhƣ dƣới đáy biển. Bởi vì, các
đặc trƣng nhƣ gió, mƣa, nhiệt độ, sâu xa hơn đó là những đặc điểm của hoàn lƣu khí
quyển và sự tƣơng tác của chúng với địa hình khu vực không những gây ra những
hiện tƣợng lũ lụt, bóc mòn, trƣợt lở... trên lƣu vực tạo ra nguồn cung cấp vật liệu
trầm tích cho biển, mà còn trực tiếp tạo ra các quá trình thủy động lực ở vùng cửa
sông, có tác động trực tiếp hay gián tiếp đến các yếu tố động lực biển nhƣ sóng,
dòng chảy, nƣớc dâng, v.v. - là những tác nhân gây ra sự biến đổi địa hình tại đới
bờ. Sóng lại do gió sinh ra. Do đó, trong khu vực nghiên cứu, vai trò của khí hậu
đối với các quá trình bờ chủ yếu là các tác động gián tiếp thông qua gió.
Gió, bão: một trong những nguyên nhân tạo ra sóng, một nhân tố thủy động
lực chủ yếu, trực tiếp gây ra quá trình xói lờ - bồi tụ là gió. Hiểu rõ đặc điểm chế độ
gió của khu vực là hết sức cần thiết. Theo số liệu của trạm Khí tƣợng Thủy văn Đà
Nẵng (nằm ở phía bắc vùng nghiên cứu) để phân tích nhằm tìm ra đặc điểm chế độ
32
gió chung cho toàn vùng. Có thể phân ra các mùa gió chính trong khu vực nhƣ sau:
mùa đông từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau; mùa hè từ tháng 5 đến tháng 8; hai mùa
chuyển tiếp vào các tháng 3, 4 và các tháng 9, 10.
Thang taàn suaát (%)
Thang toác ñoä (m/s)
0 1 2 3 4 5
0,3 1,6 3,4 5,5 8,1 10,1
42,651,6
(A) (B)
Hình 2.3: Hoa gió mùa đông (A) và mùa hè (B) tại trạm Đà Nẵng [2].
Mùa đông: tần suất lặng gió 42,6%; các hƣớng gió thịnh hành là: Bắc
(6,7%), Đông (4,8%), Đông-Nam (4,0%) và Tây-Nam (4,7%). Tốc độ gió cực đại
18 m/s; Mùa hè: tần suất lặng gió lớn, 51,6%; các hƣớng gió thịnh hành: Đông
(6,1%), S (3,3%), và Tây-Nam (2,8%). Tốc độ gió cực đại đạt 20 m/s (hình 2.3).
Thang taàn suaát (%)
Thang toác ñoä (m/s)
0 1 2 3 4 5
0,3 1,6 3,4 5,5 8,1 10,1
43,6 48,8
(A) (B)
Hình 2.4: Hoa gió mùa chuyển tiếp đông sang hè (A) và mùa hè sang đông (B) tại
trạm Đà Nẵng [2]
Mùa chuyển tiếp đông sang hè (tháng 3, 4): các hƣớng gió thịnh hành là:
Đông (8,6%), Bắc (5,7%), và tây-nam (3,4%). Tốc độ gió cực đại 21 m/s; Mùa
chuyển tiếp hè sang đông (tháng 9, 10), các hƣớng gió thịnh hành là: Nam (5,0%),
Đông (4,6%), và tây-nam (2,9%). Tốc độ gió cực đại 24 m/s (hình 2.4).
Một điều khá đặc biệt, trong các trƣờng gió cực đại chủ yếu là gió hƣớng
nam (42,1%), thứ 2 là gió nam-tây nam chiếm 31,5%. Nên chú ý rằng cung độ giữa
2 hƣớng gió cực đại nam và nam-tây nam chỉ bằng 22,5%, điều này chứng tỏ chúng
33
có cùng nguồn gốc là gió mùa đông bắc hoặc là bão, áp thấp nhiệt đới. Tuyệt đại đa
số trƣờng hợp gió có tốc độ 24,0 m/s trở lên đều có hƣớng thuộc cung nam-nam-tây
nam.
Theo số liệu thống kê, từ 1955 tới 2007 có 71 cơn bão đã đổ bộ trực tiếp hay
có ảnh hƣởng đến khu vực nghiên cứu, trung bình có 1,2 cơn bão trong 1 năm. Theo
thang phân loại Saffir-Simson Scale, có 37 cơn bão (typhoon-TY) với sức gió mạnh
nhất ở gần tâm bão đạt từ cấp 12 trở lên (Vmax > 33m/s); 21 cơn bão nhiệt đới
(tropical storm-TS), với 17m/s < Vmax < 33m/s); và 13 cơn áp thấp nhiệt đới
(tropical depression), có Vmax < 17m/s). Tốc độ gió trong bão cực đại đã đo đƣợc là
38.6 m/s.
b. Đặc điểm thủy văn lục địa
Đặc điểm hệ thống dòng chảy sông. Trong vùng nghiên cứu có các hệ thống
sông chính nhƣ hạ lƣu sông Vu Gia, sông Thu Bồn, sông Tam Kỳ, sông Trƣờng
Giang, sông Ly Ly, v.v... Sông Thu Bồn đổ ra biển qua Cửa Đại, sông Tam Kỳ đổ
vào vụng An Hòa rồi đổ ra biển qua cửa An Hòa. Trong đó, trên phạm vi đồng bằng
ven biển, các sông lớn đổ ra biển đều có hƣớng á vĩ tuyến - nghĩa là các cửa sông
gần nhƣ cắt vuông góc với đƣờng bờ biển. Ngoài ra, còn có nhiều suối nhỏ khác
cũng đổ trực tiếp ra biển. Nét đặc biệt về mạng lƣới thủy văn trong vùng nghiên cứu
là sông Để Võng và sông Trƣờng Giang chạy song song với bờ biển hiện nay. Sông
Để Võng nối liền Cửa Đại với cửa Sông Hàn, còn sông Trƣờng Giang lại nối Cửa
Đại với Cửa Lở và cửa An Hòa. Mật độ mạng lƣới sông trong phạm vi nghiên cứu
tƣơng đối lớn. Tuy nhiên, do diện tích các lƣu vực sông đều nhỏ và sông lại chảy
trên đoạn đồng bằng khá dài, nên vai trò của chúng đối với các quá trình địa mạo bờ
ở khu vực này không đáng kể và bị các quá trình biến, chủ yếu là quá trình sóng, lấn
át. Do đó, đƣờng bờ biển tại các cửa sông ở đây đều thẳng. Bờ biển thuộc loại bờ
năng lƣợng sóng chiếm ƣu thế.
c. Các nhân tố thủy động lực biển
Các tác nhân thủy động lực trực tiếp tạo ra sự biến đổi địa hình bờ biển các
bờ sông và đáy biển vùng nghiên cứu bao gồm sóng, dòng chảy và thủy triều.
34
Sóng biển: Sóng là một trong những tác nhân chủ yếu gây nên quá trình biến
đổi đáy và bờ biển khu vực nghiên cứu. Các số liệu đo đạc về sóng, nhất là trong
điều kiện thời tiết đặc biệt (gió mùa mạnh, bão…) ở ngoài khơi là hầu nhƣ không
có. Chính vì vậy xu hƣớng tính toán trƣờng sóng thông qua trƣờng gió là cách làm
ngày càng trở nên phổ biến với độ chính xác ngày càng cao. Có thể phân làm 2 loại:
sóng do bão gây ra và sóng chế độ (do gió mùa gây ra là chủ yếu).
+ Sóng do bão: sóng do bão gây ra, khi đi vào vùng nghiên cứu, có đặc điểm
chung là rất lớn, biến đổi nhanh theo thời gian và thƣờng không kéo dài.
Phần lớn các cơn bão đổ bộ vào dải ven bờ tỉnh Quảng Nam đều có sóng cực
đại và có hƣớng sóng chủ đạo là đông và đông bắc (bảng 2.1).
Bảng 2.1. Đặc trưng sóng do các cơn bão ngoài khơi vùng bờ Hội An gây ra [59].
Stt Thời gian xuất hiện Vĩ độ (0N) Kinh độ (
0E) Vmax(m/s) Hs (m) Hsa (m)
1 04/11/1974 14,9 109,9 23,2 4,8 2,9
2 04/09/1977 17,4 108,4 18,0 3,0 2,3
3 12-21/9/1979 17,4 107,9 18,0 3,7 2,2
4 27/10/1980 16,0 109,0 14,0 2,2 2,2
5 06/09/1982 15,7 109,0 31,0 7,8 7,8
6 27/09/1984 15,5 108,6 12,8 2,4 2,4
7 21/10/1986 15,2 108,8 25,7 6,3 6,3
8 24/05/1989 15,8 108,6 36,0 9,4 9,4
9 16/11/1990 15,8 109,9 36,0 9,6 7,7
10 28/10/1992 14,3 109,4 30,9 7,7 4,2
11 01/11/1995 14,7 108,4 36,0 9,6 5,3
12 25/09/1997 15,5 108,8 38,6 10,3 10,3
13 19/10/1999 15,6 108,8 23,2 5,3 5,3
14 22/08/2000 15,6 109,2 23,2 5,4 5,4
15 17/11/2003 16,9 109,1 33,2 8,7 4,2
Ghi chú: Vmax: tốc độ gió cực đại; Hs: độ cao sóng hiệu dụng cực đại; Hsa: độ cao sóng hiệu dụng
ngoài khơi Hội An.
+ Sóng chế độ: tháng 6-8, mùa gió tây nam, ngoài khơi vùng nghiên cứu
sóng có hƣớng chủ yếu là tây nam, chiếm 62%; độ cao sóng hiệu dụng trung bình
35
0,5-1,5m, chu kỳ trung bình 6s. Các trƣờng sóng này ít tác động tới khu vực nghiên
cứu, nếu có chỉ là sóng khúc xạ vào. Nhƣ vậy, tác động của chúng tới quá trình di
chuyển vật liệu sẽ giảm đi rất nhiều. Từ tháng 10 tới tháng 4 năm sau (mùa gió
đông bắc), sóng hƣớng đông bắc chiếm 75%, độ cao sóng hiệu dụng trung bình 0,5-
2,5m, chu kỳ trung bình 7s. Các tháng chuyển tiếp, tháng 5, tháng 9 hƣớng sóng
thƣờng thay đổi còn độ cao sóng thƣờng < 0,5m. Trong khu vực sóng do gió hƣớng
đông có tần suất xuất hiện chiếm tỷ lệ cao nhất (trên 30%).
Dòng chảy biển: dòng chảy biển đƣợc hiểu là tổng hợp của dòng mật độ,
dòng gió, dòng triều. Ở dải ven bờ, thành phần dòng mật độ giảm đi, dòng triều tăng
lên. Ngoài ra, vùng sát bờ còn chịu tác động của dòng chảy do sóng tạo ra và dòng
chảy sông. Còn ở vùng ven bờ từ 5-10m, dòng chảy có sự khác biệt theo mùa: mùa
hè, dòng chảy cả tầng mặt và tầng sâu 10m, 20m đều có hƣớng đông bắc-tây nam
và chuyển hƣớng bắc nam tại mũi Ban Than ra với tốc độ nhỏ hơn 10cm/s, còn vào
mùa đông, dòng chảy có chủ đạo là từ bắc xuống nam và tốc độ có giá trị lớn hơn
(khoảng 30cm/s trên mặt, giảm xuống khoảng 10m/s ở tầng sâu 20m) [23]. Với tốc
độ này, dòng chảy gần đáy có khả năng vận chuyển các trầm tích có kích thƣớc cát
mịn, đồng thời có sự biến đổi địa hình đáy biển vùng nghiên cứu.
Thủy triều: vùng ven biển khu vực nghiên cứu có chế độ thủy triều tƣơng đối
phức tạp. Đây là vùng giao lƣu giữa chế độ bán nhật triều không đều (ở phía Bắc)
và chế độ nhật triều không đều (ở phía Nam). Thuỷ triều có độ cao lớn nhất khoảng
2,2m, trung bình 0,81,2m, thấp nhất khoảng 0,1m. Do thủy triều có độ cao không
lớn và địa hình lại dốc, nên vai trò của thủy triều đối với các quá trình động lực bờ
không lớn. Tuy nhiên, trong các cửa sông, đầm phá, vai trò của thủy triều cũng thể
hiện khá rõ trong quá trình hình thành và biến đổi địa hình bờ và đáy biển gần bờ.
Vai trò của thủy triều đƣợc biểu hiện theo chu kỳ ngày-đêm (24 giờ).
d. Dao động mực nước biển
Thay đổi mực nƣớc biển, dâng lên hay hạ xuống, dù do bất cứ nguyên nhân
nào-sự nâng, hạ do kiến tạo hay chân tĩnh (tan băng và đóng băng) đều có ảnh
hƣởng lâu dài đến quá trình hình thành và tiến hóa địa hình bờ biển.Trong lịch sử
36
phát triển vỏ Trái Đất nói chung và địa hình bề mặt của nó nói riêng đã xảy ra nhiều
lần biển tiến và biển lùi. Riêng trong kỷ Đệ Tứ, theo các kết quả nghiên cứu của
nhiều nhà khoa học, cũng đã xảy ra tới 4 lần biển tiến và biển lùi. Lần biển lùi với
quy mô lớn nhất gần đây nhất là vào thời kỳ Cực đại Băng hà Lần cuối (Last
Glacial Maximmum-LGM) xảy ra cách ngày nay khoảng 20.000 ± 2.000 BP và
mực nƣớc lúc bấy giờ thấp hơn hiện nay khoảng 120m (theo kết quả của nghiên cứu
của Sathiamurthy và Vois [62] trên thềm lục địa Sunda, thì mực nƣớc thấp hơn hiện
nay là 116m và cách ngày nay 21.000 năm BP). Sau đó mực nƣớc bắt đầu dâng lên
và đạt giá trị cực đai ở mức cao hơn hiện nay khoảng 4,0-5,0m vào thời gian 6.000-
4.000 năm BP. Từ khoảng 4.000 năm BP, mực biển hạ thấp dần cho đến gần đây.
Trong những năm gần đây, những nghiên cứu của IPCC cho thấy, trong thế
kỷ 20 tốc độ dâng lên trung bình của mực nƣớc biển là 1,7 ± 0,5 mm/năm; giai đoạn
1961-2003 tốc độ dâng lên trung bình của mực nƣớc biển là 1,8 ± 0,5 mm/năm; giai
đoạn 1993-2003 là 3,1 ± 0,7 mm/năm. Ở Việt Nam, Nguyễn Ngọc Thụy và đồng
nghiệp (1995) đã tính sự thay đổi mực nƣớc cho 4 điểm dọc bờ biển nƣớc ta là Đồ
Sơn: tốc độ dâng lên trung bình là 2,150 mm/năm, tƣơng tự ở Đà Nẵng là: 1,198
mm/năm, Quy Nhơn là 0,957 mm/năm và Vũng Tàu là 3,203 mm/năm. Kết quả
nghiên cứu của Viện Khí tƣợng, Thủy văn và Môi trƣờng gần đây cho thấy, tốc độ
dâng mực nƣớc trung bình trên dọc bờ biển Việt Nam là 2,5 mm/năm [40]. Tuy
nhiên, giá trị này không đồng đều cho các tỉnh. Cụ thể là: Đà Nẵng: 3,04 mm/năm;
Quảng Nam: 2,74 mm/năm và Quảng Ngãi: 3,73 mm/năm [40]. Mực nƣớc biển
dâng lên dẫn đến sự sửa lại đƣờng bờ biển bằng cách tràn ngập các vùng đất thấp và
xói lở bờ biển trở thành hiện tƣợng phổ biến.
e. Các hoạt động của con người
Con ngƣời đã trở thành một tác nhân địa mạo ngay từ khi mới xuất hiện.
Nhƣng những biểu hiện rõ nhất về mặt này chỉ mới bắt đầu thời kỳ Cách mạng
Công nghiệp và đặc biệt trong thời đại nguyên tử. Những biểu hiện này xảy ra ở
nhiều quy mô khác nhau, từ một diện tích rất nhỏ đến quy mô toàn cầu. Trong thời
đại ngày nay, việc mở mang nhiều cơ sở hạ tầng và cơ sở phát triển kinh tế quan
37
trọng, cũng nhƣ các quần cƣ trên bờ biển đã có tác động không nhỏ đến quá trình
động lực-hình thái bờ sông, bờ biển.
Trong phạm vi nghiên cứu, các hoạt động của con ngƣời có tác động cả trực
tiếp lẫn gián tiếp đến sự hình thành và biến đổi địa hình cả trên phần lục địa ven
biển, bờ biển và phần đáy biển ven bờ. Các hoạt động của con ngƣời đƣợc thực hiện
cả trên các lƣu vực sông, trên dải lục địa ven biển và ngay trên bờ biển ngày càng
biểu hiện rõ nhƣ tại bờ biển phƣờng Cửa Đại (Hội An).
Hoạt động trên lưu vực sông. Việc quy hoạch và bảo vệ các lƣu vực sông
trong vùng nghiên cứu còn nhiều vấn đề, trong đó đáng lƣu ý là xây hồ đập thủy
điện cũng nhƣ hồ chứa. Theo số liệu thống kê, hiên nay ở Quảng Nam có tới 74 hồ
chứa lớn nhỏ vừa là hồ giữ nƣớc vừa là hồ điều tiết dòng chảy cho các sông. Hầu
hết các hồ này đều nằm trên lƣu vực sông Thu Bồn, nhƣ: hồ A Vƣơng 2, Sông
Tranh 2, và các dự án đang hoặc sẽ xây dung, nhƣ: Đăk Mi 4, Sông Bung 4, Sông
Côn 2, Sông Tranh 1, v.v. Việc xây dựng nhiều hồ đập trên lƣu vực đã giữ lại một
lƣợng trầm tích đáng kể vào mùa khô, không đƣợc mang ra biển. Do đó, gây tình
trạng thiếu hụt trầm tích phía bờ biển và dẫn đến xói lở ngày càng trở nên nghiêm
trọng. Đóng góp cho sự thiếu hụt trầm tích còn có cả khai thác cát, sạn, sỏi trên lòng
sông, suối làm vật liệu xây dựng. Ngoài ra, vào mùa mƣa khi có lũ lớn (nhƣ đợt lũ
10/2013) thì lƣợng trầm tích lƣu giữ lại đƣợc mang ra và tích tụ tại cửa sông, dẫn
đến hiện tƣợng bồi cạn và lấp dần cửa biển tại vùng Cửa Đại.
Các hoạt động trên bờ bãi và đáy biển gần bờ. Do nhu cầu phát triển kinh tế,
con ngƣời đã tiến hành nhiều dự án sử dụng các nguồn tài nguyên trên bờ biển. Đó
là khai thác khoáng sản từ trƣớc năm 2008, nhƣ khai thác sa khoáng Imenit, Titan,
Zircon tại xã Duy Hải (Duy Xuyên), Tam Hiệp, Tam Nghĩa, Tam Quang (Núi
Thành), v.v..; các dự án phát triển du lịch ở Hội An, Núi Thành, khu công nghiệp,
nuôi trồng thủy sản trên cát, .v.v.. Các hoạt động này đều có ảnh hƣởng đến các quá
trình bờ: nhƣ bồi tụ hay xói lở.
38
2.2. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA MẠO KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2.2.1. Nguyên tắc thành lập bản đồ địa mạo
Việc nghiên cứu địa mạo trong phục vụ quản lý môi trƣờng bờ biển là nghiên
cứu đặc điểm các dạng địa hình trong khu vực đƣợc thực hiện bằng việc thành lập
bản đồ địa mạo ở tỉ lệ và theo các nguyên tắc phù hợp.
2.2.1.1. Các nguyên tắc chung
Để thành lập bản đồ địa mạo đới bờ biển tỉnh Quảng Nam, tác giả đã sử dụng
kết hợp nguyên tắc hình thái - nguồn gốc - động lực. Điều này đƣợc lý giải nhƣ sau:
Nội dung của bản đồ địa mạo là biểu diễn các đơn vị địa mạo có đặc điểm nguồn
gốc, hình thái, và động lực khác nhau. Theo đó, đơn vị địa mạo là một thành tạo địa
hình riêng biệt, đồng nhất về nguồn gốc và hình thái, đồng nhất về hình thái và động
lực đƣợc tạo ra bởi một quá trình địa mạo tích tụ hay bóc mòn xác định dƣới tác
động của một hay vài nhân tố động lực nhất định (sông, sóng, thủy triều dòng chảy
biển, sinh vật, núi lửa, trọng lực, v.v.). Trong đó, đặc điểm hình thái và trắc lƣợng
hình thái đƣợc quan tâm đầu tiên, sau đó là nguồn gốc và động lực tác động đến quá
trình thành tạo và biến đổi địa hình. Ngoài ra, nguyên tắc hình thái - nguồn gốc đã
đƣợc nhiều nhà khoa học lựa chọn để thành lập bản đồ địa mạo ở tỷ lệ trung bình
hoặc tỷ lệ nhỏ và đƣợc phân chia cho các đơn vị địa mạo trên phần lục địa (ví dụ
nguồn gốc bóc mòn tổng hợp, nguồn gốc sông-biển hỗn hợp, nguồn gốc biển,
nguồn gốc núi lửa, v.v.). Tuy nhiên, ở đây trong điều kiện vùng bờ biển (cả phần bờ
lẫn phần đáy biển ven bờ), theo Leontyev O.K. và những ngƣời khác [20], việc
phân loại địa hình trong môi trƣờng địa mạo biển để sau đó biểu diễn chúng lên bản
đồ cần phải chú ý tới các nhân tố động lực. Trên cơ sở đó, ở phần đáy biển ven bờ,
các đơn vị địa mạo đƣợc phân chia ở đây là bề mặt địa hình, sau đó đƣợc bổ sung
thêm yếu tố động lực tác động lên nó.
2.2.1.2. Nghiên cứu thành lập bản đồ địa mạo
Thành lập bản đồ địa mạo phục vụ cho công tác quy hoạch lãnh thổ nói
chung và quản lý môi trƣờng bờ biển nói riêng, nhằm góp phần tích cực trong việc
đánh giá những tai biến địa mạo xảy ra hay những vấn đề về môi trƣờng xung
39
quanh vùng bờ lựa chọn và đánh giá mặt bằng xây dựng, xác định điều kiện đặt
móng cho các công trình, xác định quy luật phát triển theo thời gian và không gian
các quá trình động lực ngoại sinh quyết định tới sự ổn định của địa hình và các công
trình xây dựng trên nó.
Đối với các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, ổn định an ninh và quốc
phòng xung quanh vùng bờ (chủ yếu là xây dựng các khu nghỉ dƣỡng phục vụ cho
du lịch, cảng biển và khai thác thủy sản) của khu vực bờ biển Quảng Nam. Nghiên
cứu và thành lập bản đồ địa mạo nhằm xác định và lựa chọn các bề mặt địa hình đã
và đang bị biến đổi mạnh mẽ nhƣ hiện tƣợng bồi tụ, xói lở bờ biển do tác động của
các yếu tố động lực ngoại sinh (sóng, gió, dòng chảy sông, dòng chảy biển, …), để
có định hƣớng cho công việc xây dựng đƣờng giao thông, trung tâm giáo dục môi
trƣờng các mô hình kinh tế lớn nhỏ và cách quản quản lý nó, cũng nhƣ đánh giá độ
ổn định của địa hình, nền địa chất và các quá trình động lực ngoại sinh,… Việc
thành lập bản đồ địa mạo phục vụ quản lý môi trƣờng bờ biển còn nhằm chỉ ra, giải
thích và dự báo sự phát triển của các dạng địa hình (ổn định, không ổn định) trên
các dạng cảnh quan - địa hình khác nhau. Tìm và lựa chon các khu vực có địa hình
bờ biển không ổn định, luôn xảy ra các tai biến về địa mạo để đƣa ra các mô hình
quản lý và biện pháp bảo vệ bờ có hiệu quả cao nhất trong vùng. Đó là những lý do
thông thƣờng của việc thành lập bản đồ địa mạo phục vụ cho quản lý môi trƣờng bờ
và phát triển bền vững.
2.2.2. Đặc điểm địa mạo
Phạm vi nghiên cứu là vùng chuyển tiếp, đồng thời có sự giao thoa giữa lục
địa và biển, nên địa hình khá đa dạng về nguồn gốc cũng nhƣ hình thái. Tổng kết
quả nghiên cứu đã xác định đƣợc 36 đơn vị địa mạo, trong đó phần địa hình lục địa
ven biển có 5 nhóm, 26 đơn vị và phần đáy biển ven bờ có 2 nhóm, 10 dơn vị, thuộc
các nguồn gốc-hình thái-động lực khác nhau đƣợc thể hiện rõ trên hình dƣới đây
(hình 2.5).
40
(Tham khảo tài liệu của PGS. TS. Vũ Văn Phái, PGS. TS. Đặng Văn Bào)
Hình 2.5: Bản đồ địa mạo dải ven biển tỉnh Quảng Nam
41
A. ĐỊA HÌNH LỤC ĐỊA VEN BIỂN
2.2.2.1. Địa hình nguồn gốc bóc mòn tổng hợp
Quá trình bóc mòn tổng hợp có quy luật chung là sự giật lùi và thoái hoá của
sƣờn, đồng thời tạo ra ở chân sƣờn một bề mặt nghiêng thoải tƣơng ứng với mỗi
gốc xâm thực cơ sở. Sản phẩm của quá trình này là các bề mặt san bằng và bề mặt
sƣờn với độ cao và độ dốc khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu chúng đƣợc phân
bố chủ yếu là khu vực đồi núi ở phía Tây, bao gồm các dạng địa hình bóc mòn sau:
a. Nhóm các bề mặt san bằng
Do địa hình bị phân cắt mạnh, trong phạm vi vùng núi giáp đồng bằng ven
biển Quảng Nam tại Núi Thành vẫn tồn tại di tích các bề mặt san bằng thuộc các
kiểu pediment có tuổi từ Pleistocen sớm đến giữa.
1). Bề mặt san bằng cao 80-200m tuổi Pleistocen sớm (trong thời kỳ Đệ Tứ,
ứng với mỗi gốc xâm thực cơ sở cũng xảy ra một thời kỳ san bằng địa hình mạnh
mẽ. Các bề mặt san bằng đƣợc thành tạo trong thời kỳ này tồn tại dạng bề mặt yên
ngựa và vai khối núi Hòn Ro và núi Sơn Trà thuộc huyện Núi Thành. Bề mặt
thƣờng nghiêng thoải về phía đồng bằng ven biển và bị các thành tạo trẻ hơn phân
cắt, tạo thành địa hình đồi thoải. Cấu tạo nên bề mặt là các đá có thành phần khác
nhau, bị phong hóa mạnh mẽ.
2). Bề mặt san bằng cao 40-80m tuổi Pleistocen giữa. Quá trình san bằng và
xâm thực tạo ra các bề mặt san bằng tuổi Pleistocen giữa đƣợc kế thừa từ Pleistocen
sớm và các bề mặt san bằng đƣợc thành tạo thƣờng phân bố gần gũi với các bề mặt
cao hơn. Tại đây, bề mặt đƣợc bảo tồn dƣới dạng gò đồi thoải tại khu vực huyện
Núi Thành, chúng đƣợc cấu tạo bởi các đá phiến thạch anh-mica, đá phiến thạch
anh -sericit và đá phiến silic thuộc hệ tầng Núi Vú trong các bề mặt sƣờn bóc mòn.
b. Nhóm các bề mặt sườn
3). Sườn bóc mòn tổng hợp
Sƣờn bóc mòn tổng hợp đƣợc thành tạo do sự giật lùi bề mặt địa hình trong
quá trình pediment hoá hoặc do tổng hợp các quá trình làm giảm độ dốc trên sƣờn
để đạt tới trạng thái cân bằng trọng lực. Quá trình ban đầu phần lớn đã diễn ra trong
42
giai đoạn đầu Đệ tứ, quá trình sau đang xảy ra và khá phổ biến trong vùng khí hậu
nhiệt đới ẩm. Về mặt hình thái, các sƣờn bóc mòn tổng hợp đƣợc chia thành dạng:
độ dốc < 200 và 20-30
0 và > 30
0. Các dạng hình thái này có mối quan hệ chặt chẽ
với thành phần đất đá và tuổi thành tạo của địa hình.
Sƣờn bóc mòn có độ dốc < 200 phân bố tại phần thấp nhất của sƣờn núi phía
đông khối núi Sơn Trà huyện Núi Thành. Sƣờn đƣợc thành tạo do sự hạ thấp sƣờn
dốc trong quá trình tạo bề mặt san bằng cao 40-80m phân bố ở phần chân sƣờn này.
Chúng tạo nên dạng trắc diện gãy khúc của sƣờn khối núi. Sƣờn bóc mòn dốc trên
20-30o phân bố ở độ cao lớn hơn. Bên cạnh các khu vực có tích tụ đá lở, trên sƣờn
này còn nhiều chỗ lộ trơ đá gốc.
4). Sườn xâm thực
Sƣờn có độ dốc dao động từ 20-450 và quá trình địa mạo xảy ra là quá trình
xâm thực dọc các thung lũng sông và theo đáy các khe suối nhỏ là đặc trung cơ bản
của quá trình ngoại sinh trong vùng nhiệt đới ẩm. Hoạt động xâm thực thƣờng đƣợc
tăng cƣờng dọc các đới đập vỡ kiến tạo để tạo nên những sƣờn có trắc diện thẳng,
dốc trên 300 và kéo dài trên khoảng cách lớn. Hiện nay, sƣờn xâm thực phát triển
trên hầu hết các dạng địa hình miền núi phía Tây của khu vực nghiên cứu thuộc
huyện Núi Thành. Trên các sƣờn này, quá trình vận chuyển vật liệu xảy ra mạnh
làm lộ trơ đá gốc hoặc tầng đã bị phong hóa. Hoạt động đổ lở thƣờng xảy ra mạnh
trên các sƣờn cắt vào các đá dạng granit hoặc dạng gneis.
2.2.2.2. Địa hình nguồn gốc dòng chảy và tích tụ tổng hợp
5). Bãi bồi thấp, cao 3-4m, tuổi Holocen giữa-muộn
Đơn vị địa mạo này đƣợc phân bố phân bố chù yếu ở phần hạ lƣu các thung
lũng sông suối. Diện tích lớn nhất của chúng đƣợc gặp tại đồng bằng hạ lƣu sông
Thu Bồn (khu vực Gò Nổi). Dọc các thung lũng này, bãi bồi có chiều rộng từ 800 -
1000m, kéo dài liên tục ờ cả hai bờ sông.
Các bãi bồi thấp có hình thái bề mặt dạng gò với độ chênh cao 1-2m, các gò
này đƣợc thành tạo do sự bồi hoặc xói bề mặt bởi dòng nƣớc vào mùa lũ. Trên bề
mặt bãi bồi còn phát triển nhiều dải trũng thoải phân bố cắt chéo hoặc song song với
43
chiều dài bãi. Đó là dấu vết các lòng sông cổ chƣa đƣợc lấp đầy. Địa hình gờ cao
ven lòng trên các bãi bồi thấp khá đặc trƣng, bề rộng đạt trên 200m dọc bờ sông
Thu Bồn, sông Hội An và phía bắc sông Trƣờng Giang. Cƣ dân hiện tập trung khá
đông trên dải gờ cao này, mặc dù hàng năm đều phải chịu lũ lụt ngập sâu trên 2m.
Cấu tạo nên bãi bồi thấp là các trầm tích gồm tƣớng lòng chiếm ƣu thế, aluvi
tƣớng bãi bồi chỉ dày 2-3m với thành phần là cát bột sét màu xám vàng. Các trầm
tích này phủ trên các thành tạo sông biển tuổi đầu Holocen hoặc trên các thành tạo
Pleistocen. Bãi bồi thấp cắt và tạo vách trên bãi bồi cao hoặc trên các bề mặt tích tụ
vũng vịnh tuổi Holocen trung, phản ánh một thời kỳ phân cắt sâu mạnh mẽ sau biển
tiến Holocen trung. Lòng sông hiện đại đang xâm thực, tạo vách xói lở cao 3-4m
vào bề mặt bãi bồi này.
6). Bãi cát ven lòng cao 2-3m, tuổi Holocen muộn, phần sớm
Đơn vi đia mạo này đƣợc phân bố chủ yếu tại phần hạ lƣu các thung lũng
sông Thu Bổn, sông tự do uốn khúc trên các thành tạo gắn kết yếu và bờ rời, thƣờng
xuyên thay đổi dòng chảy tại các đồng bằng thuộc các huyên Điện Bàn, Duy Xuyên
và TP. Hội An. Các lòng sông bị bỏ rơi đã đƣợc tích tụ mạnh trầm tích tƣớng bãi
bồi vào các mùa lũ, tạo nên địa hình nổi cao dạng đảo hoặc bãi tích tụ ven lòng
sông. Về mặt địa tầng, cả trầm tích lòng sông và bãi bồi ven lòng đều là những
thành tạo hiện đại, chúng chỉ khác nhau về tƣớng. Các bãi bồi vẫn chƣa ổn định, dễ
dàng bị cuốn trôi và biến thành lòng sông vào các kỳ mƣa lũ; trái lại, một số đoạn
lòng sông sau vài mùa mƣa lũ lại có thể trở thành bãi bồi ven lòng. Việc phân chia
này có ý nghĩa quan trọng, vì hiện tại nhiều xóm làng đã đƣợc định vị trên những
bãi bồi này và không có gì đảm bảo cho sự ổn định và an toàn của họ. Thêm vào đó,
các bãi bồi ven lòng vốn là lòng sông đƣợc bồi lấp cách đây không lâu, các trầm
tích hạt thô tƣớng lòng chỉ bị phủ bởi tập hạt nhỏ không dày, nên cũng là đối tƣợng
cần đƣợc đánh giá cho nguồn vật liệu xây dựng cát-cuội-sỏi.
7). Lòng sông và bãi cát thấp ven lòng hiện đại
Lòng sông và bãi cát thấp ven lòng hiện đại là những thành tạo thƣờng xuyên
bị ngập nƣớc của thung lũng sông và đƣợc phân bố hầu hết trên dải ven biển trong
44
phạm vi nghiên cứu. Trong vùng núi, dọc đáy các thung lũng chủ yếu chi phát triển
dạng dịa hình lòng sông hiện đại, đƣợc cấu tạo bởi các trầm tích tƣớng lòng hoặc,
trong nhiều trƣờng hợp lộ trơ đá gốc. Trên dải đổng bằng hạ lƣu sông Thu Bồn,
ngoài lòng các dòng chảy mùa kiệt, tại bờ lồi còn phân bố các bãi cát nguyên là
lòng sông trong mùa mƣa lũ. Các bãi cát ven lòng có độ cao giảm dần từ 1,5 - 2m ở
phần ven bờ sông và khu vực hạ lƣu sông đến 0,5m hoặc ngang đáy ở phần giáp
đƣờng trục của thung lũng. Đây là đơn vị địa mạo phân bố cát cuội sỏi xây dựng có
chất lƣợng tốt và quy mô lớn của tỉnh Quảng Nam. Hiện nay, ở nhiều nơi ngƣời ta
đang khai thác chúng nhƣ đáy sông Thu Bồn. Nhìn chung, việc khai thác không gây
nguy cơ tai biến, nếu tránh đƣợc những vị trí có thể gây ra xói lờ bờ sông. Do lƣợng
bồi tích ở đây lớn, đáy sông lại có độ dốc quá thoải, nên việc khai thác cát sỏi đúng
phƣơng pháp còn có tác dụng khơi thông luồng lạch dòng chảy.
8). Bề mặt tích tụ sườn tích-lũ tích, tuổi Đệ tứ không phân chia
Các bề mặt tích tụ sƣờn tích-lũ tích phân bố dƣới chân các sƣờn dốc và thung
lũng các sông suối nhỏ giáp đồng bằng, chúng tạo nên dải vạt gấu sƣờn tích rộng từ
vài chục đến vài trăm mét, nghiêng thoải từ chân sƣờn về phía đồng bằng. Tùy
thuộc vào thành phần đá gốc trên sƣờn, trầm tích và địa hình tích tụ có sự khác biệt.
Các bề mặt tích tụ dƣới chân những sƣờn đá granit, cát kết và đá phiến (chân núi
Tác Hƣơng, Hòn Ro,...) cấu tạo bởi vật liệu hạt thô với ƣu thế cùa các tảng lăn.
Chân sƣờn của các khối núi đá phiến thƣờng có dạng những bề mặt nghiêng thoải,
cấu tạo bởi vật liệu hạt nhỏ lẫn nhiều bột sét.
9). Các bề mặt tích tụ sông-sườn tích-lũ tích tuổi Đệ tứ không phân chia
Các dạng địa hình trũng do quá trình xâm thực, bóc mòn và tích tụ khá phổ
biến trong phạm vi vùng núi và đồi Quảng Nam. Các bề mặt thƣờng nghiêng thoải
từ chân sƣờn đồi núi về trung tâm trũng, nghiêng theo chiều dòng chảy và đƣợc
thành tạo đồng thời với các thềm sông suối. Vật liệu tích tụ đƣợc đƣa đến từ các
sƣờn kế cận thƣờng có độ mài tròn và độ chọn lọc kém. Các đáy trũng trong vùng
đồi thƣờng có địa hình phẳng hơn và đƣợc cấu tạo bời hai tập trầm tích tƣơng ứng
tƣớng lòng và tƣớng bãi bồi sông, song độ mài tròn chọn lọc ở cả hai tập này đều
45
kém. Vật liệu cùa các thành tạo tích tụ hỗn hợp này gần gũi với đá gốc kế cận, lại
đƣợc chọn lọc nên trong nhiều trƣờng hợp chứa sa khoáng với hàm lƣợng cao.
2.2.2.3. Địa hình nguồn gốc hỗn hợp sông - biển
10). Bề mặt tích tụ sông-biển cao 4-6m, tuổi Holocen sớm-giữa
Phần lớn diện tích của đơn vị địa mạo này bị chôn vùi ờ độ sâu từ 3-10m
dƣới các thành tạo trẻ hơn, chúng chỉ lộ ra và tạo bề mặt cao 4-6 m ở phần đinh tam
giác châu sông Thu Bồn. Đó là bề mặt tƣơng đối phẳng, chúng bị các thành tạo của
bãi bồi ven lòng phủ lên. Cấu tạo nên bề mặt là trầm tích gồm 3 tập: tập dƣới là
thành tạo hạt thô tƣớng lòng, đƣợc tích tụ trong thời kỳ trƣớc biển tiến; tập giữa
gồm các lớp cát bột xen bột sét xám đen; tập trên gổm sét bột xám đen, xám xanh,
đƣợc thành tạo đồng thời với tập sét tƣớng vũng vịnh ở trung tâm đồng bằng. Bề
mặt địa hình này bị cắt bởi bãi bồi thấp của sông. Chúng chuyển tiếp sang bề mặt
bãi bồi cao ở phía tây và bề mặt tích tụ vũng vịnh Holocen giữa ở phía đông.
11). Bề mặt tích tụ sông-biển cao 3-4m, tuổi Holocen giữa-muộn
Đơn vị địa mạo này chỉ đƣợc bảo tồn trên những diện tích hẹp ờ phần hạ lƣu
sông Thu Bồn. Bề mặt tƣơng đối bằng phẳng, độ chênh cao địa hình khoảng 1-2m,
hơi nghiêng thoải về phía xa dần thung lũng sông hiện tại. Cấu tạo nên chúng là
tầng trầm tích gồm cát sạn sỏi ờ dƣới, chuyển lên là tập cát lẫn bột sét xám xanh,
xám vàng. Các bề mặt sông biển tuổi Holocen giữa-muộn cắt vào bề mặt tích tụ
vũng vịnh tuổi Holocen trung và bị bãi bồi thấp ven lòng sông cắt lại.
12). Bề mặt tích tụ sông-biển cao 1-3m, tuổi Holocen muộn, phần sớm
Đây là bề mặt phân bố khá rộng ở vùng hạ lƣu sông Thu Bồn. Địa hình khá
bằng phẳng, hơi trũng, cao 0,5-1m so với các sông cắt vào chúng. Cấu tạo nên bề
mặt là các tập trầm tích gồm cát lẫn bột màu xám đen, xám vàng, chọn lọc kém. Về
phía tây, tại vị trí tƣơng ứng bề mặt này là thành tạo bãi bồi ven lòng sông, xa dần
các thung lũng sông, chúng chuyển tiếp sang các thành tạo tích tụ biển - đầm lầy.
2.2.2.4. Địa hình nguồn gốc biển và đầm lầy ven biển
Các hệ thống sông suối trong phạm vi đổng bằng Quảng Nam có lƣu vực
hẹp, lƣợng phù sa không lớn nên quá trình biển đóng vai trò quan trọng trong việc
46
thành tạo đổng bằng ở đây. Phù hợp với tính chất trên, các dạng địa hình do biển
chiếm điện tích chủ yếu trên phạm vi nghiên cứu với các nhóm chính gổm thềm
biển, bãi biển và hê đê cát - đầm phá thuộc các thế hệ khác nhau.
13). Thềm mài mòn cao 40-60m, tuổi Pleistocen giữa
Thềm mài mòn có độ cao dao động từ 40-60m, đƣợc phân bố tại Tam Mỹ
Đông huyện Núi Thành với diện tích nhỏ hẹp trên phạm vi nghiên cứu.
14). Thêm mài mòn-tích tụ cao 20-30m, tuổi đầu Pleistocen muộn
Thềm mài mòn ở độ cao 20-30m đƣợc phân bố tại Bình Nguyên (Thăng
Bình), Tam Phú (Tam Kỳ), Tam Anh, Tam Hiệp, Tam Mỹ Đông, Tam Quang (Núi
Thành) trong phạm vi nghiên cứu và còn đƣợc bảo tồn khá tốt trên hầu hết dải phía
tây đồng bằng ven biển Quảng Nam. Bề mặt thềm nghiêng thoải từ chân núi về phía
biển, bị phân cắt yếu bời các máng xói, tạo địa hình vòm thoải hoặc lƣợn sóng. Tại
đồng bằng ở Núi Thành thềm có dạng tuyến kéo dài và ôm sát chân núi. Trên mặt
thềm chỉ gặp lớp mỏng cát bột xám vàng hoặc tập cuội sỏi thạch anh mài tròn tốt
phủ trên đá gốc phong hoá manh. Ở xã Tam Quang (Núi Thành) thềm 20-30m là đá
gốc bazan bị phong hoá laterit manh. Tại đây thềm này bị thềm 10-15m cắt vào và
đƣợc liên hệ với các trầm tích vũng vịnh hệ tầng Đại Nga.
15). Thềm mài mòn-tích tụ cao 10-15 m, tuổi cuối Pleistocen muộn
Thềm mài mòn - tích tụ có độ cao từ 10-15m là bậc địa hình chuyển tiếp giữa
các thềm 20-30m với các bề mặt tích tụ vũng vịnh hoặc thềm tuổi Holocen giữa, có
diện phân bố hẹp ở Núi Thành và Tam Phú (Tam Kỳ). Do nằm gần gốc xâm thực cơ
sở, các thềm này thấp nhƣng lại bị phân cắt khá mạnh, tạo địa hình gò hoặc vòm
thoải. Ngoài ra, chúng còn tồn tại ở dạng đồi núi sót nhƣ tại Bình An (Thăng Bình).
Cấu tạo nên thềm là các đá gốc đa dạng về thành phần nhƣ đá phiến phía tây Núi
Thành, đá bazan (Tam Quang, Núi Thành). Trên hầu hết các diện tích này đều gặp
tập cát lẫn bột sét mỏng phủ lên vỏ phong hoá laterit vài lớp đá ong dày.
16). Thềm tích tụ cát biển cao 8-15m, tuổi Pleistocen muộn, phần muộn
Thềm cao 8-15m có diện tích phân bố rộng, bề mặt kéo dài từ Duy Xuyên
đến hết Núi Thành, và gần nhƣ song song với bờ biển, nơi rộng nhất hơn 4km (tại
47
Thăng Bình). Ngoài ra, còn đƣợc phân bố tại Tam Hiệp, Tam Anh, Tam Hòa (Núi
Thành) và còn đƣợc bảo tồn khá tốt. Tạo nên thềm này là cát hạt trung khá tinh
khiết, lớp trên cùng của trầm tích cũng đƣợc rửa sạch tự nhiên cho màu trắng tinh
khiết. Về mặt quan hệ, ở phía tây, thềm này bị thềm 4-6m phân cắt và tạo vách.
Hiện nay, thềm này vẫn chịu tác động của gió và có các dòng chảy tạm thời khi mùa
mƣa đến. Độ cao trung bình của thềm khá ổn định từ 10-12m. Đây là dạng địa hình
cổ không bao giờ bị ngập lũ, ngay cả lũ thế kỷ.
17). Thềm tích tụ cát biển cao 4-6m, tuổi Holocen giữa
Thềm biển cao 4-6m đƣợc thành tạo trong thời kỳ cực đại của biển tiến
Flandrian, hiện tồn tại trên độ cao từ 4-6 m và cắt vào các thềm cát biển cao 8 -
15m. Sự phân bố kề nhau của hai thành tạo 4-6m và 8-15m đƣợc quan sát tại khu
vực Hội An-Vĩnh Điện, phía đông Thăng Bình, Tam Kỳ, tại Tam Ngĩa và Tam Hải
(Núi Thành). Thềm này đƣợc bảo tồn trên một diện tích rộng tạo nên dải đất cao
Hội An-Đà Nẵng, Duy Nghĩa-đông Tam Kỳ. Bề mặt đƣợc thể hiện rõ và điển hình
của thời kỳ này đƣợc phân bố tại khu vực Hội An-Đà Nẵng và Tam Nghĩa (Núi
Thành). Phần giáp biển, mặt thềm bị gió tác động và cải biến thành những cồn
cát cao 10-20m, nằm kéo dài dọc theo bờ biển nhƣ những đê cát. Hiện nay, trên
bề mặt địa hình này, tại sát bờ biển Thăng Bình, Tam Kỳ và Núi Thành đang
đƣợc khai thác và sử dụng để nuôi trồng thủy sản trên cát.
18.) Thềm tích tụ cát biển cao 2-3m, tuổi Holocen muộn
Dọc dải bờ biển Quảng Nam bề mặt này đƣợc phát triển trên bãi biển cổ
đƣợc nâng và tạo thềm 2-3m. Thềm 2-3m này đƣợc phân bố ở phía đông cồn cát
thiên nhiên từ Điện Ngọc đến Cửa Đại và ở Tam Phú, Tam Tiến, Tam Hòa, Tam
Hải (Núi Thành). Đó là các bề mặt có chiều rộng 200-700m, địa hình bằng phẳng,
nghiêng thoải về phía biển, cấu tạo bởi cát hạt trung đến thô-màu xám vàng, chọn
lọc và mài tròn tốt. Chúng cắt vào các thềm cổ hơn, về phía đông đƣợc phân biệt
với bãi biển hiện đại bởi các gò cồn cát cao 3-5m đang dịch chuyển về phía lục địa.
19). Thềm tích tụ biển-vũng vịnh cao 8-12m, tuổi Pleistocen muộn, phần sớm
Các bề mặt tích tụ vũng vịnh này tƣơng ứng với thềm tích tụ cát cao 8-15m
48
đƣợc phân bố tại Bình Phục (Thăng Bình), Tam Anh Bắc, Tam Hiệp và phía tây
bắc Tam Mỹ Đông (Núi Thành). Các trầm tích vũng vịnh tạo nên bề mặt tƣơng đối
phẳng, nghiêng thoải từ tây sang đông. Tập sét bột kaolin cấu tạo nên bề mặt bị
phong hoá mạnh mẽ cho màu trắng loang lổ đỏ với nhiều kết vón, kết cục laterit.
Bề mặt bị phân cắt nhẹ bời các máng xói tạo địa hình lƣợn sóng thoải. Phần
đỉnh các gò sót thƣờng bảo tồn đƣợc lớp trầm tích trên cùng gồm cát bột màu trắng
xám ứng với tƣớng biển lùi của mặt cắt trầm tích vũng vịnh.
20). Bề mặt tích tụ biển-vũng vịnh cao 4-6m, tuổi Holocen giữa
Đơn vị địa địa mạo này tạo nên bề mặt đồng bằng khá bằng phẳng ở độ cao 4
-6m, chúng đƣợc phân bố tại Điện Thắng bắc (Điện Bàn), Bình Tú, Bình Trung
(Thăng Bình). Bề mặt nghiêng thoải về phía bờ biển. Cấu tạo nên bề mặt là thành
tạo khá đặc trƣng cho tƣớng vũng vịnh: phần ven bờ và đáy vũng vịnh là các vật
liệu thô nhƣ cát, cát bột, cát sỏi, ở giữa là lớp sét bột màu xám xanh, xám đen giàu
thực vật hoá than với tập hợp bào tử phấn hoa của đới rừng ngập mặn ven biển.
21). Bề mặt tích tụ biển-vũng vịnh cao 1-3m, tuổi Holocen muộn, phần sớm
Đơn vị địa mạo này cấu tạo nên các dải rộng từ 800-3000m và đƣợc phân bố
ở phía tây bắc Vĩnh Điện, phía bắc Tam Kỳ và Tam Giang (Núi Thành). Bề mặt có
hình thái tƣơng đối phẳng, hơi trũng, chỉ cao hơn mặt các sông suối cắt qua khoảng
0,5-1m, nghiêng thoải về phía đáy trũng và về phía các cừa sông. Cấu tạo nên chúng
là các tập trầm tích gồm cát lẫn bột sét, bột sét màu xám đen giàu di tích sinh vật.
Tại đây, các thành tạo đầm phá có quan hệ chuyển tiếp với các bãi bồi ven lòng,
chúng cắt và tạo vách vào bề mặt thềm biển 4-6m và hiện đang bị lấp dần bởi cát
bay, cát chảy từ các cồn cát phía đông tới.
22). Bề mặt tích tụ biển-đầm lầy ven biển cao 3-5m, tuổi Holocen giữa
Đơn vị địa mạo này có diện tích rất nhỏ trong khu vực nghiên cứu, chúng
đƣợc phân bố ở phía nam Tam Hiệp (Núi Thành), phía tây Bình Dƣơng và tây bắc
Bình Đào (Thăng Bình).
23). Bề mặt tích tụ biển- đầm lầy ven biển cao 1,5-3m, tuổi Holocen giữa-muộn
Trong khu vực nghiên cứu, đơn vị địa mạo này có diện phân bố rất nhỏ, chủ
49
yếu tại vùng hạ lƣu sông Thu Bồn (Hội An), Duy Ngĩa, Duy Hải (Duy Xuyên).
24). Bề mặt tích tụ đầm lầy ven biển tuổi Holocen giữa-muộn
Đơn vị địa mạo này là bề mặt tích tụ vũng vịnh sau biển tiến Holocen trung
cũng có bất thƣờng, đó là sự thu hẹp của các vũng vịnh và phổ biến các đầm lầy và
đầm phá có hoạt động dòng chảy mạnh. Các đầm phá, đầm lầy thƣờng đƣợc phân
bố kế cận phía trong các đê cát, kéo dài song song với bờ và nối liền giữa các cừa
sông. Đầm phá điển hình là dải trũng kéo dài từ Cửa Đại đến Ngũ Hành Sơn, đã
trong quá trình thoái hoá, đây đã từng là sông Để Võng-tuyến đƣờng giao thông
quan trọng nối liển Đà Nẵng-Hội An thời kỳ thịnh vƣợng cùa đô thị cổ này. Ngoài
ra, chúng còn phân bố dọc các sông Trƣờng Giang, Tam Kỳ và sông Bến Ván. Cấu
tạo nên bề mặt này không phải là các trầm tích hạt mịn với các tập sét dày nhƣ các
thời kỳ truớc đây mà là các lớp cát lẫn bột sét giàu vật chất hữu cơ, lớp mỏng sét
xám đen và thấu kính than bùn. Phần trên mặt thƣờng là lớp cát lẫn bột xám vàng
đƣợc thành tạo do hoạt động bồi tụ của sông vào mùa mƣa lũ, kết thúc chế độ đầm
phá của chúng. Một số đầm lầy ờ vùng cửa sông còn chịu ảnh hƣởng của thủy triều,
các bãi cây mặn lợ tại đây đã tạo nên sự đa dạng sinh thái, cần có kế hoạch bảo tồn .
25). Bề mặt tích tụ đáy đầm phá hiện đại
Trong phạm vi nghiên cứu, đơn vị địa mạo này đƣợc phân bố ở vụng An Hòa
(Núi Thành). Độ sâu ở phía tây và nam vụng đạt từ 0,5-2,0m, tại các cửa sông Chợ,
Bến Ván, An Tân (Núi Thành), do các quá trình sông suối phía tây và biển ở phía
đông, bề mặt phía tây vụng tại xã Tam Hiệp (Núi Thành) đã đƣợc tích tụ và tôn cao
nhƣ bãi bồi. Bề mặt này khá bằng phẳng và gần nhƣ nằm ngang, đồng thời nghiêng
về cửa Kỳ Hà và tồn tại một lạch nƣớc sâu từ 7-10m. Trầm tich cấu tạo nên bề mặt
phía đỉnh vụng là cát bùn, bùn cát có màu xám vàng đến xám đen, phía nam vụng ra
đến cửa Kỳ Hà chủ yếu là bùn-sét có màu xám xanh do lẫn vật chất hữu cơ đƣợc
tích tụ tại đây. Lớp trầm tích trong vụng có chiều dày khá lớn, từ 5-15m. Hiện nay,
ở phía đông vụng tại cửa Kỳ Hà đƣợc quy hoach là cảng cá, cảng công nghiệp và
quân cảng cảnh sát biển trong khu vực, phía tây bắc đƣợc khai thác nuôi trồng thủy
sản, phía nam ụng đƣợc trồng rừng ngập nặm chủ yếu là cây Đƣớc, Mắm (hình 2.6).
50
Hình 2.6: Bề mặt tích tụ hiện đại và thảm rừng ngập mặn tại vụng An Hòa (Núi
Thành) (ảnh Trần Văn Bình, 7/2013)
2.2.2.5. Địa hình nguồn gốc biển-gió
26). Cồn cát tích tụ biển-gió tuổi Holocen muộn. Đơn vị địa mạo này đƣợc phân bố
rộng rãi trên dải ven biển trong phạm vi vùng nghiên cứu. Đó là các dải cồn cát có
độ cao từ 7-8m đến trên 10m, chúng tạo thành một dải kéo dài và song song với
đƣờng bờ biển hiện đại, có chiều rộng thay đổi từ 200 - 1500m, xuống phía nam thì
bị thu hẹp lại và thấp dần (do cấu tạo của địa hình ban đầu), và đƣợc kéo dài từ 5-
10km, có nơi dài hơn 20km. Chúng đƣợc thể hiện rõ rệt nhất tại các khu vực Điện
Bàn, Thăng Bình, Núi Thành. Các thành tạo cồn cát sau biển tiến Holocen trung
thƣờng chịu tác động mạnh của gió để tạo nên các đê thiên nhiên cao từ 5-10m tại
Cửa Đại (Hội An), Tam Hòa, Tam Tiến (Núi Thành), có nơi từ 18-20m nhƣ tại các
xã Bình Minh, Bình Đào, Bình Hải, Bình Nam (Thăng Bình). Nhìn chung, về hình
thái chúng là sƣờn đón gió (sƣờn đông) nghiêng thoải 8-15° với nhiều cồn thấp dần
về phía biển, sƣờn khuất gió (sƣờn tây) thƣờng dốc trên 30°, hiên tƣợng cát bay, cát
chảy đang phát triển mạnh và đê cát đang đƣợc dịch chuvển về phía lục địa, lấp dần
các đầm phá ở phía trong. Thành phần trầm tích của nó đều là cát có màu xám sáng
đến xám vàng. Thực chất, đây là bề mặt tích tụ do sóng tuổi Holocen giữa và có thể
51
cả trầm tích biển tuổi Pleistocen muộn?, nhƣng sau khi thoát khỏi mực nƣớc biển,
gió bắt đầu tác động và vun cát lên thành các cồn cát cao. Hiện nay, các cồn cát này
ở độ cao 6-7m tại xã Tam Tiến, Tam Hải (Núi Thành) đã và đang bị ảnh hƣởng bởi
quá trình xói lở, trong điều kiện thời tiết cực đoan nhƣ gió bão (hình 2.7, ảnh trái),
nhƣng sau đó lại đƣợc tái tạo lại phía dƣới chân cồn do gió (hình 2.7, ảnh phải).
Hình 2.7: Cồn cát cao 6-7m bị xói lở tạo vách dốc (trái, 7/2013), sau đó đang
đƣợc tái tạo lại do gió vun lấp dƣới chân cồn (phải, 6/2014) (ảnh Trần Văn Bình)
B. ĐỊA HÌNH ĐÁY BIỂN VEN BỜ
2.2.2.6. Địa hình trong đới sóng vỗ bờ (đến độ sâu 5m)
27). Bãi biển tích tụ hiện đại do tác động của sóng
Hiện nay, trên toàn dải bờ biển Việt Nam có bãi biển tích tụ do tác động cúa
sóng phát triển rất hạn chế, nó chỉ tồn tại trên từng đoạn bờ không dài, thƣờng ở
những khúc cong lõm của đƣờng bờ có bán kính không lớn, phía sau các vật cản,
hoặc ở những khu vực có phong phú vật liệu trầm tích (nguồn vật liệu để cung cấp
có thể là sản phẩm xói lở của các đoạn bờ lân cận). Trong phạm vi nghiên cứu, đơn
vị địa mạo này đƣợc phân bố tại bờ phía tây cửa Lở xã Tam Hải (Núi Thành). Bãi
biển tích tụ có kiểu trắc diện đầy đủ, cong lồi và nghiêng thoải về phía biển, thành
phần vật liệu cấu tạo bãi chủ yếu là cát hạt mịn. Điều đó cho thấy tác động của sóng
ở các khu vực này không mạnh. Một dấu hiệu khác cho thấy bãi biển đang đƣợc mở
rộng là có sự hình thành các cồn cát phôi thai ngay phía sau bãi (hình 2.8).
52
Hình 2.8: Bãi biển tích tụ hiện đại ở bờ phía tây cửa Lở xã Tam Hải (Núi Thành)
(ảnh Trần Văn Bình, 6/2014)
28). Bãi biển tích tụ hiện đại do tác động của sông-biển
Đơn vị địa mạo này đƣợc phân bố tại khu vực Cửa Đại (Hội An) và Cửa Lở
(Núi Thành), bãi biển kiểu này đƣợc phát triển gần cửa các con sông mang ra biển
lƣợng phù sa đáng kể nhƣ sông Thu Bồn. Nét nổi bật của nó là có các bar cát tích tụ
trƣớc cửa sông. Ở đây vai trò của sóng chiếm ƣu thế nên bề mặt tạo ra các bar cát có
hƣớng thẳng góc với hƣớng chảy của sông và còn đƣợc gọi là bãi biển tích tụ do tác
động của sông-sóng tồn tại ở trƣớc khu vực cửa Đại của sông Thu Bồn, còn tại khu
vực cửa Lở nguồn vật liệu không phải từ trong sông mang ra mà do quá trình xói lở
bờ ở khu vực lân cận, tại đây chịu tác động tổng hợp các yếu tố động lực gồm:
sóng, dòng chảy sóng và dòng chảy trong sông để tồn tại bãi biển này trƣớc cửa Lở.
Bề mặt của nó gần nằm ngang và không bằng phẳng, vì trên đó còn có nhiều dạng
địa hình nổi cao (các bar) và rãnh trũng (có thể là rãnh xâm thực của dòng chảy ở
cửa sông). Bề mặt này không ổn định về diện tích vì luôn bị tác động của sóng và
dòng chảy từ trong sông ra, có khi trong một năm đã có sự thay đổi khác biệt về
mùa mƣa và mùa khô. Do đặc điểm hình thái và động lực thành tạo vừa nêu trên,
nên thành phần độ hạt trầm tích của bãi biển loại này cũng không đồng nhất mà bao
gồm cả cát và bùn (trong các bar) lẫn bùn (trong các bộ phận nằm xen giữa các bar).
53
Hiện nay, quá trình tích tụ vẫn đang diễn ra ở đây khá mạnh mẽ, làm cho khu vực
cửa sông ngày càng cạn dần và dẫn đến bị bồi lấp, ngoài ra bãi biển cũng đƣợc mở
rộng về phía biển. Do đó, đƣờng bờ ở những khu vực này thuộc loại không ổn định.
29). Bề mặt xói lở-tích tụ do tác động của sóng chiếm ưu thế
Bãi biển tích tụ-xói lở do tác động của sóng chiếm ƣu thế là một đơn vị địa
mạo đƣợc sử dụng để chỉ sự phá huỷ các đoạn bờ cấu tạo bởi trầm tích bở rời, chủ
yếu là cát, hay còn dƣợc gọi là xói lở bờ cát. Hiện nay, hiện tƣợng này rất phổ biến
dọc bờ biển nƣớc ta. Trong phạm vi nghiên cứu, thành tạo địa mạo này chiếm một
diện tích không nhỏ, chúng đƣợc phân bố dọc theo đƣờng bờ biển cấu tạo bằng cát
với chiều dài xấp xỉ 85km, từ xã Điện Ngọc (Điện Bàn) đến xã Tam Nghĩa (Núi
Thành) và nằm trong phạm vi độ sâu từ 0 đến 5 mét nƣớc. Bãi biển bao gồm cả
phần bãi trên triều, bãi triều và bãi dƣới triều. Về mặt hình thái, bề mặt này tƣơng
đối bằng phẳng và nghiêng thoải về phía biển với ba bậc có chiều rộng khác nhau
trên mỗi bãi biển: bãi trên triều gồm các gò cồn cát nhỏ không đƣợc nối liền nhau,
đang di động mạnh; bãi triều cao là bề mặt nghiêng thoải từ chân gò cồn cát về mép
nƣớc, chỉ chịu tác động của sóng vào mùa mƣa bão và bãi dƣới triều có bề mặt gần
nhƣ nằm ngang là nơi thƣờng xuyên chịu tác động của sóng vỗ bờ. Ranh giới giữa
hai bãi triều thƣờng là vách cao 1-l,5m hoặc là mặt nghiêng dốc từ 8-10o, có khi đến
15-20o hoặc dốc hơn. Phía ngoài bãi biển, hầu hết đều có hệ thống các bar cát ngầm
đƣợc biểu hiện bằng đới sóng vỡ, đƣợc quan sát thấy trên nhiều đoạn bờ đồng thời
cũng thấy rõ trên ảnh vệ tinh. Thành phần vật liệu cấu tạo nên bãi biển ở đây chủ
yếu là cát lẫn ít vụn sinh vật (cát: 89-99%), có kích thƣớc độ hạt từ trung đến nhỏ
mịn (bảng ), độ mài tròn và chọn lọc tốt. Cát có màu xám sáng đến xám vàng, nhiều
chỗ có màu xám đen do có lẫn quạng Imenit (hình 2.10, ảnh phải). Hiện nay, hầu
hết các bãi biển ở đây đều đang bị xói lở với tốc độ khác nhau ở từng đoạn bờ dƣới
tác động trực tiếp của sóng biển. Thông thƣờng, bãi biển ở đây vào mùa đông (mùa
gió đông bắc) bị xói lở mạnh, còn mùa hè (mùa gió đông nam) vẫn đƣợc bồi tụ. Tuy
nhiên lƣợng bồi trong mùa hè không đủ bù lại lƣợng xói lở trong mùa đông. Kết quả
cuối cùng bãi biển càng lấn sâu vào lục địa hoặc bị thu hẹp. Các đoạn bờ bị xói lở
54
không ổn định. Tại những đoạn bờ bị xói lở mạnh, bãi trên triều đã bị biến mất và
chuyển lên bề mặt tích tụ tuổi Holocen giữa bằng một vách dốc đứng. Điều này
quan sát đƣợc rất rõ ở bờ biển phía bắc Cửa Đại, xã Tam Hòa, Tam Tiến, phía nam
Cửa Lở xã Tam Hải (Núi Thành) (hình 2.9 và 2.10).
Hình 2.9: Cấu tạo các bộ phận bãi biển (trái): bãi trên triều hơi nghiêng về phía biển, bãi
triều tƣơng đối dốc; Phân lớp tích tụ trầm tích bãi biển (phải) ở phía bắc cửa Đại (ảnh
Trần Văn Bình, 2014)
Hình 2.10: Bãi biển đang bị xói lở mạnh tại khu vực phƣờng Cửa Đại – Hội An (trái),
xã Tam Tiến (giữa) và khu vực Cửa Lở, Tam Hải, Núi Thành (phái) (ảnh Trần Văn
Bình, 2013 và 2014)
Do quá trình xói lở đang hoạt động, nhiều công trình nhƣ nhà cửa, đƣờng
giao thông, nhiều vùng đất đã bị phá huỷ do xói lở là vấn đề rất cấp bách và đƣợc sự
quan tâm của các cấp nhà nƣớc và nhân dân. Ngoài ra, đơn vị địa mạo này còn có
vai trò quan trọng trong việc quy hoạch và quản lý môi trƣờng bờ biển. Vì vậy,
chúng đƣợc tác giả nghiên cứu, phân tích và đánh giá chi tiết hơn tai chƣơng 3.
55
30). Bề mặt xói lở do tác động của sóng.
Bề mặt này quan sát đƣợc tại Cửa Lở (Tam Hải) và bãi Bà Tình (Tam
Quang). Hiện nay, hoạt động xói lở đang diễn ra mạnh vào mùa gió đông bắc,
không thấy dấu hiệu bồi tụ.
31). Bề mặt mài mòn-tích tụ do tác động của sóng
Đơn vị địa mạo này đƣợc phân bố ở các đoạn bờ cấu tạo bằng đá có độ bền
vững cao, nhƣ mũi An Hòa xã Tam Hải và Tam Quang (Núi Thành). Đây là bề mặt
đƣợc phát triển dƣới chân khối đá bazan hệ tầng Đại Nga. Về hình thái nhƣ một
thềm bazan cấu tạo nên bãi biển, đồng thời thể hiện khá rõ ràng các vách (cliff) và
nền mài mòn, bãi biển này thƣờng đƣợc gọi là nền mài mòn (platform) hay bench.
Hình 2.11: Bãi biển mài mòn-tích tụ phát triển trên đá bazan hệ tầng Đại Nga tại bờ
biển xã Tam Quang , Vách xói lở trên đá bazan bị phong hóa (trái) và nền mài mòn
(phải) (ảnh Trần Văn Bình, 2013)
Tại khu vực này, nền mài mòn trên đá bazan khá bằng phẳng, hơi nghiêng về
phía biển có chiều rộng từ vài chục mét đên 50-70m, còn độ cao của vách phụ thuộc
vào độ cao của khối bazan lộ ra trên bờ biển (hình 2.11). Quá trình mài mòn hiện
nay vẫn đang tiếp tục xảy ra dƣới tác động của sóng biển, nhƣng không đáng kể.
Tích tụ chỉ xảy ra ở phần thấp của bãi, và xen giữa các khối mài mòn, hoặc thậm chí
không có tích tụ. Do đó, tại các đoạn bờ biển đƣợc thềm bazan bảo vệ khá ổn định.
2.2.2.7. Địa hình trong đới sóng phá hủy và biến dạng (5-20m nước)
32). Bề mặt mài mòn-tích tụ nghiêng dốc do tác động của sóng
Đơn vị địa mạo này cũng đƣợc phân bố ở đoạn bờ có đá gốc, dƣới chân một
số khối đá bazan ở khu vực mũi An Hòa - Tam Hải,Tam Quang (Núi Thành). Bề
56
mặt này có độ nghiêng khá lớn, độ dốc thay đổi từ 5-7o có chỗ lớn hơn 15
o và nằm
trong khoảng độ sâu từ 4m đến 10-20m, thậm chí còn sâu hơn nữa, đồng thời có sự
xen kẽ là những khối đá gốc, tại đây còn thấy đƣợc vách mài mòn bị ngập nƣớc thể
hiện rõ trên băng đo sâu hồi âm (hình 2.12).
Hình 2.12: Vách mài mòn bị ngập nƣớc thể hiện trên băng đo sâu hồi âm từ độ sâu
4-15m tại vùng biển xã Tam Quang (08/06/2014)
Vật liệu tích tụ thƣờng có kích thƣớc giảm dần từ trong ra phía ngoài khơi.
Phần trên của bề mặt này có quá trình mài mòn chiếm ƣu thế, đặc biệt khi thời tiết
xấu (bão hoặc gió mùa đông-bắc). Hoạt động tích tụ xảy ra giữa các khối mài mòn,
hoặc thậm chí không có tích tụ do nguồn cung cấp vật liệu ít (chủ yếu do mài mòn).
Hiện nay, quá trình này vẫn đang tiếp tục diễn ra dƣới tác động của sóng biển,
nhƣng tốc độ không đáng kể.
33). Bề mặt xói lở-tích tụ nghiêng thoải do tác động của sóng
Đơn vị địa mạo này đƣợc phân bố thành một dải liên tục phía ngoài bãi biển
của các đoạn bờ cát, trên dải đáy biển gần bờ trong vùng nghiên cứu. Bề mặt này
đƣợc phân bố ở độ sâu từ 5-15m, tƣơng đối bằng phẳng và có độ nghiêng thoải dần
về phía biển khơi. Chiều rộng của bề mặt đạt 1-1,5km, một vài nơi có thể rộng tới
trên 3,0km, nhƣ ở khu vực phía bắc cửa Đại, và vùng biển ven bờ xã Tam Nghĩa
(Núi Thành). Thành phần trầm tích cấu tạo nên đơn vị địa mạo này chủ yếu là cát
nhỏ. Hiện nay, quá trình tích tụ xảy ra chiếm ƣu thế hơn so với quá trình xói lở.
Nguồn cung cấp vật liệu trầm tích chủ yếu đƣa từ bờ ra do xói lở bờ và bãi ở
phía trên hoặc đƣa từ đáy vào bờ theo cơ chế di chuyển ngang của trầm tích.
57
34). Bề mặt tích tụ-xói lở gần nằm ngang do tác động của sóng chiếm ưu thế
Đơn vị địa mạo này đƣợc phân bố ở vùng biển ngoài khơi huyện Điện Bàn
đến phía bắc Cửa Đại (Hội An), trong phạm vi độ sâu 20-25m, bị thu hẹp ở phía
ngoài khơi vùng Cửa Đại để chuyển sang bề mặt tích tụ - xói lở hơi nghiêng. Nhìn
chung, địa hình đáy biển không đƣợc bằng phẳng lắm, chênh lệch về độ sâu chỉ 1-
3m. Trên phông chung, đáy biển gần nhƣ nằm ngang. Trầm tích phủ trên bề mặt này
đêu là cát-bùn và bùn-cát. Nguồn vật liệu này có thể chủ yếu do sự cải tạo lại địa
hình cũng nhƣ trầm tích dƣới tác động của sóng. Tại đây, có sự tác động của sóng,
đáy biển bị xói lở và phân bố lại vật liệu nhằm san phẳng địa hình đáy. Vì vậy, có
thể xếp đáy biển ở đây là bề mặt tích tụ-xói lở do tác động của sóng chiếm ƣu thế.
Bề mặt này cũng có thể xem là đới đƣờng bờ cổ vào đầu Holocen (?) và cũng có
khả năng tập trung sa khoáng, nhƣng không nhiều.
35). Bề mặt tích tụ-xói lở hơi nghiêng do tác động của sóng và dòng chảy gần đáy
Đây là đơn vị địa mạo có diện phân bố rộng trong phạm vi vùng biển nghiên
cứu và kéo dài một cách khá liên tục từ phía nam cửa Đại (ở phía ngoài), đến phía
ngoài mũi An Hoa (Núi Thành) và nằm trong phạm vi độ sâu từ 15-20m, có chỗ
đƣợc mở rộng ở độ sâu lớn hơn 25m. Bề mặt này có địa hình đáy khá bằng phẳng
và hơi nghiềng ra phía biển khơi, là bề mặt kế tiếp của bề mặt xói lở - tích tụ do tác
động của sóng. Đây là bề mặt có diện tích rộng nhất trong khu vực nghiên cứu, có
chiều rộng thay đổi từ 1-2km, có nơi hơn 7km (vùng biển ngoài khơi huyện Thăng
Bình). Thành phần vật chất cấu tạo nên bề mặt này chủ yếu là cát-bùn, bùn-cát và
cát. Hiện nay, quá trình địa mạo vẫn đang diễn ra ở đây gồm cả tích tụ và xói lở,
dƣới tác động của sóng chiếm ƣu thế kết hợp với dòng chảy gần đáy. Nguồn vật liệu
tích tụ (vào lúc thời tiết yên tĩnh) chủ yếu đƣa từ bờ ra do xói lở bờ và bãi ở phía
trên hoặc đƣa từ đáy vào bờ theo cơ chế di chuyển ngang của trầm tích và xói lở
(khi có thời tiết xấu)
36). Bề mặt tích tụ hiện đại trên đáy đầm phá cổ
Đơn vị địa mạo này đƣợc phân bố ở phía ngoài trƣớc Cửa Đại, trong phạm vi
độ sâu 20-21m, bề mặt này có dạng là một vùng đáy trũng hơn so với xung quanh.
58
Đồng bằng này có dạng là một vùng đáy trũng hơn so với xung quanh. Phía biển
của nó đƣợc bao quanh bởi một hệ thống “bar ngầm” khá lớn nhô cao khỏi bề mặt
đáy. Vùng trũng này đƣợc thông với phần sâu hơn ở phía ngoài bằng một cửa hẹp.
Trầm tích cấu tạo nên bề mặt này chủ yếu là bùn-sét. Nguồn cung cấp vật liệu trầm
tích cho nó có thể do xói lở phần địa hình cao hơn ở phía ngoài và do di chuyển
trầm tích dọc bờ. Tuy nhiên, lƣợng trầm tích không nhiều, nên quá trình tích tụ diễn
ra liên tục và rất chậm chạp dẫn đến bề mặt đƣợc lấp đầy bởi bùn-sét.
C. CÁC DẠNG BỜ BIỂN
Hiện nay, đã có một số bảng phân loại bờ biển Việt Nam theo các nguyên tắc
truyền thống mang ý nghĩa khoa học nhiều hơn đã đƣợc đƣa ra bởi các nhà khoa
học trên thế giới. Theo đó, dựa vào đặc điểm của quá trình động lực (chủ yếu là
sóng), đặc điểm thành phần thạch học của các đá tạo bờ và quan trọng hơn, là ý
nghĩa sử dụng của các dạng bờ trong các lĩnh vực thực tiễn, bờ biển trong khu vực
nghiên cứu gồm có những dạng sau:
1) Bờ biển xói lở trên lớp phủ bazan đã bị phong hóa do sóng
Kiểu bờ này quan sát đƣợc ở các khối đá gốc tại mũi An Hòa, xã Tam Quang
(Núi Thành), bờ có lớp phủ bazan lộ ra ngay sát biển và chịu tác động của sóng. Bờ
biển ở đây cũng có cliff dốc đứng tạo dạng địa hình hàm ếch và bench khá rộng.
Dƣới chân cliff có một lớp tích tụ cát mỏng và các khối tảng. Ngoài mài mòn do tác
động của sóng, sự giật lùi bờ ở đây còn có sự tham gia của trƣợt lở và đổ lở do sụp
mái. Quá trình này vẫn đang tiếp diễn, nhƣng tốc độ giật lùi bờ không lớn. Kiểu bờ
này tƣơng đối ổn định. Riêng đoạn bờ khu vực bãi biển Bà Tình (Tam Quang, Núi
Thành) có chiều dài đƣờng bờ gần 800m, đƣợc cấu tạo bởi khối đá bazan đã bị
phong hóa. Phần trên đã bị biến thành đất sét alit-feralit màu vàng loang lỗ. Bề dày
của lớp đất phong hóa này có nơi tới gần 40m. Dƣới lớp đá phong hóa là đá laterit
với sỏi sạn màu nâu sẫm gắn kết khá. Lớp laterit này lộ ra ở nhiều nơi do hoạt động
của sóng, Tại đây, quá trình mài mòn - xâm thực của sóng đã làm cho đoạn bờ này
bị đổ lở nghiêm trọng trong những năm gần đây.
59
2) Bờ biển xói lở-tích tụ trên trầm tích bở rời do sóng
Đây là kiểu bờ khá phổ biến trên các bờ cấu tạo bởi vật liệu bở rời (cát, bùn-
sét) trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam cũng nhƣ trong khu vực nghiên cứu. Tại
đây, có hơn 80km bờ đƣợc cấu tạo bở vật liệu bở rời, chủ yếu là bờ cát. Dấu hiệu rõ
rệt nhất của hiện tƣợng xói lở là vách xói có độ cao thay đổi từ vài chục cm đến 1,5-
2m có nơi 3-4m, tuỳ thuộc vào độ cao của bờ và tác động của sóng. Tốc độ xói lở ở
một số đoạn bở đạt rất cao. Chẳng hạn, ở bờ biển phía bắc Cửa Đại (Hội An), bờ
biển phía đông Cửa Lở (Tam Hải, Núi Thành). Hoạt động xói lở bờ đã làm cho
đƣờng bờ bị thay đổi nhiều, phá huỷ các công trình kè, nhà cửa, đƣờng giao thông
gây ảnh hƣởng không tốt đến kinh tế-xã hội và tâm lý của ngƣời dân, nhất là trong
thời gian gần đây hiện tƣợng này càng trở nên phổ biến và nghiêm trọng hơn. Đây
là kiểu bờ biển rất không ổn định, cần phải theo dõi diễn biến, đồng thời nghiên cứu
và tìm hiểu nguyên nhân của nó để đƣa ra biện pháp bảo vệ bờ hiệu quả.
3) Bờ biển bồi tụ
Trong phạm vi nghiên cứu, kiểu bờ này đƣợc quan sát thấy tại bờ phía tây
Cửa Lở (Tam Hải). Hiện nay, kiểu bờ này vẫn đang đƣợc phát triển do quá trình bồi
tụ dƣới tác động của sóng. Do tích tụ nhƣ vậy nên bờ ở đây cũng không ổn định.
2.3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN ĐỊA HÌNH TRONG KỶ ĐỆ TỨ
Lịch sử hình thành và phát triển địa hình trong giai đoạn Đệ tứ đƣợc đặc
trƣng bằng sự tổ hợp của hai quá trình khác nhau là chuyển động nâng hạ khối tảng
và dao động mực nƣớc đại dƣơng trong các chu kỳ băng hà - gian băng. Do vậy, mà
bề mặt địa hình ngày nay trên toàn dải đồng bằng trong khu vực nghiên cứu đƣơc
hình thành và tiến hóa trong mối quan hệ tƣơng hỗ giữa các lực nội sinh (chuyển
động nâng - hạ kiến tạo) và ngoại sinh (bóc mòn và tích tụ gây ra do tác động cửa
nƣớc chảy trên mặt, nƣớc ngầm, sóng, gió, v.v.). Các hoạt động của 2 nhóm lực này
lại có mối quan hệ chặt chẽ với sự thay đổi mực nƣớc biển, mà kết quả tổng hòa của
chúng là thay đổi mực nƣớc biển tƣơng đối. Trong giai đoạn Đệ Tứ muộn đã xảy ra
các lần thay đổi mực nƣớc tƣơng đối nhƣ vậy. Dựa vào các kết quả nghiên cứu có
thể chia lịch sử phát triển địa hình trong giai đoạn Đệ tứ muộn của vùng nghiên cứu
60
thành 3 pha sau: Pha biển tiến Holocen giữa, pha biển lùi Holocen muộn và pha
biển lấn hiện nay.
2.3.1. Pha biển tiến sau Băng hà lần cuối
Sau khi mực nƣớc biển hạ xuống tới mức thấp nhất (khoảng -120m so với
hiện nay) vào thời kỳ cực đại băng hà lần cuối, cách đây khoảng 20.000 năm, thì
mực nƣớc biển bắt đầu đƣợc dâng lên. Lúc đó, không chỉ đáy biển vùng nghiên cứu,
mà còn mở rộng hơn nữa đều là lục địa. Do đó, các quá trình xâm thực đào khoét và
san phẳng địa hình do dòng chảy trên mặt chiếm ƣu thế.
Khi nghiên cứu ở vùng biển Đông Nam Á, Sathiamurthy và Voris [62] cho
rằng, vào thời kỳ cực đại băng hà lần cuối cách đây khoảng 21.000 năm, thì mực
nƣớc biển hạ xuống thấp hơn hiện nay khoảng 116m. Sau đó mực nƣớc biển dâng
lên và đạt các mốc giá trị nhƣ sau: 114m vào 19.000 năm trƣớc (tƣơng đƣơng tốc độ
1 mm/năm), 96m vào 14.600 năm trƣớc (tƣơng đƣơng 4,1 mm/năm), 80m vào
14.300 năm trƣớc (tƣơng đƣơng 53,3 mm/năm), 64m vào 13.400 năm trƣớc (tƣơng
đƣơng 17,7 mm/năm), 51m vào 10.000 năm trƣớc (tƣơng đƣơng 3,82 mm/năm), 0m
vào 6.000 năm trƣớc (tƣơng đƣơng 8,5 mm/năm) và +5m vào 4.200 năm trƣớc
(tƣơng đƣơng 2,3 mm/năm) (hình 2.13). Sau khi đạt mức cực đại, mực nƣớc biển lại
hạ xuống từ từ. Một số tác giả khác lại cho rằng, mực nƣớc biển đạt mức cực đại
+4,5 đến +5,0m vào khoảng 6.000 năm trƣớc và tƣơng đối ổn định trong khoảng
thời gian gần 2.000 năm, rồi mới bắt đầu hạ xuống.
Hình 2.13: Đƣờng bờ biển trên thềm lục địa Sunda vào 21.000 năm trƣớc (trái) và
vào 4.2000 năm trƣớc (phải) [62]
61
Khi mực nƣớc biển dâng lên, dải đồng bằng rộng lớn này cũng dần dần bị
tràn ngập và trở thành đáy biển. Do đó, các trầm tích biển cũng đƣợc hình thành,
phủ lên các trầm tích lục địa trƣớc đó. Tốc độ tích tụ trầm tích cũng rất khác nhau
theo từng vùng tùy thuộc vào mối tƣơng tác giữa nguồn cung cấp vật liệu và các
nhân tố thủy động lực, cũng nhƣ địa hình ở đó. Kết quả nghiên cứu của Schimanski
và Stattegger (2005) [63, 64], cho thấy rõ điều đó (bảng 2.2 và 2.3).
Bảng 2.2: Tuổi và tốc độ tích tụ trầm tích tại một số điểm trên thềm lục địa Miền
Trung Việt Nam [63]
Điểm
khảo
sát
Vĩ độ kinh độ Độ sâu
của nƣớc (m)
Độ sâu
của mẫu (cm)
Tuổi Tốc độ
trầm tích (cm/1000năm)
N22 15o44,92' 108
o 53,46' 84 51 5020 10,1
N23 16o16,62' 108
o 39,59' 97 2 2445 0,82
N23 16o16,62' 108
o 39,59' 90 46,5 13030 4,2 (gián đoạn)
N25 16o34,53' 108
o 28,31' 95 29 12575 2,3 (xói lở)
N26 16o44,42' 108
o 27,80' 92 55 30130 1,8 (xáo trộn)
N26 16o 44,42' 108
o 27,80' 92 133 43210 5,9 (xáo trôn)
C96 15o 25,51' 108
o 53,27' 61 250 >49220 5,0 (xáo trộn)
Các kết quả ở bảng 4.1 cho thấy, các trầm tích nằm sâu dƣới đáy có tuổi cổ
hơn so với các trầm tích nằm gần bề mặt hơn (tại điểm N22 và N23, trầm tích ở độ
sâu 51 cm có tuổi già hơn so với trầm tích cách mặt đáy 2cm, hoặc tại điểm N26)
Ngoài kết quả nêu trên, các tác giả này còn đƣa ra dự đoán môi trƣờng và độ sâu
của nƣớc vào thời điểm tích tụ trầm tích (bảng 2.3).
Bảng 2.3: Tướng trầm tích và độ sâu dự đoán vào lúc thành tạo chúng [64]
Điểm
khảo sát
Độ sâu
nƣớc (m)
Độ sâu
mẫu (cm)
Tƣớng trầm
tích
Phạm vi độ
sâu cổ (m)
Mực biển cổ
có thể (m)
N23 97 46,5 Tiền châu
thổ/cửa sông
5-20 -84,97
N25 95 29,0 Tiền châu
thổ/cửa sông
5-20 -82,79
N26 92 133,0 Tiền châu
thổ/cửa sông
5-20 -80,83
62
Qua số liệu ở bảng 2.3 có thể thấy rằng, các tập trầm tích ở các độ sâu dƣới
đáy biển tại các điểm khảo sát này đều đƣợc hình thành trong phạm vi khu bờ biển
của các vùng châu thổ, nhƣng chỉ nằm trong đới sóng biến dạng (độ sâu 5-20m),
còn ở độ sâu 0-5m thuộc đới sóng vỗ bờ và lớn hơn 20m thuộc đới sóng lan truyền.
Ngoài ra, theo Hanebuth và đồng nghiệp [54], trong khoảng thời gian từ
14.600 đến 10.000 năm trƣớc mực nƣớc biển dâng lên rất nhanh, đều trên
10mm/năm (thậm chí đến 53mm/năm trong khoảng thời gian từ 14.600-14.300 năm
trƣớc). Do đó, có khả năng tồn tại một đới đƣờng bờ cổ trong khoảng thời gian này.
Mực biển tiếp tục dâng lên và đạt cực đại khoảng 5m vào khoảng 6000 năm
trƣớc. Nhƣ vậy, khoảng 6000-4000 năm trƣớc, đƣờng bờ biển của vùng nghiên cứu
bị chia cắt bởi nhiều vũng vịnh nhỏ xen các mũi nhô, hoặc là đảo cấu tạo bởi các
thành tạo cổ hơn. Lúc đó, có thể núi Bàn Than là đảo ven bờ và vùng đồng bằng
nằm trong phạm vi nghiên cứu ngày nay là vụng biển. Sau đó, mực biển bắt đầu bị
hạ thấp, địa hình dải ven biển ở đây lại đƣợc phát triển trong điều kiện biển lùi.
2.3.2. Pha biển lùi Holocen muộn
Vào đầu Holocen muộn, mực nƣớc biển bắt đầu hạ xuống. Mực nƣớc biển
rút đến đâu, thì phần đất liền tiến ra đến đó.Tùy thuộc vào đặc điểm lồi lõm và
hƣớng đƣờng bờ, mà sự tiến hóa của dải đất lấn ra biển cũng khác nhau. Chẳng hạn,
các đoạn bờ bắc Cửa Đại cho đến hết địa phận Núi Thành đều có hƣớng chung là
TB-ĐN gần vuông góc với hƣớng sóng Đ-B, là hƣớng sóng tác động chiếm ƣu thế
trong năm. Do đó, đã hình thành các dạng tích tụ kiểu bar nhờ cơ chế di chuyển
ngang của bồi tích. Dấu tích còn lại hiện nay là hệ thống bar đầm phá đã cạn và biến
thành sông, nhƣ: bar-đầm phá sông Để Võng và bar-đầm phá sông Trƣờng Giang.
Kết quả cuối cùng của pha tiến hóa này là hoàn thiện, và tạo nên toàn bộ bề
mặt địa hình dải ven bờ biển hiện nay. Đồng thời làm cho đƣờng bờ biển bị san
phẳng, làm bớt đi sự uốn lƣợn quanh co của đƣờng bờ biển so với khi mực nƣớc
biển đạt cực đại vào cuối Holocen giữa. Mặt khác, kết thúc pha phát triển này, hệ
thống bar-đầm phá hầu nhƣ không còn nữa. Các đầm phá cũ chỉ còn lại là những
lạch nƣớc hoạt động nhƣ những dòng sông-đó là hiện tƣợng uốn khúc của sông Để
63
Võng và sông Trƣờng Giang ở 2 phía của vùng cửa sông Thu Bồn để tạo nên bề
mặt tích tụ sông biển tuổi Holocen muộn. Tuy nhiên, nguồn nƣớc để các sông này
hoạt động chịu ảnh hƣởng của thủy triều rất đáng kể. Hiện nay, khả năng giao thông
đƣờng thủy của 2 dòng sông này cũng không còn nữa.
2.3.3. Pha phát triển địa hình trong giai đoạn hiện nay
Điều kiện động lực hiện nay. Nhƣ đã trình bày ở phần đầu chƣơng, các điều
kiện động lực bờ đã có những thay đổi trong thời gian gần đây liên quan tới cả sự
thay đổi do tự nhiên lẫn các hoạt động của con ngƣời. Các thay đổi tự nhiên đều liên
qua tới biến đổi khí hậu toàn cầu-đó là sự ấm lên toàn cầu. Biến đổi khí hậu đã dẫn
đến sự gia tăng cả tần suất và cƣờng độ của bão, làm mực nƣớc biển dâng lên trên
quy mô toàn cầu và ở Việt Nam, cũng nhƣ vùng nghiên cứu. Cả 2 nhân tố bão gia
tăng, mực nƣớc biển dâng đều làm tăng năng lƣợng của sóng tác động đến khu bờ.
Trong khi đó, các hoạt động của con ngƣời lại làm giảm nguồn trầm tích cung cấp
cho bờ biển, cũng góp phần làm cho năng lƣợng sóng tác động đến bờ tăng thêm.
Kết quả cuối cùng là bờ biển bị phá hủy ở nhiều nơi. Các đoạn bờ cấu tạo
bằng đá gắn kết có độ bền vững cao, vốn trƣớc đã và đang bị mài mòn, thì nay vẫn
tiếp tục nhƣng với cƣờng độ mạnh hơn. Còn trên các đoạn bờ cấu tạo bởi vật liệu bở
rời, vốn trƣớc đây đƣợc tích tụ, thì này đang bị xói lở. Hiện tƣợng xói lở làm giật lùi
đƣờng bờ về phía đất liền, trong vùng nghiên cứu có thể đã bắt đầu từ hàng chục
năm trƣớc, và đến nay càng manh mẽ hơn. Qua khảo sát thực tế đã cho thấy rất rõ
điều đó. Hiện nay, các đoạn bờ bị xói lở mạnh trong vùng nghiên cứu đó là đoạn bờ:
bắc Cửa Đại, bờ tây bắc Tam Hải và bờ biển Tam Quang (Núi Thành)(hình 2.14).
Hình 2.14: Xói lở bờ biển ở phƣờng Cửa Đại (trái), khu vực Cửa Lở (giữa) và tại
bãi Bà Tình, Tam Quang (phải)(ảnh Trần Văn Bình, 2013 và 2014)
64
Chƣơng 3
PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH BIẾN ĐỔI BỜ BIỂN
PHỤC VỤ QUẢN LÝ MÔI TRƢỜNG BỜ
3.1. CÁC QUÁ TRÌNH THỦY THẠCH ĐỘNG LỰC
3.1.1. Các đặc trƣng sóng, gió và dòng chảy ven bờ khu vực nghiên cứu
3.1.1.1. Đặc trưng gió và gió bão
Vùng nghiên cứu chịu ảnh hƣởng mạnh bởi cấu trúc địa hình trong khu vực,
đồng thời nằm trong vùng chịu ảnh hƣởng của gió mùa, gió mùa ĐB từ tháng 10
đến tháng 5 năm sau, gió mùa TN từ tháng 7 đến tháng 8. Nhìn chung, gió mùa ĐB
chiếm ƣu thế hơn so với gió mùa TN cả về hƣớng lẫn cƣờng độ gió, gió cũng có sự
biến động về hƣớng và cƣờng độ theo thời gian. Mùa gió ĐB có tốc độ gió lớn hơn
đáng kể so với mùa gió TN và thời gian thịnh hành cũng dài hơn nhiều so với gió
mùa TN. Tốc độ gió trung bình trong mùa đông đạt từ 6-7m/s, còn mùa hè 4-5m/s.
Vào mùa hè, gió TN khi vào khu vực này, thƣờng bị suy yếu và biến tính, tốc độ gió
yếu, nhƣng lại thƣờng có bão và áp thấp nhiệt đới hoạt động. Hàng năm trung bình
tại vùng biển nghiên cứu chịu ảnh hƣởng từ 2-4 cơn bão và áp thấp nhiệt đới. Theo
số liệu thống kê gió tại trạm Khí tƣợng-Thủy văn Đà Nẵng từ (1977-1997) cho thấy,
đặc trƣng chế độ gió tại khu vực ven bờ Quảng Nam-Đà Nẵng đƣợc thể hiện trên
(hình 3.1). Ngoài ra, còn ghi nhận đƣợc với tốc độ gió bão 40m/s [39].
Hình 3.1: Hoa gió thời kỳ gió mùa đông bắc tháng 11 (trái) và gió mùa tây
nam tháng 7 (phải) tại trạm Đà Nẵng (1977-1997) [27]
3.1.1.2. Đặc trưng sóng ven bờ
Trong phạm vi nghiên cứu là vùng biển hở, chịu tác động trực tiếp của sóng
65
từ ngoài khơi Biển Đông, nên có hai hƣớng chính là hƣớng B-ĐB và hƣớng T-TN
(hình 3.2, trái). Hƣớng sóng chủ đạo là hƣớng B-ĐB, chiếm 22,5%; còn lại có tần
suất xuất hiện 13,6%. Độ cao sóng trong khoảng 0,5 – 1,0 m chiếm tần suất lớn nhất
33,5%, độ cao sóng trong khoảng 1,0-1,5m chiếm tần suất 24,2%, độ cao sóng
>1,5m có tần suất là 24,9%. Thời gian chịu tác động của sóng hƣớng ĐB là 5 tháng
(tháng 11, 12, 1, 2 và 3); tháng 4 và 5 là tháng chuyển tiếp từ sóng hƣớng ĐB sang
T-TN; tháng 6, 7, 8 và 9 chịu tác động của sóng hƣớng T-TN; tháng 10 là tháng
chuyển tiếp giữa hai chế độ gió.
- Thời kỳ gió mùa đông bắc với đại diện là tháng 1. Phân bố sóng tập trung
chủ yếu vào 3 hƣớng chính là hƣớng bắc, bắc đông bắc và hƣớng đông bắc; tần suất
của 3 hƣớng này chiếm đến 97.6% (hình 3.2-giữa). Độ cao sóng trong khoảng 1.0 ÷
1.5 m chiếm tần suất lớn nhất, chiếm 34.2%; độ cao sóng trong khoảng 1.5 ÷ 2.0 m
chiếm 25.3%; độ cao sóng lớn hơn 2.0 m chiếm 21.8%.
- Thời kỳ gió mùa TN với đại diện là tháng 8. Phân bố tần suất sóng theo
hƣớng chính TN chiếm đến 79,8% (hình 3.2-phải). Phân bố độ cao sóng lớn nhất
trong khoảng 0,5 ÷ 1,0 m, chiếm 35,8%; độ cao sóng trong khoảng 1,0 ÷ 1,5 m
chiếm 20,5%; độ cao sóng lớn hơn 1,5 m chiếm 24,5%.
Hình 3.2: Hoa sóng tính toán ngoài khơi khu vực Quảng Nam (trái), tháng 1 (giữa) và
tháng 8 (phải) (1987-2012) [27]
3.1.1.3. Đặc trưng về chế độ dòng chảy ven bờ
Vùng biển ven bờ khu vực nghiên cứu có ảnh hƣởng bởi các đặc trƣng hoàn
lƣu dòng chảy với qui mô lớn thuộc hoàn lƣu ven bờ phía tây Biển Đông, đại diện
cho dải ven bờ Nam Trung Bộ. Dòng chảy bị chi phối bởi gió mùa và cấu trúc địa
66
hình trong khu vực. Trong năm, thƣờng từ tháng 1-4 và từ tháng 10-12, dòng chảy
có hƣớng tây nam và có tốc độ dòng chảy mặt từ 10-25cm/s, còn từ tháng 5-9, dòng
chảy có hƣớng đông bắc với tốc độ đạt từ 25-75cm/s.
Ngoài ra, dòng chảy ven bờ ở đây còn bị chi phối bởi chế độ thủy văn trong
lục địa qua các hệ thống sông và dòng thủy triều (hình 3.3).
Hình 3.3: Đặc trƣng dòng chảy thời kỳ gió mùa đông bắc, pha triều lên (trên
trái) và pha triều xuống (trên phải); thời kỳ gió mùa tây nam, pha triều lên (dƣới
trái) và pha triều xuống (dƣới phải) [27].
3.1.2. Nguồn cung cấp trầm tích
Các nguồn bồi tích ở đây đƣợc xét đến bao gồm: dòng bồi tích từ trong sông
mang ra, nguồn bồi tích nhân tạo, xói lở do gió và nƣớc dâng trong bão, từ nơi khác
67
vận chuyển dọc bờ vào khu vực, đồng thời cũng có sự vận chuyển dọc bờ ra khỏi
khu vực, xói lở từ cồn cát cổ đƣa xuống hay từ dƣới đáy đƣợc vận chuyển vào bờ
sau cơn bão, vật liệu do các quá trình sƣờn đƣa đến hoặc do quá trình đƣa tới từ các
đoạn bờ xói lở bên cạnh,.v.v...(hình 3.4). Do vậy, việc đánh giá chính xác cho từng
hợp phần của nguồn cung cấp trầm tích là tƣơng đối phức tạp.
Hình 3.4: Các nguồn trầm tích cần xét đến khi đánh giá cơ chế vận chuyển [71]
3.1.3. Quá trình vận chuyển trầm tích
Đo dòng vật liệu ven bờ với mục đích nghiên cứu xói lở - bồi tụ là công việc
hết sức khó khăn, vì cần phải đo lúc có sóng tƣơng đối lớn. Điều này, thực tế cho
thấy là việc làm nguy hiểm. Bởi vậy kết quả nghiên cứu về vấn đề này còn hạn chế,
các số liệu có đƣợc chỉ đại diện cho điều kiện thời tiết bình thƣờng, độ cao sóng ven
bờ chỉ đạt từ 0,3-0,5m. Trong điều kiện nhƣ vậy thì tốc độ truyền sóng vào bờ chậm
lại, hƣớng tia sóng thƣờng dịch gần về vị trí pháp tuyến của đƣờng mép bờ hoặc
trong đới sóng đổ, dòng chảy sóng cũng nhƣ dòng vật liệu tăng cƣờng ở hƣớng trực
giao và giảm dần ở hƣớng song song với đƣờng bờ. Chính vì vậy, trong các công
trình nghiên cứu của Trịnh Thế Hiếu [9, 10], cũng đã nhận định rằng, trong vùng
nghiên cứu tại khu vực Cửa Đại, dòng vận chuyển trầm tích có ƣu thế vận chuyển
68
ngang mạnh hơn dòng vận chuyển dọc bờ đối với các quá trình làm biến đổi địa
hình đáy biển gần bờ và khu vực cửa sông. Tuy nhiên, phải thừa nhận một thực tế là
vào những lúc biển động sóng lớn (gió và sóng đều có hƣớng đông bắc) thì dòng
chảy và dòng vật liệu trôi dạt dọc theo hƣớng đƣờng bờ trong đới sóng đổ khá lớn,
chúng đã góp phần chủ yếu vào quá trình bồi tụ và tạo nên bãi bồi trƣớc Cửa Đại
(hình 3.5, trên) và Cửa Lở (hình 3.5, dƣới).
Hình 3.5: Bar cát ngầm trên ảnh landsat ở khu vực Cửa Đại 2009 (trên trái) và 2013
(trên phải); ảnh Google Earth khu vực Cửa Lở 2011 (dƣới trái) và 2014 (dƣới phải)
Trong lục địa, dòng bùn cát sau khi ra khỏi cửa sông do đƣờng dòng mở rộng
và phân tán bởi tác động của sóng, tốc độ giảm xuống nên trầm tích có kích thƣớc
lớn thƣờng đƣợc lắng đọng tại cửa sông. Do vậy, ở đây thƣờng hình thành các cồn
cát ngầm. Cồn cát trƣớc cửa sông thƣờng đƣợc hình thành theo cơ chế nhƣ vậy
trong quá trình di chuyển cửa các cồn này cũng di chuyển theo, đôi khi quá trình
này còn nối vào mũi bờ phía nam làm cho quá trình bờ ở đây đƣợc bồi tụ.
69
3.2. HIỆN TRẠNG BIẾN ĐỔI BỜ BIỂN VÀ CÁC CỬA SÔNG
3.2.1. Hiện trạng và xu thế biến đổi bờ bãi biển
Bãi biển tỉnh Quang Nam kéo dài từ xã Điện Ngọc, huyện Điện Bàn ở phía
Bắc (giáp Đà Nẵng) đến xã Tam Ngĩa, huyện Núi Thành ở phía Nam (giáp Quảng
Ngãi) với hơn 80km, và có hƣớng chủ yếu là tây bắc-đông nam. Bãi cát biển không
liên tục mà bị chia cắt bởi sông Cửa Đại tại Cửa Đại, sông Trƣờng Giang tại Cửa
Lở và các mũi nhô ra biển đƣợc cấu tạo bởi đá gốc tại xã Tam Hải và xã Tam
Quang (Núi Thành). Bề rộng của bãi ở phía Bắc hẹp hơn ở phía Nam, đồng thời có
sự thay đổi theo mùa, mùa sóng gió đông bắc thƣờng bãi biển bị thu hẹp lại khoảng
từ 20 - 35m so với mùa sóng gió đông nam.
Hình 3.6: Sơ đồ vị trí đo trắc diện địa hình bãi biển tỉnh Quảng Nam
70
Bảng 3.1: Vị trí đo các trắc diện địa hình bãi biển tại Quảng Nam
Stt Kí hiệu Mặt cắt Kinh độ Vĩ độ
1 MC.1-1 1 108°22'7.05" 15°53'47.93"
2 MC.2-2 2 108°22'37.56" 15°53'28.67"
3 MC.3-3 3 108°23'01.34" 15°53'11.13"
4 MC.4-4 4 108°23'24.65" 15°52'40.18"
5 MC.5-5 5 108°33'54.79" 15°34'29.82"
6 MC.6-6 6 108°35'12.20" 15°32'57.55"
7 MC.7-7 7 108°37'43.86" 15°30'24.56"
8 MC.8-8 8 108°39'32.38" 15°29'42.32"
9 MC.8a-8 8a 108°39'48.88" 15°29'55.46"
10 MC.9-9 9 108°41'24.34" 15°28'34.06"
Bãi biển đƣơc cấu tạo bởi trầm tích bở rời mà chủ yếu là cát có màu trắng
xám đến vàng, hạt trung đến nhỏ mịn. Các đặc điểm của trầm tích bở rời (thành
phần độ hạt, thành phần khoáng vật, đặc điểm tƣớng, sự phân bố trong không gian
và trong mặt cắt, ...), cũng có ý nghĩa rất quan trọng khi nghiên cứu trắc lƣợng hình
thái. Các đặc điểm nêu trên là một trong những chỉ tiêu để phân tích lịch sử phát
triển của địa hình trong khu vực nghiên cứu.
Trong 2 năm 2013-2014, chúng tôi đã tiến hành quan trắc, đo đạc chi tiết trắc
diện địa hình bãi biển bằng máy DGPS (Promark2) với 3 đợt đo: đợt 1 vào tháng
7/2013; đợt 2 vào tháng 12/2013 và đợt 3 vào tháng 6/2014 tại các vị trí trọng điểm
nhƣ khu vực bãi biển phƣờng Cửa Đại (Hội An), khu vực bãi biển Cửa Lở và bãi Bà
Tình (Núi Thành) (hình 3.6). Kết quả cho thấy, hình thái địa hình bãi biến đổi rõ rệt
từ mùa gió đông nam đến mùa gió đông bắc và từ mùa gió đông bắc đến mùa gió
đông nam năm sau.
A. Khu vực bãi biển Cửa Đại (Hội An)
Thành phần vật liệu cấu tạo bãi chủ yếu là cát hạt trung đến hạt nhỏ (bảng
3.2). Địa hình bãi biển thuộc dạng bãi xói lở-tích tụ do tác động của sóng chiếm ƣu
thế) [8]. Từ xã Điện Ngọc đến phƣờng Cửa Đại bãi biển có chiều rộng thay đổi từ
40 đến 50m và có sự phân bậc rõ ràng: bậc 1, là bãi triều ngập nƣớc có địa hình
nghiêng thoải chiều rộng của bãi thay đổi từ 10-15m, càng xuống phía Nam thì địa
71
hình bãi triều càng thu hẹp và bãi biển dốc hơn; bậc 2- bãi biển khá bằng phẳng,
nhiều chổ còn để lại dấu vết của vách xói lở trên bờ cát, chiều rộng của bãi thay đổi
từ 25-35m. Bãi biển phƣờng Cửa Đại trƣớc năm 2004 có chiều dài gần 4,5km
nhƣng đến 06/2014 chỉ còn gần 2km, nhiều nơi do xói lở đến bờ kè của các Resort
dẫn đến không còn bãi biển. Nhìn chung, bãi ở phía Bắc bề mặt bãi thoải hơn ở phía
Nam, độ dốc trung bình của bãi vào mùa mƣa từ 7-80, mùa khô từ từ 3-5
0 (hình 3.7,
3.10 ảnh trái). Hình thái bãi biển biến đổi theo mùa rất rõ, mùa mƣa bãi bị xói lở
mạnh-hạ thấp bãi và thu hẹp bãi, còn vào mùa khô thì ngƣợc lại bãi đƣợc bồi tụ nhẹ
nâng cao thêm và mỡ rộng, nhƣng xu thế bãi biển vẫn bị xói lở và phát triển bãi
biển theo chiều hƣớng giật lùi về phía đất liền, với mức độ xói lở-bồi tụ tại bờ phía
bắc Cửa Đại thuộc phƣờng Cửa Đại trong mùa mƣa lớn hơn mùa khô ≈ 1,5 lần [24].
Tuy nhiên, trong khoảng thời gian đo đạc và tính toán biến đổi trắc diện địa hình bãi
biển thì tại đây do bị ảnh hƣởng mạnh của gió bão, cơn bão số 11 (10/2013) đã làm
bãi biển càng biến đổi mạnh mẽ hơn (hình 3.7, 3.8 và 3.10).
Bảng 3.2: Thành phần độ hạt mẫu trầm tích bãi biển tại các (MC) khu vực Cửa Đại
Stt
Ký
hiệu
mẫu
Hàm lƣợng cấp hạt (% trọng lƣợng) Tên gọi
trầm tích > 4
(mm)
1-0.5 0.5-
0.25
0.25-
0.125
0.125-
0.063
1 MC1-1 0.68 36.57 60.53 2.22 Cát nhỏ
2 MC1-2 12.54 71.86 15.48 0.12 Cát trung
3 MC1-3 0.14 7.08 59.83 32.66 0.29 Cát trung lẫn sạn
4 MC2-1 0.95 52.12 44.89 2.04 Cát trung
5 MC2-2 1.73 68.82 28.82 0.63 Cát trung
6 MC2-3 0.44 61.25 37.89 0.42 Cát trung
7 MC4-1 9.33 53.48 35.01 2.18 Cát trung
8 MC4-2 5.68 76.46 17.8 0.06 Cát trung
9 MC4-3 5.46 58.78 35.63 0.13 Cát trung
Do ảnh hƣởng của gió bão, tại đoạn bờ biển phía bắc Cửa Đại, nhiều công
trình kè bê tông kiên cố đã bị sóng đánh vào làm hƣ hỏng nặng và bãi biển cũng bị
72
biến mất. Ngoài ra, những đoạn bờ cát xen kẽ trong công trình kè của các Resort
chạy dọc theo đƣờng Âu Cơ từ mũi Cửa Đại hƣớng lên Đà Nẵng khoảng gần 2km,
bờ bi xói lở mạnh và bờ lấn sâu vào đất liền, có nơi tới hàng 100m và tạo nên hình
thái bãi mới, nhiều nơi quan sát thấy vách xói lở cao gần 2m tại các cồn cát (hình
3.7, ảnh phải), đồng thời sóng biển cũng tàn phá cảnh quan sinh thái vƣờn dừa tại
bãi biển du lịch Hội An, nhiều cây gãy đổ nằm trơ gốc rễ. Theo phỏng vấn ngƣời
dân địa phƣơng thì những cây dừa bị gãy đổ không phải do gió bão mà bị sóng biển
trong khi bão đánh vào làm cho dừa bị bật gốc (hình 3.8).
Hình 3.7: Bãi tắm phƣờng Cửa Đại 7/2013 (trái, ảnh Trần Văn Bình, 2013) và Vách
xói lở sau bão 10/2013 (phải, ảnh Nguyễn Chí Công, 2013)
Hình 3.8: Vƣờn Dừa bị sóng biển quật đổ và kè bảo vệ bờ bị phá hủy trong bão (cơn
bão số 11 tháng 10/2013) tại bãi biển phƣờng Cửa Đại (ảnh Trần Văn Bình, 2013)
- Sự biến đổi địa hình bãi theo thời gian 07/2013- 06/2014, tại khu vực
phƣờng cửa Đai đƣợc thể hiện trên hình 3.9; 3.11; 3.13 và 3.14.
73
Hình 3.9: Trắc diện địa hình bãi biển tại (MC.1-1), phía bắc phƣờng Cửa Đại
Tại đây, theo số liệu đo đạc của 3 đợt khảo sát thì trắc diện bãi biển đã biến
đổi và cho thấy rằng: bãi biển ở thời điểm ban đầu có độ dốc từ 3-50, sau đó biến
động mạnh mẽ và làm thay đổi trắc diện bãi vào mùa mƣa, độ dốc của bãi cũng tăng
từ 5-7 0. Từ đợt 1 (07/2013) đến đợt 2 (12/2013) bãi biển đã bị hạ thấp trung bình từ
0,4-0,5m, và thu hẹp bãi, bờ biển dịch vào 16,92m; đến đợt 3 (6/2014) bãi biển vẫn
tiếp tục bị xói lở và thu hẹp thêm 7,43m. Theo số liệu khảo sát từ 9/2007 thuộc Đề
tài “Khảo sát, đánh giá và đề xuất các giải pháp bảo vệ, phục hồi các hệ sinh thái
đất ngập nước ven biển Quảng Nam” [15], đến 6/2014 bãi biển đã giật lùi vào đất
liền là 54,4m. (hình 3.9 và 3.10)
Hình 3.10. Bãi biển phƣờng Cửa Đại tại mặt 1 vào 7/2013 (trái) và 12/2013 (phải)
(ảnh Trần Văn Bình, 2013)
74
Hình 3.11: Trắc diện địa hình bãi biển tại mặt cắt 2 (MC.2-2), phƣờng Cửa Đại
Tại mặt cắt 2, bãi biển đƣợc kẹp giữa 2 công trình kè của khu resort cũng đã
và đang bị biến đổi mạnh về trắc diện bãi, đƣợc thể hiện rõ rệt (hình 3.11). Từ đợt 1
(7/2013) đến đợt 2 (12/2013) ở phần đỉnh bãi bị xói lở mạnh, vách xói lở ban đầu
cao gần 2m (hình 3.12, ảnh trái), sau 5 tháng bãi hạ thấp còn 1,0-1,4m và nhiều cây
phi lao cũng biến mất, bãi biển đƣợc mở rộng thêm (hình 3.12, ảnh phải). Bãi biển
lùi sâu vào đất liền, đồng thời làm cho bờ biển dịch vào 7,1m nhƣng đến 6/2014 bãi
biển lại đƣợc bồi 3,4m. Tính từ 9/2007 đến 6/2014, bãi biển ở đây phát triển theo
hƣớng giật lùi vào đất liền, kéo theo bờ biển cũng dịch chuyển vào là 43,6m.
Hình 3.12: Bãi biển phƣờng Cửa Đại tại mặt căt 2 vào 7/2013 (trái) và 12/2013
(phải) (ảnh Trần Văn Bình, 2013)
Tại mặt cắt 3, trong thời gian từ 7/2013-6/2014 trắc diện bờ biển không thay
đổi, vì tại đây là bờ kè lát mái đƣợc kè bê tông kiên cố từ năm 2012, để bảo vệ bờ
75
biển trên đƣờng Âu Cơ, nhƣng tính từ 9/2007-7/2013 thì bờ biển đã dich vào so với
hiện tại là 55,8m. Nhƣ vậy, đến 2012 thì trung bình bãi biển bị mất hơn 11m/năm.
Hình 3.13: Trắc diện địa hình bờ biển tại mặt cắt 3 (MC.3-3), phƣờng Cửa Đại
Hình 3.14: Trắc diện địa hình bãi biển tại mặt cắt 4 (MC.4-4), phƣờng Cửa Đại
Tại mặt căt 4, đây là khu vực bãi biển hiện đại, luôn biến đổi liên tục giữa
mùa mƣa và mùa khô trong thời gian khảo sát. Tuy nhiên, theo số liệu đo đạc trong
3 đợt khảo sát cho thấy rằng bãi biển biến đổi nhƣ sau: từ đợt 1 (7/2013) đến đợt 2
(12/2013), bờ dịch chuyển là 70,4m. Bãi bị xói lở, thu hẹp và hạ thấp bãi biển. Vào
mùa mƣa, khi triều cao thì hầu nhƣ không còn bãi biển, nhƣng đến mùa khô đợt 3
(06/2014) thì bãi biển lại đƣợc mở rộng hơn ra phía biển so với đợt 2 là 49.7m (hình
3.14). Theo Lê Phƣớc Trình và nnk (2000). Từ năm 1999 - 2001 đƣờng bờ lùi vào
trong đến 140m làm mất phần bãi và một phần rừng phi lao [37]. Nhƣ vậy, tại đây
bãi biển cũng có xu thế mất dần theo thời gian (hình 3.15).
76
Hình 3.15: Bờ biển phƣờng Cửa Đại 2004 (trái) và 2014 (phải)(ảnh Google Earth)
Tóm lại: Đoạn bờ biển phƣờng Cửa Đại dài hơn 4km, bãi biển luôn bị biến
đổi không ngừng, đó là hiện tƣợng xói lở - bồi tụ xen kẽ giữa mùa mƣa và mùa khô,
bãi biển bị xói lở mạnh vào mùa mƣa và hạ thấp bãi dẫn đến có sự phân bậc và dốc
hơn, ngƣợc lại bồi tụ nhẹ vào mùa khô, với xu thế bãi biển bị đẩy lùi vào đất liền.
Tuy nhiên, ở đoạn bờ này hiện nay đã có nhiều công trình kè của các Resort đã làm
mất đi không gian bãi biển nhƣng lại có tác dụng nhƣ tƣờng chắn sóng, chống xói lở
và bảo vệ bờ biển (hình 3.16).
Hình 3.16: Bãi biển bị đẩy lùi vào đất liền tại mặt cắt 2, phƣờng Cửa Đại (ảnh Trần
Văn Bình, 2013)
B. Khu vực Cửa Lở và bãi Bà Tình (Núi Thành)
Từ xã Tam Tiến trở về phía Nam đến xã Tam Quang (Núi Thành), chiều
rộng của bãi biển thay đổi từ 40m đến 100m, địa hình bãi biển khá bằng phẳng và
nghiêng thoải, độ dốc thay đổi từ 7-80 vào mùa mƣa, còn mùa khô từ 3-5
0 . Vào
77
mùa khô, bãi biển có sự phân bậc rõ ràng: bậc 1, là bãi triều ngập nƣớc có địa hình
bãi biển bằng phẳng, chiều rộng của bãi thay đổi từ 30m đến 40m, càng xuống phía
Nam thì địa hình bãi triều càng thu hẹp và bãi biển dốc hơn; bậc 2- bãi biển khá
bằng phẳng và nghiêng thoải, nhiều chổ còn để lại dấu vết của vách xói lở trên bờ
cát (hình 3.17 ảnh trái), chiều rộng của bãi thay đổi từ 40m đến 60m. Vào mùa mƣa,
bãi biển hầu nhƣ nghiêng thoải . Thành phần vật liệu cấu tạo bãi chủ yếu là cát: 98 -
99%, có độ mài tròn tốt, độ hạt nhỏ đến hạt nhỏ mịn (bảng 3.3). Phía trên bãi biển là
cồn cát cổ đƣợc sử dụng nuôi trồng thủy sản trên cát và trồng rừng phòng hộ. Địa
hình bãi biển từ phía nam Cửa Đại đến phía Bắc Cửa Lở thuộc dạng bãi tích tụ - xói
lở do tác động của sóng chiếm ƣu thế. Bãi tại khu vực cửa sông Trƣờng Giang, phía
nam Cửa Lở và khu vực bãi Bà Tình, xã Tam Quang thuộc dạng bãi xói lở - tích tụ
do tác động cửa sóng chiếm ƣu thế. Hình thái bãi biến đổi theo mùa rất rõ, mùa mƣa
bãi bị xói lở - hạ thấp bãi và thu hẹp bãi, còn vào mùa khô thì ngƣợc lại bãi đƣợc
bồi nâng cao thêm và mỡ rộng.
Hình 3.17: Vách xói lở trên cồn cát cổ tại xã Tam Hòa (trái, ảnh Trần Văn Bình,
2013) và xói lở ở bờ phía đông nam, tích tụ ở mũi bờ phía tây khu vực Cửa Lở
(phải, ảnh Lê Đình Mầu, 2013)
Trong những năm gần đây, đoạn bãi kéo dài từ xã Tam Tiến đến phía Nam
Cửa Lở có xu thế mở rộng bãi biển. Nguyên nhân: 1 - do xói lở phía trên đỉnh bãi,
tại các cồn cát cổ (hình 3.17 ảnh trái), dẫn đến bãi đƣợc phát triển về phía trong; 2 -
sự tiến hóa đƣờng bờ biển (đƣờng mép nƣớc), qua quá trình tích tụ tại mũi phía tây
78
của Cửa Lở (hình 3.17 ảnh phải), đồng thời dịch chuyển Cửa Lở theo hƣớng từ Tây
sang Đông tạo thành bãi có hình cánh cung.
Bảng 3.3: Thành phần độ hạt mẫu trầm tích bãi biển tại các (MC) khu vực Cửa Lở
Stt
Ký hiệu
mẫu
Hàm lƣợng cấp hạt (% trọng lƣợng) Tên gọi
trầm tích 4-2
(mm)
2-1 1-0.5 0.5-
0.25
0.25-
0.125
0.125-
0.063
1 MC5-1 4.22 40.07 54.5 1.21 Cát nhỏ
2 MC5-2 4.09 52.05 43.15 0.71 Cát trung
3 MC5-3 0.09 0.27 9.48 43.65 44.88 1.63 Cát trung-nhỏ
4 MC6-1 0.21 22.4 75.66 1.73 Cát nhỏ
5 MC6-2 0.51 46.01 52.23 1.25 Cát nhỏ-trung
6 MC6-3 0.25 2.38 16.86 70.86 9.65 Cát nhỏ
7 MC7-1 0.14 80.35 19.51 Cát nhỏ-mịn
8 MC7-2 0.04 5.16 83.32 11.48 Cát nhỏ
9 MC7-3 0.09 0.85 13.49 75.38 10.19 Cát nhỏ
10 MC8-1 0.77 83.57 15.66 Cát nhỏ
11 MC8-2 0.77 79.03 20.2 Cát nhỏ-mịn
12 MC8-3 0.19 0.99 4.54 79.54 14.74 Cát nhỏ
- Sự biến đổi địa hình bãi theo thời gian 07/2013-06/2014, tại các mặt cắt
trọng điểm từ xã Tam Tiến đến xã Tam Quang (Núi Thành), đƣợc thể hiện trên các
hình 3.18; 3.19; 3.20; 3.22; 3.23 và 3.25.
Hình 3.18: Trắc diện địa hình bãi biển tại mặt cắt 5 (MC.5-5), bắc của xã Tam Tiến
79
Tại mặt cắt 5 (hình 3.18 và hình 3.21, ảnh trái và phải trên): tính từ đợt 1
(7/2013) đến đợt 2 (12/2013) bãi biển bị xói lở và bờ dịch vào 22,6m; đến đợt 3
(6/2014) bãi biển lại đƣợc bồi lại là 8,7m.
Hình 3.19: Trắc diện địa hình bãi biển tại mặt căt 6 (MC.6-6), nam của xã Tam Tiến
Tại mặt cắt 6, tính từ đợt 1 (7/2013) đến đợt 2 (12/2013) bãi biển bị xói lở và
bờ dịch vào 33,5m; đến đợt 3 (6/2014), bãi biển lại đƣợc bồi là 15,8m. Tại đây, tính
từ 09/2007 đến 06/2014 bãi biển đƣợc bồi thêm 17,9m.
Hình 3.20: Trắc diện địa hình bãi biển tại mặt cắt 7 (MC.7-7), nam xã Tam Hòa
Tại mặt cắt 7 (hình 3.20, hình 3.21 ảnh trái, phải dƣới): tính từ đợt 1 (7/2013)
đến đợt 2 (12/2013), bãi biển bị xói lở là 39,7m; đến đợt 3 (6/2014), bãi biển lại
đƣợc bồi là 16,8m. Tại đây, tính từ 9/2007 đến 6/2014 bãi biển đƣợc bồi thêm 5,8m.
80
Hình 3.21: Bãi biển phía bắc xã Tam Tiến tại mặt cắt 5 vào 7/2013 (trên trái) và
12/2013 (trên phải); bãi biển phía bắc xã Tam Hòa tại mặt căt 7 vào 12/2013 (dƣới
trái) và 6/2014 (dƣới phải)(ảnh Trần Văn Bình)
Từ mặt cắt 5 đến mặt cắt 7 thuộc 2 xã Tam Tiến, Tam Hòa (Núi Thành) có
chiều dài gần 13km. Địa hình bãi biển thuộc dạng bãi tích tụ - xói lở do tác động
của sóng chiếm ƣu thế. Sự biến đổi hình thái địa hình bãi theo mùa khá rõ, bãi đƣợc
bồi tụ vào mùa khô và nâng cao phần bãi phía trên bãi biển ngập triều, đồng thời mở
rộng bãi cả về phía trong và phía ngoài, còn vào mùa mƣa bãi bị xói lở - thu hẹp và
hạ thấp từ 0,3-0,5m phía trên đỉnh bãi (hình 3.18; 3.19; 3.20 và 3.22). Phần phía bắc
thuộc bờ biển xã Tam Tiến bãi biển ít bị biến đổi hơn so với ở phía Nam, xuống đến
phía Nam xã Tam Hòa thì bãi biển lại biến đổi mạnh.
Tại mặt cắt 8, hƣớng về mũi Bàn Than là đoạn bãi biển có chiều dài 1,8km,
và có hƣớng đông bắc-tây nam, thuộc bờ biển phía tây bắc xã Tam Hải, xét về
nguồn gốc hình thành địa hình thì đây là phần bãi biển đƣợc phát triển từ doi cát nối
đảo (tombolo). Địa hình bãi biển thuộc dạng tích tụ-xói lở do tác động của sóng
81
chiếm ƣu thế. Bãi biển có sự biến đổi theo mùa nhƣng xu thế vẫn đƣợc bồi nhiều
hơn. Tại mặt cắt 8: tính từ đợt 1 (7/2013) đến đợt 2 (12/2013) bãi biển bị xói lở là
37,3m; đến đợt 3 (6/2014) bãi biển lại đƣợc bồi là 16,1m.
Hình 3.22: Trắc diện địa hình bãi biển tại mặt cắt 8 (MC.8-8), bờ phía đông Cửa Lở
thuộc khu vực phía tây bắc xã Tam Hải, Núi Thành
Hình 3.23: Trắc diện địa hình bãi tại mặt cắt 8a (MC.8a-8), khu vực bờ phía đông
nam Cửa Lở, xã Tam Hải
Đây là đoạn bờ phía đông nam cửa sông Trƣờng Giang-phía trong Cửa Lở
(hình 3.24), có chiều dài 1,8km. Đoạn bờ này đã và đang bị xói lở mạnh nhất tại
khu vực Cửa Lở. Địa hình bãi có chiều rộng thay đổi từ 10m đến 20m, bề mặt bãi
luôn biến đổi theo hƣớng phát triển của đƣờng bờ, với xu thế xâm thực vào các cồn
cát cao từ 5-11m. Vào mùa mƣa thì quá trình xâm thực bờ diễn ra mạnh mẽ hơn
mùa khô. Tính từ đợt 1 (07/2013) đến đợt 2 (12/2013) bờ và bãi đã dịch chuyển vào
82
phía trong các cồn cát, theo hƣớng tây bắc-đông nam là 6,4m; đến đợt 3 (6/2014) thì
bờ lại bị sạt lở thêm 4,7m. Cũng trong đoạn bờ này, trƣớc đây đa đƣơc xây hê thông
“Kè mềm” để bảo vệ chống xói lở gôm 9 hê thông Geotube : môi cai dai g ần 25m,
cách nhau kho ảng 50 m, trên chiêu dai g ần 600m đƣơng bơ . Nhƣng đến nay, hệ
thống kè này đã không còn tồn tại, đƣơng bơ vân bi xoi lơ va se tiêp tuc bi xoi lơ.
Hình 3.24: Vách xói lở bờ Nam Cửa Lở tại mặt cắt 8a vào 7/2013 (trái) và vào
6/2014 (phải) (ảnh Trần Văn Bình)
Hình 3.25: Trắc diện địa hình bãi biển tại mặt cắt 9 (MC.9-9), khu vực bãi Bà Tình
Đây là đoạn bờ đƣợc cấu tạo bởi đá bazan đã bị phong hóa. Phần trên đã bị
biến thành đất sét alit-feralit màu vàng loang lỗ. Bề dày của lớp đất phong hóa này
có nơi tới gần 40m. (Theo bản đồ Địa chất Việt Nam, Phần lục địa, tỉ lệ 1:500.000
do Trần Đức Lƣơng, Nguyễn Xuân Bao chủ biên, 1986). Tuy nhiên, lớp đất phong
hóa tại vị trí đo trắc diện có bề dày từ 4-6m. Phần dƣới lớp đất phong hóa là đá
laterit với sỏi sạn màu nâu sẫm gắn kết chắc.
83
Hình 3.26: Vách xói lở bờ biển Bà Tình tại mặt cắt 9 đợt 1 tháng 7/2013 (trái) và
đợt 3 tháng 6/2014 (trái) (ảnh Trần Văn Bình)
Địa hình bãi biển đƣợc hình thành và phát triển là hậu quả của quá trình xói
lở - tích tụ do tác động của sóng biển chiếm ƣu thế. Theo số liệu đo đạc của 3 đợt
khảo sát cho thấy: Bờ biển ở bị xói lở mạnh mẽ vào mùa gió Đông Bắc, tính từ đợt
1 (7/2013) đến đợt 2 (12/2013) bờ biển đã dịch chuyển vào phía trong là 5,4m; đến
đợt 3 (6/2014) thì bờ biển lại bị sạt lở thêm 2,7m đồng thời không gian bãi biển
cũng đƣợc tịnh tiến theo đƣờng bờ. Tại đây, bãi biển không mở rộng về không gian
mà phát triển theo xu thế giật lùi bờ biển do tác động của sóng biển (hình 3.26).
Tóm lại: hình thái địa hình bãi biển tỉnh Quảng Nam biến đổi mạnh mẽ, theo
mùa và đặc biệt là khi có gió bão đổ bộ trực tiếp vào địa phận của tỉnh, nhiều đoạn
bãi biển có hiện tƣợng bồi-xói đan xen vào nhau . Tuy nhiên, tại bãi biển phía Bắc
của Cửa Đại và một số đoạn bãi phía Nam huyện Núi Thành, luôn bị xói lở mạnh
mẽ và diễn ra liên tục nhƣ tại bờ sông Trƣờng Giang-phía tây nam Cửa Lở xã Tam
Hải và khu vực bãi biển bà Tình xã Tam Quang (Núi Thành).
Trong thời gian từ tháng 7/2013 đến 6/2014, sự biến đổi hình thái địa hình
bãi biển mạnh mẽ giữa mùa khô năm 2013 với mùa mƣa năm 2013 là do ảnh hƣởng
của cơn bão (nhƣ đã đề cập ở trên). Nƣớc biển dâng do bão kết hợp với triều cao đã
làm cho sóng biển vƣơn tới phần đỉnh bãi gây ra xói lở chân các cồn cát cổ, đồng
thời phá vở cân bằng tự nhiên của bãi biển. Để hình thái bãi biển trở lại trạng thái
ban đầu, vào mùa khô khi bắt đầu mùa gió đông nam bãi đƣợc bồi lại.
84
3.2.2. Đặc điểm biến đổi địa hình đáy các khu vực cửa sông
3.2.2.1. Mô hình tính toán biến đổi địa hình đáy các khu vực cửa sông
Sự biến đổi địa hình đáy tại khu vực Cửa Đại và khu vực Cửa Lở đƣợc tính
theo công thức [49] và dƣới sự mô phỏng tại hình dƣới đây (hình 3.27).
Hình 3.27: Mô phỏng tính toán biển đổi khối lƣợng trầm tích địa hình đáy
Thể tích (V) đƣợc giới hạn bởi bề mặt đáy biển và mặt phẳng nằm ngang (x,
y, z) với giá trị z = 0 (giới hạn mặt trên) (hình 3.28), theo nguyên tắc mở rộng của
Simpson với mô hình hệ số là 1,4,2,4,2,4,2,…,4,2,1 có công thức tính nhƣ sau:
Ai =
3
x[Gi,1 + 4Gi,2 + 2Gi,3 + 4Gi,4 + … + 2Gi,nCol-1 + Gi,nCol]
Thể tích (V) ≈ 3
y[A1 + 4A2 + 2A3 + 4A3 + … + 2AnCol-1 + AnCol] [49].
Trong đó: x : là khoảng cách giữa các cột ô lƣới
y : là khoảng cách giữa các hàng ô lƣới
Gi,j : là giá trị giao nhau giữa các ô lƣới hàng i và cột j
Hình 3.28: Mô hình số độ sâu địa hình đáy khu vực Cửa Đại (6/2014)
85
Để tính thể tích (V) cho từng khu vực, thì nền đáy địa hình khu vực đƣợc
tính toán đã đƣợc tác giả thiết lập mô hình số độ cao là giá trị số liệu độ sâu thực đo
(hình 3.28). Giữa các ô lƣới tính toán đƣợc thiết lập với khoảng cách 2x2m (giá trị
hàng và cột). Tuy nhiên, giữa các ô lƣới đƣợc thiết lập với các giá trị càng nhỏ thì
khối lƣợng càng chính xác hơn.
3.2.2.2. Đặc điểm biến động địa hình đáy khu vực Cửa Đại và Cửa Lở
Ở đây, chỉ tập trung phân tích và đánh giá đặc điểm biến đổi địa hình đáy
khu vực Cửa Đại (từ họng sông trở ra và khu vực lân cận), với diện tích là 1479ha
(hình 3.29). Cũng nhƣ tại khu vực Cửa Lở với diện tích là 711,6ha (hình 3.31).
Hình 3.29: Sơ đồ vị trí mặt cắt và vùng tính biến đổi địa hình đáy khu vực Cửa Đại
Hình 3.30: Biến động địa hình đáy khu vực Cửa Đại tại mặt cắt AB-BC-CD.
86
Theo thời gian từ 07/2014 – 06/2014, bề mặt địa hình đáy tại các khu vực
cửa sông đã bị biến đổi mạnh mẽ, đặc biệt tại họng và những cồn ngầm cửa sông.
Hình 3.31: Sơ đồ vị trí mặt cắt và vùng tính biến đổi địa hình đáy ở khu vực Cửa Lở
Hình 3.32: Biến động địa hình đáy khu vực Cửa Lở tại mặt cắt AB-BC
Bảng 3.4: Kết quả biến đổi lượng trầm tích đáy khu vực cửa sông (qua 03 đợt đo).
Stt Vị trí Diện tích (ha) Thời gian Khối lƣợng (m3)
1 Khu vực
Cửa Đại
1479 07/2013 - 12/2013 + 441.133,36
12/2013 - 06/2014 - 1.891.664,42
2 Khu vực
Cửa Lở
711,6 07/2013 - 12/2013 - 193.788,25
12/2013 - 06/2014 + 65.845,39
Dấu (+) là khối lƣợng thu vào hoặc bồi tụ, dấu (-) là khối lƣợng chi hoặc bị xói lở
87
Sự biến động địa hình đáy tại các khu vực cửa sông chủ yếu nằm trong giới
hạn đƣợc tính toán (hình 3.29 và 3.31). Kết quả tính toán trong luận văn so với công
trình tính toán cán cân vận chuyển bùn -cát dọc bờ tại khu vực Cửa Đại, bằng mô
hình sóng của Lê Đình Mầu (2012) [26] cho thấy rằng: quá trình vận chuyển bồi
tích luôn có xu thế tích tụ tại vùng trƣớc cửa biển, sau đó nguồn vật liệu dƣ thừa lại
di chuyển về phía mũi An Lƣơng (Duy Hải).
Hình thái địa hình là những val ngầm nằm ngang hoặc song song với đƣờng
bờ trƣớc cửa sông và bị tác động mạnh bởi quá trình sóng và dòng chảy sông, dòng
chảy thủy triều không đáng kể.
Địa hình đáy tại khu vực Cửa Đại luôn hình thành những cồn cát, val cát
ngầm có diện tích đáng kể, đặc biệt là mùa mƣa lũ, các cồn và val này luôn xáo trộn
và biến đổi mạnh mẽ (hình 3.30), có thể bồi lấp hoàn toàn luồng lạch, nhƣ sau đợt
lũ đã xảy ra vào tháng 11/2013. val ngầm thẳng mũi An Lƣơng ra có chiều dài hơn
800m, rộng sấp xỉ 470m, tồn tại ở độ sâu 1,5-2m, val hình vòng cung song song với
đƣờng bờ phía nam Cửa Đại đoạn Bến đò Duy Hải đến mũi An Lƣơng (Duy Hải) và
ôm lấy Cửa Đại có chiều dài đáng kể gần 1200m, chiều rộng thay đổi từ 270-370m,
tồn tại ở độ sâu 1-2,5m. Ngoài ra, còn thấy những rãnh trũng ở độ sâu từ 2-3m.
Đến mùa mƣa, vào đợt khảo sát và đo đạc tháng 12/2013 thì những val này
bị biến đổi đáng kể do quá trình vật liệu từ trong sông mang ra, đồng thời nguồn vật
liệu có thể đƣợc mang đến từ các bãi biển vùng lân cận bị xói lở, dẫn đến hình thái
những val này phát triển thành cồn cát cao hơn và rộng hơn. Theo kết quả tính toán
thì khối lƣợng vật liệu đã đƣợc mang đến tích tụ lại, đã tăng lên so với ban đầu (đợt
1) là 441.133,36m3. Tuy nhiên, khối lƣợng này bị giảm đi đáng kể, do trƣớc đó vào
cuối tháng 11/2013 tại khu vực Cửa Đại cũng đã đƣợc thực hiện nạo vét luồng lạch
để khai thông luồng cho tàu thuyền ra vào cửa, đã lấy đi hàng nghìn mét khối cát ở
đây. Những điều trình bày ở trên lại trái ngƣợc với vùng Cửa Lở (Núi Thành) quá
trình tích tụ trầm tích ở đây chỉ diễn ra tại mũi bờ tây Cửa Lở, phần địa hình đáy lại
bị xói lở hay bào mòn và mang đi một khối lƣợng đáng kể vật liệu trầm tích so với
ban đầu (đợt 1) là 193.788,25m3. Đến mùa khô, vào tháng 6/2014 thì địa hình đáy
88
vùng này lại bồi tụ với khối lƣợng là 65.845,39m3, vật liệu chủ yếu là cát nhỏ mịn,
hình thành từ val ngầm và phát triển lên cồn cát (hình 3.32) chắn trƣớc cửa dẫn đến
hiện tƣợng bồi cạn dần Cửa Lở. Điều này cũng lại trái ngƣợc với địa hình đáy vùng
Cửa Đại, vật liệu tích tụ vào mùa mƣa lũ, đã đƣợc mang đi một lƣợng đáng kể với
khối lƣợng xấp xỉ là 1.891.664,42m3. Điều này có thể lý giải rằng, tại đây do tác
động của sóng và dòng chảy ven bờ, nguồn vật liệu đã đƣợc mang đi bồi tụ tại các
đoạn bờ thiếu hụt bồi tích, theo cơ chế bồi tụ-xói lở xen kẽ theo mùa.
Nhìn chung, vùng biển ven bờ tỉnh Quang Nam luôn xuất hiện những chu kỳ
sóng ngắn [2], trong điều kiện thời tiết xấu nhƣ bão, áp thấp nhiệt đới, với xu thế
tạo ra các dạng địa hình gồm những rãnh trũng và val ngầm song song với bờ rất rõ
rệt. Những bar ngầm, hố trũng trƣớc cửa sông cũng đƣợc hình thành, phát triển
mạnh tại các khu vực Cửa Đại (Hội An) và Cửa Lở (Núi Thành). Sau đó, các quá
trình thủy động lực có cƣờng nhỏ hơn nhƣng có độ ổn định và tần xuất cao hình
thành trong điều kiện thời tiết ổn định hơn có xu thế phá hủy những dạng địa hình
có tính phân dị cao đã hình thành trong điều kiện thời tiết cực đoan để đƣa khu vực
trở về dạng địa hình có thế cân bằng bền hơn. Đó là những rãnh trũng, val ngầm có
kích thƣớc nhỏ hơn, phân bố không liên tục ở độ sâu từ 1,5-3m (tại đơn vị địa mạo
số 29 trên bản đồ địa mạo). Các val bờ hay bãi có dạng răng cƣa biến đổi theo các
trƣờng sóng khác nhau tại mỗi đoạn bờ, theo đó làm cho bãi biển diễn ra các quá
trình xói lở - bồi tụ xen kẽ, nhƣng tỷ lệ xói lở vẫn chiếm ƣu thế hơn, đồng thời tạo
ra sự biến đổi đƣờng bờ với xu thế giật lùi đƣờng bờ về phía lục địa nhƣ bờ biển
phƣờng Cửa Đại (Hội An), Tam Hải (Núi Thành). Còn tại các khu vực cửa sông,
các bar ngầm, hố trũng hình thành trong điều kiện bão hoặc áp thấp cũng đƣợc “cải
biến” dần dần trong điều kiện thời tiết bình thƣờng để trở về trạng thái cân bằng.
3.2.3. Cán cân vật liệu trên mỗi đoạn bờ trong khu vực nghiên cứu
Tƣơng quan giữa lƣợng bồi tích đƣa đến một đoạn ở khu bờ và lƣợng bồi
tích mang đi gọi cán cân bồi tích [20]. Việc tính toán cán cân bồi tích là việc làm
khó khăn khi phải xét đến từng hợp của nó trên mỗi đoạn miền bờ. Do vậy, trên cơ
sở xây dựng các trắc diện địa hình bãi biển tại các khu vực nghiên cứu trọng điểm,
89
với 3 đợt khảo sát và đo đạc chi tiết. Từ đó, tác giả đã tính toán lƣợng bồi tích bị
đƣa ra khỏi miền bờ hoặc thu về bằng cách lấy hai trắc diện chồng lên nhau mặt và
sƣờn bãi để tính hiệu diện tích (tức là sự biến đổi của địa hình). Với kết quả tính
toán nhƣ vậy tại mỗi mặt cắt trên một mét độ dài đƣờng bờ (đại diện cho một đoạn
bờ), ta có thể tích tính bằng mét khối hoặc khối lƣợng trầm tích bị biến động để
phân tích cán cân bồi tích trên mỗi đoạn bờ (bảng 3.5).
Bảng 3.5: Lượng bồi tích thu hoặc chi tại các trắc diện bãi (qua 03 đợt đo)
Vị trí Diện tích (m2) Thời gian Cán cân trầm tích (m
3)
MC.1-1
53.47 09/2007 đến 07/2013 - 53.47
30.14 07/2013 đến 12/2013 - 30.14
7.97 12/2013 đến 06/2014 - 7.97
MC.2-2
86.3 09/2007 đến 07/2013 - 86.3
25.27 07/2013 đến 12/2013 - 25.27
5.8 12/2013 đến 06/2014 + 5.80
MC.3-3 99.11 09/2007 đến 07/2013 - 99.11
MC.4-4 121.47 07/2013 đến 12/2013 - 121.47
60.74 12/2013 đến 06/2014 + 60.74
MC.5-5 9.17 07/2013 đến 12/2013 - 9.17
9.33 12/2013 đến 06/2014 - 9.33
MC.6-6
37.19 09/2007 đến 07/2013 + 37.19
42.59 07/2013 đến 12/2013 - 42.59
19.16 12/2013 đến 06/2014 + 19.16
MC.7-7
15.98 09/2007 đến 07/2013 + 15.98
46.92 07/2013 đến 12/2013 - 46.92
18.66 12/2013 đến 06/2014 + 18.66
MC.8-8 180.71 07/2013 đến 12/2013 - 180.71
69.6 12/2013 đến 06/2014 + 69.6
MC.8a-
8
27.42 07/2013 đến 12/2013 - 27.42
13.86 12/2013 đến 06/2014 - 13.86
Dấu (+) thu hoặc đƣợc bồi tụ, dấu (-) chi hoặc bị xói lở
90
Theo đó, tại mỗi mặt cắt trên chiều dài đoạn bờ có độ dài là một mét cho ta
thấy rằng, trên cả đoạn bờ phƣờng Cửa Đại từ mặt cắt 1 (MC.1-1) đến mặt cắt 4
(MC.4-4) có chiều dài hơn 3km, trong khoảng thời gian từ 7/2013-6/2014 luôn diễn
ra tình trạng thiếu hụt bồi tích rất lớn ở khu bờ, dẫn đến bờ bãi bị biến đổi mạnh mẽ.
Tuy nhiên, vào mùa khô (mùa gió TN) lƣợng bồi tích có bù lại trên mỗi đoạn bãi
nhƣng chƣa bằng với khối lƣợng vật liệu đã mang đi khỏi khu bờ vào mùa mƣa
(mùa gió ĐB). Lƣợng bồi tích thiếu hụt này cũng khác nhau trên mỗi đoạn bờ, điều
này chứng tỏ rằng cơ chế di chuyển bồi tích dọc bờ trên mỗi đoạn rất khác nhau,
năng lƣợng sóng và dòng chảy ven bờ phụ thuộc vào cấu trúc nền đáy địa hình.
Đoạn bờ từ mặt cắt 5 (MC.5-5) phía bắc xã Tam Hòa đến mặt cắt 7 (MC.7-7)
phía nam xã Tam Tiến có phần ổn định hơn, cán cân bồi tích có xu thế về trạng thái
cân bằng. Tuy nhiên, trong thời gian khảo sát và đo đạc (từ 7/2013 đến 12/2013), thì
đoạn bờ này cũng chịu anh hƣởng mạnh bởi thời tiết cực đoạn, đó là cơn bão số 11
(10/2013) gây ra sóng lớn đã làm nhiều đoạn bờ trong đó bị xói lở mạnh, do vậy,
quá trình vật liệu bù lại cũng cần có thời gian dài hơn. Riêng đoạn bờ bên trong Cửa
Lở (Tam Hải) không thấy xuất hiện vật liệu bù lại cả trong mùa mƣa lẫn mùa khô.
3.3. ĐÁNH GIÁ TAI BIẾN DO XÓI LỞ - BỒI TỤ
3.3.1. Biến động đƣờng bờ do quá trình xói lở - bồi tụ từ năm 1965 đến nay
Bờ biển tỉnh Quảng Nam có chiều dài hơn 125km. Trong đó bao gồm: bờ tại
các đảo lớn nhỏ ven bờ có tổng chiều dài là 42.4km và trong lục địa có 7.6km bờ
đƣợc cấu tạo bởi đá gốc, còn lại là bờ cát và vật liệu bở rời. Bờ biển và các khu vực
cửa sông trong vùng nghiên cứu thuộc các kiểu bờ sau: bờ biển xói lở - tích tụ do
tác động của sóng chiếm ƣu thế; bờ biển tích tụ-xói lở do tác động của sóng và dòng
chảy ven bờ; bờ biển mài mòn - tích tụ phát triển trên đá bền vững, chủ yếu là đá
bazan tại mũi An Hòa và phía đông xã Tam Quang. Địa hình bờ biển là một dạng
tài nguyên đã và đang đƣợc khai thác triệt để trong công cuộc phát triển kinh tế xã
hội và quốc phòng. Trong những năm gần đây, bờ biển đã và đang bị xói lở mạnh
mẽ, trong khi đó tại các khu vực cửa sông lại đƣợc bồi cạn và lấp dần, những hiện
tƣợng này đã và đang xảy ra tại các khu vực Cửa Đại, Cửa Lở và bãi Bà Tình,
91
đƣờng bờ biển và các vùng cửa sông bị thay đổi nghiêm trọng dẫn đến mức độ thiệt
hại về tài sản của nhà nƣớc cũng nhƣ của nhân dân ngày càng gia tăng.
Từ những kết quả nghiên cứu và phân tích tài liệu trƣớc đây thuộc đề tài
KHCN 06.08 (2000) [37], và các công trình nghiên cứu khác [10, 25, 41] có thể
thấy rằng, quá trình xói lở - bồi tụ bờ biển diễn ra rất mạnh trên các thành tạo vật
chất bở rời, tại các đoạn bờ đƣợc cấu tạo chủ yếu thành phần vật liệu là cát.
Theo kết quả phân tích bản đồ địa hình, ảnh viễn thám theo thời gian và số
liệu đo đạc thực tế của những năm gần đây, từ năm 1965 đến 6/2014 chúng tôi thấy
rằng: Ngoài các khu vực Cửa Đại, Cửa Lở và bãi Bà Tình. Nhìn chung, tại các đoạn
bờ biển nhƣ: huyện Điện Bàn, từ Thăng Bình đến hết thành phố Tam Kỳ và xã Tam
Nghĩa, vơi tổng chiều dài đƣờng bờ hơn 45km, bờ biển ít bị biến động theo thời
gian dài mà chỉ bị biến đổi theo mùa: xói lở tại vùng bãi cát hiện đại vào mùa mƣa
(mùa gió đông bắc), và bồi tụ lại vào mùa khô (mùa gió đông nam), bờ biển luôn ở
trạng thái cân bằng động. Tuy nhiên, khi có hiện tƣợng thời tiết bất thƣờng nhƣ: gió
bão, áp thấp nhiệt đới đổ bộ trực tiếp vào vùng bờ thuộc địa phận của tỉnh, do nƣớc
biển dâng trong bão kết hợp với triều cƣờng, sóng biển đã vƣơn lên khu vực bờ cao,
thƣờng ở độ cao 2-4m và tại các đoạn bờ này vẫn xảy ra hiện tƣợng xói lở nhƣ đã
quan sát đƣợc, tại bờ biên xã Tam Hòa, Tam Tiến (hình 3.33). Sau đó bờ lại hƣớng
tới trạng thái cân bằng và quá trình tích tụ lại diễn ra, với xu thế trên các đoạn bờ
thấp tƣơng đối ổn định và luôn ở trạng thái cân bằng động.
Hình 3.33: Vách xói lở chân cồn cát cổ ở độ cao 2–4m, (trái) và bờ kè bằng bao tải
chống xói lở trên bờ cao 2-4m (phải) tại xã Tam Tiến (ảnh Trần Văn Bình, 7/2013)
92
Hình 3.34: Sơ đồ biến đổi đƣờng bờ biển tỉnh Quảng Nam thời kỳ 1965 - 2013. (a- khu vực Cửa Đại (Hội An); b - khu vực Cửa
Lở và bãi Bà Tình (Núi Thành)
93
Các đoạn bờ biển luôn diễn ra quá trình xói lở mạnh mẽ, đồng thời các cửa
sông bị bồi cạn và lấp dần với quy mô và cƣờng độ bồi-xói ở mỗi khu vực, cho từng
đoạn bờ và cửa biển phụ thuộc vào các quá trình thủy thạch động lực nhƣ: dòng
chảy, hƣớng sóng và các thiên tai bất thƣờng xảy ra ở khu vực nghiên cứu (hình
3.34). Trên cơ sở kết quả phân tích ở các giai đoạn về xu thế xói lở, bồi tụ và mức
độ xói sạt cho từng đoạn bờ cụ thể, cƣờng độ và quy mô xói lở đƣợc tính cho từng
khu vực nhƣ sau:
A. Khu vực Cửa Đại (Hội An)
Biến đổi đƣờng bờ tại khu vực Cửa Đại qua hai quá trình xói lở và bồi tụ tại
khu bờ (bảng 3.6).
Bảng 3.6: Kết quả đánh giá biến đổi bờ biển khu vực Cửa Đại cho từng giai đoạn
Giai
đoạn
Đoạn bờ
Bồi tụ Xói lở Cán
cân
diện
tích
(ha)
Độ
dài
(m)
Diện
tích
(ha)
Tốc độ
TB
(m/năm)
Độ
dài
(m)
Diện
tích
(ha)
Tốc độ
TB
(m/năm)
1965-
1973
Bắc-Cửa Đại 1.621 25,1 63,75 4.790 38,2 18,02 -13,1
Nam-Cửa Đại 2.88 15,8 10,04 2.98 35,7 16,65 -19,9
1973-
1989
Bắc-Cửa Đại 1.081 33,4 7,5 5.530 65,1 9,29 -31,7
Nam-Cửa Đại 880 12.1 8,75 4.461 60,0 8,33 -47,9
1989-
2000
Bắc-Cửa Đại 3.307 59.31 18,18 4.015 40,09 10,91 +19,2
Nam-Cửa Đại 1.436 12,39 20,91 4.366 50,57 15,45 -38,18
2000-
2009
Bắc-Cửa Đại 1.623 12,42 8.29 4.161 43,76 20,72 -31,34
Nam-Cửa Đại 1.485 27,18 21,11 3.599 16,98 8,75 +10,2
2009-
2013
Bắc-Cửa Đại 918 2,18 5,96 4.823 21,42 14,61 -19,24
Nam-Cửa Đại 1.384 4,46 4,91 1.726 22,24 60,45 -17,78
+ Giai đoạn 1965 – 1973
Trong giai đoạn này, bờ biển và vùng cửa sông hiện tƣợng xói lở chiếm ƣu
thế (hình 3.35), với tổng chiều dài đoạn bờ bị xói là 7.770 m và diện tích là 73,9 ha.
Đoạn bờ xói lở mạnh nhất tại bờ biển phía Bắc Cửa Đại thuộc phƣờng Cửa Đại, và
94
khu vực bờ trong sông tại bờ phía Nam cửa Đại thuộc xã Duy Hải. Tổng chiều dài
đoạn bờ bồi tụ là 4.501m với diện tích là 40,9 ha. Đoạn bờ bồi tụ mạnh nhất tại mũi
phía Bắc - Cửa Đại, đồng thời thu hẹp cửa biển và đẩy cửa dịch xuống phía Nam.
Đoạn bờ phía đông xã Duy Hải có chiều dài 2.075m đƣợc bồi tụ. Theo số liệu thống
kê của Trung tâm tƣ liệu khí tƣợng Thủy văn Việt Nam [73], và Trung tâm dự báo
khí hậu của NOAA [74]. Vùng bờ tỉnh Quảng Nam chịu ảnh hƣởng trực tiếp của 11
cơn bão và áp thấp nhiệt đới, đặc biệt tại khu vực Cửa Đại bị ảnh hƣởng mạnh bởi
cơn bão số 6 (25/10/1970), có tên Quốc tế là Louise, với sức gió mạnh nhất là
130m/s, bão đi theo hƣớng từ đông-tây. Chính vì vậy, bờ biển và vùng cửa sông đã
bị biến đổi mạnh mẽ. Nhìn chung, ở giai đoạn này hiện tƣợng xói lở chiếm ƣu thế
về chiều dài đoạn bờ lẫn quy mô về diện tích.
Hình 3.35: Sơ đồ xói lở-bồi tụ tại khu vực Cửa Đại giai đoạn 1965–1973
+ Giai đoạn 1973 – 1989
Ở giai đoạn này, các đoạn bờ biển bị biến động với cƣờng độ khác nhau và
diễn biến rất phức tạp. Quá trình xói lở-bồi tụ đan xen nhau giữa các đoạn bờ,
nhƣng hiện tƣợng xói lở vẫn chiếm ƣu thế (hình 3.36, bảng 3.6).
Các đoạn bờ có xu thế bị xói lở. Đoạn bờ biển phía bắc-Cửa Đại tại phƣờng
Cẩm An và Cửa Đại có chiều dài hơn 5km bị xói lở mạnh, đồng thời mở thêm cửa
95
biển mới tại bãi biển Cửa Đại-sông Đế Võng (vị trí số 1), đƣờng bờ có xu hƣớng di
chuyển về phía đất liền với tốc độ giật lùi đƣờng đƣờng tính trung bình cho cả giai
đoạn là 9,29m/năm. Ngoài ra, khu vực cửa sông tại mũi Cửa Đại có chiều dài
1.274m cũng bị xói lở. Bờ sông phía nam-Cửa Đại kéo dài từ xã Duy Nghĩa đến
mũi An Lƣơng kéo dài hơn 4km bị xói lở mạnh nhất với tổng diện tích bị xói là
54,4ha. Xu thế bờ dịch chuyển xuống phía Nam, tại chỗ rộng nhất là 350m. Đoạn
bờ biển phía đông xã Duy Hải có chiều dài hơn 1.760m cũng bị xói lở với tốc độ
trung bình xấp xỉ 5,7m/năm.
Các đoạn bờ có xu thế bồi tụ. Các đoạn bờ đƣợc bồi tụ trong giai đoạn này
bao gồm đoạn bờ phía Nam phƣờng Cửa Đại (tại vị trí số 2) có chiều dài 239m,
đồng thời ở phía bắc-Cửa Đại hình thành doi cát có chiều dài hơn 2.200m, chỗ rộng
nhất là 185m chắn trƣớc cửa, ôm gần hết phần ngoài Cửa Đại (hình 3.37).
Hình 3.36: Sơ đồ xói lở-bồi tụ tại khu vực Cửa Đại giai đoạn 1973–1989
Theo tài liệu của Phạm Quang Sơn (Trung tâm Viễn thám và Geomatic, Viện
địa chất, Viện Khoa học công nghệ Việt Nam) [33].
Vào năm 1965, doi cát ngầm (ở độ sâu 2m) nằm phía Bắc kéo dài xuống phía
Nam, đến năm 1981, doi cát ngầm này phát triển thành đê cát lớn chắn cửa sông,
chƣa nổi lên mặt nƣớc đến năm 1988, doi cát ngầm nổi cao khỏi mặt nƣớc và dịch
96
chuyển dần về phía bắc cửa sông. Đoạn bờ phía Nam mũi An Lƣơng có chiều dài
880m đƣợc bồi tụ và mở rộng phần bãi về phía biển.
+ Giai đoạn 1989 – 2000
Ở giai đoạn này, bờ phía bắc-Cửa Đại hiện tƣợng bồi tụ chiếm ƣu thế, còn bờ
phía nam-Cửa Đại, hiện tƣợng xói lở bờ sông chiếm ƣu thế (hình 3.37). Đoạn bờ
biển thuộc phƣờng Cửa Đại bồi tụ mạnh, với tổng chiều dài đoạn bờ bồi tụ là
4.877m và diện tích là 59,3ha. Chỗ đƣợc bồi tụ mạnh nhất tính trung bình cho cả
giai đoạn xấp xỉ 31,2m/năm và tại vị trí mở cửa mới cũng đƣợc bồi lấp hoàn toàn.
Đoạn bờ xã Duy Hải tại mũi An Lƣơng hƣớng về phía Nam có chiều dài 1.410m,
đƣợc bồi tụ đồng thời mũi An Lƣơng cũng đƣợc kéo dịch xuống phía Nam. Bờ biển
thuộc phƣờng Cẩm An có chiều dài đoạn bờ bị xói là 830m, với diện tích là 2,9ha.
Hình 3.37: Sơ đồ xói lở-bồi tụ tại khu vực Cửa Đại giai đoạn 1989–2000
Trong giai đoạn này, đã xảy ra trận lũ lịch sử ở cuối giai đoạn (11/2009) tại
Quảng Nam, nên bar cát chắn phía bắc-Cửa Đại cũng bị xói hoàn toàn. Đoạn bờ cửa
sông từ xã Duy Nghĩa đến mũi An Lƣơng kéo dài 3.615m bị xói lở mạnh với diện
tích xấp xỉ 50ha. Chỗ bị xói lở mạnh nhất tại vị trí mũi An Lƣơng với cƣờng độ
trung bình là 45,4m/năm.
97
+ Giai đoạn 2000 – 2009
Ở giai đoạn này, đoạn bờ phía bắc-Cửa Đại hiện tƣợng xói lở chiếm ƣu thế,
còn đoạn bờ phía Nam-Cửa Đại, hiện tƣợng bồi tụ bờ biển chiếm ƣu thế (hình 3.38).
Hình 3.38: Sơ đồ xói lở-bồi tụ tại khu vực Cửa Đại giai đoạn 2000-2009
Bờ biển giữa phƣờng Cẩm An và phƣờng Cửa Đại đƣợc bồi tụ nhẹ, có tổng
chiều dài đoạn bờ bồi tụ là 1.362m, với diện tích là 1,8ha. Đoạn bờ phía Nam
phƣờng Cửa Đại, có tổng chiều dài 388m đƣợc bồi tụ với diện tích là 10,6ha, chỗ
đƣợc bồi mạnh nhất tại mũi Cửa Đại với trung bình xấp xỉ 27,8m/năm. Đoạn bờ
biển xã Duy Hải có chiều dài 1.485m đƣợc bồi tụ mạnh, với diện tích xấp xỉ 27,2ha
đồng thời đẩy mũi An Lƣơng dịch xuống phía Nam và mở rộng ra phía biển. Đoạn
bờ biển thuộc phƣờng Cửa Đại có tổng chiều dài bị xói lở là 3.713m, với diện tích
là 36,2ha, chỗ bị xói lở mạnh nhất tính trung bình cho cả giai đoạn xấp xỉ là
24,4m/năm. Đoạn bờ trong sông thuộc phƣờng Cửa Đại có chiều dài hơn 2km bị
xói lở nhẹ với diện tích xấp xỉ 7ha. Đoạn bờ phía Bắc phƣờng Cẩm An cũng bị xói
lở nhẹ. Tại đoạn bờ thuộc xã Duy Nghĩa và Duy Hải ít bị xói lở hơn so với các giai
đoạn trƣớc đó, nhƣng vẫn bị xói lở trên hầu hết chiều dài đƣờng bờ, với diện tích
xấp xỉ 17ha, vị trí xói lở mạnh chỉ diễn ra tại khu vực gần mũi An Lƣơng. Trong
98
khoảng thời gian này, đoạn bờ sông tại xã Duy Hải đã đƣợc kè bê tông kiên cố vào
2 thời điểm, năm 2006 thực hiện giai đoạn 1 với chiều dài bờ kè khoảng 400m, đến
năm 2007 thực hiện xong giai đoạn 2, với tổng chiều dài bờ kè khoảng 1km. Vai trò
của bờ kè này đã tác động tích cực đến quá trình xói lở bờ trong khu vực, do đó
đoạn bờ này quá trình xói lở đã giảm đáng kể so với các giai đoạn trƣớc đó.
+ Giai đoạn 2009 – 2013
Ở giai đoạn này, hiện tƣợng xói lở chiếm ƣu thế ở hai bên bờ phía bắc và
phía nam của Cửa Đại (hình 3.40, bảng 3.6). Tổng chiều dài đoạn bờ bị xói lở là
6.549m, với diện tích là 43,66ha. Đoạn bờ xói lở mạnh nhất thuộc phƣờng Cửa Đại
và mũi An Lƣơng xã Duy Hải, chỗ bị xói mạnh nhất tại đây xấp xỉ 35,4m/năm và
tại xã Duy Hải xấp xỉ 72,5m/năm. Tổng chiều dài đoạn bờ bồi tụ là 2.302m, với
diện tích là 6,64ha. Trong giai đoạn này, bồi tụ chỉ diễn ra tại các đoạn bờ phía bắc
phƣờng Cẩm An, khu vực mũi Cửa Đại và bờ biển xã Duy Hải. Ở giai đoạn này, tại
đoạn bờ biển phƣờng Cửa Đại kéo dài hơn 3km đã hình thành nhiều công trình kè
kiên cố của các Resort để chống xói lở, nhƣng vào đầu giai đoạn này, cơn bão số 9
mạnh nhất trong 40 năm có tên quốc tế là (bão Ketsana) đã đổ bộ trực tiếp vào địa
phận tỉnh Quảng Nam vào ngày 23/09/2009, đã gây ra xói lở mạnh tại đoạn bờ này,
nhiều công trình cũng đã bị sóng phá hủy và hƣ hỏng nặng (hình 3.39).
Hình 3.39: Dấu vết của rễ cây phi lao (trái, ảnh Trần Văn Bình, 2009) và công
trình kè bảo vệ của các resort ở bãi biển phƣờng Cửa Đại đã bị phá hủy (phải, ảnh
Lê Đình Mầu, 2009) do ảnh hƣởng cơn bao sô 9 vào 23/9/2009
99
Hình 3.40: Sơ đồ xói lở-bồi tụ tại khu vực Cửa Đại giai đoạn 2009-2013
+ Thời kỳ 1965 – 2013
Với khoảng thời gian dài trong suốt 48 năm, bờ biển và vùng cửa sông tại
khu vực Cửa Đại đã xảy ra liên tiếp các hiện tƣợng xói lở-bồi tụ, làm nhiều đoạn bờ
bị biến đổi mạnh mẽ, đoạn bờ biển phía bắc-Cửa Đai thuộc phƣờng Cửa Đại, đoạn
bờ trong sông phía Nam - Cửa Đại thuộc xã Duy Nghĩa và Duy Hải hiện tƣợng xói
lở diễn ra liên tục và chiếm ƣu thế (hình 3.41 và 3.42, bảng 3.7).
Các đoạn bờ có xu thế bồi tụ: đoạn bờ tại mũi Cửa Đại thuộc phƣờng Cửa
Đại (Hội An) và đoạn bờ tại mũi An Lƣơng thuộc xã Duy Hải (Duy Xuyên). Tại
mũi cửa Đại và mũi An Lƣơng có xu thế dịch chuyển theo hƣớng tây bắc-đông
nam, từ năm 1965-2003 với tốc độ di chuyển xấp xỉ 23m/năm (Lê Đình Mầu, 2006)
[24]. Tính từ đông sang tây thì mũi Cửa Đại nằm sâu vào bên trong so với mũi An
Lƣơng gần 1.300m, với xu thế dịch chuyển cửa biển liên tiếp nhƣ trên, nhƣng tại
đoạn bờ phía nam-Cửa Đại đã đƣợc bảo vệ bởi công trình kè kiên cố nhƣ hiện này,
làm cho cửa biển bị thu hẹp dần, điều đó dẫn đến hiện tƣợng bồi cạn và lấp dần cửa
Đại đã và đang xảy ra trong những năm gần đây.
Các đoạn bờ có xu thế xói lở: phía bắc cửa Đại, đoạn bờ biển thuộc phƣờng
100
Cẩm An và Cửa Đại (Hội An), hiện tƣợng xói lở diễn ra mạnh mẽ nhất, cả về cƣờng
độ lẫn quy mô tại đoạn bờ phía nam phƣờng Cửa Đại, đƣờng bờ có xu thế giật lùi
vào đất liền theo hƣớng đông bắc tây nam, bởi các quá trình động lực từ phía biển.
Phía nam-Cửa Đại tại đoạn bờ sông thuộc xã Duy Nghĩa và Duy Hải (Duy Xuyên)
diễn ra hiện tƣợng xói lở mạnh từ năm 1965-2009, sau năm 2009 chỉ còn đoạn bờ
tại thôn An Lƣơng xã Duy Hải vẫn bị xói mạnh.
Hình 3.41: Sơ đồ xói lở-bồi tụ tại khu vực Cửa Đại thời kỳ 1965-2013
: 1965
: 09/1997
: 08/1998
: 08/1999
: 07/2000
: 01/2000
0 500 1000 m
108.4143 Eo
108.3783 Eo
o1
5.8
97
7
N
S«ng Cöa §
¹i
x. Duy H¶i
P. Cöa §¹i
Mòi An L¬ng Mòi Cöa §¹i
P . CÈm An
: 09/2001
: 08/2003
Bê B¾c
Bê
Nam
Bê s«ng
Cöa §¹i
Chî Duy H¶i
Hình 3.42: Biến động đƣờng bờ tại khu vực Cửa Đại (Hội An) vào các thời điểm
khác nhau từ năm 1965-2003 [24]
101
Bảng 3.7: Kết quả đánh giá biến đổi bờ biển khu vực Cửa Đại thời kỳ 1965–2013
Đoạn bờ
Bồi tụ Xói lở Cán
cân
diện
tích
(ha)
Độ
dài
(m)
Diện
tích
(ha)
Tốc độ
TB
(m/năm)
Độ
dài
(m)
Diện
tích
(ha)
Tốc độ
TB
(m/năm)
Bắc-Cửa Đại 499,6 26,11 18,75 6.559 107,6 6,25 -81,49
Nam-Cửa Đại 1.613 30,53 9,25 6.561 154,4 22,92 -125,85
B. Khu vực Cửa Lở và bãi Bà Tình (Núi Thành)
Đây là khu vực phía Nam tỉnh Quảng Nam, bờ biển và cửa sông có nhiều
đoạn diễn ra các hiện tƣợng bồi-xói đan xen nhau, giữa các pha bồi tụ-xói lở ở
tƣờng đoạn bờ và từng giai đoạn khác nhau (bảng 3.8).
Bảng 3.8: Kết quả đánh giá biến đổi bờ biển khu vực Cửa Lở và bãi Bà Tình
Giai
đoạn
Đoạn bờ
Bồi tụ Xói lở Cán
cân
diện
tích
(ha)
Độ
dài
(m)
Diện
tích
(ha)
Tốc độ
TB
(m/năm)
Độ
dài
(m)
Diện
tích
(ha)
Tốc độ
TB (m/năm)
1965-
1973
Tây Bắc-Cửa Lở 3.71 44,6 15,72 0 0 0 +44,6
Tây Bắc-Tam Hải 3.70 46,49 15,36 816,0 8,80 16,45 +37,7
Đông-Tam Hải 3.25 24,89 14,05 302,0 0,49 3,27 +24,4
Bãi Bà Tình 0 0 0 350,7 0,16 1,44 -0,16
1973-
1989
Tây Bắc-Cửa Lở 1.48 31,75 26,25 2.986 10,9 3,75 +20,87
Tây Bắc-Tam Hải 0 0 0 3.765 63,9 33,27 -63,96
Đông-Tam Hải 2.68 6,19 2,43 1.269 8,97 7.78 -2,78
Bãi Bà Tình 0 0 0 696,5 3,15 3,20 -3,15
1989-
2000
Tây Bắc-Cửa Lở 864,6 15,57 29,51 5.503 27,7 8,56 -12,11
Tây Bắc-Tam Hải 108,5 0,03 0,46 4.142 41,4 33,45 -41,4
Đông-Tam Hải 290 0,28 1,74 3.577 6,65 2,33 -6,37
Bãi Bà Tình 0 0 0 680,5 0,89 1,87 -0,89
Tây Bắc-Cửa Lở 2.825 20,38 58,72 2.257 2,02 1,68 +18,36
102
Giai
đoạn
Đoạn bờ
Bồi tụ Xói lở Cán
cân
diện
tích
(ha)
Độ
dài
(m)
Diện
tích
(ha)
Tốc độ
TB
(m/năm)
Độ
dài
(m)
Diện
tích
(ha)
Tốc độ
TB (m/năm)
2000-
2009
Tây Bắc-Tam Hải 1.946 12,83 10,61 1.748 20,7 35,87 -7,92
Đông-Tam Hải 2.602 4,19 2,69 969,8 1,19 2,62 +3,0
Bãi Bà Tình 104.4 0,05 0,69 615,8 0,37 0,91 -0,32
2009-
2013
Tây Bắc-Cửa Lở 5.531 18,81 48,47 0 0 0 +18,81
Tây Bắc-Tam Hải 1.873 10,32 16,42 1.693 6,30 29,32 +4,02
Đông-Tam Hải 2.478 9,49 15,07 838,7 1,76 9.55 +7,73
Bãi Bà Tình 0 0 0 742,6 0,50 2,67 -0,5
+ Giai đoạn 1965 – 1973
Ở giai đoạn này, hiện tƣợng bồi tụ bờ biển diễn ra trên hầu hết các cung bờ
trong khu vực, và chiếm ƣu thế về chiều dài đoạn bờ. Tổng chiều dài đoạn bờ bồi tụ
là 10.668m, với diện tích xấp xỉ 115,9ha (hình 3.43, bảng 3.8).
Hình 3.43: Sơ đồ xói lở-bồi tụ khu vực Cửa Lở và bãi Bà Tình giai đoạn 1965-1973
103
Tốc độ bồi tụ tại mỗi đoạn bờ khác nhau do ảnh hƣởng của quá trình thủy
động lực khác nhau. Đoạn mũi phía tây bắc-Cửa Lở đƣợc bồi tụ mạnh, tính trung
bình cho cả giai đoàn xấp xỉ 48,6m/năm. Riêng đoạn bờ biển bãi Bà Tình xã Tam
Quang bị xói lở nhẹ, đoạn bờ trong cửa sông Trƣờng Giang, phía đông nam-Cửa Lở
bị xói lở. Tổng chiều dài đoạn bờ bị xói lở là 1.468m, diện tích là 9,45ha. Đoạn bờ
xói lở mạnh nhất tại phía đông nam cửa sông Trƣờng Giang thuộc xã Tam Hải, chỗ
bị xói mạnh nhất xấp xỉ 18,7m/năm. Nhƣ vậy, hiện tƣợng bồi tụ chiếm ƣu thế.
+ Giai đoạn 1973 – 1989
Ở giai đoạn này, bờ biển biến động mạnh và phức tạp hơn, hiện tƣợng xói lở-
bồi tụ diễn ra giữa các pha đan xen nhau, nhƣng xói lở chiếm ƣu thế hơn và xảy ra
hầu hết trên các đoạn bờ nhƣ: tại bờ biển phía tây bắc-Cửa Lở, bờ phía đông xã
Tam Hải. Nhƣ vậy, hiện tƣợng xói lở chiếm ƣu thế về chiều dài đoạn bờ, tại phía
tây bắc-Cửa Lở xã Tam Hòa với chiều dài đoạn bờ bị xói lở là 2.986m, diện tích là
10,88ha; cung bờ phía tây bắc và phía đông Tam Hải bị xói với chiều dài là 5.034m,
diện tích là 72,93ha; cung bờ bãi Bà Tình xã Tam Quang cũng bị xói lở mạnh với
chiều dài đoạn bờ bị xói là 696,5m và diện tích là 3,15ha (hình 3.44 và bảng 3.8).
Hình 3.44: Sơ đồ xói lở-bồi tụ khu vực Cửa Lở và bãi Bà Tình giai đoạn 1973–1989
104
Tổng chiều dài các đoạn bờ bị xói lở là 8.716m, với diện tích 86,96ha. Tại
cung bờ phía tây bắc xã Tam Hải bị xói lở mạnh mẽ trên toàn cung bờ, chỗ bị xói lở
mạnh nhất là phía tây cung bờ với xấp xỉ 33,8m/năm. Trong giai đoạn này bồi tụ chỉ
chiếm 1/2 về quy mô đoạn bờ bị xói lở. Tổng chiều dài đoạn bờ bồi tụ là 4.153m,
với diện tích xấp xỉ 37,9ha. Đoạn bờ bồi tụ mạnh nhất nối thêm vào mũi phía tây
bắc-Cửa Lở thuộc xã An Hải xấp xỉ 41,2m/năm.
+ Giai đoạn 1989 – 2000
Ở giai đoạn này, hiện tƣợng xói lở bờ biển và khu vực phía đông nam cửa
sông Trƣờng Giang chiếm ƣu thế về chiều dài đoạn bờ lẫn quy mô diện tích (hình
3.45, bảng 3.8). Các đoạn bờ bị xói lở gồm: bờ biển xã Tam Hòa, cung bờ phía tây
bắc và phía đông (Tam Hải), cung bờ bãi biển Bà Tình (Tam Quang), với tổng
chiều dài đoạn bờ bị xói là 13.903m và diện tích là 76,65ha. Tổng chiều dài đoạn
bờ bồi tụ là 1.263m và diện tích là 15,9ha, chỗ bồi tụ mạnh nhất xấp xỉ 30,9m/năm.
Hình 3.45: Sơ đồ xói lở-bồi tụ khu vực Cửa Lở và bãi Bà Tình giai đoạn 1989-2000
+ Giai đoạn 2000 – 2009
Ở giai đoạn này, hiện tƣợng bồi tụ-xói lở bờ biển và khu vực cửa sông có sự
đan xen giữa các pha bồi -xói tại các đoạn bờ. Tuy nhiên, số đoạn bờ đƣợc bồi vẫn
105
chiếm ƣu thế về chiều dài đoạn bờ lẫn quy mô về diện tích (hình 3.46, bảng 3.8).
Tại các đoạn bờ đƣợc bồi nhƣ: bờ biển xã Tam Hòa, phía tây bắc-Cửa Lở, cung bờ
phía Tây Bắc và phía đông (Tam Hải), với tổng chiều dài đƣờng bờ đƣợc bồi là
7.477m và diện tích là 37,45h, đoạn bờ đƣợc bồi tụ mạnh nhất tại mũi phía tây-Cửa
Lở, vơi chiều dài đoạn bờ đƣợc bồi là 2.825m và diện tích là 20,38ha, tốc độ bồi tụ
tại vị trí rộng nhất là xấp xỉ 59m/năm. Hiện tƣợng xói lở xảy ra trên các đoạn bờ
nhƣ: bờ biển xã Tam Hòa bị xói lở với chiều dài 2.403m và diện tích là 1,58ha;
đoạn bờ phía đông nam-Cửa Lở (Tam Hải) bị xói lở mạnh nhất với 1.748m chiều
dài đƣờng bờ và diện tích là 20,75ha, chỗ bị xói lở mạnh nhất xấp xỉ 35,87m/năm;
cung bờ phía đông-Tam Hải với chiều dài đoạn bờ bị xói là 969,8m và diện tích là
1,19ha; cung bờ bãi biển Bà Tình (Tam Quang), với chiều dài đoạn bờ bị xói là
615,8m và diện tích là 0,37ha. Trong khoảng thời gian này, vào thời điểm cuối của
giai đoạn, tại khu vực nghiên cứu cũng bị ảnh hƣởng của trận lũ lịch sử vào
11/1999. Cửa Lở hầu nhƣ chỉ dịch chuyển theo chiều ngang từ tây sang đông, kéo
dài luồng lạch cửa sông Trƣờng Giang (xói bờ phía đông Nam và bồi tại các đoạn
bờ xung quanh khu vực), đồng thời chiều rộng cửa biển cũng bị thu hẹp.
Hình 3.46: Sơ đồ xói lở-bồi tụ khu vực Cửa Lở và bãi Bà Tình giai đoạn 2000-2009
106
+ Giai đoạn 2009 – 2013
Trong giai đoạn này, hiện tƣợng bồi tụ vẫn tiếp tục diễn ra và chiếm ƣu thế
về chiều dài đoạn bờ lẫn quy mô về diện tích (hình 3.48, bảng 3.8). Các đoạn bờ
biển đƣợc bồi tụ bao gồm: dọc bờ biển từ xã Tam Hòa đến mũi Cửa Lở, cung bờ
phía tây bắc và phía đông (Tam Hải), với tổng chiều dài đoạn bờ đƣợc bồi là
9.872m và diện tích là 38,62ha. Các đoạn bờ bị xói lở gồm: cung bờ bãi biển Bà
Tình, với chiều dài đoạn bờ bị xói là 742,6m và diện tích là 0,5ha; đoạn bờ phía
đông xã Tam Hải bị xói lở với chiều dài đoạn bờ là 838,7m và diện tích là 1,76ha.
Điều đặc biệt ở đây thấy rất rõ rằng đoạn bờ nằm giữa cung bờ phía đông xã Tam
Hải vẫn liên tục bị xói lở trong 3 giai đoạn liên tiếp, kể từ 1989 đến 2013 với chiều
dài đoạn bờ bị xói lở ngắn dần theo từng giai đoạn. Vào đầu giai đoạn này, đoạn bờ
phía nam cửa sông Trƣờng Giang tại Cửa Lở đã đƣợc xây dựng hệ thống kè mềm
và hoàn thành 8/2009, với 8 kè Geotube đƣợc sản xuất từ vật liệu vải địa kỹ thuật,
trên đoạn bờ dài khoảng 600m để chống xói lở, nhƣng sau trận bão (11/2009) đoạn
bờ ở đây bị xói lở mạnh và hệ thống kè này cũng bị hƣ hỏng nặng (hình 3.48, ảnh
trái), đến 10/2013 thì hiện tƣợng xói lở bờ và ăn sâu vào cồn cát cổ, đồng thời hệ
thống kè mềm này cũng gần nhƣ hƣ hỏng hoàn toàn (hình 3.47, ảnh phải).
Hình 3.47: Xói lở bờ phia nam Cƣa Lơ xã Tam Hải 2009 (trái) và 10/2013 (phải)
(ảnh Trần Văn Bình)
107
Hình 3.48: Sơ đồ xói lở-bồi tụ khu vực Cửa Lở và bãi Bà Tình giai đoạn 2009-2013
+ Thời kỳ 1965 – 2013
Bờ biển và vùng cửa sông tại khu vực Cửa Lở và bãi Bà Tình (Núi Thành),
đã và đang xảy ra liên tiếp các hiện tƣợng xói lở - bồi tụ, làm nhiều đoạn bờ bị biến
đổi mạnh mẽ, đặc biệt là tại Cửa Lở và bãi biển Bà Tình (hình 3.49, bảng 3.9). Tuy
nhiên, giữa các pha bồi-xói có sự đan xen nhau tại mỗi đoạn bờ khác nhau, nhƣng
hiện tƣợng bồi tụ vẫn chiếm ƣu thế về chiều dài đƣờng bờ lẫn quy mô diện tích.
Các đoạn bờ có xu thế bồi tụ: đoạn bờ phía tây bắc-Cửa Lở thuộc xã Tam
Hòa và Tam Hải, cung bờ biển phía tây bắc và phía đông xã Tam Hải
Các đoạn bờ có xu thế xói lở: đoạn bờ biển xã Tam Hòa, đoạn bờ phía đông
nam-Cửa Lở, đoạn bờ giữa cung bờ phía đông xã Tam Hải và đoạn bờ thuộc bãi
biển Bà Tình. Tại khu vực bờ biển bãi Bà Tình, hiện tƣợng xói lở bờ biển diễn ra
liên tục và ngày càng gia tăng, trong những năm gần đây cƣờng độ xói sạt càng thể
hiện rõ rệt hơn. Điều đặc biệt là tại đoạn bờ này không thấy hiện tƣợng bồi tụ trong
suốt thời gian dài.
Xu thế dịch chuyển Cửa Lở: từ năm 1965 đến năm 2000, Cửa Lở dịch
chuyển theo hƣớng tây bắc-đông nam. Từ sau năm 2000 đến nay, Cửa Lở dịch
108
chuyển theo chiều ngang, hƣớng từ tây sang đông. Nhƣ vậy, từ năm 1965 đến nay
Cửa Lở đã dịch chuyển 1.658m, với tốc độ trung bình xấp xỉ 34,5m/năm.
Bảng 3.9: Kết quả đánh giá biến đổi bờ biển khu vực Cửa Lở thời kỳ từ 1965–2013
Đoạn bờ
Bồi tụ Xói lở Cán
cân
diện
tích
(ha)
Độ
dài
(m)
Diện
tích
(ha)
Tốc độ
TB
(m/năm)
Độ
dài
(m)
Diện
tích
(ha)
Tốc độ
TB
(m/năm)
Tây bắc-Cửa Lở 1.852 112,4 35,96 2.799 8,83 1,04 +103,6
Tây bắc-Tam Hải 2.079 26,46 3,48 2.811 100,83 34,17 -74,37
Đông-Tam Hải 3.320 22,05 2,51 415,3 0,45 0,41 +21,6
Bãi Bà Tình 0 0 0 754,8 5,52 1,98 -5,52
Hình 3.49: Sơ đồ xói lở-bồi tụ khu vực Cửa Lở và bãi Bà Tình thời kỳ 1965-2013
3.3.2. Khai thác tài nguyên và tai biến địa mạo bờ biển
Trong những hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên thì đáng nói nhất ở
đây là việc khai thác khoáng sản. Trực trạng của hoạt động này đã làm cho môi
trƣờng bờ biển ngày càng xấu đi và hậu quả vẫn đang diễn ra nhƣ tại bờ biển bãi Bà
Tình (Tam Quang), hiện tƣợng xói lở vẫn xảy ra hàng năm (hình 3.50).
109
Hình 3.50: Bờ biển bị xói lở mạnh là hậu quả của việc khai thác vật liệu (ảnh Trần
Văn Bình 10/2013)
Hiện nay, dọc theo bờ biển Quảng Nam nói riêng và cả dải ven biển miền
Trung nói chung, là nơi phân bố của những cồn cát với độ cao khác nhau từ 4-5m
đến trên 10m, nguồn gốc biển-gió tuổi Holocen sớm hoặc hoặc Holocen giữa-muộn
cũng đã đƣợc khai thác ở nhiều nơi. Trong thành phần của cát cồn, ngoài khoáng
vật thạch anh, còn chứa một hàm lƣợng đáng kể các khoáng vật quặng nhƣ titan,
zircon, monazit, rutil, casiterit,... Chính vì vậy, vùng bờ ven biển miền Trung đƣợc
coi là vùng có triển vọng nhất tập trung và hình thành các mỏ sa khoáng, đặc biệt là
sa khoáng titan (Ti)-zircon (Zr).
Trong phạm vi vùng bờ Quảng Nam, theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn
Tấn Thi (1971-1974) [65], Lê Phƣớc Trình và cs (2000) [37], Đỗ Minh Tiệp và cs,
1999 [36], Trịnh Thế Hiếu (2003, 2006) [12, 14], thì hàm lƣợng các khoáng vật
nặng trong trầm tích cát cồn, cát bãi thƣờng đạt từ 2.0 - 2.64%, nhiều nơi nhƣ cửa
Đại (Hội An), Tam Tiến, Tam Hải (Núi Thành) hình thành các thân sa khoáng có bề
dày vài cm tới hàng chục cm (Hình 3.51). Vào thời kỳ gió mùa đông bắc, tại các
khu vực này thƣờng hình thành các bãi sa khoáng với hàm lƣợng các khoáng vật
quặng (chủ yếu là Ti - Zr) đạt trên 60 %.
Về mặt lý thuyết thì đây là dạng tài nguyên giàu tiềm năng, có thể khai thác.
Nhƣng khoáng sản rắn là tài nguyên không phục hồi hoặc rất chậm hồi phục, do vậy
110
cần đƣợc tổ chức khai thác hợp lý, hiệu quả không làm thất thoát tài nguyên và ảnh
hƣởng xấu đến các hoạt động phát triển khác, đảm bảo an toàn môi trƣờng sống.
Hình 3.51: Thân sa khoáng trên bãi biển xã Duy Hải (trái, ảnh Trịnh Thế Hiếu) và
có lẫn trong cát khu vực bờ phía mam Cửa Lở (phải, ảnh Trần Văn Bình, 2013)
Chính vì vậy, công tác bảo vệ môi trƣờng trong hoạt động khoáng sản phải
đƣợc triển khai trên cả 2 góc độ là biện pháp quản lý và các biện pháp kỹ thuật. Tuy
nhiên, những năm vừa qua, đặc biệt là trƣớc năm 2008, nhiều Công ty ở Quảng
Nam đã đƣợc cấp phép khai thác cát quặng Ti tại dọc ven biển từ Duy Nghĩa, Tam
Hòa, Tam Hiệp, Tam Nghĩa đến Tam Quang (hình 3.52). Mặc dù, khai thác cát
quặng Ti ở các khu vực này chỉ mang tính chất tận thu, nhƣng nhiều nơi rừng phòng
hộ đã bị chặt phá, hậu quả thì một phần nào chúng ta đã phải gánh chịu trong các
cơn bão những năm gần đây. Mặt khác, vùng bờ là nơi nhạy cảm trƣớc những tác
động của thiên nhiên và con ngƣời, khi mất rừng phòng hộ, hiện tƣợng cát bay xảy
ra với cƣờng độ mạnh hơn, những vùng đất liền kề có khả năng trở thành hoang
mạc hóa. Điều này dẫn đến khả năng tai biến địa mạo nhiều hơn trong vùng.
Hình 3.52: Khai thác cát quặng Ti – Zr tại vùng bờ biển xã Duy Hải (trái), xã
Tam Hiệp (giữa) và xã Tam Nghĩa (trái) (ảnh Trịnh Thế Hiếu, 2005, 2006, 2007)
111
3.3.3. Những nguyên nhân gây ra xói lở và hậu quả
Từ những kết quả nghiên phân tích địa mạo trong khu vực nghiên cứu, đã
đƣợc nêu trong các phần trƣớc, trên tại những đoạn bờ đƣợc cấu tạo bởi trầm tích
bở rời, bờ cát hay bờ biển đƣợc phủ bởi lớp vỏ bazan bị phong hóa, cùng với các kết
quả tính toán và những quan sát thực tế ngoài thực địa từ năm 2007 đến nay, trong
đó đã có hai lần đƣợc ghi nhận trong hai chuyến khảo sát sau bão vào năm 2009 và
2013 thuộc các đề tài KC09.24/06-10 do Bùi Hồng Long (chủ nhiệm) 2010 [23] và
đề tài đang thực trong năm 2013-2014 do Lê Đình Mầu làm chủ nghiệm, cùng với
những công trình của các tác giả nhƣ Lê Phƣớc Trình (2000) [37], Trịnh Thế Hiếu
(2001 và 2005) [11, 13], Lê Đình Mầu [22, 24, 25 và 59], Vũ Tuấn Anh [2]..., thì
nguyên nhân chính và cũng là nguyên nhân trực tiếp gây ra biến đổi đƣờng bờ biển
mạnh mẽ trong khu vực nghiên cứu, đặc biệt là hiện tƣợng xói lở bờ biển tại khu
vực Cửa Đại, khu vực Cửa Lở và bãi Bà Tình do quá trình tác động của năng lƣợng
sóng biển cao vào mùa gió đông bắc, điều này cũng đúng với kết quả tính toán cán
cân trầm tích trong 3 đợt khảo sát và đo đạc của năm 2013 và 2014. Tại đây, vào
thời kỳ gió mùa đông bắc sóng có độ cao từ 1-1,5m và kéo dài trong 5 tháng, Ngoài
ra, vào những thời điểm thời tiết xấu nhƣ áp thấp nhiệt đới, gió bão, tốc độ gió bão
mạnh nhất trong khu vực là 46m/s [27], tốc độ gió trung bình là 15-20m/s thì độ cao
sóng hiệu dụng trung bình từ 3-4m, cũng đã làm gia tăng xói lở bờ biển trong phạm
vi nghiên cứu nói riêng và trong khu vực Nam Trung Bộ nói chung.
Tại đây, cũng đã đƣợc tác giả ghi nhận sau 2 lần thực hiện khảo sát hiện
trạng bờ biển sau bão, tại khu vực nghiên cứu bị ảnh hƣởng trực tiếp của bão đó là:
lần thứ nhất vào tháng 11/2009, và lần thứ 2 vào tháng 10/2013. Bờ biển ở đây bị
xói lở nghiêm trọng, có khi kết thúc 1 trận bão bờ biển có nơi dịch sâu vào đất liền
hàng chục mét, đồng thời năng lƣợng sóng mạnh đã phá hủy nhiều công trình kè
của dân tại các công trình khách sạn, khu nghỉ dƣỡng, cũng nhƣ các công trình kè
bảo vệ bờ biển của nhà nƣớc nhƣ tại Cửa Lở (Tam Hải), bờ kè trong sông thuộc xã
Duy Hải, phía nam Cửa Đại (Hội An) (hình 3.53 và 3.54).
112
Hình 3.53: Xói lở làm sập kè bảo vệ, đe dọa công trình khách sạn bên trong tại
phƣờng Cửa Đại (ảnh trái); xói lở mạnh tại Cửa Lở (ảnh giữa) và bãi Bà Tình (ảnh
trái), do sóng hoạt động và phá hủy bờ khi gió bão (ảnh Trần Văn Bình, 10/2013).
Hình 3.54: Xói lở bờ biển phƣờng Cửa Đại do sóng biển hoạt động trong khi gió
bão đã tàn phá và đe dọa nhiều công trình nơi đây (ảnh Trần Văn Bình, 11/2009)
Ngoài nguyên nhân trực tiếp đã nêu trên, còn có một số nguyên nhân khác
hay gọi là những nguyên nhân gián tiếp đã gây ra hiện tƣợng xói lở bờ biển trong
khu vực nghiên cứu và đáng kể nhất có một số nguyên nhân sau: Sự gia tăng các
trận bão và áp thấp nhiệt đới trong năm, dẫn đến các hiện tƣợng nƣớc dâng do bão
kết hợp với triều cƣờng, làm kéo dài thời gian hoạt động của sóng biển trên khu bờ
cao, do đó đã làm tăng cƣờng độ xói lở bờ biển và trên cả quy mô chiều dài đoạn
bờ. Mặt khác, còn có các hoạt động của con ngƣời, xét về nguyên nhân sâu sắc thì
con ngƣời làm cho toàn cầu ấm lên, dẫn đến gia tăng các điều kiện thời tiết cực
đoan và nƣớc biển dâng, tốc độ dâng mực nƣớc trung bình trên dọc bờ biển Việt
Nam là 2,5 mm/năm, tại Quảng Nam là 2,74 mm/năm [40], đã làm tăng hiện tƣợng
xói lở bờ biển, cũng nhƣ toàn cầu ấm lên và xói lở bờ biển [58]. Các hoạt động của
con ngƣời trên các lƣu vực sông Thu Bồn và sông Tam Kỳ, nhƣ việc xây dựng
nhiều hồ đập trên lƣu vực đã giữ lại một lƣợng trầm tích đáng kể vào mùa khô,
113
không đƣợc mang ra biển. Do đó, gây tình trạng thiếu hụt trầm tích phía bờ biển
cũng dẫn đến xói lở ngày càng tăng. Ngoài ra, nguyên nhân gián tiếp đáng nói nhất
trong khu vực nghiên cứu cũng dẫn đến hiện tƣợng xói lở bờ biển là vấn đề khai
thác tài nguyên khoáng sản tại dải ven bờ biển trong phạm vi nghiên cứu từ những
năm trƣớc đây, nhƣ tại khu vực bờ biển bãi Bà Tình đã khai thác sa khoáng vào
trƣớc năm 2008, hậu quả là bờ biển vẫn bị xói lở hàng năm và ngày càng mạnh mẽ
hơn, đã làm mất một diện tích lớn đất và đƣờng bờ biển gần tiến sát vào đến đƣờng
giao thông, mà đây là đoạn đƣờng quan trọng, đƣờng lƣu thông của quân cảng-Cảnh
sát biển trong khu vực. Nhƣ vậy, nhiều đoạn bờ biển ở đây đã và đang bị giật lùi
đƣờng bờ sâu vào đất liền, do quá trình xói lở bờ diễn ra rất nghiêm trọng, đặc biệt
là xói lở bờ do sóng biển hoạt động và phá hủy trong khi gió bão nhƣ hình 3.55.
Hình 3.55: Mô phỏng quá trình xói lở bờ biển trong điều kiện thời tiết cực đoan
3.4. ĐỊA MẠO VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ MÔI TRƢỜNG BỜ
3.4.1. Ảnh hƣởng của tai biến đến cảnh quan môi trƣờng vùng bờ
Xói lở bờ biển ở đây gây ra các vấn đề sau:
1) Xói lở các hệ thống cồn cát, tàn phá khu du lịch sinh thái và nghỉ dƣỡng
do tác động của sóng bão làm tràn ngập vùng đất nội địa phía trong.
2) Sập đổ các công trình đặt trên đỉnh các vách biển hoặc trên các cồn cát,
các công trình kè bảo vệ bờ ở một số đoạn bờ sông, bờ biển xã Duy Hải, Tam Hải.
3) Xói lở chân các công trình bảo vệ bờ biển do sự hạ thấp bờ trƣớc.
4) Làm mất các vùng đất có giá trị kinh tế, nhƣ các bãi biển, các vùng đất
nông nghiệp, các vùng đất nuôi trồng hải sản; v.v.
114
Ngày nay, nghiên cứu địa mạo bờ biển đang đƣợc quan tâm sâu sắc, đặc biệt
là nghiên cứu biến động địa hình bờ biển và còn đƣợc xem là một trong những cơ
sở khoa học quan trọng đóng góp có hiệu quả cho quy hoạch phát triển bền vững
(gồm cả quy hoạch chiến lƣợc và quy hoạch hành động), cũng nhƣ cho quá trình
quản lý môi trƣờng bờ biển nói chung.
Bồi tụ và xói lở là hai mặt đối lập xảy ra một cách tất yếu trong quá trình
phát triển địa hình tuân theo quy luật tiến hóa của sự vật. Song vì nhiều nguyên
nhân, hoạt động bồi tụ-xói lở gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với cuộc sống
của con ngƣời. Lúc đó nó trở thành tai biến. Trong đa số trƣờng hợp, xói lở bờ biển
gây ra tai biến nhiều hơn so với bồi tụ.
Đối với vùng bờ Quảng Nam, tai biến bồi tụ chỉ xảy ra ở vùng trƣớc Cửa Đại
(Hội An) và cùng Cửa Lở (Núi Thành) đã và đang ở mức độ báo động. Do tác động
hỗn hợp sông-biển, vùng trƣớc Cửa Đại và Cửa Lở, luôn hình thành và tồn tại các
bar cát chắn cửa. Các bar này có hình thái khác nhau và luôn biến động theo thời
gian. Sự tồn tại và biến động của chúng đã làm cho luồng lạch ra vào vùng cửa thay
đổi liên tục, gây khó khăn cho tàu thuyền, đặc biệt là những tàu thuyền của các địa
phƣơng khác muốn ra vào bến cảng khu vực cửa Đại. Còn tai biến xói lở diễn ra với
quy mô rộng hơn và cũng khốc liệt hơn tại các khu vực bờ phƣờng Cửa Đại, xã Duy
Hải, Tam Hải và Tam Quang. Xói lở bờ sông, bờ biển đã và đang tác động nghiêm
trọng, không chỉ đối với cuộc sống của cộng đồng dân cƣ khu vực bị xói lở, mà còn
tác động nhiều mặt đến cảnh quan môi trƣờng bờ.
Tại bờ biển Tam Thanh, hiện tƣợng xói lở bờ biển cũng diễn ra khá mạnh,
tạo nên những bờ vách dốc đứng cao 5-7m. Hậu quả của hiện tƣợng này là, bờ biển
lấn sâu vào phía đất liền, không những làm thay đổi diện mạo bờ biển mà còn ảnh
hƣởng tới đời sống cộng đồng dân cƣ. Một tác động khác tại khu vực này là, tạo cho
phần ngầm bãi có độ dốc lớn, bên ngoài hình thành các đê cát ngầm song song với
đƣờng bờ và luôn di động theo thời gian. Chính với dạng địa hình này là điều kiện
thuận lợi để hình thành các dòng xoáy (rift current) tại khu vực bãi này, gây nguy
hiểm cho ngƣời dân cũng nhƣ khách du lịch khi tham gia tắm biển.
115
Để chống lại hiện tƣợng xói lở, tại các khu vực nhƣ: bờ sông xã Duy Hải, bãi
biển Tam Thanh, bờ phía nam Cửa Lở và bờ biển xã Tam Hải, tỉnh Quảng Nam đã
đầu tƣ kinh phí lớn xây dựng đê, kè dọc theo các đoạn bờ này và hậu quả là công
trình kè tại Cửa Lở đã bị phá hủy hoàn toàn, bờ kè Duy Hải, Tam Hải cũng đã bị
sóng biển làm hƣ hỏng.
3.4.1. Đia mạo ứng dụng trong quản lý môi trƣờng bờ
Quản lý môi trƣờng nói chung và quản lý môi trƣờng bờ biến nói riêng, theo
Cục Môi trƣờng Anh Quốc [43], thực chất bao gồm quản lý tài nguyên và quản lý
tai biến. Quản lý tài nguyên tức là xem xét và cân nhắc sử dụng các loại tài nguyên
bờ biển một cách hợp lý nhất phù hợp với các quy luật đã hình thành ra nó. Còn
quản lý tai biến là xem xét và dự đoán sự biến đổi các nguồn tài nguyên này diễn ra
theo hƣớng nào-tốt hay xấu, khi đƣợc đƣa vào sử dụng. Tuy nhiên, do tính phức tạp
của quản lý tài nguyên, trong báo cáo này chỉ đề cập tới quản lý tai biến, cụ thể
trong vùng là tai biến xói lở bờ biển.
Trên quan điểm coi tài nguyên là bất cứ thứ gì phục vụ cho các nhu cấu phát
triển của con ngƣời cả về vật chất lẫn tinh thần, thì địa hình và các quá trình địa
mạo là một nguồn tài nguyên thiên nhiên đã đƣợc con ngƣời sử dụng từ rất sớm.
Lúc đầu chỉ là nơi cƣ trú, sau trở thành nơi sản xuất và xây dựng theo nhu cầu của
mình. Chính vì thế, địa hình mặt đất đã trở thành “sân khấu” con ngƣời “trình diễn”
những sáng tạo của họ.
Tuy nhiên, do nhận thức không đầy đủ về bản chất của địa hình-một hợp
phần của tự nhiên không phải là bất biến, mà thƣờng xuyên vận động và thay đổi,
mặc dù chậm chạp, dƣới tác động của các nhân tố khác, nên con ngƣời đã sử dụng
nó một cách không cân nhắc và đã dẫn đến nhiều hậu quả không có lợi cho chính
bản thân con ngƣời: đó là các tai biến thiên nhiên, nhƣ trƣợt đất, xói lở bờ sông, bờ
biển, xói mòn thổ nhƣỡng, bồi lấp cửa sông, v.v. Thực chất, các hiện tƣợng đó
chính là các quá trình địa mạo-hay đƣợc gọi chung là các quá trình trên mặt.
Địa hình bờ biển của vùng nghiên cứu hiện nay cũng đang trong tình trạng
biến đổi theo chiều hƣớng không có lợi cho cuộc sống của ngƣời dân. Đó là hiện
116
tƣợng xói lở bờ biển tràn lan gây thiệt hại lớn về tài sản, hay bồi tụ cản trở sản xuất
của nhân dân các địa phƣơng. Xói lở làm mất đất đai để cƣ trú và sản xuất, phá hủy
hoặc đe dọa phá hủy các công trình xây dựng trên bờ biển, v.v. (hình 3.56 và 3.57.).
Hình 3.56: Xói lở làm sập đổ công trình ở phƣờng Cửa Đại (trái), và phá hủy công
trình kè chống xói lở ở xã Tam Hải (phải) (ảnh Trần Văn Bình, 2013)
Hình 3.57. Xói lở đe dọa làm sập đổ công trình ở phƣờng Cửa Đại (trái)(ảnh Vũ
Văn Phái, 2012), mất đất quân sự ở Tam Quang (phải)(ảnh Trần Văn Bình, 2013)
Trƣớc tình hình xói lở bờ biển gây hậu quả nghiêm trọng nhƣ vậy, nhƣng
đến nay, trong vùng cũng chƣa có những giải pháp hữu hiệu để bảo vệ. Lý do có lẽ
do kinh phí có hạn, đồng thời cũng chƣa có nghiên cứu cụ thể từng trƣờng hợp xói
lở để đƣa ra nguyên nhân chính gây ra xói lở là gì, hoặc do ở đó không có các công
trình dân sinh, công trình lịch sử văn hóa quan trọng? Gần đây, xói lở nghiêm trọng
tại phƣờng Cửa Đại (Hội An) từ năm 2009-2011, thì đến năm 2012, chính quyền đã
cấp kinh phí để xây dựng công trình bảo vệ kiên cố (hình 3.58). Nhƣng liệu kết quả
117
của các công trình này có đƣợc nhƣ mong muốn? Bởi vì, điều kiện cần để cho công
trình tồn tại lâu dài và mang lại hiệu quả cao cả về kinh tế lẫn môi trƣờng, cần có
những nghiên cứu đo đạc cụ thể và dự đoán khả năng giật lùi của đƣờng bờ nhƣ thế
nào dƣới tác động của biến đổi khí hậu và mực nƣớc biển dâng.
Hình 3.58: Đang thi công công trình bảo vệ bờ ở phƣờng Cửa Đại 5/2012 (ảnh Vũ
Văn Phái, 2012)
3.5. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP GIẢM NHẸ CÁC TAI BIẾN PHỤC VỤ QUẢN LÝ
MÔI TRƢỜNG BỜ BIỂN
3.5.1. Phân vùng cảnh báo tai biến địa mạo bờ biển
Với xu thế ngày càng tăng các hiện tƣợng tai biến xói lở-bồi tụ ở khu vực
nghiên cứu đƣợc nhận định và đánh giá trên cơ sở nghiên cứu địa mạo, các quá
trình thủy thạch động lực, hiện trạng và các nhân tố ảnh hƣởng cũng nhƣ nguyên
nhân gây ra, đã tác động lên môi trƣờng bờ biển nhƣ đã đề cập đến trong chƣơng 2
và phần đầu chƣơng 3. Các quá trình xói lở, bồi tụ đã và đang xảy ra, đặc biệt là xu
hƣớng xói lở mạnh vẫn tiếp tục diễn ra trên các đoạn bờ cấu tạo bởi trầm tích bở
rời, độ gắn kết yếu. Căn cứ vào hiện trạng và các nhân tố ảnh hƣởng đến hoạt động
xói lở-bồi tụ, trên toàn bộ dải ven bờ biển khu vực nghiên cứu đƣợc phân chia thành
các đoạn bờ có nguy cơ tai biến xói lở khác nhau nhƣ sau (bảng 3.10, hình 3.59).
3.5.1.1. Đoạn bờ thường xảy ra tai biến xói lở cao
Đây là những đoạn thuộc kiểu bờ xói lở trên trầm tích bở rời và cát, bao gồm
các đoạn bờ biển nhƣ: phƣờng Cửa Đại, xã Duy Hải, đông nam Cửa Lở và bờ bãi
Bà Tình xã Tam Quang. Các đoạn bờ này có tầm quan trọng trong phát triển kinh tế
118
- xã hội, tập chung dân cƣ. Mặt khác, còn là chiến lƣợc an ninh quốc phòng. Nhƣ đã
trình bày ở các phần trƣớc, trên các đoạn bờ này, vật chất cấu tạo bờ chủ yếu là vật
liệu bở rời, đồng thời bị tác động mạnh do các quá trình động lực, nên hoạt động xói
lở đã làm đƣờng bờ bị thay đổi mạnh, đồng thời đã phá huỷ các công trình kè, nhà
cửa, đƣờng giao thông gây ảnh hƣởng lớn đến kinh tế-xã hội và tâm lý của ngƣời
dân, nhất là trong thời gian gần đây hiện tƣợng này càng trở nên phổ biến và đã xảy
ra nghiêm trọng, do đó đƣợc xét vào đoạn bờ thƣờng xảy ra tai biến xói lở cao.
Hình 3.59: Sơ đồ phân vùng cảnh báo tai biến địa mạo bờ biển tỉnh Quảng Nam
119
Bảng 3.10: Đánh giá tổng hợp mức độ xảy ra nguy cơ tai biến xói lở-bồi tụ tại dải ven biển tỉnh Quảng Nam
Stt
Vị trí
đoạn bờ
Độ dài
đoạn bờ
(km)
Hƣớng
đƣờng
bờ
Vật liệu
cấu tạo
bờ
Độ rộng
TB bãi
(m)
Độ dốc
trung
bình
Cán cân
vật liệu
Tốc độ xói
lở TB
(m/năm)
Năng
lƣợng
sóng
Hƣớng
sóng
ƣu thế
Độ ổn
định bờ
Mức
độ tai
biến
1 Phƣờng
Cửa Đại
4,32 TB-ĐN Cát 40-50 3-50 Thiếu 6,25 Cao ĐB Rất thấp Cao
2 Đông nam
Cửa Lở
1,56 ĐB-TN Cát 30-35 Vách
dốc
Thiếu 34,17 Cao ĐB Rất thấp Cao
3 Bãi Bà
Tình
0,8 TB-ĐN Bazan bị
phong hóa
10-15 Vách
đứng
Thiếu 1,98 Cao ĐB Rất thấp Cao
4 Duy Hải -
Tam Tiến
42,44 TB-ĐN Cát 50-90 1-30
Thiếu hụt Đan xen Cao ĐB Thấp Trung
bình
5 Phía đông
Tam Hải
3,96 Đ Cát 25-70 1-30
Thiếu hụt Đan xen Cao Đ
Thấp Trung
bình
6 Điện Ngọc-
Cẩm An
11,34 TB-ĐN Cát 40-60 1-30 Cân bằng Đan xen Cao ĐB Trung bình Thấp
7 Duy Hải 3,12 Đ, ĐB-
TN
Cát 50-80 1-20 Cân bằng Đan xen Cao ĐB Trung bình Thấp
8 Tam Hòa 5,5 TB-ĐN Cát 60-70 1-20 Cân bằng Đan xen Cao ĐB Trung bình Thấp
9 Phía bắc
Tam Hải
1,86 ĐB-TN Cát 80-120 0.5-10 Cân bằng Đan xen Trung
bình
B Trung bình Thấp
10 Tam Nghĩa 6,18 TB-ĐN Cát 45-50 1-30 Cân bằng Đan xen Cao ĐB Trung bình Thấp
11 Tam Hải 2,8 TB-ĐN Đá gốc Không Vách đá Không Không Cao ĐB Cao Không
12 Tam Quang 7,1 Đ Đá gốc Không Vách đá Không Không Cao ĐB Cao Không
120
3.5.1.2. Đoạn bờ có nguy cơ xảy ra tai biến xói lở trung bình
Các đoạn bờ này cũng thuộc kiểu bờ xói lở trên trầm tích bở rời, bao gồm
các đoạn bờ nhƣ: đoạn bờ biển kéo dài từ phía nam xã Duy Hải (Duy Nghĩa) đến
hết xã Tam Tiến (Núi Thành), và đoạn bờ phía đông xã Tam Hải (Núi Thành), cũng
nhƣ đã đề cập ở phần trên thành phần vật chất cấu tạo bờ chủ yếu là cát, đây là
những đoạn bờ đƣợc phát triển trên các thành tạo địa mạo số 23, 24, 25 và 33, sự
tiến hóa bờ biển luôn có hiện tƣợng xói lở, bồi tụ diễn ra đan xen trong các đoạn bờ,
đồng thời có sự xói lở bồi tụ xen kẻ theo mùa, tạo nên thế bờ biển cân bằng động.
Qua phân tích ảnh vệ tinh thì bờ biển luôn ổn định. Qua khảo sát thực tế thì thấy
rằng, mặc dù vẫn chịu tác động mạnh của sóng nhƣng ít xảy ra tai biến xói lở, chỉ
xảy ra ở một số đoạn rất nhỏ, chƣa đến mức nghiêm trọng. Tuy nhiên, trên các đoạn
bờ này một số đoạn đã có công trình bảo vệ bờ nhƣng vẫn bị sóng phá hoại trong
khi có gió bão nên đƣợc đƣợc xếp vào loại bờ có nguy cơ xảy ra tai biến trung bình.
3.5.1.3. Đoạn bờ có nguy cơ xảy ra tai biến thấp
Đó là các đoạn bờ nhƣ: bờ từ xã Điện Ngọc đến phƣờng Cẩm An, đoạn bờ xã
Duy Hải, đoạn bờ các xã Tam Hòa,Tam Hải, Tam Nghía. Đây là các đoạn bờ có cấu
trúc bờ lõm về phía lục địa, làm năng lƣợng sóng khi vào bờ bị giảm đáng kể. Mặt
khác, do ảnh hƣởng của cấu trúc địa hình trong khu vực, dòng chảy dọc bờ thƣờng
mang trầm tích đến và lắng đọng lại. Qua kết quả phân tích từ bản đồ địa hình, trên
ảnh vệ tinh và số liệu đo đạc thực tế cho thấy rằng, nhiều đoạn bờ có sự xói lở-bồi
tụ đan xen trong những đoạn bờ hoặc theo mùa, có đoạn còn đƣợc bồi tụ nhẹ trong
thời gian dài nhƣ tại các đoạn bờ biển Duy Hải, Tam Hòa và phía bắc xã Tam Hải.
3.5.1.4. Đoạn bờ không có nguy cơ xảy ra tai biến
Đây là những đoạn bờ trong đơn bị địa mạo số 38, thuộc kiểu bờ mài mòn trên đá
bền vững và đƣợc phát triển trên đá gốc nên tƣơng đối ổn định. Trong khu vực
nghiên cứu, đoạn bờ này chiếm tỷ lệ rất nhỏ đó là đoạn mũi An Hòa (Tam Hải) và
đoạn bờ xã Tam Quang (trừ khu vực bờ biển bãi Bà Tình).
121
3.5.2. Các giải pháp giảm nhẹ tai biến phục vụ quản lý môi trƣờng và phát
triển bền vững vùng bờ biển tỉnh Quảng Nam
3.5.2.1. Đề xuất quy hoạch và sử dụng bờ biển trên cơ sở địa mạo
Về lâu dài và có thể tránh đƣợc những tác động không mong muốn do cả
thiên nhiên và con ngƣời gây ra, trƣớc hết cần có quy hoạch sử dụng các nguồn tài
nguyên trên dải bờ biển, trong đó có địa hình, một cách đúng đắn và khôn ngoan.
Nghiên cứu địa mạo có những đóng góp quan trọng trong quy hoạch bờ biển xuất
phát từ mối quan hệ phản ứng-quá trình, hay nói cách khác từ hệ địa mạo phản ứng-
quá trình đã và đang đƣợc sử dụng rộng rãi trong địa mạo học từ vài chục năm gần
đây (chẳng hạn, phản ứng lại với mực nƣớc biển dâng là quá trình xói lở làm đƣờng
bờ giật lùi về phía đất liền, còn quá trình tích tụ, mở rộng diện tích lục địa phản ứng
lại mực nƣớc biển hạ thấp). Từ những mối quan hệ nhƣ vậy, địa hình bờ biển luôn
là đối tƣợng nhạy cảm nhất với những thay đổi kể cả các hợp phần trong hệ địa mạo
bờ, cũng nhƣ các điều kiện từ bên ngoài, nhƣ biến đổi khí hậu và mực nƣớc biển
dâng. Điều này dẫn đến địa hình bờ biển dễ bị tổn thƣơng do mực nƣớc biển dâng.
Tài nguyên địa hình trên dải ven biển và đáy biển ven bờ tỉnh Quảng Nam rất
đa dạng và phong phú cả về nguồn gốc lẫn hình thái của chúng. Các thành tạo địa
hình do biển, kể cả các bề mặt tích tụ lẫn các thành tạo mài mòn đều có giá trị sử
dụng trong thực tiễn (là mặt bằng để xây dựng cơ sở hạ tầng, sản xuất nông-lâm-
thủy sản, v.v.) lẫn trong nghiên cứu khoa học (quá trình tiến hóa địa mạo của đồng
bằng ven biển, theo dõi quá trình tiến hóa các thành tạo địa chất lộ ra trên địa hình
mài mòn ở khu vực An Hòa, v.v.). Tuy nhiên, hiện nay, toàn bộ rìa phía biển của
các bề mặt tích tụ này đều đang bị xói lở khá mạnh mẽ, đặc biệt ở khu vực Cửa Đại,
Cử Lở và bãi Bà Tình. Xói lở không những làm mất đất, mà còn phá hủy nghiêm
trọng cơ sở hạ tầng phục vụ cho du lịch ở đây.
Trƣớc tình trạng nhƣ vậy, ở đây, chỉ nêu một vài nhân xét về đinh hƣớng quy
hoạch phát triển du lịch. Có thể nói rằng, nguồn tài nguyên phục vụ phát triển du
lịch trong phạm vi của tỉnh rất phong phú, đặc biệt là đoạn bờ biển từ phƣờng Cửa
Đại hƣớng lên tới Đà Nẵng. Trên đoạn này có thể bố trí nhiều tuyến và điểm du lịch
với khả năng đi lại thuận lợi theo đƣờng ven biển Hội An-Đà Nẵng. Các hình thức
122
du lịch gồm tắm biển bãi biển Mỹ Khê (Đà Nẵng), bãi biển phƣờng (Cửa Đại),
ngắm cảnh (đƣờng đèo Hải Vân, Cù Lao Chàm), văn hóa (Đô thị cổ Hội An, thánh
địa Mỹ Sơn), v.v.
Một điều đáng quan tâm khi xây dựng hạ tầng cơ sở cho du lịch, nhƣ khách
sạn, nhà nghỉ, nhà hàng, v.v. cần thiết phải cân nhắc chiều rộng của dải bờ biển dễ
bị tổn thƣơng do mực nƣớc biển dâng trong khoảng thời gian đƣợc dự đoán cho 10
năm, 20 năm hoặc 50 năm hoặc tai biến xói lở đã và đang diễn ra, để tránh xảy ra
những thiệt hại không mong muốn nhƣ công trình resort đang xây dựng tại phƣờng
Cửa Đại (Hội An) phải bỏ lại do xói lở (hình 3.60).
Hình 3.60: Công trình đang xây dựng phải bỏ lại do xói lở (trái, 2013), và xói lở
nền móng công trình ở phƣờng Cửa Đại (phải, 2009)(ảnh Trần Văn Bình)
3.5.2.2. Một số giải pháp khắc phục giảm nhẹ thiệt hại do tai biến xói lở - bồi tụ
Qua quá trình nghiên cứu, phân tích tổng hợp các tài liệu có liên quan đến
vến đề và thực tế cho thấy rằng, để giảm nhẹ thiệt hại do quá trình xói lở - bồi tụ bờ
biển, các khu vực cửa sông là rất khó khăn và phức tạp, việc này đòi hỏi phải đƣợc
tiến hành một cách đồng bộ, toàn diện các giải pháp từ tầm vĩ mô đến vi mô, cả trực
tiếp và gián tiếp, cả giải pháp công trình và phi công trình, đều phải đƣợc nghiên
cứu sâu sắc để đƣa ra các phƣơng án phù hợp với từng đoạn bờ cụ thể. Các giải
pháp ở tầm vĩ mô phải nằm trong nội dung quản lý ở khu vực, vùng lãnh thổ và qui
hoạch tổng thể cho phát triển kinh tế - xã hội. Các giải pháp phi công trình cần phải
huy động đƣợc sự tham gia tích cực của cộng đồng dân cƣ, sự phối hợp liên ngành
từ các cấp lãnh đạo thuộc tất cả các lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Các giải pháp công
trình cần phải phù hợp với qui luật tự nhiên trên cơ sở xác định đƣợc các tác nhân
123
gây xói lở, nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp, đồng thời công trình phải có đƣợc
hiệu quả và tác dụng lâu dài, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phƣơng
và nhà nƣớc, không gây tác động tiêu cực đến môi trƣờng và xói lở các khu vực lân
cận. Xuất phát từ đó, trong khu vực nghiên cứu tác giả đề xuất một số giải pháp sau.
a. Giải pháp phi công trình
Giải pháp phi công trình ở đây, trƣớc hết là tuyên truyền, giáo dục, nâng cao
nhận thức cho ngƣời dân về các tai biến do thiên tai và các nguyên nhân cơ bản
(trong đó có cả tác động của con ngƣời) gây xói lở-bồi tụ, để họ có ý thức thực hiện
nghiêm chỉnh các luật nhƣ: Luật bảo vệ Môi trƣờng, Luật bảo vệ và phát triển rừng,
Luật khai thác tài nguyên, .v.v... Ngoài ra, để tránh thiệt hại không mong muốn cần
phải có giải pháp quy hoạch chiến lƣợc phát triển vùng bờ biển, đồng thời chỉ ra
mức độ xói lở tại các đoạn bờ đã, đang và sẽ tiếp tục diễn ra, nhằm giảm thiểu thiệt
hại dẫn đến tai biến và các rủi ro đi kèm.
b. Các giải pháp công trình
Cần nghiên cứu và đánh giá sâu sắc về các điều kiện địa chất, địa mạo và các
quá trình thủy thạch động lực tại khu bờ để đƣa ra những biện pháp công trình cụ
thể phù hợp với từng đoạn bờ, tránh xảy ra biến cố nhƣ công trình kè mềm tại Cửa
Lở tiêu tốn rất nhiều tiền nhƣng không có hiệu quả.
Khu vực cửa Đại: Hiện nay, bãi biển phƣờng Cửa Đại chƣa có công trình
nào làm giảm năng lƣợng sóng, mà chỉ có một số đoạn bờ với chiều dài từ 200-
500m, đƣợc xây dựng kè lát mái hoặc tƣờng bảo tại các khu vực khách sạn, nhƣng
chƣa mang lại hiệu quả cao. Trên những đoạn công trình kè này, hiện tại đang bị tác
động trực tiếp của sóng, nên một số đoạn cũng đã bị sóng biển đánh sập và đang đe
dọa đến các công trình bên trong đó, điều này sẽ rất nguy hiểm khi phải đối mặt với
tình hình thiên tai nhƣ hiện nay. Do vậy, để giảm thiểu thiệt hại do sóng biển trực
tiếp gây ra, tại đây cần có giải pháp bảo vệ bờ hợp lý nhƣ xây dựng kè chắn sóng xa
bờ, có tác động làm giảm năng lƣợng sóng, đồng thời chú ý đến quá trình vận
chuyển trầm tích ven bờ, tránh hiện tƣợng bồi lấp Cửu Đại. Ngoài ra, cũng cần kết
hợp với giải pháp quy hoạch lâu dài cho khu vực nhƣ nuôi bãi hay cảnh báo xói lở ở
124
mức độ cao, để tránh đƣợc những thiệt hại không mong muốn xảy ra, đồng thời tạo
nên cảnh quan vùng bờ là bãi tắm, khu du lịch sinh thái.
Khu vực Cửa Lở: Cửa Lở có vai trò điều tiết sự trao đổi nƣớc giữa hạ lƣu
sông Tam Kỳ, Trƣờng Giang với biển, đặc biệt là tiêu thoát lũ lụt tại khu vực. Do
vậy, cũng đã đƣợc tỉnh Quảng Nam đầu tƣ xây dựng hệ thống kè mềm nhƣ đã nói
đến ở trên và không có tác dụng. Nên giải pháp chống xói lở ở đây cần xây dựng hệ
thống kè phá sóng xa bờ, nằm song song với đƣờng bờ phía nam Cửa Lở. Với giải
pháp này, thì đƣờng bờ sẽ đƣợc ổn định hơn.
Khu vực bờ biển tại bãi Bà Tình: Với dạng địa hình bờ biển bãi Bà Tình là
vùng lỏm, nằm trong nhƣ một vịnh biển nửa kín, mũi phía bắc và phía nam đƣợc
cấu tạo đá gốc là đá bazan có vai trò nhƣ kè chắn sóng tự nhiên. Với những nhận
định về đặc điểm địa mạo, cấu trúc địa chất và động lực tác động dẫn đến xói lở bờ
biển ở đây mà nguyên chân chính là do sóng. Sự phân bố các trƣờng sóng điển hình
tại khu vực này là sóng hƣớng đông bắc có tác động mạnh nhất. Do đó, cần thiết kế
kè chắn sóng đến từ hƣớng đông bắc là chủ yếu. Công trình kè sẽ đƣợc thiết kế
dạng nổi hay chìm, sẽ làm giảm tối đa sự tác động của sóng, (với tốc độ gió 9m/s,
năng lƣợng sóng chỉ ≤0,5m [27]), đồng thời đảm bảo bờ biển ổn định và cảnh quan
môi trƣờng vùng bờ (hình 3.61). Tuy nhiên, với kè nổi sẽ tạo cảnh quan đẹp hơn.
108.689 108.69 108.691 108.692 108.693 108.694 108.695 108.696 108.697 108.698 108.699 108.7
15.473
15.474
15.475
15.476
15.477
15.478
15.479
15.48
0 100 200m
Haûi ñaêng
Baõi B
aø T
ình
Ñöôøn
g g
iao th
oân
g
0.5
0.7
1
1.2
1.5
(m)
: Höôùng soùng
: Ñöôøng ñaúng ñoä
cao soùng Hs(m)
: Ranh giôùi ñaù goác
: Theàm ñaù goác
: Keø phaù soùng
Kh
u v
öïc q
uaân
sö
ï
Hình 3.61: Trƣờng độ cao sóng hữu hiệu tại vùng biển bãi Bà Tình (gió đông bắc, V =
9m/s; kè nổi) [27]
125
KẾT LUẬN
Từ những kết quả nghiên cứu địa mạo vùng bờ biển tỉnh Quảng Nam có thể
đƣa ra một số kết luận sau:
1. Đặc trƣng về địa hình khu vực nghiên cứu là có tính phân dị từ tây sang
đông. Trên lục địa là đồng bằng ven biển bị phân cắt mạnh bởi các hệ thống sông
Thu Bồn, sông Tam Kỳ và sông Trƣờng Giang, ngoài ra còn có dải cồn cát song
song với bờ biển. Đƣờng bờ biển kéo dài theo hƣớng theo hƣớng tây bắc-đông nam,
đồng thời bị phân cắt bởi các cửa sông và mũi nhô đá gốc. Địa hình đáy biển ven bờ
phần lớn là đồng bằng nghiêng thoải đang chịu tác động mạnh bởi các yếu tố động
lực hiện đại, còn địa hình đáy tại khu vực các cửa sông đang biến đổi phức tạp bởi
các cồn cát ngầm di động, các gờ cao và rãnh trũng.
2. Trên cơ sở các nguyên tắc nguồn gốc-hình thái-động lực, địa hình khu vực
nghiên cứu đƣợc phân chia thành 36 đơn vị địa mạo. Trong đó, phần địa hình lục
địa ven biển có 5 nhóm gồm 26 đơn vị và phần địa hình đáy biển ven bờ có 2 nhóm
gồm 10 đơn vị, thuộc các nguồn gốc, hình thái và động lực khác nhau.
3. Nghiên cứu địa mạo dải bờ biển tỉnh Quảng Nam đã tìm ra đƣợc nguyên
nhân gây ra xói lở bờ biển trong suốt thời gian dài từ năm 1965 đến nay, cũng nhƣ
trong thời gian ngắn từ năm 2013-2014, nguyên nhân chính gây ra xói lở khốc liệt
tại khu vực phƣờng Cửa Đại (Hội An), khu vƣc Cửa Lở-Tam Hải và bờ biển bãi Bà
Tình-Tam Quang (Núi Thành) đó là năng lƣợng sóng biển cao vào mùa gió đông
bắc, mà đặc biệt hơn nữa là sóng biển trong khi có gió bão. Sau một trận bão bờ
biển bị giật lùi vào đất liền hàng chục mét, đồng thời lấy đi lƣợng lớn cát từ bãi
biển, góp phần bồi tụ tại các cửa sông. Còn nguyên nhân gây ra xói lở bờ biển tại
bãi Bà Tình, ngoài những yếu tố tác động của sóng, một phần do hậu quả của con
ngƣời trong việc khai thác tài nguyên khoáng sản.
4. Kết quả nghiên cứu địa mạo cho thấy hiện tƣợng xói lở bờ biển không chỉ
xảy ra trên những đoạn bờ cát mà còn đã và đang xảy ra mạnh mẽ trên đoạn bờ đá
bazan đã bị phong hóa.
5. Việc nghiên cứu địa mạo dải ven bờ biển tỉnh Quảng Nam, qua việc đo
đạc, thành lập các trắc diện địa hình trên mỗi đoạn bờ, bãi và tính toán cán cân trầm
126
tích trên đó, cho thấy xu thế phát triển của bãi biển cũng nhƣ đƣờng bờ, đồng thời
tìm ra đƣợc đoạn bờ bị xói lở liên tục có tính dài hạn (trong nhiều năm) cũng nhƣ
ngắn hạn (trong 1 năm). Điều này có ý nghĩa quan trọng cho việc cảnh báo tai biến
xói lở-bồi tụ. Từ đó, có những giải pháp phù hợp làm giảm thiểu thiệt hại, bảo vệ bờ
biển, phục vụ quản lý môi trƣờng bờ và có chiến lƣợc phát triển kinh tế-xã hội bền
vững.
127
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng việt
1. Nguyễn Tác An (chủ nhiệm) (2007), Áp dụng bước 3,4,5 mô hình quản lý tổng hợp
đơi bờ cho tỉnh Quảng Nam, Báo cáo tổng hợp kết quả thực hiện dự án, Lƣu trữ thƣ
viện Viện Hải dƣơng học, Nha Trang, 404 tr.
2. Vũ Tuấn Anh (2010), Nghiên cứu động lực hình thái vùng biển cửa sông Thu Bồn,
Luận án Tiến sĩ địa lý, Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên-Hà Nội.
3. Bách khoa toàn thư Địa lý-Xô viết (1988), Nxb Bách khoa Toàn thƣ Xô-viết,
Maxcơva.
4. Đào Đình Bắc (chủ trì), Đặng Văn Bào, Vũ Văn Phái, Cát Nguyên Hùng, Nguyễn
Hiệu (2002), Nghiên cứu tai biến thiên nhiên trên cơ sở phương pháp địa mạo phục
vụ phát triển đô thị dải đồng bằng ven biển Đà Nẵng – Quảng Ngãi, Báo cáo đề tài
đặc biệt cấp ĐH Quốc gia, Hà Nội, 166 tr.
5. Ngô Ngọc Cát và nnk (2001), Đánh giá điều kiện địa chất công trình phục vụ
nghiên cứu sạt lở bờ biển miền Trung, Báo cáo tổng kết đề tài nhánh thuộc đề tài
KHCN -5, Lƣu trữ Viện Địa Lý.
6. Công ước 1982 của Liên hợp quốc về Luật Biển. Nxb TP HCM, 1996, 272 tr.
7. Nguyễn Văn Cƣ và nnk (1990), Nghiên cứu các quá trình thủy thạch động lực vùng
bờ biển mở, Báo cáo tổng kết đề tài 48B-02-01, Tập 1, Viện khoa học Việt Nam, Hà
Nội. 170tr.
8. Trần Văn Bình, Trịnh Thế Hiếu (2010) “Sự biến đổi hình thái địa hình bãi và đƣờng
bờ tại một số khu vực bờ biển Nam Trung Bộ theo thời gian (2007 – 2008”, Tạp chí
Khoa học và Công nghệ biển T10(2), tr. 15-29.
9. Trần Văn Bình, Lê Đình Mầu (2012), “Quá trình xói lở - bồi tụ và hiện trạng đóng -
mở cửa tại khu vực đầm Ô Loan (Phú Yên)”. Tạp chí Tạp chí Khoa học và Công
nghệ biển, T.12(3), tr. 24-33.
10. Trịnh Thế Hiếu (chủ nhiệm) (2000), Báo cáo tổng kết đề tài, Điều tra khảo sát đặc
điểm sinh thái và môi trường làm cơ sở định hướng phát triển bền vững một số loài
hải đặc sản vùng ven bờ tỉnh Quảng Nam, Lƣu trữ thƣ viện Viện Hải dƣơng học,
Nha Trang.
11. Trịnh Thế Hiếu và nnk (2001), “Sự biến đổi và xu thế phát triển khu vực bờ cửa
Đại, Hội An, tỉnh Quảng Nam”, Tuyển tập báo cáo khoa học Hội nghị Biển Đông –
2000, tr.75-90.
12. Trịnh Thế Hiếu (2003), “Về tiềm năng khoáng sản rắn vùng biển Việt Nam”, Tuyển
tập nghiên cứu biển, T.XIII, tr. 63-72.
13. Trịnh Thế Hiếu, Lê Phƣớc Trình, Tô Quang Thịnh (2005), “Hiện trạng và dự báo sự
biến động bờ biển và các cửa sông ven biển Việt Nam”, Tuyển tập báo cáo Hội nghị
60 năm Địa chất Việt Nam, Hà Nội, tr. 359-366.
14. Trịnh Thế Hiếu (2006), “Tài nguyên khoảng sản rắn vùng bờ tỉnh Quảng Nam-hiện
trạng khai thác và vấn đề môi trƣờng”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển. T.6(4)
2006. tr. 37-47.
15. Trịnh Thế Hiếu (chủ trì), Nguyễn Đình Đàn, Phạm Bá Trung, Trần Văn Bình
(2008), Khảo sát, đánh giá và đề xuất các giải pháp bảo vệ, phục hồi các hệ sinh
128
thái đất ngập nước ven biển Quảng Nam. Báo cáo chuyên đề thuộc đề tài cấp tỉnh,
64 tr.
16. Trịnh Thế Hiếu, Trần Văn Bình (2011), “Hiện trạng khai thác và xu thế biến đổi tài
nguyên thiên nhiên tại dải ven biển Nam Trung Bộ”, Tuyển tập báo cáo Hội nghị
KHCN biển toàn quốc lần thứ V, Hà Nội.
17. Nguyễn Hiệu (2003), Nghiên cứu biến động địa hình khu vực cửa sông Ba Lạt và
lân cận phục vụ quản lý đới bờ. Luận văn thạc sỹ địa lý, lƣu trữ tại thƣ viện Khoa
Địa lý.
18. Lê Xuân Hồng (2001), “Hiện trạng xói lở và dịch chuyển cửa sông Lý Hòa”, Tạp
chí các Khoa học về Trài đất, T20(3), Hà Nội, tr. 82-88.
19. Nguyễn Chu Hồi (2006), “Quản lý tổng hợp vùng bờ Việt Nam: Các vấn đề và cách
tiếp cận”, Kỷ yếu Hội thảo, Tổng kết đề án VS/RDE/02: Giải pháp quản lý môi
trƣờng ven biển nhằm phát triển bền vững, Nha Trang, tr. 313-326.
20. Leontyev O.K., Nikiforv L.G., Xafianov G.A. (2000), Địa mạo bờ biển. Biên dịch:
Bộ môn Địa mạo và Địa lý biển, Khoa địa lý, Trƣờng ĐHKHTN-ĐHQG Hà Nội,
240tr.
21. Longginov V.V (1963), Động lực vùng bờ biển không có thủy triều. NXB Khoa học
Matxcơva, 379 tr. (tiếng Nga).
22. Bùi Hồng Long, Lê Đình Mầu (2000), “Các đặc điểm của trƣờng sóng, ảnh hƣởng
của chúng tới các quá trình xói lở – bồi tụ tại Cửa Đại (Hội an), cửa sông Cái (Nha
trang), vịnh Phan thiết trong các điều kiện gió địa phƣơng điển hình” Tuyển tập
Nghiên cứu biển, tập X, Nxb Nông nghiệp, tr. 21-33.
23. Bùi Hồng Long (chủ nhiêm) (2010), Luận chứng khoa học kỹ thuật phục vụ cho
quản lý tổng hợp và phát triển bền vững dải ven bờ biển Nam Trung Bộ đáp ứng
mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế biển, Báo cáo tổng kết đề tài Cấp Nhà nƣớc
KC09.24/06-10.
24. Lê Đình Mầu (2006), “Đặc điểm biến đổi đƣờng bờ tại khu vực Cửa Đại (Hội An)
từ năm 1965 đến 2003”, Tuyển tập nghiên cứu biển, Tập XV, tr 38-48.
25. Lê Đình Mầu (2009), Đánh giá những tác động của các công trình bảo vệ đến môi
trường vùng cửa sông ven biển Nam Trung Bộ, Báo cáo tổng kết đề tài Cấp Viện
KH-CN Việt Nam.
26. Lê Đình Mầu (2012), “Tính toán cán cân vận chuyển bùn-cát dọc bờ tại khu vực
Cửa Đại (Hội An)”, Tạp chí KH&CN biển, T12(1), tr. 27-42.
27. Lê Đình Mầu (chủ biên), Phạm Viết Tích, Nguyễn Chí Công, Phạm Bá Trung, Trần
Văn Bình, Nguyễn Văn Tuân,Vũ Tuấn Anh, Phạm Sỹ Hoàn, Nguyễn Trƣơng Thanh
Hội, Nguyễn Đức Thịnh (2014), Đặc điểm xói lở, bồi tụ tại dải ven biển Quảng
Nam. Sách chuyên khảo, Viện Hàn Lâm KH&CN Việt Nam (đang in).
28. Vũ Văn Phái, Nguyễn Hoàn, Nguyễn Hiệu (2003), “Nghiên cứu mối tƣơng tác đất-
biển phục vụ quản lý thống nhất đới bờ biển vịnh Bắc Bộ”, Tạp chí Khoa học, Khoa
học Tự nhiên và Công nghệ. Tập XIX, số 4, ĐHQGHN, HN, tr.36-43.
29. Vũ Văn Phái và nnk (2009), Nghiên cứu địa mạo đới bờ biển tỉnh Bình Thuận phục
vụ quy hoạch và quản lý lãnh thổ. Báo cáo tổng kết đề tài cấp ĐHQGHN, Hà Nội.
129
30. Vũ Văn Phái (chủ biên) và nnk (2013), Lập bản đồ địa mạo đáy biển và dọc đường
bờ vùng biển cửa Tư Hiền (Thừa Thiên Huế) - Bình Sơn (Quảng Ngãi) (0-60 mét
nước), tỷ lệ 1: 100.000. Lƣu trữ Trung tâm Địa chất Khoáng sản biên.
31. Vũ Văn Phái (chủ biên), Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Hiệu, Dƣơng Tuấn Ngọc, Chu Văn
Ngợi, Vũ Văn Vĩnh (2012), Báo cáo tổng kết đề tài Nghiên cứu biến động bờ biên
trong mối quan hệ với mực nước biển dâng phục vụ quy hoạch và quản lý môi
trường đới bờ biển các tỉnh cực Nam Trung Bộ - Đông Nam Bộ, Đề tài nhóm A,
ĐHQGHN, Mã số QGTD.10-08, lƣu trữ ĐHQGHN, Hà Nội, 185 tr.
32. Nguyễn Thọ Sáo, 2003. Dự báo hiện tượng xói lở, bồi tụ bờ biển cửa sông Đà
Rằng. Báo cáo đề mục thuộc đề tài KC-09-05. Hà Nội.
33. Phạm Quang Sơn (2002), “Đặc điểm biến động địa hình các cửa sông miền Trung
Việt Nam và vấn đề tiêu thoát nƣớc lũ”, Tạp chí khoa học về Trái Đất số1, tr.24-33.
34. Tô Quang Thịnh và nnk (2000), Bản đồ biến động bờ biển và cửa sông Việt Nam tỷ
lệ 1:100.000, lƣu trữ thƣ viện Viện Hải dƣơng học.
35. Phạm Huy Tiến (2005), Dự báo hiện tượng xói lở-bồi tụ bờ biển, cửa sông và các
giải pháp phòng tránh, Báo cáo tổng kết đề tài KHCN cấp Nhà nƣớc, Hà Nội,
497tr.
36. Đỗ Minh Tiệp và nnk (1999), Nghiên cứu đặc điểm phân bố và thành phần khoáng
vật nặng vùng ven bờ biển cửa Đại - cửa Lở, tỉnh Quảng Nam, Báo cáo tổng kết đề
tài, Lƣu trữ Viện Hải dƣơng học.
37. Lê Phƣớc Trình, Bùi Hồng Long, Trịnh Thế Hiếu (2000), Nghiên cứu quy luật và
dự đoán xu thế bồi tụ - xói lở vùng ven biển và cửa sông Việt Nam, Báo cáo tổng kết
đề tài KHCN – 06.08. Lƣu trữ Viện Hải Dƣơng học.
38. Lê Phƣớc Trình, Bùi Hồng Long, Lê Đình Mầu, Phạm Bá Trung, 2011. “Về những
cấu trúc thủy động lực đặc thù gây xói lở - bồi tụ tại dải ven bờ Nam Trung Bộ”,
Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển, T11(3), tr. 15-30.
39. Trung tâm Khí tƣợng thủy văn biển (1994), Báo cáo tổng kết đề tài, Điều tra nghiên
cứu quy hoạch bảo vệ thổ cư, môi trường và khai thác tiềm năng nông ngư nghiệp
khu vực Cửa Đại (Hội An), Đài K.T.T.V Quảng Nam – Đà Nẵng.
40. Viện Khoa học Khí tƣợng, Thủy văn và Môi trƣờng (2010), Báo cáo Xu thế mực
nước biển và các kịch bản nước biển dâng do biến đổi khí hậu. Hà Nội, 80 tr.
41. Nguyễn Trọng Yêm (2001), Điều tra đánh giá các tai biến xói lở, bồi lấp vùng ven
biển tỉnh Quảng Ngãi và đề xuâtt các giải pháp xử lý, phòng tránh, giảm thiểu thiệt
hại, góp phần đẩy mạnh kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở môi trường
bền vững. Báo cáo tổng kết đề tài, TT tin học tự nhiên và Công nghệ Quốc gia, Viện
Địa chất.
Tiếng anh
42. Carter, R.W.G. and Johnston, T.W. (1982), “Ireland – the shrinking island”,
Technology Ireland 14(3), pp. 22-28.
43. Clark A.R., Doornkamp J.C., et al. (1993), Coastal Planning and Management, A
Review, HMSO’s, London, pp. 178.
44. Cooke R.U., Doornkamp J.C. (1990), Geomorphology in environmental
management. (Second Edition) Claredon Press, Oxford. 410 p.
130
45. Dean R.G. (1991), “Equibrium beach profiles: characteristics and applications”,
Journal of Coastal Research, No7, pp. 53-84.
46. Del Rio, L. và nnk, 2002. The quantification of coastal erosion processes in the
South Atlantic Spanish coast. Littoral 2002, 22-26 September. Porto, Portugal.
47. Ebersole, B. A., Cialone, M. A., and Prater, M. D. (1986), Regional coastal
processes numerical modeling system. RCPWAVE – a linear wave propagation
model for engineering use. Technical Report CERC-86-4. Department of the Army,
US Army Corps of Engineers, Washington, DC 20314-1000.
48. Edelvang, K., Lund-Hansen, L. C., Christiansen, C., Petersen, O. S., Uhrenholdt, T.,
Laima, M., and Berastegui, D. A. (2002), “Modeling of suspended matter transport
from the Oder River”, Journal of Coastal Research, 18(1), pp. 62-74.
49. Flannery B.P, Teukolsky S.A, and Vetterling W.T. (1988), Numerical Recipes in C,
The Ast of Scientific Computing, Cambridge University Press.
50. Gavin, C. (1982), “Shoaling with bypassing for channels at tidal inlets”, Coastal
Engineering-1982, pp. 1496-1513.
51. Gerd Masselink, Paul Russell, (2013), Impacts of climate change on coastal
erosion. Published online 28 November 2013.
52. Greenwood B. (2005), Bars. Encyclopedia of Coastal Science, Ed. By Schwartz,
Springer, the Netherlands, pp. 120-129.
53. Guenther, H., Hasselmann, S., Janssen, P.A.E.M. (1992), “The WAM Model Cycle
4.0. User Manual”, Technical Report No.4, Deutsches Klimarechenzentrum,
Hamburg, Germany, 102 pp.
54. Hanebuth, T., Stattegger, K. & Grootes, P. M. (2000), “Rapid flooding of the Sunda
Shelf: a late-glacial sea-level record”, Science, Vol. 288, pp. 1033–1035.
55. Jane F. Denny, Wayne E. Baldwin, William C. Schwab, John C. Warner, M.
Richard DEVOE (2005), South Carolina Coastal Erosion Study. U.S. Geological
Survey Fact Sheet 2005-3041 (Published 2005).
56. Kay, R., and J. Adler (2005), Coastal Planning and Management. 2nd edition.
Routeledge. 380 pp.
57. Ketchum B.H (1974), Population, resources, and pollution, and their impact on the
Hudson estuary. Ann N Y Acad Sci, pp. 56-144.
58. Keqi Zhang, Bruce C. Douglas and Stephen P. Leatherman, (2004), “Climatic
Change”, Kluwer Academic Publishers. Printed in the Netherlands. 64: pp. 41-58.
59. Le Dinh Mau (2006), Shoreline changes in and around the Thubon river mounth,
central Vietnam, Ph.D Thesis, lƣu trữ thƣ viện Viện Hải dƣơng học, 177 pp.
60. Masselink, G., Short, A.D. (1993), “The effect of the tide range on beach
morphodynamics: a conceptual model”, Journal of Coastal Research No.9, pp.785-
800.
61. Pethick J. (1997), An introduction to coastal geomorphology. Arnold, London, UK,
(Twelth impression). 260 pp.
62. Sathiamurthy E. and Vois H.K. (2006), “Maps of Holocene sea-level trangsgression
and submerged lakes on the Sunda shelf”, The Natural History Journal of
Chulalongkorn University, Supplement 2, Chulalongkorn Univ., Bangkok,
Thailand, pp. 1-44.
131
63. Schimanski A, Stattegger K (2005), “Sedimentology of the Vietnam shelf”. Marine
Geology, 214(4), doi:10.1594/PANGAEA, pp. 736-780.
64. Schimanski A, Stattegger K, (2005), “Deglacial and Holocene evolution of the
Vietnam shelf: stratigraphy, sediments and sea-level change”, Marine Geology,
214(4), doi:10.1016/j.margeo, pp. 365-387.
65. Nguyen Tan Thi (1971-1974), “Mineaux lourds dans les sabes des plaes du
Vietnam” Archeves Geologique du Vietnam, No 14,15,17, Saigon.
66. Tolman, H. L. (1991), “A third-generation model for wind waves on slowly
varying, unsteady and inhomogeneous depths and currents”, Journal of Physical
Oceanography, 21, 782-797.
67. WAMDI Group (1988), “The WAM model – A third generation ocean wave
prediction model”, J. Phys. Oceanogr, 18, pp. 1775-1810.
68. White, T. E. (1998), “Status of measurement techniques for coastal sediment
transport”, Coastal Engineering, 35, pp. 17-45.
69. Young, I.R. (1988), “Parametric hurricane wave prediction model”, Journal of
Waterways Port Coastal and Ocean Engineering 114(5), pp. 637-652.
70. Zencovich V.P (1962), Cơ sở học thuyết về phát triển bờ biển. Nxb khoa học
Matxcơva, (tiếng Nga), 710 pp.
Các trang website
71. http://nandi.staf.upi.edu/2013/02/12/coastal-geomorphology/
72. http://www.ihrce.org.vn/web/tin.aspx?sdm_id=10935&id=1215
73. http://www.thoitietnguyhiem.net/BaoCao/BaoCaoBao.aspx.
74. http://weather.unisys.com/hurricane/w_pacific/1968/14/track.dat.