mỘt sỐ quan ĐiỂm cỦa khu vỰc tƯ nhÂn vỀ quan ......quốc gia khác như malaysia,...
TRANSCRIPT
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC
TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC
CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
Hà Nội, Tháng 4/2020
LỜI NÓI ĐẦU
Theo công bố của Diễn đàn kinh tế Thế giới về Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu 2017-
2018, Việt Nam xếp thứ 79 trong số 137 quốc gia trên thế giới về chất lượng cơ sở hạ tầng
nói chung. Chỉ có 20% đường bộ của Việt Nam được trải nhựa, thấp hơn nhiều so với các
quốc gia khác như Malaysia, Ấn Độ và Indonesia. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)
ước tính nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng của Việt Nam sẽ vào khoảng 480 tỷ USD trong giai
đoạn 2017-2030. Đây là một con số đầu tư lớn và cũng là “gánh nặng” về tài chính đối
với Việt Nam. Do đó, việc thu hút đầu tư tư nhân sẽ mang lại những hiệu quả tích cực
trong việc bù đắp thiếu hụt, tăng cao nguồn lực đầu tư. Hơn nữa việc mở rộng quan hệ đối
tác công tư (PPP) cũng giúp Chính phủ tận dụng được chuyên môn và cập nhật công nghệ
từ khu vực tư nhân vào xây dựng, quản lý công trình hạ tầng, dịch vụ công, từ đó người
dân được hưởng dịch vụ cải thiện với mức chi phí hợp lý, đồng thời phát triển kết cấu hạ
tầng, góp phần tăng trưởng kinh tế và đem lại nhiều lợi ích kinh tế - xã hội.
Trong bối cảnh hiện nay khi thế giới đang tái cấu trúc, Việt Nam có nhiều cơ hội đón nhận
dòng dịch chuyển vốn đầu tư nước ngoài, hệ thống pháp luật về PPP là một yêu cầu tiên
quyết và phải được xây dựng với một khung khổ pháp lý ổn định, môi trường đầu tư kinh
doanh lành mạnh, công bằng, đạt những chuẩn mực tiên tiến phù hợp với sự phát triển của
xã hội.
Với vai trò là tổ chức đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp VN và là cầu nối giữa Chính
phủ và cộng đồng doanh nghiệp VN, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(VCCI) đã thể hiện vai trò quan trọng trong việc lắng nghe và tổng hợp ý kiến của cộng
đồng doanh nghiệp và các bên liên quan, thể hiện vai trò dẫn dắt cộng đồng doanh nghiệp
đồng thời góp ý chính sách, tham mưu cho CP hoạch định chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
nói chung và xây dựng dự thảo luật về PPP nói riêng.
Sau khi Thủ tướng Chính phủ thành lập Ủy ban hợp tác công tư thuộc Hội đồng quốc gia
phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh, Chủ tịch VCCI được giao trọng trách
nắm giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban PPP đồng thời tiếp tục giữ chức vụ Phó Chủ tịch Hội
đồng quốc gia. Kể từ đó, VCCI tham gia ngày càng mạnh mẽ hơn vào quá trình góp ý
chính sách và thúc đẩy PPP bằng những hoạt động cụ thể như: thành lập Đề án Tăng cường
sự tham gia của khu vực tư nhân trong mối quan hệ đối tác công tư tại Việt Nam, xây
dựng báo cáo nghiên cứu, tổ chức các buổi tọa đàm về các chủ đề liên quan đến dự thảo
Luật PPP. Các ý kiến tại tọa đàm là những góp ý hữu ích, kịp thời cho cơ quan soạn thảo,
cơ quan thẩm định tham khảo, xem xét.
Nhằm phản ánh thông tin đa chiều về quan điểm của các bên liên quan trong quan hệ đối
tác công tư tại Việt Nam, Đề án Tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân trong mối
quan hệ đối tác công tư tại Việt Nam, VCCI đã phối hợp với USAID biên soạn cuốn sách
“ Một số quan điểm của khu vực tư nhân về quan hệ đối tác công tư tại Việt Nam”. Các
thông tin được cung cấp trong tài liệu này dựa trên thực tế nghiên cứu trong nước và quốc
tế cũng như quan điểm của nhóm chuyên gia và ý kiến của các đơn vị được phỏng vấn.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
Ủy ban Hợp tác Công tư – Hội đồng Quốc gia về Phát triển Bền vững
và Nâng cao Năng lực Cạnh Tranh
MỤC LỤC
VIẾT TẮT 5
TÓM TẮT 6
1. GIỚI THIỆU 10
2. KHUÔN KHỔ PHÁP LÝ VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ PPP 11
3. TIỀM NĂNG THAM GIA CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN TRONG CƠ SỞ HẠ TẦNG TẠI VIỆT NAM 11
4. RÀO CẢN ĐỐI VỚI SỰ THAM GIA CỦA TƯ NHÂN VÀO PPP 14
5. NHẬN XÉT VỀ DỰ THẢO LUẬT PPP 21
6. KẾT LUẬN 28
PHỤ LỤC I: DANH SÁCH CÁC ĐƠN VỊ ĐÃ PHỎNG VẤN 29
PHỤ LỤC II: CƠ CHẾ CHIA SẺ RỦI RO 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO 34
Tài liệu thể hiện quan điểm của nhóm chuyên gia và ý kiến của các đơn vị phỏng vấn và không
nhất thiết thể hiện quan điểm của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Cơ quan Phát
triển Quốc tế Hoa kỳ hay Chính phủ Hoa Kỳ.
VIẾT TẮT
ADB Ngân hàng Phát triển ChâuÁ
ASA Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
BLT Xây dựng – Thuê lại – Chuyển giao
BOO Xây dựng – Sở hữu – Vận Hành
BOT Xây dựng – Vận hành – Chuyển giao
BT Xây dựng – Chuyển giao
EIA Đánh giá tác động mội trường
EVN Tập đoàn iện lực Việt Nam
GDP Tổng thu nhập quốc nội
HCMC PPC Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
IPP Nhà máy điện độc lập
JCCI Phòng Thương mại Công nghiệp Nhật bản
MOF Bộ tài chính
MOIT Bộ Công thương
MOT Bộ Giao thông Vận tải
MTIP Kế hoạch đầu tư trung hạn
MPI Bộ Kế hoạch và Đầu tư
NCSDCI Hội đồng quốc gia về phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh
tranh
PDF Cơ quan phát triển dự án
PPP Đối tác công tư
PIP Kế hoạch đầu tư công
SPC Doanh nghiệp dự án
VBF Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam
USAID Cơ quan phát triển quốc tế Hoa kỳ
VARSI Hiệp hội các nhà đầu tư đường bộ
VCCI Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
VGF Hỗ trợ của chính phủ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
VND Việt Nam Đồng
TÓM TẮT
Theo Báo cáo Triển vọng Cơ sở hạ tầng Toàn cầu (Global Infrastructure Outlook), Việt
Nam sẽ cần hơn 600 tỷ đô la để có thể đáp ứng các mục tiêu cơ sở hạ tầng vào năm 2040.
Do những hạn chế về ngân sách hiện tại, ước tính trên 50% kinh phí cần thiết sẽ đến từ
khu vực tư nhân. Hiện chỉ 10% chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng của Việt Nam được tài trợ bởi
khu vực tư nhân, thấp hơn nhiều so với nhiều quốc gia có thu nhập trung bình khác ở châu
Á. Việc khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân đòi hỏi phải có môi trường đầu tư
thuận lợi, cũng như điều kiện để nhà đầu tư đạt được mức lợi nhuận tương xứng với rủi
ro. Điều này đòi hỏi phải có những cải cách chính sách và pháp lý nhằm tạo ra một cơ sở
nhất quán và bền vững cho quan hệ đối tác giữa khu vực công và khu vực tư.
Đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) là phương thức nhằm gia tăng sự tham gia
của khu vực tư nhân vào lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng. Theo thống kê chính thức đến
năm 2019, đã có 336 dự án PPP tại Việt Nam, với tổng vốn đầu tư khoảng 70 tỷ USD.
Phần lớn các dự án PPP là trong lĩnh vực giao thông vận tải dưới hình thức Xây dựng –
Chuyển giao (BT) hoặc Xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao (BOT). Khoảng hai phần
ba các dự án PPP thuộc lĩnh vực giao thông, các dự án còn lại thuộc lĩnh vực khác bao
gồm nhà ở tái định cư, tòa nhà văn phòng, cơ sở hạ tầng năng lượng, cũng như cấp thoát
nước.
CƠ HỘI CHO PPP TẠI VIỆT NAM Theo Báo cáo Khảo sát nhà đầu tư cơ sở hạ tầng Toàn cầu năm 2019 của Viện Nghiên
cứu Hạ tầng EDHEC của Singapore, Việt Nam nằm trong Top 5 các quốc gia mới nổi có
tiềm năng nhất về thị trường cơ sở hạ tầng trong 5 năm tới, cùng với các quốc gia khác
như Ấn Độ, Trung Quốc, Brazil và Indonesia. Một số dự án đường cao tốc đang được quy
hoạch và đang triển khai để tăng kết nối trong các thành phố lớn có tổng giá trị đầu tư lên
tới 120 tỷ USD.
Theo đại diện một công ty tư vấn quốc tế có nhiều năm kinh nghiệm cung cấp tư vấn cho
các nhà đầu tư nước ngoài và Chính phủ về cơ sở hạ tầng, có rất nhiều quỹ đầu tư quốc tế
quan tâm và sẵn sàng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam. Đối với các quỹ quốc
tế này, Việt Nam là điểm đến hấp dẫn cho dòng vốn đầu tư, nhờ có môi trường chính trị
ổn định, mức độ an toàn cao và không có nguy cơ khủng bố. Tuy nhiên, các quỹ này vẫn
chưa triển khai đầu tư tại Việt Nam do trở ngại về pháp luật và thực thi. Các nhà đầu tư
Nhật Bản được phỏng vấn, những người đã tích cực đầu tư vào lĩnh vực điện, cho biết họ
rất sẵn sàng mở rộng đầu tư sang các lĩnh vực khác như chăm sóc sức khỏe, xây dựng sân
bay và đường bộ miễn là có một cơ chế chia sẻ rủi ro tốt hơn để họ có thể huy động được
vốn từ các tổ chức tài chính cho các dự án PPP.
Để có thể thúc đẩy các dự án PPP tại Việt Nam, Chính phủ đang xây dựng Luật đầu tư
theo hình thức đối tác công tư PPP. Sau nhiều vòng lấy ý kiến và tham vấn từ các bên liên
quan, dự thảo Luật hiện đang được Quốc hội xem xét.
TỔNG HỢP Ý KIẾN CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN
Năm 2018, Theo Quyết định 1040/QD-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban Đối tác
công tư được thành lập là một Ủy ban thuộc Hội đồng quốc gia về phát triển bền vững và
Nâng cao năng lực cạnh tranh với mục tiêu (i) góp ý xây dựng chính sách và dự án/chương
trình PPP phục vụ cho phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; (ii)
huy động các nguồn lực trong và ngoài nước; và (iii) khuyến khích các doanh nghiệp đề
xuất ý tưởng và xây dựng các mô hình/dự án PPP một cách bền vững. Phó Thủ tướng
Chính phủ Vũ Đức Đam là Chủ tịch Hội đồng quốc gia về Phát triển vững & Nâng cao
năng lực cạnh tranh. Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Vũ
Tiến Lộc là Phó Chủ tịch Hội đồng quốc gia và là Chủ tịch Ủy ban hợp tác công tư. Ủy
ban có vai trò quan trọng trong việc tổng hợp ý kiến đóng góp của khu vực tư nhân trong
nước và quốc tế vào chính sách phát triển hợp tác công tư.
Để thực hiện nhiệm vụ này, Ủy ban về PPP đã hợp tác với Cơ quan Phát triển Quốc tế
Hoa Kỳ (USAID) thu thập phản hồi từ cộng đồng doanh nghiệp và tổng hợp thành Sách
Xanh trình bày về hiện trạng, cơ hội tiềm năng và những hạn chế đối với sự tham gia của
khu vực tư nhân vào dự án PPP. Mục tiêu của báo cáo này là góp phần để chính sách
PPP có thể nắm bắt các vấn đề thiết yếu của khu vực tư nhân nhằm tối đa hóa hiệu
quả của các dự án PPP tại Việt Nam.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN ĐỐI VỚI DỰ
THẢO LUẬT PPP
Trên cơ sở phân tích các vấn đề hiện tại mà nhà đầu tư thường gặp phải trong quá trình
thực hiện các dự án PPP và các quy định hiện tại về PPP, dưới đây là một số kiến nghị
của đại diện khu vực tư nhân vào dự thảo Luật PPP (dự thảo 6/4/2020) nhằm loại bỏ các
rào cản đối với đầu tư vào các dự án PPP. Các khuyến nghị dựa trên đề xuất của các đại
diện khu vực tư nhân và các thông lệ tốt ở cả thị trường trong nước và quốc tế cho PPP.
Hình 1: Tóm tắt các kiến nghị
Lĩnh vực PPP
(Điều 5)
Lĩnh vực PPP tập trung vào những lĩnh vực Nhà nước xác định
trọng tâm, trọng điểm và các dự án lĩnh vực phát sinh khác được
Thủ tướng Chính phủ cho phép khi đáp ứng các điều kiện, đặc
biệt là các lĩnh vực thu hút được sự quan tâm đầu tư của khu
vực tư nhân và có tính khả thi, hiệu quả cao hơn so với đầu tư
công hay đầu tư tư.
Xem xét bổ sung một số lĩnh vực khu vực tư nhân quan tâm như
năng lượng tái tạo, năng lượng hiệu quả, hệ thống chiếu sáng
công cộng …
Cơ chế chia sẻ
doanh thu
(Điều 83)
Dự án PPP cần phải có cơ chế chia sẻ doanh thu. Cơ chế chia
sẻ doanh thu là một cách rất hiệu quả để khuyến khích đầu tư
vào PPP. Tỷ lệ chia sẻ phần giảm doanh thu nên được quyết
định tùy từng dự án vì các dự án khác nhau sẽ có mức độ rủi ro
khác nhau phụ thuộc từng lĩnh vực ngành nghề và thời điểm.
Nhà nước cần có cơ chế công cụ quản lý, kiểm soát rủi ro tài
khóa hiệu quả và minh bạch.
Cơ chế chia sẻ rủi ro là một trong những vấn đề Nhà đầu tư quan
tâm nhất trong PPP. Tham khảo thêm chi tiết phụ lục II.
Vốn Nhà nước
trong dự án PPP
(Điều 70)
Bên cạnh phần vốn Nhà nước tham gia trong giai đoạn đầu tư
xây dựng, cần có cơ chế để phần vốn Nhà nước tham gia trong
giai đoạn khai thác, vận hành dự án để có thể xử lý các tình
huống phát sinh cần hỗ trợ của Nhà nước.
Nên có ý kiến tham vẫn của ngân hàng ngay từ bước nghiên cứu
khả thi của Dự án.
Bảo đảm trách
nhiệm thực hiện
nghĩa vụ của các
cơ quan Nhà
nước, doanh
nghiệp nhà nước
là đối tác trong
dự án PPP
(Điều 98)
Nhà nước cần có cơ chế đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của các cơ
quan nhà nước và doanh nghiệp nhà nước trong khuôn khổ hợp
đồng PPP
Trường hợp cần thiết phải điều chỉnh nội dung Hợp đồng, các
bên phải tổ chức đàm phán trên cơ sở đảm bảo quyền lợi của
các bên liên quan.
Một trong những yếu tố quan trọng trong việc mang lại thành
công cho dự án là cần có sự phối hợp thống nhất và có trách
nhiệm giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi triển khai
các dự án PPP.
Bảo đảm về
chuyển đổi ngoại
tệ
(Điều 82)
Chính phủ bảo đảm khả năng chuyển đổi từ Đồng Việt Nam
sang ngoại hối phục vụ cho mục đích thanh toán theo nghĩa vụ
Hợp đồng PPP và hoàn trả nợ vay. Tỷ lệ hạn mức bảo đảm cân
đối ngoại tệ không nên bị giới hạn ở mức 30% doanh thu, nên
để mức linh hoạt.
Thời hạn thu xếp
tài chính
(Điều 77)
Dự thảo Luật cần xác định rõ loại “thu xếp tài chính” nào nên
được hoàn thành trong khung thời gian được quy định trong Dự
thảo Luật.
Bồi thường khi
chấm dứt hợp
đồng trước thời
hạn
( Điều 53 và 70)
Điều 70 : Sử dụng Vốn Nhà nước trong dự án PPP : bổ sung chi
phí đền bù chấm dứt hợp đồng trước hạn.
Dự thảo Luật nên quy định các nguyên tắc chính để bồi thường
khi chấm dứt hợp đồng đối với tất cả các kịch bản chấm dứt hợp
đồng được cho phép trong Dự thảo Luật. Mức bồi thường tối
thiểu phải đủ để thanh toán số dư nợ và các chi phí chấm dứt
hợp đồng có liên quan.
Cho phép pháp
luật nước ngoài
được áp dụng để
Các nhà đầu tư quốc tế cho rằng nếu luật điều chỉnh là luật pháp
Việt Nam và luật pháp nước ngoài không được phép áp dụng
một phần (chí ít là liên quan đến văn kiện tài chính), các dự án
không có khả năng vay vốn ngân hàng và các tổ chức tài chính
nước ngoài sẽ không tham gia dự án. Các nhà đầu tư quốc tế
điều chỉnh một
phần
(Điều 57)
kiến nghị Luật nên cho phép áp dụng luật nước ngoài đối với
các hợp đồng liên quan đến dự án, tùy vào mức độ đàm phán
giữa các cơ quan.
Lập một cơ quan
phát triển dự án
Khu vực tư nhân tin rằng một tổ chức chuyên dụng cho việc
phát triển dự án (PDF) sẽ tạo độ linh hoạt và chắc chắn hơn cho
khâu chuẩn bị và thực hiện (hoặc giải ngân) vốn nhà nước cho
mỗi dự án.
Quyền tiếp nhận
dự án của bên cho
vay
(Điều 55)
Bên cho vay nên được quyền thỏa thuận với các bên trong hợp
đồng PPP, cho phép bên cho vay thực hiện quyền tiếp quản dự
án và khắc phục việc không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ theo
hợp đồng PPP thay mặt cho doanh nghiệp dự án và nhà đầu tư
trong một số trường hợp theo như quy định trong các thỏa thuận.
Lựa chọn nhà
thầu trong nước
(Điều 60)
Các nhà đầu tư quốc tế cho rằng dự thảo luật PPP không nên có
yêu cầu nhà đầu tư phải lựa chọn nhà thầu trong nước với phần
công việc mà nhà thầu trong nước thực hiện được. Các nhà đầu
tư quốc tế cho rằng yêu cầu pháp lý để bắt buộc lựa chọn nhà
thầu trong nước của Việt Nam sẽ cản trở đáng kể nhà đầu tư
quốc tế tham gia vào các dự án PPP của Việt Nam.
Giải phóng mặt
bằng
Dự thảo luật cần làm rõ các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước trong
giải phóng mặt bằng để doanh nghiệp dự án có mặt bằng cần
thiết khởi công xây dựng đúng thời hạn. Vấn đề đảm bảo mặt
bằng là rất quan trọng đối với các nhà đầu tư quốc tế vì đây là
một trong những yếu tố rủi ro lớn ảnh hưởng đến tiến độ chung
dự án.
10 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
1. GIỚI THIỆU
Trong thập kỷ qua, đầu tư của khu vực tư nhân qua hình thức PPP đang trở thành xu
hướng trên toàn thế giới. Đây là một phương thức đầu tư và duy trì cơ sở hạ tầng kinh
tế bao gồm giao thông, tiện ích công cộng, cơ sở hạ tầng xã hội và các dịch vụ chuyên
ngành khác.Theo Báo cáo Triển vọng Cơ sở hạ tầng Toàn cầu (Global Infrastructure
Outlook), Việt Nam sẽ cần hơn 600 tỷ đô la để có thể đạt được các mục tiêu cơ sở hạ
tầng vào năm 2040. Trong bối cảnh nợ công tiệm cận mức trần 65% tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) của Quốc hội, khả năng vay vốn từ các ngân hàng phát triển đa quốc
gia bị hạn chế, chính phủ sẽ cần huy động các dòng đầu tư mới.
Do những hạn chế về ngân sách hiện tại, ước tính hơn 50% kinh phí cần thiết sẽ đến từ
khu vực tư nhân. Để có thể khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân đòi hỏi phải
có môi trường đầu tư thuận lợi, cũng như điều kiện để nhà đầu tư đạt được mức lợi
nhuận phù hợp với rủi ro. Điều này đòi hỏi phải có những cải cách chính sách và pháp
lý nhằm tạo ra một nền tảng nhất quán và bền vững cho quan hệ đối tác giữa khu vực
công và tư nhân. PPP là một cơ chế nhằm gia tăng sự tham gia của khu vực tư nhân
trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng.
Để có thể thúc đẩy các dự án PPP tại Việt Nam, chính phủ đang xây dựng Luật đầu tư
theo hình thức đối tác công tư (Luật PPP). Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI) đã xây dựng
Dự thảo Luật PPP, và tiến hành nhiều đợt lấy ý kiến từ các bên liên quan, bao gồm các
bộ, chính quyền cấp tỉnh/thành phố, cộng đồng quốc tế, các tổ chức tư nhân và tư vấn
quốc tế. Dự thảo Luật dự kiến sẽ được trình lên Quốc hội xem xét vào kỳ họp tháng 5
năm 2020.
Ủy ban Đối tác công tư phối hợp với Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tiến
hành thu thập phản hồi từ đại diện khu vực tư nhân và tổng hợp thành Sách Xanh về
tình hình hiện tại, các cơ hội tiềm năng và hạn chế đối với sự tham gia của khu vực tư
nhân vào các dự án PPP. Sách Xanh tổng hợp một số kiến nghị của khu vực tư nhân
thông qua nghiên cứu tài liệu, phỏng vấn các nhà đầu tư trong và ngoài nước và các tổ
chức liên quan, liệt kê tại phụ lục đính kèm. Sách khái quát hiện trạng sự tham gia của
khu vực tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam và đưa ra một số khuyến
nghị nhằm loại bỏ các rào cản đối với sự tham gia của khu vực tư nhân vào cơ sở hạ
tầng.
Trong quá trình xây dựng Sách Xanh, nhóm chuyên gia đã phỏng vấn nhiều nhà đầu tư
trong nước, quốc tế, các tổ chức tín dụng và các chuyên gia tư vấn dự án PPP. Danh
sách các công ty tham dự phỏng vấn được trình bày tại Phụ lục 1. Trước khi phỏng vấn
nhóm chuyên gia gửi trước câu hỏi để chuẩn bị. Do PPP là vấn đề phức tạp nên nhóm
nghiên cứu lựa chọn hình thức phỏng vấn trực tiếp để có thể trao đổi trực tiếp và kỹ
lưỡng về những vấn đề quan tâm.
11 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
2. KHUÔN KHỔ PHÁP LÝ VÀ QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT VỀ PPP
Tại Việt Nam, quan hệ đối tác công tư dưới các hình thức hợp đồng BOT, BTO, BT đã
có từ năm 1997 khi Chính phủ ban hành Nghị định 77/ND-CP về hình thức BOT áp
dụng đối với nhà đầu tư trong nước và Nghị định 62/1998/ND-CP về hình thức BOT-
BTO-BT áp dụng cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Ngày 11 tháng 5 năm 2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định 78/2007/ND-CP về các
hình thức BOT-BTO-BT áp dụng đối với tất cả các loại hình sở hữu trong nền kinh tế,
bao gồm sở hữu nước ngoài và sở hữu trong nước. Nghị định 78/2007/ND-CP sau đó
đã được thay thế bằng Nghị định 108/2009/ND-CP và Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định 71/2010 / QĐ-TTg thí điểm mô hình đầu tư theo hình thức PPP, trong
đó quy định một cách toàn diện các hình thức đầu tư công vào dự án PPP. Khái niệm
PPP đã được công nhận bởi các văn bản pháp lý có hiệu lực cao hơn bao gồm Luật đấu
thầu 43/2013/QH13, Luật Đầu tư công 49/2014/QH13, Luật Xây dựng 67/2014/QH13
và Luật Đầu tư 67/2014/QH13.
Chính phủ đã ban hành Nghị định 15/2015/ND-CP về PPP, hợp nhất Nghị định
108/2006/ND-CP và Quyết định 71/2010/QĐ-TTg và ban hành Nghị định 30/2015/ND-
CP hướng dẫn chi tiết việc thực hiện Luật Đấu thầu trong việc lựa chọn nhà đầu tư.
Năm 2018, Nghị định 15/2015/ND-CP đã được thay thế bằng Nghị định 63/2018 / ND-
CP quy định các lĩnh vực, yêu cầu và thủ tục đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
3. TIỀM NĂNG THAM GIA CỦA KHU VỰC TƯ
NHÂN TRONG CƠ SỞ HẠ TẦNG TẠI VIỆT NAM
Các chính phủ trên thế giới tận dụng các dự án PPP để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng
đối với các dịch vụ cơ sở hạ tầng mới và tốt hơn bằng cách tận dụng nguồn lực và
chuyên môn của tổ chức tài chính tư nhân. PPP có thể đem lại hiệu quả sử dụng nguồn
vốn hơn là mua sắm công truyền thống. Hiệu quả sử dụng nguồn vốn từ PPP thu được
qua việc cải thiện hiệu quả đầu tư, giảm thiểu rủi ro tốt hơn và đánh giá hiệu suất dựa
trên đầu ra. Dưới đây là tóm tắt về tình hình tham gia của khu vực tư nhân vào cơ sở hạ
tầng tại Việt Nam:
Theo thống kê chính thức của chính phủ từ năm 2019; các bộ, ngành, và các tỉnh đã
ký và thực hiện 336 dự án PPP, với tổng vốn đầu tư là 1.609.335 tỷ đồng (khoảng
70 tỷ USD).
Phần lớn các dự án PPP là trong lĩnh vực giao thông (220 dự án); nhà ở tái định cư,
ký túc xá,… (32 dự án); tòa nhà văn phòng (20 dự án); năng lượng (18 dự án); cấp
nước, thoát nước, môi trường (18 dự án).
12 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
Trong lĩnh vực năng lượng điện, có 18 dự án theo hình thức Xây dựng-Vận hành-
Chuyển giao (BOT) trong lĩnh vực nhiệt điện với tổng vốn đầu tư là 41,743 tỷ USD.
Theo một công ty tư vấn quốc tế, đầu tư nước ngoài thông qua dự án PPP tại Việt
Nam chỉ được thực hiện trong lĩnh vực năng lượng, nơi các dự án có thời hạn dài và
thường có giá trị hàng tỷ đô la. Ngoài các hợp đồng PPP, lĩnh vực điện năng đã thu
hút một tỷ lệ lớn vốn đầu tư tư nhân vào các nhà máy
điện độc lập (IPP) bao gồm cả vốn đầu tư nước ngoài.
Lĩnh vực nông nghiệp ít hấp dẫn đối với dự án PPP khi
chỉ có 23 dự án. Điều này là do nông nghiệp bị nhìn nhận
có độ rủi ro cao hơn, có tỷ lệ lợi nhuận thấp hơn và chịu
ảnh hưởng bởi sự đầu tư chưa tương xứng từ Nhà nước.
Đối với lĩnh vực chăm sóc y tế, sự tham gia của tư nhân
chủ yếu thông qua 'xã hội hóa', chứ không thông qua các
hợp đồng PPP. Theo Chuyên gia Y tế của Ngân hàng
Thế giới, có 240 bệnh viện tư nhân tại 50 tỉnh (chiếm
13% tổng số bệnh viện) và 35.000 phòng khám tư nhân,
cung cấp dịch vụ tới 31,2% bệnh nhân ngoại trú và 6,3%
dịch vụ nội trú. Hầu hết các dự án được đề xuất và xây
dựng ở cấp tỉnh thành, đặc biệt là tại Thành phố Hồ Chí Minh, và các dự án này tập
trung chủ yếu vào phát triển cơ sở hạ tầng hơn là các dịch vụ chăm sóc y tế dự phòng
và chăm sóc ban đầu. Các dự án đều tập trung ở các thành phố lớn và được cho là
mang lại trải nghiệm tốt hơn cho bệnh nhân.
Xét về hình thức các loại hợp đồng, hình thức Xây dựng- Vận hành- Chuyển giao
(BOT) và Xây dựng-Chuyển giao (BT) chiếm ưu thế, chiếm tới hơn 95% dự án PPP.
Xây dựng-Sở hữu-Vận hành (BOO) và Xây dựng-Cho thuê-Chuyển giao (BLT) ít
phổ biến hơn nhiều. Khi thảo luận về các loại hợp đồng PPP với một ngân hàng
thương mại lớn trong nước, ngân hàng cho biết họ chỉ quan tâm tài trợ cho các dự
án BT, nơi có đất đai là tài sản đảm bảo.
Chuyên gia phát triển khu vực tư nhân và chuyên gia về PPP của Ngân hàng Phát triển
châu Á đã nhận định rằng chỉ có 10% cơ sở hạ tầng của Việt Nam là được tài trợ bởi
khu vực tư nhân1, thấp hơn nhiều so với nhiều nước thu nhập trung bình khác ở châu Á.
Theo Báo cáo Khảo sát nhà đầu tư cơ sở hạ tầng Toàn cầu năm 2019 của Viện Nghiên
cứu Hạ tầng EDHEC của Singapore2, Việt Nam nằm trong Top 5 các nước mới nổi có
nhiều tiềm năng nhất về thị trường cơ sở hạ tầng trong 5 năm tới, cùng với các nước
khác như Ấn Độ, Trung Quốc, Brazil và Indonesia.
1 “Việt Nam cần cách thức tiếp cận mới cho giai đoạn tăng trưởng tiếp theo”. Lambert, Donald. Tháng 2 năm
2020. https://blogs.adb.org/blog/building-viet-nam-s-bridge-greater-economic-growth-and-development. Truy
cập ngày 15/4/2020. 2 Khảo sát nhà đầu tư cơ sở hạ tầng toàn cầu 2019: Xu hướng và thông lệ quốc tế tốt nhất. . Amenc, Noël, Frédéric
Blanc-Brude, Abhishek Gupta, Jing Li Yim. Tháng 4 năm 2019. https://edhec.infrastructure.institute/paper/2019-
global-infrastructure-investor-survey-benchmarking-trends-and-best-practices
‘Xã hội hóa’ là gì?
Xã hội hóa là thuật ngữ
tiếng Việt để chỉ việc tư
nhân cung cấp dịch vụ
công hoặc tư nhân tham
gia vào các dịch vụ công.
Sự khác biệt chính giữa
dự án PPP và dự án xã
hội hóa là dự án xã hội
hóa không có hợp đồng
chính thức từ Chính
phủ, không giống như PPP.
13 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
Hội nghị Cơ sở hạ tầng Việt Nam năm 2019 đã báo cáo rằng chỉ có 20% diện tích đường
bộ quốc gia là được trải nhựa, và gần đây Việt Nam đã phê duyệt kế hoạch xây dựng
đường cao tốc Bắc-Nam dài 1.372km vào năm 2030, trị giá ước tính 14 tỷ đô la. Dân
số gia tăng tại các thành phố lớn trong những năm gần đây đã tạo sức ép và vượt quá
khả năng của các hệ thống kết nối và tiện ích hiện có. Với 50% dân số Việt Nam dự
kiến sẽ sống ở các thành phố, Hà Nội và Hồ Chí Minh đang xây dựng các hệ thống giao
thông công cộng, trị giá hơn 22 tỷ USD với hy vọng giảm tỷ lệ sở hữu phương tiện cá
nhân và cải thiện chất lượng không khí. Kế hoạch được phê duyệt gần đây để xây dựng
đường cao tốc Bắc – Nam dài 1.372 km vào năm 2030 ước tính trị giá 14 tỷ đô la Mỹ,
mặc dù kế hoạch này đang gặp phải một số trở ngại nhất định3.
Nhiều dự án đường cao tốc khác nhau được lên kế hoạch và thực hiện nhằm cải thiện
kết nối giữa các thành phố lớn này. Tương tự, Việt Nam cũng công bố việc phát triển
và nâng cấp tiện ích đô thị và lên kế hoạch tới 44 dự án với tổng giá trị đầu tư lên đến
120 tỷ USD trong lĩnh vực điện và đường bộ.
Theo đại diện một công ty tư vấn quốc tế, vốn có nhiều năm kinh nghiệm tư vấn cho
các nhà đầu tư nước ngoài về cơ sở hạ tầng, chăm sóc sức khỏe và dịch vụ chính phủ,
có rất nhiều quỹ đầu tư quốc tế quan tâm và sẵn sàng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tại
Việt Nam. Đối với các quỹ quốc tế này, Việt Nam là điểm đến hấp dẫn cho dòng vốn
đầu tư, nhờ có môi trường chính trị ổn định, mức độ an ninh cao và không có nguy cơ
khủng bố. Tuy nhiên, khi cạnh tranh với các quốc gia khác trong thu hút đầu tư nước
ngoài, các quốc gia này có môi trường pháp lý và thể chế có lợi cho đầu tư tư nhân tốt
hơn môi trường của Việt Nam.
Một số nhà đầu tư Nhật Bản tích cực đầu tư vào lĩnh vực điện cho biết họ rất sẵn sàng
mở rộng đầu tư sang các lĩnh vực khác như chăm sóc sức khỏe, xây dựng sân bay và
đường bộ miễn là có một cơ chế bảo đảm tốt nhằm bù đắp cho mức độ rủi ro mà họ
gánh chịu.
3 Thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng Việt Nam để tăng trưởng bền vững. 2020. http://infrastructurevietnam.com/.
Truy cập ngày 14/4/2020.
14 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
4. RÀO CẢN ĐỐI VỚI SỰ THAM GIA CỦA TƯ
NHÂN VÀO PPP
Thúc đẩy PPP có thể khắc phục được những hạn chế trong đầu tư công thông qua huy
động khu vực tư nhân. Với năng lực và nguồn lực của mình, khu vực tư nhân đóng một
vai trò không thể thiếu trong việc tài trợ cho cơ sở hạ tầng công cộng. Tuy nhiên, cho
dù rất có tiềm năng, khu vực tư nhân vẫn phải đối mặt với một số rào cản đối với việc
tham gia vào các dự án PPP. Dưới đây là những rào cản chính được khu vực tư nhân
mô tả.
4.1 THIẾU NĂNG LỰC XÂY DỰNG NHỮNG DỰ ÁN CHẤT
LƯỢNG
Khi thảo luận về những lý do tại sao sự tham gia của khu vực tư nhân vào cơ sở hạ tầng
không phát triển tương xứng với tiềm năng, ông Đào Việt Dũng, Chuyên gia, Ngân
hàng Phát triển Châu Á (ADB) đã chỉ ra nguyên nhân là do thiếu các dự án PPP chất
lượng. Vấn đề này có thể được cho là do năng lực yếu của các Cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền (ASAs), những người thường thiếu khả năng soạn lập và đàm phán các hợp
đồng PPP - đây là một yêu cầu năng lực quan trọng của khu vực công, nhất là khi các
dự án PPP mang tính chất dài hạn và đi kèm với chi phí giao dịch lớn.
Theo đại diện của một công ty tư vấn luật tại Việt Nam, dữ liệu thu thập được qua các
cuộc khảo sát để xây dựng dự án là thương không chính xác hoặc khó thu thập, dẫn đến
nhiều dự án bị giảm vốn đầu tư, đối mặt với tình trạng thua lỗ và nguy cơ phá sản, từ
đó ảnh hưởng đến phương án tài chính và phải ký lại hợp đồng.
Chẳng hạn, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến vụ việc cầu Phú Mỹ là do UBND TP.HCM
không thực hiện được nghĩa vụ hợp đồng xây dựng đường vành đai nối với cầu Phú
Mỹ, nhưng nguyên nhân sâu xa là do yếu kém trong khâu chuẩn bị phương án tài chính.
Ngay cả với lưu lượng giao thông như ước tính ban đầu, doanh thu phí không đủ trả nợ
vay4.
Theo ý kiến của một công ty tư vấn, nhiều dự án giao thông không đạt chất lượng và
tiến độ như mong đợi và có đến 56/75 dự án là đầu tư nâng cấp mở rộng trong khi chỉ
có 19/75 dự án là đầu tư mới (greenfield). Trong lĩnh vực chăm sóc y tế, Chuyên gia
Ngân hàng Thế giới lưu ý rằng trong số 63 dự án được đề xuất gần đây, chỉ có 28 dự án
hoàn thành nghiên cứu tiền khả thi hoặc nghiên cứu khả thi, chỉ có 8 dự án đã hoàn
thành các tài liệu đấu thầu và chỉ có 3 hợp đồng được ký kết. Trong số ba dự án này,
Dự án Bệnh viện Đa khoa Cẩm Phả đã bị hủy bỏ sau khi ký kết hợp đồng do khiếu kiện
4 Nghiên cứu của Trường Đại học Fullbright chỉ ra rằng lưu lượng thực tế thấp hơn rất nhiều so với dự báo do vậy
doanh thu từ dự án không đủ trả nợ và cho dù doanh thu có bằng dự báo thì cũng không đủ trả nợ.
(https://fsppm.fulbright.edu.vn/vn/bao-cao-chinh-sach/nghien-cuu-chinh-sach/tranh-chap-trong-hoat-
dong-doi-tac-congtu-tai-viet-nam-ncth-du-an-bot-cau-phu-my-va-kinh-nghiem-quoc-te/)
15 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
từ cán bộ nhân viên. Rõ ràng, cả khu vực công và tư đang lãng phí thời gian, công sức,
nguồn lực vào việc xây dựng tiền khả thi cho các dự án mà không thể thực hiện được.
Nhà nước cần làm tốt hơn công tác thăm dò thị trường trước khi tiến hành nghiên cứu
tiền khả thi.
Theo Điều 8.7 của Nghị định 63/2018/ND-CP, trong trường hợp cần thiết, các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền (ASA) sẽ chọn các tổ chức tư vấn độc lập để hỗ trợ triển khai
một số nhiệm vụ. Ngoài ra khi cần cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể thuê một tổ
chức tư vấn có năng lực để hỗ trợ thực hiện các nhiệm vụ nhất định. Tuy nhiên, thực tế
việc thuê này ở Việt Nam không phổ biến. Vấn đề chính là quá trình phân bổ ngân sách
dành cho mua sắm và chi trả cho các tổ chức tư vấn và thường rất tốn thời gian hoặc
vượt quá khả năng chỉ trả của vốn Nhà nước.Vì vậy, để triển khai thành công hợp tác
công tư PPP, Nhà nước cần xem xét cơ chế thuê tư vấn có uy tín về tài chính, pháp lý,
kỹ thuật và đảm bảo rằng có đủ ngân sách và ý chí chính trị để thực hiện. Thực tế này
cho thấy nhu cầu phải có Cơ quan xây dựng dự án PPP chuyên trách hoạt động theo cơ
chế thị trường để phục việc việc xây dựng dự án khả thi chất lượng. Đây là khuyến nghị
của khu vực tư và nhiều nước đã áp dụng thành công mô hình này.
4.2 THIẾU HƯỚNG DẪN VỀ ĐÀM PHÁN DỰ ÁN
Thảo luận với đại diện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), đại diện cho biết hiện
tại không có hướng dẫn rõ ràng và cụ thể nào từ Chính phủ và Bộ Công thương về đàm
phán hợp đồng BOT điện, bao gồm phát điện, bao tiêu, giá điện, phương án chia sẻ rủi
ro. Ví dụ: các nhà máy phát điện độc lập (IPP) trong nước có hướng dẫn đàm phán giá
điện với EVN. Vì hầu hết các dự án PPP điện năng đều có quy mô lớn, khiến cho quá
trình đàm phán dự án PPP điện trở nên khó khăn.
4.3 RÀO CẢN TỪ LUẬT VÀ QUY ĐỊNH LIÊN QUAN KHÁC
Theo ông Đào Việt Dũng, Chuyên gia, ADB, các dự án PPP chịu sự điều chỉnh của
nhiều luật và tiềm ẩn những xung đột giữa quy định pháp lý PPP và các luật khác, chẳng
hạn như luật đấu thầu, ngân sách nhà nước, đầu tư công, nợ công,…. Ví dụ, đối với lĩnh
vực xử lý rác thải, Luật Bảo vệ Môi trường yêu cầu phải có báo cáo Đánh giá Tác động
Môi trường (EIA) chi tiết đi kèm với với báo cáo nghiên cứu khả thi. Tuy nhiên, ở giai
đoạn nghiên cứu khả thi dự án, vẫn chưa lựa chọn được nhà đầu tư và do đó, không thể
hoàn thành Đánh giá Tác động Môi trường do không có nhà đầu tư và nguồn tài trợ.
Một vấn đề khác là các dự án PPP chịu sự điều chỉnh bởi các quy định về dự án đầu tư
công. Theo Hiệp hội các nhà đầu tư công trình giao thông đường bộ Việt Nam, do bị
coi như là dự án đầu tư công, các dự án PPP phải tuân theo định mức chi phí công và
thủ tục quản lý vốn đầu tư công. Điều này gây cản trở đến việc thực hiện dự án. Các
doanh nghiệp xây dựng đường bộ ở các tỉnh miền Trung chịu mức chi phí cao hơn do
địa hình miền Trung khó khăn hơn. Khi phải chịu chi phí cao hơn, các doanh nghiệp lại
phải xin phê duyệt tăng ngân sách.
16 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
Một số lượng lớn các dự án điện đã không triển khai được do thiếu hướng dẫn thực hiện
Luật Quy hoạch, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2019. Luật Quy hoạch đã thay đổi
đáng kể bản chất quá trình quy hoạch đối với dự án điện. Ngành điện trước đây có nhiều
quy hoạch như quy hoạch năng lượng, quy hoạch điện năng quốc gia, quy hoạch điện
năng tỉnh, quy hoạch vùng tổng thể và quy hoạch cho từng loại năng lượng như điện
gió và điện mặt trời. Theo Luật Quy hoạch mới, ngành điện hiện chỉ có quy hoạch tổng
thể điện quốc gia và quy hoạch điện được tích hợp trong quy hoạch phát triển kinh tế
xã hội. Theo Luật Điện lực, các dự án phải phù hợp với quy hoạch trong khi vẫn chưa
có hướng dẫn thực hiện luật về quy hoạch. Do đó, theo đại diện Điện lực Việt Nam, có
tới 400 dự án đang chờ phê duyệt về việc thay đổi quy hoạch điện để đủ điều kiện chuẩn
bị và xây dựng dự án.
Do thời gian thực hiện dự án PPP dài, các chính sách pháp luật thường xuyên thay đổi
khiến nhiều Dự án gặp bế tắc, điển hình như trường hợp của Dự án Trung Lương Mỹ
Thuận:
- Việc chuyển nhượng Nhà đầu tư5: tại thời điểm ký HĐ BOT, Dự án thực hiện
theo Nghị định 15/2015/NĐ-CP và không hạn chế việc chuyển nhượng Nhà đầu tư. Tuy
nhiên, đến năm 2018, Nghị định 63/2018/NĐ-CP chỉ cho phép việc chuyển nhượng sau
khi kết thúc giai đoạn đầu tư. Tại Dự án, mặc dù Nhà đầu tư Yên Khánh đang vướng
vào dự án hình sự có nguyện vọng xin chuyển nhượng cổ phần cho các Nhà đầu tư còn
lại, tuy nhiên Bộ GTVT viện dẫn quy định của Nghị định 63/2018/NĐ-CP nên không
cho phép, khiến Dự án bị ảnh hưởng kéo dài.
- Về lãi suất vốn vay: Lãi suất vốn vay theo PATC được duyệt thấp hơn mức lãi
suất thực tế của các Ngân hàng thương mại trong nước khoảng 3-4% khiến các Ngân
hàng không giải ngân cho Dự án. Năm 2018, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư
88/2018/TT-BTC quy định mức lãi suất phù hợp với thị trường nhưng không được áp
dụng cho Dự án, khiến Dự án không thể triển khai.
- Phương thức hỗ trợ của Nhà nước: Dự án cao tốc Trung Lương Mỹ Thuận, tại
thời điểm ký Hợp đồng, các Bộ ngành và Thủ tướng Chính phủ chấp thuận việc hỗ trợ
Dự án bằng quyền thu phí đường cao tốc TP.HCM-Trung Lương. Tuy nhiên từ ngày
01/01/2018, khi Luật quản lý, sử dụng tài sản công số 15/2017/QH14 có hiệu lực, việc
giao Nhà đầu tư quản lý, khai thác và thu phí tại tuyến TP.HCM-Trung Lương không
còn phù hợp.
Với các vướng mắc nêu trên, trong cuộc họp với Thường trực Chính phủ, Bộ
KH&ĐT đã nêu ra các giải pháp tháo gỡ như: vận dụng điều khoản chuyển tiếp của
Nghị định 63/2018/NĐ-CP để xử lý Nhà đầu tư Yên Khánh; thực hiện điều chỉnh Dự
án để áp dụng mức lãi suất vốn vay theo quy định mới của Bộ Tài chính; đặc biệt quan
trọng là cân đối bố trí nguồn vốn Ngân sách Trung ương tham gia hỗ trợ thay cho
phương thức hỗ trợ bằng quyền thu phí tuyến cao tốc TP.HCM-Trung Lương.
5 Đại diện của Tổng công ty điện lực Việt Nam cho biết quy định này gây khó khăn cho việc triển khai một số dự
án điện do không thể thay đổi được nhà đầu tư không muốn làm dự án cho nhà đầu tư khác.
17 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
4.4 HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG QUY TRÌNH ĐẤU THẦU
LỰA CHỌN NHÀ ĐẦU TƯ
Trong quá trình lựa chọn nhà đầu tư, sự cạnh tranh giúp đảm bảo đạt được giá thầu cạnh
tranh nhất, rủi ro được chuyển giao hiệu quả và các giải pháp tối ưu được xây dựng bởi
khu vực tư nhân. Quy trình đấu thầu dự án PPP cần phải có độ cạnh tranh, nếu không
có cạnh tranh, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có nguy cơ lựa chọn phải nhà đầu
tư không có năng lực. Theo đánh giá mới đây của Bộ KH & ĐT, trong số 71 dự án PPP
hoàn tất lựa chọn nhà đầu tư, có 69% dự án chỉ định thầu6. Thảo luận với đại diện Ngân
hàng Thế giới cho thấy, trong lĩnh vực giao thông, có đến 74/75 dự án áp dụng chỉ định
thầu. Đặc biệt đối với các dự án BT, tỷ lệ chỉ định trực tiếp của nhà đầu tư lên đến 94%
(34/36 dự án BT chỉ định thầu). Cần lưu ý rằng PPP đem lại hiệu quả nhưng nếu không
có đấu thầu cạnh tranh, các dự án PPP có thể còn gây tốn kém hơn so với phương thức
đầu tư công truyền thống. Các nhà đầu tư tư nhân quan tâm đến PPP không tin tưởng
vào quá trình lựa chọn nhà đầu tư do thiếu tính minh bạch. Đại diện công ty luật quốc
tế nhận xét rằng Việt Nam có nhiều hạn chế trong đấu thầu dự án, khâu chuẩn bị dự án
yếu kém và hồ sơ mời thầu thường quá khó để đáp ứng.
4.5 CƠ CHẾ CHIA SẺ RỦI RO KHÔNG HỢP LÝ
Hình thức đầu tư PPP có nghĩa là hoạt động đầu tư được thực hiện dựa trên mối quan
hệ đối tác lâu dài giữa khu vực công và khu vực tư, qua đó rủi ro được phân bổ cho bên
nào có khả năng xử lý hiệu quả và tiết kiệm chi phí nhất. Bản chất của việc chia sẻ rủi
ro là sự kết hợp giữa “cây gậy và củ cà rốt”', để tạo ra các động cơ theo cơ chế hợp đồng
nhằm tạo ra kết quả mong muốn và ngăn chặn kết quả tiêu cực. Mục tiêu của việc chia
sẻ rủi ro hoặc chuyển giao rủi ro là để đạt được hiệu quả và chi phí tối ưu. Rủi ro nên
được chuyển cho bên có năng lực quản lý rủi ro hiệu quả hơn (giảm thiểu xác suất
và/hoặc hậu quả của rủi ro khi chuyển chúng cho bên thứ ba với mức chi phí thấp).
Phân bổ rủi ro là một mục bắt buộc được quy định trong các đề xuất dự án và báo cáo
nghiên cứu khả thi. Tuy nhiên, không phải lúc nào các rủi ro cũng được phân bổ một
cách hợp lý. Theo nhận xét của ông Đào Việt Dũng, Chuyên gia ADB, cơ chế phân bổ
rủi ro không đạt mức tối ưu, đôi khi quá nhiều rủi ro cho khu vực tư nhân và đôi khi
quá nhiều rủi ro cho khu vực công. Nếu quá nhiều rủi ro cho khu vực tư nhân, khu vực
tư nhân sẽ khó có thể tiếp cận được vốn vay từ ngân hàng. Hầu hết các dự án PPP được
tài trợ thông qua các khoản vay ngân hàng và chỉ cần chậm trễ một hoặc hai năm do
giải phóng mặt bằng thì sẽ biến một dự án có khả năng sinh lời thành một dự án thua lỗ
và chậm trễ 5 năm sẽ đẩy doanh nghiệp đến bờ vực phá sản.
Ở Việt Nam không có một chuẩn mực chính thức hay một khuôn mẫu phân bổ rủi ro
chuẩn để tham khảo và việc phân bổ rủi ro cần được thông qua đàm phán với chủ dự án
trên cơ sở từng trường hợp cụ thể. Quá trình đàm phán này mất nhiều thời gian và các
6 Nguồn: https://baodauthau.vn/dau-tu/han-che-toi-da-chi-dinh-nha-dau-tu-du-an-ppp-108164.html. Truy cập ngày 14/4/2020
18 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
nhà đầu tư nước ngoài thường gặp khó khăn trong quá trình thực hiện. Theo đại diện
một công ty tư vấn luật Việt Nam, các cơ quan có thẩm quyền vẫn chưa làm rõ cơ chế
chia sẻ rủi ro trong đó chính phủ đảm bảo mức doanh thu tối thiểu nhất định cho nhà
đầu tư, cam kết bù đắp trong trường hợp doanh thu không đạtMô hình hiện tại chuyển
phần lớn rủi ro sang khu vực tư nhân. Để có thể thu hút các nhà đầu tư và vận hành từ
khu vực tư nhân, yếu tố quan trong cần phải có là một khung chính sách minh bạch và
phân bổ rủi ro công bằng. Tương tự, cơ cấu hợp đồng hấp dẫn với phạm vi dự án được
xác định rõ ràng và đảm bảo đầy đủ về lợi nhuận tài chính dự tính sẽ giúp khuyến khích
sự tham gia của tư nhân vào các giao dịch dự án PPP.
4.6 RỦI RO TỪ THAY ĐỔI CHÍNH SÁCH
Trong hầu hết các trường hợp, hợp đồng PPP sẽ có thời hạn lâu dài, và các nhà đầu tư
phải chịu nhiều rủi ro. Một đại diện từ tổ chức tín dụng nhận xét thay đổi chính sách là
một rủi ro đáng kể, ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án. Gần đây, nhiều dự án đã bị ảnh
hưởng do sự thiếu nhất quán trong chính sách và quy hoạch. Ví dụ, trong khuôn khổ dự
án cầu Phú Mỹ, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã không thực hiện cam kết
xây dựng đường vành đai 2 ở phía Đông để kết nối đường Nguyễn Văn Linh với đường
cao tốc Hà Nội qua cầu Phú Mỹ và lưu lượng giao thông thực tế đã thấp hơn rất nhiều
so với dự kiến (chỉ đạt khoảng 53,7% mức dự báo). Điều này đã gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến doanh thu dự án.
Trong một số trường hợp khác, các nghĩa vụ hợp đồng đã không được tuân thủ nghiêm
ngặt và các nhà đầu tư phải gánh chịu thiệt thòi từ các quyết định tùy ý của nhà nước.
Thực tế có trường hợp Chính phủ yêu cầu nhà đầu tư thực hiện các công trình bổ sung,
tạm dừng việc thu phí và thậm chí giảm khu vực thu phí và thời hạn của hợp đồng BOT.
Đại diện của một công ty xây dựng tại Việt Nam nhận xét rằng một số dự án đã buộc
phải miễn hoặc giảm phí do sự phản kháng của người dân, khiến phương án tài chính
bị tác động nặng nề, thời gian hoàn trả nợ bị kéo dài. Không bên nào khác ngoài các
nhà đầu tư phải gánh chịu gánh nặng nợ nần và một số phải đối mặt với nguy cơ phá
sản. Theo đại diện một tập đoàn tư vấn về giải pháp cơ sở hạ tầng, việc Chính phủ Việt
Nam can thiệp đối với một số dự án BOT đường bộ đã gây nên nhận thức tiêu cực về
rủi ro. Thực tế này đã gây nên nhiều bất ổn cho cả nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nói
chung, theo nhìn nhận của nhà đầu tư, sự thay đổi chính sách của Chính phủ làm tăng
rủi ro đối với họ.
Ngoài các quy định trong hợp đồng, các nhà đầu tư còn phải gánh chịu rào cản hành
chính từ cơ quan nhà nước. Trong nhiều trường hợp, các mệnh lệnh hành chính này mâu
thuẫn với các nghĩa vụ hợp đồng đã được các bên đàm phán và ký kết. Khi thảo luận về
những yếu tố bất ổn gây ảnh hưởng đến các nhà đầu tư, đại diện Tập đoàn Đèo Cả đã
đưa ra một nhận xét thẳng thắn: “ Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và Nhà đầu tư đều
là một bên của Hợp đồng BOT, các bên bình đẳng và có trách nhiệm tuân thủ theo các
quy định của Hợp đồng đã ký kết. Trường hợp cần thiết phải điều chỉnh nội dung Hợp
đồng, các bên phải tổ chức đàm phán trên cơ sở đảm bảo quyền lợi của các bên liên
quan. Tránh việc nhìn nhận Nhà đầu tư như một Nhà thầu xây lắp công trình, các quan
19 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
điểm chỉ đạo của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần thay thế yêu cầu bằng đề nghị
hoặc đàm phán”.
Trong Dự án Đường hầm Đèo Cả, Tập đoàn Đèo Cả đã chuẩn bị phương án tài chính
với phần vốn góp của Nhà nước, từ tiền doanh thu phát hành trái phiếu Chính phủ và
có cam kết thu phí trong hợp đồng. Tuy nhiên, Nhà nước đã không thực hiện các cam
kết. Cụ thể, 51,7 triệu đô la trong tổng số 217,2 triệu đô la trái phiếu Chính phủ đã bị
thu hồi sau khi có quyết định của Quốc hội. Điều này đã ảnh hưởng đến nguồn vốn đầu
tư cho dự án. Ngoài ra, Bộ GTVT được yêu cầu phải xem xét lại trạm thu phí tại La Sơn
- Tuy Loan cho đường hầm mới, cũng như mức phí cầu đường, và Bộ GTVT đã làm
mà không thảo luận trước với các nhà đầu tư cũng như có kế hoạch bồi thường cho các
nhà đầu tư. Việc loại bỏ trạm thu phí đã ảnh hưởng đến doanh thu dự án.
4.7 TRÌNH TỰ DỰ ÁN THÀNH PHẦN, NGUỒN CUNG NHIÊN
LIỆU KHÔNG ĐẢM BẢO, VÀ ĐỘC QUYỀN LƯỚI ĐIỆN
TRUYỀN TẢI TRONG LĨNH VỰC ĐIỆN
Đại diện của EVN nhận xét rằng với các dự án PPP trong ngành điện, quy mô dự án
khá lớn và cũng có nhiều dự án liên kết / thành phần gắn liền với dự án PPP chính cần
được thẩm định và phê duyệt. Nhiều dự án thành phần đã không được phê duyệt theo
kịp trình tự với dự án PPP chính, dẫn đến sự đình trệ trong việc thực hiện dự án PPP.
Ví dụ, dự án đường dây truyền tải (đường dây Vân Phong - Vĩnh Tân thuộc dự án Vân
Phong 1, dự án BOT Sumitomo) đã bị chậm trễ trong quá trình xin phê duyệt của Chính
phủ.
Các nhà máy điện PPP sử dụng than và khí đốt làm nhiên liệu sản xuất điện năng; tuy
nhiên, không thể đảm bảo nguồn cung nhiên liệu cả về giá cả và số lượng. Tổng Công
ty Than và Khoáng sản không thể đảm bảo nguồn cung cấp than. Sản xuất trong nước
đang gặp nhiều khó khăn và tình hình nhập khẩu cũng gặp nhiều biến động. Chỉ có dự
án nhiệt điện Thái Bình 2 của PVN là đảm bảo được nguồn cung cấp 3 triệu tấn than
mỗi năm. Nếu nguồn cung cấp nhiên liệu không được đảm bảo, nhà đầu tư nước ngoài
/ tư nhân sẽ không tham gia đầu tư vào lĩnh vực điện vì các loại nhiên liệu (ví dụ như
than) phải được quyết định trước khi xây dựng nhà máy.
Luật Điện lực quy định rằng lưới điện truyền tải là thuộc độc quyền Nhà nước, nhưng
luật không nêu rõ là Nhà nước độc quyền về quản lý truyền tải điện hay đầu tư đường
dây (để truyền tải). Trên thực tế, có những nhà đầu tư đầu tư vào lưới điện truyền tải và
chuyển giao cho Nhà nước trên cơ sở Nhà nước chi trả phí. Trung Nam, một nhà đầu tư
vào điện mặt trời, có kế hoạch đầu tư và chuyển giao cho Nhà nước các đường dây đấu
nối biến áp đã bị trì hoãn thời gian dài do điều khoản độc quyền về lưới điện truyền tải
trong Luật Điện lực.
Đại diện của EVN khuyến nghị rằng 1) Việc phê duyệt dự án cần được phối hợp tốt và
thẩm định một cách toàn diện để tránh sự chậm trễ không đáng có, 2) các nguồn cung
cấp nhiên liệu cần được đảm bảo bởi các bên liên quan như Tổng Công ty Than và
20 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
Khoáng sản và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, và 3) cần có hướng dẫn rõ ràng về độc
quyền nhà nước đối với lưới điện truyền tải để khuyến khích đầu tư tư nhân vào đường
dây truyền tải, với các quy định rõ ràng về chuyển giao và vận hành.
21 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
5. NHẬN XÉT VỀ DỰ THẢO LUẬT PPP
Nhận thức rõ những hạn chế mà khu vực tư nhân phải đối mặt khi tham gia vào lĩnh
vực cơ sở hạ tầng thông qua các dự án PPP, Chính phủ đã nỗ lực cải thiện khung pháp
lý cho việc xây dựng và triển khai dự án PPP thông qua dự thảo Luật về PPP. Tuy nhiên,
vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần quan tâm đối với khu vực tư nhân trong dự thảo mới
nhất.
5.1 LĨNH VỰC PPP
Dự thảo luật PPP giới hạn các lĩnh vực đối với dự án PPP, tập trung vào một số lĩnh vực
chính và Thủ tướng Chính phủ có thể cho phép bổ sung lĩnh vực mới đáp ứng một số
điều kiện khi cần. Những lĩnh vực được liệt kê trong dự thảo luật bao gồm hầu hết các
lĩnh vực mà các dự án PPP đã thực hiện. Do phát triển công nghệ và sự phát triển trong
nước và quốc tế diễn ra nhanh chóng, nên các lĩnh vực nào cần thiết có PPP có thể thay
đổi theo từng giai đoạn.
Trong một lĩnh vực, ví dụ phát điện, luôn tồn tại 3 loại dự án đầu tư, đầu tư công (nhà
máy điện nhà nước), đầu tư (nhà máy điện độc lập) và PPP (nhà máy điện BOT). Trong
một số trường hợp PPP là cách thức phù hợp nhất để thực hiện dự án .Do vậy không
nên cho rằng ở lĩnh vực nào đó đã có đầu tư công thì không cần PPP. Việc này sẽ khiến
Việt Nam bỏ lỡ cơ hội thu hút đầu tư theo hình thức PPP.
Các nhà đầu tư Hoa Kỳ cho rằng cần mở rộng lĩnh vực đầu tư trong ngành điện bao
gồm các dự án trạm tiếp nhận LNG, dự án khí hóa gaz, dự án xây dựng đường ống dẫn
khí. Ngoài ra, các nhà đầu tư lưu ý tiềm năng của các dự án PPP trong các trạm quang
điện (tức là các công viên điện mặt trời “solar park”).
Dự án tiết kiệm năng lượng, điện mặt trời và chiếu sáng công cộng cũng nên được cho
phép thực hiện theo hình thức PPP vì nhà đầu tư quan tâm đến lĩnh vực này. Môt số tỉnh
của Việt Nam đã thực hiện thành công các dự án PPP trong chiếu sáng công cộng và dự
án này có thể được nhân rộng.
5.2 CHIA SẺ RỦI RO DOANH THU
Đại diện khu vực tư nhân được phỏng vấn luôn nhận xét rằng không có bảo lãnh của
chính phủ trong các dự án PPP là lý do khiến một số dự án PPP trong lĩnh vực giao
thông bị đình trệ (bao gồm cả dự án Dầu Giây - Phan Thiết; Tân Vạn - Nhơn Trạch).
Rất ít nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến các dự án PPP nếu không có bảo đảm của
Chính phủ đối với mức doanh thu tối thiểu. Đây là trường hợp của dự án nhà máy điện
TKV Quỳnh Lập 1, trong đó TKV không thể huy động tài chính từ các ngân hàng/tổ
chức tài chính do không có bảo lãnh của chính phủ.
22 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
Với rất nhiều kinh nghiệm trong việc tư vấn cho các dự án PPP, đại diện của một công
ty tư vấn luật về tài chính hàng đầu Việt Nam đã nhận xét rằng, trong nhiều trường hợp,
các ngân hàng yêu cầu bảo lãnh vượt quá trách nhiệm hữu hạn đối với tài sản của doanh
nghiệp dự án và kiến nghị áp dụng bảo lãnh Chính phủ cho các dự án PPP nhằm tăng
cường mức độ đảm bảo cho đầu tư tư nhân. Các nhà đầu tư Nhật Bản đã nhắc lại rằng
mặc dù họ có kế hoạch mở rộng đầu tư sang lĩnh vực chăm sóc y tế, xây dựng sân bay
và đường bộ, nhưng họ sẽ không thể huy động vốn cho các dự án PPP nếu không có
bảo lãnh của Chính phủ. Quan điểm này cũng được chia sẻ bởi Chủ tịch Hiệp hội các
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc
bảo đảm doanh thu và chia sẻ rủi ro nhằm thu hút nhà đầu tư nước ngoài.
Chẳng hạn, PMU Thăng Long đã được Bộ Giao thông vận
tải giao trách nhiệm làm cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thực hiện hai (trong số tám) dự án thành phần trên đường
cao tốc Bắc - Nam (Mai Sơn - Quốc lộ 45 và Quốc lộ 45 -
Nghi Sơn). Đối với dự án nàyPMU Thăng Long lưu ý rằng
các nhà đầu tư muốn đảm bảo tiền của họ được quản lý tốt
và có cơ chế để đảm bảo tài chính cho tất cả các bên tham
gia.
Nhằm nâng cao độ an toàn cho các nhà đầu tư tư nhân,
Chính phủ dự định sẽ áp dụng chia sẻ rủi ro doanh thu đối
với các dự án PPP. Theo dự thảo hiện tại, Chính phủ sẽ
chia sẻ với nhà đầu tư/doanh nghiệp dự án 50% khoản doanh thu thiếu hụt giữa doanh
thu thực tế và doanh thu cam kết trong hợp đồng (không vượt quá 75% doanh thu được
quy định trong phương án tài chính). Ngược lại, nhà đầu tư/doanh nghiệp dự án sẽ chia
sẻ với Chính phủ 50% mức tăng doanh thu giữa doanh thu thực tế và doanh thu cam kết
trong hợp đồng (khi vượt quá 125% doanh thu được quy định trong phương án tài
chính). Cứ sau 3 năm, các bên sẽ xác định mức chênh lệch giữa doanh thu thực tế và
doanh thu cam kết theo hợp đồng. Nguồn ngân sách cho bảo đảm sẽ được lấy từ nguồn
dự phòng (hoặc ngân sách chưa phân bổ) từ Kế hoạch Đầu tư công.
Đại diện của các nhà đầu tư Nhật Bản có ý kiến rằng đảm bảo doanh thu là một phương
thức khuyến khích đầu tư nước ngoài rất hiệu quả, nhưng ngưỡng áp dụng không nên
cố định cứng như dự thảo hiện tại. Khuyến nghị tỷ lệ đảm bảo mức doanh thu nên được
quyết định tùy theo từng dự án vì khả năng sinh lời của mỗi dự án là khác nhau nên quy
định cứng tỷ lệ trong luật có thể hạn chế đầu tư.
Trong quá trình hoàn thiện Sách Xanh, Ủy ban PPP, VCCI, USAID và Viện Nghiên
cứu chính sách và phát triển truyền thông số cũng tổ chức tọa đàm về chia sẻ rủi ro
trong dự án PPP với một số nhà đầu tư, tổ chức tài chính và chuyên gia. Tham khảo nội
dung tọa đàm tại Phụ Lục 2.
“Chúng tôi đã liên hệ và
trình bày các dự án với các
nhà đầu tư Nhật Bản và
châu Âu, và họ nói rằng họ
sẽ chỉ quan tâm nếu có cơ
chế bảo lãnh của chính
phủ đối với mức doanh
thu tối thiểu và ngoại hối”.
- Phó giám đốc PMU Thăng Long
23 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
5.3 CHUYỂN ĐỔI NGOẠI TỆ
Nhà đầu tư và các tổ chức cho vay quốc tế muốn đảm bảo rằng họ có thể chuyển đổi
doanh thu bằng nội tệ sang ngoại tệ mạnh (hard currency) để trả cho 1) đầu vào nhập
khẩu; 2) phục vụ các khoản vay của họ; và 3) thanh toán cho các chi phí khác khi cần
thiết. Trong điều kiện bình thường, họ có thể mua ngoại tệ mạnh từ ngân hàng mà không
gặp vấn đề gì.
Vì PPP là một cam kết dài hạn và thường liên quan đến rất nhiều vốn, các nhà đầu tư
và bên cho vay thường yêu cầu Chính phủ đảm bảo rằng trong trường hợp xấu nhất họ
có thể tiếp cận dự trữ ngoại hối quốc gia cho các mục đích trên. Dự thảo Luật PPP quy
định rằng, đối với các dự án quan trọng được Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt, Chính phủ sẽ đảm bảo khả năng tiếp cận ngoại tệ lên tới 30% nhu cầu ngoại tệ
ròng (nghĩa là doanh thu nội tệ trừ chi phí). Điều này giống với thực tế đang áp dụng
hiện nay.
Tuy nhiên điều này có thể khiến cho một số cơ hội bị bỏ lỡ. Các nhà đầu tư Nhật Bản
nhấn mạnh sự cần thiết của bảo đảm của Chính phủ về khả năng chuyển đổi từ đồng
Việt Nam phải trả trong khuôn khổ hợp đồng PPP thành ngoại tệ, trong suốt thời gian
thực hiện hợp đồng PPP vì đây là điều kiện tiên quyết cho các khoản vay ngân hàng của
họ. Đại diện các nhà đầu tư Nhật Bản kiến nghị nên gỡ bỏ hạn chế mức trần đối với tỷ
lệ bảo đảm cân đối ngoại tệ để cho phép Chính phủ điều chỉnh đáp ứng nhu cầu và đàm
phán của các dự án khác nhau.
5.4 XÁC ĐỊNH THỜI HẠN HOÀN THÀNH THU XẾP TÀI
CHÍNH
Điều khoản trong dự thảo luật liên quan đến thu xếp tài chính nêu rõ rằng trong thời hạn
tối đa 12 tháng kể từ ngày ký hợp đồng, nhà đầu tư và/hoặc doanh nghiệp dự án sẽ hoàn
thành thu xếp tài chính. Hợp đồng dự án chỉ có hiệu lực nếu nhà đầu tư và/hoặc doanh
nghiệp dự án đã hoàn thành thu xếp tài chính. Theo đại diện một công tư tư vấn luật
quốc tế, luật cần làm rõ định nghĩa thu xếp tài chính là gì. Trong thực tế, nếu hoàn thành
việc thu xếp tài chính được xác định là quá trình dẫn đến lần giải ngân đầu tiên, thông
thường phải mất từ 12-18 tháng để hoàn thành. Dự thảo luật cần làm rõ 'thu xếp tài
chính', và yêu cầu về thời hạn phải phù hợp với thực tiễn.
5.5 THANH TOÁN KHI CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG
Thảo luận về vấn đề thanh toán khi chấm dứt hợp đồng, đại diện một Ngân hàng Nhật
Bản, đề xuất của các bên cho vay và nhà tài trợ nước ngoài, khuyến nghị luật PPP cần
có quy định điều khoản thanh toán khi chấm dứt hợp đồng trong những trường hợp sau
đây vì lợi ích của nhà đầu tư và / hoặc bên cho vay. Nhà đầu tư và / hoặc bên cho vay
được bồi thường một cách thích hợp khi việc chấm dứt hợp đồng là do 1) chính phủ
không thực hiện nghĩa vụ cam kết, 2) bên đi vay không thực hiện nghĩa vụ cam kết, 3)
bất khả kháng chính trị và 4) bất khả kháng theo quy định trong hợp đồng dự án đã được
phê duyệt. Trong trường hợp doanh nghiệp dự án không thực hiện nghĩa vụ cam kết,
24 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
bên cho vay được bồi thường nếu cơ quan có thẩm quyền chọn phương án mua lại dự
án. Khoản bồi thường này cần phải được hỗ trợ theo Bảo lãnh và Cam kết của Chính
phủ (GGU). Mức bồi thường tối thiểu phải đủ để thanh toán số dư nợ và chi phí chấm
dứt hợp đồng có liên quan trong mọi trường hợp.
Dự thảo hiện tại không quy định cụ thể về bồi thường mà để Chính phủ quy định chi
tiết. Quy tắc bồi thường khi chấm dứt hợp đồng nên được quy định trong luật.
5.6 LUẬT ĐIỀU CHỈNH & LUẬT ÁP DỤNG
Đáng tiếc là Chính phủ và các luật sư quốc tế có cách hiểu khác nhau về luật áp dụng
và luật điều chỉnh (diễn giải). Một số luật sư quốc tế nhận xét rằng luật điều chỉnh và
luật áp dụng là hai khái niệm khác nhau. Luật áp dụng đối với các hình thức đối tác
công tư PPP tại Việt Nam rõ ràng là luật pháp của Việt Nam, tuy nhiên, các bên tham
gia hợp đồng có thể sử dụng luật của một quốc gia khác để giải thích các điều khoản
của hợp đồng (luật điều chỉnh). Điều này đặc biệt đúng khi luật pháp của nước sở tại
chưa đầy đủ và không có nhiều các án lệ để giải thích các điều khoản của hợp đồng
PPP.
Dự thảo luật yêu cầu luật điều chỉnh hợp đồng dự án giữa các nhà đầu tư và cơ quan
nhà nước Việt Nam phải là luật pháp Việt Nam. Điều kiện mới này sẽ gây trở ngại cho
các bên cho vay quốc tế lớn trong việc tài trợ cho các dự án ở Việt Nam. Các bên cho
vay quốc tế luôn yêu cầu rằng hầu hết các tài liệu dự án (bao gồm cả hợp đồng PPP)
phải được điều chỉnh bởi một hệ thống pháp lý được xây dựng tốt để tránh sự mơ hồ và
không chắc chắn trong việc giải thích và thực hiện hợp đồng.
Quan trọng nhất, theo đại diện một công ty tư vấn tài chính quốc tế, có một số khái niệm
luật hợp đồng không được xác định rõ ràng hoặc được công nhận theo luật pháp Việt
Nam, nhưng lại rất quan trọng đối với bên cho vay quốc tế, ví dụ thiệt hại tính bằng
tiền, bồi thường, kiểm tra tính hợp lý, miễn trừ và tranh chấp tập thể. Việc áp dụng luật
pháp Việt Nam để giải thích các khái niệm luật hợp đồng đó sẽ dẫn đến nhiều ẩn số,
điều mà bên cho vay sẽ không chấp nhận.
Nhà đầu tư Nhật Bản nhận xét rằng, để luật hợp đồng được hoàn thiện và có hiệu lực
đầy đủ, không những cần phải có các đạo luật như Bộ luật Dân sự hay Luật Hợp đồng,
mà còn phải có đủ số lượng các án lệ về hợp đồng cũng như sách giáo khoa chuẩn về
luật hợp đồng làm cơ sở cho thẩm phán và luật sư, chẳng hạn như tuyển tập Chitty on
Contracts về hợp đồng. Bộ ba nguồn tham khảo pháp lý này là điều kiện bắt buộc để
các nhà đầu tư và ngân hàng dự đoán các hợp đồng sẽ được tòa án giải thích như thế
nào khi các bên có tranh chấp về cách giải thích hợp đồng. Tại Việt Nam, mặc dù Bộ
luật Dân sự đã được ban hành, số lượng các án lệ do Tòa án Nhân dân Tối cao công bố
còn hạn chế (20 án lệ nhưng tất cả đều không liên quan đến hợp đồng PPP), và cũng
không có sách giáo khoa về luật hợp đồng, làm cơ sở để thẩm phán và luật sư tham
khảo.
25 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
Theo ý kiến của đại diện nhóm công tác cơ sở hạ tầng, Diễn đàn doanh nghiệp Việt
Nam (VBF), yêu cầu luật pháp Việt Nam phải là luật điều chỉnh của hợp đồng PPP sẽ
hạn chế mục tiêu của luật là nhằm thu hút nguồn vốn quốc tế cho dự án PPP. Đặc biệt,
các ngân hàng nước ngoài sẽ không cung cấp một lượng lớn các khoản vay cho các nhà
đầu tư PPP đầu tư vào các dự án PPP quy mô lớn.
Theo đề xuất của một công ty tư vấn tài chính quốc tế, dựa trên kinh nghiệm trước đây
tham gia các dự án BOT Việt Nam với nhà đầu tư quốc tế, cần có không gian linh hoạt
trong luật áp dụng trong luật PPP mới. Điều quan trọng đối với luật PPP là cho phép
luật điều chỉnh được xác định tùy theo đàm phán giữa các bên.
5.7 VỐN NHÀ NƯỚC HỖ TRỢ XÂY DỰNG HỆ THỐNG CƠ SỞ
HẠ TẦNG
Theo các nhà đầu tư Nhật Bản, dự thảo luật quy định rằng nguồn vốn nhà nước trong
dự án PPP sẽ là vốn đầu tư công và sẽ tuân theo thủ tục của luật đầu tư công. Tuy nhiên,
vốn đầu tư công trong các dự án PPP phụ thuộc vào cấu trúc tài chính và phân bổ rủi ro
của dự án và sẽ chỉ được hoàn thành sau khi lựa chọn nhà đầu tư. Do đó, nếu Chính phủ
mong muốn bảo đảm ngân sách PPP từ nguồn Kế hoạch đầu tư trung hạn (MTIP) và kế
hoạch hàng năm tùy theo từng dự án, sẽ mất nhiều thời gian (thậm chí hơn một năm) và
sẽ thiếu linh hoạt điều chỉnh ngân sách.
Hệ thống ngân sách có thể không đủ để dự đoán nhu cầu phát triển cho các dự án PPP.
Nếu áp dụng định mức chi tiêu ngân sách hiện tại, dự án PPP sẽ không hấp dẫn đối với
các nhà đầu tư tư nhân. Dự thảo trước đây đã mô tả việc thành lập một quỹ riêng cho
các Dự án PPP. Phương án này đã bị loại bỏ trong dự thảo mới nhất, nhưng các nhà đầu
tư tin rằng một Quỹ riêng cho dự án PPP sẽ giúp đảm bảo tính linh hoạt và chắc chắn
khi thực hiện (hoặc giải ngân) vốn nhà nước cho mỗi dự án. Do đó, Chính phủ xem xét
thành lập một nguồn ngân sách dành riêng cho các dự án PPP. Phân bổ ngân sách cho
các dự án PPP cần được bảo đảm trên cơ sở dài hạn và quy trình này phải hiệu quả để
tránh sự chậm trễ không cần thiết trong quá trình thực hiện. Ngoài ra, kiểm toán nhà
nước nên chỉ giới hạn phạm vi trong tài chính công và tài sản công được sử dụng trong
các dự án PPP để hỗ trợ xây dựng các công trình phụ trợ, và bồi thường, giải phóng mặt
bằng và/hoặc tái định cư.
Vốn Nhà nước giai đoạn vận hành dự án: Sau khi dự án hoàn thành và được nghiệm
thu, dự án bắt đầu triển khai công tác vận hành và tiến hành khai thác. Tuy nhiên, gặp
phải nhiều vướng mắc về do chính sách quy định điều chỉnh mức phí, lộ trình tăng phí,
chính sách miễn giảm… khác so với quy định trong Hợp đồng BOT ban đầu, dẫn đến
việc Phương án tài chính của Dự án bị phá vỡ, nhà đầu tư/doanh nghiệp dự án lâm vào
cảnh vi phạm hợp đồng tín dụng. Thực tế hiện tại có rất nhiều Dự án đã bị phá vỡ
phương án tài chính do thay đổi các yếu tố đầu vào: ví dụ dự án Hầm đường bộ qua Đèo
Cả bỏ trạm thu phí La Sơn Túy Loan, dự án Bắc Giang Lạng Sơn bỏ một trạm thu phí…
Hiện các Nhà đầu tư tại Dự án Bắc Giang Lạng Sơn và Dự án Hầm Đèo Cả đang làm
việc đàm phán với CQNNCTQ để bổ sung nguồn vốn Ngân sách hỗ trợ, đảm bảo không
26 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
phá vỡ phương án tài chính dự án. Tuy nhiên theo các quy định hiện tại, vốn Ngân sách
Nhà Nước chỉ chi trả chi phí trong giai đoạn đầu tư dự án, chưa có cơ chế hỗ trợ chi phí
cho giai đoạn vận hành thu phí, vì vậy công tác đàm phán với các Cơ quan Nhà Nước
và cả các TCTD gặp rất nhiều khó khăn.
5.8 CHI PHÍ CHUẨN BỊ DỰ ÁN
Tương tự, chi phí của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cơ quan ký kết hợp đồng,
đơn vị chuẩn bị dự án, đơn vị đấu thầu, Hội đồng thẩm định dự án PPP, đơn vị được
giao thẩm định dự án PPP sẽ được trang trải từ nguồn vốn đầu tư công và tính gộp vào
tổng vốn đầu tư của dự án. Nhà đầu tư lưu ý rằng sẽ hiệu quả nhất nếu chi phí cho việc
chuẩn bị dự án, thẩm định dự án và lựa chọn nhà đầu tư được chi trả bởi một cơ quan
chuyên trách phát triển dự án để đảm bảo tính linh hoạt và kịp thời. Vốn đầu tư công và
việc tuân thủ theo luật đầu tư công đã dẫn đến chất lượng yếu kém, thiếu nhất quán và
chậm trễ trong việc thực hiện dự án do nguồn tài chính không đủ hoặc không kịp thời..
5.9 QUYỀN TIẾP NHẬN DỰ ÁN CỦA BÊN CHO VAY
Dự thảo luật quy định quyền tiếp nhận của bên cho vay. Theo các nhà đầu tư Nhật Bản,
quyền tiếp nhận của bên cho vay nhằm khắc phục việc không hoàn thành nghĩa vụ trả
nợ là một thông lệ phổ biến trong dự án PPP trên thế giới. Bên cho vay nên được quyền
thỏa thuận với các bên trong hợp đồng PPP, cho phép bên cho vay thực hiện quyền tiếp
quản dự án và khắc phục việc không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng PPP
thay mặt cho doanh nghiệp dự án và nhà đầu tư trong một số trường hợp theo như quy
định trong các thỏa thuận.
5.10 LỰA CHỌN NHÀ THẦU TRONG NƯỚC THỰC HIỆN DỰ
ÁN
Dự thảo luật PPP yêu cầu lựa chọn các nhà thầu trong nước thực hiện các công trình mà
nhà thầu trong nước có khả năng thực hiện. Trong trường hợp nhà thầu trong nước
không thể thực hiện công việc, bắt buộc phải sử dụng nhà thầu nước ngoài, nhà thầu
nước ngoài phải liên kết với nhà thầu trong nước hoặc sử dụng nhà thầu phụ trong nước.
Yêu cầu pháp lý để ưu tiên lựa chọn nhà thầu trong nước của Việt Nam hơn so với nhà
thầu nước ngoài sẽ cản trở đáng kể nhà đầu tư quốc tế tham gia vào các dự án PPP của
Việt Nam. Nhà đầu tư và bên cho vay quốc tế thường có các yêu cầu về mặt chính sách
và kỹ thuật cụ thể. Mặc dù các công trình có thể được thực hiện bởi các nhà thầu trong
nước của Việt Nam, nhưng dự án PPP chỉ hấp dẫn đối với nhà đầu tư quốc tế nếu có thể
được sử dụng nhà thầu nước ngoài.
Các nhà đầu tư quốc tế kiến nghị Dự thảo luật PPP không nên có các yêu cầu bắt buộc
nhà đầu tư lựa chọn nhà thầu trong nước nếu khi nhà thầu trong nước có khả năng thực
hiện các công việc liên quan.
27 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
5.11 GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG
Theo quy định về Chuẩn bị mặt bằng xây dựng, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách
nhiệm tổ chức giải phóng mặt bằng và hoàn thành thủ tục giao đất hoặc cho thuê đất để
thực hiện dự án theo quy định của pháp luật về đất đai, hợp đồng PPP và các hợp đồng
liên quan khác.
Chủ tịch Hiệp hội các doanh nghiệp FDI nêu ý kiến quan ngại rằng trong nhiều dự án
cần giải phóng mặt bằng, mâu thuẫn giữa chính quyền và người dân địa phương sẽ gây
nên chậm trễ không thể tránh khỏi đối với việc thực hiện dự án. Dự thảo luật cần làm
rõ các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước trong công tác giải phóng mặt bằng để doanh
nghiệp dự án có mặt bằng cần thiết để bắt đầu xây dựng đúng thời hạn. Vấn đề thu xếp
mặt bằng này là rất quan trọng đối với các nhà đầu tư quốc tế vì đây là một trong những
yếu tố rủi ro quan trọng nhất và các nhà đầu tư và bên cho vay quốc tế thường do dự và
không muốn ở vị trí phải chịu rủi ro gắn liền với việc giải phóng mặt bằng.
28 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
6. KẾT LUẬN
Các nhà đầu tư bao gồm cả các nhà đầu tư quốc tế được phỏng vấn hy vọng rằng Luật
PPP sẽ giảm bớt một số trở ngại làm hạn chế đầu tư theo hình thức PPP, đáng chú ý
nhất là cạnh tranh minh bạch trong việc lựa chọn nhà đầu tư và cải thiện bảo đảm của
Chính phủ để giúp huy động vốn cho các dự án PPP. Mục đích của Luật là huy động
đầu tư và chuyên môn của khu vực tư nhân nên cần tạo điều kiện hơn cho các nhà đầu
tư theo hình thức PPP so với hiện tại .
Quy định về PPP thể hiện một bước tiến về mặt pháp lý khi được nâng lên thành Luật
và sẽ giúp giải quyết một số xung đột pháp lý với các Luật khác. Dự thảo Luật bắt buộc
phải có cơ chế cạnh tranh để lựa chọn nhà đầu tư và đưa ra một cơ chế mới để chia sẻ
doanh thu.
Để thúc đẩy PPP, sự cần thiết của các cơ chế mới như một tổ chức phát triển dự án hoạt
động tốt, theo định hướng thị trường và doanh nghiệp thực hiện bảo lãnh PPP. Các tổ
chức này, với các cơ chế và thiết kế phù hợp, sẽ giúp hiện thực tiềm năng thực sự của
PPP tại Việt Nam.
Ủy ban PPP sẽ tiếp tục tổng hợp các phản ánh, ý kiến góp ý từ khu vực tư nhân để cung
cấp cho các cơ quan Nhà nước liên quan nhằm hoàn hiện chính sách pháp luật PPP.
29 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
PHỤ LỤC I: DANH SÁCH CÁC ĐƠN VỊ ĐÃ PHỎNG VẤN
ASCO Auditing Company
Asian Development Bank
Baker McKenzie Vietnam
City Land
Cuong Thuan Idico Development Investment Corporation
Deo Ca Group
Duane Morris Vietnam LLC
E&Y
Electricity of Vietnam
EPS Capital Corp
Freshfields
Japan Bank for International Co-operation
Japan Chamber of Commerce
Japan International Co-operation Agency
KPMG Vietnam
LNT Partners
Mitsubishi Corporation
Nishimura & Asahi Law Firm
Vietnam Association of Road System Investors
Vietnam Association of Foreign Direct Investment Enterprises
Vietnam Bank for Investment and Development
Vina Legal
VP Bank
World Bank
30 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
PHỤ LỤC II: CƠ CHẾ CHIA SẺ RỦI RO
Trên cơ sở nội dung cuộc toạ đàm được tổ chức vào ngày 16/4/2020 do VCCI , Ủy
ban PPP- Hội đồng quốc gia phát triển bền vững và Nâng cao năng lực cạnh tranh,
USAID, IPS phối hợp tổ chức, với sự tham dự của : Văn phòng Quốc hội, Bộ Kế
hoạch Đầu tư, Hiệp hội các nhà đầu tư đường bộ (VARSI), Tập đoàn Đèo Cả và các
chuyên gia, tư vấn cùng một số cơ quan báo chí.
1. Tại sao cần phải chia sẻ rủi ro trong các dự án PPP
PPP được thực hiện trên cơ sở hợp tác dài hạn có thời hạn giữa Nhà nước và nhà đầu tư
tư nhân thông qua việc ký kết và thực hiện hợp đồng PPP. Nhà nước và Nhà đầu tư hợp
tác trên cơ sở Đối tác, cùng chia sẻ trách nhiệm và rủi ro khi thực hiện dự án.
Bản chất, dự án PPP là dự án được triển khai nhằm mục đích cung cấp các sản phẩm,
dịch vụ công (mục đích công) thông qua hợp tác đầu tư tư (vốn tư) và/hoặc quản lý tư.
Nhà nước muốn kêu gọi nguồn lực tài chính, tận dụng được trí thức, năng lực quản lý
từ các thành phần kinh tế để bù đắp thiếu hụt về ngân sách thì Nhà nước cũng cần có
trách nhiệm, nghĩa vụ trong việc bảo đảm tính khả thi của dự án thông qua các công cụ
hỗ trợ, bảo đảm, bảo lãnh, mà không thể đẩy toàn bộ trách nhiệm, rủi ro của việc thực
hiện dự án mục đích công này cho tư nhân như đối với dự án đầu tư kinh doanh, thương
mại thông thường.
Do vậy bản chất của chia sẻ rủi ro trong PPP là bên nào có khả năng và nguồn lực để
giảm thiểu rủi ro cho dự án bên đó sẽ gánh rủi ro đó với chi phí hợp lý nhất theo khả
năng và mức độ chấp nhận rủi ro của mình.
Nếu đẩy hết rủi ro về phía tư nhân thì “mối lợi” phải rất lớn và khiến giá thành đến
người dùng cuối sẽ cao và ngược lại. Xét ở góc độ thị trường, việc khu vực công chia
sẻ rủi ro là cách thức mà Nhà nước có thể chấp nhận rủi ro đó ở mức chi phí thấp nhất,
vì nếu Nhà nước thực hiện dự án đó thì rủi ro vẫn tồn tại và Nhà nước phải chấp nhận
toàn bộ. Nếu Nhà nước để tư nhân gánh hết rủi ro thì họ sẽ tính rủi ro đó vào chi phí.
Việc Nhà nước tham gia chia sẻ rủi ro trong dự án PPP sẽ giảm chi phí dự án và qua đó
đem lại lợi ích cho nhà nước và người sử dụng.
Ví dụ: Dự án đường cao tốc 4 làn xe N105 tại Bangladesh ký hợp đồng năm 2019 với
tổng mức đầu tư 340 triệu USD, ban đầu nhà nước dự kiến hỗ trợ vốn xây dựng đường
là 111 triệu USD và không có bảo lãnh doanh thu tối thiểu. Sau khi nhà nước cam kết
chia sẻ rủi ro doanh thu thông qua cơ chế bảo lãnh doanh thu tối thiểu thì nhà đầu tư
trúng thầu bỏ VGF với giá trị là 27 triệu USD và như vậy nhà nước tiết kiệm được 84
triệu USD từ việc giảm VGF do việc tham gia chia sẻ rủi ro doanh thu với nhà đầu tư.7
7 Thông tin thêm về dự án có thể tham khảo tại https://tinyurl.com/ycnbvlrx
31 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
Dự án PPP không phải chỉ có nhà đầu tư mà còn có ngân hàng cho vay tới 70 – 80%.
Nếu đưa ra cơ chế mà bên cho vay thấy có nhiều rủi ro họ sẽ không cho vay nữa, như
vậy nhà đầu tư cũng không triển khai được dự án. Do dó, cần đưa ra cơ chế để bảo đảm
rủi ro được quản lý tốt nhất, đặc biệt trong thời gian đầu vì thường rủi ro cao, nếu có cơ
chế giúp doanh nghiệp trụ vững thì những năm sau mới bù lại cho mình.
2. Các rủi ro trong dự án PPP
- Rủi do do chấm dứt sớm hợp đồng.
- Giải phóng mặt bằng
- Xây dựng (chất lượng, tiến độ, vốn)
- Thu xếp vốn cho dự án
- Lưu lượng/doanh thu:
- Thay đổi chính sách/kế hoạch/quy hoạc
- Rủi ro không mua được ngoại tệ
- Rủi ro thay đổi tỷ giá ảnh hưởng doanh thu thực
- Bất khả kháng (thiên tai, dịch bênh, chiến tranh …)
3. Một số ý kiến, bình luận về cơ chế chia sẻ rủi ro tại dự thảo Luật:
Quy định chia sẻ rủi ro nằm trong nhiều điều của dự thảo Luật và đã đề cập đến cách
xử lý nhiều rủi ro trong triển khai dự án PPP của Việt Nam. Dự thảo Luật đưa ra cơ
chế chia sẻ doanh thu và đây là điểm mới và thu hút quan tâm của nhiều nhà đầu tư
trong và ngoài nước. Tại tọa đàm các nhà đầu tư, chuyên gia chia sẻ một số điểm như
sau:
a). Cơ chế chia sẻ doanh thu cần minh bạch và công bằng
Cơ chế chia sẻ doanh thu tăng/giảm cần đưa về một mặt bằng tính toán hoặc doanh thu
cam kết tại hợp đồng hoặc phương án tài chính thay vì 2 cơ sở như hiện nay. Các bên
thỏa thuận mức doanh thu cam kết tại hợp đồng bằng 75% ( thay cho không cao hơn
75% như dự thảo) mức doanh thu trong phương án tài chính” để tránh cơ chế xin cho,
tiêu cực. Áp dụng cho tất cả các dự án bị sụt giảm doanh thu theo tỷ lệ quy định mà
không do lỗi của quan của Nhà đầu tư.
Các bên cần công bằng trong chia sẻ doanh thu. Khi doanh thu tăng so với dự kiến,
nhà đầu tư chia sẻ với Nhà nước và khi doanh thu giảm so với dự kiến, Nhà nước chỉ
chia sẻ với các dự án khi đáp ứng một số điều kiện:
+ Nhà nước có thay đổi quy hoạch, chính sách, pháp luật
+ Sau khi có đánh giá sau 3 năm
+ Dự án không sử dụng vốn hỗ trợ của nhà nước.
Với cơ chế này khi doanh thu tăng vượt ngưỡng vì bất cứ lý do gì nhà đầu tư phải chia
sẻ 50% doanh thu vượt ngưỡng. Khi doanh thu giảm dưới mức cam kết nhà nước chỉ
chia sẻ 50% phần hụt thu khi việc này do Nhà nước có thay đổi chính sách, pháp luật,
32 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
kế hoạch, quy hoạch. Việc chứng minh tìm quan hệ nhân quả giữa việc giảm doanh thu
và thay đổi chính sách của nhà nước không đơn giản để xác định phần hụt thu do thay
đổi chính sách hay vì những nguyên nhân khác.
Vốn hỗ trợ của Nhà nước là Vốn hỗ trợ nhằm làm tăng tính khả thi của dự án ( VGF),
đặc biệt trong thời gian đầu khởi động dự án. Còn cơ chế chia sẻ là trong quá trình triển
khai dự án nếu doanh thu thực tế thấp hơn so với dự kiến. Hai cơ chế hỗ trợ này khác
nhau, không bắt buộc loại trừ, tuy nhiên mức hỗ trợ phụ thuộc từng dự án.
Thời gian định kỳ 3 năm một lần mới xem xét để chia sẻ rủi ro ảnh hưởng đến dòng tiền
của dự án gây khó khăn cho sự tồn tại của doanh nghiệp dự án. Khi hụt thu doanh nghiệp
dự án cần tiền để trả gốc và lãi ngân hàng nên việc chờ và xem xét trong 3 năm là không
phù hợp và dẫn đến vi phạm cam kết trả nợ với bên cho vay và hậu quả có thể rất nghiêm
trọng với dự án.
Theo nội dung tại dự thảo luật hiện tại thì “Cơ chế chia sẻ doanh thu phải được xác định
tại chủ trương đầu tư”. Theo đó cơ chế này chỉ áp dụng cho các dự án mới sau khi dự
thảo có hiệu lực, không được áp dụng cho các dự án hồi tố.
b) Về tỷ lệ chia sẻ doanh thu
Mỗi lĩnh vực ngành nghề, mỗi dự án, quy mô, mỗi thời gian có rủi ro khác nhau và cách
xử lý rủi ro khác nhau. Luật nên quy định nguyên tắc và các loại bảo lãnh nhà nước có
thể cấp. Văn bản dưới luật quy định chi tiết về cơ quan, lĩnh vực ngành nghề, công cụ
quản lý rủi ro tài khóa. Tỷ lệ bảo lãnh bao nhiêu và thực hiện như thế nào nên để đàm
phán hợp đồng để có thể có tỷ lệ hợp lý nhất với từng dự án. Các bên cần có cơ chế
kiểm soát doanh thu minh bạch, hiệu quả.
c). Kinh nghiệm của Indonesia trong quản lý rủi ro tài khóa, phát triển dự án và bảo
lãnh dự án PPP
Năm 2009 nhằm cung cấp bảo lãnh cho các dự án PPP, chính phủ thành lập Công ty
bảo lãnh cơ sở hạ tầng Indonesia là DNNN thuộc Bộ tài chính có nhiệm vụ cung cấp
bảo lãnh cho các dự án PPP.Việc thành lập vận hành Công ty trong thời gian đầu rất
khó khăn do các bộ không thống nhất quan điểm. Nhà đầu tư chưa tin tưởng vào khả
năng của doanh nghiệp. Qua quá trình phấn đấu và với cơ chế quản trị và lương, thưởng
phù hợp Công ty đã phát triển với một số kết quả như sau:
- Đã cung cấp bảo lãnh cho 21 dự án PPP với trị giá 14.7 tỷ USD (một đồng vốn nhà
nước tại Công ty thu hút được 26 đồng đầu tư tư nhân);
- Công ty thay nhà nước quản lý tài khóa, cung cấp bảo lãnh và thu phí cho từng dự
án và có lãi liên tục. Năm 2018 Công ty lãi hơn 30 triệu USD.
- Vốn cổ động (nhà nước) tại công ty vào thời điểm 2018 là khoảng 670 triệu USD,
trong đó 37.5% là do vốn tích lũy từ lợi nhuận để lại.
33 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
Việc tập trung rủi ro vào một cơ quan đảm bảo quản lý rủi ro tốt nhất. Do hoạt động
theo cơ chế thị trường rủi ro được định giá và tính phí theo cơ chế thị trường. Rủi ro
với ngân sách không nhiều và chỉ là phần vốn ở doanh nghiệp và doanh nghiệp sẽ phải
phối hợp với các định chế tài chính cung cấp bảo lãnh vượt khả năng nguồn vốn của
mình. Định chế tài chính này rất quan trọng và bổ sung cho tổ chức tín dụng sẽ chịu
nhiều ràng buộc về an toàn vốn không thể cung cấp bảo lãnh dài hạn cho các dự án
PPP.
34 | QUAN ĐIỂM CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN VỀ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI VIỆT NAM
TÀI LIỆU THAM KHẢO
2019 Khảo sát nhà đầu tư cơ sở hạ tầng quốc tế: Benchmarking Trends and Best
Practices. Amenc, Noël, Frédéric Blanc-Brude, Abhishek Gupta, Jing Li Yim. April
2019. https://edhec.infrastructure.institute/paper/2019-global-infrastructure-investor-
survey-benchmarking-trends-and-best-practices.
Tang cường phat triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam để phát triển bền vững. 2020.
http://infrastructurevietnam.com/. Accessed 14 April 2020.
Xây dựng nền tảng kết nối để phát triển. Lambert, Donald. February 2020.
https://blogs.adb.org/blog/building-viet-nam-s-bridge-greater-economic-growth-and-
development. Accessed April 15, 2020.
Tranh chấp PPP tại Việt Nam: Trường hợp nghiên cứu điển hình Dự án Cầu Phú Mỹ.
Nguyen Xuan Thanh. 3/11/2013. https://fsppm.fulbright.edu.vn/vn/bao-cao-chinh-
sach/nghien-cuu-chinh-sach/tranh-chap-trong-hoat-dong-doi-tac-congtu-tai-viet-nam-
ncth-du-an-bot-cau-phu-my-va-kinh-nghiem-quoc-te/. Truy cấp 15/4/2020.
9/92019 https://baodauthau.vn/dau-tu/han-che-toi-da-chi-dinh-nha-dau-tu-du-an-ppp-
108164.html, truy cập ngày 15/4/2020.