mỤc lỤc - hueuni.edu.vn€¦ · cứu trong đề tài luận án này được giới hạn...
TRANSCRIPT
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... i
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... i
2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................. iii
3. Nhiệm vụ của luận án ............................................................................................ iii
4. Đối tượng, phạm vi, nội dung nghiên cứu ............................................................ iv
5. Phương thức tiếp cận ............................................................................................... v
5.1 Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... v
5.2. Các bước tiếp cận vấn đề nghiên cứu của luận án ......................................... viii
6. Tư liệu của luận án .............................................................................................. viii
7. Ý nghĩa/đóng góp của luận án ............................................................................... ix
8. Bố cục của luận án .................................................................................................. x
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA
ĐỀ TÀI ...................................................................................................................................... 1
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ............................................................................ 1
1.1.1. Khẩu hiệu ............................................................................................................... 1
1.1.2. Diễn ngôn và phân tích diễn ngôn ...................................................................... 12
1.2. Những cơ sở lý luận chủ yếu và liên quan được áp dụng để phân tích diễn
ngôn khẩu hiệu ........................................................................................................ 14
1.2.1. Những luận điểm cơ bản của Lý thuyết phân tích diễn ngôn phê phán (Critical
Discourse Analysis - CDA) ........................................................................................... 15
1.2.2. Những căn cứ ngôn ngữ học của việc Phân tích Diễn ngôn Phê phán ............ 20
1.2.3. Một vài cơ sở lý luận liên quan khác để phân tích và so sánh - đối chiếu diễn
ngôn khẩu hiệu ............................................................................................................... 26
1.3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................... 30
1.3.1. Về khẩu hiệu quảng cáo ...................................................................................... 30
1.3.2. Về khẩu hiệu chính trị - xã hội .......................................................................... 33
1.4. Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 35
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ CỦA DIỄN NGÔN KHẨU HIỆU CHÍNH
TRỊ - XÃ HỘI TIẾNG ANH DUỚI GÓC NHÌN CỦA LÝ THUYẾT PHÂN TÍCH
DIỄN NGÔN PHÊ PHÁN ................................................................................................... 37
2.1. Đặt vấn đề ........................................................................................................ 37
2.2. Khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Anh – một số vấn đề chung ....................... 38
2.2.1. Bối cảnh xã hội của khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Anh ............................. 38
2.2.2. Nội dung chủ đề của khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Anh ............................ 39
2.2.3. Khẩu hiệu chính trị - xã hội - đối tượng nghiên cứu của CDA ........................ 41
2.3. Những đặc điểm sử dụng từ ngữ của diễn ngôn khẩu hiệu chính trị - xã hội
tiếng Anh theo quan điểm của Lý thuyết phân tích diễn ngôn phê phán ................ 42
2.3.1. Giá trị kinh nghiệm của từ ngữ ........................................................................... 42
2.3.2. Giá trị quan hệ của từ ngữ ................................................................................... 51
2.3.3. Giá trị biểu cảm của từ ngữ ................................................................................. 55
2.3.4 Sử dụng biện pháp ẩn dụ ...................................................................................... 57
2.4. Những đặc điểm cấu trúc ngữ pháp của diễn ngôn khẩu hiệu chính trị - xã hội
tiếng Anh theo quan điểm của Lý thuyết Phân tích Diễn ngôn phê phán .............. 62
2.4.1. Giá trị kinh nghiệm của các hiện tượng ngữ pháp ............................................ 62
2.4.2. Giá trị quan hệ của ngữ pháp .............................................................................. 67
2.4.3. Giá trị biểu cảm của ngữ pháp ............................................................................ 70
2.4.4. Đặc điểm liên kết câu/ mệnh đề ......................................................................... 72
2.5. Các đặc điểm cấu trúc diễn ngôn ..................................................................... 75
2.5.1. Độ dài văn bản của diễn ngôn khẩu hiệu ........................................................... 75
2.5.2. Tính mạch lạc của diễn ngôn khẩu hiệu ............................................................. 76
2.5.3 Cấu trúc tổ chức vi mô của diễn ngôn khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Anh . 80
2.6. Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 81
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ CỦA DIỄN NGÔN KHẨU HIỆU CHÍNH
TRỊ-XÃ HỘI TIẾNG VIỆT DUỚI GÓC NHÌN CỦA LÝ THUYẾT PHÂN TÍCH
DIỄN NGÔN PHÊ PHÁN ................................................................................................... 82
3.1. Đặt vấn đề ........................................................................................................ 82
3.2. Khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Việt – một số vấn đề chung ....................... 82
3.2.1. Bối cảnh xã hội của khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Việt .............................. 82
3.2.2. Nội dung chủ đề của khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Việt ............................ 83
3.3. Những đặc điểm sử dụng từ ngữ của diễn ngôn khẩu hiệu chính trị - xã hội
tiếng Việt theo quan điểm của Lý thuyết Phân tích Diễn ngôn phê phán .............. 85
3.3.1. Giá trị kinh nghiệm của từ ngữ ........................................................................... 85
3.3.2. Giá trị quan hệ của từ ngữ ................................................................................... 95
3.3.3. Giá trị biểu cảm của từ ngữ ................................................................................. 98
3.3.4. Sử dụng biện pháp ẩn dụ ..................................................................................... 98
3.4. Những đặc điểm cấu trúc ngữ pháp của diễn ngôn khẩu hiệu chính trị - xã hội
tiếng Việt theo quan điểm của Lý thuyết Phân tích Diễn ngôn phê phán ............ 100
3.4.1. Giá trị kinh nghiệm của các hiện tượng ngữ pháp .......................................... 100
3.4.2. Giá trị quan hệ của ngữ pháp ............................................................................ 104
3.4.3. Giá trị biểu cảm của ngữ pháp .......................................................................... 106
3.4.4. Đặc điểm liên kết câu/ mệnh đề ....................................................................... 108
3.5. Các đặc điểm cấu trúc diễn ngôn ................................................................... 111
3.5.1. Độ dài văn bản của diễn ngôn khẩu hiệu chính trị - xã hội ............................ 111
3.5.2. Tính mạch lạc của diễn ngôn khẩu hiệu chính trị - xã hội .............................. 112
3.5.3. Cấu trúc tổ chức vi mô của diễn ngôn khẩu hiệu chính trị - xã hội................ 115
3.6. Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 116
CHƯƠNG 4: SO SÁNH ĐỐI CHIẾU CÁC ĐẶC ĐIỂM DIỄN NGÔN CỦA KHẨU
HIỆU CHÍNH TRỊ-XÃ HỘI TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT .................................. 117
4.1. Đặt vấn đề ...................................................................................................... 117
4.2. Những đặc điểm tương đồng của diễn ngôn khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng
Anh (viết tắt KHTA) và khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Việt (viết tắt KHTV) 118
4.2.1. Chủ đề ................................................................................................................ 118
4.2.2. Từ ngữ ................................................................................................................ 119
4.2.3. Cấu trúc ngữ pháp ............................................................................................. 119
4.2.4. Cấu trúc diễn ngôn ............................................................................................ 120
4.3. Những đặc điểm khác biệt của diễn ngôn KHTA và KHTV ......................... 121
4.3.1. Phương thức sử dụng ........................................................................................ 121
4.3.2. Chủ đề ................................................................................................................ 123
4.3.3. Từ ngữ ................................................................................................................ 127
4.3.4. Cấu trúc ngữ pháp ............................................................................................. 132
4.3.5. Cấu trúc diễn ngôn ............................................................................................ 140
4.4 Tiểu kết chương 4 ........................................................................................... 143
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ................................................................................................ 144
Kết luận ................................................................................................................... 144
Đề nghị .................................................................................................................... 147
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
i
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xã hội hiện đại, ngôn ngữ được sử dụng để phát huy tối đa các chức năng
giao tiếp. Ở những nơi những lúc cần sự tác động đến suy nghĩ, thái độ và hành vi của
người tham gia giao tiếp, khẩu hiệu được dùng để cung cấp thông tin, vận động hay
thuyết phục người khác. Khẩu hiệu là những thông điệp được soạn thảo với độ chính
xác và ý nghĩa biểu cảm của từ ngữ rất cao, với sự lựa chọn cấu trúc ngữ pháp rất tinh
tế, gọn nhẹ và với những cấu trúc văn bản phù hợp với ngữ cảnh giao tiếp. Ngôn ngữ
sử dụng trong khẩu hiệu được yêu cầu đạt đến độ chuyển tải ý nghĩa cao và tron vẹn.
Khẩu hiệu có mục đích hướng dẫn mọi người thực hiện những hành vi giao tiếp một
cách chính xác và đúng yêu cầu, cảnh báo trước những tình huống nguy hiểm, hoặc
để thông báo những thay đổi, thông tin mới, cung cấp cho mọi người những thông tin
cần thiết trong những tình huống cụ thể, và để thuyết phục, vận động mọi người thực
hiện một công việc hoặc thay đổi một hành vi, thói quen nào đó. Khẩu hiệu vì thế
đóng vai trò quan trọng trong đời sống giao tiếp của xã hội văn minh, đặc biệt là ở nơi
công cộng, có sự tham gia giao tiếp của nhiều người. Vì tính chất, phạm vi sử dụng
và mục đích của khẩu hiệu khá đa dạng, khái niệm khẩu hiệu được chọn để nghiên
cứu trong đề tài luận án này được giới hạn là khẩu hiệu chính trị - xã hội (KH CT-
XH) – vấn đề sẽ được định nghĩa và phân tích cụ thể hơn trong các trang chính luận
của luận án này.
Ở Việt Nam, trong thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cũng như
trong giai đoạn đổi mới hiện nay, vai trò của KH CT-XH đã được khẳng định trong
chức năng tác động, dẫn dắt, huy động sức mạnh của thể chế và động viên nguồn lực
của toàn dân vì sự nghiệp chung. Bên cạnh đó, quan sát các KH CT-XH được dùng
trong các xã hội nói tiếng Anh (tiêu biểu là xã hội Mỹ), chúng tôi nhận thấy cho dù
thể chế chính trị có khác nhau, nhưng việc sử dụng khẩu hiệu cũng có những nét
chung, bên cạnh những nét khác biệt mang tính đặc thù ngôn ngữ, văn hóa, và cả
cách tư duy. Những điểm tương đồng và khác biệt trong việc sử dụng loại văn bản
đặc biệt này được thể hiện trong các chiến lược dùng từ ngữ, cấu trúc ngữ pháp hay
ii
cấu trúc diễn ngôn … và đặc biệt là kết quả đó còn xuất phát từ những nguyên nhân
khác biệt hay tương đồng về văn hóa, chính trị, xã hội. Việc chọn hay không chọn
một số từ ngữ, cấu trúc ngữ pháp, các kiểu phát ngôn… trong từng tình huống cụ
thể đã giúp cho người phát ngôn khẩu hiệu KH CT-XH ở mỗi nền văn hóa thể hiện
thái độ, tư tưởng và những ý đồ phát ngôn khác nhau. Riêng về địa hạt ngôn ngữ
học, trong vài thập kỷ qua, khi mà chủ nghĩa cấu trúc luận đang dần bị thay thế bởi
đường hướng nghiên cứu mới là chức năng luận với các đại diện như phân tích diễn
ngôn, dụng học, ngôn ngữ học tri nhận, ngôn ngữ học xã hội…, quan hệ giữa ngôn
ngữ và tư tưởng, tri thức, thái độ, khả năng tri nhận của con người đã dần được
quan tâm và nhanh chóng trở thành những lĩnh vực nghiên cứu thú vị. Phân tích
diễn ngôn phê phán, một đường hướng phân tích diễn ngôn giúp bộc lộ các mối
quan hệ xã hội và hệ tư tưởng của người phát ngôn đã thổi một luồng gió mới vào
trong nghiên cứu ngôn ngữ học, đặc biệt là việc đường hướng nghiên cứu này thừa
nhận vai trò của ngôn ngữ trong cơ cấu quan hệ quyền lực trong xã hội và góp phần
chứng minh ngôn ngữ là một thực tiễn xã hội. Khuynh hướng này đã tạo cảm hứng
cho chúng tôi bắt tay vào nghiên cứu diễn ngôn khẩu hiệu KH CT-XH trên cơ sở sử
dụng lý thuyết phân tích diễn ngôn phê phán.
Ngoài ra, cho đến thời điểm hiện tại tuy đã có một số công trình nghiên cứu
trong và ngoài nước phân tích, đối chiếu khẩu hiệu quảng cáo hoặc nghiên cứu về
KH CT-XH nhưng hầu hết chỉ tập trung vào một lĩnh vực cụ thể; hoặc hướng
nghiên cứu chỉ dừng lại ở liệt kê, mô tả định lượng, hoặc phân tích theo đường
hướng ngữ pháp truyền thống. Thực tế cho thấy vẫn chưa có công trình nghiên cứu
nào đi theo hướng phân tích các KH CT-XH trên cơ sở phân tích diễn ngôn (thể loại
diễn ngôn chính trị - xã hội) theo đường hướng phân tích diễn ngôn phê phán, và
chưa có công trình nào đi sâu phân tích cách mà những tập quán xã hội tác động vào
ngôn ngữ KH CT-XH.
Với những lý do trên đây, tôi mong muốn tiến hành nghiên cứu đề tài “Đối
chiếu đặc điểm diễn ngôn của khẩu hiệu tiếng Anh và tiếng Việt” (Tên tiếng
Anh là “A contrastive analysis of discourse features of slogans in English and
Vietnamese”) để thực hiện luận án tiến sĩ của mình.
iii
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ các đặc điểm diễn ngôn của KH
CT-XH tiếng Anh và tiếng Việt; tìm ra sự tương đồng và những khác biệt trong các
chiến lược sử dụng từ ngữ, cấu trúc ngữ pháp và cấu trúc diễn ngôn giữa KH CT-XH
tiếng Anh và tiếng Việt; góp phần chứng minh diễn ngôn là một tập quán xã hội và còn
là sự thể hiện của các mặt xã hội đó; giúp những cơ quan, tổ chức hay cá nhân thiết kế
KH CT-XH có những chiến lược xây dựng các khẩu hiệu đúng, thuyết phục vừa mang
tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật và có giá trị giao tiếp cao.
3. Nhiệm vụ của luận án
Luận án đặt ra những nhiệm vụ sau:
+ Xác lập khái niệm khẩu hiệu chính trị - xã hội và các nội hàm của khái niệm
này để làm cơ sở cho việc nghiên cứu.
+ Mô tả một cách hệ thống các đặc điểm ngôn ngữ của khẩu hiệu chính trị - xã
hội KH CT-XH tiếng Anh và tiếng Việt, sử dụng lý thuyết phân tích diễn ngôn theo
đường hướng phân tích diễn ngôn phê phán. Các đặc điểm sử dụng từ ngữ, cấu trúc
ngữ pháp và cấu trúc diễn ngôn của KH CT-XH sẽ được phân tích theo khung lý
thuyết ngữ pháp chức năng hệ thống trên cơ sở các siêu chức năng của ngôn ngữ để
chứng minh rằng diễn ngôn KH CT-XH là một thực tiễn xã hội và là công cụ để thể
hiện tư tưởng, thái độ, thực thi quyền lực của người phát ngôn. Đây cũng chính là
nền tảng của nội dung nghiên cứu.
+ So sánh - đối chiếu KH CT-XH tiếng Anh và tiếng Việt để tìm ra những
tương đồng và khác biệt trong chiến lược sử dụng. Trên cơ sở đó, luận án đặt mục
tiêu giải thích một số nguyên nhân của sự tương đồng và khác biệt trên cơ sở các
điều kiện lịch sử, chính trị, văn hóa xã hội của mỗi quốc gia, cũng nhằm chứng
minh rằng do các điều kiện khác nhau về chính trị, văn hóa, xã hội và các tập quán,
thói quen của hai nền văn hóa Đông - Tây mà các phát ngôn khẩu hiệu của hai ngôn
ngữ có những khác biệt nhất định.
+ Trình bày những nhận xét tổng quát mang tính lý luận về vấn đề nghiên cứu
và những kết luận rút ra từ kết quả nghiên cứu của luận án.
iv
Trên cơ sở các nhiệm vụ trên, luận án tập trung làm rõ các câu hỏi nghiên
cứu như sau:
(1) Khẩu hiệu CT-XH tiếng Anh có những đặc điểm từ ngữ, cấu trúc ngữ pháp
và cấu trúc diễn ngôn nào?
(2) Khẩu hiệu CT-XH tiếng Việt có những đặc điểm từ ngữ, cấu trúc ngữ pháp
và cấu trúc diễn ngôn nào?
(3) Khẩu hiệu CT-XH tiếng Anh và tiếng Việt có những điểm tương đồng và
khác biệt nào trong đặc điểm diễn ngôn? Nguyên nhân của những tương đồng và dị
biệt đó là gì?
4. Đối tượng, phạm vi, nội dung nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những đặc điểm ngôn ngữ của diễn ngôn KH
CT-XH, bao gồm chiến lược sử dụng từ ngữ, cấu trúc ngữ pháp và cấu trúc diễn ngôn.
Phạm vi nghiên cứu là diễn ngôn khẩu hiệu (thể loại KH CT-XH) tiếng Anh và
tiếng Việt được sử dụng ở những nơi công cộng như đường phố, công sở - văn
phòng, trường học… cho những mục đích giáo dục hay thuyết phục riêng. Nghiệm
thể tiếng Anh bao gồm những khẩu hiệu được sử dụng ở Hoa Kỳ trong phạm vi thời
gian 50 năm từ khoảng 1960 - 2014. Nghiệm thể tiếng Việt được thu thập trong giai
đoạn xây dựng và phát triển đất nước Việt nam từ sau 1975 - 2014.
Khẩu hiệu được lựa chọn là thể loại khẩu hiệu chính trị - xã hội được các tổ
chức, nhóm cá nhân có chung mục đích sử dụng để làm công cụ thực thi quyền lực
thông qua việc tuyên truyền, giáo dục, vận động về chính sách và các vấn đề khác
trong xã hội. Phạm vi lựa chọn tư liệu bao gồm khẩu hiệu hoặc các biểu ngôn, biểu
ngữ chứa khẩu hiệu chính trị - xã hội có thể hiện nhiều cấp độ quyền lực khác nhau
của người phát ngôn.
Trong phạm vi nghiên cứu đã xác định của luận án, chúng tôi dự định tập
trung vào nội dung phân tích diễn ngôn KH CT-XH theo đường hướng phân tích
diễn ngôn phê phán (PTDNPP) để tìm ra những thể hiện của tư tưởng, thái độ và
quyền lực của người phát ngôn thông qua cách sử dụng ngôn ngữ, mà cụ thể là
chiến lược sử dụng từ ngữ, cấu trúc ngữ pháp và cấu trúc diễn ngôn. Từ đó, chứng
v
minh diễn ngôn là một thực tiễn xã hội, phản ánh các mặt của đời sống xã hội và
chịu sự tác động trở lại của xã hội đó.
5. Phương thức tiếp cận
5.1 Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các nhóm phương pháp sau:
+ Phương pháp chủ yếu:
- Phương pháp miêu tả ngôn ngữ (từ ngữ, cấu trúc ngữ pháp, cấu trúc diễn
ngôn), vận dụng lý thuyết phân tích diễn ngôn (theo đường hướng PTDNPP)
- Phương pháp so sánh - đối chiếu (để làm nổi bật những điểm tương đồng và
khác biệt giữa hai nghiệm thể diễn ngôn)
+ Phương pháp hỗ trợ: thu thập tư liệu, phân tích tư liệu, phương pháp thống kê,
phương pháp quy nạp.
Cụ thể, luận án chọn đường hướng PTDNPP chức năng hệ thống do Norman
Fairclough [68] khởi xướng với các phương pháp phân tích diễn ngôn dựa trên cơ sở lý
thuyết Ngữ pháp chức năng hệ thống của M.A.K Halliday [83] để phân tích các đặc
điểm diễn ngôn của KH CT-XH tiếng Anh và tiếng Việt bao gồm cách sử dụng từ ngữ,
cấu trúc ngữ pháp và cấu trúc diễn ngôn theo mạng lưới các giá trị trong diễn ngôn như
giá trị kinh nghiệm, giá trị quan hệ và giá trị biểu cảm như các câu hỏi gợi ý của
Norman Fairclough [68] và thông qua việc lý giải cơ chế họat động của ngôn ngữ gắn
với các thực tiễn xã hội có thể liên quan đến các chức năng ý niệm/kinh nghiệm
(ideational/experiential), liên nhân (interpersonal) và tạo văn bản (textual).
* Vấn đề đối chiếu trong luận án
Lý thuyết ngôn ngữ học đối chiếu đã được phát triển về chất lẫn về lượng
trong nhiều năm qua cả trong nước và trên thế giới. Nói về so sánh - đối chiếu từ
góc độ văn hóa, đối chiếu phạm trù chức năng ngôn ngữ, hay hướng phân tích đối
chiếu ứng dụng, Nguyễn Thiện Giáp [10] dẫn các nghiên cứu về đối chiếu trên thế
giới của Lehman (1977), James (1980), Lado (2003) hay trong nước như của
Nguyễn Văn Chiến (1992), Lê Quang Thiêm (2004)…để minh chứng cho những
phạm trù nghiên cứu đối chiếu mà luận án của chúng tôi mong muốn được áp dụng.
vi
Về vấn đề đối chiếu được sử dụng trong luận án, đối tượng được xác định để
đối chiếu của luận án là đối chiếu diễn ngôn. Quan điểm của James (1980) (trích
trong [10]) là muốn đối chiếu diễn ngôn, trước hết cần chứng minh sự tồn tại của
liên kết trong văn bản. Công việc này cần phải được thực hiện dựa trên việc áp dụng
các quan điểm chức năng về cấu trúc câu. Đối chiếu diễn ngôn, theo Nguyễn Thiện
Giáp [10], đặt trọng tâm vào tính chức năng của ngôn ngữ. Lê Quang Thiêm
[39:195] đã phân loại một số bình diện đối chiếu ngôn ngữ Anh - Việt hay Việt -
Anh trong đó có bình diện chức năng với vai trò xem xét ngôn ngữ trong mối tương
quan với mục đích và công dụng phát ngôn, hay xem xét cách cấu tạo ngôn ngữ
trong từng hoàn cảnh cụ thể với các chức năng xác định. Tác giả này xác định các
địa hạt đối chiếu “không còn giới hạn trong kết học mà còn lan sang cả nghĩa học và
dụng học”, tức là xem xét hiệu quả giao tiếp của ngôn ngữ trong các mối quan hệ
chức năng liên nhân giữa người nói và người nghe. Tương tự, quan điểm của Bùi
Mạnh Hùng [21: 217] là việc đối chiếu các ngôn ngữ không còn giới hạn như những
hệ thống khép kín “trong bản thân nó và vì nó” (Saussure [129]) mà còn đối chiếu
các phương tiện giao tiếp, hành chức trong những ngữ cảnh cụ thể và trong các bối
cảnh văn hóa nhất định.
Cụ thể trong luận án này, chúng tôi sử dụng quan điểm phân tích đối chiếu
diễn ngôn để tìm hiểu những tương đồng và khác biệt trong hệ thống diễn ngôn và
những đặc điểm của văn hóa, xã hội thể hiện qua diễn ngôn; đồng thời cũng tiếp cận
quan điểm đối chiếu từ góc độ ngữ dụng. Trong thực tế, hướng nghiên cứu này đã
được nhiều người quan tâm và đề cao trong xu hướng ngôn ngữ học hiện đại vì nó
chú trọng đến “thẩm năng giao tiếp” và vì nó giúp chúng ta tiếp cận công tác đối
chiếu từ góc độ giao tiếp cho nên có thể làm rút ngắn “con đường từ miêu tả lý
thuyết đến thực tiễn dạy học” các ngôn ngữ (Faerch, 1977- trích trong [22]). Nói
khác đi, vấn đề đối chiếu ở đây thuộc phạm trù chức năng và các công việc so sánh
đối chiếu đều dựa trên các chức năng giao tiếp trong từng bối cảnh cụ thể của ngôn
ngữ thể hiện trong các nghiệm thể.
Hai nghiệm thể được sử dụng cho mục đích đối chiếu trong luận án này thuộc
hai ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Việt. Đây là hai ngôn ngữ mà nhiều nhà nghiên
vii
cứu cho rằng có nhiều điểm khác xa nhau trong nền văn hóa gắn liền với mỗi ngôn
ngữ. Vì thế việc đối chiếu từ bình diện ngữ dụng và cả bình diện phân tích diễn
ngôn có rất nhiều ứng dụng thực tiễn cụ thể. Trong luận án này, hướng đối chiếu
ngữ dụng được khai thác thông qua đối chiếu các phương tiện ngôn ngữ để thực hiện
các hành động ngôn từ (mà chủ yếu là các lực ngôn trung), để biểu hiện các hiện tượng
văn hóa xã hội trong hai nền văn hóa, để thể hiện tính lịch sự … Quan trọng và chủ
đạo hơn, hướng phân tích đối chiếu diễn ngôn - hướng tiếp cận chính của luận án - sẽ
quan tâm đến đối chiếu tính mạch lạc của diễn ngôn (là bình diện vừa có tính phổ quát
vừa mang những nét đặc thù của một ngôn ngữ cụ thể), cấu trúc vi mô của diễn ngôn
và việc tạo lập văn bản với những khía cạnh xuyên văn hóa. Bùi Mạnh Hùng [21:230]
phát biểu rằng ở bình diện diễn ngôn, sự khác nhau giữa các ngôn ngữ tuy không nhiều
nhưng lại tinh tế hơn nếu so với đối chiếu các bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và
ngữ dụng, bởi những vấn đề của diễn ngôn liên quan đến các phổ quát của tư duy nhân
loại nhiều hơn là những nét đặc thù của từng ngôn ngữ.
* Phương pháp thu thập tư liệu
- Tư liệu của nghiên cứu này gồm 1.000 KH CT-XH được thu thập ở cả 2
thứ tiếng Anh và Việt, thông qua các phương tiện chủ yếu như quan sát-ghi chép,
quay phim, chụp ảnh, tìm kiếm trên internet, tìm kiếm trong sách, báo, phim ảnh,
truyền hình…
- Địa bàn thu thập tư liệu bao gồm những nơi công cộng như nhà ga, bến
tàu, nhà máy, công sở-văn phòng, cơ quan, trường học, bệnh viện, khách sạn,
công viên, đường phố v.v… Các tư liệu tiếng Anh được thu thập từ trong môi
trường chính trị - xã hội Mỹ. Các tư liệu tiếng Việt được thu thập từ một số tỉnh
thành chủ yếu của Việt Nam như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng,
Cần Thơ, Thừa Thiên Huế…
- Nguồn tư liệu: tư liệu KH CT-XH được thu thập từ trong các kho tư liệu
(archive) bao gồm bản in và bản điện tử thông qua internet, các tác phẩm văn
học, báo chí, mạng xã hội cũng như từ thực tế xã hội như thu thập từ các băng-
rôn, biểu ngữ trên đường phố và nơi công cộng… Ngoài ra phim, truyền hình (tư
liệu, bản tin, phim truyện) có phụ đề cũng là một kênh quan trọng giúp tìm kiếm
tư liệu tiếng Anh.
viii
* Phân tích tư liệu
- Theo hướng định lượng, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê để đếm số
lượng và tần số xuất hiện của các từ ngữ, các mẫu câu, các cấu trúc ngữ pháp, ngữ
cảnh sử dụng của KH CT-XH bằng hai thứ tiếng, rồi phân loại và thống kê thành
biểu bảng tương ứng, phục vụ cho việc mô tả ở từng thứ tiếng và so sánh - đối chiếu
trên từng cặp phạm trù.
- Theo hướng định tính, chúng tôi sử dụng phương pháp miêu tả và phân tích
diễn ngôn (theo đường hướng PTDNPP) để tìm ra các đặc điểm sử dụng từ ngữ, cấu
trúc ngữ pháp và cấu trúc diễn ngôn trong diễn ngôn khẩu hiệu; rồi tiến hành đối
chiếu các phạm trù trên của KH CT-XH ở cả hai thứ tiếng để tìm ra những điểm
tương đồng và khác biệt trong cách lựa chọn chủ đề, chiến lược sử dụng từ ngữ, cấu
trúc ngữ pháp, cấu trúc diễn ngôn.
5.2. Các bước tiếp cận vấn đề nghiên cứu của luận án
(1) Tổng hợp tài liệu liên quan đến KH CT-XH và các lý luận, lý thuyết liên quan
trực tiếp đến việc phân tích diễn ngôn KH CT-XH
(2) Thu thập tư liệu nghiên cứu trên hai ngôn ngữ Anh - Việt (1000 mẫu KH CT-XH)
(3) Miêu tả các đặc điểm diễn ngôn của KH CT-XH thông qua việc phân tích diễn
ngôn (theo đường hướng PTDNPP) bao gồm đặc trưng từ ngữ, cấu trúc ngữ pháp và
cấu trúc diễn ngôn.
(4) So sánh - đối chiếu rồi đi đến kết luận về các tương đồng và khác biệt của
KHTA và KHTV.
6. Tư liệu của luận án
- Phần cơ sở lý luận của luận án được đúc kết thông qua tiếp cận các tài liệu lí
luận ngôn ngữ học đại cương, ngôn ngữ học ứng dụng, lí thuyết giao tiếp.... bằng
tiếng Anh và tiếng Việt.
- Phần phân tích khẩu hiệu được tiến hành trên tư liệu KH CT-XH thu thập
được từ tiếng Anh và tiếng Việt, cụ thể như sau:
* Tiếng Anh: các KH CT-XH được ban hành bởi các cơ quan có thẩm quyền như
các bộ, ngành, tổ chức, cơ quan nhà nước và một số nhóm cá nhân có chung lợi ích.
Kênh thu thập là internet, báo chí, phim ảnh, quan sát thực tế (ở Hoa Kỳ), sách tư liệu,
ix
cơ sở dữ liệu của Bộ ngoại giao (Hoa Kỳ), của một số trường phổ thông, trường Đại
học, trang web cơ sở dữ liệu KH CT-XH (http://www.thinkslogans.com).
* Tiếng Việt: các KH CT-XH được ban hành bởi các cơ quan có thẩm quyền
như chính phủ, các cơ quan ngôn luận của Đảng, chính quyền, các cơ quan đoàn
thể, các bộ ngành, các cơ quan thông tin tuyên truyền. Kênh thu thập là internet, báo
chí, phim ảnh, quan sát thực tế (ở các thành phố Huế, Tp.HCM, Hà Nội, Đà
Nẵng…), cơ sở dữ liệu của phòng - sở Văn hóa Thông tin và truyền thông, các văn
bản chỉ đạo của các cơ quan đoàn thể trong các chiến dịch vận động.
7. Ý nghĩa/đóng góp của luận án
Trong bối cảnh các công trình nghiên cứu trước đây ở địa hạt phân tích diễn ngôn
và nghiên cứu về KH CT-XH chỉ mới tập trung mô tả các đặc điểm ngôn ngữ theo các
đặc trưng ngữ nghĩa, ngữ pháp, ngữ dụng hoặc theo đường hướng ngữ pháp truyền
thống - trường phái cấu trúc luận, với công trình này, tác giả hy vọng sẽ đem lại các
đóng góp mới, đó là:
- Mô tả đặc điểm ngôn ngữ của diễn ngôn KH CT-XH tiếng Anh và tiếng Việt
trên cơ sở của lý thuyết ngữ pháp chức năng hệ thống, tức là xem ngôn ngữ là một
hiện tượng xã hội, là tập quán xã hội và chịu sự tác động của các điều kiện chính trị,
văn hóa xã hội. Ngôn ngữ được xem là nguồn lực tạo nghĩa, là công cụ để thể hiện
hệ tư tưởng, tri thức, niềm tin, thái độ, là công cụ để thực thi quyền lực.
- Tìm ra sự tương đồng và khác biệt trong chiến lược sử dụng từ ngữ, cấu trúc
ngữ pháp và cách thức tổ chức của diễn ngôn giữa KH CT-XH tiếng Anh và tiếng
Việt; đồng thời lý giải các nguyên nhân của sự lựa chọn đặc điểm ngôn ngữ dựa
trên các cơ sở đặc trưng về chính trị, văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia. Việc áp
dụng cùng một khung phân tích cho cùng một thể loại trong hai ngôn ngữ (Anh và
Việt) có thể dẫn đến nhiều nét tương đồng từ góc độ các nguồn lực ngôn ngữ được
sử dụng như từ ngữ, cấu trúc ngữ pháp và cấu trúc diễn ngôn. Chính vì thế, mục tiêu
của việc sử dụng khung lý thuyết phân tích diễn ngôn phê phán trong luận án này là
để nhận diện cơ chế tạo nghĩa của ngôn ngữ thông qua các nguồn lực xã hội, tìm
hiểu vai trò của diễn ngôn trong đời sống xã hội của mỗi quốc gia, mỗi nền văn hóa
và giải thích được sự tương đồng và khác biệt trên cơ sở các thực tiễn xã hội mà
x
ngôn ngữ KH CT-XH đang phản ánh. Đặc điểm của thể chế chính trị, văn hóa xã
hội sẽ góp phần quy định quyền phát ngôn và kiểu phát ngôn ở mỗi khẩu hiệu. Và
luận án có nhiệm vụ làm rõ sự phản ánh này. Đây chính là đóng góp chủ yếu nhất
của luận án mà tác giả mong muốn đạt được. Ngoài ra, thông qua việc chứng minh
rằng quan điểm của M.A.K Halliday về các quá trình trong quan hệ chuyển tác có
thể chưa hoàn toàn trùng khớp với trường hợp khảo sát khẩu hiệu CT-XH cũng
được hy vọng đóng góp một phần nhỏ về mặt thực tiễn hóa các lý luận liên quan
đến lý thuyết Ngữ pháp chức năng hệ thống.
- Nêu được các đề xuất để KH CT-XH được biên soạn theo cách đạt được hiệu
quả giao tiếp cao nhất, thực sự là công cụ thực thi quyền lực và là công cụ tuyên
truyền hiệu quả trong xã hội hiện đại.
8. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận-đề nghị và phụ lục, luận án được triển khai thành
4 chương sau đây:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu và cơ sở lý luận của luận án.
Chương này trình bày một cách chi tiết tổng quan vấn đề nghiên cứu bao gồm khái
niệm khẩu hiệu và các nội hàm tương ứng như chức năng, phân loại, ý nghĩa…; cơ
sở lý luận của phương pháp phân tích diễn ngôn theo đường hướng phân tích diễn
ngôn phê phán; và lịch sử vấn đề nghiên cứu trong và ngoài nước.
Chương 2: Các đặc điểm ngôn ngữ của diễn ngôn KH CT-XH tiếng Anh
dưới góc nhìn của lý thuyết phân tích diễn ngôn phê phán. Ở chương 2, các đặc
điểm sử dụng từ ngữ, cấu trúc ngữ pháp và cấu trúc diễn ngôn của KH CT-XH tiếng
Anh được phân tích theo đường hướng phân tích diễn ngôn phê phán theo mô hình
của Norman Fairclough, dựa trên cơ sở của lý thuyết Ngữ pháp chức năng hệ thống
của M.A.K. Halliday. Mục đích là làm rõ thái độ, hệ tư tưởng và quyền phát ngôn
của người phát ngôn khẩu hiệu.
Chương 3: Các đặc điểm ngôn ngữ của diễn ngôn KH CT-XH tiếng Việt
dưới góc nhìn của lý thuyết phân tích diễn ngôn phê phán. Chương này được
tiến hành với các bước và trình tự y hệt như chương 2, nhưng trên tư liệu là KH CT-
XH tiếng Việt.
xi
Chương 4: So sánh - đối chiếu các đặc điểm ngôn ngữ của diễn ngôn KH
CT-XH tiếng Anh và tiếng Việt. Đây là phần cốt lõi nhất của luận án. Chương này
tập trung so sánh- đối chiếu để tìm ra những tương đồng và khác biệt của KH CT-XH
tiếng Anh và KH CT-XH tiếng Việt trong chiến lược lựa chọn chủ đề, sử dụng từ ngữ,
cấu trúc ngữ pháp, cấu trúc tổ chức vi mô của diễn ngôn, và giải thích một số hiện
tượng khác biệt trên cơ sở sự khác biệt về đường lối chính sách cũng như các giá trị
văn hóa của hai nền văn hóa Đông - Tây.
1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Khẩu hiệu
1.1.1.1. Khái niệm khẩu hiệu (slogan)
Khái niệm khẩu hiệu (tiếng Việt) hay “slogan” (tiếng Anh) tồn tại trong
nhiều ngôn ngữ và nền văn hóa trên thế giới. Có thể hiểu khái niệm này dưới nhiều
hình thức và khía cạnh ngữ nghĩa, ngữ dụng khác nhau nhưng trước hết hãy cùng
tìm hiểu cách mà các từ điển định nghĩa khẩu hiệu nói chung.
Theo từ điển Merriam-Webster [111], từ slogan được cho là biến thể của từ
slogorn - xuất phát từ tiếng Xen-tơ của người Xcốt-len là sluagh-ghairm (trong đó
sluagh là “army/ war” (quân đội/chiến tranh) còn ghairm là “cry” (khóc/ kêu la).
Đây chính là tiếng hô lớn trước khi xung trận của các chiến binh Xcốt-len cuối thời
Trung Cổ, với mục đích động viên binh sĩ và làm cho quân thù khiếp sợ. Từ này lần
đầu được dùng đến là vào năm 1513. Theo thời gian, từ này được biến đổi thành
sluggorne, slughorn rồi đến slogurn. Ở xã hội hiện đại, cùng với khái niệm mới
nhất “slogan” (khẩu hiệu), từ điển này định nghĩa là “từ, ngữ thu hút sự chú ý được
dùng để quảng bá một cái gì đó (có thể là chiến dịch hoặc sản phẩm)”. Với cách
hiểu như vậy, “slogan” còn được đồng hóa nghĩa với từ “banner” (dải băng, biểu
ngữ) với những nét nghĩa và chức năng tương tự “banner là tên gọi, khẩu hiệu hay
mục đích gắn liền với một nhóm riêng biệt hay một hệ tư tưởng cụ thể”. Trong tự
điển Oxford Advanced Learner’s Dictionary of Current English [63:1201],
Crowther đã định nghĩa rằng “Khẩu hiệu là một từ hoặc một cụm từ dễ nhớ để thu
hút sự chú ý của người khác hoặc đề xuất một ý kiến nhanh chóng”, trong khi Collin
Cobuild’s Advanced Learner’s English Dictionary lại cho rằng “Khẩu hiệu là một
ngữ đoạn ngắn gọn dễ nhớ, được dùng trong quảng cáo hay bởi các đảng phái
chính trị và các tổ chức khác mong muốn người dân nhớ những gì họ nói hoặc rao
2
bán” [60;1363]. Có thể nói cách định nghĩa có tính bao hàm nhất là của Từ điển
American Heritage Dictionary, nơi mà khẩu hiệu được định nghĩa là “một cụm
từ/ngữ thể hiện mục đích hoặc bản chất của một cơ quan, đoàn thể hoặc một ứng cử
viên”; “là câu nói được dùng đi dùng lại nhiều lần trong các chiến dịch quảng cáo
hay quảng bá”; “là câu nói đặc biệt và có chủ đề, dễ thu hút người khác, được dùng
trong quảng cáo, chính trị để vận động cho một sản phẩm, thí sinh hay một nguyên
do nào đó. (phiên bản trực tuyến, tham khảo ngày 10/6/2013). Trong các nghiên
cứu từ thập kỷ 30 (của thế kỷ 20) đến nay về khẩu hiệu, một số tác giả trên thế giới
đã cụ thể hóa các định nghĩa trên của từ điển bằng những liên hệ vào thực tiễn.
Theo họ, khẩu hiệu được xem là một cách ngôn được thiết kế để làm tăng tính phổ
quát của sản phẩm và khuyến khích người khác mua các sản phẩm ở đủ thể loại
[52], [122]; là những diễn đạt ngắn gọn trong quảng cáo thương mại hay quảng bá
chính trị được dùng để thể hiện ý tưởng, mục đích tôn chỉ của một cá nhân hay tổ
chức, đôi khi chỉ để cho người khác nhớ đến [93], [129]; đóng vai trò hỗ trợ quan
trọng trong việc xây dựng hình ảnh của một thương hiệu – là vấn đề sống còn của
một doanh nghiệp [95], [141],[122]; hay giúp lưu lại trong trí nhớ khách hàng-người
tiêu dùng những hình ảnh về một thương hiệu [149]. Như vậy khái niệm khẩu hiệu đã
được định nghĩa và minh họa về chức năng nhiệm vụ trong phạm vi tương đối rộng
về cả chính trị, xã hội, quảng cáo thương mại và cả trong văn hóa, quân sự…
Trong khi đó, ở Việt Nam, khái niệm khẩu hiệu trong từ điển tiếng Việt do
Hoàng Phê chủ biên được hiểu là “một hay nhiều câu ngắn gọn có nội dung tuyên
truyền, cổ động để tập hợp quần chúng, để tỏ quyết tâm để đấu tranh” [32:461], ví
dụ như “Mỗi người làm việc bằng hai!”; trong khi Đại từ điển tiếng Việt của
Nguyễn Như Ý lại định nghĩa khẩu hiệu là “câu ngắn gọn, thôi thúc hành động
nhiều người” [43:894], ví dụ: “Hãy cùng nhau chung tay vì cộng đồng”. Nguyễn
Lân trong từ điển “Từ điển Từ và ngữ Việt Nam” đã định nghĩa khẩu hiệu như sau:
“khẩu hiệu là câu tóm tắt một nhiệm vụ quan trọng, một thái độ chính trị tại một
thời điểm cụ thể, đưa ra để động viên quần chúng” [26]. Còn Đinh Kiều Châu [7]
giải thích “khẩu hiệu là sản phẩm ngôn từ thường dùng trong truyền thông chính trị
và các vận động xã hội”. Tác giả này nêu một số ví dụ như “tất cả cho tiền tuyến,
3
tất cả vì miền Nam”, “Giai cấp công nhân đi đầu trong sự nghiệp cách mạng”... để
minh họa cho định nghĩa hẹp của mình. Tóm lại có thể thấy rằng hầu hết các định
nghĩa về khẩu hiệu đều chú trọng đến yếu tố ngắn gọn của câu nhằm mục đích dễ
ghi nhớ, dễ nắm bắt.
Tùy vào những mục đích cụ thể, khẩu hiệu được định nghĩa theo nhiều cách.
Ví như trong quảng cáo thương mại, khẩu hiệu thương mại của một công ty được
xem là một câu nói hay đoạn văn ngắn chứa đựng và truyền tải những thông tin mang
tính mô tả và thuyết phục về một thương hiệu. Theo đó, khẩu hiệu được xem như một
cách thức quảng bá thương hiệu, là một công cụ cực kỳ hiệu quả trong việc tạo dựng
giá trị thương hiệu. Khẩu hiệu có thể giúp khách hàng hiểu một cách nhanh chóng
thương hiệu đó là gì và nó khác biệt với các thương hiệu khác như thế nào. Khẩu hiệu
có thể đóng góp vào giá trị thương hiệu bằng cách tăng cường nhận thức của khách
hàng về thương hiệu thông qua việc tác động mạnh mẽ đến các lợi ích của họ khi tiêu
dùng sản phẩm, giúp lưu lại hình ảnh của thương hiệu trong trí nhớ của khách hàng
để tạo ra kỳ vọng và thúc đẩy động cơ mua sắm của khách hàng. Đồng thời, khẩu
hiệu còn giúp một công ty khẳng định sự cam kết của họ đối với việc phục vụ khách
hàng và giúp củng cố thương hiệu thông qua xác định sự khác biệt của họ với các
công ty khác trên thị trường. Ví dụ như khẩu hiệu quảng cáo của công ty in ấn thiệp
chúc mừng Hallmark “When you care enough to send the very best” (Khi mà bạn có
đủ quan tâm để gửi đi những gì tốt đẹp nhất). Bên cạnh khẩu hiệu quảng cáo, còn có
một lĩnh vực khác chiếm vị trí quan trọng trong đời sống xã hội của các quốc gia trên
thế giới, đó là khẩu hiệu chính trị - xã hội. Với mục đích tuyên truyền các chính sách xã
hội và mục tiêu chính trị, khẩu hiệu chính trị - xã hội được xem là những “tuyên ngôn”
của các nhà hoạch định chính sách, cơ quan quyền lực nhà nước hay các nhóm cá nhân
mong muốn thể hiện quyền thuyết phục, vận động người khác làm theo những đường
lối, ý muốn của họ. Ví dụ: “Hãy chung tay vì cộng đồng.”, “Smoking takes life. Then it
kills.” (Hút thuốc tước đi cuộc sống. Rồi nó mới giết chết.)
Trên cơ sở tiếp thu các định nghĩa trên đây và vì luận án đặt mục tiêu tập
trung phân tích diễn ngôn đối với thể loại khẩu hiệu chính trị - xã hội, bản thân tác
giả có thể rút ra một định nghĩa khái quát nhất làm cơ sở cho nhiệm vụ nghiên cứu
4
KH CT-XH tiếng Anh và tiếng Việt của luận án sau này là “Khẩu hiệu chính trị -
xã hội là thể loại diễn ngôn đặc biệt với lối diễn đạt súc tích, ngắn gọn, dễ nhớ
được dùng bởi các tổ chức chính trị - xã hội và các nhóm cá nhân để kêu gọi,
tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục người khác làm theo các đường
hướng, chính sách của họ nhằm thay đổi hiện trạng sống hay các thực tiễn chính
trị - xã hội ở các quốc gia.”
1.1.1.2. Tiêu chí để xác định khẩu hiệu nói chung và KH CT-XH nói riêng
Tiêu chí hình thức của khẩu hiệu - căn cứ vào các chức năng, vai trò, ý nghĩa
nói trên - là các phát ngôn ngắn gọn, có tính cố định để thực hiện chức năng hô hào,
vận động và đảm bảo tính dễ nghe, dễ nhớ. Các phát ngôn này phải ngắn gọn để có
thể trình bày ra trước công chúng không phải chỉ ở lời nói (hô khẩu hiệu) mà còn là
để in ấn trên các băng-rôn, biểu ngữ cho các đoàn người diễu hành mang theo nơi
công cộng trong các đợt tuyên truyền. Hơn nữa, phát ngôn khẩu hiệu phải có tính cố
định bởi chúng được các cơ quan chức năng hay người phát ngôn biên soạn có chủ
ý tuyên truyền giáo dục hay thuyết phục, được sử dụng đi sử dụng lại nhiều lần cho
một chủ điểm tuyên truyền, và được chịu trách nhiệm về mặt tư tưởng và ý định của
người phát ngôn. Chính vì thế, khẩu hiệu được phân biệt với các phát ngôn tự do
(free utterances/ expressions) như “Bush, I don’t like you.” (“Tổng thống Bush, tôi
không thích ông.”) hoặc “You aren’t my choice.” (Ông không phải là lựa chọn của
tôi”) mà một số người biểu tình chống đối tổng thống G. Bush (NK 2005-2009) đã
viết trên những tờ giấy nhỏ và mang đến cắm trước tòa nhà Capitol Hill ở
Washington D.C, Hoa Kỳ tháng 3 năm 2005. Trường hợp đặc biệt, khẩu hiệu có thể
là những phát ngôn khá dài với nhiều từ ngữ so với tiêu chuẩn ngắn gọn của khẩu
hiệu, đó là trường hợp của các KH CT-XH tuyên truyền cho các hoạt động chính trị
- bầu cử trong tiếng Việt. Vì tính chất tuyên truyền của các KH CT-XH này là chiến
lược quan trọng của nhà nước, và vì chúng được lưu lại tại các trụ sở chính quyền
và trên các tuyến phố trong một thời gian khá lâu, với mục đích giáo dục và tuyên
truyền nhận thức cho người dân (chứ không phục vụ cho mục đích hô hào) nên có
thể có độ dài đáng kể, ví như trong trường hợp khẩu hiệu “Bầu cử đại biểu Quốc hội
5
khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 là trực tiếp
góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân!”
Tuy nhiên, cho dù bao hàm các phát ngôn ngắn hay dài thì khẩu hiệu vẫn
được xem là diễn ngôn và là một thể loại diễn ngôn đặc biệt. Các phát ngôn trong
khẩu hiệu là những phát ngôn có chủ đích với đầy đủ các chức năng giao tiếp trọn
vẹn và chứa đựng một thông điệp cần chuyển tải. Vì thế độ dài của văn bản khẩu
hiệu không phải là yếu tố quyết định việc khẩu hiệu có phải là diễn ngôn hay không,
mà chính các giá trị giao tiếp trong những bối cảnh chính trị xã hội nhất định của
khẩu hiệu đã xác nhận vấn đề đó, cũng như các thể loại diễn ngôn khác mà nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm như diễn ngôn thơ, diễn ngôn chính trị, diễn ngôn tin…
Sau đây là một số đặc điểm về hình thức KH CT-XH
1.1.1.2.1. Kết cấu ngữ pháp
KH CT-XH là thể loại diễn ngôn tương đối ngắn gọn nên các kết cấu ngữ
pháp của nó cũng tuân thủ các nguyên tắc của thể loại diễn ngôn đặc biệt này.
Thông thường, KH CT-XH có thể thuộc một trong số các kết cấu ngữ pháp sau đây:
(a) Diễn ngôn đơn (văn bản một câu)
- Câu cầu khiến: loại kết cấu này hầu như chiếm lĩnh chủ yếu kiểu cấu trúc của KH
CT-XH. Vì tính chất hô hào, kêu gọi, thuyết phục, nên khẩu hiệu đa số đều được
biên soạn với cấu trúc câu cầu khiến.
Ví dụ: Hãy hành động vì một hành tinh xanh!
Don’t be a fool, use the proper tool !
- Câu tuyên bố/ thông báo: với chức năng thông tin, các kiểu câu tuyên bố, thông
báo cũng là một phần quan trọng của kết cấu ngữ pháp của khẩu hiệu.
- Câu đơn - khẩu hiệu được tạo thành bởi một kết cấu Chủ - Vị
Ví dụ: The safe way is the best way.
Trẻ em có quyền được đến trường.
- Câu phức - khẩu hiệu được tạo thành bởi từ hai kết cấu Chủ - Vị trở lên
Ví dụ: You’re a fool if you think smoking is cool.
6
Rừng là tài sản vốn quý, chúng ta phải bảo vệ rừng.
(b) Diễn ngôn phức (văn bản từ hai đến bốn câu)
Khẩu hiệu được cấu tạo dưới dạng thức văn bản dài hầu như rất hiếm gặp.
Thông thường, để đạt được tính dễ nhớ, khẩu hiệu được thiết kế khoảng từ một đến
bốn câu. Trong thực tế, diễn ngôn khẩu hiệu phức gồm hai câu là khá phổ biến,
trong khi ba, bốn câu thì hơi hiếm gặp. Tuy nhiên, vấn đề cấu tạo văn bản hay tính
chất diễn ngôn không phải quá “câu nệ” số câu trong văn bản đó. Đã có nhiều công
trình nghiên cứu đề cập việc công nhận văn bản một câu, tuy nó hiếm gặp [4] và nó
được xem là văn bản đặc biệt [116].
Diễn ngôn phức trong trường hợp này được xác định là các văn bản có độ dài
từ hai đến bốn câu. Một số ví dụ diễn ngôn phức của KH CT-XH có thể kể đến là:
Ví dụ:
- Đến với Vườn Quốc gia Cúc Phương, bạn hãy:
* Không lấy gì ngoài những bức ảnh!
* Không để lại gì ngoài những dấu chân!
* Không giết gì ngoài thời gian!
(Tuyên truyền trên bảng tin ở Vườn quốc gia Cúc Phương)
- Phía trước tay lái là cuộc sống. Nhanh một phút, chậm cả đời.
- An average smoker will smoke this (*) away in just a few years. Smoking is an
expensive habit. Please quit. (Trung bình một người hút hết chừng này thuốc trong
chỉ một vài năm. Hút thuốc là một thói quen tốn nhiều tiền. Hãy bỏ hút thuốc.)
(c) Dạng thức kết cấu đặc biệt
Ngoài ra, các kết cấu ngữ pháp trên đây có thể thuộc vào các dạng thức kết cấu
đặc biệt. Đây là kiểu khẩu hiệu điệp vần, hoặc biểu đạt theo kiểu thành ngữ/ tục ngữ. Với
những kiểu thức đặc biệt như thế, KH CT-XH đạt được sự gần gũi về văn phong và văn
hóa, phong tục, tập quán... nên càng có giá trị cao trong việc đi vào lòng người dân.
(*) Khẩu hiệu này đi kèm hình ảnh của chiếc xe hơi được làm từ hàng triệu điếu thuốc lá sắp
chung quanh tạo nên vỏ xe, để nâng giá trị thuyết phục của sự tốn kém. Trường hợp này trong phân
tích diễn ngôn được gọi là “multimodal dimension” (theo hướng đa bình diện- kết hợp nhiều hính
thức ký hiệu diễn ngôn)
7
Ví dụ: - Đi bên phải, lẽ phải về ta.
- Người Hà Nội, đi đâu mà vội.
- Drinking kills driving skills.
Hơn nữa, KH CT-XH tuân thủ những nguyên tắc về mặt kết nối, liên kết
trong diễn ngôn và sử dụng một số phép liên kết như: tỉnh lược, thế, đối, lặp..., cụ
thể như trong một số ví dụ sau đây:
- More candy, less climate change (tỉnh lược)
- An toàn để sản xuất - sản xuất phải an toàn (đối)
- Save the world, save yourself (lặp)
- Rừng là vàng, chúng ta phải gìn giữ nó như tài sản của mỗi người (thế)
1.1.1.2.2. Ngôn ngữ KH CT-XH
Ngôn ngữ khẩu hiệu có một vài đặc điểm chuyên biệt khi phân biệt với ngôn
ngữ của các thể loại diễn ngôn khác. Riêng khái niệm khẩu hiệu hiểu theo tiếng Hán
Việt, thì “khẩu” là miệng cho nên khẩu hiệu là những câu có tính hô hào bằng
miệng. Đã là câu hô hào bằng miệng thì nhất thiết phải ngắn gọn, không dài dòng để
dễ phát ngôn và đồng thời để cho người nghe dễ nắm bắt, dễ nhớ... dẫn đến dễ tác
động, dễ kêu gọi. Ở một vài từ điển ngoài định nghĩa khái niệm khẩu hiệu, còn nhấn
mạnh rằng ngôn ngữ của khẩu hiệu bao hàm lối diễn đạt ngắn gọn, súc tích và có
tác dụng thôi thúc hành động, kêu gọi, tuyên truyền... Theo Lipman, một công ty
quảng cáo có tên là Jordan McGrath, Case & Taylor đã phát triển thủ thuật “mẹo
nhớ” (mnemonics) nhằm giúp cho mọi người dễ nhớ những tên gọi, con số hay
những hình ảnh liên quan đến việc quảng bá sản phẩm của họ [104]. Điều này có
nghĩa đã là khẩu hiệu, thì nhất thiết phải dễ đọc, dễ hô và muốn làm được điều này,
nhất thiết người đọc, người hô phải có thể nhớ hết những nội dung hay thông điệp
chuyển tải. Đinh Kiều Châu [7] cho rằng ngôn ngữ khẩu hiệu là một hình thái giao
tiếp bằng lời trên cơ sở ngôn ngữ toàn dân. Với các chức năng của một sản phẩm
truyền thông như đã nêu trên, ngôn ngữ khẩu hiệu thường ngắn gọn, dễ đọc, dễ nhớ;
súc tích, cô đọng để có tính trọng tâm, và có tiêu điểm thông tin; được cụ thể hóa
dưới dạng hành động ngôn từ cụ thể và mang chức năng liên nhân; và khẩu hiệu
8
phải là các biểu ngôn có chiến lược giao tiếp, gắn với từng ngữ cảnh cụ thể, có tính
lịch sự và mang đặc trưng văn hóa bản ngữ.
Vì đối tượng tiếp nhận sự vận động từ KH CT-XH là người dân, là cộng
đồng nên khẩu hiệu phải bao gồm các phát ngôn có tính đại chúng, phổ thông và
đặc trưng cho đơn vị phát hành. Từ các mục đích phát ngôn của đơn vị phát hành
mà các chức năng ngôn từ của KH CT-XH được xác lập. Các yêu cầu cơ bản về mặt
ngôn ngữ của khẩu hiệu, do đó, phải “ ngắn gọn - dễ hiểu - dễ nhớ” và phải làm
được chức năng “thông báo - vận động - thuyết phục”. Ngoài ra một trong những
đặc trưng ngôn ngữ quan trọng khác của ngôn ngữ KH CT-XH đó là phải gắn với
ngữ cảnh giao tiếp, dùng biện pháp tuyên truyền thông qua hành động ngôn từ và
dựa trên nền tảng bối cảnh chính trị - văn hóa - xã hội.
1.1.1.2.3. Chức năng của KH CT-XH
Mô hình của Jakobson [88] (trong Hebert [86]) về chức năng của ngôn ngữ
bao gồm sáu yếu tố, nhằm đảm bảo cho giao tiếp có thể xảy ra, đó là (1) ngữ cảnh;
(2) người gửi; (3) người nhận; (4) tiếp xúc; (5) mã thông thường và (6) thông điệp.
Trên cơ sở đó, ngôn ngữ thực hiện các chức năng sau: (a) tham chiếu; (b) xúc cảm,
(c) nhận cảm; (d) kết nối; (e) siêu ngôn ngữ và (f) thi pháp. Đây chính là các chức
năng cơ bản nhất mà ngôn ngữ có thể thực hiện để phục vụ mục đích giao tiếp.
Một trong những mục đích rõ rệt nhất của KH CT-XH là đưa thông điệp của
người phát ngôn đến với cộng đồng, làm cho mọi người nhớ và trở nên quen thuộc
với thông điệp. Đó có thể là thông tin về sản phẩm, dịch vụ, thí sinh, ứng cử viên hay
một chương trình cộng đồng nào đó. Để đạt được mục đích tuyên truyền, khẩu hiệu
của một đơn vị phải có sự khác biệt với các kiểu thông tin tuyên truyền khác hoặc
khác với đơn vị đang cạnh tranh với mình; trong khi vẫn phải đảm bảo các yếu tố về
chức năng tuyên truyền và thông báo.
Vì thế, với tư cách là một công cụ hoặc sản phẩm tuyên truyền, KH CT-XH
cần có 2 chức năng chủ yếu là thông tin và tác động. Barton [50] khẳng định khẩu
hiệu giúp chia sẻ thông tin và quan điểm đối với thông tin đó; đồng thời tác động để
thiết lập sự liên kết giữa các thành viên cũng như điều phối các vấn đề phức tạp
9
giữa họ. Quả thực, KH CT-XH có nhiệm vụ thông tin để cho người tiếp nhận thông
điệp hiểu được thông điệp, qua đó tác động, thuyết phục cộng đồng làm theo, hướng
tới những giá trị mà người ban hành thông điệp muốn nhắm đến. Các chức năng này
khi được “soi chiếu” vào thuyết Hành động ngôn từ, được thể hiện bởi một số tiểu
chức năng cụ thể như:
(1) Chức năng thông tin - thông báo
Ví dụ: - Trái đất của chúng ta đang nóng dần lên.
- Rửa tay có thể cứu được bệnh nhân. (kết hợp biện pháp nói quá)
(2) Chức năng vận động - thuyết phục
Ví dụ: - Tiết kiệm điện là ích nước lợi nhà (lời khuyên gián tiếp)
- Hãy nói không với ma túy (lời khuyên trực tiếp)
(3) Chức năng cảnh báo - đe dọa
Ví dụ: - Lái xe lạng lách, đánh võng gây tai nạn là tội ác.
- Để xe mô tô gắn máy ở lòng đường bị phạt tiền đến 200.000 đ
(4) Chức năng hô hào - kêu gọi
Ví dụ: - Hãy hành động vì một tương lai xanh
- Giúp đỡ, chăm sóc người nhiễm HIV/ AIDS là trách nhiệm của gia đình và
cộng đồng
(5) Chức năng động viên - khuyến khích
Ví dụ: - Luôn rèn luyện, xây dựng lối sống lành mạnh, không sa vào tệ nạn
xã hội
- Sống chung thủy một vợ - một chồng, phòng tránh bệnh AIDS
(6) Chức năng khẳng định giá trị thực - Chân/ Thiện/ Mỹ
Ví dụ: - Tuân thủ luật giao thông đường bộ là nét đẹp của người tham gia
giao thông
- Mỗi Thầy Cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học, sáng tạo.
Đinh Kiều Châu [7:105] nhận xét “trong lĩnh vực chính trị khẩu hiệu thường
được sử dụng như một công cụ tuyên truyền hiệu quả có sức thu hút cao…”. Đây
chính là chức năng tuyên truyền - chức năng quan trọng nhất của KH CT-XH mà
những người ban hành luôn chú ý để sử dụng ngôn ngữ một cách phù hợp, đạt hiệu
quả cao nhất.
10
Khẩu hiệu là sản phẩm của ngôn ngữ truyền thông
Truyền thông là quá trình truyền đạt, tiếp nhận và trao đổi thông tin nhằm
thiết lập các mối liên hệ giữa con người với con người; là một kiểu tương tác xã hội
trong đó có ít nhất hai đối tượng giao tiếp tương tác lẫn nhau. Khi phân tích một sản
phẩm truyền thông người ta thường chú trọng vào nội dung, hình thức và mục tiêu.
Nội dung truyền thông bao gồm các hành động trình bày kinh nghiệm, hiểu biết,
đưa ra lời khuyên hay mệnh lệnh. Các hành động này được thể hiện qua nhiều hình
thức như bài phát biểu, bài viết, hay bản tin truyền hình. Hầu hết các sản phẩm
truyền thông xã hội đều sử dụng phương tiện nghe - nhìn để truyền tải nội dung mà
ngôn ngữ thể hiện. Đinh Kiều Châu [7: 36] nêu những nguyên tắc để thiết kế thông
điệp hàm chứa bên trong sản phẩm truyền thông xã hội, đó là: truyền tải được nhiều
thông tin; lôi cuốn được đông đảo quần chúng tham gia vào mục tiêu; đạt được khả
năng làm thay đổi suy nghĩ, hành vi...
Truyền thông có thể được thực hiện trong các nhóm nhỏ (một vài cá nhân)
nhưng cũng có thể là sự trao đổi giữa những nhóm lớn hơn như tổ chức, công ty hay
cộng đồng. Ở mức độ cao hơn, truyền thông đại chúng là hình thức gửi thông điệp
đến một lượng rất lớn các cá nhân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Ngôn ngữ của các sản phẩm truyền thông là sự kết hợp thể hiện các chức năng
thông tin, tác động và liên nhân. Để chuyển tải nội dung thông điệp, chức năng
thông tin phải được tối ưu hóa bằng các hình thức ngôn ngữ như lựa chọn từ ngữ,
ngữ nghĩa, kết cấu ngữ pháp, liên kết văn bản. Ngoài ra, để truyền thông thực sự
được tiếp nhận bằng con đường tự nguyện; làm tốt chức năng tác động, ngôn ngữ
truyền thông phải nhắm đến các đối tượng chủ đích để hướng thay đổi hành vi hay
nhận thức... thông qua việc sử dụng hành động ngôn từ và những biện pháp tu từ
khác. Ngoài ra, truyền thông là để thay đổi nhận thức và hành vi, nên yếu tố con
người và sự hiểu biết lẫn nhau là yếu tố không thể thiếu. Giao tiếp liên nhân hay
chiến lược giao tiếp chính là nền tảng cốt lõi của vấn đề lựa chọn và thể hiện ngôn
ngữ trong các sản phẩm truyền thông.
11
Từ các tính chất, đặc điểm của truyền thông cũng như vai trò của nó trong
đời sống chính trị xã hội, có thể nói rằng KH CT-XH có đủ điều kiện để trở thành
một sản phẩm của ngôn ngữ truyền thông.
1.1.1.2.4. Chủ đề của KH CT-XH
Rất nhiều nhà nghiên cứu về tuyên truyền và truyền thông cho rằng đối với
KH CT-XH cần thiết nhất vẫn là tính chủ đề hay tính thời sự (topical). Chủ đề của
KH CT-XH phản ánh tác động của điều kiện chính trị - xã hội của mỗi quốc gia đến
cách vận động, thuyết phục người dân. Rõ ràng, các đặc điểm chính trị, văn hóa, xã
hội đã có những ảnh hưởng nhất định đến chủ đề của KH CT-XH ở mỗi nước. Ngoài
ra, cũng do các tác động văn hóa - xã hội của mỗi quốc gia mà chủ đề của KH CT-
XH còn có tính cá biệt về thời điểm xuất hiện, trong một số hoàn cảnh đặc biệt như
khẩu hiệu kêu gọi kháng chiến của Việt Nam trong giai đoạn 2 cuộc đấu tranh chống
Pháp và chống Mỹ; khẩu hiệu phòng chống cháy rừng (xuất hiện ở Việt Nam từ
năm 2012); khẩu hiệu về “cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh” (xuất hiện ở Việt Nam từ năm 2010); hay khẩu hiệu biểu tình trên
phố Wall - New York thời khủng hoảng kinh tế (giai đoạn 2009-2011) và khẩu
hiệu tẩy chay súng đạn mới xuất hiện gần đây ở một số tiểu bang ở Mỹ sau hàng
loạt vụ việc bê bối liên quan đến việc các cá nhân có quyền sở hữu và sử dụng
súng xảy ra (cuối năm 2012).
Nhìn vào mức độ phổ biến về chủ đề của KH CT-XH, người ta có thể đoán
được mục tiêu tuyên truyền, quảng bá của một quốc gia ở một thời điểm cụ thể là
gì; các chiến lược mục tiêu quốc gia trọng tâm và thường niên hay của một năm cụ
thể ra sao; và đâu là chương trình tuyên truyền cần thiết của một tổ chức.
Chủ đề của KH CT-XH cũng được thể hiện chủ yếu thông qua tập hợp từ ngữ
thuộc một hệ thống nhất định. Ví dụ, chủ đề là an toàn lao động thì khẩu hiệu tuyên
truyền cho chủ đề này phải bao gồm các cụm từ ngữ như an toàn, tai nạn, cẩn trọng,
kiểm tra, giám sát, an ninh, phòng chống, cháy nổ v.v... hoặc chủ đề là môi trường
(environment) thì trong KH CT-XH tiếng Anh thường có các từ ngữ như pollution,
pollutants, polluted, clean, non-toxic, emission,gas, water, land, protect, save, energy,
12
sources, filter, ozone layer.... Hơn thế, các từ ngữ này còn xuất hiện với tần số cao và
được lặp đi lặp lại nhằm chủ ý nhấn mạnh chủ đề tuyên truyền của KH CT-XH.
1.1.1.3. Phân loại khẩu hiệu
Có hai dạng khẩu hiệu chủ yếu, đó là khẩu hiệu quảng cáo và khẩu hiệu
chính trị - xã hội. Cần phân biệt rõ giữa khẩu hiệu quảng cáo và khẩu hiệu chính trị
- xã hội về mặt vai trò, ý nghĩa, và chức năng. Nếu khẩu hiệu quảng cáo là những
câu nói (có thể kèm hình ảnh) tác động vào đối tượng người tiêu dùng, sử dụng sản
phẩm để họ nhớ tới sản phẩm, dịch vụ của nhà sản xuất; đôi khi là những câu hóm
hỉnh, hài hước để đạt mục đích dễ nhớ… thì khẩu hiệu chính trị - xã hội là những
câu nói thuộc dạng “tuyên ngôn” của các tổ chức chính trị - xã hội. Ngôn ngữ KH
CT-XH cần thiết phải ngắn gọn nhưng phải trau chuốt, có tính vận động-tuyên
truyền cao, và có khả năng tác động trực tiếp vào tinh thần thái độ, nhiệm vụ, tính
tự giác, tính cộng đồng của người dân. Khẩu hiệu chính trị - xã hội có nhiệm vụ
“nặng nề” hơn khẩu hiệu quảng cáo là ở chỗ, nó tác động vào đối tượng toàn dân,
và tạo ra hiệu quả cho toàn bộ nền chính trị, kinh tế - xã hội để thực hiện những
nhiệm vụ mang tính quốc gia và chiến lược dài lâu. Đây là công cụ và là kênh
truyền thông hiệu quả của các tổ chức chính trị - xã hội trong các cuộc vận động,
các chương trình, chiến dịch quốc gia mà các nhà lãnh đạo các tổ chức nói trên đặt
biệt quan tâm sử dụng. Trong khi đó, tác động của khẩu hiệu quảng cáo chỉ nhắm
đến đối tượng người tiêu dùng và hiệu quả của khẩu hiệu quảng cáo cũng chỉ phục
vụ đối tượng nhà sản xuất.
1.1.2. Diễn ngôn và phân tích diễn ngôn
Khái niệm diễn ngôn được các nhà ngôn ngữ học định nghĩa theo nhiều cách
khác nhau. Nếu các nhà cấu trúc luận quy diễn ngôn cho một loại đơn vị nào đó như
câu, đoạn văn, chương sách… thì các nhà chức năng luận lại xem xét khái niệm này
một cách tổng thể hơn như ngôn ngữ hành chức hay tương tác xã hội. Diễn ngôn
(discourse) trong thực tế thường đi kèm với một khái niệm song hành khác là văn
bản (text). Foucault quy khái niệm diễn ngôn cho cách kiến tạo tri thức, cùng với
thực tiễn xã hội, những hình thái khách quan và quan hệ quyền lực gắn với các tri
13
thức và quan hệ giữa chúng [73]. Widdowson [156] đồng nghĩa hóa diễn ngôn với
cách dùng chuỗi các câu để tạo nên các hành vi giao tiếp nối kết thành các đơn vị
giao tiếp lớn hơn. Brown & Yule [54] coi diễn ngôn hay văn bản là sự thể hiện ngôn
từ của một hành động giao tiếp. Trong khi đó, Crystal [56] cũng nhấn mạnh yếu tố
chuối ngôn ngữ liên tục lớn hơn câu trong diễn ngôn. Halliday & Hasan [84:10] chỉ
đơn giản định nghĩa diễn ngôn gắn với chức năng giao tiếp của nó, đó là “văn bản
(hay diễn ngôn) là đơn vị ngôn ngữ chức năng giao tiếp”. Cho dù bằng cách này hay
cách khác, các định nghĩa về diễn ngôn cũng tập trung vào các khía cạnh chuỗi
nhiều câu liên tục và chức năng giao tiếp của ngôn ngữ của văn bản đó. Cũng từ
khái niệm này, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra các hướng dẫn cho công tác phân
tích diễn ngôn (PTDN). Theo đó, những đặc điểm chung nhất của phân tích diễn
ngôn, theo Nunan [115], Brown & Yule [54], Paltridge [116] là
- PTDN là miêu tả cách khám phá các cơ chế cấu trúc mà người viết/người nói
xử lý khi phát ngôn; tập trung vào kiến thức về ngôn ngữ vượt ra khỏi phạm vi từ,
ngữ, cú và câu cần thiết cho cuộc giao tiếp thành công.
- PTDN là làm rõ những gì chúng ta đọc được trong các văn bản, hiểu được
những gì người phát ngôn nói, nhận biết được những chuỗi câu liên kết và mạch lạc,
cũng như có thể tham gia vào các cuộc hội thoại một cách thành công.
- PTDN là phân tích chức năng ngôn ngữ và cách nó chi phối các quan niệm
và nhận thức, cách nó phân phối quyền lực cho những người có ít quyền hơn.
- PTDN là nghiên cứu những biểu thức ngôn ngữ và quan tâm đến mối quan
hệ giữa ngôn ngữ và bối cảnh văn hóa - xã hội; là tìm hiểu cách mà ngôn ngữ thể
hiện những cách nhìn và cách hiểu khác nhau về thế giới. PTDN còn xem xét
phương thức mà ngôn ngữ bị chi phối bởi mối quan hệ giữa các thành viên cũng
như xem xét tác động của việc sử dụng ngôn ngữ lên các mối quan hệ xã hội.
Có nhiều lĩnh vực thuộc nội hàm của diễn ngôn. Tuy nhiên, trong khuôn khổ
của luận án, chúng tôi chỉ đề cập đến khái niệm diễn ngôn nói chung và diễn ngôn
với tư cách là một tập quán xã hội cũng như diễn ngôn phản ánh tập quán xã hội mà
nó là một bộ phận. Trên cơ sở đó, luận án xem xét KH CT-XH với tư cách là một
14
thể loại diễn ngôn đặc biệt và chọn phân tích diễn ngôn KH CT-XH thông qua áp
dụng các phương pháp và nguyên lý của phân tích diễn ngôn để tiến hành phân tích
diễn ngôn KH CT-XH chính trị - xã hội tiếng Anh và tiếng Việt. Ngoài việc tuân
thủ các nguyên tắc cơ bản của công việc phân tích diễn ngôn, luận án còn áp dụng
đường hướng phân tích diễn ngôn phê phán để nhận diện rõ cơ chế quyền lực trong
diễn ngôn mà các chi tiết về phương thức tiếp cận cũng như phương pháp luận sẽ
được đề cập trong mục 1.2 dưới đây.
1.2. Những cơ sở lý luận chủ yếu và liên quan được áp dụng để phân tích diễn
ngôn khẩu hiệu
Nghiên cứu về khẩu hiệu đã được một số nhà nghiên cứu trên thế giới và ở
Việt Nam quan tâm từ lâu. Nếu không xét đến tính chất chuyên biệt của mỗi loại
khẩu hiệu, thì cả khẩu hiệu quảng cáo và khẩu hiệu chính trị - xã hội đều được quan
tâm nghiên cứu bằng cách sử dụng các lý thuyết khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn là
theo cách tiếp cận cấu trúc luận. Xuất phát từ những luận điểm của học thuyết
Saussure coi ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu võ đoán và đối tượng nghiên cứu của
ngôn ngữ là hệ thống ngôn ngữ; hay quan điểm của Chomsky coi đối tượng của ngôn
ngữ là tri năng (competence) chứ không phải là dụng năng (performance), chủ nghĩa
cấu trúc luận tồn tại trong nhiều thập kỷ và kết quả là hầu hết các nghiên cứu trên đối
tượng khẩu hiệu cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó. Các khung lý thuyết được sử
dụng để phân tích các đối tượng như khẩu hiệu và những thể loại tương đương…
trong những năm trước thập kỷ 70 ở các nước khác trên thế giới và trong khoảng
những năm đầu của thế kỷ 21 khi trào lưu phân tích các đối tượng nói trên trở nên nở
rộ ở Việt Nam vẫn chủ yếu đi theo trường phái cấu trúc luận. Không thể phủ nhận
rằng các khung lý thuyết này đã một thời gian “thống trị” công việc nghiên cứu và
phân tích các đặc điểm ngôn ngữ và đã để lại nhiều kết quả quan trọng trong phân
tích ngôn ngữ, nhưng Firth, Halliday và một số học giả khác vẫn cho đây là cách nhìn
phiến diện đối với bản chất ngôn ngữ. Những đổi thay biện chứng của xã hội loại
người đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận ngôn ngữ như một nguồn lực và hành động.
Các nguồn lực ngôn ngữ này được sử dụng trong các tình huống xã hội nhất định, và
ngôn ngữ phải là một công cụ giao tiếp, thực hiện các siêu chức năng như kinh
15
nghiệm, liên nhân và tạo văn bản. Ngoài các phê bình đến từ Bakhtin, Firth, Halliday
và Hymes, Brown & Yule [54] còn khẳng định tính chất “chức năng” của ngôn ngữ
bằng nhận xét “Phân tích diễn ngôn nhất thiết là sự phân tích ngôn ngữ hành chức”.
Từ thách thức này, hệ cấu trúc luận buộc phải nhường chỗ cho một cách tiếp cận mới,
đó là hệ chức năng luận với các hướng tiếp cận ngôn ngữ như xã hội học, dụng học,
ngôn ngữ học xã hội… Tuy nhiều nhà nghiên cứu đã đối lập hai hệ và chỉ ra những
ưu thế vượt trội của hệ chức năng luận, song Nguyễn Hòa [19] lại đề xuất sự kết hợp
của hai hệ hình nghiên cứu này, vì “khó có thể tách bạch giữa cấu trúc và chức năng”
[16:275]. Từ đây, chúng tôi chọn lý thuyết phân tích diễn ngôn phê phán (CDA) làm
khung lý thuyết cho nghiên cứu KH CT-XH trong luận án của mình, bởi lẽ CDA là
một đại diện tiêu biểu cho trường phái nghiên cứu theo hệ chức năng luận. Hơn thế,
CDA không phải chỉ là những phê bình theo cảm tính mà nó được dựa trên căn cứ
ngôn ngữ học và nó quan tâm đến mối quan hệ quyền lực xã hội và vai trò của diễn
ngôn trong đời sống xã hội.
1.2.1. Những luận điểm cơ bản của Lý thuyết phân tích diễn ngôn phê phán
(Critical Discourse Analysis - CDA)
Khuynh hướng phát triển của các trường phái ngôn ngữ học kể từ những năm
50 đến cuối thể kỷ XX đã có nhiều chuyển biến đáng kể, đặc biệt là việc chủ nghĩa
cấu trúc luận với đối tượng nghiên cứu là hệ thống ngôn ngữ và tri năng
(competence) đã lộ rõ khiếm khuyết là ít quan tâm đến khía cạnh sử dụng của ngôn
ngữ... đã dần nhường bước cho xu hướng chức năng luận với các trường phái lý
thuyết chủ yếu là phân tích diễn ngôn, dụng học, ngữ nghĩa học, ngôn ngữ học chức
năng và phân tích diễn ngôn phê phán. Nguyễn Hòa [19] cho rằng sự chuyển mình
này là tất yếu và đang trở thành trào lưu nổi trội hiện nay, nhưng không thể phủ
nhận giá trị đóng góp nhất định của đường hướng cấu trúc luận bởi cho dù chức
năng luận đã giải quyết được vấn đề khía cạnh sử dụng ngôn ngữ thì với cấu trúc
luận, tính tổ chức của ngôn ngữ đã được định danh và sẽ làm nền tảng cho những
hiểu biết của con người về bản thể ngôn ngữ và việc phân tích ngôn ngữ về sau.
Từ việc ra đời của Phân tích diễn ngôn trong môi trường Chức năng luận,
đường hướng Phân tích diễn ngôn phê phán (PTDNPP) - Critical Discourse
16
Analysis (CDA) (là một đại diện của Khoa học phê phán) đã được hình thành từ
những năm 70 của thế kỷ XX trên nền tảng của Ngữ pháp chức năng và được xem
là “một hướng tiếp cận, hệ lý luận, giải quyết các vấn đề xã hội, hệ tư tưởng, thái
độ…” [17:14]. Các nhà ngôn ngữ học chính đã có công trong việc đặt nền tảng cho
đường hướng này cũng như sau này đã họp bàn và tạo ra mạng lưới các nhà nghiên
cứu Diễn ngôn phê phán là Kress & Hodge [97], van Dijk [142], Fairclough [68] và
Wodak [154]. Trong số các nhà khoa học đó, van Dijk là người có nhiều công lao
nhất và đã có nhiều bài nghiên cứu, đã định nghĩa, định danh cho hướng tiếp cận
Diễn ngôn Phê phán từ thuở khai sinh đến những giai đoạn phát triển về sau.
Có nhiều học giả đã định nghĩa hoặc lý giải ý nghĩa cơ bản của CDA, nhưng
tựu trung lại các định nghĩa hay giải thích đều hướng đến những giá trị chính của
đường hướng này như nghiên cứu có phê phán, phân tích diễn ngôn có thái độ, xem
xét vai trò của diễn ngôn trong việc tạo ra và tái tạo quyền lực. Có thể hiểu CDA
một cách cơ bản nhất thông qua phát biểu của Fairclough [69]:
“Phân tích diễn ngôn phê phán, theo tôi, là phân tích diễn ngôn nhằm mục
đích khám phá có hệ thống các mối quan hệ không rõ ràng của tính nguyên nhân và
quy định giữa thực tế suy diễn, sự kiện và văn bản với các cấu trúc xã hội và văn
hóa, các mối liên hệ và quá trình rộng hơn; nhằm xem xét các thực tiễn, sự kiện và
văn bản như thế được phát sinh hay định hình bởi các mối quan hệ về quyền lực và
đấu tranh để đạt được quyền lực như thế nào; và nhằm khám phá bằng cách nào
mà tính không rõ ràng của các mối quan hệ giữa diễn ngôn và xã hội lại là một yếu
tố đảm bảo cho việc tranh giành quyền lực và quyền bá chủ.” [69:132]:
Từ khi ra đời, CDA đã đặt trọng tâm vào việc phân tích quan hệ quyền lực
“được thể hiện, tái tạo hay bị phản kháng qua văn bản và hội thoại trong hoàn cảnh
xã hội và chính trị” [18:20]. Các cơ sở lý thuyết chính của CDA bao gồm (1) quan
niệm bắt nguồn từ chủ nghĩa hậu cấu trúc luận, trong đó diễn ngôn được xem là
đang họat động bên cạnh các thiết chế và văn bản có vai trò kiến tạo và định hình
các hành động và đặc điểm riêng của con người; (2) lý luận xã hội học của
Bourdieu (lý luận này khai thác sự hiểu biết về thói quen sử dụng diễn ngôn cùng
mối tương quan với văn bản đã trở thành các hình thức “tư bản văn hóa” gắn với giá
17
trị trao đổi trong các lĩnh vực xã hội cụ thể); và (3) lý luận văn hóa Marxist – coi
diễn ngôn là kết quả được tạo ra và sử dụng trong các hệ thống kinh tế - chính trị và
rằng diễn ngôn tạo ra và thể hiện các hình thái xã hội cũng như lợi ích tư tưởng.
Phân tích diễn ngôn phê phán có nguồn gốc và mối quan hệ với khoa học phê
phán hay Ngôn ngữ học phê phán (Critical Linguistics), mà theo trường phái
Frankkfurt hay Habernas, “phê phán” chính là làm rõ tính quan hệ của sự vật hiện
tượng. Các nhà ngôn ngữ học thuộc đường hướng CDA chịu nhiều ảnh hưởng bởi
lý thuyết Ngữ pháp chức năng hệ thống của M.A.K Halliday , nên các xu hướng chủ
yếu của CDA từ đó trở về sau đều dựa trên 3 siêu chức năng của ngôn ngữ là chức
năng kinh nghiệm, chức năng liên nhân và chức năng tạo văn bản. Vì ngữ pháp
chức năng của Halliday coi trọng mặt nghĩa của câu, nên việc đặt nền tảng của CDA
trên lý thuyết Ngữ pháp chức năng hệ thống chính là quan tâm đến việc hiểu nghĩa
trong văn bản như là sự thể hiện các quá trình xã hội. Thật vậy, lịch sử phát triển
cho thấy CDA nhìn nhận ngôn ngữ như một tập quán và thực tiễn xã hội; trong đó
coi trọng hoàn cảnh sử dụng ngôn ngữ, và vì thế quan tâm đến mối quan hệ giữa
ngôn ngữ và quyền lực, cũng như coi diễn ngôn không chỉ là quá trình tương tác,
mà còn là một thực tiễn xã hội và sự phản ánh các tập quán này.
Fairclough và Wodak [70:280] đã đúc rút kinh nghiệm và phát triển thành
tám nguyên lý quan trọng (tenets) của CDA như sau:
CDA phản ánh các vấn đề xã hội
Quan hệ quyền lực là suy diễn được (discursive)
Diễn ngôn cấu thành xã hội và văn hóa
Diễn ngôn mang tính tư tưởng
Diễn ngôn mang tính lịch sử
Mối quan hệ giữa văn bản và xã hội là mối quan hệ qua trung gian
Phân tích diễn ngôn phải có khả năng hiểu và tường giải
Diễn ngôn là một dạng của hành động xã hội
Fowler và các cộng sự [75] chính là những người tìm ra cơ sở cho việc sử
dụng lý thuyết chức năng hệ thống của M.A.K Halliday [83] để làm rõ các cấu trúc
ngôn ngữ thể hiện quyền lực trong các văn bản. Chouliariki và Fairclough [58] đã
18
chỉ ra rằng hoàn toàn có thể dùng CDA để bộc lộ bản chất ngôn ngữ thể hiện qua sự
thay đổi văn hóa và xã hội. Trong khi đó, van Dijk là nhà ngôn ngữ quan tâm đặc
biệt đến diễn ngôn của các phương tiện đại chúng, đặc biệt là báo chí, là một trong
hai nhà khoa học đã tạo ra các mô hình nhận thức để giải thích quá trình kiến tạo
nghĩa ở cấp độ xã hội.
Đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX, ngôn ngữ học phê phán hay CDA đã
xác định được đối tượng, mục tiêu nghiên cứu và hình thành các phương pháp phân
tích liên ngành. Đến lúc này, thì Wodak [154] cũng đã nhìn nhận rằng các nhà ngôn
ngữ học đã dần có cái nhìn thống nhất về các khái niệm cơ bản của CDA như quyền
lực, tư tưởng và lịch sử. Wodak còn giải thích rằng, dựa trên các nguyên tắc của
ngữ pháp chức năng, lý luận ngôn ngữ xã hội học, lí luận phê bình văn học và triết
học, CDA mang tính liên ngành là một điều tất yếu.
Fairclough và Wodak [70] mô tả một số nguyên tắc của CDA dùng làm cơ sở
cho các nghiên cứu về lĩnh vực này như sau:
Những vấn đề chính trị - xã hội được kiến tạo và phản ánh trong diễn ngôn
CDA nêu ra các vấn đề chính trị - xã hội và khảo sát phương thức những vấn đề này
được kiến tạo cũng như được phản ánh trong cách chọn ngôn ngữ.
Mối quan hệ về quyền lực được đàm phán và thực hiện qua diễn ngôn
Cách thức tiếp cận CDA chính là phân tích xem ai sẽ kiểm soát các giao dịch hội
thoại, ai cho phép những người khác nói và họ thực hiện điều đó bằng cách nào.
Diễn ngôn vừa phản ánh vừa tái tạo quan hệ xã hội
Điều này có nghĩa là các mối quan hệ xã hội vừa được thiết lập và gìn giữ thông qua
cách dùng Diễn ngôn. Paltridge [116] dẫn các kết quả nghiên cứu của Stokoe (2003)
và Page (2003) về phương tiện thông tin đại chúng và về cách sử dụng diễn ngôn
của bà Cherry Blair - vợ Thủ tướng Anh Tony Blair để minh chứng cho vấn đề này.
Hệ tư tưởng được tạo ra và phản ánh trong cách dùng diễn ngôn
Bao gồm các phương thức mô tả và kiến tạo xã hội như là quan hệ quyền lực, quan
hệ dựa trên giới tính, giai cấp hoặc sắc tộc.
Phương pháp luận về PTDNPP đã có nhiều bước chuyển biến đáng kể và bao
gồm nhiều trường phái kể từ khi ra đời cách đây trên bốn thập kỷ. Trước hết, xuất
19
phát từ sự đối lập của hệ cấu trúc luận và hệ chức năng luận và các biến thể của
chúng mà hệ quả là những hướng nghiên cứu và phân tích ngôn ngữ đối lập nhau,
dẫn đến sự bỏ qua không xem xét mối quan hệ biện chứng giữa ngôn ngữ và xã hội,
nhiều nhà nghiên cứu đã bắt đầu quan tâm đến tương tác xã hội và tìm hiểu các
hành động xã hội. Đây cũng chính là khởi nguồn cho những nghiên cứu sau đó khi
mà các tác giả như Chouliaraki và Fairclough xác định diễn ngôn như là một tập
quán xã hội. Từ đây, PTDNPP được coi như là một đường hướng liên ngành cả
trong phương pháp và trong khung lý luận, vì PTDNPP áp dụng nhiều lí thuyết của
các ngành khác nhau như ngôn ngữ học, triết học, tâm lí học, xã hội học… Ngay
trong bản thân đường hướng PTDNPP cũng đã bao hàm nhiều phạm trù khác nhau
của ngôn ngữ học như ngữ pháp chức năng hệ thống của M.A.K Halliday , nghiên
cứu liên văn bản… Nguyễn Hòa [18:134] đã tổng hợp các đường hướng phân tích
diễn ngôn phê phán chính của các tác giả có công lớn trong phương pháp luận như
sau:
- Jager U. M với đường hướng PTDNPP Duisburg;
- Van Dijk, T.A với đường hướng PTDNPP nhận thức - xã hội;
- Wodak R. với đường hướng PTDNPP theo quan điểm lịch sử;
- Scollon, R. với đường hướng PTDNPP xã hội học vi mô; và
- Fairclough, N. đại diện cho trường phái PTDNPP theo quan điểm chức năng
- hệ thống.
Trong hệ thống lý luận làm cơ sở cho việc phân tích diễn ngôn KH CT-XH của
luận án này, chúng tôi chọn đường hướng PTDNPP theo mô hình của Norman
Fairclough [68], dựa trên cơ sở của lí thuyết Ngữ pháp chức năng hệ thống của M.A.K.
Halliday để làm nền tảng lý luận. Fairclough quan niệm rằng PTDNPP cần làm rõ mối
quan hệ biện chứng giữa các hệ thống kí hiệu (mà ngôn ngữ là một ví dụ) với các thành
tố này của thực tiễn xã hội. Các mặt kí hiệu này của thực tiễn xã hội tạo ra các thể loại
văn phong khác nhau. Từ những quan niệm này, đường hướng PTDNPP của Fairclough
chủ yếu sử dụng khung lí thuyết của ngữ pháp chức năng hệ thống của M.A.K Halliday .
Trong quy trình PTDNPP của đường hướng này, nhiều nhà nghiên cứu cũng quan điểm
cho rằng trước hết cần (1) xác định các vấn đề quyền lực/ xã hội; (2) tìm hiểu hoàn cảnh
20
của vấn đề và (3) phân tích diễn ngôn theo ba bước (đề nghị của Fairclough) bao gồm
miêu tả, hiểu, giải thích; và cuối cùng là (4) đánh giá công việc PTDNPP.
Các vấn đề có liên quan với hoạt động thực tiễn xã hội có thể liên quan đến
các chức năng ý niệm (ideational), liên nhân (interpersonal) và tạo văn bản
(textual), trong đó chức năng ý niệm phản ánh thế giới kinh nghiệm của người kiến
tạo diễn ngôn, chức năng liên nhân mô tả các mối quan hệ xã hội giữa các tham thể
trong cấu trúc diễn ngôn và cuối cùng chức năng tạo văn bản cho phép hiểu các kiểu
kết cấu của cấu trúc diễn ngôn. Đây chính là thao tác phân tích diễn ngôn dựa trên 3
siêu chức năng của ngôn ngữ của lý thuyết SFG (xem mục 1.6.2.1) và cũng nhờ đó,
mà khung lí thuyết đã được cụ thể hóa bằng việc người PTDNPP sẽ đi tìm câu trả
lời cho các câu hỏi trong thao tác miêu tả như:
(1) Từ ngữ có giá trị kinh nghiệm, quan hệ, biểu cảm gì? Có các phép ẩn dụ
không?
(2) Ngữ pháp có giá trị kinh nghiệm, quan hệ, biểu cảm gì? Các câu/ mệnh
đề được liên kết như thế nào?
(3) Cấu trúc diễn ngôn có quy ước giao tiếp nào? Sử dụng cấu trúc vi mô nào?
Để công việc PTDNPP được tiến hành đúng quy trình trên cơ sở những
phương pháp luận chính xác, cần thiết phải tìm hiểu các cơ sở ngôn ngữ học của
đường hướng này, bao gồm Lý thuyết Ngữ pháp Chức năng Hệ thống mà M.A.K
Halliday đã nghiên cứu và phát triển trong những năm 60 của thế kỷ 20; ngữ nghĩa
học tri nhận và con đường tiếp cận bằng dụng học.
1.2.2. Những căn cứ ngôn ngữ học của việc Phân tích Diễn ngôn Phê phán
1.2.2.1. Lý thuyết Ngữ pháp Chức năng Hệ thống (Systemic Functional Grammar- SFG)
Để có thể phân tích CDA, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nên áp dụng lý
thuyết ngữ pháp chức năng hệ thống của M. A. K. Halliday. Nguyễn Hòa [19] và
Diệp Quang Ban [3] xem SFG như là một căn cứ ngôn ngữ học quan trọng của phân
tích diễn ngôn phê phán. Nguyễn Hòa [18], [19] giải thích rằng CDA chú trọng đến
tính chất ký hiệu của diễn ngôn bởi vì chỉ có như vậy thì CDA mới đảm bảo tính
ngôn ngữ học và khác với phê bình văn học [18:18]. Trước đó, ngôn ngữ học phê
phán (Critical Linguistics) do Fowler khởi xuớng cũng được dựa trên lý luận của lý
21
thuyết ngữ pháp chức năng hệ thống. Giải thích về vấn đề này, Nguyễn Hòa [18] nói
rằng lí do cơ bản là SFG có cách nhìn ngôn ngữ giống với CDA và khoa học xã hội
phê phán. Tác giả còn nhận định “khả năng ứng dụng của lý thuyết SFG trong CDA
được chấp nhận là do SFG về bản chất là ngữ pháp hệ hình, nhìn nhận ngôn ngữ như
nguồn lực tạo nghĩa, và việc sử dụng ngôn ngữ là sự lựa chọn các nguồn lực.” [17:19]
Theo M.A.K Halliday, phân tích ngữ pháp là một quan điểm 3 bình diện, là
phân tích nghĩa theo 3 cấp độ. Nếu chúng ta nhìn từ bình diện Ngữ pháp từ vựng,
chúng ta còn có thể phân tích theo hai cấp độ nữa, đó là “”trên” (ngữ nghĩa) và
“dưới” (âm vị). Ngữ pháp kiểu này là ngữ pháp nhìn từ bên trên. Đối với Halliday,
ngữ pháp được xem là hệ thống, chứ không phải là các quy tắc. Ông quan niệm
rằng, ngôn ngữ là một tiềm lực về nghĩa. Ông đồng hóa nghĩa với chức năng và ông
sử dụng cú như là một đơn vị cơ sở để giải thích chức năng ngôn ngữ. Halliday
tranh luận rằng tổ chức chức năng của ngôn ngữ quyết định hình thức và quy tắc
ngữ pháp. Ông khẳng định ngôn ngữ là một công cụ giao tiếp, và phải thực hiện 03
chức năng (siêu chức năng). Ba chức năng này vốn không phải tự thân, mà là để
phục vụ chức năng giao tiếp - nhiệm vụ chính của ngôn ngữ, đó là:
(a) Chức năng kinh nghiệm trả lời các câu hỏi Ai? Làm gì? Ở đâu? Là sự
thể hiện kinh nghiệm của con người về thế giới xung quanh và trong bản thân người
phát ngôn; là để thể hiện nội dung giao tiếp.
- M.A.K Halliday chia chức năng ý niệm này thành siêu chức năng lô-gic và
kinh nghiệm. Siêu chức năng lô-gic là những nguồn lực cấu trúc để xây dựng các
tiểu cú trở thành câu. Còn siêu chức năng kinh nghiệm là những nguồn lực cấu trúc
liên quan đến phân tích dòng chảy của kinh nghiệm qua đơn vị cú trong câu.
- Cú được xem là một sự trình bày về các sự tình mà ta đã trải nghiệm trong
thế giới, những hành động, biến cố, những quá trình tâm lý và những mối quan hệ.
Mỗi sự tình gồm có Quá trình (*) + Tham thể+ Chu cảnh
(b) Chức năng liên nhân, là thứ nghĩa có hình thức như một sự tác động để
xác lập quan hệ giữa người nói và người nghe. Chức năng liên nhân của câu là luân
phiên thay đổi vai trò trong những cách tác động lẫn nhau bằng ngôn từ: những
nhận định, những câu hỏi, những đề nghị, những mệnh lệnh, kèm theo những tình
thái nhất định.
22
- Chức năng này xét xem người nói hoặc người viết có thái độ trung lập hay
không, thể hiện qua việc dùng ngôn ngữ tích cực hay tiêu cực. Những khoảng cách,
giai tầng, cấp bậc xã hội sẽ buộc người nói dùng một mức độ “thân mật” đúng mực.
- Cú được xem như là một sự trao đổi giữa người cho (giver) và người nhận
(receiver). Trao đổi có thể là trao đổi thông tin (Vd: Hôm nay trời đẹp), trao đổi đề
nghị (Vd: Mời anh uống nước) và trao đổi thao tác (Vd: Anh mở cửa giúp tôi)
- Mỗi sự tình gồm có Phần thức + Phần dư
(c) Chức năng tạo văn bản: là tính liên quan đối với văn cảnh, sự kết nối
phần văn bản đi trước, phần văn bản đi sau và đối với tình huống bên ngoài. Chức
năng văn bản của câu là để xây dựng một thông điệp. Trong mỗi sự tình, cần xác lập
văn cảnh xem cái nào là đề, cái nào là thuyết.
- Cú được xem là sự kết hợp giữa Phần đề + Phần thuyết. Phần đề chỉ ra cái
được nói đến trong câu. Cái được nói đến thường là cái đã biết trong quá trình diễn ra
hoạt động giao tiếp giữa hai người. Đề là cơ sở, là điểm xuất phát cho hoạt động
thông báo ở trong câu. Phần Thuyết chứa đựng nội dung nói về phần đề. Nó chứa
đựng phần thông tin mới, là trọng tâm thông báo của câu. Ranh giới để phân biệt
phần đề và phần thuyết được dựa trên nhiều tiêu chí như phương tiện, ý nghĩa chức
năng, vị trí, từ loại ... mà điển hình nhất vẫn là tiêu chí về phương tiện.
- Việc chọn đề phụ thuộc vào yếu tố đứng trước, đứng sau quy định. Điều
này làm cho văn bản có tính mạch lạc về chủ đề.
M.A.K Halliday [83] còn bàn đến khái niệm “tiêu điểm thông tin”
(information focus) trong số những đơn vị thông tin độc lập xuất hiện trong ngữ
pháp cú (clause grammar) và đại diện cho phần thành phần nổi bật của một đơn vị
thông tin bất kỳ trong cú. Việc xác định các thông tin cũ hay thông tin mới cũng
hàm ý sự liên hệ mật thiết giữa cấu trúc thông tin và cấu trúc Đề - Thuyết. Tuy
nhiên, hai cấu trúc này không thật sự giống nhau. Trong khi cấu trúc Đề - Thuyết là
sự lựa chọn từ cái Tôi của người nói, thì cấu trúc thông tin Cũ - Mới lại hướng đến
người nghe.
Như vậy, nói tóm lại cả ba bình diện trong mô hình ngữ pháp chức năng của
M.A.K Halliday đều nhấn mạnh mặt nghĩa. Halliday đồng hóa nghĩa (meaning) với
23
chức năng (function). Ngữ pháp chức năng của Halliday dùng Cú (clause) như là
đơn vị cơ sở để giải thích chức năng ngôn ngữ - một cú phải thực hiện đủ cả 3 chức
năng khác nhau này. Quan niệm này của Halliday khác với phần lớn các trường
phái ngữ pháp khác khi đề cập cấu trúc câu chỉ cho rằng câu chỉ có một cấu trúc mà
thôi.
1.2.2.2. Ngữ nghĩa học tri nhận (cognitive semantics)
Một trong những xu hướng chính của ngữ nghĩa học nhận thức là cách tiếp
cận kinh nghiệm, thông qua việc miêu tả nghĩa theo hướng thực tế và kinh nghiệm
để tái hiện những gì xảy ra trong đầu người phát ngôn và người tiếp nhận, gắn với
kinh nghiệm của họ về thế giới bên ngoài. Điều này khá giống với cách mô tả thế
giới kinh nghiệm trong lý thuyết SFG của Halliday. Tuy nhiên, việc nhận thức về
thế giới kinh nghiệm có khi còn mang nhiều yếu tố chủ quan. Nhờ thế, cách tiếp cận
này được vận dụng để phân tích sự thể hiện tư tưởng, thái độ hay chính kiến của
người tạo diễn ngôn.
1.2.2.3. Cách tiếp cận dụng học (pragmatics)
Cách tiếp cận dụng học là một trong những đường hướng phân tích diễn
ngôn có liên quan nhiều đến CDA bởi CDA coi trọng tính ngữ cảnh và quan tâm
đến tác động của diễn ngôn đối với thực tại xã hội, trong khi dụng học nhìn nhận
ngôn ngữ như là sự thực hiện các hành động. Cách tiếp cận dụng học này có thể xảy
ra theo hai cách: hành động ngôn từ (của Austin) và dụng học theo nguyên tắc cộng
tác (của Grice).
Lý thuyết hành động ngôn từ (Speech acts theory)
Từ khi ngữ dụng học ra đời, giao tiếp ngôn ngữ được nghiên cứu với tư cách
là công cụ để thực thi hành vi ngôn ngữ - hay hành động ngôn từ. Hành động ngôn
từ là những hành động được thực hiện thông qua các phát ngôn. Lyons [105] đã
định nghĩa rằng những phát ngôn khi được hiểu theo cách nhấn mạnh vào quá trình
phát ngôn ra câu nói (hơn là để chỉ các thành phẩm phát ngôn) thì đó chính là hành
động ngôn từ. Còn Đỗ Hữu Châu [6] thì nhận định: “Khi chúng ta nói năng là
chúng ta hành động, chúng ta thực hiện một loại hành động đặc biệt mà phương tiện
24
là ngôn ngữ. Người nói có thể dùng các phát ngôn của mình để thực hiện một hành
động như xin lỗi, khen chê, mời mọc, tuyên bố... Xuất phát từ quan điểm “phát
ngôn là hành động” hay “hành động là sản phẩm của phát ngôn”, nhà triết học J. L.
Austin đã có những nhận định đặt cơ sở cho thuyết hành động ngôn từ trong tập bài
giảng của mình sau này được xuất bản dưới cái tên How to do things with words
[46]. Tuy các công trình của ông để lại chưa cho thấy rõ rằng ông đã xác định được
một lý thuyết hoàn hảo về vấn đề ông đã khởi xướng thì ông cũng đã làm rõ hai
khái niệm mà hiện nay mọi người vẫn rất quan tâm đó là phát ngôn tường thuật
(constative)- là phát ngôn nêu nhận định và phát ngôn ngôn hành (performative) -
là phát ngôn mà khi nói chúng, người nói đã làm được một điều gì đấy (hơn là chỉ
nói) (thuật ngữ của Nguyễn Văn Hiệp [14]). Sau này, Searle [135] đã từng bước
làm rõ và hệ thống hóa các khái niệm của Austin và đồng thời đã đưa ra các tác
động của thuyết hành động ngôn từ trong lĩnh vực ngôn ngữ học. Dik, Van Valin và
một số tác giả khác cũng đã tiếp tục kế thừa và phát triển thuyết hành động ngôn từ,
làm cho nó trở thành một lí thuyết nổi tiếng trong ngôn ngữ học Chức năng luận.
Hành động ngôn từ còn được xem là các hành vi giao tiếp. Trong giao tiếp,
một hành động ngôn từ được xem là thành công khi người nghe hiểu được ý định và
thái độ của người nói. Bach [47] cho rằng Hành động ngôn từ cũng có thể không
nhất thiết phải bắt nguồn từ ý định giao tiếp, mà có khi chỉ thực hiện các chức năng
do tình huống giao tiếp quy định.
Austin phân loại và thảo luận ba lĩnh vực chính của hành động ngôn từ, đó là
hành động tạo lời (locutionary act), hành động tại lời (illocutionary) và hành động
mượn lời (perlocutionary). Trên bình diện ngữ dụng học, như Đỗ Hữu Châu [6:96]
đã kết luận, việc biểu đạt sự tình của hành động tại lời là biểu hiện rõ nét nhất, vì nó
thay đổi tư cách pháp nhân của người giao tiếp.
Searle [136] đưa ra các điều kiện sử dụng các hành động tại lời (quy định mối
quan hệ giữa người phát ngôn và người nghe) gồm: (1) điều kiện nội dung mệnh đề, (2)
điều kiện chuẩn bị, (3) điều kiện chân thành, và (4) điều kiện căn bản. Theo Austin,
hành động ngôn từ được chia thành năm nhóm: (1) phán xử; (2) hành xử; (3) cam kết;
25
(4) trình bày và (5) ứng xử. Searle lại chia hành động ngôn từ (hành vi tại lời) thành
năm loại: (1) trình bày; (2) điều khiển; (3) cam kết; (4) biểu cảm; và (5) tuyên bố.
Cách tiếp cận CDA theo đường hướng dụng học này cũng là cơ sở để giải
thích quan niệm rằng: trong quá trình giao tiếp, con người không chỉ phát ngôn để
miêu tả sự tình, mà còn thực hiện một số hành động nhất định. Đây là một cơ sở
quan trọng cho việc tiếp cận tư liệu nghiên cứu của luận án về sau.
Nguyên tắc cộng tác của Paul Grice
Dụng học theo Grice đặt căn cứ trên ý nghĩa của người nói và các quy tắc
cộng tác trong giao tiếp. Trong mỗi môi trường ngữ cảnh tình huống nhất định, ý
định của người phát ngôn có thể giúp chuyển tải các ý nghĩa khác nhau vào trong
diễn ngôn mà anh ta sử dụng. Trong công trình Logic and Conversation [80]), Grice
đã bày tỏ quan tâm của mình đến yếu tố lô-gic và cho rằng hội thoại được đặt nền
tảng trên các nguyên lý hợp tác được chia sẻ. Nguyên lý này được cụ thể hóa theo
bốn phương châm giao tiếp:
Phương châm về lượng: người nói được yêu cầu chia sẻ cho đủ thông
tin đúng như được đòi hỏi; và đừng chia sẻ nhiều hoặc ít hơn cần thiết.
Phương châm về chất: đảm bảo tính trung thực, nghĩa là đừng nói
những gì mình cho là sai; và đừng nói những gì thiếu chứng cứ.
Phương châm liên quan: chỉ nói những gì liên quan, không vô cớ lạc đề.
Phương châm cách thức: nói rõ ràng, minh bạch; tránh mơ hồ; nói ngắn
gọn; có trình tự.
Tuy nhiên, Nguyễn Hòa [19] cho rằng từ góc độ lý luận phê phán, dụng học
vẫn có những điểm yếu là do tính chất cá nhân của hành động. Các hành động ngôn
từ cũng được cho là bắt nguồn thuần túy từ các cá nhân, và cho dù các nguyên tắc
cộng tác của Grice có được yêu cầu đảm bảo trong giao tiếp, thì trong thực tế người
tham gia giao tiếp không phải khi nào cũng tuân theo các nguyên tắc này. Cho nên
dụng học chưa thực sự quan tâm đến tác động của phía người nghe đối với việc sản
sinh diễn ngôn ở phía người nói.
26
1.2.3. Một vài cơ sở lý luận liên quan khác để phân tích và so sánh - đối chiếu
diễn ngôn KH CT-XH
1.2.3.1. Quan niệm về Thể diện (Face concept) và Thuyết Lịch sự (Politeness Theory)
Không thể nhắc đến thuyết hành động ngôn từ như là một cơ sở ngôn ngữ học
để hiểu và phân tích diễn ngôn KH CT-XH nếu không đồng thời thừa nhận tầm
quan trọng của luận thuyết lịch sự trong mối quan hệ liên nhân. Lý thuyết giao tiếp
hay lý thuyết truyền thông đều coi trọng tính lịch sự trong các sản phẩm ngôn từ.
Khái niệm lịch sự được coi là một chiến lược kĩ thuật trong giao tiếp ngôn từ cá
nhân và đồng thời được hiểu là một trục trong giao tiếp xã hội [7]. Đại diện cho các
quan điểm trong vấn đề này, có thể kể đến Lakoff [99], Leech [103], Brown và
Levinson [55].
Lịch sự là một nhu cầu trong xã hội, mà đặc biệt là xã hội văn minh. Chiến
lược lịch sự là chiến lược giao tiếp hiệu quả nhất trong các các chiến lược giao tiếp
của xã hội văn minh - hiện đại. Lịch sự cũng là một thuộc tính của diễn ngôn. Lịch
sự thường gắn với các nghi thức lời nói_ những khuôn mẫu mang đặc thù văn hóa
dân tộc_ nhằm xác lập mối quan hệ giữa các thành viên giao tiếp trong một hoàn
cảnh cụ thể [37].
Trong chuyên luận “Những nguyên lý của dụng học” (Principles of Pragmatics),
Leech [103] cho rằng, lịch sự là sự bù đắp những hao tổn, thiệt thòi do hành động nói
năng của người nói gây ra cho người đối thoại. Leech cụ thể hóa nguyên tắc lịch sự
trong sáu phương châm: khéo léo, hào hiệp, tán thưởng, khiêm nhường, tán đồng và
cảm thông. Các phương châm này mang tính đặc thù cho những hành động tại lời
(illocutionary act) nhất định.
Trong khi đó, xuất phát từ quan niệm về thể diện (face concept) của Erving
Goffman khi ông xem xét mối quan hệ giữa hoạt động giao tiếp và ứng xử ngôn
ngữ, Brown và Levinson [55] đã đưa ra thuyết Lịch sự (Politeness) và thuyết này
được xem là có nhiều ảnh hưởng trong lịch sử nghiên cứu về ứng xử ngôn ngữ.
Goffman cho rằng “thể diện là giá trị xã hội tích cực mà một người muốn người
khác nghĩ mình có trong một tình huống giao tiếp cụ thể.” Còn theo Hoàng Phê
[32:516] là “những cái làm cho người ta coi trọng mình khi tiếp xúc”. Thể diện
27
trong mô hình của Brown và Levinson tồn tại dưới hai dạng: thể diện dương tính
(positive face) và thể diện âm tính (negative face). Thể diện dương tính là mong
muốn được tán thưởng và tôn trọng, là giao hòa giữa người nói và người đối thoại.
Trong khi đó, thể diện âm tính là mong muốn được tự do hành động, và tránh bị
người khác áp đặt. Trong quá trình giao tiếp, theo Brown và Levinson, cả hai bên
tham gia giao tiếp đều phải luôn quan tâm đến hai mặt của thể diện, và tránh tạo ra
những hành động đe dọa thể diện (face-threatening acts) để giảm thiểu những tác
động ảnh hưởng đến thể diện. Hành động ngôn từ lịch sự là những hành động thể
hiện ý thức giữ thể diện trong giao tiếp. Tóm lại, chiến lược giao tiếp hành động
ngôn từ cần đạt được mục tiêu tránh xung đột trong quan hệ liên nhân, và đó chính
là thể hiện của phép lịch sự trong giao tiếp và ứng xử ngôn ngữ.
1.2.3.2. Khái niệm quyền lực (power) và hệ tư tưởng (ideology) trong diễn ngôn
Vì tính chất và phương pháp phân tích CDA có những đặc thù riêng, nên
việc xác định khái niệm quyền lực cũng như hệ tư tưởng - những nền tảng xã hội
của công tác CDA - khi thực hiện CDA có ý nghĩa quan trọng. Lịch sử phát triển
của xã hội văn minh đã chứng minh rằng quyền lực là một phạm trù cơ bản nhất của
chính trị học và nó mô tả thực chất các hoạt động chính trị của xã hội có giai cấp
(theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin). Thực tế cũng đã cho thấy nhiều xã hội có
giai cấp đã sử dụng ngôn ngữ để đấu tranh nhằm mục đích duy trì hay bảo vệ quyền
lực của mình. Tuy nhiên khái niệm quyền lực (hay quyền thế) trong diễn ngôn được
hiểu trên nền tảng xã hội học và ngôn ngữ học là một khái niệm có những phạm trù
nghĩa rất rộng lớn, chứ không chỉ gói gọn trong phạm vi quyền lực chính trị.
Van Dijk đồng nghĩa hóa quyền lực với khả năng tiếp cận và sở hữu nguồn
lực có giá trị cao trong xã hội như của cải, địa vị, sức mạnh hay tri thức; đôi khi còn
là khả năng tiếp cận diễn ngôn và môi trường giao tiếp với công chúng. Theo ông,
quyền lực xã hội bao hàm sự kiểm soát của một nhóm xã hội này đối với một nhóm
xã hội khác trên các phương diện hành động hay suy nghĩ, và vì thế mà giới hạn sự
tự do hành động của người khác hoặc tác động đến tri thức, thái độ và hệ tư tưởng
của họ. Van Dijk còn nhấn mạnh rằng việc thực thi và duy trì quyền lực xã hội đã
bao hàm một nền tảng tư tưởng mà ở đó, những nhận thức liên quan đến lợi ích hay
28
quyền lợi được chia sẻ trong xã hội của một nhóm người chủ yếu được xác lập và
thay đổi thông qua quá trình giao tiếp và diễn ngôn, trên nền những đổi thay của
lịch sử và xã hội. Fairclough [68] và Bachrach & Botwinick [48] cũng đã chia sẻ
với van Dijk về những nhận định này. Fairclough [68] xem khái niệm diễn ngôn là
sản phẩm của quá trình giao tiếp xã hội và cho rằng việc tái tạo các quan hệ quyền
lực qua diễn ngôn rất phức tạp và có khi chỉ được ngầm định tiến hành bởi các bên
tham gia. Và Fairclough còn quan niệm “việc kiểm soát các trật tự diễn ngôn của
những người nắm giữ quyền lực chính là yếu tố quan trọng trong việc xác lập và gìn
giữ quyền lực của họ” [68: 24,37]. Ông định nghĩa quyền lực trong diễn ngôn chính
là việc kiểm soát và chế ngự sự đóng góp của những thành viên có ít quyền lực hơn
(hoặc không có) trong nội dung giao tiếp, quan hệ giữa các bên tham gia giao tiếp,
chủ thể và các hình thức thể hiện của ngôn ngữ [68] [70]. Fairclough đi đến định
nghĩa này là do Ông dựa trên những tìm tòi phân tích đối với những diễn ngôn trực
diện có tồn tại sự không cân xứng giữa các vai giao tiếp. Ở đó, ông quan sát thấy sự
chế ngự của người có “nhiều quyền” hơn đối với người có “ít quyền” hơn lên trên
các vấn đề lượt lời hay mức độ đóng góp thông tin. Từ đây có thể thấy quan niệm
về quyền lực trong diễn ngôn, theo Fairclough, van Dijk và một số nhà nghiên cứu
khác là một quan niệm rất chung. Theo đó, quyền lực, hay nói đúng ra là quyền
không phải chỉ là quyền lực về chính trị (giữa một đảng phái chính trị với người
dân, giữa người có chức quyền với người không có chức quyền), mà quyền còn bao
hàm những giá trị rộng lớn hơn, phong phú hơn về nghĩa và phạm vi áp dụng.
Quyền lực ở đây được hiểu là sự kiểm soát của nhóm người có nhiều quyền lực (về
của cải, vật chất, địa vị xã hội, tri thức...) hơn đối với nhóm người có ít (hoặc không
có) quyền lực hơn. Do đó, các phạm trù quyền lực có thể được hiểu rất rộng như
quyền lực về giới, về chủng tộc, hay thậm chí còn là các phạm trù khác như bản
quyền, quyền tác nghiệp, quyền phát ngôn ...
Tương tự, Brown & Levinson [55:77] xác định yếu tố quyền lực theo đường
hướng dụng học rằng “quyền lực là mức độ mà người nói có thể áp đặt kế hoạch và
sự tự đánh giá của mình mà không tính đến kế hoạch và sự tự đánh giá của người
khác”. Trong khi đó, Nguyễn Hòa [18:58] xem khái niệm quyền lực như là “năng
29
lực kiểm soát hành vi của người khác hay bắt họ phải phục tùng”, là “mối quan hệ
chi phối và bị chi phối”. Trong xã hội văn minh và thông tin ngày nay, việc thực thi
quyền lực và kiểm soát hành động của người khác bằng sức mạnh vũ lực xem ra
không còn hiệu quả. Đó chỉ là giải pháp cuối cùng khi hành động thuyết phục bằng
diễn ngôn thất bại. Điều thực sự tạo nên sức mạnh chính là tri thức và nhận thức của
người nắm giữ quyền lực; và quyền lực chính là ở khả năng điều khiển hành vi, đặc
biệt là tư tưởng của người khác. Chính vì thế CDA, theo Fairclough, Van Dijk,
Wodak hay một số nhà nghiên cứu khác, là rất có ý nghĩa bởi nó xem xét chức năng
của ngôn ngữ trong việc điều khiển tư duy của người khác.
Ngoài ra, khái niệm hệ tư tưởng (ideology) trong diễn ngôn cũng được các nhà
phân tích CDA quan tâm. Van Dijk đã từng phân biệt những quan niệm sai lệch và
thiên kiến về hệ tưởng (đặc biệt là hệ tư tưởng Mác-xít) với những quan niệm rộng lớn
và bao hàm nhiều phạm trù hơn. Trong các quan điểm theo trường phái chủ nghĩa Mác
này, khái niệm hệ tư tưởng đã bị giai cấp thống trị cố tình làm sai lạc để hợp lý hóa
hiện trạng và bộc lộ các điều kiện kinh tế - xã hội thực sự của giai cấp công nhân. Gần
đây quan niệm thiên lệch (chỉ phục vụ cho một nhóm chi phối) này đã trở nên phổ biến
hơn trong các lĩnh vực khoa học xã hội nơi khái niệm này được hiểu theo cách trái
ngược với cách nhìn khoa học. Cũng vì cách hiểu sai lệch đó mà có một thời người ta
thường gắn cách hiểu khái niệm tư tưởng với chủ nghĩa cộng sản. Để đối lập với cách
hiểu như trên, van Dijk đã phân tích “hệ tư tưởng” hay “ý thức hệ” như là một khái
niệm mang tính phổ quát. Đó là hệ tư tưởng theo hướng suy nghĩ tích cực và tiến bộ
hơn, ví như ý thức hệ về nữ giới hay về chống phân biệt chủng tộc… chung quy lại là
những cách để bày tỏ ý thức chống lại sự thống trị và những bất công trong xã hội.
Cách nhìn hệ tư tưởng này hoàn toàn khách quan và tích cực ở chỗ nó cho phép người
ta nhìn nhận khái niệm này một cách linh hoạt hơn và ở một trường tư tưởng rộng lớn
hơn. Từ đó, khái niệm tư tưởng được van Dijk xem như là một cơ sở cho thực tiễn xã
hội của mỗi thành viên trong nhóm và hai khái niệm này có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Cuối cùng van Dijk đưa ra định nghĩa mang tính đa ngành rằng “hệ tư tưởng là
những hình thức nhận thức xã hội được các nhóm xã hội chia sẻ. Hệ tư tưởng vì thế
30
hình thành cơ sở cho sự đại diện và các nhiệm vụ xã hội của các thành viên trong
nhóm, bao gồm cả diễn ngôn, và đồng thời là phương tiện để tạo ra và tái tạo hệ tư
tưởng [144:8]. Luận án sử dụng quan niệm phổ quát về hệ tư tưởng này của van Dijk
và sau này được các tác giả khác như Fairclough và Wodak đồng tình.
1.3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Với mục tiêu xem xét các vấn đề thực tiễn thuộc phạm vi tư liệu nghiên cứu
là diễn ngôn KH CT-XH, phần này của chương 1 sẽ trình bày tóm tắt lịch sử vấn đề
nghiên cứu về KH CT-XH ở Việt Nam và trên thế giới.
1.3.1. Về khẩu hiệu quảng cáo
Các nghiên cứu về khẩu hiệu quảng cáo trên thế giới rất phong phú. Trong
Tạp chí Business Horizons số tháng 5-6/1993, Harvey [85] đã có bài viết phân biệt
rõ quan niệm quảng cáo thương mại và khẩu hiệu chính trị, đặc biệt là khi các chiến
dịch quảng cáo sản phẩm của nước khác nhập vào Hoa Kỳ lại chủ yếu dùng tiếng
Anh và đưa các hình ảnh mang đậm bản sắc văn hóa chính trị của quốc gia này. Tuy
khái niệm chính trị là còn hoàn toàn ẩn ý, ngôn từ và các chiến lược diễn ngôn cho
khẩu hiệu quảng cáo vẫn là trọng tâm chính của nghiên cứu này.
Trong một nghiên cứu từ rất lâu ở thập niên 70, Katz và cộng sự [93] đã chỉ
ra cách làm cho một khẩu hiệu quảng cáo được người tiêu dùng nhận biết và chấp
nhận qua bài viết “Is your slogan identifiable?” (Khẩu hiệu của bạn có được biết
đến không?) Trong công trình này, các tác giả đã không những bàn nghệ thuật sáng
tạo, tính đại chúng và cái nhìn trực quan của khẩu hiệu mà còn quan tâm nhiều đến
cách sử dụng từ ngữ để làm cho công chúng nhận dạng được khẩu hiệu, qua đó
nâng cao tính thuyết phục của khẩu hiệu quảng cáo.
Trong tạp chí Quản lý Sản phẩm và Thương hiệu, Pryor [122] đã có bài viết
“Làm thế nào để các quảng cáo thương mại có thể tối ưu hóa các đánh giá của
thương hiệu”. Tác giả đã phân tích nhiều mẫu quảng cáo với các đặc trưng của
chúng rồi đưa ra các bằng chứng về việc các khẩu hiệu quảng cáo có thể hoặc hỗ trợ
hoặc phá hỏng chiến lược quảng bá nhân rộng thương hiệu ra với thị trường.
31
Fuertes - Olivera và cộng sự [76] đã nghiên cứu mối tương quan giữa tính
thuyết phục và ngôn ngữ quảng cáo rồi đi đến khẳng định siêu diễn ngôn
(metadiscourse) đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức diễn ngôn để thu hút người
nghe, nên đương nhiên là thành tố quan trọng trong thể loại văn phong thuyết phục.
Điều này càng có lợi cho các thể loại văn phong quảng cáo, đặc biệt là trong quảng cáo
thương mại và những hình thức giao tiếp ẩn ý trong quảng cáo. Nhóm nghiên cứu này
còn đi sâu khảo sát các chiến lược giao tiếp như cá nhân hóa thông qua đại từ nhân
xưng, giao tiếp liên văn bản, giảm nhẹ chiến lược thuyết phục bằng rào đón mà các nhà
ngôn ngữ học như Leech, 1966; Williamson, 1978; Dyer, 1982; Vestergaard and
Schroder, 1985; Jhally, 1987; Leiss et al., 1988; Cook, 1992; Goldman, 1992; Myers,
1994; Campos Pardillo, 1994; Forceville, 1996; Rush,1998; Peiia Perez, 1999; Velasco
Sacristan, 1999… đã đề cập trước đó. (Dẫn theo Fuertes - Olivera và cộng sự [76])
Công trình nghiên cứu của Maria Kim [94] tại Đại học Indiana - Hoa Kỳ đã
tập trung khảo sát thể loại diễn ngôn thuyết phục (convincing discourse) của các tạp
chí tiêu dùng ở Mỹ dưới góc độ của lý thuyết ngôn ngữ xã hội học. Những chiến
lược dụng học được phân tích và áp dụng vào trong ngôn từ và các hình thức biến
đổi diễn ngôn nhằm tạo hiệu ứng cao nhất trong thuyết phục người tiêu dùng bỏ tiền
ra mua sản phẩm. Luận án còn tập trung phân tích các đặc trưng tương tác của ngôn
ngữ quảng cáo, phương tiện liên kết, số lượng từ ngữ, phép lịch sự… và các tổ chức
thông tin giải quyết vấn đề phục vụ cho diễn ngôn quảng cáo. Tương tự, luận văn của
Jana Lapsanská [100] đã nghiên cứu các đặc điểm của ngôn ngữ quảng cáo như các
khía cạnh ngữ âm,, ngữ nghĩa, từ vựng, cấu trúc của loại hình ngôn ngữ quảng cáo.
Nghiên cứu về khẩu hiệu tổng hợp của các tập đoàn ở Trung Quốc đại lục của tác
giả Lee và đồng sự [102] đã chỉ ra rằng để thiết lập nên hình ảnh thương hiệu của các tập
đoàn thương mại qua khẩu hiệu quảng cáo, cần thiết phải căn cứ vào các đặc tính, bản
chất của tập đoàn đó đồng thời phải nằm trong giao diện văn hóa của quốc gia.
Kohli và cộng sự [95] đã đề cập tầm quan trọng của việc tạo ra một khẩu hiệu,
đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại. Từ đó nhóm tác giả đã đề xuất 7 nguyên tắc cơ
bản để tạo ra khẩu hiệu đạt hiệu quả tối ưu trong đó ưu tiên nhất vẫn là các yếu tố súc
32
tích, rõ ràng, lặp đi lặp lại, liên quan và sáng tạo. Tương tự, những hướng dẫn để
thiết kế khẩu hiệu quảng cáo có hiệu quả cao và phải đưa được hình ảnh của một
công ty hay một tổ chức thương mại đến với người tiêu dùng do Kohli và cộng sự
[95] đề xuất đó chính là phải nhận diện được hình ảnh đích thực và độc đáo của một
thương hiệu và nhiệm vụ của khẩu hiệu chính là làm cầu nối hoàn hảo để cố định
cách nhìn cách nghĩ của công chúng về thương hiệu đó bằng những lối diễn đạt đơn
giản, dễ hiểu, rõ ràng nhất và cần thiết phải lặp đi lặp lại. Ngoài ra, Verboven [149]
cho rằng khi thiết kế các khẩu hiệu sứ mạng của các công ty dược, cần thiết phải thể
hiện các trách nhiệm xã hội và trách nhiệm dân sự trong ngôn từ, chứ không chỉ
nhắm đến việc quảng bá sản phẩm hoặc dịch vụ của họ. Những cam kết của các công
ty dược trong việc tạo ra sự bình ổn và phát triển của xã hội cần được thể hiện trong
khẩu hiệu quảng cáo thuốc và dược phẩm, đó mới gọi là khẩu hiệu sứ mạng.
Trong nước, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về khẩu hiệu thương mại
- quảng cáo. Với bài viết “Một cái nhìn xã hội ngôn ngữ học về quảng cáo, tác giả
Bùi Khánh Thế (trong Nguyễn Kiên Trường [41])” đã nêu bật những đặc điểm và
bản chất của loại hình diễn ngôn quảng cáo, đồng thời cung cấp cho người đọc
những nhận định về ngôn ngữ trong hoạt động quảng cáo. Tác giả còn nêu lên vai
trò của ngôn ngữ học xã hội (sociolinguistics) đối với quảng cáo trong mối tương
quan giữa người sản xuất - nhà quảng cáo - người tiêu dùng.
Chuyên luận Ngôn ngữ Quảng cáo dưới ánh sáng của lý thuyết giao tiếp của
tác giả Mai Xuân Huy [24] đã cung cấp một cái nhìn khá mới mẻ và toàn cảnh về
ngôn ngữ quảng cáo - một thể loại diễn ngôn đặc biệt. Công trình này phân tích
ngôn ngữ quảng cáo dưới ánh sáng của lý thuyết giao tiếp và đi sâu phân tích diễn
ngôn quảng cáo từ những yếu tố nhỏ nhất đến những đơn vị cấu trúc - ngữ nghĩa
chức năng lớn hơn. Các nghiên cứu khác có liên quan đến khẩu hiệu quảng cáo gồm
có: Lê Huy Lâm - Phạm Văn Thuận [25] với Học và sử dụng tiếng Anh trong lĩnh
vực quảng cáo thương mại, các đề tài Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Phước Đa
[114] về Lựa chọn từ vựng trong hiệu quả tuyên truyền thông qua bản tin ngắn,
Ngô Thị Hồng [113] về Lựa chọn từ ngữ trong quảng cáo thương mại, Phan Thị
33
Uyên Uyên [118] về Các phương tiện phong cách học trong Quảng cáo trên báo
tiếng Anh và tiếng Việt... đã cho thấy độ quan tâm rất lớn của các học viên cao học
cũng như các nhà nghiên cứu về chủ đề này.
1.3.2. Về khẩu hiệu chính trị - xã hội
Nghiên cứu về khẩu hiệu chính trị có từ rất sớm trong lịch sử của xã hội văn
minh. Từ những năm 30 của thế kỷ XX đã có các bài viết đề cập mục đích và các
đặc trưng nổi bật của khẩu hiệu, trong môi trường văn hóa - xã hội Hoa Kỳ.
Bernstein [52] đã khảo sát rất nhiều bài diễn văn của các chính trị gia và đi đến kết
luận KH CT-XH cần được xác định mục đích kêu gọi và thuyết phục công chúng
bằng ngôn ngữ đặc biệt.
Lu [106] đã sử dụng mô hình mối quan hệ giữa hệ tư tưởng và biểu tượng
chữ viết để nghiên cứu cách sử dụng các khẩu hiệu chính trị của Đảng Cộng sản
Trung Quốc từ những năm 60 đến những năm 80. Tác giả mô tả những tác động của
các khẩu hiệu này đến việc thay đổi hệ tư tưởng của người Trung quốc từ học thuyết
Khổng tử và Nho giáo. Việc thiết kế khẩu hiệu cũng được thay đổi để đáp ứng nhu
cầu xã hội và nhu cầu của nhà cầm quyền trong thiết chế quyền lực. Ngoài ra việc
sử dụng rộng khắp các khẩu hiệu này cũng đã thay đổi phần nào nét văn hóa Trung
Quốc cũng như ảnh hưởng đến lối suy nghĩ của người Trung Quốc.
Vaes và cộng sự [141] đã nghiên cứu tác động của yếu tố xúc cảm con người
đến những thông điệp trong khẩu hiệu chính trị, thể hiện rõ nét nhất trong các chiến
dịch vận động tranh cử. Những yếu tố xúc cảm này được các nhà vận động tranh cử
phát huy trong cách dùng từ và vận dụng từ ngữ vào đúng trường hợp hoàn cảnh
ban hành các khẩu hiệu vận động.
Phân tích cách quân đội Hoa Kỳ sử dụng KH CT-XH kêu gọi tuyển quân,
Miller và cộng sự [112] đã làm rõ mối quan hệ giữa động cơ, nhu cầu cũng như các
yếu tố liên quan của một cá nhân và sự đáp lại tinh thần tuyển quân. Các tác giả này
cho rằng nếu quân đội muốn tuyển những người có động cơ xuất phát từ lý tưởng,
lòng trung thành hay danh dự, thì khẩu hiệu của họ phải đạt những phẩm chất kêu
gọi tương tự mới có thể động viên được đông đảo quần chúng tham gia. KH CT-XH
sử dụng trong quân đội cũng đã được các tác giả khác như Garfield (2001a, 2001b);
34
Rosenberg (2001), Peckenpaugh (2001) (trích trong Miller và cộng sự [112]) nghiên
cứu trước đó, và sử dụng các đường hướng kêu gọi tương tự.
Young [157] đã nghiên cứu sự phát triển của các khẩu hiệu bầu cử ở Úc trong
vòng năm thập kỷ (1949 - 2004) và kết luận rằng khẩu hiệu đã từ việc xuất hiện tự
phát, nhỏ lẻ, mang tính địa phương (ở thập kỷ 40 - 50) đã không ngừng phát triển và trở
nên chuyên nghiệp hóa. Đến thập kỷ 70 - 80, các tổ chức chính trị đã thiết chế các dạng
vừa nghiêm túc vừa tập trung. Và thập kỷ 90 đã chứng kiến sự phát triển vượt bậc của
khẩu hiệu thông qua một công cuộc thăm dò thị trường trên quy mô lớn, giúp khẩu
hiệu trở thành một phương tiện mới của truyền thông và công nghệ.
Bên cạnh các nghiên cứu về khẩu hiệu chính trị, còn có các nghiên cứu về
khẩu hiệu xã hội. Barton [50] đã khảo sát yếu tố “lặp” trong diễn ngôn bằng cách
miêu tả các chức năng đa dạng của cách dùng lặp đi lặp lại các khẩu hiệu trong
nhóm cha mẹ và trẻ khuyết tật tham gia nghiên cứu. Biện pháp này tỏ ra là đã thực
hiện tốt chức năng truyền đạt thông tin và chức năng tương tác giữa các thành viên
trong nhóm. Cũng chính tác giả này tìm ra hai chức năng chính của khẩu hiệu đó là
chức năng thông tin và chức năng tương tác. Ngoài việc cung cấp các thông tin cần
thiết, khẩu hiệu còn giúp tác động quan điểm, cách nhìn của mọi người đối với
thông tin đó, và chúng còn thực thi chức năng tương tác để thiết lập sự gắn kết chặt
chẽ giữa các thành viên tham gia trong cuộc giao tiếp đó.
Tác giả Marlow [107] với bài viết “Phân tích khẩu hiệu để trợ giúp học sinh
thành công” đã phân tích cách tạo ra các khẩu hiệu có ý nghĩa về mặt ngôn từ để
không chỉ hô hào “suông”, mà có thể hiểu được bản chất vấn đề nỗ lực học tập trong
các trường trung học để từ đó, viết được những khẩu hiệu thực sự giúp kích hoạt sự
tự thân vận động và khám phá bản thân của học sinh trong trường học.
Gonzales và cộng sự [79] khảo sát cách dùng khẩu hiệu để tạo ra các thay đổi
chiến lược trong một cơ quan, tổ chức. Đặc biệt, nhóm nghiên cứu đã vạch ra được
các khẩu hiệu mà lãnh đạo trường Đại học Border - tọa lạc ở biên giới Mexico và
Hoa Kỳ - đã dùng để giải thích và biện luận cho việc dịch chuyển trường đại học từ
một trường đại học vùng chỉ chuyên giảng dạy sang một trường đại học quốc gia
danh tiếng. Nhóm nghiên cứu còn chỉ ra rằng các khẩu hiệu mà lãnh đạo nhà trường
35
sử dụng trong chiến lược quản lý được xây dựng trên các nguyên tắc về lô-gic nhưng
hết sức mềm dẻo về ngôn từ, từ đó kích thích được những người tham gia đưa ra các
câu hỏi cũng như ý kiến phê bình đóng góp về sự thay đổi có lợi cho nhà tổ chức.
Trong nước, luận văn thạc sĩ của Trương Thành Khải [140] về đặc điểm
ngôn ngữ của khẩu hiệu tiếng Anh và tiếng Việt cũng đã cung cấp cho người đọc
một cái nhìn khá tổng quan về các đặc điểm ngôn ngữ (ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ
dụng) của khẩu hiệu cũng như so sánh đối chiếu các đặc điểm này của khẩu hiệu
trên tư liệu tiếng Anh và tiếng Việt. Luận văn đã chỉ ra các đặc trưng ngữ pháp, ngữ
nghĩa và ngữ dụng của 500 mẫu khẩu hiệu thu thập được ở cả hai thứ tiếng.
Từ lịch sử vấn đề nghiên cứu về khẩu hiệu nói trên, có thể thấy rằng hầu hết
các nghiên cứu về khẩu hiệu đều thuộc về lĩnh vực khẩu hiệu quảng cáo; các nghiên
cứu về khẩu hiệu chính trị - xã hội thì thiên về phân tích đặc điểm ngôn ngữ theo
khung lý thuyết của hệ cấu trúc luận vốn đã bộc lộ nhiều hạn chế trong cách nhìn
nhận ngôn ngữ và vai trò của ngôn ngữ trong đời sống xã hội. Một số nghiên cứu
khác thì phân tích khẩu hiệu theo hướng ngôn ngữ truyền thông. Qua đó, bản thân
tác giả nhận thấy vẫn còn vấn đề bỏ ngỏ liên quan đến khẩu hiệu, đặc biệt là KH
CT-XH, tạo điều kiện cho chúng tôi đi sâu nghiên cứu đó là: Phân tích diễn ngôn
khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Anh và tiếng Việt theo đường hướng Phân tích
diễn ngôn phê phán để nhận diện cơ chế sử dụng quyền lực trong diễn ngôn và
việc thể hiện tư tưởng, thái độ của những người soạn thảo và ban hành KH CT-
XH cũng như những vấn đề chính trị - xã hội phản ánh thông qua diễn ngôn, từ
đó giúp người phát ngôn kiến tạo những khẩu hiệu đảm bảo các chức năng và độ
thuyết phục về mặt ngôn ngữ, đồng thời phát huy được các chức năng của ngôn
ngữ để làm thông điệp tuyên truyền hiệu quả trong đời sống chính trị - xã hội
của mỗi quốc gia.
1.4. Tiểu kết chương 1
Như vậy với việc tìm hiểu những vấn đề thuộc về lý luận và thực tiễn liên
quan đến diễn ngôn khẩu hiệu, chương 1 đã phân tích và làm rõ những khái niệm cơ
bản và cốt lõi nhất của khẩu hiệu cũng như các vấn đề liên quan, xác lập được một
định nghĩa khu biệt về khẩu hiệu chính trị - xã hội phục vụ cho mục tiêu và nhiệm
36
vụ của luận án. Theo đó, các khái niệm khẩu hiệu nói chung, khẩu hiệu quảng cáo
và khẩu hiệu chính trị - xã hội được làm rõ và phân biệt, các tiêu chí hình thức và
nội dung của khẩu hiệu, tính chất, đặc điểm kết cấu ngữ pháp, chức năng nhiệm
vụ… của khẩu hiệu được giải thích và chứng minh. Tiếp đến, chương 1 còn trình
bày một khung lý luận bao gồm các lý thuyết chủ đạo phục vụ cho công trình
nghiên cứu và các lý thuyết bổ trợ cho việc giải thích những tương đồng và dị biệt
giữa hai nghiệm thể. Các lý thuyết này bao gồm lý thuyết phân tích diễn ngôn,
đường hướng phân tích diễn ngôn phê phán với các khái niệm về quyền / thế, hệ tư
tưởng và các nguyên tắc cơ bản, phương pháp và các bước tiến hành phân tích diễn
ngôn. Phần cơ sở lý luận còn nêu những hiểu biết của tác giả về công tác phân tích
CDA dựa trên nền tảng ngôn ngữ học là lý thuyết ngữ pháp chức năng hệ thống. Lý
thuyết Ngữ pháp chức năng hệ thống của Halliday là cơ sở ngôn ngữ học để tiến hành
phân tích diễn ngôn và tìm hiểu các đặc điểm ngôn ngữ của KH CT-XH như cách sử
dụng từ ngữ, các cấu trúc ngữ pháp và kết cấu diễn ngôn của khẩu hiệu chính trị - xã
hội. Trên cơ sở ba siêu chức năng của ngôn ngữ đó là chức năng ý niệm (kinh nghiệm
của người nói về thế giới), chức năng liên nhân (quan hệ xã hội của người nói và người
nghe) và chức năng tạo văn bản (cấu trúc diễn ngôn), luận án chọn mô hình PTDNPP
của Norman Fairclough để tiến hành các bước phân tích và thuyết giải. Đồng thời,
với việc áp dụng một số ứng dụng ngữ dụng học như lý thuyết hành động ngôn từ
và lý thuyết giao tiếp với tương tác xã hội và các giá trị liên nhân, luận án mong
muốn phân tích đối chiếu đặc điểm diễn ngôn của KH CT-XH ở hai thứ tiếng; lý
giải sự tương đồng và khác biệt của hai nghiệm thể diễn ngôn khẩu hiệu dưới góc
độ tập quán xã hội, cũng như nhận diện cơ chế sử dụng quyền lực và thái độ, hệ tư
tưởng, các quy tắc ứng xử xã hội… của cơ quan quyền lực trong việc ban hành KH
CT-XH với các kiểu ngôn ngữ tương ứng.
37
CHƯƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ CỦA DIỄN NGÔN KHẨU HIỆU
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TIẾNG ANH DUỚI GÓC NHÌN CỦA
LÝ THUYẾT PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN PHÊ PHÁN
2.1. Đặt vấn đề
Chương 2 của luận án dành cho việc nghiên cứu các đặc điểm ngôn ngữ của
diễn ngôn khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Anh theo quan điểm của lý thuyết phân tích
diễn ngôn phê phán. Bằng cách áp dụng lý thuyết Ngữ pháp chức năng hệ thống,
chương này thể hiện phần phân tích các giá trị kinh nghiệm, giá trị quan hệ, và giá trị
biểu cảm của từ ngữ, các hiện tượng ngữ pháp và các kiểu liên kết câu, mệnh đề...
trong diễn ngôn KH CT-XH tiếng Anh; qua đó khám phá và bộc lộ các mối quan hệ
giữa hệ tư tưởng, thái độ của người phát ngôn - cơ quan ban hành khẩu hiệu - với
ngôn ngữ trong diễn ngôn khẩu hiệu.
Ngữ liệu dùng cho chương này là 500 mẫu diễn ngôn KH CT-XH tiếng Anh
dựa trên sự tập hợp từ nhiều nguồn khác nhau (tài liệu viết, tài liệu mạng, kho lưu trữ
thông tin của cơ quan ban hành, biểu ngôn biểu ngữ trên đường phố và ở các cơ quan -
công sở, trường học, chỗ công cộng, trong các áp phích cổ động và trong báo chí). KH
CT-XH tiếng Anh trong phạm vi nghiên cứu của luận án chủ yếu được thu thập từ xã
hội Mỹ cho nên bối cảnh chính trị xã hội được dùng để phân tích cũng là nền văn hóa
của đất nước nói tiếng Anh này. Ngoại trừ các khẩu hiệu chính trị liên quan đến công
tác vận động bầu cử ở Mỹ được tập hợp trong một giai đoạn khá dài (từ thập kỷ 50 đến
đầu thế kỷ 21), còn những khẩu hiệu khác chủ yếu được sử dụng trong giai đoạn từ
1990 đến nay. Thể loại khẩu hiệu được lựa chọn là khẩu hiệu chính trị - xã hội và phản
ánh nhiều nội dung chủ đề khác nhau. Tất cả các khẩu hiệu này đều đã và đang được sử
dụng trong thực tế và cũng đã phát huy được tác dụng to lớn trong công tác tuyên
truyền, giáo dục, thuyết phục vận động quần chúng nói chung và một số đối tượng
chuyên biệt nói riêng trong hơn 50 năm qua.
38
2.2. Khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Anh – một số vấn đề chung
2.2.1. Bối cảnh xã hội của khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Anh
Bối cảnh xã hội chủ đạo của KH CT-XH tiếng Anh là nền văn hóa Hoa Kỳ. Ở
Hoa Kỳ, KH CT-XH được xem là một trong những kênh thông tin tuyên truyền chủ
yếu và là công cụ cho rất nhiều chiến dịch truyền thông quan trọng trên nhiều mặt của
đời sống chính trị - xã hội. Thông qua các phương tiện này, KH CT-XH thể hiện
được vai trò giáo dục ý thức và góp phần làm điều chỉnh hành vi của người tham gia
giao tiếp. Hơn thế, KH CT-XH còn giúp thể hiện uy quyền của người phát ngôn ở
một tình huống xã hội nhất định. Để chuyển tải những thông điệp giáo dục và vận
động ấy đến người dân và các đối tượng đặc biệt khác, các cơ quan ban hành và biên
soạn KH CT-XH đã có sự cân nhắc kỹ việc lựa chọn ngôn từ và cách thể hiện các đặc
trưng ngôn ngữ cũng như đặc trưng diễn ngôn. Thực tế còn cho thấy rằng các giá trị
chính trị, văn hóa, xã hội của một dân tộc có những tác động đáng kể đến việc ban
hành những KH CT-XH đến với công chúng.
Tuy nhiên, Hoa Kỳ là một trong những quốc gia có thể chế chính trị xã hội
có nhiều khác biệt so với Việt Nam. Điều này có thể dẫn đến những khác biệt trong
việc thiết kế nội dung vận động của KH CT-XH sẽ được bàn luận trong chương 4
của công trình. Điều đáng nói nhất ở đây là thái độ tiếp nhận của người dân ở nước
này đối với KH CT-XH. Các quy định trong thể chế chính trị và một số quyền phát
ngôn của con người trong xã hội Mỹ đã làm cho việc thể hiện quyền phát ngôn
trong KH CT-XH cũng như việc chấp hành và tiếp nhận của người dân đối với khẩu
hiệu thuộc dạng này không phải lúc nào cũng thuộc quyền kiểm soát của cơ quan
quyền lực trực tiếp ban hành khẩu hiệu đó. Cho nên bối cảnh chính trị xã hội dùng
để làm nền tảng phân tích ở chương này là dựa trên nền văn hóa xã hội Mỹ.
Ngoài ra, KH CT-XH tiếng Anh không chỉ do các cơ quan quyền lực hay các
tổ chức nhà nước ban hành, mà một phần không nhỏ là do người dân tự phát viết trên
các băng-rôn, biểu ngữ và mang theo trong các cuộc tuần hành, biểu tình hay đơn
giản chỉ treo ở những nơi công cộng để nhiều người được biết đến. Mục tiêu của các
khẩu hiệu này là sự đòi hỏi của người dân cho các vấn đề chính trị - xã hội được
39
chính quyền xem xét, giải quyết; hoặc một số khác là để bày tỏ sự chống đối với các
chính sách chưa phù hợp. Ví dụ như các khẩu hiệu biểu tình đòi đánh thuế người giàu
trên phố Wall - New York - Mỹ; khẩu hiệu phản đối việc cảnh sát da trắng bắn chết
nam thanh niên da màu ngay cả khi người này đã đưa tay lên hàng…
2.2.2. Nội dung chủ đề của khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Anh
Rất nhiều nhà nghiên cứu về tuyên truyền và truyền thông cho rằng đối với
KH CT-XH cần thiết nhất vẫn là tính chủ đề hay tính thời sự (topical). Chủ đề của
KH CT-XH phản ánh tác động của điều kiện chính trị - xã hội của mỗi quốc gia đến
cách vận động và thuyết phục người dân. Đối tượng tiếp nhận sự vận động này cũng
có nhiều đặc điểm khác nhau ở mỗi quốc gia. Việc một chính quyền, cơ quan ban
ngành chủ trương tập trung vào một số chủ đề này hoặc quyết định phát sinh một số
chủ đề mới cũng phản ánh những thay đổi về mặt chủ trương, đường lối, chính sách,
các thể chế chính trị và các tập quán xã hội khác nhau. Chủ đề của KH CT-XH tiếng
Anh cũng không nằm ngoài quy luật đó. Các khẩu hiệu thuần túy về chủ đề chính trị
như khẩu hiệu quốc gia (national slogan), khẩu hiệu liên bang (state slogan) (là những
khẩu hiệu chính thức và là biểu tượng của liên bang đó) và khẩu hiệu tranh cử tổng
thống (president election slogan) đã có từ rất sớm trong lịch sử phát triển Hoa Kỳ (từ
1840) và vẫn tồn tại qua nhiều giai đoạn (thế kỷ 18, 19, 20) cho đến ngày nay. Tuy
nhiên, đa số các KH CT-XH thuộc các chủ đề khác đều xuất hiện đúng vào nhiều thời
điểm lịch sử khác nhau và tồn tại cho đến khi giá trị thuyết phục vận động của chúng
vẫn còn có tác dụng trong các mặt của đời sống chính trị xã hội. Khẩu hiệu chống
phân biệt chủng tộc có thể đã có mặt vào khoảng thế kỷ thứ 17 khi mà cuộc đấu tranh
này bắt đầu diễn ra ở Mỹ vào những năm đầu thế kỷ 16. Tuy nhiên đến đầu thế kỷ 21,
vẫn còn khá nhiều khẩu hiệu chống phân biệt chủng tộc ở Mỹ khi vấn đề này đến nay
vẫn còn nhức nhối trong đời sống chính trị của người dân Mỹ. Tương tự, vấn đề
quyền động vật xuất phát từ các luận điểm của học thuyết Darwin và sự phản ứng của
người dân phương Tây đối với sự đối xử tàn bạo với động vật. Đến thế kỷ 20, phong
trào bảo vệ quyền động vật đã có những chuyển biến quan trọng và đặc biệt là sang
đầu thế kỷ 21, trở thành nhiều làn sóng mạnh mẽ cũng như có nhiều tổ chức bảo vệ
40
quyền động vật được hình thành trên quy mô quốc gia và quốc tế. Trước tình hình đó,
chủ đề quyền động vật cũng được đưa vào thành một nhóm chủ đề của KH CT-XH
tiếng Anh và chiếm một vị trí tương đối chủ đạo.
Thực tiễn xã hội của các nước nói tiếng Anh trong 50 năm sau của thế kỷ 20
cũng đã được thể hiện trong các nhóm chủ đề mà KH CT-XH tiếng Anh phản ánh.
Bên cạnh đó, xuất hiện thêm nhiều vấn đề chính trị xã hội nóng bỏng mà các quốc
gia phải đối mặt trong bối cảnh toàn cầu hóa. Thế giới phẳng đầu thế kỷ 21 đã tạo ra
cho cả thế giới cơ hội lẫn thách thức không thể lường trước được, và tất cả đều được
phản ánh vào trong diễn ngôn khẩu hiệu.
Kết quả khảo sát 500 mẫu diễn ngôn khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Anh
cho thấy chủ đề của khẩu hiệu phân bố trên một số lĩnh vực chính sau đây:
Bảng 2.1 Chủ đề chính của khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Anh
Stt Chủ đề khẩu hiệu Số lượng khẩu
hiệu (N=500)
Tỉ lệ (%)
1 Môi trường và năng lượng 89 17,8 2 An toàn lao động 68 13,6 3 Chính trị - Bầu cử 66 13,2 4 An toàn giao thông - Tác hại của bia rượu 58 11,6 5 Tác hại của thuốc lá 39 7,8 6 Quyền động vật 39 7,8 7 Quan hệ thân tộc, bằng hữu 28 5,6 8 Sức khỏe - Vệ sinh 22 4,4 9 Thể thao - Tinh thần cộng đồng 25 5,0
10 Gây quỹ - Từ thiện 19 3,8 11 Chống phân biệt chủng tộc 16 3,2 12 Chống khủng bố - Tẩy chay súng đạn 16 3,2 13 Chống buôn người và di dân bất hợp pháp 15 3,0
Như được chỉ ra ở bảng 2.1, chủ đề của khẩu hiệu tiếng Anh thể hiện sự đa
dạng và ưu tiên về trọng tâm. Đây là cách phản ánh các đặc điểm trong chính sách
tuyên truyền của Hoa Kỳ. Nhóm 3 chủ đề có số lượng khẩu hiệu nhiều nhất đã phản
ánh sự ưu tiên hàng đầu của các quốc gia phát triển hàng đầu của thế giới này vẫn là
các vấn đề về môi trường - năng lượng, an toàn lao động và chính trị - bầu cử. Ngoài
việc vấn đề môi trường là sự quan tâm chung của toàn cầu, thì vấn đề an toàn lao
động cũng thể hiện sự quan tâm của các nước phát triển tới nhân tố con người và đảm
41
bảo sự an toàn cho người lao động-nguồn nhân lực. Cuối cùng vấn đề chính trị - bầu
cử cũng là mối quan tâm lớn của cơ quan quyền lực cũng như người dân ở các nước
này bởi thể chế chính trị ở các nước nói tiếng Anh này có những quy định riêng đối
với công tác bầu cử và vận động tranh cử. Nhóm chủ đề chiếm sự quan tâm đứng vào
hàng thứ hai là tác hại của bia rượu đối với vấn đề an toàn giao thông, tác hại của
thuốc lá, quyền động vật và quan hệ thân tộc-bằng hữu. Cuối cùng, tuy có số lượng
khẩu hiệu không nhiều nhưng nhóm chủ đề thuộc quan tâm hàng thứ 3 cũng phản ánh
những nội dung về chiến lược tuyên truyền ở các nước nói tiếng Anh đó là vấn đề gây
quỹ - công tác thiện nguyện, chống phân biệt chủng tộc và chống nạn buôn người - di
dân bất hợp pháp, chống khủng bố và tẩy chay súng đạn (đề tài đang nóng trở lại
trong nhiều năm nay). Điểm mới về chủ đề ở đây là sự tồn tại của các chủ đề này qua
thời gian gần 4-5 thập kỷ đã chứng tỏ sự quan tâm thường xuyên của chính phủ các
quốc gia trong công tác tuyên truyền và đấu tranh để đem đến một xã hội công bằng,
văn minh và đầy tính nhân văn hơn cho mỗi người dân, đảm bảo cho họ những quyền
lợi chính đáng nhất về con người.
Từ thực tế này, có thể thấy rằng việc lựa chọn các chủ đề cho KH CT-XH là
nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan thông tin tuyên truyền hay bộ máy quản lý hành
chính nhà nước của bất kì một quốc gia nào. Từ những ưu tiên trong chính sách tuyên
truyền, các cơ quan chức năng sẽ thiết kế nội dung khẩu hiệu trên các chủ đề nhằm
mục đích làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền, vận động cộng đồng về thực hiện
đúng chính sách, chủ trương đã được nhà nước ban hành.
2.2.3. KH CT-XH - đối tượng nghiên cứu của CDA
Xuất phát từ ý nghĩa, chức năng nhiệm vụ và mục tiêu nghiên cứu, đối tượng
của phân tích diễn ngôn phê phán thường là các bài phát biểu của các chính khách
trước công chúng, các cuộc nói chuyện, những cuộc trả lời phỏng vấn, bài báo và
những lĩnh vực tuyên truyền chính trị nhằm thực hiện mục tiêu phô diễn quyền lực
hay bộc lộ hệ tư tưởng, thái độ, những suy nghĩ nhận xét của cá nhân người phát
ngôn… qua đó thuyết phục người nghe chấp nhận và ủng hộ các quan điểm chính trị,
các nội dung tuyên truyền hay các giá trị văn hóa-xã hội.
42
Khẩu hiệu chính trị - xã hội là loại hình tuyên truyền phổ biến trong xã hội hiện
đại nhằm mục đích giáo dục và thuyết phục cộng đồng về những vấn đề chính trị - xã
hội của một quốc gia. Ở nhiều quốc gia trên thế giới, khẩu hiệu truyền thông càng
chứng tỏ là một trong những kênh tuyên truyền quan trọng nhằm giúp các cơ quan
chức năng tuyên truyền giáo dục việc thực hiện tốt các nhiệm vụ, chủ trương, chính
sách pháp luật của nhà nước hoặc các nhóm cá nhân muốn bày tỏ quan điểm với các cơ
quan quyền lực. Lời lẽ súc tích, ngắn gọn, cách sử dụng từ ngữ văn phong khúc chiết,
có giá trị biểu cảm cao đã làm cho KH CT-XH trở thành công cụ tuyên truyền hiệu quả
khi thực hiện các chức năng của nó bao gồm tuyên truyền, vận động, thuyết phục, giáo
dục… Cũng thông qua các chức năng này của KH CT-XH mà hệ tư tưởng, suy nghĩ,
thái độ cũng như các giá trị văn hóa-xã hội của các tổ chức chính quyền, cơ quan đoàn
thể ban hành khẩu hiệu cũng được bộc lộ. Chính vì thế, KH CT-XH đã trở thành đối
tượng của phân tích diễn ngôn phê phán vì việc phân tích sẽ giúp bộc lộ các quan hệ
quyền - thế và các quan hệ xã hội khác ẩn chứa đằng sau việc sử dụng ngôn ngữ trong
khẩu hiệu. CDA theo đường hướng chức năng hệ thống với ứng dụng của ngữ pháp
chức năng sẽ giúp làm rõ những đặc điểm ngôn ngữ của khẩu hiệu chính trị - xã hội
tiếng Việt với mục đích khám phá các mối quan hệ giữa hệ tư tưởng, thái độ của người
phát ngôn, ban hành khẩu hiệu với ngôn ngữ trong diễn ngôn khẩu hiệu.
2.3. Những đặc điểm sử dụng từ ngữ của diễn ngôn khẩu hiệu chính trị - xã hội
tiếng Anh theo quan điểm của Lý thuyết phân tích diễn ngôn phê phán
2.3.1. Giá trị kinh nghiệm của từ ngữ
Quan điểm phân tích diễn ngôn phê phán của Fairclough (được áp dụng
trong công trình luận án này) có điểm khác nhau cơ bản với quan điểm của Foucault
[73], [74] ở chỗ nhấn mạnh vai trò về mặt kí hiệu của diễn ngôn. Trong khi
Foucault ít chú trọng đến mặt kí hiệu diễn ngôn thì phân tích diễn ngôn phê phán,
theo Fairclough, là giải quyết các vấn đề xã hội và là những vấn đề được kí hiệu
hóa. Phân tích diễn ngôn là phân tích mặt biểu đạt của các quan hệ xã hội (phân tích
ngôn ngữ). Fairclough động viên những người phân tích CDA phân tích văn bản từ
góc độ ngôn ngữ học với các yếu tố ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và
các hình thức tổ chức diễn ngôn. CDA bắt nguồn từ sự nhận thức về thực tiễn xã hội
43
có liên quan đến diễn ngôn. Các vấn đề xảy ra trong hoạt động thực tiễn xã hội có
thể liên quan đến chức năng kinh nghiệm, liên nhân hay tạo văn bản. Và đây chính
là cách mà ngữ pháp chức năng hệ thống của Halliday tiếp cận ngôn ngữ. Trước hết,
chúng tôi muốn bàn luận về chức năng kinh nghiệm của ngôn ngữ, mà cụ thể là giá
trị kinh nghiệm của từ ngữ trong KH CT-XH tiếng Anh.
Fairclough [68] xác định rõ khái niệm “kinh nghiệm” được sử dụng trong mô
hình phân tích diễn ngôn này tương tự như ngữ pháp kinh nghiệm của Halliday. Thế
giới kinh nghiệm trong ngữ pháp chức năng của Halliday là kinh nghiệm của các tham
thể về thế giới tự nhiên và thế giới xã hội, là nội dung thông báo, tri thức và niềm tin.
Kinh nghiệm của người phát ngôn về thế giới tự nhiên và xã hội cùng những sự việc
xảy ra chung quanh họ đã được phản ánh vào cách kiến tạo diễn ngôn. KH CT-XH
tiếng Anh tập trung phản ánh những vấn đề chính trị - xã hội đang được quan tâm nên
trường diễn ngôn là các vấn đề chính trị - xã hội. Bảng 2.2 chỉ ra các trường từ vựng
chính trị - xã hội ở mỗi chủ đề của khẩu hiệu tiếng Anh.
Bảng 2.2 Trường từ vựng của các chủ đề KH CT-XH tiếng Anh
Stt Chủ đề khẩu hiệu Trường từ vựng chính trị - xã hội Tần suất (*)
1 Environment-Energy
(Môi trường và năng lượng)
water, conserve, save, recycle, energy,
power, earth, waste, trash, turn off the
lights, electricity, cut trees , protect,
better
95/89
2 Safety (An toàn lao động) safe/safety, save, life, protect, fire 71/68
3 Politics - Election
(Chính trị - Bầu cử)
change, people, power, believe, leader,
proper (name of countries)
27/66
4 Road safety - Drinking (An
toàn giao thông và tác hại của
uống bia rượu đến việc lái xe)
driving, drinking, drunk, live, accident,
kill, alcohol/alcoholic/alcoholism, drug
60/57
5 Anti-smoking
(Tác hại của thuốc lá)
smoke/smoking, cigarette, die/death,
addictive, harm/ful, say yes/no, tobacco,
kill, drug, suicide/suicidal
53/39
6 Animal rights
(Quyền động vật)
animal, bird/pet, right, sake, kill, fake,
neglect, respect, care
33/39
7 Relations - Family & Friends
(Quan hệ thân tộc - bằng hữu)
friend, family , together 33/28
8 Health - Hygiene
(Sức khỏe - Vệ sinh)
health/ healthy, best , clean 8/22
44
9 Sports (Thể thao - Tinh thần
cộng đồng)
team, champion, achieve, pain 17/25
10 Fund-raising (Gây quỹ - Từ
thiện)
give, contribute, need 12/19
11 Anti-racism (Chống phân
biệt chủng tộc)
race, racism, racial, racist, color,
discrimination, fight
18/16
12 Anti-terrorism and gun
boycott (Chống khủng bố -
tẩy chay súng đạn)
terrorism, terrorist, gun, violence,
security religion, risk, protest
22/16
13 Anti-trafficking and Illegal
Immigration (Chống buôn
người và di dân bất hợp pháp)
human, traffick, illegal, immigrate, stolen 19/15
(*) số lượt xuất hiện của từ ngữ trên tổng số diễn ngôn khẩu hiệu ở mỗi chủ đề
Các vấn đề chính trị - xã hội được chính phủ các nước nói tiếng Anh và giới
truyền thông quan tâm đầu tiên là nhóm các vấn đề môi trường - năng lượng, an toàn
lao động, và chính trị-vận động bầu cử. Trước hết, đối với vấn đề môi trường-năng
lượng, nỗi lo về tác hại to lớn của ô nhiễm môi trường, sự thiếu hụt nguồn năng lượng
từ thiên nhiên và năng lượng dự trữ cho tương lai đã trở nên thường trực trong quốc
sách của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển như Hoa Kỳ. KH
CT-XH về lĩnh vực này có khá nhiều các từ ngữ phản ánh sự quan tâm của con người
đối với vấn đề này như water, conserve, save, recycle, energy, power, earth, waste,
trash, turn off the lights, electricity, cut trees , protect, better. Trong đó, hai khái niệm
water (nước) và conserve (bảo tồn) được sử dụng với tần suất rất cao. Đây là những
quan sát của con người đã được phản ánh qua lăng kính thế giới kinh nghiệm của họ.
Qua đây cũng có thể thấy việc phản ánh các vấn đề thuộc chủ đề môi trường và năng
lượng của các nước nói tiếng Anh nói lên rằng bên cạnh những vấn đề chung khác
liên quan đến bảo vệ môi trường và tiết kiệm nguồn năng lượng thì vấn đề ưu tiên
nhất của họ vẫn là sự thiếu hụt nguồn nước sạch và sự cần thiết phải tiết kiệm nước.
Bên cạnh đó, tuy các nước này rất phát triển ngành công nghiệp điện, thậm chí đã sử
dụng cả điện hạt nhân nên nguồn năng lượng điện và sản lượng điện dự trữ có thể rất
dồi dào, nhưng trong chính sách về môi trường và năng lượng, khái niệm turn off
lights (tắt đèn) được kêu gọi rất thường xuyên. Khẩu hiệu về môi trường tiếng Anh
luôn được kết nối với chủ đề năng lượng điện và tài nguyên nước. Có 33,7% khẩu
hiệu về môi trường nhắc đến những cụm từ ngữ energy (năng lượng), save power
45
(tiết kiệm điện), turn off lights (tắt đèn), conserve water sources (bảo vệ nguồn nước),
save water (tiết kiệm nước).
Ngoài ra một vấn đề khác thú vị nữa là một số khẩu hiệu môi trường lại kết
nối với hậu quả của việc tăng dân số (5,6%) với các từ ngữ overpopulation (đông
dân), population explosion (bùng nổ dân số), và adopt children (xin con nuôi). Rất
nhiều người dân Hoa Kỳ bày tỏ quan tâm đến vấn đề môi trường. Trong các cuộc bầu
cử các chức danh cấp bang hay cấp quốc gia, các ứng viên đều nói về vấn đề môi
trường trong chiến dịch vận động của họ. Mỗi năm, công dân và các doanh nghiệp
đóng góp hàng triệu đô la, cũng như hàng tỉ đô la tiền thuế quốc gia cũng được chi ra
để thực thi các chính sách về môi trường và kiểm soát nguồn năng lượng. Những thập
kỷ gần đây Hoa Kỳ đã nỗ lực giảm thiểu các kiểu ô nhiễm và làm tăng chất lượng
nước sạch ở nhiều nơi. Với cục bảo vệ môi trường ra đời vào những năm 70, qua hơn
4 thập kỷ họ đã làm được tất cả những điều đó bằng các chính sách lớn nhỏ, thông
qua hàng chục đạo luật khác nhau (đạo luật chính sách năng lượng, đạo luật chất
lượng không khí, chất lượng nước, quản lý rác thải và chất thải độc hại…) và được
phối hợp thực hiện bởi hàng chục cơ quan bộ, ngành, ủy ban từ trung ương tới địa
phương (lập pháp, hành pháp, quốc phòng, tài chính, y tế, môi trường, nông nghiệp,
giao thông…). Đặc biệt là cuộc khủng hoảng dầu lửa năm 1973 đã đẩy nước Mỹ vào
tình trạng căng thẳng. Từ đây, nhiều chương trình kiểm soát và thúc đẩy việc sử dụng
nhiên liệu hiệu quả ở mỗi tiểu bang đã trở thành nột thành tố quan trọng trong quốc
sách của Hoa Kỳ. Nhiều vị tổng thống Hoa Kỳ, trong đó có ông Obama, đã kí các đạo
luật hướng đến việc giảm thiểu lượng khí thải CO2 ra môi trường, đồng thời khuyến
khích phát triển các loại nhiên liệu-năng lượng mới bền vững. Và cũng chính nhờ
những sách kịp thời và hiệu quả về công nghệ mà năm 2014, Hoa Kỳ đã trở lại vị trí
chủ chốt trước đây của họ trên thị trường sản xuất dầu lửa của thế giới.
Một sự liên hệ thực tế với thế giới kinh nghiệm khác được thể hiện trong diễn
ngôn khẩu hiệu về môi trường là một số khẩu hiệu kêu gọi bảo vệ môi trường thông
qua việc cắt giảm dân số, với các từ ngữ adopt a child (nuôi con nuôi), overpopulation
(đông dân), population explosion (bùng nổ dân số). Cách kêu gọi bảo vệ môi trường
46
của khẩu hiệu tiếng Anh gắn với những khía cạnh năng lượng như đã nêu trên là rất rõ
ràng. Bên cạnh đó, tuy vấn đề dân số ở Hoa Kỳ không phải là vấn đề đáng quan ngại,
nhưng các cơ quan tuyên truyền vẫn ý thức được mối liên hệ khăng khít giữa việc khai
thác năng lượng và các nguồn tài nguyên để phục vụ con người với tình trạng xuống
cấp của môi trường và sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên này. Cho nên, đưa vấn đề dân
số vào KH CT-XH để cảnh báo về tình trạng môi trường đối với đời sống xã hội Mỹ là
một vấn đề dễ hiểu và là phương thức phản ánh khá trung thực thực tiễn xã hội Mỹ vào
trong diễn ngôn. Tình hình và điều kiện này cho thấy việc ban hành các khẩu hiệu về
môi trường và năng lượng là một trong những biện pháp cấp bách để giúp tuyên truyền
thực thi các chủ trương chính sách của chính phủ Hoa Kỳ trong nhiều thập kỉ qua.
Tiếp đến, hai vấn đề nổi bật khác thuộc nhóm ưu tiên hàng đầu là khẩu hiệu an
toàn lao động và khẩu hiệu chính trị - vận động bầu cử. An toàn lao động là một trường
diễn ngôn về vấn đề xã hội với hơn 300 diễn ngôn KH CT-XH riêng biệt (trong luận án
này so với tương quan tổng số khẩu hiệu, chúng tôi chỉ chọn 68 mẫu). Với trường diễn
ngôn này, các từ ngữ phản ánh giá trị kinh nghiệm gồm safe, safety (an toàn) (với tần
suất 56 lần trong 68 diễn ngôn), save (cứu), life (cuộc sống), protect (bảo vệ), security
(an ninh), fire (hỏa hoạn). Những từ ngữ này nhằm hướng người nghe đến những giá trị
của việc đảm bảo an toàn trong lao động và công việc. Phạm vi của vấn đề an toàn trong
KH CT-XH tiếng Anh có thể là an toàn thực phẩm, an toàn cho sức khỏe và tính mạng
con người, an toàn với mạng máy tính của cơ quan hoặc an toàn cho các tòa nhà công
cộng… Nhưng chung quy thì các chỉ số đảm bảo an toàn đều hướng đến yếu tố con
người (human factor) và các khẩu hiệu về an toàn lao động vẫn là đại đa số. Chính sách
an toàn lao động được chính phủ ban hành đưa ra điều kiện cho tất cả các công ty, cơ
quan phải thực hiện nghiêm vấn đề an toàn lao động. Ở một nước phát triển, nơi mà
vấn đề con người được chú trọng như ở Hoa Kỳ, cần thiết phải đảm bảo tính mạng và
sức khỏe của người lao động - nguồn nhân lực - gắn liền với việc thực hiện các biện pháp
an toàn. Để hiểu vấn đề này, hãy cùng xem tổ chức Y tế thế giới định nghĩa yếu tố con
người: “là những yếu tố liên quan đến công việc, tổ chức hay môi trường, cũng như liên
quan đến từng cá nhân con người có thể ảnh hưởng đến công việc theo cách chúng tác
động đến sức khỏe và sự an toàn”. Như vậy, có thể thấy rằng diễn ngôn KH CT-XH
47
trong chủ đề an toàn đã phản ánh đúng những chính sách quốc gia về an toàn lao động, đặc
biệt là sử dụng các từ ngữ phản ánh sự liên hệ giữa yếu tố an toàn và yếu tố con người.
Trong khi đó, chủ đề chính trị - vận động bầu cử lại là một lĩnh vực khá thú
vị. Khẩu hiệu thuộc lĩnh vực này có độ dài văn bản tương đối ngắn gọn nhưng mỗi
từ ngữ đều chứa đựng nhiều yếu tố phản ánh sâu sắc thế giới kinh nghiệm của người
phương Tây - mà cụ thể là người dân Anh-Mỹ khi họ thể hiện lập trường chính trị.
Cho nên có thể thấy có nhiều từ ngữ thuộc trường diễn ngôn ở lĩnh vực này như
change (thay đổi), people (người dân), power (quyền lực), believe (tin, lòng tin),
leader (lãnh đạo), empire (đế chế), the rich (người giàu), the poor (người nghèo),
Black (người da đen), Red (cộng sản), agree (đồng ý), vote (bỏ phiếu), overtake (lật
đổ), war (chiến tranh), tên các ứng viên bầu tổng thống (Roosevelt, Clinton,
Obama), tên các nước (America, Australia, Scotland…). Ở Hoa Kỳ hay Anh Quốc,
việc bầu ra một người đứng đầu một đảng phái hay nhà nước là một quá trình tranh
cử công khai, kéo dài với nhiều chiến dịch rầm rộ, quy mô và với sự đầu tư thích
đáng. Ở các quốc gia có nhiều hơn một đảng phái chính trị như Hoa Kỳ và Anh
quốc chẳng hạn, sự lựa chọn của cử tri và vấn đề tranh cử giữa các đảng phái chính
trị là điều đương nhiên và đúng luật. Khẩu hiệu chính trị và vận động tranh cử tiếng
Anh đã thể hiện được tư tưởng chính trị của những người đại diện cho các đảng
phái đó trong việc vận động người khác nghe theo hay làm theo các chủ trương bầu
cử của mình. Những từ ngữ quan trọng đã giúp bộc lộ những suy nghĩ và thái độ,
qua đó thể hiện quyền lực của các đảng phái trong khi vận động tranh cử thông qua
những góc nhìn về giai cấp (the rich, the poor, class war), về các đảng phái
(Labour), về những vấn đề thời sự (Wall street, bucks, mine, liquor, oil) và cả về
những điều mà người dân thực sự mong muốn tổng thống mới phải cam kết cho
quốc gia (change). Cũng trong trường từ vựng này, nhiều từ ngữ trái nghĩa đã được
sử dụng để thể hiện sự đối lập trong thái độ, tư tưởng và cách nhìn nhận về các giai
cấp trong sự đấu tranh để giành thế vượt trội ở các cuộc vận động tranh cử như the
poor-the rich (nghèo-giàu), poorer-richer (nghèo hơn-giàu hơn) (đối lập hoàn toàn),
hay deeds - words (hành động - lời nói) (đối lập ẩn dụ), peace/love-war (hòa
bình/yêu thương - chiến tranh), danger-chance (hiểm họa - cơ hội). Những quan hệ
48
đồng nghĩa, trái nghĩa được sử dụng khéo léo, và được đặt cạnh nhau trong mỗi diễn
ngôn khẩu hiệu để tạo ra một hiệu ứng tức thời đối với người đọc.
Trong quá trình giúp bộc lộ các giá trị kinh nghiệm của đời sống văn hóa-chính
trị xã hội, KH CT-XH tiếng Anh đặc biệt phản ánh đúng bức tranh về thế giới của xã
hội Hoa Kỳ với nhóm các chủ đề rất thời sự qua một thời gian dài, bao gồm Anti-
racism (chống phân biệt chủng tộc), Anti-terrorism & gun boycott (chống khủng bố -
tẩy chay súng đạn ) và Anti-trafficking & Illegal Immigration (chống buôn người và di
dân bất hợp pháp). Các từ ngữ giúp phản ánh đúng bức tranh này là terrorism, gun,
religion, violence, security, stop, risk, protest (chủ đề chống khủng bố và tẩy chay súng
đạn); race, racism, racial, racist, color, discrimination, fight (chủ đề chống phân biệt
chủng tộc) và human, traffick, illegal, immigrate (chủ đề chống buôn người và di dân
bất hợp pháp). Trước hết, cuộc chiến chống phân biệt chủng tộc là một cuộc chiến
trường kì của những người da màu đòi công bằng và sự khẳng định tại Mỹ. Từ giữa thế
kỉ thứ 19, hàng triệu người châu Phi thuộc nhiều nhóm chủng tộc khác nhau bị đưa đến
Mỹ dưới hình thức mua bán hay trao đổi nô lệ và dần hình thành cộng đồng người Mỹ
gốc Phi với đầy đủ các tín ngưỡng, ngôn ngữ và văn hóa của riêng họ. Từ đó đến nay
trải qua hơn 1,5 thế kỉ, vấn đề sắc tộc và sự kì thị, đối xử phân biệt với người Mỹ gốc
Phi đã tạo ra bao nhiêu cảnh lầm than và đã được nhiều người cũng như nhiều tổ chức
chính trị - xã hội đấu tranh không ngơi nghỉ, nhưng vấn đề này vẫn cứ âm ỉ tồn tại
trong lòng xã hội Mỹ. Khẩu hiệu chống phân biệt chủng tộc vẫn cứ được sử dụng trong
các cuộc đấu tranh bền bỉ liên tục của những người Mỹ gốc Phi và cả những người “da
trắng” yêu chuộng hòa bình. Người Mỹ gốc Phi đòi được đối xử công bằng và được
công nhận như những người Mỹ da trắng khác. Chỉ mới đây vào tháng 8/ 2014, ngay
sau vụ cảnh sát bắn chết một công dân Mỹ người da đen tên Michael Brown, đã có
ngay các khẩu hiệu xuất hiện trong các cuộc tuần hành phản đối như “Stop the racist
killer, cops!” [66] (Hãy dừng ngay các vụ giết chóc mang tính sắc tộc, cảnh sát” hay
“Hands up, don’t shoot” (Đã giơ tay rồi, đừng bắn) và “Say no to racist cops” [A68]
(nói không với cảnh sát phân biệt chủng tộc). Trong các khẩu hiệu này, có thể nhận ra
một số từ ngữ phản ánh kinh nghiệm của một sự việc có tính thời sự hơn trước đó là
“racist killer”, “racist cops”, “hands up”. Những từ ngữ này cho người nghe người
49
đọc thấy một bức tranh kinh nghiệm mới mẻ hơn trong cuộc chiến chống phân biệt
chủng tộc, mà muốn hiểu được nội dung khẩu hiệu, cần phải hiểu được tính chất của sự
việc hay ngữ cảnh tình huống của các sự tình. Vào thời điểm trên, một thanh niên da
màu Michael Brown, 18 tuổi đã bị cảnh sát bắn chết tại thành phố Ferguson (Hoa Kỳ).
Việc một người da màu bị cảnh sát da trắng bắn chết trong khi các nhân chứng cho biết
thanh niên này đã đưa tay lên hàng ngay sau khi bị cảnh sát trấn áp, đã làm bùng lên
làn sóng biểu tình sắc tộc ở Ferguson, bang Missouri. Thành phố này được cho là từng
có quá khứ phân biệt chủng tộc trong những năm 70 - 80 của thế kỉ 20. Như vậy, các
khái niệm cảnh sát phân biệt chủng tộc, kẻ giết người phân biệt chủng tộc… chỉ có giá
trị về mặt nghĩa và có tính tư tưởng trong phạm vi của các tình huống ngữ cảnh trên.
Tiếp đến, đầu thế kỉ 20 khi mà hiện tượng toàn cầu hóa đã lan tỏa và ảnh
hưởng đến hầu khắp các châu lục, toàn thế giới “giật mình” trước những thảm họa
khủng bố cướp đi sinh mạng của hàng triệu người dân vô tội, gây bất ổn trong an
ninh, chính trị và đe dọa nền hòa bình, thịnh vượng của nhiều quốc gia. Trước sự
kiện 11/9 (vụ tấn công khủng bố vào tòa tháp đôi thương mại thế giới WTC), hiện
tượng khủng bố đã được nhen nhóm và xảy ra ở đâu đó trên thế giới. Nhưng phải
thừa nhận rằng từ sự kiện này trở đi, quy mô và tính chất khủng bố đã lên đến đỉnh
điểm đến nỗi người ta luôn bị ám ảnh bởi thuật ngữ terrorism (khủng bố). Mọi việc
đều có nguyên do của nó, khi mà các chính sách chính trị - ngoại giao, kinh tế, tôn
giáo, xã hội giữa các quốc gia vẫn còn nhiều vướng mắc cần giải quyết. Nhưng để
cho người dân vô tội không phải hứng chịu thảm họa, cần thiết phải có những
phong trào chống khủng bố, các biện pháp đấu tranh vẫn cứ phải được tiến hành, và
một trong các biện pháp đó là tuyên truyền bằng hình thức biểu ngữ - KH CT-XH.
Một điều đáng chú ý nữa đó là sự xuất hiện của các từ ngữ liên quan đến tôn giáo
trong khẩu hiệu chống khủng bố (religion, religious, God). Điều này ám chỉ rằng
nguồn gốc sâu xa nhất của khủng bố vẫn là do các cuộc xung đột về tôn giáo, và các
cuộc thánh chiến. Đó cũng là cách thể hiện quyền lực mà các cơ quan ngôn luận
muốn sử dụng nhằm một mặt thể hiện tư tưởng thái độ lên án, mặt khác quy tội cho
các hành động khủng bố và các tổ chức khủng bố đang đi theo các con đường tôn
giáo cực đoan. Mặt khác, khẩu hiệu chống sử dụng súng thiếu kiểm soát hoặc tẩy
50
chay súng đạn ở một số bang ở Hoa Kỳ được thực sự quan tâm khi mà các sự kiện
giết người hàng loạt bằng súng liên tục diễn ra ở các trường học. Từ cuộc tấn công
bằng súng lần đầu tiên xảy ra ở tại đại học Hoa Kỳ vào năm 1966, khi một sinh viên
25 tuổi Đại Học University of Texas - Austin leo lên nóc của một tòa nhà để bắn
chết 16 người, nạn giết người hàng loạt bằng xả súng hiện xảy ra thường xuyên
và làm chết nhiều người hơn so với các thập niên trước. Thông tin của thông tấn xã
Hoa Kỳ cho thấy 14 vụ nổ súng đầu tiên của năm 2014 trong tất cả các trường học
tại Hoa Kỳ diễn ra trong hai tuần lễ đầu của năm. Từ đại học công lập đến đại học
tư nhân, Bắc hay Nam, Đông hay Tây, trường nào cũng có thể là địa điểm tiếp theo
cho một vụ tấn công bằng súng. Hoa Kỳ có số vụ thảm sát ở trường đại học cao hơn
tất cả các nơi khác. Trong các vụ nổ súng giết chết hàng ngàn người Mỹ mỗi thập
niên, theo tài liệu của FBI, cứ mười vụ thì có ba vụ là diễn ra trong khuôn viên
trường học. Từ thực tế này, các khẩu hiệu tẩy chay súng đạn đã phản ánh bằng các
từ ngữ gun control (kiểm soát súng), gun boycott (tẩy chay súng), violence (bạo
lực), stop handguns (thôi sử dụng súng)… để cho thấy những mặt trái của chính
sách cho phép người dân sở hữu súng đạn và sự cần thiết phải kềm chế bạo lực cũng
như tình trạng dùng súng giết người hàng loạt như đã nêu. Đồng thời, diễn ngôn KH
CT-XH đã cho phép người ban hành thể hiện thái độ quan ngại và không đồng tình
với một số khía cạnh trong luật sử dụng súng của người dân thường ở Hoa Kỳ.
Cuối cùng, một minh chứng khác cho việc phản ánh thế giới kinh nghiệm và
cách người ta nhìn nhận các vấn đề chính trị - xã hội trong diễn ngôn. Đó là trường
hợp của các khẩu hiệu về an toàn giao thông và chống lạm dụng bia rượu. Thống kê
của ủy ban an toàn quốc gia Hoa Kỳ cho thấy một trong những khu vực dễ xảy ra
tai nạn nhất là đường bộ. Và nguyên nhân chủ yếu của tai nạn giao thông càng ngày
càng gia tăng chính là người tham gia giao thông quên các nguyên tắc an toàn. Nhìn
vào khẩu hiệu về an toàn giao thông mà tiếng Anh gọi là “road satety slogans” (khẩu
hiệu an toàn đường bộ), chúng ta thấy có rất nhiều khẩu hiệu phản ánh các vấn đề an
toàn lái xe đường bộ gắn với việc lạm dụng bia ruợu và một số ít gắn với tốc độ hay
việc thắt dây an toàn. Các từ ngữ alcohol/ alcoholism/ alcoholic (rượu/ thức uống có
cồn), drink/drunk (uống rượu/say) có số lượt sử dụng ngang bằng với từ ngữ driving
51
(lái xe) là 24-25 lượt/56 khẩu hiệu. Như vậy, khi mà hệ thống đường sá và các biển
báo giao thông cũng như những yếu tố khách quan khác trên đường bộ đã được đảm
bảo ở một quốc gia phát triển và văn minh như Hoa Kỳ, thì vấn đề còn lại chỉ nằm ở
ý thức người tham gia giao thông mà thôi. Đây là một phản ánh trung thực về thực
trạng xã hội hay thế giới kinh nghiệm trong lĩnh vực an toàn giao thông.
Như vậy việc sử dụng trường từ vựng ở cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực
(thông qua biện pháp sử dụng từ đồng nghĩa, trái nghĩa) đều được chú trọng nhằm
thể hiện rõ nét tư tưởng và thái độ của người phát ngôn trong các khẩu hiệu tuyên
truyền tiếng Anh. Điều này cho thấy diễn ngôn KH CT-XH đã phản ánh đúng thế
giới kinh nghiệm của con người ở các nước nói tiếng Anh.
2.3.2. Giá trị quan hệ của từ ngữ
Đồng thời với các giá trị kinh nghiệm, mỗi từ ngữ còn sở hữu các giá trị khác,
trong đó có giá trị quan hệ. Giá trị quan hệ của từ ngữ, theo Fairclough, được thể hiện
qua cách mà người kiến tạo diễn ngôn lựa chọn từ ngữ để duy trì hay tạo ra các mối quan
hệ xã hội giữa các thành viên tham gia giao tiếp [68]. Để tạo ra các hiệu ứng quan hệ cho
từ ngữ, người phát ngôn có thể sử dụng các chiến lược nhắc đến hoặc tránh nhắc đến một
số từ ngữ có khả năng biểu cảm cao. Một trong những cách để đạt được điều này là dùng
uyển ngữ để tránh đề cập những khái niệm tiêu cực, và để tạo nên sự lịch sự (politeness),
nhằm duy trì quan hệ giữa người nói và người nghe. Ví dụ như trong các bài phát biểu
chính trị, diễn giả thường dùng từ “coloured” (người da màu) thay cho “black” (người
da đen) khi ám chỉ người Mỹ gốc Phi. Nếu dùng từ “Negro” (người da đen) thì dễ làm
cho người nghe hiểu nhầm là người nói tỏ thái độ khinh miệt, vì từ “Negro” mang sắc
thái biểu cảm tiêu cực. Lúc này, vấn đề duy trì mối quan hệ xã hội giữa người nói chuyện
và khán giả càng trở nên phức tạp. Ngoài ra, Fairclough còn đề nghị khai thác yếu tố
trang trọng của từ ngữ (formality) và cố gắng gìn giữ thể diện (face saving) cho các bên
giao tiếp để tạo nên các hiệu ứng tốt về quan hệ, như các hình thức xưng hô lịch sự, các
từ ngữ trang trọng, các từ ngữ học thuật…
Ứng dụng vào trong ngôn ngữ khẩu hiệu, có thể thấy được cách nhìn nhận các
mối quan hệ xã hội giữa người phát ngôn và người tiếp nhận phát ngôn cũng đã được
thể hiện thông qua cách chọn sử dụng từ ngữ, nếu quy chiếu theo những chiến lược mà
52
Fairclough [68] đã đề nghị. Ngoại trừ một số rất ít KH CT-XH là do người dân tự thiết
kế và mang theo trong các cuộc tuần hành hay biểu tình, hầu hết KH CT-XH do các cơ
quan tuyên truyền và các tổ chức chuyên môn thiết kế và ban hành, căn cứ trên các
thể chế, luật lệ và các chính sách kinh tế, xã hội tương ứng. Như vậy quan hệ giữa
người phát ngôn và người tiếp nhận ở đây là mối quan hệ lịch sự và trang trọng.
Hơn nữa, tính trang trọng ở đây cần được chú ý vì KH CT-XH thường được trình
bày giữa công chúng. Tuy khẩu hiệu là để hô hào, để nói, nhưng ngôn ngữ của loại
hình diễn ngôn này cần đảm bảo không có nhiều từ ngữ thiếu trang trọng để duy trì
mối quan hệ lịch sự giữa các bên. Sau đây là một số ví dụ về việc thể hiện mối quan
hệ giữa những người tham gia trong giao tiếp của diễn ngôn KH CT-XH trên một số
chủ đề bằng các uyển ngữ và các từ ngữ thể hiện tính trang trọng, học thuật hay từ
ngữ không trang trọng:
Bảng 2.3. Giá trị quan hệ của từ ngữ thể hiện qua cách dùng uyển ngữ và
từ ngữ trang trọng hoặc thiếu trang trọng
Stt Biện
pháp Giá trị quan hệ của từ ngữ Ý nghĩa quan hệ
(relational meanings)
1
Uyển
ngữ
Protest against the spectacular
exterior and inner emptiness.
Ẩn dụ từ vựng - ngữ nghĩa, hàm ý phê phán sự trái
ngược giữa cái được hô hào và thực chất công cuộc
chống khủng bố của Hoa Kỳ.
2 Terrorism has no religion Dùng ẩn dụ từ vựng- ngữ nghĩa để phê phán hành
động khủng bố. “Không tôn giáo” là cách nói giảm
đi của “vô nhân đạo” vì tôn giáo là đức tin thiêng
liêng của con người. Ngoài ra, cụm từ này còn
mang ý nghĩa kết tội việc một số phần tử quá khích
trong tôn giáo là nguyên nhân dẫn đến khủng bố
3 A hamburger stops a beating
heart
Từ ngữ hoán dụ với ý nghĩa phê phán hành vi ăn
thịt gia súc, gia cầm của con người.
4 Everyone should be colorblind
to see the beauty of people.
Laundry is the only thing that
should be separated by color.
Some people need to accept
that the world is colorful.
Ẩn dụ từ vựng-ngữ nghĩa để kêu gọi chống chia rẽ
sắc tộc, chống sự kì thị đối với người da màu, mà
chủ yếu là da đen.
5 White America has a Black
history.
Ẩn dụ từ vựng - ngữ nghĩa và dùng từ trái nghĩa để
nhắc nhở nguồn gốc của nước Mỹ ngày nay chính
là từ người Mỹ gốc Phi di cư từ những thế kỉ trước.
Mục đích là chống kì thị sắc tộc Black is beautiful/ Black Power.
6 Alcoholism is an equal opportunity destroyer
Ẩn dụ từ vựng-ngữ nghĩa. Gọi người sử dụng thức uống có cồn là “người làm mất cơ hội”, thay vì phê phán gay gắt hơn.
53
7 Chance takers are accident makers.
Ẩn dụ từ vựng-ngữ nghĩa. Gọi người có hành vi lái xe nhanh hoặc lấn chiếm đường là “người chớp thời cơ”, thay vì gọi họ là người phóng nhanh vượt ẩu”
8 Life don't have Reset button. Drive safe.
Ẩn dụ từ vựng-ngữ nghĩa. Dùng hiện tượng ẩn dụ “khởi động lại” cuộc sống để kêu gọi những người lái xe dành sự trân trọng cho cuộc sống.
9 Better dead than Red Ẩn dụ từ vựng-ngữ nhĩa. Dùng từ “Đỏ” (Red) để hàm ý cộng sản (communism), một cách mà đối tượng chống đối cộng sản làm giảm nhẹ căng thẳng trong KH CT-XH.
10 We are the 99% Nêu một con số phần trăm gần tuyệt đối để khẳng định sự lớn mạnh, sự thống trị của một tổ chức trong cuộc biểu tình đòi chiếm phố Wall (New York - Mỹ) năm 2011. (Chúng tôi chiếm 99%", hàm ý rằng
thủ phạm gây nên những khó khăn của nền kinh tế Mỹ hiện nay là những người giàu có - vốn chỉ chiếm 1% dân số nhưng lại nắm giữ hơn 40% tổng tài sản của toàn nước Mỹ, trong khi 99% người dân còn lại lại phải chịu những hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng này - mất việc, mất nhà… )
11 Human Trafficking is modern day slavery
Ẩn dụ từ vựng - ngữ nghĩa, hàm ý việc buôn người trong thế giới hiện đại cũng tương đương như chế độ nô lệ ngày xưa.
12
Ngôn n
gữ
tra
ng t
rọng/
thiế
u t
rang t
rọng
“I choke with smoke” - said Mr.Lungs
Dùng cách xưng hô trang trọng “Ngài” cho một bộ phận cơ thể để thể hiện sự trân trọng đối với sức khỏe con người.
13 There is a sufficiency in the world for man’s need, but not for man’s greed.
Dùng từ trang trọng để thể hiện tính chất nghiêm trọng của sự việc.
14 Safety doesn't slow the job down but mishaps do.
15 Deeds Not Words
16 Hey, Hey, LBJ, how many kids you kill today?
Dùng từ hô gọi “hey” và từ ngữ “giết” là cách nói thiếu trang trọng để thể hiện sự coi thường đối với Lyndon B. Johnson - tổng thống thứ 36 của Hoa Kỳ và chống đối cuộc chiến tranh của ông tại Việt Nam
17 Eat the Rich Dùng từ “ăn” để thế hiện sự không tôn trọng đối với nhóm người giàu ở xã hội Mỹ.
18 In Your Guts, You Know He's Nuts
Dùng lối nói nhại từ câu "In Your Heart, You know He's Right" thể hiện sự thiếu trang trọng, coi thường đối với Thượng nghị sĩ Mỹ Barry Goldwater, ứng cử viên tổng thống Mỹ năm 1964
20 Giving is the best therapy Dùng từ học thuật để thể hiện sự trang trọng, cách nhìn nhận vấn đề “cho-tặng-làm từ thiện”
21 Don’t hop into bed, until you are wed.
Dùng từ thiếu trang trọng để thể hiện sự coi thường với hiện tượng sống như vợ chồng trước khi cưới của các cặp đôi.
22 Stop the racist killer, cops Dùng từ ngữ thiếu trang trọng (cops thay cho police) để phê phán hành vi của các cảnh sát phân biệt chủng tộc)
54
Từ bảng 2.3 có thể thấy rằng đa số các từ ngữ có chức năng bộc lộ các giá trị
quan hệ trong KH CT-XH tiếng Anh đều thuộc hai lĩnh vực uyển ngữ và ngôn ngữ
trang trọng hoặc không trang trọng (lịch sự). Trong biện pháp uyển ngữ, hầu hết các từ
ngữ được sử dụng đều thuộc ẩn dụ từ vựng-ngữ nghĩa vì đây là phạm trù có khả năng
thay thế rất cao cho các từ vựng để giảm nhẹ hoặc nói tránh. Trong khi duy trì hoặc
phát huy các mối quan hệ giữa người phát ngôn và người tiếp nhận, biện pháp uyển
ngữ thông qua ẩn dụ từ vựng trong các KH CT-XH tiếng Anh vừa khảo sát đã có tác
dụng khá cao trong việc truyền đi thông điệp phê phán, hoặc tỏ thái độ, bộc lộ hệ tư
tưởng của người phát ngôn. Cụ thể ở các khẩu hiệu trong bảng 2.3, chúng ta luôn thấy
có sự khéo léo chọn lựa từ ngữ (uyển ngữ và ngôn ngữ trang trọng) một là để tránh
nhắc đến các vấn đề tế nhị hoặc cấm kị, hai là để duy trì (hay làm mất đi) yếu tố lịch sự
giữa các bên tham gia giao tiếp. Tất cả nhằm đảm bảo cho các mục tiêu giao tiếp được
thực hiện thành công: truyền tải thông điệp của KH CT-XH đến với người tiếp nhận.
Tiếp đến, giá trị quan hệ của từ ngữ còn được thể hiện thông qua cách dùng
các từ tình thái quan hệ và tình thái biểu cảm với các trợ từ tình thái như “should”
(6 lượt) để cho lời khuyên, “must” (3 lượt) để thể hiện sự bắt buộc của một hành
động, “can/could” (64 lượt) để diễn tả sự cho phép hoặc khả năng có thể xảy ra của
sự việc, hay “may/ might” (8 lượt)… để thể hiện mức độ có thể xảy ra của sự
việc… Đây là những phương tiện để (1) thể hiện tính lịch sự thông qua yếu tố giả
định cách (subjunctive), (2) thể hiện quyền lực của người phát ngôn, và (3) diễn tả
các yếu tố cho phép hay cấm đoán trong diễn ngôn KH CT-XH. Ở đây, quyền lực
được thực thi giữa hai đối tượng người nói và người nghe, thông qua yếu tố liên
nhân trong từ ngữ tình thái. Đây là kiểu quyền lực ẩn dấu (hidden power) mà
Fairclough [68] đã thảo luận trong công trình nghiên cứu “Language and Power”
của mình. Fairclough cho rằng không giống như giao tiếp trực diện (face-to-face),
các diễn ngôn kiểu truyền thông đại chúng (truyền hình, báo chí, phát thanh…)
thường hay chứa đựng những mối quan hệ ẩn dấu của quyền lực, nơi mà yếu tố
“một phía” (one-sidedness) chiếm ưu thế. Ở môi trường “một phía” này, khi không
có đủ hai bên cùng tranh luận để thực thi quyền lực trong diễn ngôn, phía chiếm ưu
thế (dominating side) rất dễ tỏ rõ quyền lực, và thường hàm chứa bên trong các kiểu
từ ngữ như vậy. Fairclough giải thích rằng sở dĩ có điều đó là do các kiểu truyền
55
thông đại chúng này có một vài đặc điểm cơ bản giống với bản chất hàng hóa
(commodity) và là sự trao đổi giữa người sản xuất và người tiêu thụ [68:49].
2.3.3. Giá trị biểu cảm của từ ngữ
Giá trị biểu cảm của từ ngữ thể hiện sự đánh giá của con người đối với vấn
đề chính trị - xã hội có thể thông qua các từ ngữ hiển ngôn hoặc hàm ngôn, nhưng
tất cả đều mang tính tư tưởng. Khi có sự đánh giá từ hai mặt của vấn đề, ví như mặt
tích cực và tiêu cực, hoặc diễn ngôn là để thể hiện sự đấu tranh giữa hai phía, dùng
từ ngữ biểu cảm là cách để mỗi bên thể hiện quan điểm, tư tưởng của mình.
Fairclough [69:119] đã từng cho rằng “giá trị biểu cảm của từ ngữ luôn là mối bận
tâm lớn nhất của những ai quan tâm đến ngôn ngữ thuyết phục”. Ngôn ngữ thuyết
phục ở đây chính là sử dụng các từ ngữ để thể hiện các hệ tư tưởng trái ngược nhau,
và từ đó có thể quyết định loại hình diễn ngôn mà người nói sẽ sử dụng.
Khảo sát diễn ngôn khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Anh, có thể thấy một số
từ ngữ thể hiện sự đánh giá của người sử dụng diễn ngôn cũng như qua đó thể hiện
thái độ đối với các vấn đề chính trị - xã hội của các nước nói tiếng Anh như sau:
- Turn in your arms. The government will take care of you. [A14]
- Donation shows Appreciation. [A461]
- Cruelty is one fashion statement we can do without. [A30]
- Discrimination is a disease. [A70]
- Labour is not Working. [A354]
- Everything Within the State, Nothing Outside the State. [A339]
Trong hai ví dụ đầu, từ ngữ “take care” (chăm sóc) và “appreciation” (cảm
kích, biết ơn) mang nghĩa đánh giá tích cực; trong khi đó trong các ví dụ tiếp theo,
khẩu hiệu lại sử dụng hình thức từ ngữ mang nghĩa đánh giá tiêu cực (cruelty - tàn
bạo; disease - căn bệnh, not working-không hiệu quả)… Những cách lựa chọn từ ngữ
ở cả hai thái cực như vậy một mặt giúp thể hiện sự đánh giá tích cực hay tiêu cực đối
với vấn đề; mặt khác, còn là hình thức ngôn ngữ thuyết phục nhằm làm cho người
nghe ngẫm nghĩ, thuyết phục họ có cái nhìn phản biện hơn (critical look) đối với vấn
đề chính trị - xã hội đang được vận động. Trong những trường hợp như vậy, việc
dùng một số từ ngữ khá “đanh thép” trong khẩu hiệu ví dụ như (cruelty - sự tàn bạo,
56
disease-bệnh hoạn…) không chỉ để mang tính chất kêu gọi, động viên mà còn mang
một nhiệm vụ khác - nhiệm vụ lên án, đấu tranh chống những điều sai trái.
Ngoài ra, trên một khẩu hiệu bài trừ hiện tượng sử dụng súng thiếu kiểm soát (in
trên báo) còn nêu một loạt các số liệu thuyết phục về số người chết là hậu quả của việc
dùng súng:
Hình 2.1 Một poster trình bày khẩu hiệu tẩy chay súng ở Hoa Kỳ.
(Nguồn: poster tuyên truyền của ủy ban kiểm soát dùng súng quốc gia ở Hoa Kỳ NCCP -
National Concealed Carry Permit)
Ở trong khẩu hiệu thể hiện trên poster ở hình 2.1 này, các con số tăng dần
miêu tả số người chết ở các nước do súng chỉ trong một năm, đồng thời đối lập khá
xa với số người chết vì súng ở Mỹ (gấp hàng trăm lần) đã là một dạng ngôn ngữ
thuyết phục nhằm bày tỏ thái độ lên án việc dùng súng thiếu kiểm soát ở Mỹ và các
nước khác trên thế giới; kèm theo một lời cầu nguyện (God bless America) và khẩu
hiệu vận động (Stop handguns before they stop you!).
57
Cuối cùng, giá trị biểu cảm của từ ngữ trong KH CT-XH tiếng Anh còn đạt được
thông qua cách chơi chữ (play with words) như sử dụng từ đồng âm (homophones), biến
âm (phonetic variant) hay điệp vần (rhythm)... cụ thể như trong các khẩu hiệu:
Bảng 2.4 Một số ví dụ về cách chơi chữ và ý nghĩa biểu cảm từ ngữ
trong khẩu hiệu CT-XH tiếng Anh
Stt Khẩu hiệu Dịch nghĩa Ý nghĩa biểu cảm Tần suất
1 Behind the wheel,
anger is QH one
letter away from
danger.[A262]
Sau tay lái, giận
dữ chỉ cách xa
hiểm họa một chữ
cái.
Chơi chữ - dùng cặp từ
anger-danger để so sánh
mối tương quan giữa trạng
thái giận dữ-hiểm họa khi
lái xe
11/500
2 Cancer is a word,
not a
sentence.[A484]
Ung thư là một từ,
không phải một
câu / bản án
Sử dụng từ đồng âm:
sentence (câu) và sentence
(bản án; lời tuyên án)
3 I put the fun in
funeral. [A140]
Tôi đã để niềm
vui lại trong đám
tang
Chơi chữ - fun và funeral
(hai từ ngữ mang nghĩa đối
lập)
4 You booze, you
cruise, you
lose.[A122]
Bạn uống say, bạn
đi “du ngoạn”,
bạn mất tất cả.
Dùng từ ngữ có cùng vần
điệu để tạo hiệu ứng biểu
cảm
23/500
Với những kiểu dùng từ ngữ đặc biệt như vừa nêu, ý nghĩa biểu cảm hay giá
trị thuyết phục sẽ tăng lên rất nhiều, vì thói quen của những người tham gia vào văn
hóa cộng đồng là dễ nhớ những gì đặc biệt, như trường hợp điệp vần, chơi chữ hay
đồng âm như trên.
Tóm lại để đạt được mục tiêu thuyết phục bằng cách bày tỏ thái độ, tư tưởng
hay cách nhìn nhận, đánh giá đối với các vấn đề chính trị - xã hội đương thời, việc
lựa chọn từ ngữ cho khẩu hiệu cần đạt được những giá trị biểu cảm cao để dễ có giá
trị thuyết phục, tác động vào suy nghĩ của người tiếp nhận.
2.3.4 Sử dụng biện pháp ẩn dụ
Trong CDA, ẩn dụ là cách để diễn đạt một khía cạnh kinh nghiệm dưới dạng
một khái niệm khác, chứ không nhất thiết phải là cách diễn ngôn theo nghĩa đen của
nó; và mỗi kiểu ẩn dụ khác nhau đều tạo ra những hệ quả tư tưởng khác nhau tương
ứng ([68], [98]). Mặc dù công nhận là CDA với nhiều nhấn mạnh về hệ tư tưởng,
quyền lực và ngôn ngữ ([68], [145], [155]) cũng như những cấu trúc ý niệm đằng
58
sau diễn ngôn; và mặc dù những nhà phân tích CDA chú ý đến những thành tố nội
diễn ngôn như từ ngữ, ngữ pháp, tình thái… thì các yếu tố tổng quát hơn về tính
đồng nhất hay ẩn dụ trong diễn ngôn chính trị cũng được quan tâm không kém (ví
dụ như nghiên cứu của Wilson [153] và Chilton-[57]).
Lakoff & Johnson [98] cho rằng ẩn dụ không những làm cho những suy nghĩ
của con người càng thêm sâu sắc và thú vị mà chúng còn giúp định hình những
nhận thức và hiểu biết của họ. Họ còn cho rằng ẩn dụ ý niệm là một phương thức
của tư duy. Chính vì thế nghiên cứu khía cạnh sử dụng ẩn dụ trong diễn ngôn và
cách sử dụng ẩn dụ để bộc lộ hệ tư tưởng và thái độ là hoàn toàn phù hợp với công
tác CDA vì theo các tác giả này, ẩn dụ không chỉ đơn thuần là vấn đề của ngôn ngữ
mà còn là vấn đề của tư duy. Ẩn dụ ý niệm được hiểu là một phương thức chuyển
nghĩa trong cách tư duy, nơi mà các ý niệm trừu tượng được làm cho người khác
hiểu thông qua các ý niệm ít trừu tượng và gắn với tư duy đời thường của họ hơn.
KH CT-XH là một thể loại diễn ngôn thuyết phục công chúng. Khẩu hiệu hướng tới
chức năng tác động trong khi ẩn dụ ý niệm, đặc biệt là các ẩn dụ cấu trúc (structural
metaphors) có chức năng tác động rất lớn. Cho nên việc sử dụng các ẩn dụ ý niệm
có tác dụng to lớn trong việc kêu gọi, vận động người khác.
Ví dụ trong khẩu hiệu vận động tranh cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1936
“Sunflowers die in November” (Hoa hướng dương tàn vào tháng 11), việc dùng
hiện tượng ẩn dụ với các từ ngữ sunflower, die, November có ý nghĩa ẩn dụ rất sâu
sắc. Theo ẩn dụ ý niệm thì ý niệm “die” (chết, tàn) là một hiện tượng tự nhiên. Hoa
hướng dương (hay bất kì loại hoa nào khác và xa hơn là bất kỳ sinh vật nào khác)
thường có chu kì, hết nở lại tàn; cũng như đời người được sinh ra, lớn lên và rồi
cũng sẽ qua đời. Nhưng nếu xét về tình hình chính trị - xã hội của Hoa Kỳ lúc bấy
giờ, có thể thấy những người ủng hộ ứng cử viên Franklin D. Roosevelt đang cố
gắng vận động tranh cử cho người của mình bằng cách nói về đối thủ Alf Landon,
người sinh ra và lớn lên ở bang Kansas, và bang này đang chọn hoa hướng dương
làm biểu tượng hoa của bang. Tháng 11 năm đó lại là thời điểm diễn ra cuộc bầu cử.
Cho nên ý nghĩa ẩn dụ của khẩu hiệu này là ý niệm về cuộc đời - diễn tả một sự việc
được cho là thuận theo lẽ tự nhiên là quy luật sinh - tử của cuộc đời. Qua ẩn dụ này,
59
người phát ngôn mong muốn thể hiện sự dự đoán cho kết quả bầu cử của đối thủ
trong tương lai, đồng thời để vận động mọi người ủng hộ ứng cử viên của mình là
Roosevelt. Ở đây, ý niệm “thất bại” được ẩn dụ bằng ý niệm “hoa tàn cuối độ” hay
“sinh vật chết cuối đời” để người nghe hiểu được ngụ ý “ứng viên Alf Landon sẽ thất
bại là lẽ đương nhiên”.
Tương tự, hãy cùng xét các ẩn dụ ý niệm trong các khẩu hiệu:
- An ounce of prevention is worth a pound of cure. [A260] (khẩu hiệu an toàn)
- When you gamble with safety you bet your life. [A320] (khẩu hiệu an toàn)
- A hamburger stops a beating heart. (khẩu hiệu quyền động vật) [A44]
- Think globally, act locally. [A382] (khẩu hiệu môi trường)
Trong ví dụ [A260], ý niệm trừu tượng về số lượng (ít / nhiều) đã được miêu
tả bằng một ý niệm ít trừu tượng hơn và là đại lượng ước đoán chính xác hơn. Đó là
“ao- xơ” và “pao” (hai đơn vị đo lường khối lượng của Mỹ). Một ao-xơ tương
đương khoảng 28g và một pao tương đương khoảng 453g (gấp khoảng 16 lần một
ao-xơ). Khi sử dụng ước lượng với hai đại lượng chính xác và đã được quy định
như thế này, người nghe có thể hình dung được sự đối lập trong giá trị của việc
phòng và chống ở khẩu hiệu an toàn này. Ẩn dụ ý niệm ở đây nhằm tập trung sự
chú ý của người nghe vào giá trị cao hơn gấp nhiều lần của việc phòng chống bệnh
tật hoặc tai nạn nghề nghiệp so với việc khắc phục hậu quả của các tai nạn hoặc
bệnh tật nói trên. Hay trong ví dụ [A320], giá trị của sự an toàn đối với cuộc sống là
một ý niệm trừu tượng, đã được ẩn dụ bằng một ý niệm ít trừu tượng hơn là sự cá
cược trong đánh bạc. Đa số những người trưởng thành đều hiểu được việc đánh bạc
bao hàm những cá cược mà người chơi (người đi tìm thú vui trong đánh bạc)
thường không có nhiều cơ hội thắng, thậm chí có khi họ còn mất tất cả. Người ta
dùng từ gamble (đánh bạc) vốn dĩ trong nghĩa gốc cũng đã hàm ý một sự ẩn dụ rồi,
bởi hành vi này có thể bao gồm các hành vi tiêu khiển bình thường khác như chơi
bài, chơi xúc xắc, chơi quay số… Nhưng khi dùng từ đánh bạc, bản thân người nói
đã hàm ý một sự may rủi hay dựa vào vận may để tìm kiếm lợi ích cho bản thân chứ
không đơn thuần là các trò tiêu khiển giải trí bình thường khác. Khi đem so sánh
60
việc vi phạm các quy tắc an toàn với hành vi đánh bạc, dẫn đến hậu quả có thể là
mất đi mạng sống so sánh với việc thua một khoản tiền lớn trong đánh bạc, hình
thức ẩn dụ này ngụ ý rằng nếu chúng ta không tôn trọng các quy tắc an toàn hoặc
xem đó là những thú vui (như đánh bạc), thì có khi chúng ta sẽ có thể cá cược cả
mạng sống của mình (một việc rất thường xuyên xảy ra trong đánh bạc). Từ việc
phân tích các ví dụ trên, có thể thấy rằng người phát ngôn có thể phát huy các ẩn dụ
ý niệm để làm tăng chức năng tác động của KH CT-XH - một nhiệm vụ rất quan
trọng trong tuyên truyền.
Bên cạnh các hiện tượng ẩn dụ ý niệm, KH CT-XH tiếng Anh vẫn phát huy
các kiểu hiện tượng ẩn dụ truyền thống, như được phân tích trong một số ví dụ sau:
- Protest against the spectacular exterior and inner emptiness.
Trong khẩu hiệu chống khủng bố này, có hai khái niệm vừa là từ trái nghĩa
vừa mang ý niệm ẩn dụ đó là spectacular exterior (bên ngoài hào nhoáng) và inner
emptiness (bên trong rỗng tuếch). Sự đối lập về nghĩa của hai từ ngữ này trước hết
đã cho thấy một sự không hài lòng của người dân đối với thực trạng chống khủng
bố ở Hoa Kỳ. Thêm vào đó ý nghĩa ẩn dụ của sự đối lập này được nhấn mạnh bởi
người phát ngôn đã cố tình đưa ra hai hình ảnh bên ngoài hào nhoáng và bên trong
rỗng tuếch (với nghĩa đen là sự trái ngược vẻ bề ngoài và thực chất bên trong) để
hàm ý về sự đối lập của những cái nhìn thấy được từ bên ngoài và thực chất của vấn
đề. Với hai yếu tố từ ngữ ẩn dụ (bên ngoài/ bên trong) và hai tính từ bổ trợ nghĩa
(hào nhoáng/rỗng tuếch), tác giả khẩu hiệu muốn người ta liên tưởng đến một sự bất
ngờ khi thấy được những gì rất tốt đẹp bên ngoài nhưng lại hiểu được sự trống vắng
bên trong - đó là bản chất của việc chống khủng bố ở thời điểm đó. Thành công của
việc đưa ra yếu tố ẩn dụ này là nếu liên tưởng đến vẻ đẹp ngoại thất (khi mới quan
sát) và vẻ trống trải về nội thất của một ngôi nhà (khi bước vào bên trong), chắc
chắn nhiều người sẽ hiểu được thực chất của công tác chống khủng bố là chỉ mang
tính chất hô hào, chư chưa thực sự mang lại các kết quả hữu hiệu, hoặc thậm chí là
còn không đi đến kết quả (rỗng tuếch). Và từ kết quả của ẩn dụ tư tưởng này, khẩu
hiệu trên muốn bày tỏ thái độ phản đối với cách hành động của chính phủ-hoặc một
nhóm người có chức năng đối với công tác chống khủng bố. Qua đó, họ mong muốn
61
công tác này không cần phải phô trương hào nhoáng với vẻ bề ngoài mà chỉ cần tập
trung vào thực chất và chú trọng để đạt được kết quả mong đợi.
Tương tự như vậy, trong khẩu hiệu “laundry is the only thing that should be
separated by color” (chỉ có công việc giặt giũ mới cần phân biệt màu sắc), yếu tố ẩn dụ
nằm ở từ ngữ “color”, nhưng toàn bộ ý nghĩa của ẩn dụ này phải đặt trong tương quan
của cả khẩu hiệu. Nếu nói về nghĩa đen (literary meaning) thì khẩu hiệu này diễn đạt
một sự tình mà ai cũng công nhận từ thế giới kinh nghiệm của họ. Khi cho tất cả đồ cần
giặt giũ vào máy giặt, người giặt cần lưu ý phân loại các vật phẩm có thể bị hoen màu
vì có khả năng nó sẽ ảnh hưởng đến màu sắc của các vật phẩm khác. Và đây là nguyên
tắc cơ bản nhất trong khi giặt giũ. Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống, đặc biệt là ở xã
hội Mỹ nơi mà sự kì thị, phân biệt chủng tộc vẫn còn là vấn đề nóng bỏng qua nhiều
thập kỉ, thì ý nghĩa ẩn dụ ở đây lại có nghĩa là ngoài công việc giặt giũ là đáng phân
loại màu sắc ra, chẳng có điều gì cần phân biệt màu sắc cả. Điều này hàm ý vấn đề
phân biệt sắc tộc là không đáng có, là bất bình thường, bất bình đẳng… và vấn đề
mang tính quốc gia như vậy lại được đem ra so sánh với một công việc rất bình thường
là “giặt giũ”, để hàm ý rằng công việc của những người theo đuổi chính sách phân biệt
chủng tộc là không đáng trân trọng, chỉ đáng như là một công việc nhà.
Một số ví dụ khác về hiện tượng ẩn dụ là:
- Killing for recreation is obscene. [A45]
- Everyone should be colorblind to see the beauty of people. (mù màu) [A55]
- Some people need to accept that the world is colorful.(đầy màu sắc) [A57]
- Discrimination is a disease. (bệnh tật) [A70]
- White America has a Black history. (quá khứ đen - đen tối) [A59]
- A tree never hits an automobile except in self defense. (tự vệ) [A73]
- Human Trafficking is modern day slavery. (nô lệ thời hiện đại) [A425]
- Plant your seeds now, reap your rewards later. (gieo - gặt) [A208]
Tần suất của các kiểu ẩn dụ này chiếm khoảng 8% của 500 mẫu diễn ngôn KH
CT-XH tiếng Anh. Việc dùng các kiểu ẩn dụ này trong diễn ngôn đã ít nhiều giúp
người phát ngôn thể hiện “quyền lực” để một mặt bày tỏ thái độ, tư tưởng của mình;
62
mặt khác các kiểu ẩn dụ này còn đạt giá trị biểu cảm và giá trị quan hệ (liên nhân) rất
cao, giúp cho họ đạt được các mục tiêu giao tiếp trong tuyên truyền của khẩu hiệu.
2.4. Những đặc điểm cấu trúc ngữ pháp của diễn ngôn khẩu hiệu chính trị - xã
hội tiếng Anh theo quan điểm của Lý thuyết Phân tích Diễn ngôn phê phán
Quan điểm của lý thuyết phân tích diễn ngôn phê phán mà Fairclough theo
đuổi và nghiên cứu là dựa trên việc xem xét các yếu tố nội diễn ngôn như từ ngữ, ngữ
pháp, và cấu trúc diễn ngôn. Để giải quyết công việc CDA trên cơ sở ngôn ngữ học,
đặc biệt là trong khi xem xét các cấu trúc ngữ pháp trong diễn ngôn, Fairclough đã đề
nghị áp dụng khung lý thuyết ngữ pháp chức năng hệ thống của Halliday vì theo
Halliday [83: xvi], dù mục tiêu cuối cùng là gì, thì việc phân tích văn bản trên bình
diện ngữ pháp cũng là bước đầu tiên. Và bình diện ngữ pháp ở đây chính là ngữ
pháp chức năng hệ thống do Halliday khai thác và phát triển. Để làm được điều đó,
công việc của các nhà CDA là đi phân tích các giá trị kinh nghiệm, quan hệ và biểu
cảm của các cấu trúc ngữ pháp, các vấn đề liên kết câu/ mệnh đề … tương ứng với
ba siêu chức năng của ngôn ngữ.
2.4.1. Giá trị kinh nghiệm của các hiện tượng ngữ pháp
Halliday [83:106] quan niệm rằng ngôn ngữ là phương tiện giúp người ta xây
dựng bức tranh tinh thần về thực tế, hiểu được những gì xảy ra xung quanh họ hay cả
trong thế giới nội tâm của họ. Theo ông, kinh nghiệm là những gì đang diễn ra như các
sự kiện, hành động, cảm giác, ý nghĩa , tồn tại và các sự việc đang dần trở thành. Tất cả
những sự việc đang diễn ra được ngữ pháp của cú lựa chọn. Và hệ thống ngữ pháp mà
qua đó phương thức phản ánh được thể hiện được gọi là hệ thống chuyển tác.
Quan hệ chuyển tác là một trong những khái niệm quan trọng của ngữ pháp
chức năng hệ thống của Halliday. Quan hệ này phản ánh các sự kiện, trạng thái hay
hành động xảy ra trong thế giới tự nhiên. Thế giới kinh nghiệm được hệ thống chuyển
tác phân thành một tập hợp các kiểu quá trình bao gồm 3 thành phần: quá trình,
tham thể và chu cảnh. Halliday phân chia các quá trình thành các kiểu: vật chất,
hành vi, tinh thần, phát ngôn, quan hệ và hiện hữu. Theo ngữ pháp chức năng của
63
Halliday, có một số đặc điểm ngữ pháp của câu cần được quan tâm như quá trình,
tác nhân, thể bị động/ chủ động, hay các câu khẳng định/ phủ định.
Kết quả phân tích các quan hệ chuyển tác trong khẩu hiệu chính trị - xã hội
tiếng Anh, có thể thấy các kiểu quá trình chủ yếu được sử dụng để làm nổi bật tính
tư tưởng là quá trình vật chất và quan hệ. Kết quả khảo sát 897 cú phức thuộc 500
mẫu diễn ngôn KH CT-XH tiếng Anh cho kết quả như sau:
Bảng 2.5. Tóm tắt kết quả khảo sát các kiểu quá trình của các câu có quan hệ
chuyển tác trong KH CT-XH tiếng Anh.
Kiểu quá trình Số lượng
N = 857
Tỉ lệ phần trăm
(%)
Vật chất 453 52,86
Quan hệ 216 24,20
Hành vi 59 6,88
Tinh thần 51 5,95
Hiện hữu 31 3,62
Phát ngôn 12 1,40
Danh hóa
(quá trình ẩn)
35 4,08
Nhìn vào bảng tóm tắt các kiểu quá trình thể hiện quan hệ chuyển tác của
khẩu hiệu, ta thấy thế giới kinh nghiệm trong khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Anh
là thế giới của vật chất và các mối quan hệ. Thế giới này được hình thành chủ yếu
bởi quá trình vật chất bao gồm các hành động tạo dựng, thay đổi, tác động và các
hành động. Bên cạnh đó, quá trình quan hệ là quá trình có tiềm năng lớn thứ hai trong
việc mô tả kinh nghiệm với tác dụng kết nối mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng và
kết nối các mối quan hệ sở hữu giữa các thuộc tính của chúng. Thế giới kinh nghiệm
trong trường hợp KH CT-XH tiếng Anh đã phần nào phản ánh đúng nhận định của
Halliday [83:107] rằng vật chất, quan hệ và tinh thần là ba kiểu quá trình chính trong hệ
thống chuyển tác tiếng Anh. Tuy nhiên, như Halliday và sau này là nhiều học giả khác
đã phân tích, ranh giới giữa các quá trình này không có sự phân biệt rõ ràng, nên mới
nảy sinh các quá trình trung gian như hành vi, phát ngôn và hiện hữu.
64
Bảng 2.6 Một số ví dụ minh họa của hai quá trình chuyển tác chủ yếu trong
khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Anh Kiểu quá
trình
Tỉ lệ Một số ví dụ
VẬT
CHẤT
~
50% Terrorism - Fight them there so we don’t have to fight them here.[A9]
He who sows the seed of murder and pain cannot reap joy and love. [A9]
QUAN
HỆ
~
24% The problem with drinking and driving is …the MOURNING after. [A115]
Drugs drag you down down down… till you’re under the ground. [A138]
Như vậy, trong trường hợp thế giới kinh nghiệm của KH CT-XH tiếng Anh,
công việc khảo sát đã cho kết quả phần nào trùng khớp với quan điểm của Halliday
về các kiểu quá trình chủ yếu (vật chất và quan hệ). Tuy nhiên, quá trình tinh thần
xuất hiện không đáng kể. Khác với các kiểu bài xã luận, phát biểu chính trị… nơi
mà quá trình tinh thần được sử dụng khá nhiều để bày tỏ thái độ và quan điểm chính
trị của người phát ngôn thì ở KH CT-XH, quá trình vật chất và quan hệ lại giúp xác
định các giá trị và thực hiện các chức năng chính của khẩu hiệu, đó là giáo dục và
thuyết phục. Có thể dễ dàng hiểu được tại sao quá trình vật chất chiếm vị trí tiềm
năng nhất trong diễn tả kinh nghiệm của KH CT-XH, đứng thứ hai là quá trình quan
hệ và sau đó là quá trình hành vi. Hai quá trình vật chất và hành vi với ranh giới
cách biệt không mấy rõ ràng này đã giúp biến sự hiểu biết của người phát ngôn về
các vấn đề chính trị xã hội đương thời thành những hành động cụ thể làm “thay đổi,
tạo dựng” những giá trị hay và đẹp cho cuộc sống, cũng như giúp “điều chỉnh
những ứng xử” của con người cho phù hợp với các quy tắc xã hội - đó cũng chính là
đang thực hiện 2 chức năng chủ yếu của KH CT-XH. Trong ba quá trình chủ yếu
mà Halliday đã khẳng định, tinh thần vẫn là một quá trình quan trọng để mô tả kinh
nghiệm. Tuy nhiên, đối với trường hợp diễn ngôn KH CT-XH, đối tượng được khai
thác thuộc thế giới kinh nghiệm bên ngoài chủ thể phát ngôn, chứ không phải là thế
giới nội tâm của con người. Trong khi đó, quá trình tinh thần (như ở trường hợp các
động từ think, believe, want…) lại thiên về bày tỏ thái độ đánh giá chủ quan hoặc
các chính kiến của người phát ngôn, nên nó không phải là một quá trình nổi trội
trong KH CT-XH tiếng Anh.
65
Ngoài ra, các kiểu quá trình khác như phát ngôn và hiện hữu cũng được sử
dụng khá khiêm tốn trong KH CT-XH tiếng Anh (các kiểu quá trình hiện hữu chiếm
3,62%; còn quá trình phát ngôn chiếm 1,40 %). Cũng có thể hiệu được các vị từ
phát ngôn như say, ask, speak, tell, address… không hiện diện trong các cấu trúc
trần thuật của KH CT-XH vì bản thân mỗi diễn ngôn khẩu hiệu đã là một lời nói -
hành động ngôn từ. Vì các phát ngôn này đã được “trực tiếp hóa” trong các hành
động tại lời nên không thường thấy xuất hiện các vị từ phát ngôn như trên.
Theo kết quả khảo sát, các kiểu cấu trúc câu chủ yếu là loại kết cấu S + V
hoặc S + V + O để thể hiện quá trình vật chất “ai làm gì” (gần 50%) hoặc một số ít
diễn đạt quá trình tinh thần. Tiếp đến, kết cấu S + V + C để chỉ các kiểu quá trình
quan hệ “ai là gì” hay “ai thế nào” (gần 25%) với các nội dung mô tả tính chất,
phẩm chất, đặc điểm hoặc xác định kiểu dạng (identity) của sự vật-hiện tượng làm
chủ ngữ, như trong một số ví dụ sau:
- Hunting (S) is not (V) a sport (O). In a sport, both sides (S) should know (V)
they’re in the game (C). [A22] (Đi săn không phải là môn thể thao. Trong thể
thao, cả hai người chơi đều biết họ đang chơi)
- Together we (S) quit (V) smoking (O). A healthy country (S) is (V) a happy
country (C).[A160] (Chúng ta cũng nhau bỏ thuốc lá. Một quốc gia khỏe mạnh
là một quốc gia hạnh phúc)
Bên cạnh quan hệ chuyển tác, giá trị kinh nghiệm của các hiện tượng ngữ pháp
còn được thể hiện trong việc sử dụng các hiện tượng danh hóa trong KH CT-XH
tiếng Anh. Chính Billig [53] cũng đã nghiên cứu về ngôn ngữ của CDA và cuối cùng
đưa ra nhận xét về vai trò của các hiện tượng danh hóa trong việc tạo dựng hệ tư
tưởng của người phát ngôn. Nhìn lại bảng 2.5 thể hiện các kiểu quá trình trong KH
CT-XH tiếng Anh, có thể thấy có 4,2% các kiểu quá trình ẩn (không có động từ thể
hiện một quá trình cụ thể). Đó chính là trường hợp khẩu hiệu sử dụng các hiện tượng
danh hóa. Theo Fairclough [68:124] ngoài việc xuất hiện dưới hình thức ngữ pháp
của một câu, một quá trình có thể xuất hiện dưới dạng rút gọn là danh hóa (tức là một
quá trình đã được chuyển đổi thành một danh từ hoặc cụm danh từ). Khi xuất hiện
dưới dạng một danh từ như vậy, một số yếu tố giúp chúng ta suy diễn nghĩa trong câu
66
sẽ bị mất đi, ví dụ như yếu tố thì của động từ, yếu tố tình thái, hoặc yếu tố tác nhân
của hành động (Fairclough [68]; Billig [53]). Chính sự vắng mặt của các yếu tố này là
cách giúp người phát ngôn thể hiện tư tưởng, thái độ bởi vấn đề nguyên nhân và tính
chịu trách nhiệm về hành động đã không còn rõ ràng.
Ví dụ:
- Over the limit - under arrest. (If you go over the speed limit - you are arrested.
Nếu bạn chạy quá tốc độ - bạn sẽ bị bắt) [A103]
- Weapons of mass destruction - cigarettes - 5 million deaths each year.
(Cigarettes are weapons that destroy lives of 5 million people each year. Thuốc
lá là vũ khí hủy diệt 5 triệu mạng người mỗi năm) [A164]
Xét trong tương quan bối cảnh chính trị - xã hội của KH CT-XH tiếng Anh,
thì vấn đề sử dụng các hiện tượng danh hóa không nhiều là do KH CT-XH là thể
loại diễn ngôn của công chúng, dành cho công chúng, thuyết phục công chúng.
Chúng ta càng làm cho mọi vấn đề (tác nhân, trách nhiệm…) sáng tỏ bao nhiêu thì
lại càng dễ hiểu, dễ thuyết phục công chúng bấy nhiêu. Mặt khác, không giống như
các văn bản khoa học, học thuật (academic), các văn bản với văn phong trang trọng
thường có xu hướng sử dụng nhiều hiện tượng danh hóa (và cấu trúc bị động - đề
cập dưới đây), KH CT-XH với yêu cầu rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhớ thường ít sử dụng
các hiện tượng danh hóa.
Cuối cùng, việc sử dụng các cấu trúc câu chủ động và bị động trong KH CT-
XH tiếng Anh cũng cho thấy nhiều yếu tố thuộc thế giới kinh nghiệm của loại hình
diễn ngôn này. Đây là một trong những yếu tố quan trọng giúp phát hiện các nguồn
lực tạo nghĩa, theo lý thuyết phân tích diễn ngôn phê phán. Trong số 805 cú phức
của 500 mẫu KH CT-XH tiếng Anh được khảo sát, có 97.14% câu chủ động và chỉ
có 2.86% câu bị động. Như vậy, với cách chỉ rõ tác nhân hành động trong tuyệt đại
đa số các câu chủ động, khẩu hiệu đã đạt được một trong những nhiệm vụ quan
trọng của văn phong quần chúng. Đó là thể loại diễn ngôn gần gũi, không quá trang
trọng và gò bó với lối diễn đạt giấu đi tác nhân để càng làm tăng giá trị của những
lời kêu gọi, thuyết phục. Điều này càng làm tăng tính trách nhiệm của người tuyên
67
truyền và hành động thuyết phục trong khẩu hiệu. Hãy cùng xem xét một số ví dụ
của kiểu câu chủ động trong KH CT-XH tiếng Anh:
- Terrorism has no religion. (tác nhân là “sự khủng bố”)
- Killing for recreation is obscene. (tác nhân là “việc giết động vật cho mục
đich tiêu khiển”)
- Smoking takes life. Then it kills. (tác nhân là “thuốc lá”)
- Talent wins games. Teamwork wins Championships! (tác nhân là “tài
năng”/ “tinh thần đồng đội”.
Trong các ví dụ trên, việc nhấn mạnh tác nhân của hành động là rất quan
trọng trong chiến lược sử dụng cấu trúc ngữ pháp của KH CT-XH. Giá trị kinh
nghiệm ở đây chính là ở chỗ người phát ngôn muốn nhấn mạnh các hành động như
khủng bố, giết động vật”, “hút thuốc lá” chính là người/ vật thể/ sự vật/ sự việc phải
chịu trách nhiệm trực tiếp về có các hành động được nhắc đến (phê bình, khen chê)
trong khẩu hiệu. Nhấn mạnh tác nhân là thật sự cần thiết và phù hợp với mục tiêu
của khẩu hiệu, bởi đó chính là đối tượng mà KH CT-XH nhắm đến cho mục đích
vận động, thuyết phục của mình.
2.4.2. Giá trị quan hệ của ngữ pháp
Trong CDA của Fairclough, các đặc điểm ngữ pháp của diễn ngôn mang giá
trị quan hệ có thể là kiểu phát ngôn/ kiểu câu (thông báo, câu hỏi, câu cầu khiến),
quan hệ tình thái và cách sử dụng đại từ xưng hô trong diễn ngôn. Với tư cách là
một công cụ hoặc sản phẩm tuyên truyền, KH CT-XH cần có 2 chức năng chủ yếu
là thông tin và tác động. Các kiểu phát ngôn của khẩu hiệu luôn chịu sự chi phối của
hai chức năng thông tin và tác động thông qua việc chia sẻ thông tin và quan điểm
cũng như tác động để thiết lập liên kết giữa các thành viên cũng như điều phối các
vấn đề phức tạp giữa họ [50]. Kết quả khảo sát 593 câu thuộc 500 diễn ngôn KH
CT-XH cho thấy các kiểu phát ngôn chủ yếu của khẩu hiệu tiếng Anh là câu mệnh
lệnh, câu trần thuật và câu hỏi tu từ, với tỉ lệ như sau:
68
Bảng 2.7 Các kiểu phát ngôn chủ yếu trong KH CT-XH tiếng Anh
Kiểu phát
ngôn
Số lượng
N=595
Tỉ lệ Ví dụ Ý nghĩa (quan hệ)
Trần
thuật
368 61,85 Terrorists won’t
succeed if someone
reports suspicious
activity. [A8]
Thiết lập quan hệ giữa người nói
và người nghe; đó là cung cấp
thông tin để giáo dục về hành
động cần làm để chống khủng bố.
Cầu
khiến
203 34,11 Kill the cigarrettes
before they kill you.
[A143]
Thiết lập quan hệ giữa người nói
và người nghe; đó là kêu gọi,
thuyết phục dừng hút thuốc lá để
tránh tổn hại sức khỏe.
Câu hỏi
tu từ
24 4,04 If you know you are
driving to your death
- would you still drive
so fast? [A95]
Thiết lập quan hệ hoặc thuyết
phục hoặc giáo dục bằng hình
thức câu hỏi mà không cần trả lời.
Tương ứng với mỗi chức năng của khẩu hiệu, kiểu câu phát ngôn có thể giúp
đạt được ý định của người phát ngôn. Kiểu câu trần thuật là kiểu câu kể, có chức
năng nêu, thông báo các thông tin nhằm phục vụ công tác giáo dục nhận thức cộng
đồng, làm cho người khác hiểu và nắm được các thông điệp cần thiết. Bên cạnh đó,
kiểu câu cầu khiến là dạng thức mệnh lệnh, đề nghị… có chức năng hô hào, kêu gọi,
động viên, thuyết phục cộng đồng đi theo một đường hướng quan điểm nào đó.
Cuối cùng, dạng thức câu hỏi tu từ có ý nghĩa đặc biệt bởi thông thường câu hỏi
thường yêu cầu câu trả lời. Nhưng trong trường hợp câu hỏi tu từ, thì câu trả lời đã
được hàm ngôn giữa người nói và người nghe. Các câu hỏi được đặt ra nhằm nhấn
mạnh ý nghĩa của câu trả lời mà cả hai bên đều ngầm hiểu. Quan hệ liên nhân nhờ
có những kiểu phát ngôn này mà được thiết lập. Quan hệ này được hình thành do
một sự kết nối giữa chủ ý của người phát ngôn đó là một mặt là thông báo, thông tin
về chế độ, chính sách, những điều hay lẽ phải cần làm; mặt khác là tác động qua
khuyến khích, động viên người dân thực thi pháp luật, trật tự xã hội và không vi
phạm pháp luật; với thái độ tiếp nhận của người nghe, nhờ vào tác dụng của các
kiểu phát ngôn trần thuật hay câu cầu khiến trong tuyên truyền.
Để xem xét giá trị quan hệ của các hiện tượng ngữ pháp, Fairclough còn đề
nghị khảo sát lượt sử dụng các đại từ I/ We/ You (Tôi/ chúng tôi/ chúng ta/ các bạn)
trong diễn ngôn để thấy mối quan hệ giữa người nói và người nghe. Trong 500 mẫu
69
diễn ngôn KH CT-XH tiếng Anh, có 60 lượt sử dụng đại từ I/We (chiếm 12%) và
132 lượt sử dụng đại từ you (chiếm 26,4%). Cách xưng hô như vậy là để thiết lập
quan hệ giữa người phát ngôn và người tiếp nhận. Trong một số trường hợp, khẩu
hiệu với đại từ nhân xưng vẫn có nhiều giá trị thuyết phục (mang tính giao tiếp liên
nhân hơn) là các diễn ngôn khẩu hiệu vô nhân xưng. Cụ thể, đại từ “I” là để xác
định tính chịu trách nhiệm cũng như thể hiện chính kiến của người nói (đặc biệt là
trong các kiểu quá trình tinh thần như I think, I believe…). Còn đại từ “We” có thể
diễn đạt hai kiểu ý đồ của người phát ngôn để tạo lập quan hệ: một là we - chúng
tôi, với ý nghĩa tương tự như đại từ “I”, ngoại trừ khả năng gia tăng số lượng người
cùng chịu trách nhiệm và mang tính tập thể hơn; hai là we - chúng ta, với ý nghĩa
liên nhân là một sự ràng buộc giữa người phát ngôn và nhóm người tiếp nhận phát
ngôn. Ví dụ: liên hệ của chủ báo với bạn đọc, của chính khách với dân chúng, của
công ty quảng cáo với khách hàng tiềm năng của họ. Ngoài ra, việc sử dụng đại từ
“you” chiếm tỉ lệ tương đối cao như vậy là một dạng thể hiện tư tưởng thông qua
mối quan hệ liên nhân. Đại từ “you” thường để chỉ đối tượng người dân nói chung
trong diễn ngôn chính trị - xã hội. Tuy nhiên, trong mỗi trường hợp cụ thể, ví dụ
như trong diễn ngôn KH CT-XH, khi ý đồ người phát ngôn là muốn nhắc đến đối
tượng giáo dục hoặc thuyết phục của mình, việc nêu đại từ “các bạn” thể hiện sự
quan tâm, sự thấu hiểu và có ý nghĩa thuyết phục đối với người nghe rất lớn, chứ
không đơn thuần chỉ mang nghĩa “người dân” nói chung. Ví dụ: The fascination of
shooting as a sport depends on whether you are at the right or wrong end of a gun.
[A2] (cái thú vị của việc bắn súng với tư cách là một môn thể thao nằm ở chỗ bạn
đang ở vào phía đầu đúng hay đầu sai của khẩu súng đó). Khi nhắc đến đại từ
“bạn” ở đây, người nói không nói đến những người có sử dụng súng nói chung mà
muốn ám chỉ những người thực chất là đi săn thú, nhưng lại ngụy trang là chơi thể
thao bắn súng.
Ngoài ra, cách dùng kiểu phát ngôn mệnh lệnh để hô hào vận động với số
lượng tương đối lớn (gần 35%) và kiểu dùng ngôn ngữ vận động “let’s” (hãy cùng)
trong các khẩu hiệu khảo sát cũng cho thấy giá trị quan hệ của các hiện tượng ngữ
70
pháp trong khẩu hiệu quan trọng như thế nào trong việc giúp người phát ngôn thể
hiện tư tưởng và thái độ.
2.4.3. Giá trị biểu cảm của ngữ pháp
Thông thường giá trị biểu cảm của các hiện tượng ngữ pháp được thể hiện
thông qua sự cảm nhận vấn đề và hiện thực hóa vấn đề vào trong cách đánh giá của
người sử dụng ngôn ngữ. Với Fairclough, giá trị biểu cảm của ngữ pháp thường tập
trung vào tính tình thái biểu cảm (expressive modality), và trong một số trường hợp
cũng cần phân biệt rõ với tình thái quan hệ (relational modality) [68:128], ví dụ như
động từ “may” vừa có nghĩa tình thái quan hệ là đánh giá khả năng xảy ra của vấn
đề (như trong “The bridge may collapse” - Cây cầu có thể gãy), hoặc có nghĩa tình
thái biểu cảm là biểu thị sự cho phép (như trong “you may go out with Jones now” -
Con có thể ra ngoài cùng Jones). Fairclough [68] cho rằng muốn thể hiện quan điểm
tư tưởng trong cấu trúc ngữ pháp, thông thường chúng ta hay dùng các biểu hiện
tình thái, thông qua phương tiện các động từ, trợ động từ hay trạng từ tình thái như:
may / might, must / have to, can / could…. Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc
biệt, ví dụ như trong diễn ngôn tin (news discourse) thì yếu tố tình thái dường như
là “bằng 0” và các động từ đều thường ở thì hiện tại để tường thuật sự thật, sự kiện,
dữ liệu… Đối với các trường hợp này, việc thiếu vắng các yếu tố tình thái là để chứng
tỏ quan điểm nhìn thế giới với cái nhìn khách quan, minh bạch. Việc sử dụng các tình
thái từ để chỉ những mức độ chắc chắn khác nhau trong nhận thức của người phát ngôn
về thế giới giúp bộc lộ tư tưởng và tri thức của họ về những gì đang diễn ra chung
quanh mình. Fairclough còn cho rằng không phải chỉ có các trợ động từ tình thái mới
giúp chuyển tải thông điệp tình thái biểu cảm này mà ngay cả trong động từ thường hay
trạng từ tình thái đều có thể được phát huy. Tuy nhiên, việc tìm hiểu các hệ tư tưởng và
thái độ người phát ngôn tiềm ẩn bên trong cần phải được chính người tiếp nhận diễn
ngôn khám phá. Trong trường hợp của KH CT-XH, có 12,8% lượt sử dụng các từ tình
thái (đa số là các động từ tình thái) để thể hiện quan điểm về các vấn đề chính trị - xã
hội đang được quan tâm. Ví dụ:
- Lips that touch liquor must never touch mine. [A357]
71
- If today you will burn fossil fuel tomorrow you might be fossil under the sea
[A191]
- Don’t leave private information on a public computer screen. That information is
private and should not be seen. [A270]
Tiếp đến, bên cạnh sử dụng yếu tố tình thái, các hiện tượng ngữ pháp trong
KH CT-XH tiếng Anh còn trực tiếp hay gián tiếp thể hiện các chức năng giao tiếp
của ngôn ngữ như đã được Jakobson [88] đề xuất bao gồm quy chiếu (nhận thức,
biểu nghĩa), biểu cảm, yêu cầu (hướng tới người nhận), duy trì (giữ hoặc cho thôi
giao tiếp), siêu ngôn ngữ (ngôn ngữ nói về ngôn ngữ) và chức năng thơ (hướng về
chính bản thân thông điệp, chức năng này thống trị trong ngôn ngữ văn học). Ngôn
ngữ của KH CT-XH cũng hướng đến thuyết phục người đọc bằng các giá trị biểu
cảm thông qua chức năng thơ, thể hiện trong một số khẩu hiệu có lối diễn đạt có
vần, có điệu như (khẩu hiệu dạng này chiếm 5% tổng số diễn ngôn KH CT-XH):
- Do not neglect, protect! Slowly see the affect, as the animals reconnect! [A24]
- Allow life to thrive, don’t drink and drive. [A75]
- Be alert! Accidents hurt. [A77]
- Drinking isn’t cool. It makes you act like a fool. [A88]
- Don’t throw it away, it can be used in some other way. [A183]
- Trees on, carbon dioxide gone! [A236]
- Turn off the light. Don’t let the energy bill give you a fright. [A239]
- Washington Wouldn't, Grant Couldn't, Roosevelt Shouldn't. [A385]
- Champions train, endure pain, and never complain. [A415]
Một số khẩu hiệu còn sử dụng các con số và công thức toán học để làm tăng
tính biểu cảm và dễ tác động cũng như thành công trong thông tin như:
- Water = Life, Conservation = Future! [A244]
- You are 60% water. Save 60% of YOURSELF. [A254]
- FAMILY = Father And Mother I Love You. [A450]
Một số khẩu hiệu khác còn trích dẫn các tục ngữ, danh ngôn để đạt giá trị
biểu cảm như “Blood’s thicker than water”. [A458]
72
Cuối cùng, cấu trúc biền ngẫu (paralellism) cũng đã được sử dụng thường
xuyên để nâng cao giá trị biểu cảm của các cấu trúc câu trong diễn ngôn KH CT-
XH. Torresi [139:123] định nghĩa cấu trúc biền ngẫu như là một sự tương thích về
mặt cấu trúc câu mà ở đó, các bộ phận của câu hoặc các câu khác nhau được trình
bày theo một cách giống nhau để chỉ ra rằng các ý tưởng trong mỗi phần hay mỗi
câu đó đều có sự tương đương về mức độ quan trọng. Corbette & Connors [61:381]
thì cho rằng “cấu trúc biền ngẫu là sự tương tự trong cấu trúc của một cặp câu hay
mệnh đề” và rằng “cấu trúc này là một trong các nguyên tắc cơ bản nhất của ngữ
pháp và tu từ học”. Jakobson [89: 600] cũng phát biểu rằng hệ thống nghệ thuật
ngôn từ kiểu biền ngẫu như thế cho phép người phân tích hiểu tường tận nhận thức
của người nói về những giá trị tương đương trong ngữ pháp. Thật vậy, cấu trúc biền
ngẫu cho phép người sử dụng ngôn ngữ nhấn mạnh thêm về nghĩa thông qua việc
lặp lại các mẫu câu hoặc các mẫu câu đối ngẫu. KH CT-XH tiếng Anh sử dụng
khoảng 12% cấu trúc thuộc dạng này. Ví dụ:
- God loved the birds and created trees, humans loved the birds and created
cages. [A16]
- No compassion, No peace. Know Compassion, Know Peace. [A28]
- Say yes to life. Say no to tobacco. [A151]
- Winners never quit and quitters never win. [A409]
Tóm lại, chức năng biểu cảm của từ ngữ hay các quan hệ ngữ pháp đều giúp
phản ánh thực tiễn xã hội mà thực tiễn này chứa đựng một mạng lưới các kinh
nghiệm về thế giới vật chất, tinh thần hay những quan hệ liên nhân giữa những cá
nhân tham gia giao tiếp. Trong KH CT-XH tiếng Anh, những thực tiễn kinh nghiệm
cuộc sống cũng như những giá trị văn hóa, giao tiếp của những nước nói tiếng Anh
đã được phản ánh trong việc sử dụng từ ngữ và cấu trúc ngữ pháp có tính biểu cảm,
thuyết phục cao như đã được phân tích ở trên.
2.4.4. Đặc điểm liên kết câu/ mệnh đề
Liên kết câu/mệnh đề xét trong lý thuyết CDA được nghiên cứu từ quan điểm
chức năng chứ không phải từ quan điểm cấu trúc. Halliday và Hasan [84:2] đã từng xác
định thực chất của văn bản là hoàn toàn khác với thực chất câu-văn bản không phải
73
khác với câu về độ lớn, mà là khác về chủng loại. Như vậy quan điểm cấu trúc thiên về
xem xét kích cỡ văn bản với những đơn vị câu kết nối với nhau, trong khi quan điểm
chức năng lại xem việc liên kết các câu, mệnh đề ở cách chúng hiện thực hóa vấn đề
trong văn bản. Quan điểm này dẫn dắt đến việc xem văn bản như là một đơn vị nghĩa,
chứ không phải là một đơn vị hình thức. Nói đúng hơn như Diệp Quang Ban [4:270]
đã nhận định “một văn bản là một đơn vị nghĩa có cấu trúc. Halliday [83] cho rằng cái
tạo cho ngôn bản sự mạch lạc không chỉ là sự xuất hiện của các chuỗi liên kết từ vựng,
mà là sự tương tác giữa chúng với nhau.
Các phương tiện liên kết có thể mang tính nội văn bản hoặc quy chiếu ngoài văn
bản. Khi ở bên trong văn bản, các phương tiện liên kết hay các đặc điểm liên kết có
thể có nhiều hình thức khác nhau. Trước tiên, xét về mặt các liên ngữ logic, kết quả
khảo sát 500 mẫu diễn ngôn KH CT-XH với 304 cú phức cho thấy, các liên ngữ logic
được sử dụng làm phương tiện liên kết là “and” (và) với 36 lượt, “nhưng” (but) với
20 lượt, “because” với 4 lượt, “so” (vì thế) với 7 lượt và “or” (hoặc) với 6 lượt sử
dụng. Các phép quy chiếu, phép thế, phép tỉnh lược, phép nối, phép liên kết từ
vựng… được sử dụng như các phương tiện liên kết trong và ngoài văn bản chỉ được
khảo sát trong phạm vi 304 cú phức của 259 diễn ngôn phức (diễn ngôn chứa 2 cú
phức trở lên hoặc 2 câu trở lên). Dựa trên đặc điểm liên kết trong tiếng Anh được
Halliday & Hasan [84] gợi ý, chúng tôi mô tả một số đặc điểm liên kết của các diễn
ngôn phức thuộc KH CT-XH tiếng Anh trong bảng sau:
Bảng 2.8 Một số đặc điểm liên kết diễn ngôn phức trong KH CT-XH tiếng Anh
Các đặc điểm liên kết Số lượng
diễn ngôn
N= 304
Tỉ lệ
(%) Ví dụ
Phép tỉnh lược 12 3,94 Cruelty is one fashion statement we can do
without. (without cruelty) [A30]
Phép lặp 62 20,39 You don’t fight racism with racism, the best way to
fight racism is with solidarity.[A65]
Phép quy chiếu 82 26,97 Religion should be used to bring people together.
Not blow them apart.[A7]
Phép thế 4 1,31 Man made global warming, the biggest scam in the
history of mankind to fulfill his greediness?
Understand this Or Nature will teach you. [A201]
Phép đối (song song) 37 12,17 No safety - know pain. Know safety - no pain[A287]
Phép nối 107 35,19 Your health is in your own hands, so be sure to
wash them. [A500]
74
Nhìn vào bảng thống kê, có ba phương thức được sử dụng phổ biến nhất để liên
kết mệnh đề/ câu trong KH CT-XH tiếng Anh, đó là phép nối (35,19%), phép quy
chiếu (26,97%) và phép liên kết từ vựng (20,39%). Phép nối được sử dụng nhiều nhất
với các liên ngữ logic như so, and, but, or… để cho phép thiết lập các kiểu mệnh đề
chính phụ và đẳng lập trong câu phức và diễn ngôn phức của khẩu hiệu. Bên cạnh đó,
quy chiếu cũng là một cách để nối các cú/câu lại với nhau mà không phải lặp từ ngữ.
Cuối cùng, liên kết từ vựng với các kiểu dùng từ trái hay đồng nghĩa, lặp từ, phối hợp
từ đã giúp cho KH CT-XH có những liên kết câu và mệnh đề để tạo tính mạch lạc.
Trong toàn bộ 500 diễn ngôn KH CT-XH tiếng Anh, số khẩu hiệu có trên
một câu chỉ có khoảng 75, nên liên kết trên cấp độ câu chỉ xuất hiện trong khoảng
15 % mẫu nghiên cứu. Số còn lại là các liên kết trong nội bộ câu, bao gồm liên kết
về nghĩa giữa các ý, vế câu hoặc trong câu phức.
Một trong những yêu cầu về tác dụng của khẩu hiệu nói chung hay KH CT-
XH nói riêng là phải dễ hiểu, dễ nhớ để giúp thông điệp đến với người dân nhanh
hơn, hiệu quả hơn, và một trong những cách làm cho khẩu hiệu dễ nhớ dễ hiểu là lối
nói giản dị, điệp vần, thông qua phép đối song song. Theo số liệu khảo sát có thể
thấy KH CT-XH tiếng Anh sử dụng vừa phải một lượng phép đối (xấp xỉ 13%). Ví
dụ: “No safety - know pain. Know safety - no pain”; hoặc sử dụng các biện pháp từ
ngữ như lặp từ, từ trái nghĩa, từ đồng nghĩa (xấp xỉ 20%) và cách nói ngắn gọn, tỉnh
lược (4%) như trong “Immigrants welcome , racists not” để đạt được mục tiêu đó.
Diễn ngôn KH CT-XH là một thể loại diễn ngôn đặc biệt. Đây có thể được xem
là một diễn ngôn nói kiểu thuyết phục nhưng người người nghe không trực tiếp tiếp
nhận thông điệp, mà phải thông qua công cụ là chữ viết và trưng bày ở nơi công cộng.
Các kiểu câu phức, cú phức của khẩu hiệu tiếng Anh chủ yếu thể hiện mối quan hệ
đẳng lập, bằng cách dùng các liên ngữ “and”, “but”, “or” hoặc đơn giản chỉ là hai cú
đứng cạnh nhau và ngăn cách nhau bằng dấu phẩy. Đây là các kiểu quan hệ có ý nghĩa
về mặt tư tưởng, nhất là quan hệ bình đẳng và đối lập trong tương tác giữa người nói và
người nghe. Ngoài ra, cũng có khoảng gần 8% kiểu câu phức, cú phức thể hiện mối
quan hệ chính-phụ, cho thấy sự phụ thuộc về nghĩa trong một số kiểu diễn đạt thái độ,
có phân định rõ ràng đâu là trọng tâm vấn đề cần được thuyết phục.
75
Ví dụ:
- Animals are my friends and I don’t wear my friends (quan hệ đẳng lập)[A19]
- No one wants to see you black & blue or dead, so how about letting a sober
friend drive instead. (quan hệ chính-phụ) [A101]
2.5. Các đặc điểm cấu trúc diễn ngôn
Theo Nguyễn Hòa [17], [19], cấu trúc diễn ngôn là sự tổ chức các yếu tố quan
yếu, hoặc một mạng lưới các mối quan hệ được tạo dựng bởi các yếu tố tham gia vào
hệ thống [18:66]. Bên cạnh đó, kết cấu văn bản không chỉ là sự sắp đặt vị trí các yếu
tố nội dung mà còn là việc tổ chức nghĩa của văn bản dựa trên mạng lưới các mối
quan hệ logic giữa các yếu tố nội dung ([5], [4]). Trong quan điểm của ngữ pháp chức
năng hệ thống, việc tổ chức hình thức ngôn từ trong văn bản chính là chức năng tạo
lập văn bản (textual metafunction) của ngôn ngữ. Chức năng này là một trong ba
chức năng cơ bản của ngôn ngữ, cùng với chức năng ý niệm và chức năng liên nhân.
Hơn thế, chức năng tạo văn bản còn được xem là một chức năng làm phương tiện
chuyển tải hai chức năng còn lại. Chính vì thế, kết cấu diễn ngôn có vai trò đặc biệt
quan trọng trong quá trình chuyển tải nội dung và kết cấu này chịu sự chi phối bởi
mục đích giao tiếp và các vấn đề ngữ cảnh, ngôn cảnh.
Halliday và Hasan [84] đề cập khái niệm mạng mạch với 3 hợp phần là (1) cấu
trúc văn bản nội tại của câu; (2) liên kết; và (3) cấu trúc diễn ngôn. Trong phần khảo
sát cấu trúc diễn ngôn của khẩu hiệu này, chúng tôi sẽ bàn bạc vấn đề mạng mạch và
mạch lạc trong diễn ngôn qua việc phân tích hai hợp phần cấu trúc văn bản nội tại
của câu thể hiện trong cấu trúc đề - thuyết và cấu trúc diễn ngôn hay cấu trúc vĩ mô
của văn bản. Riêng đối với hợp phần liên kết chúng tôi sẽ bàn bạc vấn đề liên kết chủ
đề của từng nhóm khẩu hiệu (thay cho phần liên kết câu/mệnh đề đã được đề cập và
phân tích ở tiểu mục 3.4.4 của chương này)
2.5.1. Độ dài văn bản của diễn ngôn KH CT-XH
Trước khi đi sâu tìm hiểu cấu trúc vi mô của diễn ngôn KH CT-XH tiếng Anh,
chúng tôi muốn mô tả đôi nét về đặc điểm cấu trúc tính về độ dài văn bản, được mô
tả trong bảng 2.9.
76
Bảng 2.9 Độ dài văn bản của diễn ngôn KH CT-XH tiếng Anh
Độ dài của diễn ngôn khẩu hiệu tiếng Anh Số lượng
N=500
Tỉ lệ
(%)
Diễn ngôn khẩu hiệu gồm 1 câu 424 84,8
Diễn ngôn khẩu hiệu gồm 2 câu 68 13,6
Diễn ngôn khẩu hiệu gồm 3 câu 8 1,6
Nhìn vào kết quả khảo sát, có thể thấy tỉ lệ diễn ngôn KH CT-XH tiếng Anh
có cấu trúc diễn ngôn đơn gồm một câu là khá cao (chiếm khoảng 85%). Các chức
năng của khẩu hiệu đòi hỏi thể loại diễn ngôn này phải hết sức cô đọng, ngắn gọn
và súc tích. Khẩu hiệu thuộc thể loại diễn ngôn phức có độ dài từ 2 câu trở lên
không chiếm ưu thế (15%). Xét về thực tế, khẩu hiệu có độ dài 2-3-4 câu thường
không có nhiều giá trị thực tiễn nếu được viết trên các băng-rôn, biểu ngữ để mang
theo trong các cuộc tuần hành. Hoặc nếu đây là khẩu hiệu để vừa mang theo vừa hô
vang ở những nơi công cộng thì độ dài văn bản lại càng là vấn đề cần được hạn chế
trong các khẩu hiệu. Tuy nhiên độ dài của văn bản khẩu hiệu hoàn toàn không ảnh
hưởng đến tính chất giao tiếp trọn vẹn của các khẩu hiệu. Văn bản ở đây được xem
xét là một đơn vị của ngôn ngữ trong sử dụng, và là một đơn vị nghĩa chứ không
phải là một đơn vị ngữ pháp [84:2]. Về mặt nghĩa mà nói, mỗi văn bản khẩu hiệu
đều diễn đạt một đơn vị nghĩa trọn vẹn vì nó là một thông điệp với đầy đủ các chức
năng giao tiếp được truyền đến đối tượng công chúng.
2.5.2. Tính mạch lạc của diễn ngôn khẩu hiệu
Trong phân tích cấu trúc nội tại của văn bản KH CT-XH, chúng tôi phân tích
hai yếu tố để tạo tính mạch lạc cho thể loại diễn ngôn đặc biệt này, đó là liên kết
chủ đề (liên kết hướng ngoại) và cấu trúc đề-thuyết.
Trong thực tế giao tiếp, mỗi văn bản thường xoay quanh một chủ đề. Chủ đề
trong liên kết chủ đề được hiểu như đề tài - vật, việc được nói đến; và liên kết chủ đề
được xem như là sợi dây nối kết hợp lý giữa những vật, việc được nói đến trong các
câu có liên kết với nhau. Đối với khẩu hiệu, khi mà độ dài của mỗi diễn ngôn khẩu
hiệu riêng biệt là không đáng kể, liên kết bên trong diễn ngôn không được thể hiện rõ.
Lúc đó, liên kết chủ đề được thực hiện khi nhóm các diễn ngôn khẩu hiệu thuộc cùng
một chủ đề có chứa các yếu tố ngôn ngữ lặp lại hoặc có cùng miền nghĩa. Trường hợp
này còn được gọi là liên kết ngoài văn bản khi mà từng diễn ngôn khẩu hiệu đơn lẻ
77
trong hệ thống mỗi nhóm chủ đề chung đều có sự liên kết về mặt ngữ nghĩa với
những diễn ngôn khác trong cùng chủ đề, thể hiện trong bảng 2.10 dưới đây.
Bảng 2.10 Các yếu tố thể hiện tính liên kết chủ đề của từng nhóm
KH CT-XH tiếng Anh
Stt Chủ đề Yếu tố liên kết chủ đề
Lặp từ ngữ Tần suất lặp lại (*)
1 Anti-terrorism and gun
boycott (Chống khủng bố và
tẩy chay súng đạn)
terrorism, terror, terrorist 7/15
protest, stop, against 6/15
gun, violence 6/15
2 Animal rights (quyền động
vật)
human, beings, species, animals, birds, cats 27/39
eat beans/ vegetables/ tofu, wear fake fur/ fashion 18/39
adopt, rescue, love, abuse, hunt, neglect, protect 10/39
3 Anti-racism
(Chống phân biệt chủng tộc)
color, colorful, colorblind, white, black, brown,
yellow, red
11/16
race, racism, racist, superiority, inferiority,
discrimination
12/16
4 Anti-alcohol and Driving (56) alcohol, acoholic, alcoholism, drug 9/56
drink, drinking, drunk, sober 21/56
drive, driving, accident, safe 35/56
hurt, lose, injury 8/56
5 Anti-smoking (tác hại thuốc lá)
smoker, smoking, smoke, cigarette, nicotine 29/42
cancer, disease, lung, body, tissue 16/42
destroy, poison, destruction, burn, kill, harm, fatal, suicide, suicidal, death
18/42
6 Environment - Energy - water (Môi trường và năng lượng)
energy, water, air, tree, nature, light, ozone, fossil, ocean, melt, pollute, pollution, global warming, green
54/89
conserve, keep, avoid, turn off, survive, save, conservation, recycle, reduce, reuse
34/89
7
Safety (An toàn lao động)
accident, danger 13/68
safety, safe, secure 42/68
8 Politics -Election (Chính trị -
bầu cử)
power, leader, empire, leaders’ proper names 11/68
9 Human trafficking and illegal
immigration (buôn người - di
dân bất hợp pháp)
steal, stole, stolen, sale, kidnap, own 5/15
humans, human trafficking, slavery, illegal
immigration
9/15
10 Relations - Family & Friends
(Quan hệ thân tộc - bằng hữu)
friend, friendship, love, family, home, joy, life,
lives
26/28
11 Fund-raising
(gây quỹ)
contribution, donation, giving, give, 10/19
help, care, change, need 10/19
12 Health - Hygyne
(Sức khỏe - vệ sinh)
body, health, healthy, hands, mouth, waist, heart,
breast, wealth
16/22
cancer, disease, stroke, illness, danger 8/22
exercise, workout, early to bed, early to rise,
strong, live long, cure
8/22
Ghi chú: (*) số lần xuất hiện của mẫu khảo sát trên tổng số diễn ngôn;
78
Từ kết quả nghiên cứu về độ dài văn bản trong diễn ngôn khẩu hiệu là không
đáng kể, và liên kết nội tại trong bản thân mỗi diễn ngôn khẩu hiệu chưa đủ độ thuyết
phục, thì việc liên kết ngữ nghĩa bằng từ ngữ và cấu trúc giữa các diễn ngôn cùng
nhóm chủ đề như mô tả ở bảng 2.10 giúp thể hiện tính mạch lạc trong cấu trúc diễn
ngôn KH CT-XH tiếng Anh. Ở mỗi đợt vận động hay tổ chức tuyên truyền, tuần hành,
biểu tình người phát ngôn thường đưa ra một nhóm khoảng từ 15-60 khẩu hiệu khác
nhau cho mỗi chủ đề cụ thể. Những diễn ngôn khẩu hiệu này vừa hoạt động như một
diễn ngôn độc lập vừa tương tác và liên kết với các diễn ngôn khẩu hiệu khác trong cùng
nhóm chủ đề để tạo thành một thể thống nhất. Có thể xem đây là một trong những đặc
điểm cấu trúc văn bản của diễn ngôn KH CT-XH tiếng Anh mà người phát ngôn chủ ý
sử dụng để thể hiện tính tư tưởng và thái độ trong tuyên truyền vận động của mình.
Thứ tự xuất hiện của các phần trong một văn bản/ diễn ngôn làm nên cấu trúc
nội tại của diễn ngôn đó và trật tự này không được quy định theo một ước lệ nào cả.
Trật tự của mỗi diễn ngôn cụ thể phản ánh các giá trị văn hóa xã hội và quy ước
diễn ngôn với mục đích giao tiếp. Fairclough phát biểu rằng sự mong đợi của người
đọc đối với cấu trúc giao tiếp xã hội và đối với diễn ngôn mà họ tiếp nhận là một
nhân tố quan trọng trong việc hiểu và lý giải nội dung diễn ngôn [68:138]. Vấn đề
quyết định đưa thông tin nào lên trước thông tin nào theo thứ tự xuất hiện trong một
văn bản được quyết định bởi ý định phát ngôn và mục đích giao tiếp của văn bản
đó. Đây là lúc chúng ta vận dụng lý thuyết thông tin cũ-mới của ngữ pháp chức
năng Halliday trong ngữ cảnh văn bản. Ví dụ trong các bản tin-thời sự, người viết
báo có thể chọn nêu các thông tin về hậu quả của một sự việc nghiêm trọng trước,
sau đó mới đưa các thông tin khác để lý giải nguyên nhân hoặc cách giải quyết vấn
đề. Chính vì vậy, khi áp dụng vào phân tích giá trị tạo văn bản của KH CT-XH,
chúng tôi nhận thấy cấu trúc nội tại của diễn ngôn khẩu hiệu còn được thể hiện
thông qua việc sử dụng đầu đề, câu dẫn và cả cấu trúc thông tin hay cấu trúc đề
ngữ-thuyết ngữ. Đối với diễn ngôn khẩu hiệu, việc chọn lựa thông tin cũ, thông tin
mới và xác định đâu là đề ngữ, đâu là thuyết ngữ cũng phản ánh khá nhiều thái độ,
tư tưởng, mục đích và quyền lực của người phát ngôn cũng như nội dung cần
chuyển tải. Áp dụng nguyên tắc này để khảo sát 500 mẫu diễn ngôn KH CT-XH
79
tiếng Anh chúng tôi nhận thấy yếu tố nội dung chủ đề của khẩu hiệu được thể hiện
trong phần đề ngữ chiếm tỉ lệ khoảng 56,27% và 43,73% là nội dung chủ đề được
giới thiệu trong phần thuyết ngữ. Việc đưa yếu tố nội dung chủ đề vào phần đề ngữ
hay thuyết ngữ phản ánh tư tưởng thái độ của người kiến tạo diễn ngôn khẩu hiệu bởi
các ý đồ khác nhau như muốn đưa thông tin trọng tâm phản ánh chủ đề trước hay sau
trong trật tự diễn ngôn nhằm khai thác hoặc thỏa mãn sự mong đợi của người đọc.
Tuy nhiên, khi xét về yếu tố thông tin cũ - mới và liên hệ với hai chức năng
chủ yếu của khẩu hiệu, chúng tôi nhận thấy rằng có 60,04% khẩu hiệu mang chức năng
thông tin và 39,96% khẩu hiệu mang chức năng thuyết phục. Vậy việc đặt thông tin cũ
- mới trong phần đề ngữ - thuyết ngữ của diễn ngôn KH CT-XH tiếng Anh không có sự
phân hóa rõ ràng. Cụ thể có 56,27% khẩu hiệu chứa nội dung chủ đề nằm trong phần
đề, trong đó 69,88% là khẩu hiệu giáo dục (kiến thức, nhận thức), số còn lại là khẩu
hiệu vận động, thuyết phục (hành vi). Còn trong 43,73% khẩu hiệu có nội dung chủ đề
được giới thiệu trong phần thuyết ngữ, thì có 48,32% khẩu hiệu mang chức năng giáo
dục và 51,68% khẩu hiệu mang chức năng tác động. Sau đây là một số ví dụ:
Bảng 2.11 Một số ví dụ về nội dung chủ đề giới thiệu trong phần đề ngữ - thuyết ngữ
Nội dung chủ đề: Chống nạn buôn người và di dân bất hợp pháp
Mục tiêu 1: thuyết phục, vận động
End the missery. Stop human trafficking.
[A418]
Phần đề ngữ Phần thuyết ngữ Phần đề ngữ Phần thuyết ngữ
Nội dung chủ đề: Chống nạn buôn người và di dân bất hợp pháp
Mục tiêu 2: giáo dục nhận thức
Taking someone away means taking away their dreams. [A424]
Phần đề ngữ Phần thuyết ngữ
Nội dung chủ đề: An toàn lao động
Mục tiêu: giáo dục kiến thức
Safety isn't just a slogan. It 's a way of life. [A306]
Phần đề ngữ Phần thuyết ngữ Phần đề ngữ Phần thuyết ngữ
Cách chọn các cấu trúc thông tin và cấu trúc đề ngữ - thuyết ngữ như trong
trường hợp của KH CT-XH đã giúp người phát ngôn có điều kiện linh hoạt sử dụng
tiếng nói của mình để nhấn mạnh những nội dung cần tuyên truyền và cũng là cách
để lưạ chọn chức năng của từng khẩu hiệu: giáo dục hay thuyết phục.
80
Ngoài ra, việc đưa ra một danh từ hoặc cụm danh từ nêu đích danh chủ đề làm
câu đề trong các diễn ngôn phức (2 câu trở lên) của KH CT-XH tiếng Anh cũng là cách
để dẫn dắt sự hiểu biết của người đọc đối với vấn đề cần tuyên truyền và để nhấn mạnh
chủ đề của diễn ngôn ngay từ đầu văn bản. Cách vận động kiểu này khá thuyết phục và
phổ biến (chiếm khoảng 13%) bởi sự trực tiếp của vấn đề cần nêu, ví dụ như:
- Terrorism. Fight them there so we don’t have to fight them here.[A9]
- Safety first. Think before you act. Keep your hands clear. [A298]
- Safety first. Others are depending on you. Don’t take chances. [A299]
- Safety first. Someone will need you tomorrow. [A300]
Tóm lại, với việc triển khai các nội dung tuyên truyền một cách cụ thể, trực
tiếp, có chọn lọc; đồng thời tạo lên sự liên kết logic, hợp lý và mạch lạc giữa các nội
dung trong diễn ngôn KH CT-XH, hệ tư tưởng và thái độ chấp hành các chủ trương
đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, cũng như ý thức thực thi các
vấn đề xã hội của các cơ quan chức năng trong lĩnh vực tuyên truyền đã được bộc lộ rõ
nét. Qua đó cấu trúc diễn ngôn hợp lý này còn làm tăng tính thuyết phục đối với người
nghe, người đọc trong quá trình tiếp nhận các ý tưởng và hành động vận động này.
2.5.3 Cấu trúc tổ chức vi mô của diễn ngôn KH CT-XH tiếng Anh
Cấu trúc tổ chức vi mô của diễn ngôn KH CT-XH tiếng Anh thể hiện tính đơn
giản bởi tính chất đặc điểm của thể loại diễn ngôn đặc biệt này. Với mục đích tuyên
truyền vận động, giáo dục thuyết phục, KH CT-XH buộc phải đảm bảo tính ngắn gọn
nên cấu trúc tổ chức vi mô của thể loại diễn ngôn này một mặt cũng tuân thủ những
quy định về liên kết, trật tự văn bản, cấu trúc đề-thuyết; mặt khác thể hiện tính tư
tưởng của người phát ngôn trong việc chọn mô hình kết cấu diễn ngôn đơn giản, ngắn
gọn và trực tiếp thông qua kiểu tổ chức thông tin cũ-mới. Việc sử dụng các cấu trúc
diễn ngôn phù hợp để dẫn dắt người nghe/người đọc và thuyết phục họ chấp nhận
quan điểm của người phát ngôn là để đạt được mục đích phát ngôn của mình. Cũng
do có sự hạn chế về độ dài của diễn ngôn, cho nên hiện tượng rào đón hay giới thiệu
vòng vo về mục đích của phát ngôn không hiện diện trong KH CT-XH tiếng Anh.
Đối với đa số diễn ngôn khẩu hiệu đơn, ở trong phần mở đầu có thể thấy ngay đơn vị
thông tin quan trọng cần giáo dục hay cần thuyết phục. Ví dụ: “Cruelty is one fashion
81
statement we can do without”. Còn đối với các diễn ngôn khẩu hiệu có độ dài lớn hơn
(2-3 câu) thì tiêu điểm thông tin thường cũng được ưu tiên nằm ở phần đầu của văn
bản (gần 87%), với mục đích thu hút sự chú ý của người tiếp nhận khẩu hiệu.
2.6. Tiểu kết chương 2
Trong phần trình bày trên đây, chúng tôi đã cố gắng dựa trên các nguyên tắc
cơ bản nhất của lý thuyết Phân tích Diễn ngôn phê phán, mà cụ thể là đuờng hướng
của Fairclough cũng như sử dụng các phương pháp phân tích ngữ pháp theo khung
lý thuyết Ngữ pháp chức năng hệ thống của Halliday để làm rõ các mối quan hệ
chính trị - xã hội, các quan hệ quyền-thế ẩn chứa đằng sau việc sử dụng ngôn ngữ
của diễn ngôn KH CT-XH. Việc thể hiện tư tưởng, thái độ của người phát ngôn
trong các khẩu hiệu cũng thông qua cách lựa chọn các kiểu quá trình trong quan hệ
chuyển tác, sử dụng các hiện tượng danh hóa, kiểu câu phát ngôn, cấu trúc câu bị
động, chủ động… đã được chỉ ra và thảo luận nhằm chứng minh giá trị của diễn
ngôn trong bối cảnh xã hội. Theo đó diễn ngôn không những là thực tiễn và tập
quán xã hội, mà còn là sự phản ánh thực tiễn đó. Quan hệ hỗ tương này càng chứng
tỏ tầm quan trọng và vai trò vị trí của ngôn ngữ trong đời sống của xã hội loài
người. Tuy nhiên, cho dù diễn ngôn có thể giúp làm nổi bật vấn đề tư tưởng thì
diễn ngôn cũng chỉ là sự thể hiện thực tiễn xã hội và làm nhiệm vụ giải thích về các
hiện tượng xã hội cho công chúng hiểu, chứ tự thân diễn ngôn chưa phải là đã tạo
nên được thực tại đó. Điều này hàm ý rằng nếu muốn biến diễn ngôn thành công cụ
mạnh mẽ làm thay đổi thực tiễn xã hội, thì vai trò là ở chỗ người sử dụng ngôn ngữ
chứ không phải tự thân diễn ngôn. Qua đó, vấn đề quyền lực trong diễn ngôn rõ
ràng được thể hiện qua nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của những người nắm giữ
quyền lực. Trường hợp KH CT-XH cũng không nằm ngoài quy luật đó. Những
người sử dụng ngôn ngữ đã biết cách dùng diễn ngôn khẩu hiệu để thể hiện quyền
lực kiểm soát và làm thay đổi thực trạng của mình thông qua con đường giáo dục và
thuyết phục- hướng cộng đồng tới những giá trị tốt đẹp hơn của cuộc sống.
82
CHƯƠNG 3
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ CỦA DIỄN NGÔN KHẨU HIỆU
CHÍNH TRỊ-XÃ HỘI TIẾNG VIỆT DUỚI GÓC NHÌN CỦA
LÝ THUYẾT PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN PHÊ PHÁN
3.1. Đặt vấn đề
Chương 3 của luận án tập trung nghiên cứu các đặc điểm ngôn ngữ của diễn
ngôn khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Việt theo quan điểm của lý thuyết phân tích
diễn ngôn phê phán. Nói cách khác, chương này thể hiện phần phân tích các giá trị
kinh nghiệm, giá trị quan hệ, và giá trị biểu cảm của từ ngữ, các hiện tượng ngữ pháp
và các kiểu liên kết câu, mệnh đề... trong diễn ngôn KH CT-XH tiếng Việt; qua đó
khám phá và bộc lộ các mối quan hệ giữa hệ tư tưởng, thái độ của người phát ngôn -
cơ quan ban hành khẩu hiệu - với ngôn ngữ trong diễn ngôn khẩu hiệu.
Ngữ liệu dùng cho chương này là 500 mẫu diễn ngôn KH CT-XH tiếng Việt
dựa trên sự tập hợp lựa chọn trong giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước (1980-
2014) từ nhiều nguồn khác nhau (tài liệu viết, tài liệu mạng, kho lưu trữ thông tin của
cơ quan ban hành, biểu ngôn biểu ngữ trên đuờng phố và ở các cơ quan-công sở,
trường học, chỗ công cộng, trong các áp phích cổ động và trong báo chí). Thể loại khẩu
hiệu là Khẩu hiệu chính trị - xã hội và phản ánh nhiều nội dung chủ đề khác nhau. Tất
cả các KH CT-XH này đều đã và đang được sử dụng trong thực tế và cũng đã phát huy
được tác dụng to lớn trong công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục vận động quần
chúng nói chung và một số đối tượng chuyên biệt nói riêng trong hơn 30 năm qua.
3.2. Khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Việt – một số vấn đề chung
3.2.1. Bối cảnh xã hội của khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Việt
KH CT-XH là một thể loại diễn ngôn ngắn gọn nhằm chuyển tại đến công
chúng những thông điệp qua đó khuyến khích, động viên mọi người thực hiện những
hành vi để làm thay đổi điều kiện và hiện trạng sống. Trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ đất nước ở Việt Nam, cũng như trong một số chiến dịch truyền thông ở các
nước nói tiếng Anh, khẩu hiệu có một vai trò quan trọng làm điều chỉnh hành vi của
người tham gia giao tiếp. Hơn thế, KH CT-XH còn thể hiện uy quyền của người phát
83
ngôn ở một tình huống xã hội nhất định. Việc lựa chọn ngôn từ và cách thể hiện các
đặc trưng ngôn ngữ cũng như đặc trưng diễn ngôn vào trong khẩu hiệu, làm cho
khẩu hiệu đến được với công chúng là nhiệm vụ quan trọng của các cá nhân và cơ
quan ban hành khẩu hiệu. Thực tế còn cho thấy rằng các giá trị chính trị, văn hóa,
xã hội của một dân tộc có những tác động đáng kể đến việc ban hành những khẩu
hiệu đến với công chúng.
Đơn vị phát hành KH CT-XH tiếng Việt là các cơ quan tuyên huấn, thông tin
tuyên truyền từ cấp quốc gia đến địa phương hoặc các bộ ngành chuyên biệt, cơ
quan tổ chức thuộc bộ máy nhà nước dưới sự chỉ đạo của chính phủ hoặc các cơ
quan chính quyền từ trung ương đến địa phương. Không có đơn vị, cá nhân hoặc tổ
chức cá nhân nào có chức năng hoặc được khuyến khích phát hành khẩu hiệu.
Trường hợp tự phát chỉ mang tính nhỏ lẻ nhưng chịu sự kiểm soát, kiểm duyệt về
mặt nội dung và quy mô của cơ quan chức năng.
3.2.2. Nội dung chủ đề của khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Việt
Chủ đề của KH CT-XH phản ánh tác động của điều kiện chính trị - xã hội
của mỗi quốc gia đến cách vận động và thuyết phục người dân. Việc một chính
quyền, cơ quan ban ngành chủ trương tập trung vào một số chủ đề này hoặc quyết
định phát sinh một số chủ đề mới cũng phản ánh những thay đổi về mặt chủ trương,
đường lối, chính sách, các thể chế chính trị và các tập quán xã hội khác nhau. Nếu
trong giai đoạn hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và chống Pháp, khẩu hiệu kháng
chiến đã hết sức quan trọng với vai trò hô hào kêu gọi tập trung sức người, sức của
cho công cuộc kháng chiến cứu nước và cổ vũ tinh thần chiến đấu vì Tổ quốc quyết
sinh, thì trong thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước, khẩu hiệu chính trị - xã hội
càng phải mang trọng trách thực hiện nhiều nhiệm vụ tuyên truyền to lớn, quan
trọng hơn và trên nhiều lĩnh vực hơn. Thực tiễn xã hội những năm sau chiến tranh,
xây dựng đất nước vừa mới bước ra từ bom đạn và đang dần thay da đổi thịt đã tạo
mảnh đất màu mỡ cho chủ đề của KH CT-XH trải nghiệm. Từ các phong trào vận
động về đóng góp, xây dựng đất nước sau thống nhất, mô hình kinh tế hợp tác xã
(thập kỷ 80) đến các phong trào tuyên truyền về phổ cập giáo dục, phong trào thanh
niên xung kích, kế hoạch hóa gia đình (thập kỷ 90)…và hiện nay là các cuộc vận
động về học tập tấm gương đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh, về đổi mới toàn diện
84
nền giáo dục, về thực hiện các chế độ an sinh-xã hội, bảo đảm an ninh - trật tự xã
hội… chủ đề của KH CT-XH liên tục được cập nhật và bổ sung, thay đổi, hoàn
thiện cũng như thêm mới cho phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội và đảm bảo
thực hiện các chủ trương chính sách đường lối của Đảng và nhà nước.
Kết quả khảo sát 500 mẫu diễn ngôn KH CT-XH tiếng Việt cho thấy chủ đề
của khẩu hiệu phân bố trên một số lĩnh vực chính sau đây:
Bảng 3.1 Chủ đề chính của khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Việt
Stt Chủ đề khẩu hiệu Số lượng Tỉ lệ (%)
1. Môi trường - Năng lượng 91 18,2%
2. Chăm sóc sức khỏe - Bảo hiểm y tế 62 12,4%
3. Xây dựng và bảo vệ đất nước, củng cố các tổ chức
chính trị - xã hội
60 12,0%
4. An toàn giao thông 49 9,8%
5. Gia đình-hôn nhân-bình đẳng giới 38 7,6%
6. Tệ nạn xã hội (phòng-chống ma túy) 36 7,2%
7. Phụ nữ và trẻ em 35 7,0%
8. Văn minh đô thị và trật tự xã hội 35 7,0%
9. An toàn - Vệ sinh lao động - An toàn thực phẩm 19 3,8%
10. Giáo dục (Chính trị-tư tưởng, giáo dục toàn diện) 17 3,4%
11. Dân số - Kế hoạch hóa gia đình 15 3,0%
12. Vận động bầu cử - Dân vận - Báo chí 12 2,4%
13. Xây dựng nông thôn mới 11 2,2%
14. An ninh - Chủ quyền 9 1,8%
15. Nghề nghiệp – Việc làm 6 1,2%
16. Thuế và nộp thuế 5 1,0%
Rõ ràng chủ đề của khẩu hiệu đã có những trọng tâm khác nhau và sự đa dạng
về chủ đề này cũng phản ánh các ưu tiên của chính sách tuyên truyền quốc gia vào
mỗi thời điểm nhất định. Bảng 3.1 chỉ ra các ưu tiên của nhà nước và các cơ quan
thông tin tuyên truyền về một số chủ đề quan trọng trong thời điểm xây dựng và bảo
vệ đất nước hiện nay. Bốn chủ đề có số lượng khẩu hiệu nhiều nhất đã phản ánh một
thực tiễn xã hội là trong điều kiện phát triển của bất kỳ quốc gia nào, bên cạnh những
thành tựu, phát triển về kinh tế-xã hội cũng tiềm ẩn những nguy cơ về chính trị, và
những rủi ro có thể đe dọa tính mạng con người như thiên tai, dịch bệnh, tai nạn…
Ngoài ra, tuy số lượng khẩu hiệu ở mỗi chủ đề có thể ít hoặc nhiều, nhưng tần suất sử
dụng còn là vấn đề đáng bàn. Ví dụ: vào thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, khi mà vấn đề
kế hoạch hóa gia đình đang là trọng tâm tuyên truyền của công tác dân số, người dân
85
có thể thấy rất nhiều áp-phích, băng-rôn, biểu ngữ khắp các khu vực công cộng tuyên
truyền về vấn đề này. Những khẩu hiệu này không chỉ xuất hiện trong một thời gian
nhất định nào đó, mà có khi có mặt tại một địa điểm suốt cả năm hoặc từ năm này
qua năm khác (Vd: khẩu hiệu kế hoạch hóa gia đình ở trước một trạm Y tế Huyện
Phú Lộc - Thừa Thiên Huế-TTH). Nhưng hiện nay, khi ý thức của người dân về vấn
đề dân số và kế hoạch hóa gia đình đã được nâng cao, việc tuyên truyền chủ đề này
có thể giảm đi độ “nóng” nên số lượng khẩu hiệu không còn cao. Tương tự, giao
thông đang là vấn đề nổi cộm nhất hiện nay, nên khẩu hiệu an toàn giao thông có tần
suất sử dụng khá cao, và cũng xuất hiện nhiều nơi với thời gian hầu như không giới
hạn (ví dụ: khẩu hiệu an toàn giao thông ở chân đèo Phú Gia-TTH).
Từ thực tế này, có thể thấy rằng KH CT-XH đã trở thành một công cụ phát
huy quyền lực của các cơ quan công quyền hay quản lý hành chính nhà nước. Khi các
quyết sách của xã hội đã được Đảng và nhà nước ta phê duyệt, các cơ quan chức năng
(mà thông thường là Ban tuyên giáo các cấp, sở văn hóa-thể thao-và du lịch, phòng
thông tin-truyền thông…) sẽ thiết kế nội dung khẩu hiệu trên các chủ đề đã được thảo
luận và đưa vào kế hoạch, quyết định. Và đó là lúc họ thể hiện “quyền lực” của cơ
quan hành pháp, đó là giáo dục, tuyên truyền cho cộng đồng về việc thực thi pháp
luật, thực hiện chính sách, chủ trương đã được nhà nước ban hành; thậm chí kể cả
tuyên truyền việc xử phạt nếu không chấp hành tốt các chủ trương này.
3.3. Những đặc điểm sử dụng từ ngữ của diễn ngôn khẩu hiệu chính trị - xã hội
tiếng Việt theo quan điểm của Lý thuyết Phân tích Diễn ngôn phê phán
3.3.1. Giá trị kinh nghiệm của từ ngữ
Thế giới kinh nghiệm trong ngữ pháp chức năng của Halliday là kinh nghiệm
của các tham thể về thế giới tự nhiên và thế giới xã hội, là nội dung thông báo, tri
thức và niềm tin. Kinh nghiệm là những cái xảy ra trong đầu người kiến tạo diễn
ngôn. Những quá trình xảy ra trong đầu người nói/nghe gắn với kinh nghiệm của họ
với thế giới bên ngoài. Khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Việt chủ yếu phản ánh
những vấn đề xã hội và việc thực thi pháp luật, cũng như những chủ trương chính
sách của Đảng, Nhà nước ta… nên trường diễn ngôn là các vấn đề chính trị-văn hóa
86
- xã hội. Có thể thấy ở mỗi chủ đề cụ thể, có nhiều từ vựng thuộc về lĩnh vực chủ
trương-chính sách, pháp luật hay các vấn đề xã hội đang được quan tâm.
Trước hết, vấn đề môi trường đang là vấn đề đáng lo ngại không chỉ ở Việt
Nam, mà ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới bất kể giàu nghèo, phát triển hay đang
phát triển. Ở Việt Nam, vấn đề ô nhiễm môi trường cũng đã được Đảng và Nhà nước
ta quan tâm đưa vào trong các chương trình nghị sự để bàn bạc các giải pháp tháo gỡ
tình hình cũng như cải thiện chất lượng môi trường sống, đồng thời tạo ra sự ổn định
bền vững cho môi trường - mái nhà chung của nhân loại. Khẩu hiệu về lĩnh vực môi
trường - năng lượng đã có nhiều từ ngữ phản ánh kinh nghiệm về thế giới của các
tham thể về lĩnh vực này như các khái niệm môi trường, trái đất, đại dương, di sản
thiên nhiên, sự sống, cuộc sống, sức khỏe, bền vững, tài nguyên biển, rừng, biến đổi
khí hậu, đa dạng sinh học, hệ sinh thái biển, kinh tế ít các bon, năng lượng sạch, tiết
kiệm năng lượng, giảm phát thải, chất thải, nước sạch, hành tinh xanh, tài nguyên, trí
tuệ xanh, đầu tư xanh, kinh tế xanh, an toàn, tương lai bền vững, sạch, đẹp, trong
lành, túi ni-lông, rác… hay một loạt các hành động liên quan đến môi trường như
bảo vệ, nghĩa vụ, nhiệm vụ, chung tay, liên kết, phòng chống, chống lại, cứu, cháy
rừng, lãng phí, tàn phá, tiết kiệm, hành động, bảo vệ, chặt cây, trồng rừng… và một
số cụm từ chỉ quy mô quan tâm và trách nhiệm đối với vấn đề môi trường như toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân, sự nghiệp, trách nhiệm toàn xã hội, trách nhiệm của
chúng ta, chính quyền và nhân dân, cộng đồng … Vấn đề môi trường là vấn đề có
tính thời sự khá cao. Trong khi ở những thập niên 80-90, chúng ta chỉ biết đến ô
nhiễm không khí và ít nghe nói đến các vấn đề như ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm
tiếng ồn, tài nguyên đất, tài nguyên biển… thì đến đầu thế kỷ 21 không những những
khái niệm này mà còn vô số khái niệm khác xuất hiện như kinh tế xanh, biến đổi khí
hậu, phát triển bền vững, năng lượng sạch… Việc xuất hiện nhiều cụm từ mới này
phản ánh sự thay đổi trong nhận thức của con người về thế giới vật chất và tự nhiên
xung quanh, về vấn đề môi trường nói riêng và các vấn đề khác nói chung. Các từ
ngữ chủ yếu mô tả thế giới kinh nghiệm trong vấn đề môi trường được lặp lại khá
nhiều trong các diễn ngôn khẩu hiệu về chủ đề này với tần suất như sau:
87
Bảng 3.2 Tần suất xuất hiện của các từ ngữ thuộc trường từ vựng
về môi trường và năng lượng
Stt Từ ngữ Số lần xuất hiện (*) Tỉ lệ phần trăm
1 Môi trường 42 46,66
2 Bảo vệ 34 37,77
3 Xanh 21 23,33
4 Sạch 19 21,11
5 Cuộc sống/ sự sống 19 21,11
6 Rác/ chất thải/ rác thải 13 14,44
7 Đẹp/ làm đẹp (môi trường) 12 13,33
Chú thích: (*) số lần xuất hiện trong tổng số 90 khẩu hiệu về môi trường-năng lượng.
Bên cạnh đó, các từ ngữ trái nghĩa cũng được sử dụng khá nhiều như ô
nhiễm (trái nghĩa với sạch) được sử dụng 8 lần, tàn phá/ hủy hoại (trái nghĩa với
bảo vệ) được sử dụng 7 lần (trên tương quan về số lượng khẩu hiệu cùng chủ đề)
cũng đã thể hiện sự đối lập trong thái độ và cách nhìn nhận về trạng thái biến đổi
của tự nhiên cũng như hành vi tàn phá môi trường của con người.
Tiếp đến, an toàn giao thông và vấn đề dân số, hạnh phúc gia đình, quyền trẻ
em đang là những vấn đề được xã hội đặc biệt quan tâm trong thời gian gần đây.
Thực tế xã hội cho thấy mỗi năm tai nạn giao thông đã cướp đi sinh mạng của hàng
ngàn người, để lại những nỗi đau về thể xác và tinh thần cho không biết bao nhiêu
gia đình trên khắp cả nước. Bên cạnh đó, áp lực dân số tăng nhanh khiến cho xã hội
mất cân bằng về cơ cấu việc làm, nhà ở, an sinh xã hội và cũng gián tiếp dẫn đến
các hiện tượng bất bình đẳng trong gia đình, bạo lực nảy sinh, trẻ em chưa được
quan tâm đúng mức... Khẩu hiệu nhằm tuyên truyền nâng cao nhận thức về vấn đề
an toàn giao thông và giảm áp lực dân số, tăng cường các biện pháp bảo vệ trẻ em
và hạnh phúc gia đình vì thế có nhiệm vụ quan trọng trong việc chuyển tải các
thông điệp xã hội của các cơ quan quyền lực đến với người dân. Để đạt được mục
đích giao tiếp này, việc sử dụng từ ngữ có nhiệm vụ phản ánh các kinh nghiệm
trong thực tiễn đời sống xã hội làm cho người dân hiểu và thấy được mối liên hệ
giữa khẩu hiệu với lợi ích trong đời sống của họ. Do trường diễn ngôn ở đây là các
vấn đề xã hội, và mục tiêu của diễn ngôn là hướng đến các giá trị tốt đẹp nên trong
88
KH CT-XH tiếng Việt xuất hiện rất nhiều từ vựng thuộc lĩnh vực này như: an toàn,
kỷ cương, hạnh phúc, văn hóa, tương lai, tươi sáng, bình đẳng, tôn trọng, chia sẻ,
hiểu, quyết tâm, tỏa sáng, phát triển, phồn vinh, ổn định, giá trị đích thực, lành
mạnh, tổ ấm, bình yên, hoài bão, nét văn hóa giao thông...
Bên cạnh đó, để có tính răn đe và nêu bật được những tác hại của mặt trái của
các vấn đề xã hội này, khẩu hiệu còn chứa các từ ngữ có mối quan hệ ngữ nghĩa mang
giá trị tư tưởng như dùng từ trái nghĩa như nâng niu - làm tổn thương (các thành viên
gia đình); chăm lo/bảo vệ - bỏ rơi (trẻ em); (sinh) con gái-con trai; (vai trò) nam giới -
nữ giới; bình đẳng - bất bình đẳng, hạnh phúc - bạo lực (gia đình), (đi) chậm - vội,
chấp hành - vi phạm (pháp luật). Việc dùng những từ ngữ trái nghĩa này giúp cho khẩu
hiệu có thể thể hiện một cách nổi bật sự khác biệt về tư tưởng trong đánh giá các vấn đề
xã hội cũng như nhận thức và sự chấp hành của người dân đối với pháp luật.
Số liệu thống kê cho thấy các trường từ vựng có tính tích cực để miêu tả các giá
trị tốt đẹp của hôn nhân-gia đình, công tác dân số, quyền phụ nữ và trẻ em … đạt 93
lượt/ 136 khẩu hiệu thuộc các chủ đề này; trong khi đó, các từ ngữ trái nghĩa để thể
hiện sự đối lập về tư tưởng và thái độ đánh giá các mặt trái của các hiện tượng xã hội
này cũng đạt đến 37 lượt/ 136 khẩu hiệu. Đặc biệt, một số từ ngữ chủ chốt giúp làm bật
nội dung chủ đề ở mỗi khía cạnh cụ thể được sử dụng với tần số rất cao. Ví dụ:
Bảng 3.3. Những từ ngữ chủ chốt giúp làm nổi bật nội dung chủ đề
Stt Chủ đề Từ ngữ chủ chốt Số lượng
diễn ngôn
khẩu hiệu
Số lượt xuất
hiện của từ
ngữ chủ chốt
1 Dân số dân số; kế hoạch hóa gia đình 15 14
2 Hôn nhân - gia
đình
hạnh phúc; gia đình 36 61
3 Bình đẳng giới bình đẳng; bất bình đẳng; giới, bạo lực 36 38
Như vậy việc sử dụng trường từ vựng ở cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực
(thông qua biện pháp sử dụng từ đồng nghĩa, trái nghĩa) đều được chú trọng nhằm thể
hiện rõ nét tư tưởng và thái độ của người phát ngôn trong các khẩu hiệu tuyên truyền.
Đặc biệt khi nói về quyền trẻ em và giáo dục trẻ em, khẩu hiệu năm 2013 đã xuất
hiện yếu tố mới nhằm thể hiện tính tư tưởng trong quan điểm của Đảng và Nhà nước ta,
89
đó là trẻ em dân tộc. Nói khái niệm này mới là do chúng ta so sánh nó với khái niệm trẻ
em được dùng với nghĩa chung trong các khẩu hiệu thuộc chủ đề này trước đây. Điều
này thể hiện việc cụ thể hóa những chính sách quan tâm phát triển đối với các vùng dân
tộc thiểu số của Đảng và Nhà nước ta vào trong các công cụ tuyên truyền xã hội. Một
trong những nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc là “tương trợ giúp đỡ lẫn nhau
cùng tiến bộ giữa các dân tộc”; và một trong những nội dung hành động là “Chính sách
xã hội tập trung vào các vấn đề giáo dục - đào tạo, văn hóa, y tế... nhằm nâng cao năng
lực, tạo tiền đề và các cơ hội để các dân tộc có đầy đủ các điều kiện tham gia vào quá
trình phát triển, để trên cơ sở đó không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
đồng bào” (Trích chuyên luận Chính sách dân tộc của Đảng trong thời kì đổi mới [30].
Tác giả Lâm Bá Nam cho rằng thực trạng phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta cho thấy
có sự chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hội nên cần thiết phải kêu gọi sự tương trợ
giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc. Đây vừa là yêu cầu, vừa là mục tiêu của sự phát triển,
vì sự phát triển bền vững của cộng đồng quốc gia dân tộc. Cho nên trong các văn kiện
của Đảng, nguyên tắc tương trợ được bổ sung các thành tố tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng
phát triển, cùng tiến bộ, và trong nhiều đề cương, Đảng ta xem đây là một nguyên tắc đối
với vấn đề dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Đó cũng chính là lí do xuất hiện khẩu hiệu “Quyết tâm đưa trẻ em nghèo khó, trẻ em
dân tộc đến trường” [V365] hoặc “Vì một tương lai tươi sáng, hãy chăm sóc trẻ em
nghèo, trẻ em dân tộc”[V373]. Nếu so với trước đây, từ 2012 trở về trước các khẩu
hiệu nói về quyền trẻ em chỉ đề cập “trẻ em” nói chung, thì cách dùng từ có tính cá
thể hóa, khu biệt hóa này đã thể hiện quan điểm và hệ tư tưởng của Đảng ta khi
hướng đến các chính sách dân tộc.
Ngoài ra khi nói về giá trị của hạnh phúc gia đình và cuộc sống hôn nhân,
khẩu hiệu sử dụng rất nhiều từ đồng nghĩa và từ gần nghĩa để nhấn mạnh thông điệp
và tạo ra hiệu ứng tu từ học, giúp nhấn mạnh và làm rõ nhận thức về tầm quan trọng
của xây dựng hạnh phúc gia đình trong xã hội văn minh. Tỉ lệ sử dụng từ đồng nghĩa,
gần nghĩa này trên cùng một chủ đề (Vd: hôn nhân - hạnh phúc gia đình) đạt hơn
30%. Đó là những từ nền tảng, gốc rễ, chiếc nôi, điểm tựa... trong các khẩu hiệu:
90
- “Gia đình hạnh phúc là chiếc nôi nuôi dưỡng, phát triển những hoài bão
ước mơ của mỗi người.” [V89]
- “Bất bình đẳng giới là gốc rễ của bạo lực gia đình.” [V81]
- “Bình đẳng nam nữ là nền tảng của văn hóa của xã hội văn minh - gia đình
hạnh phúc.” [V83]
- “Gia đình - điểm tựa của hạnh phúc.” [V88]
Và các từ ngữ gia đình, tổ ấm, mái ấm, tế bào xã hội, hôn nhân, ngôi nhà,
thành viên gia đình, ông bà-con cháu trong các khẩu hiệu:
- “Đừng làm tổn thương các thành viên trong gia đình bạn.” [V86]
- “Gia đình là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội.” [V91]
- “Hãy để tình yêu thương sưởi ấm ngôi nhà của bạn.” [V96]
- “Hôn nhân không tự nguyện và tảo hôn là một nguyên nhân dẫn đến tan vỡ
hạnh phúc.” [V99]
- “Ông bà mẫu mực, con cháu thảo hiền.” [V108]
- “Vì một mái ấm gia đình không có bạo lực.” [V116]
Thế giới kinh nghiệm của chúng ta thay đổi hàng ngày hàng giờ quá thực
tiễn sản xuất và đời sống xã hội. Thay đổi là tất yếu của cuộc sống tự nhiên và xã
hội, và thực tiễn này ngay lập tức được phản ánh vào trong diễn ngôn. Xét trong
thuật ngữ tuyên truyền của chủ đề sức khỏe cộng đồng, cụm từ sàng lọc trước sinh
trong khẩu hiệu “sàng lọc trước sinh, sơ sinh góp phần hạn chế dị tật bẩm sinh ở
trẻ em” [V366] là một thuật ngữ chuyên môn của ngành Y và chăm sóc sức khỏe
cộng đồng chỉ mới được đưa vào khẩu hiệu gần đây (khoảng từ năm 2010 trở đi).
Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân được Quốc hội ban hành vào năm 1989, nhưng phải
đến năm 2010, trong dự thảo chiến lược quốc gia về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011-2020, Bộ Y tế mới có những đánh giá xác thực
về kết quả thực hiện công tác này trong 10 năm (2001-2010). Kết luận nêu rõ tỉ lệ tử
vong trẻ sơ sinh còn cao, tỉ lệ trẻ sơ sinh mắc các dị tật bẩm sinh khá cao đã làm ảnh
hưởng đến chất lượng dân số và giống nòi. Dự thảo chiến lược cũng đồng thời đưa
ra những dự định mới cho công tác chăm sóc sức khỏe, trong đó có chiến lược chăm
91
sóc sức khỏe bà mẹ mang thai và trẻ sơ sinh và vấn đề sàng lọc trước sinh để đảm
bảo chất lượng dân số. Đây chính là những tiền đề cho việc thông tin tuyên truyền
công tác dân số phải có những cụm thuật ngữ chuyên môn như vậy nhằm mục đích
giáo dục hiểu biết và nâng cao nhận thức cho người dân, góp phần ổn định và nâng
cao chất lượng dân số.
Tương tự, khái niệm xây dựng nông thôn mới hay các từ ngữ tương tự diễn
đạt khái niệm này cũng chỉ mới xuất hiện trong kế hoạch ban hành KH CT-XH của
các ủy ban quốc gia và địa phương kể từ 2010-2011 bởi vào tháng 8 năm 2008,
Đảng ta ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW về Chương trình mục tiêu quốc gia về
xây dựng nông thôn mới và đã xác định quan điểm chỉ đạo là: “Nông nghiệp, nông
dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng trong phát triển kinh
tế - xã hội bền vững, gìn giữ ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng, gìn
giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất
nước. Nông dân là chủ thể của quá trình phát triển; xây dựng nông thôn mới là căn
bản, phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là khâu then chốt”.
Sự thay đổi này còn thể hiện không chỉ ở sự xuất hiện của các khẩu hiệu mới
mà còn ở việc giảm và gần như biến mất một số khẩu hiệu đã một thời rất phổ biến.
Nếu những năm 1985-2000, chúng ta thấy khẩu hiệu về kế hoạch hóa gia đình
“bùng nổ” với nhiều từ ngữ thuyết phục người dân thực hiện quy mô gia đình ít con
như “chỉ sinh từ 1 đến 2 đứa con”, “dừng lại ở 2 con”, “kế hoạch hóa gia đình”…
thì gần 15 năm trở lại đây (2001-2014) các khẩu hiệu như thế này không còn phổ
biến ở những nơi công cộng nữa. Có chăng, các khẩu hiệu tương tự chỉ được treo ở
trước các cơ sở y tế cấp phường, xã, huyện thị nhằm duy trì tính vận động và giáo
dục đối với một bộ phận người dân. Sự giảm sút và hầu như biến mất của khẩu hiệu
thuộc chủ đề này bắt nguồn từ kết quả làm tốt công tác dân vận về kế hoạch hóa gia
đình và nâng cao nhận thức xã hội. Các điều kiện về pháp chế, an sinh xã hội và
thực tiễn cuộc sống đã góp một phần vào thay đổi nhận thức của người dân trong
vấn đề này. Thế là từ chỗ diễn ngôn ra đời từ thực tiễn xã hội rồi đến lượt, thực tiễn
92
xã hội đã quay trở lại tác động vào diễn ngôn. Khẩu hiệu thuộc chủ đề này hiện nay
có quy mô phổ biến nhỏ và ngôn từ đã được biểu cảm hóa bằng các kiểu ẩn dụ, ví
dụ như “quy mô gia đình ít con”, chứ không trực tiếp và thẳng thắn như “mỗi gia
đình chỉ nên có 1-2 đứa con” mà trước đây vẫn thường xuyên được sử dụng. Tuy
nhiên mới đây, tổng cục dân số - kế hoạch hóa gia đình thuộc Bộ Y tế đã có quyết
định rằng khẩu hiệu về KHHGĐ trong năm 2014 sẽ không còn có tính ép buộc mà
sẽ chuyển sang tính khuyến khích vận động, và đồng thời còn vận động người dân
sinh đủ 2 con theo mức mà pháp lệnh dân số đã quy định. Trong thông điệp mới,
cụm từ “chỉ có 1 đến 2 con” sẽ được thay thế bằng cụm từ “hãy nên sinh 2 con”.
Đây chính là một biểu hiện của sự thay đổi trong thế giới kinh nghiệm của con
người dẫn đến thay đổi chiến lược dùng từ ngữ trong diễn ngôn. Giải thích về sự
thay đổi này, đại diện của cơ quan thẩm quyền cho biết trước đây, nếu quy định
“mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con” mang tính ép buộc thì nay, người dân được
khuyến khích và vận động “mỗi gia đình hãy nên sinh đủ 2 con”. Ngoài ra, việc
thay đổi cụm từ “từ 1 đến 2 con” thành cụm từ “sinh 2 con” cũng có tính chiến lược
cần thiết, bởi sinh 2 con là đảm bảo cơ cấu dân số trong tương lai và sự hài hòa cân
đối giữa các lứa tuổi. Theo tổng cục trưởng tổng cục dân số - KHHGĐ, “chính vì lo
ngại dân số già nên chúng ta phải đưa ra thông điệp để mọi người nhận thấy việc
sinh đẻ như một quyền lợi và nghĩa vụ của gia đình, dòng họ và dân tộc, đảm bảo
sự trường tồn của gia đình và xã hội thì phải sinh con đẻ cái.” Đồng thời, có một
hiện trạng là hiện nay, mức sinh của các vùng miền trên cả nước không đồng đều.
Có nhiều gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội chỉ chọn sinh 1 con. Nếu
các gia đình chọn mức sinh thấp như vậy thì tốc độ già hóa dân số đã rất nhanh như
hiện nay sẽ càng nhanh hơn, nguồn nhân lực trong tương lai gần sẽ bị thiếu hụt. Về
mặt ngôn ngữ học mà nói, thì từ khuyến nghị có cơ sở khoa học như vậy, cụm từ
ngữ “sinh đủ hai con” có giá trị nhất định trong việc đưa vấn đề xã hội vào trong
diễn ngôn để phản ánh một thực tại xã hội và những chính sách liên quan của đất
nước ta trong một thời kỳ nhất định.
Tương tự, các vấn đề chính trị - xã hội đang được toàn xã hội quan tâm đều liên
tục được phản ánh vào trong diễn ngôn khẩu hiệu. Khẩu hiệu “Sự hài lòng của nhân dân
93
là mục tiêu phục vụ của cơ quan nhà nước” [V481] và một số khẩu hiệu khác có
bao hàm nội dung “sự hài lòng, tín nhiệm của dân” đã được tỉnh Khánh Hòa chọn
tuyên truyền tại các cơ quan hành chính nhà nước trong toàn tỉnh từ tháng 8-2013.
Từ khi Nghị quyết Trung ương 4 (TW4) về những vấn đề cấp bách trong xây dựng
Đảng ra đời vào thời điểm tháng 01 năm 2012 cho đến việc lần đầu Quốc hội bỏ
phiếu tín nhiệm dành cho 47 người giữ các chức danh do Quốc hội bầu và phê
chuẩn tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa 13 (11- 06-2013), trong toàn xã hội đã bắt
đầu xuất hiện các thông tin tuyên truyền chung quanh vấn đề này. Nội dung cốt lõi
của nghị quyết đã chỉ ra rằng các nhiệm vụ cấp bách của xây dựng Đảng trong thời
kỳ mới là làm trong sạch đội ngũ, khắc phục các sai sót, hạn chế, yếu kém trong bộ
máy các cấp lãnh đạo, và hướng đến sự “hài lòng” hay “tín nhiệm” thực sự của
người dân, những người mà đội ngũ lãnh đạo đang phục vụ. Nghị quyết TW4 đặc
biệt nhấn mạnh những vấn đề như thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các
cấp lãnh đạo do Quốc hội bầu và phê chuẩn và nâng cao chất lượng công tác phê và
tự phê bình. Đây là những đối sách của Đảng nhằm làm tốt công tác xây dựng Đảng
trong tình hình hiện nay. KH CT-XH với tôn chỉ phục vụ nhân dân không phải đến
những năm của thế kỉ 21 mới có. Trước đây trong thời kỳ xây dựng và phát triển đất
nước ở những năm 80, chúng ta cũng đã có những khẩu hiệu nêu cao tinh thần phục
vụ nhân dân như thế. Nhưng vấn đề ở đây là sự thay đổi về trọng tâm từ ngữ. Nếu
trước đây những khẩu hiệu chỉ nói chung chung về khái niệm phục vụ nhân dân như
“Vì nước quên thân, vì dân phục vụ.” hoặc “trung thành với sự nghiệp cách mạng
của dân, do dân, vì dân”, thì nay tiêu điểm thông tin đã hướng đến một giá trị khác
của xã hội mà Đảng và nhà nước ta đang tích cực xây dựng: “đo lường chất lượng
công tác lãnh đạo qua sự hài lòng của dân”. Vì thế sự thay đổi về tiêu điểm thông
tin với cách chọn từ ngữ thể hiện đúng tinh thần của nghị quyết, của các quy định như
vậy đã giúp biến diễn ngôn thành công cụ thực thi hoặc động viên thực thi pháp luật.
Cùng thời điểm xuất hiện các từ ngữ phản ánh các giá trị kinh nghiệm liên
quan việc chống đối chính sách bành trướng của Trung quốc trên biển Đông, khẩu
hiệu tháng 6,7/2014 xuất hiện một số từ ngữ khác liên quan đến các khái niệm ngư
dân, ngư trường, bám biển, biển Đông. Rõ ràng sự vi phạm về chủ quyền của Trung
94
quốc trên vùng biển đảo của nước ta trong thời gian này trực tiếp đe dọa các công
tác khai thác hải sản của ngư dân trên các ngư trường truyền thống quanh quần đảo
Hoàng Sa của Việt Nam. Và để góp thêm tiếng nói vận động, giáo dục toàn dân về
vấn đề này, khẩu hiệu trong hai tháng 6,7/2014 đã xuất hiện nhiều từ ngữ liên quan
đến biển Đông và công việc của các ngư dân trên biển.
- Chăm sóc sức khỏe của ngư dân là hành động thiết thực để bảo vệ chủ
quyền biển đảo. [V7]
- Chung sức bảo vệ chủ quyền biển Đông. Kiên quyết hỗ trợ ngư dân bám
biển, làm giàu từ biển. [V4]
Rõ ràng khẩu hiệu về an ninh - chủ quyền quốc gia của năm 2013 trở về trước
không có những khái niệm này. Ví dụ: “Bảo vệ chủ quyền biển đảo” hay “Bảo vệ vững
chắc chủ quyền biên giới” là những khái niệm khá chung trong các khẩu hiệu bảo vệ chủ
quyền. Nay khi vấn đề biển Đông đã trở thành vấn đề chính trị nóng bỏng trên nghị trường
thế giới, KH CT-XH ở Việt Nam đã có sự hưởng ứng bằng cách khu trú khái niệm này
thành “bảo vệ chủ quyền biển Đông”; hoặc bổ sung các khái niệm “hỗ trợ ngư dân” và
“chăm sóc sức khỏe ngư dân” để toàn xã hội thấy được tầm quan trọng của việc ngư dân
bám biển đối với việc bảo vệ chủ quyền biển đảo. Tương tự, một số khái niệm chỉ mới
xuất hiện trong những thời điểm gần đây (khi mà vấn đề được khái niệm đó phản ánh) đã
nói lên tầm quan trọng của diễn ngôn là phản ánh thế giới kinh nghiệm, như là: “tiết kiệm
thực phẩm - bảo vệ môi trường”, “lãng phí thực phẩm”, “nền kinh tế ít các bon”, “giúp
người cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng” hay “ngày đất ngập nước thế giới”.
Như vậy, qua một số ví dụ vừa phân tích, chúng ta có thể thấy rằng diễn
ngôn là một phần của thực tiễn xã hội, và vì thế bị quy định bởi cấu trúc xã hội.
Diễn ngôn KH CT-XH rõ ràng đã phản ánh những giá trị kinh nghiệm từ thực tiễn
đời sống xã hội, phản ánh cách nhìn nhận thế giới của những người kiến tạo diễn
ngôn.
Việc bộc lộ quan hệ quyền - thế ở KH CT-XH còn được thể hiện trong việc sử
dụng từ đồng nghĩa và gần nghĩa có sự gia tăng về cấp độ quyền lực trong phát ngôn.
Nếu xem xét diễn ngôn chỉ dẫn, biển báo… chúng ta thấy những từ ngữ thể hiện sự
95
“ngăn cấm” được sử dụng thường xuyên bao nhiêu, thì ở KH CT-XH lại càng thấy
hiếm có những từ ngữ này bấy nhiêu. Tuy nhiên, từ sau năm 2010 đến nay, khẩu hiệu
ở một số nơi đã xuất hiện nhiều thuật ngữ thể hiện sự ngăn cấm. Tuy nhiên, việc thể
hiện quyền lực của những cơ quan chức năng trong việc ngăn cấm người dân làm trái
pháp luật không chỉ được thể hiện trong mỗi một từ “cấm”. Trong trường hợp này,
khẩu hiệu thể hiện các mức độ từ khuyên răn, giáo dục... đến cấm đoán và kết tội như
các từ ngữ hãy, nên (lời khuyên) cấm (cấm đoán) nghiêm cấm (cấm ở mức độ
cao hơn) ... là tội ác, là vi phạm pháp luật (quy tội, kết tội) trong một loạt các khẩu
hiệu về an toàn giao thông, về bình đẳng giới, về trật tự an toàn xã hội.... Đây là sự bộc
lộ tính quyền lực thông qua các hành động ngôn từ có giá trị biểu cảm cao. Các kiểu
hành động ngôn từ thuộc hành động ở lời này đã được Đỗ Hữu Châu [6] khái quát khá
rõ trong khi phân loại các hành vi ở lời, đó là khuyên bảo, ra lệnh, yêu cầu, cấm đoán...
Một nghiên cứu mới đây của Đỗ Thị Xuân Dung và cộng sự [8] cũng đã chỉ ra rằng khi
xem xét dưới góc độ hành động ngôn từ, khẩu hiệu thực hiện một số chức năng cơ bản
của nó chủ yếu thông qua hành động thông tin và hành động cầu/ khiến. Các hành động
tại lời của khẩu hiệu mang chức năng khuyến cáo, ra lệnh, hay thông tin, tuyên bố đều
thuộc các nhóm hành vi tại lời mà Austin [46] và Searle [135] đã phân loại bao gồm
phán xử, hành xử, cam kết, trình bày, ứng xử (cách phân loại của Austin) và đại diện,
điều khiển, cam kết, biểu cảm, tuyên bố (cách phân loại của Searle). Để đạt được mục
tiêu thông tin và tác động đó, cần thiết phải sử dụng các động từ ngữ vi thuộc thế giới
kinh nghiệm của cả người phát ngôn và người tiếp nhận. Nhưng trong khẩu hiệu các
hành vi khuyến cáo, răn đe, thuyết phục… chúng ta thấy ít khi xuất hiện các động từ
ngữ vi như thông báo, khuyến cáo… (ngoại trừ một số ít từ ngữ như “cấm…”) mà bản
thân hành động tại lời đã được hàm chứa bên trong các cấu trúc ngữ pháp, như “phóng
nhanh, vượt ẩu, gây tai nạn là tội ác” [V148] (hành vi khuyến cáo, kết tội).
3.3.2. Giá trị quan hệ của từ ngữ
Fairclough [68:116] cho rằng, xác định giá trị quan hệ của từ ngữ là sự lựa
chọn từ sử dụng trong diễn ngôn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra hay duy
trì các mối quan hệ xã hội giữa các thành viên tham gia giao tiếp. Trong ngôn ngữ
khẩu hiệu, quan hệ xã hội giữa người phát ngôn và người tiếp nhận phát ngôn cũng
96
đã được thể hiện trong cách chọn sử dụng từ ngữ. Từ trước đến nay, khẩu hiệu về
an toàn giao thông (ATGT) thường có các dạng: mệnh lệnh hoặc nghiêm cấm như
“Cấm phóng nhanh, vượt ẩu”, “Nghiêm cấm chạy quá tốc độ”); hoặc cảnh báo như
“Lạm dụng rượu, bia - hiểm họa ATGT”, kêu gọi, nhắc nhở như “Hãy đội mũ bảo
hiểm khi đi môtô, xe gắn máy”. Những biện pháp này cũng đã phần nào có tác dụng
nhưng vẫn có vẻ hơi “thô cứng” và chưa lịch sự nếu xét về khía cạnh tác động vào
quan hệ giữa người nói và người nghe. Thông thường mệnh lệnh được ban hành bởi
người có nhiều quyền lực tới người có ít quyền lực hơn. Và cách dùng này dường
như không phải lúc nào cũng có tác dụng, đôi khi có cả tác dụng phụ. Một số diễn
ngôn khẩu hiệu theo dạng mệnh lệnh như vậy đã vi phạm một nguyên tắc cơ bản
trong giao tiếp, đó là lịch sự (face saving/ politeness), trong khi lịch sự là một chiến
lược cần thiết để tạo nên giá trị quan hệ. Gần đây, chiến lược sử dụng từ ngữ của
khẩu hiệu đã có thay đổi với thông điệp “mềm hóa” khi hướng đến tinh thần trách
nhiệm trong lòng mỗi người, tác động đến tình cảm và văn hóa của người dân như
“Lái xe bằng cả trái tim” [V150], “Đằng sau tay lái là gia đình, người thân”,
[V131] “Một người có ý thức chấp hành Luật Giao thông đem lại hạnh phúc cho
nhiều người”, [V146] “Mọi người ủng hộ bạn nói không với rượu, bia khi tham
gia giao thông”… hoặc tác động vào lòng tự trọng của người tiếp nhận như “Sử
dụng còi đúng cách là ứng xử có văn hóa” [V152], hoặc có nhận dạng bản sắc
riêng như “Người Hà Nội không vội được đâu!” [V145]. Với cách sử dụng từ ngữ
thể hiện sự tôn trọng người nghe, người đọc trong các khẩu hiệu như vậy, người
phát ngôn đã tác động vào mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng, giữa
người ban hành và người tiếp nhận “mệnh lệnh”. Chính sự mềm hóa này đã giúp
thông điệp dễ đến với người dân hơn khi chúng ta hiểu được thói quen và tập quán
của người Việt Nam là có thiên hướng về tình cảm, coi trọng gia đình, người thân.
Một lời nói “dễ nghe” bao giờ cũng có hiệu quả tác động lớn hơn; và họ cũng có
khuynh hướng chấp hành nghiêm Luật Giao thông đường bộ nếu họ nghĩ đến gia
đình và người thân đang chờ mong họ ở nhà.
Giá trị quan hệ của từ ngữ trong KH CT-XH không phải lúc nào cũng hiển
ngôn. Trường hợp sự thay đổi của từ ngữ để thể hiện sự thuyết phục trong khẩu hiệu
97
tuyên truyền tiết kiệm điện là một ví dụ. Quan hệ giữa người nói và người nghe
(hay người vận động và người tiếp nhận) được thể hiện thông qua môt chuỗi hành
động khuyên nhủ với mức độ tăng tiến về thuyết phục và với chiến lược tác động
đến tâm lý và lợi ích của người sử dụng năng lượng như:
Bảng 3.4 Mục đích thuyết phục và tác dụng của từ ngữ thuyết phục thông qua
mối quan hệ giữa người nói và người nghe
Stt Mục đích Khẩu hiệu Tác dụng
1 Thuyết phục về
lợi ích chung cho
cả cộng đồng,
1. Tiết kiệm năng lượng để bảo vệ môi trường. [V255]
2. Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả nhằm bảo
vệ môi trường và phát triển bền vững [V250]
Lợi ích không
được nói rõ,
chưa thấy được
trước mắt
2 Thuyết phục về
lợi ích của cá
nhân-gia đình và
tập thể-xã hội
1. Tiết kiệm điện là ích nước lợi nhà [V253]
2. Tiết kiệm điện là giảm chi phí [V253]
3. Tiết kiệm điện là tiết kiệm ngân quỹ gia đình & tài
nguyên đất nước [V254]
4. Hãy sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả vì lợi ích của
mỗi nhà, mỗi đơn vị và toàn xã hội. [V403]
Lợi ích được
nói rõ cụ thể,
thấy được trước
mắt, tác động
trực tiếp tới
người nghe
trước.
3 Thuyết phục theo
nguyên tắc,
hướng dẫn
1. Sử dụng điện theo nguyên tắc bốn đúng: đúng lúc,
đúng chỗ, đúng cách và đúng nhu cầu. [V251] (khẩu
hiệu đạt Giải Nhất cuộc thi sáng tác khẩu hiệu tiết
kiệm điện năm 2012)
Lợi ích có được
nếu tuân thủ
nguyên tắc.
Ngoài ra, nhắc đến sự ứng xử có văn hóa trong giao thông cũng chính là
nhắc nhở nêu cao lòng tự trọng của mỗi người. Tương tự, nhắc đến giá trị bản sắc
cá nhân hay nhóm, tập thể như “người Hà Nội”, “tuổi trẻ Thừa Thiên Huế...”,
“thanh niên…” thì đó chính là cách làm dấy lên trong lòng người dân sự tự giác
chấp hành Luật giao thông. Đây chính là chiến lược sử dụng từ ngữ mang giá trị
quan hệ của KH CT-XH. Ngoài ra, trong các cấu trúc câu cầu khiến mà khẩu hiệu
sử dụng để kêu gọi cộng đồng “hãy + động từ” (15,2% lượt), thì bản thân phụ từ
hãy vừa làm chức năng hô, gọi, vừa là yếu tố liên nhân ngầm ẩn để kết nối giữa
người phát ngôn và người tiếp nhận khẩu hiệu. Khi kêu gọi với phụ từ hãy người
phát ngôn đã hàm ý cam kết sự tham gia của bản thân (cá nhân/ tập thể) vào trong
hành động, cùng với cộng đồng. Chính yếu tố những liên nhân này thể hiện mối
quan hệ giữa người nói và người nghe, và cũng chính là nâng giá trị quan hệ của từ
ngữ trong KH CT-XH lên cao. Bên cạnh đó động từ “chung tay” (dùng với phụ từ
98
hãy với khoảng 2% lượt sử dụng trong khẩu hiệu cũng có giá trị quan hệ không kém
phần hiệu quả khi người phát ngôn muốn nhấn mạnh sự liên kết, tương tác giữa
người kêu gọi và người tiếp nhận trong cùng một hành động chung là hướng tới các
giá trị tốt đẹp của đời sống chính trị - xã hội.
3.3.3. Giá trị biểu cảm của từ ngữ
Trong ngôn từ của KH CT-XH, giá trị thuyết phục của ngôn ngữ là chức năng
trọng tâm. Do yêu cầu vận động, tuyên truyền các giá trị văn hóa, xã hội cho cộng đồng
nên người biên soạn khẩu hiệu cần quan tâm nhiều đến ngôn ngữ thuyết phục
(persuasive language). Fairclough [68:199] cho rằng những người chú ý đến ngôn ngữ
thuyết phục sẽ có thể giúp diễn đạt các giá trị biểu cảm của từ ngữ. Để đạt được điều
đó, việc lựa chọn từ ngữ cho khẩu hiệu cần đạt được những giá trị biểu cảm cao để dễ
đi vào lòng người dân, tác động vào tâm tư tình cảm và nhận thức của họ, thông qua
khả năng biểu đạt sự đánh giá của người sử dụng ngôn ngữ. Ví dụ như trong khẩu hiệu
về an toàn giao thông, bên cạnh việc dùng các từ ngữ có tính tích cực để động viên các
giá trị văn hóa cao trong ý thức giao thông như nét đẹp, văn hóa (giao thông), lành
mạnh, tính răn đe khuyến cáo của khẩu hiệu về an toàn giao thông còn được khái quát
hóa trong việc dùng các từ ngữ trái nghĩa có giá trị biểu cảm cao như
- Phóng nhanh vượt ẩu gây tai nạn là tội ác. [V148]
- Hiểm họa tai nạn giao thông, hãy hành động ngay. [V138]
- Tai nạn giao thông hàng năm cướp đi sinh mạng của hàng ngàn người. [V153]
Với các yếu tố biểu cảm đi từ đơn giản, đến trung tính và cuối cùng đạt đến
cao trào như trong các KH CT-XH vừa nêu, giá trị thuyết phục đã được phát huy rất
nhiều. Tính thuyết phục của khẩu hiệu trong trường hợp này không chỉ thể hiện ở sự
kêu gọi có tính động viên các giá trị văn hóa cao (dùng từ nghĩa tích cực) mà còn ở
việc khuyến cáo, thậm chí răn đe (dùng từ nghĩa tiêu cực), nhằm mục đích đạt được
hiệu quả cao nhất về tính giáo dục và động viên của KH CT-XH.
3.3.4. Sử dụng biện pháp ẩn dụ
Halliday [10:610] cho rằng những “nét của lời nói” hay “biểu thức mỹ từ” là
những hình thức khái quát việc chuyển nghĩa ngôn từ, và được gọi là ẩn dụ hoặc thể
99
đối lập của nó, hoán dụ. Những hình thức chuyển nghĩa này dù cách sử dụng có
khác nhau nhưng cũng đều chỉ những nét nghĩa “không theo nghĩa đen” của từ ngữ.
Ẩn dụ là phương tiện thể hiện khía cạnh kinh nghiệm bằng một hình thức khác, và
thông qua đó người phát ngôn có thể thể hiện tư tưởng và thái độ của mình. Vì thế
sử dụng nhiều kiểu ẩn dụ khác nhau có thể giúp đem lại các giá trị tư tưởng khác
nhau trong diễn ngôn. Nhiệm vụ của người làm CDA là tìm ra các biểu thức mỹ từ
(ẩn dụ) trong diễn ngôn, để hiểu được những ý định, suy nghĩ, thái độ của người
phát ngôn thông qua ẩn dụ hàm ngôn hoặc hiển ngôn. Ngôn ngữ của KH CT-XH là
ngôn ngữ dành cho công chúng, nên giá trị thuyết phục càng phải chịu nhiều tác
động của sự đánh giá từ nhiều phía đối tượng tiếp nhận. Chính vì thế, KH CT-XH
tiếng Việt dùng khá nhiều các kiểu ẩn dụ từ vựng như:
- Bất bình đẳng giới là gốc rễ của bạo lực gia đình. [V81]
- Gia đình là tổ ấm của mối người, là tế bào lành mạnh của xã hội. [V91]
- Bảo vệ rừng là bảo vệ lá phổi của chính mình. (hoán dụ) [V194]
- Phía trước tay lái là cuộc sống. Nhanh một phút, chậm cả đời. [V147]
- Rừng là vàng. Nếu chúng ta biết bảo vệ thì rừng rất quý [V248]
Tần suất của các hiện tượng ẩn dụ này chiếm khoảng 11,2 % của 500 mẫu diễn
ngôn KH CT-XH tiếng Việt. Việc hiểu các giá trị tư tưởng hàm ẩn trong các hiện
tượng ẩn dụ này là nhờ vào khả năng tri nhận về thế giới kinh nghiệm của người nghe.
Ẩn dụ và hoán dụ là các phương tiện làm nền tảng ho hệ thống khái niệm của con
người từ góc độ kinh nghiệm và cho phép con người thể hiện sáng tạo trong diễn ngôn
[98]. Và chính khả năng sáng tạo này giúp khẩu hiệu trở lại với đặc tính vốn dĩ của nó
là “nói ít hiểu nhiều”. Bên cạnh ẩn dụ từ vựng, ẩn dụ ngữ pháp bao gồm ẩn dụ tư tưởng
và ẩn dụ liên nhân lại bao hàm các thay đổi về quan hệ chuyển tác, diễn đạt thức và
diễn đạt tình thái với các quan điểm liên quan đến khả năng và xác suất, lại càng dễ trở
thành công cụ để diễn đạt thái độ và bày tỏ suy nghĩ cá nhân. Tuy nhiên, trường hợp ẩn
dụ ngữ pháp trong khẩu hiệu rất ít, đối với tiếng Việt gần như không có, và đa số các
hiện tượng ẩn dụ này chỉ xuất hiện trong các khẩu hiệu vận động, thuyết phục. Các
khẩu hiệu giáo dục, tuyên truyền nhận thức thường không có nhiều ẩn dụ, vì đây không
phải là thể loại diễn ngôn văn học nơi mà sự suy ngẫm là yếu tố để tạo tính bất ngờ và
100
cảm nhận sâu sắc ở người nghe. Đồng thời, việc không sử dụng nhiều yếu tố ẩn dụ
trong khẩu hiệu là để đảm bảo tính đơn giản, dễ hiểu của vấn đề được giáo dục đối với
đối tượng người nghe là tuyệt đại đa số quần chúng nhân dân.
3.4. Những đặc điểm cấu trúc ngữ pháp của diễn ngôn khẩu hiệu chính trị - xã
hội tiếng Việt theo quan điểm của Lý thuyết Phân tích Diễn ngôn phê phán
Mô hình phân tích diễn ngôn phê phán của Fairclough sử dụng ngữ pháp chức
năng hệ thống của Halliday làm khung lý thuyết đã xem xét các cấu trúc ngữ pháp
theo các giá trị kinh nghiệm, quan hệ và biểu cảm, liên kết câu/ mệnh đề, cũng như
các tổ chức vi mô của diễn ngôn… tương ứng với ba siêu chức năng của ngôn ngữ.
3.4.1. Giá trị kinh nghiệm của các hiện tượng ngữ pháp
Tác giả Nguyễn Hòa [17:21] cho rằng trong quan niệm của SFG, chuyển tác là
công cụ để làm nổi bật trước tính “tác nhân” của các tham thể. Halliday [83] phân chia
các quá trình thành các kiểu: quá trình vật chất, hành vi, tinh thần, phát ngôn, quan hệ và
hiện hữu. Hoàng Văn Vân [42] khẳng định rằng khung lí thuyết về các quan hệ chuyển
tác này phổ quát cho mọi ngôn ngữ, do đó có thể áp dụng vào phân tích cách thể hiện
kinh nghiệm trong cú tiếng Việt.
Ứng dụng để phân tích các quan hệ chuyển tác trong KH CT-XH tiếng Việt,
có thể thấy các kiểu quá trình chủ yếu được dùng trong khẩu hiệu là quá trình vật
chất, hành vi và quan hệ. Kết quả khảo sát 624 cú phức thuộc 500 mẫu diễn ngôn
KH CT-XH tiếng Việt cho kết quả như sau:
Bảng 3.5. Tóm tắt kết quả khảo sát các kiểu quá trình của các câu có quan hệ
chuyển tác trong KH CT-XH tiếng Việt
Kiểu quá trình Số lượng
N = 624
Tỉ lệ phần trăm
(%)
Vật chất 265 42,46
Quan hệ 197 31,57
Hành vi 86 13,78
Tồn tại 46 7,37
Tinh thần 20 3,2
Phát ngôn 10 1,6
Nhìn vào bảng tóm tắt các kiểu quá trình thể hiện quan hệ chuyển tác của khẩu
hiệu, ta thấy thế giới kinh nghiệm trong khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Việt là thế giới
101
của vật chất, hành vi và các mối quan hệ. Thế giới này được hình thành chủ yếu bởi quá
trình vật chất bao gồm các hành động tạo dựng, thay đổi, tác động và các hành động. Bên
cạnh đó, quá trình quan hệ là quá trình có tiềm năng lớn thứ hai trong việc mô tả kinh
nghiệm với tác dụng kết nối mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng và kết nối các mối
quan hệ sở hữu giữa các thuộc tính của chúng. Kế đến, các quá trình hành vi cũng là cách
thể hiện sự ứng xử của xã hội đối với các vấn đề chính trị - xã hội đang diễn ra. Tuy
nhiên, như Halliday và sau này là nhiều học giả khác đã phân tích, các quá trình hành vi
có khi không thể xác định ranh giới giữa nó và quá trình vật chất (trước nó) hoặc quá
trình tinh thần (sau nó), nên một số quá trình hành vi cũng rất khó để xác định.
Bảng 3.6 Tổng hợp 3 quá trình tiềm năng nhất và một số ví dụ minh họa.
Vị trí tiềm
năng
Kiểu quá
trình Tỉ lệ Một số ví dụ
Thứ nhất VẬT
CHẤT
~ 43% - Toàn xã hội hãy hành động vì cuộc sống an toàn, lành
mạnh của trẻ em. [V368]
- Hãy để tình yêu thương sưởi ấm ngôi nhà bạn. [V96]
- Tuổi trẻ Thừa Thiên Huế chung tay xây dựng nông thôn
mới. [V435]
Thứ hai QUAN
HỆ
~ 32% - Phóng nhanh vượt ẩu, gây tai nạn là tội ác. [V148]
- Chăm sóc, phụng dưỡng người cao tuổi là truyền thống
tốt đẹp của dân tộc. [V84]
Thứ ba HÀNH
VI
~ 14% - Không khoan nhượng với hành vi ngược đãi phụ nữ và
trẻ em gái. [V350]
- Mỗi gia đình, mỗi địa phương, đơn vị cùng có những
việc làm cụ thể để biểu thị tình thương và trách nhiệm với
trẻ em. [V103]
Theo Halliday [83] quá trình tinh thần, vật chất và quan hệ là những quá trình
chính tạo nên thế giới kinh nghiệm. Ba quá trình còn lại (phát ngôn, hành vi và tồn
tại) chỉ là các quá trình trung gian và thứ yếu. Tuy nhiên trong trường hợp thế giới
kinh nghiệm của khẩu hiệu, công việc khảo sát lại cho kết quả chưa hoàn toàn đúng
với quan điểm của Ông. Khác với các kiểu bài xã luận, phát biểu chính trị… nơi mà
quá trình tinh thần được sử dụng khá nhiều để bày tỏ thái độ và quan điểm chính trị
của người phát ngôn thì ở khẩu hiệu, quá trình vật chất, hành vi và quan hệ lại giúp
xác định các giá trị và thực hiện các chức năng chính của khẩu hiệu, đó là giáo dục và
thuyết phục. Có thể dễ dàng hiểu được tại sao quá trình vật chất chiếm vị trí tiềm
năng nhất trong diễn tả kinh nghiệm của khẩu hiệu, đứng thứ hai là quá trình quan hệ
và sau đó là quá trình hành vi. Hai quá trình vật chất và hành vi với ranh giới cách
102
biệt không mấy rõ ràng này đã giúp biến sự hiểu biết của người phát ngôn về các vấn
đề chính trị xã hội đương thời thành những hành động cụ thể làm “thay đổi, tạo
dựng” những giá trị hay và đẹp cho cuộc sống, cũng như giúp “điều chỉnh những ứng
xử” của con người cho phù hợp với các quy tắc xã hội - đó cũng chính là đang thực
hiện 2 chức năng chủ yếu của khẩu hiệu. Thực ra Halliday vẫn cho rằng tinh thần là
một quá trình chính để mô tả kinh nghiệm. Tuy nhiên, do chúng tôi chọn phân tích
khẩu hiệu chính trị - xã hội, nên chắc chắn những nhận định chỉ mang tính đặc trưng
trong thế giới kinh nghiệm của riêng diễn ngôn KH CT-XH. Trong các văn bản này,
đối tượng được khai thác thuộc thế giới kinh nghiệm bên ngoài chủ thể phát ngôn,
chứ không phải là thế giới nội tâm của con người, ví như trong văn chương hay thi
ca. Đây là các văn bản sẽ được đưa ra công chúng nhằm mục đích thuyết phục và
hướng dẫn thực hiện các quy tắc xã hội, nên độ khách quan và tin cậy cần được đảm
bảo. Trong khi đó, quá trình tinh thần lại thiên về bày tỏ thái độ đánh giá chủ quan,
hoặc bình luận của người phát ngôn, nên nó không được sử dụng đáng kể trong khẩu
hiệu. Ngoài ra, các kiểu quá trình khác như phát ngôn và tồn tại cũng được sử dụng
trong khẩu hiệu nhưng không mang tính đại diện cao (ví dụ: các kiểu quá trình tồn tại
là 7,37%; tinh thần là 3,2 %, và phát ngôn là 1.6 %). Các phát ngôn trong KH CT-XH
tiếng Việt đã được “trực tiếp hóa” trong các hành động tại lời nên không thường thấy
xuất hiện các vị từ như nói, hỏi, phát biểu, cho rằng… hoặc là xuất hiện các cấu trúc
tường thuật các phát ngôn trong khẩu hiệu, mặc dù thoạt nghe ai cũng nghĩ đã là khẩu
hiệu thì phải “hô”, phải “nói”.
Bên cạnh quan hệ chuyển tác, giá trị kinh nghiệm của các hiện tượng ngữ
pháp còn được thể hiện trong việc sử dụng các hiện tượng danh hóa trong KH CT-
XH. Tác giả Đinh Văn Đức (1986) nhận xét “trong tiếng Việt, mỗi động từ, tính từ
có khả năng có một danh từ tương ứng bằng cách kết hợp với yếu tố ngữ pháp
chuyên dùng”. Còn Nguyễn Thị Bích Ngoan [31] thì giải thích “hiện tượng danh
hóa là quá trình ngữ pháp để biến đổi và thành lập danh từ hoặc cụm từ từ tính từ
hay động từ hoặc một mệnh đề bằng cách thêm vào động từ, tính từ, hay mệnh đề
đó một yếu tố danh hóa thuộc phạm vi khảo sát là danh hóa động từ. Và trong tình
huống mà các danh từ hoặc tổ hợp danh từ đó có nguồn gốc là động từ, thì chúng
103
thường xuất hiện ở vị trí đề ngữ, nhằm mục đích thông báo các thông tin mới, phục
vụ cho mục tiêu thông tin và vận động của KH CT-XH. Còn lại, một số trường hợp
khác là các danh từ được danh hóa từ tính từ thường xuất hiện ở vị trí thuyết ngữ
trong khẩu hiệu, nhằm cung cấp thêm các thông tin bổ sung cho đề ngữ trước đó.
Nhờ hiện tượng danh hóa mà câu văn đạt được sự chặt chẽ và mạch lạc hơn, và cho
phép người viết gói gọn thông tin hơn trong phạm vi cụm từ được danh hóa. Hơn
nữa, hiện tượng danh hóa trong KH CT-XH không cần có thêm những yếu tố danh
hóa như việc, sự, nỗi… để tối ưu hóa sự ngắn gọn và nâng tính khúc chiết của khẩu
hiệu lên cao, nhằm đạt được mục tiêu tuyên truyền hiệu quả (dễ hiểu, dễ nhớ).
Trong một số trường hợp khác, danh hóa là để che dấu tác nhân của hành động, một
cách để thể hiện tính tư tưởng trong phát ngôn khẩu hiệu.
Cuối cùng, chúng tôi bàn về việc sử dụng các cấu trúc câu chủ động và bị
động trong KH CT-XH tiếng Việt. Đây là một trong những yếu tố quan trọng giúp
phát hiện các nguồn lực tạo nghĩa, theo lý thuyết phân tích diễn ngôn phê phán.
Trong số 624 cú phức của 500 mẫu KH CT-XH được khảo sát, có 97.92% câu chủ
động và chỉ có 2.08% câu bị động. Thông qua cách dùng tuyệt đại đa số các câu chủ
động, khẩu hiệu tỏ rõ tác nhân hành động của những lời kêu gọi, thuyết phục. Điều
này càng làm tăng tính trách nhiệm của người tuyên truyền và hành động thuyết
phục trong khẩu hiệu. Cụ thể như:
- Hạnh phúc sẽ tỏa sáng trong gia đình không có bạo lực. [V94]
- Sử dụng còi đúng cách là ứng xử có văn hóa. [V152]
- Tuổi trẻ Đại học Đà Nẵng tích cực hưởng ứng thập kỷ hành động vì đường bộ
2011-2020. [V161]
Trong các ví dụ trên, việc nhấn mạnh tác nhân của hành động là rất quan
trọng trong chiến lược sử dụng cấu trúc ngữ pháp của KH CT-XH tiếng Việt. Chủ
thể của các hành động trên cũng chính là người có trách nhiệm thực hiện các hành
động được kêu gọi trong khẩu hiệu. Nhấn mạnh tác nhân là thật sự cần thiết và phù
hợp với mục tiêu của khẩu hiệu, bởi đó chính là đối tượng mà khẩu hiệu nhắm đến
cho mục đích vận động, thuyết phục của mình.
104
Việc khẩu hiệu xuất hiện một số ít mẫu câu bị động cũng là do lí do đã chỉ ra
trên đây, khi mà người phát ngôn mong muốn được chỉ rõ tác nhân hơn là đề cao hành
động. Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết, cấu trúc bị động cũng đã được khéo léo sử
dụng để đề cao chủ thể của hành động như trong khẩu hiệu về quyền trẻ em “Trẻ em
cần được chăm sóc, bảo vệ tốt” (lúc này “trẻ em” mới chính là yếu tố được quan tâm
nhấn mạnh, chứ không phải người chăm sóc hay hành động chăm sóc); hoặc như trong
khẩu hiệu “Hãy báo tin cho cán bộ nơi bạn cư trú nếu bạn bị bạo lực gia đình” (“bạn”-
người phụ nữ bị tác động bởi bạo lực gia đình - mới là yếu tố được quan tâm hơn cả
người gây ra bạo lực và hành động bạo lực). Kế đến, một số cú sử dụng cấu trúc bị
động để miêu tả khuynh hướng xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật (bạo lực gia
đình, an toàn giao thông, trật tự xã hội…) hoặc diễn đạt các quyền lợi cơ bản của con
người (thụ hưởng các chế độ chính sách, quyền trẻ em, quyền công dân…). Khi linh
hoạt chuyển đổi các vế câu chủ động và bị động, ý đồ của người phát ngôn trong khẩu
hiệu sẽ liên tục dịch chuyển để khéo léo tạo ra hiệu ứng cho người nghe, người đọc.
Tuy nhiên, vẫn không thể phủ định một điều rằng đối với diễn ngôn KH CT-XH tiếng
Việt, câu chủ động vẫn có nhiều giá trị thuyết phục hơn câu bị động.
3.4.2. Giá trị quan hệ của ngữ pháp
Trong CDA, theo Fairclough, để khảo sát các giá trị ngữ pháp của diễn ngôn,
người phân tích cần xem xét các kiểu phát ngôn và cách sử dụng đại từ xưng hô
trong diễn ngôn. Trở lại với chức năng của khẩu hiệu, có thể nhận thấy một trong
những mục đích rõ rệt nhất của khẩu hiệu là đưa thông điệp của người phát ngôn
đến với cộng đồng, làm cho mọi người nhớ và trở nên quen thuộc với thông điệp.
Với tư cách là một công cụ hoặc sản phẩm tuyên truyền, khẩu hiệu cần có 2 chức
năng chủ yếu là thông tin và tác động. Barton [50] khẳng định khẩu hiệu giúp chia
sẻ thông tin và quan điểm đối với thông tin đó; đồng thời tác động để thiết lập sự
liên kết giữa các thành viên cũng như điều phối các vấn đề phức tạp giữa họ. Chính
hai chức năng chính này đã quy định các kiểu phát ngôn cho KH CT-XH. Kết quả
khảo sát 541 câu thuộc 500 diễn ngôn KH CT-XH tiếng Việt cho thấy hai kiểu phát
ngôn chủ yếu của khẩu hiệu là câu mệnh lệnh và câu trần thuật. Có 60,62% kiểu
phát ngôn mệnh lệnh và 39,38% kiểu phát ngôn trần thuật.
105
Ví dụ: - Gia trưởng là nguyên nhân chính dẫn đến bạo hành trong gia đình (câu
trần thuật khẳng định giúp thông tin đến người nghe về một trong các
nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình)
- Không kết hôn sớm, kết hôn cận huyết thống để đảm bảo hạnh phúc gia
đình và tương lai của các con. (câu mệnh lệnh phủ định giúp khuyến cáo
những người sắp sửa hoặc có ý định kết hôn về hậu quả của một việc làm
thiếu hiểu biết trong sức khỏe hôn nhân và sức khỏe sinh sản).
Đây là chủ ý của người phát ngôn khi sử dụng kiểu phát ngôn trần thuật và
mệnh lệnh, cầu khiến trong tuyên truyền nhằm một mặt là thông báo, thông tin về
chế độ, chính sách, những điều hay lẽ phải cần làm; mặt khác là tác động qua
khuyến khích, động viên, (hoặc biện pháp mạnh hơn là bắt buộc, nghiêm cấm)
người dân thực thi pháp luật, trật tự xã hội và không vi phạm pháp luật. Đa số các
câu trần thuật là để thực hiện chức năng thông tin của khẩu hiệu. Còn đa số các câu
mệnh lệnh là thực hiện chức năng tác động. Ở đây, trong khi xét các kiểu phát
ngôn, khẩu hiệu còn được xem là những hành động ngôn từ với lực ngôn trung
trong các hành động tại lời. Đối với KH CT-XH, hành động ngôn từ với các kiểu
hành động tại lời hiện diện trong đa số các kiểu câu của khẩu hiệu (hơn 60%).
Hơn nữa, tuy việc xưng hô “chúng tôi” - “các bạn”, “chúng ta” không xuất hiện
phổ biến trong khẩu hiệu với tỉ lệ là 3,2% lượt dùng đại từ “chúng ta”/“chúng tôi” và
4,6% lượt dùng từ “bạn”/“các bạn”, nhưng mối quan hệ giữa người phát ngôn với
người tiếp nhận không vì thế mà trở nên kém hiệu quả thuyết phục, do sự thân tình và
đồng cảm còn được thể hiện trong việc dùng phụ từ “hãy” trong cấu trúc hô gọi ở khẩu
hiệu (15,2 % lượt). Cấu trúc này với phụ từ “hãy” đã tỏ rõ sự cam kết trách nhiệm và
kết nối “chúng tôi” với “các bạn”, tạo nên sự đồng cảm và cho thấy người phát ngôn đã
kết nối với cộng đồng để cùng nhau gánh vác trách nhiệm thực hiện các vấn đề xã hội.
Như vậy, KH CT-XH đã trở thành công cụ nói lên tiếng nói và thái độ của
người ban hành - ở đây là các cơ quan chức năng - và nhằm mục đích sâu xa hơn là
thể hiện hệ tư tưởng của giai cấp - cơ quan quyền lực thông qua việc tuyên truyền
thực thi pháp luật, các chế độ chính sách xã hội mà Đảng và nhà nước ban hành.
106
3.4.3. Giá trị biểu cảm của ngữ pháp
Như đã trình bày ở chương 2, giá trị biểu cảm của các hiện tượng ngữ pháp
được thể hiện thông qua sự cảm nhận vấn đề và hiện thực hóa vấn đề vào trong cách
đánh giá của người sử dụng ngôn ngữ. Mục tiêu của những người phát ngôn khẩu
hiệu là đạt đến giá trị cao nhất của hành vi thông tin và vận động đối với người tiếp
nhận thông điệp. Cho nên việc lựa chọn cấu trúc câu cũng nhằm phục vụ mục đích
đó, phải đạt được mức độ biểu cảm tình thái cao để nâng tính thuyết phục. Trong
tiếng Việt, tình thái từ là những từ được thêm vào câu để cấu tạo câu nghi vấn, cầu
khiến, cảm thán và để biểu thị các sắc thái tình cảm của người nói như đi, thay, ạ,
nhé, với, hãy… Từ đây, khi ứng dụng vào phân tích KH CT-XH tiếng Việt, có thể
thấy rằng khẩu hiệu sử dụng khá nhiều cấu trúc câu cầu khiến với các yếu tố tình
thái được thể hiện thông qua phụ từ hãy. Trong các hiện tượng ngữ pháp được sử
dụng trong khẩu hiệu, cấu trúc câu cầu khiến với phụ từ hãy được sử dụng lặp lại
trong rất nhiều diễn ngôn khẩu hiệu, với tần suất là hơn 15%. Đó là lời kêu gọi tha
thiết và cũng là cách vận động dễ đi vào lòng người nhất, dễ đạt đựợc hiệu ứng biểu
cảm cao nhất. Trong khi sử dụng cấu trúc này, người phát ngôn đã hàm ý kết nối cả
yếu tố liên nhân, nghĩa là vừa kêu gọi người khác, vừa tự cam kết bản thân cùng
tham gia. Như vậy sẽ càng đạt giá trị biểu cảm và thuyết phục cao vì người nghe sẽ
nhận thấy một “sự cam kết đồng lòng, chung tay thực hiện” trong lời kêu gọi đó.
Tuy nhiên, ngoài việc sử dụng yếu tố tình thái, các hiện tượng ngữ pháp
trong KH CT-XH tiếng Việt còn trực tiếp hay gián tiếp thể hiện các chức năng giao
tiếp của ngôn ngữ như đã được Jakobson [88] đề xuất trong bài phát biểu kết thúc
một hội nghị về Thi ca tại Warsaw năm 1960. Theo Jakobson, các chức năng ngôn
ngữ được xây dựng trên cơ sở của lý thuyết thông tin (bao gồm thông điệp, người
phát, người nhận, sự quy chiếu hay văn cảnh, mã, và sự tiếp xúc). Từ đó, ông phân
biệt ra thành các chức năng như tham chiếu (nhận thức, biểu nghĩa), xúc cảm, nhận
cảm, kết nối (hướng tới người nhận); siêu ngôn ngữ (ngôn ngữ nói về ngôn ngữ) và
thi pháp hay chức năng thơ (hướng về chính bản thân thông điệp, chức năng này
thống trị trong ngôn ngữ văn học). Trở lại vấn đề, ngôn ngữ của khẩu hiệu là thể
loại ngôn ngữ thuyết phục với mục tiêu tác động, gây ảnh hưởng và làm thay đổi ý
107
định cũng như nhận thức của người tiếp nhận. Nếu áp dụng vào lý thuyết chức năng
ngôn ngữ của Jakobson, có thể thấy rằng ngôn ngữ của khẩu hiệu đã thực hiện
nhiều chức năng và cũng không “quên” thực hiện chức năng thơ (poetic function)
để thu hút độc giả đến với cấu trúc ngữ pháp và thành tố câu của nó. Các kiểu biến
diễn ngôn khẩu hiệu thành diễn ngôn thơ hay văn vần, hoặc chọn kiểu trích dẫn các
câu danh ngôn và cách nói trào phúng, bình dân… cũng làm cho thông điệp khẩu hiệu
đến được với người dân một cách tự nhiên mà không hề khiên cưỡng. Đa số người dân
đều cảm thấy dễ bị thuyết phục bởi lối sử dụng văn phong này, bởi họ cho rằng cách
dùng những câu chữ cổ động truyền thống vừa mang tính nghiêm túc vừa mang tính
mệnh lệnh khó làm người ta để ý và nhớ, chứ chưa nói đến chuyện tự giác thực hiện.
Ví dụ: Một pa-nô hai mặt ở trung tâm thị trấn Sao Đỏ, Chí Linh - tỉnh Hải Dương
có hai khẩu hiệu là trích dẫn hai câu của Nguyễn Trãi “Việc nhân nghĩa cốt ở yên
dân” và “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Đây là kiểu trích dẫn danh ngôn hoặc
các tác phẩm kinh điển để dễ tác động đến người đọc.
Những khẩu hiệu giao thông được gieo vần “ngộ nghĩnh” theo kiểu thơ hoặc vè … (tần
số xuất hiện là 12/500 mẫu diễn ngôn) ở Hà nội và Thừa Thiên Huế:
- Người Hà Nội, không vội được đâu. [V145]
- Đi thong thả cho đỡ vất vả. Đi theo làn, thấy thật an nhàn. [V129]
- Dừng đèn đỏ, chứng tỏ văn minh [V123]
- Đốt rừng như thể đốt nhà. Cháy rừng như thể cháy da thịt mình. [V208]
Khẩu hiệu giao thông ở Bình Dương lại sử dụng hai câu lục bát với ngôn ngữ rất
“bình dân”:
- Xi nhan không phải là “hâm”. Xi-nhan để khỏi bị đâm vỡ đèn. [V165]
Ở Đà Nẵng xuất hiện khẩu hiệu (kèm hình ảnh một người đàn ông rất đĩnh đạc, tự tin):
- Mình là đàn ông, mình hiểu bạo lực gia đình là vi phạm pháp luật (kiểu xưng
danh và thể hiện cái tôi, cái tự trọng của đàn ông) [V102]
Ngoài ra, cấu trúc biền ngẫu (paralellism) đã được khai thác tương đối thú vị
và là cách để nâng cao giá trị biểu cảm của các cấu trúc câu trong diễn ngôn khẩu
108
hiệu. Điều này là cực kì quan trọng trong việc nâng cao các giá trị thuyết phục của
khẩu hiệu. Giá trị của cấu trúc biền ngẫu đã được nhiều nhà nghiên cứu khẳng định
([139], [61], [89]). Cấu trúc biền ngẫu cho phép người sử dụng ngôn ngữ nhấn
mạnh về nghĩa thông qua việc lặp lại các mẫu câu hoặc các mẫu câu đối ngẫu.
Trong trường hợp khẩu hiệu, đây là biện pháp quan trọng trong việc nâng cao các
giá trị thuyết phục của khẩu hiệu. KH CT-XH tiếng Việt sử dụng 4% cấu trúc thuộc
dạng này. Ví dụ:
- An toàn là bạn. Tai nạn là thù [V8]
- Thi đua là yêu nước. Yêu nước là phải thi đua. [V62]
- An toàn mọi lúc - Hạnh phúc mọi nơi. [V120]
- Ông bà mẫu mực - con cháu thảo hiền. [V108]
- Môi trường là cuộc sống - cuộc sống là môi trường. [V233]
Theo Nguyễn Hòa [19], thuật ngữ “biểu cảm” là thể hiện sự đánh giá về thực
tại, và đối tượng đánh giá có thể là “kinh nghiệm” hay “quan hệ”. Trong phân tích
các giá trị biểu cảm của từ ngữ (ở mục 2.3.3) và của các hiện tượng ngữ pháp (mục
2.4.3) chúng tôi nhận thấy rõ ràng ranh giới của hai thế giới này (kinh nghiệm và
quan hệ) không mấy tách biệt. Chức năng biểu cảm của từ ngữ hay các quan hệ ngữ
pháp đều giúp phản ánh thực tiễn xã hội mà thực tiễn này chứa đựng một mạng lưới
các kinh nghiệm về thế giới vật chất, tinh thần hay những quan hệ liên nhân giữa
những cá nhân tham gia giao tiếp. Trong khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng Việt cũng
vậy, những thực tiễn kinh nghiệm cuộc sống cũng như những giá trị văn hóa, giao
tiếp của con người Việt Nam rõ ràng đã được phản ánh trong việc sử dụng các từ ngữ
và các cấu trúc câu có tính biểu cảm, thuyết phục cao như đã được phân tích ở trên.
3.4.4. Đặc điểm liên kết câu/ mệnh đề
Fairclough hướng dẫn các nhà phân tích CDA khảo sát các đặc điểm liên kết
câu/ mệnh đề trong diễn ngôn để hiểu thêm về đặc điểm cấu trúc ngữ pháp của chúng.
Trần Ngọc Thêm [38] và Diệp quang Ban [1] đã đưa ra các nhận định về khái niệm
liên kết của văn bản và tính mạch lạc của diễn ngôn. Theo đó, liên kết hình thức và liên
kết nội dung là các phương tiện để thể hiện tính mạch lạc. Mạch lạc là yếu tố quyết
định sự triển khai văn bản, dẫn dắt văn bản theo những định hướng, mục tiêu đã định.
109
Dựa trên những quan điểm ngữ pháp theo hướng chức năng này, chúng tôi cũng cố
gắng khảo sát mức độ liên kết câu/ mệnh đề trong 500 KH CT-XH làm tư liệu nghiên
cứu. Về phương diện liên kết câu/mệnh đề, các phương thức liên kết cụ thể có thể
được thực hiện bằng phép quy chiếu, phép thế, phép tỉnh lược, phép nối, phép liên kết
từ vựng... Qua kết quả khảo sát cho thấy các phương tiện liên kết hay phương tiện
quy chiếu trong và ngoài văn bản được sử dụng để tạo tính mạch lạc cho diễn ngôn
khẩu hiệu tuy phản ánh các yếu tố và tính chất chung như các thể loại diễn ngôn khác,
vẫn có một số tính chất khác biệt do độ dài của văn bản-diễn ngôn khẩu hiệu là không
đáng kể. Diễn ngôn khẩu hiệu là một thể loại diễn ngôn ngắn gọn, có thể bao gồm 1
cụm từ, 1 câu hoặc 2 câu. Rất ít KH CT-XH có độ dài lên đến ba (3) hay bốn (4) câu.
Tuy nhiên, tính ngắn gọn của khẩu hiệu như thế này không hề ảnh hưởng đến tính
chất văn bản của diễn ngôn và các kiểu liên kết bao hàm; bởi theo Bax (2011), “diễn
ngôn liên quan đến ngôn ngữ “thực” (authentic) trong ngữ cảnh cụ thể và bao gồm
văn bản thuộc tất cả các thể loại và bất kể “kích cỡ” (size) ...” (tr. 27). Việc văn bản
có độ dài một hay nhiều câu không hề ảnh hưởng đến tính chất của diễn ngôn, như
Halliday và Hasan [84] đã nhận định và Diệp Quang Ban [1] đã xác nhận.
Dựa trên các quan điểm và lý thuyết nói trên, đặc biệt là các tiêu chí phân loại liên
kết mà Trần Ngọc Thêm [38] đã xác định, chúng tôi chọn khảo sát 122 diễn ngôn phức
của KH CT-XH (diễn ngôn chứa 2 cú phức trở lên hoặc 2 câu trở lên) và mô tả một số
đặc điểm liên kết của các diễn ngôn phức thuộc KH CT-XH tiếng Việt trong bảng sau:
Bảng 3.7: Một số đặc điểm liên kết diễn ngôn phức trong KH CT-XH tiếng Việt
Các đặc điểm liên kết Số lượng
diễn ngôn
N=122
Tỉ lệ
(%) Ví dụ
Phép tỉnh lược 20 16,39 - Sử dụng ma tuý là tự sát. hãy dừng lại
khi chưa muộn. Phép lặp 56 45,9 - Việc làm là cơ hội thoát nghèo, lập thân, lập
nghiệp.
- Xanh biển-xanh rừng-xanh đất nước
Phép quy chiếu 3 2,4 - Bác Hồ là vị cha già dân tộc. Người sống
mãi trong sự nghiệp của chúng ta.
Phép thế 1 0,8 - Môi trường có trong lành hơn hay
không, điều đó tùy thuộc ở bạn. Phép đối (biền ngẫu) 16 13,11 - An toàn là bạn, tai nạn là thù
Phép nối 26 21,31 - Vì sức khỏe cộng đồng, hãy rửa tay với xà
phòng
110
Theo số liệu ở bảng thống kê, có thể thấy rằng KH CT-XH tiếng Việt có xu
hướng diễn đạt đầy đủ, trọn vẹn ý nên biện pháp tỉnh lược chỉ chiếm tỉ lệ khiêm tốn.
Thêm vào đó, người Việt chuộng lối nói hoa mỹ, diễn đạt dài, vòng vo nên KH CT-
XH tiếng Việt có khuynh hướng sử dụng các phép liên kết từ vựng nhiều nhất với
các hình thức đồng nghĩa, trái nghĩa, lặp từ hay phối hợp từ ngữ kiểu như đồng vị
(collocation). Ví dụ: “tăng cường lãnh đạo, giữ vững cam kết, quyết tâm đẩy lùi
AIDS” hoặc “Phát triển nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Các phép liên kết khác
được sử dụng tương đối đồng đều nhau nhưng tổng tỉ lệ là không đáng kể. Do số
lượng khẩu hiệu có một câu chiếm đa số, nên liên kết trên cấp độ câu chỉ xuất hiện
trong khoảng 10% mẫu nghiên cứu. Số còn lại là các liên kết trong nội bộ câu, bao
gồm liên kết về nghĩa giữa các ý, vế câu hoặc trong câu phức. Tính mạch lạc vì thế
được thể hiện một cách rất đơn giản, không quá cầu kỳ mà vẫn đảm bảo làm cho
văn bản được thông suốt về nghĩa và “kết dính” về cả mặt nội dung lẫn hình thức.
Một trong những yêu cầu về tác dụng của khẩu hiệu là phải dễ hiểu, dễ nhớ để
giúp thông điệp đến với người dân nhanh hơn, hiệu quả hơn, và một trong những
cách làm cho khẩu hiệu dễ nhớ dễ hiểu là lối nói giản tiện, điệp vần, thông qua phép
đối song song. Theo số liệu khảo sát có thể thấy KH CT-XH tiếng Việt dùng khá
nhiều phép đối (trong tương quan so sánh với các phép liên kết ít gặp). Ví dụ: “An
toàn là bạn - tai nạn là thù”. Phép đối được sử dụng trong các khẩu hiệu nói trên
phản ánh tập quán xã hội của người Việt đã có từ lâu đó là hát đồng dao, ca dao, hò
vè… Thói quen này khi áp dụng vào việc tiếp nhận thông điệp của khẩu hiệu cho
phép người đọc, người nghe dễ tự nhẩm và nhớ lâu, từ đó ghi nhớ và hành động theo
tinh thần kêu gọi của khẩu hiệu. Việc các phép liên kết văn bản được sử dụng khiêm
tốn trong khẩu hiệu một lần nữa cho thấy diễn ngôn khẩu hiệu không phải là loại hình
giao tiếp cần nhiều từ, ngữ và nhiều câu để chuyển tải thông điệp. Đây là một loại
diễn ngôn đặc biệt với những tính năng đặc biệt. Bản thân các từ ngữ đã phải mang
tính liên kết cao về chủ đề, mạch lạc trong ý, cú và các mối liên hệ nội bộ câu khác
nhằm hạn chế việc giải thích dài dòng bằng một văn bản có “kích cỡ” lớn hơn.
111
Diễn ngôn khẩu hiệu là một thể loại diễn ngôn đặc biệt. Đây có thể được
xem là một diễn ngôn nói kiểu thuyết phục nhưng người nghe không trực tiếp tiếp
nhận thông điệp, mà phải thông qua công cụ là chữ viết và trưng bày ở nơi công
cộng. Chính vì đặc điểm này mà các kiểu câu phức, cú phức của khẩu hiệu chủ yếu
thể hiện mối quan hệ đẳng lập, bằng cách dùng các liên ngữ “và” và một số cú
phức sử dụng liên ngữ “nhưng”, “tuy nhiên”. Đây là các kiểu quan hệ có ý nghĩa về
mặt tư tưởng, nhất là quan hệ bình đẳng và đối lập trong tương tác giữa người nói
và người nghe.
Ví dụ:
- Tai nạn của bạn chỉ là 1% hoặc nhỏ hơn nữa so với toàn công ty, nhưng
thương tật nó mang lại là tất cả so với gia đình của bạn!
3.5. Các đặc điểm cấu trúc diễn ngôn
3.5.1. Độ dài văn bản của diễn ngôn KH CT-XH
Trước khi tìm hiểu cấu trúc vi mô của diễn ngôn khẩu hiệu, chúng tôi muốn mô
tả đôi nét về đặc điểm cấu trúc tính về độ dài văn bản, được mô tả trong bảng 2.8
Bảng 3.8: Độ dài văn bản của diễn ngôn KH CT-XH tiếng Việt
Độ dài của diễn ngôn khẩu hiệu tiếng Việt Số lượng
N=500
Tỉ lệ
(%)
Khẩu hiệu gồm 1 câu 452 90.4
Khẩu hiệu gồm 2 câu 43 8.6
Khẩu hiệu gồm 3-4 câu 5 1.0
Kết quả khảo sát cho thấy tỉ lệ khẩu hiệu có cấu trúc diễn ngôn đơn gồm một
câu là rất cao (chiếm khoảng 90%). Chức năng thông tin và chức năng tác động của
khẩu hiệu đòi hỏi thể loại diễn ngôn này phải hết sức cô đọng, ngắn gọn và súc tích.
Điều đó được thể hiện ở chỗ chỉ có khoảng 10% khẩu hiệu có độ dài 2-3-4 câu.
Khẩu hiệu là một văn bản đặc biệt. Tuy độ dài khá khiêm tốn, khẩu hiệu vẫn đạt các
chuẩn mực của một văn bản giao tiếp trọn vẹn. Văn bản ở đây được xem xét là một
đơn vị của ngôn ngữ trong sử dụng, và là một đơn vị nghĩa chứ không phải là một
đơn vị ngữ pháp (Theo Halliday & Hasan [84:2]). Về mặt nghĩa mà nói, mỗi văn
bản khẩu hiệu đều diễn đạt một đơn vị nghĩa trọn vẹn vì nó là một thông điệp với
112
đầy đủ các chức năng giao tiếp được truyền đến đối tượng công chúng. Đây là một
dạng diễn ngôn đặc biệt với đủ các thành phần tham gia giao tiếp và các mục đích
giao tiếp như bất kì một diễn ngôn nào khác. Xét về tính thực tế, nếu khẩu hiệu
được diễn đạt dài dòng với nhiều câu thì hiệu quả tác động sẽ không cao do người
tiếp thu không thể nhớ hết nội dung được vận động. Hơn nữa, khẩu hiệu đa số được
viết hoặc in trên băng-rôn, biểu ngữ và treo trên các tuyến phố, trước các tòa nhà
công cộng hoặc mang theo trong các cuộc diễu hành, viết trên bảng nhỏ cầm tay …
nên những câu có độ dài 3-4 câu là không mấy hiệu quả về mặt tuyên truyền. Từ
đây có thể thấy chủ ý của người phát hành khẩu hiệu cũng đã tuân thủ nguyên tắc
cơ bản nhất của khẩu hiệu, đó là “là một hay nhiều câu nói ngắn gọn, dễ nhớ” để
phát huy tối đa hiệu quả vận động và thuyết phục.
3.5.2. Tính mạch lạc của diễn ngôn khẩu hiệu CT-XH tiếng Việt
Tính mạch lạc của diễn ngôn khẩu hiệu trong trường hợp thể loại diễn ngôn có
độ dài văn bản tương đối ngắn gọn thì vấn đề liên kết ngoài văn bản vẫn là vấn đề chủ
đạo. Trong hệ thống mỗi nhóm chủ đề chung đều có sự liên kết về mặt ngữ nghĩa giữa
các khẩu hiệu thuộc nhóm chủ đề đó, như thể hiện trong bảng 3.9 dưới đây.
Bảng 3.9 yếu tố thể hiện tính liên kết chủ đề của từng nhóm khẩu hiệu
Stt Chủ đề Yếu tố liên kết chủ đề
Từ ngữ Tần suất lặp lại (*)
1 An ninh-chủ quyền bảo vệ, gìn giữ 6/9
biển, biển đảo 7/9 biên giới, biên cương, lãnh thổ 7/9
an ninh 4/9
chủ quyền 4/9
2 An toàn - Vệ sinh lao động
an toàn 9/16
tai nạn, độc hại 8/16
phòng chống, bảo vệ 7/16
3 Chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm y tế
bảo hiểm y tế 7/16
khỏe, sức khỏe 6/16
4 Dân số dân số 6/15
kế hoạch hóa gia đình 6/15
hạnh phúc 5/15
5 Gia đình - Hôn nhân - Bình đẳng giới
gia đình 29/39
hạnh phúc 13/39
bạo lực, xâm hại, ngược đãi 9/39
bình đẳng, bất bình đẳng 7/39
6 Giao thông giao thông 29/49
an toàn 13/49
113
tuân thủ, kỹ cương, luật 8/49
7 Môi trường - năng lượng
môi trường 41/91
xanh, sạch, đẹp 51/91
bảo vệ 35/91
rừng, biển 20/91
8 Phòng chống HIV-AIDS
AIDS 18/36
HIV 46/36 nhiễm, lây nhiễm, lây truyền 32/36
phòng, chống 21/36
9 Phòng chống ma túy
ma túy 25/35
phòng, chống 30/35
10 Phụ nữ và trẻ em trẻ em 23/35
phụ nữ 12/35
11 Mít-tinh-phong trào chống, đả đảo, nhiệt liệt, quyết tâm
~ 85% tổng số khẩu hiệu ở mỗi
nhóm Ghi chú: (*) số lần xuất hiện trên tổng số diễn ngôn.
Trong khi mà liên kết nội tại trong bản thân mỗi diễn ngôn khẩu hiệu chưa đủ
độ thuyết phục (do độ dài văn bản của diễn ngôn khẩu hiệu là không đáng kể), thì việc
liên kết ngữ nghĩa giữa các diễn ngôn cùng nhóm chủ đề như mô tả ở bảng 3.9 có ý
nghĩa rất lớn trong việc thể hiện tính mạch lạc trong cấu trúc diễn ngôn khẩu hiệu. Đối
với khẩu hiệu mà nói, điều này là hoàn toàn có thể thực thi, bởi không có hiện tượng
xuất hiện một diễn ngôn khẩu hiệu đơn lẻ nào trong từng đợt vận động cả. Ở mỗi đợt
vận động, trên mỗi chủ đề cụ thể, người phát ngôn thường đưa ra một nhóm khoảng từ
10-50 khẩu hiệu khác nhau. Những diễn ngôn khẩu hiệu này vừa hoạt động như một
diễn ngôn độc lập vừa tương tác và liên kết với các diễn ngôn khẩu hiệu khác trong
cùng nhóm chủ đề để tạo thành một thể thống nhất.
Cấu trúc nội tại của diễn ngôn khẩu hiệu còn được thể hiện thông qua việc sử
dụng đầu đề, câu dẫn và cả cấu trúc thông tin hay cấu trúc đề ngữ-thuyết ngữ. Đối với
diễn ngôn khẩu hiệu, việc chọn lựa thông tin cũ, thông tin mới và xác định đâu là đề
ngữ, đâu là thuyết ngữ cũng phản ánh khá nhiều thái độ, tư tưởng, mục đích và quyền
lực của người phát ngôn cũng như nội dung cần chuyển tải. Trong 500 mẫu diễn ngôn
KH CT-XH được khảo sát, yếu tố nội dung chủ đề của khẩu hiệu có khuynh hướng
được thể hiện trong phần đề ngữ (với tỉ lệ lên đến 77,6%) và số còn lại (22,4%) là chủ
đề được giới thiệu trong phần thuyết ngữ. Nếu xét về độ mới của thông tin, thì có một
thực tế là hầu hết các khẩu hiệu chứa nội dung chủ đề trong phần đề ngữ là khẩu hiệu
giáo dục (kiến thức, nhận thức), với các thông tin cũ được chọn làm tiêu điểm thông tin
114
và thường đứng đầu câu; trong khi đó, tuyệt đại đa số các khẩu hiệu chứa nội dung chủ
đề trong phần thuyết ngữ là những khẩu hiệu tuyên truyền vận động (về hành vi).
Bảng 3.10 Một số ví dụ về chủ đề giới thiệu trong phần đề ngữ - thuyết ngữ
Nội dung chủ đề : AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM
Mục tiêu: thuyết phục, vận động Mỗi người tiêu dùng hãy là một giám sát viên đấu tranh với các hành vi vi phạm
chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. [V18] Phần đề ngữ Phần thuyết ngữ
Nội dung chủ đề: AN TOÀN GIAO THÔNG
Mục tiêu: giáo dục kiến thức/ nhận thức
Hãy đội mũ bảo hiểm khi đi xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện.
[V135]
Xe đi với tốc độ thấp hơn phải đi về bên phải [V164] Phần đề ngữ Phần thuyết ngữ
Cách chọn các cấu trúc thông tin và cấu trúc đề ngữ - thuyết ngữ như trong
trường hợp của khẩu hiệu đã giúp người phát ngôn có điều kiện linh hoạt sử dụng
tiếng nói của mình để nhấn mạnh những nội dung cần tuyên truyền và cũng là cách
để lựa chọn chức năng của từng khẩu hiệu: giáo dục hay thuyết phục.
Ngoài ra, việc định danh hay xưng danh trong khẩu hiệu như “Tuổi trẻ Thừa
Thiên Huế...”, “Thanh niên thành phố Hồ Chí Minh….”, “Mình là đàn ông…..”,
“Người Hà Nội….”, “Đảng bộ và Nhân dân tỉnh Hải Dương ….” , “Ngành Giáo
dục và Đào tạo….”, “Hội Nông dân tỉnh Thanh Hóa…” trong phần đề ngữ (hiện
tượng này có khoảng 8%) càng nêu rõ quyết tâm và đề cao trách nhiệm của một tổ
chức hay một nhóm người đại diện cho một tầng lớp nào đó trong xã hội trong việc
thể hiện thái độ cam kết thực thi các vấn đề chính trị xã hội của quốc gia. Bên cạnh
đó, việc xưng danh còn có ý nghĩa người phát ngôn gánh lấy trách nhiệm trong khi
đề cao cái “tôi” một cách tích cực, bất kể đối với việc làm tốt hay chưa tốt. Ví dụ
như khẩu hiệu của một số người dân thành phố Biên Hòa treo tại vòng xoay Tam
Hiệp - nơi xảy ra vụ “hôi bia” sau khi một tài xế chở bia gặp nạn ở đây mấy ngày
trước đó: “Là dân Biên Hòa, là người Việt Nam, tôi thấy xấu hổ cho những ai đã
“cướp vài lon bia” ở đây trưa 4/12”. Việc xưng danh ở phần đề ngữ này cho thấy
người phát ngôn cố ý đặt tiêu điểm thông tin của khẩu hiệu ngay đầu câu để nhấn
mạnh lời kêu gọi đối với đối tượng quy chiếu danh tính đó.
115
Tóm lại, với việc triển khai các nội dung tuyên truyền một cách cụ thể, trực
tiếp, có chọn lọc; đồng thời tạo lên sự liên kết logic, hợp lý và mạch lạc giữa các nội
dung trong diễn ngôn khẩu hiệu, hệ tư tưởng và thái độ chấp hành các chủ trương
đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, cũng như ý thức thực thi
các vấn đề xã hội của các cơ quan chức năng trong lĩnh vực tuyên truyền đã được
bộc lộ rõ nét. Qua đó cấu trúc diễn ngôn hợp lý này còn làm tăng tính thuyết phục
đối với người nghe, người đọc trong quá trình tiếp nhận các ý tưởng và hành động
vận động này.
3.5.3. Cấu trúc tổ chức vi mô của diễn ngôn KH CT-XH tiếng Việt
Kết quả khảo sát cấu trúc tổ chức vi mô của diễn ngôn khẩu hiệu cho thấy
KH CT-XH tiếng Việt có tính đơn giản và kết cấu gọn nhẹ. Chúng ta đã biết, mục
đích của diễn ngôn quy định cấu trúc của nó. Trong trường hợp này, mục đích chính
của khẩu hiệu là hô hào, vận động, giáo dục, thuyết phục cộng đồng về những vấn
đề chính trị - xã hội của quốc gia, nên những người kiến tạo diễn ngôn khẩu cũng sử
dụng các cấu trúc diễn ngôn phù hợp để dẫn dắt người nghe/người đọc và thuyết
phục họ chấp nhận quan điểm của mình. Vì sự hạn chế về độ dài của diễn ngôn, nên
hiện tượng rào đón hay giới thiệu vòng vo về mục đích của phát ngôn trong các
khẩu hiệu phức (3-4 câu) là không thể có. Thay vào đó, mở đầu mỗi diễn ngôn khẩu
hiệu phức hoặc là trong phần đề ngữ của các diễn ngôn đơn (1 câu), người ta có thể
thấy đơn vị thông tin quan trọng cần giáo dục cho người dân hay vấn đề cần phải
thuyết phục họ (tỉ lệ đưa tiêu điểm thông tin ngay trong câu đầu tiên của văn bản là
54,2%). Ví dụ: “Bất bình đẳng - gốc rễ của bạo lực gia đình” hay “Thi đua là yêu
nước. Yêu nước là phải thi đua!”. Tiêu điểm thông tin khi được ưu tiên nằm ở phần
đầu của văn bản nhằm mục đích thu hút sự chú ý của người tiếp nhận khẩu hiệu.
Tuy nhiên, con số còn lại 45,8% khẩu hiệu có phần tiêu điểm thông tin hay từ ngữ
phản ánh chủ đề khẩu hiệu nằm ở câu thuyết cũng là một con số thuyết phục. Điều
này chứng minh những cách nêu bật yếu tố chủ đề khác nhau của khẩu hiệu là để
phục vụ mục đích giáo dục hay thuyết phục.
116
3.6. Tiểu kết chương 3
Như vậy, với việc làm rõ các đặc điểm ngôn ngữ của các nguồn lực như từ
ngữ, cấu trúc ngữ pháp và cách thức tổ chức diễn ngôn của 500 mẫu diễn ngôn
KH CT-XH tiếng Việt, dựa trên các nguyên tắc cơ bản nhất của lý thuyết Phân
tích Diễn ngôn phê phán, mà cụ thể là đuờng hướng của Fairclough cũng như sử
dụng các phương pháp phân tích ngữ pháp theo khung lý thuyết Ngữ pháp chức
năng hệ thống của M.A.K Halliday, chương 3 đã tập trung chứng minh mối quan
hệ giữa thực tiễn xã hội, chính trị, văn hóa với diễn ngôn, cũng như làm rõ các
quan hệ quyền-thế ẩn chứa đằng sau việc sử dụng ngôn ngữ của diễn ngôn khẩu
hiệu. Theo đó, người phát ngôn khẩu hiệu tiếng Việt đã thể hiện tư tưởng, thái độ
trong các khẩu hiệu thông qua chiến lược dùng từ ngữ đồng nghĩa, phản nghĩa;
cách lựa chọn các kiểu quá trình trong quan hệ chuyển tác, sử dụng các hiện
tượng danh hóa, kiểu câu phát ngôn, cấu trúc câu bị động, chủ động… trong diễn
ngôn khẩu hiệu càng giúp chứng minh giá trị của diễn ngôn trong bối cảnh xã
hội. Diễn ngôn không những là thực tiễn và tập quán xã hội, mà còn là sự phản
ánh thực tiễn đó. Trường hợp khẩu hiệu tiếng Việt đã cho thấy rằng những
người sử dụng ngôn ngữ đã biết cách dùng diễn ngôn khẩu hiệu để thể hiện
quyền lực kiểm soát và làm thay đổi thực trạng của mình thông qua con đường
giáo dục và thuyết phục. Và kết quả của những chính sách tuyên truyền chính trị
- xã hội trong mấy thập kỷ qua của Việt Nam đã chứng tỏ công cụ thể hiện quyền
lực này có giá trị nhất định riêng của nó. Các cuộc tuyên truyền vận động đã
giúp giáo dục kiến thức và nâng cao ý thức cho người dân, góp phần tăng các
thành quả, chất lượng cuộc sống và giảm thiểu những rủi ro, bất lợi để ngày càng
tạo ra môi trường xã hội lành mạnh, văn minh, tươi đẹp hơn.
117
CHƯƠNG 4
SO SÁNH ĐỐI CHIẾU CÁC ĐẶC ĐIỂM DIỄN NGÔN
CỦA KHẨU HIỆU CHÍNH TRỊ-XÃ HỘI
TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT 4.1. Đặt vấn đề
Chương 4 của luận án với mục đích so sánh - đối chiếu diễn ngôn KH CT-
XH tiếng Anh và tiếng Việt sẽ chỉ ra sự giống nhau và khác nhau trong các đặc
điểm ngôn ngữ của thể loại diễn ngôn đặc biệt này, đồng thời lý giải một số sự khác
biệt trên cơ sở các thực tiễn xã hội và các yếu tố nội hàm chi phối như đặc điểm lịch
sử, thể chế chính trị, đặc trưng văn hóa - dân tộc, các đặc điểm xã hội… của mỗi
nền văn hóa (Anh - Mỹ và Việt Nam).
Phương thức tiếp cận so sánh - đối chiếu trong chương 4 của luận án dựa trên
đường hướng chức năng luận với các luận điểm cơ bản của ngữ pháp chức năng,
bởi đường hướng này cho phép nghiên cứu ngôn ngữ (miêu tả và giải thích các quy
tắc chi phối hoạt động) trong mối liên hệ có tính chức năng trong các tình huống
giao tiếp xã hội, chứ không nghiên cứu hình thức ngôn ngữ tách rời khỏi chức năng
của nó. Từ quan điểm này, các luận điểm so sánh và đối chiếu trong chương này
dựa trên các nguyên tắc cơ bản của nghiên cứu diễn ngôn từ các góc độ kết học,
dụng học và khía cạnh xã hội. So sánh - đối chiếu diễn ngôn, theo Nguyễn Hòa
[15:122], cần phải “miêu tả được sự hoạt động của ngôn ngữ thông qua diễn ngôn
trong mối quan hệ với các yếu tố dụng học, chiến lược giao tiếp và giá trị văn hóa”.
Vì vậy, ngoài việc so sánh - đối chiếu các yếu tố hình thức ngôn ngữ như từ vựng,
ngữ pháp…, đối chiếu diễn ngôn cần tham khảo một số tham biến văn hóa như hình
thức/nội dung, ngôn ngữ nói/viết, nhịp điệu diễn ngôn, cấu trúc diễn ngôn, trừu
tượng/ cụ thể hay chủ quan/ khách quan trong cách biểu đạt [15:123].
Cũng với quan điểm xem diễn ngôn là một thực tiễn xã hội, những lý giải về
sự khác biệt sẽ được đặt nền tảng trên các giá trị văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia,
và tất nhiên, không thể tách khỏi bối cảnh chính trị xã hội của mỗi nước. Trong
tiếng Việt, Nguyễn Văn Quang [1999] hay gần đây là Phạm Thị Hồng Nhung [32]
118
là những người đã có những công trình nghiên cứu khẳng định vai trò quyết định
của các giá trị văn hóa như quyền lực, phép lịch sự, thể diện… trong chiến lược
giao tiếp giữa hai nền văn hóa của người nói tiếng Anh và nói tiếng Việt. Bùi Mạnh
Hùng [21:234] khẳng định văn hóa không chỉ ảnh hưởngđến khả năng tiếp nhận, mà
còn ảnh hưởng đến cả việc tạo lập diễn ngôn. Thực tế cũng cho thấy rằng các giá trị
văn hóa chiếm ưu thế trong việc giúp giải thích các hiện tượng xã hội thể hiện qua
diễn ngôn, cho nên cơ sở để so sánh - đối chiếu trong chương này cũng chủ yếu dựa
trên các giá trị như thế. Trong chương này, chúng tôi chọn nghiệm thể KH CT-XH
tiếng Anh với quốc gia đại diện là Mỹ và nó đại diện cho nền văn hóa phương Tây;
trong khi đó, KH CT-XH tiếng Việt của người Việt là đại diện cho nền văn hóa
phương Đông, để giải thích các hiện tượng ngôn ngữ trên cơ sở các giá trị văn hóa.
Việc so sánh - đối chiếu sẽ được tiến hành dựa trên các kết quả chủ yếu và
nổi bật của hai chương (2 và 3) trước đó. Các luận điểm so sánh - đối chiếu sẽ được
sử dụng để làm rõ các giá trị xã hội của diễn ngôn KH CT-XH, và hy vọng rằng sẽ có
thể đưa ra những gợi ý cho việc biên soạn và phát hành KH CT-XH trong tương lai.
4.2. Những đặc điểm tương đồng của diễn ngôn KH CT-XH tiếng Anh (gọi tắt
là KHTA) và KH CT-XH tiếng Việt (gọi tắt là KHTV)
4.2.1. Chủ đề
Cả KH CT-XH tiếng Anh (KHTA) và tiếng Việt (TV) đều phản ánh trên
diện rộng một khối lượng khá lớn các chủ đề mang tính thời sự chính trị - xã hội
cao. Hầu hết các lĩnh vực quan trọng của đời sống chính trị - xã hội của hai quốc gia
(Hoa Kỳ - Việt Nam) đều được phản ánh vào trong khẩu hiệu. Ngoài các lĩnh vực
quan trọng của đất nước, chính quyền, KH CT-XH còn phản ánh các chủ đề thuộc
quan tâm của các cơ quan, đoàn thể hay các tổ chức, nhóm cá nhân có mang tính đại
diện cao như cơ quan truyền thông địa phương, các tổ chức phi chính phủ (NGO),
các tổ chức nhân đạo…
Điểm giống nhau nổi bật nhất về tính chủ đề của khẩu hiệu là 4 nhóm khẩu
hiệu có số lượng nhiều nhất ở cả hai thứ tiếng đều tương tự nhau về cả nội dung chủ
đề lẫn thứ tự ưu tiên về số lượng của mỗi nhóm khẩu hiệu cùng chủ đề. Theo đó,
119
thứ tự của các chủ đề KHTA (xếp theo tiêu chí số lượng) là Môi trường - Năng
lượng, An toàn lao động, Chính trị - Bầu cử , và An toàn giao thông - Tác hại của
bia rượu. Tương tự, thứ tự ưu tiên của các chủ đề trong KHTV cũng là Môi trường -
Năng lượng, Chăm sóc sức khỏe - Bảo hiểm y tế, Xây dựng bảo vệ đất nước - Củng
cố các tổ chức chính trị - xã hội , và An toàn giao thông.
Để làm nổi bật tính chủ đề, cả KHTA và KHTV đều sử dụng tập trung những
từ vựng phản ánh rõ nét các chủ đề đó. Đây cũng chính là yếu tố chung giúp làm nổi
bật tính liên kết chủ đề của khẩu hiệu trong cả hai nghiệm thể.
4.2.2. Từ ngữ
Trong chiến lược sử dụng từ ngữ, cả KHTA và KHTV đều thể hiện sự khéo
léo để đạt được các giá trị kinh nghiệm, quan hệ, và biểu cảm. Cả hai đều sử dụng
nhiều chiến lược từ ngữ khác nhau để mô tả kinh nghiệm của người phát ngôn về
thế giới tự nhiên và xã hội cùng những sự việc xảy ra chung quanh họ; mô tả mối
quan hệ giữa các đối tượng tham gia giao tiếp, các giá trị biểu cảm tình thái… bao
gồm sử dụng trường từ vựng tập trung từng chủ đề, dùng từ đồng nghĩa/ trái nghĩa,
các hiện tượng ẩn dụ… nhằm giúp người phát ngôn đạt được các giá trị kinh
nghiệm, quan hệ và biểu cảm của từ ngữ trong giao tiếp và qua đó, thể hiện được
tính tư tưởng, thái độ và chính kiến cũng như quyền lực của người phát ngôn.
Trường hợp KHTA và KHTV đã thực hiện đầy đủ các nguyên tắc này, càng cho
thấy khẩu hiệu chính trị - xã hội là đối tượng của phân tích diễn ngôn phê phán.
4.2.3. Cấu trúc ngữ pháp
Nghiên cứu cấu trúc ngữ pháp, theo quan điểm của ngữ pháp chức năng và
quan điểm của lý thuyết phân tích diễn ngôn phê phán, chính là xem xét các kiểu
quá trình và tham thể chủ yếu được sử dụng trong diễn ngôn; yếu tố tác nhân có rõ
ràng không thông qua các hiện tượng danh hóa hay cấu trúc câu bị động/ chủ động;
các yếu tố tình thái, các kiểu phát ngôn.... Đây chính là những phương thức giúp
người phát ngôn bộc lộ hệ tư tưởng và thái độ đối với người tiếp nhận diễn ngôn.
Tất cả các bước phân tích cấu trúc ngữ pháp cũng tuân theo quy trình tìm hiểu các
giá trị kinh nghiệm, liên nhân và tạo văn bản của các cấu trúc ngữ pháp như
120
Halliday đã đề xuất. Trường hợp nghiên cứu diễn ngôn KHTA và KHTV cho thấy
cả hai đều sử dụng các hiện tượng ngữ pháp chủ yếu như vừa nêu, cụ thể:
- Hai loại quá trình chủ yếu được sử dụng trong cả KHTA và KHTV đều là
quá trình vật chất và quá trình quan hệ (hai trong 3 kiểu quá trình chính mà
Halliday đã xác nhận)
- Cả KHTA và KHTV đều có sử dụng hiện tượng danh hóa và cấu trúc bị động
để thực hiện sự lựa chọn làm rõ hay không làm rõ tác nhân của các hành động.
- Kiểu câu khẳng định và phủ định đều được sử dụng ở cả hai bên nhằm nêu
bật hệ tư tưởng và thái độ đối lập trong phát ngôn.
- Các yếu tố tình thái đều được sử dụng để xác định quyền lực phát ngôn của
người phát ngôn KH CT-XH
- Cả hai thể loại diễn ngôn đều có hiện tượng dùng đại từ I/ tôi, we/ chúng tôi, you/
bạn, các bạn… để thiết lập quan hệ giữa người phát ngôn và người tiếp nhận.
- Các kiểu phát ngôn chủ yếu và thông thường như câu trần thuật, câu cầu
khiến… được sử dụng khá đồng đều ở cả hai nghiệm thể.
4.2.4. Cấu trúc diễn ngôn
Xét về cấu trúc diễn ngôn, cả KHTA và KHTV đều có chung một số đặc
điểm như có độ dài văn bản không đáng kể (từ 1 đến 4 câu/ mỗi văn bản), có yếu tố
tạo nên mạch lạc chủ đề, sử dụng một số phương thức liên kết cơ bản trong các diễn
ngôn phức, và việc sắp xếp các thông tin cũ-mới ở đầu mỗi văn bản với những ý đồ
khác nhau …
Riêng đối với độ dài văn bản, cả diễn ngôn KHTA và KHTV đều có xấp xỉ 85-
90% khẩu hiệu có 1 câu, số còn lại là 2-4 câu. Trường hợp 4 câu khá hiếm gặp và chỉ
có trong KHTV. Điều này phản ánh tính chất và đặc điểm của diễn ngôn khẩu hiệu có
liên hệ với chức năng giao tiếp của nó. KH CT-XH là để hô hào, để ghi nhớ, để vận
động, tuyên truyền nên những diễn ngôn có độ dài đáng kể là không có tính thực tiễn.
Mạch lạc diễn ngôn của cả KHTA và KHTV đều có chung đặc điểm là liên
kết hướng ngoại bởi độ dài văn bản của hai loại hình này là không đáng kể nên liên
kết nội văn bản không phải là vấn đề mấu chốt. Cả hai bên đều có nhiều hình thức
121
liên kết chủ để để tạo mạch lạc trong diễn ngôn khẩu hiệu, với sự lặp lại của nhiều
từ ngữ trong trường diễn ngôn liên quan.
Ngoài ra, nét tiêu biểu nhất của sự giống nhau giữa hai nghiệm thể diễn ngôn
này là sự hiện diện của đa số (90-95%) các kiểu diễn ngôn đơn (chỉ có 1 câu) đứng
độc lập với ý nghĩa và chức năng giao tiếp trọn vẹn cũng như tương đối nhiều (8-
12%) diễn ngôn phức (2-3 câu) với cấu trúc biền ngẫu, ví dụ như:
Ví dụ: - An toàn là bạn - Tai nạn là thù. [A8]
- More candy - Less climate change. [A202]
4.3. Những đặc điểm khác biệt của diễn ngôn KHTA và KHTV
4.3.1. Phương thức sử dụng
KHTA và KHTV khác nhau về phương thức sử dụng, cơ quan ban hành và
quyền phát ngôn của chủ thể phát ngôn. Trước hết nói về cơ quan quản lý và ban
hành, nếu ở KHTA, vai trò này phân bố đều cho các cơ quan của nhà nước, chính
phủ, các tổ chức như tập đoàn, hội, nhóm chung lợi ích, trường học… và cả cá nhân
trong các cuộc biểu tình, tuần hành tự phát… thì ở KHTV, phần lớn (90%) khẩu
hiệu (thuộc tư liệu nghiên cứu) là do các cơ quan thông tin truyền thông từ cấp
trung ương đến địa phương ban hành, theo chỉ thị của các tổ chức đoàn thể, chính
quyền… Số còn lại là do người dân tự phát in ấn và trình bày trước công chúng như
khẩu hiệu phê bình những người “hôi bia” ở Bình Dương năm 2013 (thuộc phạm vi
tư liệu luận án) hay khẩu hiệu phản đối việc đặt giàn khoan HD981 trên Biển Đông
(ngoài phạm vi tư liệu luận án). Trong khi đó, ở KHTA, dạng khẩu hiệu do từng
nhóm cá nhân tự biên soạn và mang theo hô hào trong các cuộc biểu tình hoặc các
cuộc vận động là khá phổ biến (khẩu hiệu trên phố Wall đòi đánh thuế người giàu,
khẩu hiệu động viên tinh thần thể thao trong các cuộc thi tài, khẩu hiệu chống
khủng bố và tẩy chay súng đạn trong các cuộc biểu tình ở Mỹ trong vòng 2-3 năm
qua). Thứ hai là nói đến phương thức sử dụng KH CT-XH. Ở Hoa Kỳ, KH CT-XH
được nhiều cơ quan, tổ chức và cả cá nhân chịu trách nhiệm biên soạn cho mục đích
thuyết phục vận động của riêng họ. Các tổ chức hay cá nhân tự thiết kế khẩu hiệu và
có sự lựa chọn về từ ngữ, cấu trúc ngữ pháp hay văn phong riêng do họ có quyền
122
phát ngôn riêng. Trong khi đó, người Việt thường hay sử dụng KH CT-XH do cơ
quan nhà nước ban hành qua nhiều cấp. Ở mỗi đợt vận động, thông thường là vào
các ngày lễ hay ngày kỉ niệm của các ban ngành (giao thông, y tế, giáo dục, phòng
chống ma túy-tệ nạn xã hội…), cơ quan tuyên giáo, tuyên huấn các cấp có những kế
hoạch tuyên truyền kèm theo một loạt các khẩu hiệu dành cho đợt vận động cụ thể
đó. Khẩu hiệu này có thể được sử dụng tiếp tục cho những năm tiếp theo, hoặc bổ
sung cho phù hợp với điều kiện tình hình mới mỗi năm. Các cơ quan thông tin
tuyên truyền sau đó mới đưa các khẩu hiệu ra với công chúng bằng nhiều hình thức,
mà điển hình nhất vẫn là biểu ngữ, băng-rôn treo trên các tuyến phố và trước các tòa
nhà, tụ điểm công cộng.
Những hiện tượng khác nhau này một phần do thói quen và văn hóa thuyết
phục khác nhau ở mỗi nước. Nhưng phần lớn là do các điều kiện chính trị xã hội
khác nhau quy định. Văn hóa biểu tình ở Mỹ đã được luật pháp công nhận từ lâu
nên thói quen biểu tình để đòi các quyền lợi hoặc chống đối những điều chưa thỏa
đáng trong chính sách, chế độ cũng tồn tại trong hành vi cuộc sống hàng ngày của
họ. Trong khi đó, ở Việt Nam vấn đề biểu tình còn được thận trọng xem xét và đang
được dự thảo luật, cũng như trưng cầu dân ý. Do điều kiện chính trị và xã hội, biểu
tình ở Việt Nam tùy theo từng thời kỳ và địa phương diễn ra với quy mô và tần suất
khác nhau. Đa số các cuộc biểu tình (nếu có) cũng chỉ mang tính tự phát và với quy
mô nhỏ lẻ, hay xuất phát từ các động cơ cá nhân. Gần đây nhất, trong khi bày tỏ
thái độ chống đối với hành vi xâm phạm chủ quyền Việt Nam của Trung quốc,
nhiều người dân Việt Nam đã tham gia biểu tình hòa bình (phi bạo lực) hay biểu
tình yêu nước trong tháng 6-7/2014, nhưng biểu tình vẫn chưa phải là một nét văn
hóa hay thói quen của người Việt. Cho nên việc tổ chức từng đoàn người cầm theo
băng-rôn, biểu ngữ cùng với việc hô hào khẩu hiệu trên đường phố hay nơi công
cộng là không phổ biến ở Việt Nam. Từ đây, có thể thấy quyền phát ngôn trong KH
CT-XH ở hai nền văn hóa là có sự khác biệt.
Ngoài ra, trong KHTA, chúng ta có thể thấy ngoài mục đích tuyên truyền,
giáo dục ý thức cộng đồng, KH CT-XH của một số tổ chức và cá nhân còn thực
123
hiện chức năng chống đối, phản đối mà trong KHTV hầu như không có. Có thể nhìn
nhận điều này từ nhiều hướng. Theo hướng tích cực, chúng ta nghĩ rằng do các vấn
đề chính trị - xã hội ở Việt Nam đã được giải quyết khá thỏa đáng và mềm dẻo nên
hiện tượng chống đối, phản đối là không đáng kể. Mặt khác, vấn đề này cũng do sự
lựa chọn quyền phát ngôn quy định nữa. Nếu cá nhân hoặc các tổ chức nhỏ người
Việt Nam không có thói quen biên soạn KH CT-XH, thì đây rõ ràng không phải là
kênh để họ thể hiện sự phản đối. Tuy nhiên, theo hướng tiêu cực, có thể hiểu vấn đề
này là do người Việt Nam ít thực hành tư duy phản biện (critical thinking) hơn
người Mỹ. Văn hóa Mỹ động viên mọi người có cái nhìn phản biện đối với hầu hết
vấn đề, và người Mỹ cũng có thói quen làm như vậy trong nhiều tình huống (giáo
dục, nghiên cứu, hội họp, phát biểu chính trị…). Hơn nữa, thể chế chính trị của hai
nước khác nhau cũng góp phần giải thích điều này. Trong khi ở Việt Nam, chính
sách và pháp luật của nhà nước được chỉ đạo định hướng cho người dân trên cơ sở
lắng nghe ý kiến phản hồi của người dân từ nhiều kênh; thì ở Mỹ, sự tự do dân chủ
cực đoan và chế độ đa nguyên đa đảng tạo điều kiện cho các xung đột chính trị và
quyền lợi nhóm phát triển, dẫn đến sự chống đối, phản đối trong các khẩu hiệu đi
kèm trong các cuộc biểu tình.
Rõ ràng sự khác nhau này về phương thức ban hành và sử dụng cũng như
người phát ngôn có ảnh hưởng to lớn đến việc thể hiện hệ tư tưởng của người phát
ngôn. Một tổ chức hay cá nhân phát ngôn sẽ chọn khẩu hiệu để thể hiện thái độ
chính trị và mục đích vận động của chính tổ chức hay cá nhân đó. Cho nên, việc lựa
chọn quyền phát ngôn sẽ có ý nghĩa to lớn trong việc thể hiện các giá trị của diễn
ngôn thông qua ngôn ngữ.
4.3.2. Chủ đề
Tuy mức độ bao quát hầu hết các chủ đề chính trị - xã hội của khẩu hiệu cả
tiếng Anh và tiếng Việt là như nhau, mỗi bên đều có những ưu tiên riêng về những
chủ đề cho các cuộc vận động.
KHTA và KHTV phản ánh thế giới kinh nghiệm trên các mảng chủ đề tương
đối khác nhau (xếp theo thứ tự ưu tiên của chủ đề có số lượng khẩu hiệu nhiều nhất
đến ít nhất):
124
Bảng 4.1 So sánh chủ đề KHTA và KHTV
Chủ đề KHTA Chủ đề KHTV
1 Environment-Energy (Môi trường - Năng
lượng)
1 Môi trường - Năng lượng
2 Safety (An toàn lao động) 2 Chăm sóc sức khỏe - Bảo hiểm y tế
3 Politics - Election (Chính trị - bầu cử) 3 Xây dựng và bảo vệ đất nước, củng cố các
tổ chức chính trị - xã hội
4 Road safety - Drinking (An toàn giao thông
và tác hại của uống bia rượu đến việc lái xe)
4 An toàn giao thông
5 Anti-smoking (Tác hại của thuốc lá) 5 Gia đình - Hôn nhân - Bình đẳng giới
6 Animal rights (Quyền động vật) 6 Tệ nạn xã hội (phòng-chống ma túy)
7 Relations - Family & Friends (Quan hệ thân
tộc - bằng hữu)
7 Phụ nữ và trẻ em
8 Health - Hygiene (Sức khỏe - vệ sinh) 8 Văn minh đô thị và trật tự xã hội
9 Sports (Thể thao - tinh thần cộng đồng) 9 An toàn - Vệ sinh lao động - An toàn thực
phẩm
10 Fund-raising (Gây quỹ - Từ thiện) 10 Giáo dục (Chính trị - Tư tưởng, Giáo dục
toàn diện)
11 Anti-racism (Chống phân biệt chủng tộc) 11 Dân số - Kế hoạch hóa gia đình
12 Anti-terrorism and gun boycott (Chống
khủng bố - tẩy chay súng đạn)
12 Vận động bầu cử - Dân vận - Báo chí
13 Anti-trafficking and Illegal Immigration
(Chống buôn người và di dân bất hợp pháp)
13 Xây dựng nông thôn mới
14 An ninh - Chủ quyền
15 Nghề nghiệp - Việc làm
16 Thuế và nộp thuế
Nhìn vào bảng 4.1 mô tả sự phân bố của các chủ đề KH CT-XH ở cả hai thứ
tiếng, có thể thấy rằng ngoài 4 chủ đề đầu tiên (theo thứ tự ở cả hai cột) là giống
nhau, các chủ đề còn lại tương đối khác biệt thể hiện sự khác nhau trong thế giới kinh
nghiệm của hai nền văn hóa. Trong khi KHTA tập trung phản ánh tác hại thuốc lá,
quyền động vật, quan hệ thân tộc-bằng hữu, chăm sóc sức khỏe (ở nhóm các chủ đề
ưu tiên thứ hai) thì KHTV lại phản ánh các chủ đề gia đình-bình đẳng giới, tệ nạn xã
hội, phụ nữ-trẻ em, dân số - kế hoạch hóa gia đình, Sự ưu tiên về chủ đề này cũng là
tấm gương phản ánh thế giới kinh nghiệm đời sống văn hóa người Mỹ và người Việt.
Trong khi các vấn đề còn gặp nhiều khó khăn và cần được thuyết phục cộng đồng để
cải thiện tình hình ở Việt Nam là gia đình, bình đẳng giới, chăm sóc trẻ em và giải
quyết các tệ nạn xã hội, thì ở xã hội Mỹ, công tác vận động thuyết phục lại được
hướng về những chủ đề khác như quyền động vật và thể thao - tinh thần cộng đồng.
Điểm khác biệt lớn nhất trong chủ đề khẩu hiệu của hai nền văn hóa là một số
chủ đề phản ánh đặc trưng thể chế chính trị và văn hóa Đông - Tây. Trong khi ở Mỹ
125
các chủ đề mang tính đặc trưng rõ nét cho thể chế chính trị và nền văn hóa phương
Tây như President election (bầu cử tổng thống), Fund-raising (Gây quỹ - Từ thiện)
Anti-racism (chống phân biệt chủng tộc), Anti-terrorism and gun boycott (chống
khủng bố - tẩy chay súng đạn) hay Anti-trafficking and Illegal Immigration (chống
buôn người và di dân bất hợp pháp). Ngược lại, các chủ đề rất đặc trưng cho văn hóa
Việt Nam và tương tự ở một số nước khác thuộc nền văn hóa phương Đông, đó
là giáo dục chính trị - tư tưởng, xây dựng nông thôn mới, và chủ quyền lãnh thổ.
Tương tự, một số chủ đề KH CT-XH chỉ tồn tại trong nền văn hóa này mà không
có trong nền văn hóa kia cũng đã cho thấy những nét văn hóa và chính sách xã
hội đặc trưng như chủ đề Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (bối cảnh văn hóa-
chính trị ở Việt Nam) và Chống phân biệt chủng tộc/ Tranh cử tổng thống (bối
cảnh văn hóa-chính trị Mỹ).
Ngoài ra, cùng một khái niệm được phản ánh trong chủ đề này của nền văn
hóa này thì lại được phản ánh trong một chủ đề khác của nền văn hóa kia. Ví dụ trong
KHTV, khái niệm tăng dân số được phản ánh trong chủ đề bùng nổ dân số và kêu gọi
việc kiểm soát sinh đẻ (ví dụ: Dân số ổn định, xã hội phồn vinh, gia đình hạnh phúc,
tuổi trẻ tích cực thực hiện chính sách dân số - Kế hoạch hóa gia đình); trong khi ở
KHTA, khái niệm này được lồng ghép trong khẩu hiệu kêu gọi bảo vệ môi trường, ví
dụ như “Overpopulation leads to frustration” (Đông dân sẽ dẫn đến khủng hoảng.),
“Population explosion leads to starvation” ( Bùng nổ dân số sẽ dẫn đến đói
nghèo”) , “If you want more than two children, adopt!” (Nếu bạn muốn có nhiều
hơn hai đứa con - hãy nhận con nuôi).(*) Hoặc các khẩu hiệu về phòng cháy chữa
cháy ở KHTA được cụ thể hóa dưới các hình thức an toàn (safety) như an toàn cháy
nổ và các nhóm chủ đề nhỏ khác như an toàn điện – khí đốt (gas), an toàn trong
công sở, an toàn với các thiết bị lao động với các từ ngữ cảnh báo về an toàn
(safety) tương ứng…, thì trong KHTV khái niệm này lại được cụ thể hóa dưới dạng
những kêu gọi mang tính phong trào và với những từ ngữ phong trào tương ứng
(*)Ở đây nói khái niệm dân số được lồng ghép vào khẩu hiệu môi trường trước hết là do nguồn gốc
xuất xứ của các KH này là CSDL của ủy ban môi trường quốc gia Mỹ. Thứ hai là do sự liên tưởng
giữa tình trạng ô nhiễm môi trường với các nguyên nhân và yếu tố ảnh hưởng môi trường như đông
dân, ý thức con người, sự tàn phá của con người…
126
(Ví dụ: Thực hiện tốt pháp lệnh phòng cháy và chữa cháy là đóng góp thiết thực
vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước). Sự khác biệt này cho thấy
chủ trương của mỗi quốc gia về kêu gọi thuyết phục đều phản ánh thế giới kinh
nghiệm của riêng họ, là kết quả của việc thực thi những vấn đề mà riêng mỗi quốc
gia quyết định trên cơ sở những thực tiễn xã hội của chính quốc gia đó. Nói đến vấn
đề này không thể không đề cập đến sự khác biệt trong phản ánh thế giới kinh
nghiệm của khẩu hiệu xét trên bình diện ngữ nghĩa học nhận thức.
Trong quá trình phản ánh các giá trị kinh nghiệm, các nguồn lực được sử
dụng trong KH CT-XH như từ ngữ, cấu trúc ngữ pháp và cách thức tổ chức của diễn
ngôn ở cả hai nghiệm thể đều đã thực hiện trọn vẹn chức năng của mình, đó là phản
ánh các cách nhìn của con người ở mỗi nền văn hóa về thế giới xung quanh vào
trong ngôn ngữ của KH CT-XH. Halliday xem cách phản ánh này là sự thực hiện
chức năng kinh nghiệm - một trong ba siêu chức năng của ngôn ngữ, nhưng cũng
có nhiều quan niệm khác cho rằng việc nhận thức về thế giới kinh nghiệm có khi
còn mang nhiều yếu tố chủ quan. Trong trường hợp này, một cách tiếp cận từ bình
diện ngữ nghĩa học nhận thức với cách giải thích dựa trên cơ sở tri nhận của con
người về thế giới (tương tự như cách tiếp cận kinh nghiệm của Hallilday) được vận
dụng để phân tích sự thể hiện tư tưởng, thái độ hay chính kiến của người tạo diễn
ngôn. Ứng dụng các quan niệm của ngữ nghĩa học nhận thức vào trong kiến giải các
giá trị kinh nghiệm của KH CT-XH tiếng Anh và tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy hai
nghiệm thể đã thể hiện sự khác biệt trong cách thức thể hiện tư tưởng, thái độ và
chính kiến của người phát ngôn thông qua thể hiện cách nhìn của họ (tri nhận) về
thế giới vào trong các nguồn lực ngôn ngữ như từ vựng và cấu trúc ngữ pháp. Kinh
nghiệm tích lũy qua lịch sử, qua nhiều thế hệ, qua cuộc sống mà chính họ đang trải
qua đã hình thành cho họ những nhận thức nhất định về chức năng và công cụ tuyên
truyền hay thể hiện quyền lực, dẫn đến tự nhiên hình thành trong đầu họ một số
chiến lược về sử dụng ngôn ngữ để thể hiện thái độ và tư tưởng của riêng họ, làm
cho việc phát ngôn KH CT-XH đạt được mục tiêu tuyên truyền tối ưu nhất trong bối
cảnh đời sống chính trị của riêng quốc gia họ. Để có thể phản ánh được bức tranh về
thế giới bằng ngôn ngữ đòi hỏi họ phải có những kiến thức, tri thức nhất định về
127
văn hóa, xã hội. Kiến thức đó chính là sự thể hiện về tri nhận của họ đối với các vấn
đề chính trị xã hội của thế giới xung quanh và xây dựng bức tranh thế giới đặc biệt
tạo thành cơ sở cho hành vi của con người. Tri nhận là tất cả những quá trình trong
đó những dữ liệu cảm tính được сải biến khi truyền vào trong não dưới dạng những
biểu tượng tinh thần để có thể lưu lại trong trí nhớ con người. Nói theo quan điểm
của ngôn ngữ học tri nhận thì con người đã hình thành được bức tranh ngôn ngữ về
thế giới, hay các biểu hiện thế giới quan của con người được phát họa bằng những
chất liệu ngôn ngữ. Bức tranh này được vẽ ra phản ánh một phần của đời sống
người bản ngữ nên mang những đặc trưng của nền văn hóa dân tộc. Đó là lý do giải
thích tại sao cùng một khái niệm tuyên truyền về dân số thì người Mỹ tuyên truyền
bằng một chiến lược từ ngữ và cấu trúc ngữ pháp khác với người Việt Nam, thể hiện
qua hai cách phản ánh thế giới kinh nghiệm như vừa được trình bày ở phân đoạn trên.
Như vậy, thế giới kinh nghiệm của mỗi nền văn hóa đã được lăng kính diễn
ngôn phản ánh rất khách quan. Trường hợp của KH CT-XH cũng vậy. Chúng ta có
thể thấy sự khác biệt về điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội… của hai quốc gia thông
qua các mảng chủ đề mà khẩu hiệu phản ánh. Từ đó có thể chứng minh diễn ngôn
khẩu hiệu là một phần của thực tiễn xã hội, mà cụ thể là thực tiễn đấu tranh để mang
lại một xã hội tốt đẹp hơn bằng văn hóa thuyết phục.
4.3.3. Từ ngữ
Chiến lược sử dụng từ ngữ trong KHTA và KHTV tuy có một vài điểm chung
như thể hiện các giá trị kinh nghiệm, quan hệ và biểu cảm nhất định, vẫn có nhiều điểm
khác biệt, xét theo quan điểm so sánh - đối chiếu theo đường hướng chức năng.
Trong thể hiện chức năng kinh nghiệm của từ ngữ, KHTA có xu hướng dùng
ít cặp từ trái nghĩa để thể hiện hệ tư tưởng và diễn đạt các chức năng kinh nghiệm
hoặc sử dụng ít hơn các từ ngữ cùng một trường nghĩa trong cùng một nhóm chủ đề
hơn KHTV (tỉ lệ giữa KHTA và KHTV là 1:5). Ví dụ trong chủ đề môi trường của
KHTV, để phản ánh kinh nghiệm về thế giới của các tham thể, khẩu hiệu sử dụng
nhiều từ ngữ thuộc trường nghĩa môi trường như môi trường, trái đất, đại dương, di
sản thiên nhiên, sự sống, cuộc sống, sức khỏe, bền vững, tài nguyên biển, rừng, biến
128
đổi khí hậu, đa dạng sinh học, hệ sinh thái biển, kinh tế ít các bon, năng lượng sạch,
tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải, chất thải, nước sạch, hành tinh xanh, tài
nguyên, trí tuệ xanh, đầu tư xanh, kinh tế xanh, an toàn, tương lai bền vững, sạch,
đẹp, trong lành, bảo vệ, nghĩa vụ, nhiệm vụ, chung tay, liên kết, phòng chống, chống
lại, cứu, cháy rừng, lãng phí, tàn phá, tiết kiệm, hành động, bảo vệ, chặt cây, trồng
rừng… Hay trong chủ đề bảo vệ phụ nữ và trẻ em, để nêu bật được những tác hại của
mặt trái của các vấn đề xã hội này, KHTV đã dùng các từ ngữ có mối quan hệ ngữ
nghĩa mang giá trị tư tưởng như dùng từ trái nghĩa như nâng niu - làm tổn thương
(các thành viên gia đình); chăm lo/bảo vệ - bỏ rơi (trẻ em); (sinh) con gái-con trai;
(vai trò) nam giới, nữ-giới; bình đẳng - bất bình đẳng, hạnh phúc-bạo lực (gia đình),
(đi) chậm - vội, chấp hành - vi phạm (pháp luật). Điều này là do trong hệ thống tiếng
Việt có nhiều từ ngữ và cách diễn đạt các khái niệm đồng nghĩa và trái nghĩa phong
phú hơn trong tiếng Anh. Ngoài ra, văn hóa Việt Nam với lối diễn đạt rào đón có thể
cho phép thể hiện nghĩa biểu hiện của một sự vật, hiện tượng bằng nhiều hình thức
diễn đạt ngôn ngữ khác nhau.
Xét về các giá trị quan hệ của từ ngữ thể hiện qua cách dùng uyển ngữ và các
từ ngữ không trang trọng (informal) trong khẩu hiệu, kết quả khảo sát cho thấy
KHTA khai thác giá trị này bằng lối nói giảm (nhờ vào hiện tượng ẩn dụ) và lối
dùng từ thiếu trang trọng nhiều hơn hẳn so với KHTV (9,8% so với 1,2%) . Đây là
những phương thức giúp cho người phát ngôn thể hiện tư tưởng, thái độ hay quyền
lực đối với người tiếp nhận. Trong thông điệp của KHTA, do một số chủ đề là
những vấn đề mà quyền lợi của người phát ngôn là rõ ràng minh bạch hơn như bầu
cử, thể thao, chống phân biệt chủng tộc (người vận động cũng chính là người phát
ngôn), nên họ phát huy tối đa phương thức ẩn dụ từ vựng-ngữ nghĩa hoặc dùng
các từ ngữ trang trọng/ thiếu trang trọng để thể hiện uy quyền, chính kiến và thái
độ của mình.
Ví dụ:
- Eat the Rich (Ăn/ nuốt tươi/ nuốt chửng kẻ giàu) [A336]
- White America has a Black history (Người Mỹ da trắng có một lịch sử (da) đen).[A59]
129
Trong khi đó, đa số KHTV không phải do người dân hay các tổ chức cá nhân
tự ban hành, tiếng nói của người phát ngôn là đại diện cho cả tập thể, cộng đồng
chứ không vì lợi ích của một nhóm nào cả nên không có nhiều phương tiện thể hiện
tư tưởng và thái độ của người phát ngôn bằng phương tiện uyển ngữ hay từ ngữ
trang trọng/ thiếu trang trọng. Tuy nhiên, KHTV lại có lối khai thác giá trị quan hệ
của từ ngữ độc đáo hơn KHTA. Đó là sử dụng các từ ngữ tác động vào tâm lý người
nghe (tâm lý tiêu dùng, tâm lý gia đình) để đạt mục đích thuyết phục và phát huy tác
dụng của từ ngữ thuyết phục thông qua mối quan hệ giữa người nói và người nghe.
Hiện tượng này xuất hiện trong rất nhiều chủ đề của KHTV như dân số - KHHGĐ,
giao thông, môi trường-năng lượng.
Có một giá trị quan hệ khác của từ ngữ được khai thác theo hai cách khác
nhau ở hai nghiệm thể. Trong khi ở KHTA, có khá nhiều hiện tượng sử dụng động
từ tình thái như can/ could, may/might, should… để diễn tả các khả năng, sự cho
phép, cho lời khuyên… nhằm thể hiện tính lịch sự (thông qua yếu tố giả định cách)
và thể hiện quyền lực của người phát ngôn, sự cho phép hay cấm đoán… qua đó xác
định quan hệ giữa người phát ngôn và người tiếp nhận với phương tiện quyền lực ẩn
dấu, thì ở KHTV, hiện tượng sử dụng từ ngữ thể hiện quyền lực rất hiển ngôn thông
qua sự cấm đoán đối với các hành vi không phù hợp trong một số bối cảnh xã hội
trong khẩu hiệu. Mặc dù chúng ta thường thấy ngôn ngữ cấm đoán xuất hiện chủ
yếu trong biển báo, biển chỉ dẫn… nhưng ở KHTV, lại có rất nhiều từ ngữ thể hiện
sự cấm đoán đối với các hành vi nói trên (Ví dụ: Nghiêm cấm bán hàng rong, chèo
kéo khách trong các tụ điểm du lịch, trên các tuyến phố. [V412]; Nghiêm Cấm chạy
quá tốc độ, lạng lách, đánh võng trên đường phố [V144]: Cán bộ, công chức thực
hiện nghiêm quy định cấm hút thuốc lá nơi làm việc. [V382]; Không được băng
qua đường ngang khi rào chắn đã đóng.[V121]). Nếu so sánh với KHTA, ta thấy sự
cấm đoán này là mang tính hàm ngôn trong KHTA. Trong khi có khoảng 2%
KHTV dùng các từ ngữ thể hiện sự cấm đoán thì hiện tượng này hầu như không hề
hiện diện trong KHTA. Như vậy, ngoài các chức năng động viên, khuyến khích,
hướng dẫn, khuyến cáo, KH CT-XH trong trường hợp tiếng Việt còn bao hàm cả
chức năng cấm đoán. Nhưng trong bối cảnh văn hóa-xã hội của mỗi nước, sự cấm
130
đoán này có thể hàm ngôn hay hiển ngôn. Trong văn hóa Việt, người ta xem việc
được hoặc bị người khác điều khiển hành vi (theo pháp luật hay theo các chuẩn mực
xã hội) là không có gì lạ. Tuy nhiên, ở Mỹ, nếu muốn cấm người khác một điều gì
thì đó cũng phải là những điều viết trong luật hoặc nội quy, quy định, chứ không
phải là trong khẩu hiệu nhằm mang tính khuyến khích (kêu gọi) như vậy. Cơ sở để
hiểu những khác biệt đề cập trên đây là mong muốn được gìn giữ thể diện trong văn
hóa của hai quốc gia. Trong thực tế, con người ai cũng có nhu cầu về thể diện và
giữ thể diện. Thế nhưng cách thức thực hành thể diện lại có sự khác biệt giữa hai
nền văn hóa Đông-Tây. Trong văn hóa Mỹ, nếu muốn giữ thể diện cho người đối
thoại và duy trì tính lịch sự, người phát ngôn có thể sử dụng một số chiến lược như
dùng giả định cách, lối nói trực tiếp, giải thích tường minh, tránh áp đặt suy nghĩ cá
nhân lên người khác. Trong văn hóa Việt, hành động giữ thể diện và duy trì lịch sự
lại đi theo một lối khác. Người Việt có thể giữ lịch sự hoặc giữ thể diện cho người
đối thoại bằng lối nói rào đón, ẩn ý, hoặc từ chối không nhận lời khen tặng… nhưng
thực ra bản thân họ cũng đang chấp nhận một sự “hy sinh” nào đó xuất phát từ quan
điểm “giữ thể diện cho mình cũng chính là giữ thể diện cho người khác”. Mặt khác,
trong văn hóa Việt, người Việt còn có thói quen “chấp nhận được” những thông
điệp có có khả năng gây mất thể diện đối với người phương Tây như sự cấm đoán,
sự phê bình chỉ trích trực tiếp. Điều này giải thích tại sao một số KH CT-XH với
những từ ngữ thể hiện sự ngăn cấm một cách tường minh như vậy lại có thể được
đưa ra trước công chúng và được người dân tiếp nhận. Nếu nhìn nhận từ góc độ
phát ngôn, người phát ngôn có thể hy vọng rằng việc sử dụng các từ ngữ ngăn cấm
tường minh như thế chỉ là để giúp cho người dân nâng cao ý thức tuân thủ luật
pháp. Tuy nhiên, điều này lại có nguy cơ làm mất thể diện của người tiếp nhận khẩu
hiệu mà chính người phát ngôn khẩu hiệu cũng có thể không lường tới được. Đây
cũng chính là lúc hai kiểu lịch sự âm tính và lịch sự dương tính (mà Brown &
Levinson đã phân loại) đan xen lẫn nhau, giữa một bên là mong muốn được tán
thưởng và tôn trọng, hòa hợp với người khác và một bên là mong muốn được tự do
hành động, và tránh bị người khác áp đặt.
131
Ngòai ra có một sự khác biệt nữa về giá trị quan hệ của từ ngữ đó là trong
KHTA, các yếu tố kêu gọi sự gắn kết liên nhân giữa người nói và người nghe như
(together, let’s …) chỉ xuất hiện rất hạn chế (chưa đến 2% lượt) thì KHTV thường
hay dùng phụ từ “hãy” hoặc “hãy cùng” (15,2% lượt) trong các khẩu hiệu vận động
thuyết phục để kêu gọi sự gắn kết này. Điều này là do văn hóa Việt Nam bị ảnh
hưởng văn hóa phương Đông nên luôn đề cao tính tập thể (collectivism) và tôn
trọng các giá trị do tập thể mang lại trong khi văn hóa phương Tây lại đề cao tính cá
nhân và bản sắc (originality) nên khi khai thác các giá trị liên nhân người ta không
chọn các kiểu từ ngữ này. Cũng với giá trị văn hóa này, có thể giải thích thêm một
sự khác biệt tương tự nữa nếu so sánh từ ngữ dùng trong chủ đề chính trị-bầu cử
trong KHTA với chủ đề xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội trong KHTV. Ở
đây, có thể thấy sự khác biệt giữa việc đề cao yếu tố tập thể trong KHTV với các
cụm từ như “toàn Đảng, toàn quân, toàn dân”, “thanh niên Việt Nam”, “tuổi trẻ
thành phố HCM”, “Hội nông dân”… (19,6%) và việc đề cao yếu tố cá nhân như
trong khẩu hiệu chính trị của tiếng Anh với các tên gọi của các ứng viên tổng thống
hoặc các vị đại diện các đảng phái hoặc tổ chức chính trị (4,5%). Ngoài khác biệt về
dấu ấn cá nhân và dấu ấn tập thể, sự khác biệt này còn phản ánh sự khác nhau về
các điều kiện chính trị - xã hội, đặc biệt là trong thể chế xây dựng và quy tắc hoạt
động của hai thể chế chính trị hoàn toàn khác nhau.
Cuối cùng, kết quả khảo sát còn cho thấy sự khác biệt về giá trị biểu cảm của
từ ngữ trong KHTA và KHTV. KHTA có 10% các hiện tượng chơi chữ thông qua
các hình thức đồng âm, từ đa nghĩa, từ biến âm, tách âm tiết… trong khi KHTV chỉ
có 1% thuộc dạng này. Để lý giải cho sự khác biệt này, hãy cùng xem xét nguồn
gốc ngôn ngữ của tiếng Anh và tiếng Việt. Tiếng Anh thuộc loại hình ngôn ngữ
biến hình, trong khi tiếng Việt lại thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập. Ngôn ngữ biến
hình thường sử dụng các phụ tố. Mỗi phụ tố có thể đồng thời mang nhiều ý nghĩa và
ngược lại, cùng một ý nghĩa có thể diễn đạt bằng các phụ tố khác nhau. Chính vì
yếu tố này mà khả năng biểu cảm của từ ngữ bằng cách chơi chữ như đã trình bày
trên đây trong KHTA là phổ biến hơn trong tiếng Việt. Lý do thứ hai là KHTV đã
132
có lịch sử từ lâu đời là do các cơ quan nhà nước ban hành đối với đối tượng là công
chúng nên vẫn có sự dè dặt trong việc chơi chữ. Gần đây mới xuất hiện một số khẩu
hiệu do Đoàn Thanh niên CSHCM phát động trong các cuộc vận động phong trào
an toàn giao thông nên mới có những khẩu hiệu dí dỏm và sử dụng hình thức chơi
chữ như vậy.
Ngoài ra, KHTV dùng nhiều từ ngữ biểu cảm có tác dụng thuyết phục người
nghe hơn KHTA. Ví dụ: KHTV có sự thay đổi các từ ngữ trong khẩu hiệu an toàn
giao thông từ phóng nhanh, vượt ẩu, tội ác, hiểm họa…. thành các từ ngữ (phía sau
tay lái là) gia đình, (lái xe bằng) trái tim… nhằm mục đích kêu gọi ý thức giao
thông trong khi kiểu thay đổi tương tự như vậy là khá hiếm gặp trong KHTA (2,6%
so với 0,04%) đã cho thấy việc dùng “lời nói dễ nghe” để thuyết phục người dân-
người tiếp nhận khẩu hiệu là một nét văn hóa riêng của người Việt hay văn hóa
phương Đông.
4.3.4. Cấu trúc ngữ pháp
Xét về cấu trúc ngữ pháp theo quan điểm ngữ pháp chức năng, có thể thấy
KHTA và KHTV tuy cùng chia sẻ hai vị trí chủ chốt về các kiểu quá trình chủ yếu
là vật chất và quan hệ. Nhưng số lượng khẩu hiệu của hai loại quá trình này ở mỗi
nền văn hóa là khác nhau. KHTA có nhiều cấu trúc thể hiện quá trình vật chất hơn
KHTV (52,86% so với 42,46%). Trong khi đó, KHTV có nhiều kiểu quá trình quan
hệ hơn so với KHTA (31,57% so với 24,2%). Một khác biệt đáng quan tâm hơn nữa
là trong khi ở KHTA số kiểu quá trình hành vi khá khiêm tốn (6,88%) thì ở KHTV
nó chiếm một vị trí đáng kể và trở thành quá trình tiềm năng thứ ba trong các kiểu
quá trình (13,78%). Có thể hiểu hiện tượng này nếu hiểu tính chất của quá trình
hành vi và tương quan văn hóa Việt. Quá trình hành vi là quá trình trung gian giữa
quá trình vật chất và quá trình…, nó chỉ các hiện tượng tâm sinh lý của con người.
Đối với người Việt, việc kêu gọi ý thức về hành vi là một việc rất bình thường trong
cuộc sống hàng ngày, cho nên dễ dàng thấy có nhiều khẩu hiệu sử dụng quá trình
hành vi hơn trong tiếng Anh, nơi mà các thông lệ văn hóa không cho phép người ta
nhắc nhở nhiều đến hành vi con người.
133
Về quan điểm thể hiện hay che dấu yếu tố tác nhân và sử dụng hiện tượng
danh hóa, bị động nhằm thực hiện mục đích này trong KHTA và KHTV không có
nhiều khác biệt. Hiện tượng danh hóa và cấu trúc câu bị động chỉ chiếm một phần
không đáng kể trong KH CT-XH của cả hai thứ tiếng. Quan điểm này của CDA và
ngữ pháp chức năng thường được thể hiện rất rõ trong các bài phát biểu chính trị
nơi mà hệ tư tưởng của người phát ngôn được định hình rõ trong ngôn từ và cấu
trúc ngữ pháp mà các chính khách sử dụng. Những bài phát biểu vận động tranh cử
cũng vậy, để che dấu tác nhân hành động, người ta có xu hướng sử dụng các hiện
tượng danh hóa và bị động. Trong trường hợp KH CT-XH, quan hệ giữa người phát
ngôn với người tiếp nhận và việc thể hiện thế giới kinh nghiệm cần được làm rõ
thông qua việc chỉ rõ tác nhân hành động hơn là che giấu.
Trong khi xem xét các giá trị quan hệ của các hiện tượng ngữ pháp, lý thuyết
CDA đề xuất khảo sát các kiểu phát ngôn để thể hiện tư tưởng. Có hai sự khác biệt
lớn trong các kiểu phát ngôn giữa KHTA và KHTV. Thứ nhất, nếu KHTA có
khoảng 35% kiểu câu cầu khiến và hơn 60% kiểu câu trần thuật thì con số này là
hoàn toàn ngược lại ở trong KHTV ( với kiểu câu cầu khiến chiếm khoảng hơn 60%
và kiểu câu trần thuật là khoảng 40%. Khác biệt thứ hai là trong khi không hề có
kiểu phát ngôn câu hỏi trong KHTV thì lại có khoảng gần 5% kiểu câu hỏi tu từ
trong KHTA (Ví dụ: The question is not, “Can they reason?” nor, “Can they
talk?” but rather, “Can they suffer?”). Có thể hiểu điểm khác biệt thứ nhất (câu
trần thuật, câu cầu khiến) này bằng hai cách. Thứ nhất là do sự lựa chọn về mục
đích giao tiếp của khẩu hiệu. Nếu chính sách tuyên truyền cần chú trọng vào giáo
dục kiến thức, nhận thức thì khẩu hiệu sẽ thực hiện chức năng đó chủ yếu thông qua
việc sử dụng kiểu phát ngôn trần thuật (cung cấp thông tin để giáo dục kiến thức),
còn nếu khẩu hiệu muốn đặt trọng tâm tuyên truyền vào chức năng thuyết phục sự
thay đổi trong hành vi thì chủ yếu lại sử dụng kiểu phát ngôn cầu khiến. Thứ hai,
cũng có thể hiểu thông qua sự khác biệt trong giao tiếp giữa hai nền văn hóa. Trong
quan hệ giao tiếp của người Việt, việc một cơ quan quyền lực yêu cầu cấp dưới hay
người dân thực thi một mệnh lệnh hay yêu cầu nào đó là thuộc lẽ thường. Cấp dưới
có nhiệm vụ phục tùng cấp trên và người dân cũng được cho là tuân thủ các quy
134
định do các cơ quan nhà nước ban hành. Trường hợp KHTV chủ yếu là do các cơ
quan nhà nước ban hành, nên việc có nhiều câu cầu khiến, mệnh lệnh không phải là
một sự việc trái với lẽ thường. Trong văn hóa phương Tây, việc yêu cầu, áp đặt
hoặc ra lệnh cho người khác sẽ có nguy cơ làm mất thể diện và vi phạm sự tự do cá
nhân của họ. Ngoài ra, việc KHTA có 4% câu hỏi tu từ mà trong KHTV không có
cũng phần nào được giải thích nếu chúng ta dựa vào các đặc điểm của loại câu hỏi
này. Corbette [61] định nghĩa câu hỏi tu từ là loại câu hỏi có dụng ý mà không yêu
cầu câu trả lời. Câu trả lời có thể là đã hiển nhiên hoặc ngay lập tức được người hỏi
cung cấp sau đó. Nhưng tác dụng của câu hỏi tu từ là khá lớn. Nó có thể là công cụ
thuyết phục hiệu quả, được cố ý đưa ra nhằm khai thác các phản ứng khác nhau của
người nghe. Còn Koshik [96] thì nhận xét rằng câu hỏi tu từ có những điểm chung
là không phải để hỏi, không phải để hiểu như các câu hỏi tìm kiếm thông tin thông
thường, mà đó là cách để nêu lên những nhận định, chính kiến, khẳng định… đặc
biệt là khẳng định với đối phương của câu hỏi đó. Chúng ta đều đồng ý rằng văn
hóa phương Tây thường động viên tư duy phản biện. Trường hợp câu hỏi tu từ với
mục đích làm cho người đọc phải suy nghĩ, nhận thức hoặc kích thích sự phản hồi
và sự mong đợi từ người đọc/ người nghe … đã có tác dụng nhấn mạnh vào vấn đề
cần diễn đạt. Ở môi trường văn hóa xã hội của Việt Nam, nhiều người cho rằng việc
đặt một câu hỏi cho khẩu hiệu không phải là một sự lựa chọn an toàn khi mà vấn đề
lịch sự và tư duy phản biện của người Việt không giống như trong văn hóa người Mỹ,
nên có thể thấy câu hỏi ít hoặc hầu như không xuất hiện trong khẩu hiệu tiếng Việt.
Cùng ở phạm vi xem xét các kiểu phát ngôn, chúng tôi khảo sát sự khác biệt
trong cách sử dụng ngôn ngữ thể hiện qua các lực ngôn trung ở các hành động tại
lời của KHTA và KHTV. Trước hết là đối với hành động cầu khiến, và khuyến cáo
trong các 328 cấu trúc câu mệnh lệnh của KHTV với các động từ ngữ vi mang ý
nghĩa động viên người khác làm hay không làm một việc gì, có 8,2% lượt sử dụng
hành động khuyến cáo phủ định (với các từ ngữ “không làm gì” và “đừng làm gì”)
và 91,8% sử dụng hành động khuyến cáo khẳng định. Con số này trong KHTA lại
có sự khác biệt. Trong số 203 cấu trúc cầu khiến, có đến 20,2% lượt sử dụng hành
động khuyến cáo phủ định với cách dùng từ “don’t” hoặc “never” để diễn đạt mệnh
lệnh. Trong tiếng Việt, KH CT-XH là thể loại diễn ngôn của công chúng. Ngôn từ
135
phải đạt đến một mức độ lịch sự và tránh làm mất thể diện của các vai giao tiếp
nhằm mục đích phát huy tối đa hiệu quả của các hành động ngôn từ. Đó chính là lý
do tại sao các hành động cầu khiến phủ định trực tiếp không được dùng nhiều trong
KHTV. Trong khi đó, hiện tượng này ở KHTA có tần số sử dụng cao hơn nhiều
(gấp 2,5 lần), bởi trong tương quan ngôn ngữ-văn hóa của người Mỹ, các cấu trúc
cho lời khuyên hoặc yêu cầu với từ “DO” (hãy làm) và “DON’T” (đừng làm) tồn tại
song song và rất thường xuyên trong các kiểu hành động ngôn từ khuyên bảo và
khuyến cáo. Tương tự, cấu trúc câu hỏi chứa các hành động ngôn từ động viên,
khuyến khích (chứ không phải là câu hỏi lấy thông tin) như “why don’t you …?”
hay “How about letting a sober friend drive instead? [A101] để biểu thị lời khuyên,
“how far can you reach…?” để động viên các vận động viên chẳng hạn, cũng xuất
hiện chủ yếu trong KHTA (chiếm hơn 60% trong các kiểu câu hỏi tu từ) chứ không
hề tồn tại trong KHTV. Điều này là do sự khác nhau trong cách sử dụng ngôn ngữ
để thể hiện các lực ngôn trung trong các hành động tại lời ở hai nghiệm thể khẩu
hiệu. Câu hỏi phủ định “why don’t we…” (tại sao chúng ta không…?) trong tiếng
Anh có thể dùng để cầu khiến, đề nghị, nhưng trong tiếng Việt lại không hoàn toàn
là như vậy, đặc biệt là sử dụng trong diễn ngôn KH CT-XH, nơi mà các chuẩn mực
về văn phong trang trọng được yêu cầu và yếu tố lịch sự được đảm bảo. Một câu hỏi
tương tự trong KHTV có thể được xem là không trang trọng và có thể gây ra yếu tố
làm mất thể diện - vi phạm nguyên tắc lịch sự giữa các bên tham gia giao tiếp.
Trong khi xem xét các giá trị quan hệ của hiện tượng ngữ pháp, chúng tôi
cũng chú ý khảo sát một số trường hợp vô ý hay chủ ý vi phạm các phương châm
giao tiếp trong các lượt phát ngôn của khẩu hiệu. Bùi Minh Toán [23] đã nêu rõ các
cơ chế tạo hàm ý cho phát ngôn có liên quan đến việc tuân thủ hay vi phạm phương
châm giao tiếp. Tác giả đã phân loại rõ rằng ngoài các phát ngôn vô ý vi phạm các
phương châm giao tiếp, thì vẫn có rất nhiều trường hợp người nói chủ ý vi phạm
trong khi giả định rằng người nghe cũng ý thức được vi phạm đó của mình. Những
trường hợp vi phạm chủ ý như vậy được xem là cơ sở để tạo nên hàm ý. KHTA và
KHTV cũng có khoảng 1-2% các trường hợp chủ ý vi phạm phương châm giao tiếp
để tạo hiệu ứng tuyên truyền với các hàm ý quan trọng trong một số chủ đề. Tuy
nhiên nếu trong KHTA, toàn bộ các diễn ngôn khẩu hiệu cố ý vi phạm phương
136
châm về cách thức (không nói rõ ràng, thường mập mờ, mơ hồ, giải thích vòng vo,
lấp lửng) thì phần lớn các trường hợp này trong KHTV lại vi phạm về lượng (nói
không đủ, thiếu lượng thông tin cần thiết). Xem xét một số ví dụ về chủ ý vi phạm
phương châm giao tiếp trong KHTA và KHTV sau đây:
- Terrorism has no religion. [A5] (khẩu hiệu chống khủng bố)
- Black is beautiful.[A330] (khẩu hiệu chính trị - chống phân biệt chủng tộc)
- Rửa tay có thể cứu được bệnh nhân. [V43](khẩu hiệu Y tế - sức khỏe)
- Hưởng ứng ngày đái tháo đường thế giới. [V45] (khẩu hiệu Y tế - sức khỏe)
- Xách giỏ đi chợ - phong cách người nội trợ.[V269] (khẩu hiệu bảo vệ môi trường)
- Các em gái không thể tự mình mang thai. Các em trai và nam giới phải là một
phần của giải pháp. [V341]
Trong ví dụ [A5] (dịch sát nghĩa: Khủng bố không có tôn giáo) hay ví dụ
[A330] (dịch sát nghĩa: Đen là đẹp), người phát ngôn các khẩu hiệu này cố tình vi
phạm phương châm cách thức bằng cách nói mập mờ, tối nghĩa nhằm hàm ý chê bai
chủ nghĩa khủng bố là không có lương tâm (vì không có đức tin) và ca ngợi người
da đen đã làm nên lịch sử nước Mỹ. Trong khi đó, ở 3 ví dụ [V43], [V45] và
[V269], các KHTV đã được người phát ngôn cố ý vi phạm phương châm về lượng
để gây chú ý trong người nghe thông qua biện pháp nói quá ở [V43] hay biện pháp
tỉnh lược ở [V269]. Trường hợp vi phạm ở [V45] theo chúng tôi có thể không phải
là cố ý. Việc không cung cấp đủ thông tin trong [V45] đã có thể làm người nghe
khó lòng hiểu rõ thế nào là “ngày đái tháo đường thế giới” và cũng có thể làm mất
đi tác dụng tuyên truyền thực sự. Có thể lý giải sự khác biệt này bằng cách liên hệ
với việc KHTA dùng nhiều từ ngữ ẩn dụ hơn KHTV. Tuy nhiên, vì khẩu hiệu là thể
loại diễn ngôn một chiều (người nghe không có sự tham gia trực tiếp vào các lượt
giao tiếp) cho nên xét về một góc độ nào đó, việc chủ ý vi phạm các phương châm
giao tiếp này có thể đã không tạo được hiệu ứng giao tiếp bằng hàm ý, mà trái lại
còn có thể gây hiểu lầm và dẫn đến phản tác dụng tuyên truyền.
Trong các giá trị liên nhân của hiện tượng ngữ pháp, kết quả so sánh - đối chiếu
còn cho thấy KHTA dùng nhiều từ ngữ tình thái quan hệ (ví dụ: must, should, might/
may, can/ could - 12,8%) hơn KHTV (ví dụ: phải, nên - 3%). Trường hợp tương tự xảy
137
ra với cách sử dụng đại từ I/ we/ you trong diễn ngôn để thiết lập mối quan hệ giữa
người nói và người nghe. Nếu trong diễn ngôn KHTV chỉ có 7,8% lượt sử dụng các đại
từ này thì ở KHTA, có đến 38,4% (trong đó đại từ “You” đã chiếm đến 26,4%). Điều
này là do đại từ “I” (tôi) là để xác định tính chịu trách nhiệm cũng như thể hiện chính
kiến của người nói (đặc biệt là trong các kiểu quá trình tinh thần như I think, I
believe…). Còn đại từ “We” có thể diễn đạt hai kiểu ý đồ của người phát ngôn để tạo
lập quan hệ. Giải thích này được dựa trên quan điểm chịu trách nhiệm về thông tin phát
ngôn mà Hinds và một số tác giả khác đã nghiên cứu. Hinds [87:141] đã nghiên cứu về
mối quan hệ giữa người kiến tạo diễn ngôn và độc giả hay thính giả của nó và đưa ra
nhận xét rằng: “thông thường thì tiếng Anh được xem là ngôn ngữ đẳng lập trong khi
các thứ tiếng châu Á khác như Nhật, Trung quốc… lại là ngôn ngữ chính-phụ”. Hinds
gọi tiếng Anh là ngôn ngữ mà trong đó tác giả chịu trách nhiệm hoàn toàn với độc giả
(writer-responsible) và là người chịu trách nhiệm về sự thành công của cuộc giao tiếp
bằng cách cung cấp đầy đủ thông tin cho độc giả, biện luận hay giải thích. Trong khi
đó, người châu Á lại sở hữu loại hình ngôn ngữ mà trách nhiệm hiểu và suy diễn nằm ở
người đọc (reader-responsible). Khi đó, nhiệm vụ của người đọc là hiểu ý của người
viết và tự diễn giải quá trình giao tiếp thông qua việc suy đoán, suy luận từ các dữ liệu
của người viết. Scollon [132] cũng đã có nghiên cứu tương tự để tìm ra sự khác nhau
giữa yếu tố nhận diện diễn ngôn (discourse identity) của báo chí bằng tiếng Trung và
tiếng Anh ở Hồng Kông. Kết quả cũng cho thấy rằng trong các bản tin báo chí bằng
tiếng Trung, người viết không được trao trọn quyền tác giả và cũng không tự chịu trách
nhiệm với độc giả về phần trình bày của mình. Ngược lại, những tác giả người Mỹ lại
tự chịu trách nhiệm với độc giả về bản tin mình viết.
Kết quả so sánh giá trị biểu cảm của các hiện tượng ngữ pháp ở KHTA và
KHTV cho thấy việc sử dụng cấu trúc biền ngẫu thể hiện sự khác biệt trong cả số
lượng và cách thức dùng các biện pháp tu từ để diễn đạt. Trong khi KHTA dùng
12% kiểu cấu trúc biền ngẫu thì chỉ có 4% kiểu dùng tương tự trong KHTV. Điều
này cho thấy trong xu thế toàn cầu hóa, đã có sự giao lưu các giá trị văn hóa giữa
các nước. Trước đây, văn hóa Việt bị ảnh hưởng nhiều bởi văn hóa Trung Quốc.
Các kiểu văn phong biền ngẫu được yêu chuộng là hệ quả của việc chúng ta bị ảnh
138
hưởng bởi lối viết câu đối trong văn hóa Trung Quốc trong nhiều thập kỷ. Tuy
nhiên, gần đây hiện tượng này không còn giới hạn trong phạm vi văn hóa Việt mà
đã lan sang các nền văn hóa khác. Cụ thể trong trường hợp KH CT-XH tiếng Anh,
cấu trúc biền ngẫu được ưa chuộng gấp ba lần trong KH CT-XH tiếng Việt. Ngoài
ra sự giao lưu văn hóa này còn thể hiện trong việc khẩu hiệu tiếng Việt ngày nay
đã có rất nhiều dạng cấu trúc tương tự như tiếng Anh với văn phong hiện đại như
“Nói không với ….”, tương đương với “Say no to …”. Thứ hai, việc KHTV dùng
tương đối nhiều cấu trúc cầu khiến với phụ từ “hãy” (15%) để thể hiện sự thuyết
phục hay lời kêu gọi tha thiết và KHTA dùng 12,8% kiểu cấu trúc tình thái để thực
hiện một mục đích tương tự đã cho thấy sự khác biệt trong chiến lược sử dụng các
cấu trúc ngữ pháp có giá trị biểu cảm cao ở mỗi quốc gia.
Trong 60 diễn ngôn KH CT-XH tiếng Anh có 87 lượt dùng các biện pháp tu từ
tương tự cùng với một số biện pháp khác như dùng cặp quan hệ từ, nhân hóa, và đồng
âm. Trong 20 diễn ngôn KHTV có sử dụng cấu trúc biền ngẫu, có 40 lượt dùng các
biện pháp tu từ chủ yếu để diễn đạt bao gồm lặp từ, lặp cấu trúc, cấu trúc đối ngẫu, từ
đồng nghĩa, từ trái nghĩa, đồng nghĩa ẩn dụ và điệp vần. Số luợng của mỗi loại biện
pháp tu từ dùng để tạo lập cấu trúc biền ngẫu được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 4.2 So sánh số lượt sử dụng biện pháp tu từ để tạo lập các cấu trúc
biền ngẫu trong KHTA và KHTV
KHTA KHTV
Biện pháp tu từ Số lượng
N=40
Tỉ lệ
(%)
Biện pháp tu từ Số lượng
N=87
Tỉ lệ
(%)
Lặp từ 13 32,5 Lặp từ 33 37,9
Lặp cấu trúc 11 27,5 Lặp cấu trúc 13 14,9
Từ trái nghĩa 5 12,5 Từ trái nghĩa 13 14,9
Cấu trúc đối ngẫu 4 10 Điệp vần 6 6,9
Từ đồng nghĩa 3 7,5 Từ đồng nghĩa 6 6,9
Đồng nghĩa ẩn dụ 2 5 Cấu trúc đối ngẫu 5 5,7
Điệp vần 2 5 Đồng âm 5 5,7
Cặp quan hệ từ 3 3,4
Đồng nghĩa ẩn dụ-
nhân hóa
3 3,4
139
Như vậy, ngoài các biện pháp tu từ được sử dụng với tần số tương đối đồng
đều ở cả hai nghiệm thể khẩu hiệu, thì các biện pháp tu từ trong KHTA có phần đa
dạng và phong phú hơn trong KHTV với các kiểu dùng từ đồng âm, cặp quan hệ từ
và hiện tượng nhân hóa trong hai (hoặc hơn hai) vế biền ngẫu để tạo hiệu quả “đối”
và qua đó tăng tính biểu cảm của các hiện tượng ngữ pháp trong khẩu hiệu.
Xét về hiện tượng liên kết câu/ mệnh đề trong khẩu hiệu ở cả hai thứ tiếng,
cần lưu ý rằng phạm vi khảo sát chỉ gói gọn trong các diễn ngôn phức của khẩu hiệu
hoặc diễn ngôn đơn có chứa câu phức có từ hai cú trở lên.
Bảng 4.3 So sánh các đặc điểm liên kết trong các diễn ngôn phức hoặc chứa cú phức
của KHTA và KHTV Các đặc điểm
liên kết KHTA
N= 304
Tỉ lệ
(%) Ví dụ KHTV
N=122
Tỉ lệ
(%) Ví dụ
Phép tỉnh lược 12 3,94 Cruelty is one fashion statement we can do without.
20 16,39 - Sử dụng ma tuý là tự sát. hãy dừng lại khi chưa muộn.
Phép lặp 62 20,3
9
You don’t fight racism with racism, the best way to fight racism is with solidarity.
56 45,9 - Việc làm là cơ hội thoát nghèo, lập thân, lập nghiệp. - Xanh biển-xanh rừng-xanh đất nước.
Phép quy chiếu 82 26,9
7
Religion should be used to bring people together. Not blow them apart.
3 2,4 - Bác Hồ là vị cha già dân tộc. Người sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta.
Phép thế 4 1,31 Man made global warming, the biggest scam in the history of mankind to fulfill his greediness? Understand this Or Nature will teach you.
1 0,8 - Môi trường có trong lành hơn hay không, điều đó tùy thuộc ở bạn.
Phép đối (song song hay biền ngẫu
37 12,17
No safety- know pain. Know safety- no pain
16 13,11 - An toàn là bạn, tai nạn là thù
Phép nối 107 35,1
9
Your health is in your own hands, so be sure to wash them.
26 21,31 - Vì sức khỏe cộng đồng, hãy rửa tay với xà phòng
Theo số liệu ở bảng thống kê có thể thấy người Việt chuộng lối nói hoa mỹ,
diễn đạt dài, vòng vo nên khẩu hiệu tiếng Việt có khuynh hướng sử dụng các phép
liên kết từ vựng nhiều nhất (gần 46%) với các hình thức đồng nghĩa, trái nghĩa, lặp
từ hay phối hợp từ ngữ kiểu như đồng vị (collocation). Ví dụ: “tăng cường lãnh
đạo, giữ vững cam kết, quyết tâm đẩy lùi AIDS” hoặc “Phát triển nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài”. Thêm vào đó, tỉ lệ dùng từ đồng nghĩa trong khẩu hiệu tiếng Việt
còn cao hơn trong tiếng Anh bởi hệ thống tiếng Việt có nhiều từ đồng nghĩa và lối
diễn đạt đồng nghĩa hơn trong tiếng Anh. Trong khi đó trong KHTA, khuynh hướng
sử dụng phép nối là nổi bật nhất (gần 36%) với các liên ngữ lô-gic như so, and, but,
140
or… để cho phép thiết lập các kiểu mệnh đề chính phụ và đẳng lập trong câu phức
và diễn ngôn phức của khẩu hiệu. Điều này là hết sức hợp lý khi mà kết quả khảo
sát trước đó (chương 3) đã cho thấy các kiểu câu phức, cú phức của khẩu hiệu tiếng
Anh chủ yếu thể hiện mối quan hệ đẳng lập, bằng cách dùng các liên ngữ “and”,
“but”, “or” hoặc đơn giản chỉ là hai cú đứng cạnh nhau và ngăn cách nhau bằng dấu
phẩy. Đây là các kiểu quan hệ có ý nghĩa về mặt tư tưởng, nhất là quan hệ bình
đẳng và đối lập trong tương tác giữa người nói và người nghe.
Một trong những yêu cầu về tác dụng của khẩu hiệu là phải dễ hiểu, dễ nhớ
để giúp thông điệp đến với người dân nhanh hơn, hiệu quả hơn. Một trong những
cách làm cho khẩu hiệu dễ nhớ dễ hiểu là lối nói giản tiện, điệp vần, thông qua phép
đối song song hoặc cấu trúc biền ngẫu (parallelism). Theo số liệu khảo sát có thể
thấy cả KH CT-XH tiếng Anh và KH CT-XH tiếng Việt đều dùng khá nhiều phép
đối song song – lối nói biền ngẫu (trong tương quan so sánh với các phép liên kết ít
gặp) (8-12%). Ví dụ: “An toàn là bạn - tai nạn là thù” [V8] và “More candy - less
climate change”[A202] (thêm kẹo ngọt - bớt thay đổi thời tiết). Phép đối trong các
khẩu hiệu nói trên cho phép người đọc, người nghe dễ tự nhẩm và nhớ lâu, từ đó ghi
nhớ và hành động theo khẩu hiệu. Tuy số lượng sử dụng các cấu trúc biền ngẫu là
không nhiều ở cả hai nghiệm thể khẩu hiệu, rõ ràng vẫn có một sự chênh lệch đáng
kể là KHTA có 12% kiểu cấu trúc này trong khi KHTV chỉ chiếm một phần ba số
đó (4%). Việc các phép liên kết văn bản được sử dụng khiêm tốn trong khẩu hiệu
một lần nữa cho thấy diễn ngôn khẩu hiệu không phải là loại hình giao tiếp cần
nhiều từ, ngữ và nhiều câu để chuyển tải thông điệp. Đây là một loại diễn ngôn đặc
biệt với những đặc tính đặc biệt. Bản thân các từ ngữ đã phải mang tính liên kết cao
về chủ đề, mạch lạc trong ý, cú và các mối liên hệ nội bộ câu khác nhằm hạn chế
việc giải thích dài dòng bằng một văn bản có “kích cỡ” lớn hơn.
4.3.5. Cấu trúc diễn ngôn
Trước khi đi vào so sánh - đối chiếu cấu trúc diễn ngôn khẩu hiệu tiếng Anh
và tiếng Việt, chúng tôi muốn làm rõ nguồn gốc của một số sự khác biệt. Tiếng Anh
và mô hình tư duy văn hóa của ngôn ngữ này có nguồn gốc từ văn hóa Anglo-
141
European. Mạch tư duy trong tiếng Anh có xuất xứ từ mạch tư duy Platonic-
Aristolian, bắt nguồn từ các triết gia Hy lạp cổ đại và được các học giả Roman,
Châu Âu trung cổ, phương Tây (sau này) phát triển. Trong khi đó, mô hình tư duy
của tiếng Việt lại xuất xứ từ nền văn minh lâu đời của Đông Nam Á, chịu ảnh
hưởng của hai đạo Khổng Tử và Lão Tử. Từ những cơ sở này, chúng ta có thể dễ
dàng hiểu ra sự khác biệt giữa kiểu tư duy văn hóa phương Tây (đại diện là tiếng
Anh) và văn hóa Đông Nam Á (đại diện là Việt Nam). Tác giả Hoàng Xuân Hoa
[14:111] đã có nghiên cứu về sự khác biệt trong cách diễn ngôn của hai đại diện
ngôn ngữ này và đã nhận xét: “Kiểu tư duy văn hóa của một cộng đồng ngôn ngữ
thường được thể hiện rõ nét trong cách diễn ngôn của cộng đồng ngôn ngữ đó”.
Nghiên cứu của Kaplan năm 1966 [91] về đối chiếu diễn ngôn viết trên cơ sở phân
tích hơn 600 bài luận của sinh viên từ nhiều nền văn hóa khác nhau đang theo học ở
Mỹ. Kết quả nghiên cứu của ông cho thấy cấu trúc diễn ngôn (cũng là cách tư duy
văn hóa) của tiếng Anh có hình của một đường thẳng; trong khi cấu trúc diễn ngôn
của các ngôn ngữ phương Đông có hình vòng xoáy trôn ốc. Kaplan ([91], [92]) cho
rằng mỗi nền văn hóa đều phát triển mỗi lô-gic hay kiểu suy nghĩ riêng biệt. Và lối
suy nghĩ bị chi phối bởi các yếu tố văn hóa đó được phản ánh vào trong cách tổ
chức ý tưởng đoạn văn hay các văn bản dạng viết. Thế là mỗi nền văn hóa khác
nhau đều có những cách phát triển đoạn văn khác nhau. Giải thích cho hai kiểu sơ
đồ tư duy này là các biểu hiện về cấu trúc tổ chức ý, bố cục đoạn văn và các đặc
điểm của đoạn. Cấu trúc đoạn trong tiếng Anh đi theo hướng đường thẳng, nên
được gọi là có tính trực tiếp (directness), và có các ý sắp xếp theo trình tự thời gian,
không gian và logic, các diễn đạt rõ ràng chi tiết bằng các luận điểm trong từng
đoạn riêng biệt. Ngược lại, cấu trúc đoạn diễn ngôn tiếng Việt thường được tổ chức
không theo đường thẳng, mà thường lại theo đường vòng. Để tránh các xung đột về
mặt thể diện, đạt được tính lịch sự, tạo sự hài hòa với độc giả, các ý được diễn đạt
theo lối gián tiếp (indirectness), tránh đưa ra các tranh luận mang tính chủ quan và
thường là không đi thẳng vào vấn đề.
Bên cạnh đó, Purves [123], Hinds [87], và Scollon [132] cũng là các tác giả
nghiên cứu về sự khác biệt giữa cấu trúc diễn ngôn của phương Tây và phương
142
Đông. Các nghiên cứu tập trung vào sự khác biệt giữa tính mạch lạc đoạn văn,
mong đợi của độc giả có ảnh hưởng đến cách tổ chức trật tự ý trong đoạn văn và sự
gián tiếp/ trực tiếp trong bố cục đoạn, bài văn. Ngoài ra các nghiên cứu về tính lịch
sự hay thể diện của Goffman [78], Brown & Levinson [55] cũng là cơ sở lý luận
cho các giải thích về khác biệt giữa cấu trúc diễn ngôn của hai ngôn ngữ đại diện
cho hai nền văn hóa Đông - Tây này. Tóm lại, sự khác biệt về văn hóa đã được phản
ánh vào trong cấu trúc diễn ngôn hay nói chung là các sản phẩm viết của các nền
văn hóa khác nhau là có cơ sở khoa học.
Liên hệ các lý thuyết nói trên vào so sánh và đối chiếu cấu trúc vi mô diễn
ngôn của KHTA và KHTV, có thể thấy sự khác nhau trong việc đưa tiêu điểm
thông tin vào phần đề ngữ hay câu đề (trong diễn ngôn phức) giữa hai nghiệm thể
đó là: KHTA có xu hướng đưa tiêu điểm thông tin vào phần đề ngữ trong diễn ngôn
đơn hoặc câu đề trong diễn ngôn phức hơn so với KHTV (87% so với 54%). Sự
khác biệt này đã phần nào được giải thích do thói quen người Việt (hay người châu
Á) thường ít đề cập đến tiêu điểm thông tin của vấn đề cần phát ngôn mà thường để
lại cho các phần sau của văn bản hoặc tránh lối nói quá trực tiếp sợ gây mất thể
diện. Tuy nhiên chỉ số khác biệt là xấp xỉ 33% cũng không phải là một khoảng cách
quá lớn và có thể được giải thích bằng việc xem xét các tính chất, đặc trưng và chức
năng của KH CT-XH. Khẩu hiệu là một thể loại diễn ngôn viết nhưng mục tiêu ban
đầu cũng là để hô hào, vận động hoặc in trên biểu ngữ cho nên văn phong phần nào
mang đặc điểm của diễn ngôn nói. Trong trường hợp này, các tiêu chí trực tiếp hay
gián tiếp, lịch sự và thể diện (mà các lý thuyết trên đã phân tích) không có nhiều giá
trị thực tiễn bởi các luận điểm của các học giả nêu ra chủ yếu dựa trên các nghiên
cứu trên văn bản-diễn ngôn viết. Mặt khác, chức năng của KH CT-XH là thuyết
phục, vận động, cung cấp thông tin để giáo dục, hoàn toàn khác với chức năng của
thi ca hay văn học, nên việc “giấu” tiêu điểm thông tin và “để dành” cho đến cuối
văn bản không những không có tác dụng kích thích trí tưởng tượng và lòng mong
đợi của người đọc (như trong thi ca, văn học) mà còn có thể có tác dụng ngược gây
ra hiểu lầm hoặc nản lòng làm giảm khả năng thuyết phục người đọc, người nghe.
143
4.4 Tiểu kết chương 4
Như vậy, thông qua quá trình so sánh - đối chiếu dựa trên các tiêu chí phân
tích diễn ngôn theo đường hướng PTDNPP và với cơ sở lý thuyết của ngữ pháp
chức năng hệ thống chương 4 đã chỉ ra các đặc điểm giống nhau và khác nhau giữa
diễn ngôn KHTV và diễn ngôn KHTA, đồng thời lý giải một số nguyên nhân của
các hiện tượng tương đồng và khác biệt đó. Theo đó, các đặc điểm giống nhau chủ
yếu giữa hai nghiệm thể chính là sử dụng trường từ vựng cùng chủ đề và các kiểu
quá trình khác nhau để phản ánh các giá trị kinh nghiệm của đời sống văn hóa-xã
hội ở mỗi quốc gia; sử dụng các chiến lược từ ngữ và cấu trúc ngữ pháp chủ chốt để
thể hiện tư tưởng, quan hệ liên nhân giữa người phát ngôn và người tiếp nhận cũng
như tạo tính mạch lạc trong diễn ngôn để đạt được mục đích giao tiếp của KH CT-
XH. Bên cạnh đó có nhiều điểm khác biệt giữa chiến lược dùng từ ngữ và cấu trúc
ngữ pháp để đạt các giá trị kinh nghiệm, quan hệ và biểu cảm giữa KHTA và
KHTV. Hơn nữa, lối phát triển cấu trúc diễn ngôn ở hai nghiệm thể cũng có những
khác biệt đáng kể thể hiện ở sự lựa chọn đặt tiêu điểm thông tin. Tất cả những khác
biệt này được lý giải dựa trên sự khác biệt của hai nền văn hóa Đông – Tây mà cụ
thể là điều kiện lịch sử, thể chế chính trị và đặc điểm văn hóa xã hội của hai quốc
gia đại diện cho hai nền văn hóa này.
144
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Kết luận
Từ kết quả khảo sát, phân tích diễn ngôn và so sánh - đối chiếu khẩu hiệu chính
trị - xã hội tiếng Anh và tiếng Việt trên cơ sở lý thuyết phân tích diễn ngôn phê phán
và căn cứ ngôn ngữ học của lý thuyết ngữ pháp chức năng hệ thống, luận án đi đến
các kết luận sau:
1. KH CT-XH tiếng Anh và tiếng Việt là thể loại diễn ngôn chính trị - xã hội
đặc biệt với độ dài văn bản tương đối ngắn gọn và với lối diễn đạt súc tích, dễ nhớ
được các tổ chức chính trị - xã hội thiết kế và sử dụng nhằm mục đích tuyên truyền,
giáo dục, vận động, thuyết phục người khác làm theo các đường hướng, chính sách
của họ. Đối tượng của sự vận động, giáo dục này chủ yếu là công chúng với số
lượng đông đảo hoặc một số tổ chức chính trị - xã hội chiếm vị trí quan trọng trong
đời sống của mỗi quốc gia. Tùy vào các điều kiện lịch sử, chính trị, xã hội, văn
hóa… và tùy vào từng thời điểm khác nhau mà các tổ chức này quyết định chọn các
chủ đề cho khẩu hiệu và quyết định có bao nhiêu diễn ngôn khẩu hiệu trong cùng
một chủ đề được ban hành ra với công chúng. KH CT-XH có thể được dùng dưới
hình thức diễn ngôn nói thông qua cách hô khẩu hiệu, nhưng phần lớn KH CT-XH
vẫn đến với công chúng qua con đường diễn ngôn viết (trên băng-rôn, biểu ngữ) và
có thể tồn tại với công chúng trong một thời gian ngắn hoặc dài. Hai mục đích chính
của KH CT-XH là giáo dục và thuyết phục, tuy nhiên lại được cụ thể hóa bằng các
chức năng như thông tin -thông báo, vận động - thuyết phục, cảnh báo-khuyến cáo,
hô hào - kêu gọi, động viên - khuyến khích, khẳng định các giá trị chân-thiện-mỹ …
dưới dạng các hành động ngôn từ tại lời.
2. KH CT-XH tiếng Anh và tiếng Việt đều có những điểm giống nhau trong
một số lĩnh vực (theo quan điểm của ngữ pháp chức năng) như sau:
(1) Cách lựa chọn các chủ đề phù hợp với từng điều kiện lịch sử, chính trị, xã
hội của mỗi quốc gia cho từng đợt vận động;
(2) Việc phản ánh các giá trị kinh nghiệm, liên nhân và tạo văn bản của ngôn
ngữ khẩu hiệu;
(3) Các chiến lược sử dụng từ ngữ để thể hiện những tư tưởng đối lập như sử
dụng từ đồng nghĩa, trái nghĩa, dùng từ ngữ có giá trị thiết lập quan hệ giữa người
145
nói và người nghe, dùng các biểu thức mỹ từ hay các từ ngữ biểu cảm để thể hiện sự
đánh giá của con người đối với các vấn đề chính trị - xã hội được phản ánh trong
khẩu hiệu;
(4) Các chiến lược sử dụng cấu trúc ngữ pháp để diễn đạt thế giới xung quanh
thông qua lăng kính diễn ngôn khẩu hiệu như quan hệ chuyển tác thông qua các
kiểu cấu trúc câu chủ yếu của hai quá trình vật chất và quan hệ như “Ai làm gì?” và
“Ai là gì?” hoặc “Ai thế nào?”; hiện tượng danh hóa; cấu trúc câu chủ động/ bị
động; kiểu phát ngôn chủ yếu để thiết lập quan hệ giữa các bên tham gia giao tiếp;
sử dụng đại từ xưng hô như tôi/chúng tôi/ chúng ta/ các bạn…, sử dụng cấu trúc
biền ngẫu hay các kiểu câu trích dẫn trong văn học, thi ca và các kiểu câu có vần có
điệu nhằm tạo hiệu ứng biểu cảm;
(5) Sử dụng một số lượng vừa phải các phép liên kết để tạo văn bản hay nói cụ
thể hơn là tạo sự mạch lạc cho văn bản diễn ngôn khẩu hiệu. Các từ nối chủ yếu
được sử dụng để kết nối câu hoặc mệnh đề sử dụng ở cả hai nghiệm thể chủ yếu là
“và”, “nhưng”, “hoặc”… là những từ nối để giúp thể hiện mối quan hệ đẳng lập và
có ý nghĩa về mặt tư tưởng.
(6) Các đặc điểm cơ bản của cấu trúc diễn ngôn như độ dài văn bản, cách tạo
mạch lạc chủ đề bằng yếu tố liên kết chủ đề; đưa tiêu điểm thông tin vào phần đề
ngữ của diễn ngôn đơn hay câu đề của các diễn ngôn phức.
3. Tùy vào điều kiện lịch sử, chính trị, văn hóa và xã hội của mỗi nước mà
KHTA và KHTV có những sự khác biệt trong chiến lược sử dụng từ ngữ, cấu trúc
ngữ pháp hay cấu trúc diễn ngôn thể hiện trên các giá trị kinh nghiệm, liên nhân và
tạo văn bản. Một số khác biệt giữa diễn ngôn KHTA và KHTV được so sánh theo
quan điểm ngữ pháp chức năng là:
(1) Phương thức sử dụng, điều kiện sử dụng và chủ thể phát ngôn khẩu hiệu;
(2) Các chủ đề ưu tiên trong các cuộc vận động, do đặc thù phản ánh thế giới
xung quanh, mà cụ thể là phản ánh đời sống chính trị, văn hóa xã hội của mỗi quốc gia;
(3) Chiến lược sử dụng từ ngữ để thể hiện các giá trị kinh nghiệm, liên nhân
và tạo văn bản, cụ thể là số lượng từ trái nghĩa/ đồng nghĩa để phản ánh tư tưởng,
các biểu thức mỹ từ, số lượng từ ngữ để thiết lập mối quan hệ liên nhân, số lượng từ
146
ngữ ẩn dụ và số lượng từ ngữ thuộc về cách gieo vần, chơi chữ… ở mỗi nghiệm thể.
Sự khác biệt này được giải thích trên cơ sở điều kiện khác nhau về chính trị, văn
hóa, xã hội và các tập quán, thói quen của hai nền văn hóa Đông - Tây.
(4) Chiến lược sử dụng các cấu trúc ngữ pháp để đạt được các giá trị kinh
nghiệm, liên nhân và tạo văn bản, thể hiện trong kết quả khảo sát các quan hệ chuyển
tác, các kiểu phát ngôn và số lượng mỗi kiểu, cách dùng đại từ xưng hô và một số
phụ từ khác để thiết lập quan hệ giữa chủ thể phát ngôn và chủ thể tiếp nhận, cách
khai thác các kiểu cấu trúc đặc biệt để tạo giá trị biểu cảm. Sự khác biệt về chiến lược
này được thể hiện không chỉ ở số lượng khác nhau của mỗi nghiệm thể trên mỗi lĩnh
vực mà còn ở cách khai thác mỗi kiểu cấu trúc ngữ pháp ở mỗi diễn ngôn khẩu hiệu
đều có những đặc trưng riêng, do các điều kiện văn hóa, xã hội quy định.
(5) Số lượng yếu tố tạo mạch lạc văn bản và liên kết chủ đề, cũng như số
lượng diễn ngôn khẩu hiệu của từng thứ tiếng đưa nội dung thông tin phản ánh chủ
đề khẩu hiệu vào phần đề ngữ của diễn ngôn đơn hay vào câu đề của diễn ngôn
phức để tạo sự thu hút của người đọc.
4. Kết quả phân tích diễn ngôn KH CT-XH đã cho phép chúng tôi đi đến kết
luận về vai trò của ngôn ngữ trong đời sống vật chất và xã hội của con người. Diễn
ngôn không những là một tập quán xã hội mà còn là sự thể hiện các mặt của xã hội
đó, của nền văn hóa gắn liền với xã hội đó. Sự quan hệ hỗ tương giữa chức năng
của ngôn ngữ trong mối tương tác với xã hội với sự tác động trở lại của ngôn ngữ
lên các mối quan hệ này đã chứng tỏ rằng ngôn ngữ không thể tách rời và là một bộ
phận của thực tại xã hội, cũng như các tập quán xã hội ngày càng có xu hướng dựa
vào ngôn ngữ. Nhờ vào phân tích diễn ngôn phê phán (là hệ phương pháp có khả
năng giúp bộc lộ các mối quan hệ biện chứng giữa ngôn ngữ và xã hội) mà các đặc
điểm ngôn ngữ và các nét đặc trưng của diễn ngôn khẩu hiệu chính trị - xã hội tiếng
Anh và tiếng Việt đã được làm rõ trên các phương diện kinh nghiệm, liên nhân và tạo
văn bản. Qua đó, nét đặc trưng cơ bản nhất của diễn ngôn đã được minh chứng rõ
ràng: “ngôn ngữ không chỉ thể hiện quyền lực xã hội, mà còn là công cụ thực thi
quyền lực”.
147
Đề nghị
Từ kết quả nghiên cứu trên đây, một số hàm ý và đề xuất có thể rút ra là:
1. Công tác xác định các chủ đề cần thiết của KH CT-XH và người phát ngôn
là cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa đối với việc duy trì mục đích giao tiếp của khẩu
hiệu. Cho nên ở mỗi đợt vận động, các cơ quan quyền lực, các tổ chức hay cá nhân
có chức năng ban hành khẩu hiệu cần nghiên cứu kỹ các chủ đề cần vận động và
xác định người phát ngôn rõ ràng. Bởi vì việc xác định này sẽ giúp cho việc hoạch
định chiến lược ngôn ngữ sau đó với các yếu tố định hướng của tư tưởng, thái độ,
các điều kiện chính trị xã hội liên quan.
2. Người thiết kế KH CT-XH cần khéo léo thể hiện tư tưởng, thái độ của
mình để đạt các mục tiêu giao tiếp thông qua việc lựa chọn từ ngữ trong khẩu hiệu.
Các nguyên tắc cần nắm là:
- Dùng từ ngữ đồng nghĩa/ trái nghĩa trong cùng một chủ đề để làm nổi bật
tính tư tưởng. Đặc biệt dùng lặp lại các từ ngữ trong trường từ vựng thuộc mỗi chủ
đề để càng có cơ hội thiết lập sự hiểu biết về vấn đề cần thuyết phục, giáo dục trong
KH CT-XH. Việc dùng nhiều từ đồng nghĩa và gần nghĩa sẽ giúp thiết lập sự nhấn
mạnh về chủ đề và làm tăng giá trị giáo dục, thuyết phục.
- Lựa chọn các từ ngữ có tính đại diện cao cho các giá trị kinh nghiệm, phản
ánh thế giới thực tại ở mỗi thời điểm sống dựa trên cơ sở kết quả khảo sát các hoàn
cảnh thực tế của đời sống chính trị - xã hội. Những chính sách, chủ trương mới cần
được đưa vào khẩu hiệu tuyên truyền vận động với những khái niệm liên quan
thông qua cách dùng từ ngữ phản ánh giá trị kinh nghiệm
- Để duy trì mối quan hệ xã hội giữa các thành viên tham gia giao tiếp, KH
CT-XH cần được khéo léo lồng ghép các giá trị liên nhân. Phương thức có thể khác
nhau giữa các ngôn ngữ nhưng cần lưu ý đến yếu tố thiết lập quan hệ giữa các bên
tham gia giao tiếp là một yếu tố mang tính văn hóa-xã hội cao. Một số giá trị văn
hóa của ngôn ngữ này có thể không phù hợp hoặc phản tác dụng khi áp dụng vào
nền văn hóa của ngôn ngữ khác nên cần cẩn trọng lựa chọn những giá trị liên nhân
trong văn hóa giao tiếp của mỗi nền văn hóa để áp dụng vào sử dụng từ ngữ.
148
- Cuối cùng để nâng cao giá trị thuyết phục của khẩu hiệu, từ ngữ biểu cảm
cũng cần được chú ý sử dụng trong KH CT-XH. Khi biên soạn khẩu hiệu, người
viết cần lưu ý các hình thức dùng từ có giá trị biểu cảm nhằm mục đích thuyết phục
cao như dùng từ trái nghĩa để thể hiện hệ tư tưởng trái ngược hoặc các biện pháp
chơi chữ… Những biện pháp này một mặt dễ thu hút người nghe/ người đọc khi
mới tiếp cận, và về lâu về dài càng có tình thuyết phục vì chúng làm cho họ nhớ lâu
các khẩu hiệu cần tuyên truyền.
- Sử dụng những biện pháp ẩn dụ trong diễn ngôn thuộc về tài năng của người
phát ngôn. Trong các diễn ngôn có tính chính trị - xã hội như bài phát biểu, diễn
ngôn tin, diễn ngôn khẩu hiệu, người phát ngôn cần chú ý khéo léo sử dụng các biện
pháp ẩn dụ tư tưởng và ẩn dụ liên nhân để thể hiện được chính kiến và hệ tư tưởng
của mình. Cách so sánh ví von thường có giá trị rất lớn khi chúng ta muốn đề cao
mặt tốt hay phê bình, “ám chỉ” mặt chưa tốt của vấn đề. Chính vì thế, trong các
khẩu hiệu có tính phê bình các hành vi chưa tốt, chưa phù hợp với các chuẩn mực
đạo đức trong xã hội, người phát ngôn cần phát huy dùng nhiều từ ngữ ẩn dụ.
3. Để đạt được các giá trị vận động và thuyết phục cao trong KH CT-XH,
người biên soạn khẩu hiệu cần chú ý sử dụng các cấu trúc ngữ pháp phù hợp để đạt
được mục tiêu. Một số gợi ý cần thiết về sử dụng cấu trúc ngữ pháp là:
Như nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét, thế giới xung quanh chúng ta là thế
giới của vật chất và các mối quan hệ. Trường hợp nghiên cứu của KH CT-XH cũng
đã minh chứng điều đó. Các kiểu quá trình được sử dụng trong khẩu hiệu để mô tả
thế giới kinh nghiệm của các tham thể cũng chủ yếu là vật chất và quan hệ. Các nhà
biên soạn và thiết kế khẩu hiệu cần tập trung mô tả thế giới kinh nghiệm của mình
bằng các quá trình này. Thông qua sử dụng hai kiểu quá trình chủ yếu này, các giá
trị kinh nghiệm của thế giới vật chất (và cũng chính là hệ tư tưởng) cũng như các
quan hệ giữa các tham thể sẽ được chuyển tải vào bên trong diễn ngôn. Đối với diễn
ngôn chính trị xã hội như khẩu hiệu, vấn đề thể hiện hệ tư tưởng là cực kì quan
trọng. Cho nên các kiểu quá trình cần được cân nhắc để đạt hiệu quả tối ưu trong
giáo dục tư tưởng và tuyên truyền vận động. Ngoài ra, việc chứng minh rằng quan
điểm của M.A.K Halliday về các kiểu quá trình trong quan hệ chuyển tác có thể
149
chưa hoàn toàn trùng khớp với trường hợp khảo sát giá trị kinh nghiệm các hiện
tượng ngữ pháp trong khẩu hiệu CT-XH cũng được hy vọng đóng góp một phần
nhỏ về mặt thực tiễn hóa các lý luận liên quan đến lý thuyết Ngữ pháp chức năng hệ
thống. Theo đó, không phải lúc nào thì ba quá trình tinh thần, vật chất và quan hệ
cũng đóng vai trò là ba quá trình chủ yếu. Quá trình tinh thần có vẻ không phù hợp
trong trường hợp các phát ngôn khẩu hiệu là các phát ngôn của công chúng, đại diện
cho tập thể phát ngôn, nên việc thể hiện chính kiến cá nhân như kiểu quá trình tinh
thần là không phù hợp. Và đây cũng chính là một trong những vấn đề cần cân nhắc
của người biên soạn hay phát ngôn khẩu hiệu.
- Để đạt được giá trị quan hệ cho việc sử dụng các cấu trúc ngữ pháp, cần thiết
phải chú ý đến việc lựa chọn kiểu phát ngôn trong KH CT-XH. Với hai nhiệm vụ
chủ yếu của khẩu hiệu là giáo dục và thuyết phục, tùy vào từng mục tiêu cụ thể của
từng đợt vận động mà những nhà tuyên truyền cần chú ý lựa chọn kiểu phát ngôn
phù hợp: câu cầu khiến hay câu trần thuật. Thông thường câu cầu khiến có tác dụng
vận động thuyết phục nhiều hơn; trong khi câu trần thuật lại có tác dụng giáo dục
hay khuyến cáo. Ngoài ra nên lựa chọn một số kiểu câu hỏi tu từ để nâng giá trị
thuyết phục của phát ngôn nhưng cần quan tâm đến yếu tố văn hóa của mỗi ngôn
ngữ. Trong trường hợp KHTV, cần lưu ý một số câu hỏi sẽ có thể gây hiểu lầm
hoặc có tác dụng ngược nên cần hết sức thận trọng. Cách sử dụng đại từ chúng tôi-
các bạn trong diễn ngôn khẩu hiệu cũng là một cách để kết nối giữa người phát
ngôn và người tiếp nhận. Khi kêu gọi và vận động, những khẩu hiệu có chứa từ các
bạn nhằm giúp thể hiện sự đánh giá tích cực, tôn trọng hay đề cao người nghe, và
qua đó càng làm tốt đẹp hơn mối quan hệ giữa các bên tham gia giao tiếp, giúp cho
khẩu hiệu đạt được trọn vẹn mục đích tuyên truyền vận động. Cần chú ý dùng các
đại từ này đúng chỗ, đúng lúc để tăng tính thuyết phục của khẩu hiệu.
- Ngoài ra, tùy thuộc vào đặc trưng văn hóa-xã hội của từng ngôn ngữ mà khẩu
hiệu có thể phát huy tối đa tính thuyết phục của các hiện tượng ngữ pháp thông qua
tình thái biểu cảm hay một số chức năng khác của ngôn ngữ như chức năng thơ (văn
vần), hoặc thậm chí là cả công thức toán học như trong trường hợp KH CT-XH
150
tiếng Anh. Sự vận dụng này còn tùy thuộc vào điều kiện văn hóa-xã hội của mỗi
quốc gia mới quyết định được mức độ chấp nhận của người dân ở đó.
- Dùng nhiều phép đối song song hay cấu trúc biền ngẫu trong KH CT-XH
cũng là một đề nghị khác bởi đây là lối nói giản tiện nhưng dễ nghe, dễ nhớ, và từ
đó dễ thực hiện, dễ đạt được hiệu quả thuyết phục một cách tối ưu.
4. Cấu trúc diễn ngôn KH CT-XH không cần quá “cồng kềnh” với độ dài văn
bản lớn, nhưng nhất thiết cần có ý đồ phát ngôn trong việc quyết định nêu tiêu điểm
thông tin trong phần đề hay phần thuyết của diễn ngôn đơn, và tiêu điểm thông tin
trong câu đề hay câu thuyết của diễn ngôn phức. Căn cứ vào các điều kiện chính trị,
xã hội, thói quen và sự mong đợi của người đọc/ người nghe, vào văn hóa của mỗi
ngôn ngữ, lối nói trực tiếp hay gián tiếp mà lựa chọn nhiều kiểu cấu trúc diễn ngôn
phù hợp để dễ dàng tạo hiệu ứng hay sự đồng cảm, tiếp nhận nơi người dân. Việc
nêu tiêu điểm thông tin trong phần đề ngữ hay câu đề trong diễn ngôn khẩu hiệu
được đề xuất nên sử dụng với tần suất cao hơn so với hướng ngược lại, bởi chức
năng chủ yếu của thể loại diễn ngôn này là giáo dục và thuyết phục chứ không phải
là chức năng văn học hay thi ca. Hình thức trực tiếp này là hoàn toàn có lợi trong
việc gây sự chú ý của đối tượng được thuyết phục vận động trong điều kiện cần có
sự ngắn gọn của diễn ngôn KH CT-XH.
Ngoài ra, ở mỗi đợt vận động hoặc trên từng chủ đề cụ thể, cần có sự liên kết
chủ đề bằng các từ ngữ hay cấu trúc ngữ pháp tương quan, giống nhau, lặp lại… để
tạo nên một thể thống nhất trong một loạt các khẩu hiệu cùng chủ đề. Cách làm này
sẽ tạo hiệu quả là làm cho người nghe, người đọc dễ nắm bắt và nhớ lâu thông điệp
thông qua một loạt khẩu hiệu cùng chủ đề.