mẤy cẢm nghiỆm vỀ bÌnh ca -...
TRANSCRIPT
MẤY CẢM NGHIỆM VỀ BÌNH CA KHI SÁNG TÁC THÁNH CA
Lm. Kim Long
Vâng lời Đức Cha Chủ Tịch, tuy đã được nghỉ hưu
nhưng vẫn tha thiết với Thánh Nhạc, tôi xin mạo muội nói đôi
lời về Bình ca, một gia tài vô giá của Hội Thánh mà bản thân
tôi đã dành phần lớn thời giờ để nghiên cứu, học hỏi, thể hiện
và giảng dạy. Trong giới hạn 60 phút của một buổi thuyết trình,
tôi không có cao vọng trình bày những nét Thẩm Mỹ, những
qui luật, những cấu trúc... của một bộ môn được hình thành với
bề dày lịch sử thật đáng tôn trọng, mà chỉ xin ghi lại đôi cảm
nghiệm cá nhân khi sáng tác Thánh ca.
I. Bình ca trong lịch sử Thánh Nhạc. Trong thông điệp KỶ LUẬT THÁNH NHẠC, Đức Piô
XII ghi nhận bài ca chiến thắng mà Môsen và dân Do Thái tấu
vang để ca tụng Chúa sau khi vượt qua Biển Đỏ (Xh 15, 1-20) như là khởi điểm của dòng lịch sử Thánh Nhạc... Qua thời
hoàng kim dưới triều Vua Đavid và Vua Salômôn, những qui
định về phẩm trật và những bài ca, những cung cách phải giữ
khi cử hành các nghi lễ tại đền thờ... Ngay cả đến thời Chúa
Giêsu, khi Ngài hát Thánh vịnh với các môn đệ (Mt 26,30) hay
khi các tín hữu thời Hội Thánh sơ khai cùng nhau hát Thánh
Vịnh và tham dự nghi lễ Bẻ Bánh... (Cf.Cv 2,42) Không ai và
không tài liệu nào xác định được đó là những giai điệu Bình
Ca... Cả những Bài Thánh Vịnh, Thánh Thi và Thánh ca do
Thần Khí linh hứng được Thánh Phaolô nhắc tới trong thư gởi
tín hữu Ephêsô (Ep 5,19) cũng không thể xác định đã được hát
với thể nhạc nào. Khi Hội Thánh được lan rộng, việc sử dụng
âm nhạc trong Phụng Vụ mang tính tự phát tùy không gian và thời gian nên không tránh khỏi những sai sót. Nên Thánh
Giustinô đã phải nhắc nhở: Nhạc có mục đích hoàn thiện và
làm đẹp thêm những phẩm hạnh của con người, nhưng phải
2
loại bỏ những thứ nhạc quá phù phiếm làm hại tâm hồn và
khơi dậy những tình cảm bi ai, dâm đãng đem tới những khát
vọng bất chính (Stromata, lib.VI, chap.XI)... Phải đợi tới khi
Đức Grêgôriô Cả (lên ngôi Giáo Hoàng năm 590) ban hành
một ANTIPHONAIRE, tuyển tập những bài Thánh ca mà toàn
thể Hội Thánh phải sử dụng khi cử hành Phụng Vụ, và lập một
SCHOLA CANTORUM tại Rôma để dạy hát cho đúng những
bài hát này... nhờ những đặc tính mà loại nhạc này thể hiện...
danh xưng BÌNH CA mới chính thức được sử dụng... Với
thành quả mỹ mãn mà loại nhạc này đem lại trong Hội Thánh
qua hơn mười thế kỷ, để tôn vinh Vị Khai Sinh, loại nhạc này
còn được gọi là CA ĐIỆU GRÊGÔRIÔ.
Như vậy, khởi điểm của Bình Ca không có cùng lằn mức
với Thánh Nhạc. Đàng khác, cùng thời với Bình Ca, nhiều loại
nhạc khác cũng được sử dụng trong Phụng Vụ, như ở Milanô,
ca điệu Ambrôsiô (tên vị Hồng Y Giáo Chủ và sau là một vị
Thánh) cũng rất thịnh hành. Ca điệu này chú ý nhiều đến sự
thay đổi tiết tấu và tạo những dòng ca cân đối nhau.
II. Danh xưng BÌNH CA Danh xưng này được phổ cập do chính âm hưởng mà
những giai điệu của loại nhạc này đem lại. Những thanh âm tạo thành giai điệu mang những đặc tính:
1. Trường độ: Tuy dùng những hình thức nốt nhạc khác nhau và thay đổi tên gọi (như: vuông , quả trám , cán ) tùy theo vị trí biệt lập hoặc trong hội dấu, nhưng luôn có cùng giá trị về trường độ và được qui ước tương đương với một dấu móc () trong Tân nhạc. Giá trị đó được mệnh danh là PHÁCH CƠ
BẢN, nhờ đó giai điệu không chỗ nào kéo dài lê thê, cũng
không chỗ nào chạy nhanh vội vã ! Tưởng cũng cần lưu ý: do qui định này mà khi đệm đàn
bài bình ca không bao giờ được trải dấu hay lướt phím với
3
những nốt nhỏ hơn nốt móc... Làm như vậy sẽ hủy diệt đặc tính của Bình Ca.
2. Cao độ: Giai điệu bài Bình Ca luôn hình thành với
những chuyển động nhỏ, chính yếu là chuyển động liền (quãng
2 Trưởng hoặc Thứ). Đôi khi vì nhu cầu diễn ý, phải sử dụng một quãng lớn thì sẽ tiếp tục ngay với chuyển động liền. Thí dụ 1:
Bình ca không sử dụng những quãng lớn (quãng 6,7,8...),
những quãng khó hát (quãng Tăng, Giảm), cũng không dùng
chuyển động nửa cung đồng (do-do#) 3. Cường độ: Giai điệu luôn diễn tiến cách nhịp nhàng
với chuyển động được xếp đặt tốt giữa phách khởi và phách tới. Phách tới được ghi rõ bằng ICTUS hoặc được hiểu ngầm qua các qui định (như: nốt đen, nốt đứng đầu Hội dấu, nốt thứ
ba trong Hội dấu 4 nối hoặc trong nhóm 4 nốt mà nốt thứ nhất
đã mang Ictus). Trong Bình Ca không bao giờ có đảo phách hay nghịch
phách. Để biểu hiện rõ điều này, khi đệm đàn bài Bình Ca, chỉ
được đổi hợp âm ở những nốt là phách tới (có mang ictus, ghi
rõ hoặc hiểu ngầm)
4
III. Những đặc điểm của BÌNH CA: Chỉ xin nêu 3 đặc điểm
chính: 1. Về GIAI ĐIỆU: Giai điệu bài Bình ca được hình
thành theo Bản văn: với 2 yếu tố:
a) Dấu nhấn: Dấu nhấn trong bản văn luôn cần nhấn
mạnh nên luôn trùng với phách tới (nốt có mang ictus), trừ khi
là những chữ phụ cần hy sinh để chữ chính trổi vượt:
Tưởng cũng cần ghi nhận: khi sáng tác theo bản văn tiếng
Việt, khi gặp những từ Kép, cố gắng để chữ sau trùng với
phách tới:
(Những câu nhạc trên chỉ có thể diễn đúng theo Tiết tấu lớn của
toàn câu)
Trong bản văn tiếng Việt, dấu bình-trắc không lệ thuộc
cường độ, nhưng lệ thuộc cao độ. Thường phân định:
Âm cao: cho những chữ mang dấu sắc, dấu ngã.
Âm trung: cho những chữ không mang dấu.
Âm thấp: cho những chữ mang dấu nặng, dấu huyền,
dấu hỏi.
5
Nhưng để phát âm chính xác, những chữ mang dấu ngã, dấu
hỏi cần một nốt láy.
b) Ý nghĩa toàn câu: luôn đặt đỉnh giai điệu ở chữ quan
trọng nhất của câu (thường bằng cách đưa giai điệu lên dần rồi
xuống dần)
Áp dụng đặc điểm này, khi sáng tác, nhất là khi chuyển
hành theo mô thức (tiến hành) lên hoặc xuống dần, cần xác
định cụm từ quan trọng để đặt làm đỉnh cho dòng ca. (sẽ diễn
giải rõ hơn khi đề cập tới Tiết tấu)
2. Về TIẾT TẤU: Cần phân biệt:
a) Tiết tấu CƠ BẢN: với những phách cơ bản, khi ta liên
kết 2 phách cơ bản với nhau thành một chuyển động có Khởi,
có Tới (xác định bằng cách ghi Ictus), ta có tiết tấu cơ bản:
Khởi Tới
Tuy không dùng nốt nào có giá trị nhỏ hơn nốt móc,
nhưng bình ca lại dùng một dạng nốt có giá trị gấp đôi (tương
đương với một nốt Đen trong tân nhạc) dưới dạng:
Distropha Punctum
Nốt này chỉ được đặt ở điểm tới của chuyển động; do đó
ta có 2 dạng tiết tấu cơ bản:
(nhị phân: gồm 2 phách) (tam phân: gồm 3 phách)
Khi sáng tác, được tự do dùng chen kẽ 2 loại trên, tùy ý,
nên thường gọi tiết tấu Bình ca là TIẾT TẤU TỰ DO.
6
Trong Tân nhạc, người ta dùng một loại cho mỗi bài, nên
nếu phân ra, các phần sẽ bằng nhau, nên dùng vạch nhịp để
phân thành những ô nhịp: đó là tiết tấu phân nhịp, trong khi
Bình ca là TIẾT TẤU KHÔNG PHÂN NHỊP.
Vì thế, không có việc ĐÁNH NHỊP cho bài Bình ca.
Khi đề cao đặc tính thâm trầm và trang trọng của Tiết tấu
Bình ca, chúng tôi không phê phán hay loại bỏ sự đổi thay đa
dạng tiết tấu của những loại nhạc mới, nhưng chỉ muốn nhắc
nhở: phải tùy giai đoạn và tác động của Cử hành Phụng vụ mà
chọn bài hát cho thích hợp. Tiết tấu của những Bài Ca Suy
niệm không thể cùng tiết tấu với những lời tung hô hay Đối ca hòa nhịp các cuộc rước....
Xin đan cử thí dụ:
b) Tiết tấu lớn: như đã nói trên, giai điệu bài Bình ca
được hình thành theo ý nghĩa bản văn, biểu hiện rõ vai trò của
từng chữ trong câu.
7
Để thực hiện sự liên kết này, người ta dùng một đơn vị
lớn hơn gọi là PHÁCH TIẾT TẤU (tính từ Ictus này tới Ictus
kia).
Tiết tấu cơ bản: →
Phách tiết tấu: →
Như vậy, phách tiết tấu không trùng với Tiết tấu Cơ bản
và không bằng nhau về giá trị. Việc xác định những tiết tấu là
KHỞI hay là TỚI lệ thuộc vào nhu cầu diễn nghĩa bản văn theo
chiều LÊN hay XUỐNG của giai điệu.
Xin đan cử một thí dụ:
Tiết tấu lớn được phát triển để áp dụng cho:
- Tiết nhạc (incise) - Chi câu (membre)
- Toàn câu (phrase)
Sau đây là thí dụ cụ thể (trích trong Paroissien Romain)
8
Tưởng cũng cần lưu ý: Các vạch đứng trong bài bình ca
không phải là vạch phân nhịp mà là VẠCH PHÂN CÂU.
Người ta dùng:
Vạch TRỌN: (vạch suốt khuông nhạc) để phân bài
hát thành những câu (cũng dùng vạch kép cho câu
cuối cùng, hoặc câu cuối Đoạn hay khi cần thay đổi
bè hát đối đáp)
Vạch PHÂN NỬA (vạch giữa khuông nhạc) phân câu thành những phần câu.
Vạch MỘT PHẦN TƯ (vạch ở 2 dòng phía trên của
khuông nhạc) để phân phần câu thành những tiết nhạc
khi cần.
Căn cứ vào các vạch trên, ta định phách tiết tấu nào là
KHỞI hay là TỚI, theo nguyên tắc:
Phách tiết tấu đầu tiên (của câu, của phần câu, của tiết
nhạc) luôn là KHỞI.
Phách tiết tấu kế tiếp sẽ là
o KHỞI: nếu cao hơn phách tiết tấu trước
o TỚI: nếu thấp hơn phách tiết tấu trước.
o (Nếu nốt đầu bằng nhau, sẽ so sánh những nốt
sau đó)
Như vậy, khi hát bài Bình ca, phải diễn mạnh-nhẹ theo
Tiết tấu LỚN này....
Việc dùng tay để giúp ca đoàn hát cho đúng tiết tấu LỚN
gọi là PHÁC HỌA TIẾT TẤU (Chironomie).
9
3. Về ÂM THỂ:
Khác với Tân Nhạc là loại nhạc chỉ dùng 2 thể Trưởng và
thứ cho thang âm và di chuyển trên các cung khác nhau. Trong
Bình ca, người ta sử dụng 4 nốt khác nhau, lần lượt làm chủ âm
RE - MI - FA – SOL và tạo ra 4 kiểu của thang âm khác nhau
cũng gọi là 4 thể:
- Thể RE: Protus.
- Thể MI: Deuterus.
- Thể FA: Tritus.
- Thể SOL: Tetrardus.
Như vậy, thay đổi nốt chủ âm, ta thay đổi luôn thể của
thang âm. Do đó, nhạc Bình Ca được xếp vào loại nhạc thuộc
Thể (Modalité). Tuy nhiên, mỗi bài Bình ca thường được hình
thành trong một âm vực giới hạn. Âm vực này có thể thấp hơn
hoặc cao hơn chủ âm. Đàng khác, theo âm vực đó, dòng ca ở
mỗi thể dùng 1 trong 2 Thống âm (Dominante) làm Nốt chính
để đọc Thánh Vịnh, cũng như làm nốt cho dòng ca dựa vào để
diễn tiến. Do đó, mỗi thể (căn cứ vào âm vực và thống âm) được phân thành 2:
Thể Chính điệu (authentique): âm vực thường là
khoảng quãng 8 trên Chủ âm với thống âm là nốt bậc V.
Thể Bình điệu (Plagal): âm vực thường là quãng 8 với
một nửa nằm dưới và một nửa nằm trên Chủ âm; thống
âm là nốt bậc III (FA ở Thể RE) hoặc bậc IV (SOL ở
Thể MI)
10
Thể Chính điệu và Bình điệu luôn sử dụng chung một
quãng 5 tính từ Chủ Âm lên, do đó, một bài hát, thường có sự
chuyển tiếp giữa 2 thể.
Người ta dùng số từ 1 đến 8 để lần lượt ghi 8 thể trên
đây, khởi từ thể RE... Cũng có thể ghi bằng 2 chữ xác định chủ
âm, thống âm: Re-La, Re-Fa ....
11
Trong khuôn khổ bài thuyết trình, chỉ xin lưu ý một vài điểm:
Hai thể RE và MI với nốt bậc III tạo quãng 3 thứ nên
cho ta cảm giác gần với thể THỨ của Tân nhạc, nhưng:
o Cả hai thể đều không có cảm âm (nốt bậc VII
cách Chủ âm một cung)
o Ở thể RE, hợp âm bậc V là hợp âm thứ (không
có DO#)
o Nốt SI được tự do dùng khi Bình, khi Giáng
theo nhu cầu của giai điệu mà thường không
tạo Chuyển Biến.
Thể FA rất gần với cung FA Trưởng của Tân nhạc,
nhất là khi giai điệu dùng Sib
Thể SOL với nốt bậc III tạo quãng 3 Trưởng nên thấy
gần gũi với cung SOL Trưởng của Tân nhạc, nhưng
điểm nổi bật là không có cảm âm.
Hy vọng ghi lại một vài cảm nghiệm
trên đây gợi nhớ đôi nét đặc trưng của
Bình ca hầu tạo sự tôn trọng một kho
tàng vô giá của Hội Thánh.
TIẾT TẤU BÌNH CA .
Lm. Kim Long
I. KHÁI NIỆM VỀ TIẾT TẤU: Những đơn tố tạo thành một tác phẩm nghệ thuật không
đứng biệt lập, nó phải liên kết hài hòa với các đơn tố khác – ít nhất là với các đơn tố liền kề - để tạo thành một tổng thể duy nhất. Sự liên kết đó được mệnh danh là TIẾT TẤU của tác phẩm.
1. Tiết tấu TĨNH: là tiết tấu trải ra trong không gian, cố định, từ điểm này tới điểm kia… mà chỉ người có khả năng
chuyên môn mới phân tích và nhận ra. Loại tiết tấu này gặp thấy trong các tác phẩm HỘI HỌA, ĐIÊU KHẮC và KIẾN TRÚC.
2. Tiết tấu ĐỘNG: diễn tiến qua thời gian – trước-sau – chỉ có thể nhận ra khi được trình tấu. Loại tiết tấu này gặp thấy trong:
a) VŨ ĐIỆU: bước trước-bước sau; quay phải-quay trái; tung lên-rớt xuống… buộc vũ công phải tập luyện nhuần nhuyễn để thể hiện qua những CÔNG THỨC TIẾT TẤU hay những ĐIỆU được các nhạc cụ gõ thể hiện đều đặn.
b) THI CA: rảo mắt trên một bài thơ, ta thấy những chữ nối tiếp nhau, nhưng khi đọc lên, ta sẽ thấy những chữ đó được liên kết với nhau theo từng thể loại thơ
và tùy ý tác giả. Thông thường tiết tấu của:
- thơ Lục bát là: 2/ 2/ 2: Trăm năm/ trong cõi/ người ta….
13
- thơ Song thất lục bát (ở 2 câu 7 chữ) là: 3/ 2/ 2: Trống Tràng thành/ lung lay/ bóng nguyệt…
- thơ Thất ngôn bát cú là: 2/ 2/ 3: Bước tới/ đèo
Ngang/ bóng xế tà….
Cũng có thể có những tiết tấu lớn hơn giữa nhiều chữ với nhau.
c) ÂM NHẠC: diễn tiến từ nốt nọ qua nốt kia trong âm nhạc được gọi là chuyển động. Với chuyển động đó ta ghi nhận hai định nghĩa thời danh sau đây:
- Le rythme est l’art des mouvements bien ordonnés. St. Augustin (tiết tấu là nghệ thuật của những chuyển động được xếp đặt tốt) - Le rythme est l’ordonnance du mouvement. Platon (Tiết tấu là sự xếp đặt của chuyển động)
Một chuyển động được xếp đặt hay phối trí đúng và tốt luôn theo thứ tự : KHỞI-TỚI; LÊN-XUỐNG; ĐỘNG-TĨNH…
Sự xếp đặt do nhạc sĩ sáng tác đặt cho tác phẩm của mình.
Thí dụ: 5 nốt nhạc sau đây tạo ra một giai điệu:
Nhưng tác giả có thể tạo thành những tiết tấu rất khác biệt:
14
Trong các loại nhạc thịnh hành – xin gọi chung là TÂN NHẠC – nếu coi PHÁCH là đơn vị thì sự liên kết giữa hai phách trong tương quan: một khởi-một tới tạo ra tiết tấu cơ bản: tiết tấu đó
có thể gồm 2 phách hay 3 phách:
Tưởng cũng cần lưu ý: Trong Tân nhạc ta được tự do chọn giá trị phách (khác với Bình ca sẽ nói dưới đây) và được chia nhỏ phách tùy ý… nên người ta phải dùng SỐ BIỂU THỊ NHỊP ghi
15
ở đầu bài nhạc để xác định. Đồng thời, với sự phát triển của nhạc hợp xướng và phối khí… người ta quy định chỉ dùng một loại tiết tấu cho mỗi bài hoặc mỗi đoạn… nên bài nhạc được chia thành những phần bằng nhau, người ta dùng vạch nhịp để thực hiện việc này, nên tiết tấu Tân nhạc được gọi là TIẾT TẤU PHÂN NHỊP… và như vậy, phách đầu của mỗi ô nhịp luôn là PHÁCH TỚI đối với tiết tấu cơ bản.
II. TIẾT TẤU BÌNH CA 1. Tiết tấu cơ bản: Khác với Tân nhạc, Bình ca sử dụng
nhiều hình nốt khác nhau như: vuông , cán , trám , rung
… Tuy cách diễn tả có đôi chút khác biệt nhưng luôn được xác
định giá trị (về trường độ) tương đương với một nốt móc: . Và
vì không dùng nốt nào nhỏ hơn nên những nốt đó được gọi là PHÁCH CƠ BẢN.
Liên kết 2 phách cơ bản trong tương quan: một khởi-một tới, ta có TIẾT TẤU CƠ BẢN (người ta dùng ictus để ghi nốt vào phách tới).
Tuy không dùng nốt nào nhỏ hơn phách cơ bản, nhưng
Bình ca dùng nốt có giá trị gấp đôi dưới hai dạng:
Distropha (2 vuông) Punctum (có chấm)
2 dạng nốt này chỉ được đặt ở phần tới của tiết tấu cơ bản nên hiểu ngầm là chúng luôn mang ictus. Do đó, ta có 2 dạng tiết tấu cơ bản:
16
2. Hội dấu: Những nốt nói trên thường được dùng thành
từng nhóm trong giai điệu, mỗi nhóm đó gọi là một HỘI DẤU
(Cha Hoài Đức gọi là một BIỂU HÌNH)
Theo qui định, trừ hội dấu SALICUS, khi ghi thành
những nốt theo tân nhạc, các nốt thuộc về một hội dấu luôn ghi
liên kết với nhau bằng vạch ngang và nốt đầu tiên (cả nốt thứ 3
trong hội dấu 4 nốt) của mỗi hội dấu luôn mang ictus.
17
3. Tiết tấu tự do: như đã nói ở trên, Bình ca dùng 2 loại
tiết tấu cơ bản: loại gồm 2 phách và loại gồm 3 phách, và khi
sáng tác, được sử dụng loại nào ở chỗ nào tùy ý nên tiết tấu bài
Bình ca được gọi là TIẾT TẤU TỰ DO hay tiết tấu KHÔNG
PHÂN NHỊP (vì nếu phân ra, các phần không bằng nhau)
4. Tiết tấu LỚN: Bình ca hình thành giai điệu dựa trên ý nghĩa
bản văn và tạo một tổng thể cho toàn bài, toàn câu nghĩa là tạo ra một sự liên kết, một tiết tấu lớn vượt trên tiết tấu cơ bản. Để dễ hiểu, cần chú ý:
a) Vạch phân câu: Để phối trí cách phân câu, Bình ca dùng 3 loại vạch, cách ngang khuông nhạc (xin nhớ: đây
không phải là vạch nhịp):
- Vạch trọn: cắt suốt khuông nhạc; để phân bài nhạc thành những câu.
- Vạch phân nửa: cắt 1⁄2 khuông nhạc: để phân câu thành những phần câu.
- Vạch phần tư: cắt 1⁄4 khuông nhạc: để phân câu thành những tiết nhạc.
Cũng dùng vạch ĐÔI cho câu cuối bài, cuối đoạn hoặc để thay đổi bè khi hát.
Tưởng cũng cần ghi chú: Khi hình thành với GUIDO d’AREZZO, khuông nhạc 4 dòng của Bình ca
18
được đánh thứ tự từ trên xuống dưới (khác với tân nhạc) nên vẫn gọi khóa DO ghi trên dòng trên cùng là DO 1…
b) Phách tiết tấu: để tạo tiết tấu lớn, người ta dùng một đơn vị gọi là PHÁCH TIẾT TẤU, phách này được quy định từ ictus nọ tới ictus kia. Như vậy phách tiết tấu không trùng với tiết tấu cơ bản và có giá trị không bằng nhau (gồm 2 hoặc 3 phách cơ bản)
Tiết tấu cơ bản: Phách tiết tấu:
Như vậy, để xác định Phách tiết tấu, ta phải căn cứ vào ictus (xin nhắc lại: ictus nằm ở những nốt có ghi sẵn, hiểu
ngầm ở những nốt ĐEN, những nốt đứng đầu một Hội dấu
và những nốt thứ 3 của Hội dấu 4 nốt, và của nhóm 4 nốt
liền kề mà nốt thứ nhất có mang ictus.)
c) Xác định Phách tiết tấu KHỞI hoặc TỚI: ta căn cứ qui định sau đây:
- Phách tiết tấu ĐẦU TIÊN (phách đủ khởi từ nốt có
ictus) của câu, phần câu, tiết nhạc: luôn là phách KHỞI.
- Phách KẾ TIẾP, nếu: + cao hơn phách trước: tiếp tục là phách KHỞI +bằng phách trước, xét tiếp phần sau của phách,
nếu vẫn bằng nhau, xét ý nghĩa của bản văn + thấp hơn phách trước: sẽ là phách TỚI
- Phách CHÓT của câu, phần câu, tiết nhạc: luôn là phách TỚI
Để tạo tiết tấu lớn, người ta có thể: Đặt 2 phách tiết tấu cạnh nhau để là một khởi, một là tới: α θ α θ
19
Rút gọn hay kết hợp nhiều phách tiết tấu với nhau (vì
trong một chuyển động dài, bước thứ hai là TỚI với
phách trước nhưng có thể là KHỞI với bước sau) α α θ θ α θ θ θ
Như vậy có thể có những phách KHỞI liên tiếp và những phách TỚI liên tiếp tùy theo nhu cầu tạo giai điệu để diễn trọn ý nghĩa của bản văn.
Xin ghi lại đây một thí dụ cụ thể (trích trong Paroissien
Romain)
d) Phác họa tiết tấu: Như đã nói ở trên, Bình ca không phân nhịp, nên không thể áp dụng ĐÁNH NHỊP của tân nhạc để điều khiển bài Bình ca, mà phải dùng tay phác họa diễn tiến của các phách tiết tấu liên tiếp tạo thành một tổng thể của toàn bài, bằng cách:
Dùng đường VÒNG CUNG cho phách tiết tấu KHỞI: bắt đầu từ nốt mang ictus vòng lên cho nốt sau. Khi có
20
những phách khởi liên tiếp, những đường vòng cung biểu thị phải cao dần lên và nghiêng về phía trái.
α α
α α α α
Dùng đường GỢN SÓNG cho phách tiết tấu TỚI, mà điểm trũng nhất dành cho nốt mang ictus. Khi có những phách TỚI liên tiếp nhau, những đường gợn sóng phải thấp dần và lần qua phía phải.
α θ θ θ θ
Thông thường, người ta phác họa 2 tay song song, nhưng vẫn có thể dùng tay phải để phụ diễn những chi tiết cần thiết.
Một môn học được giảng dạy và thực tập nhiều ngày,
nhiều giờ mà thu gọn trong một buổi thuyết trình, chắc chắn
không thể diễn giải đủ, nhưng hy vọng gợi lên một vấn đề cần
được lưu ý khi điều khiển bài Bình ca, thí dụ như BỘ LỄ
SERAPHIM…