luẬn Án tiẾn sĨ vĂn hỌc viỆt nam
TRANSCRIPT
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN VĂN TỔNG
ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT
TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
THẾ KỶ XX
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
HUẾ - 2019
i
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN VĂN TỔNG
ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT
TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
THẾ KỶ XX
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 62.22.01.21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. TÔN THẤT DỤNG
TS. HÀ NGỌC HÕA
HUẾ, 2019
ii
LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành cảm ơn TS. Tôn Thất Dụng và TS. Hà Ngọc Hòa - những
người Thầy đã tận tâm giúp đỡ, dẫn dắt tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Vô cùng biết ơn quý Thầy Cô khoa Ngữ văn trường Đại học Khoa học,
Đại học Huế và Viện Văn học đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ tôi trong học tập,
nghiên cứu.
Trân trọng cảm ơn Lãnh đạo trường Đại học Khoa học, Đại học Huế; Phòng
Đào tạo Sau đại học trường Đại học Khoa học Huế; Lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào
tạo Phú Yên; Lãnh đạo Trường THPT Nguyễn Trường Tộ đã động viên, tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian qua.
Xin cảm tạ cha mẹ, những người thân trong gia đình, đồng nghiệp, bạn bè…
đã chia sẻ cùng tôi suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài.
Nguyễn Văn Tổng
iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực, chưa từng được công bố trong
bất kỳ một công trình nào khác.
Nguyễn Văn Tổng
iv
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa ............................................................................................................... i
Lời cảm ơn .................................................................................................................. ii
Lời cam đoan ............................................................................................................ iii
Mục lục ....................................................................................................................... iv
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 4
4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 5
5. Đóng góp của luận án .......................................................................................... 5
6. Cấu trúc luận án ................................................................................................... 6
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ................................... 7
1.1. Những nghiên cứu về tự truyện trên thế giới được giới thiệu ở Việt Nam ...... 7
1.2. Những nghiên cứu về tự truyện và tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở
Việt Nam .......................................................................................................... 8
1.3. Nhận xét và đánh giá về các tác phẩm cụ thể ................................................. 16
1.3.1. Giai đoạn trước 1945 ................................................................................ 16
1.3.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975 ..................................................................... 20
1.3.3. Giai đoạn từ 1975 đến hết thế kỷ XX ....................................................... 24
1.4. Đánh giá về tình hình nghiên cứu và hướng triển khai đề tài ......................... 28
1.4.1. Đánh giá về tình hình nghiên cứu ............................................................ 28
1.4.2. Hướng triển khai đề tài ............................................................................. 29
CHƢƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ DIỆN MẠO TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH
CHẤT TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX ................. 31
2.1. Giới thuyết về thể loại .................................................................................... 31
2.1.1. Tiểu thuyết có tính chất tự truyện ............................................................ 31
2.1.2. Quan niệm về tự truyện ............................................................................ 35
2.1.3. Quan niệm về tiểu thuyết tự truyện .......................................................... 37
2.1.4. Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong mối quan hệ với các thể loại
tương cận .................................................................................................. 39
2.1.5. Cơ sở hình thành tiểu thuyết có tính chất tự truyện ................................. 43
v
2.2. Diện mạo của tiểu thuyết có tính chất tự truyện thế kỷ XX ........................... 48
2.2.1. Giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến 1945 ...................................................... 48
2.2.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975 ..................................................................... 52
2.2.3. Giai đoạn từ 1975 đến hết thế kỷ XX ....................................................... 55
CHƢƠNG 3. TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT TỰ TRUYỆN TRONG VĂN
HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX - NHÌN TỪ CẢM QUAN HIỆN THỰC VÀ
CON NGƢỜI ........................................................................................................... 58
3.1. Hiện thực cuộc đời qua chiêm cảm của người trong cuộc ............................. 58
3.1.1. Hiện thực được tái hiện theo dòng hoài niệm .......................................... 59
3.1.2. Hiện thực qua cái nhìn hồi cố, chiêm nghiệm .......................................... 64
3.1.3. Hiện thực qua góc nhìn phản tư ............................................................... 69
3.2. Từ nguyên mẫu nhà văn đến nhân vật ............................................................ 75
3.2.1. Từ con người thực đến nhân vật tự trình bày ........................................... 75
3.2.2. Từ con người thực đến nhân vật hồi cố, chiêm nghiệm ........................... 79
3.2.3. Từ con người thực đến nhân vật phản tư .................................................. 87
CHƢƠNG 4. TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT TỰ TRUYỆN TRONG VĂN
HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX - NHÌN TỪ PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN .... 96
4.1. Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật....................................................... 96
4.1.1. Người kể chuyện ở ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong và sự thay đổi
điểm nhìn ................................................................................................. 96
4.1.2. Người kể chuyện ở ngôi thứ ba với điểm nhìn bên trong ...................... 103
4.2. Ngôn ngữ của tiểu thuyết có tính chất tự truyện .......................................... 111
4.2.1. Ngôn ngữ kể và sự hòa phối giữa kể - tả - bình luận ............................. 111
4.2.2. Ngôn ngữ gián tiếp tự do (lời nửa trực tiếp) .......................................... 116
4.3. Giọng điệu trần thuật .................................................................................... 119
4.3.1. Giọng trữ tình, hoài niệm ....................................................................... 120
4.3.2. Giọng triết lý, chiêm nghiệm .................................................................. 127
4.3.3. Giọng tự trào, giễu nhại .......................................................................... 130
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 137
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 141
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thuật ngữ tiểu thuyết tự truyện (tiếng Pháp gọi là autofiction, tiếng Anh/
Mỹ gọi là autobiographical novel), đến nay không còn quá xa lạ trong đời sống văn
học. Thuật ngữ này được biết đến lần đầu tiên vào năm 1977, khi Serge Doubrovsky
“đã sáng chế thuật ngữ ghép hai từ auto (chính mình) và fiction (hư cấu) dính liền
với nhau” [20, tr.34]. Trên thế giới, tiểu thuyết tự truyện bắt đầu nở rộ từ thế kỷ
XX, gắn liền với những tên tuổi lớn như: Ch. Dickens (với David Copperfil), M.
Gorki (Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi), L. Tolstoy (Thời thơ
ấu, Thời niên thiếu, Thời thanh niên), Aragon (Gã dân quê), Claude Simon (Điền
viên, Cây keo), M. Duas (Người tình)... Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là nó đã
trở nên quen thuộc với mọi đối tượng độc giả cũng như được mọi người trong giới
nghiên cứu, phê bình văn học thừa nhận. Vì, ngay trong cách định nghĩa về thể loại,
giới nghiên cứu, phê bình cũng không đồng nhất: có tài liệu thì định nghĩa tiểu
thuyết tự truyện là tự truyện viết dưới dạng trần thuật qua bút pháp hư cấu; có tài
liệu thì định nghĩa tiểu thuyết tự truyện là Truyện trong đó tác giả vừa là người kể
vừa là nhân vật, họ cùng chia sẻ chung một danh hiệu với nhau, còn tên gọi thì
chứng tỏ đó là tiểu thuyết …[20, tr. 34 - 35]. Ở Việt Nam, đến nay, tiểu thuyết tự
truyện vẫn chưa có được một danh xưng thể loại cụ thể. Tuy nhiên, trong hành trình
sáng tạo nghệ thuật, rất nhiều nhà văn đã sử dụng yếu tố tự truyện làm chất liệu
trong tiểu thuyết. Từ những thử bút ban đầu của các nhà văn ở chặng đường nửa
đầu thế kỷ XX như Tản Đà, Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tư, Lan Khai... cho đến
những cây bút sáng tác ở đô thị miền Nam: Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Duyên
Anh, Võ Hồng, Túy Hồng… Đặc biệt, từ sau thời kỳ đổi mới, con số những tiểu
thuyết có tính chất tự truyện xuất hiện khá đầy đặn trên văn đàn, tạo thành một dòng
chảy mạnh mẽ. Rất nhiều những cây bút đã sử dụng yếu tố tự truyện như một thủ
pháp nghệ thuật để cách tân, làm mới tiểu thuyết.
Như vậy, có thể nói, dù chưa thực sự trở thành “thương hiệu” cụ thể của
một nhà văn nào, và trong sự nghiệp sáng tác của từng nhà văn, tiểu thuyết có tính
2
chất tự truyện cũng xuất hiện khá khiêm tốn, con số những tác phẩm được xếp vào
hàng kết tinh nghệ thuật cũng chưa thể sánh bằng với sự lớn mạnh của tiểu thuyết.
Song, tiểu thuyết có tính chất tự truyện thực sự là một thực thể đang hiện hữu
trong đời sống văn học Việt Nam. Sự hiện diện của nó với tư cách là một tiểu loại
tiểu thuyết là điều hoàn toàn không thể phủ nhận.
Mặc dù đã hiện diện từ lâu trong đời sống văn học và nó vắt mình qua hai thế
kỷ, nhưng vẫn còn đó tâm lý nghi ngại: liệu ở Việt Nam đã có tiểu loại tiểu thuyết
có tính chất tự truyện? Đây cũng là vấn đề tạo không ít áp lực cho người nghiên
cứu, nhưng đồng thời cũng kích thích sự hứng khởi khi đến với tiểu loại tiểu thuyết
này. Bởi, chúng tôi đang khảo sát và nghiên cứu một tiểu loại “rồi đây sẽ phát triển
thế nào, biến hóa ra sao? Chỉ có thời gian mới trả lời được câu hỏi này” [20, tr. 40].
1.2. Những thập niên gần đây, tiểu thuyết có tính chất tự truyện ra đời ngày
một nhiều. Cùng với đó là những nghiên cứu về tiểu thuyết có tính chất tự truyện
cũng nhiều hơn. Song, dù có thu hút được sự chú ý của giới nghiên cứu, phê bình
nhưng xung quanh nó vẫn còn ngổn ngang nhiều vấn đề: từ cách định danh, tiêu chí
nhận diện đến đặc điểm tiểu loại... vẫn còn là vấn đề chưa được giới nghiên cứu đi
đến sự thống nhất. Ra đời vào những thập niên đầu thế kỷ XX, nhưng rõ ràng trong
hệ thống thể loại tiểu thuyết Việt Nam, nó vẫn là “đứa con sinh sau”, và nhịp lưu
chuyển của nó vẫn còn trong quá trình vận động không ngừng, huống hồ nó cũng chỉ
mới được lưu tâm nhiều ở những năm gần đây. Những bài báo, tham luận, những
nghiên cứu trực tiếp về tiểu loại, cùng với một số luận văn, luận án đi vào nghiên cứu
một giai đoạn cụ thể nào đó vẫn chưa thể khái quát được toàn diện về tiểu loại này.
Đây cũng là trở ngại lớn cho những người yêu thích tiểu thuyết có tính chất tự truyện.
Đọc một tác phẩm mà trong công trình nghiên cứu này thì xếp vào hàng tự truyện,
hoặc tiểu thuyết, còn ở công trình kia thì lại cho là “tự truyện bất thành”, hoặc một
hồi ký, giả tự truyện... khiến người đọc không khỏi phân vân.
Nhìn trên phương diện lý thuyết về tiểu loại cũng như thực tế sáng tác, tiểu
thuyết có tính chất tự truyện ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề đang bỏ
ngỏ, đòi hỏi cần phải có một sự tiếp tục. Đây cũng chính là lý do để chúng tôi chọn
“Đặc điểm tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam thế kỷ XX” làm
3
đề tài nghiên cứu nhằm tìm ra sự vận động, quá trình phát triển cũng như những
thành tựu đạt được cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật, góp phần làm rõ hơn
diện mạo của tiểu thuyết có tính chất tự truyện, một tiểu loại khá giàu tiềm năng
đang trong quá trình vận động.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
Với đề tài Đặc điểm tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt
Nam thế kỷ XX, tác giả luận án đặt mục tiêu nhận diện, lý giải những đặc điểm
của tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam suốt chiều dài của
thế kỷ XX.
Mục tiêu cụ thể
- Thông qua khảo sát tư liệu, nhận diện quá trình vận động và phát triển của
tiểu thuyết có tính chất tự truyện, bước đầu xác lập cơ sở lý thuyết về tiểu loại tiểu
thuyết này.
- Phân tích, lý giải đặc điểm tiểu thuyết có tính chất tự truyện dựa trên những
nét đặc trưng cơ bản: từ nguyên mẫu nhà văn - đề tài - nhân vật, mối quan hệ giữa
sự thật và hư cấu trong tác phẩm.
- Phân tích, lý giải những đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết có tính chất tự truyện
dựa trên những phương thức thể hiện: người kể chuyện, ngôn ngữ, giọng điệu. Trên cơ
sở đó, làm rõ hơn gương mặt tiểu loại cũng như những đóng góp của tiểu thuyết có tính
chất tự truyện trong việc làm mới nghệ thuật tiểu thuyết.
2.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa các hướng nghiên cứu, tiếp cận tiểu thuyết có tính chất tự
truyện đã có, phân tích, lý giải nhằm làm rõ hơn những chỗ còn bỏ ngỏ và xác định
hướng nghiên cứu cụ thể.
- Xác định rõ tiền đề cơ sở cho sự phát triển của tiểu thuyết có tính chất
tự truyện.
- Khái quát một cách thật ngắn gọn về đối tượng nghiên cứu trong mối tương
quan tổng thể đời sống văn học Việt Nam và các lý thuyết vận dụng trong quá trình
nghiên cứu.
4
- Phân tích quá trình hình thành, phát triển của tiểu thuyết có tính chất tự
truyện dựa trên mối quan hệ giữa hiện thực cuộc đời tác giả và thế giới nghệ thuật
trong tác phẩm qua các chặng đường khác nhau nhằm tìm ra quy luật vận động và
những đặc điểm cơ bản trong nội dung phản ánh và nghệ thuật thể hiện của tiểu
thuyết có tính chất tự truyện ở Việt Nam thế kỷ XX.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng khảo sát của luận án là những tiểu thuyết có tính chất tự truyện
trong văn học Việt Nam thế kỷ XX. Đặc biệt, luận án sẽ đi vào khảo sát những tiểu
thuyết có tính chất tự truyện hiện lên khá rõ nét. Cụ thể là những tác phẩm tiêu biểu
sau: Giấc mộng lớn (Tản Đà), Những ngày thơ ấu (Nguyên Hồng), Dã tràng (Thiết
Can), Bốc đồng (Đỗ Đức Thu), Chiếc cáng xanh (Lưu Trọng Lư), Ngậm miệng, Hai
người điên giữa kinh thành Hà Nội (Nguyễn Bính), Mực mài nước mắt (Lan Khai),
Sống nhờ (Mạnh Phú Tư), Sống mòn (Nam Cao), Hoa bươm bướm và Người về đầu
non (Võ Hồng), Trường cũ (Duyên Anh), Bếp lửa (Thanh Tâm Tuyền), Tôi nhìn tôi
trên vách (Túy Hồng), Vòng tay học trò (Nguyễn Thị Hoàng), Thời xa vắng (Lê
Lựu), Tuổi thơ dữ dội (Phùng Quán), Miền thơ ấu (Vũ Thư Hiên), Chuyện kể năm
2000 (Bùi Ngọc Tấn), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung khảo sát và nghiên cứu tiểu thuyết có tính chất tự truyện Việt
Nam trong thế kỷ XX, bao gồm những tác phẩm ra đời từ đầu cho đến hết thế kỷ
XX. Chọn mốc thời gian từ đầu cho đến hết thế kỷ XX, bởi chúng tôi nhận thấy
rằng đây là một giai đoạn mà tiểu thuyết có tính chất tự truyện đã góp phần rất lớn
vào quá trình phát triển của tiểu thuyết Việt Nam theo hướng hiện đại.
Luận án tập trung nghiên cứu tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học
Việt Nam thế kỷ XX trên các phương diện cơ bản: Cách định danh tiểu loại; tiền đề
cơ sở hình thành; sự vận động của tiểu thuyết có tính chất tự truyện qua các chặng
đường khác nhau; các phương thức thể hiện của tiểu loại tiểu thuyết này.
Trên cơ sở đó, chúng tôi tổng hợp, đánh giá một cách khách quan những vấn
đề chung, liên quan đến lý thuyết về tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học
5
Việt Nam. Đồng thời, trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi chú trọng đến đặc
điểm nổi bật nhất của tiểu loại tiểu thuyết này trong mối quan hệ với các thể loại
văn học khác.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp tiểu sử
Chúng tôi vận dụng phương pháp tiểu sử nhằm tìm hiểu tác phẩm thông qua
mối quan hệ giữa tác giả và văn bản nghệ thuật do nhà văn sáng tạo nên. Đây là một
trong những phương pháp quan trọng giúp cho luận án có thêm cơ sở để tìm hiểu
dấu ấn tự truyện cũng như mối quan hệ giữa sự thật và hư cấu trong tiểu thuyết.
4.2. Phương pháp thống kê, phân loại
Chúng tôi chọn lựa phương pháp này để tiếp cận đối tượng nghiên cứu nhằm
thống kê, phân loại, hệ thống hóa và chọn lựa tài liệu.
4.3. Phương pháp liên ngành
Nhằm để có một góc nhìn sâu hơn về tính chất tự truyện trong tiểu thuyết
Việt Nam thế kỷ XX, chúng tôi sẽ vận dụng một số lí thuyết về văn hóa học, thi
pháp học và tự sự học.
4.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Với phương pháp này, luận án hướng đến “giải mã” những đặc trưng của tính
chất tự truyện trong tiểu thuyết và khu biệt giữa tự truyện trong tiểu thuyết với các
loại hình tiểu thuyết khác. Qua đó, luận án chỉ ra những nét đặc sắc của đặc điểm tự
truyện trong tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XX.
5. Đóng góp của luận án
- Từ việc hệ thống hóa lý luận về tiểu thuyết có tính chất tự truyện, luận án
đưa ra những kiến giải có tính thực tiễn nghiên cứu để khái quát một số khái niệm
mang tính đặc trưng của tiểu thuyết có tính chất tự truyện.
- Định rõ những đặc trưng về mặt lý luận của tiểu thuyết có tính chất tự
truyện, lấy đó làm nền tảng cơ sở để soi rọi vào tác phẩm nhằm thấy được những
nét đặc trưng của tiểu thuyết có tính chất tự truyện.
- Là một công trình nghiên cứu chuyên biệt, hệ thống về tiểu loại tiểu thuyết
có tính chất tự truyện nhằm hướng đến tái hiện toàn bộ gương mặt của tiểu loại này
trong cả hành trình một thế kỷ (thế kỷ XX).
6
- Khẳng định rõ vai trò, vị trí của tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong quá
trình vận động và phát triển của tiểu thuyết hiện đại Việt Nam.
6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính
của Luận án sẽ được triển khai thành các chương cụ thể sau:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
- Chương 2: Cơ sở lý luận và diện mạo tiểu thuyết có tính chất tự truyện
trong văn học Việt Nam thế kỷ XX
- Chương 3: Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam thế
kỷ XX - Nhìn từ cảm quan hiện thực và con người
- Chương 4: Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam thế kỷ
XX - Nhìn từ phương thức thể hiện
7
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Những nghiên cứu về tự truyện trên thế giới đƣợc giới thiệu ở Việt Nam
Tự truyện trong nguyên ngữ Hy Lạp là autos (chính mình), bios (cuộc đời),
và graphein (viết), nghĩa là “viết về chính cuộc đời mình”. Cách kết hợp ba thành tố
này tạo thành autobiography trong tiếng Anh và sau đó được sử dụng trong tiếng
Pháp autobiographie, nhưng cách viết này trở thành một thuật ngữ thông dụng ở
Châu Âu từ giữa thế kỷ XIX.
Những tác phẩm tự truyện đầu tiên trên thế giới bắt đầu xuất hiện từ thời cận
đại ở Tây Âu. Tuy nhiên, danh từ tự truyện chính thức được sử dụng phải đợi đến
cuối thế kỷ XVIII, khi mà thể loại này bắt đầu nở rộ ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Những
tài liệu nghiên cứu đầu tiên về thể loại tự truyện xuất hiện vào khoảng đầu thế kỷ
XX với những chuyên khảo của Anna Robson Burr (1909), Wayne Shumaker
(1926), A.M.Clark (1935). Dần về sau này, mặc dù tự truyện chưa tạo được sự lưu
tâm của giới phê bình nhưng nó vẫn tồn tại với tư cách một thể loại độc lập và nhiều
nhà nghiên cứu cũng đã phác thảo được những nét cơ bản, xem nó như một thể loại
riêng biệt. Trong số đó, phải kể đến Những điều kiện và giới hạn của Tự truyện
(1956) của Georges Gurdorf, Tự thú và Tự truyện (1955) của Stephen Spendes. Ở
hai công trình này, nhà phê bình đã chú ý đến sự tồn tại độc lập của tự truyện với
vai trò là một thể tài đứng bên cạnh những thể loại văn học khác. Nhưng phải đợi
đến năm 1960, khi chuyên luận Phác thảo và Sự thật trong Tự truyện (Design and
Truth in Auubiography) của Roy Pascal ra đời thì tự truyện mới bắt đầu được
nghiên cứu như “một hoạt động sáng tạo”. Trong chuyên luận này, Pascal đã đặt
ra vấn đề: khởi điểm một tự truyện, tác giả tự truyện liệu có đi theo đúng sự thật
mà mình đã trải qua? Có hay không cái gọi là phác thảo trong trải nghiệm của con
người nếu đây không phải là một sự áp đặt vô lí cho sự thật [164]. Đến thập niên
70, nhà phê bình văn học người Mỹ James Olney trong một công trình nghiên cứu
về tự truyện của mình đã viết: “Chính sự chuyển hướng sang cái “tôi” khi đã có
8
được nhận thức về sự tồn tại của nó sẽ định hình và quyết định bản chất của tự
truyện và trong quá trình ấy sẽ vừa khám phá vừa sáng tạo lại mình - đã khởi đầu
cho chủ đề tự truyện trong những cuộc tranh luận” [163]. Từ những nghiên cứu về
cái tôi trong tự truyện ấy, những năm về sau, đặc biệt là khoảng ba thập niên cuối
của thế kỷ XX, thể loại tự truyện được giới phê bình chú ý nhiều và thể loại này
gần như trở thành một trong những thể loại trung tâm, được soi chiếu dưới nhiều
góc độ khác nhau.
Trong ba thập niên cuối của thế kỷ XX, cùng với sự nở rộ của thể loại tự
truyện, các nhà nghiên cứu, phê bình văn học không còn xem tự truyện thuộc hàng
“ngoại biên” nữa mà soi ngắm nó qua nhiều chiều kích khác nhau trong vai trò của
một thể loại văn học. Chính nhờ thế mà cả một hệ thống lí luận thể loại cũng được
định hình một cách rõ nét. Và một trong số đó phải kể đến Hiệp ước Tự thuật (Le
Pacte Autobiographique) (1975) của Philippe Lejeune. Hiệp ước này ra đời mang
theo một định nghĩa về thể loại, kèm theo đó là những ranh giới và bảng biểu, sơ đồ
cụ thể để phân biệt tự truyện với những thể loại khác. Tuy nhiên, cũng trong những
năm cuối của thập niên 70, cùng với “sự tuyên xưng cái chết của tiểu thuyết”, và khi
Michael Sprinker tuyên bố “sự chấm dứt của tự truyện” thì các nhà hậu cấu trúc
luận khẳng định “văn bản của tự truyện có đời sống riêng của nó, thoát ly khỏi tính
quy chiếu và khi đó cái tôi chỉ còn là vấn đề của văn bản” [64, tr. 23]. Nhưng trong
khoảng hai thập niên cuối thế kỷ XX, khi thể tự truyện ngày một thêm phong phú,
vấn đề nghiên cứu về tự truyện lại được xuất hiện trở lại khá đầy đặn mà xem chừng
như những lí thuyết về tự truyện từ trước đó và cả Hiệp ước tự thuật của Philippe
Lejeune gần như không thể theo kịp đà phát triển đa dạng của thể tự truyện. Nhiều
nhà nghiên cứu tập trung đi vào khám phá thế giới tự truyện từ lĩnh vực tâm lí sáng
tạo và dân tộc học, từ văn hóa và tâm lí học nghệ thuật…
1.2. Những nghiên cứu về tự truyện và tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở
Việt Nam
Ở Việt Nam, ngay từ những ngày đầu, khi trang tiểu thuyết mang bóng dáng
tự truyện xuất hiện với gương mặt đầy lạ lẫm, thì giới học thuật của Việt Nam đã
bắt đầu chú ý đến bước đi của nó. Trong số các công trình nghiên cứu, Nhà văn hiện
9
đại của Vũ Ngọc Phan có lẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu về tự truyện dưới góc
nhìn thể loại. Từ hướng tiếp cận này, Vũ Ngọc Phan đã có những phát hiện khá ấn
tượng: “Tự truyện là một loại văn tuy không mới ở nước người, nhưng rất mới ở
nước ta. Gần đây có mấy nhà văn đem những việc của mình ra viết, nhưng họ chưa
có can đảm đề là tự truyện, họ “tiểu thuyết hóa” ít nhiều cuộc đời của họ và đề là
tiểu thuyết” [103, tr. 95]. Dần về sau, đặc biệt là chặng đường sau năm 1986, khi mà
quan niệm và tư duy nghệ thuật thay đổi, tạo điều kiện cho sự xuất hiện của khuynh
hướng tự truyện ngày một nhiều đã thu hút được sự chú ý của các nhà nghiên cứu,
phê bình văn học. Có lẽ vì thế nên những công trình nghiên cứu về khuynh hướng
này cũng ngày một nở rộ.
Theo Phong Lê, “Để nhớ về một quá khứ chưa xa, về một vùng hiện thực
khuất nẻo, khó có ai biết, nhưng đã được viết với tư cách người trong cuộc, nên khó
có ai viết thay, là Chuyện kể năm 2000, 2 tập (2000) của Bùi Ngọc Tấn, trong nối
dài về trước với Tuổi thơ im lặng (1987) của Duy Khán, Cát bụi chân ai (1992) và
Chiều chiều (1999) của Tô Hoài… Cũng có thể xếp vào đây Thượng đế thì cười
(2003) của Nguyễn Khải - một tiểu thuyết gần như tự truyện. Với Tô Hoài, Nguyễn
Khải - những tên tuổi quan trọng của văn học hiện đại, thì điều quan trọng không
chỉ là chuyện được kể, mà còn là giọng kể, cách kể” [66, tr. 52]. Cùng chung quan
điểm với Phong Lê, Nguyễn Văn Long trong Đổi mới của văn học Việt Nam từ sau
1975 cho rằng, xuất phát từ tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự thật của
văn học những năm cuối 80, đầu những năm 90 trong văn học Việt Nam đã phát
triển mạnh mẽ khuynh hướng nhận thức lại hiện thực. Đây chính là lúc văn học trở
về với đời sống thường nhật và vĩnh hằng, vì thế, “Trong văn xuôi những năm 90 và
vài năm lại đây… Hồi kí - tự truyện lên ngôi…” [73].
Nghiên cứu về truyện và tự truyện của Phan Bội Châu, khi luận bàn về sự
phát triển của thể tự truyện, Hoàng Đức Khoa nhận thấy trong bối cảnh văn hóa
trung đại vốn nặng quan phương, khép kín nên khả năng con người tự ý thức về
mình và hướng tới khám phá, thể hiện từng số phận thực sự không dễ. Chính những
thay đổi trong đời sống xã hội Việt Nam thời kỳ thực dân nửa phong kiến, cùng với
quá trình tư sản hóa những năm nửa đầu thế kỷ XX đã tác động mạnh mẽ đến đời
10
sống văn học. Đây chính là bối cảnh ra đời tự truyện của Phan Bội Châu. Theo tác
giả, tự truyện là truyện do các nhà văn viết về cuộc đời mình nhằm những mục đích
khác nhau… Cũng chính trong thể loại này, tất cả những biến cố, sự việc, nhân vật
… đều được lấy từ cuộc đời thực của tác giả, không có sự hư cấu thêm, hoặc nói
cách khác là không có sự hư cấu tự do [61, tr. 119 - tr. 128].
Sự lưu tâm một cách nồng nhiệt cho thể tự truyện ngày một đậm đặc hơn
trong những năm về sau, đặc biệt là khi thể tự truyện ngày một lấn sâu vào đời sống
văn học từ sau 1986. Tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới, nhà nghiên cứu
Bích Thu đã trình bày ý kiến của mình về tiểu thuyết có khuynh hướng tự truyện.
Với Bích Thu thì người đọc hôm nay muốn “được tiếp xúc với những tiểu thuyết
tâm lý mà ở đó, nhân vật tự bộc lộ tư tưởng, chính kiến qua dòng chảy của nhận
thức, mọi hành vi, ứng xử và lời thoại ẩn sâu trong tâm trạng nhân vật và các tầng
nghĩa. Hoặc các tiểu thuyết mang tính tự truyện, vừa thể hiện cái “tôi” lại vừa hư
cấu, vừa mang tính tiểu sử lại vừa được nghệ thuật hóa, tiểu thuyết hóa, một đặc
trưng của tiểu thuyết hiện đại, có khả năng khai thác tiềm thức qua kỹ thuật dòng ý
thức” [134, tr. 6]. Ở bài viết này, Bích Thu thực sự chú ý đến nét đặc trưng mang
tính khu biệt của tiểu thuyết mang tính tự truyện, đó là người đọc dễ dàng nhận thấy
ở tiểu thuyết mang tính tự truyện vừa thể hiện cái “tôi” lại vừa hư cấu. Có thể nói,
chính cuộc sống thực tại của con người Việt Nam sau 1986 đã mang lại cho nhà
nghệ sĩ những quan niệm nghệ thuật về hiện thực với những khám phá mới. Và ở
đây, Bích Thu rất có lí khi cho rằng một trong những nguyên nhân làm cho tiểu
thuyết có tính tự truyện ngày một xuất hiện nhiều trong văn học những năm trở lại
đây là bởi xã hội hiện đại đề cao vai trò của cá nhân và thúc đẩy sự thức tỉnh của ý
thức cá nhân. Cái tôi trỗi dậy đòi hỏi được quan tâm đúng mức. Tiểu thuyết trở về
với con người, thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người, bảo tồn giá trị của con
người trước sự lãng quên của xã hội.
Khi nghiên cứu về văn xuôi Việt Nam từ 1975 đến 1995, Nguyễn Thị Bình
cũng nhận ra “những tác phẩm mang dáng dấp tự truyện như Miền thơ ấu (Vũ Thư
Hiên), Tuổi thơ dữ dội (Phùng Quán), Chuyện làng ngày ấy (Võ Văn Trực), Cát bụi
chân ai (Tô Hoài)… Với những tác phẩm này, cái tôi của người viết hiện diện rất
11
sắc nét qua cảm hứng nhận thức, đánh giá lại những gì đã trải nghiệm bằng điểm
nhìn hiện tại”. Từ những phát hiện ấy, Nguyễn Thị Bình đã lần tìm được dấu vết để
làm nên phần cốt lõi của các tác phẩm mang bóng dáng tự truyện đó chính là “cái
tôi” của người viết luôn gắn liền với cảm hứng nhận thức, đánh giá lại những gì mà
chính người viết đã từng trải nghiệm trong thực tiễn cuộc sống của mình [10].
Trong một công trình nghiên cứu khác, khi khảo sát một số khuynh hướng tiểu
thuyết ở nước ta từ thời điểm đổi mới cho đến nay, căn cứ vào cách thức xử lí chất
liệu hiện thực trong tác phẩm, Nguyễn Thị Bình cũng nhận ra được bên cạnh những
tiểu thuyết theo phong cách lịch sử hóa, tiểu thuyết tư liệu - báo chí, tiểu thuyết hiện
thực kiểu truyền thống, tiểu thuyết theo phong cách hiện thực còn có khuynh hướng
tiểu thuyết theo phong cách tự thuật. Đây có thể được xem là một trong những
khuynh hướng tiểu thuyết chính trong dòng văn học đương đại Việt Nam.
Có thể nói, chính thời kì đổi mới của đất nước từ sau năm 1986 đã làm cho
văn học Việt Nam thực sự có được sức sống mới. Gần như cảm hứng ngợi ca của
những trang văn mang đậm khuynh hướng sử thi không còn là mảnh đất lí tưởng
để các nhà văn hướng đến. Vì vậy, khi nhìn vào hiện thực của văn học chặng
đường sau năm 1986, nhà nghiên cứu Lã Nguyên xem đây là cả một bước “chuyển
mình” thật sự của văn học để tiến tới “phá cái khoanh vùng hết sức hình thức của
đề tài văn học trước kia”. Và văn học hôm nay đang hướng tới những gì đang hiện
hữu giữa cuộc sống đời thường. “Nhà văn hôm nay đang nêu tấm gương về sự
dám nghĩ, dám nói, dám thẳng thắn bày tỏ lập trường công dân của mình. Ta hiểu
vì sao văn học trong những năm gần đây dám bất chấp cả những điều cấm kỵ xưa
nay và phạm vi những vấn đề xã hội mà nó quan tâm lại rộng lớn đến như thế”
[87]. Nếu như trước năm 1975, vận mệnh sống còn của Tổ quốc luôn là lựa chọn
đầu tiên của người cầm bút, thì chặng đường sau 1975, sự thức tỉnh của ý thức cá
nhân đã chiếm thế thượng phong trên bàn cân bút lực người viết: “Việc nhận thức
đúng đắn vị trí của nhân dân trong đời sống xã hội, buộc nhà văn tìm đến chỗ
đứng phát ngôn bình đẳng với công chúng bạn đọc của mình. Đó là cơ sở nảy sinh
hình thức văn học của ý thức đối thoại thấm nhuần tinh thần dân chủ” [87]. Nhà
văn, nhân vật trần thuật của văn học hôm nay không mấy khi xuất hiện trong tác
12
phẩm ở ngôi thứ ba như con người tuy vô hình nhưng đầy quyền uy, biết hết, thấy
tất, mà thường giấu mình sau hình thức tự thú, hình thức người kể chuyện ở ngôi
thứ nhất - đó là một biểu hiện của ý thức đối thoại. Nhìn thẳng vào thực tại, tỉnh
táo nhận ra mình, nói hết sự thật với người đọc, dù sự thật đó có xót xa, đau lòng
đến bao nhiêu cũng không bưng bít, giấu giếm - đó cũng là một biểu hiện của ý
thức đối thoại… Con người với tư cách là cá nhân thường bị bỏ rơi trong thế giới
của sử thi là vì thế. Sau 1975, nền văn học của chúng ta đã nhanh chóng chuyển từ
thế giới vĩ mô sang thế giới vi mô, từ thế giới của cộng đồng, dân tộc và lịch sử
đến những câu chuyện về thế sự và đời tư con người. Cho nên, cá nhân con người
“đang từng bước, từng bước tiến vào vị trí trung tâm của văn học hôm nay. Cá
nhân con người vừa là đối tượng nhận thức trung tâm, vừa là điểm xuất phát để
văn học hôm nay nhìn ra thế giới. Nó soi ngắm thế giới và định giá lịch sử qua
lăng kính và mực thước của cá nhân con người” [87].
Quan sát văn học và nền kinh tế thị trường trong mười năm cuối thế kỷ XX,
Nguyễn Phượng nhận thấy các giá trị từng một thời là niềm tin mãnh liệt của con
người Việt Nam giờ đây đứng trước thời kì đổi mới, nó đang thực sự bị lung lay dữ
dội - Điều này thể hiện rất rõ ở sự thay đổi về nhận thức về các giá trị… “cái thiêng
liêng cao cả, cái lí tưởng mặc dù nó vẫn còn sức hấp dẫn nhưng nó không phải là
đối tượng duy nhất mà người cầm bút hôm nay hướng tới”. Từ hướng tiếp cận khái
quát văn học Việt Nam khoảng 10 năm cuối thế kỷ XX, trong xu hướng “giải ảo”,
“giải thiêng” - nảy sinh từ cái nhìn “tỉnh táo”, “duy thực” đầy can đảm của các nhà
văn trong hoàn cảnh đất nước trở lại nhịp sống đời thường, con người trở về với
cuộc sống thường nhật hằng ngày, Nguyễn Phượng đã thấy được “thể loại hồi ký, tự
truyện và tiểu thuyết tự truyện lại gần như chiếm thế thượng phong trong giai đoạn
này. Công chúng dành một sự quan tâm khá đặc biệt với một số tiểu thuyết tự
truyện và hồi ký xuất hiện trong giai đoạn này như Cát bụi chân ai (1992 ) và Chiều
chiều (1999 ) của Tô Hoài, Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn…” [110].
Đánh giá về tiểu thuyết trong văn học thời kì đổi mới, Mai Hải Oanh đã
không ngần ngại khi đưa ra nhận định: “Ra đời trong không khí dân chủ, tiểu thuyết
tự thuật thời kì đổi mới khá đa dạng. Có loại đậm chất giễu nhại như Thượng đế thì
13
cười, Ba người khác; có loại nói về những chua chát đời người (Chuyện kể năm
2000), có loại nói đến những cảm nhận cá nhân về điều đã trải nghiệm trong đó có
những đoạn gần với nhật kí (Chuyện của thiên tài)‟‟ [100, tr. 112]. Cách định dạng,
gọi tên tiểu thuyết tự thuật thời kì đổi mới của Mai Hải Oanh cần phải bàn luận
thêm, nhưng trong nhận định này người viết đã có một cái nhìn khá chuẩn xác khi
cho rằng chính thời kì đổi mới đã mang đến cho thể tiểu thuyết những diện mạo
mới, đầy sức hấp dẫn.
Trong cuộc Hội thảo Đổi mới tư duy tiểu thuyết (2002), Ma Văn Kháng đã
từng nói: “Cùng với tiểu thuyết tư liệu, tiểu thuyết tự thuật sẽ là một thể loại được
phát triển”. Đây phải chăng là sự tiên liệu thể hiện góc nhìn đầy lạc quan của một
“người trong cuộc”? Người mà gần như hành trình viết của ông ở chặng đường từ
sau thời kì đổi mới, từ Mùa lá rụng trong vườn, đến Ngược dòng nước lũ hay Một
mình một ngựa… người đọc đều có thể nhận thấy đâu đó chất liệu đời tư của ông
gần như ngồn ngộn trên trang tiểu thuyết [57, tr. 67].
Nghiên cứu về sự vận động của các thể loại văn xuôi trong văn học thời kì
đổi mới, Lý Hoài Thu cũng có quan điểm tương đồng với nhà văn Ma Văn Kháng
khi cho rằng: “Nhìn vào sự vận động và phát triển của hệ thống thể loại trong văn
học thời kì đổi mới… sự thâm nhập của thể ký vào “lãnh địa” của tiểu thuyết đã tạo
nên một dòng tiểu thuyết tự truyện có sức hút lớn trong đời sống văn học đương đại.
Chính từ những vùng này, các thể loại cũ đã có thêm nhiều tố chất mới” [136].
Trong Thế kỷ tiểu thuyết, khi bàn về hiện tượng tự truyện, Nguyễn Vy Khanh
đã viết: “Ngay từ đầu thế kỷ XX đã có tự truyện với cuốn đầu tiên là Chồn cáo tự
sự của Michel Tính xuất bản năm 1910 tại Sài Gòn. Sau đó là Nguyên Hồng với
Những ngày thơ ấu (1938) và Thiết Can với Dã Tràng (1939)…”. Trong bài viết
này, Nguyễn Vy Khanh viết: “Thế kỷ XX, ít tác giả đưa cái Tôi thật vào văn
chương, có chăng cũng phải văn chương hóa, tiểu thuyết hóa… Vào giai đoạn cuối
thế kỷ mới thật sự bành trướng thể loại tự truyện nhưng vẫn tương đối ít tác phẩm
lớn vì đa phần chỉ là những hồi ký nhẹ tính văn chương” [56].
Sự đầy đặn của tiểu thuyết có tính tự truyện ngày thêm bồi đắp trong văn
học Việt Nam đương đại đã tạo thành một khuynh hướng. Nhờ thế nên tiểu thuyết
14
Việt Nam mang nhiều hương sắc mới. Trong bài viết Khuynh hướng tự truyện
trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Đỗ Hải Ninh cho rằng nền văn học Việt
Nam bắt đầu từ sau thời kì đổi mới đã thực sự có những bước tiến đáng kể, đặc
biệt là sự thay đổi trong quan niệm về hiện thực và con người, quan niệm về nhà
văn trong mối quan hệ với tác phẩm, với công chúng và với chính mình. Đây
chính là tiền đề cơ sở để khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại trở nên khá phổ biến so với văn học giai đoạn 1945 - 1975. Theo Đỗ
Hải Ninh, “Khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết giúp người đọc không chỉ
giải mã con người tác giả và thời đại qua những chi tiết gắn với tiểu sử, cuộc đời
thật mà qua những trải nghiệm sống và sự tự thú chân thành” [97]. Với Đỗ Hải
Ninh thì mỗi nhà văn khi cầm bút đều xuất phát từ nhu cầu giải phóng tư tưởng và
bộc lộ cái tôi cá nhân. Vì vậy, có thể tìm thấy ở mỗi trang viết những trải nghiệm,
suy ngẫm và cái tôi rất riêng. Và mục đích của tự truyện là tìm hiểu một con người
có thật với lịch sử hình thành nhân cách, còn tiểu thuyết, mặc dù cũng sử dụng
nhân vật, cốt truyện đó nhưng được hư cấu hóa, hoặc được cấp cho một lớp vỏ hư
cấu. Căn cứ từ thực tiễn ấy, Đỗ Hải Ninh khẳng định: “Văn học Việt Nam từ sau
đổi mới đã có những thay đổi đáng kể trong quan niệm về hiện thực và con người,
quan niệm về nhà văn trong mối quan hệ với tác phẩm, với công chúng và với
chính mình. Đó chính là cơ sở để khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết Việt
Nam đương đại trở nên khá phổ biến” [97]. Trong một bài viết khác, khi đi sâu
vào khai thác mối quan hệ giữa tự truyện - tiểu thuyết và một số dạng tự thuật
trong văn học Việt Nam đương đại, dù biết rằng quy luật giao thoa thể loại và
những nỗ lực cách tân nghệ thuật khiến cho việc phân biệt tự truyện và tiểu thuyết
tự thuật ngày càng trở nên khó khăn hơn, nhưng Đỗ Hải Ninh cũng đã cố gắng
luận giải vấn đề này một cách rành mạch: “Trong tự truyện, cuộc đời tác giả và
bức chân dung tinh thần của ông ta trở thành đối tượng chính, tham gia trực tiếp
vào tác phẩm như một bộ phận hữu cơ. Còn ở tiểu thuyết tự truyện, những chi tiết
tiểu sử được nhào nặn lại, câu chuyện cuộc đời được cấu trúc và sắp xếp lại, tức là
tác giả tách khỏi những yếu tố đời tư để thể hiện với một độ gián cách nhất định”
[99]. Vì nếu như tự truyện là dạng văn bản có tính quy chiếu, thì những tiểu thuyết
15
tự thuật là những hư cấu nghệ thuật dựa trên nền tiểu sử tác giả, chính đời tư của
tác giả là nguồn chất liệu cơ bản để giúp tác giả viết thành những trang tiểu thuyết.
Khi tiến hành khảo sát văn xuôi Việt Nam trong chặng đường từ sau 1990 để
lý giải về hiện tượng tự thuật trong sáng tác văn xuôi của các tác giả nữ, Hồ Khánh
Vân đã chỉ ra nguyên nhân khiến cho khuynh hướng viết tự truyện ngày một xuất
hiện nhiều trong văn học Việt Nam, đặc biệt là trong sáng tác của những cây bút nữ
là vì “tự thuật vừa là điểm nhìn, là vị trí mà từ đây, các cây bút khái quát hóa và tái
hiện đời sống hiện thực, là cảm hứng sáng tác hình thành nên thế giới của tác phẩm
từ khuynh hướng tư tưởng, nội dung phản ánh cho đến bút pháp nghệ thuật, là hệ
sinh thể hình tượng hiện hữu trên bề mặt tác phẩm” [160]. Theo Hồ Khánh Vân, các
tác phẩm viết theo lối tự truyện có “mật độ tự thuật dày đặc, gần như là một “bản
dập” của cuộc đời nhà văn. Ở đó, không khí của tác phẩm, cốt truyện, nhân vật, tình
tiết, đều sát với cuộc đời thực của tác giả và người đọc có thể nhận ra, kiểm chứng
được. Ở đó, bóng dáng nhà văn và nhân vật trung tâm như hai vòng tròn đồng tâm
và có cùng bán kính” [160].
Cùng chung hướng tiếp cận của Hồ Khánh Vân, nhưng Trần Huyền Sâm lại
tiếp cận những tác phẩm tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại dưới góc nhìn nữ
quyền. Ở góc tiếp cận này, Trần Huyền Sâm đã có những kiến giải khá thỏa đáng
khi cho rằng: “Tự thuật không phải là đặc tính riêng của nữ giới, nhưng đây là nét
ưu trội nhất làm nên bản mặt của văn phong nữ giới. Tự thuật vừa là phương tiện
vừa là đối tượng phân tích trong sáng tác nữ giới” [116]. Trần Huyền Sâm cũng
khẳng định: “Đó là phương thức để nữ giới thể hiện sự nếm trải giới tính, đồng thời
là mục đích để giải phóng những kìm hãm của bản thân” [116].
Tự truyện và tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở nước ta đã có cả một chuỗi
thời gian dài hình thành và phát triển. Tuy nhiên, cho đến nay, so với các thể loại
khác dường như nó vẫn chưa được nhiều sự ưu ái của các nhà nghiên cứu, phê bình
văn học. Theo khảo sát của chúng tôi, đã có một số tác giả chú ý khảo sát các tác
phẩm tự truyện và tiểu thuyết có tính chất tự truyện nhưng nhìn chung chỉ dừng lại
ở việc kết hợp trong nhận định, đánh giá. Hoặc nếu có thì cũng chỉ dừng lại ở mức
khảo sát một chặng đường ngắn (Tiểu thuyết có khuynh hướng tự truyện trong văn
16
học Việt Nam đương đại của Đỗ Hải Ninh), chưa có một công trình thật sự chuyên
sâu nào đi vào nghiên cứu về tự truyện và tính chất tự truyện trong tiểu thuyết Việt
Nam thế kỷ XX.
1.3. Nhận xét và đánh giá về các tác phẩm cụ thể
1.3.1. Giai đoạn trước 1945
Khảo sát chặng đường một thế kỷ, từ lúc những dấu vết ban đầu của tiểu
thuyết có tính tự truyện xuất hiện cho đến khi tiểu loại này hợp vào dòng chủ lưu
của tiểu thuyết Việt Nam, chúng tôi nhận thấy sự tồn tại của tiểu thuyết có tính chất
tự truyện là nhờ “sự đọc” của công chúng độc giả qua mọi thời đại, trong đó có sự
góp mặt của những siêu độc giả, những người gần như là nhịp cầu nối để đưa tiểu
loại này đến gần hơn với công chúng.
Sau đây, chúng tôi điểm lược những bài viết, những công trình nghiên cứu về
tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam giai đoạn trước 1945.
Từ những năm đầu thế kỷ XX, khi Nguyên Hồng viết cuốn Những ngày thơ
ấu, Thạch Lam, một trong những cây bút chủ lực của nhóm bút Tự lực văn đoàn đã
không ngần ngại hạ bút đánh giá về Những ngày thơ ấu như sau: “nó là sự rung
động cực điểm của một linh hồn trẻ dại lạc loài trong những lề lối khắc nghiệt của
một gia đình sắp tàn” [62]. Và khi chọn đưa Nguyên Hồng vào Nhà văn hiện đại,
trong phần nhận xét về Nguyên Hồng, Vũ Ngọc Phan cũng đã quả quyết rằng
Nguyên Hồng chính là “người Việt Nam thứ nhất dám kể về gia đình mình” bằng
những dòng tự bạch chân thành: “Thầy tôi làm nghề cai ngục, mẹ tôi con nhà buôn
bán…”. Ông viết: “Trong Những ngày thơ ấu, Nguyên Hồng đã cho ta biết rõ hẳn
một quãng đời quá khứ của ông. Lối tự truyện này, ở Anh, ở Mỹ, ở Nga, rất thịnh
hành; nhưng ở Việt Nam ta, viết được, tôi cho là can đảm lắm” [104, tr. 126]. Đánh
giá về tác phẩm này, chủ yếu Vũ Ngọc Phan bàn về tính tự truyện như là “bản chất”
thể loại của tác phẩm qua góc nhìn so sánh. Và Vũ Ngọc Phan, một người khá thận
trọng cũng phải thốt lên: “Mới đọc tập tự truyện của Nguyên Hồng, tôi đã tưởng có
dưới mắt một quyển sách của một nhà văn Anh hay một nhà văn Nga.” [104, tr. 126].
Phải chăng Vũ Ngọc Phan đang muốn nói đến sự dũng cảm của một con người dám
thành thật trong việc tự thú “trần trụi” về cuộc đời mình? Cho đến những năm về
17
sau, và cả đến hôm nay, Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng vẫn được công
chúng độc giả luôn quan tâm bằng cả niềm trân trọng.
Phan Cự Đệ, một chuyên gia nghiên cứu về Nguyên Hồng, trong phần giới
thiệu về Tuyển tập Nguyên Hồng từng bộc bạch: “Tôi nhớ lúc còn ngồi trên ghế
nhà trường trung học, một lần phải dịch ra Pháp văn một đoạn trong Những ngày
thơ ấu, cái đoạn nói về tiếng kèn. Đã bao năm qua rồi mà tôi vẫn không thể quên
được cái tiếng kèn náo nức, dồn dập, rung vang đó” [21, tr. 2]. Và khi đánh giá về
ngòi bút Nguyên Hồng trong Những ngày thơ ấu, Phan Cự Đệ đã đặc biệt chú ý
đến văn phong, yếu tố làm nên nét đặc trưng của ngòi bút Nguyên Hồng trong
Những ngày thơ ấu, đó là lối miêu tả không những tinh tế mà còn có khả năng làm
thức dậy mọi giác quan của người đọc. “Trong tập tiểu thuyết - tự truyện rất xúc
động này, Nguyên Hồng đã lắng nghe được những âm vang sâu lắng của tâm hồn,
ghi nhận được những cảm giác tinh tế tự bên trong, miêu tả một thiên nhiên đầy
thanh sắc và tất cả đều được thể hiện qua màu sắc chủ quan của cái tôi trữ tình hồn
nhiên, trong sáng…” [21, tr. 2].
Nhà phê bình Nguyễn Ngọc Thiện lại có một cách nhìn nhận khác. Ông
cho rằng Những ngày thơ ấu là một cuốn “Hồi kí tự truyện” đặc sắc. Ông viết:
“Nếu như trong văn học thế giới, người ta ghi nhận J.J.Rutxô với Những lời bộc
bạch mở đầu cho thể tài tự truyện, thì trong văn học Việt Nam hiện đại, phải
chăng chúng ta cần ghi nhận Nguyên Hồng với Những ngày thơ ấu đã mở đầu
cho thể tài hồi ký - tự truyện”. Về phần định danh Những ngày thơ ấu là cuốn
“hồi kí tự truyện” của Nguyễn Ngọc Thiện cần phải bàn luận thêm. Tuy nhiên,
bài viết đã chạm đến phần cốt lõi, phần làm nên sức sống vững bền của Những
ngày thơ ấu trong lòng độc giả chính là: “Giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo trong
tư tưởng và bút pháp nghệ thuật của tác phẩm đã khiến tác phẩm tồn tại bền
vững qua thử thách của thời gian” [132].
Tiểu thuyết Dã tràng của Thiết Can tuy không tạo nên “làn sóng” bất ngờ
trong đời sống văn học đương thời, nhưng nó cũng được Vũ Ngọc Phan lưu tâm
đến. Theo như Vũ Ngọc Phan, trong Dã tràng, “Thiết Can cũng cho ta biết cái phần
đời đầy tội lỗi nhỏ nhen của ông ta, nhưng ông cho biết một cách kín đáo ở tên
18
Đông, trong tập Dã tràng, một tập văn chưa dám mang rõ hẳn cái danh là tự
truyện”. [103, tr. 96].
Cùng thời với Dã tràng của Thiết Can, còn có tiểu thuyết Bốc đồng của nhà
văn Đỗ Đức Thu. Đây cũng là một trong những tác phẩm mà tính chất tự truyện
nhuốm tràn lên cả trang tiểu thuyết. Khi đánh giá về Bốc đồng của Đỗ Đức Thu,
Vũ Ngọc Phan viết: “Bốc đồng mà đặt vào loại tiểu thuyết thì chỉ là một tiểu
thuyết rất tầm thường. Tác giả dựng truyện đã bừa bãi, rặt những chuyện con con,
nối với nhau một cách sơ sài, kết cấu cũng lại không được khéo”[104, tr. 172]. Đi
vào khám phá tác phẩm Bốc đồng, Vũ Ngọc Phan cũng nhận ra được những hạn
chế nhất định của cuốn tiểu thuyết này và dường như nhà văn Vũ Ngọc Phan
không mấy có “thiện cảm” với lối viết của Đỗ Đức Thu trong Bốc đồng. Có lẽ vì
thế nên Vũ Ngọc Phan mới viết những dòng như sau: “Đọc xong Bốc đồng, người
ta có cái cảm tưởng như vừa mới duyệt qua một nhóm người đứng lộn xộn, một
bọn người trông không rõ hình thù, hầu hết đứng thập thò, không nhận hẳn được
vẻ mặt một ai” [104, tr. 172].
Cùng chung trong dòng chảy của văn học hiện thực, sự xuất hiện của Mạnh
Phú Tư với những trang tiểu thuyết có tính cách “đặc Việt Nam” của ông qua Sống
nhờ vẫn kịp lưu lại dấu ấn trong lòng công chúng. Ở tác phẩm này, Vũ Ngọc Phan
nhận thấy một Mạnh Phú Tư “tiến bộ một cách lạ”. Phải chăng sự tiến bộ ấy nảy
sinh từ “những điều quan sát tỉ mỉ, những sự xét nhận tinh tế và ở cả giọng thành
thật” mà nhà phê bình nhìn thấy trong Sống nhờ [103, tr.74].
Bùi Huy Phồn với bài Sống nhờ của Mạnh Phú Tư đã đi vào phân tích khá
tỉ mỉ những giá trị về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, để rồi từ đó, ông đi
đến khẳng định những thành công và giá trị của tác phẩm là ở chỗ: thông qua tác
phẩm này, Mạnh Phú Tư đã lột tả được “bộ mặt trái của xã hội cũ ở nông thôn
Việt Nam thối nát, lọc lừa, kèn cựa tàn nhẫn với cái luân lí vô đạo đức không còn
chút gì nhân đạo” [107].
Năm 1983, khi nhà xuất bản Văn học cho tái bản lại tác phẩm Sống nhờ,
trong phần giới thiệu về tác phẩm, có đoạn viết: “Sống nhờ khai thác những mâu
thuẫn dai dẳng bên trong những gia đình nông dân do chế độ tư hữu và tâm lí cổ hũ
19
của người sản xuất nhỏ gây ra. Qua Sống nhờ, một vấn đề khác đang nổi lên khá
đậm là tình cảm người phụ nữ đày ải bởi những hủ tục phong kiến” [152].
Trong các tiểu thuyết có tính chất tự truyện của văn học Việt Nam nửa đầu
thế kỷ XX, Mực mài nước mắt của Lan Khai cũng là một trong những hiện tượng
văn học tạo sự chú ý đáng kể trong công chúng độc giả thời bấy giờ. Bàn về tác
phẩm Mực mài nước mắt của Lan Khai, nhà văn Vũ Ngọc Phan nhận xét: “Mực mài
nước mắt tuy là một tiểu thuyết mà kỳ thật như một chuyện tâm sự, người đọc phải
ngờ tác giả đã trút bỏ một phần của mình để tạo nên Khải, vai chính trong truyện, vì
tác giả đã không ngần ngại đem cả Vũ Trọng Phụng, người bạn của mình vào” [103,
tr. 221]. Đi sâu vào tìm hiểu tác phẩm này, Vũ Ngọc Phan cũng tìm ra được những
mảng hiện thực của người nghệ sĩ “sống về nghề văn ở đất nước Việt Nam là sống
một cảnh khổ nhục, tinh thần không những phải làm nô lệ vì những cái vật chất, mà
rồi những cái cao cả mà nhà văn muốn đi tới cũng phải tàn tạ với những cảnh khốn
cùng”. Theo Vũ Ngọc Phan, Mực mài nước mắt của Lan Khai thuộc loại “tiểu
thuyết tâm tưởng”. Ông viết: “Ở nước ta, đến nay loại tiểu thuyết tâm tưởng chưa
có mấy người viết. Loại ấy là loại khó, vì hơi hờ hững về động tác, giọng văn đã
ngả về bút kí ngay” [103, tr. 221].
So với những cây bút trong dòng văn học hiện thực phê phán, sự xuất hiện
của Nam Cao có vẻ như là “người đến sau”, nhưng bằng những tác phẩm của mình,
ông cũng đã kịp góp mặt vào dòng văn học hiện thực đương thời những trang văn
có thể được xếp vào hàng tuyệt bút. Trong số những trang văn ấy phải kể đến Sống
mòn. Đến với Sống mòn, người đọc như chạm vào cả một hiện thực “đời tàn trong
ngõ hẹp” của người trí thức nghèo trước Cách mạng Tháng 8. Đỗ Đức Hiểu từng
xem tiểu thuyết Sống mòn là một quyển tiểu thuyết “kiểu tự thuật, khi viết ở ngôi
thứ ba, nó như một độc thoại dài, với những dằn vặt, day dứt, với những câu hỏi lớn
về cuộc sống, gợi đến “Sống hay không sống”; từ chương này đến chương khác,
Thứ, nhân vật trung tâm, khao khát sống cho ra sống, lùi lại, hèn nhát, lại ước mơ,
hi vọng một cuộc đời có ý nghĩa” [39, tr. 337]. Dõi theo từng dòng, từng trang trong
suốt chiều dài 20 chương của truyện, Đỗ Đức Hiểu cũng đã thấy được một Nam
Cao “có cái nhìn thấu suốt vào con người, vào những uẩn khúc rối ren của một tình
20
cảm, một hành động và biểu đạt cái nhìn ấy bằng một văn phong điềm đạm, trở đi,
trở lại nhiều lần một vấn đề, bằng cấu trúc truyện khi lan tỏa, khi tập trung, tất cả
xoay quanh một quãng đời day dứt, ngày càng xuống cấp” [39, tr. 337].
Phong Lê khi đánh giá về Sống mòn của Nam Cao cũng đã từng xem Sống
mòn như một kiểu tự truyện của Nam Cao. Với Phong Lê, Sống mòn tựa như tấm
gương phản chiếu hiện thực đời tư của Nam Cao: “đó là một tiểu thuyết có thể đọc
nhiều lần. Đọc lại rồi lại đọc. Đọc để hiểu Nam Cao, hiểu một thế hệ trí thức kiểu
Nam Cao và hiểu một thời thanh niên Nam Cao đã sống. Đồng thời cũng như một
cách tự soi lại con người mình, thế hệ mình” [67, tr. 343]. Ông cũng quả quyết: “có
lẽ Nam Cao là người đầu tiên, và cũng là người cuối cùng của văn học hiện thực
Việt Nam cho ta cảm nhận được một cách đầy đủ hơn bất cứ ai cái dư vị nhạt phèo
mà thật mặn chát của một sự sống mòn” [67, tr. 343].
Trong bài Bút pháp tự sự đặc sắc trong Sống mòn, Nguyễn Ngọc Thiện cũng
đánh giá rất cao về bút pháp hiện thực của Nam Cao trong Sống mòn bằng những
dòng viết thổ lộ nỗi đồng cảm sâu sắc với Nam Cao: “Hơn hai trăm trang tiểu
thuyết trình bày, trong một nỗi ám ảnh da diết, một cuộc sống bế tắc, quẩn quanh
như bị ngưng đọng, tự hủy hoại trong sự mòn rỉ, mục rữa, mốc meo. Hay nói cách
khác một cuộc sống không ra sống, vô nghĩa, bất lực, nhọc nhằn, “chết ngay trong
lúc sống” [133, tr. 330].
Có thể những nghiên cứu về tiểu thuyết có tính chất tự truyện ra đời trong
chặng đường trước 1945 được viết ở những thời điểm khác nhau. Nhưng nhìn
chung, những nghiên cứu này thường thiên về tính khái quát, hoặc chỉ đi vào khai
thác những nét đơn lẻ của tác phẩm cả trên phương diện nội dung lẫn nghệ thuật.
Tuy nhiên, đây cũng là những dầu hiệu cho thấy sự lưu tâm của các nhà nghiên cứu
về tiểu loại này bắt đầu ngay từ khi nó được hình thành.
1.3.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975
Bẵng đi một thời gian, từ 1945 đến 1954, tiểu thuyết có tính chất tự truyện
gần như không xuất hiện trên văn đàn. Đến những năm sau 1954, dòng tiểu thuyết
này mới trở lại trong lòng đô thị miền Nam và cả ở vùng kháng chiến, với các tác
phẩm như: Vòng tay học trò của Nguyễn Thị Hoàng, Bếp lửa của Thanh Tâm
21
Tuyền, Tôi nhìn tôi trên vách của Túy Hồng, Người về đầu non và Hoa bươm bướm
của Võ Hồng… Sự xuất hiện của các tác phẩm này có thể được xem là những thành
tựu đáng ghi nhận của tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam
chặng đường từ sau 1954 đến 1975.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở giai đoạn này
còn khá khiêm tốn, chưa có những công trình chuyên sâu. Phần lớn các tiểu thuyết
này, được các nhà nghiên cứu nhìn nhận và đánh giá trên phương diện tổng thể
trong việc nghiên cứu về thể loại tiểu thuyết đương thời như: Tiểu thuyết năm 1961
của Cô Phương Thảo đăng trên Bách khoa (121) ngày 15/1/1962; Nhận định về tiểu
thuyết hiện đại của Nguyễn Ngu Í, đăng trên Bách khoa số 136, ngày 1/9/1962; Tình
hình tiểu thuyết trong năm 1964 của Thu Thủy (Tin sách tháng 2/1965); Sinh hoạt
tiểu thuyết một năm qua của Nhật Tiến đăng trên Bách Khoa số 265 - 266
(15/1/1968)… Những nghiên cứu này đã có cái nhìn tổng thể về tiểu thuyết của các
tác giả ở đô thị miền Nam từ những thành công cũng như hạn chế trong từng tác giả
qua các tác phẩm cụ thể.
Nghiên cứu về văn học đô thị miền Nam, khi nói về tác phẩm Người về đầu
non, tác giả Trần Xuân An viết: “Đó là chuyện kể về cuộc đời ông bác ruột của
nhân vật “tôi”… Suốt cả một trăm trang sách, cuộc đời ông bác được nhân vật “tôi”
hồi ức, viết lại với giọng văn biết bao là trìu mến, nhưng không vì thế mà chất hiện
thực của câu chuyện bị mờ lấp… câu chuyện chứa đựng biết bao chi tiết của một
thôn làng thuộc tỉnh Phú Yên được ghi nhận, tái hiện sinh động, với một giọng văn
trong sáng, đôn hậu và giàu chất hoài niệm, khiến Người về đầu non trở thành một
truyện vừa cứ mãi mời gọi tìm về một thời quá khứ của nông thôn Nam Trung bộ
xưa, vừa cứ mãi ngân nga trong lòng người đọc” [1]. Trong bài viết này, tuy tác giả
không trực tiếp xác định đây là một tiểu thuyết có tính chất tự truyện, nhưng bài viết
cũng đã phát hiện được “chất hiện thực của câu chuyện bị mờ lấp”, cùng những chi
tiết đời thực thấp thoáng ẩn hiện trong lớp ngôn từ của chuyện. Chính những chi tiết
này đã tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm.
Trong một bài viết khác của tác giả Nguyễn Vy Khanh, khi bàn về Người về
đầu non của Võ Hồng trong Văn học miền Nam, Nguyễn Vy Khanh cũng có cách
22
nhìn về tác phẩm này khá tương đồng so với Trần Xuân An: “Người về đầu non kể
chuyện quê hương thời thơ ấu, thời học trò và người bác trong thực tế là cha nuôi. Từ
thời thuộc Pháp những biến cố kháng chiến, tổng động viên, thuế nông nghiệp. Ðời
sống dân dã mộc mạc, trong cách đặt tên, khai sinh theo “ngày tháng An-Nam”. Cảnh
đi coi gặt lúa vào ngày mùa. Hình ảnh học đường ngày xưa. Bao trùm là những tiếc
nuối và đau thương về người thân” [56].
Trong di sản văn xuôi mà Võ Hồng để lại cho đời, có nhiều tác phẩm được
tác giả xây dựng dựa trên chất liệu lấy từ mảnh đất quê hương nơi ông sinh ra, hoặc
lấy từ những chi tiết từng diễn ra trong đời của bản thân mình để viết thành truyện.
Ngoài tác phẩm Người về đầu non thì Hoa Bươm Bướm cũng được Võ Hồng tái
hiện dựa trên đoạn đời thực mà ông đã từng trải qua trong những năm Pháp thuộc.
Đánh giá về tác phẩm này, nhà nghiên cứu Nguyễn Vy Khanh viết: “khởi từ thời
Pháp thuộc, thời Nhật chiếm, đến thời kháng chiến, Võ Hồng muốn qua bộ truyện
này vẽ lại một giai đoạn hào hùng và những nếp sống đã qua đi…. Viết về chiến
tranh, Võ Hồng đã nói lên tiếng nói phẫn nộ của một người công dân bình thường,
bất lực trước chiến tranh và thảm cảnh…” [55]. Vấn đề mà Nguyễn Vy Khanh bàn
luận đến khi nói về tác phẩm Võ Hồng có lẽ đây cũng là một trong những tiếng nói
chung được viết lên từ nỗi đau thân phận của những con người đang từng ngày,
từng giờ chứng kiến cảnh quê hương bị bom đạn chiến tranh cày xới và tàn phá.
Ra đời trong thập niên 60 (thế kỷ XX), Vòng tay học trò của nữ văn sĩ
Nguyễn Thị Hoàng được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa nhanh chóng tạo
nên một làn sóng dư luận khá lớn. Mối tình phi chính thống, thậm chí có phần lệch
chuẩn giữa cô giáo và cậu học trò trong tác phẩm được Nguyễn Vy Khanh đánh giá
mang đậm chất “hiện sinh”, đồng thời đây cũng là “một trong những tác phẩm gây
tranh cãi nhất thời kỳ này”. Điều gây “tranh cãi” ở đây phải chăng xuất phát từ mối
tình cô - trò mà gần như trong truyền thống văn hóa của người Việt xem là tối kỵ.
Từ góc nhìn nữ quyền luận, Nguyễn Thị Hải Hà đánh giá tác phẩm “Vòng tay
học trò là một trong những tác phẩm có ý thức nữ quyền có thể nói là đầu tiên ở Việt
Nam khi chủ nghĩa nữ quyền chưa được biết đến một cách sâu rộng.” [33].
23
Mặc dù dư luận đương thời đôi khi không đồng tình ủng hộ những gì mà
Nguyễn Thị Hoàng đã viết ra trong tác phẩm, tuy nhiên, sự ra đời của tác phẩm
tựa như tiếng nói góp phần làm đổi mới tư duy và quan niệm về lối viết nữ trong
việc thể hiện cái tôi cá nhân mình một cách mạnh mẽ, đầy táo bạo qua lối viết “tự
ăn mình”. Đặc biệt, trong những năm gần đây, khi văn học đã thực sự được “cởi
trói”, một số luận văn, luận án đã mạnh dạn lấy văn học đô thị miền Nam làm đối
tượng nghiên cứu trên nhiều góc độ khác nhau, góp phần minh định lại những giá
trị đích thực của văn học miền Nam từ 1954 - 1975. Trong một luận án tiến sĩ gần
đây của Nguyễn Thị Việt Nga, khi đánh giá về tiểu thuyết Vòng tay học trò dưới
góc nhìn đổi mới thi pháp thể loại, tác giả luận án viết: “Tiểu thuyết Vòng tay học
trò của Nguyễn Thị Hoàng tuy viết về chuyện tình éo le nhưng tác giả cũng không
chú ý khai thác những chi tiết, những diễn biến ly kỳ mà chỉ có những rung cảm
rất tinh vi của cả hai người” [85, tr. 142]. Điều này cho thấy, trải qua một khoảng
thời gian nhất định, độ lùi về thời gian cũng như sự thay đổi trong quan niệm nghệ
thuật đã tạo điều kiện cho người làm nghiên cứu có cách nhìn, cách đánh giá có
phần cởi mở, công bằng hơn đối với những tác phẩm văn học ở đô thị miền Nam.
Ra đời cùng thời với Vòng tay học trò, tác phẩm Tôi nhìn tôi trên vách của Túy
Hồng tuy không lắm “ồn ào” khen chê như Vòng tay học trò nhưng đây cũng là một
trong những tác phẩm tạo nên hiệu ứng khá mạnh mẽ trong công chúng độc giả đương
thời. Trong Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay, ở phần viết về tác phẩm Tôi nhìn tôi
trên vách, Tạ Tỵ nhận định: “Tôi nhìn tôi trên vách, tác phẩm dài đầu tay của Tuý
Hồng. Trong cuốn sách, tuy nhà văn dùng ngôi thứ nhất, nhưng ngụy trang dưới tên
Khanh để giữ tính cách riêng của nhân vật, sự thực, nó chính là một đoạn đời khi giã từ
tuổi con gái của tác giả” [156]. Có thể nói, tác giả của bài viết đã thấy được dấu ấn đậm
nét nhất để làm nên chất liệu cho tác phẩm đó chính là hiện thực từ cuộc đời của Túy
Hồng. Mặc dù nhà văn Túy Hồng cố tình tạo ra khoảng cách nhằm đánh lạc hướng
người đọc qua lớp ngụy trang của nhân vật “tôi” dưới cái tên được đặt lại (Khanh)
nhưng đâu đó trong tác phẩm vẫn hiện lên rất rõ nét “đoạn đời khi giã từ tuổi con gái”
của chính tác giả.
24
Ở một bài viết khác của tác giả Liễu Trương, khi đánh giá về tác phẩm dưới
góc nhìn hiện thực, tác giả bài viết đã nhận xét: “Tôi nhìn tôi trên vách không chỉ
đơn thuần là truyện của một người phụ nữ trước những thất vọng về tình cảm đã
xảy đến cho đời mình, Tôi nhìn tôi trên vách còn là bức họa của xã hội miền Nam
sau Tết Mậu Thân, một xã hội đã biến đổi sâu xa, trong đó con người cũng đã biến
đổi sâu xa.” [147].
Với nguồn tư liệu còn khá khiêm tốn, có thể khảo sát của chúng tôi chưa thực sự
đầy đủ về những nghiên cứu xoay quanh các tác phẩm tiểu thuyết có tính chất tự truyện
ra đời ở chặng đường này, nhưng với những gì đã khảo sát được cũng là cơ sở gợi dẫn,
giúp chúng tôi nhận diện rõ hơn các mặt tích cực, hạn chế của tiểu loại tiểu thuyết này
trong giai đoạn 1945 đến 1975.
1.3.3. Giai đoạn từ 1975 đến hết thế kỷ XX
Sau 1975, khi đất nước dần hồi sinh đó cũng là lúc những tiểu thuyết có tính
chất tự truyện ngày thêm nảy nở, trong số đó phải kể đến những tiểu thuyết: Thời xa
vắng của Lê Lựu, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Tuổi thơ dữ dội của Phùng
Quán, Miền thơ ấu của Vũ Thư Hiên, Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn và
một số tác phẩm khác của nhà văn Ma Văn Kháng…
Đánh giá về Những bước phát triển của văn xuôi Việt Nam sau 1975, khi
nhận xét về những tác phẩm văn xuôi tiêu biểu của giai đoạn này, Lê Tiến Dũng
đã viết: “Thời xa vắng của Lê Lựu cũng được bạn đọc đón nhận một cách nồng
nhiệt. Có lẽ trước hết là vấn đề mà ông nêu ra: “nhận thức lại một thời mới đây
thôi mà tưởng như đã xa vắng tự thuở nào. Ấy là cái thời con người chỉ tưởng có
lạc quan, chỉ là anh hùng mà không được biết đến bi kịch, nỗi đau riêng tư” [17].
Lê Tiến Dũng đã nhận ra được những khía cạnh đời sống thực mà Thời xa vắng
mang đến cho người đọc. Một Giang Minh Sài đã làm nên bao chiến công vang
dội, nhưng chính cuộc đời anh lại phải trải qua bao cay đắng. Điều mà tác giả
quan tâm không phải là những chiến công, ở sự ngưỡng vọng mà chính là nỗi đau
nhân thế của người anh hùng và “thành công của Thời xa vắng về phương diện
tiểu thuyết” chính là ở điểm này [17].
25
Với Thái Thị Mỹ Bình thì Thời xa vắng của Lê Lựu gắn liền với tiến trình
đổi mới của văn xuôi Việt Nam sau 1975 và tác giả nhận ra “Sự trình làng của Thời
xa vắng… đã làm khuấy động bầu không khí văn học nước nhà” [13]. Quả thật, sự
ra đời của Thời xa vắng thực sự trở thành một hiện tượng văn học, làm tốn không ít
bút lực của giới phê bình, nghiên cứu văn học. Chính Thời xa vắng đã giúp cho nhà
văn Lê Lựu khẳng định chắc chắn vị thế của mình trong hàng ngũ những nhà văn
tiêu biểu của thời kì đổi mới. Trong bài Lê Lựu và giọng điệu trần thuật trong Thời
xa vắng của Nguyễn Như Trang - Ngô Thu Thủy có đoạn viết: “Thời xa vắng là tác
phẩm tiêu biểu, đánh dấu tên tuổi của Lê Lựu trong làng văn học Việt Nam hiện đại,
mở đầu cho khuynh hướng nhận thức lại hiện thực văn học Việt Nam sau 1975. Với
cái nhìn thế sự, nhà văn đã phản ánh chân thực hình ảnh của người lính trong hai
đời sống: chiến tranh và hòa bình, với tất cả những vênh lệch của số phận, tình yêu,
hạnh phúc” [144].
Mặc dù ở các bài viết này, khi nghiên cứu về Thời xa vắng, các tác giả
thường tiếp cận ở góc nhìn về sự đổi mới trong bút pháp nghệ thuật, chưa tiếp cận
và đánh giá tác phẩm ở góc độ một tiểu thuyết có tính chất tự truyện, tuy nhiên, các
nhà nghiên cứu cũng đã nhận diện được vai trò và vị trí của Thời xa vắng trong tiểu
thuyết ở thời kỳ đổi mới (1986).
Nếu như Thời xa vắng từng là “một hiện tượng” thu hút không ít sự chú ý
của độc giả thì Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh cũng đã tạo nên được những cơn
dư chấn mạnh mẽ. Ở tiểu thuyết này, giới nghiên cứu và phê bình văn học không ít
người nhận ra được chính chất liệu tự truyện là một trong những yếu tố làm nên sự
thành công cho tác phẩm. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên khi đánh giá về Nỗi
buồn chiến tranh đã nhận xét: “Cuốn tiểu thuyết có dáng dấp tự truyện, nhân vật
chính là Kiên, là người lính sống sót duy nhất của một trung đội trinh sát sau mười
năm chiến trận, hết chiến tranh ở đội thu gom hài cốt đồng đội, rồi trở lại nhà sống
cuộc sống hậu chiến bất ổn bất an, khi tất cả đã đổ vỡ” [88]. Trong bài viết về tiểu
thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, Phạm Xuân Thạch cho rằng: “Có thể
khẳng định, ở thời điểm Nỗi buồn chiến tranh ra đời, Bảo Ninh là một trong những
cây bút quan trọng góp phần làm nên một cuộc cách mạng trong nghệ thuật tiểu
26
thuyết ở Việt Nam. Anh đã chuyển dịch toàn bộ phạm vi tồn tại của nhân vật trung
tâm từ đời sống xã hội vào đời sống tâm lí” [125]. Từ góc nhìn tu từ học tiểu thuyết,
Cao Kim Lan nhận ra được cả một thế giới nghệ thuật của Bảo Ninh có thể được
xem là “một thế giới hỗn loạn, nhiều yếu tố và nguyên tắc xây dựng hình thức
không dung hợp nhau… cấu trúc tự sự hai lần hư cấu, khả năng sử dụng ngôn ngữ
độc đáo và phương thức kể nương theo dòng tâm thức đã tạo nên sự riêng biệt kì
diệu cho một phong cách” [63]. Cũng từ góc nhìn này, Cao Kim Lan tìm ra được
những nét độc đáo của Bảo Ninh, một nhà văn có khả năng “xóa nhòa ranh giới
nhiều thủ pháp kể chuyện, mờ hóa và làm mới nhiều nét nghĩa diễn ngôn trên nền
tảng của một mô hình cấu trúc đặc thù, xếp chồng các lớp cấu trúc theo một logic
nghệ thuật riêng nhằm tìm đến một cách thể hiện mới” [63]. Chính điều này đã giúp
cho Bảo Ninh không chỉ đem đến một cái nhìn khác về hiện thực chiến tranh, mà
điều quan trọng là nhà văn đã xác lập một tư tưởng: “Tư tưởng đó không phải chỉ
được định hình từ việc tái hiện hiện thực từ một góc nhìn mới mà còn nằm trong
tầng ý thức của mỗi cá thể trong thế giới nghệ thuật ấy” [63].
Ra đời ngay từ những ngày đầu của thời kì đổi mới (1986), còn có một Tuổi
thơ dữ dội của Phùng Quán. Tác phẩm này cũng đã tạo được sự quan tâm thực sự từ
phía người đọc. Vĩnh Mẫn, một người bạn chiến đấu cùng trung đoàn Trần Cao Vân
với Phùng Quán năm xưa từng chia sẻ: Quán viết Tuổi thơ dữ dội, để trả nợ tuổi
thơ đầy gian lao nhưng cũng hết sức tự hào của mình và bạn bè đất Huế, Quán viết
để tri ân và tưởng nhớ những đồng đội đã ngã xuống cho quê hương khi tuổi đời
mới mười ba, mười bốn... Quán viết để nhắc nhở lòng mình hãy kiên định với niềm
tin vào cuộc sống, vào sự thật và chân lí... [80]. Đánh giá về tác phẩm Tuổi thơ dữ
dội, Lê Thị Huế cho rằng Tuổi thơ dữ dội, đúng như cái tên của truyện, những chi
tiết trong ấy thực sự dữ dội khi mà đọc xong, gấp sách lại vẫn thấy những đợt sóng
cảm xúc dào dạt trào dâng đến "dữ dội" nhưng trong sự dữ dội ấy là những tia sáng
pha lê chiếu sáng lòng độc giả cũng đến "dữ dội”. Nhà văn Nguyễn Khắc Phê lại đi
vào khám phá tác phẩm trên phương diện “Sự thật từ ngòi bút Phùng Quán”. Ở góc
nhìn này, Nguyễn Khắc Phê nhận thấy ngay cả trong những tác phẩm nổi tiếng như
Vượt Côn Đảo và Tuổi thơ dữ dội, mặc dù tiểu thuyết là một thể loại văn học cho
27
phép nhà văn thả sức tưởng tượng và hư cấu, Phùng Quán vẫn tận dụng tối đa nhân
vật, chi tiết có thật ngoài đời. Dưới góc nhìn và đánh giá của Phạm Thị Thu thì
“Những nhân vật thiếu niên mà Phùng Quán xây dựng trong tiểu thuyết Tuổi thơ dữ
dội chính là nguyên mẫu của các thiếu niên đội trinh sát trung đoàn Trần Cao Vân,
Huế, nơi mà Phùng Quán đã từng chiến đấu suốt một thời tuổi thơ của mình‟‟ [137].
Xoay quanh Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn cũng có khá nhiều
những ý kiến lưu tâm đến chất tự truyện của tác phẩm này. Lê Minh Hà trong bài
Chuyện kể năm 2000 - Bản cáo trạng không được công bố đã khẳng định đây là một
tác phẩm “buộc” người ta phải dừng lâu trên từng chi tiết vì đấy “là một tác phẩm
văn chương trung thực” và là “Cuốn tiểu thuyết mang dấu ấn tự thuật rất đậm,
nhưng trước hết, cuối cùng nó là tiểu thuyết chứ không phải nhật ký… Mang tính tự
thuật, Chuyện kể năm 2000 phải đưa lại cho người đọc những chiêm nghiệm lớn về
hiện thực. Nếu không chắc chắn nó sẽ bị người đọc từ chối. Trong thực tế, tác phẩm
được đón nhận nồng nhiệt.” [31]. Trong bài Đọc Chuyện kể năm 2000 của Bùi
Ngọc Tấn, Nguyễn Thị Hải Hà cho rằng Chuyện kể năm 2000 là một bộ tranh chân
dung, tổng hợp nhiều khuôn mặt của nhiều thành phần và giai cấp trong xã hội miền
Bắc Việt Nam trước năm 1975. Trong bài viết này, Nguyễn Thị Hải Hà cũng đã tìm
thấy được những chi tiết tương tự như cuộc đời của tác giả: “Dù chất chứa rất nhiều
chi tiết tương tự như cuộc đời của tác giả, đây không phải là hồi ký mà là tiểu
thuyết” [32]. Với Nguyễn Tiến Văn, Chuyện kể năm 2000 đã được viết nên bằng
chính kinh nghiệm viết văn nửa thế kỷ… Bùi Ngọc Tấn đã kết tinh được những gì
tốt đẹp nhất của một thời đã qua để ôn lại những tâm tình, cũng như những quá độ
của một thời đang trở thành quá khứ chỉ còn là vang bóng. Thụy Khuê lại có cái
nhìn khác. Với Thụy Khuê, Chuyện kể năm 2000 là cả một sự “độc sáng”. Và chính
ở thể văn tiểu thuyết này, “nhà văn có thể tung hoành, sống với nhiều cái tôi…
Chuyện kể năm 2000 là một tác phẩm nhìn xuống những người dưới đáy ngục bằng
cách giao hòa hai yếu tố: Thực tại và mộng du. Thực tại trong tù và mộng du ngoài
tù” [59]. Đọc Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Trần Bình Nam lại cho rằng
những chiêm nghiệm của nhà văn Bùi Ngọc Tấn về đoạn đời đã qua, “được vẽ lại
bằng một lối văn nhẹ nhàng đầy ắp hình ảnh, không hờn oán. Trong suốt 1000 trang
28
giấy, trang nào cũng là một bức tranh nhỏ mang tính sự thật phảng phất tâm hồn bao
dung của tác giả ngay cả những cảnh hung bạo nhất. Con người còn tất cả những
nét đẹp trong tác phẩm của ông” [84].
Từ thực tiễn tình hình nghiên cứu về tiểu thuyết có tính chất tự truyện dẫu
chưa phải là nhiều so với sự phát triển của tiểu loại tiểu thuyết này, nhưng có thể
nói, mỗi một bài viết, mỗi một công trình nghiên cứu lại có những cách nhìn, cách
khám phá, đánh giá riêng về tiểu thuyết có tính chất tự truyện.
1.4. Đánh giá về tình hình nghiên cứu và hƣớng triển khai đề tài
1.4.1. Đánh giá về tình hình nghiên cứu
- Nhìn tổng thể tình hình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, bắt đầu từ khoảng
thời gian cuối thế kỷ XX đến nay, những bài viết, công trình nghiên cứu, phê bình
quan tâm đến tiểu thuyết có tính chất tự truyện ngày một nhiều, trong đó, có ý kiến
của các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp và cả ý kiến từ phía người sáng tác. Điều
này cho thấy, tiểu thuyết có tính chất tự truyện đã trở thành vấn đề đang được quan
tâm nhiều hơn trong đời sống văn học Việt Nam đương đại.
- Mặc dù tiểu thuyết có tính chất tự truyện xuất hiện cùng thời với những thể
loại văn học hiện đại khác, và cho đến nay, tiểu loại này vẫn tiếp tục phát triển theo
thời gian nhưng những nhà nghiên cứu gần như vẫn chưa xác định rõ được gương
mặt tiểu loại. Vì thế, chưa có sự thống nhất về cách “định danh” cụ thể như: khuynh
hướng tự truyện trong tiểu thuyết, khuynh hướng tự thuật trong tiểu thuyết, tiểu
thuyết tự truyện, tiểu thuyết tự thuật, tiểu thuyết có bóng dáng tự truyện, tiểu thuyết
mang tính tự truyện… Phải chăng tiểu loại tiểu thuyết này chưa có được một danh
phận thực sự? Tuy nhiên, nhìn chung, tiểu thuyết có tính tự truyện đã được các nhà
nghiên cứu soi chiếu qua nhiều góc độ khác nhau: từ khía cạnh lịch sử hình thành và
phát triển, những nét đặc trưng riêng biệt đến sự xâm nhập thể loại, kể cả ranh giới
phân biệt với các thể loại tương cận… Song, bên cạnh một số những kiến giải tương
đối thấu đáo thì đa phần vì là những tham luận, bài báo nên vấn đề được đặt ra chỉ
dừng lại ở những nhận định khái quát, chưa có sự phân tích sâu rộng, cụ thể, nhiều
vấn đề đặt ra vẫn còn đang bỏ ngỏ.
29
Đến thời điểm này, mặc dù tiểu thuyết có tính chất tự truyện đã nhận được sự
quan tâm từ phía cộng đồng tiếp nhận nhưng con số công trình nghiên cứu chuyên
sâu về tiểu loại này vẫn còn quá ít, chưa có một tài liệu nào bao quát được tư liệu
khảo sát ở diện rộng. Đặc biệt, cả mảng tiểu thuyết có tính chất tự truyện khá đầy
đặn ở đô thị miền Nam chưa được khai thác. Điều này khiến cho những nhận xét
chưa thật sự khách quan, đôi khi khó tránh khỏi cái nhìn phiến diện.
Tất cả những ý kiến, đánh giá về tiểu thuyết có tính chất tự truyện là nguồn tư
liệu quí giá vừa mang tính gợi mở, vừa là động lực giúp chúng tôi đi vào nghiên cứu
tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam thế kỷ XX.
1.4.2. Hướng triển khai đề tài
- Với những gì có được từ sự tiếp thu thành tựu của người đi trước, đề tài
vẫn cần làm công việc hệ thống lại lý thuyết về tiểu loại trên tinh thần kế thừa và
đối thoại.
- Tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở Việt Nam cũng đã đi được một hành
trình khá dài, đã đến lúc cần làm rõ gương mặt tiểu loại của nó: từ đặc trưng tiểu
loại, sự xâm nhập thể loại đến cái tôi của từng nhà văn và cả sự phát triển của tính
chất tự truyện trong tiểu thuyết. Đây cũng chính là nhiệm vụ thứ hai mà đề tài
hướng đến.
- Là một tiểu loại vẫn còn đang vận động, nhưng với bề dày sáng tác hàng
thế kỷ, chúng tôi thiết nghĩ, cần phải đúc kết lý luận, đi vào nghiên cứu đặc điểm
tiểu thuyết có tính chất tự truyện từ việc xác định khái niệm, đến quá trình vận động
và phát triển qua các chặng đường khác nhau nhằm tái dựng lại toàn bộ diện mạo
của tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong đời sống văn học Việt Nam. Đây cũng
chính là vấn đề thứ ba mà luận án cần làm rõ.
30
TIỂU KẾT
Ở Việt Nam, tiểu thuyết có tính chất tự truyện ra đời muộn hơn so với các
thể loại khác nhưng sự hình thành và phát triển của nó đã mang đến cho văn học
Việt Nam một diện mạo mới. Trong phạm vi khảo sát của mình, chúng tôi nhận
thấy, các nhà nghiên cứu qua nhiều cách tiếp cận khác nhau đã đưa ra những nhận
định, đánh giá về tiểu thuyết có tính chất tự truyện dựa trên nhiều phương diện, từ
tác giả, tác phẩm đến đề tài, nhân vật và cả ở góc nhìn thủ pháp nghệ thuật trần
thuật… Đây chính là nguồn tư liệu không chỉ mang tính chất gợi dẫn mà còn cung
cấp những cơ sở lý luận rất hữu ích trong quá trình nghiên cứu về tiểu thuyết có tính
chất tự truyện. Tuy nhiên, việc nghiên cứu tiểu thuyết có tính chất tự truyện một
cách căn cơ, hệ thống vẫn còn khiêm tốn. Phần lớn các công trình còn mang tính
chất đơn lẻ. Thực trạng ấy cho thấy, việc xác lập cơ sở lý luận để phân tích, lý giải
những điều kiện phát triển, quy luật vận động, những nét đặc trưng cơ bản của tiểu
thuyết có tính chất tự truyện là công việc cấp thiết trong việc nghiên cứu tiểu thuyết
có tính chất tự truyện nói chung và tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học
Việt Nam thế kỷ XX nói riêng.
31
CHƢƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ DIỆN MẠO TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT
TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX
2.1. Giới thuyết về thể loại
2.1.1. Tiểu thuyết có tính chất tự truyện
Trong khi tiểu thuyết tự truyện được bàn luận nhiều ở phương Tây, thì ở Việt
Nam, các nhà nghiên cứu còn khá thận trọng khi xác định tên gọi cho thể tiểu thuyết
này. Tính cho đến nay, mặc dù tiểu thuyết tự truyện chưa tạo thành một dòng riêng
biệt nhưng tính tự truyện cũng đã xuất hiện trong rất nhiều tiểu thuyết, vì phần lớn
tiểu thuyết giàu chất tự truyện thường các nhà văn lấy chất liệu từ chính một phần
trong đoạn đời của mình. Và trong tác phẩm đôi khi đó là cả một sự “hóa thân trọn
vẹn” của tác giả nhưng nhân vật trung tâm vẫn được “ngụy trang” trong lớp vỏ tiểu
thuyết. Hay nói cách khác, tự truyện chỉ là yếu tố xâm nhập vào cấu trúc tiểu thuyết
và dù sự trải nghiệm của cái tôi cá nhân tác giả chiếm trọn trong tác phẩm nhưng nó
vẫn bị chất tiểu thuyết làm mờ nhòe.
Sử dụng thuật ngữ Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong luận án này,
chúng tôi muốn cụ thể hóa những tác phẩm mà ở đó tác giả sử dụng chất liệu tự
truyện để hư cấu thành tiểu thuyết, trong đó bao gồm cả các tác phẩm tiểu thuyết có
khuynh hướng tự truyện, tiểu thuyết có bóng dáng tự truyện, tính chất tự truyện
trong tiểu thuyết. Trong các tiểu thuyết này, hầu như các tác giả đều chọn lựa thể
loại hư cấu là tiểu thuyết để “viết lại” câu chuyện đời mình. Nhưng trong quá trình
sáng tạo, mỗi một nhà văn đều có một phương cách xử lý chất liệu sự thật đời mình
theo những cách thức riêng. Theo chúng tôi, trong văn học Việt Nam, các nhà văn
chọn lựa hai cách thức sau:
1- Hư cấu hóa tiểu sử đời mình thành tiểu thuyết. Những tác phẩm thuộc
dạng này thường có cốt truyện khá tương khớp với lai lịch cuộc đời tác giả như:
Những ngày thơ ấu, Chiếc cáng xanh, Sống nhờ, Mực mài nước mắt, Dã tràng,
32
Người về đầu non, Miền thơ ấu, Chuyện kể năm 2000, Thượng đế thì cười, Một
mình một ngựa, Gia đình bé mọn… Ở những tác phẩm này, người đọc trong chừng
mực nào đó có thể nhận ra được bức chân dung tinh thần tác giả tương đối hoàn
chỉnh thông qua nhân vật chính trong tác phẩm. Các tác phẩm thuộc dạng này tuy
có sự pha trộn giữa sự thật và hư cấu, nhưng tỷ lệ sự thật có phần trội hơn hẳn, chất
tự thuật hiện lên trong tác phẩm đậm đặc, đôi lúc dễ tạo nên sự nhầm lẫn giữa tự
truyện và tiểu thuyết có tính chất tự truyện (như trường hợp Những ngày thơ ấu ,
Sống nhờ, Mực mài nước mắt...)
Có thể đối chiếu mối quan hệ giữa sự thật và hư cấu thông qua bảng so sánh
tác phẩm cụ thể sau:
Tác phẩm Mực mài nước mắt
Tác giả Lan Khai Nhân vật chính trong tác phẩm
- Lan Khai tên thật là Nguyễn Đình
Khải
- Quê quán: Vĩnh Lộc, Chiêm Hóa,
Tuyên Quang
- Xuất thân trong một gia đình Nho
học kiêm lương y
- Vợ tên là Hà Thị Minh Kim
- Lan Khai khởi nghiệp văn chương
tại quê nhà, nhưng sau đó ông quyết
định đưa vợ con rời quê đến Hà Nội để
sinh sống bằng nghề viết văn, viết báo.
Ở Hà Nội một thời gian, ông lại đưa vợ
con về lại quê nhà. Theo như lời kể của
Lan Phương (con nhà văn Lan Khai) thì:
“Gia đình tôi đã sống tại căn nhà nhỏ
phố Châu Long ấy mãi cho đến đầu năm
- Nhân vật chính: văn sỹ Khải
- Quê quán: Vùng cao Tuyên Quang
- Có bố là một nhà Nho kiêm lương y
- Khải khởi nghiệp văn chương tại
mảnh đất quê nhà sau đó chuyển xuống
Hà Nội sống bằng nghề viết văn. Trong
khoảng thời gian sống ở Hà Nội, dù rằng
anh được nổi danh, tác phẩm được công
chúng đón nhận nồng nhiệt nhưng cuộc
sống vẫn chật vật, nghèo đói. Phần vì do
lao khổ bút nghiên nặng nhọc nên anh
đổ bệnh hen suyễn, sức khỏe suy giảm,
33
Tác giả Lan Khai Nhân vật chính trong tác phẩm
1943 thì cha tôi trả lại chủ nhân nó rồi từ
biệt cái nơi ngàn năm văn hiến để trở lại
rừng núi Tuyên Quang, nơi ông nội tôi
đang ngày đêm mong đợi gia đình sum
họp. Lúc này, đất nước sắp có sự biến
động lớn, cha tôi cũng rất lo cho sự an
toàn của ông nội tôi vì cụ đã nhiều tuổi,
lại luôn đau ốm, không có người thân bên
cạnh, nếu có mệnh hệ gì, cha tôi sẽ ân
hận suốt đời. Như vậy là, thời gian gia
đình tôi về sống ở Hà Nội được tất cả
chừng mười năm (từ 1933 - 1943)” [110].
gia đình lâm cảnh khốn khó, túng bấn
nên văn sĩ Khải quyết định đưa cả gia
đình quay trở lại quê nhà ở Tuyên
Quang. Về trên này anh vẫn dành thời
gian viết và duy trì cộng tác cũng như
các mối quan hệ với bạn văn gạo cội ở
Hà Nội dưới sự trợ bút đắc lực của
người vợ.
2- Hư cấu hóa một vài chi tiết về tiểu sử đời mình thành tiểu thuyết:
Bốc đồng, Sống mòn, Bếp lửa, Hoa bươm bướm, Như cánh chim bay, Tôi nhìn
tôi trên vách, Vòng tay học trò, Tuổi thơ dữ dội, Thời xa vắng, Nỗi buồn chiến
tranh… Ở những tác phẩm này, mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật chính
trong tác phẩm được “ngụy trang” khá kín đáo nên người đọc nếu không tinh
ý sẽ khó có thể nhận ra được bóng dáng con người tác giả qua nhân vật chính
trong tác phẩm. Vì, các tác phẩm này thường không trần thuật ở ngôi thứ nhất,
và nếu có trần thuật ở ngôi thứ nhất thì tên nhân vật cũng được tác giả đặt lại
(Tôi nhìn tôi trên vách). Ngay cả những sự việc từng diễn ra trong đời tác giả
cũng được sắp xếp rời rạc, thậm chí có sự xáo trộn đáng kể (như trường hợp
của Nỗi buồn chiến tranh).
Có thể đối chiếu mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật chính trong tác
phẩm cụ thể qua bảng so sánh sau:
34
Hoa bươm bướm của Võ Hồng
Tác giả Võ Hồng Nhân vật chính trong tác phẩm
- Tên thật: Võ Hồng - Sinh ngày 5
tháng 5 năm 1921 tại làng Ngân Sơn -
một làng quê nghèo thuộc xã An
Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.
- Thuở nhỏ, Võ Hồng theo học
trường làng Ngân Sơn, trường phủ Tuy
An, trường huyện Sông Cầu, sau đó
học trường trung học Quy Nhơn.
- Năm 1940, ông đậu bằng thành-
chung, ra Hà Nội học tú tài. Năm 1943,
chiến tranh diễn ra ác liệt, ông đành
gác lại chuyện học, rời Hà Nội về lại
quê nhà. Năm 1945, ông lên Ðà Lạt giữ
chức bí thư tòa Tổng Ðốc bốn tỉnh cực
Nam Trung Việt thời nội các Trần
Trọng Kim, sau đó ông trở lại Tuy Hòa
dạy học. Ông làm hiệu trưởng một
trường trung học thời kháng chiến.
Năm 1954, ông vào định cư hẳn ở Nha
Trang và dạy học tại các trường trung
học Lê Quý Ðôn và Bồ Ðề. Ðầu thập
niên 1970, ông được cử làm hội viên
Hội đồng Văn hóa giáo dục.
- Cuộc đời Luân “Bắt đầu từ một
thôn xóm hiền lành có con sông, có bãi
cát, có những người dân quanh năm đổ
mồ hôi… Tôi thương yêu cái xóm nhỏ
của tôi, con đò bằng nan tre chèo qua
lại trên dòng sông, những người láng
giềng nghèo nàn. Tôi thương yêu
những đứa trẻ chăn bò vốn là bạn chơi
đáo chơi bi” [47, tr. 175 - 200]
- Luân là “học sinh miền Nam ra Hà
Nội trọ học” từ năm 1940.
- Những ngày Nhật khởi đánh Đông
Dương, Luân lên tàu về lại quê nhà,
sau đó lên Đà Lạt làm ở Tòa Tổng đốc.
- Trong những ngày Nhật - Pháp
đánh nhau, Chính phủ Trần Trọng Kim
thất thủ, Luân cùng với người yêu của
mình rời Đà Lạt, chạy về vùng Phan
Rang, sau đó nhờ sự giúp đỡ của Mai
Trang, Luân và người yêu mới được
trở lại quê nhà một cách an toàn.
Trên cơ sở những cách thức mà nhà văn chọn lựa để hư cấu hóa cuộc đời
mình thành tiểu thuyết, chúng tôi nhận thấy để nhận diện được đâu là một tiểu
thuyết có tính chất tự truyện cần dựa trên những tiêu chí sau:
- Người kể chuyện - nhân vật chính - tác giả có mối tương quan chặt chẽ
(mặc dù trong tác phẩm có thể trần thuật ở ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba).
35
- Trong tác phẩm, tiểu sử cuộc đời và những trải nghiệm của cá nhân nhà văn
hiện lên rõ nét.
- Tính hồi thuật thể hiện khá rõ thông qua cái nhìn hồi cố. Cho nên, trong
tiểu thuyết có tính chất tự truyện thường khai thác triệt để cốt truyện tâm lý và
dòng ý thức.
2.1.2. Quan niệm về tự truyện
Theo một số tài liệu nghiên cứu về tự truyện của các nhà khoa học, tác phẩm
tự truyện đầu tiên bắt đầu xuất hiện từ thời cận đại ở Âu Tây. Tuy nhiên, mãi đến thế
kỷ XVIII danh từ tự truyện (autobiography) mới chính thức được sử dụng. Theo một
số định nghĩa đầu tiên về tự truyện, đó là “câu chuyện cuộc đời của chính cá nhân đó
kể lại” hoặc “là tiểu sử của một người do chính người đó chép lại” (Authony Trollope
(1968), An autobiography, Oxford University, London). Theo Gusdorf, “Hành động
viết tự truyện là chứng thực một cách thức tồn tại mới của con người giữa đồng loại,
trong thế giới và trước Thượng Đế. Đó không chỉ là tự kể lại theo phong cách truyền
kỳ, mà là thấu hiểu và thậm chí xây dựng mình. Cuộc khám phá một địa hạt nội tâm
mới, là cái tôi và những khía cạnh khác nhau của nó, không chỉ thể hiện một thực tế
tiềm ẩn, đã hiện tồn, đang trong tình trạng chờ đợi” [113 tr.108]. Tuy nhiên, để có
được một định nghĩa khá đầy đặn về tự truyện phải đợi đến khi Hiệp ước tự thuật
(1975) của Philippe Lejeune ra đời. Trong hiệp ước này, Philippe Lejeune định nghĩa:
“Tự truyện là một thể loại tự sự tái hiện dĩ vãng, trong đó một con người có thật kể lại
cuộc đời của chính mình, nhấn mạnh về đời sống riêng tư, đặc biệt là về mặt lịch sử
hình thành nhân cách” [162]. Hiệp ước tự thuật của Philippe Lejeune đã tìm ra được
những nét khu biệt của thể tự truyện với những thể loại khác. Philippe Lejeune cho
rằng trong một tác phẩm tự truyện có sự đồng nhất giữa tác giả - người kể chuyện và
nhân vật, vì thế mà trong tự truyện thường chọn ngôi thứ nhất “tôi” để trần thuật lại
cuộc đời của chính “tôi” chứ không phải của ai khác ngoài “tôi”. Chính vì vậy, việc
lần dò để tìm ra dấu vết tự truyện cần phải dựa vào những qui ước của nó:
1. Hình thức: chuyện được kể bằng văn xuôi.
2. Trong một tác phẩm tự truyện: kể lại cuộc đời của một cá nhân hay lịch sử
hình thành nhân cách.
36
3. Mối quan hệ giữa tác giả và người kể chuyện: duy chỉ là một. Hay nói
cách khác, người kể chuyện và tác giả là đồng nhất, người kể chuyện = nhân vật =
nguyên mẫu cuộc đời tác giả.
4. Trong tự truyện, thường diễn ra một “hợp đồng ngầm” giữa tác giả -
người kể chuyện và công chúng độc giả: Tôi chính là nhân vật trong tác phẩm -
Tôi cam đoan đây hoàn toàn là kể lại sự thật của chính đời tôi - Tôi chịu trách
nhiệm về sự thật ấy.
Dần về sau, khi tự truyện được phát triển rộng rãi và trở thành một thể loại
không thể thiếu trong đời sống văn học, Hiệp ước tự thuật của Philippe Lejeune
mang tính qui phạm gần như không còn đủ sức dung chứa, lí giải hết sự đa dạng và
phong phú của thể loại, vì thể tự truyện có đời sống riêng và vận động, biến đổi theo
từng giai đoạn phát triển của văn học, nên định nghĩa về tự truyện cũng được “nới
rộng biên độ” cách hiểu. Theo Jerome Hamilton Buckley trong Chiếc chìa khóa
đang xoay: tự truyện và động lực chủ thể tính từ 1800 (1984) thì: một tự truyện “lý
tưởng” là “tác phẩm mang cái nhìn hồi cố về một đoạn đời và nhân cách của tác giả,
mà trong đó những sự kiện không đậm nét bằng tính thành thực và tính sâu sắc của
những trải nghiệm đó. Nó mô tả cuộc hành trình tự khám phá lại mình, một hành
trình suốt đời, bị xáo trộn bởi những lầm đường lạc hướng liên tục và thậm chí là
những khủng hoảng về bản sắc cá nhân, nhưng ít nhất cũng đạt đến một cảm thức
về góc nhìn (perspective) và sự hội nhập (integration) [...]. Nó thể hiện tính chất
đơn nhất và bí ẩn của cái tôi hay của linh hồn, như là một thực thể riêng rẽ và như là
một thực thể giữa nhân loại. Và với tư cách là một tác phẩm văn học thì nó đạt đến
tính chất toàn thể (wholeness). Song nó không bao giờ hoàn thành bởi lẽ chính cuộc
đời tác giả vẫn cần phải tiếp tục tiến triển” [161].
Từ điển Văn học Pháp từ A đến Z định nghĩa: “Tự truyện là một thể loại văn
học mà ở đó tác giả viết lại một câu chuyện về chính cuộc đời mình” [98, tr.35]. Từ
điển văn học của Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá
(đồng chủ biên) định nghĩa tự truyện là “một thể loại văn học trong đó tác giả kể
chuyện về cuộc đời mình. Nhân vật chính của truyện chính là tác giả” [93, tr.35].
Còn Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán (đồng chủ biên) định nghĩa: “tự
37
truyện là một tác phẩm văn học thuộc loại tự sự do tác giả tự viết về cuộc đời mình”
[34, tr.389]. Và nếu như bản tự thuật về lịch sử, lí lịch của nhà văn yêu cầu trình
bày một cách súc tích những sự kiện xảy ra trong cuộc đời nhà văn thì tự truyện lại
yêu cầu nhà văn tái hiện đoạn đời đã qua của mình trong tính toàn vẹn.
Từ những định nghĩa trên có thể thấy điểm đáng lưu ý trong quan điểm của
các tác giả là: đều công nhận tự truyện là một thể loại văn học, trong đó, chất liệu làm
nên tác phẩm chính là từ cuộc đời tác giả. Trong tự truyện, yêu cầu nhà văn tái hiện
đoạn đời đã qua của mình trong tính “toàn vẹn, cụ thể”. Nhà văn viết tự truyện như là
sự tự thú thành thật về những quãng đời đã qua của chính bản thân mình trước công
chúng độc giả. Vì thế, câu chuyện đời tư nhà văn chính là chất liệu cơ bản để làm nên
thế giới nghệ thuật trong tác phẩm tự truyện. Mỗi trang viết tự truyện phải chăng là
hành trình đi tìm cái “tôi” trong tôi của từng nhà văn?
2.1.3. Quan niệm về tiểu thuyết tự truyện
Trong cuộc Hội thảo về tiểu thuyết, tại trường Đại học Strasbourg (1970),
đã có rất nhiều ý kiến xoay quanh vấn đề vai trò và con đường phát triển của tiểu
thuyết tự truyện trong việc đổi mới thể loại tiểu thuyết. Rất nhiều tham luận cho
rằng sự dung hợp và xâm nhập giữa tiểu thuyết và tự truyện đã mở ra một hướng
phát triển đầy hứa hẹn ở tương lai cho thể loại tiểu thuyết. Tuy nhiên, trên thực tế,
vẫn có nhiều ý kiến trái chiều, có nhiều tác giả không đồng tình với việc đưa yếu
tố tự truyện vào trong một tác phẩm tiểu thuyết và không thể đổi mới tiểu thuyết
bằng con đường tự thuật (tự truyện): “Nhà tiểu thuyết làm sao tránh khỏi lúng
túng khi kể về bản thân mình, vì nếu kể trung thực thì không phải là tiểu thuyết,
chừng nào không xây dựng lại thì không có tiểu thuyết thực sự, mà nếu xây dựng
lại thì còn đâu là tính trung thực của tự thuật” [154, tr.130]. Đồng quan điểm này,
Raymond thẳng thắn trình bày: “Đối với tôi, những biến cố của đời tôi một khi đã
đi vào ngôn ngữ, chúng trở thành sản phẩm tiểu thuyết. Mallarmé đã nói rõ điều
này: Tất cả những gì ta viết ra đều là tiểu thuyết. Vậy nên câu trả lời của tôi thật
đơn giản: tôi viết tiểu thuyết, ngay cả khi cái tiểu thuyết ấy có vẻ như kể lại đời tô i
- có thật hay tưởng tượng” [98, tr.40]. Trong hội thảo Autofiction & Cie (tiểu
38
thuyết tự truyện và đồng loại) tổ chức tại Đại học Nanterre (1992), trong bài tham
luận Tiểu thuyết tự truyện: một thể loại tồi? (L‟Autofiction: un mauvais genre?),
Jacques Lecarme khẳng định: tiểu thuyết tự truyện (tự truyện hư cấu) là “truyện
trong đó tác giả vừa là người kể vừa là nhân vật, họ cùng chia sẻ chung một danh
hiệu với nhau, còn tên gọi thì chứng tỏ đó là tiểu thuyết” [20, tr.35]. Thomas
Stearns Eliot lại cho rằng: “Sự tiến bộ của nghệ sĩ là sự từ bỏ không ngừng bản
thân mình, là sự giảm thiểu không ngừng yếu tố cá nhân” [98, tr.40]. Tuy nhiên,
lao động nghệ thuật là cả một quá trình sáng tạo. Đặc biệt với thể loại tiểu thuyết,
do được xây dựng trong một khu vực tiếp xúc với những sự kiện đang diễn biến
trong hiện tại nên nó có thể “bước qua mọi ranh giới” (chữ dùng của M. Bakhtin)
của văn học nghệ thuật để thâm nhập vào thể loại tự truyện là điều hoàn toàn có
thể xảy ra. Và chuyện một tiểu thuyết nào đấy in hình “cái tôi” của chính tác giả
cũng không hẳn là điều quá xa lạ, người đọc vẫn có thể bắt gặp đâu đó trong tiểu
thuyết ở mức độ đậm nhạt khác nhau dấu ấn con người cá nhân tác giả, mặc dù
nhà văn hoàn toàn không có ý định đưa mình vào tác phẩm, nhưng họ vẫn để lại
dấu ấn đời mình thông qua tác phẩm và đấy chính là nét riêng, độc đáo trong
phong cách sáng tác của từng nhà văn. Vì “Mọi tác phẩm nghiêm túc suy đến cùng
đều là có tính chất tự truyện, một người nếu muốn sáng tạo một cái gì chân thực
và có giá trị thì phải sử dụng kinh nghiệm và tài liệu trong cuộc sống của mình”
[82]. Trong tiểu loại tiểu thuyết này một mặt nó sử dụng kỹ thuật hư cấu, mặt khác
nó cũng kết hợp với yếu tố tự thuật để tạo nên thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết.
Theo như Pierre Alexandre, tiểu thuyết tự truyện (tự sự hư cấu) là chuyện riêng
tư, trong đó tác giả vừa là người kể vừa là nhân vật, còn văn bản và/ hay chung
quanh văn bản thì chứng tỏ đó là hư cấu” [20, tr.35].
Có thể nói, tiểu thuyết tự truyện là những hư cấu nghệ thuật dựa trên phần
nền tiểu sử của chính cuộc đời tác giả. Những chi tiết từ cuộc đời tác giả đều trở
thành chất liệu để làm nên tác phẩm tiểu thuyết. Tuy nhiên, những chi tiết từ cuộc
đời tác giả hoàn toàn được hư cấu hóa, sắp xếp trở lại theo một dụng ý sáng tạo của
tác giả nhằm tạo nên độ gián cách nhất định trong tác phẩm.
39
2.1.4. Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong mối quan hệ với các thể loại tương cận
2.1.4.1. Mối quan hệ với hồi ký và nhật ký
Đều là những thể loại gắn với câu chuyện đời tư, đều là những thể loại lý tưởng
có khả năng “cấp chứng chỉ” để tả lại chân thật nhất những kinh nghiệm của thời đại,
nhưng nếu như thể nhật kí thường gắn liền với thời gian mang tính thời sự, được thực
hiện dưới dạng ghi chép những diễn biến sự việc diễn ra hàng ngày, có đánh số ngày
tháng cụ thể thì tiểu thuyết có tính chất tự truyện và hồi kí thường tác giả ngược dòng
thời gian, tìm về quá khứ - kể lại những biến cố đã xảy ra trong đời mình. Nhật kí
thường mang tính độc thoại, viết cho riêng mình, còn hồi kí và tiểu thuyết có tính chất
tự truyện, người viết nhằm hướng đến giãi bày, trao gửi với người khác. Tuy nhiên,
giữa tiểu thuyết có tính chất tự truyện và hồi kí lại có địa hạt phân định tương đối rõ rệt.
Bởi, xét trên trục hệ thống thể loại văn học, bản chất của kí là ghi chép, đòi hỏi có sự
chính xác về các sự kiện và đánh giá một cách khách quan của người viết. Những yếu
tố hư cấu, nếu có, chỉ mang chức năng tựa như chất phụ gia để hỗ trợ cho những sự
kiện khách quan. Còn bản chất của tiểu thuyết mang tính hư cấu để tạo nên những hình
tượng văn học hoàn chỉnh. Hơn nữa, hồi kí thường cần có độ lùi thời gian “đủ để đong
đầy” miền kí ức nên thường không tồn tại một cái tôi trong hiện tại. Ngược lại, trong
tiểu thuyết có tính chất tự truyện thường tồn tại một cái tôi trong hiện tại ngoái nhìn về
quá khứ như một hành trình tìm lại chính mình.
Theo Đỗ Đức Hiểu, “Hồi ký có thể chỉ ghi lại những sự kiện về một thời kì
lịch sử, mà tác giả không phải là nhân vật chính” [93, tr.196]. Còn tiểu thuyết có tính
chất tự truyện kể chuyện của cái “tôi” tác giả và nó không phải một tập hợp những kỷ
niệm tản mạn, mà được bố trí như một truyện, một tiểu thuyết. Như vậy có thể thấy,
là câu chuyện về cuộc đời một cá nhân, nên tâm điểm của tiểu thuyết có tính chất tự
truyện là cái tôi người kể chuyện trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách,
nó chịu sự tác động của thế giới bên ngoài. Đấy là một cái tôi trong trạng thái động,
trạng thái của sự hình thành, biến đổi, tiến triển về tâm lý, tính cách không ngừng và
không hoàn kết. Trong khi đó, tâm điểm của hồi ký là thế giới bên ngoài, là cuộc
sống và con người trong một thời kỳ lịch sử nào đấy (đặc biệt là khi lịch sử có những
biến động lớn), và cái tôi nói chung chỉ đóng vai trò nhân chứng, nên đó chỉ là một
40
cái tôi tương đối tĩnh trong trạng thái quan sát, ghi nhận, phân tích thực tại dưới góc
nhìn khách quan, trung thực của người trong cuộc. Nếu như mối quan tâm đầu tiên
của tác giả tiểu thuyết có tính chất tự truyện là khám phá gương mặt của chính mình
qua hồi ức để rồi từ đó lần dò ra quá trình hình thành nhân cách, thì mối quan tâm đầu
tiên của tác giả hồi ký là khám phá gương mặt thời đại qua những sự kiện mà mình
chứng kiến. Và trọng lượng của tác phẩm nằm ở chính sức thuyết phục, lay động của
những sự kiện ấy. Nếu cái tôi trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện là con người với
tất cả chiều kích tâm hồn, bề sâu tư tưởng và tình cảm của nó thì cái tôi trong hồi ký
chủ yếu đại diện cho một phương diện nào đó của ý thức xã hội, hay một xu hướng
tiếp nhận và phản ứng đối với những biến cố và những nhân vật của lịch sử. Bản chất
thể loại đòi hỏi sự trung thực, chính xác và khách quan trong việc bao quát toàn bộ
hiện thực cuộc sống trong quan hệ với con người.
Hồi ký là thể loại “đắc dụng” trong việc tái hiện lại không khí, những khoảnh
khắc lớn lao của thời đại, hay bức chân dung của những con người có vị trí nhất
định trong lịch sử (nhất là lịch sử văn học), khúc xạ qua những trải nghiệm, những
suy ngẫm của một cá nhân nào đó đã sống qua và chứng kiến như: Bốn mươi năm
nói láo của Vũ Bằng, Ta đã làm chi đời ta của Vũ Hoàng Chương, Văn thi sĩ tiền
chiến của Nguyễn Vỹ, Những năm tháng không thể nào quên của Võ Nguyên Giáp,
Nhớ lại của Đào Xuân Quý, Rừng xưa xanh lá của Bùi Ngọc Tấn, Đời viết văn của
tôi, Cát bụi chân ai, Chiều chiều của Tô Hoài, Nhớ lại một thời của Tố Hữu, Năm
tháng nhọc nhằn năm tháng nhớ thương của Ma Văn Kháng ... thuộc thể loại này.
Như vậy, ngay trong cái chung về “câu chuyện đời tư” tự kể giữa tiểu thuyết
có tính chất tự truyện, hồi ký, nhật ký cũng có sự khác biệt. Tuy nhiên, lằn ranh để
xác định giữa tiểu thuyết có tính chất tự truyện, hồi ký và nhật ký trong thực tế
thường chỉ mang tính chất tương đối. Và để phân định được từng loại thể, vấn đề sự
thật và hư cấu, thời gian cũng như chủ thể trần thuật luôn là những tiêu chí cơ bản
để kiểm định đâu là một tiểu thuyết có tính chất tự truyện, đâu là hồi ký, nhật ký.
2.1.4.2. Mối tương quan với tự truyện
Tự truyện và tiểu thuyết có tính chất tự truyện đều tập trung vào số phận cá
nhân trong quá trình hình thành, phát triển nhân cách. Cả hai đều sử dụng chất liệu
41
từ nguyên mẫu cuộc đời thực cùng những tình cảm, khát vọng, những biến cố trong
đời sống riêng tư và đời sống nội tâm của tác giả, nhưng mục đích, phương thức
sáng tạo của tự truyện và tiểu thuyết có tính chất tự truyện có những điểm khác
nhau. Ở tự truyện, cuộc đời và chân dung tinh thần tác giả là đối tượng khám phá
chủ yếu và được tái hiện một cách trọn vẹn, như thật. Trong tự truyện luôn có một
“hợp đồng ngầm” giữa tác giả và người đọc: “tôi sẽ kể lại cuộc đời thực của tôi”,
hoàn toàn trung thực, không hư cấu. Mục đích của tự truyện là nhằm hướng đến
“tìm hiểu con người có thật với lịch sử hình thành nhân cách. Điều này cũng đồng
nghĩa với một điều rằng: tự truyện không phải là một sáng tạo nghệ thuật của tác giả
mà là tư liệu báo cáo về cuộc đời và nhân cách của anh ta” [98, tr.41]. Những hư
cấu, nếu có, đều tập trung vào việc tạo ra đường nét mạch lạc cho những trải
nghiệm trong cuộc đời tác giả. Cảm thức tự thuật, ý thức tìm kiếm khám phá chính
mình, những tình cảm, suy nghĩ của chính tác giả luôn luôn nổi rõ trong mạch tự sự
của tác phẩm. Còn tiểu thuyết có tính chất tự truyện là dạng tiểu thuyết sử dụng kỹ
thuật hư cấu, hay sự kết hợp giữa tự thuật và những yếu tố hư cấu. Trong tiểu thuyết
có tính chất tự truyện, cuộc đời thực tác giả đã được nhào nặn lại, hư cấu hóa để trở
thành chất liệu cho tiểu thuyết. Trong khi, tự truyện, nếu truy nguyên lai lịch từ tiểu
sử cuộc đời đến từng diễn biến sự việc của nhân vật trong tự truyện thì có sự song
trùng rất rõ rệt với cuộc đời tác giả, hay nói cách khác, nó tựa như bức truyền thần
của tác giả. Ở tự truyện, khoảng cách giữa nhân vật tự thuật, người kể chuyện và tác
giả là một và điểm nhìn trần thuật trùng khít với điểm nhìn nhân vật xưng tôi. Còn
trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện, nhân vật xưng tôi (hoặc một hóa thân của
tác giả vào nhân vật tự thuật ở ngôi thứ ba) luôn giữ khoảng cách nhất định. Với
một tác phẩm tự truyện, tác giả gần như trung thành tuyệt đối “bản lí lịch đời mình”
và thuật lại một cách tự nhiên, trung thực.
Tuy nhiên, nhờ vào qui luật giao thoa và sự xâm nhập thể loại cùng với
những cách tân nghệ thuật đã giúp cho tự truyện và tiểu thuyết có điều kiện để dung
hợp vào trong nhau, tạo thành tiểu loại tiểu thuyết có tính chất tự truyện. Đấy là
trường hợp của Sống nhờ (Mạnh Phú Tư), Sống mòn (Nam Cao), Như cánh chim
bay (Võ Hồng), Trường cũ (Duyên Anh), Bếp lửa (Thanh Tâm Tuyền), Tôi nhìn tôi
42
trên vách (Túy Hồng), Miền thơ ấu (Vũ Thư Hiên), Chuyện kể năm 2000 (Bùi Ngọc
Tấn), Gia đình bé mọn (Dạ Ngân), Tấm ván phóng dao (Mạc Can)… Ở các tác
phẩm này, cùng một lúc nó dung chứa những nét đặc trưng của cả hai thể loại (tự
truyện và tiểu thuyết).
Sự giống và khác nhau từ tính chất và đặc điểm của tiểu thuyết có tính chất
tự truyện và tự truyện có thể được cụ thể hóa qua bảng tóm tắt sau:
Đặc điểm
Thể\Tiểu loại
Sự thật đời tƣ Ngôi trần thuật
Mối quan hệ giữa tác
giả - nhân vật - ngƣời
kể chuyện
Tự truyện
Đóng vai trò chủ
yếu.
Trần thuật ở ngôi
thứ nhất, xưng tôi.
Tác giả - nhân vật -
người kể chuyện là
một, đồng nhất.
Tiểu thuyết có tính
chất tự truyện
- Nghiêng về chất
tiểu thuyết.
- Sự thật đời tư +
Hư cấu.
Có thể trần thuật ở
ngôi thứ nhất hoặc
ngôi thứ ba.
Có thể tương đồng,
trùng khít nhưng hoàn
toàn không đồng nhất.
Việc phân biệt các thể loại như chúng tôi đã trình bày chỉ có tính chất tương đối.
Vì, tự truyện là thể loại có tính giáp ranh, nó nằm ở giao điểm giữa tiểu thuyết và hồi ký,
tự sự và trữ tình; và trong quá trình hình thành, phát triển của các thể loại văn học luôn có
hiện tượng thẩm thấu, xâm nhập lẫn nhau. Một tác phẩm có thể nghiêng về chất tự
truyện, chất hồi ký hay chất tiểu thuyết tùy trường hợp cụ thể.
Khảo sát một số thể loại có đường biên gần nhau, từ tự truyện, nhật kí, hồi kí,
đến tiểu thuyết có tính chất tự truyện, chúng tôi nhận thấy ngay trong nét chung về câu
chuyện cuộc đời tự kể giữa những thể loại này cũng có những khác biệt đáng kể được
qui định bởi đặc trưng của từng thể loại. Tuy nhiên, tự truyện, hồi ký, nhật ký, tiểu
thuyết có tính chất tự truyện được biết đến là những câu chuyện cuộc đời có thật của
chính tác giả đã từng trải qua hoặc chứng kiến. Mỗi câu chuyện là một cảnh đời, một số
phận mang một sắc thái, bối cảnh sống khác nhau nhưng tựu chung lại đều gửi gắm
những thông điệp giàu ý nghĩa về cuộc sống đến bạn đọc.
43
Trong quá trình vận động, phát triển của tiểu thuyết có tính chất tự truyện, ranh
giới của tiểu loại rất khó xác định. Đường biên giữa tiểu thuyết có tính chất tự truyện
với tự truyện, nhật ký, hồi ký… thường có tính giáp ranh rất cao. Vì đây là một tiểu
loại luôn có sự giao thoa, xâm nhập, dung hợp các thể loại khác nhau. Chính yếu tố này
làm cho tiểu thuyết có tính chất tự truyện dung chứa được nhiều phẩm tính ưu việt của
các thể loại khác trong việc tái hiện lại hiện thực đời sống muôn mặt hằng thường như
nó vốn có. Đồng thời, đây cũng là tiểu loại thể hiện rõ nét nhất tính năng động, linh
hoạt và sự thay đổi quan niệm về nghệ thuật của tiểu thuyết theo hướng hiện đại. Dù
cho việc xác định đường biên tiểu loại gặp không ít những khó khăn nhất định, nhưng
chúng tôi thiết nghĩ, đây là vấn đề cần phải xác định một cách khoa học.
Từ những gì khảo sát và nghiên cứu về tiểu thuyết có tính chất tự truyện, chúng
tôi giới thuyết khái niệm về tiểu thuyết có tính chất tự truyện, xem đây là cơ sở lý
thuyết cho luận án: Tiểu thuyết có tính chất tự truyện là một tiểu loại tiểu thuyết mà tác
giả đã sử dụng chất liệu đời tư của chính bản thân mình để hư cấu hóa thành thế giới
nghệ thuật tiểu thuyết. Trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện, bức chân dung tự họa
của tác giả được cấu trúc lại thành một sáng tạo nghệ thuật. Vì vậy, mối quan hệ giữa
tác giả - người kể chuyện - nhân vật trung tâm của tác phẩm khá gần nhau.
2.1.5. Cơ sở hình thành tiểu thuyết có tính chất tự truyện
Cho đến nay, tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở Việt Nam đã đi qua một chặng
đường khá dài, gắn liền cùng với sự vận động của lịch sử văn học dân tộc. Trong văn
học hôm nay, cùng với sự thay đổi hệ hình tư duy, tiểu thuyết có tính chất tự truyện
đang ngày một hiện diện nhiều trong đời sống văn học đã giúp cho tiểu thuyết Việt
Nam có những bước chuyển động đầy hứa hẹn.
2.1.5.1. Sự ra đời và phát triển của những thể loại mới
Trước khi xuất hiện hệ thống thể loại nghệ thuật tự sự có nguồn gốc từ phương
Tây như: tiểu thuyết, tự truyện, tiểu thuyết tự truyện, truyện ngắn… thì văn học Việt
Nam cũng đã có cả một hệ thống loại hình tự sự được định hình trong suốt chiều dài
của nền văn học trung đại. Trong khoảng thời gian ấy, các loại hình thơ gần như
chiếm thế đứng thượng phong, còn các loại văn tự sự ít có điều kiện để phát triển.
Dường như chưa bao giờ loại hình tự sự được xếp đứng ở vị trí ngang hàng với thơ,
44
đôi khi nó tồn tại trong tình trạng “nguyên hợp đặc thù”, mang tính “hỗn dung” lẫn
xen giữa tự sự và thơ, giữa tự sự và kí hay lịch sử… Có lẽ vì thế nên loại hình tự sự
trong văn học trung đại đã nhanh chóng tách mình ra khỏi sự chi phối của dòng văn
học chính thống, khuôn trong hệ thống thi pháp trung đại. Cho nên, trong bối cảnh
chung, khi mà thể văn tự sự vẫn còn mang đậm tính “ghi việc”, “chép sử” thì hình
bóng tác giả chỉ tồn tại như một kiểu vô nhân xưng, với vai trò thấu suốt tất cả. Tuy
vậy, vẫn có một số tác phẩm được hình thành từ kinh nghiệm hay chính bản thân tác
giả mà Nam ông mộng lục, Trần Khiêm đường niên phả lục và Thượng kinh kí sự là
những minh chứng điển hình. Nhưng do đặc thù của văn học trung đại, cái tôi tác giả
trong các tác phẩm này vẫn chỉ là “một thực thể ẩn”, mang tiếng nói của người ghi
việc, chép sự. Sự tự biểu hiện của tác giả vẫn còn bị giới hạn bởi những đặc tính
khách quan của thể ký lục, ghi chép, chưa thể vượt thoát nổi để trở thành một cái tôi
cá nhân. Đây cũng là điều hoàn toàn dễ hiểu, vì trong bầu không khí chung của thời
đại, phần lớn con người cá nhân gần như bị mờ nhòe trước con người chức năng,
phận vị. Vì vậy, để thực hiện được chức năng “tải đạo”, tác giả chỉ còn có thể khẳng
định mình qua việc “đồ chiếu” vào các chuẩn mực luân lý xã hội để phát ngôn.
Nhưng kể từ khi xã hội Việt Nam bắt đầu xuất hiện những yếu tố của một nền kinh tế
đô thị cùng với sự hình thành mẫu hình nhà nho tài tử (thế kỷ XVII - XVIII) thì thực
tế ấy bắt đầu có những thay đổi đáng kể. Cái tôi cá nhân bắt đầu hiện diện ngày một
rõ nét qua các tác phẩm của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ… Đặc
biệt là Sơ kính tân trang của Phạm Thái. Tác phẩm ra đời mang theo bóng dáng cái
tôi tự thuật đã đánh dấu bước tiến đáng kể cho loại hình tự sự trung đại. Tuy chỉ là tác
phẩm mang tính tự truyện buổi sơ kỳ, nhưng sự hiện diện của Sơ kính tân trang cũng
đủ để minh chứng cho sự phát triển của tinh thần tự ý thức trong đời sống văn học
thời trung đại. Và cái đích mà tác phẩm hướng đến không phải để “tải đạo” mà là câu
chuyện tình buồn, bi kịch lứa đôi có thật trong cuộc đời.
Sự hiện diện của Sơ kính tân trang đã đem đến cho loại hình tự sự Việt Nam
bóng dáng một cái tôi tự thuật. Có thể nói, đây chính là bước khởi động ban đầu,
đánh dấu sự xuất hiện dạng tự thuật, mở ra một hướng đi mới, góp phần hình thành
nên những tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở Việt Nam.
45
Với tư cách là một loại hình nghệ thuật, một hình thái ý thức xã hội mang
tính đặc thù, văn học có tiến trình vận động luôn gắn liền với tiến trình phát triển
của lịch sử xã hội. Văn học Việt Nam cũng không nằm ngoài qui luật vận động ấy.
Mỗi một thời kì lịch sử khác nhau, các nhà văn luôn có sự thay đổi trong quan điểm
thẩm mỹ và quan niệm nghệ thuật về con người cho phù hợp với thời đại. Bởi, tất cả
sự đổi mới trong văn học nghệ thuật chỉ có giá trị khi và chỉ khi tạo ra được những
giá trị thẩm mỹ cũng như những nguyên tắc cắt nghĩa về con người. Trên cơ sở
những thay đổi về văn hóa - xã hội trong thế kỷ XX, văn học Việt Nam đã có những
bước chuyển biến mới trong quan niệm nghệ thuật về con người.
Một biểu hiện đặc biệt quan trọng trong bước chuyển mới của văn học là sự phát
triển của hệ thống thể loại. Chỉ trong vòng chưa đầy nửa thế kỷ (1900 -1945), nhưng văn
học Việt Nam đã sớm có được cả một hệ thống thể loại tương đối hoàn chỉnh như: tiểu
thuyết, truyện ngắn, phóng sự, tùy bút, phê bình văn học, thơ mới, kịch… Các thể loại
này đã nhanh chóng chiếm lĩnh vị trí trung tâm, thay thế cho hệ thống thể loại cũ, vốn tồn
tại từ lâu trong văn học trung đại. Điều đáng nói là, gần như tất cả các thể loại được hình
thành và phát triển trong quá trình hiện đại hóa đều tồn tại “trong trạng thái động”, có sự
dung hợp, xâm nhập lẫn nhau. Đây là một trong những yếu tố kích thích sự phát triển của
văn học, đồng thời nó cũng làm cho mỗi thể loại càng trở nên phong phú và đa dạng
thêm. Cùng với sự vận động của hệ thống thể loại, một trong những hiện tượng đáng để
lưu tâm nhất là quá trình hiện đại hóa văn học trên phương diện thể loại được khởi động
từ thể tài văn xuôi mà trước hết là tiểu thuyết, một thể loại mặc dù đã có mặt trong đời
sống văn học trung đại nhưng thành tựu không nhiều.
Tiểu thuyết, một thể loại mang đậm “cái nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư... có
khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các thể loại văn học khác”
[34, tr.330], cùng với tính năng “chưa hề chịu ngưng kết”, nó đã “lấn át thể loại này,
thu hút thể loại kia vào trong cấu trúc của mình… nó làm chúng lây nhiễm tính biến
đổi và tính không hoàn thành. Nó lôi cuốn chúng một cách đầy quyền lực vào quỹ
đạo của mình” [82, tr.27 - 30]. Chính nhờ những đặc tính ấy của tiểu thuyết đã tạo
điều kiện cho tiểu thuyết có tính chất tự truyện, một tiểu loại nằm trung gian giữa tiểu
thuyết và tự truyện ra đời.
46
2.1.5.2. Sự xuất hiện con người cá nhân trong văn học
Được thổ lộ, giãi bày, điều cứ ngỡ rằng là lẽ thường tình của mỗi con người
khi cần chia sẻ những nỗi niềm suy tư, trăn trở. Nhưng trong suốt một thời gian dài,
xã hội Việt Nam chỉ tiếp xúc với các nền văn hóa phương Đông và chủ yếu là tiếp
xúc với nền văn hóa Trung Hoa, hầu như những gì thuộc về thế giới tình cảm riêng
tư đều bị xếp vào hàng thứ yếu.
Từ trong thực tiễn đời sống, với một đất nước có nền kinh tế nông nghiệp
trồng lúa nước, con người sống trong tình bao bọc của cộng đồng làng xã dưới lũy
tre làng, thường xuyên đối mặt với thiên tai địch họa, nên từ lâu tính cộng đồng đã
trở thành một hằng số gần như bất biến trong đời sống của người Việt. Trong tâm
thức mỗi con người Việt Nam hay e ngại khi bị tách rời khỏi môi trường sống tập
thể, họ gần như không muốn thay đổi môi trường sống của bản thân mình. Cho nên,
chuyện rời bỏ quê hương, đến xứ khác sinh sống thường qui gắn với cụm từ “tha
hương”, chia lìa. Và cá nhân con người thường hay gắn với gia đình, dòng tộc, cộng
đồng. Hơn nữa, trong xã hội phong kiến, không gian văn hóa con người Việt Nam
bị chi phối bởi những tư tưởng của tam giáo, trong đó tư tưởng Nho giáo luôn đóng
vai trò chủ đạo, chi phối đời sống tinh thần con người Việt. Trong bối cảnh “văn
hóa cổ - trung đại vốn nặng tính chất quan phương, khép kín, khả năng con người tự
ý thức về mình và hướng tới khám phá, thể hiện từng số phận con người thật không
dễ” [94, tr.31]. Vì vậy, những nhu cầu tình cảm mang tính riêng tư ít được đề cao.
Đầu thế kỷ XX, Pháp đẩy nhanh công cuộc khai thác thuộc địa, khiến cho cơ cấu xã
hội Việt Nam có nhiều thay đổi: từ một xã hội phong kiến trở thành một xã hội thực
dân nửa phong kiến với nhiều nhà máy, trung tâm thương nghiệp, các đô thị mới
dần được hình thành khắp cả nước dẫn đến sự ra đời tầng lớp thị dân mới. Chính
hiện thực đời sống ấy đã hình thành nên “nền văn hóa phi cổ truyền” (Phan Ngọc)
mang đậm dấu ấn của văn học phương Tây mà chủ yếu là văn học Pháp đã tác động
sâu sắc đến thị hiếu thẩm mỹ của cư dân thành thị. Họ cảm thấy ngột ngạt trong bầu
không khí ngập tràn những định chế tư tưởng luân lý, họ muốn sống thực, muốn đời
hơn trong nếp sống, nếp cảm, nếp nghĩ, muốn hướng đến con người tự do trong suy
nghĩ, hành động. Trong họ, giờ đây dấy lên tư tưởng muốn tháo bỏ tất cả những hệ
47
lụy, ràng buộc của tư tưởng cũ để khoác lên mình bộ cánh cách tân. Và khi ý thức
cá nhân bắt đầu trỗi dậy, thì một trong những nhu cầu thiết yếu nhất đang đặt ra cho
văn học thời kỳ này đó là đấu tranh giải phóng tình cảm, giải phóng con người cá
nhân. Chính hiện thực này đã tạo điều kiện cho con người cá nhân có dịp được bừng
thức, nảy nở để rồi nó nhanh chóng trở thành yếu tố trung tâm, làm thay đổi văn học
Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỷ XX.
Có thể nói, sự bùng nổ về ý thức cá nhân này được thai nghén trong suốt chiều
dài của văn học trung đại và đến đầu thế kỷ XX, nhờ sự du nhập của văn hóa phương
Tây đã tiếp sức cho nó để thoát thai, trở thành cái tôi tự thuật đầy tươi trẻ. Và nhân
vật đi đầu trong việc “thử bút”, đưa cái tôi tự thuật trình làng giữa đời sống văn học
Việt Nam vào những ngày cách tân đầu tiên ấy không ai khác hơn chính là lớp nhà
nho cuối mùa mang tư tưởng cấp tiến. Ra đời cùng thời với Ngục trung thư và Phan
Bội Châu niên biểu (Phan Bội Châu), Giấc mộng lớn của Tản Đà bước đầu đã xác lập
được tiếng nói cá nhân qua hình hài của cái tôi tự thuật. Trong lời tựa, Tản Đà viết:
“Giấc mộng lớn chép để làm gì? Giấc mộng con chép, thời sao Giấc mộng lớn lại
không chép. Nghĩ như người ta sinh ra đời, không ai dễ mấy thân nên mình yêu mình
là cái tình chung của nhân loại. Một cái tình yêu đó, không cứ đẹp hay xấu, hay hay
dở mà yêu thời cứ yêu. Bởi thế cho nên phóng truyền thần, đời càng văn minh thời
cái cách yêu mình càng tiến bộ” [92, tr.602]. Theo Tản Đà, mục đích viết tác phẩm
không gì khác hơn đó chính là “cái cách yêu mình”, cách tự khẳng định tiếng nói cá
nhân của mình theo kiểu riêng, “tùy ý chép ra, không có mạch lạc, không có quy tắc,
không kể việc khinh việc trọng, không hiềm cái dở cái hay, muốn lược thời lược,
muốn tường trình thời tường, chẳng qua là một cuốn văn chơi…” [92, tr.602]. Điều
này hoàn toàn khác hẳn với quan niệm văn chương trong quá khứ. Nếu như trước
đây, những tác giả trong văn học trung đại thường khẳng định cái tôi của mình trong
mối quan hệ với chức năng, phận vị, hay đó là cái tôi thị tài, bất đắc chí, đầy ngông
nghênh, muốn phá bỏ những định chế của xã hội phong kiến thì các tác giả của tiểu
thuyết có tính chất tự truyện giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX khẳng định cái tôi “với cái
nghĩa tuyệt đối của nó” dưới ánh sáng sự thật từ chính cuộc đời tác giả. Trong văn
học trung đại, người đọc khó có thể tìm thấy khát vọng tự khẳng định mình một cách
48
đầy mạnh mẽ như thế này: “ta phải tạo ra tương lai, chính thế! Bằng cách nào? Bằng
cách phá hoại cho bằng hết những ảnh hưởng còn sót lại ở ta. Của cái thế giới cũ và
tự biến đổi ta thành con người mới, khả dĩ ứng dụng cho sự xây dựng một tân văn
hóa” [52, tr.125]. Và càng không thể bắt gặp được những dòng văn tự thú về lai lịch
cuộc đời của chính tác giả như: “Thầy tôi làm cai ngục, mẹ tôi là con nhà buôn bán.
Tuổi thầy tôi hơn ba mươi, gấp đôi tuổi mẹ tôi. Hai thân tôi lấy nhau không phải vì
quen biết nhau lâu và thương yêu nhau… Tôi đẻ ra, được biết bao nhiêu anh em cha
mẹ những tội nhân có máu mặt đến chúc mừng, biết bao nhiêu kẻ quen thuộc thường
nhờ vả ông bà tôi lại thăm nom ” [43, tr.5]. Sự thức nhận có ý thức này nhìn ở góc độ
nào đó nó chính là sản phẩm của văn hóa phương Tây nhưng nếu như không có sự
tiếp nối dòng chảy của con người cá nhân trong văn học truyền thống có lẽ, nó cũng
sẽ chẳng bao giờ hình thành nên được một cái tôi tự truyện trong tiểu thuyết Việt
Nam chặng đường nửa đầu thế kỷ XX.
2.2. Diện mạo của tiểu thuyết có tính chất tự truyện thế kỷ XX
2.2.1. Giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến 1945
Đầu thế kỷ XX, cùng với sự thay đổi trong hệ hình tư duy theo hướng hiện
đại, với quan niệm hiện thực là thế giới khách quan, tồn tại độc lập đã đưa đến quan
niệm xem văn chương là hình thức “mô phỏng” hay “bắt chước” hiện thực - là tấm
gương phản chiếu hiện thực đời sống. Sáng tạo văn chương đi theo trình tự: từ ý
tưởng đến cách thức thể hiện. Có ý tưởng, xây dựng ý tưởng xong mới tiến hành chọn
lựa cách thức thể hiện sao cho dung chứa đầy đủ ý tưởng và đạt được hiệu quả cao
nhất. Nhằm truyền tải, thực hiện nhiệm vụ phản ánh thực tại, văn chương chú trọng
nguyên tắc trình bày, miêu tả, mô phỏng hiện thực nhằm hướng đến xây dựng một
thế giới giống như thật. Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX đến 1945 bắt
đầu “đoạn tuyệt” hẳn lối tiểu thuyết chương hồi với kiểu nhân vật hành động cùng
những tình tiết, sự kiện, xung đột đầy kịch tính để hướng đến xây dựng tiểu thuyết
theo kết cấu tâm lý. Nói cách khác, trung tâm điểm của kết cấu truyện bắt đầu có sự
chuyển đổi từ không gian rộng lớn cùng với những biến cố, sự kiện sang chiều sâu
tâm lý con người, và cốt truyện truyền thống dần được thay thế bằng cốt truyện tâm
lý. Nhân vật trong tiểu thuyết cũng bắt đầu rời khỏi kiểu nhân vật hành động cùng
49
những đại diện cho những phạm trù đạo đức để hướng đến xây dựng nhân vật như
con người của đời sống thường nhật với những rung cảm tinh tế bên trong nội tâm
cùng các mối quan hệ giữa con người với nhau trong xã hội như nó vốn có. Chính vì
thế, khi đi vào lý giải tính cách nhân vật, tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn này bước
đầu đã có những thể nghiệm về việc lý giải tính cách con người như là một sản phẩm
của hoàn cảnh, được hình thành và phát triển gắn liền cùng môi trường sống, nó luôn
luôn ở trong trạng thái vận động tự thân chứ không còn là sản phẩm “vốn sẵn tính
trời”, nguyên phiến, bất biến, không hề chịu sự tác động của hoàn cảnh. Đây cũng là
một trong những yếu tố đánh dấu sự chuyển mình của nền văn học trung đại, mang
đậm dấu ấn đặc trưng văn hóa phương Đông sang tư duy văn học phương Tây, gắn
liền với trào lưu văn học lãng mạn và hiện thực.
Trên nền của đời sống văn học đang làm cuộc cách tân rầm rộ, những tác
phẩm tiểu thuyết có tính chất tự truyện cũng định hình được gương mặt tiểu loại của
mình trên văn đàn. Những ngày đầu khi Phan Bội Châu niên biểu hay Giấc mộng
lớn của Tản Đà ra đời, người đọc còn thấy bỡ ngỡ với tiểu thuyết có tính chất tự
truyện nhưng chỉ một thời gian ngắn, có đến hàng loạt tiểu thuyết như Bốc đồng,
Mực mài nước mắt, Chiếc cáng xanh, Sống nhờ, Dã tràng, Ngậm miệng, Hai người
điên giữa kinh thành Hà Nội, Sống mòn ra đời mang theo câu chuyện đời tư tự kể
đã nhanh chóng trở nên quen thuộc và neo vào lòng người đọc niềm trăn trở, xót xa.
Dẫu thế nhưng, đại từ nhân xưng “tôi” mang nghĩa tuyệt đối của cá nhân nhà văn
trong tiểu thuyết vẫn còn có những giới hạn nhất định, trong khi, Thơ Mới cùng với
sự hiện diện của cái tôi cá nhân tác giả đã đủ sức lớn mạnh để chiến thắng cả một
thời đại chữ Ta từng tồn tại hàng nghìn năm trong loại hình văn học trung đại dân
tộc. Tuy nhiên, sự hiện diện của cái tôi tự thuật trong tiểu thuyết có tính chất tự
truyện cũng đã tạo nên được những thành tựu đáng kể cho văn học Việt Nam trên
bước đường hiện đại hóa.
Đặc trưng của tự thuật nói chung và tiểu thuyết tự truyện nói riêng thường là
do một người thật ngược dòng thời gian kể lại đời mình, nhấn mạnh tới cuộc sống cá
nhân, đặc biệt là lịch sử hình thành nhân cách. Phần lớn các tiểu thuyết tự truyện trên
thế giới được viết ra khi tuổi đời của tác giả đã khá lớn, bởi thể loại tiểu thuyết này
50
cần phải có một độ lùi nhất định về thời gian để “ngẫm về đời” từ những trải nghiệm
chính bản thân mình mới viết nên được những dòng “tự thú thành thật”. Khi người
cầm bút có nhu cầu đào xới chiều sâu bản thể, lẽ đương nhiên họ sẽ ngược dòng thời
gian, hồi tưởng lại quá khứ để nhìn nhận lại quá trình hình thành nhân cách. Vì vậy,
trong tiểu thuyết tự truyện, người kể chuyện thường đứng ở một thời điểm hiện tại để
nhìn lại quá khứ của mình tựa như một lối tìm về để hiểu rõ mình hơn. Văn học thế
giới cũng đã có rất nhiều tự truyện mà ở đó quãng đời trong quá khứ của mình được
nhà văn lưu tâm khám phá như: Đi tìm thời gian đã mất của M. Proust, Tuổi thơ của
N. Sarraute, Sống để kể lại của G.G. Marquez, Thời thơ ấu, Thời niên thiếu của L.
Tolstoy, hay Thời thơ ấu và Những trường đại học của tôi của M. Gorky… Ở Việt
Nam, mặc dù khi bàn về tiểu thuyết tự truyện, giới nghiên cứu còn thận trọng trong
việc xác định danh tính thể loại, tuy nhiên, qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy cùng với
sự lớn mạnh của thể loại tiểu thuyết chặng đường nửa đầu XX, trong tiểu thuyết đã có
sự xâm nhập của tự truyện. Mặc dù số lượng tác phẩm chưa nhiều, nhưng nó cũng đã
đạt được những thành tựu nhất định. Phần lớn trong số các tác giả này đều là những
trí thức nghèo thành thị. Họ “tự thú” về cuộc đời mình khi tuổi đời còn khá trẻ:
Nguyên Hồng viết Những ngày thơ ấu năm 18 tuổi, Đỗ Đức Thu viết Bốc đồng năm
32 tuổi; Lan Khai viết Mực mài nước mắt năm 35 tuổi; Lưu Trọng Lư viết Chiếc
cáng xanh năm 30 tuổi; Mạnh Phú Tư viết Sống nhờ năm 28 tuổi; Nam Cao viết Sống
mòn năm 27 tuổi. Chính vì những tiểu thuyết có tính chất tự truyện này được viết ra
khi tuổi đời của tác giả còn khá trẻ cho nên nó cũng mang một sắc thái rất riêng.
Những ký ức tuổi thơ luôn thường trực trong hầu hết các tác phẩm ra đời trong
chặng đường này. Và điều đáng nói ở đây là, gần như những mảng đời bất hạnh
trong quãng thời thơ ấu của mình đều được nhà văn kể một cách thành thật. Nếu
như con người cá nhân trong Thơ Mới từng đôi lần cảm thấy cô độc khi tìm về với
“đường về thu trước” xa lắm, hay sợ nỗi cô đơn khi gặp lại và đối diện với chính
mình “Chớ để riêng em phải gặp lòng em” (Xuân Diệu), thì ở tiểu thuyết có tính chất
tự truyện điều này gần như hoàn toàn ngược lại. Các nhà văn lật xới lại quá khứ đời
mình như một sự tìm về để gặp lại chính mình. Vì vậy, nhiều tiểu thuyết có tính chất
tự truyện chặng đường nửa đầu thế kỷ XX viết về thời thơ ấu thường đi vào khai thác
51
những nỗi đau, những thua thiệt trong đời như phần nào đó để tác giả lý giải về quá
trình hình thành nhân cách của mình. Nhờ thế, khi đến với những trang tiểu thuyết
này, người đọc mới có dịp sống trong miền hiện thực vốn từ lâu đã phong kín trong
thẳm sâu tâm hồn từng nhà văn và góc khuất về lai lịch cuộc đời tác giả cũng được hé
mở dưới lớp ngôn từ tiểu thuyết.
Với nhịp chuyển mau lẹ của văn học Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa, sự
xuất hiện của tiểu thuyết có tính chất tự truyện nửa đầu thế kỷ XX đã đánh dấu bước
tiến mới trong quan niệm về con người. Con người xuất hiện trong các tác phẩm từ
nhân vật cậu bé Hồng (Những ngày thơ ấu), Dần (Sống nhờ), đến nhân vật Tôi (Chiếc
cáng xanh), Điệp (Hai người điên giữa kinh thành Hà Nội), Tôi (Ngậm miệng), Khải
(Mực mài nước mắt), Thứ (Sống mòn)… đều tồn tại như một thực thể đơn nhất, có cả
một quá trình hình thành nhân cách chịu sự chi phối và tác động từ hoàn cảnh thực
tại. Kiểu tính cách này chính là sản phẩm của thời hiện đại, nó gần như hoàn toàn đối
lập với cách xây dựng tính cách con người trong văn học trung đại. Văn học trung đại
thường quan niệm nhân cách con người như một sản phẩm “nguyên phiến” của tự
nhiên, gần như là một “thứ tính trời”, nên dù cho hiện thực đời sống luôn vận động
không ngừng thì tính cách ấy vẫn không hề thay đổi.
Ở chặng đường đầu thế kỷ XX đến 1945, tiểu thuyết có tính chất tự truyện đã có
những thể nghiệm đầu tiên trong việc lý giải tính cách con người bằng hoàn cảnh. Tính
cách của Dần trong Sống nhờ là cả những đan xen giữa tình yêu thương, dễ xúc cảm,
và sự ngang ngạnh, ương bướng. Tất cả những tính cách ấy đều có nguồn mạch của nó:
tình yêu thương, và xúc cảm được hình thành nên từ những ngày sống trong vòng tay
che chở của bà và những khoảnh khắc ngọt ngào của tình mẫu tử. Và tính ngang
ngược, ương bướng nảy sinh từ những phản ứng tất yếu trước sự đối xử tàn tệ của
người dì và hai người chú. Chính điều này đã làm nên cách cư xử, phản ứng đôi khi
đầy mâu thuẫn của Dần trong cuộc sống. Nhân vật Thứ trong Sống mòn luôn ẩn chứa
những tính cách đầy mâu thuẫn giữa một con người có nhân cách, có khát khao, hoài
bão cao đẹp và sự ti tiện, nhỏ nhen, ích kỷ khiến cho Thứ trượt dài trong cảnh sống vô
nghĩa. Những nét tính cách ấy của Thứ nảy sinh từ hoàn cảnh sống thực tại, một thực
tại của người trí thức luôn đối mặt với những chật vật của nạn cơm áo đời thường.
52
Một trong những điểm đáng lưu ý nữa của những tiểu thuyết này đó chính là ở
phương diện kết cấu chuyện. Các tiểu thuyết có tính chất tự truyện chặng đường nửa
đầu thế kỷ XX thường có xu hướng lội ngược dòng ký ức để tìm lại quá khứ đời
mình, nên kiểu kết cấu câu chuyện thường được triển khai theo chuỗi thời gian tuyến
tính với trình tự biên niên. Nhà văn hay bắt đầu dòng hồi tưởng theo trình tự dòng
chảy thời gian nhất định cùng những diễn biến, sự kiện từng xảy ra trong đời mình.
Điều này cũng tạo nên không ít những hạn chế cho các tác phẩm ra đời ở chặng
đường đầu này.
Trong Sống nhờ, tuổi thơ của Mạnh Phú Tư dần hiện lên theo trình tự thời
gian từ thuở “Tôi sinh vào giờ dần” đến khi “tôi lên tỉnh thi”… rồi xuống Hải Phòng
học cho đến khi “tôi thi vào lớp Sư phạm. Và kết quả cuối cùng cả năm là: trượt”
[152, tr.141], gắn liền với những biến cố dồn dập trong đời sớm đẩy tác giả vào cảnh
sống “ăn nhờ ở đậu” hết bên nội rồi đến bên ngoại trong sự tệ bạc của những người
chú, người cậu. Trong Chiếc cáng xanh, Mực mài nước mắt, Sống mòn… các câu
chuyện cũng được hồi thuật lại theo chuỗi thời gian biên niên. Tuy nhiên, chuỗi thời
gian ấy được tái dựng lại theo dòng hoài niệm. Cho nên, trong tiểu thuyết có tính chất
tự truyện thường ít sự kiện, ít xung đột, kịch tính, thường chỉ là những mẩu chuyện
đời thường nhưng lại được lưu giữ trong miền ký ức tác giả. Từ chuyện đứa trẻ thèm
được yêu thương “trong lòng mẹ”, thèm được ăn quà (Sống nhờ), đến những suy nghĩ
đầy nhỏ nhen của ông giáo dạy học trường tư (Sống mòn), hay cảnh sống khốn khó
của một văn sĩ nghèo hàng ngày luôn đối mặt với cảnh “hết tiền nhà đến tiền gạo…
và còn tám nhăm thứ tiền khác nữa” (Mực mài nước mắt).
Sự xuất hiện của tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong giai đoạn đầu thế kỷ
XX đến 1945, mặc dù còn có những giới hạn nhất định, tuy nhiên, đây cũng là bước
chuyển động ban đầu để tạo đà cho sự phát triển của tiểu loại tiểu thuyết này trong
những năm về sau.
2.2.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975
Từ bước chuyển ban đầu ở giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, tiểu thuyết có tính
chất tự truyện lưu lại những dấu ấn đậm nét qua hàng loạt tác phẩm ra đời ngay giữa
lòng đô thị miền Nam trong những năm mà cả nước đang ngập tràn lửa đạn của chiến
53
tranh. Trong khi, cả một thời gian dài ở giai đoạn này, tiểu thuyết có tính chất tự
truyện không xuất hiện trong văn học cách mạng thì mảnh đất phương Nam cùng với
những điều kiện văn hóa tương đối khác, mặc dù đời sống xã hội bất ổn về chính trị
nhưng người nghệ sĩ lại mạnh dạn hơn trong sáng tạo nghệ thuật.
Nhờ sự mở rộng, giao lưu với những tư tưởng hiện đại đến từ khắp nơi trên thế
giới mà các trào lưu, lý thuyết văn học, các luồng tư tưởng được giới thiệu một cách
rộng rãi, đa dạng. Từ thuyết hiện sinh với S.Kiekegaard, F.Nietzsche, K.Jaspers, J. P.
Sartre… đến hiện tượng luận với Husserl, Merleau-Ponty, Gabriel Marcel…; từ
thuyết cấu trúc đi từ lĩnh vực ngôn ngữ học của F.de Saussure đến nhân chủng học và
văn học với Claude-Levi Strauss, Roland Barthes và cả phân tâm học của Freud… đã
“tạo cho con người những cái nhìn, những viễn tượng mới, đưa tâm hồn con người đi
xa vào nhiều thế giới bên ngoài, cũng như đi sâu hơn vào nội giới bên trong nó, để
nhận biết được chính con người mình và cuộc đời hơn.” [85, tr. 68]. Nhờ thế mà văn
học miền Nam mới có cơ hội tiếp nối được cuộc hành trình khám phá cái tôi cá nhân
của văn học Việt Nam ở những năm về trước trên nhiều bình diện khác nhau. Đây
cũng là bước tạo đà cho văn học có dịp đi vào thâm nhập đời sống hiện thực, dần khai
mở từng mảng sáng - tối, đen - trắng vô cùng phức tạp của những năm tháng đất nước
chìm ngập trong đau thương chiến tranh. Từ Nửa đêm trăng sụp, đến Trăm nhớ ngàn
thương của Bình Nguyên Lộc, hay Thương hoài ngàn năm của Võ Phiến, Đêm tóc
rối, Con sâu của Dương Nghiễm Mậu, Như thiên đường lạnh, Khung rêu của Nguyễn
Thị Thụy Vũ… đều là những cảm nhận sâu sắc về thân phận con người trong thế giới
đầy phi lý. Đời sống luôn được miêu tả trong các tác phẩm này như thảm kịch, là hư
vô, kiếp người mong manh, chới với trong ngập tràn đau khổ, cô đơn, chia lìa…
Trong thế giới ấy, các nhân vật tiểu thuyết cũng đã vẫy vùng, nổi loạn để chống trả
cho dù là chống trả trong tuyệt vọng. Họ muốn chống lại sự phi lý, muốn tìm ý nghĩa
tuyệt đích giữa cuộc đời để đừng “buồn nôn”, đừng bị đắm chìm trong vũng lầy kinh
khủng của thực tại, nhưng họ lại rơi vào bi kịch tuyệt vọng trước hiện thực cuộc đời
đầy những phi lý đang hiển hiện. Những tác phẩm: Một mình (Võ Phiến), Cát lầy
(Thanh Tâm Tuyền), Điệu ru nước mắt (Duyên Anh), Bóng tối thời con gái (Nhã
54
Ca), và hàng loạt các tiểu thuyết của Thế Uyên, Y Uyên, Nguyễn Thị Thụy Vũ,
Hoàng Anh Tuấn… đều thể hiện góc nhìn chân thật về thân phận con người trong
thời đại giông bão. Có thể nói, những chiêm nghiệm đa chiều về thân phận con người
là một trong những nét nổi trội trong tiểu thuyết ở chặng đường này.
Giữa hiện thực đời sống đầy sôi động của văn học đô thị miền Nam trong
những năm tháng đất nước chia cắt hai miền Nam Bắc ấy, tiểu thuyết có tính chất tự
truyện vẫn tiếp tục dòng chuyển lưu của mình. Điều này được đánh dấu bằng sự trình
làng của một số tác phẩm ngay giữa lòng đô thị miền Nam. Khi Mười đêm ngà ngọc
của Mai Thảo ra đời, dư luận công chúng độc giả thời bấy giờ đã thoáng thấy bóng
dáng câu chuyện tình vượt ra ngoài khung nền văn hóa phương Đông ẩn trong tâm
tình “chuyện ba người” tựa như chuyện tình một thời từng xôn xao giữa Mai Thảo và
ca sĩ Thái Thanh. Cho đến Vòng tay học trò của Nguyễn Thị Hoàng cũng đã làm dấy
lên làn sóng trong dư luận những ngờ vực rằng: liệu chăng đây là câu chuyện tình của
chính nữ sĩ? Bởi hình ảnh cô giáo Tôn Nữ Quỳnh Trâm có nhiều điểm tương đồng
với lai lịch tác giả: sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Huế, sau đó chuyển vào sinh sống
ở Nha Trang, từng học Đại học Văn khoa và Luật ở Sài Gòn, nhưng rồi bỏ ngang, lên
Đà Lạt dạy học… Tuy nhiên, đây cũng chỉ là một vài ba nét chấm phá về cuộc đời tác
giả qua tác phẩm. Tính chất tự truyện trong tiểu thuyết ở đô thị miền Nam chỉ thực sự
in đậm dấu ấn của mình qua Hoa bươm bướm và Như cánh chim bay của Võ Hồng,
Tôi nhìn tôi trên vách của Túy Hồng, Bếp lửa của Thanh Tâm Tuyền... Ở những tác
phẩm này, mức độ nhận biết về sự thật trong tác phẩm có phần khó hơn so với các tác
phẩm ra đời ở giai đoạn trước, đa phần sự thật trong tác phẩm đã được “làm mới” lại
qua nghệ thuật hư cấu, chất tiểu thuyết trong các tác phẩm này có phần đậm hơn và
chất tự truyện khá mờ nhạt. Người đọc nếu như không có một vốn hiểu biết nhất định
về tác giả sẽ khó mà nhận diện ra được đâu là cuộc đời, con người thật của tác giả,
đâu là nhân vật hư cấu trong tác phẩm. Nhân vật Luân (Hoa bươm bướm), Trâm
(Vòng tay học trò), Khanh (Tôi nhìn tôi trên vách) đã không còn “mang tấm thẻ căn
cước” cuộc đời tương khớp với nhà văn nữa mà họ chỉ còn là “cái bóng”, “hao hao”
giống tác giả.
55
Mặc dù con số tác phẩm chưa nhiều nhưng phần nào đó cũng cho thấy ngay
giữa những ngày tháng đau thương của dân tộc, dòng tiểu thuyết có tính chất tự
truyện vẫn có được sức sống riêng, tiến trình vận động của nó gần như không hề đứt
quãng, vẫn có sự tiếp nối, kế thừa và bồi đắp theo thời gian.
2.2.3. Giai đoạn từ 1975 đến hết thế kỷ XX
Sau 1975, khi hòa bình lập lại, đất nước thống nhất, con người trở về với
cuộc sống đời thường cùng bao bộn bề vốn có của nó, sự muôn mặt của đời sống
như tiếp thêm sức mạnh, thổi bùng lên sức hồi sinh của lối viết tự truyện trong tiểu
thuyết Việt Nam. Sau 1986, có đến hàng loạt những tác phẩm tiểu thuyết có tính
chất tự truyện ra đời như: Thời xa vắng của Lê Lựu, Miền thơ ấu của Vũ Thư Hiên,
Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán, Nỗi buồn
chiến tranh của Bảo Ninh…
Từ sau thời kỳ đổi mới, cùng với những thay đổi quan niệm hiện thực và con
người đã tạo điều kiện cho nhà văn “tự tìm lại chính mình”, để một lần được trung
thực với mình, chân thành bộc bạch, giãi bày những niềm suy tư, trăn trở ẩn sâu trong
bể tâm hồn. Người nghệ sĩ cũng đã có dịp để “tự thú” một cách thành thật: “Đọc lại
những trang viết của tôi một thời mà tiếc cho những năm tháng đã sống vất vả, sống
nguy hiểm, sống hào hùng rút lại chỉ còn là những bài báo nhạt nhẽo, không có một
chi tiết nào là thật, không có một khung cảnh nào day dứt, gợi nhớ, không có một
gương mặt nào cám dỗ, ám ảnh” [10, tr.53]. Có lẽ vì thế mà công chúng độc giả hôm
nay ít nhiều được bắt gặp bóng dáng cuộc đời thực của nhà văn đổ bóng xuống trang
tiểu thuyết. Và hiện tượng này còn kéo dài cho đến những năm đầu thế kỷ XXI qua
các tác phẩm: Thượng đế thì cười (Nguyễn Khải), Một mình một ngựa (Ma Văn
Kháng), Gia đình bé mọn (Dạ Ngân), Tấm ván phóng dao (Mạc Can)… Ở các tác
phẩm này, gần như phần tiểu sử đời tư tác giả đã được “viết lại” bằng thủ pháp nghệ
thuật theo dụng ý của tác giả.
Như trường hợp Chuyện kể năm 2000, truyện được hư cấu hóa từ chính một
quãng đời mà Bùi Ngọc Tấn từng trải qua trong những năm tháng tù đày. Nhưng
điểm khác ở đây là giữa nhân vật chính trong tác phẩm và nhà văn khá tương khớp:
vẫn là năm sinh ấy (1934), vẫn số hiệu tù CR880, vẫn là hoàn cảnh, sự kiện diễn ra
56
trong suốt quãng thời gian nếm trải cảnh lao tù nhưng nhà văn đã “đánh tráo”, nhân
vật được trần thuật từ ngôi thứ ba, làm cho câu chuyện hiện thực từ chính cuộc đời
tác giả bị nhòe đi. Chuyện được kể từ điểm nhìn của nhân vật “hắn”, nhà văn đã tạo
cho mình một khoảng cách với nhân vật. Vì thế, nhân vật “hắn” dẫu có là bản sao
của cuộc đời tác giả đi chăng nữa thì giữa nhân vật và tác giả cũng không hoàn toàn
là một, dù rằng tác giả của tiểu thuyết này đã từng thú nhận: “Chuyện kể năm 2000
là một quyển tiểu thuyết mang đậm chất tự sự. Nó in dấu ấn cuộc đời tác giả tức là
tôi, gần như không thêm bớt…” [59]. Thực ra, đây không phải là vấn đề mới của
tiểu thuyết, vì trong đời sống văn học trên thế giới và cả ở Việt Nam những năm về
trước cũng đã có hiện tượng này. Tuy nhiên, mỗi một nền văn hóa và mỗi một thời
đại lịch sử khác nhau thì khả năng sáng tạo từ nguyên mẫu cũng như năng lực hư
cấu/ tự hư cấu của từng nhà văn mang những nét khác nhau mà không hề có bất cứ
sự trùng lắp nào.
57
TIỂU KẾT
Tiểu thuyết có tính chất tự truyện ra đời gắn liền với quá trình hiện đại hóa
văn học Việt Nam. Nó chính là sản phẩm của sự cộng sinh giữa nội lực truyền
thống văn hóa dân tộc kết hợp với sự tiếp biến một cách có chọn lọc văn hóa
phương Tây cùng những khát vọng tự do, ý thức cá nhân của người nghệ sĩ. Đặc
biệt, sự ra đời của tiểu loại này là kết quả của quá trình vận động và phát triển trong
trạng thái dung hợp giữa tiểu thuyết và tự truyện - giữa tự truyện và tiểu thuyết.
Chính sự lai ghép này giúp cho tiểu thuyết có tính chất tự truyện mang chứa một số
đặc điểm của hai thể loại gốc là tiểu thuyết và tự truyện.
So với các thể loại khác, tiểu thuyết có tính chất tự truyện có tuổi đời còn
khá trẻ. Nó là sản phẩm mang dấu ấn của thời kỳ hiện đại, nhưng tiểu loại này đã
được ấp ủ và thai nghén trong suốt cả quãng dài thời kỳ trung đại. Nhờ công cuộc
hiện đại hóa văn học những năm đầu thế kỷ XX tạo nên chất xúc tác, giúp cho tiểu
thuyết có tính chất tự truyện hình thành ngày một rõ nét, góp phần làm phong phú
và đa dạng cho tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XX. Nhìn từ diện mạo của tiểu thuyết
có tính chất tự truyện trong vòng một thế kỷ, có thể thấy, tiểu loại này đã đi qua một
hành trình dài, đầy phức tạp, chịu sự va đập của những thay đổi quan niệm nghệ
thuật khác nhau qua các giai đoạn văn học. Hơn nữa, tiểu loại này thể hiện rất rõ
hành trình của cái tôi - tác giả đi vào tác phẩm như một đối tượng văn học, nhưng
đồng thời chính nó cũng là con đường dẫn tác giả về để gặp lại chính mình. Trong
dòng văn học Việt Nam, sự phát triển của tiểu thuyết có tính chất tự truyện phản
ánh rất rõ nét những bước thay đổi trong quan niệm của nhà văn về cái tôi cá nhân,
về cuộc sống và cả trong hoạt động sáng tạo. Qua mỗi giai đoạn phát triển, tiểu
thuyết có tính chất tự truyện lại mang một diện mạo mới, một hướng đi mới, dự
phần vào con đường phát triển văn học dân tộc.
58
CHƢƠNG 3
TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT TỰ TRUYỆN
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX - NHÌN
TỪ CẢM QUAN HIỆN THỰC VÀ CON NGƢỜI
“Bất kỳ một nền văn nghệ nào cũng hình thành trên một cơ sở hiện thực
nhất định. Bất kỳ một nghệ sĩ nào cũng thoát thai từ một môi trường sống nào đó.
Bất kỳ một tác phẩm văn học nào cũng là sự khúc xạ từ những vấn đề cuộc sống”
[78, tr.81.]. Hiện thực được xem như “một thuộc tính tất yếu” của văn học. Hiện
thực trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện mang những đặc tính riêng, gắn liền với
sự thật đời tư tác giả. Mỗi một tiểu thuyết có tính chất tự truyện là một câu chuyện
về hiện thực cuộc đời của người viết được “nhào nặn” lại sao cho đạt được tính
nghệ thuật cao nhất. Đây cũng là một trong những điểm khác biệt giữa tiểu thuyết
có tính chất tự truyện với các tác phẩm văn học khác.
3.1. Hiện thực cuộc đời qua chiêm cảm của ngƣời trong cuộc
Một trong những điều tạo nên sức hấp dẫn cho tiểu thuyết có tính chất tự
truyện đó chính là những bí mật về sự thật liên quan đến đời tư của người viết. Đây
cũng là tính “vấn đề” không chỉ kích thích trí tò mò của người đọc khi đối diện với
tác phẩm, mà đó còn là “vấn đề” mà người viết thường hay trăn trở. Khi đặt bút viết
trang tiểu thuyết có tính chất tự truyện, một mặt, tác giả muốn viết chân thật về đời
mình, mặt khác, để tạo nên tính khách quan cho câu chuyện kể, người viết cũng cố
tình xóa dấu vết về đời mình. Và đã là một câu chuyện tiểu thuyết thì phải hư cấu
cuộc đời mình sao cho ra chất “tiểu thuyết”. Vậy, liệu có được bao nhiêu phần trăm
sự thật về cuộc đời của người viết trong tác phẩm? Mức độ hư cấu, pha trộn trong
sự thật ấy được người viết thể hiện đậm nhạt ra sao? Mối quan hệ giữa sự thật - hư
cấu được tác giả xử lý như thế nào? Để làm sáng tỏ những điều này, cần phải dựa
trên ba vấn đề: Hiện thực được tái hiện theo dòng hoài niệm; Hiện thực qua cái nhìn
hồi cố, chiêm nghiệm; Hiện thực dưới góc nhìn phản tư.
59
3.1.1. Hiện thực được tái hiện theo dòng hoài niệm
Đối tượng khám phá trong thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết có tính chất tự
truyện chính là hiện thực cuộc đời tác giả. Các tiểu thuyết có tính chất tự truyện đều
lấy chất liệu từ đời tư tác giả để hư cấu thành tác phẩm. Tuy nhiên, mỗi một chặng
đường cùng với những thay đổi trong quan niệm nghệ thuật đều có những cách biểu
đạt khác nhau.
Đa phần các tác phẩm tiểu thuyết có tính chất tự truyện ra đời trong giai đoạn
đầu thường mang tính chất tái hiện lại quãng đời tuổi thơ của tác giả khi mà phần
lớn các tác giả ấy có tuổi đời chưa xa lắm với thời thơ ấu. Ở các tiểu thuyết tự
truyện trên thế giới, khi viết về tuổi thơ của mình, các nhà văn thường có xu hướng
đi vào lý giải quá trình đi đến con đường văn chương “bằng những nguyên nhân
tâm lý từ thời thơ ấu”. Từ Thời thơ ấu của M. Gorky, Thời thơ ấu của L. Tolstoy,
Sống để kể lại của G.G. Marquez, Người tình của M. Duras đều tái dựng lại quãng
đời tuổi thơ đã qua của chính tác giả như một sự trở về làm sống lại cuộc đời mình,
tìm lại những gì xa xưa nhất trong lịch sử hình thành nên nhân cách và con người
văn chương trong hiện tại của mình. Còn trong một tác phẩm tự truyện, nó thường
yêu cầu nhà văn tái hiện lại đoạn đời đã qua của mình trong tính toàn vẹn, cụ thể.
Nhà văn - nhân vật xưng tôi đứng ra kể, tả lại những gì xảy ra trong đời một cách
trung thực. Nhưng ở tiểu thuyết có tính chất tự truyện, là sản phẩm của quá trình
“lai ghép”, xâm nhập giữa tự truyện và tiểu thuyết nên bản thân nó cũng dung chứa
một số những đặc tính vốn có của tự truyện. Trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện
thường cũng tái dựng lại quãng đời đã qua trong cái nhìn mang tính chủ quan của
tác giả - như muốn “khắc phục” cái thời gian đã lùi xa để “mưu toan” quay trở về
làm sống lại quá khứ của chính mình trong thế giới hư cấu tiểu thuyết.
Tiểu thuyết có tính chất tự truyện Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, khi viết
về tuổi thơ thường hay đi vào khai thác mảng màu u tối trong cuộc sống. Cảm thức về
thân phận, về những nỗi đau đớn, xót xa trước các bất hạnh trong cuộc đời mà mình phải
luôn đối mặt trở thành tâm điểm nổi bật trong các tác phẩm này. Những kỷ niệm, dấu ấn
hằn in miền ký ức tuổi thơ được thấm đẫm trong màn sương khói hoài niệm cùng với
thế giới riêng tư rất thực của cuộc sống hằng thường dẫu không lung linh ánh hào
60
quang rực rỡ mà chỉ có những đắng cay, nhọc nhằn nhưng đều lưu dấu qua thời gian và
được các tác giả phơi bày ra trang văn một cách chân thật.
Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng là hành trình ngược dòng thời gian,
quay về với tuổi thơ, sống lại với những kỷ niệm buồn từng lưu giữ trong miền ký
ức tác giả. Từng chương trong tác phẩm là “những rung động cực điểm của một linh
hồn trẻ dại”, mỗi một trang sách là một dòng hồi ức kém phần tươi sáng, in hằn dấu
vết năm tháng đầu đời của Nguyên Hồng. Bé Hồng được ra đời từ kết quả của cuộc
hôn nhân gượng ép, “một bên hiếm hoi muộn cháu và có của”, và một bên “sợ nguy
hiểm giữ con gái đẹp đến thì ở trong nhà và muốn cho người con gái ấy được chỗ
nương tựa chắc chắn, được cả một dòng họ trọng đãi nếu mắn con” [43, tr.5]. Hồng
lớn lên trong bầu không khí nặng trĩu niềm ưu tư của cuộc sống không tình yêu, cha
mẹ sống bên nhau như những cái bóng, thản nhiên, lặng lẽ che giấu niềm ưu tư, cam
chịu. Gia đình ngày càng sa sút, người cha ngày thêm nghiện ngập, khó khăn chồng
chất khó khăn. Cuộc hôn nhân không hạnh phúc dần lộ trần ra dưới mắt của một
đứa trẻ nhạy cảm: “cha mẹ tôi không bao giờ âu yếm nhìn nhau hay nói với nhau
bằng giọng nói ấm áp, cười vui với nhau bằng những nụ cười trong sáng. Trong con
mắt, nhời nói và tiếng cười của hai thân tôi bao giờ cũng đượm vẻ chua chát thầm
lặng. Sự đau đớn âm thầm ấy theo rõi mãi thầy tôi và mẹ tôi với cái kỷ niệm mỉa
mai xấu xa của hai đêm kia thôi - tôi tin chắc chỉ có hai đêm thôi - hai đêm mà hai
con người đã phải gắng gượng ăn nằm với nhau để lấy con nối dõi cho dòng họ đã
bao nhiêu đời u mê và tối tăm dưới sự đè nén nặng nề của lễ nghi và phong tục”
[43, tr.17]. Cha chết, mẹ phải tha phương cầu thực, Hồng sống cảnh mồ côi giữa họ
hàng và người thân ruột thịt, hứng chịu bao nhiêu lời cay nghiệt cùng đòn roi. Cái
đói, cái khát, sự thiếu thốn tình thương đã sớm dạy cho đứa trẻ “phải liều”, “phải
gan” để tồn tại: “muốn kiếm nhiều tiền ăn quà và đi xem chớp bóng phải đến những
phố gần chợ, gần bến tàu, bến ôtô tìm bọn trẻ con nhà tử tế kia rủ đánh, hoặc nhập
vào các đám đáo của tụi phu phen, thợ thuyền rửng mỡ, tan tầm trưa về tụ họp” [43,
tr.37]… Xuyên suốt tác phẩm là những dòng hồi ức của nhân vật “tôi” - cậu bé
Hồng, nhớ và kể lại một cách trình tự: từ lúc nhân vật “tôi” sinh ra cho đến năm học
bậc tiểu học nửa chừng, không may bị chính người thầy giáo dạy mình hiểu nhầm,
61
hành hạ, đánh đập, sỉ nhục tàn tệ, khiến cậu phẫn chí bỏ học giữa chừng. Toàn bộ
chín chương truyện là những mẩu hồi ức được đặt tên cụ thể, giúp người đọc có cơ
hội để đi sâu, khám phá thế giới hiện thực đoạn đời “thời thơ ấu” của tác giả.
Từng trải qua những tháng ngày đầy bất hạnh của đứa trẻ mồ côi, hơn ai hết,
Mạnh Phú Tư thấm thía nỗi đau đến cùng tận của ngày tháng ấy. Bao đắng cay, tủi
hổ của thân phận đời mình đã được Mạnh Phú Tư gửi trọn qua từng dòng văn trong
Sống nhờ. Trong khoảng chưa đầy 200 trang sách, được xâu chuỗi theo dòng hồi ức
nhân vật tôi - cậu bé Dần - tác giả nhớ và kể lại trình tự từng mẩu chuyện cụ thể
trong đời mình. Bằng lớp ngôn từ giàu chất biểu cảm, tác giả đã ghi lại những ấn
tượng mạnh mẽ, những cảm xúc nội tâm giằng xé dưới góc quan sát, xét đoán của
tâm hồn thơ ngây: từ người hàng xóm, bạn bè, đến những người thân… được nhìn
nhận qua đôi mắt trẻ thơ đầy chân thật. Nhờ vậy, giúp người đọc hiểu rõ hơn về
cảnh đời đầy nước mắt của tác giả trong quá khứ.
Sống nhờ đã mang đến cho độc giả dư vị xót xa. Cuộc đời Dần là cả một
chuỗi ngày dài đẫm đầy nước mắt. Dần lớn lên cùng những trận đòn roi, những lời
chửi rủa. Chính hiện thực này đã sớm hình thành nên trong Dần ý thức phản kháng
và niềm khát khao cháy bỏng về một cuộc sống tự do, về hạnh phúc bình dị đời
thường. Với Sống nhờ, Mạnh Phú Tư đã đi vào khai thác cuộc sống quanh quẩn sau
lũy tre làng của người Việt Nam trong giai đoạn trước 1945. Cái nghèo khó, cơ cực,
miếng cơm manh áo đã đẩy con người vào những toan tính nhỏ nhen, ích kỷ đến độ
tàn nhẫn với cả chính người thân của mình. Tình máu mủ trở nên xa xỉ giữa buổi
“thóc cao gạo kém”.
Ngay như Chiếc cáng xanh, một tác phẩm viết về tuổi thơ khá êm đềm của
nhà văn Lưu Trọng Lư gắn liền với những kỷ niệm ấm nồng trong vòng tay yêu
thương của mẹ, nhưng người đọc vẫn không khỏi ngùi ngùi xúc động, nhỏ những
giọt nước mắt đồng cảm với nỗi đau của nhân vật “tôi” trong cảnh chia ly vĩnh viễn
người mẹ đôn hậu, dịu hiền: “Mẹ tôi đã bỏ tôi mà đi, đã nỡ đành đoạn bỏ cuộc đời
mà đi. Nghĩ đến cái tết Đoan Ngọ đầu tiên ấy của đời tôi, tôi lại càng thêm chua
xót… Trời ôi! Tôi quên làm sao được vòng khăn nhiễu tam giang, cái quần áo cổ y
ấy… Mẹ tôi có lẽ chỉ mặc một bận khi về nhà chồng, và than ôi! Một bận nữa là khi
62
về… cõi đất… Lòng tôi quằn quại: tôi không ngờ trong một phút, tôi cách xa mẹ tôi
đến thế. Tôi kêu gào lên như kẻ điên. Tôi không ngờ, sự đau thương có thể làm cho
người ta điên cuồng được” [152, tr.53-54]. Những chấn động tinh thần mạnh mẽ,
với nỗi ám ảnh về sự lạc lõng, bơ vơ của tác giả trước sự ra đi quá sớm của mẹ đã
bật lên thành lời than thở, tiếng nấc nghẹn ngào hiện hữu qua từng câu văn, tạo
thành dư vị xót xa trong lòng người đọc.
Khi lấy chất liệu từ chính hiện thực đời mình làm đối tượng sáng tác, các nhà
văn thường hay lội ngược dòng, tìm về quá khứ để tìm hiểu cái tôi của mình bằng
cách tự trình bày. Cho nên, các tác phẩm tiểu thuyết có tính chất tự truyện này thiên
về tái hiện lại quá khứ từ điểm nhìn của cái tôi hiện tại “thấu suốt và nhất quán”
(chữ dùng của Đỗ Hải Ninh). Và kiểu kết cấu câu chuyện thường được triển khai
theo chuỗi thời gian tuyến tính nương theo dòng hoài niệm. Chính lối kết cấu này đã
giản lược bớt cốt truyện theo kiểu truyền thống. Thường trong tác phẩm ít sự kiện,
ít có những xung đột, mâu thuẫn gay gắt. Truyện thường được xâu chuỗi lại từ
những câu chuyện mang tính riêng tư: chuyện tình cảm lạnh nhạt của cha mẹ nảy
sinh từ cuộc hôn nhân gả ép, chuyện đứa trẻ mồ côi bị người thân hắt hủi, chuyện
thèm được ăn, khát khao được chăm sóc (Những ngày thơ ấu); chuyện đứa bé bị
đòn roi, chuyện người đàn bà góa chồng khi còn son trẻ đi thêm bước nữa, chuyện
sống nhờ ở đậu (Sống nhờ)…
Mang đặc tính “chuyện đời tư” tự kể, gắn liền với không gian mới thời kỳ
hiện đại hóa, mọi cố gắng, nỗ lực của nhà văn đều hướng đến xây dựng một thế giới
“giống” hoặc “gần giống” như thật. Mỗi một tác phẩm tiểu thuyết có tính chất tự
truyện là một câu chuyện riêng tư được sắp xếp dưới góc nhìn chủ quan của tác giả.
Nhưng một khi nó đã trở thành thế giới nghệ thuật, hiển nhiên, để câu chuyện riêng
tư ấy có được sức sống với thời gian nó phải mang tầm khái quát, điển hình cho một
hình mẫu phổ biến nhất định nào đấy trong xã hội. Từ câu chuyện của một người đã
trở thành câu chuyện hiện thực xã hội.
Mực mài nước mắt được xem như một “bản sao” của đoạn đời văn nghiệp
Lan Khai. Tái hiện lại quãng đời khốn khó của chính mình (thông qua nhân vật
Nguyễn Khải), tác giả cũng đã vẽ lên được cả một bức tranh chân thật về cuộc
63
sống cơ hàn cùng những trăn trở của người cầm bút về lẽ sống trước thực cảnh
mất tự do, sống kiếp nô lệ. Lấy đời tư làm phương tiện để giãi bày, Lan Khai đã
khéo léo kết hợp giữa chuyện đời tư và chất tiểu thuyết để tạo nên một tác phẩm
mà ý nghĩa của nó vượt qua ranh giới một “chuyện đời tự kể”, trở thành tác phẩm
mang tầm khái quát về thực trạng đời sống của người viết văn những năm đầu
thập niên 40 của thế kỷ XX.
Trong Sống mòn, Nam Cao cũng đã xây dựng thành công hình ảnh nhân vật
Thứ - anh giáo khổ dạy học ở trường tư, một con người luôn khao khát sống với
đúng nghĩa danh xưng CON NGƯỜI nhưng bị hoàn cảnh nghiệt ngã của nợ cơm áo
xô đẩy vào tình trạng “sống mòn”, không lối thoát. Suốt chiều dài gần ba trăm trang
tiểu thuyết được xây dựng trên một nền cốt truyện khá đơn giản nhưng đã dung
chứa một lượng lớn về phận đời của người cầm bút trước Cách mạng tháng Tám.
Ông giáo Thứ từng ôm giấc mộng lớn lao nhưng mộng không thành, đành quay về
quê nhà chấp nhận làm anh giáo dạy học trường tư, cố gắng dồn tất cả tâm huyết
vào tình yêu nghề. Đã có lúc anh quên hẳn cuộc sống thực tại của mình: “Trước mắt
y, chỉ còn lại một cái nhân loại rộng mênh mông, rất bao la rộng rãi, cái nhân loại
hỗn độn đang bị khổ cực, đau đớn điên cuồng vì những lỗi lầm của mỗi người, một
cái nhân loại đang sống một lối sống tối ư vô lý. Y nao nức muốn dự phần vào việc
xây dựng lại cái nhân loại ấy” [69, tr.190]. Nhưng bao nhiêu trăn trở, ước mơ muốn
đem tất cả tâm huyết, cố gắng “xây dựng lại cái nhân loại ấy” rồi cũng lụi tàn trong
cảnh sống tù hãm, không lối thoát. Thứ cay đắng nhận ra rằng: “Có thú vị gì là cái
lối sống co quắp quá ư loài vật, chẳng biết gì ngoài cái việc kiếm thức ăn đổ vào cái
dạ dày. Có ai muốn gục xuống làm gì. Đau đớn thay cho những kiếp sống khao khát
muốn vươn lên cao nhưng lại bị cơm áo ghì sát đất. Hỡi ôi! Người ta đã phí bao
nhiêu tâm huyết, bao nhiêu công lao để giải thoát, từ bỏ tất cả những phú quí vinh
hoa của đời mình. Vô ích cả, chừng nào nhân loại chưa thoát khỏi xiềng xích của
cái đói cái rét” [69, tr.190]. Câu chuyện về cơm áo cứ ngỡ quá vặt vãnh nhưng thấm
đầy ý vị nhân sinh sâu xa được Nam Cao khéo léo gửi gắm qua câu chuyện về cuộc
đời thầy giáo Thứ.
64
Qua các tác phẩm Những ngày thơ ấu, Sống nhờ, Chiếc cáng xanh, Sống
mòn, hay Mực mài nước mắt… cùng với hình ảnh những đứa trẻ mồ côi, những
người đàn bà góa, hay những gã trí thức nghèo… là những số phận con người trong
xã hội trước 1945 đang từng ngày đối mặt với nạn nghèo đói cùng những hủ tục lạc
hậu. Nếu như sự bất hạnh và tình người rẻ rúng sớm đày đọa những đứa trẻ, những
văn sĩ nghèo hay một thầy giáo khổ trong phận đời cơ cực trước miếng cơm manh
áo thì những hủ tục lạc hậu lại dày vò những người đàn bà trẻ sớm chịu cảnh góa
bụa trong nạn tam tòng tứ đức, chỉ cần bước chân họ nhích đi về miền khát vọng tự
do, hạnh phúc thì lập tức sẽ bị vùi dập bởi dư luận và lễ giáo phong kiến hà khắc.
3.1.2. Hiện thực qua cái nhìn hồi cố, chiêm nghiệm
Đặc trưng của tiểu thuyết có tính chất tự truyện là kể lại cuộc đời đã qua của
tác giả bằng nghệ thuật hư cấu, vì vậy, tiểu loại này thường có xu hướng xây dựng
lại con người trong hồi quang số phận. Nhân vật trong tiểu thuyết có tính chất tự
truyện thường là những con người bình thường, nhỏ bé, luôn khắc khoải một nỗi
đau thân phận về đời mình trong quá khứ. Tuy nhiên, vấn đề về thân phận con
người trong các tác phẩm tiểu thuyết có tính chất tự truyện ra đời ở đô thị miền
Nam lại mang một sắc thái khác, vì đây là những tác phẩm được hình thành trong
hoàn cảnh đầy biến động. Trong khi miền Bắc đang xây dựng chủ nghĩa xã hội thì
miền Nam vẫn sống trong bom đạn chiến tranh. Tình hình chính trị đầy bất ổn,
chiến tranh ngày một leo thang khiến con người hàng ngày, hàng giờ luôn đối mặt
với đau thương, chết chóc. Tính mạng con người trở nên vô cùng mong manh trước
bom đạn chiến tranh. Tâm trạng chung phủ trùm lên toàn bộ đời sống con người lúc
bấy giờ là lo âu, bất an. Trong bối cảnh xã hội ấy, những trào lưu, tư tưởng, văn hóa
Mỹ và phương Tây, đặc biệt là tư tưởng của triết học hiện sinh - triết học về thân
phận con người nhanh chóng được đón nhận và có sức ảnh hưởng lớn đến đời sống
văn hóa, xã hội ở đô thị miền Nam.
Quá trình hình thành, phát triển của tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở đô
thị miền Nam gắn liền với kiểu con người thời hiện đại. Thời đại mà sự phát triển
của khoa học kỹ thuật, một mặt, đem lại cho con người những tiện nghi, nhưng
mặt khác, nó cũng làm cho những con người đang sống trong môi trường ấy cảm
65
thấy “bất khả tín” vào hiện thực. Những điều lâu nay cứ ngỡ rằng là câu chuyện
“biết rồi, khổ lắm, nói mãi” nhưng vẫn cứ mông lung, mơ hồ, cần phải phân tích,
cắt nghĩa và lý giải.
Trước thực trạng ấy, tiểu thuyết có tính chất tự truyện đã đi vào chiều sâu thế
giới nội cảm của con người, đi sâu vào hiện thực cuộc sống để dần bóc tách từng
mảng hiện thực cuộc sống và tâm hồn con người với những mảng sáng tối dưới
nhiều chiều kích khác nhau bằng tư duy, nhận thức của con người thời hiện đại. Các
tác phẩm Hoa bươm bướm, Bếp lửa, Vòng tay học trò, Tôi nhìn tôi trên vách… đều
thể hiện tiếng nói của một thế hệ đang bị đặt giữa lằn ranh vô cùng mong manh của
kiếp người, giữa sự sống và cái chết, khi đối diện với cuộc sống từng ngày từng giờ
bị chiến tranh xáo tung, đảo lộn. Tâm thức chung của những con người sống trong
hoàn cảnh ấy đều vô cùng hoang mang, bế tắc trước cuộc đời.
Trong Bếp lửa, Thanh Tâm Tuyền đã tái dựng lại những năm tháng đầy chán
chường, bế tắc của cả một thế hệ thanh niên (trong đó có cả tác giả) vào thời điểm
trước hiệp định Genève (1954) tại Hà Nội và vùng phụ cận dưới sự kiểm soát của
Pháp. Tâm và một số bạn thân, hoang mang trước những lựa chọn vào đời. Và trong
họ hầu hết đều đánh mất niềm tin vào thực tại, còn tương lai, đối với họ gần như vô
vọng. Tâm cũng giống như những con người khác, đều khao khát sống một cuộc
sống có ý nghĩa, không chấp nhận lối sống lay lắt, nhưng cuộc sống vẫn trôi đi
trong vô vọng, buồn tẻ, chán chường, không định hướng, không ai có lựa chọn dứt
khoát, phía nào. Một sự đứt đoạn giữa nhân vật và thế giới chung quanh. Từng nhân
vật trong tác phẩm luôn có khát vọng tìm đến nhau, nhưng họ đều cảm thấy có một
khoảng cách, một vết đứt không thể giải thích, không thể cứu vãn được. Đó phải
chăng là nỗi ám ảnh cô độc sâu xa nhất của con người trong Bếp lửa?
Trường hợp Hoa bươm bướm của Võ Hồng, có thể nói, “kho tư liệu” để giúp
nhà văn viết nên thiên truyện này đó chính là cuộc đời nhà văn. Lấy bối cảnh không
gian từ trên nền hiện thực quãng đời những năm ông trọ học ở Hà Nội cho đến khi
chiến tranh bùng nổ, ông phải gác lại chuyện học hành để lên tàu về quê rồi lại trôi
giạt đến miền đất cao nguyên Đà Lạt, làm thư ký cho tòa Tổng đốc. Từ bối cảnh ấy,
Võ Hồng dựng lại cả một bức tranh rộng lớn về thân phận con người vào những
66
năm ly loạn. Nếu như trong Người về đầu non, công chúng độc giả từng nhận ra
tuổi thơ của Võ Hồng qua hình ảnh nhân vật “tôi” tự thuật thì ở Hoa bươm bướm,
Võ Hồng không kể về cuộc đời mình, mà ông đã dùng tiểu thuyết như một phương
tiện để đi vào tìm hiểu, khám phá chính bản thân mình trong quãng đời gắn liền với
những biến động lịch sử của đất nước.
Trong bước chuyển của tiểu thuyết có tính chất tự truyện chặng đường 1945
đến 1975, một trong những điểm đáng để lưu tâm nhất có lẽ đó chính là sự góp mặt
của những cây bút nữ. Với sự xuất hiện của Vòng tay học trò (1966), Tôi nhìn tôi
trên vách (1970) đã đánh dấu bước đột phá mới của tiểu thuyết có tính chất tự
truyện. Trước đây, dường như lối “tự thú” bằng tiểu thuyết chỉ là lãnh địa dành
riêng cho nam giới, thì kể từ 1966, tình hình đã khác. Sự hiện diện những lời “tự
thú” thành thật của các nữ văn sĩ đã mang đến cho đời sống văn học hiện đại chút
nồng nàn, đầy táo bạo, mang đậm thiên tính nữ. Điều này đã cho thấy, người phụ nữ
trong thời hiện đại không còn bị ràng buộc bởi những quan niệm phong kiến quá lỗi
thời thuở trước. Người phụ nữ của thời hiện đại được giải phóng hoàn toàn về mặt
tư tưởng, tình cảm. Họ lên tiếng, khẳng định cái tôi của mình bằng tiếng nói bình
đẳng với nam giới, và việc bày tỏ quan điểm, tiếng nói riêng tư kể từ đây không còn
chỉ là “đặc quyền” của nam giới. Bằng trái tim nhạy cảm, các nhà văn nữ đã cảm
nhận một cách sâu sắc về nỗi đau thân phận con người, về sự mong manh, bé nhỏ
của con người trong thế giới ngổn ngang những phi lý của xã hội hiện đại. Tất cả
những chiêm nghiệm về cuộc sống, về thân phận con người đều được thể hiện qua
những dòng tiểu thuyết có tính chất tự truyện, mà hơn ai hết, họ là người dám mạnh
dạn thổ lộ thành thật.
Vòng tay học trò (1966) của Nguyễn Thị Hoàng được đăng nhiều kỳ trên tạp
chí Bách khoa với bút danh Hoàng Đông Phương. Đây là một tác phẩm viết về tình
yêu giữa cô giáo Tôn Nữ Quỳnh Trâm và học trò Nguyễn Duy Minh tạo nên làn
sóng dư luận rầm rộ thời bấy giờ. Khi nói về tác phẩm này, có lần chính tác giả tự
bạch: “Truyện mình viết thường là truyện tình bế tắc và đi xuống. Trong đó những
vai nữ bao giờ cũng khát khao đi tìm một đời sống thực của mình, nghĩa là tìm kiếm
chính mình. Những nhân vật lang thang, bất định, và xa rời với phận sự gia đình.
67
Chất liệu lấy từ những năm bất ổn lênh đênh trong cuộc đời đã qua của mình, đôi
khi được ráp nối với những câu chuyện thời sự, cộng với một phần tưởng tượng,
phóng tác, vẽ vời… rồi ráp thành chuyện… không biết đàn ông thì sao chứ cánh
đàn bà thường mắc phải cái này là có những nét của nhân vật hoặc chính, hoặc phụ,
thế nào cũng hắt bóng cá tính thói quen, đường nét và vóc dáng của tác giả. Riêng
về Vòng tay học trò nếu bảo là thực thì không hẳn là thực mà bảo là không thực
thì… cũng chẳng phải là thế” [44]. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất kinh thành Huế,
nhưng rồi cảnh loạn ly chiến tranh, Nguyễn Thị Hoàng cũng giống như rất nhiều
người con xứ Huế khác buộc phải rời bỏ quê nhà để sống đời vong thân, lưu lạc
(1957). Và nơi mà gia đình nữ văn sĩ chọn để dừng chân đó chính là mảnh đất Nha
Trang, xứ biển miền trung. Riêng Nguyễn Thị Hoàng, sau một thời gian sinh sống ở
Nha Trang đến năm 1960 bà vào Sài Gòn học Đại học Văn khoa và Luật nhưng rồi
lại bỏ ngang nửa chừng để ngược lên vùng cao Tây Nguyên - Đà Lạt dạy học. Tất
cả những tháng năm ấy đã trở thành chất liệu để tác giả xây dựng nên tác phẩm
Vòng tay học trò.
Hình ảnh cô giáo Tôn Nữ Quỳnh Trâm được nhà văn hư cấu hóa từ chính
cuộc đời mình. Cô giáo Trâm trong tác phẩm sống gần như đánh mất niềm tin trong
cõi “không gia đình”, đến với mảnh đất Đà Lạt như một phương cách thoát ly, chạy
trốn để tìm quên chuỗi ngày dài trong quá khứ, quên đi những đổ vỡ trong tình yêu
với tâm trạng của một con người sống bất cần đời, không niềm tin vào tình yêu và
hạnh phúc: “cơn bão táp đã tàn phá hết cánh đồng xanh phơi phới trong tâm hồn
người con gái nửa đời dang dở đó, đã lay đổ hết lòng tin tưởng hạnh phúc mà mỗi
một người ước mơ ngày mới lớn. Lòng Trâm chỉ còn là tro than lạnh vắng của khu
rừng sau đám cháy. Ở đó hắt lên những tiếng la hét vừa não nuột vừa cuồng điên. Ở
đó quằn quại xiêu đổ những ảnh hình biến thay hỗn loạn. Tiếng khóc, tiếng cười
luân phiên làm nhạc đệm mơ hồ cho lời cáu uất là vẻ êm đềm nhận chịu” [42,
tr.170]. Với Trâm bây giờ, “tình yêu nào cũng bắt đầu bằng nụ cười và chấm dứt
bằng nước mắt sau đó là khoảng trống, tạm bợ, mong manh, rồi mất, rồi đi tìm,
những di tích tàn phai” [42, tr.30]. Và cô đã đem lòng yêu cậu học trò Minh, một
tình yêu lệch chuẩn, phi truyền thống nhưng theo lẽ tự nhiên nảy sinh từ trái tim
68
mềm yếu chứa đầy đổ vỡ cùng khát vọng yêu đương. Những giây phút chờ đợi,
những khát vọng xác thân, những giận hờn… từng cung bậc cảm xúc tình yêu dần
hiện về trong tâm hồn chai sạn của Trâm. Nhưng cuộc tình ấy cũng chóng vánh chia
ly, đến rồi đi trong tàn phai, ly biệt. Chỉ còn lại đó một Tôn Nữ Quỳnh Trâm nếm
trải niềm cô đơn như một thứ định mệnh.
Tôi nhìn tôi trên vách là tác phẩm dài đầu tay của Tuý Hồng. Trong tác
phẩm này, tuy nhà văn dùng ngôi thứ nhất, nhưng nguỵ trang dưới tên Khanh để
giữ tính cách riêng của nhân vật. Sự thật, nó chính là một đoạn đời “khi giã từ tuổi
con gái của tác giả”. Ở tác phẩm này, Túy Hồng viết xoay quanh cuộc đời Khanh,
một cô gái xứ Huế cũng vì cảnh loạn ly của chiến tranh mà phải rời bỏ quê nhà để
đến với mảnh đất Sài thành trong niềm tiếc nuối quê nhà khôn nguôi: “bỏ Huế mà
đi lòng tôi nhớ trời, nhớ khoảng thiên nhiên. Tôi không yêu một thứ vẻ đẹp cấm
cung, một thứ vẻ đẹp hạn hẹp, mà yêu thênh thang cả một khoảng thiên nhiên.
Huế đẹp từ một vũng nước đọng bên đường đến lượng cả con Hương giang, từ
cọng rau muống bờ hồ đến cây phượng già xanh lục” [46, tr.10]. Rồi cô cưới
Nghiễm, một anh chàng gốc Bắc. Sau khi cưới, họ ở chung với gia đình Khanh.
Cả nhà Khanh nhớ Huế và yêu Huế nên luôn xảy ra “khẩu chiến” giữa “gái Huế”
(Khanh cùng các em gái) và “trai Bắc” (chồng Khanh). Giữa đất khách quê người,
những cô gái Huế ấy luôn cố níu giữ chút thân thuộc của quê hương trong từng
giọng nói, món ăn... để đỡ cảm thấy bơ vơ. Cuộc sống cứ xoay vần, biến động
không ngừng. Qua bi kịch của mỗi con người, mỗi gia đình cụ thể là bóng dáng
của cả xã hội đô thị Sài Gòn thời ấy: đảo điên, đổi trắng thay đen, con người bé
nhỏ, mỏng manh, chới với giữa thác lũ cuộc đời.
Tuy vậy, bên cạnh những ảnh hưởng đậm nét của triết học hiện sinh, văn học
ở đô thị miền Nam còn có ảnh hưởng rõ rệt của tư tưởng Phật giáo, coi cuộc đời là
bể khổ, trầm luân; thế giới xoay vần, biến chuyển, sắc sắc, không không; có đấy mà
như ảo ảnh, phù du; hiện hữu đấy rồi tan biến đấy. Con người luôn phải ngụp lặn
trong nước mắt. Cái nhìn về cuộc sống hư vô, phi lý, khổ đau là điểm gặp gỡ giữa
Phật giáo và triết học hiện sinh.
69
Bằng cách hư cấu hóa câu chuyện về hiện thực cuộc đời qua góc nhìn hồi
cố, chiêm nghiệm, các nhà văn đã dần phơi bày từng mảng hiện thực cuộc sống
dưới nhiều chiều kích khác nhau. Những câu chuyện đời tư, mang tính cá nhân
cùng với trải nghiệm của tác giả trộn lẫn trong hư cấu một cách hữu ý, đã mang
đến cho công chúng độc giả một cái nhìn chân thực hơn về những phận người
cùng miền hiện thực mang tính chủ quan mà tự bấy lâu nay bị khuất nẻo vì
những giới hạn của thời đại.
3.1.3. Hiện thực qua góc nhìn phản tư
Cùng chung trong dòng chảy của tiểu thuyết có tính chất tự truyện nhưng
những tác phẩm ra đời từ những năm sau 1975 như Tuổi thơ dữ dội (Phùng Quán),
Thời xa vắng (Lê Lựu), Chuyện kể năm 2000 (Bùi Ngọc Tấn), Nỗi buồn chiến tranh
(Bảo Ninh)… lại mang một sắc màu khác. Vấn đề đặt ra trong các tác phẩm này
không chỉ đi vào khai thác số phận con người dưới góc nhìn hiện sinh, hay phảng
phất chút sắc màu Phật giáo mà nó còn cho thấy một lối nhìn đầy soát xét của con
người trong cuộc sống hôm nay, nhìn lại quá khứ để khám phá con người thật của
mình như hòng tìm lời giải cho câu hỏi “Tôi là ai?”. Vì thế, quá trình viết của tác
giả không còn là sự tái hiện lại quá khứ, hoặc làm sống lại quá khứ ấy qua góc nhìn
hồi cố, chiêm nghiệm mà đó còn là cả một sự thức ngộ của mình trước cuộc đời.
Bởi, chính tác giả cũng chưa hiểu và không thể hiểu hết được chính bản thân mình ở
quá khứ, một quá khứ như mới vừa diễn ra nhưng để hiểu hết về nó, hiển nhiên là
điều không dễ. Cho nên, nhà văn không kể, trình bày lại “thời đã qua” mà chủ yếu
là phân tích, lý giải, cắt nghĩa, soát xét để tìm ra sự thật về con người mình, một sự
thật mà tác giả muốn hiểu hết về nó chứ không phải là sự thật tác giả đã từng
biết/từng hiểu.
Vẫn là những trang văn viết về một thời chiến tranh, nhưng từng con người
trong Tuổi thơ dữ dội không gắn lên mình chỉ có chiến công được làm nên từ
những trận chiến quyết tử oai hùng, hay những dòng ngợi ca về cuộc chiến tranh
vệ quốc vĩ đại mà ở đó còn là những thiếu thốn gian khổ, những mất mát, hi sinh
thấm đẫm qua từng cuộc đời tuổi thơ đang bị hoàn cảnh nghiệt ngã của chiến tranh
bào mòn, hủy diệt. Có thể nói, qua tác phẩm này, Phùng Quán đã kể lại tuổi thơ
70
của đời mình, của bạn bè, những đồng đội gắn liền với chiến tranh nhưng không
chỉ bằng cảm hứng ngợi ca, Tuổi thơ dữ dội đã có một cái nhìn khác hơn về chiến
tranh, về thân phận con người trong chiến tranh. Trực tiếp nói về những mất mát
hy sinh, mô tả chân thật về những nỗi đau mà cả một thể hệ tuổi thơ từng hiến
dâng cuộc đời cho tình yêu Tổ quốc thiêng liêng, tác phẩm làm người đọc vừa xót
xa, đau đớn, vừa tiếc thương, cảm phục trước “những huyền thoại bền gan chịu
đựng”. Khai thác về đề tài tuổi thơ trong những năm tháng đất nước mịt mù khói
lửa chiến tranh, có lẽ, điểm khác biệt lớn nhất của Tuổi thơ dữ dội so với những
tác phẩm khác đó chính là “sự chuyển đổi hướng nhìn” về chiến tranh khởi sinh từ
chính người trong cuộc. Nếu như trước đây, suốt cả thời gian dài trong dòng văn
học cách mạng, khi viết về đề tài trẻ thơ trong chiến tranh các nhà văn thường có
khuynh hướng tô đậm vẻ đẹp, những phẩm chất anh hùng, lý tưởng trên tinh thần
lạc quan thì ở Tuổi thơ dữ dội, ngòi bút Phùng Quán đã quan tâm đến tính cách, số
phận của từng cá nhân trong sự tác động và chi phối của đời sống lịch sử. Tuy
nhiên, thành công lớn nhất của tác phẩm này đó chính là nhà văn đã tái hiện được
hiện thực đời sống lịch sử cộng đồng thông qua số phận con người cụ thể trong
những năm kháng chiến. Từng chiến sĩ nhỏ tuổi trong đội thiếu niên trinh sát trung
đoàn Trần Cao Vân như: Vịnh, Lượm, đến Vệ to đầu, Hòa đen, Tư dát, Quỳnh,
Mừng… đã lập nên những chiến công oanh liệt, đi vào lịch sử. Nhưng song hành
cùng với những chiến công ấy là sự nghiệt ngã của chiến tranh. Những mất mát,
hy sinh, gian khổ, cùng xót xa, đau đớn của đội thiếu niên trinh sát đã được ngòi
bút Phùng Quán chú trọng khắc họa: “Có thể nói, cuộc sống gian khổ thiếu thốn
lúc bấy giờ đã trở thành những huyền thoại: huyền thoại đói, huyền thoại rét,
huyền thoại rách rưới, huyền thoại ghẻ, huyền thoại rận, huyền thoại bệnh tật…
Và cao đẹp hơn hết là những huyền thoại “bền gan chịu đựng của những chiến sĩ
thiếu niên” [112, tr.524]. Trong chiến tranh, bất kỳ sự mất mát, hy sinh nào cũng
đều đau đớn nhưng những mất mát, hy sinh của tuổi thơ còn đau đớn hơn gấp bội
phần. Những đứa trẻ “mãi mãi nằm lại cùng với Huế ở tuổi mười ba, mười bốn,
mười lăm” như Vịnh, Sơn, Lộc… hay cái chết của Quỳnh sơn ca, Mừng giữa mặt
trận chiến khu đều là những nỗi đau đớn khôn cùng.
71
Khai thác sự hy sinh không ở phương diện chiến công, mà ở khía cạnh của
sự đau thương mất mát, ngòi bút Phùng Quán đã cho người đọc thấy được thân
phận con người trong chiến tranh, đặc biệt là thân phận của những đứa trẻ thơ. Thấp
thoáng đằng sau bóng dáng những con người trong đội thiếu niên trinh sát trung
đoàn Trần Cao Vân phải chăng là hình bóng “tuổi thơ dữ dội” của tác giả và đồng
đội. Khi nói về tác phẩm, Phùng Quán đã từng thổ lộ: “Trong túp lều bên Hồ Tây,
tôi quyết định viết bản di chúc chiến sĩ thứ hai về đời mình. Tôi viết di chúc trên
những trang giấy một mặt, hoen ố, lấm láp, nhặt nhạnh mua lại của bà chè chai
đồng nát, như Quỳnh sơn - ca viết vở nhạc kịch mộng tưởng của đời mình trên
những lá cây rừng nhặt nhạnh bên bờ sông Ô Lâu ở chiến khu Dương Hòa… Bản di
chúc chiến sĩ được nhà xuất bản quê hương tôi in ra hai mươi ngàn bản với cái tên:
Tuổi thơ dữ dội” [112, tr.220].
Như vậy, sự kết hợp giữa yếu tố hư cấu và tự truyện trong tác phẩm Tuổi thơ
dữ dội đã tạo nên cách tiếp cận những số phận của trẻ thơ trong tính toàn vẹn, nhiều
mặt của cuộc sống. Qua tác phẩm, người đọc có thể nhìn thấy đâu đó cuộc đời tuổi
thơ của tác giả, đồng thời vừa thấy được bức tranh đời sống xã hội, lịch sử và con
người. Nhà văn đã tạo nên những hình tượng nhân vật vừa có thật, vừa mờ nhòe,
vừa có những nét riêng tư, vừa mang tính nhân văn cao đẹp.
Kết hợp giữa nhu cầu nội tâm thôi thúc, cùng khát vọng được viết về chính
mình trong quá khứ và mong muốn mang đến cho độc giả những trang văn đầy hào
hùng, bi tráng về hiện thực đất nước một thời trong kháng chiến, tác giả đã chọn lựa
yếu tố hư cấu như một phương tiện để thực hiện ý đồ nghệ thuật của mình. Nhờ thế
mà cả một thế giới tưởng chừng như vĩnh viễn ngủ yên trong tiềm thức nhà văn
được đánh thức, mời gọi, trở thành những trang văn tươi nguyên vẻ đẹp của hoài
niệm, gợi lên trong lòng người đọc nhiều điều suy nghĩ và ngẫm ngợi về chiến
tranh, về thân phận con người.
Câu chuyện về một thời mà Lê Lựu gọi là “thời xa vắng” là một câu chuyện
buồn mà suốt thời gian dài người ta cố tình không nhắc tới. “Trong cái thời ấy,
người ta sống hào hùng, hồn nhiên”; con người cá nhân hòa chung trong đoàn thể,
người ta sống gắn bó, yêu thương nhau trong tình đồng bào, đồng chí nhưng lại quá
72
“giản đơn, ấu trĩ” cả trong suy nghĩ và hành động. Đó là cái thời mà tất cả những
cảm xúc riêng tư cá nhân gần như “bị định đoạt một cách thô bạo”, khiến người ta
phải “sống hộ ý định người khác”. Những sai lầm ấu trĩ ấy in rõ qua số phận nhân
vật Giang Minh Sài. Suốt nửa cuộc đời, Sài chưa một lần được sống là chính mình.
Thuở nhỏ, Sài đã buộc phải sống theo sự sắp đặt của gia đình, dòng tộc. Đến tuổi
trưởng thành, Sài phải “tự giết chết đi những xao xuyến thèm khát một hạnh phúc
thực sự”. Khi vào quân ngũ, Sài lại phải ép mình theo khuôn ý định của cấp trên,
ngay cả chuyện “yêu vợ” cũng phải tuân theo chỉ đạo của người khác. Khi bước vào
cuộc hôn nhân thứ hai với Châu (một cô gái ở thành phố), tuy đây là cuộc hôn nhân
anh được tự do lựa chọn, nhưng cách sống của anh vẫn là hệ quả của những tháng
ngày “sống hộ ý định người khác”. Hôn nhân đổ vỡ là kết quả của một thời “yêu cái
mình không có” của anh. Cuộc đời của Giang Minh Sài là cả một bi kịch, bi kịch
của con người “bị trói buộc không dám cựa mình, giãy giụa”, “nửa đời người phải
yêu cái người khác yêu. Nửa đời còn lại đi yêu cái mình không có” [75, tr.182]. Và
cũng bởi vì anh quá nhu nhược, một thời không dám sống là chính mình nên phải
tiếc nuối, thốt ra lời cay đắng: “Giá ngày ấy em cứ sống với tình cảm của chính
mình, mình có thể nào cứ sống như thế, không sợ ai, không chiều theo ý ai, sống hộ
ý định người khác, cốt để cho đẹp mặt mọi người chứ không phải cho hạnh phúc
của mình” [75, tr.331]. Những thăng trầm trong đời Sài đó là cả một hiện thực mà
người hùng chiến trận phải đối mặt khi trở về với cuộc sống đời thường.
Càng đi sâu vào khai thác cuộc sống từ góc nhìn thế sự đời tư, các nhà văn
càng khám phá ra được mảng tối cuộc sống, cùng góc khuất số phận và những bi
kịch cá nhân. Đó là những cơn dư chấn tinh thần, những vật vã đau đớn, là nỗi oan
khuất, buộc người trí thức phải sống kiếp sống đày đọa cảnh tù đày trong Chuyện
kể năm 2000, hay đó là những vênh lệch trong ý thức hệ của con người dẫn đến bi
kịch hôn nhân trong Thời xa vắng. Nếu như trong những năm kháng chiến để đánh
giá con người thường dựa trên quan điểm và lập trường giai cấp thì sau chiến
tranh, nhất là sau 1986, những kiểu con người đời thường chứa đầy khiếm khuyết
xuất hiện ngày một nhiều trong các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Khải, Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Chu Lai, Nguyễn Trí Huân, Khuất Quang
73
Thụy… Không những thế, trong giai đoạn này, cũng có rất nhiều tác phẩm đã
phản ánh được hiện thực muôn mặt đời sống từ số phận của cá nhân như: Chim én
bay (Nguyễn Trí Huân), Góc tăm tối cuối cùng (Khuất Quang Thụy), Sông xa
(Chu Lai), Chuyện làng Cuội (Lê Lựu)… Mang đặc tính chung của tiểu loại lấy
chất liệu từ chính hiện thực cuộc đời tác giả, hầu như tất cả những gì diễn ra
thường nhật hàng ngày trong cuộc sống mà tác giả từng nếm trải cũng đều có thể
trở thành yếu tố để tạo thành tác phẩm.
Khi lấy chất liệu cuộc đời mình để hư cấu thành tiểu thuyết, mỗi một nhà văn
lại có cách nhìn, cách cảm khác nhau về hiện thực. Ở Bảo Ninh, một người lính đã
từng đi qua cuộc chiến tranh tàn khốc, hơn ai hết, ông đã thấm thía thế nào là đau
thương, mất mát và tàn bạo của chiến tranh. Bảo Ninh viết về chiến tranh không với
vẻ hào nhoáng của tấm huy chương hay những chiến công lẫy lừng. Ngược lại,
chiến tranh được nhìn từ mảng màu u tối của vô vàn những cái chết từ nhiều lý do
khác nhau: chết vì sự hủy diệt tàn bạo, chết vì sự thương cảm và còn có cả những
cái chết đầy khốn khổ vì đào ngũ (như trường hợp của Can)… Tất cả “gương mặt
thật” của chiến tranh được phản ánh một cách chân thật dưới góc nhìn cá nhân - một
nhân chứng của cuộc chiến. Với Bảo Ninh, chiến tranh là cả một “nỗi buồn”, “là cõi
không nhà không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại… là thế giới của
thảm sầu, vô cảm, là tuyệt tự” [96, tr.32]. Và hình ảnh người lính ở đây đã được
nhìn nhận như là những nạn nhân của chiến tranh với tất cả những cái khắc nghiệt:
cái đói, cái rét, cái chết, những thiếu thốn về vật chất lẫn tinh thần. Qua trang viết
của Bảo Ninh, hình ảnh người lính hiện lên trong dáng vẻ trần trụi, đời thường nhất.
Đối lập với viễn ảnh cùng những mĩ từ về người lính một thời “Chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh” (Quang Dũng) là hình ảnh người lính trong Nỗi buồn chiến
tranh với những khát vọng dung dị đời thường. Với họ, chiến tranh chỉ là thảm sầu,
hủy diệt một cách phi nhân tính trên xác thân đồng loại, “thắng hay thua, kết thúc
mau hay kết thúc chậm” đều hoàn toàn vô nghĩa. Và khi đất nước trọn niềm vui
thống nhất, hòa bình hiện hữu nhưng đối với những người lính như Kiên vẫn còn
“nguyên vẹn cuộc chiến tranh của riêng anh”. Sau những năm tháng ác liệt của
chiến tranh, đáng lẽ Kiên phải được hưởng một cuộc sống hòa bình trọn vẹn trong
74
niềm vui hân hoan của người chiến thắng, nhưng khi hòa bình đến cũng là lúc Kiên
đánh mất những gì cao đẹp nhất. Cả một thời trai trẻ cùng những ước mơ, hoài bão
và tình yêu đã vĩnh viễn chôn vùi trong lớp bụi thời gian. Hiện tại, trong anh chỉ còn
là những cơn dư chấn tinh thần, cùng nỗi ám ảnh chiến tranh. Ngay cả sống một
cuộc sống bình thường như những con người bình thường khác anh cũng không sao
có thể có được, “những thằng lính chiến đấu” như Kiên “chả trở lại thành người
bình thường được nữa đâu” [96].
Qua Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã mang đến cho người đọc cái nhìn đa
diện hơn về cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước một thời. Trong cuộc chiến tranh ấy,
những vùng mờ từ lâu gần như cấm kỵ đều được tác giả soi thấu tận tường dưới góc
nhìn của người trong cuộc, góc nhìn của một người lính - nhà văn - người đã từng đi
qua cuộc chiến tranh đẫm máu và nước mắt của hàng triệu người con đất Việt. Đọc
Nỗi buồn chiến tranh, chắc hẳn người đọc sẽ không khỏi xót xa, khắc khoải về thân
phận của con người trong những năm tháng chiến tranh và cả thời hậu chiến. Viết
về thân phận cuộc đời Kiên, có lẽ điều nhà văn muốn hướng đến đó chính là nói lên
sự thật từ lâu hằn in trong tâm thức của mình, một sự thật vốn dĩ mỗi một người đã
từng đi qua cuộc đời chiến trận đều không thể lãng quên.
Viết Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh không chỉ đơn thuần là tái hiện lại hiện
thực tàn khốc của chiến tranh bằng cái nhìn của người trong cuộc mà nó còn là một
hiện thực chiến tranh nằm trong tầng nhận thức của cá nhân theo quan điểm riêng
của nhà văn.
Có thể nói, khi viết những lời tự thú thành thật bằng cái nhìn phản tư, nhà
văn cũng chịu sự chi phối bởi áp lực rất lớn từ phía dư luận, xã hội… Thế nhưng,
các nhà tiểu thuyết đương đại Việt Nam đã vượt qua được những trở lực để đưa
trang tiểu thuyết tiến gần sát với cuộc đời thực của mình. Và khi nhà văn tìm đến
cái tôi - cuộc đời thực của mình làm chất liệu sáng tác, đó cũng là lúc họ tìm về để
được gặp lại chính mình để một lần được thành thật. Với mức độ đậm nhạt khác
nhau, sự hiện tồn bóng dáng cuộc đời nhà văn trong tiểu thuyết có tính chất tự
truyện đã đem lại cho tiểu thuyết Việt Nam nhiều hương sắc mới.
75
Như vậy, tiểu thuyết có tính chất tự truyện đã đi vào khám phá những tầng
sâu vô cùng phong phú và đa dạng nhưng cũng chứa đầy bí ẩn của cuộc sống từ
miền hiện thực riêng tư, mang đậm dấu ấn cá nhân người viết. Bằng cái nhìn của
người trong cuộc, đứng chân trong hiện tại nhìn về quá khứ, nhà văn đã mạnh dạn
phơi bày tất cả những gì đã từng bị che giấu, thậm chí cả những điều cứ ngỡ rằng
vĩnh viễn ngủ yên trong quá khứ và trong tâm thức sâu thẳm của cõi lòng mỗi
người. Hay nói cách khác, tiểu thuyết có tính chất tự truyện hướng đến vùng hiện
thực mang tính đặc thù, đó là hiện thực được kết hợp từ sự thật đời tư và hư cấu, thể
hiện đầy đủ nhất sự nếm trải, hứng thú, nét độc đáo của mỗi nhà văn trong quá trình
sáng tạo tác phẩm.
3.2. Từ nguyên mẫu nhà văn đến nhân vật
Mỗi một tác phẩm văn học ít hay nhiều cũng đều lưu lại dấu ấn của sự trải
nghiệm và cuộc đời tác giả. Theo Phùng Văn Tửu thì “Trong kho tư liệu bề bộn
nhà văn tích lũy được, một phần là những quan sát, nhận xét tinh tế từng chi tiết
nhỏ nhặt trong đời… Một phần quan trọng hơn là những ghi chép về người thật
việc thật, và chính đây mới là chỗ đáng bàn khi theo dõi cách khai thác tư liệu
của nhà văn để xây dựng tác phẩm” [153, tr.172]. Trong tiểu thuyết có tính chất
tự truyện, “kho tư liệu” được nhà văn khai thác từ chính con người đời thực của
mình, nhưng không phải cứ đưa thẳng con người đời thực của tác giả vào trang
viết thì sẽ trở thành nhân vật trong tiểu thuyết. Con đường từ con người đời thực
đến nhân vật tiểu thuyết hoàn toàn phụ thuộc vào tài năng hư cấu của tác giả
trong quá trình sáng tạo tác phẩm. Mức độ công khai hay che đậy con người cá
nhân mình qua tác phẩm đến đâu đều bị chi phối bởi ý đồ và quan niệm nghệ
thuật của người viết.
3.2.1. Từ con người thực đến nhân vật tự trình bày
Khi xây dựng nhân vật từ nguyên mẫu đời mình, mẫu nhân vật thường thấy
trong các tiểu thuyết có tính chất tự truyện từ đầu thế kỷ XX đến 1945 đó là kiểu
nhân vật tự trình bày, kiểu một người nhớ lại quãng đời đã qua của mình và tái dựng
lại theo trình tự biên niên, gần như không có sự xáo trộn thời gian.
76
Vì vậy, khi đối chiếu giữa nhân vật trong tác phẩm và con người đời thực
của tác giả thường có những nét tương đồng, thậm chí có những tác phẩm từ tên
nhân vật, đến nhân thân, tiểu sử, những sự kiện diễn ra trong đời giữa nhân vật và
tác giả gần như trùng khít. Đó là trường hợp của Mực mài nước mắt. Nếu đối chiếu
giữa nhân vật chính trong tác phẩm và con người đời thực của Lan Khai sẽ dễ dàng
nhận ra những nét song trùng: từ tên nhân vật (Khải), đến xuất thân, lai lịch và hoàn
cảnh sống… đều khá tương khớp với nguyên mẫu con người nhà văn Lan Khai.
Trong Mực mài nước mắt, nhân vật Khải đã tường trình lại những tháng ngày sống
vật vã cùng nghiệp văn chương giữa đất Hà Thành. Từ cảnh cơm, áo, gạo, tiền đến
những lần cãi vã giữa hai vợ chồng… tất cả đều được nhà văn kể lại một cách tỉ mỉ,
chân thật trong suốt cả chiều dài tác phẩm.
Ở Sống nhờ của Mạnh Phú Tư, khi so sánh đối chiếu giữa nhân vật và nguyên
mẫu nhà văn, người đọc cũng có thể nhận ra những nét tương đồng rất rõ. Nhân vật
Dần có mảng lý lịch đời mình gần như trùng khớp với mảng lý lịch tác giả. Từ cảnh
mồ côi ngay từ trong bụng mẹ cho đến cảnh mẹ Dần đi thêm bước nữa, cảnh Dần
sống trong chuỗi ngày dài đày đọa, bị khinh rẻ và hành hạ của những người thân…
cũng đều là những chi tiết được sắp xếp theo trình tự biên niên xây trên nền hiện thực
cuộc đời tác giả.
Có thể nói, khi người cầm bút có nhu cầu quay về, tìm lại con người của bản
thân mình trong quá khứ, đó cũng là lúc anh ta tìm về để nhìn nhận lại chính con
người thực của mình trong “lịch sử hình thành nhân cách” (chữ dùng của Lejeune).
Văn học trên thế giới cũng đã ghi nhận sự tái hiện những năm tháng đầu đời của các
nhà văn đã từng làm nên những tác phẩm tiểu thuyết tự truyện làm lay động lòng
người như: Thời thơ ấu, Thời niên thiếu, Thời thanh niên của L.Tolstoy; Thời thơ
ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi của M. Gorky… Ở Việt Nam, cũng có
không ít tác phẩm tiểu thuyết có tính chất tự truyện mà ở đó thế giới của những năm
tháng tuổi thơ luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng để làm nên sự thành công cho
tác phẩm. Ở các tác phẩm này thường nghiêng về hướng tự trình bày nhằm tái hiện
lại quãng đời đã qua của tác giả qua điểm nhìn của cái tôi trong hiện tại “thấu suốt
và nhất quán”. Nhưng, mỗi một con người đều có một cuộc đời riêng, một tính
77
cách, số phận khác nhau, không ai giống ai, cho nên, mỗi một tác giả lại có một
cách “tự trình bày” khác nhau về thời quá khứ của mình.
Những ngày thơ ấu là những dòng tâm sự, những hồi ức đầy xót xa của một
cái tôi đau khổ tự bạch về cuộc đời riêng tư của mình qua trang viết. Những sự kiện,
diễn biến được cấu trúc theo trục tuyến tính thời gian gắn liền với dòng chảy cảm
xúc của nhân vật:
- “Tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp vào đùi mẹ tôi, đầu ngả vào nách mẹ tôi, tôi
thấy cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt tôi. Hơi quần
áo mẹ tôi và những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phát ra lúc đó thơm
tho lạ thường” [43, tr.49].
- “Tôi còn biên nhiều lắm. Nhưng tin rằng một ít ngày thuật lại trên kia cũng
đủ để các bạn đọc nhận thấy mau chóng và rõ rệt những sự đày ải tối tăm của quãng
đời thơ ấu của tôi, khi thầy tôi mất, mẹ của tôi bỏ chúng tôi đi tha phương cầu thực”
[43, tr.63].
Nếu như Những ngày thơ ấu, từng sự việc được kể lại gắn liền với dòng xúc
cảm của nhân vật xưng tôi - tác giả thì ở Chiếc cáng xanh, hầu như tất cả những gì
từng diễn ra trong thời thơ trẻ đều được tác giả sắp xếp trở lại theo dòng chảy của
những ấn tượng được lưu giữ qua thời gian:
- “Cuốn tiểu thuyết này hay là cuộc đời tôi tôi có thể nói là bắt đầu từ con
đường ấy và người đàn bà ấy. Những cảm giác đầu tiên của tôi, là do người đàn bà
và cái cảnh đường ấy in vào tâm hồn tôi. Và nay tôi là người thế nào là do những
cảm giác đầu tiên đó đã đúc nên vậy” [75, tr.7].
- “Mỗi năm, tôi nhớ chừng thường thường vào tháng chín mà vào một ngày
giữa tháng, cái tháng mà những cơn gió bão từ đâu về, và khi đi khỏi rồi, để lại
những ngày trong như gương, phản chiếu cái mầu trắng phau của những đàn cò trên
một thảm lúa xanh rì” [75, tr.10].
Còn đối với Ngậm miệng, một tác phẩm đong đầy xúc cảm yêu đương, in
đậm mối tình đơn phương của Nguyễn Bính cùng nàng Oanh trong mộng tưởng
cũng được tác giả trình bày qua từng mẩu chuyện cụ thể: Mảnh hồn lưu lạc; Tôi yêu
nàng; Một buổi sáng; Gặp nàng; Một đêm mưa gió; Những dòng mực đầu tiên;
78
Mấy trang nhật ký; Bóng dáng... Cả tác phẩm chỉ thuần túy là lời độc thoại nội tâm
của tác giả được chuyển thể qua nhân vật “Tôi”. Từng cung bậc cảm xúc của nhân
vật “Tôi”: yêu, nhớ nhung, chờ đợi, oán giận, trách cứ, hờn ghen… rối bời, tưởng
chừng như xáo trộn, không tuân theo bất kỳ một trình tự thời gian nào nhưng nếu
xâu chuỗi lại tất cả thì mỗi một mẩu chuyện là một dòng tâm trạng, nối kết thành
một câu chuyện kể được tường trình lại qua nhân vật Tôi - thằng Bính - tác giả. Đôi
khi, lý lịch cuộc đời của nhân vật được tường trình rất rõ rệt:
- “Thằng Bính này ra đời được đúng bốn tháng thì mẹ chết. Từ đây nó rơi
vào tay một người đàn bà khác mà sau này lớn lên nó phải gọi bằng dì. Nó như bị
chôn sống giữa một gia đình hiu quạnh như một bãi tha ma. Người ta đã đưa đám
tâm hồn nó bằng những lời cay độc, sau khi liệm nó bằng tấm vải thâm thù. Lòng
nó đã chết” [14, tr. 364].
- “Thì ra thằng Bính này, em của anh, từ thủa bập - bẹ học nói đến nay, chả
bao giờ được gọi một tiếng mẹ ơi. Chả bao giờ được năm ngón tay của người từ
mẫu luồn vào mái tóc. Nó hoàn toàn phải bú những sữa giời ơi! Nằm vào lòng
những kẻ người dưng nước lã” [14, tr.364].
Tuy nhiên, trong chặng đường này cũng đã có một số tác giả đã khai thác lai
lịch bản thân mình từ góc độ của một nhà văn ngẫm về nghề như: Sống mòn (Nam
Cao) và Mực mài nước mắt (Lan Khai). Ở hai tác phẩm này, “chân dung tinh thần”
của chính tác giả trong vai trò là một nhà văn đang bị cơm áo đời thường “ghì sát
đất” nổi lên rõ nét. Hình ảnh nhân vật ông giáo Thứ dạy học ở trường tư khiến cho
người đọc liên tưởng đến cuộc đời Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám. Thứ có
đời sống tinh thần đầy phức tạp, một con người có nhiều khát vọng, hoài bão, anh
luôn muốn sống có ích, sống có ý nghĩa trong cuộc đời, song anh lại bị cơm áo đời
thường chi phối. Những lo toan về miếng ăn hằng ngày tưởng chừng như vặt vãnh
nhưng nó có sức bào mòn nhân cách, không cho Thứ có được cuộc sống có ý nghĩa.
Từ một người thầy giáo sống có lương tri, luôn tận tâm với nghề, “y thường rất
nghiêm khắc với chính y, với cái nghề dạy học của mình và bọn học trò xưa nay vẫn
mến y, vẫn phục y, vẫn coi y như cái kiểu mẫu để mà theo. Những lời nói của y đều
được coi là những châm ngôn mà chính y đã thực hành mãi mãi” [69, tr.190].
Nhưng rồi tất cả đều trở thành ảo tưởng. Những ước mơ, dẫu chỉ là ước mơ đầy
79
chân thật nảy sinh từ nhu cầu sống tối thiểu cũng không thể thực hiện được. Thứ đã
bị cuộc đời nhỏ nhen, tù túng siết chặt và dần đẩy anh vào con đường bế tắc, một lối
“sống mòn” vô nghĩa.
Goethe từng cho rằng: “Mỗi nhà văn, bất kể muốn hay không, đều miêu tả
chính mình trong tác phẩm của mình một cách đặc biệt” [98, tr.94]. Và mối quan hệ
giữa “cái thật” trong cuộc đời và “cái giống như thật” trong văn chương vốn chẳng còn
xa lạ gì. Dù cho “nhà văn có ý thức hay không, mỗi tác phẩm văn học đều liên quan
hữu cơ với một hệ thống quy chiếu, được kết tụ ngay trên văn bản nghệ thuật… Có trục
quy chiếu từ cuộc đời đến tác phẩm, mà cũng có trục quy chiếu từ tác phẩm ra cuộc
đời” [154, tr.69]. Vì, “có nhà văn nào mà nhân vật trong tác phẩm không được thần trí
của mình, tâm tình của mình, bản lĩnh của mình” [20, tr.36]. Nhưng với tiểu thuyết có
tính chất tự truyện, cái “giống như thật” ấy là “bản sao” từ chính con người tác giả.
Trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở chặng đường đầu, các nhà văn luôn có xu
hướng lội ngược dòng thời gian trở về với miền ký ức để “làm sống lại miền ký ức”
bằng cách tự trình bày, nên ít có tính chất xáo trộn về mặt thời gian cũng như kết cấu
chuyện, mặc dù vẫn có một số tác phẩm đã có sự xáo trộn ít nhiều về mặt cấu trúc thời
gian, ít nhiều có những bước chuyển mới trong việc xây dựng nhân vật (như trường
hợp Sống mòn của Nam Cao) nhưng vẫn chỉ là điểm dự báo cho bước chuyển động ban
đầu của tiểu thuyết có tính chất tự truyện theo hướng hiện đại.
3.2.2. Từ con người thực đến nhân vật hồi cố, chiêm nghiệm
Mang nét đặc trưng của tiểu loại tiểu thuyết viết về cuộc đời cá nhân tác giả,
tiểu thuyết có tính chất tự truyện giai đoạn 1945 - 1975 khi xây dựng nhân vật cũng
lấy từ chính chất liệu hiện thực cuộc đời nhà văn. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, tác
giả thường hay sử dụng yếu tố mờ hóa con người đời thực của mình trong cách đặt
lại tên nhân vật, cấp cho nhân vật một “tấm thẻ căn cước” khác đi so với phần tiểu
sử, lai lịch nhân thân. Cho dù nhân vật trong tác phẩm có nét tương đồng với con
người đời thực tác giả thì nó cũng đã được “biến tấu” đi đôi chút. Và câu chuyện về
quá khứ không phải là những gì xảy ra ngoài hiện thực khách quan mà là những gì
đang xảy ra trong tâm tưởng người viết, đó là một quá khứ được soi chiếu từ hiện
tại của dòng hồi ức.
80
Thomas Wolf từng nói: “Mọi tác phẩm nghiêm túc suy đến cùng đều có
tính chất tự truyện, một người muốn sáng tạo một cái gì chân thực và có giá trị
thì phải sử dụng kinh nghiệm và tư liệu trong cuộc sống của mình” [98, tr.40].
Trên cơ sở của thời hiện đại, cùng những thay đổi quan niệm hiện thực và con
người đã tạo điều kiện cho nhà văn “tự tìm lại chính mình”, để một lần được
trung thực với mình, chân thành bộc bạch, giãi bày những niềm suy tư, trăn trở
ẩn sâu trong tâm hồn.
Cũng giống như tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở giai đoạn trước, trong
tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở giai đoạn này hầu như các tác giả tái hiện lại lai
lịch cuộc đời mình nhưng lại được bọc trong lớp vỏ của tiểu thuyết. Những dấu hiệu
bề mặt từ tên tác phẩm, tên nhân vật, đến tiểu sử, những quãng thời gian trải qua
trong đời của nhân vật ít khi trùng khít với tác giả, và càng không thể bắt gặp những
“chữ kí” xác nhận tôi chính là nhân vật được viết ra trong tác phẩm. Ngay như tiểu
thuyết Hoa bươm bướm, một trong những tác phẩm có tính chất tự truyện đậm nét
nhất thì tên nhân vật cũng chỉ là Luân. Nhưng điểm khác biệt ở tiểu thuyết có tính
chất tự truyện giai đoạn này so với giai đoạn trước đó chính là cấu trúc đơn tuyến,
biên niên dần được thay thế bằng nhiều dạng cấu trúc đa tuyến, những sự việc trong
quá khứ được “tái cấu trúc” lại, đan xen cùng với sự việc trong hiện tại theo dòng
mạch của sự chiêm nghiệm. Đôi khi, tồn tại trong câu chuyện là cả một chuỗi đối
thoại giữa hiện tại và quá khứ (Hoa bươm bướm, Như cánh chim bay, Vòng tay học
trò, Tôi nhìn tôi trên vách). Vì vậy, nhân vật trong các tác phẩm ở giai đoạn này
thường tìm về quá khứ, hồi cố, chiêm nghiệm lại để tìm ra con người thật của chính
mình trong miền hồi ức.
Khi lấy chất liệu từ chính bản thân mình để hư cấu thành nhân vật trong tác
phẩm, nhà văn Võ Hồng cũng đã cấp cho nhân vật một mảng lý lịch khá tương
khớp với con người tuổi thơ của ông. Không lắm cá tính như Dần trong Sống nhờ,
nhân vật “tôi” trong Người về đầu non hiện lên với những nét dân dã, chân chất như
cuộc đời thực của Võ Hồng. Nhân vật “tôi” kể về những kỷ niệm đẹp trong đời gắn
liền với hình ảnh miền quê nơi có con đò, dòng sông, con đường làng, những khóm
tre, những gương mặt thân quen của người thân. Toàn bộ câu chuyện tựa như một
81
sự lặp lại một lần nữa “trong một cách thể diễn tả khác” những gì đã từng xảy ra
trong đời tác giả.
Trong Trường cũ của Duyên Anh cũng thế, xuyên suốt toàn bộ tác phẩm là
miền hoài niệm tuổi thơ được tác giả kể lại một cách tỉ mỉ. Từng trang, từng dòng
của Trường cũ đều ngập tràn một vùng trời kỷ niệm. Và dường như nhà văn “luôn
bị ám ảnh” bởi dĩ vãng gắn liền cùng “Kỷ niệm của trường Trần Lãm, ngôi trường
này đã trở thành “trường cũ”… Có ai kể hết kỷ niệm trường xưa lớp cũ của mình
không nhỉ? Không, chả nên kể hết. Phải dành dụm chứ. Và tôi cũng vậy, tôi không
kể hết chuyện trường cũ đâu. Tôi sợ kể hết, tôi chẳng còn gì kể thêm mỗi lần có
người muốn tôi nhớ về trường cũ. Và tôi đứng ở đây…” [2, tr.129]. Đánh giá về nhà
văn Duyên Anh qua tác phẩm Trường cũ, Huỳnh Phan Anh từng nhận xét: “Duyên
Anh không viết tiểu thuyết, ông tiểu thuyết hóa cuộc đời, hay chính ông đã từng
sống thực những đoạn đời thể hiện trong trang sách của ông… Tất cả những nhân
vật tiểu thuyết… nếu không là những phản ánh trung thực từ những chất liệu sống
thực nhất của cuộc đời tác giả ít ra được xây dựng từ những chất liệu sống thực nhất
của cuộc đời đó” [3]. Lại có nhận xét khác cho rằng ở Duyên Anh, cuộc đời và tác
phẩm, kinh nghiệm sống và chữ nghĩa luôn tìm cách đến gần nhau, bổ sung cho
nhau. Chắc chắn không phải là điều tình cờ khi Duyên Anh viết ở ngôi thứ nhất
trong rất nhiều tác phẩm của ông. Đọc Duyên Anh tức là một cách nào đó tìm đến
“cái tôi” của Duyên Anh, cái “tôi” mà chính Duyên Anh không ngớt trở về, cái
“tôi” không ngừng xuất hiện trên những trang sách của Duyên Anh một cách lộ liễu
hay kín đáo và cũng xuất hiện quen thuộc, tất cả trở nên một vũ trụ thân thuộc.
Nhân vật “tôi” kể lại những kỷ niệm một thời cắp sách gắn liền với ngôi trường
Trần Lãm, thị xã Thái Bình - nơi lưu dấu bao kỷ niệm: từ con đường làng, đến
những đứa bạn thời tuổi nhỏ và những trang sách đầu đời mà “tôi” đã từng học
trong Quốc văn giáo khoa thư… Hình ảnh “tôi” đầy tinh nghịch, lêu lỏng, thích ca
hát, ham thơ văn, thích gây gỗ hơn thích học đều trở thành một miền nhớ luôn
thường trực đi về qua nhiều trang văn trong Trường cũ như một sự gián tiếp bày tỏ
những hối hận khi “tôi” đã không là một học trò gương mẫu.
82
Mặc dù đôi khi mảng lý lịch giữa tác giả và nhân vật có sự “biến tấu” đôi
chút, nhưng nếu xâu chuỗi lại từng chi tiết cụ thể từ độ tuổi, giới tính, sự kiện
cùng mối quan hệ từ gia đình đến bạn bè, nghề nghiệp sẽ thấy hao hao giống
cuộc đời tác giả và thậm chí dấu ấn tiểu sử tác giả gần như hiển lộ qua từng câu
chữ. Dù cho tác giả có cố gắng ngụy trang dưới hình thức nào đi chăng nữa thì
nó cũng khó có thể đánh lừa được độc giả. Bởi vì, với vốn hiểu biết văn học nhất
định của mình, người đọc có thể nhận thấy được nét “song trùng” giữa nhân vật
và tác giả: nhân vật Luân và nhà văn Võ Hồng trong Hoa bươm bướm; nhân vật
Tâm và nhà văn Thanh Tâm Tuyền trong Bếp lửa; nhân vật Khanh và nhà văn
Túy Hồng trong Tôi nhìn tôi trên vách... Ngay như tiểu thuyết Vòng tay học trò
của Nguyễn Thị Hoàng, một tác phẩm mà ở đó nhà văn ít để lại những dấu vết tự
truyện, nhưng nếu tinh ý sẽ thấy bên cạnh bút pháp trần thuật, chất liệu tự truyện
đã góp phần không nhỏ để mang lại sự thành công cho tác phẩm. Mặc dù có sự
“song trùng” và cả tiểu thuyết Vòng tay học trò là sự hóa thân của tác giả, nhưng
mối quan hệ giữa nhân vật và nguyên mẫu đã bị “nhòe đi” bởi những thủ pháp
nghệ thuật được tác giả sử dụng trong tác phẩm.
Việc tự nói về mình trong tác phẩm của mình vốn không phải là chuyện dễ
dàng, đặc biệt đối với người Việt, vốn dĩ truyền thống văn hóa trọng tĩnh đã từng bén
rễ, ăn sâu trong tâm thức mỗi con người. Họ vẫn hay e ngại khi nói về chính cuộc đời
mình. Hơn nữa, khi viết những lời tự thú thành thật, nhà văn cũng chịu sự chi phối
bởi áp lực rất lớn từ phía dư luận, xã hội… Thế nhưng, các nhà văn đã vượt qua được
những trở lực để đưa trang tiểu thuyết tiến gần sát với cuộc đời thực của mình.
Khai thác số phận cá nhân qua cái nhìn hồi cố đã không ít lần tiểu thuyết có
tính chất tự truyện chạm đến cái tôi chứa đầy lạc lõng, cô đơn. Thậm chí, không ít
những tác phẩm mà ở đó màu sắc hiện sinh hiện lên tương đối đậm nét: sự mong
manh của kiếp người trước những cơn dư chấn của lịch sử, con người cảm thấy lạc
loài, đánh mất niềm tin vào cuộc sống, con người được gì, mất gì trong một thế giới
xô bồ, hỗn độn và phi lý… Gần như không tìm thấy trong tiểu thuyết có tính chất tự
truyện ra đời ở chặng đường 1945 đến 1975 một mẫu hình nhân vật có được cuộc
sống đời tư đủ đầy, ấm êm và hạnh phúc. Họ phần lớn là những người sống trong tâm
83
trạng bất an, hoài nghi, cùng cảnh vừa “không gia đình”, vừa “thiếu quê hương”.
Nhân vật Tâm trong Bếp lửa, Trâm trong Vòng tay học trò, hay Luân trong Hoa
bươm bướm, Khanh trong Tôi nhìn tôi trên vách… tất cả đều mang tâm trạng rã rời,
“buồn nôn”, đều hoài nghi chính sự hiện hữu của mình, sống giữa cuộc đời mà cứ
ngỡ như giữa “một hành tinh bằng cát bụi lơ lửng giữa không gian, bắt đầu hư không
rồi chấm dứt ở đó. Sống như một di chuyển lạnh lùng” [42]. Không những thế, trong
tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở đô thị miền Nam, đặc biệt là trong các tác phẩm
của nhà văn nữ, kiểu con người nổi loạn trong tâm hồn, nổi loạn trong hành động để
chống đối, phản kháng lại thực tại đã được các nhà văn xây dựng thành công qua các
tác phẩm Vòng tay học trò và Tôi nhìn tôi trên vách. Cô giáo Trâm luôn mang mặt
cảm cô đơn, tâm trạng “bất hòa” với thực tại, nên cô tìm quên bằng những chuyến
“xê dịch”, đôi khi, cô ném trả lại đời bằng lối sống “dị thường”, vượt xa giới hạn của
nét nhu mì thời con gái: “Ở Sài-gòn là nỗi niềm kiêu hãnh liều lĩnh bất chấp thiên hạ
để sống, để phá đời, để hưởng đời. Ở đây là sự kiêu hãnh liều lĩnh bất chấp để gây
dựng cho mình, để vạch những lối đi riêng không cần đến những con đường mòn của
thiên hạ. Sự thách đố đó làm ngạc nhiên người xung quanh” [42, tr.11]. Có khi, sống
giữa tuổi thanh xuân mà cô như “bỏ quên” tất cả: tuổi thanh xuân, hạnh phúc, tình
yêu, những xao xuyến tâm hồn, những khát khao thầm kín… tất cả đối với Trâm giờ
chỉ còn là “tro than lạnh”. Chới với trong nỗi cô đơn, dửng dưng, lạnh lùng với tất cả.
Đã đôi lần Trâm băn khoăn, tự hỏi: “liệu có thể sống mãi thế này không - Mình chịu
như thế này để làm gì?” [42, tr.12], nhưng đó cũng chỉ là câu hỏi trĩu nặng nỗi u
buồn, tự thương cảm, cật vấn với chính mình khi con người ấy ý thức được nỗi cô
đơn trong thực tại, gắng gượng, quẫy đạp để phản ứng lại với đời trong vô vọng.
Khanh trong Tôi nhìn tôi trên vách là trường hợp khác. Khanh sẵn sàng bước
qua những mơ mộng của thời con gái để làm một người vợ ngoan hiền bên người
chồng văn sĩ. Trước khi cưới Nghiễm, Khanh đã từng có những dự cảm về cuộc sống
mất tự do khi về làm vợ Nghiễm: “Tôi cảm thấy tôi đang đứng trong một vòng tròn
bằng vôi do Nghiễm vẽ. Tôi phải đứng hẳn trong vòng tròn đó, không được bước ra
và không được đặt một chân trong, một chân ngoài. Tự do, độc lập và hạnh phúc của
84
tôi nằm trong đó, nằm chen chúc chật ních trong đó. Dưới mắt của đàn ông như
Nghiễm, sự ngang tàng của một người đàn bà như tôi chỉ được xoay bằng một bán kính
eo ốc thảm sầu vậy sao? Trong vòng tròn đó, tôi tuyên thệ tôi sẽ là vợ” [46, tr.16].
Nhưng Khanh vẫn không thể lường hết được những điều xảy ra trong đời sống vợ
chồng kể từ khi cưới Nghiễm. Nghiễm “vẫn chứng nào tật ấy”, sống buông thả theo
thú vui riêng mình. Ngày trước, “chàng uống rượu không lúc nào ngừng nghỉ đến nỗi
bao tử chàng dài như cái chai, buồng gan chàng to gấp rưỡi và túi mật chàng rỉ ra
chảy nước đắng đêm ngày. Rượu làm cho chàng to gan lớn mật là thế. Ngoài rượu ra
còn có bia là vị ngọt của đời chàng” [46, tr.14]. Còn bây giờ, “đài hạnh phúc của
chàng là bầu rượu… lượng số bia ba với ba vào dạ dày chàng có ngày lên tới hai
mươi lăm chai”, ngoài bia ra, còn có cả một “đạo quân rượu mạnh…Black and
White…Johnie Walker…Martell…Champagne, Gin, Bisquit, Vin” [45, tr.80-81].
Những rạn vỡ hạnh phúc gia đình ngày một thêm khắc sâu theo từng lần cãi vã.
Những bất đồng trong lối sống, suy nghĩ… nới dần thêm khoảng cách vợ chồng. Và
nó được đẩy lên đến đỉnh điểm khi Khanh chứng kiến cảnh ngoại tình của Nghiễm
cùng với Bích Vân diễn ra ngay giữa lúc anh đang nằm bệnh. Thực cảnh ấy đẩy
Khanh vào hố sâu của niềm tuyệt vọng, lửa hờn ghen dâng trào, tạo thành cơn dư
chấn mạnh mẽ trong tâm hồn Khanh: “Tôi phải được hú lên như chó sói, lồng lên như
ngựa vía, rống lên như sư tử, tru lên gào lên, điên lên. Tôi phải được phựt cháy như
xăng dầu, phải được nổ banh ra như bình ga. Cho tôi một con dao phay để tôi múa tít,
cho tôi một sợi dây thừng để tôi siết cổ, cho tôi một chảo mỡ nóng để tôi tạt vào mặt,
cho tôi một trăm hòn đá để tôi ném vào…” [46, tr.320-321]. Hàng trăm điều ước
muốn “cho tôi” và những câu hỏi “tại sao?” cứ xoay tít, tạo thành nỗi đau thương len
lỏi vào từng ngõ ngách tâm hồn. Trong Khanh chỉ còn là niềm uất hận, hờn ghen,
những ý nghĩ phũ phàng và nỗi cô đơn của một người vợ đang nếm trải cảnh phụ tình
của người chồng mà mình đã từng yêu, tin, hy sinh tất cả để đổi về hạnh phúc: “Từng
mảnh mộng nhỏ nổ tung… từng niềm tin đơn sơ chợt mất đi để lại những sự thật xấu
xa như đom đóm ban ngày, hết rồi chồng một tấm, hết rồi hạnh phúc một nguồn.
85
Đám cưới vừa sáng rực ngày nào đó, ngọn đèn đêm động phòng vẫn còn nguyên đó,
những đứa con ra đời năm một sẽ cười sẽ khóc đó… thế mà, những khớp xương đã rã
rời, những đôi môi đã rạn nứt” [46, tr.364]. Khanh đau đớn, vật vã, sống buông mình
theo những cuộc vui thâu đêm, trút nỗi oán hờn vào men rượu, vào thuốc phiện, bạc
bài, phòng trà, đắm mình theo lối sống thời thượng… đến rã rời thân xác. Dẫu thế
nhưng, trước sau Khanh vẫn là người đàn bà sáng suốt, chủ động, ý thức được những
gì đang tàn phá đời mình. Đối diện với thực tại phũ phàng, hạnh phúc và tình yêu
đang đánh đu trước cuộc đời ô tạp chốn Sài thành, Khanh không thôi lục vấn, suy
nghiệm, tự nhìn lại mình trong quá khứ, thực tại và cả ở tương lai. Những lúc như thế,
giúp cho Khanh bừng thức để nhận diện ra tất cả: “Cuộc đời tôi là bàn cờ, lối ngang lối
dọc, đường chéo đoạn thẳng, ngả cong chi chít nên tôi mới bước tới một bước thì lùi
hai bước, chưa sang trái đã quay về phải… Tôi ăn chơi không nổi, phá phách không
nổi, truy hoang không nổi, quên đời không nổi và tôi quên tôi không nổi. Tôi nhớ địa vị
của tôi quá, tôi quay về, tôi nhớ tôi quá, tôi quay về” [46, tr.430-431]. Sự phản tỉnh ấy
đã giúp Khanh kịp quay trở về với “địa vị” của một người vợ, người mẹ, hàn gắn lại
hạnh phúc khi nó chưa đổ vỡ hoàn toàn.
Có thể nói, tiểu thuyết có tính chất tự truyện ra đời ở đô thị miền Nam không
xây dựng những nhân vật trong “lịch sử hình thành nhân cách” như ta đã từng bắt
gặp trong các nhân vật ở tiểu thuyết có tính chất tự truyện khác. Những nhân vật
của tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở đô thị miền Nam thường không nhất quán
trong tính cách và cả những mảng lý lịch nhân thân thường không được trình bày
theo một trình tự rõ ràng mà chỉ là những mảnh ghép rời rạc. Không khó để bắt gặp
trong các tiểu thuyết này những con người lạc lõng, vong thân, luôn khắc khoải nỗi
đau thân phận. Nhân vật Tâm trong Bếp lửa của Thanh Tâm Tuyền có phần lý lịch
khá mơ hồ, không rõ ràng về tuổi tác, nhân thân, và có một mái ấm gia đình không
trọn vẹn: cha mất sớm, mẹ đi thêm bước nữa nên Tâm phải sống trong một gia đình
có cả con ông con bà cùng người bố dượng. Rồi người mẹ có số phận không may
mắn của Tâm cũng qua đời. Tuy sống chung trong một mái nhà cùng người bố
86
dượng nhưng mỗi một người là một phương trời riêng biệt. Cuộc đời Tâm là những
chuyến đi trải dài, vô định. Luôn ẩn chứa trong Tâm là một tâm trạng xa lạ, dửng
dưng với hết thảy, kể cả khi Tâm bị ông hiệu trưởng trường dòng cho thôi việc anh
cũng thản nhiên đón nhận đến lạnh lùng. Ngay cả tình yêu đôi lứa Tâm cũng chỉ
“thấy một cảm giác chập chờn”, có thể là yêu, cũng có thể là không, rất đỗi mơ hồ,
mong manh “không đáng kể”. Cô giáo Trâm trong Vòng tay học trò của Nguyễn
Thị Hoàng cũng không được miêu tả trong sự trọn vẹn của các mối quan hệ gia
đình, xã hội. Cô bỗng dưng xuất hiện tại mảnh đất cao nguyên Đà Lạt với tâm trạng
trĩu nặng nỗi niềm bi quan, chán nản. Cô đến với mảnh đất Đà Lạt như một sự tìm
quên tất cả quãng đời đầy vô nghĩa đã qua của mình, và gia đình, quá khứ đời cô
cũng chỉ thoáng hiện một cách mơ hồ, rời rạc, như những mảnh ghép.
Trong cảm quan của con người thời hiện đại, với cái nhìn bất tín vào hiện
thực, cùng với khát vọng tự nhận thức lại cuộc đời, con người đã bắt đầu cảm nhận
cái phi lý của sự tồn tại cùng sự mong manh của kiếp người. Tất cả những nhận
thức về thân phận cuộc đời mình của từng tác giả đều hắt bóng qua từng tác phẩm.
F. Nietzche từng nói chất liệu đầu tiên hiến dâng cho kẻ sáng tạo chính là bản thân
anh ta. Cuộc đời mỗi con người đều trải qua những buồn vui, sướng khổ, có những
khoảnh khắc thăng hoa nhưng đôi khi cũng có những phút giây bi quan, tuyệt vọng.
Với các nhà văn như Võ Hồng, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Thị Hoàng… những
con người đang sống trong thực tại của năm tháng mà ở đó chiến tranh đã làm cho
cuộc sống bị đảo lộn hoàn toàn, “đời sống con người lần lần được định giá quá rẻ và
người ta xâm phạm đến nó mà không thấy lạnh ở con mắt” [47, tr.195], hơn ai hết,
những tâm hồn nhạy cảm của nhà văn đã giúp họ cảm nhận một cách thật sâu sắc
nỗi đau đớn, bất hạnh cùng những đổ vỡ, bi thương của thân phận đời mình trong
những năm tháng ấy. Và nơi có thể giúp họ trút vơi bớt được phần nào nỗi niềm
thân phận chính là những trang văn trong thế giới nghệ thuật tiểu thuyết.
87
3.2.3. Từ con người thực đến nhân vật phản tư
Sau 1975, đặc biệt là từ sau thời kỳ đổi mới (1986), sự xuất hiện trở lại của
tiểu thuyết có tính chất tự truyện cũng đã góp phần không nhỏ vào quá trình làm
mới tiểu thuyết Việt Nam trên con đường hội nhập. Điều này một phần nảy sinh từ
đặc trưng của một tiểu loại tiếp cận đời sống nghiêng về hướng “tự biểu hiện”, cùng
với không khí dân chủ thời hiện đại tựa như đường kênh dẫn dòng cho tiểu thuyết
có tính chất tự truyện tiếp tục đi sâu vào khai thác cuộc sống từ góc độ thế sự đời tư.
Hướng tiếp cận này giúp cho tiểu thuyết có tính chất tự truyện tiến dần, tiếp cận đời
sống con người một cách đa chiều, đa diện.
Trong những trang tiểu thuyết có tính chất tự truyện chặng đường sau 1975
người đọc sẽ rất khó tìm thấy mẫu nhân vật tự trình bày lai lịch cuộc đời mình theo
trình tự biên niên, với hàng loạt những câu kể với điểm khởi đầu là: tôi sinh; tôi là;
tôi đã; tôi còn nhớ rất nhiều; tôi còn biên nhiều lắm… như trước đây đã từng hiện
diện. Giai đoạn này nổi lên rất rõ mẫu hình nhân vật phản tư, “tự phân tích”, chất
vấn để tìm lại con người thật của mình giữa cuộc sống đời thường thời hậu chiến,
đan xen tốt - xấu, vui - buồn, hạnh phúc - đắng cay đầy phức tạp.
Những câu chuyện đời tư, mang tính cá nhân cùng với trải nghiệm của tác giả
trộn lẫn trong hư cấu một cách hữu ý đã mang đến cho công chúng độc giả một cái
nhìn chân thực hơn về những phận người cùng miền hiện thực mang tính chủ quan mà
tự bấy lâu nay bị khuất nẻo vì những giới hạn của quan niệm một thời.
Có thể nói, khi xây dựng nhân vật từ nguyên mẫu cuộc đời tác giả thì nhân
vật dù đã được hư cấu có chủ đích theo ý đồ nghệ thuật, nhưng ít nhiều nó cũng hé
lộ cho người đọc những dấu vết của người viết. Tất nhiên, một khi đã là sản phẩm
của quá trình sáng tạo, nhân vật trong tiểu thuyết nào cũng đều chứa đựng yếu tố hư
cấu và sẽ không có bất kì một trường hợp ngoại lệ nào bê nguyên nguyên mẫu con
người ngoài đời vào trong tác phẩm mà không hề có sự sáng tạo của người viết.
Chuyện kể năm 2000, nhân vật “hắn” đã thuật kể lại cảnh đời mình bằng một
cốt truyện khá đơn giản, nhưng câu chuyện không hoàn toàn tẻ nhạt. Bởi, người trần
88
thuật đã để cho nhân vật tự do bộc lộ cảm xúc và niềm tâm trạng của mình khi trần
thuật ở ngôi thứ ba với điểm nhìn xoáy sâu vào đời sống nội tâm của nhân vật: “có
những điều hắn tưởng không bao giờ quên. Thế mà hắn quên. Dù lúc xảy ra sự việc,
hắn tự bảo: Mình sẽ nhớ suốt đời. Làm sao quên được những điều đáng nhớ như
thế. Đó là những niềm vui hiếm hoi. Là những điều đau khổ đến tê dại. Không,
không thể nào quên được. Thế mà hắn quên. Thỉnh thoảng hắn muốn ôn lại quá
khứ. Hắn không sao quên được. Kinh nhất là những đau khổ tột cùng mà cũng quên
luôn…” [122, tr.3]. Khi chọn lựa đại từ nhân xưng “hắn” rất lạnh lùng để kể lại
quãng đời tù đày của người phạm nhân có số hiệu tù CR880, Bùi Ngọc Tấn cũng đã
tạo được khoảng cách khá an toàn khi dùng ngôi kể thứ ba để trần thuật. Tuy nhiên,
dẫu cho ngôi kể “hắn” có lạnh lùng thì vẫn mở ra cho người đọc cả một thế giới nội
tâm của nhân vật “hắn”. Truyện mở đầu bằng những dòng văn đầy tâm trạng của
nhân vật “hắn” và mạch truyện tiếp tục được triển khai với “những việc mà hắn
tưởng hắn quên” nhưng không bao giờ quên được. Dù “hắn” được tại ngoại nhưng
những ngày tháng tù đày vẫn không thể nào xóa hẳn trong tâm trí của “hắn”. Năm
năm tù đày đã đóng đinh vào lòng, tạo thành “hội chứng say tù” trong “hắn”. Những
dằn vặt, day dứt và nỗi ám ảnh về quá khứ luôn thường trực đi về trong đời sống
tinh thần của nhân vật “hắn” đã hé lộ cho người đọc thấy được cả một nỗi đau thân
phận của con người trong hoàn cảnh mất tự do. Nhờ vậy mà câu chuyện đã vượt ra
ngoài giới hạn của một tự truyện, tạo nên chiều sâu nghệ thuật cho tác phẩm.
Trong Thời xa vắng, Lê Lựu kể lại bằng lời kể khách quan tựa như một “thủ
thuật” để đánh lạc hướng người đọc, nhằm đẩy khoảng cách giữa người kể chuyện -
nhân vật - tác giả ra xa, cố gắng xóa nhòa dấu vết cá nhân mình. Từ đoạn văn mở
đầu tả ngoại cảnh cùng lối trần thuật ở ngôi thứ ba: “Làng bập bềnh như trôi trong
đêm sương muối. Những cây cau thẳng đuột cao vóng như chỉ chực lao thẳng đến
tận trời chìm ngập giữa âm thầm lạnh giá…” [75, tr.5]. Dần dần, nhà văn khéo léo
nhích điểm nhìn vào bên trong nhân vật. Từ điểm nhìn bên trong, nhà văn đã tựa
vào dòng tâm trạng của nhân vật để trần thuật. Điều này khiến cho câu chuyện kể về
89
Giang Minh Sài như một nhân vật hoàn toàn xa lạ nào đó nhưng nếu so sánh giữa
cuộc đời của nhân vật Sài với cuộc đời của Lê Lựu sẽ thấy xuất hiện rất nhiều yếu tố
tự truyện. Sài mang đậm dấu ấn tiểu sử cuộc đời tác giả. Từ xuất thân, quê quán, đến
chuyện đời tư: ngôi làng Hạ Vỵ, nơi Sài sinh ra và lớn lên mang bóng dáng vùng quê
Tân Châu, huyện Khoái Châu - Hưng Yên của tác giả, một miền quê đồng chiêm
trũng, thường xuyên hứng chịu thiên tai lũ lụt, mất mùa, nghèo đói. Sài xuất thân
trong một gia đình có mẹ là nông dân và bố là ông giáo làng, bốn đời đi chân đất
nhưng có ông chú (chú Hà) tham gia vào tiền khởi nghĩa, ông anh (anh Tính) đi theo
chú Hà. Anh là nạn nhân của hủ tục, từ khi còn là cậu bé “ăn chưa no, lo chưa tới” đã
bị cha mẹ ép cưới cô gái con một gia đình địa chủ trong làng. Niềm ao ước được
bước ra mặt trận của Sài không phải vì quá hăng say phụng sự cho lý tưởng mà chỉ
xuất phát từ tình cảnh riêng tư của một con người đang tìm cách để thoát ly, chạy trốn
khỏi cuộc hôn nhân đầy gượng ép… Sài có đến hai đời vợ, đời vợ trước là cô Tuyết
(người vợ bị ép duyên ở quê nhà), và cô vợ thứ hai là Châu (người thành phố). Lê
Lựu cũng thế, theo như ông kể lại thì: “năm mười tuổi, người bé như cây kẹo tôi đã
lấy vợ rồi. Đến tuổi đi bộ đội, chi bộ Đảng bảo về yêu vợ mới kết nạp Đảng thế là về
có được đứa con, xong tôi bỏ bê, không nuôi nó. Còn bà trên thành phố này thì được
hai đứa” [13]. Bi kịch trong cuộc đời nhà văn đâu đó cũng hắt bóng qua bi kịch cuộc
đời nhân vật Sài. Tuy nhiên, Giang Minh Sài trong Thời xa vắng đã vượt ra ngoài
nguyên mẫu với một khoảng cách tương đối xa. Sự chân thực từ những nỗi đau trong
đời tác giả đã được nâng lên thành những chiêm nghiệm về thân phận con người.
Nhân vật Giang Minh Sài là sản phẩm của một hoàn cảnh sống trong “thời xa vắng”,
con người bị “uốn nắn” theo những nguyên tắc sống hẹp hòi, cứng nhắc. Hoàn cảnh
đó dần bào mòn đi cuộc sống tự do cá nhân của con người, Sài phải tự “gò mình” để
cho phù hợp với “khuôn mẫu”. Hoàn cảnh sống ấy biến Sài thành kẻ hèn nhát, nhu
nhược, chưa bao giờ Sài được sống là chính mình. Cuộc đời Sài không giản đơn
thuận chiều mà chứa đầy những nghịch lý: Sài hiền lành, sống chan hòa với mọi
người; trong vai trò của người con, Sài luôn trân trọng nề nếp gia phong; với tư cách
90
một người công dân: Sài luôn làm tròn nhiệm vụ… Sài có đủ điều kiện để tìm thấy
hạnh phúc giữa cuộc đời này nhưng cuộc đời Sài lại nếm trải quá nhiều nỗi trái
ngang: Sài được mọi người trong gia đình yêu thương và đồng đội quý mến nhưng
chính tình yêu thương và sự quý mến ấy là một trong những tác nhân làm cho đời anh
rơi vào bi kịch; Sài là người lính dũng cảm, đạt nhiều thành tích nhưng anh không thể
trở thành anh hùng và thậm chí là người yếu đuối, nhẹ dạ, vụng về trong cuộc sống;
Sài luôn yêu hết mình, gắng vun vén cho tình yêu nhưng đời anh lại không hạnh
phúc… Cuộc đời Sài là cả chuỗi dài những nghịch lý mà đôi khi chính bản thân anh
có cố gắng truy tìm cũng không thể nào lý giải nổi.
Nhân vật Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh cũng mang bóng dáng cuộc đời
của Bảo Ninh. Kiên cũng được tác giả ngụy trang một cách khéo léo: từ nhân
thân lai lịch, đến tính cách… đều rất ít để lại những dấu vết có tính tương đồng
giữa nhân vật và nguyên mẫu đời thực tác giả. Trong bài Người kể chuyện xưng
tôi trong văn chương, Phùng Văn Tửu viết: “Bảo Ninh sinh năm 1952 ở Quảng
Bình. Ai quan tâm nghiên cứu đối sánh cái tôi hư cấu trong tác phẩm với cái tôi
nhân thân của nhà văn khi đọc tập sách này của Bảo Ninh chắc sẽ dễ dàng tìm ra
nhiều dấu vết trùng khớp còn nguyên vẹn” [155]. Những “dấu vết còn nguyên vẹn”
trong mối quan hệ giữa cái tôi hư cấu trong tác phẩm và cái tôi nhân thân của tác
giả Bảo Ninh đó có lẽ là hình ảnh nhân vật Kiên - một người đã từng tham gia chiến
đấu trong những ngày tháng khốc liệt nhất của chiến trường B3 - Tây Nguyên. Kiên
đến với nghiệp văn khi đã rời quân ngũ làm cho người đọc dễ dàng liên tưởng đến
Bảo Ninh. Bảo Ninh cũng giống như Kiên, cũng đã từng chiến đấu ở mặt trận B3 -
Tây Nguyên (cũng là địa danh từng diễn ra những trận đánh khốc liệt nhất mà Kiên
đã trải qua trong đời quân ngũ của mình). Tương tự, giữa cuốn “tiểu thuyết” của
Kiên và Nỗi buồn chiến tranh “một ảo, một thật” đều có sự trùng lặp: cả hai đều
viết về chiến tranh thông qua cái nhìn đầy phản tỉnh của người lính. Và điều bất ngờ
hơn nữa đó là về hình thức, cả hai tiểu thuyết đều thiếu bố cục và sự mạch lạc, cả
hai đều bắt đầu từ chi tiết nhân vật chính, người cựu chiến binh trở lại chiến trường
91
xưa để tìm hài cốt đồng đội… Mặc dù cả tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh là sự hóa
thân trọn vẹn của tác giả, nhưng mối quan hệ giữa nhân vật và nguyên mẫu đã bị
nhòe đi bởi những thủ pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng trong tác phẩm.
Tuy nhiên, Kiên khác biệt hơn so với những nhân vật được xây dựng từ
nguyên mẫu khác trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện. Vì, bản thân mỗi một
con người là một thực thể đơn nhất, không hề có sự trùng lắp, huống chi Kiên,
nhân vật được xây dựng trên tinh thần của cái nhìn thời kỳ hậu chiến. Trong cái
nhìn của thời kỳ hậu chiến, con người đã không còn niềm tin vào những qui luật
mang tính phổ quát. Với họ, không có một thứ chân lý nào là tuyệt đối, và thực
tại này là một thế giới hỗn độn, vô nghĩa, bất khả nhận thức, là nơi mà “mọi giá
trị đều đổ vỡ, mọi định hướng ý nghĩa đều vô ích”. Con người của thời hậu chiến
đánh mất niềm tin vào những gì mình đã từng tin. Ngay cả đến lý tưởng thiêng
liêng một thời mà người lính từng ngưỡng vọng thì mãi “cho đến bây giờ vẫn
chưa lý giải được chính xác và sâu xa về lý tưởng thiêng liêng của người chiến sĩ
thời bấy giờ” [75, tr.135]. Chính điều này đã chi phối bút lực sáng tạo của Bảo
Ninh trong tác phẩm. Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh có một độ chênh khá xa
so với tầm đón nhận về người lính của công chúng độc giả. Bởi từ lâu, trong văn
học Việt Nam khi viết về người lính, gắn với màu áo lính là hình ảnh của những
tấm huân chương, là những chiến công, bất khuất… Với Kiên của Bảo Ninh,
hình ảnh người lính được nhìn ở mặt sau của tấm huy chương chiến công, rợn
ngợp những đau thương, hủy diệt đến phi nhân tính của chiến tranh. Kiên trong
Nỗi buồn chiến tranh được tái hiện hết sức tùy tiện nương theo dòng tâm tưởng
với những kí ức và cảm xúc xáo trộn. Cả Nỗi buồn chiến tranh là tập hợp những
mảnh ghép từ sự xáo trộn không - thời gian của dòng cảm xúc đứt nối trong tâm
tưởng Kiên - người lính - nhà văn cấp phường mang hình hài, bóng dáng Bảo
Ninh. Những năm tháng chiến tranh mà Kiên từng đi qua nó đã cướp mất đi
những gì đẹp nhất trong đời anh. Trở về cuộc sống đời thường, trong anh chỉ còn
là đau thương, vỡ vụn. Ẩn trong hình hài của một người chiến thắng đó là cả một
92
tinh thần bị tổn thương. Kiên đã không còn nhìn cuộc sống, nhìn chiến tranh như
những ngày lên đường nhập ngũ của một anh thư sinh mười bảy tuổi bước chân
vào cuộc chiến với niềm tin và hy vọng. Từng chứng kiến, đối diện với sự hủy
diệt của cỗ máy chiến tranh đã cướp đi bao sinh mạng những đồng đội cùng
những người thân yêu và cả sinh mạng của những người “bên kia chiến tuyến”,
nên dù cho Kiên đang sống giữa cảnh đời thực tại hòa bình, thống nhất nhưng
tâm hồn anh vẫn không thôi tìm về với những hồi ức về đồng đội, cùng những
“Mùa khô năm ấy”, những “ngày nắng”, “đêm mưa”, những “hồ Cá Sấu ở đông
Sa Thầy”… với chiến trường “Máu tung xối, chảy tóe, ồng ộc, nhoe nhoét… la
liệt xác người bị đốn, thân thể dập vỡ, tanh bành, phùn phụt phì hơi nóng… Tất
cả, tất cả, chẳng sót một chi tiết nào của toàn bộ cuộc đời chiến đấu đã sống dậy
lần cuối trước mắt Kiên, vừa lần lượt, vừa đồng hiện, vừa thoáng lướt vừa chậm
rãi trôi qua, đau đớn như một cuộc diễu hành tang lễ” [96, tr.11, tr.151].
Ra khỏi cuộc chiến, Kiên sống một thời hậu chiến đầy u buồn, “đời Kiên
hầu như đã thu hết về đêm… so với cái bóng anh trên tường, anh cũng bất động và
lầm lì như thế, anh cũng chỉ là một cái bóng. Một cái bóng đã mất hết năng lực tồn
tại thực tế nhưng chai rắn và ương ngạnh vẫn sống, dựa vào sức lì dữ dội, da i dẳng
của năng lượng ký ức” [96, tr.153]. Anh lao vào viết “những trang bấn loạn nhất
trong niềm đau khổ vì đắm say mê mệt cuộc đời” trong sự “thúc bách của những
linh cảm về cái chết đang kề tới với lối văn chương như thể tự thiêu... một thể biến
tướng của hội chứng mộng du” [96, tr.134-154]. Những câu chữ xuất hiện trong
“bóng đêm âm u” của tiềm thức, vô thức vụt hiện, đột ngột đôi khi đến mơ hồ.
Kiên viết trong bóng đêm, trong cơn say, trong hoảng loạn, vô thức. Viết về Nỗi
buồn chiến tranh, Bảo Ninh không đi sâu vào khai thác những diễn biến, sự kiện
của chiến tranh mà ông chủ yếu đi vào nhận diện hiện thực chiến tranh từ những
trải nghiệm cùng dòng hồi ức của nhân vật Kiên - một chứng nhân - người trong
cuộc đồng thời cũng là một nạn nhân của chiến tranh. Những ngày tháng đau
thương đã qua đi, những vết thương của chiến tranh cũng đang dần lành lại nhưng
93
với Kiên vẫn còn đó nỗi đau thương luôn dày vò, tạo nên những cơn dư chấn tinh
thần dai dẳng, nghiến nát cả tâm hồn anh. Đây phải chăng là biểu hiện đậm nhất
của bản ngã con người chỉ có trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện giai đoạn sau
1975 ứng với một thực tại trong cảm quan của con người thời hậu chiến đầy
những “hỗn độn, vô nghĩa, bất khả nhận thức” khiến cho họ đánh mất niềm tin vào
những gì mình đã từng cho là tuyệt đối.
Mỗi một tác phẩm tiểu thuyết có tính chất tự truyện đều ít nhiều mang nét
riêng, sự trải nghiệm và cuộc đời của nhà văn. Nhưng trong mỗi một giai đoạn khác
nhau, trong từng nhà văn khác nhau, dấu ấn hiện thực cuộc đời nhà văn cũng được
thể hiện ở những góc độ khác nhau, phụ thuộc vào dụng ý sáng tác của từng tác giả.
Có rất nhiều tác phẩm mà người đọc có thể nhận diện ra ngay hiện thực cuộc đời tác
giả đã “hóa thân” trọn vẹn vào tác phẩm, nhưng cũng có không ít tác phẩm mà
khoảng cách giữa đời thực tác giả và tác phẩm được đẩy khá xa thông qua con đường
hư cấu. Theo Phùng Văn Tửu, từ cuộc đời đến tác phẩm văn chương có rất nhiều
quan niệm và cách xử lý: hoặc nhào nặn chất liệu có thật bằng hư cấu trong đó hư cấu
là nét chủ đạo, hoặc người thật việc thật lấn át vai trò của hư cấu… [98, tr.126].
Vẫn là câu chuyện đời tự kể nhưng ở những tiểu thuyết có tính chất tự truyện
chặng đường sau 1975 đã tìm đến một lối ứng xử mới để tái tạo lại chất liệu hiện
thực. Từ thành thật tự thú, đi sâu vào vùng hiện thực ẩn khuất đến phá vỡ tất cả
những “qui tắc” phản ánh hiện thực để đi vào khai thác cả vùng mờ, vô thức cùng
những giấc mơ và cả nhại, giả hiện thực, “gây nhiễu” khiến cho người tiếp nhận khá
hao tổn tâm trí trong việc đọc - hiểu tác phẩm khi phải “đồng sáng tạo”. Bởi, suy
cho cùng “lãnh địa của tiểu thuyết là lãnh địa của trò chơi và mang tính giả thiết, sự
chiêm nghiệm tiểu thuyết do vậy trong bản chất của nó mang tính nghi vấn và giả
thiết” (M. Kundera).
Đầu thế kỷ XXI, trong đời sống xã hội đương đại, sự giao lưu và hội nhập quốc
tế ngày một thêm mạnh mẽ trên nhiều phương diện, cùng với đó là sự trỗi dậy của ý
thức cá nhân ngày càng lộ rõ trong đời sống văn học. Thế hệ những nhà văn lớp trước
94
“có nhu cầu nhìn lại quá khứ, chiêm nghiệm lịch sử và khẳng định cái tôi trải nghiệm
của mình” [98, tr.110], còn những nhà văn thuộc thế hệ trẻ lại muốn khẳng định cá
nhân mình theo một cách riêng, cởi mở, đầy táo bạo, mang đậm dấu ấn thời hội nhập.
Có thể nói, trong thời đại toàn cầu hóa và giao lưu quốc tế ngày thêm rộng mở trên
nhiều phương diện, tạo điều kiện cho ý thức cá nhân được dịp nở rộ. Và cũng chính
hiện thực thời đại này đã tạo ra những nhận thức mới về mối quan hệ giữa con người cá
nhân và thế giới. Con người cá nhân trong thời đại mới không còn tồn tại độc lập mà
luôn có sự kết nối với nhiều mối quan hệ khác nhau trong xã hội. Nhờ thế mà vai trò
của mỗi con người trong xã hội cũng được đề cao và quan tâm nhiều hơn. Vì vậy mà
“đời sống tư tưởng của người dân Việt Nam đã có những đổi mới rất căn bản. Người
dân đã trở nên tự tin hơn rất nhiều, họ đã có ý thức vững vàng về mình và về vai trò của
bản thân đối với xã hội. Ý thức làm chủ bản thân và làm chủ xã hội đã hình thành khá
rõ” [17, tr.53]. Đây chính là điều kiện cơ bản tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của tiểu
thuyết có tính chất tự truyện ở chặng đường đầu thế kỷ XXI. Lựa chọn yếu tố tự truyện
để làm chất liệu sáng tạo đã trở thành xu hướng khá phổ biến của rất nhiều cây bút hiện
nay. Rất nhiều tiểu thuyết ra đời vào những năm đầu thế kỷ XXI mang đậm yếu tố tự
truyện, như: Thượng đế thì cười (Nguyễn Khải), Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới
không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ, Một mình một ngựa (Ma Văn Kháng), Gia
đình bé mọn (Dạ Ngân), Tấm ván phóng dao (Mạc Can), Tiền định (Đoàn Lê), Chuyện
của thiên tài (Nguyễn Thế Hoàng Linh), Bóng giai nhân (Đặng Quang Thiều), Blogger
(Phong Điệp)... Sự ra đời của các tác phẩm này đã tạo thành một dòng chảy mạnh mẽ
của tiểu thuyết có tính chất tự truyện. Đây phải chăng là một tín hiệu để minh chứng
cho bước phát triển đầy năng động, “thể hiện nhu cầu được bộc lộ cái tôi, ý thức phản
tỉnh và khuynh hướng nhận thức lại thực tại của dòng văn học tự vấn. Nó chứng tỏ sự
dịch chuyển trong hệ hình tư duy của văn học” giai đoạn đầu thế kỷ XXI [98, tr. 94].
95
TIỂU KẾT
Trong từng bước chuyển lưu qua các chặng đường khác nhau trải dài hàng
thế kỷ, tiểu thuyết có tính chất tự truyện cũng đã kịp lưu lại những dấu ấn đặc trưng
của mình tựa như một “phẩm tính” của thời đại, khó hòa tan, trộn lẫn nhưng tựu
chung lại tất cả đều là sản phẩm đại diện cho cả một quá trình sáng tạo độc đáo mà
nhà văn đã gắng công khai phá từ nguyên mẫu đời mình để làm nên những trang
văn mang bản mặt thời đại vô cùng đa dạng và phong phú.
Ở tiểu thuyết có tính chất tự truyện, hiện thực được thể hiện không phải là
hiện thực khách quan có được sau mỗi chuyến đi thâm nhập thực tế của nhà văn mà
đó là một hiện thực mang tính chủ quan tồn tại trong mỗi nhà văn. Các nhà văn đã
sử dụng tiểu thuyết như một phương tiện để đi vào tìm hiểu, khám phá sự thật cuộc
đời mình. Mỗi một tiểu thuyết có tính chất tự truyện là một sự thật về cuộc đời, một
sự thật đã được lắng lại trong miền ký ức của người viết, nhưng đấy không phải là
câu chuyện hoàn toàn có thật mà chỉ là sự pha trộn giữa sự thật và hư cấu. Hay nói
cách khác, trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện, tính tự truyện đã bị chất tiểu
thuyết làm mờ nhòe nên người đọc chỉ còn thấy cái hao hao giống thật giữa hiện
thực trong tác phẩm và hiện thực ngoài đời của tác giả; giữa con người đời thực của
tác giả và nhân vật chính trong tác phẩm. Tuy nhiên, từ những sự thật cá nhân khi
đã được đưa vào trong tác phẩm, trở thành chất liệu nghệ thuật nó sẽ mang những
phẩm tính nghệ thuật, có khả năng biểu đạt sức mạnh tư tưởng, thể hiện cái nhìn
độc đáo của nhà văn về cuộc sống.
Trong xu hướng chung của thời kì đổi mới, sự mở rộng biên độ của thể loại
tiểu thuyết đã giúp cho tiểu thuyết mang bóng dáng tự truyện bừng thức, trở về với
sức sống nội sinh vốn có của mình. Sự nở rộ của loại tiểu thuyết này từ sau 1986
chính là bước tiếp nối dòng chảy tự truyện trong tiểu thuyết từ những năm về trước
nhưng nó được phát triển theo một hướng mới, bởi những con người mang tâm thế
của thời kì đổi mới đang định tâm, chiêm nghiệm lại những gì được mất, những
mặn nồng, khao khát cuộc sống hạnh phúc bình dị, đời thường như một sự phản
tỉnh, thức ngộ của con người trong một “thế giới phẳng” của mối giao lưu văn hóa
theo hướng mở toàn cầu.
96
CHƢƠNG 4
TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT TỰ TRUYỆN
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX - NHÌN TỪ
PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN
4.1. Ngƣời kể chuyện và điểm nhìn trần thuật
Khi tiến hành khảo sát tiểu thuyết có tính chất tự truyện của văn học Việt
Nam trong giới hạn một thế kỷ, chúng tôi nhận thấy, bên cạnh chủ thể trần thuật
xuất hiện ở ngôi thứ nhất rất quen thuộc của tiểu loại còn có sự xuất hiện dạng
“đánh tráo” chủ thể trần thuật. Ở dạng trần thuật này, một mặt nó vẫn giữ và khuôn
mình trong một số đặc tính của tự truyện nhưng nó không những sử dụng ngôi thứ
nhất xưng tôi, mà còn sử dụng cả ngôi thứ ba. Trần thuật bằng phương thức này nhà
văn đã tạo được độ gián cách giữa nhân vật và người kể chuyện nhằm đánh lạc
hướng người đọc khi cái tôi của chủ thể trần thuật - tác giả đã được ẩn giấu.
Tzvetan Todorov từng viết: “người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc
kiến tạo thế giới tưởng tượng… không thể có trần thuật nếu thiếu người kể chuyện”
[157]. Trong thực tế sáng tạo văn chương, bất kỳ nhà văn nào cũng đều phải lựa
chọn một trong hai cách: kể ở ngôi thứ nhất hoặc kể ở ngôi thứ ba. Theo Genette,
câu chuyện được kể ở ngôi thứ nhất (trần thuật ở ngôi thứ nhất) là câu chuyện được
kể lại bởi một người kể chuyện với tư cách là một nhân vật trong truyện (nhân vật
xưng tôi) thường hay kể lại câu chuyện về sự trải nghiệm của chính bản thân mình,
và trần thuật ở ngôi thứ ba được kể lại bởi một người kể chuyện không phải là một
nhân vật trong truyện [4, tr.21]. Khi đi vào khảo sát tiểu thuyết có tính chất tự
truyện ở Việt Nam trong thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy một điều khá thú vị là:
người kể chuyện trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện khá linh động và có sự
chuyển đổi trong việc thực hiện điểm nhìn trần thuật.
4.1.1. Người kể chuyện ở ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong và sự thay đổi
điểm nhìn
Một tiểu thuyết có tính chất tự truyện thường được kể ở ngôi thứ nhất, câu
chuyện được kể là của chính nhân vật xưng “tôi” trong tác phẩm. Những gì đã từng
97
diễn ra trong đời nhân vật xưng “tôi” đều trở thành yếu tố trung tâm của việc tổ
chức trần thuật, và cái tôi trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện vừa là nhân vật -
người kể chuyện, đồng thời cũng là cái tôi của chính tác giả kể lại câu chuyện về
đời mình. Tuy nhiên, trong thực tế đời sống văn học, không phải bất kỳ một tác
phẩm nào kể ở ngôi thứ nhất đều là tiểu thuyết có tính chất tự truyện. Vậy làm cách
nào để người đọc nhận diện được đâu là cái tôi tự truyện. Để xác định được điều
này cần phải dò tìm từ khoảng cách, mối quan hệ giữa người kể chuyện và nhân vật
xưng tôi được kể đến trong tác phẩm. Với những tác phẩm tiểu thuyết có tính chất
tự truyện, khoảng cách giữa người kể chuyện - nhân vật - tác giả đôi khi chỉ còn là
“zero”, hay nói cách khác, giữa nhân vật - người kể chuyện và tác giả gần như là
một, đồng nghĩa với một điều rằng điểm nhìn trần thuật giữa người kể chuyện -
nhân vật - tác giả tương đối trùng khít. Còn ở các tác phẩm khác, mặc dù nhân vật
xưng “tôi” và kể ở ngôi thứ nhất nhưng câu chuyện mà nhân vật xưng “tôi” thuật lại
là câu chuyện hoàn toàn được xây dựng dựa trên trí tưởng tượng hư cấu chứ không
phải là “chuyện đời tư tự kể”.
Theo các tài liệu nghiên cứu, việc sử dụng ngôi kể thứ nhất phổ biến trong
trần thuật của nhiều tác phẩm ở phương Tây thế kỷ XVIII, và việc sử dụng ngôi kể
này không phải là sản phẩm của sự “tùy hứng” hay “ngẫu nhiên” mà nó là cách trần
thuật mang tính lịch sử của thời đại bấy giờ. Khi chọn ngôi kể thứ nhất, ưu thế lớn
nhất mà tiểu thuyết có tính chất tự truyện có được đó chính là việc thể hiện cái tôi
cá nhân một cách trực tiếp. Với ngôi kể này, nhà văn có điều kiện tạo được điểm
nhìn bên trong để đi sâu vào những diễn biến tâm lý đầy phức tạp, đáp ứng được
nhu cầu bộc lộ và giãi bày của nhân vật.
Ngay từ những ngày đầu, trong buổi sơ kỳ, Giấc mộng lớn của Tản Đà ra đời
cũng đã bắt đầu sử dụng ngôi kể thứ nhất. Từ ngôi kể này, tác giả dẫn người đọc
vào từng đoạn đời đi qua lắm nỗi chông chênh của chính mình: những lận đận trên
đường công danh khoa cử, đến chuyện tình duyên dang dở, cùng cơ duyên văn
nghiệp… được thuật lại trên nền biên niên theo dòng thời gian tuyến tính. Tuy
nhiên, Giấc mộng lớn vẫn chỉ là một tác phẩm đánh dấu thời kỳ phôi thai của tiểu
thuyết có tính chất tự truyện.
98
Chọn ngôi thứ nhất, người trần thuật lúc bấy giờ đóng vai trò là nhân chứng -
người chứng kiến tất cả mọi diễn biến xảy ra trong đời mình và thuật lại bằng
những dòng hồi tưởng kiểu như: “tôi không thể nói rõ là bao nhiêu”, “tôi cũng
không thể nhớ rõ”… Ở hình thức trần thuật này, điểm nhìn trần thuật thường hướng
vào diễn biến tâm lý bên trong cái tôi đóng vai trò là người kể chuyện. Phương thức
trần thuật này có đường biên gần sát với các dạng tự thuật khác với kiểu nhân vật
trải nghiệm tự thú. Trần thuật ở ngôi thứ nhất, cái tôi tự thuật hiển lộ rõ nét nhất trên
bề mặt tác phẩm. Tất cả những sự kiện, hành động, những trạng thái cảm xúc, yêu
ghét, hờn giận… đó có thể là của nhân vật nhưng đồng thời nó cũng chính là những
sự kiện, hành động, những trạng thái xúc cảm mà tác giả từng trải qua. Và khi hồi
tưởng lại những gì đã qua trong quá khứ, lẽ dĩ nhiên nó có một khoảng cách nhất
định về thời gian. Hơn nữa, quá khứ ấy hiện về trong hoài niệm nên đôi lúc mức độ
xác thực chưa hẳn đã là trọn vẹn và nó được sắp xếp lại theo một trình tự có chủ
đích của tác giả. Tuy nhiên, dẫu thế nào thì người đọc vẫn có cơ hội được sống
trong miền hiện thực mà từ lâu từng ẩn giấu trong tâm hồn tác giả.
Trong Sống nhờ, truyện được kể ở ngôi thứ nhất, người kể chuyện - nhân vật
xưng “tôi” thuật lại đời mình theo chuỗi thời gian tuyến tính: từ khi “tôi sinh vào
giờ dần. Bà tôi lấy ngay giờ đó đặt tên cho tôi” cho đến cuối tác phẩm khi “tôi đau
đớn nghĩ rằng thân phận mình có lẽ cũng không khác gì con ve sầu đến kỳ gió bấc
thổi…” [152, tr.195]. Với vai trò là người kể chuyện, nhân vật “tôi” dần dẫn dắt câu
chuyện kể đi qua từng đoạn đời trong những chuỗi ngày nối tiếp nhau của cảnh
“sống nhờ”. “Tôi”, đứa bé mồ côi cha ngay từ khi lọt lòng mẹ, “tôi” lại mồ côi một
lần nữa khi mẹ đi thêm bước nữa rồi mẹ lại qua đời trong nạn bệnh dịch đậu mùa,
“tôi” lớn lên trong chênh vênh giữa đôi bờ, một bên là tình yêu thương, bảo bọc của
người bà và bên kia là sự hằn học, đánh đập, bạc đãi của những người chú, người dì.
Những cay đắng, đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần của đứa bé mồ côi bị chính những
người thân ruột thịt của mình hắt hủi đến tàn tệ đã được hồi thuật lại bằng tiếng nói
của người trong cuộc. Nhờ thế mà Mạnh Phú Tư đã lột tả được nỗi đau thân phận
theo trình tự khởi sinh từ sự thật đời mình.
99
Sau 1945, đặc biệt là quãng thời gian sau 1954, chúng tôi nhận thấy lối trần
thuật ở ngôi thứ nhất vẫn là một trong những phương thức được nhà văn lựa chọn
để tiểu thuyết hóa câu chuyện cuộc đời mình. Các tác phẩm: Người về đầu non của
Võ Hồng, Trường cũ của Duyên Anh… đều trần thuật ở ngôi thứ nhất với nhân vật
xưng “tôi”. Người về đầu non bắt đầu từ giọng kể của nhân vật xưng tôi. Từ giọng
kể này, những kỷ niệm tuổi thơ cứ thế nối tiếp nhau ùa về theo dòng hoài niệm: “kỷ
niệm lùi xa nhất mà tôi còn giữ lại là những buổi chiều tôi theo bác ra vườn tắm. Có
lẽ lúc đó tôi lên năm. Bác mặc quần đùi và tôi trần truồng…” [48, tr.6]. Từ ngôi kể
thứ nhất, miền thơ ấu của Võ Hồng hiện lên trong tình yêu thương, bao bọc, chở che
của những người thân, trong đó hình ảnh người bác ruột chiếm một dung lượng khá
lớn xuyên suốt trên hành trình kể lại của nhân vật “tôi”. Từ ngôi kể thứ nhất, xưng
“tôi”, khi hồi tưởng lại quá khứ của những ngày còn học ở lớp đồng ấu cho đến lần
đi thi cấp Sơ học, những ngày trọ học hay những buổi theo Bác ra đồng coi gặt
lúa… đã tái dựng lên cả một không gian sinh hoạt mang đậm phong vị quê hương -
mảnh đất Tuy Hòa trong cái bình dị, lam lũ, chân chất.
Trường cũ, một tác phẩm viết về những năm tháng tuổi học trò của đời mình
cũng đã được nhà văn Duyên Anh trần thuật bằng ngôi thứ nhất, một lối trần thuật
quen thuộc của tiểu thuyết có tính chất tự truyện. Thuật lại bước đường thời đi học
của mình từ điểm nhìn trần thuật của nhân vật “tôi” với những năm học tiểu học gần
như “tôi” chưa bao giờ học hết niên học ở một trường nào, chỉ có năm sơ lược “tôi”
mới được học trọn một niên khóa ở một trường.
Tiếp nối chặng đường dài của tiểu thuyết có tính chất tự truyện, những năm
sau 1986, trong không khí dân chủ, đổi mới, dưới cái nhìn nhận thức lại, nhà văn
Vũ Thư Hiên tường trình lại “miền thơ ấu” cuộc đời mình cũng bằng phương thức
trần thuật ở ngôi thứ nhất. Những biến cố gia đình, những ngày sống nơi xóm đạo
cùng những trải nghiệm khá thú vị của đời mình được nhà văn hồi thuật lại theo
trình tự thời gian qua lối trần thuật ở ngôi thứ nhất. Từ lối trần thuật này, tác giả
thuật lại một cách rất chân thật những cảm xúc của nhân vật “tôi” (vừa là nhân vật,
vừa đồng thời là người dẫn chuyện) khi phải chứng kiến cảnh bố bị mật thám bắt,
đến tâm trạng của “tôi” trong những ngày về ở nhờ cô Gái trong căn nhà xưa, nơi
100
chôn nhau cắt rốn của bố.
Khi chọn ngôi kể thứ nhất, các tác giả đã đứng trên lập trường của “cái tôi”
chính mình nên đã gọi ra được tất cả niềm trăn trở, cùng những cay đắng, đau đớn,
đến những kỷ niệm êm đềm của đời mình... Ưu thế của lối trần thuật ở ngôi thứ nhất
đó chính là việc thể hiện cái tôi cá nhân một cách trực tiếp. Với ngôi kể này, nhà
văn dễ dàng xác lập được điểm nhìn trần thuật bên trong, nhờ vậy mà nhà văn dễ đi
sâu vào khai thác những diễn biến tâm lý đầy phức tạp nhằm thỏa mãn được niềm
suy tư, cùng những giãi bày tâm trạng của nhân vật - tác giả - người kể chuyện. Tuy
nhiên, truyện được kể ở ngôi thứ nhất cũng bị giới hạn bởi tính cá nhân, chủ quan
và hạn chế điểm nhìn. Tôi - người kể chuyện - nhân vật chỉ kể lại những câu chuyện
mà bản thân mình trực tiếp trải qua, trực tiếp tai nghe mắt thấy.
Những giới hạn của việc trần thuật ở ngôi thứ nhất đã được khắc phục một
cách đáng kể khi điểm nhìn đơn tuyến đã được thay thế bằng việc trần thuật ở ngôi
thứ nhất với điểm nhìn đa tuyến.
Có thể nói, trần thuật ở ngôi thứ nhất với điểm nhìn đa tuyến là một hình
thức tự sự mà ở đó gần như điểm nhìn không còn quá phụ thuộc vào một nhân vật
người kể chuyện xưng “tôi” nữa. Trong phương thức trần thuật này luôn luôn có sự
đan xen, luân chuyển các điểm nhìn qua nhiều nhân vật khác nhau nhằm “biến văn
bản nghệ thuật thành một sinh thể đa nghĩa, mời gọi người đọc vào trò chơi do tác
giả sáng tạo nên” [98, tr.159]. “Tôi” - nhân vật không chỉ là nhân chứng, hoặc cái
“tôi” hướng nội như trong người kể chuyện ở ngôi thứ nhất với điểm nhìn đơn
tuyến. Ở đây, những cái tôi trần thuật trong truyện với tư cách là các chủ thể độc
lập, mang quan điểm riêng, thể hiện rõ sự mâu thuẫn nội tại trong ý thức. Gần như
mỗi cái tôi đều được miêu tả như một ý thức riêng biệt, trong tác phẩm có sự xuất
hiện nhiều người kể chuyện khác nhau xưng “tôi”. Có thể cùng một câu chuyện
nhưng có nhiều người kể, và mỗi một người kể chuyện lại có điểm nhìn khác nhau,
trong đó, chủ thể giữ vai trò chính, trung tâm còn chủ thể kia giữ vai trò là người
dẫn chuyện trần thuật một cách khách quan. Và mỗi một người kể là một chủ thể
nhận thức độc lập, mang điểm nhìn, quan điểm khác nhau. Nhưng dù thế nào thì tất
cả sự trao vai, chuyển đổi điểm nhìn đều nảy sinh từ dụng ý sáng tạo và sự sắp xếp
101
của “tôi” - chủ thể trần thuật - nhân vật trung tâm truyện. Điểm nhìn của “tôi” vẫn
có quyền uy riêng, mang ý nghĩa bao quát nhất. Tuy nhiên, ở dạng trần thuật này,
chủ thể trần thuật không hề áp đặt điểm nhìn của mình vào các nhân vật khác khi
các nhân vật này tham gia đóng vai trò là người kể chuyện.
Tôi nhìn tôi trên vách của nữ văn sĩ Túy Hồng chủ yếu được kể ở ngôi thứ
nhất. Cái tôi trải nghiệm - Tôi - cô Khanh vừa là người kể chuyện, đồng thời là
nhân vật chính. Ở tác phẩm này, tác giả đã tránh lối sử dụng kể chuyện với điểm
nhìn đơn tuyến, hạn định điểm nhìn. Mặc dù trong tác phẩm nhân vật “tôi” - cô
Khanh - người kể chuyện vẫn giữ vai trò trung tâm, nhưng toàn bộ câu chuyện
không phải duy nhất một mình “tôi” kể với duy chỉ có một điểm nhìn của „tôi” -
người kể chuyện. Trong tác phẩm đã có sự trao chuyển vai kể chuyện cho nhiều
người khác nhau với nhiều điểm nhìn khác nhau. Có khi đó là lời của người kể
chuyện “tôi” - nhân vật trung tâm - tác giả: “Huế là quê hương tôi, quê hương đang
có vô số nhà cửa đang cần bán rẻ để người Huế vào Sài Gòn tìm một chỗ ở cuối
cùng. Tôi đã ở Huế từ trong bụng mẹ đến năm thứ hai mươi tám cuộc đời. Huế đã
mang thai tôi, đẻ ra tôi, cho đến khi tôi đi lạc vào Sài gòn này” [46, tr.10]. Có khi
người kể chuyện lại chuyển đổi qua người mẹ của nhân vật tôi: “Nhà cửa Huế bây
giờ rẻ bán không ai mua… Sài gòn thì triệu phú vẫn còn ở nhà thuê” rồi lại dịch
chuyển sang Nghiễm (người yêu của “tôi”): “Vì người Huế giá áo túi cơm vào đây
làm nhà cửa Sài Gòn đắt đỏ… À mà Khanh này… đất Thần kinh… đất Thần kinh
có nghĩa là gì nhỉ ?” [46, tr.12]. Cả ba tiếng nói ấy đều bổ sung cho nhau, làm rõ
hơn tình cảnh thực tại cảnh loạn ly chiến tranh mà những con người như Khanh
buộc lòng phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn của mình để sống cảnh đời lưu lạc.
Ở Bếp lửa, nhà văn Thanh Tâm Tuyền cũng sử dụng người kể chuyện ngôi
thứ nhất từ đầu đến cuối tác phẩm. “Tôi” - nhân vật Tâm kể chuyện về mình “từ
năm 45, ngày tiếng súng nổ ở Nam Bộ”, “tôi” cùng với một số bạn bè từ Nam quay
trở lại quê nhà ở miền Bắc. “Tôi” kể về những người bạn thân một thời mà “tôi”
gặp lại trong ngày trở lại quê nhà rồi nhận chân làm ông giáo dạy học một trường
công giáo ở Bắc Ninh. Những người bạn đó là Thanh, là Đại, Long… Tất cả họ đều
mang tâm trạng bi quan, đánh mất niềm tin vào cuộc đời thực tại. Tuy nhiên, câu
102
chuyện không vì thế mà tạo nên sự nhàm chán cho người tiếp nhận. Mặc dù truyện
được kể lại thông qua nhân vật “tôi” (Tâm), với lối kể gần như đơn tuyến, nhưng
trong tác phẩm, tác giả đã vận dụng khá khéo léo điểm nhìn đa tuyến. Chính yếu tố
này tạo cho tác phẩm một sắc diện mới, đậm chất hiện đại.
Với quan niệm “Tiểu thuyết không phải là truyện. Như các nghệ thuật khác,
nó phải là sự biểu diễn một cách hết sức phức tạp của một thức chủ quan về đời
sống. Chọn nhu cầu nhận thức thay vì phản ánh hay tả thực đời sống, Thanh Tâm
Tuyền đã tìm đến kiểu nhân vật thiên về suy tư, đa bội tâm lí, thường xuyên biến
đổi điểm nhìn và từ đó, trưng ra các cảm thức khác nhau về con người, thời đại”
[149]. Nhằm tránh tính đơn điệu, nhà văn thường luân chuyển điểm nhìn qua nhiều
nhân vật khác nhau. Trong Bếp lửa, không ít lần xuất hiện hai nhân vật cùng xưng
“tôi”. Tuy nhiên, điểm nhìn xuyên suốt toàn bộ tác phẩm vẫn thuộc về nhân vật
“tôi”- chủ thể trần thuật, dẫn dắt toàn bộ câu chuyện. Ở một số đoạn đối thoại, cả
chủ thể trần thuật xưng “tôi” và nhân vật có sự trao ngôi trần thuật, luân chuyển
điểm nhìn cho nhau: “Tôi ngồi trên bực gạch, Đại trông thẳng mặt tôi nghiêm trang.
Hắn móc túi lấy đưa cho xem một lá thư. - Thư của người bạn ở chiến khu Trình
Minh Thế. Tôi nhìn qua rồi trao trả cho Đại. Hắn vừa cất lá thư vừa nói: - Tôi nghĩ
rằng cho đến bây giờ không thể đi khác hơn được. Nó còn đúng. Mình còn phải
nhắm mắt nhận lấy thân phận của giai cấp mình (…) Tôi nói: - Tôi cũng nghĩ như
thế nhưng tôi lại muốn nghĩ thêm chút nữa. Tôi không nghĩ đến thân phận giai cấp
mình, tôi muốn nghĩ đến thân phận giai cấp khác, thân phận ngay chính giai cấp vô
sản ấy. Làm thế nào được khi đế quốc còn đủ nanh vuốt. Tôi không tin lực lượng
thứ ba” [151, tr.29]. Sự luân chuyển điểm nhìn này đã tạo nên tính khách quan cho
câu chuyện kể, làm nổi rõ thêm tinh thần hoang mang, dao động và gần như mất
phương hướng, không biết chọn lựa con đường, hướng đi nào cho tương lai của
tầng lớp thanh niên trong quãng thời gian từ 1945 - 1954.
Chọn lựa ngôi kể thứ nhất kết hợp với việc thay đổi điểm nhìn và luân
chuyển vai trần thuật là một dạng thức trần thuật độc đáo. Sự thay đổi điểm nhìn
không chỉ tạo nên tính đa tuyến trong điểm nhìn mà còn giúp cho câu chuyện kể
không phải đơn thuần là cái nhìn trong veo một miền ký ức, hay đó là sự than thân
103
trách phận mà đó là cái nhìn đầy dí dỏm, giễu cợt, một cách nhìn đời và nhìn người
của con người mang tâm thức hiện đại.
4.1.2. Người kể chuyện ở ngôi thứ ba với điểm nhìn bên trong
Hình thức kể chuyện ở ngôi thứ ba là dạng trần thuật ra đời từ khá sớm trong
văn xuôi Việt Nam nói chung và tiểu thuyết nói riêng. Ở phương thức trần thuật
này, chủ thể trần thuật hoàn toàn nằm ngoài cốt truyện, không phụ thuộc vào thế
giới của các nhân vật trong truyện mà chỉ thực hiện nhiệm vụ dẫn dắt nhân vật. Tại
điểm này, chủ thể trần thuật gần như chi phối toàn bộ câu chuyện kể: từ lời dẫn,
cách kể chuyện, cách tả đến cả những đoạn trữ tình ngoại đề. Ở đây, người kể
chuyện luôn ẩn mình nhưng lại có quyền năng “toàn tri”, có mặt mọi lúc, mọi nơi,
biết hết từng đường đi nẻo về của nhân vật. Mặc dù thế nhưng thông qua chủ thể
trần thuật, người đọc vẫn nhận thấy được thái độ, tư tưởng, tình cảm của tác giả thể
hiện ở những mức độ đậm nhạt khác nhau (mặc dù trong truyện kể ở ngôi thứ ba,
tác giả hoàn toàn giấu mình). Tuy nhiên, theo thời gian, kiểu trần thuật này được
các nhà văn sử dụng một cách linh hoạt ở nhiều góc độ khác nhau để phục vụ tối đa
ý đồ sáng tạo nghệ thuật của mình.
Là sản phẩm của quá trình lai ghép, dung hợp giữa tự truyện và tiểu thuyết,
một mặt tiểu thuyết có tính chất tự truyện vẫn giữ được nét đặc trưng của tự truyện,
nhưng mặt khác nó cũng chịu sự ảnh hưởng tính chất hư cấu của tiểu thuyết nên nó
hoàn toàn tự do trong cách chọn lựa bút pháp, cũng như việc tổ chức trần thuật. Đã
có không ít tiểu thuyết có tính chất tự truyện “khước từ” lối trần thuật ở ngôi thứ
nhất - “tôi” bằng cách chọn lối trần thuật ở ngôi thứ ba nhằm tạo nên tính khách
quan hóa cho câu chuyện kể. Trong văn học thế giới thế kỷ XX, XXI cũng có nhiều
tác phẩm tiểu thuyết giàu chất tự truyện đã tìm đến ngôi kể thứ ba làm yếu tố trung
tâm cho câu chuyện kể (như Người tình của M. Duras, Một mùa đông ở Stockholm
của Agneta Pleife). Ở Việt Nam, vào những năm đầu thập niên 40 (thế kỷ XX), lối
kể chuyện ngôi thứ ba cũng đã được nhà văn Nam Cao và Lan Khai sử dụng khá
thành công trong Sống mòn và Mực mài nước mắt. Bằng việc chọn lựa ngôi kể này,
nhà văn đã để cho nhân vật tự do bộc lộ đời sống riêng tư của mình đồng thời cũng
làm tăng thêm tính khách quan cho câu chuyện. Chọn ngôi kể thứ ba khá quen
104
thuộc, tuy nhiên khi đọc Sống mòn và Mực mài nước mắt, người đọc vẫn có thể cảm
nhận được sức hấp dẫn qua bút pháp sáng tạo độc đáo của tác giả. Trong hai tác
phẩm này, các nhà văn đã biết làm mới trên nền trần thuật truyền thống của ngôi thứ
ba với việc kết hợp cùng điểm nhìn bên trong. Với phương thức trần thuật này,
người kể chuyện mặc dù ở ngôi thứ ba nhưng không hề có sự tách biệt hẳn với nhân
vật. Nhiều lúc người kể chuyện “đứng lẩn vào nhân vật”, lấy thế giới nội tâm nhân
vật làm chỗ đứng để kể chuyện. Nhờ thế mà người kể chuyện đã nhìn tất cả các sự
kiện, diễn biến… bằng cái nhìn của người trong cuộc.
Theo lý thuyết tự sự học, chủ thể trần thuật ngôi thứ ba với điểm nhìn bên
trong là hình thức tự sự mà người kể chuyện lấy thế giới nội tâm nhân vật làm điểm
tựa để kể chuyện. Ở phương thức trần thuật này, người kể chuyện nhìn các sự vật,
hiện tượng bằng con mắt của nhân vật và cũng đồng nghĩa với một điều rằng: dòng
suy nghĩ, ý thức của nhân vật trở thành nguồn mạch xuyên suốt dẫn dắt câu chuyện.
Trong truyện kể ở ngôi thứ ba với điểm nhìn bên trong, do có sự hạn chế của người
kể chuyện trong phạm vi ý thức chủ quan nào đó nên người đọc sẽ cảm nhận khá rõ
sự can thiệp của người kể chuyện. Do vậy, trong tác phẩm thường xuất hiện sự
chồng xếp giữa lời người kể chuyện và lời độc thoại nội tâm của nhân vật, có nhiều
đoạn văn người đọc khó bề nhận diện ra đâu là lời người trần thuật và đâu là lời độc
thoại nội tâm của nhân vật. Câu chuyện có thể được kể từ điểm nhìn của nhân vật,
cũng có thể được kể bằng sự kết hợp giữa điểm nhìn của người kể chuyện và điểm
nhìn của nhân vật. Mặc dù thế nhưng điểm nhìn người kể chuyện và điểm nhìn của
nhân vật hoàn toàn không phải là một, cho dù khoảng cách giữa chúng đôi lúc rất
gần, thậm chí đôi khi còn có sự thống nhất. Có lúc “người trần thuật tách mình ra
khỏi diễn biến câu chuyện, dẫn dắt câu chuyện từ ngôi thứ ba, nhưng đến lúc nào đó
để cho sự tường thuật sinh động lại ủy thác câu chuyện cho một nhân vật, để cho
nhân vật nói năng y nguyên như cuộc sống thực” [67, tr.170]. Trong Sống mòn, chủ
thể trần thuật luôn song hành cùng với Thứ để kể lại câu chuyện, nhưng xuyên suốt
tác phẩm, chủ thể trần thuật luôn nhập vào nhân vật và thuật kể theo điểm nhìn của
nhân vật Thứ. Những suy nghĩ, trăn trở của Thứ về cuộc sống, nghề nghiệp, đến gia
đình, bạn bè… được chủ thể trần thuật khéo léo kể lại qua những dòng độc thoại nội
105
tâm. Có lúc chủ thể trần thuật đứng tách mình ra, hướng điểm nhìn vào tâm trạng
nhân vật Thứ, có lúc lại đứng cùng điểm nhìn với Thứ để thuật kể về đời của anh:
“Y lận đận ở Sài Gòn ngót ba năm. Ngót ba năm sống chật vật, sống nghèo nàn,
nhưng rất say mê. Cái mộng viễn du vẫn chưa thành, thì một trận ốm thập tử nhất
sinh đã lại đem y về, trả cho đất chôn rau cắt rốn. Y đã thấy gì ở quê nhà? Gia đình
y khánh kiệt rồi. Bà ngoại y già nua, ốm yếu, bẳn gắt, buồn rầu” [69, tr.96]. Có
những lúc chủ thể trần thuật hòa vào nhân vật để suy ngẫm cùng nhân vật: “càng
nhìn xa, y càng thấy đời y càng ngày càng thắt chặt vào, càng chật chội thêm. Y chỉ
có thể khổ hơn lên, không có thể sướng ra được… y không còn dám nghĩ gì đến
những thú vui, những hy vọng cao xa. Y chỉ còn nghĩ đến cơm áo hàng ngày của vợ
con. Giả thử y không đi dạy học được thì sao? Cố nhiên là y sẽ phải ăn nhờ vào
cơm vợ, cơm con. Nhưng vợ y sẽ làm gì cho cả nhà đủ gạo ăn? Khó lắm. Nghĩa là
cả nhà y sẽ đói, sẽ chết đói nữa, là thường lắm…” [69, tr.196-197]. Trong những
đoạn văn như thế, người kể chuyện ở đây vẫn đứng ở vị trí bên ngoài với ngôi kể
thứ ba nhưng lại tựa vào điểm nhìn của nhân vật để kể. Lúc này, khoảng cách giữa
người kể chuyện và nhân vật bị thu hẹp, điểm nhìn của chủ thể trần thuật cũng giới
hạn trong điểm nhìn của nhân vật Thứ.
Ở Mực mài nước mắt cũng thế, tác phẩm cũng được Lan Khai chọn kể ngôi thứ
ba nhưng không phải là điểm nhìn bên ngoài của người kể chuyện toàn tri, mà là điểm
nhìn bên trong, do vậy, trong tác phẩm thường xuyên xuất hiện hiện tượng lời người kể
chuyện xen lẫn với thế giới nội tâm nhân vật. Đôi lúc, câu chuyện cũng có thể kể từ
điểm nhìn của nhân vật, hoặc được kể bằng sự kết hợp giữa điểm nhìn người kể chuyện
và nhân vật. Có những đoạn văn mà ở đó chủ thể trần thuật tách mình ra, hướng điểm
nhìn vào tâm trạng nhân vật, có lúc lại đứng cùng điểm nhìn với nhân vật để thuật lại,
lý giải những bức bối, ngột ngạt trong đời sống cơm áo thường nhật của văn sĩ Khải.
Có lúc chủ thể trần thuật lại hóa thân vào những suy tư, trăn trở trong tâm hồn nhân vật
Khải không khác gì lời tự thú của nhân vật: “Nào tôi có ngờ đâu đến nỗi chỉ vì đồng
tiền mà mợ đâm ra oán hận tôi như thế. Lấy chồng thì theo cảnh ngộ của chồng. Ở đời
này ai không muốn giồi mặt, nhưng cái đời tôi chẳng may đã như vậy, tôi còn biết làm
thế nào? Đối với công việc bổn phận một người chủ gia đình, tôi tưởng tôi cũng làm
106
đầy đủ lắm thì phải. Mợ thử xem: ốm thở chẳng được thế này, tôi cũng cố ngồi dậy để
viết… với lại, chỉ có đoạn cuối nữa là đã có tiền ngay, chứ phải chờ đợi lâu la gì cho
cam…” [52, tr.19].
Những gương mặt đại diện cho kiểu trần thuật ngôi thứ ba với điểm nhìn bên
trong ở chặng đường đầu không nhiều, chỉ độ vài tác phẩm, nhưng đây cũng là một
trong những tín hiệu buổi đầu trong việc hướng đến tính đối thoại trong tiểu thuyết,
hứa hẹn nhiều hướng đột phá mới cho tiểu thuyết có tính chất tự truyện.
Kể từ sau 1945, trong số những tiểu thuyết có tính chất tự truyện mà chúng
tôi khảo sát, có đến 2/3 số tác phẩm sử dụng ngôi thứ ba để trần thuật. Tuy nhiên,
mỗi một chặng đường khác nhau, cùng với những thay đổi quan niệm và tư duy
nghệ thuật, các nhà văn đã không ngừng làm mới phương thức trần thuật ở ngôi
thứ ba. Phương thức trần thuật ở ngôi thứ ba với điểm nhìn bên trong của tiểu
thuyết có tính chất tự truyện khi bước vào quỹ đạo mới ở những năm sau 1945 đã
phát huy tối đa tác dụng của nó khi được các nhà văn kết hợp với điểm nhìn đa
tuyến. Sự kết hợp này làm tăng thêm độ thông thoáng và tính mở cho tiểu thuyết
có tính chất tự truyện.
Thực ra, trần thuật ở ngôi thứ ba với điểm nhìn bên trong và ngôi thứ ba
với điểm nhìn đa tuyến có sự gần gũi nhau. Tuy nhiên, giữa hai dạng trần thuật
này vẫn có những điểm khác nhau. Hình thức trần thuật ngôi thứ ba với điểm
nhìn đa tuyến có sự phối hợp giữa nhiều điểm nhìn trần thuật. Nghĩa là, trong tác
phẩm luôn xuất hiện sự di chuyển điểm nhìn và trao vai trần thuật từ người kể
chuyện đến nhân vật, từ điểm nhìn bên ngoài vào điểm nhìn bên trong. Sự luân
chuyển này gắn liền với trình tự phát triển của các tình tiết sự kiện và những biến
cố trong truyện kể. Không những thế, thế giới hiện thực trong truyện còn được
khám phá từ nhiều góc độ khác nhau. Trần thuật ở dạng thức này còn có nét
tương đồng nhất định với dạng thức trần thuật theo điểm nhìn tập trung bên trong
ở chỗ chủ thể trần thuật có thể trần thuật bằng điểm nhìn của mình, có thể nương
theo nhân vật để kể hoặc cùng hòa vào nhân vật để trần thuật. Lúc này, điểm
nhìn của chủ thể trần thuật không còn là điểm nhìn toàn tri mà có một điểm nhìn
giới hạn nhất định. Nhờ thế mà hiện thực đời sống được nhìn nhận và khám phá
trong tính đa dạng của nó.
107
Trong Hoa bươm bướm, thay vì chọn ngôi kể thứ nhất với cái tôi đầy trải
nghiệm, in rõ dấu ấn cá nhân một cách trực tiếp, nhà văn đã chọn lựa ngôi kể thứ ba
với điểm nhìn bên trong kết hợp với điểm nhìn đa tuyến để khách quan hóa câu
chuyện cuộc đời mình. Chọn ngôi kể thứ ba, nhà văn Võ Hồng cố tình tạo ra
khoảng cách giữa người kể chuyện - nhân vật - tác giả nhằm “đánh lạc hướng”
người đọc trong câu chuyện kể về đời mình. Tuy nhiên, tác giả vẫn có thể bộc lộ
một cách tận cùng những nếm trải đời mình nhờ việc “đánh tráo” chủ thể trần thuật
bằng ngôi thứ ba. Chuyện được kể ở ngôi thứ ba, nhưng toàn bộ trung tâm trần
thuật của chuyện được đổ dồn vào nhân vật Luân. Tất cả những tình tiết, sự kiện,
diễn biến trong truyện đa phần được kể qua miền ký ức của Luân. Có những đoạn
văn người kể chuyện nhường hẳn “sân chơi” cho nhân vật, để cho các nhân vật tự
do đối thoại, đôi khi lời người kể chuyện lẩn vào trong lời nhân vật, rất khó nhận
diện ra đâu là lời người kể chuyện và đâu là lời của nhân vật (tr.72-75). Có những
đoạn văn mang đậm tính tự thuật tự bên trong của chính Luân được bật ra như một
phản xạ, như một lẽ tự nhiên, không thể kìm nén nổi của người đã từng nếm trải.
Luân - ngôi thứ ba thật ra là nhân vật “tôi” - ngôi thứ nhất. Và nếu làm phép hoán
đổi thì điểm nhìn và giọng điệu trần thuật không có gì thay đổi (tr.140-187).
Sự luân chuyển điểm nhìn và ngôi kể cũng diễn ra khá đậm nét trong Vòng tay
học trò của Nguyễn Thị Hoàng. Ở Vòng tay học trò, tác giả cũng chọn trần thuật ở
ngôi thứ ba nhưng đã khéo léo sử dụng điểm nhìn bên trong. Chuyện không chỉ thuật
lại dưới điểm nhìn khách quan của ngôi kể thứ ba mà đôi khi tác giả dịch chuyển
điểm nhìn vào bên trong nhân vật, khiến cho điểm nhìn người trần thuật và nhân vật
gần như trùng khít nhau, như trong đoạn văn sau: “những hình bóng, những tình cảm
đến rồi đi, luân phiên trong đời nàng từ bao nhiêu năm nay. Không một ai dừng lại,
nàng cũng không thể dừng lại với người nào. Tình yêu nào cũng bắt đầu bằng nụ cười
và chấm dứt bằng nước mắt. Sau đó là khoảng trống không ghê rợn của những tháng
ngày cô đơn dằng dặc. Lại tìm cái gì lấp đầy khoảng trống, tạm bợ mong manh. Rồi
mất, rồi lại tìm và cứ thế nàng vẫn là bãi cát hoang vu trải dài lạnh lẽo bên những làn
sóng dạt dào trôi về lặng lẽ kéo nhau, cuốn theo những dấu chân kỷ niệm, những rác
bẩn nhục nhằn, những di tích tàn phai” [42, tr.30]. Ở đoạn văn này, điểm nhìn của
108
người kể chuyện và nhân vật gần như tương khớp nhau. Người kể chuyện ở đây
không còn đóng vai trò là người ngoài cuộc mà đã hòa vào trong đời sống nội tâm
nhân vật để nói bằng tiếng nói bên trong của nhân vật. Vẫn là câu chuyện kể về cuộc
đời Trâm, nhưng có lúc tác giả luân chuyển điểm nhìn sang một nhân vật khác và trao
vai trần thuật cho nhân vật này: “Trúc thấy em thay đổi, hoàn toàn thay đổi. Thay đổi
sau cuộc cách mạng cuộc đời và nổi loạn tâm hồn. Đột ngột và dữ dội như phút xuất
thạch bừng lên từ một lòng núi lửa bao nhiêu năm hiền lành im ngủ… Lòng Trâm chỉ
còn là tro than lạnh vắng của khu rừng sau đám cháy” [42, tr.170]. Trong tác phẩm
Vòng tay học trò, có lúc người kể chuyện ở ngôi thứ ba gần như không còn tồn tại,
thay vào đó là người trần thuật ở ngôi thứ nhất, lúc này nhà văn để cho nhân vật tự do
bộc lộ dòng tâm trạng, vừa đối thoại nhưng đồng thời cũng độc thoại với chính mình:
“Là tôi mất nết không còn gì nữa. Ảo tưởng cũng tan tành. Tôi tàn phá, chà đạp
những khung trời rộng lớn, khước từ xua đuổi làm cao, tôi tưởng mình là một đỉnh
trời vươn lên giữa những cánh tay người đời níu kéo. Để bây giờ tôi chẳng là gì cả…”
[42, tr.230]. Có đoạn văn gần như vị trí người trần thuật ở ngôi thứ ba bị mất hẳn
trong lớp ngôn ngữ đối thoại giữa các nhân vật trong tác phẩm: “Không đùa đâu. Em
phải đi. Đổi thay vắng mặt không phải là mất mát. Rồi cô sẽ bình tĩnh lại. Ngày nào
mặt trời vẫn mọc lên. Khoảng cách nào cũng còn ánh sáng. Không còn cách nào em
phải đi… Nếu vì dư luận, vì ngại cho tôi mà bỏ đi, tôi sẽ ngăn Minh lại. Nhưng nếu vì
tự ý Minh muốn đi, vì một lẽ khác, cứ đi đi, tôi đưa Minh về với cuộc đời cũ… Bao
giờ tin yêu và hy vọng bỏ đi, tôi lại lao vào vùng trời bão tố xưa kia hung phá và quên
sống” [42, tr.126]. Sự luân chuyển điểm nhìn và vai trần thuật này làm tăng thêm hiệu
quả của nghệ thuật kể chuyện. Nhờ vậy mà hình ảnh nhân vật Trâm, một con người
từng nếm trải những mất mát đổ vỡ trong tình yêu, một tâm hồn cô đơn, chai sạn,
đánh mất niềm tin vào tình yêu và cuộc sống hiện lên đầy sống động qua những điểm
nhìn khác nhau.
Có thể nói, chọn người kể chuyện ở ngôi thứ ba với điểm nhìn bên trong là
một trong những phương cách lựa chọn có chủ đích được nhà văn sử dụng nhiều
trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện. Việc chọn lựa này giúp cho dòng hồi ức và
diễn biến tâm lý nhân vật được hiện ra một cách tự nhiên, đồng thời cũng tạo điều
109
kiện để nhà văn đi sâu, khám phá những vùng mờ khuất lấp trong tâm hồn nhân
vật để nó hiện lên với đầy đủ những chiều sâu bản thể như nó vốn có. Với cách kể
này, người kể chuyện ở ngôi thứ ba không chỉ quan sát được thế giới bên ngoài
của cuộc sống mà còn có khả năng thâm nhập, soi rọi vào chiều sâu tâm hồn nhân
vật, kể bằng cảm xúc, giác quan của họ. Đây cũng là một trong những yếu tố tăng
thêm độ tin cậy từ phía người đọc về nhân vật khi mà nhà văn hư cấu “như thật”
và cũng nhờ thế mà giảm bớt uy quyền của người kể chuyện toàn tri, kéo độc giả
xích lại gần hơn với tác giả nhờ nhịp cầu nối của nhân vật trên tinh thần đối thoại,
cởi mở và dân chủ.
Nỗi buồn chiến tranh, tác phẩm được viết vào những năm cuối của thế kỷ
XX cũng được nhà văn Bảo Ninh chọn người kể chuyện ở ngôi thứ ba làm bước
khai mở cho toàn bộ tác phẩm. Tuy nhiên, trong tác phẩm đã có sự chồng xếp lên
nhau giữa nhiều ngôi kể và điểm nhìn, tạo nên tính bất định trong ngôi kể và điểm
nhìn trần thuật. Câu chuyện về cuộc đời chiến binh và cuốn tiểu thuyết dang dở của
Kiên được tái dựng bằng điểm khởi đầu câu chuyện kể với điểm nhìn khách quan.
Và điểm nhìn này chiếm lượng lớn trong toàn bộ câu chuyện kể. Nhưng có lúc điểm
nhìn toàn tri được thay thế bằng điểm nhìn bên trong với nhân vật xưng tôi - Kiên
kể về nỗi ám ảnh chiến tranh của đời mình. Chỉ trong một đoạn ngắn (từ trang 134
đến trang 144 trong tổng thể hơn 300 trang tiểu thuyết), người kể chuyện toàn tri đã
nhường hẳn “sân” cho nhân vật xưng “tôi” (Kiên) tự do kể về đời mình với điểm
nhìn trùng khít với điểm nhìn của nhân vật “tôi” làm gia tăng thêm tính khách quan
cho câu chuyện kể, đồng thời, tạo sự chân thực, tăng thêm độ tin cậy từ phía người
đọc, kéo người đọc cùng nhập cuộc vào “trò chơi” của tiểu thuyết. Đến cuối tác
phẩm, sự xuất hiện của nhân vật “tôi”, với vai trò là “người chứng” - một độc giả
(người may mắn đọc được bản thảo cuốn tiểu thuyết bất thành của Kiên) và cũng là
người thuật chuyện “chép lại hầu như toàn bộ theo đúng cái trình tự tình cờ tôi có
được ấy” đã thu hẹp khoảng cách giữa người kể chuyện - nhân vật - độc giả đến
mức tối đa, nhưng đồng thời, nó còn cho người đọc thấy được những tình cảm chân
thành, tiếng nói đồng điệu trong tâm hồn giữa những người lính. Bởi, “tôi cũng như
anh, cũng như mọi người lính thường khác của cuộc chiến tranh Việt - Mỹ, đã cùng
110
chung một số phận, chia nhau đủ mọi cảnh ngộ thăng trầm, thắng bại, hạnh phúc
đau khổ, mất và còn. Nhưng mỗi con người trong chúng tôi bị chiến tranh chà nát
theo một kiểu riêng, mỗi người ngay từ ngày đó đã mang trong lòng một cuộc chiến
tranh của riêng mình…” [96, tr.318]. Cả “tôi” và Kiên đều “có chung một nỗi buồn,
nỗi buồn chiến tranh mênh mang, nỗi buồn cao cả, cao hơn hạnh phúc và vượt trên
đau khổ, chính nhờ nỗi buồn mà chúng tôi đã thoát khỏi chiến tranh, thoát khỏi bị
chôn vùi trong cảnh chém giết triền miên, trong cảnh khốn khổ của những tay súng,
những đầu lê, những ám ảnh bạo lực và bạo hành, để bước trở lại con đường riêng
của mỗi cuộc đời” [96, tr.319].
Việc nhà văn Bảo Ninh liên tục thay đổi vai trò người kể chuyện đó không
chỉ là một sự sắp đặt có dụng ý nhằm thực hiện ý đồ đưa người đọc vào “trò chơi
kết cấu”, “gây nhiễu” - đánh đố - kích thích trí tò mò từ phía người đọc. Sự chuyển
đổi ngôi kể và điểm nhìn trần thuật trong Nỗi buồn chiến tranh còn tạo nên được
tiếng nói và cái nhìn khách quan về hiện thực chiến tranh từ nhiều phía: có cái nhìn
trực diện - cái nhìn cận cảnh - cái nhìn từ người trong cuộc và cái nhìn của một
nhân chứng… nhằm chuyển tải một cách đầy đủ, trọn vẹn về chiến tranh. Trong
một số tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở các giai đoạn trước, sự thay đổi ngôi kể
và điểm nhìn thường chỉ mang tính chất làm tăng thêm điểm nhìn khác về một vấn
đề nào đó khi thay đổi điểm nhìn, điểm quan sát và luân chuyển. Nhưng trong Nỗi
buồn chiến tranh, việc thay đổi ngôi kể mặc dù xét trên mặt chức năng đó là sự thay
đổi điểm nhìn nhưng nó lại không hề bổ sung thêm tiếng nói, điểm nhìn mới mà chỉ
khắc sâu hơn dòng tâm tưởng của nhân vật.
Việc xác định ngôi kể trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong luận án
này, chúng tôi không nhằm hướng đến khẳng định sự chọn lựa ngôi kể và điểm nhìn
trần thuật qua các chặng đường trong suốt chiều dài thế kỷ XX là cả một sự phát
triển có tầng bậc, từ thấp đến cao, từ sơ đẳng đến hiện đại và cao hơn thế nữa. Xác
định ngôi kể cùng điểm nhìn, chúng tôi chỉ muốn hướng đến tính đa dạng trong
cách chọn lựa ngôi kể và điểm nhìn của tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong dòng
chảy của tiểu thuyết Việt Nam qua mỗi chặng đường khác nhau. Đây là một trong
những nhân tố tích cực trong bước đường “làm mới” nghệ thuật tự sự của tiểu
thuyết Việt Nam.
111
4.2. Ngôn ngữ của tiểu thuyết có tính chất tự truyện
Được xem là chất liệu mang nét đặc tính riêng của văn chương, ngôn ngữ là
yếu tố cơ bản nhất trong quá trình sáng tạo mà bất kỳ một nhà văn nào cũng cần đến
nó để làm nên thế giới nghệ thuật trong tác phẩm văn chương. Với tiểu thuyết có
tính chất tự truyện, nơi mà ở đó nhà văn thể hiện những tiếng nói - ngôn ngữ cá
nhân mình một cách đậm nét nhất, nên ngôn ngữ của người kể chuyện đóng vai trò
vô cùng quan trọng. Nhà văn thông qua lớp ngôn ngữ này để phục dựng lại thời đã
qua của đời mình bằng các sự kiện, diễn biến, hiện tượng… gắn liền cùng với miền
ký ức đong đầy. Vì thế, đây là lớp ngôn ngữ đóng vai trò chủ đạo trong tổng thể cấu
trúc ngôn ngữ của tiểu thuyết có tính chất tự truyện.
Để thấy được đặc trưng cũng như vai trò của ngôn ngữ người kể chuyện
trong việc tổ chức, sắp xếp cấu trúc tự sự trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện,
chúng tôi lần lượt tiến hành làm rõ những thành phần cơ bản của lớp ngôn ngữ này.
4.2.1. Ngôn ngữ kể và sự hòa phối giữa kể - tả - bình luận
Ngôn ngữ kể được hiểu là lời thuyết minh, lời dẫn truyện của người kể
chuyện giới thiệu về nhân vật, sự kiện, bối cảnh trong truyện. Trong tiểu thuyết nói
chung và tiểu thuyết có tính chất tự truyện nói riêng, lời kể/trần thuật chiếm một
lượng lớn, giúp người kể chuyện kiến tạo nên một cấu trúc tự sự. Chính cấu trúc
này là con đường nhanh nhất để đưa người đọc đi vào khám phá thế giới nghệ thuật
của tác phẩm. Tuy nhiên, việc sử dụng tỉ lệ, hình thức lời kể như thế nào đều phụ
thuộc vào dụng ý sáng tạo mang tính chất chủ quan ở mỗi nhà văn. Vị trí quan trọng
của ngôn ngữ kể được “minh định” rõ nét trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện.
Bởi, các nhà văn có thể lựa chọn những cách thức khác nhau để “viết lại” câu
chuyện đời mình. Để làm được điều này, nhà văn cần sáng tạo ra người kể chuyện
với sứ mệnh thuyết minh, dẫn dắt người đọc vào truyện. Người kể chuyện có thể kể
lại câu chuyện theo trình tự biên niên, hoặc có thể từ thực tại xuôi chiều về quá khứ
theo lối đảo tuyến thời gian, hoặc trong quá trình kể, người kể chuyện có thể dừng
lại bất kỳ lúc nào để chêm xen vào một chuyện khác nhằm bổ sung, làm rõ hơn một
vấn đề, một sự kiện, hiện tượng nào đó.
112
Ngôn ngữ người kể chuyện thường tồn tại dưới hai hình thức: ngôn ngữ của
người kể chuyện ngôi thứ ba giấu mặt, khách quan và ngôn ngữ người kể chuyện
ngôi thứ nhất nếm trải, chứng nhân, người trong cuộc mang tính chủ quan. Nghiên
cứu tiểu thuyết có tính chất tự truyện Việt Nam trong vòng một thế kỷ, chúng tôi
nhận thấy, nảy sinh từ đặc trưng tiểu loại, tiểu thuyết có tính chất tự truyện thường
lựa chọn hình thức trần thuật ở ngôi thứ nhất, mang tính chủ quan: Chiếc cáng xanh
(Lưu Trọng Lư), Sống nhờ (Mạnh Phú Tư), Tôi nhìn tôi trên vách (Túy Hồng),
Người về đầu non (Võ Hồng), Miền thơ ấu (Vũ Thư Hiên). Bên cạnh đó, vẫn có
những tác phẩm được các tác giả lựa chọn hình thức trần thuật từ ngôi thứ ba mang
lại không ít sự thú vị như: Sống mòn (Nam Cao), Mực mài nước mắt (Lan Khai),
Hoa bươm bướm (Võ Hồng), Vòng tay học trò (Nguyễn Thị Hoàng), Bếp lửa
(Thanh Tâm Tuyền), Thời xa vắng (Lê Lựu), Chuyện kể năm 2000 (Bùi Ngọc
Tấn)... Điều này có thể dễ dàng lí giải bởi những ưu thế về sự năng động, sức bao
quát rộng lớn của người kể chuyện ở ngôi thứ ba, điều mà thể loại tiểu thuyết cũng
như tiểu thuyết có tính chất tự truyện cần hơn bất kì thể loại nào khác.
Trong ngôn ngữ kể ở ngôi thứ nhất, mở đầu câu chuyện, các tác giả hay sử
dụng ngôn ngữ kể mang tính tái hiện, phục dựng lại những dấu mốc thời gian gắn liền
với hoài niệm tuổi thơ như: “Năm ấy, tôi mới lên tám tuổi” (Chiếc cáng xanh); “Mỗi
lần hướng mắt quay lui nhìn về quá khứ là tôi thấy bóng dáng của ông Bác tôi hiện
lên, bao trùm cả một quãng đời thơ ấu của tôi…” (Người về đầu non); “Khi ngồi
tưởng tiếc một kỷ niệm nào đó, luôn luôn tôi nhớ đến những ngôi trường cũ” (Trường
cũ)… Việc sử dụng ngôn ngữ chỉ thời gian trong quá khứ không chỉ riêng ở tiểu
thuyết có tính chất tự truyện mới có, mà còn xuất hiện nhiều trong thế giới ngôn từ
của tiểu thuyết lịch sử. Ở tiểu thuyết lịch sử, dựa trên nền hiện thực mà người kể
chuyện qua lời kể của mình với mục đích là tái hiện, phục dựng lại lịch sử cùng
những sinh hoạt, đời sống, văn hóa qua một hay nhiều triều đại, và trước mỗi sự kiện,
thường mở đầu bằng lớp ngôn ngữ có tính chất chỉ dấu mốc thời gian cụ thể, mang
tính biên niên. Gắn với các mốc thời gian là những biến cố lịch sử. Trong tiểu thuyết
có tính chất tự truyện, với mong muốn “tái dựng” lại lịch sử đời mình, đặc biệt là
“lịch sử hình thành nhân cách”, nên ngôn từ chỉ dấu mốc thời gian thường mang tính
113
ước lượng, không xác định rõ, tựa như những lát cắt ngang của lịch sử cuộc đời tác
giả đã được mờ hóa nhờ lớp thời gian xây dựng bằng tâm tưởng.
Có những trường hợp, gần như lớp ngôn ngữ kể chiếm phần lớn trong tác
phẩm, như trường hợp Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh chẳng hạn. Cả tác phẩm
triền miên một miền tưởng nhớ về thời quá vãng, khi thì chuyện được kể bằng ngôn
ngữ kể ở ngôi thứ ba, khi lại kể ở ngôi thứ nhất - người trong cuộc thuật kể lại đời
mình trong những năm tháng từng là người lính gắn liền với những trận đánh, chiến
trường đầy máu lửa. Sự trở đi trở lại những lời kể đều đều, chậm rãi thường khởi
đầu bằng cụm từ chỉ thời gian: “thời ấy…thực ra thì mới chỉ năm ngoái đó thôi”;
“so với hồi đó cảnh vật bây giờ chắc chưa có gì thay đổi”; “Hồi đó, vào độ tháng
tám”…, cho thấy quá khứ luôn là nỗi ám ảnh trong tâm hồn của một con người “đã
ngừng bước lại ở những tháng ngày ấy, chứ không tài nào đổi đời nổi như là bản
thân đời sống”. Và dẫu là lời kể chuyện ở ngôi thứ ba hay là lời kể của nhân vật tôi
- người kể chuyện ở ngôi thứ nhất thì tất cả những tiết đoạn kể trong câu chuyện
đều có một độ lùi nhất định giữa thời điểm kể và sự kiện được kể ra trong tác phẩm.
Lớp ngôn ngữ kể mang dấu ấn thời gian quá khứ trở thành “điểm tựa để những sự
kiện quá khứ được tuôn trào qua lời người kể chuyện” [4, tr.88].
Tuy nhiên, trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện, các nhà văn thường hay
vận dụng linh hoạt giữa lời kể và tả làm cho câu chuyện kể được tái sinh từ quá khứ
cuộc đời tác giả thêm phần sinh động. Đoạn văn sau trong Sống nhờ của Mạnh Phú
Tư đã thể hiện khá thành công sự hòa trộn giữa lời tả trong mạch kể của người kể
chuyện khi thuật lại cảnh đêm đầu tiên đẫm đầy nỗi cô đơn của đứa bé mồ côi cha
khi mà người mẹ đi thêm bước nữa: “Tôi đưa tay kéo chiếc màn lau nước mắt rồi cố
nín hẳn (1). Tôi thấy nghẹn và tức ở ngực (2). Những cơn khóc bị kìm giữ làm tôi
phải nấc luôn mà nuốt nước mắt không kịp (3). Tôi quên cả đói, chỉ mơ màng nghĩ
đến mẹ (4). Cái đêm thứ nhất tôi nằm trên giường, thiếu hơi ấp ủ của mẹ tôi (5). Chỉ
thiếu cánh tay để gối, thiếu cái ngực để nằm nghiêng rồi đặt một cánh tay lên đó,
mà tôi thấy thiếu nhiều quá (6)! Tôi giở mình bên phải giở mình bên trái (7). Nhưng
mẹ tôi không còn có đó nữa để giữ tôi lại, ngăn cho tôi khỏi ngã (8)” [152, tr.24]. Ở
câu (1) là lời kể, câu (2) lại hoàn toàn là lời tả và từ câu (3), (4), (5) là sự kết hợp
114
giữa lời kể và lời tả. Sự kết hợp giữa những câu kể và tả trong một đoạn văn với
những câu dài ngắn khác nhau đã phát huy được tối đa tác dụng của nó trong việc
khắc họa tâm trạng nhân vật.
Ở Người về đầu non (Võ Hồng), pha lẫn trong lớp ngôn ngữ hơi thô mộc,
dân dã cùng những tên đất tên làng mang đậm dấu ấn của miền quê hương Phú Yên
là lớp ngôn ngữ tả len vào trong mạch kể câu chuyện lại chính là yếu tố làm sống
dậy những hình ảnh cũ xưa trong quá vãng: “Trên chặng đường Hòa Đa - Mỹ Phú,
tôi mường tượng thấy dáng tôi đi trong những ngày kháng chiến. Những con đường
làng hun hút bờ tre đổ ra con đường quốc lộ, những lạch nước im mát bóng cây dừa
chạy luồn dưới một khoảng cầu hẹp… xe vượt qua đèo Tam Giang. Dưới mắt là
cánh đồng Chí Đức, là đập Chợ Hôm, là thôn Hà Yến, là ga Chí Thạnh. Tôi thấy lại
hình ảnh Bác tôi rõ ràng như thật bởi ở mỗi không gian mắt tôi đậu lại, như mới
ngày nào tôi với Bác cùng đi. Ở khắp cánh đồng rộng màu mạ xanh này, rải rác chỗ
nào cũng có ruộng của Bác. Miếng năm giạ, miếng bảy giạ, miếng ruộng gò, miếng
úng thủy…” [48, tr.141].
Trong Miền thơ ấu, khi sử dụng lối trần thuật ở ngôi thứ nhất, Vũ Thư Hiên
cũng vận dụng rất linh hoạt giữa lời kể và lời tả đan xen trong mạch kể cho toàn
bộ câu chuyện. Như trong một đoạn văn kể lại những ngày nhân vật “tôi” về sống
với bà cô độc thân sùng đạo trong ngôi nhà cổ ở quê nhà, nhờ có sự hòa phối này
mà câu chuyện trở nên chân thật, sinh động, tăng thêm phần hấp dẫn: “Bàn thờ
Ðức Mẹ là một tủ nhỏ hình hộp có cửa kiểu gô-tích sơn son thếp vàng, che bằng
mảnh nhiễu đỏ. Dừng lại trước bàn thờ Ðức Mẹ với vẻ mặt rất thành kính, cô tôi
làm dấu thánh rồi trịnh trọng vén bức màn nhiễu lên. Từ bên trong hơi tối, một
người đàn bà Châu Âu tóc vàng, mắt xanh, vận áo dài thêu kim tuyến, ẵm đứa con
trai kháu khỉnh nhìn xuống chúng tôi. Cúi sát xuống mặt tôi, cô Gái thì thào: - Cháu
có biết ai đây không? Không suy nghĩ, và cũng muốn vội vã khoe hiểu biết của
mình để chiều lòng cô, tôi nói ngay, rất vui vẻ: - Con mẹ đầm. - Lạy Chúa tôi lòng
lành vô cùng! Như bị một cái tát thẳng cánh, cô tôi bật ngửa, bà kêu lên một tiếng
gọi Chúa thảm thiết, mặt trắng nhợt, con ngươi chực nhảy ra khỏi tròng. Tôi lạnh toát
người, run lẩy bẩy trước hậu quả của việc làm dại dột. - Quân vô đạo! - Cô Gái rít lên
115
khi tĩnh trí lại, bà thẳng tay cốc cho tôi một cái trời giáng - Lu-xi-phe! Báng bổ!
Người đàn bà, chính là Ðức Mẹ Ma-ri-a mà trước đó tôi chưa được hân hạnh làm
quen, dửng dưng nhìn cuộc trừng phạt diễn ra dưới chân mình” [38, tr.24-25]. Hình
ảnh người cô, vốn là một tín đồ sùng tín đấng Ky tô và cậu bé ở tuổi lên bảy, ngây
ngô với sự hiểu biết có giới hạn của trẻ con trong đoạn văn trên đầy tương phản
nhưng cũng rất chân thực là nhờ vào sự xuất hiện của những lời tả chi tiết trong
mạch kể cùng với những câu cảm thán và lớp từ ngữ giàu cảm xúc. Nhờ sự kết
hợp các lớp ngôn ngữ khác nhau mà mạch chuyện kể không nhàm chán, đơn điệu.
Nếu như lời kể đóng vai trò dẫn dắt người đọc thâm nhập nhanh nhất vào câu
chuyện kể, thì lời tả lại đóng vai trò “thuyết minh”, làm rõ hơn cho câu chuyện kể.
Ngay cả những tiểu thuyết có tính chất tự truyện ra đời ở đô thị miền Nam chặng
đường trước 1975, mặc dù các tác giả đã cố gắng gia tăng thêm lời thoại trực tiếp,
nhưng bên cạnh lời kể, sự xuất hiện của ngôn ngữ tả trong truyện cũng đã phát huy
được tối đa khả năng mô tả sự vật, hiện tượng… một cách cụ thể, chi tiết. Trong
một số trường hợp, để tăng thêm hiệu quả cho câu chuyện kể, nhà văn đã vận dụng
linh hoạt giữa lời kể - tả và có cả sự xâm nhập của lời bình luận trong lời kể. Sự kết
hợp này diễn ra khá nhiều trong các tác phẩm tiểu thuyết có tính chất tự truyện ra
đời từ sau 1945. Như trong một đoạn văn, khi ngẫm về thân phận của người phụ nữ
trong hoàn cảnh nghiệt ngã của chiến tranh trong tác phẩm Hoa bươm bướm, ngôn
ngữ kể gần như bị xếp vào hàng thứ yếu trước lớp ngôn ngữ bình luận: “giữa cuộc
chiến đang mới khởi đầu này? Có sắc đẹp là điều bất tiện trong một hoàn cảnh như
thế. Sắc đẹp khuyến khích người khác làm liều và một hoàn cảnh xã hội chiến tranh
xáo trộn, bất ổn càng thúc đẩy người ta làm liều, đến đâu hay đến đó. Giữ đạo đức
làm gì khi chính cuộc đời con người cũng không chắc bảo đảm? Được tiếng đứng
đắn nghiêm chỉnh làm gì khi không tin rằng mình sống hết tận ngày nhận huy
chương và nghe diễn từ ca ngợi công đức” [47, tr.152].
Ở Nỗi buồn chiến tranh, khi ngẫm về chiến tranh, ngẫm về thân phận người
lính từng một thời dọc ngang chiến trường máu lửa, người kể chuyện đã nói bằng
những lời đau đớn: “cuộc chiến tranh thần thánh rốt cuộc đã bù đắp những mất mát
anh đã phải chịu bằng một thứ đời sống như ngày hôm nay đây. Sau cuộc chiến
116
tranh ấy chẳng còn gì nữa cả trong đời anh. Chỉ còn những mộng mị hão huyền. Sau
cuộc chiến ấy anh dường như chẳng còn ở trong một “kênh” với mọi người. Càng
ngày Kiên càng có cảm giác rằng không phải mình đang sống mà là đang bị mắc kẹt
lại trên cõi đời này” [96, tr.100].
Sự kết hợp các lớp ngôn ngữ trong cùng một câu chuyện kể không chỉ đem
lại sức hấp dẫn cho câu chuyện mà nó còn giúp cho tiểu thuyết có tính chất tự
truyện vượt thoát mô hình truyện kể truyền thống. Giờ đây, tiểu loại này đã mang
đúng đặc tính đa thanh, đa âm, phức điệu đặc trưng vốn có. Các nhà văn đã không
ngừng nỗ lực, sáng tạo những nguyên tắc mới trong việc tiếp cận, thể hiện, luận giải
có chiều sâu về “lịch sử” chính bản thân mình. Từ câu chuyện về cá nhân, mang
tính riêng tư trở thành câu chuyện về thế sự cuộc đời, về những vấn đề của ngày
hôm nay và cả tương lai trong sự nối kết với quá khứ. Nhờ vậy, tiểu thuyết có tính
chất tự truyện mang một hình hài, một sức sống mới, tiếng nói mới, lạ mà quen.
4.2.2. Ngôn ngữ gián tiếp tự do (lời nửa trực tiếp)
Ngôn ngữ gián tiếp tự do còn được gọi là lời nửa trực tiếp. Theo như Từ điển
thuật ngữ văn học thì lời nửa trực tiếp là “lời của nhân vật có bề ngoài thuộc về tác
giả (chấm câu, ngữ pháp), nhưng về nội dung và phong cách lại thuộc về nhân vật”
[33, tr.187]. Đây là kiểu “câu hàm ẩn nhiều chủ thể”, “câu lai ghép” (chữ dùng của
Bakhtin). Không đơn nghĩa như lời gián tiếp hay lời trực tiếp, lời gián tiếp tự do
thường mở ra nhiều hướng tiếp nhận, trở thành kiểu lời nói đặc trưng cho ngôn ngữ
trần thuật đa thanh trong tiểu thuyết. Đây là kiểu lời nói có sự hòa trộn giữa ngôn
ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật, giọng người kể và giọng nhân vật xen
lẫn vào nhau. Lời gián tiếp tự do xuất hiện với tần số cao trong tiểu thuyết có tính
chất tự truyện.
Trong một số tác phẩm ở chặng đường đầu thế kỷ XX đến 1945, kiểu lời trần
thuật nửa trực tiếp cũng đã xuất hiện qua một số tác phẩm như: Sống mòn, Mực mài
nước mắt… Ở các tác phẩm này, các nhà văn đã biết kết hợp giữa lời kể của chủ thể
trần thuật và lời nội tâm nhân vật để thể hiện chiều sâu tâm trạng nhân vật. Nhờ thế
mà lời văn trần thuật khá linh hoạt và bước đầu cũng đã xác lập được tính đa thanh
trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện.
117
Từ sau 1945, lời gián tiếp tự do được sử dụng khá nhiều trong các tác phẩm
tiểu thuyết có tính chất tự truyện. Có thể nói, đây là một trong những phương thức
thể hiện tính hiện đại trong việc khai mở kiểu tư duy phức hợp của con người trước
cuộc sống đa chiều, đa diện.
Xuất hiện trong những ngày đầu của tiểu thuyết đô thị miền Nam, hình thức
lời gián tiếp tự do đã tỏ ra khá phù hợp để cho Võ Hồng xây dựng kiểu con người
mang nặng tâm trạng hoài nghi trước cuộc bể dâu của thời đại: “Chiến tranh như
một đám cháy lớn, đang bắt đầu bằng những mồi lửa rải rác. Mình ở đây để làm gì?
Lúc đầu khi rời bỏ Đalat chàng có ý nghĩ: mình hãy tự ý lưu đày trong một thời
gian, xa lánh hết mọi sinh hoạt cộng đồng. Nhưng hai tháng thẩn thơ ở chóp núi này
chàng càng ngày càng thấy rằng “tự ý lưu đày” chỉ còn là một từ ngữ hoa hòe làm
trang sức cho một ý nghĩ trốn chạy… Người ta bỏ quên mình không cần biết xem
hiện giờ mình ở đâu, mình đang làm gì, mình ra thế nào. Cái cộng đồng xã hội ấm
áp tình người, chàng thấy cần thiết đối với cuộc sống tinh thần của mình khi nó
không tìm đến với chàng thì chàng thấy xót xa như bị người phụ bạc” (Hoa bươm
bướm). Trong đoạn văn này, lời kể của người trần thuật chứa đựng cả ngôn ngữ
biểu cảm của nhân vật nên giọng người trần thuật và nhân vật đan cài vào nhau, gần
như đồng thời cùng một lúc lại xuất hiện đến hai chủ thể phát ngôn: người trần thuật
và nhân vật (chủ thể hàm ẩn).
Cũng viết về thân phận con người, ra đời cùng thời với Hoa bươm bướm,
nhưng Vòng tay học trò của Nguyễn Thị Hoàng lại có độ mềm mại, tinh tế hơn.
Trong tác phẩm này, khi đi sâu vào diễn tả tâm lý đầy phức tạp của nhân vật Trâm,
rất nhiều lần nhà văn sử dụng lời kể lẩn trong lời độc thoại nội tâm của nhân vật
khiến cho dòng tâm trạng nhân vật hiện rõ cả trong lời người trần thuật. Như trong
đoạn văn sau: “Trâm rơi vào đời như chiếc lá chao mình theo cơn gió. Rụng xuống.
Và xơ xác. Để tỉnh giấc thấy mình ngơ ngác lạc loài, không biết về đâu đi đâu. Ngày
thơ dại qua rồi, không thể bắt đầu lại. Còn tương lai xa xôi như không bao giờ tới,
chán ngán và hoài nghi đến nỗi không còn hy vọng và đợi chờ” [42, tr.171]. Hình
thức lời gián tiếp tự do trong đoạn văn này rất phù hợp trong việc chuyển tải tâm
trạng của Trâm, một con người chứa đầy nỗi chán ngán, hoài nghi, đánh mất niềm tin
vào cuộc đời thực tại.
118
Ra đời trong những năm đầu thời đổi mới, Thời xa vắng, một tác phẩm “đánh
dấu cái mốc trong sự cách tân” của thể loại tiểu thuyết cũng đã có sự góp mặt không
ít của lời gián tiếp tự do trong việc khắc họa hình ảnh con người từng một thời sống
không phải là chính mình như Giang Minh Sài. Suốt cả 13 chương tiểu thuyết, gần
như không có chương nào mà không có sự xuất hiện của lời nửa trực tiếp. Sử dụng
lời nửa trực tiếp không phải là quá mới mẻ, song có thể nói, Lê Lựu đã thành công
trên phương diện này. Sự hiện diện của lớp ngôn ngữ này khiến cho lời trần thuật
như trôi theo dòng ý thức của nhân vật. Nhờ vậy mà người trần thuật có thể thâm
nhập, đi sâu vào ngõ ngách tâm hồn nhân vật, có thể biết rõ mọi chuyện, ở mọi lúc,
mọi nơi. Ví dụ như đoạn văn trần thuật tâm trạng Sài: “Trước đây, đêm nào không
ngủ được, Sài cũng nghĩ ra một chuyện gì đó có thể giúp Sài sống được ở đại đội
những ngày bị hẫng, tưởng như không thể chịu được cuộc đời bộ đội tự mình buộc
vào. Nghĩ đi nghĩ lại nhiều đêm, cứ thấy tiếc nó, anh dành những giờ hết phiên gác
ghi lại nó mà tự nhận là nhật kí. Tưởng như đã phải đi ở tù về. Trời ơi, những đêm
“diễn đàn” anh cứ run bắn lên vì những từ phản động, chống đối, phá hoại, tư sản,
phong kiến, bóc lột, ăn bám… Không hiểu sao lại được trả và bảo không có gì…”
[75, tr.85-86]. Ở đoạn này, lời nửa trực tiếp đã diễn tả rất rõ tâm trạng nhân vật Sài.
Đó là tâm trạng vừa trăn trở, bâng khuâng, vừa đau đớn, đôi khi lại chùng xuống,
buông xuôi... Hơn thế nữa, tác dụng của lời nửa trực tiếp trong đoạn văn này là kéo
gần khoảng cách giữa nhà văn và nhân vật. Nhà văn dường như thấu hiểu tâm trạng
Sài, đồng tình với anh, đau khổ cùng anh. Người trần thuật lúc này không còn là
người chứng kiến nữa mà trở thành người trong cuộc nên vừa có thể dựng lên hiện
thực khách quan, vừa phơi bày tâm tư của nhân vật. Đó là nỗi cay đắng trước thực
tế phũ phàng trong thời chiến mà đôi khi người ta không dám đối diện hoặc cố tình
không dám đối diện với nó.
Trong Nỗi buồn chiến tranh, một tác phẩm mà tỉ lệ lời kể xuất hiện với mật độ
dày đặc (khi thì lời của người kể chuyện toàn tri, khi thì lời kể của nhân vật xưng tôi
với tư cách là người trong cuộc) nhưng có rất nhiều đoạn văn lời người kể chuyện và
lời độc thoại nội tâm hòa kết vào nhau đến mức khó có thể phân biệt được đâu là lời
độc thoại nội tâm của nhân vật và đâu là lời người kể chuyện. Vẻ bề ngoài những
119
đoạn văn này là lời người kể chuyện nhưng trong mạch ngầm văn bản, gần như tất cả
từ ngôn ngữ đến giọng điệu lại là lời nhân vật. Viết về chiến tranh bằng góc nhìn thời
hậu chiến với nhân vật trung tâm là người cựu chiến binh Kiên, Bảo Ninh đã khéo léo
vận dụng cấu trúc song hành giữa hiện tại và quá khứ khiến cho lời người kể chuyện
trong tác phẩm thêm phần đa dạng: có lời người kể chuyện ngôi thứ nhất (với nhân
vật xưng “tôi”) trực tiếp bộc lộ dòng tâm trạng, có lời của người kể chuyện ngôi thứ
ba và có cả lời kể chuyện là tác giả hiển thị xưng “tôi” (ở cuối tác phẩm). Chính điều
này làm cho câu chuyện kể về chiến tranh được gợi ra từ nhiều điểm nhìn khác nhau,
người nghe chuyện gần như sống trong hai môi trường đối nghịch nhau về thời gian
giữa thực tại và quá khứ. Một quá khứ “hôm qua” của người lính đầy đau thương, tàn
khốc và một thực tại “hôm nay” của người hùng chiến trận một thời sống giữa hòa
bình đang bị nỗi ám ảnh về chiến tranh tàn phá, hành hạ đời sống tinh thần.
Có thể nói, để tiến gần hơn đến cuộc sống đa chiều, tiểu thuyết có tính chất
tự truyện đã sử dụng lời gián tiếp tự do làm phương tiện đi vào khám phá dòng tâm
trạng trong lối tư duy phức hợp của con người trong hiện thực mới. Chính điều này
giúp độc giả có thêm cơ hội lĩnh ngộ, khám phá những mạch ngầm văn bản, có cơ
hội để đi sâu vào những cung bậc cảm xúc, phần bản thể nhất của con người với
những hồi ức, chiêm nghiệm, những lời tự bạch cùng dòng ý thức chen lẫn trong
ngôn ngữ và giọng kể khách quan của người kể chuyện.
Gia tăng lời gián tiếp tự do trong ngôn ngữ trần thuật, tiểu thuyết có tính chất
tự truyện đã “chứng tỏ sự di chuyển điểm nhìn từ người kể chuyện sang nhân vật”.
Đây là một trong những nét cơ bản nhất đánh dấu sự đổi mới của tiểu thuyết có tính
chất tự truyện. Sự xâm nhập lẫn nhau giữa các kiểu ngôn ngữ, đặc biệt là sự hiện
diện của lời gián tiếp tự do đã cho thấy sự cách tân trong cách sử dụng ngôn ngữ
trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện.
4.3. Giọng điệu trần thuật
Giọng điệu là một trong những phương diện được chú ý của nghệ thuật tự
sự. Theo tự sự học, bên cạnh ngôi kể và điểm nhìn trần thuật, giọng điệu cũng là
phương diện cơ bản để xác định người kể chuyện. Nếu như ngôi kể được dùng để
xác định mối quan hệ giữa người kể chuyện với câu chuyện được kể lại, và điểm
120
nhìn trần thuật cung cấp thông tin về vấn đề “ai nhìn”, “ai nhận thức” và “điểm
nhìn của ai” chi phối việc trần thuật thì giọng điệu cung cấp thông tin về vấn đề ai
nói và ai thuật kể. Nói cách khác, giọng điệu giúp xác định mối quan hệ giữa hoạt
động kể với việc lựa chọn, sắp xếp các sự kiện, tính huống trong truyện kể. Qua
giọng điệu, thái độ, cảm xúc của người kể chuyện đối với câu chuyện được kể lại
cũng được bộc lộ.
G. Genette từng cho rằng: “hành động nói trong mối liên hệ với chủ thể của
nó - chủ thể ấy không chỉ là kẻ thực hiện hoặc chịu đựng hành động nói mà còn là
người (vốn là kẻ đó hoặc kẻ khác) kể lại hành động đó” [120, tr.175]. Theo Từ điển
thuật ngữ văn học, giọng điệu thể hiện “thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo
đức của nhà văn đối với hiện thực được miêu tả, thể hiện trong lời văn qui định cách
xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần… giọng điệu là
phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học, nó đòi hỏi người trần thuật, kể chuyện hay
nhà thơ trữ tình phải có khẩu khí, có giọng điệu. Giọng điệu của mỗi tác phẩm gắn
liền với giọng “trời phú” của mỗi tác giả nhưng mang nội dung khái quát nghệ
thuật, phù hợp với đối tượng nghệ thuật” [34, tr.135]. Giọng điệu trần thuật chính là
giọng điệu của người kể chuyện gắn liền với dụng ý sáng tạo nghệ thuật của nhà
văn. Nó giúp xác định rõ mối quan hệ giữa hoạt động kể với các sự kiện, tình huống
được trình bày trong truyện kể và thể hiện thái độ, cách định giá của người kể
chuyện đối với câu chuyện được kể lại. Thông qua giọng điệu, phần nào đó cũng
thể hiện được quan điểm và cá tính sáng tạo của tác giả (gián tiếp thể hiện qua
người kể chuyện).
Nhìn một cách tổng thể, tiểu thuyết có tính chất tự truyện thường có một số
giọng chủ âm sau: giọng trữ tình, hoài niệm; giọng triết lý, chiêm nghiệm, giọng tự
trào, giễu nhại.
4.3.1. Giọng trữ tình, hoài niệm
Một trong những chất giọng riêng biệt, mang nét đặc trưng của tiểu thuyết có
tính chất tự truyện đó chính là giọng trữ tình, hoài niệm, vì khi nhà văn có nhu cầu
đào sâu vào cái tôi bản thể trong quá khứ, lẽ đương nhiên, dòng hoài niệm là một
trong những nhân tố để tìm về con người trong quá khứ của nhà văn. Có rất nhiều
121
tác phẩm tiểu thuyết có tính chất tự truyện, giọng trữ tình, hoài niệm trở thành chất
giọng chủ âm, chi phối toàn bộ tác phẩm.
Là một tiểu loại thường có khuynh hướng hướng nội, tiểu thuyết có tính chất
tự truyện hay lấy tình cảm, cảm xúc cá nhân làm điểm tựa cho lời văn nghệ thuật. Vì
vậy, giọng điệu trong tác phẩm tựa hồ là tiếng nói tâm hồn đầy khắc khoải, vô cùng
nhạy cảm nhưng cũng mang đậm nét hồn nhiên của tâm hồn thơ trẻ. Trong Sống nhờ
(Mạnh Phú Tư) là cả “những rung động cực điểm của một tâm hồn trẻ dại” lắng trong
dòng hoài niệm xót xa đã tạo nên giọng điệu chính bao trùm toàn bộ tác phẩm. Mỗi
một lần kỷ niệm tuổi thơ ùa về là một lần cảm xúc như dòng chảy cuộn trào bao nỗi
niềm day dứt: “Tôi còn nhớ rõ ràng buổi chiều mùa đông ấy, một buổi chiều về đầu
tháng âm lịch. Mưa phùn mấy ngày liền khiến những cây rạ mới lợp trên các mái nhà
đã gục đầu nằm bẹp dí. Gió bấc từng cơn làm nhào lộn những tia nước mưa, len lách
qua được cả khe cửa kín như bưng. Hơi gió thực là nhẹ. Nhưng sức lạnh lại nhiều.
Đến nỗi cứ sờ thấy chân tay và hai bên tai giá buốt, người ta mới biết là có gió lùa”
[152, tr.7]. Đoạn văn không chỉ là kể lại nỗi niềm của Dần trong những tháng ngày
sống không tình yêu thương mà nó còn giúp người đọc nhận diện ra được những dồn
nén đến cực độ của một tâm hồn trẻ thơ đang chất chứa quá nhiều nỗi đắng cay, đau
đớn. Ở Sống nhờ, những cụm từ chỉ thời quá khứ như: buổi chiều đông ấy, mùa đông
năm ấy, trong hồi thơ ấu ấy, năm ấy… luôn xuất hiện với tần suất khá nhiều. Đây
cũng là một trong những yếu tố giúp cho giọng trữ tình, hoài niệm phát huy được tối
đa tác dụng của nó trong việc tìm lại những gì xa nhất của “những ngày thơ ấu”. Có
thể nói, bằng chính chất giọng trữ tình pha lẫn trong hoài niệm đã đem lại sức hấp
dẫn cho trang văn trong Sống nhờ. Những nét lặng buồn dàn trải, không lắm cao trào
nhưng nó cũng đủ sức thuyết phục, dẫn người đọc thâm nhập vào thế giới tuổi thơ
đẫm đầy nước mắt của Mạnh Phú Tư.
Có thể nói, giọng trữ tình, hoài niệm luôn đóng vai trò quan trọng trong hành
trình “đi tìm thời gian đã mất” của từng nhà văn. Khi truy nguyên con người mình ở
thời quá khứ, những cây bút trưởng thành ở đô thị miền Nam như Võ Hồng, Duyên
Anh, Thanh Tâm Tuyền, Túy Hồng... cũng thường sử dụng giọng trữ tình, hoài niệm
làm phương tiện để kết nối quá khứ. Truyện Người về đầu non (Võ Hồng) mở đầu
122
bằng giọng kể êm đềm, lắng sâu một miền tâm tưởng: “Mỗi lần hướng mắt quay lui
nhìn về quá khứ là tôi thấy bóng dáng của ông Bác tôi hiện lên, bao trùm cả một
quãng đời thơ ấu của tôi như cây đa cổ thụ vẫn đứng bao trùm cả một vùng đất hoang
vu, tỏa bóng mát hiền lành xuống một tòa cổ miếu” [48, tr.5]. Và cứ thế, kỷ niệm
tuổi thơ cùng những tình cảm yêu thương quê hương từ thời thuộc Pháp qua từng
biến cố kháng chiến đều được phục dựng lại bằng chất giọng ngập tràn miền tưởng
nhớ đến nao lòng. Từ cảnh sống dân dã, mộc mạc của người dân quê, đến cảnh đi
coi gặt lúa vào ngày mùa, cả cách đặt tên khai sinh con theo “ngày tháng An-
Nam”… đều được hồi thuật lại rất rõ ràng. Đặc biệt, những trang viết về kỷ niệm
tuổi thơ dưới mái trường là những trang viết mà nhà văn Võ Hồng viết bằng cả
niềm xúc cảm đong đầy nỗi nhớ: từ cảnh học ôn môn Toán: "Ngày nào cũng hai bài
toán đố. Nộp bài lên mà thấy thầy bệt cho hai gạch rồi vẽ một vòng tròn là cứ lặng
lẽ lên nằm sấp ở chân bảng đen đợi. Khi đứa chót đã nộp bài rồi thì khoảng trống đã
đầy những thân học trò nằm dài. Ðứa làm đúng hai bài phải chạy lên núi bẻ roi..."
[48, tr.33], đến cảnh đi thi: "Một cậu học trò mười một tuổi ở từ nhà quê ra, nhút
nhát rụt rè, tay cầm thẻ căn cước đi vào phòng này đến phòng khác để qua hết kỳ thi
vấn đáp, chịu sự tra trấn của các giám khảo bệ vệ uy nghi, thật là một cực hình cho
tinh thần của nó. Cái không khí nghiêm khắc lạnh lùng đó như đe dọa nó, ngôi
trường trở thành một thứ tu viện thiêng liêng đóng kín cửa không muốn cho nó
bước vào” [48, tr.37].
Khảo sát các tác phẩm tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong suốt chiều dài
nửa sau thế kỷ XX, từ Hoa bướm bướm, Như cánh chim bay (Võ Hồng), Tôi nhìn tôi
trên vách (Túy Hồng), cho đến Bếp lửa (Thanh Tâm Tuyền), Vòng tay học trò
(Nguyễn Thị Hoàng), Thời xa vắng (Lê Lựu), Chuyện kể năm 2000 (Bùi Ngọc Tấn),
và cả trong Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)… chúng tôi đều nhận thấy, trong các
tác phẩm này, yếu tố không thể thiếu để làm nên những giá trị nghệ thuật cho tác
phẩm đó chính là giọng trữ tình hoài niệm. Ở những tác phẩm này, mặc dù độ lùi thời
gian có khoảng cách khá gần so với những sự kiện từng diễn ra trong đời tác giả, đôi
khi có những câu chuyện cứ ngỡ rằng chỉ mới vừa diễn ra, chưa xa lắm so với thời
gian nhà văn đặt bút viết tác phẩm (như Hoa bươm bướm, Tôi nhìn tôi trên vách),
123
nhưng thời gian ấy vẫn là khoảng thời gian đã diễn ra trong quá khứ. Và một khi tái
dựng lại, lẽ dĩ nhiên, con đường hoài niệm trở thành nẻo đường dẫn về nhanh nhất để
hướng đến những gì đã, từng diễn ra. Dù rằng câu chuyện được kể ở thì hiện tại
nhưng nhờ vào giọng hoài niệm nên nó vẫn luôn có mối quan hệ gắn kết với quá khứ.
Hoa bươm bướm, tác phẩm có thể xem là bước khởi đầu cho các tác phẩm tiểu thuyết
mang đậm chất tự truyện của Võ Hồng. Ở tác phẩm này có nhiều nhận định cho rằng
chất hoài niệm đôi khi làm cho truyện thiếu đi cái tính linh hoạt của nó. Tuy nhiên,
Võ Hồng thường hay lấy quá khứ “soi bóng” lên thực tại để “tìm ra những giá trị đích
thực của cuộc sống”. Từ Hoa bươm bướm cho đến Như cánh chim bay và cả ở Người
về đầu non đều cho thấy các nhân vật của Võ Hồng tuy bước đi trên thực tại nhưng
vẫn luôn bị níu kéo bởi hoài niệm. Đây cũng chính là yếu tố chi phối giọng điệu trong
tác phẩm của Võ Hồng. Nhân vật Luân trong Hoa bươm bướm, một chàng trai trẻ
tuổi, giàu nhiệt huyết, luôn muốn đem tâm sức của mình để phục vụ cho đời, nhưng
sống giữa thời loạn lạc khiến cho tâm hồn anh nặng trĩu nỗi niềm tâm trạng. Những
ngày tháng sống ở Đà Lạt là những ngày tháng mà anh chứng kiến không biết bao
nhiêu cảnh đời u tối: những cuộc bắt bớ, vây ráp, từng đoàn người bồng bế, dắt dìu
nhau chạy loạn, nhà cửa tiêu điều, hoang vắng, tiếng bom đạn rền vang… Từng giờ,
từng ngày trôi qua là cả một chuỗi dài nối tiếp mà Luân phải sống trong vô vọng, nên
đôi khi chỉ cần lắng nghe một tiếng còi tàu cũng đủ gợi nhớ lại trong anh những kỷ
niệm buồn: “chàng nhớ lại những ngày nghe còi báo động đầu tiên khi còn trọ học ở
Hà Nội, hình như vào tháng 10 năm 1940. Lúc bấy giờ Nhật đe dọa chiếm Đông
Dương. Những hồi còi báo động đầu tiên nghe kinh khủng hơn tiếng rú của tử thần”
[47, tr.37-43]. Từ những dòng hoài niệm này, qua nhân vật Luân, tác giả dẫn người
đọc về với không khí đầy hoảng loạn của Hà Nội những ngày khi Nhật khởi đánh
chiếm Đông Dương. Và trong những ngày hấp hối của chính phủ Trần Trọng Kim,
giữa cảnh sống thực tại đầy u buồn ấy, ký ức về quê hương tuổi thơ luôn hiện hữu
như một miền sáng lấp lánh: “Luân thấy lại mình còn nhỏ thẩn thơ đi trên con đường
làng, giữa trưa, rình rập bắt những con chuồn chuồn bay vật vờ ở các bụi táo nhơn
thấp. Hàng tre mọc hai bên đường giao cành lá với nhau ở trên cao. Ánh nắng lọt qua
khe lá, theo thùa mặt con đường đất. Chàng thấy mình ôm cặp sách đi học, mặc áo bà
124
ba, đầu đội mũ trắng…” [47, tr.72]. Không quá diễn giải dài dòng, điệu đà, làm dáng
câu văn, nhưng tự thân những hình ảnh của kỷ niệm gợi lên bao nhớ nhung hoài niệm
và “tự thân ký ức lưu giữ những hình ảnh đẹp của quá vãng” một miền tuổi thơ hồn
nhiên nơi mảnh đất thanh bình làng quê đất Phú Yên, gợi nét thân thương, sưởi ấm lại
tâm hồn người con xa xứ trong Luân.
Với Tôi nhìn tôi trên vách (Túy Hồng), nỗi niềm nhớ Huế, nhớ thuở cắp sách
đến trường của cô nữ sinh Đồng Khánh hằn in trong tâm thức của Khanh khi phải
đau đớn rời bỏ mảnh đất kinh thành Huế để đến miền đất phương Nam trong nỗi
ngậm ngùi lưu luyến, phần nào cũng chi phối giọng điệu trong tác phẩm. Trong tiểu
thuyết Tôi nhìn tôi trên vách có những trang văn chứa đầy nỗi xót xa đến nao lòng
trong nỗi nhớ khôn nguôi: “Cơn khóc bây giờ là sinh ly. Qua màng lệ, tôi hình dung
một đĩa bánh bèo đổ bánh bột La-khê trắng ngồn ngộn chầy một lớp mỡ béo ngậy
với vài cái tép rán phồng rắc kín tôm chấy vàng ngàu. Những chiếc bánh ướt dèm
dẹp chấm với thứ nước mắm đặc biệt dầm chanh tỏi. Tô bánh canh Nam Phổ đặc
quánh nấu với tôm rêu đỏ ối ớt màu, bánh nậm, bánh bột lọc chấm với nước mắm
Nam - ổ cay xè: bánh ram, bánh ít cặp vào nhau mà nhai. Bún chanh nước thịt bò
với giò heo hầm rục lất phất vài cọng kim châm. Tôi rên: - Thèm ăn món Huế quá!”
[46, tr.109]. Nét quê hồn hậu, những gì “rất Huế” hiện lên qua giọng văn hoài niệm
gợi lên phong vị đặc trưng như một nỗi niềm của con người nặng nợ với quê hương,
sống trong thời tao loạn nơi đất khách quê người, luôn cố gắng níu kéo, gìn giữ
những gì thân thuộc nhất của quê nhà. Và có lẽ điểm làm nên nét khác biệt lớn nhất
trong giọng văn trữ tình, hoài niệm giữa Tôi nhìn tôi trên vách và các tác phẩm khác
đó chính là gần như mỗi một lần dòng hoài niệm xuất hiện lại một lần tác giả đặt nó
trong trường liên tưởng giữa thực tại và quá khứ. Hay nói cách khác, quá khứ gần
như là sợi dây liên kết với thực tại, giúp cho nhân vật soi mình vào để nhận ra con
người của mình hôm nay với chính mình ở thời quá khứ: “Tôi chỉ muốn so sánh tôi
bây giờ với tôi khi còn con gái, khi còn mồ ma con gái… hồi còn con gái tôi có một
cuộc sống ở thế động, một cuộc sống biết vươn vai, biết ngóc đầu, biết trở mình,
biết tiến tới, một cuộc sống khinh suất ngang tàng… tôi bây giờ hết sạch sành sanh
rồi, chẳng còn gì nữa. Đứa con do tôi đẻ ra, nó là của tôi, tôi là của nó ngoài ra
125
không còn gì hết” [46, tr.132 - 133]… “chất Huế” lắng sâu trong từng con chữ làm
bật lên nét đặc trưng riêng trong dòng hoài niệm. Tuy sống trong cảnh đời thực tại
giữa mảnh đất đô hội chốn Sài thành nhưng nhân vật Khanh luôn khắc khoải nỗi
niềm nhớ Huế, nhớ kỷ niệm một thời gắn liền cùng với từng con đường, từng góc
phố, chốn học đường… Tất cả những hình ảnh ấy luôn đặt trong mối quan hệ giữa
thực tại và quá khứ bằng con đường liên tưởng với giọng hoài niệm đến nao lòng.
Trường hợp Vòng tay học trò của Nguyễn Thị Hoàng cũng thế. Gần như mỗi
một lần dòng hoài niệm hiện lên lại là một lần con người luôn hiện diện trong mối
quan hệ giữa quá khứ và hiện tại. Một Tôn Nữ Quỳnh Trâm của thời thơ trẻ hồn
nhiên, yêu đời, căng đầy nhựa sống, cứ mỗi lần được về bên mẹ “Bao giờ cũng thế.
Trâm ném valise từ ngoài ngõ, tháo giày quẳng mỗi chiếc một nơi trên sân cát ấm,
rồi cứ chân không chạy ùa vào nhà như một con điên. Mẹ bảo thế, như một con
điên. Nhưng không điên, con chỉ bé bỏng lại mỗi lúc về nhà”. Và thực tại là một
hình ảnh Trâm sống trong nỗi cô đơn, “chính cô đơn đã biến đổi bản chất hồn nhiên
của mình” [42, tr.163-164]. Trong dòng hoài niệm của chị Trúc “Hồi ấy Trâm chưa
thay đổi như bây giờ, còn dịu dàng, sâu kín, thiết tha và gần gũi” [42, tr.169]. Trong
dòng hồi tưởng ấy, quá khứ và thực tại luôn đan cài, tạo thành đường dây liên tưởng
làm nổi rõ hơn nỗi niềm tâm trạng của con người trong đời thực tại.
Khi nhà văn “tường trình” lại bản lý lịch của đời mình bằng nghệ thuật của
tiểu thuyết, thì cảm quan về thời gian thường in đậm qua từng trang văn. Có rất
nhiều tác phẩm tựa như một cuộc hành trình lội ngược dòng thời gian để tìm về quá
khứ. Trong hành trình ngược dòng ấy luôn có sự hiện diện của giọng trữ tình, hoài
niệm. Miền không - thời gian đã đi qua trong đời tác giả đều được “bảo lưu” và nó
được tái dựng lại bằng giọng hoài niệm. Ngay cả một số tiểu thuyết có tính chất tự
truyện diễn ra ở thì hiện tại thì chất giọng trữ, tình hoài niệm vẫn được sử dụng như
một đặc tính vốn có của tiểu thuyết có tính chất tự truyện. Chuyện kể năm 2000 của
nhà văn Bùi Ngọc Tấn là câu chuyện kể ở thì hiện tại, và mặc dù ở tác phẩm này,
nét nổi trội lên trên hết đó là giọng triết lý và giễu nhại, nhưng giọng trữ tình hoài
niệm vẫn không hề đánh mất đi vị thế của mình trong tác phẩm.
126
Ở Nỗi buồn chiến tranh, giọng điệu này cũng chiếm một dung lượng lớn
trong việc xây dựng hình ảnh người lính thời kỳ hậu chiến. Toàn bộ tác phẩm đều
được cấu tạo từ những mảnh ghép rời rạc, đứt nối của hồi ức, giấc mơ cùng những
cơn hoảng loạn của người cựu binh tên Kiên. Có những dòng hồi ức được xuất hiện
ngay từ phần đầu tác phẩm - hồi ức về “mùa khô năm ấy…mùa khô cực kỳ cùng
khốn của toàn cõi B3, tiểu đoàn 27 độc lập, cái tiểu đoàn bất hạnh mà anh là một
trong mười người may mắn còn được sống, đã bị bao vây rồi bị tiêu diệt mất hoàn
toàn phiên hiệu - Một trận đánh ghê rợn, độc ác, tàn bạo…” [96, tr.11]. Liên tiếp
xuất hiện trong Nỗi buồn chiến tranh là những từ ngữ diễn tả về thời gian đã qua:
thời ấy, hồi đó, những ngày ấy, cách đây không lâu… “thời ấy” thực ra chỉ mới năm
ngoái đấy thôi, “Mùa mưa, trước ngày hành quân xuống cánh Nam Tiến đánh Buôn
Ma Thuột, trung đoàn ba của Kiên hiện đã có gần cả hai tháng trời thả neo ở đây. So
với hồi đó, cảnh vật bây giờ chưa hẳn có gì thay đổi, số cây trong rừng chưa thể kịp
ít đi hay là nhiều hơn lên, và các lối mòn mà bọn anh từng hằng ngày qua lại vẫn
chưa hoàn toàn bị cỏ dại của đáy rừng nuốt chửng… Hồi đó, từ các cửa xanh, trung
đoàn thu quân về hậu cứ để chỉnh huấn…” [96, tr.14]. Bằng giọng hoài niệm, trang
văn của Bảo Ninh dẫn người đọc vào một thế giới không - thời gian liên tục đảo
chiều, giữa quá khứ - hiện tại, từ “hồi đó” đến “bây giờ” luôn ám ảnh trong Kiên là
những tháng ngày tàn khốc và hủy diệt của chiến tranh. Không phải ngẫu nhiên mà
Bảo Ninh mở đầu cuốn tiểu thuyết viết về thân phận đời mình bằng thời điểm bắt
đầu từ một năm sau cuộc chiến tranh ở vùng Cánh Bắc, nơi đã từng diễn ra cuộc
chiến khóc liệt nhất mà trong đời chiến trận của Kiên từng trải qua bằng lời của
người kể chuyện ở ngôi thứ ba đầy khách quan nhưng ngậm ngùi niềm xót xa, hoài
nhớ đan xen trong miền không gian trộn lẫn quá khứ - hiện tại - tương lai. Ở đây,
nhà văn Bảo Ninh không kể lại trực tiếp câu chuyện về chiến tranh mà chỉ tái hiện
lại qua lăng kính của Kiên trong miền nhớ.
Có thể, mỗi một tiểu thuyết có tính chất tự truyện là một câu chuyện kể về
cuộc đời khác nhau của người viết. Nhưng tất cả gần như đều giống nhau ở hành
trình ngược dòng thời gian tìm lại “một thời đã xa” trong quá khứ, và gắn liền với
hành trình ấy là chất giọng hoài niệm. Từ Những ngày thơ ấu, Sống nhờ, đến Người
127
về đầu non, Tôi nhìn tôi trên vách, Miền thơ ấu, Thời xa vắng, Nỗi buồn chiến
tranh… bên cạnh miền không gian nhuốm đầy màu sắc hồi tưởng là những kỷ
niệm, những con người, những miền đất được phục sinh qua giọng văn lắng sâu
miền hoài niệm.
4.3.2. Giọng triết lý, chiêm nghiệm
M. Kundera từng cho rằng: “Tất cả mọi tiểu thuyết của thời đại đều chăm chú
vào bí ẩn của cái tôi. Từ lúc anh bắt đầu sáng tạo một con người tưởng tượng, một
nhân vật, tức thì anh đối mặt với câu hỏi: cái tôi là gì? Bằng cách nào anh nắm bắt
được cái tôi? Đây là một trong những câu hỏi cơ bản, trên đó tiểu thuyết được hình
thành với tư cách là tiểu thuyết” [83, tr.27]. Nảy sinh từ cảm hứng hướng nội của
dòng văn học mang đậm chất tự vấn, cùng với khát vọng thành thật, luôn muốn xem
mình là đối tượng của văn chương, các nhà văn luôn cố gắng đào sâu vào chiều sâu
bản thể để tìm lại con người đời thực của chính mình. Vì vậy, cùng với giọng trữ tình,
hoài niệm, giọng triết lý, chiêm nghiệm cũng là một trong những giọng điệu được nhà
văn sử dụng trong các tác phẩm tiểu thuyết có tính chất tự truyện. Khi nhà văn đặt bút
viết những dòng tiểu thuyết có tính chất tự truyện đó cũng là lúc nhà văn bắt đầu
bước đi trên hành trình khám phá con người thật của mình trong quá khứ bằng chính
cái nhìn đầy nếm trải của người trong cuộc. Cho nên, dù sự xuất hiện của nhà văn
trực tiếp (người kể chuyện ở ngôi thứ nhất), hay gián tiếp (qua người kể chuyện ở
ngôi thứ ba) thì giọng triết lý, chiêm nghiệm cũng là một trong những phương cách
lựa chọn để nhà văn gửi gắm những suy tư, trăn trở của bản thân mình qua những lời
“tự thú” thành thật.
Trong Mực mài nước mắt, Lan Khai đã dành khá nhiều những trang văn viết
dưới hình thức bức thư của văn sĩ Khải gửi cho các bạn văn hữu để suy ngẫm về
phận đời người viết, suy ngẫm về nghề cũng như quan niệm sống và quan niệm văn
chương của mình. Với văn sĩ Khải, “cuộc đời không phải là một cái gì dùng cho
những cái máy. Cuộc đời là gồm các vật sống hiển nhiên và đầy đủ” [52, tr.84]. Còn
trong văn chương, Khải quan niệm rằng: “Văn chương quí nhất ở thành thực! Nhà
văn cảm xúc bởi sự vật thế nào nên cứ viết ra như thế; và, như thế, nhà văn đã làm
trọn cái chức vụ của mình. Đồng ý. Khốn nỗi, có sự thành thực của kẻ nô lệ cũng
như có sự thành thực của người tự do, và điều phân biệt này là rất cần” [52, tr.87].
128
Từ sau 1945 cho đến hết thế kỷ XX, đây là khoảng thời gian ghi nhận sự gia
tăng đáng kể của giọng triết lý, chiêm nghiệm trong tiểu thuyết có tính chất tự
truyện. Nhà văn Võ Hồng, một con người sinh ra và lớn lên trên dải đất miền trung
khô cằn nắng gió, hơn nữa, cuộc đời của Võ Hồng cũng từng chứng kiến bao nhiêu
đổi thay, những mất mát tang thương mà chiến tranh gây ra, nên ông thấu cảm được
những cơn dâu bể thời ly loạn: “Cuộc đời thường hay kết thúc đen tối bi thảm như
vậy. Những ngôi nhà đổi chủ, những cửa hiệu xóa đi, lớp người lớn ngã xuống và
lớp người nhỏ phân tán ra khắp nẻo. Con người nhẫn nại trong ý thức cam chịu,
cuộc sống bắt rễ mong manh như lớp vảy trên da thạch sùng” [48, tr.70]. Trong một
tác phẩm khác, khi viết về chiến tranh, Võ Hồng cũng đã nói bằng tất cả tiếng nói
của người trong cuộc, người đã từng sống, từng nếm trải nỗi tang thương, ý thức rất
rõ về hoàn cảnh thực tại của đất nước, nhưng đành nhìn thời cuộc bằng ánh mắt
chứa đầy dư vị xót xa, suy ngẫm: “Cuộc đời đều đặn, những ngày những đêm trôi
qua những nhọc nhằn âu lo đè nặng không rời. Một nước nhược tiểu phải chống lại
một đế quốc hùng mạnh thì phương lược cần áp dụng phải là tiêu thổ kháng chiến,
trường kỳ kháng chiến. Vậy gian khổ chưa biết đến chừng nào mới hết” [47, tr.250].
Có thể nói, khi đồng hành cùng với cuộc sống của con người thời hiện đại,
đầy rẫy những điều mà lâu nay “tưởng đã biết, đã rõ - giờ lại thấy mông lung, phải
định nghĩa lại từ đầu” [16, tr.93]. Sống giữa thực tại luôn đối mặt với những bất an
mà gần như nếu dựa vào tư duy duy lý để nhận thức và lý giải thực tại thì con
người không thể nào lý giải được nên con người phải chạy đua với thực tại bằng
con đường sống với tận cùng bản thể của mình, đôi khi rút sâu vào cái tôi nội cảm
để phản ứng lại với đời. Thế nên, giọng triết lý, chiêm nghiệm trong tiểu thuyết có
tính chất tự truyện cũng mang sắc thái riêng. Sắc thái ấy được hình thành từ cái tôi
của con người luôn cố gắng đi tìm, cắt nghĩa và lý giải sự hiện tồn của mình trước
thực tại đầy phi lý, khác hoàn toàn so với giọng triết lý được làm nên từ cái tôi tự
trình bày trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện chặng đường trước 1945. Từ Hoa
bươm bướm đến Tôi nhìn tôi trên vách, Vòng tay học trò… đều là những nghiệm
sinh về đời sống, về tình yêu, hạnh phúc, về con người trong cái thế giới hằng
thường như nó vốn có. Nên giọng triết lý trong các tác phẩm này thường bật lên từ
129
tiếng nói sâu thẳm tâm hồn của con người khát khao cuộc sống tự do, hạnh phúc
nhưng lại sống giữa thời bom đạn tàn phá, hủy diệt nên con người luôn đau đáu
niềm đau thân phận lạc loài, bế tắc trước cuộc sống, nhìn hiện thực cuộc đời bằng
sự bất tín, hoài nghi, e ngại. Ngay cả chốn học đường, nơi con người tu dưỡng, rèn
tài cũng trở thành chốn “tù ngục” giam hãm: “Sách vở là những khối nặng nề. Lớp
học là nhà giam. Lời giảng bài là một thứ kinh cầu cổ lỗ. Nét mặt thầy giáo đăm
chiêu vô nghĩa. Những mùa thi rộn ràng mà chán ngán. Đậu hay hỏng cũng thế,
đều buồn nản, vô vị như nhau. Không có gì thay đổi giữa những khoảng cách thời
gian, đánh dấu bằng bãi trường, khai giảng…” [42, tr.75]. Từng cấp học từ phần
nhất, phần nhì rồi đại học, những phân khoa. “Xong rồi cũng ở lại đó, như con
ngựa đua sau rồi cũng trở về chuồng” [42, tr.75]. Trong cái nhìn chiêm nghiệm về
cuộc đời, về kiếp nhân sinh cũng đầy rẫy những hoang mang, bất tín, nhân vật
Trâm trong Vòng tay học trò từng chiêm nghiệm về cuộc đời con người “như một
hành tinh bằng cát bụi lơ lửng giữa không gian, bắt đầu hư không rồi cũng chấm
dứt ở đó. Sống như một di chuyển lạnh lùng. Mỗi người chỉ có thể xây dựng hay
tàn phá chính mình, không có một bàn tay cứu trợ nào khác”. Những con người
xuất hiện trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện ra đời ở đô thị miền Nam gần
như đánh mất niềm tin vào tình yêu và hạnh phúc. Với họ, “tình yêu nào cũng bắt
đầu bằng nụ cười và chấm dứt bằng nước mắt sau đó là khoảng trống, tạm bợ,
mong manh. Rồi mất, rồi đi tìm những di tích tàn phai.” [42, tr.30]
Vẫn là những trang viết về thân phận con người, nhưng với Nỗi buồn chiến
tranh những chiêm nghiệm về thân phận con người được hiện lên một cách trần trụi
như nó vốn có. Là một con người từng đi qua những năm tháng chiến tranh, Bảo
Ninh đã hiểu được thế nào là giá trị của sự sống trong thời khắc ác liệt ấy: “Nghĩa
vụ của một con người trước Trời Đất là sống chứ không phải là hi sinh nó, là nếm
trải sự đời một cách đầy đủ ngành ngọn chứ không phải là chối bỏ…” [96, tr.72].
Nên khi nhìn lại cuộc chiến, ông không nhìn nó ở vẻ ngoài rực rỡ của chiến công
mà ông nhìn nó bằng cái nhìn xoáy sâu vào hiện thực tàn khốc của chiến tranh:
“Chiến tranh là cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại,
là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới thảm sầu vô cảm và tuyệt tự khủng
130
khiếp nhất của dòng giống con người” [96, tr.39-40]. Và để có được hòa bình,
thống nhất, con người đã phải trả cái giá quá đắt, cái giá đó phải trả bằng cả sinh
mạng: “Hừ, hòa bình! Mẹ kiếp, hòa bình chẳng qua là thứ cây mọc lên từ máu thịt
bao anh em mình để chừa lại có chút xương. Mà những người được phân công nằm
lại gác rừng le là những người đáng sống nhất” [96, tr.52]. Những triết lý này hiển
nhiên bắt nguồn từ cách cảm, cách nghĩ riêng của tác giả. Điều đáng nói là qua
những dòng văn mang đậm chất triết lý này, Bảo Ninh đã đem đến cho văn học một
quan niệm mới, phi chính thống về chiến tranh và hòa bình khiến cho người đọc đôi
khi phải giật mình sửng sốt, nghi ngại, ngẫm ngợi về những điều mà lâu nay cứ ngỡ
rằng mình đã biết, đã hiểu, đã thấy nhiều, nhưng hóa ra vẫn còn nhiều điều chưa thể
hiểu hết về “nỗi buồn của chiến tranh”. Đây chính là tính “vấn đề” trong giọng văn
triết lý của Bảo Ninh qua Nỗi buồn chiến tranh.
4.3.3. Giọng tự trào, giễu nhại
Khảo sát giọng điệu trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện Việt Nam, tuy
giọng tự trào, giễu nhại xuất hiện không nhiều nhưng đây cũng là giọng điệu không
thể thiếu để tạo nên tính đa thanh của tiểu thuyết có tính chất tự truyện.
Ngay từ trong bản chất thể loại, “tiểu thuyết sinh ra không phải từ tinh thần
lý thuyết mà từ tinh thần hài hước” [82, tr.127]. Trong Thi pháp tiểu thuyết, khi đặt
tiểu thuyết trong sự đối sánh với sử thi, M. Bakhtin nhận thấy, “ngay từ buổi ban
đầu, khi phá vỡ khoảng cách sử thi và chuyển vị hình tượng con người từ nơi xa
cách vào khu vực xúc tiếp với những sự việc còn dang dở, chưa hoàn thành của hiện
tại đưa đến việc cấu trúc lại hình tượng con người trong tiểu thuyết đã gắn liền với
tiếng cười” [82, tr.69]. Theo M. Bakhtin, tinh thần tiểu thuyết là yếu tố hài hước, và
tiếng cười như một thuộc tính vốn có của thể loại này. Hơn nữa, tiểu thuyết có tính
chất tự truyện, sản phẩm của quá trình xâm nhập, lai ghép giữa tự truyện và tiểu
thuyết, cùng với cái nhìn phản tỉnh của một cái tôi đầy ý thức, các nhà văn thường
xây dựng kiểu nhân vật tự đem mình ra làm đối tượng giễu cợt. Loại nhân vật này
mang bóng dáng tác giả. Tuy nhiên, tác giả trong các tác phẩm tiểu thuyết có tính
chất tự truyện gần như không đồng nhất với nhân vật tự trào mà đây chỉ là “một
phương diện của cái tôi tác giả - phương diện phàm tục - được trừu xuất và chiếu
phóng ra” [49].
131
Cảm hứng tự trào, giễu nhại trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện khởi
nguồn từ cái hài, nhưng cái hài ở đây là cái hài do chính bản thân nó tự gây ra.
Giọng điệu tự trào, giễu nhại trong tiểu loại này xuất phát từ kiểu con người tự ý
thức được thời cuộc, ý thức được những mặt tốt - xấu đang hiện hữu trong bản thân
mình, luôn có tinh thần phản tỉnh, đấu tranh để dần hoàn thiện nhân cách. Và thông
qua lớp vỏ của nhân vật cùng ngôi kể trong tác phẩm, nhà văn dần tự lật tẩy bản
thân mình, tự đem mình ra làm đối tượng để giễu cợt. Câu chuyện đời, chuyện nghề
nghiệp của Nam Cao được ông thuật lại trong lớp vỏ hư cấu của tiểu thuyết Sống
mòn với nụ cười chua chát thường xuyên xuất hiện qua lời của nhân vật Thứ. Cái
hài trong Sống mòn nảy sinh từ sự đau đớn của của con người trước tình trạng nhân
tính đang bị bào mòn vì miếng cơm manh áo giữa xã hội “tối ư vô nghĩa lý”: “kiếp
chúng mình tức lạ. Sao mà cái đời nó tù túng, nó chật hẹp, nó bần tiện thế! Không
bao giờ dám nhìn cao một tí. Chỉ những lo ăn, lo mặc. Hình như tất cả nguyện vọng,
tất cả mong ước, tất cả mục đích của đời chúng mình, chỉ là mỗi ngày hai bữa. Bao
nhiêu tài trí, sức lực, lo tính đều chỉ dùng vào việc ấy. Khổ sở cũng thế, nhục nhã
cũng vì thế, mòn mỏi tài năng, trí óc, giết chết những mong muốn đẹp, những hi
vọng cao xa cũng vì thế nốt. Lúc nào cũng lo chết đói, lúc nào cũng lo thế nào cho
không chết đói! Như vậy thì sống làm gì cho cực?” [69, tr.292]. Trong đoạn văn
này, bằng lối ngắt nhịp ngắn kết hợp với cách sử dụng thán từ giàu cảm xúc cùng
lối lặp từ, lặp cấu trúc câu được tác giả kết hợp khá linh hoạt. Những suy tư, trăn trở
trong đời sống nội tâm của Thứ được lột trần qua nụ cười chua chát về kiếp nhân
sinh mà hơn ai hết, Thứ là người thấu hiểu rất rõ về lẽ đời của lối “sống mòn”. Đôi
lúc, nụ cười tự trào còn vạch rõ bản chất thật của Thứ, một thằng “nhát gái lạ lùng.
Y theo họ cách hàng chục thước tây. Theo để nhìn trộm cái lưng, cái gáy, cái đầu
của người ta. Chỉ thế thôi. Nếu người ta quay lại nhìn y thì y vội nhìn đi chỗ khác,
làm vẻ mặt trang nghiêm. Luôn qua nhà một cô nào đến ba lần, y đã thấy ngượng
rồi” [69, tr.206]. Ẩn bên trong cái vẻ ngoài tỏ ra lanh lợi, tháo vát, đĩnh đạc của Thứ
là cả một bản tính của con người nhút nhát, kém ngoại giao, thường hay bị “hãi
người”: “khổ cho y là y lại biết rõ hơn ai hết, đó là một nỗi kém cỏi, một sự đốn
hèn. Và y luôn luôn cáu kỷnh với mình, mạt sát mình. “Ăn không nên đọi, nói
132
không nên lời” thì còn làm được trò trống gì ở đời này? Tại sao y lại ít tự tin đến nỗi
rụt rè lúng túng, tự hạ ngay cả với những kẻ mà y biết về học vấn cũng như về đức
hạnh, kém y trông thấy?” [69, tr.206]. Tiếng cười trong Sống mòn không phải là
tiếng cười sảng khoái, hay đốp chát mà là tiếng cười pha lẫn nước mắt chua chát,
nghèn nghẹn về kiếp nhân sinh. Đây cũng là một hình thức tự giễu của cái tôi nhà
văn trên con đường quay về lục vấn, suy nghiệm lại đời mình được nhà văn nói
bằng giọng khách quan của người kể chuyện ở ngôi thứ ba - qua nhân vật Thứ. Từ
giọng kể khách quan này, người kể chuyện có thể tự nhiên miêu tả, lý giải về các
hiện tượng, hành động, diễn biến tâm trạng nhân vật và tiếng cười cũng bật lên rất
tự nhiên mà không cần phải nhờ vào bất kỳ một thủ pháp cường điệu hay lối nói
ngược thường thấy trong cái hài mỗi khi nó xuất hiện.
Nụ cười tự trào, giễu nhại trong tác phẩm Mực mài nước mắt đôi khi là tiếng
thở dài ngao ngán, đầy cám cảnh cho kiếp sống thực tại của “một kẻ viết văn kiếm
gạo” nuôi thân mình chật vật: “Tiền! Đời bây giờ, đồng tiền đã gần là thiên tính thứ
hai của con người. Và kiếm tiền là một việc có khi cần hơn chính ngay sự sống nữa!
Hãy tiền trước đã. Kể chi cái cách làm ra tiền”. Khải cho thằng người thật giống anh
thợ tạc tượng kia, “vì tiếc một hòn đá nên mới gia công đẽo nó thành ông Thiên Lôi,
rồi lại vì hoảng sợ trước cái vẻ hung tợn của Thiên Lôi mà anh ta chắp tay lễ thì
thục. Vàng và bạc chẳng qua là như đá với đất. Khốn nỗi, thằng người đã hiến cho
nó cái thế lực vạn năng, nên thằng người, rốt cuộc, phải thờ phụng và làm tôi mọi
cho nó” [52, tr.3].
Sau 1975, khi khuynh hướng sử thi và thời đại văn chương viết để cổ vũ cho
tinh thần chiến đấu nhạt dần trong đời sống văn học, tiểu thuyết bắt đầu “áp sát” và
tiếp xúc “suồng sã đến thô bạo hiện thực”. Những mặt trái của cuộc sống được lột
trần, chất bi một thời từng bị lên án và né tránh cũng được đề cập nhiều trong tiểu
thuyết, chất hài cũng được gia tăng đã mang đến cho tiểu thuyết Việt Nam một luồng
sinh khí mới. Nhiều cây bút tiểu thuyết sử dụng thành công nụ cười trào lộng trong
tác phẩm ở những cấp độ khác nhau: có nụ cười nhẹ nhàng nhưng đầy sâu cay trong
tiểu thuyết của Nguyễn Khải và Ma Văn Kháng; nụ cười trào lộng, đả kích trong tiểu
thuyết của Lê Lựu; nụ cười tự trào trong tiểu thuyết của Chu Lai, Mạc Can…
133
Tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở chặng đường này cũng đã có một số tác
phẩm sử dụng thành công chất giọng tự trào, giễu nhại để khắc họa bức chân dung
tinh thần của tác giả. Trong Chuyện kể năm 2000, tuy nụ cười giễu nhại chỉ xuất
hiện ở một vài chi tiết khá rời rạc, nhưng sự hiện diện của nó cũng đã thể hiện thấm
thía nỗi đau thân phận của tác giả: “Vào tù hắn đã học được hai điều: ăn cắp và nói
dối. Không ăn cắp vẫn sống được đấy. Nhưng khổ. Và buồn nữa. Nếu không có cái
lo lắng hồi hộp của việc ăn cắp và bồng của ăn cắp được về trại, thì buồn lắm, buồn
không chịu nổi. Sung sướng biết bao khi mình vẫn lấy cắp và mang được về trại tất
cả, vượt qua vòng kiểm soát nghiêm ngặt của các ông quản giáo. Ăn cắp với hắn
còn có nghĩa phản kháng, tuy sự phản kháng đó hơi nguy hiểm. Nó dẫn tới kỷ luật,
cùm xà lim, ăn cháo loãng.” [123, tr.9]. Chất hài, yếu tố gây cười ở đây được tạo
nên từ những điều cứ ngỡ rằng hoàn toàn không thể diễn ra trong một môi trường
nhà tù - nơi giam giữ và cải hóa con người lầm lỗi, giúp cho họ hoàn lương để trở
thành người tốt. Nhưng đó lại là nơi mà nhân vật “hắn” học được hai điều: “ăn cắp”
và “nói dối”. Hai hành động ấy như một phương thức để “hắn” giải buồn, “phản
kháng”. Tiếng cười giễu nhại ở đây được bật lên từ lớp từ vựng mang tính tương
phản được tác giả khéo léo sắp xếp trong cùng một đoạn văn. Ở một trường hợp
khác, nụ cười trong trang viết của Bùi Ngọc Tấn có phần chua chát, góc cạnh hơn
khi nói về thần phận tù đày của “hắn”: “Lâu không gặp vợ, hắn yên tâm tù, bởi lẽ
hắn nghĩ vợ hắn không vất vả vì hắn. Không có hắn, nàng đã khổ cực lắm rồi. Hắn
quyết hoàn toàn đơn độc thích nghi với đời sống trong trại. Không mơ ước ngày về.
Chịu được đói… ăn được mọi thứ… Đừng hướng về những quả tắc của vợ mà
hướng về trại. Như rất nhiều người tù lâu đã làm vậy.” [123, tr.13]. Thử hỏi có mấy
ai trong đời này “yên tâm tù”? Tiếng cười trong tiết đoạn này khởi sinh từ sự chiêm
nghiệm, nếm trải của một con người ý thức được thân phận đời mình nhưng đành
bất lực trước thực tại ngổn ngang những điều phi lý.
Nụ cười tự trào, giễu nhại trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện thường xuất
phát từ nhu cầu tự nhận thức lại bản thân mình. Và khi tác giả hướng điểm nhìn vào
chính bản thân, chủ động đẩy cái “tôi” nghệ sĩ hóa thân vào chủ thể kể, lúc đó, trong
tác phẩm cũng hiện lên hình ảnh người kể chuyện tự giễu mình rất cá biệt. Hay nói
134
cách khác, tự giễu mình bắt nguồn từ nhu cầu tự nhận thức, nhà văn nhìn lại đời
mình, nhận ra những mặt hạn chế, sai lầm… của bản thân rồi tự cười cợt mình về
những điểm yếu kém ấy. Đó là cái nhìn thể hiện chiều sâu suy tư, mang tính chất của
một con người nghệ sĩ có nhân cách. Đưa mình ra làm đối tượng chế giễu, chứng tỏ
nhà văn là một người rất có bản lĩnh. Tự giễu mình trong văn chương, xét cho cùng là
hành động tìm lại chính mình, và đây không phải là hành động mới lạ. Trong văn học
Việt Nam, giọng tự trào cũng đã từng hiện diện trong thơ văn của Nguyễn Công Trứ,
Trần Tế Xương, Nguyễn Khuyến, Tản Đà. Tuy nhiên, theo như Đỗ Hải Ninh thì
“trong văn học trung đại, chất giọng tự trào hiện lên chủ yếu ở hai phương diện: thể
hiện cái tôi ngông ngạo, khẳng định nhân cách của mình trước thói đời phàm tục và
“giả ngây giả ngô” nhưng kỳ thực hết sức sắc sảo. Xét về ý thức sáng tạo, nó là hình
thức quẫy đạp để vượt quy phạm nghệ thuật” [98, tr.167].
Trong môi trường ngữ cảnh mới, khi sự ảnh hưởng của văn học hiện đại và
hậu hiện đại đang tác động trực tiếp đến sự vận động và phát triển của văn học Việt
Nam, nhiều tác phẩm tiểu thuyết có tính chất tự truyện sử dụng thành công yếu tố tự
trào, giễu nhại như một phương thức để thể hiện cái nhìn phi thành kính, suồng sã
cũng như quan niệm nhân sinh đầy tích cực. Tự giễu mình cũng là một nhu cầu tự
nhiên của con người, là sự khám phá mới mẻ về con người. Con người luôn khao
khát nhận thức thế giới, nhận thức chính mình. Khi tự giễu mình là lúc con người
thể hiện những tình cảm, suy nghĩ một cách trực tiếp, chân thành nhất nhưng cũng
đầy táo bạo. Vì, lúc đó con người đối diện với cái tôi cá nhân của chính mình. Tự
giễu mình trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện đánh dấu sự trỗi dậy mạnh mẽ của
ý thức nghệ sĩ. Quá trình tự giễu của các cây bút viết tiểu thuyết có tính chất tự
truyện không quyết liệt, căng thẳng nhưng luôn đi thẳng vào những hạn chế của bản
thân với thái độ phê và tự phê khách quan, nghiêm khắc. Sau những lần tự giễu là
cả một sự bừng tỉnh, thức ngộ trong nhận thức của nhà văn. Nhà văn Lê Lựu khi
nhìn lại quá khứ của một “thời xa vắng” cũng đã sử dụng tiếng cười tự trào như một
phương tiện để giễu nhại lại cả quá khứ một thời được xem là lý tưởng cho mọi
chuẩn mực của con người khi đứng chân trong cộng đồng tập thể. Nét độc đáo trong
giọng văn giễu nhại của Lê Lựu trong Thời xa vắng là nhà văn không cần dùng đến
135
bất kỳ yếu tố cường điệu, phóng đại, hay “lạ hóa” mà chỉ kể những chuyện thật như
đùa, lúc giễu cười, khi xót xa, ưu tư nên trong cái hài lại trộn lẫn chất bi. Hình ảnh
Giang Minh Sài từng là kiểu mẫu cho lối sống không dám là chính mình của một
thời đã được tác giả xây dựng khá thành công trong đoạn văn sau: “không dám là
không dám mất một cái gì, chỉ bằng sự im lặng và tránh né, sự tránh né gần như
trốn chạy vừa chiều ý mọi người, vừa toại nguyện cho mình, rốt cục chẳng những
không tránh né nổi, anh lại tự giác làm cái công việc lúc ban đầu khi còn là đứa trẻ
con cố sức giãy giụa. Lớn lên càng đi xa, chuyện vợ con của anh càng bế tắc. Bé hy
vọng lúc lớn sẽ vượt ra khỏi roi vọt của bố mẹ và các anh. Đi bộ đội tưởng được
thăm thẳm xa vời, cô ta và gia đình không thể tìm đến được. Bây giờ lại hy vọng
vào bom đạn, chết chóc của cuộc chiến đấu ác liệt sẽ là hàng rào ngăn cách giữa anh
và vợ, giữa quá khứ và mai sau” [75, tr.155].
Trên đây là một số giọng điệu tiêu biểu của tiểu thuyết có tính chất tự truyện
Việt Nam thế kỷ XX mà chúng tôi đã khảo sát được trong một giới hạn nhất định.
Có thể những khảo sát này chưa thật sự đầy đủ với tính đa giọng điệu vốn có của
tiểu thuyết (trong đó có cả tiểu thuyết có tính chất tự truyện). Tuy nhiên, khi tiến
hành phân chia các giọng điệu khác nhau trong từng tác phẩm của mỗi nhà văn qua
các chặng đường khác nhau, chúng tôi nhận thấy, không phải bao giờ trong cùng
một tác phẩm các giọng điệu đều đứng tách bạch nhau, ngược lại, tất cả đều có sự
dung hòa, trộn lẫn, bổ sung cho nhau làm cho âm sắc của tiểu thuyết thêm đa màu,
đa diện. Trong hoài niệm, trữ tình có nụ cười xót xa, giễu nhại, trong chiêm nghiệm,
triết lý lại có chút cật vấn, suy tư…
136
TIỂU KẾT
Nhìn từ phương thức thể hiện, tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn
học Việt Nam cũng đã định hình được cho mình những nét đặc trưng riêng trên các
phương diện từ người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật đến ngôn ngữ, giọng điệu.
Xét trên một diện rộng của hình thức trần thuật, tiểu thuyết có tính chất tự truyện
cũng đã sử dụng người kể chuyện ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba làm phương thức
kể chuyện trung tâm. Tuy nhiên, dù kể chuyện ở ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba thì
đây cũng chỉ là một thủ pháp nghệ thuật, một hình thức phân thân của tác giả trong
quá trình tiểu thuyết hóa câu chuyện về cuộc đời mình. Nhưng với việc lựa chọn
ngôi kể và sự luân chuyển điểm nhìn cũng đã thể hiện được ý thức cách tân trong
tiểu thuyết có tính chất tự truyện qua mỗi chặng đường khác nhau. Trên bình diện
ngôn ngữ, sự kết hợp đa dạng các ngôn ngữ trong lời kể giúp cho câu chuyện kể
không nhàm chán, tẻ nhạt, ngược lại đầy sinh động, lôi cuốn người đọc. Hơn nữa,
sự đa dạng các lớp ngôn ngữ trong lời kể cũng chính là một trong những yếu tố cho
thấy nỗ lực cách tân trong lối viết của tiểu thuyết có tính chất tự truyện. Trên bình
diện giọng điệu, mặc dù là một tiểu loại của tiểu thuyết nhưng tiểu thuyết có tính
chất tự truyện lại mang những chất giọng đặc trưng của một tiểu loại dung hợp cả tự
truyện và tiểu thuyết. Chính yếu tố này đã làm nên những phẩm tính riêng ngay
trong từng giọng điệu của tiểu thuyết có tính chất tự truyện.
137
KẾT LUẬN
Hình thành và phát triển trong hoàn cảnh lịch sử Việt Nam thế kỷ XX đầy
biến động, tiểu thuyết có tính chất tự truyện thực sự đã mang đến một luồng gió mới
cho văn học Việt Nam. Từ bước đầu xuất hiện với cái tôi tự thuật “bỡ ngỡ” bên
cạnh những qui phạm của thời tiền hiện đại đã tạo đà để cho tiểu thuyết có tính chất
tự truyện được dịp “cơi nới” vùng không gian nghệ thuật trong đời sống thể loại
tiểu thuyết. Sự kết hợp giữa yếu tố sự thật đời tư và hư cấu trong thế giới nghệ thuật
của tiểu thuyết đã mở ra cho thể loại tiểu thuyết những hình thức biểu đạt mới, vừa
lạ vừa quen, vừa gần gũi, vừa xa xôi gợi sự tò mò, thích thú cho người đọc khi đến
với tác phẩm.
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, cho đến nay, mặc dù
tiểu thuyết có tính chất tự truyện đã đi được một quãng đường khá dài (hơn một thế
kỷ), con số những tiểu thuyết có tính chất tự truyện ngày càng thêm nhiều nhưng
thuật ngữ tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở Việt Nam vẫn chưa thật sự được giới
nghiên cứu, phê bình văn học thống nhất về cách định danh. Tuy nhiên, nhìn tổng
thể, tiểu thuyết có tính chất tự truyện được giới nghiên cứu, phê bình văn học soi
chiếu ở nhiều góc độ khác nhau: đặc trưng tiểu loại, quá trình hình thành và phát
triển đến nguyên nhân ra đời tiểu loại… Song, hầu như đa phần chỉ dừng lại ở
những kiến giải, những nhận định khái quát, chưa có một công trình cụ thể nào
nghiên cứu chuyên sâu, với một diện rộng về tiểu thuyết có tính chất tự truyện (nếu
có thì cũng chỉ khảo sát “khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết Việt Nam đương
đại”). Vì vậy, còn rất nhiều vấn đề còn đang bỏ ngỏ. Điều này khiến cho những
nhận xét, đánh giá về tiểu thuyết có tính chất tự truyện chưa thật sự đầy đủ, khách
quan, đôi khi hơi phiến diện.
2. Tiểu thuyết có tính chất tự truyện liệu chăng có phải là một tiểu loại của
thể loại tiểu thuyết hay không? Hay đó chỉ là một lối viết tự truyện “bất thành”,
vụt hiện theo kiểu “tự yêu mình” trong quá trình sáng tạo của tác giả? Có thể nói,
tiểu thuyết có tính chất tự truyện là một tiểu loại của tiểu thuyết, một loại tự sự mà
tác giả đã sử dụng chất liệu hiện thực đời tư của bản thân mình để hư cấu thành
138
thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết. Là một tiểu loại nghiêng về cái nhìn cuộc sống
từ góc độ đời tư, cho nên, đường biên của tiểu thuyết có tính chất tự truyện khá sát
với một số thể loại tương cận như: tự truyện, hồi ký, nhật ký… Vậy, để phân định
và nhận diện ra đâu là một tiểu thuyết có tính chất tự truyện cần phải dựa trên ba
tiêu chí: mối quan hệ giữa sự thật và hư cấu; ngôi kể; mối quan hệ giữa tác giả -
nhân vật chính - người kể chuyện trong tác phẩm. So với các thể loại khác, tiểu
thuyết có tính chất tự truyện ở Việt Nam có tuổi đời còn khá trẻ. Sự ra đời của tiểu
loại này gắn liền với quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Nó chính là sản
phẩm của sự cộng sinh giữa nội lực truyền thống văn hóa dân tộc và sự tiếp biến
một cách có chọn lọc văn hóa phương Tây. Đặc biệt, sự ra đời của tiểu thuyết có
tính chất tự truyện còn là kết quả của quá trình vận động, phát triển trong trạng
thái dung hợp giữa tiểu thuyết và tự truyện. Chính điều này giúp cho tiểu thuyết có
tính chất tự truyện dung chứa một số đặc điểm của hai thể loại gốc là tiểu thuyế t
và tự truyện. Song, với tư cách là một tiểu loại, nó cũng có những đặc điểm riêng,
rất khó trộn lẫn trong đời sống thể loại văn học.
3. Khi tiến hành khảo sát và nghiên cứu tiểu thuyết có tính chất tự truyện
Việt Nam trong khoảng thời gian một thế kỷ, chúng tôi đã cố gắng xác lập những
nét đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết có tính chất tự truyện dựa trên cơ sở lý luận,
những tiền đề hình thành cũng như sự vận động của tiểu thuyết có tính chất tự
truyện trong vòng một thế kỷ. So với các tiểu loại khác, mặc dù thành tựu của tiểu
loại này chưa nhiều, song, những nét cách tân của nhà văn được thể hiện qua từng
tác phẩm là điều đáng ghi nhận. Ý thức cách tân, khát vọng đổi mới nghệ thuật vốn
là lẽ thường trong văn học nhưng khi đặt vấn đề trong đời sống sáng tác của các nhà
văn thì đó lại là điều rất đáng trân trọng. Nó thể hiện khát vọng muốn giải phóng
bản thân khỏi những giá trị đã tồn tại để vươn lên làm chủ nghệ thuật. Điều đó đã
khẳng định rõ vai trò cũng như vị trí của con người đời tư trong đời sống văn học.
Hơn thế nữa, sự phát triển của tiểu thuyết có tính chất tự truyện hơn một thế kỷ qua
cũng là một minh chứng cho sự thay đổi đáng kể trong tư duy nghệ thuật tiểu
thuyết. Tuy nhiên, qua mỗi chặng đường khác nhau, tùy thuộc vào dụng ý sáng tạo
mà mỗi nhà văn lại chọn những phương thức khác nhau trong việc “viết lại câu
139
chuyện” đời mình. Ở chặng đường nửa đầu thế kỷ XX, cùng với sự thay đổi hệ hình
tư duy theo hướng hiện đại, tiểu thuyết có tính chất tự truyện bước đầu cũng đã xác
lập gương mặt tiểu loại của mình qua những câu chuyện đời tự kể dưới lớp vỏ tiểu
thuyết. Phần lớn các tác phẩm ra đời ở chặng đường này thường mang tính chất tái
hiện lại những gì từng diễn ra trong đời tác giả, theo kiểu: một người hoài niệm, nhớ
và kể lại đời mình theo trình tự biên niên, chuyện trước kể trước, chuyện sau kể sau.
Tất cả những gì thuộc về con người của mình trong quá khứ đều được tác giả thấu
hiểu một cách rành mạch, cụ thể. Điều mà tác giả cần làm là chỉ việc xâu chuỗi, nối
kết lại để tạo nên những đường nét mạch lạc cho câu chuyện. Và hệ quả tất yếu là
hầu như trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở giai đoạn đầu chỉ thuần túy kể về
quá khứ mà không có sự kết nối với hiện tại. Mặc dù còn có những giới hạn nhất
định, nhưng các tác phẩm ra đời ở giai đoạn đầu cũng đã có những thể nghiệm đầu
tiên trong việc lý giải tính cách con người bằng hoàn cảnh chứ không phải là sản
phẩm của tự nhiên. Đến chặng đường 1945 - 1975, cùng với sự ảnh hưởng của
những luồng tư tưởng khác nhau trên thế giới: cả phương Đông và phương Tây, đã
giúp cho ý thức cá nhân được dịp trỗi dậy mạnh mẽ. Mỗi nhà văn luôn cố gắng tìm
tòi, khơi mở những hướng tiếp cận khác nhau để quay trở về khám phá chính con
người mình dưới cái nhìn hồi cố, chiêm nghiệm. Sau 1975, đặc biệt là sau 1986,
trên tinh thần “nhìn thẳng” và “nói rõ sự thật”, các nhà văn đã đi vào khai thác hiện
thực cuộc đời dưới góc nhìn phản tư, nhận thức lại. Những sự kiện trong quá khứ,
hiện tại được sắp xếp theo dòng mạch của sự tự nhận thức lại chính mình của tác
giả. Vì vậy, người đọc sẽ rất khó tìm thấy mẫu nhân vật tự trình bày lai lịch cuộc
đời mình theo trình tự biên niên. Giai đoạn này nổi lên rất rõ mẫu hình nhân vật
phản tư, “tự phân tích”, chất vấn để tìm lại con người rất thật của mình bằng cái
nhìn đầy soát xét để trả lời cho câu hỏi “Tôi là ai?”:
4. Nhìn từ phương thức thể hiện của tiểu thuyết có tính chất tự truyện, chúng
tôi nhận thấy, sự cách tân thể hiện rõ qua cách sử dụng ngôi kể, điểm nhìn trần thuật
cũng như ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết. Câu chuyện đời tư của mỗi nhà
văn khi đi vào tác phẩm tiểu thuyết đã được “làm mới” nhờ vào kỹ thuật hư cấu.
Các nhà văn đã biết khai thác triệt để tính chủ quan hóa trong việc sử dụng ngôi kể
140
và điểm nhìn trần thuật cũng như trong ngôn ngữ và giọng điệu. Ngôi kể và điểm
nhìn trần thuật trong tiểu thuyết có tính chất tự truyện được các tác giả sử dụng rất
linh hoạt và có sự chuyển đổi trong việc thực hiện những điểm nhìn khác nhau. Bên
cạnh việc sử dụng ngôi kể thứ nhất với điểm nhìn hướng nội quen thuộc của tiểu
loại cũng đã có không ít những tác phẩm được nhà văn sử dụng ngôi kể thứ ba với
điểm nhìn bên trong kết hợp với điểm nhìn đa tuyến, trao vai trần thuật cho nhiều
nhân vật khác nhau nhằm làm tăng tính khách quan cho câu chuyện kể. Sự thành
công của tiểu thuyết có tính chất tự truyện còn được thể hiện qua ngôn ngữ người
kể chuyện. Tiểu loại tiểu thuyết này đã khai thác những mặt tích cực của ngôn ngữ
thông qua việc kết hợp giữa lớp ngôn ngữ kể - tả - bình luận. Đặc biệt là ngôn ngữ
gián tiếp tự do được sử dụng với tầng suất khá cao trong mỗi câu chuyện kể. Đây
cũng là một trong những yếu tố cơ bản nhất trong việc đổi mới nghệ thuật của tiểu
thuyết. Sự đổi mới trên phương diện nghệ thuật còn được thể hiện qua giọng điệu
trần thuật. Giọng điệu trần thuật chủ âm trong tiểu loại này thường được tác giả sử
dụng đó là giọng trữ tình hoài niệm, giọng triết lý, chiêm nghiệm và giọng tự trào,
giễu nhại. Chính những yếu tố này không chỉ làm nên giá trị cho tác phẩm mà nó
còn là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc phiêu lưu trong thế giới đời
tư với muôn vàn nẻo khuất lấp để cùng đồng sáng tạo với tác giả.
Trong bảng xếp danh sách thể loại của văn học Việt Nam, gương mặt tiểu
thuyết có tính chất tự truyện không còn là một “nhân vật” vô nhân xưng, hay chỉ là
một nhánh phụ trong đời sống thể loại tiểu thuyết. Sự hiện diện của tiểu thuyết có
tính chất tự truyện như một bằng chứng minh định nhịp chuyển của thể loại tiểu
thuyết trên con đường chiếm lĩnh tầm đón đợi của công chúng.
141
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Trần Xuân An (2016), Văn học miền Nam 54 - 75 (199): Võ Hồng, nguồn:
http://vanviet.info/van-hoc-mien-nam/van-hoc-mien-nam-54-75-199-v-hong-2/ 20,
truy cập ngày 16/8/2017.
2. Duyên Anh (1971), Trường cũ, Nxb Tuổi Ngọc, Sài Gòn.
3. Huỳnh Phan Anh, (2016) Duyên anh, anh là ai?,
nguồn: duyenanhvumonglong.blogspot.com, truy cập ngày 19/12/2017.
4. Thái Phan Vàng Anh (2010), Người kể chuyện trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
5. Vũ Tuấn Anh- Bích Thu (2013), Từ điển văn xuôi Việt Nam cuối thế kỷ XIX
đến 1945, Nxb Văn học, Hà Nội.
6. Đào Tuấn Ảnh (2012), Quan niệm về thực tại và con người trong văn chương
hậu hiện đại, nguồn:phebinhvanhoc.com.vn/quan-niem-thuc-tai-va-con-nguoi-
trong-van-hoc-hau-hien-dai/, truy cập ngày 22/8/2017.
7. Lại Nguyên Ân (2006), Nhân đọc lại Ba người khác của Tô Hoài, nguồn:
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8848&rb=0102, truy cập
ngày 19/4/2016.
8. Phạm Đình Ân (2002), Đổi mới tư duy tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
9. Lê Huy Bắc (2013), Văn học hậu hiện đại, lý thuyết và tiếp nhận, Nxb Đại học
Sư phạm, Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam 1975-1995 những đổi mới cơ
bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
11. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam 1975 -1995, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
12. Nguyễn Thị Bình (2008), Một số khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta từ thời
điểm đổi mới đến nay, (đề tài cấp Bộ), Đại học Sư phạm Hà Nội.
13. Thái Thị Mỹ Bình (2011), Thời xa vắng của Lê Lựu và tiến trình đổi mới của
văn xuôi Việt Nam sau 1975, nguồn: https://hongnhunghoa.wordpress.com,
truy cập ngày 9/3/2016.
142
14. Nguyễn Bính Hồng Cầu (sưu tầm, biên soạn - 2017), Nguyễn Bính toàn tập
(tập 2), Nxb Văn học, Hà Nội.
15. Huyền Chiêu (2014), Nỗi buồn khi đọc lại “Ba người khác” của Tô Hoài,
nguồn: http://tuongtri.com/, truy cập ngày 15/9/2015.
16. Nguyễn Thị Chính (2016), Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại, Luận án
tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học Huế.
17. Nguyễn Văn Dân (2012), Con người và văn hóa Việt Nam thời kỳ đổi mới,
Nxb Khoa học, Hà Nội.
18. Lê Tiến Dũng (2010), Bước phát triển văn xuôi sau 1975,
nguồn: https://hongnhunghoa.word. Com, truy cập ngày 2/11/2016.
19. Khương Duy (2010), Phùng Quán - “Tuổi thơ dữ dội” và những ước mơ cao
đẹp, nguồn: http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/201, truy cập ngày 2/11/2016.
20. Trần Thiện Đạo (2015), Văn học phương Tây lý luận, phê bình và dịch thuật,
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
21. Phan Cự Đệ (1985), Lời giới thiệu Tuyển tập Nguyên Hồng, Nxb Văn học, Hà Nội.
22. Phan Cự Đệ (chủ biên), (1999), Văn học Việt Nam (1900-1945), Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
23. Phan Cự Đệ (2003), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
24. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
25. Hà Minh Đức (Chủ biên) (1997), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
26. Hà Minh Đức (2002), Một thời đại trong thi ca, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
27. Hà Minh Đức (chủ biên) (2002), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28. Hà Minh Đức (2007), Tự lực văn đoàn Trào lưu- Tác gỉa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
29. Hoàng Cẩm Giang, Lý Hoài Thu (2013), Một cách nhìn về “tiểu thuyết hậu
hiện đại ở Việt Nam”, nguồn: phebinhvanhoc.com, truy cập ngày 2/11/2016.
30. G.N. Pôxpêlôp (1997), Dẫn luận nghiên cứu văn học (Trần Đình Sử chủ biên),
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
31. Lê Minh Hà (2000), Chuyện kể năm 2000- Bản cáo trạng chưa được công bố,
nguồn:http://webook.vn/2A160D/chuyen-ke-nam-2000--ban-cao-trang-, truy
143
cập ngày 18/5/2016.
32. Nguyễn Thị Hải Hà (2009), Đọc Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn,
nguồn:ress.com/bui-ng%E1%BB%8Dc-t%E1%BA%A5n-chuy%E1%BB
%87n-k%E1%BB%83-nam-2000/https://buingoct, truy cập ngày 23/9/2016.
33. Nguyễn Thị Hải Hà (2015), Nguyễn Thị Hoàng với “Vòng tay học trò”,,
nguồn: https://kontumquetoi.com/2015/07/18/phe-binh-nguyen-thi-hoang-voi-
vong-tay-hoc-tro-nguyen-thi-hai-ha/, truy cập ngày 23/9/2016.
34. Lê Bá Hán,Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2011), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
35. Đặng Thị Hạnh (2000), Một vài gương mặt văn xuôi Pháp thế kỷ XX, Nxb Đà Nẵng.
36. Nguyễn Văn Hạnh (1998), Lí luận văn học vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
37. Lê Thị Thúy Hằng (2010), Khuynh hướng tự thuật trong tiểu thuyết Việt Nam
đầu thế kỷ XXI, Luận văn thạc sĩ, trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế.
38. Vũ Thư Hiên (1994), Miền thơ ấu, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
39. Đỗ Đức Hiểu (2001), “Hai không gian trong Sống mòn” (trong Nam Cao về
tác giả và tác phẩm), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
40. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
41. Tô Hoài (2005), Ba người khác, Nxb Đà Nẵng.
42. Nguyễn Thị Hoàng (1969), Vòng tay học trò, Nxb Mây Hồng, Sài Gòn.
43. Nguyên Hồng (1940), Những ngày thơ ấu, Nxb Đời nay, Hà Nội.
44. Nguyễn Thị Hồng (2017), Văn học miền nam 54 - 75: Nguyễn Thị Hoàng,
nguồn:http://vanviet.info/van-hoc-mien-nam/van-hoc-mien-nam-54-75-278,
truy cập ngày 19/12/2017.
45. Trần Thị Lai Hồng (2008), Tản mạn về nhà văn Mai Thảo, nguồn:
https://www.google.com.vn/search?q=Tản+mạn+về+nhà+văn+mai+thảo&oq,
truy cập ngày 5/6/2016.
46. Túy Hồng (1972), Tôi nhìn tôi trên vách, Nxb Đồng Nai, Sài Gòn.
47. Võ Hồng (1966), Hoa bươm bướm, Nxb Lá Bối, Sài Gòn.
48. Võ Hồng (2002), Người về đầu non, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
49. Lê Thị Huế (2017), Tôi đã thực sự khóc khi lần đầu nghe kể chuyện này,
nguồn: www.sachhay.org/sach/ChiTietSach/1217/, truy cập ngày 21/12/2017.
144
50. Nguyễn Quang Hưng (2016), Đặc điểm hồi ký văn học Việt Nam từ 1975 đến
2010, Luận án tiến sĩ, Đại học Khoa học, Đại học Huế.
51. Nguyễn Ngu Í, Nhận định về tiểu thuyết hiện đại, Bách khoa số 136, ngày
1/9/1962, tr.108 – 111.
52. Lan Khai (1998), Mực mài nước mắt, Lầm than, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
53. Nguyễn Khải (2012), Thượng đế thì cười, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
54. Duy Khán (2014), Tuổi thơ im lặng, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
55. Cao Huy Khanh (2015), Sơ thảo 15 năm văn xuôi Miền Nam, nguồn:
http://huyvespa.blogspot.com/2015/06/so-thao-15-nam-van-xuoi-mien-nam,
truy cập ngày 17/11/2017.
56. Nguyễn Vy Khanh (2005), Võ Hồng, nhà giáo,
nguồn: http//www.vanchuongviet, truy cập ngày 19/3/2016.
57. Ma Văn Kháng (2002), “Tiểu thuyết, một giá trị không thể thay thế”, In trong
Đổi mới tư duy tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
58. Hoàng Đức Khoa (1994), Truyện và tự truyện của Phan Bội Châu, Luận án
phó tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I.
59. Thụy Khuê (2000), Sóng từ trường II,
nguồn: http://thuykhue.free.fr/stt2/BNTAN.html, truy cập ngày 9/4/2016.
60. Thụy Khuê (2000), Trò chuyện với nhà văn Bùi Ngọc Tấn,
nguồn: https://buingoctan.wordpress.com/2010/09/10/, truy cập ngày 9/4/2016.
61. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Hòa (2004), Phong cách học Tiếng Việt, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
62. Thạch Lam (1940), Dẫn theo lời tựa trong Những ngày thơ ấu,
nguồn http://vanhocquenha.vn/vi-vn/113/50/, truy cập ngày 6/7/2017.
63. Cao Kim Lan (2014), Người kể chuyện tự ý thức trong “Nỗi buồn chiến
tranh”, nguồn: tapchisonghuong.com.vn/, truy cập ngày 14/1/2017.
64. Phạm Ngọc Lan (2006), Tự truyện trong văn học Việt Nam đương đại, Luận
văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.
65. Mã Giang Lân (2000), Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 1900-1945,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
66. Phong Lê (2007), “Từ sự nghiệp đổi mới nhìn lại lịch sử các mối giao lưu với văn
học phương tây hiện đại, nguồn: ttp://vienvanhoc.vass.gov.vn/noidung/
145
anpham/Lists/SoTapChi/View_Detail.aspx?ItemID=98”, truy cập ngày 8/9/2016.
67. Phong Lê (1997), Văn học trên hành trình của thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
68. Phong Lê (2000), Nam Cao những tác phẩm tiêu biểu trước 1945, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
69. Phong Lê (2001), Đọc lại và nhìn lại “Sống mòn” (trong Nam cao về tác giả
và tác phẩm), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
70. Phong Lê (2001), Văn học Việt Nam hiện đại - Những chân dung tiêu biểu,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
71. Phong Lê (2009), Hiện đại hóa và đổi mới văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb
Quốc gia, Hà Nội.
72. Chu Mộng Long (2014), Hai lần đọc “Ba người khác” của Tô Hoài, nguồn:
https://ngominhblog.wordpress.com/2012/08/26/, truy cập ngày 16/11/2015.
73. Nguyễn Văn Long (2005), Đổi mới của văn xuôi từ sau 1975,
nguồn: http://luanvan365.com/luan-van, truy cập ngày 3/6/2016.
74. Lưu Trọng Lư (1999), Chiếc cáng xanh, Khói lam chiều, Nxb Văn nghệ, Tp.
Hồ Chí Minh.
75. Lê Lựu (2011), Thời xa vắng, Nxb Thời nay, Hà Nội.
76. Phương Lựu (2009), Lí luận văn học (tập 3), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
77. Phương Lựu (chủ biên) (2012), Lí luận văn học, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
78. Phương Lựu (2012), Lý thuyết văn học Hậu hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm
Hà Nội.
79. Thái Thị Hoa Lý (2005), Thể loại tự truyện sau 1975 viết về đề tài tuổi thơ,
Luận văn thạc sĩ, trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế.
80. Vĩnh Mẫn (2012), Những nét đặc sắc của nghệ thuật tiểu thuyết Phùng Quán,
nguồn: https://ngominhblog.wordpress.com/2012/08/26/, truy cập ngày
8/5/2016.
81. Nguyễn Hoa Minh (2007), Tô Hoài trở lại với “Ba người khác”, nguồn:
http://vietbao.vn/Van-hoa/To-Hoai-tro-lai-voi-Ba-nguoi-khac/75013821/181/,
truy cập ngày 22/4/2016.
82. Mikhail Mikhailovich Bakhtin (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm
Vĩnh Cư dịch), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
146
83. Milan Kundera (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Đà Nẵng.
84. Trần Bình Nam (2009), Ðọc “Chuyện kể năm 2000″ của Bùi Ngọc Tấn,
nguồn:https://vietbao.com/a231262/doc-chuyen-ke-nam-2000-cua-bui-ngoc-tan,
truy cập ngày 5/3/2016.
85. Nguyễn Thị Việt Nga (2012), Vấn đề thân phận con người trong tiểu thuyết đô
thị Miền Nam 1954 - 1975, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
86. Dạ Ngân (2010), Gia đình bé mọn, Nxb Thanh niên, Tp. Hồ Chí Minh.
87. Lã Nguyên (2008), Văn học Việt Nam trong bước chuyển mình, Văn nghệ, Hà Nội,
số 45 (5-11-1988), nguồn: http://www.viet-studies.info/NhaVanDoiMoi/, truy cập
ngày 7/8/2016.
88. Phạm Xuân Nguyên (2008), Nỗi buồn chiến tranh nhìn từ Mỹ, Tham luận Hội
thảo American Studies in Vietnam: Challeenges and Prospects, Hue University
and The Asian Foundation, Hue, November 17-18- 2008.
89. Hoàng Nhân (1998), Phác thảo quan hệ văn học Pháp với văn học Việt Nam
hiện đại, Nxb Mũi Cà Mau, Cà Mau.
90. Trần Thị Mai Nhân (2014), Những đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam trong 15
năm cuối thế kỷ XX, Nxb Giáo dục Việt Nam, Tp. Hồ Chí Minh.
91. Trần Thị Mai Nhi (1994), Văn học hiện đại văn học Việt Nam giao lưu gặp gỡ,
Nxb Văn học, Hà Nội.
92. Nhiều tác giả (2002), Tuyển tập Tản Đà, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
93. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.
94. Nhiều tác giả (2010), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, Nxb
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
95. Nhiều tác giả (2013), Văn học hậu hiện đại - Diễn giải và tiếp nhận, Nxb Văn
học, Hà Nội.
96. Bảo Ninh (1987), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
97. Đỗ Hải Ninh (2009), Khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại, nguồn: tapchisonghuong.com.vn/, truy cập ngày 9/11/2015.
98. Đỗ Hải Ninh (2012), Tiểu thuyết có khuynh hướng tự truyện trong văn học
Việt Nam đương đại, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
99. Đỗ Hải Ninh (2014), Mối quan hệ giữa tự truyện- tiểu thuyết và một số dạng
tự thuật khác trong văn học Việt Nam đương đại, nguồn: http://khoavanhoc-
147
ngonngu.edu.vn/home/, truy cập ngày 28/9/2017.
100. Mai Hải Oanh (2007), Nghệ thuật tổ chức điểm nhìn trong tiểu thuyết Việt
Nam thời kì đổi mới, nguồn: http://doc.edu.vn/tai-lieu/nghe-thuat-to-chuc-
diem-nhin-trong-tieu-thuyet-viet-nam-thoi-ki-doi-moi-68317/, truy cập ngày
29/11/2016.
101. Vũ Ngọc Phan (2000), Nhà văn hiện đại q1, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
102. Vũ Ngọc Phan (2000), Nhà văn hiện đại q2, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
103. Vũ Ngọc Phan (2000), Nhà văn hiện đại q3, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
104. Vũ Ngọc Phan (2000), Nhà văn hiện đại q4 tập thượng, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
105. Vũ Ngọc Phan (2000), Nhà văn hiện đại q4 tập hạ, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
106. Nguyễn Khắc Phê (2000), Sự thật từ ngòi bút Phùng Quán, nguồn:
http://vanhaiphong.com/tap-van/1185-s-tht-t-ngoi-but-phung-quan-nguyn-khc-
phe.html, truy cập ngày 29/11/2016.
107. Bùi Huy Phồn (1959), Sống nhờ của Mạnh phú Tư, Tạp chí Văn nghệ (số 30).
108. Bùi Vĩnh Phúc (2014), Hai mươi năm văn học miền nam (1954-1975): Phẩm
tính và ý nghĩa, nguồn: http://www.diendantheky.net, truy cập ngày
29/11/2016.
109. Lan Phương (2014), Cha tôi - nhà văn Lan Khai,
nguồn: http://www.tapchisonghuong.com.vn, truy cập ngày 16/7/2017.
110. Nguyễn Phượng (2008), Văn học và nền kinh tế thị trường trong mười năm
cuối thế kỷ, nguồn: http://vietvan.vn/vi/bvct/id82/, truy cập ngày 5/3/2017.
111. Phùng Quán (2011), Tuổi thơ dữ dội, Nxb Văn học, Hà Nội.
112. Phùng Quán (2018), Ba phút sự thật, Nxb Văn hóa - Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
113. Phạm Văn Quang (2015), Xã hội học thi pháp Dòng chảy cuộc đời, Nxb Đại
học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.
114. René Marill Albérès (Vũ Đình Lưu dịch) (2017), Cuộc phiêu lưu tư tưởng văn
học Âu châu, Nxb Văn học, Hà Nội.
115. Nguyễn Quang Sáng (2017), Dòng sông thơ ấu, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
116. Trần Huyền Sâm (2015), Tính chất tự thuật trong tiểu thuyết nữ Việt Nam
đương đại, nguồn: vannghequandoi.com.vn, truy cập ngày 22/6/2016.
117. Trần Huyền Sâm (2016), Nữ quyền luận ở Pháp và tiểu thuyết nữ Việt Nam
đương đại, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
148
118. Trần Đăng Suyền (2010), Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
119. Trần Đình Sử (2008), Tự sự học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
120. Trần Đình Sử (2008), Tự sự học một số vấn đề lí luận và lịch sử (phần 2), Nxb
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
121. Trần Đình Sử (chủ biên) (2012), Lí luận văn học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
122. Bùi Ngọc Tấn (2000), Chuyện kể năm 2000 (tập 1), Nxb Thanh niên, Tp. Hồ
Chí Minh.
123. Bùi Ngọc Tấn (2000), Chuyện kể năm 2000 (tập 2), Nxb Thanh niên, Tp. Hồ
Chí Minh.
124. Hoàng Thị Tâm (2016), Tự truyện Việt Nam đương đại nghiên cứu từ xã hội
học văn học, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
125. Phạm Xuân Thạch (2004), “Nỗi buồn chiến tranh” viết về chiến tranh thời hậu
chiến từ chủ nghĩa anh hùng đến nhu cầu đổi mới bút pháp, nguồn:
phebinhvanhoc.com, truy cập ngày 7/8/2016.
126. Hoài Thanh, Hoài Chân (2000), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học. Hà Nội.
127. Mai Thảo (1969), Mười đêm ngà ngọc, Nxb Hoàng Đông phương, Sài Gòn.
128. Cô Phương Thảo, Tiểu thuyết năm 1961, Bách Khoa số 121, 15/1/1962.
129. Bùi Việt Thắng (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
130. Bùi Việt Thắng (2005), Tiểu thuyết đương đại, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
131. Đoàn Cầm Thi (2016), Đọc “Tôi” bên bến lạ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
132. Nguyễn Ngọc Thiện (1998), Những ngày thơ ấu - cuốn hồi kí tự truyện đặc
sắc, nguồn: http://vanhocquenha.vn/vi-vn/113/50/nhung-ngay-tho-au, truy cập
ngày 9/11/2017.
133. Nguyễn Ngọc Thiện (2001), “Bút pháp tự sự đặc sắc trong “Sống mòn”, In
trong Nam Cao về tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
134. Bích Thu (2013), Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới
nguồn:https://text.123doc.org/document/147515-mot-cach-tiep-can-tieu-
thuyet-viet-nam-thoi-ky-doi-moi.htm, truy cập ngày 23/5/2016.
135. Đỗ Đức Thu (1941), Bốc đồng, Nxb Nguyễn Du, Hà Nội.
136. Lí Hoài Thu (2009), Sự vận động của các thể loại văn xuôi trong thời kì đổi
149
mới, nguồn: http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c175/n3401/, truy cập
ngày 2/11/ 2015.
137. Phạm Thị Thu (2012), Những nét đặc sắc của nghệ thuật tiểu thuyết Phùng
Quán, nguồn: http://tonvinhvanhoadoc.vn/van-hoc-viet-nam/phe-binh/, truy
cập ngày 6/4/2016.
138. Nguyễn Thị Thu Thủy (2016), Điểm nhìn và ngôn ngữ trong truyện kể, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
139. Thu Thủy, Tình hình tiểu thuyết trong năm 1964, Tin Sách 2/1965, tr. 11-12.
140. Đỗ Lai Thúy (2012), “Từ “Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học” đến lý
thuyết hệ hình”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (số 342 - tháng 12-2012).
141. Nhật Tiến, Sinh hoạt tiểu thuyết một năm qua, Bách Khoa số 265-266, ngày
15/1/1968, tr.25-33.
142. Trần Mạnh Tiến (2008), “Nghệ thuật trần thuật trong một số tự truyện tiêu
biểu giai đoạn 1930 - 1945”, In trong Tự sự học một số vấn đề lí luận và lịch
sử (phần 2), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
143. Trần Mạnh Tiến (2008), “Tác phẩm tự truyện của Lan Khai”, In trong Tự sự
học một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
144. Nguyễn Như Trang, Ngô Thu Thủy (2011), Lê Lựu và giọng điệu trần thuật
trong Thời xa vắng, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 312, tháng 6-2010.
145. Nguyễn Thị Thu Trang (2015), Văn xuôi đô thị Miền Nam 1954 - 1975 nhìn từ
các giá trị văn hóa truyền thống, Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.
146. Phạm Thị Kim Trọng (2013), Thế giới nghệ thuật tự truyện trước 1945 qua
Sống Nhờ (Mạnh Phú Tư), Những ngày thơ ấu ( Nguyên Hồng) và Chân trời
cũ (Hồ Dzếnh), Luận văn thạc sĩ, Đại học Đà Nẵng.
147. Liễu Trương (2017), Viết với thân xác như Túy Hồng, nguồn:
https://lieutruongvietvadoc.wordpress.com/2017/05/31/, truy cập ngày 21/9/2017.
148. Hoàng Ngọc Tuấn (2012), Viết từ hiện đại đến hậu hiện đại, nguồn:
http://phebinhvanhoc.com.vn/viet-tu-hien-dai-den-hau-hien-dai/, truy cập ngày
7/7/2015.
149. Mai Anh Tuấn (2015), Thanh Tâm Tuyền: một hoàn - thiện - viết đến từ văn
xuôi, nguồn:https://maianhtuan.wordpress.com/2015/06/14/thanh-tam-tuyen-
mot-hoan-thien-viet-den-tu-van-xuoi-p-1/, truy cập ngày 6/9/2016.
150
150. Nguyễn Văn Tùng (2008), Tuyển tập các bài viết về tiểu thuyết ở Việt Nam thế
kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
151. Thanh Tâm Tuyền (1969), Bếp lửa, Nxb An Tiêm, Sài Gòn.
152. Mạnh Phú Tư (1983), Sống nhờ, Nxb Văn học, Hà Nội.
153. Phùng Văn Tửu (2005), Tiểu thuyết Pháp bên thềm thế kỷ XXI, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
154. Phùng Văn Tửu (2010), Tiểu thuyết trên đường đổi mới nghệ thuật, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
155. Phùng văn Tửu (2011), Người kể chuyện xưng “tôi” trong văn chương hiện
đại, nguồn: http://gdtrhqb.edu.vn/index.php?page=9&id=3&idL=18, truy cập
ngày 8/3/2017.
156. Tạ Tỵ (1971), Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay,
nguồn: http://vietmessenger.com/books, truy cập ngày 19/10/2017.
157. Tzventan Todorov (2004), Thi pháp văn xuôi (Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm
dịch) Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
158. Kiều Văn, Cảm nghĩ về tiểu thuyết tự thuật “Những ngày thơ ấu” của Nguyên
Hồng, nguồn: http://newvietart.com/index4.884.html, truy cập ngày 19/10/2015.
159. Nguyễn Tiến Văn (2009), Suy nghĩ về Chuyện kể năm 2000 và Bùi Ngọc Tấn,
nguồn: https://buingoctan.wordpress.com/.../suy-nghi-về-chuyện-kể-nam-2000,
truy cập ngày 3/2/2016.
160. Hồ Khánh Vân (2013), Một vài lý giải về hiện tượng tự thuật trong sáng tác
văn xuôi của các tác giả nữ Việt Nam từ 1990 đến nay, nguồn: phebinhvanhoc.
com.vn, truy cập ngày 16/5/2016.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
161. Buckley, Jerome Hamilton (1984). The Turning Key: Autobiography and the
Subịective Impulse Since 1800. Cambridge: Harvard univ. Press.
162. Lejeune Philippe (1989), On autobiography. Minneapolis: The univ. of
Minnesota Press.
163. Olney James (1972), Metaphors of Self: The Meaning of Autobiography.
Princeton: Princeton univ. Press.
164. Pascal Roy (1960). Design and Truth in Aưtobiography. Cambridge:
Cambridge Univ. Press.
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1. Nguyễn Văn Tổng (2017), “Tính chất tự truyện qua một số tiểu thuyết Việt Nam
từ sau 1986”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia, Đại học Sư phạm, Đại học
Huế, tháng 3/2017, tr.328-333.
2. Nguyễn Văn Tổng (2017), “Tính chất tự truyện qua một số tiểu thuyết Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Trường Đại học Khoa học
- Đại học Huế, số 2 (06/2017), tr.43- 50.
3. Nguyễn Văn Tổng (2017), “Tính chất tự truyện trong tiểu thuyết Việt Nam sau
1986”, Tạp chí Khoa học Đại học Huế, số 6A, 2017,tr.103 -111
4. Nguyễn Văn Tổng - Nguyễn Quang Minh (2017), “Chuyện kể năm 2000 của Bùi
Ngọc Tấn dưới góc nhìn tự truyện”, Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Nai, số
7/2017, tr.106 -111.
5. Nguyễn Văn Tổng (2017), “Sự vận động của tiểu thuyết có tính chất tự truyện
trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Khoa học Đại học Sài
Gòn, số 31(56)/2017, tr.111 - 115.
6. Nguyễn Văn Tổng (2017), “Yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết “Hoa bươm
bướm” và “Người về đầu non” của Võ Hồng”, Tạp chí Khoa học Trường Đại
học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng, số 25 (04)/2017, tr.20-24.
7. Nguyễn Văn Tổng (2018), “Người kể chuyện trong một số tiểu thuyết có tính
chất tự truyện ở đô thị miền Nam”, Tạp chí Khoa học Đại học Huế, 6A/2018
PHỤ LỤC
DANH MỤC TÁC PHẨM ĐƢỢC SỬ DỤNG ĐỂ THAM KHẢO
VÀ KHẢO SÁT TRONG LUẬN ÁN
1. Duyên Anh (1971), Trường cũ, Nxb Tuổi Ngọc, Sài Gòn.
2. Mạc Can (2004), Tấm ván phóng dao, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
3. Thiết Can (1936), Dã tràng, Nxb Đức Lương Phương, Sài Gòn.
4. Nam Cao (1956), Sống mòn, Nxb Văn nghệ, Hà Nội.
5. Nguyễn Bính Hồng Cầu (sưu tầm, biên soạn - 2017), Nguyễn Bính toàn tập (tập 2),
Nxb Văn học, Hà Nội.
6. Tản Đà (1992), Giấc mộng lớn, Nxb Hương Sơn, Hà Nội.
7. Vũ Thư Hiên (1988), Miền thơ ấu, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
8. Tô Hoài (1999), Chiều chiều, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
9. Nguyễn Thị Hoàng (1969), Vòng tay học trò, Nxb Mây Hồng, Sài Gòn.
10. Túy Hồng (1972), Tôi nhìn tôi trên vách, Nxb Đồng Nai, Sài Gòn.
11. Võ Hồng (1966), Hoa bươm bướm, Nxb Lá Bối, Sài Gòn.
12. Võ Hồng (2002), Người về đầu non, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
13. Nguyên Hồng (1940), Những ngày thơ ấu, Nxb Đời mới, Hà Nội.
14. Lan Khai (1941), Mực mài nước mắt, Nxb Đời mới, Hà Nội.
15. Duy Kháng (1985), Tuổi thơ im lặng, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
16. Nguyễn Khải (1999), Tuyển tập tiểu thuyết, Nxb, Hội nhà văn, Hà Nội.
17. Nguyễn Khải (2004), Thượng đế thì cười, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
18. Ma Văn Kháng (2009), Một mình một ngựa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
19. Lưu Trọng Lư (1999), Chiếc cáng xanh - Khói lam chiều, Nxb Văn nghệ, Hà Nội.
20. Lê Lựu (1998), Thời xa vắng, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
21. Dạ Ngân (2005), Gia đình bé mọn, Nxb Phụ nữ, Tp. Hồ Chí Minh.
22. Bảo Ninh (tái bản 2005), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
23. Phùng Quán (1988), Tuổi thơ dữ dội, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
24. Nguyễn Quang Sáng (1985), Dòng sông thơ ấu, Nxb Kim Đồng, Tp. Hồ Chí Minh.
25. Bùi Ngọc Tấn (2000), Chuyện kể năm 2000 (2 tập), Nxb Thanh niên. Hà Nội.
26. Phạm Thái (1994), Sơ kính tân trang, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27. Đỗ Đức Thu (1942), Bốc đồng, Nxb Đời nay, Hà Nội.
28. Thanh Tâm Tuyền (1969), Bếp lửa, Nxb An Tiêm, Sài Gòn.
29. Mạnh Phú Tư (1983), Sống nhờ, Nxb Văn học, Hà Nội.