lỜi giỚi thiỆu - nam dinh, viet nam · web viewphong trào thi đua đã giúp các tổ,...

392
LỜI GIỚI THIỆU ------- Giao thông vận tải có vai trò hết sức quan trọng đối với đời sống và sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, là bộ phận quan trọng của kết cấu hạ tầng, có ý nghĩa quyết định đến chiến lược phát triển của mỗi đất nước. Hiểu rõ điều đó, ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, nước nhà độc lập, Đảng, Bác Hồ rất quan tâm chỉ đạo chặt chẽ công tác GTVT từ Trung ương đến địa phương. Trải qua 60 năm hình thành và phát triển, cùng với ngành GTVT cả nước, GTVT Nam Định đã từng bước trưởng thành lớn mạnh, phục vụ đắc lực hai cuộc kháng chiến chồng thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, góp phần xây dựng tỉnh Nam Định ngày càng giàu mạnh, văn minh vững bước đi lên CNXH theo đường lối đổi mới của Đảng. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, thực hiện chủ trương kháng chiến toàn dân toàn diện của Đảng bộ Nam Định, cán bộ GTVT Nam Định đã biết dựa vào dân để vượt mọi khó khăn, ác liệt hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: Phục vụ kháng chiến, vận chuyển thóc công lương ra vùng tự do, nổi bật là hình ảnh từng đoàn dân công Nam Định đã ngày đêm đi tải lương, thuốc men, thực phẩm phục vụ chiến trường Điện Biên Phủ, góp phần quan trọng cùng cả nước làm nên chiên thắng Điện Biên chấn động địa cầu. Trong hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, các chiến sĩ GTVT Nam Định đã ngày đêm

Upload: others

Post on 15-Feb-2020

8 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

LỜI GIỚI THIỆU-------

Giao thông vận tải có vai trò hết sức quan trọng đối với đời sống và sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, là bộ phận quan trọng của kết cấu hạ tầng, có ý nghĩa quyết định đến chiến lược phát triển của mỗi đất nước. Hiểu rõ điều đó, ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, nước nhà độc lập, Đảng, Bác Hồ rất quan tâm chỉ đạo chặt chẽ công tác GTVT từ Trung ương đến địa phương. Trải qua 60 năm hình thành và phát triển, cùng với ngành GTVT cả nước, GTVT Nam Định đã từng bước trưởng thành lớn mạnh, phục vụ đắc lực hai cuộc kháng chiến chồng thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, góp phần xây dựng tỉnh Nam Định ngày càng giàu mạnh, văn minh vững bước đi lên CNXH theo đường lối đổi mới của Đảng.

Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, thực hiện chủ trương kháng chiến toàn dân toàn diện của Đảng bộ Nam Định, cán bộ GTVT Nam Định đã biết dựa vào dân để vượt mọi khó khăn, ác liệt hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: Phục vụ kháng chiến, vận chuyển thóc công lương ra vùng tự do, nổi bật là hình ảnh từng đoàn dân công Nam Định đã ngày đêm đi tải lương, thuốc men, thực phẩm phục vụ chiến trường Điện Biên Phủ, góp phần quan trọng cùng cả nước làm nên chiên thắng Điện Biên chấn động địa cầu.

Trong hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, các chiến sĩ GTVT Nam Định đã ngày đêm lăn lộn trong mưa bom bão đạn của kẻ thù, dũng cảm, kiên cường trên mọi mặt trận giữ cho mạch máu GTVT thông suốt. Với khẩu hiệu "sống bám cầu đường, chết kiên cường dũng cảm", "địch phá ta sưa ta đi, địch lại phá ta lại sửa ta đi" đến "địch phá ta cứ đi", các chiến sĩ GTVT đã ngày đêm bám cầu, bám đường, san lấp hố bom, nối những nhịp cầu trong tiếng gầm rú của máy bay địch cho xe thông tuyến. Những địa danh bến Đò Quan, ga Nam Định, đường 10, Cầu Tào, Xí nghiệp Vận tải ô tô, Hợp tác xã Trần Phú, Tháng Tám mãi bất tử cùng quê hương, đất nước. Tinh thần dũng cảm, hy sinh quên mình của các chiến sĩ GTVT Nam Định đã góp phần tôn vinh truyền thống "dũng cảm, thông minh, sáng tạo" của ngành GTVT cả nước. Tô thắm trang sử vàng của Đảng bộ, nhân dân Nam Định.

Phát huy truyền thống anh dũng, thông minh, sáng tạo trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, trong thời kỳ hoà bình xây dựng, kiến thiết đất nước, nhất là từ khi Đảng lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới, cùng với quân dân toàn tỉnh, ngành GTVT với vai trò "đi trước" là tiền đề mở cửa thúc đẩy các ngành khác phát triển đã có những bước tiến đáng ghi nhận… là mô hình, điểm sáng về phong trào làm đường giao thông nông thôn, về xây dựng kết cấu hạ tầng với trình độ tiên tiến, hiện đại, về sản xuất công nghiệp vận tải… Những quốc lộ 10, Quốc lộ 21, những con tàu vượt biển, những cây cầu vĩnh cửu Lạc Quần, Tân Đệ, Đò Quan, những chiếc ô tô với công nghệ tiên tiến, những con đường nhựa hoá, bê tông hoá vươn tới muôn nẻo xóm làng… đã khẳng định thành tích lớn lao của ngành VTVT Nam Định trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Chặng đường 60 năm hình thành và phát triển của ngành GTVT Nam Định là những trang sử rất đỗi tự hào. Với tình cảm biết ơn sâu sắc những thế hệ cán bộ, công nhân GTVT đã góp công sức, xương máu cho sự phát triển, lớn mạnh của ngành, để giáo dục và phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang, nâng cao lòng tự hào và niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng; thực hiện chủ trương của Bộ GTVT xây dựng tủ sách truyền thống của ngành và Chỉ thị 14-CT/TU ngày 22-4-2003 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về công tác biên soạn lịch sử và giáo dục phát huy truyền thống cách mạng, lãnh đạo Sở GTVT đã quyết định nghiên cứu biên soạn cuốn sách "60 năm xây dựng và trưởng thành ngành GTVT Nam Định 1945-2000".

Quá trình tổ chức nghiên cứu, biên soạn, Ban chỉ đạo đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của các thế hệ cán bộ, công nhân GTVT, của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt qua các thời kỳ, sự làm việc tâm huyết của Ban sưu tầm tư liệu đã dày công sưu tầm tổng hợp các nguồn tư liệu để biên soạn được cuốn sách một cách chân thực, khách quan chặng đường 60 năm xây dựng và trưởng thành ngành GTVT Nam Định.

Mặc dù đã dày công nghiên cứu, biên soạn, song vì điều kiện thời gian và tư liệu chưa sưu tầm được đầy đủ nên cuốn sách không tránh khỏi những thiếu xót. Ban lãnh đạo rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thế hệ cán bộ, công nhân trong ngành và ngoài ngành GTVT.

Nhân dịp kỷ niệm 60 năm ngày truyền thống ngành GTVT (20/8/1945-20/8/2005), Sở Giao thông vận tải xin trân trọng giới thiệu

2

cuốn sách "60 năm xây dựng và trưởng thành ngành Giao thông vận tải Nam Định 1945-2005" với cán bộ, công nhân viên toàn ngành và bạn đọc.

Sở Giao thông vận tải xin chân thành cảm ơn các thế hệ cán bộ, các đồng chí lãnh đạo ngành Giao thông vận tải qua các thời kỳ, Ban sưu tầm tư liệu, các cơ quan lưu trữ tỉnh, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Sở Văn hoá thông tin, các sở, ban, ngành, các cộng tác viên và toàn thể cán bộ, công nhân đã nhiệt tình giúp Sở Giao thông vận tải hoàn thành tốt việc biên soạn và xuất bản cuốn sách trong dịp kỷ niệm đầy ý nghĩa này.

SỞ GIAO THÔNG VẬN TẢI

3

CHƯƠNG I

GIAO THÔNG VẬN TẢI NAM ĐỊNH TRƯỚC NĂM 1945

---

1- Những điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội ảnh hưởng đến giao thông vận tải:

Nam Định là một tỉnh nằm ở phía đông nam đồng bằng Bắc Bộ; phía Tây Bắc giáp tỉnh Hà Nam; phía Đông Bắc giáp tỉnh Thái Bình; phía Tây Nam giáp tỉnh Ninh Bình; phía Đông Nam giáp biển Đông.

Diện tích tự nhiên hiện nay là 1.671,5 km2 (bằng 6,25% diện tích toàn quốc), dân số gần 2 triệu người, hầu hết là dân tộc Kinh và có 21% đồng bào theo đạo Thiên chúa .

Tỉnh Nam Định hiện nay có 10 đơn vị hành chính, gồm 9 huyện và 1 thành phố, đó là các huyện: Ý Yên, Vụ Bản, Mỹ Lộc, Nam Trực, Trực Ninh, Xuân Trường, Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Giao Thuỷ và thành phố Nam Định; với 229 xã, phường, thị trấn.

Là một tỉnh nằm trong vùng châu thổ sông Hồng, thuộc miền nhiệt đới gió mùa, khí hậu chia thành 4 mùa rõ rệt, nhìn chung là khá khắc nghiệt, nắng lắm, mưa nhiều, mùa hạ thường xuyên có bão, lũ lụt, ảnh hưởng nhiều đến các hoạt động giao thông vận tải, cả về đường bộ và đường thuỷ.

Chạy dọc theo bờ Nam của sông Hồng, nằm giữa 2 con sông lớn là sông Hồng và sông Đáy, địa hình của Nam Định theo trục từ Tây Bắc xuống Đông Nam, đất đai luôn bị chia cắt bởi hệ thống sông ngòi dầy đặc, đưa phù sa về bồi đắp, hàng năm lấn ra biển hàng chục mét. Địa hình của Nam Định nhìn chung được thiên nhiên ưu đãi, phong phú về loại hình, có đầy đủ núi, sông, và biển.

Tuy là tỉnh đồng bằng, nhưng phía tây bắc có một số núi đồi, đất đá xen lẫn, chỉ cao từ 40-75m, số lượng ít và thưa, như núi Già, núi Mai Độ

4

(Tiên sa), núi Nề (Bảo Đài), núi Ngăm (Trang Nghiêm), núi Tiên Hương (Kim Thái), núi Lê, núi Gôi, núi Hổ.

Nam Định có hệ thống sông ngòi khá dầy đặc, với 23 con sông, tổng chiều dài 487 km :

Sông Hồng chảy vào địa phận Nam Định từ xã Mỹ Trung (Mỹ Lộc) qua thành phố Nam Định và các huyện Nam Trực, Trực Ninh, Xuân Trường, Giao Thuỷ rồi đổ ra biển Đông tại cửa Ba Lạt; tạo thành địa giới tự nhiên phía Đông Bắc giữa Nam Định và Thái Bình.

Sông Đáy chảy vào địa phận Nam Định từ vị trí xã Yên Phương (huyện Ý Yên), rồi chảy dọc theo huyện Ý Yên và huyện Nghĩa Hưng, đổ ra biển Đông tại cửa Đáy; là địa giới tự nhiên giữa Nam Định và Ninh Bình.

Ngoài ra Nam Định còn nhiều con sông nhỏ khác.

Phía bắc tỉnh có một số sông nhỏ như sông Châu Giang, sông Sắt, sông Thiên Phái, sông Sinh... Miền giữa tỉnh có sông Đào chảy từ sông Hồng (Tân Đệ) sang sông Đáy (ngã ba Độc Bộ),

Phía Nam có các sông Ninh Cơ, sông Sò, sông Cồn Nhất, Cồn Nhì, Cồn Tư, Cồn Năm,... Mỗi con sông lớn lại có nhiều chi lưu nhỏ tạo thành một hệ thống sông ngòi khá dày đặc, liên hoàn tạo thành mạng lưới thuận lợi cho giao thông đường thuỷ .

Cùng với hệ thống đường sông, Nam Định có 72km bờ biển, từ cửa Ba Lạt đến cửa Đáy. Ngoài vai trò quan trọng trong hệ thống phòng thủ quốc gia ven biển và du lịch hấp dẫn, biển của Nam Định,với 2 cửa sông lớn còn là một trong những cửa ngõ của quốc gia, có thể xây dựng những cảng sông, cảng biển quan trọng, tạo ra sự giao lưu, buôn bán phát triển với các nơi khác.

Hệ thống đường bộ tỉnh Nam Định dài khoảng gần 7000 km, bao gồm cả quốc lộ, tỉnh lộ, đường huyện, đường xã, đường thôn xóm.

5

Quốc lộ, có quốc lộ 10, quốc lộ 21.

Tỉnh lộ bao gồm 10 tuyến như: Đường 12; 51; 53; 54; 55; 56; 57; 64, 38...Tổng chiều dài trên 300 km. Hệ thống đường Tỉnh cùng đường Huyện, đường liên xã, liên thôn, xóm giúp cho sự giao lưu đi lại được dễ ràng. Trong thực tế nhân dân còn sử dụng nhiều loại đường khác để đi lại như các bờ đê sông, bờ mương máng, đường nội đồng, đường liên thôn, liên xóm, các bờ vùng, bờ khoảnh...tạo thành một hệ thống giao thông đi đến mọi vùng, mọi xóm thôn trong tỉnh khá thuận tiện.

Đường sắt được hình thành muộn hơn so với đường thuỷ và đường bộ. Chỉ từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, để phục vụ cho việc giao lưu đi lại và khai thác thuộc địa, chúng đã cho xây dựng nhiều tuyến đường sắt, trong đó có tuyến đường sắt Bắc Nam đi qua Nam Định, riêng đoạn đi qua Nam Định dài 42 km. Đường sắt tuy ra đời muộn nhưng có ưu điểm là có thể chuyên chở với khối lượng lớn và khá an toàn, do đó đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho ngành GTVT trong việc chuyên chở hàng hoá, hành khách đi nhiều nơi, nhất là các trung tâm và các thành phố lớn dọc theo chiều dài đất nước. Từ sau cách mạng tháng 8/1945, đường sắt đã được sử dụng một cách hữu hiệu cho công cuộc xây dựng đất nước và phục vụ đời sống nhân dân.

Bên cạnh các điều kiện tự nhiên thì các yếu tố về văn hoá xã hội cũng góp phần ảnh hưởng quan trọng và mang tính quyết định đến sự phát triển của GTVT Nam Định xưa và nay.

Nam Định là vùng đất đã được khai phá từ rất sớm, nhất là vùng phía bắc tỉnh. Vùng đất phía nam được hình thành muộn hơn và ngày càng được bồi đắp mở rộng. Trải qua nhiều sự biến đổi của lịch sử đất nước, địa danh vùng đất Nam Định cũng luôn có sự biến đổi. Đời Vua Hồng Đức(1470-1497) gọi vùng đất này là xứ Sơn Nam. Năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741), tách thành Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ, Nam Định thuộc về Sơn Nam Hạ. Năm Minh Mệnh thứ 3 (1822, triều Nguyễn), đổi gọi là trấn Nam Định. Năm 1831, bỏ trấn, lập tỉnh, Nam Định gồm 4 phủ, 18 huyện. Năm 1926, tỉnh Nam Định có 2 phủ, 7 huyện, 78 tổng, 708 xã thôn.(1)

1(?) Ngô Vi Liễn,Tên làng xã và địa dư chí các tỉnh Bắc kỳ, NXB VHTT, Hà Nội, 1999, tr:630.

6

Năm 1953, do sự khó khăn về địa lý và sự cách trở về giao thông liên lạc, đồng thời để tạo điều kiện cho sự lãnh đạo chỉ đạo trong điều kiện kháng chiến được thuận lợi, 7 xã phía bắc của huyện Nghĩa Hưng được cắt nhập vào huyện Ý Yên; đồng thời cắt 3 huyện Ý Yên, Vụ Bản, Mỹ Lộc nhập vào tỉnh Hà Nam. Thành phố Nam Định trực thuộc quân khu III. Đến tháng 4/1956 lại cắt trả 3 huyện trên về Nam Định.2

Tháng 5/1965, Nam Định hợp nhất với tỉnh Hà Nam thành tỉnh Nam Hà. Tháng 12/1975 lại hợp nhất 2 tỉnh Nam Hà với Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Sau đó tháng 12/1991, lại tách tỉnh Hà Nam Ninh thành tỉnh Nam Hà và Ninh Bình. Tháng 1/1997, tách tỉnh Nam Hà thành tỉnh Nam Định và Hà Nam. Do nằm ở phía nam đồng bằng và cửa 2 con sông lớn là sông Hồng và sông Đáy, lại gần đường quốc lộ I nên trên lĩnh vực quân sự, Nam Định có vị trí quan trọng ở đồng bằng Bắc Bộ. (3).

Trước đây, từ nhà Trần, nhà Lê, nhà Nguyễn một dải ven sông "Thượng Phù Luông (cửa sông Đào), hạ Đồn Thuỷ" (tức nhà máy đóng tàu sông Đào hiện nay) là một bến thuyền lớn với vô số thuyền bè đậu san sát. Vị trí Đồn Thuỷ chính là nơi đội thuỷ quân của vua Quang Trung giao cho Nguyễn Hữu Chỉnh trấn giữ.

Trong quá trình phát triển, mảnh đất Nam Định luôn thu hút nhiều người đến khai phá , sinh cơ lập nghiệp và xây dựng nên truyền thống văn hoá riêng, đậm chất nhân văn cao cả.

Với vị trí địa lý trọng yếu, và điều kiện tự nhiên đa dạng, phong phú, đất đai lại màu mỡ, tốt tươi nên dân cư tụ hội về đây ngày càng đông đúc, ngành nghề kinh tế phát triển mạnh mẽ, giao lưu buôn bán ngày càng mở rộng; chính quyền phong kiến tập quyền cũng ít nhiều có quan tâm đến đời sống của nhân dân; những điều kiện về tự nhiên, kinh tế, xã hội đó là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng tác động mạnh mẽ tới giao thông vận tải Nam Định.2(?) Khi chia tách năm 1997 Nam Định có 225 xã , phường, thị trấn, sau đó, năm 2004 tỉnh quyết định thành lập thêm 4 đơn vị, đưa tổng số lên 229 xã, phường, thị trấn.3(?) . Khi đem quân ra đánh chiếm Bắc Bộ lần thứ 2, năm 1883, Hăng- ri Ri vi e đã viết: "Chiếm được Hà Nội và Nam Định là chiếm được cả đồng bằng Bắc Bộ".Thực tế sau này trong 9 năm tái xâm luợc Việt Nam thực dân Pháp cũng đã biến Nam Định thành trung tâm chỉ huy phía nam đồng bằng Bắc Bộ

7

2- Thực trạng GTVT Nam Định trước cách mạng tháng 8/1945.

a, Vài nét về giao thông liên lạc dưới thời phong kiến, thực dân.

Dưới thời phong kiến, trình độ KHKT và dân trí còn thấp; người nông dân gắn liền với nghề nông lam lũ, chỉ đi lại thông tin trong những trường hợp thật cần thiết.

Đến thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn, thông tin liên lạc đã được chú trọng hơn. Năm 1820, vua Minh Mệnh đã cho thiết lập ty Bưu chính để đảm nhận việc chuyển vận công văn, giấy tờ, đặc biệt là các văn bản cơ mật như chiếu chỉ từ triều đình gửi xuống các địa phương và ngược lại, các tấu sớ từ địa phương gửi lên.

Đời Tự Đức, cả nước có 149 trạm dịch, riêng ở Nam Định có 2 trạm.

Việc vận chuyển công văn giấy tờ ở nước ta thời phong kiến chủ yếu và phổ biến bằng ngựa và thuyền vì nó phù hợp với địa hình phức tạp và đường xá chưa được mở rộng như nước ta.

Để phục vụ cho việc vận chuyển công văn giấy tờ được thuận tiện, nhà nước phong kiến còn đặt ra các quy định về bài trạm, ống trạm, cờ hiệu, nghi trượng dùng trong các trạm, cả nước có khoảng 7000 ống trạm. Khi đến mỗi trạm dịch, người ta chuyển giao công văn cho nhau, ghi rõ ngày, giờ, địa điểm giao nhận. Nội dung thông tin nằm trong công văn, giấy tờ, còn ống trạm chỉ có tác dụng như một ống đựng ngoài (như phong bì thư ngày nay). Bài trạm có tác dụng như dấu đi đến, để tiện cho việc làm thủ tục qua mỗi cung trạm giữa người giao và người nhận.

Nhìn chung, các hình thức thông tin trước kia ( thời phong kiến ) ở nước ta (nói chung) và Nam Định (nói riêng) rất đa dạng, phong phú và có nhiều nét độc đáo. Song mỗi hình thức đó đều có những hạn chế riêng của nó. Do chủ yếu là chuyển vận bằng sức người, sức ngựa hoặc thuyền nên các hình thức thông dụng hoặc là chậm về mặt thời gian, hoặc là hạn chế về mặt không gian. Còn các hình thức độc đáo như "phong hoả đài", chim đưa thư... thì rất khó thực hiện, phạm vi tác dụng không lớn.

8

Thời Pháp thuộc, thực dân Pháp đã chú ý phát triển hệ thống thông tin mới. Một mặt chúng vẫn cho sử dụng các hình thức thông tin thông dụng kiểu cũ, mặt khác chúng cho xây dựng và đưa tiến bộ KHKT vào hoạt động trong ngành thông tin .

Năm 1883, sau khi xây dựng đường điện thoại nối Hà Nội với Sài Gòn, thực dân Pháp cho xây dựng nhà dây thép, trung tâm nghiệp vụ Bưu điện của cả tỉnh ở thành phố Nam Định. Từ Nam định , chúng mở rộng xây dựng một số đường dây liên lạc bằng điện thoại với Lạc Quần, Yên Định, Chợ Cồn, Chợ Gôi.

Nhìn chung ngành thông tin thời Pháp thuộc được lập ra chủ yếu để phục vụ cho giai cấp thống trị và sự khai thác bóc lột thuộc địa của chúng. Tuy trình độ KHKT đã được nâng lên, nhưng do mục đích sử dụng của thực dân Pháp, nên chúng chỉ đầu tư cầm chừng và cố tình duy trì tình trạng KHKT lạc hậu. Tuy mục đích là để phục vụ giai cấp thống trị, nhưng một bộ phận thương gia giầu có cũng đã dùng đường dây bưu điện để vận chuyển hàng hoá, trao đổi tin tức kinh doanh. Còn đại đa số nhân dân lao động, do giá cước quá cao so với thu nhập thực tế của họ, nên họ rất ít khi sử dụng. Đa số vẫn sử dụng phương tiện thông tin quen thuộc và cơ động là đôi chân chạy bộ của các phu trạm trong các tổng, huyện.

b,Thực trạng giao thông vận tải Nam định trước cách mạng tháng 8/1945.

Trong thực tế cuộc sống, sự quan hệ, trao đổi, và di chuyển người, quân lương, vũ khí, đạn dược...phục vụ cho cuộc sống và chiến đấu nẩy sinh nhu cầu vận chuyển hàng hoá từ nơi này đến nơi khác, đó chính là yếu tố đầu tiên và cũng là nguyên nhân hình thành nên giao thông vận tải.

Thời phong kiến giao thông vận tải của Nam Định chủ yếu là đường thuỷ và đường bộ. Từ khi thực dân Pháp xâm lược, chúng đã cho xây dựng thêm đường sắt và đường không. Tuy nhiên, đường không chỉ chủ yếu dùng cho mục đích chính trị, ít dùng cho giao thông vận tải.

9

Trong giao thông đường bộ, đường xá là yếu tố cơ sở hạ tầng quan trọng đảm bảo cho việc thực hiện được nhanh chóng và thuận tiện. Do nhu cầu phải di chuyển để làm ăn, trồng cấy, giao lưu, săn bắn, trao đổi sản phẩm...đã hình thành nên hệ thống đường xá từ rất sớm. Đường đi lúc đầu có thể chỉ là những lối mòn đơn giản, nhỏ bé, thậm chí luôn thay đổi, sau đó được quy hoạch, định hình, sửa sang, trở nên rộng lớn, thuận tiện hơn.

Nam Định là vùng đất mới bồi, đường xá ban đầu chưa thật hoàn chỉnh; người ta đi lại chủ yếu bằng thuyền bè và các bờ đê, bờ sông...Các tư liệu phản ánh về giao thông đường bộ hồi đó còn lại không nhiều, nhưng ta biết chắc chắn có con đường dịch trạm chạy từ phía bắc qua Vụ Bản, tới huyện Đại An (Xã Yên Nhân, Ý Yên ), đó là con đường 56. Ngoài ra, xét hình dáng con đường 57 hiện nay, ta thấy có dáng dấp của một con đê chắn sóng cổ. Sau khi nước lùi xa, cư dân người Việt cổ đã sửa sang tôn tạo thành đường đi, nên đường có hình dáng uốn lượn rất kỳ lạ. Tiền thân của đường 64 và một số đường liên thôn, liên hương có lẽ cũng được hình thành bắt đầu từ như thế.

Từ khi giành được quyền độc lập, các triều đại phong kiến đã chú ý hơn đến việc xây dựng đường xá để phục vụ cho sự đi lại, thông thương.

Thời thuộc Pháp, đường xá được phân làm 3 loại: Đường thuộc địa, đường thuộc xứ và đường xâm nhập. Đến năm 1944, tổng số đường rải đá và rải nhựa ở Bắc Bộ có 3.412 km, trong đó có 1.090 km rải nhựa, 1.641 km rải đá. Còn lại là các đường đất liên hương, liên thôn, chủ yếu sử dụng trong mùa khô, còn mùa mưa đi lại rất khó khăn.

Nhìn chung với một đất nước có 33 vạn km vuông, có địa hình phức tạp, nhiều đồi núi, sông ngòi, thì với số lượng chiều dài đường xá như trên là quá thấp. Mặt khác, chất lượng đường cũng có nhiều hạn chế, chỉ một số đường lớn có bề rộng từ 5-8 m, còn lại chỉ từ 2,5-3,5 m, đèo dốc và cua nhiều rất rễ gây tai nạn. Hệ thống các cầu cống lại nhỏ yếu, năng lực giao thông kém.

Một đặc điểm nữa của đường bộ Việt Nam nói chung (và Nam Định nói riêng) là hay bị chia cắt bởi các dòng sông, suối, nên cùng với việc xây

10

dựng hệ thống đường bộ, người ta phải xây dựng nhiều cầu cống, các bến phà, cầu phao nối liền các đoạn đường để tiện cho việc đi lại.

Hệ thống cầu đường của Nam Định trước kia tuy còn nhiều hạn chế, yếu kém nhưng cũng đã góp phần quan trọng vào việc giao thông đi lại của nhân dân trong tỉnh.

Bên cạnh hệ thống giao thông đường bộ còn có hệ thống giao thông đường thuỷ khá thuận tiện.

Nằm giữa 2 con sông lớn là sông Hồng và sông Đáy, cùng với một hệ thống sông ngòi dầy đặc như sông Sắt, sông Bo (Thiên Phái), sông Sinh, sông Đào, sông Ninh Cơ, sông Sò (sông Ngô Đồng), sông Quýt, sông Cồn Nhất, Cồn Nhì, Cồn Ba, Cồn Tư, Cồn Năm..., các sông này đều có thể thông với sông Hồng, sông Đáy; lại có 72 km bờ biển nên Nam Định là tỉnh có điều kiện để phát triển mạnh mẽ giao thông đường thuỷ. Từ một vị trí này người ta có thể đi bằng đường thuỷ đến các tỉnh lân cận, lên Kinh đô bằng đường sông một cách thuận tiện.

Sông Hồng, xuất phát từ Vân Nam Trung Quốc, có nhiều chi lưu hợp lại, là con sông lớn nhất miền Bắc, đoạn chảy qua Nam Định dài 74,5 km. Sông sâu và rộng, mặt sông từ 800- 1000 m, là trung tâm của nhiều tuyến đường thuỷ quan trọng. Lòng sông lại sâu nên nhiều tầu thuyền lớn hàng ngàn tấn có thể đi lại dễ dàng. Vì thế Sông Hồng có một vị trí rất quan trọng trong giao lưu đường thuỷ ở Bắc Bộ.

Sông Đáy là ranh giới phía tây nam của tỉnh, dài 82 km. Sông Đáy nối với sông Hồng bằng nhiều sông nhỏ khác như sông Đào, sông Sắt, sông Bo ...Sông Đáy cũng sâu và rộng, tầu thuyền hạng vừa có thể đi lại dễ dàng. Thời phong kiến, cửa Đáy khá lớn nên đây là con đường giao thông quan trọng đi về hướng nam. Nhiều cuộc xuất chinh về phía nam cũng bắt đầu từ đây.

Sông Thiên Phái (hay còn gọi là sông Mỹ Đô, sông Bo), dài 11km, tách từ sông Sắt, tại vị trí Yên Lợi, chảy qua Yên Tân, Yên Chính rồi đổ ra sông Đáy (Cổ Đam) Yên Phương.

11

Sông Sắt, dài 15km, chảy từ tỉnh Hà Nam sang, rồi đổ ra sông Đáy tại cửa Vĩnh Trị, (Yên Trị, Ý Yên).

Sông Đào, dài 33,5km, nối sông Hồng với sông Đáy, từ Mỹ Tân (Mỹ Lộc) đến ngã ba Độc Bộ, (Yên Nhân, Ý Yên).

Sông Châu Thành, dài 17 km, tách ra từ sông Hồng, chảy theo hướng bắc nam, từ Điền Xá , Nam Trực, qua Hồng Quang, Nam Hùng, Nam Hoà, Bình Minh, Nam Tiến, Nam Hải, gặp sông Rõng.

Sông Rõng, tiếp theo sông Châu Thành, dài 14 km, chảy theo hướng đông tây, sau đó theo hướng bắc nam, gặp sông Ninh Cơ tại xã Trực Thuận, Nam Trực.

Sông Ninh Cơ, dài 61 km, tách ra từ sông Hồng tại xã Trực Chính, Trực Ninh, chảy theo hướng đông bắc tây nam, đổ ra cửa Lạch Giang; là biên giới giữa Trực Ninh, Xuân Trường và Nghĩa Hưng, Hải Hậu.

Sông Sò (còn gọi là sông Ngô Đồng), dài 22,7 km, tách ra từ sông Hồng, tại cửa Ngô Đồng rồi đổ ra cửa Hà Lạn.

Ngoài ra còn sông Mã, nối sông Ninh Cơ với sông Ngô Đồng từ Xuân Ngọc đến Xuân Trung 12km; Sông Cát Giang, từ sông Hồng đổ vào sông Mã, từ Xuân Thành đến Xuân Trung 10 km.

Tỉnh Nam Định có một tiềm năng rất lớn về giao thông đường thuỷ. Trước đây các triều đại phong kiến đã tận dụng các lợi thế này để phòng thủ quốc gia và thông thương buôn bán một cách hữu hiệu với bên ngoài4. So với giao thông đường bộ thì giao thông đường thuỷ đơn giản, hiệu quả và kinh tế hơn, vì có thể chuyên chở được những mặt hàng nặng cồng kềnh, như tre, gỗ, luồng, nứa, máy móc...Kết hợp giao thông vận tải đường sông với đường biển cho phép ngành vận tải đường thuỷ của Nam Định có thể vươn tới các trung tâm kinh tế của cả nước như Hà Nội, Hải Phòng ...và nhiều quốc gia khác trên thế giới. Tuy nhiên việc khai thác sử dụng giao thông vận tải đường thuỷ (cả đường sông và đường biển) của

4(?) Trước kia, vùng duyên hải Bắc Bộ có 2 nơi nhân dân rất giỏi nghề sông nước, đó là Trà Cổ của Quảng Ninh và Trà Lũ của Nam Định .

12

Nam Định trước kia chủ yếu là sử dụng nguyên trạng điều kiện tự nhiên sẵn có, còn việc đầu tư cải tạo hầu như không có gì. Song điều khẳng định là giao thông đường thuỷ trước kia đã góp phần đáp ứng phần nào nhu cầu giao thông vận tải của nhân dân trong tỉnh.

Trong giao thông vận tải, cùng với mạng lưới giao thông thuỷ bộ thì phương tiện vận tải là yếu tố hợp thành quyết định đến tiềm năng phát triển của ngành.

Từ những cách thức vận tải đầu tiên dùng sức của con người như mang, vác gánh, khiêng, đội, kéo...Sau đó, người ta dùng đến sức của súc vật như trâu, bò, ngựa, ...để chuyên chở hoặc kéo. Khi điều kiện KHKT phát triển, người ta dùng đến các phương tiện, máy móc như xe đạp, ô tô, tầu thuỷ, máy bay...

Để phân biệt các hình thức, phương tiện vận tải người ta có nhiều cách:

- Dùng sức người, sức động vật hay động cơ máy móc.

- Phương tiện đường bộ hay phương tiện đường thuỷ, đường không.

Cùng với việc dùng súc vật để chuyên chở, người ta cũng sáng tạo ra nhiều loại phương tiện chuyên chở độc đáo khác như võng, cáng, xe, kiệu...

Thời kỳ thực dân Pháp thống trị, các phương tiện GTVT có: xe tay, xích lô, xe đạp, ô tô...Đầu thế kỷ XX, mặc dù trình độ KHKT trên thế giới lúc này đã khá phát triển, các phương tiện giao thông vận tải hiện đại như xe lửa, tầu thuỷ, máy bay đã ra đời và được áp dụng rộng rãi, ở Nam Định chính quyền thực dân đã huy động dân phu sửa sang, mở rộng một số tuyến đường (10, 21, 56, 57...); xây dựng một số bến phà (Lạc Quần, Tân Đệ, Đò Quan...); thành lập một số bến xe khách đi Hà Nội, Phủ Lý, Ninh Bình, Cổ Lễ... nhưng do bị áp bức, bóc lột nặng nề, cuộc sống quá vất vả, khó khăn nên hầu hết nhân dân Nam Định vẫn sử dụng các hình thức, phương tiện VT truyền thống, với kỹ thuật thô sơ, lạc hậu như đi bộ, đi xe ngựa hoặc đi thuyền. Riêng ở thành phố Nam Định, hành khách có thể đi

13

xe tay hoặc xích lô, xe đạp (5). Còn các phương tiện VT cơ giới chỉ giành cho giai cấp thống trị, và những người giầu có. Cuộc sống của những người dân phu làm nghề gtvt cũng luôn bị đàn áp, bóc lột nặng nề, dưới sự lãnh đạo của Đảng, họ đã liên kết lại và tổ chức nhiều cuộc đấu tranh đòi quyền lợi như cuộc bãi công của toàn thể phu kéo xe thành phố Nam Định ngày 1/1/1929; cuộc bãi công, biểu tình phản đối đánh đập, đòi giảm giờ làm, cải thiện đời sống của phu lục lộ Nam Định năm 1937, và lập hội Ái Hữu năm 1938...(6).

Bên cạnh việc phát triển các phương tiện giao thông đường bộ, thì các hình thức, phương tiện giao thông đường thuỷ cũng luôn được quan tâm phát triển.

Do đặc điểm có nhiều sông ngòi, đầm lầy, biển cả nên việc giao thông vận tải đường thuỷ của người Việt nói chung và Nam Định nói riêng thuận lợi và sớm hơn giao thông vận tải đường bộ.

Hình thức GTVT đường thuỷ đầu tiên là bơi lội rồi đến bè, mảng, thuyền...Sau này là xà lan, thuyền gắn máy, tầu thuỷ...Hình ảnh con thuyền luôn được tìm thấy trên các di chỉ khảo cổ học có niên đại từ 3000-4000 năm trước ở nước ta .

Về chất lượng, thuyền của Việt Nam rất tốt; Quy mô và mức độ chuyên chở của thuyền Việt Nam cũng khá lớn

Thực tế thì từ đời Lý, nước ta đã có xưởng sản xuất vài ba trăm thuyền lớn, chở tới 200 người và lương thực, khí giới, nước uống, vượt biển hàng ngàn km. Thời Trần đã có các loại thuyền nhẹ và dài, ván thuyền mỏng, đuôi giống như cánh uyên ương, mỗi thuyền có đến 30 người chèo, nhiều khi có hàng trăm người...thuyền lướt nhanh như bay(7) . Sử cũ cũng đã chép có lần Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông đã dùng hơn 1000 thuyền nhẹ đưa hơn 10.000 quân từ Thăng Long về Bình Than đánh đuổi

5(?) Trước cách mạng tháng 8/1945, thành phố Nam Định có khoảng 200-300 chiếc xe kéo tay. Trong đó ông Trần Văn Chương có hơn 100 chiếc cho thuê; vợ bé ông chánh lục lộ Nam Định có hơn 100 chiếc cho thuê.

6(?) Lịch sử Nam Định- Hà Nam, xuất bản năm 1970.

7(?) Theo Trần Phu, Sứ nhà Nguyên .

14

giặc Nguyên. Thời Tây Sơn có những chiến thuyền có thể chở tới 50- 60 đại bác.Thuyền của Quang Trung còn có thể chở được voi chiến.

Như vậy, kỹ thuật đóng thuyền của Việt Nam xưa đã có thể cho ra đời những con thuyền lớn về quy mô, chất lượng sử dụng cao, kiểu dáng dài và nhẹ, sức trọng tải lớn. Chính vì những ưu điểm đó mà thuyền được sử dụng làm phương tiện giao thông vận tải quan trọng trong chiến tranh quân sự cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Các triều đại phong kiến đều đã sử dụng tốt tác dụng của các loại phương tiện này để đánh trả quân xâm lược.

Thời nhà Trần, vùng đất Thiên Trường là nơi nhiều sông nước, lắm cá tôm. Tổ tiên nhà Trần xuất thân là những người đánh cá, gắn bó với thuyền bè và hưng phát chính tại mảnh đất này. Sau này, chính nhờ kinh nhiệm sông nước, nhà Trần đã có những thuỷ tướng tài ba như Trần Khánh Dư, Yết Kiêu...và xây dựng được những đội thuỷ quân thiện chiến, đánh thắng những đội quân hùng mạnh của nhà Nguyên. Nhiều cuộc chinh chiến, đánh dẹp quân Chiêm Thành bằng đường thuỷ thời Lý-Trần cũng được chuẩn bị và xuất phát từ mảnh đất Nam Định. Nhiều trận thuỷ chiến lớn, dữ dội cũng đã diễn ra trên mảnh đất này. Các chiến công vang dội ấy đều có sự đóng góp tích cực của một loại phương tiện giao thông thuỷ quan trọng, đó là các chiến thuyền.

Nam Định là mảnh đất có nhiều người rất giỏi nghề sông nước. Tại đây có nhiều trung tâm sản xuất chế tạo tầu thuyền lớn, như vùng Xuân Trường, Giao Thuỷ, Hải Hậu xưa, mà kinh nghiệm còn tồn tại đến ngày nay. Các địa danh như Trà Lũ (Xuân Trường), Xối Đông, Xối Tây, Xối Thượng, Cổ Lễ, Cựa Gà... của Trực Ninh, Nam Trực, rất nổi tiếng về nghề đóng thuyền và vận tải trên sông, biển. Xưa kia, trên bến sông Nam Định luôn dầy đặc các loại thuyền bè đi sông, đi biển, trọng tải từ 10 đến 50 tấn. Thuyền từ Quảng Nam ,Đà Nẵng chở đường, đậu xanh, đậu tương ra, thuyền từ vùng Thanh - Nghệ, Quảng Bình chở nước mắm, chượp cá ra; thuyền từ vùng Quảng Ninh, Trà Cổ mang đồ gốm, sứ, sành, than về; các loại bè gỗ, luồng, nứa... chở củi, củ nâu, lá gồi từ Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ xuôi xuống... Họ bán sản vật rồi mua thóc, gạo, ngô, khoai, bao bì,

15

chiếu cói, hàng mây tre và cả các đồ quý như trường kỷ, sập gụ, tủ chè, đồ thờ tự của Nam Định đưa đi bán ở các nơi. Nhân dân Nam Định cũng theo đường sông đến đây buôn bán và mang hàng về các địa phương khác, do đó sự giao thông đi lại buôn bán ở đây khá nhộn nhịp. Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX có bà Tô Thị Hằng, người Quần Anh, Hải Hậu đã có một đội hải thuyền, trên dưới 30 chiếc, chuyên nghề buôn bán, vận chuyển hàng hoá trên đường biển, đường sông, hoạt động rất rộng trên biển Đông, từ vùng Quảng Nam (Đà Nẵng) ra Vân Đồn (Bắc Bộ), nhiều khi sang cả Quảng Đông, Phúc Kiến của Trung Quốc để buôn bán. Đội thương thuyền này nhiều khi còn làm nhiệm vụ bao tiêu cho các tầu đánh cá và các thuyền buôn khác. Sau khi bà Hằng mất thì đội thương thuyền vận tải của "Vua tầu" Bạch Thái Bưởi cũng hoạt động mạnh ở vùng Hải Phòng-Nam Định. Chính vua tầu Bạch Thái Bưởi cũng rất kính nể bà Tô Thị Hằng. Hiện nay, nhiều chuyên gia giỏi trên lĩnh vực đóng tầu trong cả nước đều là người gốc Nam Định.

Hình ảnh các con thuyền khắc trên trống đồng, các hoa văn hình thuyền ở các đình, đền, miếu...trên các dải sông Hồng, sông Đào, sông Đáy, sông Ninh Cơ...chứng tỏ người dân nơi đây rất gắn bó với con thuyền trên sông nước.

Bên cạnh việc phục vụ cho chiến đấu, thuyền còn là phương tiện giao thông thuỷ phục vụ cho sự giao thông đi lại và đời sống sản xuất của nhân dân, như đánh cá của dân chài, chở lúa, mạ trên đồng ruộng của nông dân, chở hàng hoá của các thương gia, chở hành khách trên các bến đò dọc, đò ngang ở các bến sông...

Càng về sau, khi điều kiện kinh tế xã hội cho phép, các phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường không phát triển thì giao thông vận tải đường thuỷ vẫn còn giữ một vị trí và tỷ lệ đáng kể trong nền kinh tế xã hội và đời sống của nhân dân. Ở một số vùng, con thuyền vẫn là phương tiện giao thông vận tải chủ yếu, gắn bó với nhiều người cho đến tận ngày nay.

Đường sắt được phát minh và đưa vào sử dụng vận chuyển trên thế giới vào đầu thế kỷ thứ XIX . Đường sắt có thể xây dựng đến mọi nơi, vận

16

tải liên tục, an toàn, với khối lượng lớn, cước phí rẻ, thu lãi nhiều. Đường sắt ở Việt Nam được xây dựng thành nhiều tuyến và thi công trong nhiều năm. Riêng đoạn từ Hà Nội- Ninh Bình hoàn thành ngày 9/1/1903. Đoạn này đi qua Nam Định, với 5 cung đoạn ga là: từ Cầu Họ qua Đặng Xá, Nam Định, Trình Xuyên, Gôi, Cát Đằng rồi vào Ninh Bình, tổng chiều dài 42 km. Với việc đường sắt xuyên Việt đi qua tỉnh nhà đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho việc vận chuyển hành khách, hàng hoá của nhân dân trong tỉnh. Thời Pháp thuộc, còn có một đoạn đường sắt Nam Định- Đò Chè dài 4,2 km để chuyên chở hàng hoá từ cảng sông lên ga và ngược lại( nay đã bị dỡ bỏ).

Đường không cũng đã được thực dân Pháp xây dựng và đưa vào sử dụng ở nước ta từ đầu thế kỷ XX. Ở Nam Định chúng đã cho xây dựng sân bay Trường Thi (ở khu vực sau dẫy nhà 5 tầng, đường Trần Đăng Ninh hiện nay); nhưng chủ yếu để sử dụng cho mục đích chính trị và quân sự, còn giao thông vận tải hàng hoá thì không đáng kể.

3, Giao thông liên lạc cách mạng phục vụ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc (1925-1945)

Đầu thế kỷ XX, thực dân pháp đẩy mạnh khai thác thuộc địa, đồng thời cũng tạo ra một giai cấp xã hội mới, đó là giai cấp công nhân Việt Nam. Giai cấp công nhân ra đời, bị bóc lột nặng nề, qua thực tế đấu tranh đòi quyền lợi và được các nhà yêu nước cách mạng tổ chức, tuyên truyền, giáo dục, dần dần họ ý thức được vị trí, vai trò của giai cấp mình nên đã đoàn kết và ngày càng đấu tranh mạnh mẽ. Trong đó Nam Định là một trong những trung tâm công nghiệp lớn, có phong trào đấu tranh cách mạng sớm và sôi nổi của gia cấp công nhân trong cả nước.

Năm 1920, sau nhiều năm bôn ba tìm đường cứu nước, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác- Lê nin, kết hợp chủ nghĩa Mác-Lê nin với chủ nghĩa yêu nước chân chính, sau đó tìm cách truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin về nước. Năm 1925, Đồng chí đã về Quảng Châu, Trung Quốc, tổ chức ra Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, tổ chức ra một số lớp học đào tạo cán bộ cách mạng và trực tiếp là người giảng dậy. Đồng chí đã cho người về nước, tìm chọn những người có đủ năng lực,

17

phẩm chất để đưa sang huấn luyện. Từ đó hình thành các đường dây liên lạc bí mật để đưa người từ trong nước sang theo học.

Ở Nam Định, thời gian này có 2 điểm liên lạc để đưa người đi theo học, đó là tại ngôi nhà số 7 phố Bến Ngự (thành phố Nam Định) và nhà ông Đinh Huy Ngạc, thôn Cát Dằng, Yên Tiến, Ý Yên .

Những năm từ 1927- 1929, hoạt động của hội Việt Nam Cách mạng thanh niên Nam Định phát triển mạnh mẽ. Tuy đường dây liên lạc thời kỳ này chưa phân chia rạch ròi thành các tuyến nội tỉnh, liên tỉnh, nhưng đã có quy định điểm hẹn, mật khẩu, cách thức để giao nhận tài liệu, công văn, giấy tờ, chỉ thị truyền đơn từ trên gửi về, và ngược lại.

Ngay trong nghị quyết đầu tiên của đảng, công tác giao thông liên lạc đã được đảng ta quan tâm đề cập đến: "Đảng bộ thượng cấp và đảng bộ hạ cấp phải liên lạc mật thiết luôn luôn thì đảng và quần chúng mới khỏi xa nhau".Vì thế: "Phải tổ chức cho nhiều cách giao thông để cho các cấp bộ đảng xa nhau thường thông tin liên lạc được với nhau".

Thực hiện nghị quyết của Trung ương đảng, tỉnh uỷ Nam Định đã thành lập Ban giao thông để liên lạc với Xứ uỷ và Trung ương, đồng thời tổ chức liên lạc từ tỉnh xuống đến các chi bộ và với các tỉnh bạn. Cơ sở giao thông của tỉnh thời gian này đóng ở số nhà 54, Phố Bến Củi.

Trong những năm 1930- 1931, các hoạt động thông tin liên lạc phục vụ cho lãnh đạo, chỉ đạo, tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng vẫn luôn được duy trì, giữ vững. Sau những vụ khủng bố trắng từ cuối năm 1931, có lúc cơ quan lãnh đạo của tỉnh cũng bị bắt, chưa kịp thành lập lại, song các nghị quyết của Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng, trong đó có nghị quyết về công tác giao thông liên lạc, vẫn được Trung Ương chuyển về theo đường dây liên lạc bí mật để các tổ chức cơ sở đảng của tỉnh Nam Định tổ chức thực hiện.

Những năm 1936- 1939, Mặt trận dân chủ Pháp thắng thế và nắm chính quyền. Tận dụng điều kiện ấy, các hoạt động dân chủ ở các nước thuộc địa cũng được đẩy mạnh. Nhiều chiến sỹ cách mạng đã mượn các

18

hình thức đi bán sách báo để chắp mối liên lạc và hoạt động như Vũ Huy Hào, Trần Xuân Mẫn...

Tháng 2/1937, Đảng bộ tỉnh Nam Định chủ trương thành lập cơ quan đại lý sách báo cánh tả, đặt tại thành phố Nam Định, do đồng chí Phan Đình Khải (tức Lê Đức Thọ) và một số đồng chí khác như Vũ Huy Hào... phụ trách. Các đại lý sách báo không chỉ là nơi đầu mối liên lạc của các đảng bộ mà còn là nơi công khai tiếp dân của Đảng.

Năm 1939, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, các hình thức hoạt động công khai hợp pháp và bán hợp pháp không còn phù hợp. Sách báo công khai cũng bị cấm, lực lượng giao thông liên lạc và phát hành báo chí phải rút vào hoạt động bí mật. Để tiếp tục có phương tiện tuyên truyền giáo dục và lãnh đạo đảng viên, quần chúng đấu tranh, Tỉnh uỷ Nam Định quyết định cho ra đời tờ báo "Tiến Lên". Báo "Tiến Lên" được phát hành rộng rãi trong 4 tỉnh. Khi báo in xong, các liên lạc viên, giao thông viên đã mưu trí, khôn khéo tìm mọi cách như bỏ vào thúng thóc, thúng gạo, hoặc giả làm người buôn bán để che mắt quân địch, đưa báo đến tay người đọc.

Khi chiến tranh thế giới thứ II nổ ra, nhiệm vụ giải phóng dân tộc đặt ra cấp thiết. Để mau chóng phát triển lực lượng cách mạng trong nước, tháng 11/1939, Trung ương Đảng họp đánh giá tình hình và quyết định thành lập các ban chuyên môn, trong đó có ban giao thông. Nghị quyết ghi rõ: "Phải lập tức khôi phục hệ thống giao thông liên lạc sao cho các đảng bộ từ chi bộ đến trung ương đều có liên lạc mật thiết"(8).

Thời gian này chính quyền Pháp thực hiện phát xít hoá bộ máy cai trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng ở chính quốc và thuộc địa. Trước những khó khăn đó, Tỉnh uỷ Nam Định chủ trương rút vào hoạt động bí mật, đồng thời tổ chức nhiều biện pháp tuyên truyền giáo dục, để củng cố phong trào. Tờ báo Tiến Lên, mỗi số 30-40 trang được tổ chức in ấn và được các giao thông viên phát hành rộng rãi. Ngoài in Báo, tỉnh còn phát hành các bản tin của Đảng cộng sản Trung Quốc... Cũng trong thời gian này, hoạt động giao thông liên lạc của tỉnh còn phối hợp đưa đón

8(?) L.sử ĐCSVN, T1, hà nội :1984, tr:228.

19

nhiều cán bộ Trung ương từ trạm liên lạc ở Văn Điển (do Trung ương thành lập) về dự học chính trị ở Bình Lục an toàn.

Khi Nhật nhẩy vào chiếm Đông Dương (9/1940), các đảng viên và tổ chức cơ sở cách mạng nhận thấy tình hình có chiều hướng thay đổi, đã tìm cách đẩy mạnh bắt mối liên lạc với cấp trên để hoạt động. Nhờ đó, sau khi nắm được chủ trương của đảng, nhiều tổ chức cơ sở đảng đã chủ động tuyên truyền, xây dựng lực lượng vũ trang, đưa phong trào phát triển đi lên.

Tháng 5/1941, Hội nghị BCH TW 8 đã quyết định đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên nhiệm vụ cấp bách hàng đầu. Ngoài chủ trương thành lập Việt Minh, xây dựng căn cứ địa cách mạng để chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Hội nghị cũng đề ra một số biện pháp cụ thể về công tác thông tin liên lạc.

Thực hiện nghị quyết Hội nghị TW8 và vận dụng kinh nghiệm của các nhà cách mạng dầy dạn về công tác giao thông liên lạc, tỉnh uỷ Nam Định đã tổ chức 2 đường dây về thông tin liên lạc đi, về khác nhau và có đường dây dự bị để khi cần thì thực hiện được ngay.

Giữa năm 1941, Thường vụ Trung ương Đảng chỉ thị cho lực lượng giao thông liên lạc kết hợp với lực lượng vũ trang tìm cách mở đường giao thông giữa miền ngược và miền xuôi. Tỉnh uỷ Nam Định cũng đã kịp thời chỉ đạo cùng với tỉnh uỷ Hà Nam mở các tuyến liên lạc với các cơ quan Trung ương Đảng và sứ uỷ đóng ở ngoại thành Hà Nội, Bắc Ninh và chiến khu Việt Bắc.

Đầu năm 1942, Trung ương thông báo yêu cầu các cấp bộ đảng phải tổ chức mạng lưới giao thông liên lạc theo nguyên tắc biệt lập:

- Thứ nhất: Những người làm công tác giao thông liên lạc phải tách ra ngoài công tác Đảng, công tác Mặt trận. Người làm công tác giao thông liên lạc thì không được biết và không được đến các cơ quan Đảng, cơ quan Mặt trận, mà chỉ đến cơ quan giao thông biệt lập hoặc đến những nơi hẹn.

20

- Thứ 2: Hai đảng bộ giao thông liên lạc với nhau phải có 2 đầu mối giao thông riêng rẽ, mất mối này còn mối khác.

Thực hiện thông báo của Trung ương, Tỉnh uỷ và mặt trận Việt Minh Nam Định đã tiến hành củng cố, sắp xếp lại lực lượng giao thông liên lạc, hình thành 2 mối giao thông liên lạc biệt lập, và có nhiều đường dây khác nhau. Nhờ đó công tác giao thông liên lạc trong tỉnh hoạt động có hiệu quả hơn. Đầu năm 1943, đồng chí Tùng Giang được công vận xứ cử về gây dựng phong trào ở Nam Định. Qua cơ sở ki-ốt Thu Hương (ở vườn hoa Điện Biên), đồng chí đã bắt liên lạc được với các đồng chí Bùi Xuân Mẫn, Bùi Thế Đạm, Trần Văn Hiên, ... và thành lập ban công vận tỉnh Nam Định. Với sự hoạt động tích cực của Ban Công Vận và các cán bộ, đảng viên, nhiều chi bộ đảng ở thành phố và nông thôn tiếp tục được phục hồi. Nhiều tài liệu báo chí cách mạng, trong đó có báo "Cứu Quốc", "Cờ Giải phóng"...được chuyển về địa phương, lưu hành bí mật trong đảng viên và quần chúng nhân dân. Bước sang năm 1945, không khí cách mạng diễn ra sôi sục trong cả nước. Tháng 5/1945, Ban cán sự tỉnh Nam Định mở hội nghị ở Quần Liêu (Nghĩa Hưng), bàn về việc đẩy mạnh phong trào cách mạng, chuẩn bị điều kiện cho khởi nghĩa, chủ trương tiến hành tăng cường thêm một bước về công tác giao thông liên lạc, cụ thể là:

- Củng cố, mở rộng các đường dây giao thông liên lạc từ Tỉnh đến cơ sở và với Trung ương, khi cần là phục vụ được ngay.

- Thành lập các tổ giao thông hoả tốc, sẵn sàng nhận các chỉ thị , mệnh lệnh của trên về các cơ sở đảng một cách nhanh chóng. Các đồng chí Đỗ Văn Lương, Nguyễn Văn Dũng, Trần Đại Tần được cử phụ trách các tổ giao thông hoả tốc này.

Khi phát xít Đức-Nhật thất bại, thời cơ khởi nghĩa đã chín muồi, vào những ngày 13-15/8/1945, Trung ương đảng triệu tập Hội nghị Trung ương đảng và Hội nghị Quốc dân tại Tân Trào (Tuyên Quang), quyết định phát lệnh tổng khởi nghĩa trong toàn quốc. Riêng công tác giao thông liên lạc, Hội nghị chỉ rõ: "Lập ban giao thông chuyên môn, và giúp đỡ đầy đủ cho

21

họ làm tròn nhiệm vụ" (9). Đây là một sự kiện hết sức quan trọng đối với những người làm công tác giao thông liên lạc.

Thực hiện nghị quyết của Trung ương, Ban cán sự Đảng tỉnh Nam Định quyết định thành lập Ban giao thông của tỉnh gồm các đồng chí: Đỗ Văn Lương, trưởng ban; Nguyễn Văn Dũng, phó ban; Trần Đại Tần, uỷ viên.

Khi biết tin Nhật đầu hàng đồng minh và nhân dân các nơi đang sôi sục chuẩn bị cho khởi nghĩa, Chiều ngày 15/8/1945, Ban cán sự tỉnh triệu tập một cuộc họp khẩn cấp tại thôn Trung Lao, huyện Trực Ninh, quyết định phát lệnh khởi nghĩa. Các tin tức từ Trung ương về và chủ trương khởi nghĩa của Ban cán sự được các chiến sỹ giao thông liên lạc nhanh chóng truyền đi các nơi, góp phần quan trọng vào sự tổ chức, lãnh đạo tổng khởi nghĩa thành công.

CHƯƠNG II

GIAO THÔNG VẬN TẢI NAM ĐỊNH TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945-1954)

---

1, Giao thông vận tải Nam Định phục vụ nhiệm vụ xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng.

Cách mạng tháng 8/1945 thành công là một sự kiện chính trị trọng đại, đập tan chế độ phong kiến hàng ngàn năm, chế độ thực dân xâm lược 9(?) Văn kiện đảng, 1977, tr: 420 .

22

hàng trăm năm; tạo ra một bước ngoặt lịch sử đưa dân tộc ta sang một trang sử mới, đánh dấu sự sụp đổ chế độ đô hộ của Thực dân Pháp, dành lấy chính quyền về tay nhân dân.

Nhưng ngay sau khi cách mạng thành công, đất nước ta lại đứng trước muôn vàn khó khăn thử thách phải khắc phục. Công việc cấp thiết đặt ra lúc này là phải khẩn trương củng cố, xây dựng chính quyền cách mạng vững mạnh; phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục; tuyên truyền đẩy mạnh tăng gia sản xuất, giải quyết nạn đói, nạn dốt và đặc biệt là phải tích cực chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng chống giặc ngoại xâm. Trong bối cảnh đất nước vừa mới giành được độc lập, vận mệnh ngàn cân treo sợi tóc, để bảo về chính quyền non trẻ, ngày 28/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký nghị định số 41, thành lập Bộ giao thông công chính (GTCC), là 1 trong 13 bộ của chính phủ lâm thời, do ông Đào Trọng Kim là bộ trưởng, ông Đặng Phúc Thông là thứ trưởng.

Cơ cấu tổ chức Bộ Giao thông công chính gồm có nhiều bộ phận trực thuộc như: Sở Thanh tra công chính, Sở Hoả xa trung ương, Sở Hằng hải thương thuyền, Phòng Hàng không thương thuyền, các cơ quan tham mưu, văn phòng bộ, ...

Ở các tỉnh đều thành lập ty Công chính để thực hiện các nhiệm vụ ở địa phương. Tỉnh Nam Định, ty Công chính được thành lập năm 1945, do ông Đào Trọng Luỹ làm trưởng ty. Bộ máy của ty lúc đầu rất đơn giản, chủ yếu là làm nhiệm vụ tham mưu cho UBKC-HC tỉnh về các chủ trương ,biện pháp quản lý đê điều, cầu cống, sông ngòi và các sự vụ hành chính, giấy tờ. Trong cơ cấu tổ chức của ty Công chính lúc này có các bộ phận:Giao thông, Đê điều, Xây dựng, Bưu điện.

Sau cách mạng tháng 8/1945, cũng như tình trạng chung của cả nước, mạng lưới giao thông vận tải tỉnh Nam Định, cả đường bộ và đường thuỷ đều yếu kém về chất lượng, năng lực GTVT có nhiều hạn chế. Các tuyến đường bộ như đường 10, đường 12, đường 21...đường 53, 56, 57...với hàng trăm km đã xuống cấp. Mặt đường hẹp, chỉ từ 2,5- 3,5 m (trừ Quốc lộ 10, 21, rộng trên 5 m, rải nhựa), chủ yếu là rải đá, nhiều chỗ lầy lội, thụt lún về mùa mưa. Hệ thống cầu cống cũng rất nhỏ bé, yếu kém, sức

23

trọng tải hạn chế. Hệ thống đường sông, chủ yếu là sử dụng điều kiện tự nhiên sẵn có. Việc đầu tư nạo vét, cải tạo luồng lạch, không được thực hiện , nên việc đi lại cũng gặp nhiều khó khăn.

Giao thông đi lại lúc này chủ yếu là đi bộ, đi thuyền, hoặc đi xe ngựa. Việc chuyên chở hàng hoá lúc này cũng chủ yều là gánh, đội, chở thuyền, xe...Ở thành phố có sử dụng nhiều xe đạp, xích lô hơn. Cũng có một số phương tiện vận tải khác như ô tô, tầu thuỷ, chở khách của tư nhân, nhưng quy mô nhỏ, số lượng ít, và lạc hậu.

Thời kỳ này ở Nam Định có khoảng 3 chục ô tô chở khách chạy các tuyến từ Nam Định đi Hà Nội, Phủ Lý, Thái Bình, Ninh Bình, Cổ Lễ, Bùi Chu...Và có một số tầu thuỷ, ca nô chở khách như tầu Hùng Vương, Nam Hưng, Hải Yến, Vĩnh Khang; ca nô Bạch Đằng chạy các tuyến từ Nam Định đi Hải Phòng, Hà Nội. Lực lượng xích lô ở thành phố có khoảng vài ba chục chiếc.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ mới đặt ra của đất nước, và riêng tỉnh Nam Định thì nhiệm vụ chung của ty Công chính lúc này là phục vụ cho việc xây dựng, củng cố chính quyền vững mạnh, phát triển kinh tế xã hội, góp phần vào việc diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nhiệm vụ cụ thể là chuyên quản lý về các mặt đường xá, cầu cống, đê điều, sông ngòi, giao thông đi lại, xây dựng, chuyển vận công văn, giấy tờ, điện báo, điện thoại...

Ngay sau khi cách mạng tháng 8/1945 thành công, chính quyền cách mạng đã tiến hành quốc hữu hoá các cơ sở vật chất do chính quyền cũ để lại và trên cơ sở đó tổ chức sắp xếp lại, phục vụ cho yêu cầu nhiệm vụ mới.

Trên lĩnh vực giao thông vận tải, ty Công chính đã tập trung vào các công việc như sửa sang, mở rộng đường xá trên các đường liên tỉnh, liên huyện, liên thôn; tổ chức sắp xếp lại các phương tiện đi lại như tầu, xe, thuyền bè...phục vụ cho nhu cầu chuyên chở của nhân dân.

Song mặc dù mạng lưới thông tin liên lạc của ngành Bưu điện đã được quan tâm và tổ chức lại, nhưng do điều kiện cơ sở vật chất còn lạc hậu, cách thức tổ chức chưa đáp ứng kịp thời với điều kiện, tình hình mới,

24

nên để phục vụ tốt hơn nữa nhu cầu thông tin liên lạc, tháng 2/1946, Trung ương Đảng đã quyết định cho thành lập Ban giao thông Trung ương. Nhiệm vụ của Ban là vận chuyển công văn, tài liệu cơ mật của Đảng và Chính phủ đến các Xứ uỷ, Tỉnh uỷ trong cả nước.

Tại Nam Định, Ban giao thông liên lạc ra đời đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của tỉnh uỷ. Ngày 5/10/1946, đồng chí Bí thư tỉnh uỷ Đỗ Mười (Lê Định) đã ký quyết định thành lập ban giao thông của tỉnh Nam Định(10). Biên chế ban đầu của Ban có khoảng 18-20 người, chủ yếu là cán bộ công nhân viên của ty Công chính và ty Bưu chính chuyển sang, do đồng chí Đỗ Văn Lương phụ trách. Mỗi người trong ban đều được phân công chịu trách nhiệm từng phần việc cụ thể. Cơ cấu tổ chức của ban gồm các bộ phận: Giao thông đến huyện, Hoả tốc, nghiệp vụ chuyên môn, kế toán hậu cần. Điều hành văn phòng ban là đồng chí Trần Văn Giản.

Ở các huyện cũng đã thành lập các Ban giao thông liên lạc, số lượng từ 3- 5 người. Khi công việc đòi hỏi cần thiết, có thể huy động thêm một số giao thông viên; số lượng huy động do huyện quyết định và đài thọ.

Phương tiện đi lại của các giao thông viên chủ yếu vẫn là đi bộ. Riêng Ban giao thông tỉnh còn được cấp một số xe đạp và được trang bị một số vũ khí.

Trên lĩnh vực giao thông vận tải, sau cuộc bầu cử Quốc hội ngày 6/1/1946 thành công, ngày 2/3/1946, Quốc hội họp phiên đầu tiên bầu ra chính phủ và các bộ, ngành. Bộ Giao thông công chính được tuyên bố thành lập, trực thuộc chính phủ, do kỹ sư Trần Đăng Khoa làm bộ trưởng; kỹ sư Đặng Phúc Thông làm thứ trưởng, kiêm giám đốc sở Hoả xa. Sau đó, ngày 13/4/1946, Hồ Chủ Tịch ký sắc lệnh số 50, với 23 điều, quy định đầy đủ cơ cấu tổ chức bộ GTCC.

Ngày 25/3/1946, Hồ Chủ Tịch ký sắc lệnh số 34 về tổ chức Bộ quốc phòng, trong đó có Cục công chính giao thông, với nhiệm vụ cụ thể như sau: "Công chính giao thông là cục có nhiệm vụ tổ chức và thi hành việc vận tải, thông tin, vẽ đồ bản và tổ chức công binh dùng vào việc chuyên 10(?) Theo đề cương hồi ký giao thôngkháng chiến chống Pháp của ban liên lạc giao thông kháng chiến , tỉnh uỷ Nam Định .

25

môn, xây dựng, sửa chữa cầu cống, đường xá, máy móc". Việc ra đời của lực lượng công binh đã đánh dấu một bước phát triển mới của lực lượng giao thông vận tải, thông tin liên lạc trong lực lượng vũ trang, là nòng cốt cùng lực lượng giao thông vận tải nhân dân làm nhiệm vụ phá hoại giao thông, mở đường đánh địch trên mặt trận giao thông chiến.

Trong thời gian những năm 1945-1946, ngành giao thông vận tải đã góp phần quan trọng vào việc củng cố, xây dựng chính quyền, phát triển kinh tế, xã hội, tích cực diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Khi bàn về GTVT, Hồ Chí Minh đã đánh giá rất cao vị trí, vai trò của ngành trong việc đóng góp vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc và các lĩnh vực khác: "Giao thông là mạch máu của tổ chức, giao thông tốt thì mọi việc đều dễ dàng, giao thông xấu thì mọi việc đều đình trệ".(11)

Ở Nam Định, trong những năm 1945- 1946, lực lượng giao thông vận tải và giao thông liên lạc đã được hình thành, tuy cơ sở vật chất ban đầu còn thiếu thốn, nhưng ngành cũng đã làm tốt công tác tham mưu với tỉnh uỷ, uỷ ban, đảm bảo phục vụ thường xuyên về giao thông vận tải và thông tin liên lạc giữa các cấp, các ngành với cơ sở; đồng thời phục vụ đột xuất các công tác khác như hộ đê, chống hạn, cứu đói, cổ vũ cho "Tuần lễ vàng", và xây dựng "Quỹ độc lập". Đặc biệt là phục vụ đắc lực cho cuộc tổng tuyển cử đầu tiên, bầu ra Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thành công tốt đẹp.

2, Giao thông vận tải tỉnh Nam Định phục vụ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954).

a, Giao thông vận tải với nhiệm vụ phục vụ chiến đấu giam chân địch trong thành phố.

Sau khi hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 được ký kết, quân Pháp vào thay quân Tưởng ở một số vị trí; ở Nam Định có 850 tên. Thực tế lúc này khả năng giữ gìn hoà bình không còn nữa. Công việc khẩn cấp của Chính phủ Kháng chiến là "Kháng chiến, kiến quốc". Đứng trước nguy cơ chiến tranh đang ngày càng tới gần, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng,

11(?) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 4, NXB CTQG Hà nội, tr:202.

26

Đảng bộ Nam Định tích cực tuyên truyền động viên nhân dân sẵn sàng chuẩn bị cơ sở vật chất và tinh thần cho cuộc kháng chiến. Cùng với việc tổ chức các đội cảm tử, các đội phá bom mìn, đào hầm hố, lên phương án tác chiến...thì mạng lưới giao thông liên lạc cũng được củng cố ngày một chặt chẽ, để đảm bảo sự lãnh đạo chỉ đạo kịp thời từ tỉnh xuống các huyện.

Từ tháng 9 đến tháng 12 năm 1946, uỷ ban bảo vệ tỉnh và các đội tự vệ được thành lập, gồm 700 người. Ở mỗi huyện cũng thành lập một đội tự vệ để làm nhiệm vụ phá bom mìn, dựng công sự, phá hoại đường xá. Khi có nghị quyết hội nghị quân sự toàn quốc của đảng, 10/1946, kế hoạch chuẩn bị chiến đấu của quân dân Nam Định nhanh chóng được triển khai. Hoạt động GTVT ngoài việc chuyên chở hành khách, hàng hoá, phục vụ cho việc tản cư đi lại của nhân dân, còn tham gia vào công tác phá hoại đường xá, xây dựng chướng ngại vật phục vụ kháng chiến. Hàng ngàn mét giao thông hào, hầm hố chiến đấu trên các ngả đường thành phố được nhân dân và tự vệ thành phố phối hợp đào đắp. Các ổ tác chiến, các chướng ngại vật được xây dựng. Các nút điểm giao thông quan trọng như ngã tư Cửa Đông, ngã sáu Năng Tĩnh...được đắp ụ để ngăn xe cơ giới địch. Nhiều đoạn đường biến thành giao thông hào. Các tuyến đường lớn như đường 10, đường 21, được đào hào chữ chi (Z) vào đến tận Ninh Bình và Cầu Họ. Các gốc cây bên đường cũng được đào sẵn hố để khi cần là có thể đánh sập được nhanh chóng. Các dẫy phố được đục thông từ nhà nọ sang nhà kia để bộ đội và tự vệ dễ dàng vận động đánh địch. Mọi nhà trong thành phố đều dự trữ sẵn gạo nước, lương khô cho bộ đội. Các bến đò cũng được bố trí sẵn sàng để khi cần hành quân, hay cứu thương, tải đạn, tản cư được nhanh chóng, dễ dàng. Lường trước sự biến chuyển của tình hình, tỉnh đã huy động dự trữ được 20 tấn gạo, 1 tấn lương khô, 1 tấn đường và mật. Đồng thời tổ chức phân tán kho muối Văn Lý, vận động nhân dân dự trữ muối ăn trong 3 tháng, đóng góp từ 2-5 kg gạo/mẫu để dự trữ lương thực nuôi quân. Các cơ quan tập trung quỹ được 5 triệu đồng để phục vụ cho kháng chiến.

Thực hiện quyết định của tỉnh uỷ, lực lượng GTVT đã tích cực giúp đỡ nhân dân trong việc tản cư, sơ tán các cơ quan, dân thường và tài sản ra khỏi thành phố. Các khẩu hiệu được phổ biến rộng rãi lúc này là :"Tản cư là yêu nước", "Tản cư cũng là đánh giặc"...

27

Hưởng ứng cuộc đình công ngày 13/11/1946 của 3000 công nhân nhà máy Dệt Nam Định, do tỉnh uỷ phát động, công nhân ngành vận tải thành phố Nam Định đã tích cực ủng hộ và nêu khẩu hiệu ủng hộ công nhân nhà máy sợi. Thuỷ thủ tầu Giắc cơ lin của công ty vải sợi Bắc Kỳ đã đình công, nghỉ việc không bốc hàng xuống tầu, làm cho kế hoạch vận tải hàng hoá ra Hòn Gai của quân Pháp không thực hiện được.

Trước âm mưu tái xâm lược của thực dân Pháp, đêm 19/ 12/ 1946 thường vụ Trung ương họp, quyết định phát động toàn quốc kháng chiến. Sáng 19/12/1946 Bưu Điện Nam Định đã nhận được công điện khẩn của Trung ương với tinh thần : Tất cả hãy sẵn sàng! và nhanh chóng triển khai lực lượng, bố trí người trực ở tổng đài, tăng cường phương tiện đường thư, báo; tất cả làm việc với tinh thần khẩn trương, sẵn sàng phục vụ khi có lệnh của cấp trên. Mạng lưới điện thoại dự bị ra ngoài thành phố, lực lượng giao thông hoả tốc và các điểm sơ tán đều được triển khai chuẩn bị sẵn sàng. Vì thế khi tiếng súng toàn quốc kháng chiến bắt đầu nổ ra, thì lực lượng giao thông liên lạc cũng đã sẵn sàng vào vị trí chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

Khi chiến sự xẩy ra, Tự vệ thành phố đã cho nổ mìn ngả các cây to dọc đường Trần Hưng Đạo, từ ngã tư Cửa Đông đến toà thị sảnh để cản phá giao thông của địch. Nhiều người dân thành phố đã không ngần ngại mang giường, tủ, sập gỗ ra đường làm chướng ngại vật, ngăn chặn bước tiến của quân thù. Khắp các khu phố chính, các chướng ngại vật được dựng lên nhan nhản đó đây. Nhân dân còn cùng tự vệ lấy xe bò chở thêm đất đá, gỗ, gạch đổ vào những ngã ba, ngã tư, làm thành chiến luỹ cản xe địch. Ở các khu nhà lá (Văn Miếu), trại Con Gái (vợ lính khố đỏ), nhân dân đã nổi lửa tự đốt nhà ở của mình để góp phần cùng quân dân đánh giặc.

Cuộc chiến đấu giam chân địch đã diễn ra trên nhiều phương diện chính trị, quân sự, kinh tế...Riêng lĩnh vực GTVT, ta bao vây phong toả đường xá, hạn chế sự đi lại tiến quân của chúng. Phía nhà ga, các chiến sỹ thuộc đại đội 15 đã liên tục chiến đấu, giành đi giật lại từng tấc đất, từng căn buồng, tầng gác. Ngay trước giờ nổ súng, liên lạc giữa nhà băng tới nhà máy sợi của địch đã bị ta cắt đứt. Trong những tháng ngày giam chân

28

địch ở thành phố Nam Định, trên các tuyến đường 10, 12, 21 và 38... từ thành phố toả về các xã, thị trấn nhân dân cùng tự vệ đã hạ hàng loạt cây to và nhiều cột đèn, cột điện làm chướng ngại vật. Các cây cầu lớn, nhỏ trên các tuyến đường như Cầu Ốc, Cầu Họ, Cầu Gia...đã bị đánh sập để cản bước tiến quân thù. Nhiều đoạn đường sắt đã bị đào bới, hoặc tháo dỡ đường ray, tà vẹt, khiến cho giao thông đường sắt qua Nam Định bị tê liệt hoàn toàn. Các tầng lớp nhân dân luôn hướng về thành phố, sát cánh cùng lực lượng vũ trang chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu. Thanh niên, công nhân đã tình nguyện ở lại đào hào, đắp ụ, xây dựng chướng ngại vật ở những nơi địch có thể lấn ra, hoặc phá hoại các công trình mà địch có thể lợi dụng. Nhiều người đã anh dũng vượt qua hoả lực của quân địch để đưa thương binh, tử sỹ ra ngoài, hoặc đến tận các vị trí chiến đấu để tiếp tế vũ khí, đạn dược và phục vụ cơm nước cho các chiến sỹ chiến đấu.

Nhân dân các huyện gần thành phố, như Vụ Bản, Nam Trực, Mỹ Lộc...hăng hái đào giao thông hào, công sự, cắt đứt các tuyến đường từ thành phố đi các địa phương. Hàng vạn gánh rơm rạ được chuyển vào thành phố để đánh hoả công các vị trí địch. Hàng vạn cây tre, gỗ được cắm xuống lòng sông Hồng, sông Đào; hàng trăm chiếc thuyền được xếp đầy đất đá, dìm xuống các cửa sông, cửa biển để ngăn cản tầu chiến địch. Nhân dân nội thành còn tháo dỡ, vận chuyển nhiều máy móc thiết bị của các xí nghiệp ra ngoài hậu phương để xây dựng công binh xưởng.

Để phù hợp với điều kiện chiến tranh, hệ thống Giao thông liên lạc tiếp tục được củng cố thêm một bước. Mạng lưới giao thông liên lạc chạy bộ được tăng cường để phục vụ tỉnh uỷ, uỷ ban kháng chiến, chỉ huy mặt trận, đảm bảo thông tin liên lạc từ tỉnh xuống các huyện và đi Trung ương, đến các tỉnh bạn lân cận. Lúc này Bưu Điện sơ tán về xã Mỹ Xá, ban Giao thông liên lạc tỉnh sơ tán về Thượng Lỗi. Bưu Điện và Ban Giao thông là 2 bộ phận riêng, nhưng cùng chung nhiệm vụ thông tin liên lạc (tuy quy mô và tính chất có khác nhau) nên trong kháng chiến nhiều khi đã hoà nhập làm một để làm nhiệm vụ chung.

Do yêu cầu của mặt trận. UBKCHC tỉnh đã chỉ đạo thành lập một Ban Tiếp tế vận tải phục vụ riêng tại mặt trận Thành phố Nam Định. Cả

29

tỉnh lúc này mặt trận chính và duy nhất là Thành phố Nam Định nên cả tỉnh và thành phố chiến đấu chống giặc. Công chính tỉnh lo tổ chức lực lượng này trên cơ sở sử dụng các đơn vị tự vệ của dân Năng Tĩnh và An Duyên - Mai Xá, Mỹ Trọng - Lộng Đồng. Lực lượng này hoạt động từ tháng 12-1946 đến tháng 4-1947.

Ban giao thông liên lạc thành phố cũng được thành lập, do đồng chí Luân làm trưởng ban. Lúc đầu cơ quan giao thông thành phố đóng ở Hàng Tiện. Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trong thành phố, trước đó, anh em chiến sỹ giao thông liên lạc đã đi vẽ bản đồ đường đi lối lại, tập luyện các môn chạy, ném lựu đạn, bắn súng, tập đưa công văn, tài liệu trong chiến đấu...Suốt 3 tháng phục vụ thông tin liên lạc trong thành phố, anh chị em đã dũng cảm vượt qua lửa đạn, khắc phục khó khăn, giữ vững thông tin liên lạc giữa ban chỉ huy mặt trận với tỉnh uỷ, UBKC-HC và ban lãnh đạo thành phố. Anh chị em giao thông liên lạc thành phố còn đưa đón hàng ngàn lượt dân quân tự vệ ở các xã ngoại thành vào phối hợp với bộ đội chiến đấu, hướng dẫn dân công đem rơm rạ cho bộ đội đốt đồn bốt quân giặc, phục vụ mặt trận cho đến khi bộ đội rút ra ngoại thành.

Trong cuộc chiến đấu 86 ngày đêm giam chân địch, lực lượng GTVT và liên lạc đã góp phần to lớn cùng quân dân cả tỉnh tổ chức di dời cơ sở vật chất, tài sản của các cơ quan và nhân dân đến nơi an toàn, tổ chức xây dựng các chướng ngại vật phá hoại giao thông, cản phá bước tiến của quân địch, và đảm bảo thông tin thông suốt, phục vụ cho sự lãnh đạo chỉ đạo của tỉnh uỷ, UBKC tới các huyện, thành, cơ sở và ngược lại. Chính vì thế quân dân Nam Định đã hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu giam chân địch, tiêu hao nhiều sinh lực địch, đánh nhiều trận tiêu biểu, lập công xuất sắc và là một trong những tỉnh có thời gian chiến đấu giam chân địch trong thành phố chủ động và lâu nhất so với cả nước, tạo điều kiện cho quân dân ta có đủ thời gian chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài.

Sau khi bộ đội ta hoàn thành nhiệm vụ, rút khỏi thành phố (3/1947), Bưu Điện và Ban giao thông liên lạc của tỉnh đi theo cơ quan tỉnh uỷ, UBKC-HC tỉnh về Chợ Dần (Vụ Bản). Thời kỳ này các hoạt động của giao

30

thông, vận tải, bưu điện đều phục vụ cho sự lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh uỷ, UBKC-HC, phục vụ cho kháng chiến thắng lợi.

b, Giao thông vận tải Nam Định trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, phục vụ sự lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hoá xã hội, chống địch mở rộng càn quét, lấn chiếm (1947-1949).

Cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta diễn ra trên 3 giai đoạn: từ phòng ngự(1946-1947), sang cầm cự (1948-1950) sang tổng phản công (1951-1954).

Riêng ở Nam Định, do đặc điểm tình hình cuộc kháng chiến có những nét khác biệt so với các tỉnh khác. Sau cuộc chiến đấu giam chân địch trong thành phố, giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến kéo dài từ 1947 đến 1949. Đây là giai đoạn địch đánh chiếm được thành phố, chiếm đóng trong một phạm vi nhỏ khoảng 200km2, thỉnh thoảng lại tổ chức đánh ra vùng tự do của ta. Đại bộ phận đất đai còn lại vẫn do ta kiểm soát. Hoạt động GTVT lúc này vừa phục vụ kháng chiến, vừa tích cực phục vụ cuộc sống của nhân dân.

Ở giai đoạn đầu cuộc kháng chiến, để phục vụ cho nhu cầu kháng chiến, Bưu điện tỉnh đã cùng với Ban giao thông liên lạc phối hợp tổ chức lại mạng lưới giao thông liên lạc, lấy Ban giao thông của tỉnh làm nòng cốt, các trạm Bưu Điện và Ban giao thông liên lạc đều đặt dưới sự quản lý điều hành trực tiếp của huyện uỷ, và UBKC-HC huyện. Cơ quan của tỉnh uỷ đóng ở huyện nào thì giao thông liên lạc huyện đó phục vụ. Các giao thông liên lạc viên lúc này ngoài nhiệm vụ tiếp nhận, chuyển vận công văn giấy tờ, tài liệu, còn đưa đón cán bộ, bộ đội đi công tác và chiến đấu.

Sau thất bại Thu Đông 1947 ở Việt Bắc, quân địch quay về mở rộng chiếm đóng đồng bằng. Tỉnh uỷ, UBKC-HC tỉnh chuyển đại bộ phận các cơ quan về đóng tại Quần Anh (Hải Hậu). Nhiệm Vụ của công tác giao thông liên lạc lúc này khó khăn và phức tạp hơn trước rất nhiều:

- Bộ phận phía bắc ở thôn An Cừ (Ý Yên), gọi là trạm ZTK, vừa là trạm đầu mối ra vào của tỉnh, vừa phục vụ thông tin liên lạc cho các huyện

31

Ý Yên, Vụ Bản, Mỹ Lộc và thành phố Nam Định. Ngoài ra còn liên lạc trực tiếp với liên khu III và các tỉnh bạn. Bộ phận này do đồng chí Trần Đại Tần phụ trách.

- Bộ phận phía nam ở Hải Lạng (Nghĩa Hưng), gọi là trạm ZT6, cũng phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, UBKC-HC tỉnh ở các huyện phía nam. Bộ phận này do đồng chí Trần Văn Giản phụ trách. Sau trạm di chuyển sang cả Trực Ninh và Hải Hậu. Ngoài phục vụ thông tin liên lạc của tỉnh và 6 huyện phía nam, trạm còn giữ mối thông tin liên lạc với tỉnh Thái Bình và Ninh Bình.

Tình hình chiến sự diễn ra ngày càng căng thẳng và ác liệt. Máy bay địch luôn ngày đêm dò tìm bắn phá các mục tiêu trên những tuyến đường giao thông huyết mạch, những bến đò, khúc sông quan trọng, như tuyến đường 10 (Nam Định- Gôi), tuyến đường 21b (Nam Định- Cổ Lễ), tuyến sông Đào (bến đò Chanh, bến đò Lá...), và các bến đò dọc sông Hồng sang Thái Bình. Do vậy việc giao thông liên lạc gặp nhiều khó khăn hơn trước. Nhiều đoạn đường, khúc sông chỉ có thể vượt qua được vào ban đêm. Nhiều khi các chiến sỹ TTLL của ta phải cải trang, dấu kín tài liệu mới che mắt được quân địch.

Khi Tỉnh uỷ, UBKC-HC tỉnh chia làm 2 bộ phận để trực tiếp gần dân, chỉ đạo nhân dân sản xuất, chiến đấu, thì lực lượng Giao thông liên lạc cũng phải chia nhỏ, đi theo để đảm bảo thông tin. Đây cũng là lúc kẻ thù ngày càng đẩy mạnh các hoạt động càn quét chống phá ta. Hàng ngày chúng cho máy bay đi bắn phá, cho biệt kích, thám báo đi sục sạo, dò la tin tức, nơi nào nghi ngờ là chúng cho máy bay đến bắn phá ngay. Vì thế các cơ quan Tỉnh uỷ, UBKC-HC tỉnh phải chia nhỏ, phân tán để đảm bảo bí mật. Tình hình đó đòi hỏi lực lượng Giao thông liên lạc phải củng cố tổ chức lại mạng lưới để đáp ứng với tình hình yêu cầu nhiệm vụ mới. Tỉnh đã chỉ đạo thành lập 2 tổng đài ở phía bắc và phía nam tỉnh và nhiều trạm máy lẻ.

Việc thông tin liên lạc trên các đường dây từ An Cừ (Ý Yên) đến các huyện phía bắc và phía nam được thực hiện chủ yếu bằng cách đi bộ, hoặc đi thuyền. Nam Định là tỉnh đồng bằng, lắm sông ngòi, nhiều vùng chiêm

32

trũng lầy lội nên việc đi bộ, đi thuyền luôn kết hợp với nhau. Những khi không có thuyền, nhiều giao thông viên phải bơi qua sông, qua đồng, bất kể khi nắng nóng hay khi đêm đông rét thấu xương. Chỉ với 1 bộ quần áo mỏng manh, có khi người giao thông viên phải lội đồng suốt đêm để đi làm nhiệm vụ.

Thực tế cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược Ở Nam Định từ 1946-1948 đã diễn ra trên 2 vùng khác nhau, đó là vùng tự do và vùng bị chiếm đóng. Trong thời gian chiến đấu giam chân địch trong thành phố và trong vùng địch kiểm soát thì hoạt động trên lĩnh vực giao thông vận tải chủ yếu là phá hoại các đường xá, cầu cống, phương tiện vận tải của địch, nhằm ngăn cản sự cơ động tiến quân của chúng. Khi chiếm đóng, chúng bắt nhân dân ta tu sửa, làm lại cầu đường và các công trình giao thông phục vụ sự đi lại của chúng. Nhưng ban ngày dân ta đi làm, ban đêm ta lại tổ chức đi phá, mặt đường biến thành những trận địa chông mìn, đi lại rất khó khăn. Ở vùng tự do, ta kiểm soát, các hoạt động giao thông vận tải tuy không có điều kiện mở mang nhiều, nhưng vẫn được quan tâm phục vụ cho nhu cầu đi lại của nhân dân và phục vụ cho kháng chiến kiến quốc.

Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, sự đấu tranh, giành giật trên mặt trận giao thông đã diễn ra ác liệt. Trước đó, để ngăn chặn bước tiến quân, càn quét chiếm đóng của địch, Hội nghị quân sự Trung ương 1/1947 đã đề ra chủ trương phải phá hoại các kiến trúc kiên cố mà địch có thể lợi dụng để đánh ta. Ngày 16/1/1947 Hồ Chủ Tịch đã kêu gọi đồng bào toàn quốc thực hiện tiêu thổ kháng chiến. Thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến của Trung ương Đảng, trong khi ra sức xây dựng làng kháng chiến, xây dựng lực lượng quân sự..., quân dân Nam Định đã đồng thời tổ chức một đợt phá hoại để cản bước tiến của địch và tổ chức một đợt tản cư khẩn cấp trên diện rộng chưa từng có trong lịch sử từ trước tới nay. Hàng chục ngàn nhân dân thành phố và các thị trấn, làng xã xung quanh đã tự nguyện rời bỏ làng mạc, ruộng vườn, phá bỏ nhà cửa, tài sản, để về các vùng nông thôn, tham gia kháng chiến.

Hưởng ứng chủ trương của Trung ương quyết tâm đập tan cuộc tiến công mùa đông của địch lên Việt Bắc (1947), cùng với các địa phương,

33

quân dân Nam Định tiếp tục đẩy mạnh việc phá hoại để kháng chiến và cản bước tiến của quân địch.

Tính đến tháng 10/1949, toàn tỉnh đã xây dựng được 90 làng kháng chiến; đào 17.180 m giao thông hào; 23.263 hố chiến đấu cá nhân; đắp gần 10.000 ụ đất; dựng 249 cổng tre. Hầu hết các đường giao thông lớn, các cầu cống, thị trấn quan trọng đều đã tiến hành phá hoại để ngăn bước tiến của quân địch. Riêng năm 1949 cũng đã đào đắp gần 6.200 hầm hố; 525 ụ đất và con trạch.

Bên cạnh việc xây dựng chiến luỹ, phá huỷ các cầu cống, đường xá, để ngăn bước tiến của quân địch, bộ đội và dân quân du kích Nam Định còn tổ chức nhiều trận đánh trên các đường giao thông lớn.

Không những phục vụ cho chiến đấu, lực lượng giao thông vận tải còn tích cực phục vụ cho chuyên chở hàng hoá, lương thực, thực phẩm cho chiến trường.

Chỉ riêng trong 6 tháng đầu năm 1949, nhân dân Ý Yên đã ủng hộ bộ đội được hơn 41.000 kg thóc. Trong vòng 3 tháng vận động "Hũ gạo tiết kiệm" nuôi quân, huyện Vụ Bản đã có 5.700 hộ tham gia, thu được hơn 12.700 kg gạo ủng hộ chiến sỹ. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch về mua thóc khao quân nhân ngày quốc khánh 2/9/1949, toàn tỉnh đã bán được hơn 1.300 tấn gạo, (mức giao 1000 tấn), vượt 30%KH. Các huyện Nam Trực, Trực Ninh, Vụ Bản, Ý Yên vượt 50% mức giao. Số hàng hoá, nhu yếu phẩm trên đều qua tay lực lượng giao thông vận tải để đến tay người tiêu dùng.

Đặc biệt trong thời gian này, các hoạt động sửa chữa, tôn tạo, tu bổ đường xá, cầu cống phục vụ cho kháng chiến và sự đi lại của nhân dân vẫn được ty Công chính tổ chức thực hiện có hiệu quả.

Trong thời gian từ 1946-1949, tỉnh đã chỉ đạo sửa chữa 4 đường liên tỉnh A, B, C, D, tổng chiều dài 138 km, đó là các tuyến đường:

34

- Đường liên tỉnh A, dài 43 km, từ Sa Cao qua Hành Thiện, Xuân Bảng, Lạc Quần, Yên Định, Chợ Cồn, Ninh Mỹ, bến đò Mười, đi Ninh Bình.

- Đường liên tỉnh B, dài 82 km, từ bến Ngô Đồng, qua Thức Hoá, Quất Lâm, Hà Lạn, Yên Định, Ninh Cường, Liêu Hải, Tam Toà, Nghĩa Hưng, Núi Gôi, Núi Ngăm, Phố Cháy (Ý Yên) tới bến đò Đoan Vỹ để đi Phủ Lý.

- Đường liên tỉnh C, dài 5km, nối liền đường liên tỉnh A (Xuân Bảng) với đường liên tỉnh B (Nam Điền).

- Đường liên tỉnh Đ, dài 8km, nối đường liên tỉnh A (An Trạch) với đường liên tỉnh B (Liêu Hải).

Cùng với việc sửa chữa 4 đường liên tỉnh, ty Công chính còn chỉ đạo sửa chữa các đường xá thuộc huyện Ý Yên, như đoạn đê tả ngạn sông Đáy, từ Kinh Thanh đến Cầu Cổ dài 24 km, đường 12 từ Phố Cháy đến Phú Khê dài 5 km, đường 57 từ Cát Đằng đến Phố Cháy dài 4km; đê tả ngạn sông Sắt từ Cầu Họ đến Đồng Châu dài 31 km... Tổng cộng là 77 km.

Nhìn chung, tình trạng đường xá của tỉnh hầu hết đều bằng đất, gồ ghề, mùa mưa lầy lội, trâu bò đi lại thụt lún, rất khó khăn trong việc giao thông. Việc sửa chữa chủ yếu là gia cố, đổ đất đá vào những chỗ thụt lún, ổ gà...Sửa song đoạn nào thì bố trí người trông coi bảo dưỡng thường xuyên, cốt để bảo đảm cho sự đi lại được dễ dàng hơn.

Dưới sự hướng dẫn của ty Công chính, nhân dân các làng xã vùng tự do còn tổ chức sửa lại các đường giao thông liên thôn, liên xóm cho dễ đi lại. Năm 1948, toàn tỉnh sửa được 433 km đường liên xã; 200 km đường liên thôn. Năm 1949, sửa thêm được 140 km đường liên thôn.

Để sự giao thông vận tải bằng đường thuỷ được dễ dàng, từ năm 1949, ty Công chính đã nghiên cứu lập hồ sơ nạo vét 10 km đường sông, gồm kênh Kiên Lao 7 km, kênh Quần Liêu 3 km. Hồ sơ đã được xét duyệt và cấp kinh phí nhưng vì chiến sự lan rộng nên phải tạm hoãn.

35

Cũng trong thời gian này, ty Công Chính đã tiến hành thi công 7 cầu gỗ, tổng chiều dài 135 m; sửa chữa 71 cống và cửa cống trên đê (sông Hồng 11 cống, sông Đào 8 cống, sông Ninh Cơ 21 cống, sông Đáy 12 cống, sông Sắt 9 cống), tổng kinh phí 391.000 đồng. Tiến hành đắp phụ trúc các con đê sông Hồng, sông Đào, sông Đáy, sông Ninh Cơ... hơn 46.000m3 đất, trị giá trên 736.000 đồng. Trong đó đê hữu ngạn sông Hồng và sông Đào là 8.102m 3, với 148.136 đồng, đê hữu ngạn sông Ninh Cơ là 23.160 m3, với 356. 771 đồng; đê tả ngạn sông Đáy là 14.736 m3 với 231.923 đồng. Đắp phụ trúc và tôn cao các đê quai chảo sông Đáy và sông Ninh Cơ gần 15 .000 m3 với hơn 200 ngàn đồng. Trong đó, đê tả ngạn sông Đáy là 12.552 m3, với 164.572 đồng; đê hữu ngạn sông Ninh Cơ là 23.000 m3, với 38.571 đồng.

Ngoài ra ty Công chính cũng đã cho xây dựng các chương trình kế hoạch hộ đê với tổng chiều dài 160 km, bằng 106.062 đồng. Trong đó, sông Hồng 35 km; sông Đào 23 km; sông Đáy 41 km, sông Ninh Cơ 45 km; sông Sắt 16 km. Đồng thời huấn luyện 8 cán bộ hộ đê; tu bổ thường xuyên 2 khu nông giang (khu Ngô Đồng 7.700ha; khu Nam Định 33.400 ha), tổng cộng 56.270 đồng. Đồng thời bảo dưỡng sửa chữa các đê sông máng, lót đá ở đê Lạc Thiện (300m3); chở đá đổ xuống những nơi dòng sông bị sói lở, khoét sâu; chữa sạt lở ở gần cống Trà Thượng, Hùng Mỹ; sửa sang lại các công trình thuỷ nông ở Cồn Tư, Cồn Năm, Nam Thành, Đại Đồng, Diêm Điền, Thức Hoá, Hoành Nhị, Hoành Tam...; tu bổ đê Bạch Long, Lạc Thiện; đắp đê Phú Lễ gần 15 000 m3; xây cống Mễ Lâm...Tổng kinh phí hàng triệu đồng. Song vì chiến sự lan rộng nên nhiều công trình đã và đang tiến hành thi công đều phải dừng lại.

Nhìn chung, các hoạt động GTVT của Nam Định trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, khi địch mới chiếm đóng một phần nhỏ đất đai, còn đại bộ phận do ta kiểm soát, đã diễn ra trên 2 hướng. Ở vùng tạm bị chiếm đóng, các hoạt động GTVT chủ yếu là đẩy mạnh các hoạt động phá hoại đường xá, cầu cống, xây dựng các chiến luỹ và trực tiếp chiến đấu để ngăn chặn quân địch mở rộng càn quét chiếm đóng. Ở vùng tự do, hoạt động trên lĩnh vực GTVT chủ yếu là đẩy mạnh các hoạt động sửa sang đường xá, cầu cống, nạo vét sông ngòi, vận chuyển lương thực, thực phẩm, bảo

36

đảm thông tin liên lạc thông suốt, phục vụ cuộc kháng chiến, kiến quốc có kết quả.

c, Giao thông vận tải Nam Định trong thời kỳ địch mở rộng chiếm đóng (1949-1952).

Sau thất bại ở chiến dịch Thu Đông 1947, địch quay về mở rộng chiếm đóng đồng bằng để ngăn chặn sự chi viện về sức người, sức của của ta cho các chiến trường.

Do mức độ đánh phá ác liệt của địch, cơ quan lãnh đạo tỉnh phải rút khỏi Hải Lạng (Nghĩa Hưng), chuyển về đóng ở Ý Yên. Các cơ quan của huyện, xã ở những nơi bị địch chiếm đóng đều phải tạm lánh sang Thái Bình hoặc Ninh Bình. Các cơ sở liên lạc ở đây hầu hết bị tan vỡ, việc đi lại, thông tin trở nên hết sức khó khăn, trở ngại.

Sau khi đánh chiếm 6 huyện phía nam, ngày 16/1/1950, địch đánh ra vùng Vụ Bản; sau đó, ngày 29/4/1950, chúng mở chiến dịch Đa vít II và III, theo sông Đáy và đường 10 đánh chiếm thị xã Ninh Bình và các huyện phía bắc tỉnh Nam Định; lập nhiều đồn bốt dọc theo sông Đáy và đường 10. Ngày 21/5/1950, chúng tập trung 2000 quân, càn quét các xã phía bắc huyện Ý Yên. Vì thế hầu hết địa bàn tỉnh Nam Định thời gian này đều nằm trong vùng kiểm soát của quân địch.

Trong những năm tháng gay go ác liệt đó, các hoạt động giao thông vận tải, thông tin đều tập trung cho việc lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến của Tỉnh uỷ và UBKC-HC các cấp.

Hoạt động của GTLL trong thời gian này hết sức khó khăn, phức tạp, song anh chị em giao liên luôn khắc phục khó khăn, củng cố, thiết lập các đường dây, nêu cao tinh thần dũng cảm mưu trí để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Hầu như đêm nào anh em từ trạm Quang Thẩm (Vũ Tiên, Thái Bình) cũng phải vượt sông Hồng để chuyển công văn, tài liệu và đưa đón cán bộ đi lại công tác. Ca nô, tầu chiến của địch luôn rình rập, lùng sục trên sông, nên việc đi lại bằng thuyền trên sông hết sức nguy hiểm. Nhiều khi không có đò, anh em giao liên cũng phải bơi qua sông. Có khúc sông hôm trước

37

vừa có người bị bắt, hôm sau trước nhiệm vụ cần kíp, các anh em khác vẫn phải tìm cách vượt qua. Những khi gặp địch vây đuổi, nhiều đồng chí đã mưu trí, sáng tạo, thoát khỏi tay chúng để hoàn thành nhiệm vụ. Có đồng chí bị bắt, bị tra tấn dã man, vẫn cố gắng chịu đựng, kiên quyết không khai báo để lộ đường dây. Khắp từ vùng tự do đến vùng địch hậu, ở đâu cũng có dấu chân của người chiến sỹ giao liên. Họ đã vượt qua nhiều khó khăn, nguy hiểm, đôi khi chấp nhận cả hy sinh tính mạng để đảm bảo thông tin liên lạc được thông suốt, đảm bảo đường dây an toàn, bí mật.

Trên lĩnh vực giao thông liên lạc, tỉnh cử thêm nhiều đồng chí cán bộ, đảng viên, đã từng có kinh nghiệm hoạt động trong vùng tạm chiếm sang tăng cường.

Càng ngày, cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta diễn ra trên lĩnh vực giao thông càng rõ nét. Kẻ địch luôn lợi dụng các tuyến đường giao thông để hành quân lấn chiếm và đóng giữ, gây cho ta rất nhiều khó khăn.

Trong điều kiện đó, GTVT phát triển hết sức khó khăn. Để đấu tranh trên mặt trận giao thông và phục vụ cho kháng chiến, một mặt ta tiếp tục việc phá hoại và chiến đấu tiêu diệt địch trên các tuyến đường giao thông lớn, mặt khác ta phát triển mạnh mẽ hình thức giao thông vận tải nhân dân.

Đặc biệt, Trung ương và Liên khu III đã thành lập một số chi cục tiếp tế vận tải, làm nhiệm vụ thu mua thóc để dự trữ, chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài. Chi cục Nam- Ninh, gồm Nam Định và Ninh Bình, có trụ sở đóng tại nhà ông Quang, thôn Hữu Vạn, xã Quỳnh Lưu, Nho Quan, Ninh Bình. Ở các tỉnh thành lập các Ban công lương, làm nhiệm vụ thu mua thóc thuế công lương điền thổ của tỉnh mình, cung cấp cho các chi cục trên. Ban công lương Nam Định, thuộc Ty kinh tế, do ông Đinh Khắc Anh là Trưởng ty.

Thời gian đầu, các tỉnh thu mua thóc rồi nhập cho Chi cục tại các điểm Cầu Đài, Cầu Lòn, (Gia Viễn, Ninh Bình). Thóc gạo được mang từ vùng tạm chiếm ra vùng tự do, chủ yếu đi bằng thuyền, phải vượt qua rất nhiều khó khăn nguy hiểm, nhưng do tinh thần "Tất cả cho kháng chiến"

38

nên số thóc nhân dân giao nộp luôn đặt tỷ lệ cao. Mỗi ngày, mỗi huyện giao nộp từ 10-15 xe, hoặc thuyền. Nhiều khi thóc gạo ứ đọng, không kịp nhập, các xã phải cử người mang thóc đi nhập. Theo yêu cầu của Chi cục tiếp tế vận tải Nam Ninh, được liên khu III đồng ý, đến 10/9/1950, Ban công lương Nam Định cung cấp cho Chi cục 240 người để làm nhiệm vụ giao nhập thóc vào kho. ( Gồm Ý Yên 50 người, Vụ Bản 50 người, Mỹ Lộc 30 người, Trực Ninh 30 người, Nam Trực 30 người, Nghĩa Hưng 50 người). Số lương thực của Nam Định giao nhập cho chi cục khá lớn, chỉ từ 14/8 đến 10/10/1950, số thóc đã nhập tới hơn 1000 tấn. Trong đó, Thành phố Nam Định: 6.730 kg; Mỹ Lộc: 177.995kg; Ý Yên: 427.483kg; Vụ Bản: 467.475kg; Nghĩa Hưng: 7.432kg. Sau này, do số lượng nhập ngày càng nhiều, từ ngày 1/12/1950, tỉnh Nam Định thành lập Chi điếm tiếp tế vạn tải Nam Định, trực thuộc chi nhánh TTVT liên khu III, do ông Trần Đắc, quyền chi cục trưởng chi điếm (12). Nhiệm vụ của chi điếm tiếp tế vận tải Nam Định là thu mua thóc của nhân dân trong tỉnh, rồi tổ chức chuyên chở, nhập cho chi cục tiếp tế vận tải Hà Nam hoặc Nam Ninh (cũng có khi nhập cho cả chi cục Hà Nam).

- Năm 1950 thành lập Ban Công lương do ông Đinh Khắc Anh làm Trưởng ban kiêm Trưởng ty Kinh tế.

- Ngày 27-9-1950, UBKCHC do ông Vũ Văn Tính ký công văn số 6442-P2/TC thành lập Đội vận tải chuyên nghiệp đầu tiên cho chi điếm vận tải.

- Ngày 10-12-1950, thành lập chi điếm Tiếp tế vận tải chịu sự chỉ đạo của Ban Công lương tỉnh. Chi điếm Tiếp tế vận tải quản lý Đội vận tải chuyên nghiệp gồm 240 người.

Hoạt động giao thông vận tải tuy rất khó khăn nhưng vẫn diễn ra tấp nập, chủ yếu do nhân dân tiến hành, mỗi năm vận chuyển hàng chục ngàn tấn lương thực phục vụ cho kháng chiến. Quần chúng nhân dân đã khắc phục mọi khó khăn, phát huy sáng kiến, lập tổ đổi công, chuyển gặt về đêm, ghép bè chuối thay thuyền chuyên chở, giúp đỡ nhau nhanh chóng cất

12(?) Theo quyết định số :114/QK3, ngày 10/12/1950.

39

giấu thóc hoặc chuyển thóc lúa ra những thôn xóm ngoài vùng kiểm soát của địch. (13)

Năm 1951, hoạt động giao thông vận tải nhân dân diễn ra càng mạnh mẽ hơn. "Thi hành lệnh tổng động viên của Đảng và Chính phủ, nông dân Nam Định thi đua đóng góp các loại thuế công thương, điền thổ, tạm cho vay và mua công trái với trên 2000 tấn thóc và hàng chục triệu đồng...Đến tháng 10/1951, trên 1000 tấn thóc đã chuyển ra vùng tự do". (14)

Đồng thời với việc bảo vệ tính mạng tài sản của nhân dân, trong hoàn cảnh bị chiếm đóng, để đảm bảo cho nhân dân có thể đi lại được dễ dàng, yên ổn làm ăn, một số cấp uỷ đảng ở địa phương còn chủ động phát động nhân dân đấu tranh hợp pháp với địch, buộc chúng phải để cho nhân dân đắp những quãng đê xung yếu trên các triền sông Hồng, sông Đào, sông Ninh Cơ...thuộc địa phận Hữu Bị (Mỹ Lộc), Vị Khê, An Lá, Thi Châu (Nam Trực), Lộ Xuyên (Trực Ninh)... (15)

Cùng với việc đẩy mạnh giao thông vận tải nhân dân, tỉnh còn chủ động tổ chức nhiều trận đánh lớn, nhỏ trên các tuyến sông để ngăn chặn sự cơ động của địch và giành quyền chủ động trên lĩnh vực này. Ngay khi chúng tổ chức các cuộc hành quân chiếm đóng dọc các tuyến giao thông, thì các vị trí đồn bốt đó đã bị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích phối hợp, bao vây, quấy rối, khiến chúng mất ăn, mất ngủ. "Các đường giao thông lớn trong tỉnh như đường 10, đường 12, đường 21, đường 38, đường 56, 57...đều bị phá hoại nghiêm trọng, xe cơ giới địch không hoạt động được". (16)

Cũng ngay từ khi mở cuộc càn Ăng- tơ- ra- xit xuống các huyện phía nam, chúng đã bị quân dân ta chặn đánh liên tục, trong đó có trận từ 7-11/11/1949, đại đội 91 sau khi theo dõi, nắm chắc qui luật hoạt động của địch trên tuyến sông Đào và sông Ninh Cơ đã tổ chức 2 trận phục kích đánh chìm một tầu chiến, một ca nô, 4 thuyền chiến, diệt 200 tên địch. Đầu năm 1950, trong khi càn quét ở các huyện phía bắc tỉnh, trên đường 10,

13(?) Lịch sử dảng bộ Nam Định, 1930-1975, đã dẫn, tr:324.14(?) Lịch sử đảng bộ tỉnh Nam Định 1930-1975,,đã dẫn, tr:325.15(?) Lịch sử đảng bộ Nam Định 1930-1975, đã dẫn, tr:325.16(?) Lịch sử đảng bộ tỉnh Nam Định 1930-1975, đã dẫn, tr:301.

40

chúng đã vấp phải mìn của du kích Cao Bồ, Cầu Cổ, Tứ Mỹ. Khi sục sạo vào các làng ven đường 10, chúng bị quân dân các làng chiến đấu Đô Quan, Lũ Phong, Liên Minh...đánh trả quyết liệt. Địch còn vấp phải sự chống trả mạnh mẽ của các đại đội bộ đội địa phương 33, 91, 26, vừa được tỉnh tăng cường. Ở Tứ Mỹ, có em bé liên lạc một mình dùng lựu đạn phục kích trên đường 10. Ở Dưỡng Chính, nhân dân tự gài mìn, đào hố bẫy giặc. Nhiều trận đánh địa lôi trên các tuyến đường chính để diệt quân đi càn, quân tiếp viện và xe cơ giới đã diễn ra khắp nơi. Trong chiến dịch Hà Nam Ninh, đại đoàn 320 đã đánh một loạt cứ điểm trên sông Đáy, tiêu diệt vị trí Võ Giàng, bức địch rút chạy khỏi Đoan Vỹ, chọc thủng một mảng lớn tuyến phòng thủ sông Đáy, tạo điều kiện cho quân dân Nam Định phá một số đoạn đường 21, phá huỷ vị trí Núi Bô, phá Cầu Bo trên đường 57 và tiêu diệt một số đồn bốt ở Ý Yên, Vụ Bản. Sáng ngày 10/1/1952, quân ta bố trí trận địa phục kích ở xóm Thượng, sát phía tây đường 21, diệt đại đội 15 thuộc trung đoàn Âu Phi số 2, bắt 46 tên, phá huỷ 5 xe vận tải, thu 200 súng, toàn bộ quân trang quân dụng và một hòm tiền 50.000 đồng. (17)

Ngày 21/1/1952, bộ đội chủ lực có sự phối hợp của dân quân du kích huyện Trực Ninh, phục kích trên đường 21, đoạn Thần Lộ- Trực Ninh, phá huỷ 18 xe cơ giới, diệt 200 tên.

Các trận chiến đấu trên vừa tiêu hao sinh lực địch, vừa góp phần hạn chế sự đi lại cơ động của chúng, giành quyền chủ động chi phối về hoạt động giao thông của ta trong những năm kháng chiến gay go ác liệt.

Cùng với việc phá hoại giao thong ngăn chăn bước tiến quân của địch thì nhiệm vụ của Giao thông liên lạc lúc này là: Tập trung khai thác các công văn, tài liệu , báo chí của tỉnh và Trung ương, chuyển đến các cơ sở đảng, chính quyền, đoàn thể; tiếp nhận, đưa đón cán bộ, bộ đội và dân công đi công tác và chiến đấu trong vùng tạm chiếm; phối hợp với dân quân du kích tải thương, tải đạn, đưa đón thanh niên lên đường nhập ngũ, đưa đón đột xuất các cán bộ các cấp, các ngành đi chỉnh huấn, đi học và tham gia các chiến dịch...

17(?) Lịch sử đảng bộ Nam Định 1930-1975, đã dẫn, tr:335.

41

Trước mức độ ác liệt của cuộc kháng chiến và tầm quan trọng của công tác giao thông liên lạc nên các giao thông viên đi công tác thường được mang theo vũ khí, được cử các nhóm vũ trang đi theo để bảo vệ công văn, tài liệu, và cán bộ, bộ đội trên các đường dây; khi cần thì đánh địch mà đi.

Sau thất bại ở chiến dịch Quang Trung (1951), và chiến dịch Hoà Bình (1952), quân địch ngày càng lâm vào tình trạng nguy khốn. Căn cứ tình hình thực tế, Trung ương và Liên khu III chủ trương tiếp tục đẩy mạnh hoạt động, mở rộng căn cứ du kích. Nhiều đơn vị chủ lực được điều về hoạt động trên địa bàn tỉnh. Phong trào phá tề, diệt dõng, chống càn quét diễn ra sôi nổi ở khắp nơi. Từ cuối tháng 12/1951 đến 2/1952, công tác giao thông liên lạc trở nên vô cùng nhộn nhịp. Suốt ngày đêm anh em GTLL viên tổ chức đưa bộ đội, dân công vào phối hợp với bộ đội địa phương và dân quân du kích tiến đánh các ban tề, các đồn dõng, tiêu diệt, bức rút nhiều vị trí địch ở các vùng Ý Yên, Vụ Bản, Mỹ Lộc, dọc sông Đáy và một số huyện phía nam. Nhiều trận đánh có hiệu quả cao đã diễn ra, có sự đóng góp quan trọng của lực lượng GTLL, phá tan từng mảng nguỵ quân, nguỵ quyền, giúp cho chính quyền cơ sở ở nhiều nơi được phục hồi và ra hoạt động công khai. Khu giải phóng được được mở rộng ở Giao Thuỷ, Trực Ninh, Ý Yên, Vụ Bản...lực lượng dân quân du kích được bổ sung, trang bị thêm vũ khí, công tác địch vận phát triển. Các cơ quan tỉnh uỷ có điều kiện trở về địa phương, tổ chức lại bộ máy và lề lối làm việc trong điều kiện mới, đảm bảo có sự chỉ đạo hiệu quả , kịp thời trong tình hình mới.

Ban Giao thông đã tiến hành tổ chức, củng cố lại các đường dây GTLL, tiến hành đưa đón cán bộ đi công tác, đi chiến đấu trên các địa bàn tỉnh và vùng tự do.Trong vùng tạm chiếm, đường dây GTLL cũng được nhanh chóng tổ chức lại một cách bí mật, an toàn.

Mặc dù tình hình chiến sự diễn biến ngày càng phức tạp, hoạt động giao thông trên các lĩnh vực vận tải và thông tin liên lặc gặp rất nhiều khó khăn, song Tỉnh uỷ và Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp cũng đã rất

42

quan tâm tạo điều kiện cho các lĩnh vực này. Hoạt động giao thông vận tải vẫn diễn ra sôi nổi, góp phần chi viện sức người, sức của cho kháng chiến.

Với sự cố gắng tích cực trên mọi mặt của quân dân Nam Định, đến đầu năm 1952, lực lượng du kích được sự hỗ trợ của bộ đội chủ lực, ngày càng phát triển lớn mạnh, đánh nhiều trận tiêu diệt địch, mở rộng khu du kích, nối liền giữa các huyện phía bắc và phía nam tỉnh. Với một loạt chiến thắng của ta, "vùng tạm chiếm của địch bị thu hẹp lại xung quanh thành phố Nam Định và thị xã Bùi Chu với bán kính từ 5-10km, một phần ven sông Đáy và ven một số đường giao thông huyết mạch số 10, 21...Kể từ đây chấm dứt thời kỳ đen tối "2 năm 4 tháng" đầy đau khổ ở các huyện phía nam tỉnh."

d, Giao thông vận tải Nam Định trong giai đoạn mở các chiến dịch quyết định của cuộc kháng chiến chống Pháp (1952-1954)

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta càng về cuối càng diễn ra quyết liệt, nhưng thắng lợi thì ngày càng rõ nét. Ngược lại, cuộc chiến tranh hao người tốn của của thực dân pháp ở Việt Nam đang có nguy cơ sa vào vũng lầy thất bại, khó lòng cứu vãn. Trên khắp các chiến trường, quân dân ta ngày càng giành thế chủ động tiến công.

Sau thất bại ở Hoà Bình 1952, kế hoạch giành thế chủ động tiến công của Đờ lát đờ tát xi nhi bị thất bại, chúng đành đem quân về càn quét, bình định đồng bằng. Năm 1953, Pháp đưa tướng Na Va sang, đề ra kế hoạch tăng cường bắt lính, xây dựng lực lượng cơ động mạnh ở đồng bằng, giữ thế phòng ngự chiến lược ở miền Bắc, tiến công chiến lược ở miền Trung và miền Nam, âm mưu đến nửa cuối năm 1954, khi đã có lực lượng quân sự mạnh, chúng sẽ mở các chiến dịch tiến công chiến lược ở miền Bắc, giành thắng lợi quyết định, ép ta đàm phán theo điều kiện của chúng.

Để phá tan kế hoạch của địch, Trung ương đảng chỉ đạo tập trung vào một số hướng chiến lược quan trọng mà địch tương đối yếu, tổ chức một số chiến dịch Tây Bắc, Thượng Lào, Nam Trung bộ...để phân tán lực lượng của chúng; đẩy mạnh chiến tranh du kích sau lưng địch nhằm ngăn

43

chặn quân cơ động và tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một phần đất đai. Khi điều kiện chín muồi, khôn khéo điều chúng tập trung co cụm để mở chiến dịch lớn tiêu diệt chúng.

Ở Nam Định, thực hiện âm mưu chiếm đóng đồng bằng, quân địch tiếp tục mở các cuộc càn quét lớn. Một mặt chúng thực nghiệm cho xây dưng lực lượng "khinh quân", "địa phương quân" để càn quét, chiếm giữ, mặt khác, chúng tập trung một lực lượng quân sự lớn để càn quét, mở rộng địa bàn chiếm đóng và tiêu diệt lực lượng của ta.

Trong các cuộc càn quét, địch đã sử dụng nhiều phương tiện giao thông, triển khai theo các tuyến đường và sông chính, sau đó đóng đồn bốt, án ngữ trên các tuyến đường đó, gây cho ta rất nhiều khó khăn trong giao thông đi lại.

Để phá tan âm mưu bình định của địch, một mặt ta tiếp tục phá hoại giao thông, hạn chế sự đi lại của chúng, tổ chức các trận đánh trên các tuyến giao thông, gây nhiều thiệt hại cho chúng, để giành quyền chủ động trên lĩnh vực quan trọng này. Mặt khác, ta đẩy mạnh các hoạt động giao thông liên lạc và giao thông vận tải nhân dân. phục vụ cho kháng chiến. Nhiều khi các hoạt động giao thông và liên lạc phối hợp với nhau khá chặt chẽ.

Cũng như các thời kỳ trước đây, địch luôn lợi dụng các tuyến đường giao thông để hành quân càn quét và chiếm đóng. Trên các tuyến sông Đào, sông Đáy, đường 10, đường 21 luôn bị chúng đem quân sục sạo, tuần tiễu và dựng lên một hệ thống đồn bốt dày đặc để bảo vệ. Nhiều cuộc càn quét đã bị ta đánh trả đích đáng, gây nhiều thiệt hại lớn cho chúng.

Đặc biệt, ngoài nhiệm vụ phục vụ trực tiếp các cơ quan đầu não của tỉnh, huyện, bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt, anh em giao thông liên lạc còn phối hợp với dân quân du kích dẫn đường cho bộ đội chủ lực và nhiều khi cũng trực tiếp tham gia các trận đánh. Trong trận đánh trại Tế bần, các chiến sĩ giao thông đã dẫn đường, góp phần vào thắng lợi chung, gọi hàng trên 100 tên địch, thu 180 súng các loại. Ở phía Nam tỉnh, các đồng chí giao thông liên lạc các huyện đã cùng du kích dẫn đường cho bộ

44

đội về tiêu diệt các vị trí ở Liêu Đông (Xuân Trường), Vô Tình (Trực Ninh), buộc chúng phải rút thêm các đồn Cổ Giả, Thanh Khê, Tân Thành (Nam Trực).

Trong trận chống càn quét lớn Brơ-ta-nhơ của địch, các đồng chí giao thông viên của ta đã chuyển hàng trăm chỉ thị, mệnh lệnh của Tỉnh uỷ, Uỷ ban về các huyện, phục vụ kịp thời thông tin liên lạc trong chỉ đạo chống càn; đưa đón hàng ngàn chiến sĩ của 8 trung đoàn bộ đội chủ lực, thuộc đại đoàn 320 về đánh tan cuộc càn, tiêu diệt 4 tiểu đoàn địch, bắt sống tên quan ba Ca-vi-ông, khiến quân địch vô cùng khiếp sợ, góp phần giữ vững và củng cố khu du kích phía Nam tỉnh. Cùng với nhiệm vụ chống càn, năm 1952 lực lượng giao thông còn đưa đón 300 đại biểu từ các huyện về dự hội nghị "Những người Công giáo kháng chiến" an toàn và đưa nhiều cán bộ, đảng viên đi phục vụ giảm tô, cải cách ruộng đất, phát động phong trào thi đua sản xuất, thực hành tiết kiệm, tổ chức học tập kinh nghiệm chống càn, triển khai các đợt phá hoạt giao thông... Những đóng góp của các chiến sĩ giao thông liên lạc đã góp phần tích cực vào việc xây dựng và mở rộng khu du kích phía Nam và Bắc tỉnh ngày càng lớn mạnh.

Bước sang năm 1953, tình hình chiến sự trong cả nước diễn ra khẩn trương hơn. Ở Nam Định, địch tăng cường các hoạt động tuần tiễu, càn quét trên các tuyến giao thông chính, đặc biệt là trên tuyến sông Đào, gây nhiều khó khăn cho các hoạt động của ta. Thực hiện chủ trương của trên, 3 huyện phía Bắc là Ý Yên, Vụ Bản, Mỹ Lộc được tách ra nhập vào tỉnh Hà Nam; thành phố Nam Định trực thuộc quân khu III. Tỉnh Nam Định chỉ còn 6 huyện phía Nam. Hoạt động giao thông vận tải và giao thông liên lạc có một số biến đổi về phạm vi và tổ chức.

Càng ngày việc phối hợp chiến đấu giữa anh em giao thông viên với bộ đội du kích càng chặt chẽ. Lực lượng giao thông viên đã làm việc không kể ngày đêm, chuyển tải nhiều chỉ thị, mệnh lệnh của tỉnh uỷ, uỷ ban kháng chiến và tỉnh đội xuống các cơ sở nhanh chóng, kịp thời, không để xẩy ra sai sót.

Bên cạnh các hoạt động nghiệp vụ và tham gia chiến đấu, ngành còn được giao nhiệm vụ chuẩn bị lực lượng thông tin liên lạc phục vụ cho công

45

tác lãnh đạo chỉ đạo chống càn, phối hợp cùng dân quân du kích giúp bộ đội chiếm lĩnh trận địa, tổ chức các cuộc trinh sát nắm tình hình địa hình, địa vật, hướng dẫn dân công chuyển vũ khí, đạn dược cho bộ đội, dẫn đường cho các đồng chí cán bộ đi dự các hội nghị học tập, bàn về công tác đánh địch...

Trong chiến dịch Đông xuân 1953-1954, mạng lưới giao thông liên lạc đã được hình thành từ tỉnh xuống các huyện xã, tiếp tục được củng cố, tăng cường. Cùng với các trạm giao thông liên lạc, đã hình thành các tuyến đường giao thông liên tỉnh, đường nội tỉnh. Lực lượng giao thông liên lạc viên trong tỉnh tăng nhanh về số lượng. Với sự phát triển nhanh chóng về số lượng, chất lượng, đồng thời trình độ nghiệp vụ cũng ngày càng được nâng cao, vững vàng về tư tưởng, đội ngũ cán bộ công nhân viên trong ngành luôn phục vụ tốt các yêu cầu của tỉnh, huyện trong mọi tình huống. Công tác Giao thông liên lạc thực sự đã chuyển sang giai đoạn mới, vừa phục vụ sự lãnh đạo chỉ đạo trong kháng chiến, vừa trực tiếp tham gia chiến đấu, phục vụ tốt sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ về các cuộc đấu tranh chính trị, binh vận, chống bắt lính, chống thiên tai, giảm tô, cải cách ruộng đất...

Lĩnh vực giao thông vận tải trong thời gian từ 1952-1954 cũng có một số thay đổi lớn.

Trên bình diện cả nước, trước thực tế nhu cầu phục vụ cho kháng chiến ngày càng lớn, khối lượng hàng hoá phải vận chuyển tăng lên rất nhanh, nhưng tình trạng cầu đường thì không đáp ứng được. Phổ biến là tình trạng đường hẹp, lầy, dốc, nhiều quãng ngoặt gấp, cầu phà thì yếu, mục, xe đi chậm, tốn dầu, hại máy. Yêu cầu đặt ra là phải có đường tốt để đảm bảo cho giao thông đi lại, vận chuyển quân sự, san sẻ gánh nặng vận chuyển cho dân và mở rộng vận chuyển kinh tế. Do đó Bộ giao thông công chính cũng có một số thay đổi trong cơ cấu tổ chức cho phù hợp với tình hình thực tế. Ngày 30/4/1953, Hồ Chủ Tịch ký sắc lệnh số 156, bãi bỏ Nha công chính hoả xa, thành lập 2 nha mới là: Nha giao thông: phụ trách các đường giao thông, đường bộ, đường sắt, đường sông; Nha công chính: phụ trách các công tác thuỷ nông, đê điều, vận tải và một số công việc liên quan khác, nhằm tăng cường năng lực tổ chức, điều hành giao thông vận

46

tải trong tình hình mới, phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ tổng phản công Đông xuân 1953-1954.

Sau đó, ngày27/7/1953, Bộ chính trị Trung ương Đảng quyết định thành lập: "Hội đồng cung cấp mặt trận Trung ương", do đồng chí phó thủ tướng Phạm Văn Đồng làm chủ tịch. Hội đồng có các ban giúp việc như: Cầu đường, Vận tải, Bưu điện, Y tế, Tuyên huấn, Công an...Riêng lĩnh vực giao thông vận tải, ngày 6/9/1953, Chính phủ ra sắc lệnh số 185, bổ nhiệm ông Nguyễn Như Quỹ, kỹ sư công chính làm giám đốc Nha công chính. Ở các khu, tỉnh, thành phố cũng tổ chức các ban tương tự, trực tiếp tổ chức, đôn đốc, chỉ đạo các hoạt động chi viện cho tiền tuyến.

Ở các địa phương trong thời gian này đều có sở hoặc ty Công chính, tập trung tổ chức, chỉ đạo việc làm đường, sử chữa cầu cống, huy động dân công vận tải cho chiến trường.

Thực tế ở Nam Định lúc này có 2 ty Công chính: Đó là ty Công chính tỉnh Nam Định, do ông Đặng Văn Sinh làm trưởng ty, và ty Công chính thành phố Nam Định do ông Tô Văn Đã làm trưởng ty. 18

Hoạt động của giao thông vận tải thời gian này vẫn vừa tiến hành công tác phá hoại, tổ chức các trận đánh trên các tuyến giao thông để ngăn chặn bước tiến của quân địch, vừa tích cực sửa sang đường xá , đê điều, tổ chức chuyên chở hàng hoá phục vụ cho chiến trường. Tất cả đều tiến hành ở mức độ cao hơn và khẩn trương hơn.

Ngay từ thu đông 1952, khi địch tăng cường các hoạt động trên các tuyến giao thông lớn, như đường 10, đường 21, sông Đào, sông Đáy...thì các trận chiến đấu tiêu diệt địch trên các tuyến giao thông cũng diễn ra thường xuyên hơn.

Trong năm 1953, phối hợp với tiếng súng của bộ binh, địa lôi của các đội chặn đánh giao thông cũng liên tiếp nổ giòn giã, phá nhiều xe vận tải lương thực của địch, làm cho chúng hết sức khốn đốn về hậu cần.

18(?) Ngoài ra còn ty Công chính của chính quyền địch ở Bùi Chu, do ông Tô Đăng Tụ là trưởng ty.

47

Đầu năm 1954, "Do bị chọc thủng một mảng lớn ở phòng tuyến sông Đáy, và đường 10 bị uy hiếp, nên địch tăng cường các vị trí ở đường I và đường 21. Để phá tan âm mưu này, ta chủ động tấn công tất cả các tuyến giao thông thuỷ bộ của địch. Không một ngày nào xe, tầu của địch không bị chặn đánh. Những con đường giao thông từ thành phố Nam Định đi thị xã Phủ Lý, toả đi các hướng, thường xuyên là nỗi kinh hoàng đối với chúng. Cả 3 thứ quân ta đều có cách đánh sáng tạo, phong phú, phù hợp với khả năng và sở trường tác chiến của mình. Nhiều đơn vị địa phương còn đề ra chỉ tiêu diệt xe cơ giới, và thường xuyên bám sát mặt đường đánh địch".

Một mặt tổ chức các trận đánh trên các tuyến giao thông, mặt khác khi có điều kiện, Tỉnh uỷ vẫn chỉ đạo ngành giao thông công chính việc sửa sang đường xá, đê điều, phục vụ sự đi lại và đời sống của nhân dân. Cuối năm 1952, "Sau mùa nước lũ, ở nhiều xã ven sông, nhân dân đã đắp bồi lại những quãng đê sạt lở và đấu tranh buộc địch phải cho lấp nhiều hố công sự do chúng đào ở các thân đê. Nhân dân xã Mỹ Phúc, Mỹ Trung (huyện Mỹ Lộc), phối hợp với các xã Nhân Hoà, Nhân Hậu, (Lý Nhân, Hà Nam) đòi địch phải cho đắp lại đoạn đê Hữu Bị, là đoạn rất sung yếu đối với một vùng rộng lớn thuộc 2 huyện. Lúc đầu địch khăng khăng không chịu, song trước sức đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân, buộc chúng phải để đắp lại đoạn đê đó và phải trả công cho dân công đào đắp gần 1 triệu đồng".(19)

Trong những năm chiến tranh lan rộng, phần lớn các vùng nông thôn trong tỉnh đều bị tàn phá nặng nề, nhiều ruộng vườn bị bỏ hoang hoá. Sau khi ta mở khu du kích (1952), mùa màng vẫn bị thiệt hại do bão lụt và hạn hán. Trước tình hình đó, đảng bộ đã kịp thời chỉ đạo dùng nhiều biện pháp để đẩy mạnh sản xuất. Nhân dân ta đã tích cực tăng diện tích trồng trọt, phục hồi canh tác những vùng đất trắng mới giành được, phục hoá hàng ngàn mẫu ruộng bị bỏ hoang nhiều vụ. Đặc biệt, dưới sự chỉ đạo của ngành giao thông công chính, nhân dân đã "đắp và sửa chữa gần 200 km đê, sửa và xây dựng lại hàng chục cống, đắp thêm nhiều đập và đường khuyến nông20. Riêng năm 1953, ngành đã huy động hơn một triệu ngày công đắp 19(?) Lịch sử Đảng bộ Nam Định, 1930-1975, đã dẫn, tr:345.20(?) Lịch sử đảng bộ Nam Định, 1930-1975, đã dẫn, tr:346.

48

đê chống lụt 21. Tại vùng tạm chiếm trong thành phố, hoà cùng với cuộc đấu tranh chung của quân dân trong tỉnh, những người thợ đạp xích lô cũng đoàn kết, tích cực đấu tranh chống lệnh nộp thuế quốc phòng của chính quyền địch .

Khi chiến dịch Điện Biên Phủ (6/12/1953) nổ ra, nhiệm vụ làm đường, đảm bảo giao thông vận tải càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Ngành giao thông công chính và bộ chỉ huy chiến dịch đã huy động hàng vạn dân công và thanh niên xung phong đi làm nhiệm vụ giao thông vận tải triển khai nhiệm vụ mở đường, bắc cầu để bộ đội và các lực lượng dân công, tiếp viện tiến vào mặt trận. Các cầu phà, đường cũ được sửa chữa, hoàn thiện, đảm bảo cho người và xe pháo đi lại. Trong số đó có tuyến đường 12 từ Hoà Bình đi Nho Quan, nối với đường 15 vào Thanh Hoá, Nghệ An, và thông ra Ninh Bình, Nam Định, là tuyến chủ yếu để lực lượng giao thông vận tải Nam Định hoạt động, phục vụ cho chiến trường Điện Biên.

Lực lượng chính để đảm bảo cho giao thông trên các tuyến đường là các đội thanh niên xung phong và dân công được huy động dài hạn từ 2 đến 6 tháng. Phương tiện làm đường là các dụng cụ thô sơ như cuốc, xẻng, xà beng và đôi khi là thuốc nổ. Chi phí cho việc sửa chữa, làm đường mới được tính bằng lương (quy ra thóc). Mặc dù đời sống vật chất của cán bộ chiến sỹ giao thông vận tải còn rất nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng với tinh thần tất cả cho tiền tuyến nên mọi người đều hăng hái, tích cực để hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Ở các vùng đồng bằng thuộc Liên khu III, như Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, Thái Bình,...nhân dân nô nức đi dân công vận chuyển lương thực, thực phẩm lên hướng Hoà Bình, phục vụ cho mặt trận.

Ở Nam Định, mặc dù địch ra sức ngăn cấm, không cho đưa các nhu yếu phẩm quan trọng như: gạo, muối, vải sợi, dầu hoả, thuốc chữa bệnh...từ vùng tạm chiếm ra vùng tự do, nhưng các ngành chức năng vẫn tìm mọi cách khơi thêm luồng hàng, hướng dẫn hoạt động cho những người buôn bán, điều hoà giá cả thị trường, nhập và xuất nhiều hàng hoá 21(?) Nam Định, lịch sử chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đã dẫn, tr: 232 .

49

phục vụ cho kháng chiến và đời sống nhân dân. Chỉ riêng 3 tháng đầu năm 1954, ngành mậu dịch Nam Định đã xuất được 217 triệu đồng, nhập 276 triệu đồng hàng hoá. Trong đó, nhập 79 triệu đồng dược phẩm, 25 triệu đồng sợi, bông, 13 triệu đồng dầu hoả. Đồng thời xuất được nhiều sản phẩm chủ yếu do nhân dân trong vùng du kích sản xuất với giá cao, như: gạo 81 triệu đồng, muối 54 triệu đồng. Khi chiến dịch Điện Biên mở ra, cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra quyết liệt, việc đóng góp sức người, sức của cho tiền tuyến bừng lên sôi nổi trên nhiều mặt..Hàng vạn dân công Nam Định tấp nập thồ hàng , tải đạn ra phía trước. Với tinh thần "Tất cả vì Điện Biên Phủ chiến thắng", nhân dân Nam Định đã huy động hàng trăm kg đậu, lạc, vừng;, hàng trăm bánh thuốc lào ; hàng ngàn kg muối, tôm, cá khô; hàng chục ngàn ống thuốc viên, thuốc tiêm; hàng ngàn lá thư tình nghĩa...qua bàn tay của những chiến sỹ giao thông vận tải và giao liên đã được gửi đến tay các chiến sỹ đang ngày đêm đánh địch trên chiến trường. Nhiều cụ già còn mang tiền nhờ cán bộ ta mua quà gửi tặng bộ đội Điện Biên. Nhiều bà con làm nghề chài lưới trên sông đã tình nguyện đi chở hàng dài ngày, phục vụ tiền tuyến.

Với sự cố gắng cao độ của quân dân cả nước, và bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" (7/5/1954), đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và anh dũng chống thực dân Pháp của nhân dân ta.

Qua 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, lực lượng giao thông vận tải Nam Định đã lớn mạnh về nhiều mặt.

Trên lĩnh vực giao thông liên lạc, mặc dù phải vượt qua rất nhiều khó khăn, biến đổi, song ngành cũng đã có những bước trưởng thành về cả số và chất lượng. Các phòng, ban không ngừng được mở rộng, trình độ KHKT được nâng lên, hệ thống giao thông liên lạc đến huyện xã và liên huyện, liên tỉnh được hình thành và từng bước được củng cố. Các cơ sở Đảng của ngành đã phát huy được tính tiên phong, chiến đấu kiên cường, anh dũng, tổ chức tốt đường dây, mạng lưới thông tin. Từng cán bộ Đảng viên, công nhân viên của ngành đều cố gắng khắc phục khó khăn, không sợ hy sinh gian khổ để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong khi làm

50

nhiệm vụ, có đồng chí bị bắt, bị tra tấn dã man, vẫn một lòng trung thành, chịu đựng, kiên quyết không khai báo, đầu hàng, giữ vững đường dây bí mật an toàn và thông suốt. Các trạm đưa đón cán bộ giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm như trạm 100; 90; 50; 60 hay 230; 240 được lập ra nhanh chóng, kịp thời phục vụ việc đưa đón cán bộ và các chỉ thị, mệnh lệnh của Tỉnh uỷ, uỷ ban KCHC chỉ đạo kháng chiến. Tài liệu của đảng được các đồng chí giao thông liên lạc giữ gìn cẩn thận, không để xẩy ra mất mát hoặc rơi vào tay giặc. Hàng tấn công văn được chuyển đến đúng địa chỉ. Hàng trăm đơn vị bộ đội, dân công được các chiến sỹ giao thông đưa đón đến nơi điểm hẹn an toàn. Nhiều cán bộ cao cấp của đảng, nhà nước như Lê Thanh Nghị, Văn Tiến Dũng, Đỗ Mười...cùng các đồng chí Bí thư khu uỷ quân khu III đi lại trên đường dây giao thông, liên lạc của Nam Định đều an toàn tuyệt đối. Các đồng chí giao thông viên của tỉnh đều phát huy tinh thần cố gắng, năng động sáng tạo để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Trên lĩnh vực giao thông vận tải, do đặc điểm của vùng tự do và vùng tạm chiếm khác nhau nên các hoạt động giao thông vận tải cũng diễn ra ở những mức độ khác nhau. Ở vùng tạm chiếm, các hoạt động giao thông vận tải chủ yếu ở đây là công tác phá hoại các công trình, đường xá, cầu cống, ngăn cản sự giao thông đi lại, mở rộng càn quét của địch. Đồng thời tổ chức các trận đánh trên các tuyến giao thông chính. Ở vùng tự do và du kích hoạt động, tỉnh đã chú ý chỉ đạo phát triển giao thông vận tải nhân dân, củng cố, sửa sang đường xá, cầu cống, đê điều... sắm sửa xe cộ, thuyền bè để vận chuyển hàng hoá, lương thực, thực phẩm, bộ đội, phục vụ cho kháng chiến và đời sống nhân dân. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Nam Định đã cung cấp cho chiến trường 18.757 thanh niên, hơn 20.000 người đi dân công hoả tuyến, làm đường xá, cầu cống, vận tải lương thực, đạn dược trên các mặt trận; đóng góp hơn70.000 tấn lương thực cùng nhiều tiền của, vàng bạc cho kháng chiến. Hầu hết số lượng người và hàng hoá trên đều qua lực lượng giao thông vận tải, cả của nhà nước và nhân dân thực hiện, góp phần phục vụ đắc lực cho cuộc kháng chiến kiến quốc vĩ đại của dân tộc ta sớm giành thắng lợi.

51

CHƯƠNG IIINGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI THỜI KỲ 1954-1964

I- Ty Giao thông vận tải Nam Định ra đời, những nhiệm vụ chủ yếu của ngành trong thời kỳ khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế - xã hội (1954-1960).

Năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Một trong những yêu cầu cấp thiết của cách mạng miền Bắc lúc này là nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục cải tạo và phát triển kinh tế - văn hoá. Ngành giao thông vận tải được khôi phục, cải tạo để đáp ứng kịp thời nhiệm vụ phát triến kinh tế - xã hội.

Trong những ngày đầu hàn gắn vết thương chiến tranh, tháng 9-1954 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết nêu rõ: "Khôi phục nhanh chóng đường xe lửa, đường ô tô, vận tải sông ngòi có ý nghĩa quan trọng đặc biệt nhất. Đó là điểm không thể thiếu được trong việc phát triển sản xuất.

52

Sau hoà bình, ngành giao thông vận tải Nam Định đứng trước một thực trạng vô cùng khó khăn. Hầu hết hệ thống đường bộ, đường sắt bị phá hỏng đường sông bị bồi lấp, cầu cống hư hại, phương tiện vận tải bị chìm đắm và lạc hậu, bến phà bị phá hỏng hoàn toàn, để ngăn chặn việc vận chuyển hành quân xâm lược của thực dân Pháp. Đến ngày hoà bình, Nam Định chỉ còn 65 km đường bộ ô tô có thể đi lại được nhưng qua nhiều năm không được duy trì, bảo dưỡng nên sạt lở, nhiều ổ gà, đường sá biến dạng nham nhở. . . đường bộ ở vùng nông thôn quanh năm lầy lội, đi lại khó khăn. Người nông dân lao động phải đầu đội vai gánh nặng nhọc, đời sống vô cùng vất vả khó khăn, kìm hãm sản xuất phát triển.

Về đường thuỷ, qua chiến tranh cũng còn để lại nhiều chướng ngại vật như những xác tàu chiến đắm, kè ngầm chưa được trục vớt, tháo rỡ; bến bãi luồng lạch không được nạo vét gây cản trở việc đi lại của phương tiện vận tải thuỷ.

Đứng trước thực trạng của hệ thống giao thông vận tải xuống cấp, lạc hậu, tháng 3-1957 Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết lần thứ 12 nêu rõ "về đường sá thì lấy việc củng cố đường sá có sẵn là chính. Về phương tiện vận tải thì đối với phương tiện cơ giới, lấy củng cố là chính. Đối với phương tiện thô sơ lấy khôi phục và phát triển có hướng dẫn; củng cố vận tải quốc doanh tận dụng khả năng vận tải tư nhân".

Nắm vững tinh thần Nghị quyết 1 2 của Trung ương Đảng, Tỉnh uỷ đã chỉ đạo ngành Giao thông vận tải Nam Định có biện pháp tập trung công sức, vật lực nhanh chóng khôi phục hệ thống giao thông vận tải, hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng, củng cố chế độ dân chủ nhân dân ở miền Bắc và chi viện cho chiến trường miền Nam.

Từ năm 1 954 đến năm 1 956, giao thông vận tải chỉ là một bộ phận trong ty công chính Nam Định. Trụ sở đóng tại Lạc Quần do ông đặng văn Sinh dàm Trưởng ty, Phó ty là ông Đặng Thế Nùng, ông Trần Đăng Súy.

Ngày 28-7-1954 thành lập Hội đồng khám xe giấy phép do Uỷ ban Quân chính Thành phố cấp). Tháng 11 - 1954, Ty Công chính thành lập bộ phận vận tải có 3 người, trong đó một người phụ trách chung, một người trực tiếp theo dõi bến chợ Cồn và Bùi Chu, một người theo dõi các bến khác... Tháng 3-1955, bộ phận vận tải được tăng cường lên 5 cán bộ, nhân viên theo dõi các bến bãi ờ thành phố Nam Định.

53

Năm 1956 thành lập mới Ty Giao thông vận tải, trụ sở tại chợ Vị Hoàng nay là trụ sở Giáo dục - Đào tạo) tổ chức bộ máy của Ty được kiện toàn.

Lãnh đạo Ty: có 2 Phó ty:

Ông Đặng Thế Nùng

Ông Trần Đăng Suý

Các Ban của Ty bao gồm:Ban Hành chínhBan Kỹ thuậtBan Tài vụBan Vận tải

Tổng số cán bộ của Ty mới có gần 40 người.

Tháng 12 - 1957, tỉnh quyết định sáp nhập vận tải thành phố và vận tải tỉnh thành Ban vận tải nhưng chưa có cán bộ phụ trách chung mà vẫn phân thành 2 bộ phận vận tải thuỷ và vận tải bộ.

Đến cuối năm 1959 số cán bộ của toàn ngành được tăng lên đáng kể. Toàn ngành có 159 người.

Lãnh đạo Ty gồm có :

Trưởng ty: Ông Phạm Văn Khoái

Phó ty: Ông Đặng Thế Nùng

Ông Nguyễn Văn Sanh

Ông Đào Bá

Từ năm 1961 đến năm 1965, đáp ứng yêu cầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, tổ chức bộ máy, số lượng cán bộ, công nhân của ngành phát triển mạnh.

Lãnh đạo Ty gồm có:

Trưởng ty: ông Phạm Văn Khoái

Phó ty: Ông Nguyễn Văn Sanh

Ông Đào Bá

Các phòng Ban của Ty bao gồm:

54

- Phòng Tổ chức hành chính.

- Phòng Vận tải.

- Phòng Tài vụ

- Phòng Quản lý đường xá

- Phòng Giao thông nông thôn

- Phòng Khảo sát thiết kế

- Phòng Kiến thiết cơ bản

- Phòng Kế hoạch thống kê.

* Các đơn vị trực thuộc gồm:

- Đoạn bảo dưỡng đường bộ

- Đội công trình

- Công tư hợp doanh ô tô

- Công tư hợp doanh ca nô

- Xưởng Sà Lan.

* Các hợp tác xã trực thuộc gồm:

- HTX Vận tải thuyền buồm Tháng 8

- HTX Vận tải Xuân Hải

- HTX Vận tải Quang Trung

- HTX Vận tải Thống Nhất

- HTX Nhất Thanh

- HTX đóng thuyền Quyết Thắng Năm 1966 mới thành lập tách ra từ xưởng thuyền HTX Tháng 8.

Trên cơ sở tổ chức bộ máy từng bước được kiện toàn, được sự quan tâm lãnh đạo của uỷ ban hành chính tỉnh, Khu giao thông liên khu 3, ngành Giao thông vận tải Nam Định tập trung vào những nhiệm trọng tâm là tổ chức quản lý giao thông vận tải, khôi phục lại các hệ thống giao thông, cầu cống, phát triển vận tải đi lên theo con đường vận tải của chế độ dân chủ nhân dân với phương châm phục vụ tốt cho sản xuất, xây dựng, dân sinh và quốc phòng tháng 9 - 1962, thành lập Đảng bộ ngành Giao thông vận tải do ông Phạm Vãn Khoái làm Bí thư Đảng uỷ.

55

Về vận tải: Hoà bình lập lại, ngành đã có chủ trương tổ chức và phát triển vận tải theo hướng tập thể, có kế hoạch và tổ chức.

Tuy nhiên, sau ngày giải phóng, các chủ phương tiện vận tải băn khoăn, chưa nắm được đường lối chính sách của Đảng. Để các chủ phương tiện thông tỏ chính sách của Đảng, yên tâm làm ăn, cán bộ vận tải đã tổ chức cho chủ các phương tiện vận tải học tập chính sách vận tải của Đảng. Ngày 25-10-1954 tổ chức một lớp cho các chủ phương tiện vận tải ô tô và ngày 6 - 11 - 1954 tổ chức một lớp cho chủ các phương tiện vận tải thuỷ. Từ năm 1 955 trở đi, ngành còn mở nhiều hội nghị học tập các chủ trương, chính sách mới của Đảng tới các chủ phương tiện vận tải. Qua các lớp học, các hội nghị, hầu hết các chủ phương tiện đều hiểu, thông suốt chính sách của Đảng, yên tâm làm ăn và tiếp tục bỏ vốn mua sắm thêm các phương tiện phục vụ vận tải hàng hoá, đi lại của nhân dân. Với chính sách đúng và phù hợp, công tác vận tải qua từng năm không ngừng phát triển. Về vận tải đường bộ: tập trung mở lại các tuyến vận tải nội tỉnh. Năm 1954, Nam Định có 2 bến trong đó Đò Quan là bến chính, gồm các tuyến:

Đò Quan - Cổ Lễ có 9 xe ca

Đò Quan - Chợ Cồn có 6 xe ca

Đò Quan - Hành Thiện có 2 xe ca

Đến năm 1957, mở rộng lên 4 bến là: Đò Quan, Cổ Lễ, Chợ Cồn và Hành Thiện. Lực lượng vận tải tư nhân cũng tăng nhanh với 41 xe ca, 20 xe tải và 10 xe ta-xi. Các tuyến xe ngoại tỉnh cũng được mở rộng với các luồng:

Nam Định - Hà Nội.

Nam Định - Thanh Hoá

Nam Định - Đò Lèn

Nam Định - Ninh Bình

Nam Định - Phủ Lý.

Về đường thuỷ: sau hoà bình, do vận tải đường bộ rất khó khăn nên vận tải bằng phương tiện thuỷ là chủ yếu. Lúc này Nam Định có khá nhiều thuyền, khoảng 1.500 chiếc thuyền gỗ trọng tải từ 1 đến 35 tấn, đại đa số là thuyền trọng tải dưới 10 tấn. Trong số đó thuyền vận tải và buôn bán có khoảng 1.000 chiếc, thuyền đánh cá 250 chiếc và có 250 chiếc làm mùa.

56

Những thuyền này chủ yếu dùng chở lúa và chở phân bón phục vụ sản xuất nông nghiệp. Số thuyền nằm ở rải rác khắp nơi trong tỉnh nhưng tập trung nhiều nhất là ở Xuân Phương, Xuân Trung, Xuân Trường), Hải Thanh, Hải Đường (Hải Hậu). Còn rải rác các xã trong tỉnh mỗi xã có từ 5- 10 thuyền. Nhận thức rõ ưu thế vận tải thuỷ của địa phương Ty đã có chủ trương khuyến khích các chủ vận tải đóng thêm phương tiện vận tải thuỷ. Từ cuối năm 1956, toàn tỉnh đã có khoảng 2000 thuyền có trọng tải từ 1 đến 10 tấn. Có một số chủ đóng thuyền to trọng tải tới 35, 40 tấn để chở hàng Nhà nước.

Trên cơ sở thực trạng vận tải ở địa phương, ngay những năm đầu, ngành thực hiện tổ chức quản lý chặt chẽ các phương tiện, lên kế hoạch điều phối hoạt động vận tải một cách hợp lý, vừa động viên các chủ phương tiện, vừa động viên lái xe phấn khởi tích cực tham gia và hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ngay từ năm 1955, ngành đã tổ chức thành lập các tổ sau đó 1à các đoàn vận tải (cả đường bộ và đường sông) đồng thời có kế hoạch hướng dẫn các tổ, đoàn để ra chương trình hoạt động hàng tháng, quý để hoạt động được chủ động, thường xuyên có việc làm. Ngành cũng phối hợp với các ngành như đường thực vật liệu xây dựng, nông sản, quốc doanh bách hoá để chủ động điều hoà kế hoạch vận chuyển của Trung ương, của địa phương được kịp thời.

Kế hoạch vận tải được ngành xây dựng ngay từ đầu năm, dựa trên cơ sở phát triển kinh tế của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và sức tiêu thụ của nhân dân, yêu cầu kiến thiết xây dựng của Nhà nước. Song qua thực tế, quá trình thực hiện kế hoạch gặp nhiều khó khăn, những tháng đầu năm, hoạt động của các phương tiện không đều, nhiều xe, thuyền phải nằm chờ việc, những tháng giữa năm, cuối năm thì dồn dập, việc bố trí các phương tiện không đáp ứng được yêu cầu, nhiều khi ngành phải xin thêm phương tiện ở các tỉnh Hà Nội, Hải Phòng về hỗ trợ. Nắm rõ nguyên nhân dự trù kế hoạch chưa sát của từng năm, từ năm 1957, 1958 trở đi, việc xây dựng kế hoạch vận tải được Ty chỉ đạo một cách sát sao, nên kịp thời điều chỉnh phương tiện đáp ứng yêu cầu vận chuyển. Cùng với các xe ô tô, thuyền, ca nô, ngành cũng tổ chức, huy động các loại phương tiện thô sơ cùng tham gia vận tải như xe đạp, xích lô, xe ba gác. Các phương tiện này đã phát huy vai trò tích cực trong việc chuyên chở hàng hoá từ nông thôn đường ô tô, đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế và phục vụ đời sống nhân dân. Do đó dù có nhiều khó khăn về phương tiện, hàng hoá và sự bất

57

thường trong việc đi lại của nhân dân nhưng nhìn chung năm nào ngành cũng hoàn thành vượt mức kế hoạch vận chuyển hàng hoá được giao. Phục vụ tốt việc đi lại của nhân dân nhất là trong các dịp ngày lễ tết, lễ hội.

Có được những kết quả trên là nhờ có công tác tổ chức, điều hành của ngành ngày một tốt hơn, đồng thời ngành vận tải cũng đã biết phát huy sức mạnh chung của các chủ phương tiện, của anh em công nhân. Trong những nam khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển vận tải. Trong vận tải, anh em công nhân kết hợp chặt chẽ với chủ phương tiện, tăng cường bảo dưỡng phương tiện, tăng năng suất vận chuyển. Vào các thời điểm mùa vụ hoặc những kế hoạch đột xuất, có những xe hoạt động từ 5 giờ sáng đến 9, 1 0 giờ tối mới về nghỉ. Anh em lái xe thi đua lái xe an toàn, tiết kiệm, mục tiêu phấn đấu trong vận tải được nêu lên theo phương châm "nhiều, nhanh, tốt, rẻ" được chủ phương tiện và công nhân đồng tình hưởng ứng.

Từ năm 1958, giao thông vận tải Nam Định được điều thêm xe quốc doanh về hoạt động. Trước khi bố trí xe quốc doanh về Nam Định, Ty đã xác định rõ nhiệm vụ quan trọng đối với việc xây dựng lực lượng vận tải quốc doanh. . . xác định những khó khăn và thuận lợi khi xe quốc doanh về hoạt động Ty đã họp với toàn bộ cán bộ giao thông vận tải truyền đạt rõ ý nghĩa, mục đích việc xây dựng quốc doanh vận tải, là cơ sở bước đầu của giai đoạn quá độ lên CNXH. Ty cũng phân công cán bộ phối hợp với chủ tư doanh, liên hiệp Công đoàn tỉnh và Chấp hành công đoàn xe hơi tuyên truyền, giáo dục cho các chủ phương tiện, anh em lái xe đồng tình ủng hộ xe quốc doanh hoạt động. Như vậy đến năm 1958 Nam Định có 20 xe tải, 41 xe ca, 10 xe tai của tư nhân và 11 xe tải, 5 xe ca của quốc doanh cùng hoạt động.

Từ khi tăng thêm xe của vận tải quốc doanh, hoạt động vận tải càng trở nên nhộn nhịp. Năm 1958, hưởng ứng phong trào thi đua sử dụng xe an toàn, ngành phát động một phong trào thi đua rầm rộ, sôi nổi với Quân khu Hữu Ngạn đạt nhiều thành tích tốt, kích thích tinh thần thi đua trong mỗi cán bộ, công nhân dàm vận tải. Xe nào cũng có khẩu hiệu thi đua, trong phong trào đã xuất hiện 11 phương tiện xuất sắc và 8 cá nhân xuất sắc.

Về phương tiện xuất sắc: Nhất: xe tải Cộng Hoà.

Nhì : xe ca Hiệp Thanh

58

Ba: xe tải Dân Tiến

Cá nhân xuất sắc: Anh Thọ - lái xe văn Thanh (nhất)

Anh Môn - Phụ xe Thịnh Phát (nhì)

Anh Nhu - lái xe Tân Dân (ba)

Phong trào thi đua đã giúp các tổ, đoàn học tập lẫn nhau, cùng trao đổi kinh nghiệm chuyên môn, tiết kiệm xăng dầu, lái xe an toàn. Tổng kết phong trào thi đua, Ty được Cục xe hơi Trung ương tặng bức chân dung Hồ Chủ Tịch về thành tích lãnh đạo phong trào thi đua. Từ đó khẩu hiệu an toàn, tiết kiệm trở thành phương châm hành động của mỗi cán bộ công nhân giao thông vận tải.

Cùng thời gian này, thành phố Nam Định đã tổ chức cho cán bộ và nhân dân học tập luật đi đường, Ty cũng tổ chức một đợt học tập cho các chủ xe và công nhân. Nhiều hình thức tuyên truyền luật đi đường được triển khai như giới thiệu trên đài một tuần liên tục, nhiều khẩu hiệu, pa nô được kẻ vẽ trên các ngã ba, ngã tư cổ vũ cho việc chấp hành tốt luật đi đường. Qua đợt tổ chức học tập, về cơ bản nhân dân, các chủ phương tiện đã hiểu và thực hiện tốt luật đi đường.

Từ năm 1958 đến năm 1960, hệ thống giao thông thuỷ bộ được tiếp tục sửa chữa, cải tạo, lực lượng giao thông vận tải Nam Định phát triển khá mạnh, đặc biệt là lực lượng vận tải đường sông được xếp loại mạnh ở các tỉnh phía Bắc.

Thời gian này, cùng với toàn Đảng, toàn dân, ngành giao thông vận tải tập trung vào nhiệm vụ chủ yếu là: tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư bản, tư doanh, tuyên truyền, giáo dục, đưa các chủ phương tiện vận tải vào làm ăn tập thể, tiếp tục xây dựng và khôi phục, sửa chữa hệ thống cầu đường, hình thành các tổ chức, đơn vị mới, đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành lá sản xuất công nghiệp giao thông vận tải và giao thông vận tải nông thôn. Ngành thành lập các đơn vị mới như xí nghiệp đóng Sà lan vỏ gỗ, xưởng sửa chữa tàu thuyền, công tư hợp doanh ô tô, công tư hợp doanh ca nô. Đội công trình giao thông, xưởng sửa chữa ô tô (nằm trong công tư hợp doanh ô tô. Xây dựng bến xe ô tô và nhà khách chờ xe, xây dựng nhà khách chờ ca nô . . .

Bước vào thời kỳ cải tạo kinh tế, Nam Định có gần 700 tư sản, tiểu chủ hoạt động cá thể trong lĩnh vực vận tải. Thực hiện chủ trương, đường

59

lối cải tạo của Trung ương Đảng, Chính phủ, ngành Giao thông vận tải đã tiến hành cải tạo hoà bình, đưa các nhà tư sản, tiểu chủ vào con đường làm ăn tập thể. Đây 1à nhiệm vụ chính trị hết sức quan trọng của ngành. Được sự chỉ đao trực tiếp của Tỉnh ủy, Ủy ban, Ty đã huy động lực lượng cán bộ trong ngành cùng với các cán bộ do tỉnh cừ sang hỗ trợ triển khai thực hiện tốt công tác cải tạo. Trước hết, Ty tổ chức cho các chủ phương tiện vận tải học tập chính sách cải tạo của Đấng, đưa họ vào con đường làm ăn tập thể trong các tập đoàn, hợp tác xã, công tư hợp doanh. Đến năm 1960, ngành giao thông vận tải Nam Định đã căn bản hoàn thành việc cải tạo tư bản tư doanh trong hoạt động vận tải của 18 cơ sở với 2.896 người (22) vào công tư hợp doanh ô tô có 53 phương tiện do ông Đào Bình làm giám đốc; công tư hợp doanh ca nô có 17 phương tiện vận tải do ông Lê Văn Biếng làm giám đốc, 8 hợp tác xã thuyền buồm gồm 343 phương tiện hãng 5,355 tầu, 2 hợp tác xã sửa chữa và sản xuất phương tiện vận tải thô sơ, ba tập đoàn xích lô gồm 212 xe và 3 đoàn bốc xếp gồm 662 công nhân(23) . Đồng thời ngành Giao thông vận tải đã mở nhiều lớp tập huấn nghiệp vụ chuyên môn, kỹ thuật cho cán bộ làm công tác quản lý và đào tạo công nhân kỹ thuật, nhằm nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ sơ - trung cấp cầu đường, cán bộ tài chính - kế toán và đội ngũ công nhân duy tu bảo dưỡng cầu đường.

Như vậy đến cuối năm 1 960, thực hiện sự chỉ đạo của tỉnh, ngành giao thông vận tải đã căn bản hoàn thành cải tạo tư bản tư doanh đưa các thành phần cá thể vào con đường làm ăn tập thể, từng bước xác lập quan hệ sản xuất mới trong toàn ngành. Đặc biệt năm 1960, với tinh thần thi đua lập thành tích chào mừng 30 năm thành lập Đáng, 15 năm thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, cán bộ công nhân toàn ngành đã bền bỉ phấn đấu, hoàn thành kế hoạch năm 1 960 trước thời hạn 90 ngày đêm, trong đó 90% kế hoạch hoàn thành trước ngày Quốc khánh 2-9; 9/11 hạng mục kiến thiết cơ bản hoàn thành trước ngày 2-9.

1 - Khôi phục và bước đầu phát triển hệ thống giao thông (1954- 1960).

Hoà bình lập lại, hệ thống giao thông do tỉnh quản lý có các tuyến đường:

Đường 10: Tân Đệ - Ninh Bình dài 34 km

22 Báo cáo tổng kết 10 năm công tác giao thông vận tải Nam Định 1954-1964 trang 5.23 Báo cáo tổng kết 10 năm công tác giao thông vận tải Nam Định 1954-1964 trang 5.

60

Đường 21 : Cầu Họ - Nam Định dài 13 km

Đường 21B : Nam Định - Lạc Quần dài 25 km

Đường 21 C : Lạc Quần - Văn Lý dài 22 km

Đường 55: Nam Định- Giáo Lạc dài 45 km

Đường 53A: Ngặt Kéo - Trực Ninh dài 7 km

Đường 51 : Hành Thiện - Lạc Quần và ngã 3 cầu Kích - Quất Lâm dài 22 km.

Đường 54 : Xuân Bảng - Cồn Nhất dài 14 km - Đường 38 dài 5 km

Đường 1 2 : Nam Định - Phố Cháy dài 22 km

Các tuyến đường trên chỉ có 47 km đường nhựa, còn toàn bộ là đường đá dăm nước, mặt đường rất xấu.

Được sự chỉ đạo của tỉnh, ngành giao thông vận tải Nam Định chủ trương kết hợp giữa duy tu và xây dựng mới. Những nam 1954-1958, do điều kiện vốn, kinh phí của ngành còn nhiều khó khán cho nên ngành tập trung vào duy tu, sửa chữa đường là chính. Bằng biện pháp nâng cấp mặt đường từ xấu lên tốt. Công tác duy tu, sửa chữa được tiến hành theo phương châm chủ yếu là khai thác vật liệu tại chỗ như dùng gạch vữa để vá ổ gà, dùng vôi trộn đất để cải tạo nâng cấp mãi đường. Hàng ngày, công nhân duy tu phải bám đường, vá ổ gà, té và quét mạt, bạt lề khơi thông cống rãnh để thoát nước khi trời mưa. Vì vậy công nhân duy tu xác định "nước là kẻ thù số một của mặt đường" những khi trời mưa, toàn bộ công nhân đều đổ ra mặt đường để thoát nước với tinh thần "ướt áo để ráo đường" Tử năm 1 95 6 tỉnh triển khai kế hoạch trung tu các đường trong tỉnh và mờ công trường trung tu. Ngày 12-8-1956, công trường trung tu đường 10 được thành lập có Ban chỉ huy công trường, bộ phận chuyên môn và bộ phận tài vụ để tổ chức thực hiện. Thời gian đầu, công trường có 2 đơn vị công nhân với 90 người do Khu điều động về Ty Giao thông Nam Định. Sau đó, do yêu cầu của công trường, số công nhân táng dần, có thời gian mỗi ngày có tới 650 người có mặt trên công trường làm việc. Cùng với việc trung tu đường 10, Ty còn lập kế hoạch và triển khai tiểu tu đường dân sinh kinh tế 55 từ Đò Quan đi Sỹ Lâm (miền hạ Nghĩa Hưng) đây là con đường quan trọng thứ 2 của tỉnh sau đường 21. Năm 1957, tiếp tục tiểu tu đường 21 A, B, đường 53 , đường 51 . . . Với những cố gắng đó, đến năm 1957, đường giao thông của tỉnh tăng lên 95 km. Bước sang thời

61

kỳ cải tạo, phát triển kinh tế (1958-1960), bên cạnh việc sửa chữa, ngành giao thông đã xây dựng thêm được 44 km đường mới và qua xáo xới, cải tạo được 103 km. Toàn tỉnh đã có 198 km đường giao thông tương đối khá.

Để phát huy năng lực của ngành giao thông vận tải Nam Định thông qua công tác xây dựng cơ bản và duy tu bảo dưỡng đường xá, trong thời kỳ hàn gắn vết thương chiến tranh và những năm đầu khôi phục cải tạo kinh tế (1955-1960) ngành giao thông vận tải Nam Định chỉ có những phương tiện thi công hoàn toàn thô sơ, phương tiện cơ giới hầu như không có nên chủ yếu chỉ khảo sát thiết kế và xây đựng được những cây cầu vòm gạch, cầu gỗ, cầu tre.

Đến năm 1959, 1960 cán bộ, công nhân đã nghiên cứu, thiết kế, xây dựng được những cây cầu bê tông, cầu sát đòi hỏi kỹ thuật cao, phức tạp. Với tinh thần học hỏi, sáng tạo, mỗi năm Ty Giao thông vận tải đã bắc mới hàng chục cầu nông thôn, sửa chữa thay thế nhiều cầu cũ. Năm ,1954 làm được 15 cầu, năm 1958 làm được 26 cầu, năm 1959 làm 25 cầu và năm 1960 làm được 9 cầu. Tính đến năm 1960 Ty Giao thông vận tải đã làm được 83 cầu các loại, cùng hàng loạt cầu gỗ, cầu bê tông, đặc biệt thời kỳ này Ty đã tận dụng xây dựng được cầu Ngăm bằng sắt và cầu Beilley trên quốc lộ 10. Những cây cầu được bắc đã đáp ứng kịp thời nhu cầu đi lại và phục vụ sản xuất cho nhân dân, nhất là ở nông thôn.

Năm 1960 Ty Giao thông vận tải chính thức tiếp nhận cầu phao Đò Quan do Công ty tư nhân bàn giao sang. Sau khi tiếp nhận, bến Đò Quan được xây dựng mới thành bến phà có cấp rộng với thiết bị cơ giới đủ điều kiện an toàn của một bến phà lớn, bình quân phương tiện trên phà sang sông chỉ mất 10 phút. Cùng với bến phà Đò Quan, bến phà Lạc Quần được xây dựng lại, bến phà Thịnh Long được xây dựng mới đảm bảo thông xe 24/24 giờ. Nhờ các kết quả trên nên các tuyến đường Nam Định- Chợ Cồn, Nam Định - Ninh Bình, Nam Định - Giao Lạc được an toàn thông suốt.

Trước năm 1958 trên đường 21B, C tốc độ xe trung bình chỉ từ 10 đến 15 km/h, chuyến xe Nam Định - Chợ Cồn phải mất gần một ngày, còn tuyến từ Nam Định đi Giao Lạc chưa được thông suốt. Muốn đi phải mất 1,5 ngày đi bộ hoặc 1 ngày đi xe đạp, nhưng qua kế hoạch 3 năm khôi phục và phát triển kinh tế (1958 - 1960) thì đường xá giao thông đã có bước phát triển. Xe chạy trên đường 21 B, C với tốc độ trung bình 30 - 40 km/h, xe chạy Nam Định - Chợ Cồn cũng chỉ mất 2 giờ, Nam Định - Ninh Bình chỉ

62

mất có 1 giờ và Nam Định - Giao Lạc đã có đường giao thông, ô tô chỉ chạy trong 2 giờ.

Hệ thống đường thủy Nam Định thời kỳ này cũng từng bước được nạo vét khơi thông, có hệ thống phao tiêu chỉ dẫn đường sông cho phương tiện đi lại cả ban ngày và ban đêm, những chướng ngại vật trên sông được phát hiện, các kè ngầm, bãi bồi được bốc dỡ, làm mới và khai thông những đường kéo dây thuyền ở hai bên bờ sông để phục vụ cho thuyền vận tải kéo dây các tuyến sông. Năm 1957 ngành đã lập kế hoạch trục vớt cầu Tào và cầu Ngăm để khai thông đường thuỷ, lập kế hoạch nạo vét cửa Mom Rô khai thông luồng đồng muối. Bến cảng được xây dựng mới và quy hoạch lại như bến cảng thành phố Nam Định trên bờ sông Đào được xây dựng mới với chiều dài 500 m, tạo điều kiện cho tầu thuyền ra vào thuận tiện quanh năm cả ngày lẫn đêm.

Về vận tải thuỷ và sản xuất công nghiệp vận tải:

Với số lượng thuyền nhiều, hoạt động thường xuyên, từ chỗ làm ăn riêng lẻ, tự phát, đến năm 1957, thực hiện chủ trương của tỉnh, Ty đã tổ chức được 28 đoàn vận tải thuỷ gồm 96 tổ theo từng luồng hoạt động. Ở những nơi tập trung phương tiện, Ty tiến hành xây dựng được 3 Ban liên lạc bến ở Xuân Trung, Xuân Hải và thành phố Nam Định. Các ban liên lạc giúp Ty quản lý lãnh đạo phương tiện được tốt. Chủ trương thành lập đoàn và chủ trương đúng và ngày càng thu hút được đông đảo các chủ phương tiện ra nhập đoàn, do đó việc thực hiện kế hoạch vận tải của Nhà nước ngày một tốt hơn. Qua các tổ, đoàn, việc giáo dục ý thức chấp hành kinh doanh và chính sách của Đảng, Nhà nước với các chủ phương tiện có nhiều thuận lợi. Đến năm 1959, từ một số ít thuyền nhỏ dưới 3 tấn nằm rải rác ở nông thôn, hầu hết các phương tiện đều vào các đoàn, tổ hoạt động theo tổ chức, kế hoạch và nâng cao chất lượng phương tiện. Năm 1959 với số tiền quỹ bảo dưỡng đường thuỷ do các chủ phương tiện đóng góp, Ty đã tổ chức một xưởng sửa chữa phương tiện thuỷ được 45 thuyền, 3 ca nô và đóng mới được 57 thuyền trọng tải từ 3 đến 15 tấn trị giá số đóng mới và sửa chữa là 55.000 đồng. Những năm qua vận chuyển hàng hoá đường thuỷ rải đều trong năm nhưng tập trung cao điểm các tháng 8 , 9, 1 0 vì đây là thời vụ thu hoạch muối và thóc vụ mùa và vụ chiêm. Các đoàn thuyền phải tập trung chở muối phân phối cung cấp đi các tỉnh, nhiều nhất là Hà Nội, Hải Phòng; vận chuyển thóc thuế đi nhập kho Trung ương và phân

63

phối cho các tỉnh. Hàng vận chuyển về tỉnh chủ yếu là đá phục vụ kế hoạch chống lụt, than, vật liệu xây dựng và phốt phát phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.

Việc thực hiện giá cước vận tải là nhiệm vụ quan trọng nhằm kích thích sản xuất và phục vụ đời sống nhân dân. Sau ngày hoà bình, ngành giao thông vận tải đã có quy định giá cước cụ thể đối với vận tải đường bộ và đường thuỷ. Nhìn chung cước vận chuyển được quy định phù hợp, nhất là cước vận chuyển hành khách, được nhân dân đồng tình cao. Tuy nhiên giá cước vận chuyển hàng hoá, nhất là vận tải thuỷ, bốc vác còn cao nên Ty đã lãnh đạo điều chỉnh cước vận tải thuỷ nhiều lần (từ năm 1954 đến năm 1955, Ty điều chỉnh hạ giá cước vận tải đến 4 lần). Năm 1957, thực hiện chủ trương của Chính phủ điều chỉnh giá cước nhằm phát triển kinh tế, cải thiện dân sinh, Ty đã tổ chức cho công nhân và các chủ phương tiện học tập hiểu rõ ý nghĩa, mục đích của việc điều chỉnh giá cước, nên đã tạo được sự đồng thuận khi triển khai thực hiện. Từ ngày 1 -6-1959, giá cước vận chuyển cả đường thuỷ, đường bộ đều được điều chỉnh, hạ giá tương đối thích hợp. Riêng cước bốc vác và vận chuyển xe ba gác đã được điều chỉnh tới 80% so với tổng số trọng lượng. Ở thành phố đã hạ từ 10 đến 40% giá cước các loại hàng vật liệu xây dựng, thủy sản, thực phẩm, bông vải sợi, các hàng của nhà máy Dệt. . . và giảm phần trăm cho cước xe đạp thồ, xe trâu bò kéo từ 10- 15% so với cước người. Ở nông thôn đã điều chỉnh công của các loại hàng thuộc công ty lương thực nông sản, vật liệu xây dựng. Bách hoá hạ hơn 10% so với thành phố (3). Qua việc điều chỉnh giá cước, Ty đã tiết kiệm cho công quỹ về đường thuỷ được 263.844 đồng, ô tô được 52.893 đồng, bốc vác được 210.000 đồng. Thông qua việc hạ giá cước cũng góp phần nâng cao nhận thức cho cán bộ, công nhân về đường lối, chính sách của Đảng, nhận rõ tầm quan trọng, vị trí của công tác giao thông vận tải, thấy rõ tác dụng của giá cước đối với phát triển nền kinh tế quốc dân.

II Ngành giao thông vận tải trong thời kỳ thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lẩn thứ nhất 1961-1964.

1- Từng bước xây dựng cơ sở vật chất phát triển năng lực của ngành.

Tháng 3-1960 Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đánh dấu hoàn thành thời kỳ khôi phục kinh tế, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn

64

mới. Vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh hoàn thành cách mạng dân tộc ở miền Nam tiến tới thống nhất đất nước. Để thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Trung ương Đảng đã đề ra kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ( 1961 - 1965) nhằm "phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội" . Đối với ngành Giao thông vận tải, Nghị quyết Trung ương lần thứ 2 (khoá III) chỉ rõ phương hướng, nhiệm vụ của ngành vận tải trong 5 năm là: "Phải cải tạo và xây dựng từng bước các đường giao thông thành một màng lưới thống nhất và hợp lý hơn. Phát triển thích đáng vận tải ô tô, bước đầu xây dựng vận tải hàng không, đồng thời phát triển giao thông vận tải đi sâu vào vùng nông thôn, đi sâu vào miền núi".

Bước vào thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III và Nghị quyết Trung ương II (khoá III) ngành giao thông vận tải đã tạo được những tiền đề thuận lợi. Vai trò, vị trí của ngành được xác định, tổ. chức, bộ máy của ngành được củng cố, phát triển hệ thống đường giao thông được phục hồi và từng bước xây dựng mới, công cuộc cải tạo tư bản tư doanh trong ngành đạt được kết quả tốt, quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa hình thành, cơ sở vật chất, kỹ thuật bước đầu được xây dựng. Song nhìn chung, giao thông vận tải phát triển chậm, đội ngũ cán bộ kỹ thuật thiếu nhiều, nguyên vật liệu gặp nhiều khó khán do kế hoạch hàng năm được duyệt chậm; các phương tiện vận tải cũ, nát phải nằm không hoạt động được trong khi nhu cầu vận chuyển ngày một tăng cao. . . Những khó khăn đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của ngành, ảnh hưởng nhất định tới việc phát triển kinh tế, văn hoá và củng cố quốc phòng.

Xác định rõ những thuận lợi, khó khăn của ngành, ngay từ những ngày đầu năm 1961, nằm đầu tiên thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, cán bộ công nhân toàn ngành từ xí nghiệp, cơ sở vận tải đến các công trường đều dấy lên phong trào thi đua yêu nước phấn đấu với tinh thần ngày càng cao, chất lượng tốt để hoàn thành nhiệm vụ.

* Về công tác kiến thiết cơ bản, trung đại tu đường xá.

Qua 5 năm khôi phục, cải tạo, phát triển kinh tế, ngành giao thông vận tải Nam Định quản lý gần 200 km đường, song mới có trên 40 km được đại tu, làm mới, số ki 1ô mét đường còn lại hầu hết chỉ dùng biện

65

pháp xáo xới khôi phục nhanh để đáp ứng yêu cầu vận tải nên qua thời gian sừ đụng đại bộ phận mãi đường xấu, số cầu cống cũng bị xuống cấp.

Với phương châm đảm bảo giao thông an toàn, thông suốt, trong kế hoạch 5 năm và từng năm ngành chủ trương tiếp tục trung, đại tu các tuyến đường Trung ương là đường 10 , đường 21; trung tu, duy tu xáo xới làm mới các đường địa phương ở mức cần thiết như đường 55, đường 12, đường 51, đường 53, đường 54, đường 56, đường 57, đảm bảo cho vận tải lưu thông an toàn, nhanh chóng. Đặc biệt công tác kiến thiết cơ bản của ngành tập trung cao vào làm đường giao thông nông thôn nhất là nông thôn miền ven biển vừa phục vụ kinh tế, dân sinh vừa phục vụ an ninh, quốc phòng.

Thực hiện chủ chương phát triển kinh tế vươn ra phía biển, nơi dân cư tập trung đông, nguồn tiềm năng biển dồi dào, ngành đã lập dự án xây dựng 2 tuyến đường Cầu Kích - Quất Lâm và Thịnh Long.

Đường Cầu Kích - Quất Lâm dài 8km8 là con đường có tử thời Pháp thuộc, mát đường rộng 5 mét, rải đá dăm. Trong kháng chiến ta đã phá huỷ để cản bước tiến quân của địch. Đến nay đường được phục hồi rộng 7m50, mặt đá rằm rộng 3m50. Đường này có bến phà Thức Hoá (phà gỗ 6 tấn) với tổng số vốn đầu tư là 114.000 đồng. Nam 1962 Ty tiếp tục làm tuyến đường Nghĩa Bình - Thịnh Long. Thịnh Long ở hữu ngạn sông Ninh Cơ, có khu đánh cá quốc doanh với hàng trăm thuyền và xưởng chế biến, có nông trường quốc doanh có đồng muối, có khả năng làm nơi nghỉ mát, dân cư đông. . . là khu vực quan trọng về kinh tế, trọng yếu về quốc phòng, có nhu cầu vận chuyển rất lớn. Vì vậy, đường được mở rộng nền đường lên 6 mét đồng thời nâng cấp, cải tạo cầu cống cho xe 6 tấn

và đóng phà 8 tẩn qua sông.

Đến năm 1964, ngành giao thông vận tải Nam Định đã làm mới được 101 cầu gồm 41 cầu bê tông, 3 cầu sãi, 4 cầu gạch, 53 cầu gỗ và 224 công các loài, thay thế cho những cầu tre tạm thời trước đây. Khôi phục và làm mới được 8 con đường với tổng chiều dài là 222 km. Qua xáo xối, bảo dưỡng đã nâng chất lượng loại đường được 1 92 km và 64 km được bảo dưỡng, thường xuyên. Trên các tuyến đường bộ, đều có hệ thống biển báo hiệu, cọc tiêu bằng bê tông thay cho các biển báo hiệu cọc an toàn bằng gỗ). Đặc biệt, việc trồng cây hai bên đường được thực hiện tốt vừa bảo vệ đường vững chắc, vừa che bóng mát cho nhân dân. Qua nhiều năm thực

66

hiện, công nhân và nhân dân đã trồng được 33.264 cây rải trên chiều dài 70 km đường. Trên các tuyến đường thuỷ Ty tiếp tục hoàn thiện hệ thống phao đăng tiêu, chỉ dẫn luồng sông cho phương tiện đi lại an toàn, năm 1963 làm thêm 2 cột báo bão trên sông Ninh Cơ. Hàng năm cán bộ, công nhân của Công ty đều triển khai kế hoạch nạo vét luồng lạch. Năm 1961 bốc đá kè ngầm phá chướng ngại trên sông Đào và sông Đáy, phá mố cầu cũ ở kênh Quần Liêu, mở rộng Ngòi Vấn Khẩu thành âu thuyền. Năm 1964, Ty đề nghị Trung ương đầu tư kinh phí để mở rộng bến thuyền chợ Cồn và làm bến muối. Nhờ chú trọng công tác kiến thiết cơ bản, đại tu, trung tu, bảo dưỡng và khơi luồng vận tải, Ty đã củng cố, nâng cao chất lượng mặt đường, cầu cống đảm bảo giao thông thông suốt, an toán, đồng thời phục vụ hiệu quá khai thác kinh tế biển và chỉ đạo vùng biển, nhất là vận chuyển muối.

Trong công tác kiến thiết cơ bản, đại trung tu, với trách nhiệm cao của cán bộ, công nhân trong ngành, được sự hỗ trợ tích cực của các cơ quan, các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương, sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các đơn vị trong ngành như giải phóng mặt bằng, bảo vệ hành lang đường bộ, hệ thống các công trình phụ trợ, duy tu bảo dưỡng nên giao thông vận tải Nam Định đã hoàn thành tốt các công trình kiến thiết cơ bản, quản lý kết cấu hạ tầng giao thông.

Góp phần làm nên thành tích của toàn ngành là sự tận tụy, sáng tạo, phát huy sáng kiến, khắc phục mọi khó khăn quyết hoàn thành tốt nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, công nhân giao thông vận tải. Trong điều kiện khó khăn, chậm trễ về nguyên vật liệu xây dựng, tập thể cán bộ, công nhân cầu đường đã dùng tre thay gỗ để làm mặt cầu. Thực hiện khẩu hiệu "không để giao thông gián đoạn một giờ phút nào" công nhân cầu đường đã căng bạt án ngủ ngay bên cầu ngày đêm lao động, đồng thời tìm mọi biện pháp cải tiến, áp dụng kinh nghiệm đưa năng suất lao động lên cao, hạ công gián tiếp như dùng đòn bẩy thay kích để nâng mặt cầu thay dầm. Công nhân bến phà thực hiện tốt khẩu hiệu "phà chờ xe" đã đi sâu nghiên cứu nắm chắc quy luật dòng sông cải tiến cách chèo chở và cập bến tiết kiệm được xăng dầu cho Nhà nước . . . Với những cố gắng đó, ngành Giao thông vận tải Nam Định mặc dù có rất nhiều khó khăn nhưng đều hoàn thành tốt nhiệm vụ.

67

Công tác vận tải là nhiệm vụ hết sức quan trọng nhằm góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Lãnh đạo ty đã tập trung chỉ đạo với phương châm phát triển cả vận tải bộ và vận tải thuỷ nhưng quan tâm phát triển mạnh vận tải thuỷ, đáp ứng yêu cầu vận chuyển hàng hoá. Song thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm, tình hình phương tiện khá càng thẳng. Xe ô tô có 46 chiếc nhưng xấu dần, số xe không hoạt động được ngày càng tăng, xe nằm chờ sửa chữa kéo dài. Vận tải thuỷ, số thuyền và trọng tải cũng sút giảm. Cuối năm 1961 các hợp tác xã chỉ còn 383 chiếc thuyền 6.078 tấn...

Đứng trước những khó khăn đó, cán bộ, công nhân vận tải đã phát huy sức mạnh tổng hợp, chủ động, sáng tạo vượt lên mọi khó khăn hoàn thành nhiệm vụ. Rút kinh nghiệm từ những năm trước, Ty tăng cường hợp tác XHCN với các ngành, nắm bắt nhu cầu vận chuyển để xây dựng kế hoạch vận chuyển, từng năm, từng quý phù hợp. Đặc biệt chú ý tập trung phương tiện vận. chuyển trong quý II và quý III lá thời điểm vận chuyển hàng hoá cao nhất.

Công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa "tiếp tục củng cố và xây dựng các cơ sở vận tải, tạo điều kiện đưa công tư hợp doanh lên xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã cấp thấp lên cấp cao, đồng thời tiếp tục hoàn thành cải tạo, đưa những người làm ăn riêng lẻ vào tổ chức" . Ngay từ năm 1961 Ty tổ chức cho các hợp tác xã, công tư hợp doanh học tập chính sách cải tạo XHCN của Đảng, từ đó các chủ vận tải, công nhân, xã viên hợp tác xã thấm nhuần đường lối của Đảng, tin tưởng vào con đường làm ăn tập thể XHCN, cùng đoàn kết lao động sản xuất, tình trạng lãng phí, những thói hư tật xấu bị đẩy lùi, anh em thực sự thương yêu, giúp dữ nhau vượt mọi khó khăn, thi đua lao động sản xuất. Sau đợt học ,tập, Ty thành lập thí điểm liên xã hợp tác xã vận tải (2 hợp tác xã hợp nhất thành 1 hợp tác xã). Cuối năm 1964, 8 hợp tác xã vận tải thuyền buồm được hợp nhất thành 4 hợp tác xã. Hầu hết các thuyền làm ăn riêng lẻ đã vào đội vận tải, đi vào vận chuyển có kế hoạch. Công ty hợp doanh ô tô được Nhà nước cho phép hoàn vốn chuyển sang thành lập xí nghiệp vận tải ô tô quốc doanh với tên gọi là Xí nghiệp vận tải ô tô Nam Định.

Về lực lượng vận tải khách đường bộ: Ngoài các luồng nội tỉnh, luồng ngoại tỉnh, có các tuyến Nam Định - Thanh Hoá, Nam Định - Phủ Lý, Nam Định - Hà Nội. Năm 1962 mở thêm tuyến Nam Định - Hoà Bình để phục vụ nhân dân đi phát triển kinh tế, văn hoá miền núi.

68

Lực lượng xe của tỉnh thời gian này có 19 xe tải = 55 tấn, 7 rơ móc = 21 tấn, 17 xe ca và tải có 446 ghế .

Số xe trên nhìn chung đã cũ nát, hầu hết đã quá tuổi hoạt động, chỉ có một số ít xe mới được bổ sung là đảm bảo chạy tốt còn tất cả các xe chỉ còn dưới 50%. Đối với kế hoạch vận chuyển hàng hoá, xe chủ lực của các cơ quan đảm nhiệm được 40% kế hoạch còn lại công tư hợp doanh Ô tô đảm nhiệm khoảng 60%.

Lực lượng vận tải thô sơ có 539 xe bò bánh lốp của hợp tác xã cải tiến và tập đoàn bốc vác, hơn 400 xe ba gác, 42 xe ngựa và trên 300 xe xích lô.

Đường thuỷ: Cơ giới có 5 ca nô và thuyền máy trọng tải 218 tấn, thuyền có 383 chiếc trọng tải 6.078 tấn.

Tuy số phương tiện còn hạn chế nhưng cán bộ, công nhân không ngừng phấn đấu hoàn thành kế hoạch, năng suất của các loại phương tiện từng năm đều nâng lên rõ rệt. Hầu hết các phương tiện đều vượt năng suất như: Năng suất bình quân 1 tấn xe dầu theo kế hoạch hàng năm là 1.800 tấn/km nhưng đã được nâng lên 2.086 tấn/km, tăng 14%. Năng suất bình quân 1 tấn xe tải có rơ moóc theo kế oạch là 2.055 tấn/km, tăng 14%. Năng suất bình quân 1 tháng xe ca theo kế hoạch là 7.236 người/km đã nâng lên 8.719 người/km, tăng 20%.

Về đường thuỷ: Năng xuất bình quân 1 tấn thuyền kéo theo kế hoạch là 340 tấn/km, đã nâng lên 350 tấn/km.

Những công tư hợp doanh, hợp tác xã vận tải khi mới thành lập tổ chức mọi mặt còn non yếu, chưa có kế hoạch vận tải rõ ràng phương tiện vận tải phần lớn đã cũ nát, chưa có cơ sở sản xuất, sửa chữa phương tiện. Vốn của Nhà nước trong các tổ chức vận tải cũng chưa có... đến thời gian này; các công tư hợp doanh, hợp tác xã đã tiến lên thành xí nghiệp, hợp tác xã bậc cao đi vào lao động, sản xuất toàn diện. Bộ máy tổ chức được kiện toàn, kế hoạch vận chuyển được nâng lên gấp 2 đến 3 lần so với trước. Nhiều cơ sở tập thể đã áp dụng chế độ 3 khoán nên năng suất ngày một cao. Cơ sở vật chất, tài sản vốn kinh doanh ở những xí nghiệp, công tư hợp doanh trước đây của tư nhân là chính, qua cải tạo xã hội chủ nghĩa đã trở thành của Nhà nước, với phương tiện vận tải an toàn, những cán bộ, công nhân đã trở thành những người chủ xí nghiệp, với tinh thần lao động xã hội

69

chủ nghĩa không quản khó khăn vất vả. Công nhân vận tải phục vụ không kể ngày đêm, bảo vệ hàng hoá tốt. Công nhân lái xe lái tầu, thuyền, ca nô với phương châm lái xe an toàn, tiết kiệm, quay vòng xe nhanh, yêu xe như con, quý xăng như máu, luôn bảo dưỡng xe tốt, tăng cường vận chuyển. Anh chị em bốc xếp lao động hết mình luôn vượt mức kế hoạch Nhà nước giao từ 20-35%; bảo vệ hàng hoá tốt, nhất là bảo vệ hàng trong đợt cơn bão năm 1962. Anh em đã dầm mình trong làn mưa rét bốc hàng trăm tấn thóc, mì, muối cứu hàng chục thuyền khỏi bị đắm (đoàn 3) cứu hàng vạn cây tre khỏi bị cuốn trôi, hàng chục tấn củi để cứu thuyền khỏi bị đắm (đoàn 1).

Trong vận tải, thực hiện từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, Ty đã mở rộng, xây đựng được những bến bãi lớn điển hình là cảng sông Nam Định. . . ) với phương tiện bốc dỡ cơ giới, vừa thay thế cho hàng trăm công nhân bốc vác vừa bốc dỡ nhanh, kịp thời giải phóng phương tiện, đảm bảo lưu thông hàng hoá được nhanh, nhiều hơn.

Để mở rộng năng lực sản xuất công nghiệp giao thông vận tải, năm 1961, Ty Giao thông vận tải thành lập xưởng đóng thuyền và Sà Lan do ông Bùi Quang Truyện làm giám đốc và xưởng sửa chữa ô tô trực thuộc Ty quản lý để sửa chữa và sản xuất phương tiện vận tải với khối lượng sửa chữa hàng năm tới gần 2.000 tấn thuyền. Năm 1962, xưởng đóng Sà Lan đã tự sản xuất vỏ và lắp ráp thành công máy ca nô 90 mã lực, đã đóng được phương tiện thuỷ cơ giới tự hành cho các tỉnh bạn như Bác Giang, Thanh Hoá, Thái Bình và một số ngành ở Trung ương. Để đạt được thành tích trên, trong vận tải, cán bộ, công nhân đã phát huy nhiều sáng kiến hợp lý hoá sản xuất tiết kiệm được nhiều tiền của và công sức lao động. Điển hình là thiết kế buồm cải tiến nâng trọng tải vận chuyển lên gấp đôi, sáng kiến lợi dụng thiên nhiên kéo buồm giúp sức cho máy tăng tốc độ để quay vòng chuyển nhanh. Phong trào tiết kiệm tận dụng phế liệu chế biến thành công cụ cải tiến thô sơ lên cơ khí được anh em lao động ờ hầu hết các xí nghiệp, đơn vị hưởng ứng, như công nhân xưởng Sà Lan sáng chế ra máy phay cải tiến đã giúp tăng tốc độ sản xuất cơ khí lên 300% so với làm thủ công mà không phải lệ thuộc vào đơn vị bạn. Công nhân công ty hợp doanh vận tải tô tô mỗi nam phát huy hàng chục sáng kiến, có sáng kiến làm lợi cho Nhà nước hàng ngàn đồng như sáng kiến bin hàn hơi, tự sản xuất toàn bộ máy hàn hơi đảm bảo an toàn phẩm chất tốt. Nhiều máy móc cũ bị hỏng hóc, thiếu phụ tùng được anh em công nhân kỹ thuật nghiên cứu, tìm mọi cách

70

sửa chữa, khắc phục vừa đem lại hiệu quả kinh tế cao, vừa nâng cao được trình độ nghiệp vụ kỹ thuật cho đội ngũ công nhân.

Tháng 5 - 1963, xưởng sửa chữa Sà Lan được Bộ Giao thông vận tải, uỷ ban kế hoạch Nhà nước đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất đóng mới và sửa chữa tàu thuyền bằng cơ giới hoá. Sau khi dây chuyền sản xuất được hoàn thành, năm 1964, xưởng đóng mới 8 đầu, kéo lắp máy từ 45 CV đến 60 CV của Rumani, một tàu chuyên dụng lắp máy 90 CV của Tiệp Khắc, 2 tàu ven biển lắp máy 90 CV của Cộng hoà dân chủ Đức.

Trong đại chiến thế giới lần thứ 2, nhiều con tàu bị bắn cháy còn nằm chìm dưới lòng sông chữa có điều kiện để trục vớt. Ngày 3 - 2 - 1961, Ty Giao thông vận tải Nam Định đã mở công trường trục vớt và khôi phục lại con tàu Khâm Sai đã 17 năm chôn chặt dưới ngã ba sông Hưng Long (đầu sông Đào). Qua 2 tháng thi công hết sức khẩn trương với quyết tâm "đào đất lấy vàng", cán bộ, công nhân đã đào tới 26.600m3 đất, huy động 6.000 nhật công, sau đó tu sửa thành tàu Mỹ Tho với 160 ghế ngồi để cùng với tàu khách sông Đào chuyên chở khách tuyến Nam Định- Hà Nội.

Năm 1 962, Ty tiếp tục trục vớt tầu Nhan Môn, tàu ca nô chiến và một Sà Lan bằng sắt 200 tấn có thể sửa chữa sử dụng tốt.

Như vậy từ năm 196 1 đến năm 1964, Ty đã phát triển mới được 3 ca nô kéo công suất 250 mã lực, 1 tàu khách 160 ghế, 19 thuyền lai 655 tấn, 13 xe ô tô và rơ moóc, 2.765 thuyền gỗ ở nông thôn 11.937 tấn trọng tải... đó là bước trưởng thành nhanh chóng của ngành vận tải Nam Định cả về cơ sở vật chất và khả năng vận tải hàng hoá. Với sự ra đời của các hợp tác xã bậc cao, các xí nghiệp vận tải, xí nghiệp sửa chữa và đóng mới phương tiện của ngành giao thông vận tải Nam Định đã đem lại những kết quá thành tích xuất sắc cho ngành và đó cũng là sự thắng lợi trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với tỉnh Nam Định nói chung và ngành giao thông vận tải nói riêng.

Cùng với sự phát triển của hệ thống giao thông các bến bãi, kho tàng, các loại phương tiện vận tải thì hiệu quả kinh doanh vận tải cũng không ngừng phát triển. Những năm đầu hàn gắn vết thương chiến tranh (1955-1957) toàn ngành vận tải vận chuyển được 452.000 tấn hàng hoá thành 26.256.000 tấn/km và 1.558.000 người thành 79.895.000 người/km thì trong thời gian khôi phục và bước đầu phát triển kinh tế (1958-1960) ngành giao thông vận tải Nam Định đã vận chuyển được 793.000 tấn hàng

71

hoá thành 44.626.000 tấn/km và 1.536.000 người thành 72.240.000 người/km . Khi thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, từ năm 1 96 1 đến hết năm 1963 khối dượng vận chuyển của ngành lên tới 1 .014.000 tấn hàng hoá thành 68.796.000 tấn/km và 2.042.000 người thành 66.66/.000 người/km. Năm 1964 vận chuyển hàng hoá được 411.172 tấn thành 26.276.114 tấn/km. Như vậy 3 năm thực hiện kế hoạch Nhà nước (1961 - 1963) so với 3 năm đầu hoà bình mới lập lại thì hàng hoá vận chuyển tăng 224% về tấn và 262% về tấn/km. Vận (1958 - 1960) thì hàng hoá vận chuyển tăng 129% về tấn và 154% về tấn/km, vận chuyển hành khách tăng 135%. Riêng nằm 1963 đã vận chuyển tới 378.000 tấn hàng hoá bằng 25.738.000 tấn/km và 717.000 người bằng 2.4.350.000 người/km. Tỷ lệ đó cho thấy vận chuyển hàng hoá tăng từ 2,24 đến 2,62 lần và hành khách được vận chuyển tăng 1,32 lần.

Những mặt hàng chủ yếu đã được vận tải là muối, thóc gạo, phân bón, vật liệu xây dựng và đặc biệt ngành đã phục vụ tốt cho nhu cầu đi lại của nhân dân, nhất là các gia đình đi khai hoang vùng kinh tế mới và các yêu cầu an ninh, quân sự, quốc phòng. Vì vậy mà sau những năm hàn gắn vết thương chiến tranh, các ngành công, nông, thương nghiệp đã lớn lên rất nhiều. Vận chuyển than năm 1957 mới yêu cầu 2.200 tấn, nằm 1960 đã lên 22.000 tấn và năm 1963 lên tới 25.000 tấn (gấp 12 lần so với năm 1957). Phân bón vận chuyển tăng gấp 6 lần so với các mãi hàng khác như vật liệu xây dựng, thóc, gạo. . . vận chuyển cũng tăng từ 1,5 lần đến 15 lần. Như vậy, công tác vận tải đã phục vụ tốt yêu cầu lưu thông hàng hoá, góp phần phát triển kinh tế dân sinh, an ninh quốc phòng trong tỉnh.

Với mục tiêu phục vụ để phát triển, trong kế hoạch 5 nằm, ngành giao thông vận tải tìm nhiều biện pháp, phấn đấu hạ giá cước vận chuyển như tu sửa, bảo dưỡng phương tiện, cải tiến công tác quản lý, điều vận, tận dụng khả năng phương tiện kết hợp hàng 2 chiều, tăng ca kíp vận tải, tranh thủ bốc dỡ thực hiện giải phóng quay vòng nhanh thực hiện công tác cải tiến phương tiện, cải tiến vận chuyển, giảm sức lao động của công nhân và hạ được giá cước vận chuyển. Mỗi nằm giá cước đường thuỷ hạ số tiền cước là 185.539 đồng. Cước ca nô mỗi năm hạ được 13.372 đồng = 7,19%, giá cước vận tải thuyền cũng giảm được 18.262 đồng/năm. . . tính tổng giá cước riêng năm 1962 so với năm 1961 /giảm được 397.820 đồng. Năm 1963 so với nằm 1962 giảm chi cho Nhà nước được 64.848 đồng.

72

2- Phát triển giao thông nông thôn thực hiện phong trào giải phóng đôi vai và phát triển kinh tế nông thôn .

Giao thông nông thôn và một chủ trương lớn, hết sức quan trọng của Đảng, Nhà nước. Năm 1959-1960, trước tình hình sản xuất nông nghiệp phát triển, việc vận chuyển lương thực, phân bón, hàng hoá trong nông thôn đòi hỏi rất cấp thiết, tác động trực tiếp đến công cuộc cải tạo và phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nghị quyết Trung ương 7 (khoá III) đã chỉ rõ: "Cần chú trọng phát triển giao thông trong từng tỉnh, từng huyện đến cơ sở sản xuất, làm cho giao thông vận tải đi sâu vào nông thôn và miền nước ta, trước hết là phục vụ phong trào giải phóng đôi vai trong sản xuất nông nghiệp.

Thấm nhuần Nghị quyết của Trung ương Đảng, từ năm 1959, tỉnh Nam Định đã phát động phong trào làm đường giao thông nông thôn phục vụ sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới.

Giao thông nông thôn ở Nam Định được chia thành 2 vùng rõ rệt:

+ Vùng 2 lúa và đồng màu (gồm các huyện phía nam sông Đào): Tuy đã có màng lưới đường bộ, nhưng không đồng bộ, chưa dùng được cho xe đi lại, chỉ dùng cho người gánh đội. Cầu là những cầu "khỉ" cho người đi bộ từ bên này sang bên kia, mặt đường lầy lội, nhỏ hẹp, quanh co. Những kênh mương đã hình thành cũng chỉ là để phân vùng giữ nước, chống úng, chống hạn chưa nghĩ đến việc làm giao thông thuỷ.

+ Vùng đồng chiêm trũng các huyện phía bắc sông Đào):

Đại bộ phận diện tích đất đai mùa mưa còn bị chìm ngập, nơi trũng ít thì cũng trong cảnh bùn lầy nước đọng- chưa có đường bộ để đi lại trong mùa nước, việc đi lại phải dùng thuyền (mọi nhà đều có thuyền nan nhỏ để đi lại) Từ nhà ra là phải lội, phải đi thuyền, về mùa nước thậm chí cả đám tang, đám cưới, họp chợ cũng bằng thuyền, nạn đắm thuyền trên cánh đồng chiêm trũng về mùa nước thường xây ra. Như vậy cho tới năm 1959 vận tải trong nông thôn toàn tỉnh ở cả 2 vùng chủ yếu còn là gánh đội và đi bộ.

Khi tỉnh chỉ đạo ngành giao thông vận tải phát động phong trào làm đường giao thông nông thôn nhân dân các địa phương trong toàn tỉnh đã hưởng ứng hết sức sôi nổi, mạnh mẽ. Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III và huấn thị của Hồ Chủ Tịch về phát triển giao thông nông thôn với tinh thần:

73

- Phải lấy phục vụ sản xuất là chủ yếu.

- Phải biết dựa vào dân là chính.

- Các cấp uỷ phải quan tâm đúng mức, chỉ đạo chặt chẽ không được khoán trắng cho chuyên môn.

Vì vậy công tác giao thông nông thôn phải kết hợp giữa lực lượng Nhà nước và nhân dân kết hợp giao thông vận tải và thuỷ lợi. Yêu cầu cụ thể đặt rà là:

Phát triển đường bộ, vận chuyển thô sơ và đường mương máng từ sân phơi ra đồng ruộng. Sân phơi hợp tác xã phải là nơi tập trung đầu mối giao thông thuỷ bộ. Xây đựng màng lưới giao thông thuỷ bộ ra ngoài đồng ruộng, trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp. Màng lưới giao thông nông thôn phải được nghiên cứu thích hợp cho nhiều vùng. Vùng đồng chiêm, đồng màu, đồng 2 mùa đảm bảo trong 2 vụ thu hoạch xe, thuyền vận chuyển thuận lợi. Phải hoàn chỉnh quy hoạch toàn tỉnh và các huyện.

Thực hiện làm đường ra đồng, đảm bảo đường không rộng quá, tốn nhiều diện tích. Quán triệt quan điểm sử dụng nguyên vật liệu địa phương như dùng gạch vỡ, xỉ than, xỉ vôi để làm mặt đường.

Màng lưới giao thông nông thôn phải có tác dụng nhiều mặt như thuỷ lợi và giao thông, trồng cây, nuôi cá quốc phòng và giải phóng đôi vai.

Được tỉnh chỉ đạo, ngành giao thông vận tải cùng với ngành thuỷ lợi đã xây dựng quy hoạch, đồng thời mở hội nghị với các huyện, xã để triển khai thực hiện. Tỉnh cũng thành lập Tiểu ban quy hoạch với trên 100 cán bộ thuỷ lợi, giao thông, kiến trúc, nông nghiệp. . . chuyên trách đi sâu chỉ đạo các xã trọng điểm sau đó nhân ra diện.

Với tinh thần phấn đấu và phương châm đào đất đắp đường thành ngòi phục vụ thuỷ lợi, đào ngòi, khai mương đắp thành đường xá, sự lãnh đạo chặt chẽ của các cấp uỷ, với sự cộng tác của các huyện, thức tinh thần xây đựng XHCN của cán bộ công nhân Ty Giao thông vận tải cùng nhân dân 9 huyện, thành; giao thông nông thôn đã trở thành một phong trào cách mạng hết sức sôi nổi. Điển hình trong phong trào mở rộng màng lưới đường xã trong năm 1961, 1962 là huyện Ý Yên, Vụ Bản (nơi đồng chiêm trũng) phong trào mở rộng đường huyện là Xuân Trường, Nam Trực, Trực Ninh, Nghĩa Hưng.

74

Để thúc đẩy phong trào phát triển mạnh mẽ, toàn diện, các cấp uỷ huyện, các xã trong tỉnh còn tổ chức các đợt tham quan đơn vị điển hình là như hợp tác xã Hồng Thái, lá cờ đầu toàn miền Bắc về phong trào làm thuỷ lợi và giao thông nông thôn, sau đó phát động thi đua với Hồng Thái.

Ngoài Hồng Thái, các hợp tác xã còn tham quan các điển hình Nghĩa Hồng (Nghĩa Hưng), Hồng Quang (Nam Trực). . . học tập được nhiều kinh nghiệm bổ ích.

Hình ảnh phát triển đường bộ ở vùng đồng chiêm trũng thời kỳ này rất gian khổ - đắp đường phải kè tre, có khi đường vừa đắp xong bị nước ngập, sóng đánh tan cả con đường, nước rút đường cũng mất luôn, nhân dân lại phải đào đắp lại từ đầu. Có những đường làng này sang làng khác phải đào đắp tới 3 lần mới xong nhưng nhân dân các địa phương không nản, vẫn hăng hái tích cực làm đường. Các địa phương đã kết hợp giao thông và thuỷ lợi rất chặt chẽ với nhau đem lại nhiều lợi ích. Để phát triển đường giao thông, khi làm thuỷ lợi hòn đất phải đạt được lợi ích cho cả thuỷ lợi và giao thông thực hiện thuỷ lợi hoá giao thông, giao thông hoá thuỷ lợi), bờ kênh mương tạo thành giao thông bộ, kênh mương là đường giao thông thuỷ, cống thuỷ lợi khi xây dựng đã kết hợp với giao thông xây dựng kết hợp thành cầu cổng của giao thông.

Từ những tuyến giao thông thủy bộ ấy đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự lưu thông hàng hoá, nông dân được kịp thời nhanh chóng đến các vùng kinh tế tập trung. Trong các huyện, xã đã phát triển được hệ thống đường giao thông chân rết thuỷ, bộ từ làng xóm ra đồng với chiều dài 4.965 kín, phục vụ cho việc vận chuyển phân bón, giống từ nhà ra đồng và chuyển nông sản từ đồng về nhà, góp phần vào - giải phóng đôi vai trong sản xuất nông nghiệp. Nhờ vậy nông thôn Nam Định bao đời nay quanh năm gánh đội, đi lại lầy lội, khó khăn, đến năm 1 964 đã có đường giao thông thuận tiện, đi lại dễ dàng tạo thành một mạng lưới giao thông thuỷ bộ, liên hoàn.

Mạng lưới giao thông nông thôn phát triển đã làm cho việc giao lưu văn hoá được truyền tải đến mọi địa bàn thôn xóm trong tỉnh để phục vụ cho nhân dân sau những giờ lao động nặng nhọc. Trước đây nông thôn Nam Định có những nơi hàng năm không biết đến văn công như huyện Ý Yên, huyện Giao Thuỷ. . . hàng năm không đi đến đâu vì xe, tàu không có, đường xá lầy lội khó đi, đến năm 1964, trung bình mỗi xã mỗi tháng được xem văn công từ 1 - 2 lần. Những nơi giao thông chưa phát triển thì trình

75

độ giác ngộ văn hoá, chính trị, giáo dục, y tế đều lạc hậu, các cuộc họp khó huy động, các lớp bổ túc văn hoá phải nghỉ, vùng chiêm trũng học sinh đi học không đảm bảo giờ giấc, mùa nước thường xây ra tai nạn, những nơi vùng sâu nên y tế lưu động không có điều kiện thường xuyên tới chữa bệnh và phòng bệnh cho nhân dân, người dân sống trong cảnh ao tù nước đọng gây ô nhiễm môi trường, bệnh tật hoành hành.

Cho đến năm 1964, nhờ có hệ thống giao thông nông thôn phát triển, nạn lầy lội đã chấm dút, đường giao thông đi đến đâu, nông thôn đổi mới đến đó. Đường làng, ngõ xóm quang đãng, rộng rãi, những ao tù nước đọng bị phá bỏ và được cải tạo thành những con kênh bao xung quanh xóm làng. Có đường giao thông thuận tiện, việc chỉ đạo của tỉnh và các cấp uỷ Đảng, chính quyền được thông suốt và nhanh chóng kịp thời, có đường giao thông đã phục vụ đắc lực cho công tác trị an ở nông thôn và đảm bảo an ninh quốc phòng. Những tuyến đường ra tận bờ biển có ý nghĩa lớn về kinh tế và an ninh quốc phòng.

Qua thời kỳ làm giao thông nông thôn (1959 - 1964) màng lưới đường giao thông nông thôn toàn tỉnh đã được hình thành hoàn chỉnh, hợp lý, nối liền với mạng đường tỉnh và đường Trung ương đến các huyện phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng nông thôn mới, giải phóng đôi vai trong sản xuất nông nghiệp. Mạng lưới đường bộ trong nông thôn đến năm 1964 đã có 6.314 km với khối đường đào đắp tới 16.976.000 m3 đất, xây dựng 1.123 cầu các loài dài 7.957 m, 1.059 cống dài, phương tiện giải phóng đôi vai trong nông nghiệp xe thuyền phát triển mới 24.760 chiếc thành 17.782 tấn phương tiện. Sông ngòi nông thôn được đào mới và nạo vét nâng cấp, cải tạo cho thuyền từ 10 đến 20 tấn đi lại thuận lợi.

Từ chỗ ở nông thôn đường bộ mới cho xe đạp đi lại thì đến năm 1964 ô tô 5 tấn đã đến được tất cả các huyện; xe tải 1,5 tấn đã vào được trung tâm của 111 xã trong tỉnh.

Nhờ có hệ thống giao thông vận tải nông thôn phát triển bà con nông dân đã giảm được 40% sức lao động, hàng nghìn phương tiện vận tải ra đời, giải phóng đôi vai cho người nông dân, giành ra được nhiều ngày công vào chăm bón, tăng vụ tăng năng suất, cải thiện điều kiện lao động để đưa năng suất trong sản xuất nông nghiệp được nâng cao.

Như xã Nghĩa Hồng thuộc huyện Nghĩa Hưng canh tác 2 vụ phần lớn ruộng đất cấy xa từ 4 đến 5 km, trước đây giao thông chưa có nên không

76

có điều kiện vận chuyển, vì thế nạn cấy chay bừa chùi đã thành tập quán, đến nằm 1964, hiện tượng trên không còn nữa, đường giao thông thuận lợi công tác vận chuyển đều dùng xe thuyền, năng suất lúa được tăng cao, kết quả xã Nghĩa Hồng được công nhận là xã khá nhất miền Bắc về công tác làm giao thông nông thôn (1964) (24).

Xã Yên Bằng huyện Ý Yên nơi đồng chiêm trũng nhất của tỉnh, trước năm 1959, cứ đến mùa mưa thì lụt lội không có đường giao thông đi lại khó khăn. Từ năm 1959 - 1964, toàn xã đã có đường giao thông đi lại, tạo điều kiện thuận lợi phát triển nông nghiệp.

Xã Nghĩa Đồng huyện Nghĩa Hưng với diện tích cấy 2.151 mẫu, với xe đạp thồ bánh gỗ, xe cút kít đưa ra ruộng mỗi vụ 5.616 tấn phân bón cho những ruộng xa 3 đến 4 km. Do có đường giao thông đã đưa năng suất lúa từ 400 kg đến 600 kg/mẫu, huyện Nghĩa Hưng tổng khối lượng hàng hoá phục vụ cho nông nghiệp là 220.000 tấn thì xe, thuyền đã vận chuyển được 144.000 (chiếm 66%)(25), mỗi vụ dành ra được 587.000 ngày công. Vì thế đã đưa ngày công vào trồng thêm được 393 mẫu cây cói làm chiếu và tăng thêm 305 mẫu lúa vụ đông.

Trước đây hợp tác xã thu hoạch một vụ lúa trong 20 ngày công thì đến năm 1963, 1964 rút xuống chỉ còn 15 ngày giảm được 25%) (26) tính bình quân trong tỉnh ngày công đầu tư vào sản xuất có kết quả, một công mẫu là 221 công (từ khi cày bừa đến khi thu hoạch) trước đây vận chuyển chiếm mất 78 công (chiếm tỷ lệ 35%), đến năm 1963, 1964 nhờ có các phương tiện xe, thuyền thay đầu đội, vai gánh của người nông dân nên số ngày công vận chuyển chỉ mất 43 công (chiếm tỷ lệ 20%), mỗi công mẫu đã giảm xuống được 35 công. Trong một năm toàn tỉnh cấy 158.033 công mẫu/vụ(27) thì toàn tỉnh đã bớt được 55.331.155 ngày công.

Sự kết hợp giữa giao thông nông thôn và thuỷ lợi ruộng đồng đã đưa năng suất lao động trong nông nghiệp tăng lên, diện tích canh tác được mở rộng, từ độc canh thành đa canh làm cho thu nhập của người nông dân

24 Báo cáo công tác Giao thông vận tải Nam Định (1964) trang 7.25 Báo cáo thành tích 10 năm của Ty Giao thông vận tải Nam Định (1954-1964) trang

6, 726 Báo cáo thành tích 10 năm của Ty Giao thông vận tải Nam Định (1954-1964) trang

6, 727 Báo cáo thành tích 10 năm của Ty Giao thông vận tải Nam Định (1954-1964) trang

6, 7

77

ngày một cao, có thể nói thuỷ lợi đi đến đâu thì giao thông đi đến đó, thuỷ lợi đem ấm no đến đâu thì giao thông - vận tải nông thôn cũng đêm văn minh đến đó. Người nông dân đã hiểu được tác dụng làm giao thông nông thôn, tự nguyện, tự giác đóng góp tiền của, sức lao động để xây dựng đường xá, cầu cống, thuỷ lợi.Vì thế đến năm 1 963, 1 964 công tác giao thông nông thôn và thuỷ lợi đã trở thành phong trào quần chúng rộng khắp.

Song song với sự phát triển của đường xá nông thôn thì các phương tiện vận tải giải phóng đôi vai được phát triển với 24.700 thuyền cùng với 2.500 xe cải tiến (28) đã giải phóng đôi vai của nông dân toàn tỉnh 64,05%. Trong phong trào làm giao thông nông thôn đã xuất hiện những xã tiêu biểu như xã Nghĩa Hồng (huyện Nghĩa Hưng), xã Yên Bàng (huyện Ý Yên) đã được Chính phủ tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba, các địa phương khác trong tỉnh được nhận bằng khen của Chính phủ, của Bộ Giao thông vận tải và nhiều phần thưởng quý giá khác. Năm 1 962, cán bộ và nhân dân Nam Định đã nhận cờ thi đua luân lưu của Hồ Chủ Tịch về thành tích làm đường giao thông nông thôn khá nhất miền Bắc. Năm 1965, với thành tích 3 nam liền được tặng cờ luân lưu, tỉnh Nam Hà đã được giữ cờ vĩnh viễn của Hồ Chủ Tịch.

Những năm qua, gắn với quá trình xây dựng và phát triển của ngành tổ chức Đảng cũng phát triển nhanh. Đảng bộ Giao thông vận tải thời kỳ này trực thuộc Đảng bộ khối Dân chính. Các đơn vị đều có Đảng bộ, chi bộ Đảng làm hạt nhân lãnh đạo. Tổ chức công đoàn và đoàn Thanh niên ngành đến nam 1 960 mới hình thành nhưng ngay từ đầu đã thu hút đông đảo đoàn viên tham gia. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, tổ chức công đoàn, đoàn Thanh niên phối hợp với cơ quan quản lý cũng không ngừng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ, công nhân, từng bước cải thiện đời sống, để cán bộ công nhân yên tâm công tác. Nhằm nâng cao trình độ cho anh chị em, hàng năm ngành đều cử cán bộ đi học bổ túc văn hoá, học chuyên môn kỹ thuật, học lý luận chính trị tại trường Đảng tỉnh và Trung ương. . . để nâng cao năng lực công tác. Nhờ đó trình độ của cán bộ công nhân toàn ngành từng bước được nâng cao.

Trong hoàn cảnh chung của đất nước, của ngành còn nhiều khó khăn. Song với sự quan tâm của lãnh đạo ngành, đời sống mọi mặt của cán bộ, công nhân được chăm lo cải thiện. Cùng với việc thực hiện tốt chế độ,

28 Báo cáo thành tích 10 năm của Ty Giao thông vận tải Nam Định (1954-1964) trang 7

78

chính sách, cơ quan, công đoàn tổ chức cho anh em đẩy mạnh tăng gia sản xuất, trồng rau, màu và chăn nuôi lợn, gà để cải thiện bữa án. Những việc làm thiết thực đó đã góp phần ổn định đời sống để cán bộ, công nhân yên tâm công tác. Cùng với việc chăm lo đời sống vật chất, ngành đã xây dựng câu lạc bộ đàm nơi sinh hoạt văn hoá, tinh thần, làm sân thể dục thể thao, sân đánh bóng chuyền, thành lập tủ sách với hàng trăm đầu sách báo gồm các loại sách chính trị, kỹ thuật, nghiệp vụ, thời sự, hoạ báo trong và ngoài nước. Hàng ngày sau giờ làm việc, anh chị em trong ngành được rèn luyện thể thao, đọc sách báo, từ đó mở mang hiểu biết, tự nâng cao trí tuệ, chuyên môn. Phong trào văn hoá văn nghệ cũng được cán bộ, công nhân trong ngành hưởng ứng sôi nổi, từ văn phòng Sở đến các cơ sở sản xuất đều có các tổ, đội văn nghệ hoạt động tích cực. Điển hình cho phong trào văn hoá văn nghệ của ngành là đoạn bảo dưỡng cầu đường 1, đoạn bảo dưỡng cầu đường 2, đã đi tham gia hội diễn đạt giải cao.

Song, bên cạnh những kết quả quan trọng đã đạt được, 10 năm qua ngành Giao thông vận tải còn nhiều tồn tại. Trình độ quản lý trong toàn ngành còn bộc lộ nhiều yếu kém, vận tải chưa đáp ứng được yêu cầu vận chuyển ngày càng tăng lên rất mạnh của nền kinh tế quốc dân, phương tiện vận tải đã thiếu lại cũ nát, chậm được đầu tư, phát triển, kế hoạch điều vận chưa chặt chẽ và không hợp lý nên năng suất vận tải thấp. Giao thông nông thôn phát triển chưa đều, có nơi chưa kết hợp chát chẽ được với công tác thuỷ lợi, kiến thiết đồng ruộng nên công tác giao thông nông thôn phục vụ sản xuất còn hạn chế. Đặc biệt công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, ý thức, tinh thần làm chủ tập thể trong cán bộ, công nhân chưa được thường xuyên nên có lúc, có nơi, có cán bộ, công nhân tinh thần trách nhiệm chưa cao. Tất cả những yếu kém đó ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển chung của toàn ngành.

10 năm xây dựng và phát triển giao thông vận tải theo con đường của chế độ xã hội chủ nghĩa, ngành Giao thông vận tải Nam Định đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, giành được nhiều thành tích to lớn, khắc phục được tình trạng lạc hậu của hệ thống giao thông vận tải mà chế độ cũ đã để lại được sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng, với phương châm tự lực cánh sinh, biết huy động sức mạnh tiềm tàng của toàn dân, đặc biệt là cán bộ, công nhân ngành Giao thông vận tải, tiềm lực giao thông vận tải từng bước được khơi dậy. Trong 10 năm khôi phục và cải tạo xã hội chủ nghĩa, từng bước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, hệ thống giao thông vận tải đã

79

nối liền trong toàn tỉnh và vươn ra tận bờ biển. Từ lúc đầu mới có 64 km đường ô tô thì qua 10 năm (1954 - 1964) đã có 222 km và một hệ thống gồm 305 cầu cống được xây dựng mới. Năm 1955, toàn tỉnh chưa có giao thông vận tải nông thôn thì đến cuối năm 1 964 đã có 65 km đường giao thông nông thôn được nâng cấp cải tạo, với hàng triệu m3 đất được đào đắp cùng với đóng mới 27.460 phương tiện xe thuyền được phát triển ở nông thôn giải phóng đôi vai 64% cho sản xuất và đời sống nông dân. Hàng nghìn cây số đường được làm mới mặt từ 3 đến 6 m toả về tận các thôn, xã. Mạch máu giao thông đã nối liền từ thành thị tới nông thôn toàn tỉnh.

Mười năm phấn đấu xây dựng chủ nghĩa xã hội, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ của ngành cũng được củng cố, không ngừng lớn mạnh. Toàn ngành, với 1.102 cán bộ, công nhân say sưa thi đua lao động sản xuất, ra sức xây dựng ngành, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Mười năm phấn đấu, năm nào cán bộ, công nhân trong ngành cũng hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước. Phong trào giao thông nông thôn của tỉnh đã đạt thành tích xuất sắc, năm 1962 ngành Giao thông vận tải và nhân dân Nam Định được tặng cờ luân lưu của Hồ Chủ Tịch cùng với 5 Huân chương lao động cho toàn ngành, 6 Huân chương lao động của Chính phủ, về thành tích giao thông nông thôn. Năm 1965, tỉnh được nhận cờ luân lưu vĩnh viễn của Hồ Chủ Tịch về phong trào làm đường giao thông nông thôn. Từ năm 1961 - 1965, hàng trăm cán bộ, công nhân của ngành được tôn vinh là Chiến sĩ thi đua, hàng nghìn lao động tiên tiến hàng năm. Với những thành tích trên, cán bộ, công nhân của ngành vô cùng tự hào đã góp phần cùng nhân dân cả nước xây dựng miền Bắc "tiến những bước dài chưa từng thấy. Đất nước, con người và xã hội đều đổi mới" như lời Bác Hồ đã khẳng định.

80

CHƯƠNG IVNGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI NAM HÀ

THỜI KỲ 1965 -1975-----

1- Kiện toàn tổ chức bộ máy của ngành, tích cực chuẩn bị chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.

Ngày 21-5-1965 Quốc hội ra Quyết định 103/QĐ-TVQH hợp nhất tỉnh Nam Định và tỉnh Hà Nam thành tỉnh Nam Hà. Vừa mới hợp nhất quân dân toàn tỉnh đã phải đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại ác liệt của giặc Mỹ ở Miền Bắc. Sau khi tỉnh được hợp nhất, ngày 10/6/1965, Uỷ ban hành chính tỉnh ra quyết định hợp nhất Ty Giao thông vận tải Nam Định và Hà Nam thành Ty Giao thông vận tải Nam Hà. Ngày 8/7/1965, cán bộ giao thông vận tải Hà Nam chuyển về làm việc tại Nam Định. Từ ngày 10/7 Ty Giao thông vận tải Nam Hà làm việc theo tổ chức bộ máy mới.

Vin vào sự kiện Vịnh Bắc Bộ, ngày 5/8/1964, đế quốc Mỹ đã đánh phá bằng không quân đối với miền Bắc nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam ruột thịt, triệt phá tiềm lực kinh tế miền Bắc về mọi mặt. Với mưu đồ đen tối đó, tháng 6/1965, đế quốc Mỹ đã leo thang đánh phá đến đất Nam Hà, tập trung đánh phá vào các mục tiêu giao thông vận tải thuỷ bộ. Ngày 22/5/1965 chúng đánh vào tàu Việt Xô cách bờ biển Hải Hậu 10 km, ngày 25/6/1965, đánh bến phà Thịnh Long và cầu Đoan Vĩ, hai công nhân là đồng chí Hoằng và đồng chí Tuấn hy sinh tại buồng lái và buồng máy của ca nô lai phà. Đồng thời tàu chở khách sông Đào chạy trên sông Đào cũng bị máy bay Mỹ bắn chìm trong lúc đang trả khách ở bến Nghĩa Hồng. Ngày 28/6/1965 bắn tên lửa vào kho xăng dầu bến cảng Nam Định, Ngày mồng 2 và mồng 4/7/1965, đánh phá bến cảng Nam Định và bến Đò Quan, chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ không chỉ phá hoại tiềm lực kinh tế, quốc phòng của nhân dân ta mà còn tạo nên tâm lý hoang mang gây rối loạn về mọi mặt ở hậu phương, hòng làm lung

81

lay ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân dân ta. Do đó, cuộc chiến đấu giữa ta và địch trên mặt trận giao thông vận tải trở thành thường xuyên và ngày càng gay gắt, công tác đảm bảo giao thông vận tải trở thành nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược và là công tác trọng tâm đột xuất của toàn Đảng, toàn dân.

Trước tình hình chiến sự đã lan rộng ra miền Bắc và ngày càng ác liệt, trên cơ sở Nghị quyết 11 (3/1965) của Trung ương Đảng, Bộ Giao thông vận tải đã xác định nhiệm vụ chính trị cao nhất của ngành là đảm bảo giao thông với khẩu hiệu:

“Địch phá ta sửa ta điĐịch lại phá, ta lại sửa ta đi”

Để đáp ứng yêu cầu phục vụ thời chiến, thực hiện sự chỉ đạo của tỉnh và Bộ Giao thông vận tải, ngành Giao thông vận tải của tỉnh cũng tập trung cao nhất vào nhiệm vụ chính trị là đảm bảo giao thông thông suốt trong mọi tình huống. Để thực hiện được nhiệm vụ đó tỉnh đã tăng cường cho ngành Giao thông vận tải hàng trăm cán bộ, hàng nghìn công nhân. Bộ máy Đảng, đoàn của Ty cũng được kiện toàn. Đảng bộ ngành Giao thông vận tải tách khỏi Đảng uỷ khối Dân chính trực thuộc Ban Chấp hành tỉnh uỷ, đồng chí Nguyễn Tiến Hưng tỉnh uỷ viên trực tiếp làm Bí thư đảng uỷ. Các tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên được củng cố vững mạnh. Tổ chức bộ máy được mở rộng, hàng loạt các đơn vị mới được thành lập đáp ứng nhiệm vụ nặng nề của ngành.

Tổ chức bộ máy của ngành:Bộ máy lãnh đạo:Trưởng ty: Đồng chí Nguyễn Tiến HưngCác Phó ty:

- Đồng chí Nguyễn Văn Căn- Đồng chí Đào Bá (Phan Văn Phùng)- Đồng chí Nguyễn Văn Huy- Đồng chí Nguyễn Văn Trứ- Đồng chí Phạm Văn Báu

Các Phòng, Ban đơn vị trực thuộc:1. Phòng, ban (II):

- Ban quân sự ngành Giao thông vận tải - Phòng Tổ chức - LĐTL

82

- Phòng Tổng hợp - HC quản trị- Phòng Kế hoạch- Phòng Kế toán - Tài vụ- Phòng Vận tải- Phòng Giao thông nông thôn- Phòng Đảm bảo giao thông - Phòng Công nghiệp- Phòng Chính trị - Phòng Khảo sát thiết kế- Phòng Kiến thiết cơ bản

2. Các đơn vị:- Xí nghiệp vận tải ô tô Nam Hà- Xí nghiệp Ca nô Nam Hà- Xí nghiệp Sà lan (vỏ gỗ + vỏ thép)- Nhà máy đại tu ô tô (2-9)- Xí nghiệp 19/5 (đóng xe cải tiến)- Đoạn đảm bảo giao thông I

- Đoạn đảm bảo giao thông II- Đoạn đảm bảo giao thông III- Xưởng 52 (chế biến vận chuyển gỗ)- Công ty Khai thác vận chuyển gỗ 20/7- Ban vận tải trung chuyển - Nghệ An- Ban 471 - Công trường xây dựng đường sắt Phủ Lý- Công ty cảng Nam Định- Đội TNXP chống Mỹ cứu nước (C1; C2; C3)- Đội cầu Trần Quốc Tuấn- Trạm đảm bảo giao thông Đoan Vĩ (B3)- Ban quản lý các bến xe ô tô và các trạm đường thuỷ- Trạm vật tư- Liên hiệp các HTX vận tải (Ban HTX vận tải)

83

- Trường công nhân kỹ thuật GTVT Nam Hà.3. Các Hợp tác xã trực thuộc Sở:

- HTX thuyền buồm Tháng 8- HTX thuyền buồm Trung Hải- HTX thuyền buồm Quang Trung (A, B)- HTX Thống Nhất- HTX Nhất Thanh- HTX Quyết Thắng- HTX Hà Nam (Trần Phú, Kim Thanh, Sông Hồng)

* Giao thông vận tải Nam Định thực hiện chuyển hướng hoạt động sang thời chiến, đảm bảo giao thông thông suốt.

Thực hiện Nghị quyết 11, 12 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng phải đảm bảo giao thông thông suốt trên những con đường chiến lược quan trọng và chỉ thị 110-CT/CP của Chính phủ ngày 30/6/1965 coi công tác giao thông vận tải thời chiến là công tác trung tâm đột xuất… Bảo đảm giao thông là công tác số một, ngay từ đầu năm 1965, với quyết tâm chiến thắng giặc Mỹ xâm lược, ngành Giao thông vận tải Nam Định đi vào thực hiện quân sự hoá công tác giao thông vận tải. Toàn ngành sôi nổi, khẩn trương bình tĩnh bước vào cuộc chiến đấu với giặc Mỹ và nhiệm vụ giao thông vận tải của tỉnh được xác định là: “nhiệm vụ trọng tâm, đột xuất số một, hàng đầu” của quân dân toàn tỉnh.

Đáp ứng yêu cầu cấp bách đó, tổ chức, bộ máy của ngành cũng được tăng cường, mở rộng.

- Ngày 15-4-1966, Uỷ ban hành chính tỉnh duyệt đề án mở rộng xưởng Sà lan thành xí nghiệp Sà lan.

- Năm 1966 Ty Giao thông vận tải Nam Hà đã phối hợp với các huyện Nghĩa Hưng, Hải Hậu, Trực Ninh, Giao Thuỷ, Vụ Bản, Duy Tiên thành lập các hợp tác xã vận tải. Sau đó hàng loạt các hợp tác xã vận tải đường thuỷ, đường bộ, xếp dỡ, công nghiệp ở các huyện ra đời.

- Sáp nhập Cảng sông Nam Định cùng với Hà Nam thành Công ty Cảng Nam Hà gồm các bến Cảng Nam Định, Yên Hà, Đọ Xá, Đống Cao với năng lực xếp dỡ 654.712 tấn, tiếp chuyển 7.672 tấn.

- Đưa các công tư hợp doanh thành Xí nghiệp vận tải ô tô, Xí nghiệp vận tải đường sông Nam Hà.

84

- Thành lập Xí nghiệp 52 và Công trường 20/7 tại Nghệ An để đóng thuyền và xẻ gỗ, đưa gỗ về cung cấp cho tỉnh.

- Thành lập Xí nghiệp 19/5 và ngày 2-12-1966 Uỷ ban hành chính tỉnh Nam Hà duyệt y đề án thành lập Xí nghiệp Sửa chữa ô tô 300 xe/ năm do Cộng hoà dân chủ Đức viện trợ.

- Thành lập đội TNXP chống Mỹ cứu nước.- Ngày 15-12-1967 Uỷ ban hành chính tỉnh ra quyết định thành lập

Ban Liên hiệp hợp tác xã vận tải để chuyên lo xây dựng, củng cố và phát triển khối hợp tác xã vận tải.

Năm 1968, Hợp tác xã đóng thuyền Quyết Thắng được thành lập do ông Vũ Đình Đê làm chủ nhiệm (nay là Công ty cổ phần Quyết Thắng). Hợp tác xã đã đáp ứng được yêu cầu cấp thiết lúc này là sản xuất, đóng thuyền phục vụ cho vận tải, đặc biệt là sản xuất tàu thuyền xi măng lưới thép 5 tấn, 8 tấn và 20 tấn đem lại hiệu quả kinh tế cao, vừa phục vụ cho sản xuất và vận tải hàng hoá phục vụ chiến trường.

Ngành Giao thông vận tải đã thành lập Ban chỉ huy phòng không, hàng ngày có cán bộ đến dự họp với Ban chỉ huy phòng không của tỉnh tại Sở chỉ huy tỉnh đội, nắm tình hình diễn biến hoạt động của không quân Mỹ. Cùng với các ngành, các cấp và nhân dân toàn tỉnh, ngành đã triển khai việc đào hầm trú ẩn, hố cá nhân dọc các tuyến đường thành phố và vùng ngoại ô, trên các bến sông, bến xe ô tô, bến tàu sông, bến cảng, bến phà, nhà ga xe lửa, xây dựng kiên cố các hầm trú ẩn cho cán bộ, công nhân, xã viên ở các địa điểm làm việc, phân xưởng, công trường và hầm trú ẩn, hầm chỉ huy ở các đơn vị trong ngành. Để phù hợp với tình hình mới, Ty xây dựng nội quy chế độ làm việc mới theo tinh thần thời chiến ở tất cả các đơn vị trong toàn ngành.

Thực hiện kế hoạch sơ tán của tỉnh, ngành khẩn trương triển khai cho các đơn vị cơ sở, cơ quan Văn phòng và cho khu tập thể, các gia đình cán bộ, xã viên về nơi sơ tán an toàn.

Cuối tháng 4-1965 ngành Giao thông vận tải đã hoàn thành nhiệm vụ di chuyển các cơ quan, ban ngành, xí nghiệp, nhà máy thuộc tỉnh quản lý cũng như các đơn vị thuộc Trung ương quản lý đóng trên địa bàn tỉnh sơ tán đến các nơi an toàn.

Riêng các đơn vị thuộc ngành Giao thông vận tải quản lý thì đến hết tháng 5-1965 mới hoàn thành việc sơ tán của đơn vị mình. Mỗi cơ sở đều có 2 nơi làm việc đó là: Nơi sơ tán và tại Thành phố.

Từ cơ quan Ty đến các đơn vị trong toàn ngành đều có lực lượng tự vệ chiến đấu được huấn luyện theo đúng chương trình của Bộ chỉ huy

85

quân sự địa phương, được trang bị vũ khí đánh quân địch nhảy dù và súng phòng không bắn trả máy bay Mỹ. Thành lập các tổ chức cứu thương, cứu nạn sẵn sàng làm nhiệm vụ.

Như vậy trước khi chiến tranh lan ra đến địa bàn Nam Hà, toàn thể cán bộ, công nhân ngành Giao thông vận tải đã ở tư thế sẵn sàng chiến đấu.

Đáp ứng yêu cầu đảm bảo giao thông trong mọi tình huống, Bộ chỉ đạo thành lập Ban Bảo đảm giao thông từ Trung ương đến cơ sở. Ở Nam Định Ban đảm bảo giao thông được thành lập do đồng chí Phó Bí thư tỉnh uỷ kiêm Chủ tịch Uỷ ban hành chính làm Trưởng ban. Các đồng chí Trưởng ty Giao thông, Tỉnh đội trưởng làm Phó ban thường trực. Sau đó, ban đảm bảo giao thông các huyện và các xã cũng được thành lập, hình thành một hệ thống chỉ đạo từ trên xuống. Tỉnh cũng tăng cường cán bộ, lực lượng chuyên trách về giao thông vận tải, các lực lượng xây dựng cơ bản cũng được chuyển thành lực lượng đảm bảo giao thông, các đội TNXP chống Mỹ (C1; C2; C3) được thành lập.

Để đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đảm bảo sự vận chuyển thông suốt liên tục trong bất kỳ tình huống nào, tỉnh phát động phong trào: toàn dân làm công tác giao thông, lấy ngành Giao thông vận tải làm nòng cốt. Nhờ triển khai các biện pháp tổ chức, chuyển hướng hoạt động và phối hợp lực lượng được kịp thời nên ngành Giao thông vận tải Nam Định đã chủ động trong việc ứng cứu cầu đường, bến phà, bến xe, giữ vững mạch máu giao thông trên mọi tuyến đường.

5 tháng 8 năm 1964, khi Mỹ bắt đầu đánh phá miền Bắc, Ty Giao thông vận tải Nam Hà đã được nhận nhiệm vụ phải đảm bảo giao thông. Đồng thời với nhiệm vụ đảm bảo giao thông, tỉnh còn phải đảm nhận trọng trách vận chuyển hàng vào Khu 4 chi viện cho miền Nam. Để đáp ứng yêu cầu đó, ngoài việc huy động các phương tiện vận tải của tỉnh như tàu thuyền, ô tô, ngày 28-6-1965 Cục Trưởng cục Vận tải đường bộ có Công văn số 1442 -VTB/VT phân cho Nam Hà 1.000 xe đạp thồ để bốc hàng vận chuyển vào Khu 4.

+ Ngày 9-7-1965, Uỷ ban hành chính tỉnh Nam hà có Công văn số 13/KTCN giao cho các huyện phải huy động 3.000 tấn phương tiện chia thành 4 đại đội để vận chuyển gạo vào Khu 4 (các huyện Nghĩa Hưng, Xuân Trường, Hải Hậu, Trực Ninh, Ý Yên, Kim Bảng, Lý Nhân, Bình Lục 3.000 thuyền có trọng tải từ 4 đến 13 tấn).

+ Ngày 18-10-1965, Cục Quản lý đường bộ giao cho Nam Hà phải đóng 450m phao gỗ để phục vụ cho các cầu Đoan Vĩ, Tân Sơn, Cầu Sắt, Cầu Chuối, Cầu Tào.

86

2- Giao thông vận tải Nam Định trong giai đoạn chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ (1965-1968).

Từ giữa năm 1965 ngành Giao thông vận tải thực sự bước vào cuộc chiến đấu ngày càng gay go, căng thẳng, ác liệt chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ ngành Giao thông vận tải đã động viên cán bộ, công nhân viên, xã viên cùng đồng lòng đoàn kết đứng lên chiến đấu chống Mỹ trên mặt trận giao thông vận tải.

Trong quá trình diễn biến của cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên đất Nam Định, chúng đã leo thang từng bước đánh vào các mục tiêu giao thông quan trọng rồi tiến lên đánh phá liên tục dồn dập có tính chất triệt phá dứt điểm ở những chốt quan trọng như Cầu Cổ, Cầu Tào, Cầu Họ. Chúng đánh liên tục vào các đường giao thông quan trọng như đường số 10, đường 21, đặc biệt là các tuyến đường quốc lộ và tỉnh lộ, các bến cảng, bến xe nhất là Cảng Nam Định và các tuyến sông (Sông Hồng, Sông Đào, Sông Ninh Cơ) thuộc huyện Xuân Thuỷ, Hải Hậu, Nghĩa Hưng. Chúng thường xuyên dùng nhiều loại máy bay, tàu chiến đánh vào địa bàn trung tâm kinh tế Nam Định bằng đủ các loại vũ khí, bom bi, bom phá, bom từ trường, thả thuỷ lôi, bom nổ chậm hòng ngăn chặn các đoàn vận tải, triệt phá các kho tàng bến bãi. Trong đợt chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965-1968) tỉnh đã phải hứng chịu 2.084 trận đánh phá trong đó có 1.045 trận đánh vào các mục tiêu giao thông vận tải, đó là chưa kể 159 trận đánh vào các đoàn vận tải Nam Định đi làm nhiệm vụ chuyển tiếp lương thực ở các tỉnh bạn như Thanh Hoá, Nghệ An (29).

Trong tình hình gay gắt quyết liệt đó, cán bộ và công nhân viên của ngành Giao thông vận tải đã phát huy tinh thần dũng cảm, trí thông minh đã sáng tạo ra nhiều biện pháp để phá thế độc tuyến, độc vận đảm bảo cho mạng lưới giao thông luôn cơ động, thông suốt. Trên trận tuyến cầu đường cán bộ, công nhân của ngành đã vượt qua gian khổ vẫn ngày đêm bám cầu, bám phà, bám đường, với quyết tâm giặc phá 1 ta làm 5 làm 10, địch phá cầu này ta có ngay cầu khác, địch phá đường này thì ta có ngay đường khác thay thế, chúng bắn phá bến phà này thì có ngay bến phà khác sang sông, cán bộ và công nhân viên ngành Giao thông vận tải đã sáng tạo nhiều biện pháp, nhiều cách làm mưu mẹo che mắt địch để giữ vững mạch máu giao thông ở mọi nơi mọi lúc.

Nhiều ngày đêm trên những trọng điểm xung yếu huyết mạch, cán bộ công nhân viên của ngành Giao thông vận tải đã thay nhau trực chiến, địch đánh ngày thì làm đêm, địch đánh đêm thì làm ngày có những lúc địch cứ đánh ta cứ làm. Nhờ có tinh thần sáng tạo dám nghĩ dám làm, biết tập 29 1- Báo cáo tổng kết công tác giao thông vận tải năm 1967 của Ty Giao thông vận tải Nam Hà. Tr3. - Số liệu báo cáo tổng kết công tác giao thông vận tải Nam Hà 1968, tr.4

87

trung trí tuệ của ngành, phối hợp với quân đội, tranh thủ được khả năng to lớn của nhân dân được Bộ Giao thông vận tải, Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính tỉnh chỉ đạo sát sao, ngành Giao thông vận tải đã tạo ra được những công trình cầu phao vượt sông tại bến Đoan Vĩ, đã dùng vỏ đạn tên lửa chế tạo thành cầu phao ngầm, ban ngày nhấn chìm che mắt địch, đêm lại là cầu nổi đảm bảo giao thông qua bến được kịp thời chi viện cho tiền tuyến. Cầu phao thuyền nan tại bến Tân Đệ ban ngày đưa đi sơ tán ẩn dấu, ban đêm lắp ghép lại cho từng đoàn xe qua đưa hàng hoá ra tiền tuyến. Cán bộ và công nhân viên của ngành Giao thông vận tải với tinh thần sáng tạo đã biết kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, từ những thuyền nan thành những cây cầu vượt sông an toàn. Sự kết hợp giữa thô sơ và hiện đại đã trở thành sức mạnh to lớn để chiến thắng giặc Mỹ.

Từ năm 1966, giặc Mỹ đã điên cuồng đánh phá các điểm nút giao thông quan trọng của tỉnh nhưng cán bộ và công nhân viên ngành Giao thông vận tải đã sáng tạo ra nhiều biện pháp để đối phó như khi chúng đánh vào đường 10 thì có đường 12, đường 56, chúng phong toả cầu Đò Quan thì có tuyến đường vận chuyển qua bến phà Kĩa, Đống Cao, Thịnh Long. Trong những năm tháng ác liệt này cán bộ, công nhân viên trên bến phà Đò Quan, Lạc Quần (Nam Định) đã dũng cảm liên tiếp chống chọi với mọi thủ đoạn đánh phá với mọi thứ bom đạn của giặc Mỹ, đã đảm bảo giao thông được thông suốt trong mọi tình huống. Các đội cầu I, cầu II của đoạn cầu đường I được mang tên “mũi tên nhọn”, nơi nào bị phá huỷ là nơi đó có mặt của những người công nhân giao thông để nhanh chóng nối lại mạch máu giao thông. Với ý trí quyết thắng và tinh thần quả cảm cùng với trình độ kỹ thuật của cán bộ và công nhân viên của ngành Giao thông vận tải đã đối phó có hiệu quả với cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ.

Trong 4 năm (1965-1968), chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, các chiến sĩ trên mặt trận giao thông vận tải và nhân dân đã cải tạo mở rộng được 485km mặt đường gấp 20 lần so với năm 1964, công tác cải thiện mặt đường và sản xuất duy tu bảo dưỡng 2.339 km gấp 12 lần so với năm 1955, làm mới 88 chiếc cầu với tổng số chiều dài 2.334m gấp 8 lần so với năm 1964.

Để đảm bảo được giao thông thông suốt, cũng trong 4 năm từ 1965-1968 nhân dân Nam Hà đã đào 1.836.913m3 đất làm đường tránh bom đạn thay thế cho tuyến đường chính bị phá huỷ. Làm nhiều loại cầu phao với nhiều chủng loại nhất như cầu phao thuyền dân 15 tấn, cầu phao gỗ, cầu phao thuyền nan, cầu phao vượt sông bến nặng, cầu phao vượt sông bến nhẹ nhằm thực hiện phương châm “địch cứ đánh ta cứ đi”.

88

Ngày 21-10-1965, tại bến phà Đò Quan Nam Định, được lắp đặt một cầu phao. Sau hơn một tháng chuẩn bị vật tư các loại, ngày 2-12-1965 bến phà thi công lắp ghép các tiết phao (ghép xong tiết nào lại đem sơ tán cất dấu). Sáng ngày 19-12-1965, các tiết phao cầu được đưa về 2 bờ sông Đào. Cuộc thi công lắp cầu được tiến hành khẩn trương suốt đêm 19 và đến trưa ngày 20-12-1965, chiếc cầu phao đầu tiên đã nối liền 2 bờ sông Đào an toàn, đảm bảo kỹ thuật. Cầu được mang tên anh hùng Nguyễn Văn Trỗi, nằm trong trọng điểm đánh phá của địch nhưng luôn đảm bảo giao thông thông suốt.

Ngày 5-9-1966 cầu Họ bị đánh 7 lần liên tục, nhiều bom rơi trúng mặt đường, phá huỷ cầu. Cả ngày 5-9 ấy hầu như bị giới nghiêm, nhưng 8 giờ tối đã có cầu có đường cho xe tiếp tục qua lại.

Trong các năm 1966-1967-1968, mật độ thời gian đánh phá, số lượng bom đạn, số lượng máy bay, số lần đánh vào các mục tiêu giao thông vận tải rất lớn. Ác liệt nhất là 2 năm 1966, 1967, chúng đánh phá liên tục, mỗi ngày có từ 5 đến 10 tốp F105, F4, mỗi tốp từ 3 đến 5 máy bay vào đánh phá Nam Định, chà đi sát lại, đánh có tính huỷ diệt vào ga và cảng sông Nam Định.

Ngày 31-6-1966, Bến phà Đò Quan bị đánh huỷ diệt san bằng toàn bộ trụ sở bến. Một quả bom đã rơi trúng hầm trú ẩn bê tông của bến phà ngay sát cửa trụ sở bến. Anh Nguyễn Văn Nhân công nhân thợ rèn của bến, anh Nguyễn Văn Bản công nhân đường bộ của Hạt đường 21A (đến làm đường, lấp hố bom cho bến phà) đã hy sinh trong trận bom này.

Vào đầu mùa lũ năm 1966, bến phà Đò Quan được lệnh chuẩn bị phục vụ, tổ chức đảm bảo vượt sông bến nặng cho một lực lượng cơ giới lớn trọng tải từ 13 đến 22 tấn, số lượng xe vượt sông lớn, thời gian từ chập tối cho tới 4 giờ sáng phải xong, sau đó phải xoá hết dấu vết của việc tổ chức vượt sông, nhưng vẫn phải sẵn sàng để thực hiện tổ chức phục vụ vượt sông cho những đợt tiếp theo. Mệnh lệnh được phổ biến trước 3 ngày, anh em công nhân đã làm việc cật lực không quản ngày đêm đáp ứng yêu cầu của cấp trên. Thực tế là bến phà phục vụ cho một trung đoàn tên lửa qua sông và một trung đoàn cao xạ pháo cỡ từ 57 ly, 100 ly bảo vệ trung đoàn tên lửa. Cả 2 lực lượng này có hàng trăm xe các loại, vì theo yêu cầu phục vụ chiến đấu, một trung đoàn Tên lửa hành quân qua sông thì phải có 2 tiểu đoàn công binh đi theo phục vụ cầu phà. Song để giữ bí mật, an toàn, cuộc hành quân vượt sông của trung đoàn tên lửa đã sử dụng bến phà dân dụng Đò Quan. Cuộc vượt sông qua bến phà Đò Quan diễn ra đảm bảo yêu cầu, an toàn tuyệt đối mặc dù lúc này bến phà chỉ có 72 công nhân, 5 nhân viên hành chính tài vụ và 2 cán bộ bến trưởng, bến phó, nhưng với tinh

89

thần “tất cả để chiến thắng”, được Ty Giao thông vận tải điều động thêm đầu kéo hỗ trợ, cán bộ, công nhân bến phà đã đã hoàn thành nhiệm vụ trước thời gian. Đến 3 giờ 45 phút sáng mọi dấu vết được xoá hết.

Hoà với khí thế “mở đường mà đi, đánh địch mà tiến” của quân dân miền Bắc - giao thông vận tải thắng lợi tức là chiến tranh thắng lợi (lời Hồ Chủ Tịch).

Từ khẩu hiệu “địch phá ta sửa ta đi. Địch lại phá ta lại sửa ta đi” đến thời điểm này, ngành Giao thông vận tải đã thể hiện rõ ý chí quyết chiến thắng với khẩu hiệu “Địch phá ta cứ đi”. Hàng đêm lực lượng giao thông vẫn đảm bảo hướng dẫn cho 200 xe chở hàng qua địa bàn tỉnh đưa hàng vào các chân kho, ra các đầu mối vận chuyển vào chiến dịch.

Hoạt động vận tải từ năm 1965 đến năm 1968 cũng gian khổ, vô cùng ác liệt, chịu nhiều tổn thất hy sinh không kém công tác đảm bảo giao thông. Vừa phải đảm bảo giao thông thông suốt, tỉnh lại phải đảm bảo vận chuyển hàng hoá vào Khu 4 để chi viện miền Nam. Vì vậy, ngoài các phương tiện vận tải của tỉnh như tàu, thuyền, ô tô, ngày 28-6-2965, Cục trưởng cục vận tải đường bộ đã phân phối cho tỉnh một nghìn chiếc xe đạp thồ để bốc hàng vận chuyển vào Khu 4. Những tháng cuối năm 1965, giao thông vận tải Nam Hà đã huy động 3.000 tấn thuyền đi phục vụ tiền tuyến. Các đoàn thuyền của tỉnh vận chuyển hàng vào Khu 4 chủ yếu đi theo kênh Nhà Lê (con kênh đào từ thời Nhà Lê dài 500km) đưa hàng đến đích. Chiến sự diễn ra càng ác liệt thì yêu cầu vận chuyển hàng hoá càng lớn. đầu năm 1966, theo Chỉ thị số 093- của Thủ tướng Chính phủ giao cho Nam Hà mỗi tháng phải vận chuyển 2000 tấn gạo vào Khu 4. Sang các năm 1967, 1968, lượng hàng hoá Trung ương giao cho Nam Hà vận chuyển lại tăng lên gấp đôi. Trước yêu cầu đòi hỏi cấp bách của chiến trường, với tinh thần “vì miền Nam ruột thịt” thực hiện khẩu hiệu “địch phá ta cứ đi” các chiến sĩ giao thông vận tải Nam Hà đã đội mưa bom bão đạn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vận chuyển chi viện tiền tuyến.

Để nối liền mạch máu giao thông vùng đồng bằng sông Hồng, năm 1968, Bộ Giao thông vận tải chỉ thị cho 2 Ty Giao thông vận tải Nam Hà và Thái Bình phối hợp làm cầu phao thuyền nan Tân Đệ. Hai tỉnh đã huy động sức dân và tiềm lực của toàn ngành Giao thông vận tải. Đơn vị chủ lực là Xí nghiệp Sà Lan Ca nô Nam Hà (1962), chỉ sau một tháng đã làm xong 100 chiếc thuyền nan, huy động trên 200 tấn ray, gần 200m3 gỗ mặt cầu hoàn thành cầu phao thuyền nan vượt sông Hồng tại Tân đệ với độ dài hơn 400 m đúng vào dịp tết Mậu Thân 1968, kịp thời đảm bảo giao thông, chi viện tuyền tuyến.

90

Vì vận tải bốc xếp dỡ lúc đầu gặp nhiều khó khăn, về tổ chức lực lượng và huy động phương tiện bến bãi kho tàng thường xuyên bị địch đánh phá. Trong khi đó năm 1965 số phương tiện thô sơ và cơ giới cả thuỷ lẫn bộ là 233 chiếc, phương tiện vận tải thô sơ toàn tỉnh có 2.879 chiếc các loại, trong đó phương tiện bộ 1.776 chiếc, phương tiện thuỷ 1.403 chiếc (1). Đến năm 1968 thì tổng số phương tiện vận tải cơ giới cả thuỷ lẫn bộ là 308 chiếc, trong đó phương tiện vận tải bộ 289 chiếc, phương tiện thuỷ là 19 chiếc, phương tiện vận tải thô sơ toàn tỉnh là 1.498 chiếc (2).

Hệ thống giao thông bộ, đường thuỷ đế quốc Mỹ đánh phá ngày đêm, đối với đường thuỷ chúng thả thuỷ lôi, bom nổ chậm, bom từ trường ngăn chặn các xe, thuyền vận tải của nhân dân Nam Định. Nhưng với tinh thần “sống quyết bảo vệ hàng, chết huy hoàng dũng cảm”, quyết tâm tổ chức vận tải liên tục xếp dỡ nhanh chóng đảm bảo an toàn cho người và phương tiện với hàng hoá để chi viện cho tiền tuyến, phục vụ sản xuất đảm bảo đời sống cho nhân dân góp phần tích cực xây dựng kinh tế địa phương.

Các cán bộ công nhân viên lái, phụ xe ô tô, các sĩ quan thuỷ thủ trên các con tàu, lực lượng công nhân bốc dỡ trên mặt trận giao thông vận tải đã nêu cao tinh thần quyết tâm bám sát mặt đường cả ngày lẫn đêm, trên các bến sông, các luồng tuyến vận tải, trên những con tàu, đoàn xe, đoàn thuyền vừa vận chuyển hàng hoá và vận chuyển hành khách vừa tổ chức chiến đấu, đặc biệt là những trọng điểm, những tuyến sông huyết mạch, các đoàn xe vận tải, đoàn thuyền hoạt động ở Khu 4 đã dũng cảm kiên cường không sờn lòng nản chí hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao. Nhiều đoàn xe của Xí nghiệp vận tải ô tô đã anh dũng băng qua những chặng đường chi chít bom đạn. Nhiều đoàn thuyền của Xí nghiệp Ca nô các hợp tác xã thuyền buồm Tháng 8, hợp tác xã Xuân Hải..v.v đã dũng cảm vượt qua những khúc sông Mã dày đặc thuỷ lôi. Ông Lan ở Nghĩa Phong (Nghĩa Hưng) một xã viên công giáo bị thương nặng trước khi hy sinh vẫn căn dặn lại anh em phải cố giữ gìn bảo vệ hàng hoá. Đồng chí Dũng thuyền trưởng tàu khách Sông Vỹ khi bị máy bay oanh tạc đã khôn khéo lái tàu cập bờ, bắc cầu đưa hành khách sơ tán lên bờ trú ẩn. Ngay sau đó bom giặc Mỹ thả nổ tung boong tàu. Hàng trăm hành khách đã thoát chết…

Trong 4 năm (1965-1968) chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, ngành Giao thông vận tải Nam Định đã vận chuyển được 4.375.134 tấn hàng hoá bằng 194.755.639 tấn km (1) để phục vụ cho tiền tuyến chiến đấu và duy trì sản xuất …, chỉ tính riêng năm 1967 đã vận tải

1 1 - Báo cáo tổng kết công tác giao thông vận tải năm 1968 của Ty Giao thông vận tải Nam Hà, tr.3,7. - Số liệu thống kê tỉnh Hà Nam Ninh (1965-1975) – Chi cục thống kê Hà Nam Ninh, tr. 183 – 184 -185. 2 2 - Số liệu thống kê tỉnh Hà Nam (1965-1975) – Chi cục thống kê Hà Nam Ninh, tr. 183 – 184.

91

hàng hoá được 1.219.519 tấn bằng 54.958.467 tấn km. Nếu so với năm 1965 khối lượng hàng hoá vận chuyển được 1.063.000 tấn, đã tăng lên 43% về tấn so với năm 1965. Riêng 2 tháng cuối năm 1967, ngành đã mở chiến dịch “100 ngày tổng công kích” chở được 5.000 tấn gạo đi B. Trong chiến dịch này 13 cán bộ của ngành đã hy sinh, 16 người bị thương.

Đến năm 1968 hàng hoá vận chuyển được 1.713.000 tấn đã tăng lên 161% về tấn so với năm 1965.

Vận chuyển ngoài tỉnh chiếm 55% so với tổng số hàng hoá trong chuyến chi viện, tiếp tế cho tiền tuyến trong 4 năm đều vượt thời gian và kế hoạch. Hàng hoá vận chuyển trong thời gian cao điểm từ 700 tấn/ngày tăng lên 2.000 tấn /ngày, trong năm 1968 vận chuyển vượt trước thời gian 4 tháng 15 ngày (1). Mở đầu chiến dịch vận tải phục vụ tiền tuyến là đoàn vận tải của Xí nghiệp ô tô Nam Hà trong trận đầu thử thách đưa hàng vào Khu 4 đã vận chuyển hàng hoá tới đích an toàn. Tàu sông Đào còn có tên là tàu Biên Hoà một con tàu vận chuyển hành khách khi bị máy bay Mỹ đuổi thì các thuỷ thủ công nhân viên trên tàu đã dũng cảm, mưu trí, lướt né di chuyển để cứu sống gần 100 hành khách và chỉ sau 24 giờ lại kịp thời trục vớt tàu khẩn trương sửa chữa làm sống lại con tàu và tiếp tục vận chuyển hành khách (1).

Các đoàn vận tải của Xí nghiệp Ca nô (nay là Công ty Vận tải đường sông) đã phục vụ tốt mọi yêu cầu của tỉnh Trung ương giao năm nào cũng hoàn thành kế hoạch với năng suất cao bảo vệ hàng hoá tốt, đã đạt danh hiệu tổ lao động xã hội chủ nghĩa. Thi đua với các xí nghiệp, xã viên các hợp tác xã vận tải cũng sẵn sàng phục vụ cho tuyền tuyến đó là các tổ thuyền của hợp tác xã Trần Phú, Kim Thanh trên đường đi Khu 4 khi tới Hàm Rồng bị máy bay địch bắn phá, giữa vòng bom đạn ấy, các xã viên vận tải đã bình tĩnh dũng cảm bảo vệ phương tiện và hàng hoá. Tổ thuyền của hợp tác xã Trần Phú qua 4 năm (1965-1968) đã vượt qua tuyến vận chuyển hàng hoá (Ninh Bình qua Thanh Hoá vào Nghệ An nhiều lần với chiều dài là 10.600km). Các tổ thuyền số 2 của hợp tác xã Xuân Hải, số 1 của hợp tác xã Tháng 8, các tổ thuyền của hợp tác xã Thống Nhất, Hồng Quang (thuộc Nam Định), 19 lần vận chuyển cho tiền tuyến lần nào cũng phải vượt qua bom đạn nhưng vẫn bảo vệ hàng hoá vận chuyển tới đích, nhiều lần vận chuyển hàng hoá nội tỉnh bị máy bay địch bắn phá, cán bộ công nhân, xã viên đã anh dũng chiến đấu bảo vệ hàng hoá và phương tiện.

Năm 1967, hợp tác xã vận tải Quang Trung đã vinh dự được đại diện cho các tập thể tiêu biểu miền Bắc nhận lá cờ đầu tiên do mặt trận dân 1 1 - Báo cáo tổng kết Giao thông vận tải năm (1968) của Ty Giao thông vận tải Nam Hà trang 5. 1- Báo cáo tổng kết Giao thông vận tải năm (1967) của Ty Giao thông vận tải Nam Hà trang 10.

92

tộc giải phóng miền Nam (tại miền Bắc) tặng về thành tích phục vụ tuyền tuyến.

Tình hình vận chuyển hàng hoá và hành khách (1965-1968)

Năm Vận chuyển hàng hoá Vận chuyển hành kháchNghìn tấn Nghìn tấn/km Nghìn người Nghìn người/km

1965 1.063 53.103 1.138 29.9291967 1.291 54.958 862 23.4051968 1.713 64.410 505 19.876

Nguồn: Số liệu thống kê (1965-1975) tỉnh Hà Nam Ninh - Chi cục thống kê Hà Nam Ninh, trang (186-188).

Về công tác sản xuất công nghiệp:Dù trong hoàn cảnh khó khăn chiến tranh các cơ sở sản xuất phân

tán, vật tư thiết bị khan hiếm trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý còn ở mức thấp trong chiến tranh luôn luôn nhận nhiệm vụ đột xuất nhưng các chiến sĩ trên mặt trận giao thông vận tải đã được quán triệt nhiệm vụ tất cả cho đảm bảo giao thông vận tải, đánh thắng giặc Mỹ nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh dám nghĩ dám làm hoàn thành tốt nhiệm vụ được nhà nước giao. Được Uỷ ban hành chính tỉnh cho phép năm 1966 ngành Giao thông vận tải Nam Định thành lập 2 xưởng gỗ đó là Xí nghiệp 52 và Công trường gỗ 20/7 tại Nghĩa Đàn - Nghệ An. Đã khai thác và sản xuất hàng vạn m3 gỗ, đã tổ chức vận chuyển về các xưởng Xí nghiệp Ca nô, hợp tác xã tàu thuyền Quyết Thắng .v.v, đã đóng mới những chiếc phà, con thuyền và những cầu phao như cầu Sắt, cầu Tào, cầu Chuối, cầu Đò Quan. Trong 4 năm từ (1965-1968) toàn tỉnh đã đóng mới được 6.382 tấn phương tiện bao gồm 734 thuyền các loại và 37 ca nô với tổng công suất là 2.408 CV, sửa chữa 3.419 tấn phương tiện, sản xuất 4.958 xe cải tiến, 200 thuyền dân (1), đã giải phóng sức lao động trong nông nghiệp. Chiếc cầu phao gỗ đầu tiên xuất hiện đó là cầu phao Đò Quan do Xí nghiệp Ca nô Sà lan sản xuất.

Xí nghiệp 2/9 đã nêu cao tinh thần dũng cảm bán máy chuyển máy, xây dựng lắp ráp để đưa nhà máy đại tu ô tô vào sản xuất thử có hiệu quả.

Xí Nghiệp đóng xe cải tiến 19/5 cũng nhanh chóng xây dựng và khẩn trương sản xuất các loại phương tiện phục vụ nông nghiệp và các kết cấu phụ kiện phục vụ làm cầu, sửa chữa phà. Hợp tác xã tàu thuyền Quyết Thắng là đơn vị ra đời sau Xí nghiệp cải tiến 19/5, cũng có nhiều cố gắng

1 1- Báo cáo tổng kết công tác giao thông vận tải (1968) của Ty Giao thông vận tải Nam Hà, trang 5.

93

để đi vào đóng mới phương tiện, tàu thuyền đặc biệt là thuyền vỏ tàu xi măng lưới thép đáp ứng tốt yêu cầu vận tải phục vụ sản xuất nông nghiệp, đánh cá và vận chuyển hàng vào Khu 4 đóng góp vào hoàn thành tốt nhiệm vụ chung của toàn ngành.

Trong kháng chiến chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965 - 1968) nhân dân cùng với cán bộ công nhân viên ngành Giao thông vận tải Nam Định dưới sự chỉ đạo của đảng bộ và chính quyền các cấp mà lực lượng nòng cốt là Ty Giao thông vận tải và phòng Giao thông vận tải các huyện, thành thị đã tổ chức xây dựng các tổ xung kích đảm bảo giao thông vận tải, chuẩn bị mọi điều kiện sẵn sàng đảm bảo giao thông vận tải và xếp dỡ hàng hoá nhanh chóng kịp thời phục vụ cho tiền tuyến. Các huyện Xuân Thuỷ, Nam Ninh, Hải Hậu, Nghĩa Hưng đã cử con em mình nhập ngũ ra chiến trường đều hoàn thành tốt nhiệm vụ. Nhân dân và các xã ven đường quốc lộ 21, quốc lộ 10 thuộc huyện Ý Yên, Vụ Bản, Nam Ninh, các xã ngoại thành thành phố Nam Định, không tiếc tiền của, vật liệu, sức lao động để sửa chữa đường xá, san lấp hố bom, sửa đường làm tuyến để tránh, bắc cầu, đóng thuyền, bốc dỡ, nguỵ trang và canh gác bảo vệ cầu đường, hàng hoá phương tiện vận tải, đùm bọc nuôi dưỡng cán bộ, công nhân, xã viên ngành Giao thông vận tải.

Công tác giao thông vận tải nông thôn (1965-1968): Trong sự nghiệp xây dựng kinh tế địa phương và chống Mỹ cứu nước thì công tác giao thông vận tải nông thôn có một vị trí hết sức quan trọng. Trên cơ sở đẩy mạnh cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã cải tiến kỹ thuật và tăng cường quan hệ sản xuất, trong nông nghiệp sẽ được tập trung mọi khả năng để phát triển toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc theo phương hướng thâm canh tăng vụ đưa năng suất cây trồng lên cao và ổn định nhằm đạt 3 mục tiêu lớn “1 lao động, 5 tấn thóc và 2 con lợn/ 1ha”.

Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ trên, Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính tỉnh đã xác định phương hướng nhiệm vụ công tác giao thông vận tải nông thôn trong thời chiến là: “kết hợp chặt chẽ với thuỷ lợi kiến thiết đồng ruộng, kết hợp với quốc phòng ra sức đẩy mạnh phát triển đường xá, luồng lạch từ sân kho hợp tác xã ra đồng ruộng. Đồng thời tiếp tục nâng cao chất lượng và quản lý luông tuyến và cầu cống đảm bảo vận chuyển tốt trong sản xuất và lưu thông phục vụ từng bước cơ giới hoá đưa cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vào trong nông nghiệp để phục vụ chiến đấu, đảm bảo giao thông thời chiến. Phát triển mạnh mẽ và sử dụng rộng rãi các phương tiện vận tải, quản lý và tổ chức tốt lực lượng vận tải trong nông nghiệp để tiến tới xoá bỏ nạn đầu đội vai gánh của người nông dân, tăng năng suất lao động, tiết kiệm được nhiều ngày công để đưa vào phục vụ thâm canh tăng vụ nâng cao đời sống xã viên, tích cực góp phần vào cuộc thực hiện

94

phân công mới trong nông nghiệp. Thực hiện chủ trương và nhiệm vụ của Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính tỉnh, dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng và chính quyền địa phương, nhân dân Nam Hà trong đó có nhân dân Nam Định đã vượt qua mọi gian khổ của chiến tranh, làm tốt công tác giao thông nông thôn kết hợp chặt chẽ với công tác thuỷ lợi, theo số liệu thống kê năm 1965 toàn tỉnh đã đào đắp được 7.514.754 m3 đất, đến năm 1967 toàn tỉnh đã đào được8.557.000 m3 đất và cải tạo 2.383 km đường, các công trình thuỷ lợi cũng đã đào được 12.413.000 m3 đất, hình thành nên 2.184 km đường (1).

Nếu năm 1965, toàn tỉnh mới có 6.668 km đường bộ thì đến năm 1967 đã có 7.333 km đường bộ trên địa bàn toàn tỉnh, tăng lên 655 km (2).

Về phương tiện vận tải giải phóng sức lao động năm 1965, nông thôn toàn tỉnh mới có 7.954 phương tiện vận tải các loại bằng 4.172 tấn, đến năm 1967, số thuyền gỗ phục vụ nông nghiệp tăng lên 3.005 chiếc đưa tổng số trọng tải thuyền gỗ trong nông nghiệp toàn tỉnh lên 5.300 tấn, thuyền nan phục vụ nông nghiệp tăng 1.600 tấn đưa tổng số trọng tải thuyền nan lên 15.164 tấn, xe thô sơ với các loại tăng thêm 2.177 tấn, đưa tổng số trọng tải xe thô sơ trong toàn tỉnh lên 11.472 tấn (1).

Cho đến cuối năm 1966 bình quân nông nghiệp toàn tỉnh là 8,1 ha có 1 tấn phương tiện sang đến năm 1967 bình quân nông nghiệp toàn tỉnh là 6,5 ha có 1 tấn phương tiện.

Năm 1968 đế quốc Mỹ thất bại ở miền Nam Việt Nam, buộc chúng phải xuống thang ngừng ném bom miền Bắc và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại hội nghị Paris. Lúc này việc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cũng như việc xây dựng kinh tế địa phương thu được nhiều thắng lợi là nguồn cổ vũ to lớn trong nhân dân và cũng trên cơ sở đó đã tạo ra một số thuận lợi đối với toàn tỉnh để đẩy mạnh phong trào giao thông nông thôn với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Cuối năm 1968, nông thôn toàn tỉnh Nam Hà đã có 25.697 phương tiện các loại, bằng 7.304 tấn (2) các loại, trong đó số phương tiện vận tải thuỷ chiếm 46,5%, số phương tiện vận tải bộ chiếm 53,5%, tỷ lệ loại phương tiện có trọng tải 1 tấn trở lên chiếm 56% tổng số phương tiện. Bình quân toàn tỉnh là 6,5 ha có 1 tấn phương tiện, trong đó các huyện của Nam Định có tỷ lệ bình quân tương đối cao.

1 - Báo cáo tổng kết công tác giao thông vận tải năm 1968 của Ty Giao thông vận tải Nam Hà, tr. 56. 2 - Báo cáo tổng kết công tác giao thông vận tải năm 1968 của Ty Giao thông vận tải Nam Hà, tr. 56. 1- Số liệu thống kê (1965 – 1975) Cục thống kê Hà Nam Ninh, tr. 183 – 184. 2- Số liệu thống kê (1965 – 1975) Cục thống kê Hà Nam Ninh, tr. 183 – 184. 3- Báo cáo tổng kết công tác giao thông vận tải của Ty Giao thông vận tải Nam Hà năm 1968, tr. 4.

2

95

Huyện Hải Hậu đạt 5,2 ha có 1 tấn phương tiện.Huyện Ý Yên đạt 5,6 ha có 1 tấn phương tiện.Thành phố Nam Định đạt 6,3 ha có 1 tấn phương tiện.Huyện Nam Ninh đạt 6,1 ha có 1 tấn phương tiện.Huyện Nghĩa Hưng đạt 7,0 ha có 1 tấn phương tiện.Cùng với sự phát triển của phương tiện vận tải thì đường xá nông

thôn cũng được cải tạo nâng cấp, năm 1968, nông thôn toàn tỉnh đã nâng cấp được 2.407 km và cải tạo mặt đường là 4.790 km, làm mới 2.632 cầu cống các loại (3), trong đó có 1.317 km đường huyện, đường liên xã và bình quan mỗi xã có khoảng 15 đến 20 km đường liên thôn, liên xóm và đường ra đồng. 21.275 tấn phương tiện vận tải. Màng lưới giao thông nông thôn phát triển rộng khắp đã đáp ứng được yêu cầu là phục vụ sản xuất, chiến đấu và đời sống nhân dân.

Như vậy trong 4 năm (1965 – 1968) phong trào giao thông kết hợp với thuỷ lợi ruộng đồng trên địa bàn tỉnh đã phát triển mạnh mẽ, từng bước được hoàn thiện và phát huy hiệu quả tốt. Công tác cải thiện mặt đường năm 1968 đã vượt hơn năm 1967 là 14%. Nhìn chung mạng lưới giao thông nông thôn của tỉnh cho đến cuối năm 1968, vẫn chưa hoàn toàn được thông suốt, mới căn bản hình thành, song các đường trục huyện, đường liên xã đã tạo điều kiện thuận lợi để tiến hành làm đường trong thôn xóm, đường ra đồng. Do đó bước đầu việc vận chuyển sản xuất thuận lợi, ngày công lao động giảm đạt và vượt chỉ tiêu “một lao động, 5 tấn thóc, 2 đầu lợn trên 1 ha”, đã thực hiện sự phân công và sử dụng sức lao động có hiệu quả cao, thiết thực góp phần giải quyết khó khăn về nhân lực ở nông thôn thời chiến và thiết thực phục vụ cho tiền tuyến, mặt khác góp phần nâng cao đời sống của nhân dân ở trong tỉnh.

3- Tranh thủ thời cơ hoà bình vận chuyển cấp tốc chi viện tiền tuyến và tu sửa hệ thống giao thông (1969 – 1971).

Trong giai đoạn (1969-1971), ở miền Bắc nói chung và tỉnh ta nói riêng là giai đoạn từ chiến tranh chuyển sang hoà bình. Đây là một điều kiện thuận lợi để cho nhân dân Miền Bắc khôi phục kinh tế hàn gắn chiến tranh, tranh thủ thời gian phát triển kinh tế và chi viện cho chiến trường miền Nam.

Tại đại hội đại biểu tỉnh Nam Hà lần thứ nhất tháng 6 năm 1968 đã đề ra phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triến kinh tế văn hoá trong 3 năm (1968-1970) và những năm tiếp theo là: “đảm bảo tốt nhất mọi nhu

3

96

cầu cho tiền tuyến không ngừng tăng cường lực lượng quốc phòng trị an sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng địch trong mọi tình huống. quyết tâm xây dựng nền kinh tế địa phương lớn mạnh trong chiến tranh, đảm bảo phát triển toàn diện cân đối và gắn bó chặt chẽ giữa nông nghiệp và công nghiệp, đảm bảo và tổ chức tốt đời sống nhân dân một cách toàn diện và thích hợp mọi điều kiện có chiến tranh” (30), trên cơ sở đó, Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính tỉnh đã xác định: phương hướng nhiệm vụ của giao thông vận tải là: “căn cứ vào phương hướng nhiệm vụ, báo cáo chính trị của đại hội đề ra, công tác giao thông vận tải phải tiếp tục đảm bảo giao thông vận tải thông suốt trong mọi tình huống, nâng cao khả năng sử dụng đường thuỷ, chủ động giải quyết tốt yêu cầu trung chuyển và tranh thủ vận chuyển ở những địa bàn địch đánh phá ác liệt và sẵn sàng đưa mức vận chuyển lên cao khi có điều kiện thuận lợi, một mặt đảm bảo giao thông vận tải kịp thời đầy đủ cho tiền tuyến , mặt khác phải hoàn thành tốt nhiệm vụ vận chuyển ở địa phương đảm bảo tiếp nhận tốt hàng hoá. Vật tư thiết bị hàng hoá của Trung ương, phân phối phục vụ tốt cho sản xuất , chú trong tăng sắt thép, thiết bị vật liệu xây dựng, phân bón, giống, thuốc trừ sâu (1).

Tại đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ Nam Hà lần thứ II năm 1972 đã nêu rõ phương hướng nhiệm vụ cho ngành Giao thông vận tải là: phát triển mạnh mẽ giao thông vận tải và đẩy mạnh sản xuất sửa chữa và quản lý phương tiện vận tải, chú trọng các loại phương tiện thuỷ cơ giới phương tiện thay gỗ, cần tổ chức tốt bến bãi và lực lượng bốc dỡ theo khu vực chỉ đạo chặt chẽ công tác điều vận đảm bảo vận chuyển, phục vụ kịp thời cho sản xuất và xây dựng, đồng thời khơi thông luồng lạch củng cố nâng cao mặt đường ở một số tuyến chính theo vùng kinh tế phát triển, mạnh giao thông vận tải nông thôn nhằm thiết thực phục vụ thâm canh tăng năng suất trong nông nghiệp.

Biện pháp quan trọng là tăng cường và cải tiến công tác quản lý giao thông, quản lý vận tải trước hết phải nắm vững khâu kế hoạch hoá, tiến hành xây dựng kế hoạch vận tải tập trung, thống nhất từ cơ sở và tổng hợp toàn ngành theo thời vụ và theo quý, thực hiện chế độ hợp đồng vận tải và khoán sản lượng cho đầu phương tiện, khắc phục hư hao mất mát dọc đường, phấn đấu vận chuyển đến nơi nhanh nhất cho cơ sở sản xuất đủ sản lượng kịp thời vụ, đồng thời đẩy mạnh các biện pháp kỹ thuật, làm tốt công tác hậu cần, tăng cường chỉ đạo theo phương châm tập trung dứt điểm, đi đôi với phát động mạnh mẽ, sâu rộng phong trào quần chúng thi đua tăng năng suất lao động hiệu suất phương tiện, phấn đấu giảm cước phí vận chuyển.302- Đại hội Đại biểu tỉnh Đảng bộ Nam Hà lần thứ I tháng 6 năm 1968, trang 5-6. 1- Đại hội Đại biểu tỉnh Đảng bộ Nam Hà lần thứ I tháng 6 năm 1968, trang 5-6.

97

Ngay khi Mỹ buộc phải ngừng ném bom bắn phá miền Bắc. Nghị quyết hội nghị đảng bộ giao thông vận tải lần thứ V đã nhận định: “ Hiện nay địch thua đã phải ngừng đánh phá miền Bắc nhưng địch còn rất ngoan cố và sảo quyệt ta phải rất cảnh giác để đề phòng. Trong bước đường cùng địch có thể liều lĩnh đánh phá trở lại. Nhất là các tỉnh miền Nam Khu 4 cũ, hoạt động giao thông vận tải năm 1969 vẫn hình thành 2 vùng” (2).

Ngày 1-11-1968, Tổng thống Giôn Sơn buộc phải tuyên bố chấm dứt các cuộc ném bom phá hoại nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Mỹ tuyên bố ngừng chiến tranh phá hoại ở miền Bắc để lừa bịp và rêu rao thiện chí nhưng chúng vẫn duy trì một không khí căng thẳng, những lời đe doạ, những phi vụ trinh sát, những cuộc tập kích nhỏ bằng không quân ra miền Bắc.

Trung ương Đảng đã dự đoán trước âm mưu mới của Mỹ, nên từ tháng 8-1968, ngành Giao thông vận tải đã được lệnh chuẩn bị tham gia một chiến dịch vận tải lớn vì Trung ương dự đoán thế nào địch cũng phải xuống thang chiến tranh. Tháng 10-1968 lãnh đạo của Bộ Giao thông vận tải đã tổ chức cuộc họp tại thủ đô Hà Nội. Trong cuộc họp đồng chí Bộ trưởng Phan Trọng Tuệ đã truyền đạt và phổ biến kế hoạch đợt vận tải sắp tới với nội dung: Trung ương quyết định sẽ mở một đợt vận chuyển lớn trong 3 tháng (tháng 11, 12-1968 và tháng giêng năm 1969) nhà nước sẽ huy động 1.000 xe tốt đưa vào chiến dịch, chiến dịch kỳ này được ký hiệu là VT5 (Vận tải tranh thủ tụt thang). Chiến dịch được bắt đầu ngay sau khi địch ngừng ném bom miền Bắc (1-11-1968). Chiến dịch VT5, ta đã đưa vào Quảng Bình 12 vạn tấn hàng hoá, trong đó lực lượng vận tải Nam Hà tiếp chuyển vòng ngoài từ Nam Định đến Nghệ An là 11.000 tấn hàng và đã huy động 111 xe ô tô của xí nghiệp vận tải ô tô tham gia chiến dịch. Suốt quá trình vận tải, đoàn xe luôn luôn bị máy bay địch trinh sát, chiến dịch được triển khai liên tục kể cả những ngày mưa và kết thúc vào ngày 31-1-1969. Chiến dịch VT5 tỉnh đã vượt kế hoạch 124 tấn (2) so với dự kiến ban đầu. Sau khi kế hoạch VT5 kết thúc, Trung ương có chỉ thị phải trở lại hoạt động sẵn sàng chiến đấu tại địa bàn tỉnh kịp thời ứng phó với mọi tình huống.

Sau chiến dịch VT5, quán triệt Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ nhất và các Nghị quyết của Trung ương Đảng về đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, cùng với cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên, cán bộ, công nhân viên toàn ngành đã tranh thủ thời cơ hoà hoãn rất 2- Trích Báo cáo tổng kết công tác giao thông vận tải năm 1969 của Ty Giao thông vận tải Nam Hà, trang 2.

21- Trích Báo cáo tổng kết công tác giao thông vận tải năm 1969 của Ty Giao thông vận tải Nam Hà, trang 5.

98

khẩn trương củng cố và phát triển lực lượng, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật trong toàn ngành, nâng cao tiềm lực vật chất và năng lực mọi mặt. Sẵn sàng đón nhận nhiệm vụ của giai đoạn mới khó khăn gian khổ có thể hơn nhiều các năm trước.

Ngành tập trung vào 4 nhiệm vụ mục tiêu chính chủ yếu:1. Vận tải là nhiệm vụ chính trị hàng đầu.2. Công tác cầu đường, xây dựng cơ bản là trọng tâm.3. Giao thông vận tải nông thôn là quan trọng.4. Tăng cường khoa học kỹ thuật trong các khâu công tác của

ngành là then chốt.Trên mặt trận bốc xếp và vận tải trong thời kỳ tranh thủ có hoà

bình nên yêu cầu về vận chuyển càng lớn, sự đi lại của nhân dân cũng tăng nhanh, nhưng khả năng thực tế của vận tải có hạn, bến bãi nhỏ, phân tán, tư tưởng của công nhân, xã viên còn nặng ảnh hưởng thời chiến. Trước tình hình đó, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính tỉnh ngành Giao thông vận tải đã có phương án tổ chức vận tải với khẩu hiệu “vận tải là nhiệm vụ chính trị cao nhất, là hoạt động trung tâm của toàn ngành”. Từ năm 1969 đến năm 1971, hoạt động vận tải được tăng cường. Ngay từ những ngày đầu, tháng đầu của năm, cán bộ, công nhân viên toàn ngành đều phấn đấu, quyết tâm hoàn thành vượt mức kế hoạch vận tải nhờ đó mà kế hoạch hàng năm đã hoàn thành thắng lợi và đạt hiệu quả cao với tổng sản lượng vận chuyển đạt 107%. Trong đó hàng hoá đạt 101%, hành khách đạt 115% nếu so với năm 1968 đạt 194% thì hàng hoá bình quân 3 năm (1969-1971) vận chuyển tăng lên 15% và hành khách tăng 326%. Ngành Giao thông vận tải tỉnh đã vận chuyển vượt mức các chỉ tiêu vận tải của tỉnh và của bộ giao cho.

Kết quả trên đây có sự đóng góp hiệu quả của các đơn vị trong ngành như Xí nghiệp vận tải ô tô hàng năm đạt và vượt kế hoạch nhà nước giao từ 15-20%, giá thành cước vận tải hạ bình quân 7%. Xí nghiệp Ca nô hạ giá cước vận tải bình quân 5%. Các hợp tác xã vận tải đẩy mạnh và hoàn thành công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa và hoàn thành quy mô hợp tác xã đi vào công tác 3 khoán, 4 quản nhằm nâng cao năng suất phương tiện do vậy kế hoạch đạt càng cao và nâng cao được chất lượng quản lý.

Về khu vực hợp tác xã vận tải năm 1969, khối lượng hàng hoá vận chuyển đạt 190.714 tấn bằng 13.204.967 tấn km, sang năm 1970 khối lượng vận chuyển đạt 250.564 tấn km (1) so với năm 1969 tăng 104% về tấn

1 1- Số liệu thống kê (1965-1975) Chi cục thống kê Hà Nam Ninh, trang 185-186. 2 - Báo cáo công tác giao thông vận tải (1971) của Ty Giao thông vận tải Nam Hà, trang 5.

99

và 97,5% về km. Đến năm 1971, khối hợp tác xã vận tải đều thực hiện được khoán sản lượng nên khối lượng vận chuyển tăng từ 4-7% so với các năm trước. Công tác bốc xếp trong 3 năm (1969-1971) cũng có nhiều tiến bộ thực hiện kế hoạch đạt 97% về tấn và 95% về xếp dỡ.

Về công tác xây dựng cơ bản và duy tu cầu đường: Trong 4 năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1965-

1968), hệ thống cầu đường của tỉnh bị xuống cấp, bị hư hỏng và biến dạng nghiêm trọng. Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính tỉnh đã quán triệt phương châm tự lực cánh sinh, toàn ngành đã khắc phục khó khăn về kỹ thuật và nhân tài vật lực, đồng thời cũng tranh thủ sự giúp đỡ của Bộ Giao thông vận tải, tập trung vốn không những nâng cao làm mới một số tuyến đường, như tuyến 21, tuyến đường 10, đường 54, đường 55 mà còn làm mới cầu treo sông Đào khánh thành cho thông xe ngày 19/5/1970. Tiếp đến là cầu Tào, cầu Chuối (ở đường 10) (1), gia cố các đường vòng, đường tránh chuẩn bị các bến bãi chu đáo hơn.

Về sản xuất công nghiệp vận tải:Mặc dù nguyên vật liệu thiếu, cơ sở sản xuất không ổn định, điện

thiếu nghiêm trọng, song các xí nghiệp đã có cố gắng hết mức đưa sản xuất công nghiệp của ngành Giao thông vận tải phát triển như nghiên cứu đóng sà lan 150 tấn, ca nô 135 CV thuyền xi măng lưới thép thay cho thuyền gỗ. Bến Đò Quan có cầu phao gỗ, 2 phà 18 tấn, 2 ca nô 90 CV, Lạc Quần có 1 phà 12 tấn, 1 phà 18 tấn, 2 ca nô 60 CV, 1 ca nô 90 CV. Vì thế sản xuất công nghiệp giao thông vận tải đã đạt nhiều kết quả tốt. Giá trị tổng sản lượng bình quân 3 năm (1969-1971) đạt 122% trong đó khối quốc doanh tăng 135%, đóng mới được 2.000 tấn thuyền, 33 sà lan vỏ thép loại 150 tấn, đóng mới được 6.690 chiếc thuyền phục vụ cho nông nghiệp và đại tu được 250 chiếc ô tô, làm mới 4.998 xe cải tiến và hơn 300 xe bò bánh lốp, sơ chế và vận chuyển từ Nghệ An về Nam Định 8652 m3 gỗ để phục vụ đóng tàu thuyền, xây dựng cầu cống bến phà .v.v (2).

Về công tác giao thông vận tải nông thôn: Trong 3 năm (1969-1971) toàn tỉnh đã đào đắp được 4.675.000 m3 đất mở rộng cải tạo 1.453 km đường hết 1.514.000 ngày công trong đó đường ra đồng được 935 km bằng 65%.

Đã cải thiện 725 km bằng 109.367 m3 bằng vật liệu gạch đá và 249 km trong đó đường ra đồng được 389 km. Xây đúc cầu cống tổng số 555 cầu các loại trong đó cầu bê tông có 115 cái, cầu mố gạch 278 cái, cầu gỗ

1 1- Báo cáo công tác giao thông vận tải (1971) của Ty Giao thông vận tải Nam Hà, trang 5.

2 2 - Số liệu báo cáo hàng năm của Ty Giao thông vận tải Nam Hà 1969, 1970, 1971.

100

61 cái, cầu tre 99 cái (3) phát triển phương tiện giải phóng đôi vai: đóng mới các loại phương tiện gồm 2852,4 tấn trong đó thuyền gỗ là 897 cái thành 1.377 tấn, thuyền nan là 2.512 cái thành 719 tấn.

Xe súc vật kéo 71 cái bằng 72 tấn.Xe cải tiến 3.293 cái bằng 723 tấn.Các loại xe khác 28 cái bằng 5,4 tấn.Xây dựng các tổ chức giao thông vận tải nông thôn như tổ vận

chuyển chuyên và bán chuyên gồm 297 tổ thuộc 862 hợp tác xã. Tổ vận chuyển có tính chất vụ việc, tổ bảo dưỡng đường xá, tổ sửa chữa công cụ.

4- Góp phần đánh thắng chiến tranh phá hoại lần thứ 2, khôi phục giao thông vận tải sau chiến tranh (1973-1975)

Ngày 6-4-1972, Tổng thống Mỹ Ních Xơn ra lệnh mở cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2, không quân, hải quân ào ạt đánh vào miền Bắc.

Năm 1972-1975 là những năm đánh dấu đỉnh cao những thắng lợi vĩ đại và oanh liệt nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta đối với ngành Giao thông vận tải là những năm thử thách lớn hết sức gay go, đặc biệt là năm 1972, một năm chiến đấu vô vùng ác liệt trước cuộc chiến tranh phá hoại trở lại miền Bắc do đế quốc Mỹ gây ra. Tuy thời gian ngắn hơn so với 4 năm chiến tranh phá hoại lần thứ I (1965-1968). Nhưng mức độ tàn phá lại vượt xa rất nhiều. Trước đây Giôn Xơn leo thang từng bậc thì thời kỳ này Ních Xơn đã sử dụng nhiều loại phương tiện, vũ khí chiến tranh với kỹ thuật hiện đại nhất mà chúng có như: pháo đài bay B52, máy bay cánh cụp cánh xoè F111, nhiều loại thuỷ lôi, mìn với tính năng kỹ thuật khác nhau, ngay từ trận đầu (16/4/1972), chúng đã điên cuồng cho B52 đánh phá ra Hải Phòng và ngày 18/5 Nich Xơn tuyên bố thì ngày 19/5 chúng đã liều lĩnh phong toả bến cảng, các cửa sông và toàn bộ đường biển miền Bắc đồng thời chỉ một thời gian rất ngắn sau đó chúng đã tiến hành đánh sập các cầu lớn của đường sắt và hầu hết các ga trên tuyến đường chiến lược Bắc Nam, các cầu, các điểm vượt sông yết hầu trên đường bộ các khu đầu mối giao thông nơi chân hàng và trung chuyển.

Đặc biệt từ ngày 18 đến ngày 28-12-1972, Nich Xơn đã mở đợt tập kích chiến lược, quy mô lớn bằng không quân chiến lược gồm gần 200 máy bay B52 (chiếm 46% tổng số máy bay B52 của nước Mỹ lúc đó) gồm 1.000 máy bay chiến thuật, 30 máy bay F111, là một lực lượng lớn chưa từng có ngày đêm liên tục đánh phá vào 10 tỉnh và thành phố của miền Bắc , tập trung chủ yếu vào Hà Nội và Hải Phòng cùng nhiều trọng điểm giao thông vận tải thiết yếu của ta, hòng cắt đứt sự giúp đỡ của các nước anh em 3 3 - 1- Số liệu báo cáo hàng năm của Ty Giao thông vận tải Nam Hà 1969, 1970, 1971.

101

xã hội chủ nghĩa đối với nước ta, ngăn chặn nguồn chi viện của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn, và thâm độc hơn, Nich Xơn đã cố dùng sức mạnh về quân sự để mưu toan buộc đối phương phải đàm phán theo các điều kiện ngang ngược của chúng, phá bỏ bản dự thảo Hiệp Định đã thoả thuận giữa ta và Mỹ ngày 20-10-1972 tại Paris.

Đối với Nam Hà trong đó có nhân dân Nam Định là một tỉnh có vị trí chính trị kinh tế quan trọng của miền Bắc, trong vòng chưa đầy 6 tháng từ 5-10-1972, giặc Mỹ đã đánh tới gần 700 trận (1) lớn nhỏ trong đó có 228 trận đánh ban đêm vào 908 điểm, với tổng số 5.471 bom đạn các loại, tính riêng hệ thống giao thông vận tải trong tỉnh chúng đã đánh 202 trận vào 247 điểm với 2.084 bom phá, 712 bom nổ chậm và từ trường 106 bom xuyên mẹ (mỗi bom bi xuyên mẹ mang 270 bom bi xuyên con) và 19 tên lửa. Bằng 53,5% tổng số bom đạn mà địch đã đánh xuống tỉnh Nam Hà đã gây thiệt hại 1.519 m đường bộ, 820 m đường sắt, 143 cầu, 3 đầu kéo ca nô, 8 sà lan và 51 thuyền bằng 1.084 tấn làm 14 người hy sinh (1). Chúng tập trung đánh dứt điểm những cầu lớn như Đò Quan, Đoan Vĩ, Phủ Lý, cơ sở đóng mới Hợp tác xã Việt Hồng (Nghĩa Hưng), Nhà máy đóng tàu Nam Hà, đồng thời đánh các bến bốc rỡ hàng hoá; Cảng sông Nam Định, Đống Cao, Hải Lạng. Trận đánh đầu tiên vào Thành phố Nam Định ở đợt 2 thời Tổng thống Nich xơn là đánh vào cầu treo Đò Quan hồi 13 giờ 35 phút ngày 6-5-1972.

Hồi 13 giờ 30 phút ngày 12-5-1972 đánh lần thứ 2 và đến 18 giờ 45 phút ngày 28-5-1972 hai máy bay lẻn vào từ cửa sông Đáy đánh trộm thả bom bắn rốc két làm sập cổng cầu phía Thành phố, cầu Treo bị sập xuống sông.

Thời điểm này dân công huyện Nam Ninh đang tu bổ đoạn đê Vấn Khẩu (cũng bị bom các trận trước) rất đông. Đồng chí Trần Đại Tần Phó Chủ tịch tỉnh Nam Hà từ Nghĩa Hưng về đến Trạm điều vận bờ nam vừa kịp dừng xe thì bom rơi phía bờ bắc.

Đợt đánh phá lần hai này Thành phố Nam Định bị đánh phá 37 lần thì bến phà Đò Quan bị 17 lần vì cổng cầu Treo phía bờ nam vẫn tồn tại. Trận cuối cùng thứ 17 đánh vào bến phà Đò Quan là hồi 11 giờ 55 phút ngày 16-9-1972.

Sau khi đã đánh dứt điểm một số cầu, đường sắt, cầu đường bộ chúng dùng bom từ trường phong toả các cửa sông, các nút vận chuyển sông quan trọng. Cùng với việc đánh các mục tiêu giao thông vận tải từ tháng 7 trở đi, máy bay địch săn lùng các đoàn xe, tàu thuyền vận tải trên

1 1- Báo cáo tổng kết công tác giao thông vận tải (1972) của Ty Giao thông vận tải Nam Hà trang 2. 1

102

đường chở hàng phá theo hình thức vãi bom đạn để tiêu diệt. Khi địch đã cắt được nhiều đoạn đường sắt quan trọng, vận tải đường bộ bị hạn chế, Nam Định trở thành vị trí chân hàng quan trọng cho chi viện chiến trường và những con sông Hồng, sông Đào, sông Đáy trở thành luồng vận chuyển chủ yếu của nhiều tỉnh trên miền Bắc. Sông Ninh Cơ có vị trí quan trọng đối với vận chuyển muối. Vận chuyển đường sông lúc này chiếm 85% khối lượng vận chuyển hàng hoá. Quán triệt tinh thần Nghị quyết 220 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 198 của Ban Bí thư Trung ương Đảng: giao thông vận tải là nhiệm vụ đột xuất số một của toàn Đảng, toàn dân; Thực hiện Nghị quyết 06 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Nam Hà với quyết tâm chiến lược mới, với khẩu hiệu địch phá ta cứ đi, kiên cường đưa hàng tới đích, được Thường trực Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính tỉnh và Bộ Giao thông vận tải quan tâm lãnh đạo sát sao, được các lực lượng vũ trang, các ngành, các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương tích cực giúp đỡ, được phong trào nhân dân trong tỉnh hăng hái tham gia phục vụ vận tải và đảm bảo giao thông. Toàn thể cán bộ đảng viên, công nhân xã viên và thanh niên xung phong trong ngành đã phát huy tinh thần vượt khó tự lực cánh sinh cùng thông minh sáng tạo, kiên cường dũng cảm chiến đấu và chiến thắng.

Cùng với quyết tâm chiến lược mới “phá phong toả của địch” với khẩu hiệu “địch phá ta cứ đi - kiên cường đưa hàng tới đích”, phong trào thi đua trong ngành được phát động tập trung vào vận tải là nhiệm vụ chính trị cao nhất bất kỳ tình huống nào cũng phải đảm bảo phục vụ chiến đấu và sản xuất.

Khi đế quốc Mỹ trở lại đánh phá miền Bắc lần thứ hai với mức độ huỷ diệt, cùng với việc phục vụ đưa nhân dân và các cơ quan sơ tán về vùng nông thôn, Ty Giao thông vận tải cũng chia làm 2 bộ phận. Một bộ phận sơ tán về Mỹ Phúc (Mỹ Lộc), một bộ phận bám địa bàn trực chiến gồm một số cán bộ phòng vận tải do đồng chí Phó Ty Đào Bá phụ trách.

Bộ phận thứ 2 sơ tán về Thôn Hóp (Mỹ Phúc) có hầm trực chiến với những trang thiết bị cần thiết như vô tuyến điện (điện từ tổng đài Văn phòng tỉnh uỷ) với sự thường trực của cán bộ Bưu điện 24/24 giờ để phục vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo tỉnh. Hầm trực chiến của đồng chí Phan Hưng (Phó chủ tịch tỉnh) đồng chí Đỗ An - Thư ký UBND tỉnh cũng sát cạnh hầm của Ty Giao thông vận tải để trực tiếp chỉ đạo đảm bảo giao thông vận tải thông suốt và chi viện chiến trường.

Về hoạt động vận tải: Năm 1972, nhằm tập trung mọi khả năng cao nhất của hậu phương

lớn đáp ứng kỳ được yêu cầu rất khẩn trương của chiến trường, Trung ương quyết định mở chiến dịch vận tải “19 tháng 8”. Từ tháng 6-1972,

103

Trung ương giao cho tỉnh huy động một phần lực lượng vận tải thuỷ, bộ, thô sơ và cơ giới làm nhiệm vụ vận chuyển gạo vào Khu 4. Lúc này, giao thông vận tải của tỉnh có rất nhiều khó khăn. Bên cạnh những khó khăn rất lớn về địch hoạ, thiên tai thì khả năng phương tiện vận tải của tỉnh và ngành có hạn: xe ô tô cũ và hầu hết là xe dầu, một số thuyền lớn không đi vào các kênh đào được, thuyền nhỏ thì chất lượng kém và thiếu mui che. Song trước yêu cầu cấp bách của chiến trường, Thường trực tỉnh uỷ và Thường trực Uỷ ban hành chính tỉnh đã đặc biệt quan tâm và chỉ đạo cụ thể nhiệm vụ của giao thông vận tải với tinh thần là:

- Đảm bảo hoàn thành kế hoạch về số lượng và thời gian phục vụ tiền tuyến. Đồng thời phải đảm bảo vận chuyển phục vụ sơ tán, vận chuyển đá chống lũ lụt, cố gắng đảm bảo các yêu cầu sản xuất, chiến đấu và đời sống của nhân dân.

- Huy động phương tiện vận tải của tỉnh và huyện, của các đơn vị vận tải và của các cơ quan có xe chủ lực đều tham gia kế hoạch. Khoán mức cho các đơn vị, các huyện, các ngành coi như nghĩa vụ đối với tiền tuyến lớn.

- Giao cho Ban đảm bảo giao thông và điều hoà vận tải tỉnh do đồng chí Phan Hưng (Phó chủ tịch Uỷ ban hành chính tỉnh) trực tiếp chỉ đạo và 2 ngành Giao thông vận tải, Lương thực kết hợp chặt chẽ cùng chịu trách nhiệm đảm bảo hoàn thành thắng lợi kế hoạch.

Quán triệt tinh thần chỉ đạo đó, ngay từ cuối tháng 5-1972 Ban đảm bảo giao thông và điều hoà vận tải tỉnh đã họp để truyền đạt nhiệm vụ chi viện tiền tuyến và giao mức cho các huyện, các đơn vị vận tải. Ngày 2-6-1972 Ban họp với các cơ quan có xe chủ lực đặt kế hoạch cụ thể để huy động một số phương tiện cơ giới cần thiết cùng với lực lượng vận tải của Xí nghiệp ô tô tham gia vận chuyển gạo bằng đường bộ vào Vinh và Thanh Hoá.

Nhiều huyện uỷ đã tập trung chỉ đạo sát sao đối với công tác đảm bảo giao thông và vận tải tiền phương, các đồng chí Chủ tịch Uỷ ban hành chính huyện đã đích thân xuống họp với xã viên các hợp tác xã vận tải phát động tư tưởng và giải quyết các yêu cầu cụ thể về quỹ cho lương thực, thực phẩm, .v.v… cho các đoàn thuyền lên đường kịp thời gian; các đồng chí Trưởng phòng Giao thông vận tải của huyện trực tiếp phụ trách theo dõi, đôn đốc và tổ chức thực hiện kế hoạch này.

Xí nghiệp Vận tải ô tô, các đồng chí Giám đốc, Bí thư Đảng uỷ, Thư ký công đoàn, Bí thư đoàn thanh niên và các phòng nghiệp vụ đã đến tận Nghệ An, Thanh Hoá để nghiên cứu biện pháp tổ chức thực hiện các kế hoạch vận chuyển được cấp trên giao.

104

Do quyết tâm và có biện pháp chỉ đạo sát sao nên trong tháng 8 cả đường sông và đường bộ đều vượt mức kế hoạch. Khối lượng trong tháng 8 đạt 130,6%. Hơn nữa ta còn giành phương tiện tranh thủ vận chuyển xuất muối được 7.000 tấn và vận chuyển muối đi các tỉnh được 6.000 tấn, cùng với lực lượng vận chuyển của Trung ương và của tỉnh hoàn thành kế hoạch 10.000 tấn muối.

Sơ kết đợt đầu của chiến dịch vận tải “19/8” tỉnh ta đã căn bản thực hiện thắng lợi chỉ tiêu kế hoạch mà Trung ương giao cho đạt 9.502 T/KH 10.000 T = 95,02%.

Bước sang đợt 2 của chiến dịch (từ tháng 2-1972 đến tháng 1-1973) trong 4 tháng Trung ương giao cho tỉnh ta tiếp tục vận chuyển 12.700 tấn gạo bằng cả đường sông và đường bộ vào Thanh Hoá và Nghệ An.

Tháng 9 là thời gian địch tập trung đánh phá ác liệt nhất vào các tuyến giao thông thuỷ bộ như: đánh liền một tuần lễ vào khu vực Phủ Lý và một số trọng điểm nằm trên đường 1A, đường 10 và đường 21, chúng lại thả bổ sung thuỷ lôi xuống một số sông ngòi trong tỉnh. Cùng lúc đó nhà máy xay cũng bị địch đánh phải chuyển thóc phát xay trong nhân dân. Vì vậy 20 ngày đầu tháng 9 mới đạt gần 30% kế hoạch, vì phương tiện phải giành một phần thích đáng cho yêu cầu vận chuyển than, phân bón, đá phục vụ cho thuỷ lợi, sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân.

Được tin chiến thắng vang dội của quân và dân cả nước cổ vũ mạnh mẽ, cùng với khí thế phấn đấu và những kinh nghiệm thực tế tích luỹ được trong các chuyến đi trước mà nhiều đơn vị đã đảm nhận khối lượng vận chuyển lớn hơn các tháng đầu và chỉ trong 10 ngày cuối tháng 9 đã đạt được 14.587 T/KH 12.700 T bằng 117,2% so với chỉ tiêu Trung ương giao.

Tháng 10-1972 thực hiện vận chuyển gạo đi Nghệ An càng vào sâu tuyến trong thì địch đánh phá càng ác liệt, đường sông dài gấp 2 lần đi Thanh Hoá và phải qua 9 con kênh dài 235 cây số, chỉ có thể dùng loại thuyền từ 7 tấn trở xuống của lực lượng vận tải bán chuyên mới vượt qua được. Việc huy động những phương tiện nhỏ trong các hợp tác xã nông nghiệp và vận động một số đông nông dân xã viên quen vận chuyển trong đồng ra làm nghĩa vụ tiền phương bước đầu có nhiều khó khăn, thời gian chuẩn bị dụng cụ an toàn cho thuyền và hàng hoá lại rất gấp.

Nhưng do nhận thức rõ nhiệm vụ vận chuyển hàng vào kịp Khu 4 có tầm quan trọng đặc biệt đối với chiến trường, nên nhiều cấp uỷ đảng cùng chính quyền huyện và hợp tác xã đã tích cực huy động lực lượng bán chuyên, bổ sung cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên vào đội ngũ vận tải, biên chế thành từng tổ, đội chặt chẽ, đồng thời đã mở hội nghị động

105

viên và làm lễ xuất phát rất trọng thể để cổ vũ được tinh thần hăng hái lên đường làm nhiệm vụ của đông đảo quần chúng xã viên. Kết quả tháng 10 tỉnh ta đã vận chuyển đi Thanh Hoá và Nghệ An được 5.013 T/KH 4.000 tấn bằng 125,3% và là tháng đạt số lượng tuyệt đối cao nhất trong qua trình tham gia kế hoạch vận tải “19/8”.

Tháng 11 trước thắng lợi to lớn của quân và dân hai miền Nam - Bắc, đế quốc Mỹ đã phải ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra. Nhưng từ Thanh Hoá trở vào thì địch lại tập trung đánh phá dữ dội, nhất là ở vùng “cán xoong” chúng huy động đủ loại phi pháo kể cả máy bay chiến lược B52 ném bom rải thảm suốt ngày đêm, do đó cả vận tải đường sông và đường bộ vào Nghệ An lúc này đầy khó khăn ác liệt. Với tinh thần “tất cả vì miền Nam, quyết tâm vận chuyển hàng vượt mức”, hầu hết các đoàn thuyền, đoàn xe ta đã bất chấp bom đạn huỷ diệt của quân thù, mưu trí dũng cảm trườn qua thuỷ lôi, lướt dưới làn pháo sáng, tìm đường đưa những bao hàng nặng tình hậu phương chuyển ra tiền tuyến. Tính chung trong tháng đã vận tải được 3.586T/KH 3.000 T đạt 119,5%.

- Sang tháng 12-1972, Trung ương chủ trương tập trung đẩy mạnh khâu tiếp chuyển hàng từ Khu 4 trở vào là chủ yếu, nên lực lượng vận tải phục vụ chi viện của tỉnh ta được tạm rút về địa phương tiếp tục tham gia thu hoạch vụ mùa và phục vụ sản xuất vụ chiêm xuân. Phát huy khí thế chiến thắng hầu hết các đoàn thuyền hoàn thành nhiệm vụ trở về liền bắt tay ngay cùng lực lượng vận tải trong tỉnh, tranh thủ vận chuyển được 40.000 T hàng các loại phục vụ cho sản xuất công nông nghiệp, phát triển kinh tế và ổn định đời sống nhân dân.

- Đến tháng 1-1973 tỉnh lại được nhận kế hoạch vận chuyển 3.000 tấn gạo đi Thanh Hoá, dựa trên nề nếp tổ chức sẵn có và trong điều kiện chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, các huyện cũng như các đơn vị vận tải đã nhanh chóng huy động lực lượng chuyên nghiệp và bán chuyên đưa phương tiện lên đường vận chuyển, đạt 102,3% kế hoạch.

Như vậy, trong 7 tháng liên tục phấn đấu luôn luôn có khoảng 1.000 thuỷ thủ, lái xe với khoảng 6.000 tấn phương tiện của tỉnh tổ chức vận chuyển được 25.755 T/KH 22.700 T đạt 113,5%, trong đó:

Kế hoạch Thực hiện Tỷ lệ+ Các đơn vị của Ty GTVT: 11.700 13.730 117,2%+ Các huyện, thành, thị xã: 9.700 10.909 112,4%

106

+ Các cơ quan, XN của tỉnh: 1.300 1.116 85,8%Căn cứ vào yêu cầu khẩn trương và ngày càng cao của tiền tuyến,

Trung ương tiếp tục giao cho tỉnh Nam Hà vận chuyển 12.000 tấn hàng trong 4 tháng. Trong 4 tháng tiếp theo tỉnh đã đạt mức phấn đấu vận chuyển được 14.000 tấn (1) đã xuất hiện nhiều đơn vị vận tải xuất sắc như tổ thuyền 5 của hợp tác xã Thanh Phú, Hợp tác xã Quang Trung, tổ 1 của đội xe tải Xí nghiệp vận tải ô tô … (Nam Định).

Trải qua hơn 200 ngày đêm tham gia chiến dịch, những chiến sĩ vận tải kiên cường đã mưu trí, dũng cảm “đánh địch mà đi tìm đường mà tiến” lợi dụng những sơ hở của địch, sáng tạo nhiều cách phòng tránh, bất kể mưa bom, bão đạn, hàng ngàn tấn phương tiện vận tải thuỷ bộ của ta vẫn đưa những bao hàng tới đích. Trong số các địa phương tham gia phục vụ chi viện tiền tuyến vượt kế hoạch là các huyện Nghĩa Hưng đạt tỷ lệ cao nhất 139,8%, Ý Yên đạt 123,8%, thành phố Nam Định đạt 101,8%, Hải Hậu đạt 101,2%.

Khối hợp tác xã vận tải thuộc tỉnh quản lý, cả 5 hợp tác xã đều tham gia vận chuyển. Tuy các đơn vị này đều bị địch đánh phá nhiều trận, 8 xã viên hy sinh, 29 người bị thương và 22 thuyền = 620 tấn phương tiện bị hư hỏng, trong đó có 282 tấn bị phá huỷ hẳn, thời gian đầu tuy có người dao động, nhưng từng hợp tác xã đã nhanh chóng ổn định được tốt và tập trung mọi cố gắng phục vụ chi viện nhất là trong đợt 2 của chiến dịch cả 5 hợp tác xã đều thực hiện vượt mức kế hoạch của tỉnh giao. Tính chung trong 7 tháng cộng lại thì hợp tác xã Tháng 8 đạt 125% tỷ lệ cao nhất so với các hợp tác xã, Thanh Phú đạt 122%, Quang Trung đạt 114,5%, Xuân Hải đạt 113,2%, Thống Nhất đạt 105,6%.

Tiêu biểu là tổ thuyền 5 (HTX Thanh Phú) tổ lao động XHCN 5 năm liền, đã từng hoàn thành sản xuất nhiều kế hoạch vận tải vào Khu 4 trong chiến tranh phá hoại trước đây, suốt chiến dịch vận tải kỳ này vẫn phát huy được truyền thống khắc phục khó khăn, không sợ hy sinh gian khổ, bị địch đánh gẫy cột buồm ở Hàm Rồng đã tìm mọi cách cứu thuyền thoát tai nạn đến nơi trả hàng chu đáo nhanh chóng trở về sửa chữa phương tiện rồi lại tiếp tục đi vận chuyển chuyến khác. Tổ thuyền Trần Văn Quát (HTX Quang Trung) mưu trí dũng cảm đưa phương tiện vượt qua thuỷ lôi chuyển hàng tới đích đầy đủ, an toàn, bất chấp nguy hiểm, tận tình cứu người, cứu phương tiện và hàng hoá của nhà nước bị địch đánh phá, chấp hành tốt các chế độ chính sách và ăn chia phân minh.

Xí nghiệp vận tải Ca nô có phương tiện lớn không đi vào các kênh đào trên luồng đường sông vào Thanh Hoá được, trong tháng đầu chiến 1 1- Báo cáo tổng kết công tác giao thông vận tải năm 1972 của Ty Giao thông vận tải Nam Hà, trang (3-6).

107

dịch tham gia vận chuyển gạo đi Ninh Bình cũng đạt 104,6% khối lượng tỉnh giao.

Về đường bộ Xí nghiệp Vận tải ô tô hầu hết là xe dầu, xe cũ, chạy vào mùa mưa và tình hình cầu đường trong Khu 4 có nhiều khó khăn nhiều xe phải nằm lại chờ đợi kéo dài 6 đến 7 ngày ở Hàm rồng, Phố Kiểu, Cổ Tế… lại thiếu phụ tùng, săm lốp thay thế và sửa chữa cho hàng loạt ô tô đã đến định ngạch vào đại tu. Song, xí nghiệp đã nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, phát động cán bộ công nhân tích cực tự tu, tự quản, tận dụng lốp xe cũ quyết tâm chuyển hàng lên phía trước, kết quả đã thực hiện được 4.346 tấn/KH 3.600 tấn đạt 120%.

Điển hình nhất là tổ 1 (Đội xe tải 1) đã liên tục phấn đấu tăng từ 3 chuyến lên 5 chuyến/tháng, dũng cảm cứu xe cứu đồng đội bị cháy, hộ trợ tổ bạn cùng cứu chữa hàng hoá của nhà nước bị địch đánh phá. Chiến sĩ lái xe Nguyễn Hữu Minh rút ngắn thời gian từ 13 ngày/chuyến xuống 6 ngày/chuyến, luôn đầu tàu gương mẫu tình nguyện nhận hàng của xe ban bị hỏng giữa đường chuyển tiếp tới đích, cứu 2 xe thoát tai nạn và sửa chữa cho nhiều xe hỏng hóc dọc đường. Chiến sĩ lái xe Nguyễn Văn Tùng tự nhận xe cũ đi vận chuyển cũng đã phấn đấu tăng 2 chuyến/tháng, vượt thời gian mỗi chuyến đi và về được 7 ngày, tiết kiệm nhiều xăng dầu.

Để đảm bảo kỳ được kế hoạch vận tải bằng đường bộ, tỉnh đã giao cho 8 cơ quan trong 3 tháng 6,7,8/ 1972 vận chuyển 1.500 tấn. Theo dự tính ban đầu thì cơ quan đã huy động tới 38 đầu xe tham gia kế hoạch.

Đi đôi với công tác vận tải chi viện cho tiền tuyến thì ngành Vận tải Nam Hà đã ra sức phấn đấu vượt kế hoạch vận chuyển phục vụ địa phương, lực lượng vận tải còn lại ở địa phương đa số đã cũ nát, khả năng sửa chữa chưa phục hồi kịp thời. Hơn nữa yêu cầu vận chuyển các mặt hàng muối, phân bón, đá kè chống lũ đảm bảo giao thông thời chiến đòi hỏi ngày càng lớn, các huyện đã vận động lực lượng vận tải trong dân, bán chuyên trong nông nghiệp tham gia vận chuyển hàng hoá tiêu dùng, hỗ trợ cho ngành Giao thông vận tải thực hiện thắng lợi nhiệm vụ vận tải.

Các đoàn vận tải thuỷ bộ đã thực hiện sự chỉ đạo của tỉnh vượt qua bom rơi đạn nổ, cố gắng tranh thủ đẩy mạnh vận chuyển hàng hoá khi được khai thông luồng tuyến, nên đã căn bản đảm bảo chuyên trở kịp thời nhiều mặt hàng vận chuyển ngoài tỉnh năm 1972 đạt 228.000 tấn đạt tỷ lệ 100,6%, phân bón là 73,7 nghìn tấn đạt tỷ lệ 92,5%, đá chống lụt 3.890 tấn đạt 105,1%, 25.000 tấn vật tư thiết bị máy móc (2).

Các hợp tác xã vận tải đều đạt 107% đến 116% về tấn và từ 103% đến 118% về tấn km so với kế hoạch được giao.2 2- Số liệu thống kê (1965-1975) Chi cục thống kê Hà Nam Ninh trang 188.

108

Về vận tải hành khách trong thời chiến tuy có giảm sút nhưng việc phục vụ đi lại của nhân dân vẫn duy trì trên các tuyến đường bộ được thuận tiện, an toàn.

“Năm 1972 vận chuyển hành khách là 1.343 người và luân chuyển 39.479 người/km (1) về công tác bốc xếp trên các bến cảng, bến sông thực hiện 96,5% tổng số tấn hàng và 100% tấn hàng xếp dỡ như than, gạo, đường, phân bón.v.v.

Về công tác giao thông: Thực hiện phương châm chống phong toả là chính, ngành Giao thông vận tải cùng quân và dân trong tỉnh thực hiện tốt phương án đảm bảo giao thông trong thời chiến. Vận dụng phương châm: dân làm là chính, kỹ thuật phổ cập là chính, nhiều xã ven đường, nơi gần bến bãi, cầu phà đều xây dựng được lực lượng dân quân công binh làm nhiệm vụ nguỵ trang, nghi trang canh gác, báo động, tham gia rà phá và san lấp hố bom tích cực tham gia khôi phục cầu đường, ứng cứu phương tiện bảo quản hàng hoá.

Nhiều xã đã tổ chức nhân dân tham gia củng cố lại các đường vòng, các cầu (đường 21A và một số đoạn đường trên tuyến 1A) cầu treo sông Đào vừa bị đánh đứt thì có ngay phà thay thế kịp thời khai thông luồng lạch phục vụ vận tải thông suốt.

Đối với đường sông: Ngay từ tháng 5/1972, khi địch mới thả bom từ trường cửa sông Hồng, Ninh Cơ và sông Đáy, Tỉnh đã chỉ đạo Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh và Ty Giao thông vận tải đã thành lập 21 trạm canh gác và đếm bom, đồng thời xác định quyết tâm phải phá bom thông luồng sông để vận tải hàng hoá. Thực hiện quyết tâm này, Tỉnh uỷ cũng chỉ đạo phải phát động nhân dân tiến hành rà phá bom từ trường với phương châm:

“Nhân dân là chính, tận dụng phương tiện thô sơ và kiên cường rà phá bom, phải phát động lực lượng vận tải tư tưởng vượt qua bom đạn mà đi, mở đường mà tiến”. Thấu suốt quan điểm chỉ đạo đó, được sự hỗ trợ của Quân khu, lực lượng rà phá của Tỉnh đội, vận tải quân sự và nhân dân Nam Định đã thực hiện rà phá bom từ trường của địch. Chỉ trong một thời gian ngắn từ 15/7 đến 31/7 với tinh thần quả cảm, thông minh, sáng tạo ta đã cơ bản phá hết bom, thông luồng vận tải (trừ những khu vực chưa cần thiết phá ngay).

Là những người trực tiếp bảo vệ mạch máu giao thông của Tổ quốc, mỗi chiến sĩ trên mặt trận giao thông vận tải, thấu hiểu sâu sắc nhiệm vụ xây dựng giao thông vận tải là nhiệm vụ số một của toàn Đảng, toàn dân lúc bấy giờ với lời thề cao cả “sống bám cầu, bám đường, chết kiên cường bất khuất” hàng trăm cán bộ, công nhân và thanh niên xung phong 1 1- Số liệu thống kê (1965-1975) Chi cục thống kê Hà Nam Ninh, trang 188.

109

đã bất chấp bom rơi đạn nổ gan dạ, mưu trí, sáng tạo, tích cực cứu chữa cầu đường sau mỗi lần địch đánh phá lại nhanh chóng thông tuyến, tiêu biểu là tập thể cán bộ công nhân viên bến phà Đò Quan liên tục bám trụ 37 trận địch đánh phá vẫn bảo toàn người và phương tiện vượt sông. Tập thể cán bộ công nhân hạt đường 1, quốc lộ 10, 21 B-C đã tích cực giữ mặt đường tham gia ứng cứu giao thông và giải toả phương tiện nhanh chóng.

Xí nghiệp Sà lan 1/5 là trọng điểm mà địch đánh phá nhiều trận ác liệt vào cơ sở sản xuất nhưng đều được bảo vệ an toàn về người và thiết bị máy móc, hầu hết các cán bộ và công nhân viên đã bình tĩnh bám trụ, chịu đựng gian khổ tranh thủ sản xuất và sửa chữa phương tiện ổn định cơ sở vật chất ở nơi sơ tán, đã căn bản thực hiện tốt một số chỉ tiêu kế hoạch giá trị tổng sản lượng đạt 91,3% và sản phẩm sửa chữa vượt 4% so với kế hoạch cả năm.

Đội cầu Nam Hà ở vị trí công tác nóng bỏng nhất đã vật lộn với địch giữ từng thước cầu. Từ đơn vị xây dựng cơ bản chuyển sang đảm bảo giao thông, anh chị em đã nhanh chóng thích ứng với hoàn cảnh, dũng cảm san lấp mặt đường, sửa cầu, đảm bảo thông xe sau mỗi trận địch đánh phá đồng thời đảm bảo cầu dự phòng cho hầu hết các cầu trên tuyến chính.

Công ty công trình đã tích cực phấn đấu, nâng cao chất lượng quản lý thi công xây dựng cơ bản mặt đường tương đối nhanh, gọn, thiết thực phục vụ cho giao thông vận tải và sự đi lại của nhân dân.

Cùng với khí thế của phong trào đảm bảo giao thông phục vụ tiền tuyến thì phong trào giao thông vận tải nông thôn vẫn tiếp tục phát triển, phát huy truyền thống của một tỉnh đã 5 năm giữ cờ luân lưu của Hồ Chủ Tịch. Các địa phương đã huy động 1.463.600 ngày công đào đắp được 1.833.950 m3 đất, đá để kiến thiết và mở rộng 4841 km đường và 427 chiếc cầu cống các loại cùng với 3.273 tấn phương tiện (2).

Nhà máy 2/9 mới chuyển một bộ phận về địa điểm chính, chưa kịp ổn định thì phải quay trở lại nơi sơ tán cũ, khẩn trương triển khai sản xuất, nhận các phương tiện thanh lý cũ nát để phục hồi, sửa chữa ô tô đạt chất lượng tốt.

Tập thể hơn 40 cán bộ, công nhân phân xưởng vỏ thép Xí nghiệp Sà Lan ca nô được phân công ở lại Thành phố đã vừa chiến đấu vừa sản xuất tốt. Đồng chí Phạm Ngọc Oanh, đồng chí Lưu Thị Phách bám sát cơ sở sản xuất, thường xuyên có mặt ở nơi địch đánh phá, đồng chí Đỗ Văn Thịnh được vinh dự nhận phần thưởng Huy hiệu của Hồ Chủ Tịch. Đồng chí Nguyễn Văn Duyên (cung Đồng Phù), đồng chí Trịnh Văn Trữ …là những chiến sĩ tiêu biểu trong đội ngũ đảm bảo giao thông của ngành.2 2- Báo cáo tổng kết công tác giao thông vận tải (1972) của Ty Giao thông vận tải Nam Hà, trang 7.

110

Hợp tác xã Quyết Thắng cũng bị địch trực tiếp đánh phá đã nhanh chóng phục hồi sản xuất ở nơi sơ tán. Với tinh thần dám, nghĩ, dám làm, gấp rút thi công các loại phao và thuyền xi măng lưới thép trọng tải lớn, khắc phục nhiều khó khăn, đảm nhận xẻ và vận chuyển hơn 1000m3 gỗ ở Thanh Hoá về cho địa phương trong tình hình địch đang đánh phá ác liệt. Năm nào Hợp tác xã cũng hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước.

Còn biết bao tấm gương kiên cường dũng cảm của ngành trong những năm chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ như Vũ Hồng Phi, Vũ Thị Ga (bến phà Đò Quan) luôn xung phong ở vị trí điều vận cho xe ta qua lại cầu phà nhanh chóng an toàn. Nguyễn Thị Bé luôn xung phong đến những nơi nguy hiểm, bám bến bãi bốc xếp hàng hoá, trận đánh nào chị cũng có mặt cùng đồng đội khắc phục hậu quả, cứu người, cứu hàng trong lúc máy bay quần đảo trên đầu…

Đầu năm 1973 đế quốc Mỹ phải chấp nhận ký Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.

Như vậy năm 1973 đã đánh dấu một thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh hoạt động xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc giữ vững hoà bình lâu dài và hoàn thành độc lập dân chủ ở miền Nam Việt Nam tiến tới hoà bình dân chủ thống nhất Tổ quốc.

Về nhiệm vụ kinh tế trước mắt của miền Bắc, đặc biệt đối với ngành Giao thông vận tải Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nêu rõ trong báo cáo chính trị Quốc hội khoá IV kỳ họp thứ III như sau: “…Giao thông vận tải luôn luôn có vị trí hàng đầu vì vậy phải gấp rút khôi phục hoạt động bình thường đồng thời chuẩn bị điều kiện để thực hiện sớm kế hoạch phát triển giao thông vận tải trên cơ sở yêu cầu phát triển sau này của các ngành và các vùng của nền kinh tế quốc dân”.

Về phương hướng phát triển của giao thông vận tải trong thời gian tới, hội nghị tổng kết của toàn ngành Giao thông vận tải xác định: hăng hái phục vụ cho việc khôi phục và phát triển kinh tế với tốc độ nhanh, quy mô lớn, yêu cầu dồn dập khẩn trương.

“Đặc điểm và tình hình yêu cầu giao thông vận tải hiện nay và sắp tới của nền kinh tế quốc dân tăng lên rất lớn hàng nhập đột xuất và tăng gấp 2-3 lần, hàng phục vụ cho việc xây dựng vùng giải phóng miền Nam, chi viện cho Lào, hàng phục vụ cho nhu cầu đời sống nhân dân, yêu cầu đi lại của nhân dân to lớn và khẩn trương”.

Để đáp ứng được yêu cầu vận tải càng lớn của nền kinh tế quốc dân, phương hướng phát triển khôi phục giao thông vận tải trong thời gian tới là: “trước mắt tập trung khôi phục nhanh chóng giao thông vận tải trở

111

lại tình hình bình thường, nhưng chủ yếu chuyển sang xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để phát triển giao thông vận tải theo quy mô lớn, tốc độ nhanh, cơ giới hoá và từng bước tiến lên chính quy và hiện đại hoá, nhằm đưa giao thông vận tải tiến lên và đi trước một bước” (1).

Tháng 3-1973 Ban Chấp hành Tỉnh uỷ Nam Hà đã họp lần thứ 6 xác định phương hướng nhiệm vụ biện pháp phát triển nông nghiệp 3 năm 1973-1975.

Về giao thông vận tải, hội nghị Tỉnh uỷ đã xác định là một trong 5 mũi tiến công, thuỷ lợi, phân bón cải tạo đất, công cụ và cơ giới, giao thông vận tải và cung cấp vật tư. Giao thông vận tải cần tập trung xây dựng màng lưới vận tải hợp lý gắn liền với hệ thống xây dựng kho tàng sửa chữa, phát triển nâng cao năng lực vận tải nhằm đáp ứng kịp thời và thuận tiện cho nông nghiệp.

Phương hướng nhiệm vụ giao thông vận tải của tỉnh trong 1973 và những năm tới là:

“Nhanh chóng khôi phục giao thông vận tải trở lại bình thường, tập trung sức đẩy mạnh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để phát triển giao thông vận tải, tổ chức mạng lưới vận tải hợp lý hết sức tăng nhanh khả năng vận tải của tỉnh và của huyện, cơ giới và thô sơ, nhằm vượt lên đảm bảo đầy đủ và kịp thời nhất yêu cầu vận tải chính cho xây dựng và phát triển kinh tế địa phương chủ yếu là phục vụ cho sản xuất nông nghiệp cố gắng đáp ứng nhu cầu đời sống và sự đi lại của nhân dân, ra sức phát triển giao thông vận tải nông thôn, chuyển hướng mạnh mẽ về tổ chức quản lý, tăng cường công tác khoa học kỹ thuật phấn đấu đạt chỉ tiêu về chất lượng giá thành chuẩn bị tốt mọi mặt cho việc thực hiện kế hoạch những năm tiếp theo, phát triển giao thông vận tải theo quy mô lớn tốc độ nhanh tiến lên đi trước một bước” (1).

Thấm nhuần các nghị quyết của Trung ương cùng với phương hướng nhiệm vụ phát triển giao thông vận tải của tỉnh, ngành Giao thông vận tải Nam Hà trong những năm (1973-1975) có bước phát triển đáng kể.

Về công tác xây dựng cơ bản:Trong 3 năm (1973-1975) hoạt động xây dựng cơ bản của ngành

Giao thông vận tải Nam Hà đã có nhiều cố gắng vươn lên đạt khối lượng lớn và đã chú ý đến quản lý chất lượng công trình. Năm 1973, tổng số vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản là 5.915.000đ đã thực hiện 5.630.000 đạt 101,4% so với kế hoạch (2).

1 1- Báo cáo tổng kết của Bộ Giao thông vận tải năm 1972 trang 2.1- Báo cáo tại hội nghị tổng kết công tác Giao thông vận tải năm 1972 (ngày 31/3 và 1/4/1973). 2 - Báo cáo công tác Giao thông vận tải 1973 của Ty Giao thông vận tải Nam Hà trang 9.

112

Khối lượng xây dựng cơ bản năm 1973 đạt 101,4%so với năm 1972 đã rải đường tránh thị xã Phủ Lý, rải đá nhựa đường 21B, rải mặt đường trục huyện tổng cộng là 23,7 km.

Đắp đất đường 54 với khối lượng đất là 16.000 m3 đã hoàn thành cầu phao vở thép bằng 320 md. Xây dựng 3 cầu mới với tổng chiều dài 59 m (Cao Lộng, Cầu Gia, Cầu Mắm …) ngoài ra còn đại tu đường 21A, đường 1A… với tổng chiều dài 127 km, đại tu 14 cầu bằng 1.038 m, đại tu 5 phà, 5 ca nô… Năm 1974, khôi phục cầu phao Lạc Quần, cầu Đò Quan của Nam Định.

Đến năm 1975 tổng số vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản là 7.967.000đ trong đó đầu tư rải đường đá dăm tổng chiều dài là 40,7 km, làm mới 19 cầu các loại với chiều dài 493 m.

Từ năm 1974 đến năm 1975 ngành Giao thông vận tải đã phát huy trí tuệ, huy động tổng lực lực lượng lao động quên mình để hoàn thành cầu Treo lần thứ 2 đưa vào phục vụ thông tuyến giữa thành phố Nam Định với 6 huyện miền Nam của tỉnh, với chiều dài 200 m mặt bê tông cho đoàn xe H10 và T30 qua cầu là cầu treo hiện đại nhất Đông Nam Á lúc bấy giờ (3).

Cùng với xây dựng mới thì năm 1975, ngành Giao thông vận tải Nam Hà đã thực hiện công tác duy tu các tuyến đường 10, 55, 54, 53, 21 phục vụ cho công tác vận tải đảm bảo giao thông thông suốt, liên tục.

Về công tác vận tải và bốc xếp:Từ năm 1973 đến năm 1975 ngành Giao thông vận tải dần dần tổ

chức màng lưới vận tải bến bãi bốc dỡ đi vào ổn định, đã biết dựa vào điều kiện thuận lợi của một tỉnh là tỉnh có nhiều sông, ngòi đã hình thành được 19 bến trên 4 con sông, đã đưa vào phục vụ thường xuyên, có kho dự trữ vật tư tạo được nhiều thuận lợi cho các địa phương vận chuyển và bốc dỡ hàng hoá.

Vì thế cả hai kế hoạch vận tải là phục vụ tiền tuyến và phục vụ địa phương trong tỉnh đều hoàn thành. Vận tải bình quân hàng năm vượt từ 5 đến 8% cao nhất là 1975. Kết quả này đã góp phần vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước là động lực thúc đẩy cuộc cách mạng kỹ thuật trong nông nghiệp, công nghiệp giữ vững ổn định kinh tế trong chiến tranh và khôi phục kinh tế sau chiến tranh.

3 - Báo cáo công tác Giao thông vận tải 1975 của Ty Giao thông vận tải Nam Hà trang 9.

113

Tình hình vận chuyển hàng hoá và hành kháchtrong 3 năm 1973 – 1975

Năm Vận chuyển hàng hoá Vận chuyển hành kháchTấn Tấn/km Người Người/km

1973 2.123.000 109.534.000 1.708.000 55.510.0001974 2.650.000 133.808.000 2.148.000 77.552.0001975 2.670.000 143.526.000 2.148.000 776.686.000Nguồn số liệu Chi cục thống kê Hà Nam Ninh (1965-1975)tr 183-186.

Một số các mặt hàng chủ yếu được vận chuyển là:

Loại hàng hoá (1000 tấn)

1973 1974 1975Tấn Tấn/km Tấn Tấn /km Tấn Tấn /km

Than 224,67 29,587 227,8 33,736 255,7 40,910Xăng, dầu, mỡ 2,9 710 1,0 278 10,1 681Máy móc 12,0 858 0,2 602 3,3 287Phân 93,3 12,784 159,6 13,749 76,9 9,779Xi măng 73,7 2,288 20,6 1,826 23,8 1,397Lương thực 340,7 11,829 370,7 16,757 152,6 6,685Muối 95,0 4,599 126,0 5.024 32,9 1,588

Nguồn số liệu Chi cục thống kê Hà Nam Ninh (1965-1975) trang 183-186.

Về công tác sản xuất công nghiệp giao thông vận tải :Hai Xí nghiệp đóng tàu 1/5 và Xí nghiệp sửa chữa ô tô 2/9 những

năm qua đã khắc phục khó khăn do chiến tranh, bão lũ phá hoại gần như huỷ diệt, nhưng 3 năm qua (1973-1975) cơ sở đã khôi phục nhanh chóng đã đi vào ổn định sản xuất sửa chữa đóng mới nâng giá trị sản lượng năm 1973 đạt 186,7% so với năm 1971, năm 1974, năm 1975 giá trị sản lượng đạt từ 160% đến 180% và đã chủ động đóng mới sà lan, tàu đảm bảo chất lượng yêu cầu.

Cụ thể năm 1973 đã đóng mới 2 ca nô lắp máy 135 CV, 6 thuyền thép 50 tấn, 2 sà lan thép 50 tấn, 1 sà lan thép 150 tấn, 2 sà lan thép 250 tấn, 10 phao thép sông Hồng.

114

Và sửa chữa 30 sà lan thép các loại, 7 vỏ ca nô thép đại tu 85 xe ô tô.v.v (1).

Năm 1975, đã đóng 3 bộ sà lan đẩy bằng 2.160 tấn, 3 tàu kéo vỏ thép 135 CV, 1 đầu vừa kéo vừa đẩy, 3 tàu vỏ gỗ 90 CV, 1.225 tấn thuyền vận tải ximent lưới thép, 1 tàu khách ximent lưới thép (2) và sửa chữa 9 máy ca nô các loại, 35 sà lan thép đại tu 120 ô tô, sửa chữa 3.280 tấn thuyền (3).

Như vậy trong 3 năm (1973-1975) tình hình sản xuất công nghiệp giao thông vận tải đã có nhiều tiến bộ. Cả về kỹ thuật và chất lượng, năm sau cao hơn năm trước, chế tạo được những sản phẩm mới, kỹ thuật cao như đóng tàu vừa kéo vừa đẩy, chế tạo được nhiều loại phụ tùng thay thế ô tô và tàu đạt kỹ thuật khá .v.v.

Công tác giao thông vận tải nông thôn:Theo tinh thần hội nghị lần thứ VI của Ban Chấp hành tỉnh ủy Nam

Hà: phải tập trung sức tạo cho được một bước chuyển biến quan trọng đưa nông nghiệp trong tình trạng sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Vì vậy giao thông vận tải nông thôn phải có tác dụng trực tiếp và thiết thực cho sản xuất nông nghiệp. Phải tập trung sức chiến đấu theo hướng tăng thêm phát triển giao thông vận tải, tổ chức và quản lý tốt vận tải trong nông thôn đảm bảo chuyên trở vật tư phục vụ tốt cho nông nghiệp.

Trong điều kiện chiến tranh sự nghiệp giao thông vận tải nông thôn các địa phương phải tự cáng đáng, tự thân vận động để phát triển, sự đầu từ của nhà nước và của tỉnh hầu như không có (vì tất cả cho ĐBGT chống chiến tranh phá hoại). Các địa phương đã có rất nhiều cố gắng để xây dựng và phát triển giao thông nông thôn, thực hiện phương châm 4 tại chỗ để phát triển cầu đường, đó là vật liệu tại chỗ, nhân lực tại chỗ, chỉ huy tại chỗ, kỹ thuật tại chỗ (kỹ thuật dân gian). Từ phương châm đó các dạng mặt đường làm bằng vật liệu tại chỗ ở địa phương được ra đời (mặt đường đất pha cát, mặt đường cấp phối gạch ngói vỡ, mặt đường xỉ vôi, xỉ gạch, mặt đường gia cố vôi với đất sét…).

Với phương châm 4 tại chỗ để làm cầu cống, ngành Giao thông vận tải đã làm những loại cầu rất đặc biệt:

+ Cầu tre sống: Được ra đời và phát triển rất mạnh mẽ thời kỳ 1971-1972, bắt đầu từ huyện Nghĩa Hưng theo sáng kiến của ông trùm Hải. Chiếc cầu tre sống đầu tiên được làm từ xã Nghĩa Phong, Nghĩa Hồng sau lan ra toàn huyện Nghĩa Hưng, năm 1971-1972 Nghĩa Hưng đã làm 40 cầu 1- Báo cáo tổng kết công tác giao thông vận tải năm 1972 của Ty Giao thông vận tải Nam Hà trang 6.2 - Báo cáo tổng kết công tác giao thông vận tải năm 1972 của Ty Giao thông vận tải Nam Hà trang 8.3- Báo cáo tổng kết công tác giao thông vận tải năm 1972 của Ty Giao thông vận tải Nam Hà trang 8.

115

loại này. Khi phong trào làm cầu tre sống phát triển phổ biến ở Nghĩa Hưng Bộ Giao thông vận tải cử Viện kỹ thuật về theo dõi đánh giá cao hiệu quả của loại cầu tre và năm 1972 Bộ Giao thông vận tải đã mở hội nghị toàn miền Bắc họp tại trường cấp II xã Nghĩa Phong để tuyên truyền phổ biến “cầu tre sống” cho các tỉnh miền Bắc áp dụng thực hiện (1).

+ Cầu bó tre: Bó các cây tre đực thẳng và dài, làm thành dầm cầu, gác bó tre sâu vào 2 mố cầu (mố đất kè cọc tre), mặt cầu lát các đoạn tre nằm ngang trên đắp lớp bùn rơm, rải xỉ lên trên tạo thành mặt cầu, đảm bảo cho các loại xe thô sơ và ô tô có trọng tải 3 tấn qua lại êm thuận, an toàn.

Đào đắp mới và sửa chữa 1.416 km đường, trong đó làm mới 26%, đường ra đồng chiếm 61% (so với 1972 bằng 140,8%) cải thiện mặt đường 1.075 km trong đó rải mới đường ra đồng chiếm 44 % (so với năm 1972 bằng 135%). Kết hợp với công tác thuỷ lợi đã làm mới 364 cầu cống các loại trong đó số vĩnh cửu chiếm 26%, bán vĩnh cửu chiếm 36,4%. Phát triển mới 8.898 thuyền xe bằng 3.397 tấn góp phần vào giải phóng đôi vai của người nông dân (2).

Đến năm 1975, toàn tỉnh đã làm mới 538 cầu các loại, cải thiện được 870 km mặt đường, phát triển phương tiện và đóng mới 4.497 tấn, sửa chữa 2.820 tấn phương tiện các loại (3).

Có thể nói công tác giao thông vận tải trong 3 năm (1973-1975) đã tiếp tục phát triển mạnh mẽ về chiều sâu và đã trở thành phong trào rộng rãi trong quần chúng ở khắp mọi nơi. Thực hiện đã đi vào củng cố, phát huy những công trình, đã đầu tư xây dựng các năm trước đồng thời có phát triển từng bước vững chắc nhằm thiết thực phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.

Trong khi phát triển phương tiện (nguyên vật liệu tại chỗ là chính, dân đóng góp là chính, kỹ thuật phổ cập là chính) đã chú trọng xây dựng các tổ chức vận tải trong hợp tác xã nông nghiệp đến năm 1975 toàn tỉnh có 274 đội vận tải chuyên trách và 420 đội bán chuyên, các địa phương đã rút ra được kết luận , muốn có mạng lưới giao thông hợp lý và thiết thực để phục vụ sản xuất nông nghiệp thì giao thông phải gắn chặt với nhiều công tác khác, trước hết là công tác thuỷ lợi, hoàn chỉnh thuỷ nông và các địa phương đều vận dụng tốt được phương châm “ba chính”. Để phát triển giao thông vận tải ở nông thôn và cũng chính nhờ đó mà trong những năm

1- Hội nghị do ông Vũ Quang Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải chủ trì, Viện kỹ thuật, Vụ địa phương và trường Đại học Giao thông vận tải về theo dõi hội nghị - Viện kỹ thuật đã quay bộ phim cầu tre sống để tuyên truyền phổ biến (Đạo diễn Hoài Giao, Quay phim Nguyễn Mạc) huyện Nghĩa Hưng được tặng lại 2 cuộn phim. 2- Báo cáo tổng kết công tác (1973) của Ty Giao thông vận tải Nam Hà trang 8. 3- Báo cáo tổng kết công tác (1973) của Ty Giao thông vận tải Nam Hà trang 11.

116

qua các huyện đã xây dựng được một khối lượng cầu đường, phát triển phương tiện vận tải lớn hơn nhiều lần so với vốn đầu tư của Nhà nước. Tất cả đã góp phần vào nhiệm vụ đưa nông nghiệp Nam Hà trong đó có Nam Định từ nền nông nghiệp sản xuất nhỏ lên nền nông nghiệp sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Một nhiệm vụ cũng hết sức quan trọng của ngành Giao thông vận tải là tham gia phòng chống lụt bão bảo vệ sản xuất và đời sống của nhân dân. Hàng năm, trước mùa bão lũ, ngành phải điều động phương tiện vận chuyển một khối lượng lớn vật liệu để kè đê sông, biển, đặc biệt, khi có bão lũ lớn có sự cố xảy ra trên các đoạn đê xung yếu thì nhiệm vụ của ngành giao thông quan trọng bậc nhất điển hình là năm 1971, lũ lớn đổ về nhiều quãng đê bị đe doạ trong đó có quãng đê ở Nam Thắng (Nam Trực) bị sạt lở tới 100 m, trong khi nước sông Hồng dâng rất cao trên báo động cấp III. Trước tình hình hết sức nghiêm trọng đó, ngành Giao thông đã điều động mấy chục xe I pha chuyên chở dân công cùng 4.000 cây luồng tới kè đê giữ cho đê không bị vỡ đảm bảo an toàn tính mạng, tài sản của nhà nước và nhân dân.

Trong 10 năm (1965-1975) phát triển, Giao thông vận tải Nam hà trong đó có sự đóng góp của cán bộ và nhân dân Nam Định đã đạt được những thành quả vô cùng to lớn, dựa vào lực lượng vô địch là dân tộc anh hùng, ngành Giao thông vận tải đã phát huy truyền thống kiên cường dũng cảm và thông minh sáng tạo của cha ông để lại, cán bộ công nhân viên, xã viên của ngành Giao thông vận tải - dưới sự lãnh đạo của Thường trực tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh và sự hỗ trợ có hiệu quả của Bộ Giao thông vận tải, sự cộng tác chặt chẽ của tất cả các ngành, các cấp và các địa phương trong tỉnh, ngành Giao thông vận tải đã khắc phục khó khăn gian khổ, chiến đấu quyết liệt với kẻ thù bám cầu, bám đường đảm bảo giao thông thông suốt, tổ chức vận tải kịp thời phục vụ cho tiền tuyến mặt khác lại phục vụ cho sự phát triển kinh tế địa phương.

10 năm (1965- 1975) là một thời kỳ lịch sử đặc biệt, một thời kỳ lịch sử hào hùng của ngành Giao thông vận tải nói chung và ngành Giao thông vận tải Nam Hà nói riêng. Trong 10 năm, với 2 cuộc chiến tranh phá hoại huỷ diệt, tàn khốc của đế quốc Mỹ, các chiến sĩ giao thông vận tải đã biết dựa vào lực lượng vô địch là nhân dân anh hùng toàn ngành đã phát huy truyền thống đoàn kết dũng cảm kiên cường trên mọi mặt trận, giữ cho mạch máu giao thông đảm bảo thông suốt, cùng chia lửa và vận tải chi viện cho chiến trường miền Nam. Mười năm bám đường, bám cầu, bám phà, các chiến sĩ giao thông vận tải không kể ngày đêm, lăn lộn trong máu lửa của chiến tranh, mưa bom bão đạn của kẻ thù san lấp đường, sửa cầu, vận chuyển hàng hoá, phát triển kinh tế địa phương đáp ứng mọi yêu cầu của

117

cách mạng, góp phần quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của dân tộc giành thắng lợi. Với những đóng góp lớn lao đó, ngành Giao thông vận tải của tỉnh đã tô thắm trang sử vàng của ngành Giao thông vận tải, xứng đáng là đơn vị anh hùng trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Thành tích của ngành Giao thông vận tảitrong thời kỳ chống Mỹ cứu nước

------ Anh hùng lực lượng vũ trang - Lực lượng tự vệ Sở Giao thông

vận tải Nam Định thời kỳ chống Mỹ.- Thưởng vĩnh viễn cờ luân lưu của Hồ Chủ Tịch về thành tích

giao thông nông thôn năm 11962 - 1965.- 1 Huân chương chiến công.- 3 Huân chương lao động hạng Nhất.- 10 Huân chương lao động hạng Nhì.- 73 Huân chương lao động hạng Ba.

118

- 20 đơn vị được tặng Danh hiệu quyết thắng trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.

- 12 đơn vị được công nhận là lá cờ đầu toàn miền Bắc.- 99 Bằng khen của Chủ tịch nước và Chính phủ.- 871 Bằng khen của Bộ Giao thông vận tải.- 4.091 Bằng khen của UBHC tỉnh.- Có 141 tổ lao động xã hội chủ nghĩa được công nhận.- Có 15 người được công nhận là liệt sĩ và chục liệt sĩ ở các đơn

vị vận tải.- Có 649 chiến sĩ thi đua.- Có 3.088 chiến sĩ hai giỏi, hai tốt.

CHƯƠNG VNGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI Hµ Nam Ninh

Thời kỳ 1976 - 1991

I - Ngành Giao thông vận tải hoạt động trong cơ chế tập trung bao cấp (1976 - 1985):

1- Ty Giao thông vận tải Hà Nam Ninh ra đời, t×nh h×nh giao thông sau khi hợp nhất và nhiệm vụ của ngành:

Năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cña d©n tộc ta kết thúc thắng lợi, đánh dấu bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa trọng đại và mở ra giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam. Sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cả nước, Đảng lãnh đạo nhân dân ta thực hiện nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 của Trung ương đã

119

chỉ rõ nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới là: "Hoàn thành thống nhất nước nhà đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa". Thực hiện nghị quyết 24 của Trung ương Đảng, hai tỉnh Nam Hà và Ninh Bình hợp nhất thành tỉnh mới lấy tên là Hà Nam Ninh31.

Sau khi hợp nhất tỉnh, ngày 8 - 2- 1976, Uỷ ban Hành chính tỉnh đã ra Quyết định số 18/QĐTC hợp nhất Ty Giao thông vận tải hai tỉnh Nam Hà và Ninh Bình thành Ty Giao thông vận tải Hà Nam Ninh. Cơ cấu tổ chức của Ty như sau:

I- Lãnh đạo:1- Trưởng Ty: - Đồng chí Đào Bá (đến tháng 8/1985) - Đồng chí Nguyễn Đức Khiêm (9/1985-12/1990)2- Phó Ty: các đồng chí Nguyễn Văn Căn, Nguyễn Văn Hanh,

Nguyễn Đức Khiêm, Ngô Trường Thọ. Nguyễn Văn Trụ và tháng 2/1980 bổ sung thêm đồng chí Hoàng Ngọc Mai.

II- Các phòng ban chuyên môn:1- Phòng Hành chính tổng hợp2- Phòng Tổ chức cán bộ 3- Phòng Kế hoạch4- Phòng Lao động tiền lương5- Phòng Quản lý Giao thông6- Phòng Kỹ thuật 7- Phòng Kế toán - Tài chính - Thống kê8- Phòng Giao thông nông thôn 9- Phòng Vận tải10 - Ban Kiến thiết cơ bản (Ban Quản lý công trình giao thông)11- Ban Thanh traIII- Các đơn vị trực thuộc:1- Nhà máy đóng tàu 1- 52- Công ty xây dựng đường bộ 13- Công ty xây dựng đường bộ 24- Đoạn bảo dưỡng đường bộ số 15- Đoạn bảo dưỡng đường bộ số 2

31 Việc hợp nhất được tiến hành từ ngày 28 - 10 - 1975 đến ngày 3 - 2- 1976.

120

6- Công ty xây dựng cầu7- Đội khảo sát thiết kế (Xí nghiệp KHST)8- Xí nghiệp vận tải ô tô 19- Xí nghiệp vận tải ô tô 210 - Xí nghiệp vận tải ô tô 3 Thuộc Xí nghiệp Liên hiệp vận tải 11- Xí nghiệp xe con Ô tô Hà Nam Ninh12- Xí nghiệp bến xe khách13- Nhà máy đại tu ô tô 2 - 914- C«ng ty vận tải phà đường sông. Năm 1987 tách

thành:Công ty Vận tải đường sông và Xí nghiệp vận tải biển. Năm1989 hợp nhất thành Xí nghiệp Vận tải sông biển Hà Nam Ninh.

15- Công ty đại lý vận tải16- Công ty cung ứng vật tư17- Công ty xếp dỡ Ninh PhúcIV- Các hợp tác xã trực thuộc:- Ban liên xã vận tải- Hợp tác xã vận tải thuyền buồm Thanh Phú- Hợp tác xã vận tải Mùa xuân- Hợp tác xã vận tải Xuân Hải- Hợp tác xã vận tải Quang Trung- Hợp tác xã vận tải 30 - 4- Hợp tác xã vận tải Thống nhất Nam §Þnh- Hợp tác xã Tàu thuyền Quyết Thắng- Hợp tác xã vận tải Nhất Thanh- Hợp tác xã Việt Hồng - Xuân Thuỷ- Hợp tác xã Bắc Hà, Hồng Tiến, Thống Nhất (Hà Nam)Trụ sở của Ty Giao thông vận tải đóng tại Cầu Gia (Lộc An). Đến

năm 1984 chuyển về Lộc Hoà (km2 đường Điện Biên - Thành Phố Nam Định).

Ty Giao thông vận tải Hà Nam Ninh ra đời và đi vào hoạt động trong bối cảnh đứng trước những khó khăn, thử thách rất lớn, chủ yếu do hậu quả chiến tranh để lại và thiên tai gây ra. Về hệ thống giao thông vận tải, sau hai cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, Hà Nam Ninh đã kế thừa một kết cấu hạ tầng giao thông vận tải bị tàn phá chưa thể khôi phục ngay được yêu cầu mà công cuộc xây dựng tỉnh nhµ trong t×nh h×nh míi. Thêm vào đó, với nhiệm vụ phục vụ yêu cầu

121

chi viện cho cách mạng miền Nam, tỉnh và ngành giao thông buộc phải đầu tư xây dựng nhiều công trình có tính chất tạm thời, phân tán, chưa đồng bộ, không có đủ vốn và thời gian để nâng cấp. Phương tiện vận tải thủy, bộ thiếu thốn và lạc hậu. Hệ thống bến bãi xuống cấp - Công nghiệp sửa chữa vận tải nhá bÐ và chưa kịp phục hồi sau chiến tranh nên không đáp ứng được nhu cầu sửa chữa…

Xác định tầm quan trọng của giao thông vận tải đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, Đại hội Trung ương Đảng lần thứ IV(12-1976) đã nhận định: "Quy mô phát triển kinh tế và việc phân bố lại lực lượng sản xuất đòi hỏi phải mở rộng phạm vi hoạt động của giao thông vận tải và thông tin liên lạc trong phạm vi cả nước cũng như trong từng vùng kinh tế… Muốn vậy, phải kiên quyết khắc phục tình trạng năng lực giao thông vận tải và thông tin liên lạc không cân đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và không cân đối trong nội bộ ngành.

Từ nhận định của Đại hội Trung ương Đảng lần thứ IV về công tác giao thông vận tải và thông tin liên lạc trong tình hình mới, nghị quyết Hội nghị lần thứ nhất của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho ngành giao thông vận tải là: Trên địa bàn tỉnh mới, phải gấp rút tiến hành quy hoạch phân công, phân cấp việc vận tải giữa tỉnh và huyện, giữa thủy và bộ, giữa cơ giới và thô sơ, xác định các điểm kinh tế để xây dựng bến bãi bốc xếp, kho tàng, tận dụng và khai thác sửa chữa phương tiện, phát triển mạnh giao thông nông thôn. Bám chân hàng quản lý điều phối tốt phương tiện các loại đảm bảo hoàn thành các nhiệm vụ sản xuất, xây dựng và đời sống trong tỉnh.

Đẩy mạnh khâu sản xuất phương tiện thuỷ, bộ, tổ chức lực lượng bốc xếp, tăng thêm cơ giới thủy bộ để tăng khả năng tiếp nhận hàng hoá và rút ngắn thời gian chờ ở bến, cảng nội tỉnh, mở thêm một số tuyến mới đáp ứng yêu cầu vận chuyển hành khách phục vụ nhân dân đi lại thuận tiện.

Thấm nhuần tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất, ngành Giao thông vận tải đã cùng các tầng lớp nhân dân tỉnh nhà khắc phục những khó khăn gian khổ để xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển giao thông vận tải theo hướng phục vụ đắc lực cho sản xuất đời sống và đưa người đi xây dựng vùng kinh tế mới.

122

2- Khắc phục tình trạng lạc hậu, phát triển toàn diện hệ thống giao thông vận tải phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa:

2.1- Vận tải:Đứng trước yêu cầu vận tải phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ

nghĩa xã hội đòi hỏi ngày càng tăng để đáp ứng yêu cầu sản xuất, lưu thông phân phối và sự đi lại của nhân dân, ngành Giao thông vận tải đã từng bước thực hiện chủ trương của Nhà nước và Bộ Giao thông vận tải, tiến hành tổ chức lại lực lượng vận tải, trước hết là các đơn vị vận tải quốc doanh và hợp tác xã vận tải. Khối hợp tác xã vận tải đẩy mạnh phong trào cơ giới hoá thuyền sông được Nhà nước hướng dẫn giúp đỡ cung cấp vật tư, nhiên liệu, m¸y mãc, thiết bị ngày càng phát triển với tốc độ nhanh cả về đường thủy và đường bộ. Năm 1976, năm đầu tiên phục hồi sau chiến tranh và thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1976 - 1980), khối hợp tác xã vận tải có 17.000 tấn phương tiện vận tải thuû với 3.332 CV, trên 900 xe súc vật kéo, chiếm 60% tổng số phương tiện vận tải toàn tỉnh.

Khối vận tải tËp thÓ có 28 hợp tác xã vận tải đường thuỷ với 824 thuyền và sà lan, bằng 16.783 tấn trọng tải, 154 máy thuỷ với tổng số trên 3.000 CV, 21 hợp tác xã vận tải thô sơ đường bộ với 923 xe các loại, bằng 982 tấn trọng tải và 849 xe súc vật kéo, 4 hợp tác xã xếp dỡ hàng hoá, 2 hợp tác xã sửa chữa, đóng mới phương tiện vận tải, 18 máy công cụ và 6 xe ô tô tải.

Cùng với quá trình phát triển đi lên của ngành Giao thông vận tải, lực lượng vận tải đã có những thay đổi mới phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ chung. Đến năm 1985, lực lượng vận tải trong toàn ngành có: Xí nghiệp liên hiệp vận tải ô tô với 6 xí nghiệp thành viên, C«ng ty vận tải đường sông, 4 hợp tác xã vận tải cấp cao do Sở quản lý, 21 hợp tác xã vận tải đường bộ và 25 hợp tác xã vận tải đường sông trên địa bàn huyện. Lực lượng xếp dỡ trong dây chuyền vận tải có: Công ty xếp dỡ quốc doanh, 7 hợp tác xã xếp dỡ, C«ng ty đại lý vËn t¶i, công ty vận tải biển. Số phương tiện vận tải trong các đơn vị của tỉnh và huyện có: 178 sà lan, bằng 20.953 tấn trọng tải, 589 thuyền vận tải loại 50 - 100 tấn, bằng 24.639 tấn trọng tải, 469 tàu và máy thủy với tổng số 16.972 CV.

123

Các hợp tác xã vËn t¶i thuû trực thuộc Sở quản lý đã nỗ lực phấn đấu hoàn thành cơ giới hoá 100%, khu vực huyện là 80%. Lực lượng vận tải cơ giới đường bộ hiện có 184 xe ô tô vận tải công cộng, bằng 856 tấn trọng tải, 24 đầu kéo trong các hợp tác xã, bằng 77,5 tấn, 152 xe ô tô vận tải hành khách công cộng với 6.319 ghế, 5 tàu sông chở khách với 1.250 ghế, 2 ca nô và thuyền chở khách trong các hợp tác xã với 300 ghế, 28 xe lam chở khách và 772 xe súc vật kéo.

Ngoài ra, với chủ trương khuyến khích và mở rộng lực lượng vận tải của ngành Giao thông vận tải, trong nông nghiệp đã có gần 16.000 tấn thuyền loại từ 5 - 20 tấn trọng tải và phát triển mới trong thời gian này được 8.020 tấn. Đây là lực lượng phương tiện giao thông vừa phục vụ cho sản xuất nông nghiệp vừa tham gia lưu thông phân phối vận chuyển hàng hoá phục vụ xây dựng nông thôn mới.

Bên cạnh lực lượng vận tải địa phương, ngành giao thông vận tải đã kết hợp khai thác lực lượng vận tải của Trung ương trên địa bàn tỉnh như xí nghiệp vận tải 210, xí nghiệp vận tải ô tô 22, các bến cảng do Trung ương quản lý như cảng Nam Định, cảng Ninh Bình, cảng Đống Cao…

Trong công tác vận tải, ngành đã khắc phục từng bước những khó khăn về tiền vốn, vật tư, phụ tùng thay thế, nhiên liệu khan hiếm, phương tiện thiếu lại hư hỏng… đảm bảo vận tải, phục vụ sản xuất, tận dụng phương tiện vận tải bám sát chân hàng, tổ chức nhận vật tư hàng hoá được Trung ương phân phối và thực hiện phương thức đại lý vận tải một số mặt hàng có khối lượng lớn, bảo đảm tốt các mặt hàng nội tỉnh và ngoại tỉnh. Đặc biệt là đã hoàn thành nhiệm vụ giải toả cảng Hải Phòng, phục vụ chống lũ, thu đổi tiền, vận chuyển nhân dân đi xây dựng vùng kinh tế mới, phục vụ chiến tranh biên giới và sự đi lại của nhân dân trong các dịp lễ tết.

Năng suất vận tải hàng năm đều đạt và vượt từ 3 - 8% mức kế hoạch. Trong 10 năm (1976 - 1985), ngành giao thông vận tải đã vận chuyển được 26.856.000 tấn hàng hoá và 27.915.000 lượt người. Từ năm 1976-1979, tình hình thực hiện kế hoạch vận tải tương đối ổn định. Điều này được thể hiện qua bảng sau:

Bảng 1: Kết quả vận chuyển hàng hoá và hành khách (1976 - 1980)Đơn vị: 100 tấn - 100 người

124

N¨m

Chỉ số 1976 1977 1978 1979 1980

Hàng hoá 3.386 3.566 4.021 4.099 3.140- Đường bộ 1.674 1.657 1.651 1.805 1.348- Đường thuỷ 1.712 1.902 2.369 2.294 1.791Hành khách 2.660 4.361 5.172 4.330 2.868- Đường bộ 2.232 3.577 4.338 3.497 2.135- Đường thuỷ 428 784 934 832 733

Từ năm 1980 trở đi, việc viên trợ, giúp đỡ của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa dần dần hạn chế, cuối cùng không còn nữa, đẩy nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng hụt hẫng, đời sống nhân dân cực kỳ khó khăn, vật tư, thiết bị, phụ tùng, máy móc, nhiên liệu…vô cùng khan hiếm. Nhiều phương tiện sông, ô tô không có phụ tùng thay thế. Mặt khác, do thiếu nhiên liệu, phương tiện vận tải phải hoạt động cầm chừng dẫn đến tình hình vận chuyển hàng hoá, hµnh kh¸ch bắt đầu giảm sút, nhất là vận tải hàng hoá. Năm 1985, năm đạt cao nhất trong kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1981 - 1985) chỉ đạt 2.718 tấn hàng hoá, bằng 80% so với năm 1976.

Bảng 2: Kết quả vận chuyển hàng hoá và hành khách(1981 - 1985)

Đơn vị: 100 tấn - 100 người N

ămChỉ số

1981 1982 1983 1984 1985

Hàng hoá 2.383 2.276 2.318 2.560 2.718Hành khách 2.312 2.020 1.940 2.150 2.316

Trong vận tải hàng hoá, ngành Giao thông vận tải đã khai thác triệt để thế mạnh vận tải đường thuỷ. Vì vậy vận tải đường thuỷ phát

125

triển rất nhanh và chiếm tỷ trọng từ 50 - 70% tổng khối lượng. Đối với vận tải hành khách, vận tải đường bộ vẫn đóng vai trò chủ đạo.

Các mặt hàng được vận chuyển hàng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch. Một số mặt hàng chính được vận chuyển hàng năm (tính trung bình) trong giai đoạn này là:

Than mỏ 200.000 tấn/ nămPhân bón: 30.000 tấn/ nămLương thực- thực phẩm: 60.000 tấn/ nămMuối: 25.000 tấn/ nămĐá, vật liệu xây dựng: 50.000 tấn/ nămCông tác xếp dỡ cũng được chú trọng, trong 10 năm (1976 -

1985) đã thực hiện xếp dỡ được 12.356.000 tấn, trong đó công ty quốc doanh là 1.845.000 tấn, các hợp tác xã là 10.511.000 tấn. Bốc dỡ hàng hoá từ năm 1976 - 1979 tăng 27%, năm 1985 đạt 100,4% kế hoạch. Tuy nhiên, so với khối lượng hàng hoá đã vận chuyển, ngành Giao thông vận tải mới chỉ thực hiện được 20,3%, năm cao nhất cũng chỉ đạt 40,5%.

Nhằm khắc phục những nhược điểm trong công tác vận tải, nhất là về số lượng và khai thác lực lượng vận tải khá mạnh tại địa phương, đáp ứng tốt hơn nữa yêu cầu sản xuất và sự đi lại của nhân dân; ngày 19 - 9 - 1977, Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Nam Ninh đã ra Quyết định 687- QĐ thành lập c«ng ty Đại lý vận tải với nhiệm vụ chính là: "Phục vụ đắc lực nhất cho các đơn vị sản xuất của tỉnh với mục tiêu nhanh nhất, rẻ nhất, thuận lợi nhất, đưa hàng thẳng từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng, đồng thời nâng cao năng suất vận tải, sử dụng các phương thức vận tải hợp lý, giảm mọi dịch vụ không cần thiết nhằm giảm lao động xã hội đến mức thấp nhất". Uỷ ban nhân dân tỉnh giao cho Đại lý vận tải dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ngành Giao thông vận tải phải thực hiện tốt 5 nhiệm vụ sau:

1- Đảm nhận vận chuyển toàn bộ khối lượng hàng hoá và người đi phát triển kinh tế mới, kể cả phía Bắc và phía Nam.

2- Đảm nhận vận chuyển hàng hoá qua nhiều phương thức vận tải.

3- Đảm nhận việc vận chuyển hàng đường dài Bắc Nam.4- Đảm nhận việc vận chuyển hàng siêu trường, siêu trọng.

126

5- Đảm nhận việc tìm hàng hoá, kết hợp hàng 2 chiều cho các đơn vị vận tải.

Thực hiện Quyết định 687- QĐ/UBHC của Uỷ ban nhân dân tỉnh, từ năm 1977, mô hình Đại lý vận tải chính thức đi vào hoạt động, đồng chí Nguyễn Văn Hanh, Phó Trưởng Ty trực tiếp phụ trách công tác Đại lý vận tải.

Mô hình Đại lý vận tải xuất hiện đầu tiên của cả nước được thực hiện ở Hà Nam Ninh là phương thức đổi mới trong vận tải đa hàng từ Hãng, nhà máy (chân hàng) về tận nơi người sử dụng. §¹i lý vËn t¶i đi vào hoạt động đã phát huy được tác dụng tích cực. Bước đầu đi vào quản lý chuyên ngành tổ chức quy hoạch các luồng vận chuyển; chuyên môn hoá các phương tiện và luồng đường, góp phần vào công tác quy hoạch giao thông vận tải của ngành Giao thông vận tải. Tuy số lượng cán bộ công nhân còn ít với tổng số 25 người, cơ sở vật chất kỹ thuật bước đầu thiếu thốn, Đại lý vận tải dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ngành đã từng bước tháo gỡ những khó khăn, tìm ra phương thức phù hợp. Trước hết, đã đi vào xây dựng các đại lý ở các điểm tập trung hàng hoá với khối lượng lớn, có nhiều phương tiện hoạt động, như xây dựng trạm Lạc Quần (chuyên trách đại lý hàng muối và hàng kết hợp), trạm Hải Phòng (làm đại lý rút hàng nhập). Hình thành các tổ chuyên trách: Tổ siêu trường, siêu trọng, tổ hàng 2 chiều, tổ hàng đại lý Bắc Nam, tổ hàng qua nhiều phương tiện vận tải, đặt công tác viên với phòng vận tải của các Ty Giao thông vận tải ở các tỉnh bạn; thực hiện uỷ thác giao nhận hàng cho các chủ hàng đối với loại hàng thông thường; sử dụng phương thức vận tải theo hướng phát huy thế mạnh đường thủy; quy định các bước, thủ tục tiến hành làm đại lý vận tải.

Với phương thức hoạt động và cách làm phù hợp, phạm vi hoạt động của đại lý vận tải đã vươn xa tới nhiều tỉnh: Hoàng Liên Sơn, Vĩnh Phú, Bắc Thái, Hà Tuyên, Hải Hưng, Thái Bình, Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên, Gia Lai Công Tum, Minh Hải, Kiên Giang, Thành phố Hồ Chí Minh… Có quan hệ với 36 chủ phương tiện, trong đó có các đơn vị vận tải Trung ương và tỉnh bạn như: Tổng Cục đường sắt, Công ty ĐLVT I Hà Nội, Công ty ĐLVT thành phố Hồ Chí Minh, Công ty ven biển Hải Phòng, Xí nghiệp C5, Xí nghiệp C7, Xí nghiệp vận tải ô tô số 10, Cảng Nam Định, Cảng Hải Phòng, Cảng Sài Gòn…

127

Từ năm 1978 – 1982, Công ty Đại lý vận tải đã hoàn thành kế hoạch của tỉnh và ngành giao. Sản lượng thực hiện qua từng năm đạt được như sau:

Năm 1978: 25.000 tấnNăm 1979: 42.000 tấnNăm 1980: 22.000 tấnNăm 1981: 7.000 tấnNăm 1982: 23.000 tấn

Tình hình thực hiện các chỉ tiêu trong kế hoạch Nhà nước được thể hiện qua bảng sau:

Bảng 3: Kết quả thực hiện chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước năm 1978:

TT Các chỉ tiêu Đơn vị tính Kế hoạch Thực hiện Tỷ lệ đạt %1 Sản lượng:

- K.lượng hàng hoá Tấn 22.000 22.698 103,17- K.lượng tấn ĐL TĐL 25.000 25.807 103,22- KL luân chuyển T/km 4.667.000 7.116.222 152,15

2 Giá trị tổng sản lượng đồng 626.000 780.000 1243 Hệ số lợi dụng quãng đường % 70 75 107

128

4 Năng suất lao động TKL/người/năm 2.200 2.899 1315 S. lượng lao động bình quân Người/năm 15 11,6 776 Quỹ lương đồng 11.800 9.067,88 777 Giá thành đồng/1000 TĐL 1.055 760 70,58 Lợi nhuận đồng 16.682 20.000 120

Kết quả nổi bật trong hoạt động của Đại lý vận tải là từ cuối năm 1981 đến đầu năm 1982, ngành Giao thông vận tải đã cùng ngành Lương thực tổ chức thu mua, vận chuyển từ các tỉnh Minh Hải, Cần Thơ, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng gần 10.000 tấn gạo phục vụ nhiệm vụ chống đói cho tỉnh nhà, tỉnh Hưng Yên và Thủ đô Hà Nội.

Hoạt động của công ty Đại lý vận tải về cơ bản đã hoàn thành tốt các chỉ tiêu, kế hoạch Nhà nước. Song trên thực tế đã bộc lộ nhiều mặt hạn chế, chủ yếu xuất phát từ cơ chế quản lý kinh tế bao cấp. Số lượng đạt được còn thấp so với yêu cầu ở địa phương. Năng lực của công ty Đại lý vận tải chỉ tổ chức vận chuyển được một số mặt hàng, lô hàng khi có yêu cầu của chủ hàng. Đến cuối năm 1982, Công ty Đại lý vận tải đã được giải thể.

Sau khi Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 166- HĐBT ngày 24-9 - 1982 về việc chấn chỉnh một bước tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất của ngành Giao thông vận tải, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ra Quyết định số 840- QĐ/UB ngày 24-12-1982 giao chức năng Đại lý Đại lý vận tải cho Sở Giao thông vận tải32; cho phép Sở Giao thông vận tải được mở tài khoản để giao dịch và kinh doanh Đại lý vận tải tại Ngân hàng Nhà nước, trực tiếp ký hợp đồng với các cơ quan có yêu cầu vận chuyển hàng hoá phục vụ sản xuất và đời sống của tỉnh; trước mắt đảm bảo vận chuyển 6 mặt hàng chủ yếu là: than, phân bón, lương thực, đá kè, muối và hàng xuất khẩu; chủ hàng chỉ phải ký hợp đồng một lần với Sở Giao thông vận tải từ nơi gửi hàng đến nơi nhận hàng.

Thi hành các Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng và Uỷ ban nhân dân tỉnh, Sở Giao thông vận tải đã khẩn trương thực hiện việc tổ chức lại công tác vận tải của ngành. Sở giải thể Công ty Đại lý vận tải, thành lập mới Phòng Thương vụ đại lý trực tiếp tham mưu cho lãnh đạo Sở việc điều hành công tác đại lý vận tải. Thực hiện chức năng Đại lý vận 32 Thực hiện Quyết định 166- HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, ngành Giao thông vận tải đã sắp xếp lại tổ chức. Ty Giao thông vận tải được đổi tên thành Sở Giao thông vận tải.

129

tải, đổi mới cơ chế quản lý, từ cơ chế cho thuê phương tiện sang cơ chế làm chủ, chịu trách nhiệm vật chất trong quá trình vận chuyển từ khâu đầu đến khâu cuối, xác định phạm vi trách nhiệm cụ thể của mỗi khâu trong giây chuyền vận tải để đảm bảo chất lượng và số lượng hàng hoá. Đấu tranh chống tiêu cực trong vận tải tạo điều kiện quản lý và điều hành vận tải theo ngành nhằm điều hoà được các yêu cầu vận chuyển, tận dụng được năng lực vận tải. Sử dụng tổng hợp các phương tiện, kết hợp hàng hoá 2 chiều, tăng năng suất vận tải. Khắc phục phiền hà, ách tắc, trì trệ, đảm bảo đưa hàng hoá từ kho nơi sản xuất đến kho nơi tiêu dùng.

Thực hiện chức năng Đại lý vận tải trên địa bàn lãnh thổ, Sở Giao thông vận tải đã ký kết và thực hiện các hợp đồng với Tổng Công ty vật tư nông nghiệp, Nhà máy xay Nam Định, Công ty muối cấp I, Liên hiệp Xí nghiệp xuất khẩu, Công ty thực phẩm công nghệ, Liên hiệp Dệt Nam Định, Tổng kho ngành dệt… Vận chuyển nhiều lô hàng với khối lượng lớn. Nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp, kinh doanh thương nghiệp cũng đã ủy thác cho Đại lý vận tải vận chuyển nhiều chuyến hàng, lô hàng.

Để hoàn thiện công tác Đại lý vận tải trên địa bàn, Sở Giao thông vận tải bước đầu tổ chức một số chi nhánh Đại lý vận tải huyện do Phòng Giao thông vận tải huyện kiêm nhiệm thực hiện công đoạn đưa hàng từ cấp 3 về đến sân kho các hợp tác xã nông nghiệp, đồng thời làm nhiệm vụ thu gom hàng hoá từ nông nghiệp đến các đầu mối tập trung vận tải của tỉnh. Một số chi nhánh Đại lý vận tải ở các huyện: Nam Ninh, Hải Hậu, Xuân Thuỷ, Vụ Bản và thành phố Nam Định đã hoạt động đạt kết quả tốt. Năm 1985, chi nhánh Nam Ninh đã đưa gần 200 tấn đạm từ cấp 3 về tới 15/34 xã, chi nhánh thành phố Nam Định đưa 5.000 tấn đá từ Kiện Khê về tại công trường hồ Vị Xuyên.

Với phương thức Đại lý vận tải, các chủ hàng đều nhận thấy sự thuận tiện, không bị gây phiền hà. Chủ hàng chỉ ký hợp đồng một lần là yêu cầu vận chuyển đã được đáp ứng. Đối với các đơn vị vận tải, qua phương thức Đại lý vận tải, năng suất tăng lên rõ rệt. Trong những năm trước đây để hoàn chỉnh một chuyến chở phân đạm phải mất từ 32 đến 36 ngày, nay rút ngắn xuống còn từ 16 đến 18 ngày.

Thắng lợi lớn nhất trong việc thực hiện chức năng Đại lý vận tải thời kỳ này là đã ổn định vận chuyển mặt hàng phân bón hoá học và

130

muối. Từ 2 mặt hàng này, ngành đã triển khai thực hiện tốt một số mặt hàng chủ yếu: thóc máy xay, lương thực, hàng xuất khẩu, hàng Bắc Nam, một phần khối lượng đá vôi, đá kè của các xí nghiệp, công trường.

Từ năm 1983 - 1985, thực hiện chức năng Đại lý vận tải hàng hoá trên địa bàn lãnh thổ, Sở Giao thông vận tải thông qua phương thức Đại lý vận tải điều hành đạt được các chỉ số sản lượng sau đây:

- 1983 thực hiện 2.4.000 tấn - nộp ngân sách 1.300.000 đồng.- 1984 thực hiện 246.000 tấn - nộp ngân sách 3.841.400 đồng- 1985 thực hiện 240.000 tấn - nộp ngân sách 2.700.000 đồngRiêng mặt hàng phân bón đã thực hiện khối lượng mỗi năm là:1983: 54.475 tấn1984: 73.415 tấn1985: 61.392 tấnTồn tại lớn nhất trong hoạt động Đại lý vận tải là chất lượng thực

hiện các hợp đồng chưa cao, tỷ lệ hao hụt trong hàng hoá thường xuyên xảy ra, công tác thanh quyết toán với vận tải và chủ hàng chậm. Mối quan hệ giữa Đại lý vận tải tỉnh và chi nhánh huyện chưa thực sự trở thành một dây truyền thống nhất hoàn chỉnh.

Nhìn chung, trong 10 năm (1976- 1986), bên cạnh những hạn chế, thiếu sót nhất định, công tác vận tải đã tập trung đảm bảo các yêu cầu vận chuyển phục vụ cho sản xuất, nhất là phục vụ sản xuất nông nghiệp đạt khối lượng lớn, kịp thời, đáp ứng các yêu cầu phục vụ ổn định đời sống, thiên tai, quốc phòng và đưa dân đi xây dựng vùng kinh tế mới. Các nhiệm vụ vận chuyển được giao đều hoàn thành, kể cả khi có yêu cầu khẩn trương, cấp bách. Đã tự cân đối được vận tải trên địa bàn phục vụ cho phát triển kinh tế của tỉnh.

Trong công tác chỉ đạo, ngành Giao thông vận tải đã lấy vận tải đường sông là chính, đi vào khai thác thế mạnh của tỉnh về vận tải đường sông… Quan tâm phát triển vận tải trên địa bàn huyện nhằm xây dựng huyện và cân đối vận tải trên địa bàn tỉnh, lập lại trật tự vận tải đường sông. Sử dụng hợp lý vận tải ô tô, phát triển vận tải thô sơ đường bộ và mở ra hướng phát triển vận tải biển.

Bước đầu đi vào cải tiến phân công sắp xếp lại tổ chức vận tải, hạn chế chồng chéo, lập lại trật tự vận tải trên một số mặt hàng chính, khai thác được năng lực phương tiện vận tải của tỉnh - huyện - xã và

131

của mọi ngành; thông qua phương thức Đại lý vận tải để cải tiến quản lý vận tải.

2.2 - Xây dựng cơ bản và quản lý giao thông:Sau năm 1975, hệ thống giao thông trên địa bàn Hà Nam Ninh đã

bị xuống cấp nghiêm trọng do chiến tranh và thiên tai gây ra làm cản trở sự phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương. Đứng trước thực trạng đó, ngành Giao thông vận tải đã bám sát nhiệm vụ của ngành trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, các Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 2, 3, 4, 5… với những cố gắng phấn đấu trong công tác xây dựng cơ bản và duy tu bảo dưỡng đường xá giao thông, từng bước khắc phục những khó khăn.

Những năm trước đây, trên địa bàn Hà Nam Ninh đã hình thành một hệ thống đường bộ ®îc phân bổ khá hợp lý. Trong chiến tranh là những tuyến đường phục vụ tốt cho cơ động chiến đấu và phòng thủ bảo vệ lãnh thổ. Hệ thống đường bé hiện có:

- Quốc lộ 1A dài 70 km, do Trung ương trực tiếp quản lý.- Quốc lộ 21A và quốc lộ 10 dài 90 km, do Trung ương uỷ thác

tỉnh quản lý.- Tỉnh lộ do Sở Giao thông vận tải giao cho 2 Xí nghiệp quản lý,

dài 163 km.- Tỉnh lộ uỷ thác huyện quản lý dài 176 km.- Đường đô thị 82,7 km.(thµnh phè Nam §Þnh 68km)- Đường chuyên dùng 33 km.Trong các tuyến đường trên đã có 275 km rải nhựa, 504 km

đường đá. Số cầu trên các tuyến là 243 cầu, với tổng chiều dài 3.910 m, trong đó 230 cầu bê tông, 3 cầu phao và 10 cầu xây dựng tạm.

Hệ thống hạ tầng cơ sở giao thông với số lượng lớn, phân bổ rộng khắp và đã khai thác sử dụng vượt quá tiêu chuẩn thiết kế là những khó khăn, thách thức đối với ngành Giao thông vận tải. Hầu hết các tuyến đường của tỉnh đều đã qua niên hạn sử dụng từ 3- 5 lần. Kết cấu mặt đường chỉ thiết kế cho mật độ xe thấp và tải trọng nhỏ. Mặt khác do chiến tranh tàn phá ác liệt, nhiều tuyến đường bị phá huỷ nặng nề, khi khôi phục chỉ cố gắng đảm bảo nhanh chóng, kịp thời mà chưa chú ý đến chất lượng. Điều kiện kinh tế có những hạn chế trong quá trình đầu tư cho sửa chữa, tu bổ hàng năm.

132

Trước những khó khăn và thử thách rất lớn, ngành Giao thông vận tải tỉnh đã từng bước chấn chỉnh và củng cố lực lượng làm xây dựng cơ bản và quản lý giao thông. Lực lượng này hiện có:

- Công ty xây dựng cầu- 2 xí nghiệp xây dựng và quản lý đường bộ- 10 đội công trình giao thông trên địa bàn huyện- Xí nghiệp khảo sát thiết kế (là đơn vị hạch toán kinh tế) - Ban quản lý công trình trực thuộc Sở giao thông vận tải (làm

nhiệm vụ bên A).Trong các đơn vị xây dựng cơ bản và quản lý giao thông thuộc

ngành quản lý có 1.401 lao động trực tiếp và 245 lao động gián tiếp.Trong công tác xây dựng cơ bản, ngành giao thông vận tải đã có

nhiều cố gắng huy động, sử dụng các nguồn vốn của Nhà nước, vốn vay của ngân hàng, vốn tự có của cơ sở và trong nhân dân, đẩy mạnh khai thác nguyên vật liệu địa phương. Năm 1976, tổng nguồn vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản là 11.749.000 đồng, trong đó vốn Trung ương là 2.428.000 đồng và vốn địa phương là 8.821.000 đồng. Đến năm 1982 các nguồn vốn đã tăng lên so với năm 1976 là 1,96 lần, năm 1983 là 3,6 lần, năm 1984 là 3,26 lần và năm 1985 là 8,6 lần. Tổng nguồn vốn huy động đầu tư vào xây dựng và sửa chữa cầu đường trong 10 năm (1976 - 1985) là 253.939.000 đồng, trong đó nguồn vốn Trung ương là 83.694.000 đồng, vốn địa phương là 107.245.000 đồng. Việc huy động các nguồn vốn thực hiện đạt 159,6% kế hoạch, trong đó: trung đại tu và duy tu Trung ương 166,66%, xây dựng cơ bản địa phương (vốn Trung ương trợ cấp) 127,66%, vốn sự nghiệp 145,9%, vốn tự có 176,06%, xây dựng cơ bản địa phương (vốn ngân sách tỉnh) thực hiện gấp 9,7 lần.

Các nguồn vốn ngành đã huy động đều được đầu tư sử dụng đạt kết quả cao. Trong đầu tư vốn đã ưu tiên đầu tư cho công tác cầu đường và quá trình đầu tư chú ý nhiều cho xây dựng cơ bản và trung đại tu.

Được sự đầu tư và quan tâm chỉ đạo của tỉnh, của Bộ Giao thông vận tải, ngành Giao thông vận tải đã tập trung nguồn vốn thi công những công trình trọng điểm như Quốc lộ 21A, Quốc lộ 10, các tuyến đường giao thông liên tỉnh như đường 12, đường 51, đường 54, 55, 56… đặc biệt, năm 1989 đã chính thức khởi công xây dựng công trình

133

cầu Đò Quan với ý nghĩa giải quyết giao thông thông suốt giữa các huyện phía Bắc với phía Nam tỉnh.

Cùng với xây dựng, ngành đã tiến hành thường xuyên công tác duy tu bảo dưỡng mặt đường, trung bình mỗi năm duy tu bảo dưỡng được 2.320 km (Kể cả đường giao thông nông thôn). Đặc biệt từ năm 1979, tỉnh đã phân cấp quản lý đường cho các huyện nên các huyện đã dần đảm nhận việc quản lý và duy tu bảo dưỡng đường tương đối tốt. Điển hình là các huyện Hải Hậu, Nghĩa Hưng và Xuân Thuỷ. Sự chỉ đạo của Sở Giao thông vận tải đối với các đoạn bảo dưỡng và các huyện cũng được củng cố và tăng cường. Hàng năm, sở đã hướng dẫn tham mưu từng huyện để phân loại mặt đường, vì vậy, công tác duy tu bảo dưỡng được nâng lên một bước.

Kết quả công tác xây dựng cơ bản trong 10 năm 91976 - 1985) như sau:

- Làm mới cầu các loại: 46 cái dài tổng số 835 m.- Làm mới mặt đường nhựa: 15 km- Làm mới mặt đường đá: 118 km- Sửa chữa cầu các loại: 101 cái dài tổng số 4.909 m- Sửa chữa mặt đường nhựa: 111,7 km- Sửa chữa mặt đường đá: 177,9 kmCố gắng lớn nhất trong công tác xây dựng cơ bản và duy tu bảo

dưỡng mặt đường là toàn ngành đã tập trung cao độ thực hiện tốt nhiệm vụ vận tải đá cho làm đường đạt khối lượng lớn, đáp ứng kịp thời cho thi công. Năm 1989 xí nghiệp liên hiệp vận tải ô tô đã vận chuyển được 13.988 tấn đá, đạt 139%. Công ty vận tải đường sông và các hợp tác xã vận tải vận chuyển đá cho làm đường đều đạt sản lượng cao hơn các năm trước, hoàn thành vượt mức chỉ tiêu được giao. Công ty vận tải đường sông đạt 174%, hợp tác xã Thống nhất 146%, hợp tác xã Bắc Hà 133,9%, hợp tác xã Trung Hải 108%, hợp tác xã Mùa Xuân 105%. Các huyện Nam Ninh, Xuân Thuỷ, Ý Yên, Hải Hậu và Nghĩa Hưng vận chuyển đá cho sửa chữa mặt đường cũng đều vượt chỉ tiêu từ 10 - 17%.

Đối với giao thông đường thuỷ, mặc dù có nhiều khó khăn nhưng với sự hỗ trợ vốn thường xuyên của Trung ương, tỉnh và Bộ Giao thông vận tải, ngành Giao thông vận tải đã thực hiện nâng cấp và cải tạo đường sông. Hệ thống bến bãi từng bước được quy hoạch và xây dựng

134

lại, điển hình là bến cảng Nam Định, tạo điều kiện thuận lợi cho tàu thuyền chuyªn chở hàng hoá và hành khách th«ng suèt, an toµn.

Có thể nhận thấy, trong 10 năm (1976 - 1985) thực hiện nhiệm vụ xây dựng và quản lý giao thông, ngành Giao thông vận tải tỉnh nhà đã có những cố gắng để duy trì giữ vững tình trạng hiện có của hệ thống hạ tầng cơ sở, phấn đấu từng bước cải tạo và nâng cao chất lượng cầu đường. Đảm bảo giữ vững giao thông an toàn thông suốt trong mọi tình hình, sẵn sàng trong nhiệm vụ phục vụ quốc phòng, ứng phó có hiệu quả với thiên tai, lũ bão, điển hình là năm 1978 và 1985. Năm 1985, hơn 100 km đường bộ ngập lụt đã được khẩn trương khôi phục sau khi nước rút, gần 3.000 tấn phương tiện đã được huy động đi ứng cứu, vận chuyển hàng hoá phục vụ cho nhân dân 63 xã vùng ngập úng (Ý Yên, Gia Viễn, Hoàng Long) đã ổn định đời sống và khôi phục sản xuất.

Phối hợp chặt chẽ với lực lượng đảm bảo giao thông của Trung ương trên địa bàn phßng chống thiên tai, gi¶m thiÓu thiÖt h¹i ®Õn møc thÊp nhÊt, giữ vững mạch máu giao thông.

Trong hoàn cảnh có những hạn chế về vật tư, tiền vốn, ngành đã cố gắng tập trung chuyển hoá hệ thống các cầu gỗ trở thành cầu vĩnh cửu với tỷ lệ 94,6% số cầu trên các tuyến đường đã được xây dựng bằng bê tông cốt thép hoặc liên hợp bê tông - khung thép. 3 bến vượt sông lớn trước đây dùng cầu phao mặt gỗ đã được thay thế bằng xi măng lưới thép. Việc dùng phà để đảm bảo giao thông đã được xoá về cơ bản.

Từ năm 1983, ngành Giao thông vận tải đã có những cải tiến về tổ chức quản lý cầu đường. Các xí nghiệp xây dựng và quản lý đường bộ vừa làm xây dựng trung đại tu vừa làm duy tu. Khâu duy tu đã được kho¸n qu¶n theo dự toán, có nghiệm thu chất lượng.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng cơ bản và quản lý giao thông có nhiều mặt hạn chế do những khó khăn về vật tư, phương tiện, thiết bị, nhất là ô tô vận tải trên các công trường, xe lu thiếu nghiêm trọng. Nguồn vốn và quá trình cấp phát vốn, các vấn đề về thủ tục giá cả, chất lượng kỹ thuật… đã ảnh hưởng đến nhiệm vụ sửa chữa mặt đường rất lớn. Hệ thống giao thông được cải tạo chậm trong khi ở giai đoạn này lại xuất hiện mới nhiều phương tiện giao thông có tải trọng lớn, tốc độ cao và lưu lượng mỗi ngày một tăng cao.

135

Tình trạng vi phạm pháp chế giao thông vận tải xảy ra khá nghiêm trọng. Hiện tượng làm nhà vào giải đất lưu không dành cho mở rộng mặt đường, lấn chiếm lô đường làm quán bán hàng, lò gạch, lò vôi, làm sân phơi… chưa được ngăn chặn hữu hiệu, chưa tạo thành trách nhiệm của chính quyền các cấp, nhất là cấp xã, phường….

Công tác quản lý trong các đơn vị còn chưa đáp ứng yêu cầu, chất lượng, kỹ thuật, từ khâu khảo sát thiết kế đến khâu thi công, nghiệm thu còn chưa thực hiện đầy đủ ®óng quy trình, quy phạm, tiêu chuẩn kỹ thuật.

Ngành Giao thông vận tải với chức năng quản lý Nhà nước, làm tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tØnh về công tác giao thông vận tải chưa tÝch cùc ®«n ®èc các cấp, các ngành, các địa phương cã kÕ ho¹ch ®Ó xây dựng hệ thống giao thông; chưa vận động được đông đảo nhân dân, các ngành, các địa phương góp sức, góp của để n©ng cÊp, c¶i t¹o hệ thống giao thông của tỉnh.

2.3- Sản xuất công nghiệpSản xuất công nghiệp trong ngành Giao thông vận tải mang tính

chất hậu cần cho vận tải, chủ yếu là đóng mới và sửa chữa phương tiện vận tải. Đây là nhiệm vụ then chốt để duy trì và phát triển phương tiện vận tải.

Thuận lợi cơ bản trong công tác sản xuất công nghiệp là ngành Giao thông vận tải có một đội ngũ cán bộ và công nhân kỹ thuật có trình độ, kinh nghiệm khá đông đảo với 668 công nhân kỹ thuật tay nghề từ bậc 3 đến bậc 6. Cơ sở chuyên sản xuất công nghiệp có xí nghiệp đóng tàu 1-5, hợp tác xã Quyết Thắng và hợp tác xã Nhất Thanh. Trong các công ty và các hợp tác xã vận tải đều có xưởng sửa chữa.

Song, từ năm 1977, sản xuất công nghiệp vận tải đứng trước những khó khăn rất lớn về vật tư, năng lượng, các vật liệu chính như sắt thép, que hàn, hơi hàn, đất đèn, sơn các loại, phụ tùng sửa chữa ca nô, ô tô… Các sản phẩm bằng sắt thép giảm nhanh chóng, nhất là trong khu vực quốc doanh. Năm 1980, giá trị tổng sản lượng công nghiệp quốc doanh chỉ còn bằng 41% so với năm 1976; sản xuất ở khu vực hợp tác xã được nâng lên bằng 180% so với năm 1978; sản xuất bằng vật liệu xi măng lới thép trong khu vực hợp tác xã được đẩy mạnh với những sản phẩm mới nh Phà, Phao, cầu bằng XMLT Ngành giao thông

136

vận tải tỉnh ta đi đầu trong cả nớc về sản xuất cầu, tàu, thuyền… xi măng lới thép, và năm 1983-1984 đã sản xuất thành công tàu vận tải Sông-Biển bằng XMLT có sức chở 100 tấn và 300 tấn; tàu chở khách, nhà nổi, bến khách bằng xi măng lới thép. Với thế mạnh của sản xuất sản phẩm xi măng lới thép, ngành GTVT Hà Nam Ninh còn giúp tỉnh kết nghĩa Minh Hải xây dựng một xưởng sản xuất công nghiệp xi măng lới thép tại tỉnh bạn.

Trước thực trạng trên, ngành Giao thông vận tải đã có sự điều chỉnh phù hợp, phát huy tinh thần tự lực cánh sinh, khắc phục những khó khăn về vật tư và điều kiện sản xuất, tăng cường công tác quản lý, cung ứng vật tư, chấn chỉnh tổ chức sản xuất, cải tiến phương pháp chỉ đạo sản xuất và trong công tác khoa học kỹ thuật. Trước hết, ngành đã tập trung sản xuất các sản phẩm bằng xi măng lưới thép và đẩy mạnh sản xuất ở khu vực hợp tác xã.

Từ năm 1978, ngành Giao thông vận tải đã bước đầu thực hiện sự chuyển hướng trong sản xuất công nghiệp lấy sửa chữa là chính, mạnh dạn dùng xi măng lưới thép vào sửa chữa sà lan thép, tự sản xuất khôi phục một số phụ tùng nên đã tạo ra sự chuyển biến nhất định. Năm 1979, đã sửa chữa được trên 20.000 tấn sà lan và hơn 10.000 tấn thuyền các loại.

Năng lực sản xuất công nghiệp giao thông vận tải từng bước được khôi phục và phát triển khá, cả trong khu vực quốc doanh và khu vực hợp tác xã. Giá trị tổng sản lượng năm 1982 đạt 102, 3% so với năm 1976, năm 1983 là 114,3% so với năm 1976 và năm 1984 đã gấp 6,5 lần so với năm 1976. Năm 1985, tổng giá trị sản lượng thực hiện là 69.591.000 đồng, bằng 100,34% kế hoạch và bằng 137,76% so với năm 1984.

Năm 1985, sản phẩm chủ yếu thực hiện đạt 100,48% kế hoạch, trong đó: đóng mới khu vực quốc doanh đạt 100,24%, đóng mới khu vực hợp tác xã đạt 108%, sửa chữa khu vực quốc doanh đạt 107,89%; sửa chữa khu vực hợp tác xã đạt 82,80%. Trong tổng giá trị sản lượng sản phẩm chủ yếu, tỷ lệ sản phẩm đóng mới khu vực quốc doanh là 33,58%, khu vực hợp tác xã là 18,5%; sửa chữa trong khu vực quốc doanh là 26,5%, khu vực hợp tác xã là 16,98%. Trong cơ cấu sản phẩm chủ yếu, bố trí cho đóng mới là 52%, sửa chữa 43,5% và 4,5% cho các công việc có tính chất công nghiệp khác.

137

Qua các chỉ tiêu thực hiện năm 1985 cho thấy sự chuyển biến trong sản xuất công nghiệp đã lấy sửa chữa là chính và tập trung cho khu vực quốc doanh, coi trọng phát triển công nghiệp trong khu vực hợp tác xã. Sản phẩm chủ yếu trong đóng mới cũng như sửa chữa đã tập trung cao cho vận tải đường thuỷ nhằm thực hiện lấy vận tải đường sông là chính và bước đầu phát triển phương tiện vận tải biển phà sông để khai thác vận tải biển.

Trong 10 năm (1976 - 1985), ngành Giao thông vận tải đã đóng mới được 48.690 tấn và sửa chữa 76.130 tấn sà làn, thuyền các loại; đóng mới 24 tàu kéo, đẩy; sửa chữa 132 tàu, 1.983 xe ô tô, đóng mới 2 tàu xi măng lưới thép đi biển 100 tấn và 300 tấn, 1 tàu biển vỏ thép 400 tấn. Giá trị tổng sản lượng đạt 173.512.000 đồng, trong đó khối quốc doanh 99.582.000 đồng, hợp tác xã 73.938.000 đồng. Sản phẩm chính chủ yếu thực hiện trong 10 năm như sau:

- Đóng mới: + Sà lan + thuyền thép 16.659 tấn+ Thuyền xi măng lưới thép vận tải 22.421 tấn+ Thuyền xi măng nan tre vận tải 1.590 tấn + Thuyền xi măng lưới thép nông nghiệp 8.020 tấn+ Tàu đẩy + kéo 24 cái- Sửa chữa:+ Phục hồi sà làn + thuyền thép 9.643 tấn+ Đại tu sà lan 39.243 tấn+ Trung tu sà lan 27.244 tấn+ Trung đại tu tàu kéo 132 cái+ Đại tu xe ô tô 1.983 xe (quy ra xe tiªu

chuÈn)2.4- Giao thông cấp huyệnLà một tỉnh có truyền thống làm giao thông nông thôn, qua 21

năm xây dựng phong trào, đến năm 1975 trên địa bàn Hà Nam Ninh đã hình thành một m¹ng lưới giao th«ng khá hợp lý. M¹ng lưới đường nông thôn được kết hợp chặt chẽ với quy hoạch thuỷ lợi, quy hoạch máy kéo và các yêu cầu phục vụ dân sinh, xây dựng nông thôn mới và là những tuyến đường phục vụ cho cơ động chiến đấu và phòng thủ bảo vệ. Mạng lưới đường nông thôn bao gồm:

- Đường trục huyện: 531 km

138

- Đường trục xã và liên xã: 15.100 km- Đường thôn xóm: 8.100 kmHệ thống giao thông nông thôn tuy bị xuống cấp khá nghiêm

trọng do chiến tranh và thiên tai gây ra nhưng được sự hỗ trợ kịp thời của tỉnh và ngành Giao thông vận tải, các địa phương đã từng bước nâng cấp mặt đường bằng vật liệu cứng sẵn có. Một số nơi đã thực hiện đá hoá mặt đường như Nghĩa Hưng, Xuân Thuỷ, Nam Ninh… Hệ thống đường đồng ruộng được hoàn chỉnh theo quy hoạch của từng vùng, đảm bảo cho xe bò, xe cải tiến đi lại vận chuyển lúa, mạ, rạ, phân bãn thuận tiện. Hệ thống kênh mương thủy lợi ở nhiều vùng rất thuận lợi cho vận tải bằng thuyền từ 3 - 5 tấn.

Phương tiện vận tải, ngoài các đội máy kéo khi cần có thể huy động làm vận tải các loại xe:

Xe súc vật kéo: 21.213 cái = 15.921 tấn tải trọngXe cải tiến 20.000 cái = 4.000 tấn tải trọngThuyền các loại 10.000 cái = 24.020 tấn tải trọngLực lượng vận tải chuyên nghiệp trên địa bàn huyện có 25 hợp

tác xã đường sông, 21 hợp tác xã đường bộ, 6 đơn vị xếp dỡ, 1 đơn vị sản xuất công nghiệp. Có 8 huyện đã có từ 1.500 tấn đến 2.000 tấn phương tiện vận tải thuỷ; 6 huyện đã có từ 1000 tấn đến 1.200 tấn; 5 huyện có từ 500 đến 800 tấn, tạo điều kiện cho vận tải đường sông cấp huyện phát triển mạnh. Vận tải sông biển cũng được một số huyện có địa thế thuận lợi chú ý như Nghĩa Hưng, Xuân Thuỷ, Nam Ninh. Các hợp tác xã vận tải sông biển đã hình thành. Các ngành kinh tế trên địa bàn huyện đầu tư ô tô vận tải khá nhiều, có huyÖn đã có 73 xe ô tô vận tải, 26 xe ô tô con, chiếm 39,6% so với tổng số xe của quốc doanh vận tải. Lượng xe súc vật kéo trong các hộ cá thể ngày càng phát triển.

Việc phát triển vận tải đường sông, vận tải sông biển song song với phát triển đường bộ đã góp phần tích cực vào việc cân đối vận tải trên địa bàn tỉnh, cùng toàn ngành hoàn thành kế hoạch được giao. Tuy nhiên, trên thực tế, các phương tiện vận chuyển phát triển chưa cân đối giữa cơ giới và thô sơ, giữa tải trọng phương tiện và chất lượng hệ thống giao thông, do đó việc vận chuyển, thu gom hàng hoá gặp nhiều khó khăn, đường xá xuống cấp nhanh chóng. Việc tổ chức, quản lý lực lượng vận tải ở các địa phương còn nhiều lúng túng, chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra.

139

Được sự quan tâm của các cấp uỷ, chính quyền địa phương bằng chỉ đạo trực tiếp với các biện pháp cụ thể, phong trào giao thông nông thôn được đẩy mạnh và đạt được kết quả đáng kể. Phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm" đã được thùc hiÖn víi nhiÒu h×nh thøc. Các huyện đã vận dụng khéo léo sự hỗ trợ đầu tư của cấp trên và khả năng của địa phương để phát triển hệ thống cầu đường, phương tiện vận tải. Năm 1976, tuy kinh phí đầu tư của tỉnh có hạn (huyện nhiều nhất được 20.000 đồng) nhưng các địa phương đã xây dựng được số lượng cầu đường, phương tiện vận tải lớn:

- Làm mới đường các loại: 2184,5 km đường = 608.895 m3 đào đắp

- Sửa chữa bồi trúc đường các loại: 5.171 km = 1.635.180 m3- Làm mới cầu bê tông: 300 chiếc = 880 m- Cầu vòm gạch, tre sống: 36 chiếc = 80 m- Cống vòm các loại: 354 chiếc- Phát triển xe súc vật kéo: 1.732 chiếc = 1.559 tấn tải trọng- Phát triển xe người đẩy: 39.008 chiếc = 11.702 tấn tải trọng- Phát triển thuyền 5 tấn: 6.775 chiếc = 15.225 tấn tải trọng- Phát triển thuyền con: 740 chiếc- Tổ chức tổ vận tải bán chuyên: 3.070 tổ- Tổ chức đội vận tải chuyên nghiệp: 1150 đội- Tổ bảo dưỡng đường: 150 tổ; sửa chữa phương tiện: 51 tổ- Khai thác các loại đá rải đường: 1.595.450 m3Kỹ thuật xây dựng cầu đường của các địa phương được nâng lên

rõ rệt. Huyện đã tự thiết kế, thi công được cầu bê tông loại trung, rải mặt đường đá các loại đảm bảo chất lượng khá. Các công trình đầu tư xây dựng được hoàn thành nhanh gọn, dứt điểm, đưa vào phục vụ sản xuất có hiệu quả. Công tác quy hoạch đã được chú trọng thực hiện, gắn phát triển giao thông với tổ chức sản xuất, hợp lý hoá hệ thống thuỷ nông với vận chuyển thuỷ… Trong phong trào, đã xuất hiện nhiều điển hình về giao thông cấp huyện như Hải Hậu, Ý Yên, Nam Ninh, Vụ Bản…

Đến năm 1978, toàn tỉnh đã hoàn thành việc xây dựng quy hoạch màng lưới giao thông vận tải phục vụ cho sự nghiệp cơ giới hoá, hoàn thành phương án phân cấp quản lý theo lãnh thổ kết hợp quản lý chuyên ngành, bàn giao xong về cơ bản việc phân cấp quản lý cho

140

huyện. Từ điều kiện thuận lợi này, phòng giao thông các huyện đã vươn lên với nỗ lực cao, từng bước khẳng định vai trò tham mưu của cơ quan chuyên môn đối với chính quyền địa phương trong công tác giao thông vận tải. Sau 3 năm thực hiện chiến dịch Hà - Nam - Ninh (1976-1978), công tác giao thông vận tải cấp huyện có những bước chuyển biến tích cực, gãp phÇn cïng toàn ngành hoàn thành kế hoạch 5 năm (1976 - 1980), phục vụ tốt sản xuất nông nghiệp, đáp ứng kịp thời yêu cầu an ninh, quốc phòng bảo vệ lãnh thổ. Cïng víi bảo đảm vận chuyển hàng hoá phục vụ sản xuất và đời sống của địa phương, lực lượng làm giao thông vận tải cấp huyện còn hăng hái tham gia các chiến dịch vận tải của tỉnh phục vụ các yêu cầu đột xuất, sẵn sàng chi viện cho chống lụt bão và nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Ngành giao thông vận tải đã chú trọng việc tăng cường trang thiết bị, bổ sung đào tạo cán bộ, tạo điều kiện hoạt động cho các phòng giao thông huyện trong quá trình phân cấp quản lý.

Năm 1979, năm đầu tiên thực hiện phân cấp quản lý giao thông vận tải xuống cấp huyện, công tác giao thông nông thôn đã có nhiều thuận lợi trong quá trình xây dựng và phát triển. Ngoài hệ thống giao thông và phương tiện vận tải của địa phương, tỉnh đã uỷ thách cho các huyện quản lý 363 km đường tỉnh lộ. §ường tỉnh uû th¸c và đường trục huyện do huyện quản lý là 1.025 km. Lực lượng vận tải giao về các huyện quản lý có: 21 hợp tác xã vận tải thuyền gồm 15.428 tấn tải trọng và 3.704 xã viên; 19 hợp tác xã vận tải đường bộ gồm 178 xe bò, ngựa; 6 hợp tác xã bốc xếp hàng hoá gồm 787 lao động.

Như vậy, hầu hết các hợp tác xã vận tải chuyên nghiệp đóng trên địa bàn huyện đã được giao cho huyện quản lý để tăng cường khả năng điều phối, vận chuyển hàng hoá. 9 huyện, trong đó có Nghĩa Hưng, Hải Hậu, Xuân Thuỷ, Nam Ninh có đội công trình giao thông có khả năng xây dựng cầu cống trên đường trục huyện xã, rải được mặt đường bằng xe lu.

Có cơ sở vật chất kỹ thuật và lực lượng lao động có tay nghề, các huyện đã nhanh chóng đảm nhiệm tốt công tác điều hành, khai thác giao thông vận tải theo sự phân cấp. Công tác giao thông vận tải cấp huyện bước đầu đã đáp ứng tốt hơn việc phục vụ sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, lưu thông hàng hoá, phân phối phục vụ đời sống nhân dân. 6 mặt hàng thiÕt yÕu theo quy định của Nhà nước về cơ

141

bản được phục vụ kịp thời, hiệu quả. Nhiều huyện đã nỗ lực phấn đấu vươn lên trong phát triển vận tải, xây dựng cơ bản và nhận thi công một số công việc như đắp đất mở rộng mặt đường, xây cầu cống, quản lý, duy tu tỉnh lộ.

Bên cạnh những việc đã làm được, giao thông cấp huyện sau khi phân cấp về tổ chức bộ máy chưa ổn định, khi hợp nhất với công nghiệp, thuỷ lợi, khi lại tách riêng ảnh hưởng không nhỏ đến việc điều hành vận tải và phong trào giao thông nông thôn. Vấn đề phân công quản lý, điều hành chưa hợp lý nên lực lượng vận tải cấp huyện bị phân tán, kỷ luật lao động lỏng lẻo, không tận dụng hết năng lực vận tải. Sự phân chia địa giới hành chính trong vận tải hàng hoá thiếu sự điều hành thống nhất một số nơi đã xảy ra tình trạng thiếu một số mặt hàng chính như lương thực, phân hoá học, than, đá kè, muối. Tình hình ngân sách dành cho giao thông cấp huyện gặp rất nhiều khó khăn khi thiếu nguồn kinh phí đầu tư thường xuyên của tỉnh trước đây từ 300.000 đồng đến 400.000 đồng/ năm. Do đó các công trình giao thông, phương tiện vận tải ít được duy tu, sản xuất, làm mới.

Hình thức khoán sản phẩm trong sản xuất nông nghiệp những năm đầu thập kỷ 80 đã tạo ra không khí thi đua lao động ở nông thôn, tác động tích cực đến việc khai thác khả năng lao động và ruộng đất, nâng cao tiềm lực kinh tế nông nghiệp nông thôn, đồng thời đặt ra những đòi hỏi mới đối với giao thông vận tải. Cụ thể: Thời vụ gieo trồng và thu hoạch khẩn trương hơn; Khối lượng vận chuyển phân bón ra đồng, vận chuyển khi thu hoạch nhiều hơn; Yêu cầu về giao nộp, nhập kho nhanh hơn; Lao động được huy động nhiều hơn, ngoài những lao động chính còn có nhiều lao động phụ. Vận tải vốn là khâu nặng nhọc, cần phải có phương tiện cải tiến để phù hợp với điều kiện lao động của nhiều người.

Để đáp ứng yêu cầu giao thông vận tải trong tình hình đó, ngành giao thông vận tải đã tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả việc phân cấp quản lý, phát động phong trào quần chúng làm giao thông vận tải nông thôn cải thiện mặt đường - trồng cây - phát triển phương tiện vận tải thô sơ và cải tiến trong nông nghiệp. Cấp huyện một mặt tăng cường quản lý các lực lượng vận tải thủy bộ trong các hợp tác xã chuyên làm vận tải, đồng thời rà soát, quản lý chặt chẽ lực lượng vận tải bán chuyên trong hợp tác xã nông nghiệp; huy động, tận dụng lực lượng

142

này đảm bảo khối lượng vật tư phục vụ nông nghiệp, lưu thông hàng hoá phục vụ đời sống nhân dân trên địa bàn huyện. Các hợp tác xã nông nghiệp phát triển mạnh xe súc vật kéo và thuyền từ 5 tấn đến 10 tấn, tổ chức các tổ đội vận tải. Lực lượng vận tải được phát triển và củng cố đảm bảo vận chuyển vật tư hàng hoá từ các bến bãi, các khu vực kinh tế, các kho cấp ba về tận hợp tác xã, giao nhập sản phẩm về kho Nhà nước… Hợp tác xã vận động các hộ xã viên mua sắm, tự đóng mới các loại phương tiện vận tải thô sơ như xe cải tiến, xe thồ, thuyên nan dưới 1 tấn. Các vùng thường bị úng lụt thực hiện mỗi hộ một thuyền nan.

Cùng với việc phát triển phương tiện vận tải của hợp tác xã, của các hộ gia đình, giao thông vận tải cấp huyện đã tổ chức lực lượng nhân dân khai thác vật liệu tại chỗ tiến hành cải thiện mặt đường, tập trung vào các tuyến chính của huyện, xã, các trục chính ra đồng ruộng, xây dựng sửa chữa có trọng điểm và phát huy tác dụng của từng tuyến trong phục vụ sản xuất, đời sống. Các huyện phân chia các tuyến đường theo địa giới xã, tổ chức lực lượng nhân dân các xã ven đường để tu sửa giữ gìn mặt đường, trồng và bảo vệ hàng cây. Quá trình phát động phong trào quần chúng làm giao thông vận tải đã quán triệt và vận dụng có hiệu quả phương châm dựa vào dân, phát huy tinh thần tự lực cánh sinh, khai thác các nguồn vật liệu tại chỗ. Đối với những công trình cần khối lượng vật tư lớn và yêu cầu kỹ thuật cao thì Nhà nước và nhân dân cùng làm, tỉnh đầu tư ngân sách để mua nguyên vật liệu. Công tác giao thông vận tải cấp huyện phát triển thể hiện sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của cấp uỷ chính quyền địa phương, sự phối hợp chỉ đạo chặt chẽ của ngành với quyết tâm xây dựng và phát triển giao thông vận tải góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiều huyện đã có nghị quyết chuyên đề về công tác giao thông vận tải. Ban công nghiệp giao thông hoặc giao thông thủy lợi các huyện đã làm tốt chức năng tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương chỉ đạo và tổ chức thực hiện thắng lợi các mặt công tác giao thông vận tải. Tõ năm 1982, phong trào vận động nhân dân đóng góp sức người, sức của để xây dựng, bảo vệ các trục đường tiếp tục phát triển sâu rộng trong toàn tỉnh. Các hợp tác xã, các cơ quan kinh tế đã tham gia đóng góp vốn, tổ chức khai thác đá về sửa chữa đường giao thông. Kết quả trong n¨m 1982 đã làm mới 96 km, khôi phục sửa chữa 347 km,

143

làm mới 17 cây cầu dài 165 m. Tiêu biểu như huyện Nam Ninh đã đầu tư 258.000 ngày công, trong đó có 13.000 ngày công do dân đóng góp; đầu tư 1.013.000 đồng trong đó vay ngân hàng và huy động vốn ngân sách 579.000 đồng, vốn tự có 434.700 đồng để rải mới đường huyện. Các xã Nam Phúc, Trực Thuận huy động vốn và hàng trăm ngàn ngày công để cải tạo đường trong xã.

Lực lượng vận tải được tổ chức theo phương thức §ại lý vận tải có sự tham gia của vận tải chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của cấp huyện đã có sự chuyển biến tích cực trong công tác quản lý, điều hành, bước đầu ngăn chặn tình trạng tiêu cực trong vận tải. Hiện tượng phân tán, biến phương tiện vận tải của tập thể thành của cá nhân, tự do tăng cước phí vận chuyển… không còn phổ biến, các phương tiện vận tải đã được tận dụng tối đa phục vụ sản xuất và đời sống.

Bước sang năm 1983, phương hướng hoạt động của ngành giao thông vận tải đã nhấn mạnh:

"Ra sức cải tiến tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất, nhằm phát huy năng lực tiềm tàng hiện có, làm chủ và cân đối được vận tải trên địa bàn…

Làm tốt và giữ gìn mặt đường, đảm bảo các nút vượt sông quan trọng. Phát động mạnh phong trào nhân dân làm giao thông vận tải theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm".

Sau 4 năm thực hiện Quyết định 166 của Hội đồng Bộ trưởng về phân cấp quản lý, giao thông vận tải cấp huyện được củng cố xây dựng và phát huy vai trò chức năng quản lý chuyên ngành trên địa bàn lãnh thổ, Ngành và huyện đã có sự phân phối chặt chẽ, từng bước khắc phục tình trạng chồng chéo trong điều phối. Cấp huyện đã thực hiện việc xây dựng kế hoạch và điều hành theo kế hoạch. Công tác quản lý cầu đường đã thống nhất phân công trách nhiệm giữa tỉnh - huyện - xã. Lực lượng làm xây dựng cơ bản của một số huyện đã vươn lên thực hiện các công trình có thiết kế kỹ thuật cao hơn. Pháp lệnh giao thông được thực hiện bước đầu có hiệu quả rõ rệt trong phục vụ sản xuất nông nghiệp. Công tác giao thông vận tải cấp huyện đã có sự đồng đều, không còn đơn vị yếu kém. Việc quy hoạch giao thông vận tải được tiến hành đồng bộ từ huyện đến xã đã tạo điều kiện cho công tác quản lý phương tiện, bến bãi và lực lượng bốc xếp hàng hoá một cách khoa

144

học. Thực hiện nhanh, gọn việc giải toả hàng hoá trên địa bàn, đưa về đến cơ sở và thu gom hàng hoá từ cơ sở đến các điểm tập trung trong huyện hoặc khu vực. Giao thông vận tải cấp huyện ngày càng chứng tỏ vai trò cầu nối các yêu cầu vận chuyển trên địa bàn. Nhiều huyện còn gánh vác thêm nhiệm vụ của tỉnh và hỗ trợ cho các huyện ban, góp phần hoàn thành nhiệm vụ của toàn ngành. Trong phong trào vận động quần chúng làm giao thông vận tải, đã xuất hiện nhiều hình thức sáng tạo, vận động được đông đảo các tầng lớp nhân dân, các cơ quan tỉnh, cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn góp sức người, sức của để phát triển mạng lưới cầu cống, đường xá, mua sắm phương tiện. Xuân Thuỷ và một số huyện khác đã thành công trong việc vận động các địa phương dùng ngân sách xã mua đá phân phối cho các hợp tác xã nông nghiệp chuyên chở và làm đường nhiều. C¸c Hợp tác xã ở Xuân Thuỷ đã dành vốn tích luỹ được từ các nguồn thương năng suất, nghề phụ… để mua than cấp cho các đội sản xuất đốt gạch xây dựng cầu, đường thôn xóm. Với cách làm này có xã đã l¸t gạch toàn bộ đường thôn, ngõ xóm, rải đá đến tận các thôn xóm sát chân sóng. Hải Hậu đã sử dụng xỉ vôi làm mặt cứng được 50% số xã trong toàn huyện. Theo số liệu tổng hợp từ 13/20 huyện, thành, thị, năm 1983 đã vận động nhân dân đóng góp được 46.000.000 đồng cùng Nhà nước phát triển giao thông vận tải. Sử dụng trên 2.000.000 công, trong đó có gần 1.000.000 công nghĩa vụ đào đắp và rải mặt đường. Phong trào này tiếp tục được phát triển mạnh, toàn diện trong các năm tiếp theo. Nếu năm 1982 chỉ mới huy động được 3,6 triệu đồng thì năm 1984 là 56 triệu, năm 1985 là 60 triệu. §iÓn h×nh như huyện Nam Ninh đến tháng 11- 1985 đã huy động được 9.440.804 đồng. Nguồn vốn trên đã được sử dụng hiệu quả trong chương trình "đá hoá" đường nông thôn, xây dựng duy tu, söa ch÷a mặt đường, phân giao quản lý các tuyến đường và phát triển lực lượng vận tải cho các hợp tác xã nông nghiệp.

C¸c phòng giao thông vận tải huyện đã làm tốt việc điều hành và quản lý kế hoạch vận tải của các hợp tác xã. Nhiều huyện có kế hoạch tác nghiệp hàng tuần, hàng tháng cho từng loại mặt hàng của các đơn vị vận tải chuyên nghiệp, bán chuyên nghiệp; tự cân đối yêu cầu vận chuyển trên địa bàn và góp phần vào việc cân đối vận tải trên địa bàn toàn tỉnh.

145

Cùng với phát triển vận tải, công tác xây dựng cơ bản và quản lý giao thông được đẩy mạnh. Các tuyến đường tỉnh uỷ thác quản lý đã thực hiện hết và vượt nguồn kinh phí được cấp. Công tác duy tu sửa chữa mặt đường được tiến hành thường xuyên do đã tổ chức được các đội làm duy tu trong xã và hợp tác xã. Hiện trạng mặt đường đá các tuyến trên địa bàn huyện tốt hơn mặt đường rải đá do tỉnh quản lý. §Õn n¨m 1985, 10/20 huyện, thành, thị đã thành lập đội công trình giao thông, đảm nhiệm xây dựng các công trình giao thông vận tải trên địa bàn và thực hiện xây lắp cho tỉnh khối lượng lớn.

Từ năm 1984 tỉnh Hà Nam Ninh đã triển khai chi nhánh §¹i lý vận tải ở một số huyện đạt kết quả tốt. Việc vận chuyển phân bón về các hợp tác xã nông nghiệp, thu gom hàng hoá làm vận xuất cho tỉnh rất kịp thời. Tiêu biểu là các chi nhánh Nam Ninh, Hải Hậu, hợp tác xã vận tải Xuân Thuỷ, Vụ Bản… Cấp huyện đã quan tâm hơn đến công tác tổ chức xếp dỡ hàng hoá, triển khai các đại lý vận tải, các chi nhánh định lượng vận tải, đại lý vận xuất muối…

Việc phân cấp quản lý về giao thông vận tải đi vào nền nếp ổn định, nhiều nơi mở rộng đến cấp xã trong việc quản lý đường do tỉnh uỷ thác. Các đội duy tu của một số xã có khả năng rải mặt đường và lu, lèn, chủ động trong công tác duy tu bảo dưỡng không phải chờ đợi công trình của tỉnh, huyện. Từ sau khi tách khỏi các ban: Ban giao thông - thủy lợi, Ban công nghiệp để thành lập riêng phòng giao thông vận tải, được sự quan tâm của huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện, các đơn vị đã phát huy vai trò tham mưu trong quản lý Nhà nước về giao thông vận tải trên địa bàn. Các yêu cầu vận tải phục vụ sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, cá, muối, lâm nghiệp được đáp ứng. Đội công trình giao thông huyện được tổ chức chặt chẽ gồm có đội trưởng, đội phó kỹ thuật, kế toán, cán bộ vật tư, lái xe và phụ xe lu. Lực lượng lao động sử dụng lao động trong các đội 202 của địa phương. Đội công trình là đơn vị hạch toán độc lập, chịu trách nhiệm kỹ thuật trong việc thi công các công trình do tỉnh, huyện giao, đồng thời hỗ trợ đội công trình giao thông các xã trong phong trào giao thông nông thôn. Sau một thời gian hoạt động, sáng tạo, tích luỹ kinh nghiệm, các đội công trình nhiều huyện đã vươn lên làm chủ công nghệ, làm được các công trình có yêu cầu kỹ thuật cao như đắp đất mở rộng mặt đường, làm cầu bê

146

tông vĩnh cửu làm bến phà, rải mặt đường đá dăm, rải mặt đường nhựa…

Bên cạnh những thành quả đạt được, vấn đề phát triển giao thông cấp huyện vẫn còn những tồn tại cần khắc phục: Việc phân cấp quản lý còn chậm, trách nhiệm của cấp uỷ chính quyền địa phương một số nơi chưa cao. Cơ cấu tổ chức thiếu đồng bộ, quá trình chỉ đạo còn lúng túng. Mối quan hệ giữa tỉnh - huyện đôi khi chưa chặt chẽ sự phối hợp thiếu nhịp nhàng. Chưa có quy hoạch tổng thể giữa ngành và cấp vì vậy có những năm thực hiện kế hoạch khó khăn. Bộ máy cán bộ phòng giao thông vận tải cấp huyện trình độ kỹ thuật còn hạn chế chưa đáp ứng hết yêu cầu phát triển giao thông vận tải trên địa bàn.

2.5- Một số công tác khác:Thực hiện các nghị quyết của Đảng về tăng cường quản lý kinh

tế, ngành giao thông vận tải đã có những chủ trương và biện pháp nhằm khắc phục tình trạng phân tán của thời kỳ chiến tranh phá hoại, đồng thời thích nghi với điều kiện mới của tỉnh hợp nhất, đưa các hoạt động giao thông vận tải nhanh chóng đi vào hướng tập trung chuyên môn hoá.

Những cơ sở trước đây hành nghề hỗn hợp nay được tổ chức lại với chức năng nhiệm vụ riêng: Công ty xây dựng đường, công ty xây dựng cầu. Đưa nhiệm vụ khảo sát thiết kế từ một phòng sự nghiệp thành đơn vị sản xuất hạch toán kinh tế độc lập. Thành lập Công ty đại lý vận tải, đưa các xí nghiệp vận tải đường sông hợp nhất thành quy mô lớn phân ngành: vận tải, cơ khí sửa chữa máy tầu, cơ khí sửa chữa vỏ tầu… Đưa các xí nghiệp vận tải ô tô, cơ sở sửa chữa vào xí nghiệp Liên hiệp vận tải ô tô. Đưa việc quản lý bến xe từ dịch vụ sự nghiệp thành đơn vị phục vụ hạch toán kinh doanh. Thực hiện việc tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật để xây dựng cấp huyện. Việc tổ chức lại sản xuất theo ngành nghề và quy mô hoạt động của các công ty, xí nghiệp, đại lý vận tải… đã tạo ra sức mạnh tập trung, tăng khả năng thực hiện các nhiệm vụ lớn của ngành. Kết quả của quá trình này cho thấy sự chuyển biến tích cực trong hoạt động giao thông vận tải, giải quyết được vấn đề vận chuyển lưu thông hàng hoá, sử dụng khai thác tốt phương tiện vận tải trên địa bàn. Năm 1983, Sở Giao thông vận tải được giao chức năng định lượng vận tải hàng hoá theo địa giới hành chính thực hiện kinh doanh về định lượng vận tải. Tiến hành hợp nhất các công ty xây dựng

147

nền mặt đường với các đoạn bảo dưỡng là những đơn vị sự nghiệp thành các xí nghiệp xây dựng và quản lý đường bộ nhằm thống nhất loại hình sản xuất quản lý với ngành dọc Trung ương, thực hiện công tác duy tu đường xá có dự án và khối lượng nhằm xoá bỏ bao cấp trong công tác quản lý đường giao thông. Quý 3 - 1985 đã tách trạm vật tư liên xã để thành lập Công ty vật tư của ngành.

Trong quản lý lao động, hầu hết các cơ sở đã đi vào sắp xếp lại lực lượng, tổ chức theo dây chuyền hoặc nhóm sản phẩm, chuyên môn hoá theo nghề, làm việc theo định mức, hưởng lương theo sản phẩm. Đây là bước tiến bộ lớn của công tác quản lý lao động nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng lao động, tăng ngày giờ công có ích, sử dụng hiệu quả nguồn lao động phục vụ sản xuất. Từ chỗ lao động chưa có định mức, đến năm 1978, toàn ngành đã xây dựng được 15.668 định mức các loại, trong đó 1517 mức định có căn cứ kế hoạch, 3066 mức định kết hợp, 11.075 mức định theo thống kê kinh nghiệm. 89,8% số công nhân trực tiếp sản xuất được làm việc có định mức và hưởng lương theo sản phẩm. Trong quá trình quản lý sản xuất đã coi trọng việc quản lý kỹ thuật. Nhiều cơ sở đã có những biện pháp tích cực để đảm bảo chất lượng kỹ thuật cho sản phẩm, công trình, coi trọng thực hiện quy trình công nghệ, quy trình sản xuất và giám sát kỹ thuật. Việc sắp xếp lao động đã giảm nhẹ biên chế gián tiếp, trả lương theo sản phẩm, mở rộng hạch toán đến các đoàn - đội - phân xưởng.

Công tác quản lý tài chính đã có nhiều tiến bộ, số cơ sở hạch toán tốt ngày càng tăng. Quản lý chi tiêu chặt chẽ đảm bảo nguyên tắc chế độ, sử dụng đúng mục đích các nguồn vốn đầu tư, phát huy tác dụng tích cực của đồng vốn trong việc giám sát, quản lý sản xuất. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn song công tác thu nộp ngân sách đã được thực hiện nghiêm túc, chi tiêu nộp ngân sách đảm bảo ngày càng tăng.

Các đơn vị trong toàn ngành liên tục phát động các đợt thi đua lao động sản xuất, thực hiện tiết kiệm, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật… tạo ra khi thế lao động phấn khởi mang lại hiệu quả thiết thực. Việc thực hiện khen thưởng đã có những tác động tích cực đối với vấn đề quản lý lao động và nâng cao năng suất lao động.

Việc sắp xếp đào tạo cán bộ, công nhân có trình độ tay nghề cao từng bước được quan tâm. Đội ngũ cán bộ phải đảm bảo ba điều kiện: trình độ khoa học, đạo đức cách mạng và năng lực quản lý; ưu tiên cán

148

bộ có tài năng, mạnh dạn sử dụng cán bộ trẻ. Bước đầu đã điều chỉnh, tăng cường cán bộ kỹ thuật cho cấp huyện, đào tạo công nhân các ngành nghề, tổ chức thi nâng bậc ở cơ sở…

Trong quá trình xây dựng và phát triển, việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất là vấn đề được ngành giao thông vận tải đặc biệt quan tâm. Nhiều đề tài và tiến bộ khoa học kỹ thuật được nghiên cứu, ứng dụng thành công trong 10 năm (1976 - 1985) đã có tác dụng tích cực trong việc đẩy mạnh sản xuất, tháo gỡ khó khăn, làm thay đổi dần lối làm ăn cũ, giảm nhẹ chi phí, giải phóng sức lao động, rút ngắn thời gian lao động… Từ tỉnh đến cơ sở đã thành lập Hội đồng khoa học kỹ thuật để làm chức năng tư vấn giúp lãnh đạo trong việc thẩm định kỹ thuật và quản lý phong trào phát huy sáng kiến. Ngày 19 - 5 hàng năm được coi là ngày hội về khoa học kỹ thuật để sơ, tổng kết, phát động phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất lập thành tích thiết thực kỷ niệm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

Về vận tải đã có các công trình, sáng kiến. Cơ giới hoá vận tải thuyền sông, phát triển vận tải thô sơ đường bộ, phát triển xà lan chở khách, điều hành vận tải theo biểu đồ vận hành, tổ chức lại dắt sà lan theo đội hình con thoi, tàu khách lại dắt tàu khách, xe kéo rơ moóc, giảm định mức nhiên liệu trong vận tải ô tô, tầu sông, phương thức khoán thưởng trong vận tải đường sông…

Về xây dựng cơ bản có các đề tài: xây dựng cầu bê tông ứng xuất trước; dùng đá hỗn hợp thay đá hộc để kết cấu nền móng đường; dùng vật liệu địa phương tại chỗ làm mặt đường, hỗn hợp các chất kết dính vá ổ gà, thiết kế định hình, tiêu chuẩn hoá thiết kế thi công tại công xưởng các khẩu độ cầu, cọc bê tông, phát triển dạng cầu vòm gạch, vòm bê tông khẩu độ nhỏ thành vòm bê tông khẩu độ lớn, cầu treo một cổng cầu…

Các hội nghị khoa học, hội nghị chuyên đề được tổ chức thường xuyên hàng năm đã có tác dụng tích cực trong việc nâng cao trình độ kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ của ngành. Hội nghị khoa học 10 năm sử dụng cầu treo Đò Quan, hội nghị chuyên đề làm mặt đường nông thôn bằng vật liệu hạt cứng tại chỗ đã nhanh chóng nhân rộng điển hình trong toàn tỉnh góp phần không nhỏ vào thành công của phong trào quần chúng làm giao thông vận tải, trên cơ sở "Nhà nước và nhân dân

149

cùng làm", đồng thời tạo tiền đề cho các đề tài khoa học khác ra đời. Trong sản xuất công nghiệp đã giành được những tiến bộ về xi măng lưới thép, đã làm các sản phẩm như: phà, cầu phao, tầu khách, tàu vận tải biển 100 đến 300 tấn; sửa chữa sà lan vỏ thép bằng xi măng lưới thép. Nhiều sáng kiến mang lại giá trị kinh tế cao như: chân vịt biến bước thay cho hộp số, dùng nhiên liệu lỏng để hàn cắt kim loại, điều khiển tàu sông bằng hệ thống thuỷ lực; thử nghiệm thành công khí CH4 chạy xe ô tô. Bước đầu đã cải tiến trong khôi phục phụ tùng ô tô, máy thủy bằng các phương pháp phun mạ, nhiệt luyện… góp phần tháo gỡ khó khăn về vật tư, nhiên liệu, phụ tùng để duy trì sản xuất. Các sáng kiến cải tiến kỹ thuật cũng giúp cho ngành giao thông vận tải từ tỉnh đến huyện, xã đẩy nhanh tốc độ xây dựng hệ thống giao thông khi làm chủ được kỹ thuật cầu, phà, đường.

Thực hiện cuộc đấu tranh chống tiêu cực, ngành Giao thông vận tải đã tập trung vào các mục tiêu:

- Chặn đứng các vụ ăn cắp lớn, ăn cắp có tổ chức, phá hoại kinh tế, trước hết ở các đơn vị vận tải, nhất là vận tải đường sông đối với những mặt hàng chủ yếu như: lương thực, phân bón, than, xi măng, thực phẩm, nhiên liệu, những vụ nhượng bán vật tư trái phép.

Đẩy lùi các vụ móc ngoặc với gian thương, ăn hối lộ trong ký kết hợp đồng, tuyển dụng, nghiệm thu, thanh toán.

Ngành Giao thông vận tải đã phối hợp chặt chẽ với các ngành pháp chế và chính quyền địa phương ven đường giao thông, ven sông; các cơ quan chủ hàng trong công tác quản lý vận tải. Tổ chức học tập cho cán bộ đảng viên và quần chúng về quy chế của ngành. Tiến hành phá các tụ điểm tiêu thụ hàng ăn cắp, các điểm nóng trên đường vận chuyển. Đề ra nội quy bảo vệ hàng hoá, chế độ xử phạt trách nhiệm, kiên quyết đấu tranh chống tiêu cực trên mọi lĩnh vực. Kết quả, các vụ ăn cắp lớn đã giảm hơn nhiều so với trước, tỷ lệ hao hụt hàng hoá không lớn, một số vụ phạm pháp đã được pháp luật xét xử và nghiêm trị. Tình hình an ninh trật tự trên các tuyến đường tương đối ổn định. Tuy nhiên, đây là quá trình đấu tranh lâu dài giữa cái xấu - cái tốt, chủ yếu là nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ công nhân viên trong toàn ngành để bảo vệ tài sản nhà nước trong khi hoạt động phân tán, quy trình vận tải - giao nhận - bốc xếp còn nhiều sơ hở, tiêu cực xã hội

150

ở nơi bến bãi, trên đường vận chuyển khá phức tạp nên công tác này vẫn còn lúng túng chưa được giải quyết triệt để.

Để tăng cường khả năng lao động phục vụ sự nghiệp, công tác tổ chức đời sống cho cán bộ công nhân viên luôn được ngành giao thông vận tải quan tâm khi xây dựng phương hướng hoạt động. Các đơn vị đã xây dựng được nhà ăn tập thể, có đội ngũ phục vụ tận tuỵ, đảm bảo sử dụng hết tiêu chuẩn quy định trong chế độ tem phiếu. Tổ chức chăn nuôi, trồng trọt để cải thiện đời sống chủ yếu là tận dụng thức ăn dư thừa để nuôi lợn, gà. Nhiều đơn vị đã tự túc được rau xanh, thường xuyên có thịt, cá bổ sung trong bữa ăn. Xây dựng các nhà trẻ hoặc nhóm trẻ tương đối hợp quy cách, tích luỹ phúc lợi để trang bị dụng cụ học tập và đồ chơi cho các cháu đảm bảo cho công nhân yên tâm công tác, giảm số ngày nghỉ tự do, tự túc. Mạng lưới y tế được bổ sung cán bộ có chuyên môn, làm tốt công tác phòng bệnh, chữa bệnh. Các tủ thuốc được củng cố, có đủ thuốc cần thiết để điều trị bệnh thông thường và sơ cứu tại chỗ. Công nhân viên chức được chăm sóc chu đáo lúc ốm đau, hàng năm được khám sức khoẻ định kỳ. Thường xuyên có kế hoạch xây mới, sửa chữa nhà xưởng, nhà ở, nhà làm việc, nhà trẻ mẫu giáo… tạo điều kiện ngày càng tốt hơn cho sản xuất và sinh hoạt.

Phong trào văn nghệ, thể dục thể thao được quan tâm phát triển khá rộng rãi. Một số đơn vị đã có thư viện phục vụ độc giả, có đội bóng chuyền, bóng bàn, bóng đá, vật dân tộc… Các đội văn nghệ hoạt động khá thường xuyên tại đơn vị và tham gia các kỳ hội diễn của ngành, của tỉnh đạt kết quả cao. Nhiều nơi đã tổ chức nói chuyện thời sự, sinh hoạt chuyên môn, bổ túc văn hoá cho công nhân viên chức. Cuộc vận động sinh đẻ kế hoạch, xây dựng gia đình văn hoá mới có nhiều chuyển biến, có nơi đã đưa vào chỉ tiêu thi đua. Không khí vui tươi phấn khởi, đoàn kết đã giúp cho công nhân viên chức toàn ngành có thêm sức mạnh, vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ.

Nhìn lại chặng đường 10 năm (1975 - 1986), trong tình hình nền kinh tế chung có nhiều biến động, công tác giao thông vận tải còn có những khã kh¨n, thiếu sót. Song những thành tích đạt được là những thắng lợi cơ bản, có ý nghĩa quan trọng trong bước đi ban đầu của nhiệm vụ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các nhiệm vụ công tác của ngành đều có bước phát triển. Những ưu điểm nổi bật là:

151

- Kế hoạch vận tải hàng hoá hàng năm và các mặt hàng chính chủ yếu phục vụ cho sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp và ổn định đời sống nhân dân đã liên tục hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch, khối lượng vận chuyển năm sau cao hơn năm trước. Hoàn thành xuất sắc mọi yêu cầu vận chuyển đột xuất của Trung ương và địa phương.

Phát triển vận tải, tự cân đối được yêu cầu vận chuyển trên địa bàn lãnh thổ và đóng góp với Trung ương. Đã vươn lên làm chủ về vận tải trên một số mặt hàng chính, lập lại trật tự trong lĩnh vực giao thông vận tải.

Về vận tải hành khách: Tập trung phục vụ tốt trong các ngày lễ tết, các yêu cầu đi lại tập trung, vận chuyển lao động đi xây dựng vùng kinh tế mới.

- Về công tác xây dựng và quản lý giao thông: đã phấn đấu giữ vững giao thông an toàn thông suốt trong mọi tình hình, cũng như trong nhiều đợt thiên tai gay gắt sẵn sàng phục vụ chiến đấu. Trong xây dựng cơ bản đã khắc phục mọi khó khăn để chuyển hoá và nâng cao chất lượng toàn bộ số cầu trên các tuyến đường từ các dạng kết cấu tạm thời thành cầu vĩnh cửu, giải phóng về cơ bản việc dựng phà để chuyên chở trên các bến vượt sông lớn. Pháp chế bảo vệ giao thông được tăng cường.

- Sản xuất công nghiệp đã vươn lên giành được những thành quả to lớn trong tiến bộ kỹ thuật đóng tàu với những sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc gia.

- Khoa học kỹ thuật được đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng có chọn lọc vào sự phát triển trong các lĩnh vực: vận tải - cầu đường - công nghiệp - quản lý.

- Giao thông vận tải cấp huyện có bước phát triển đồng đều, vững chắc, đã khai thác được tiềm lực về giao thông vận tải trên địa bàn. Phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm' được vận dụng sáng tạo.

- Phong trào thi đua được duy trì, phát huy tốt truyền thống của ngành. Công tác quản lý đi vào nề nếp, đấu tranh chống tiêu cực có tiến bộ. Phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao có bước phát triển.

Về cơ bản, trong thời gian 10 năm, sự chuyển biến tích cực trong quản lý đã tạo ra hiệu quả cao của công tác giao thông vận tải phục vụ

152

sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số tồn tại cần được khắc phục. Đó là:

- Năng lực vận tải chung của toàn ngành được tăng lên, nhưng năng lực vận tải trong khu vực quốc doanh giảm sút lớn cả trên tuyến đường sông và đường bộ do việc đầu tư mới không đủ bù đắp cho hư hỏng phải thanh lý hoặc thiếu vốn sửa chữa.

Vận tải hành khách còn chưa đáp ứng được yêu cầu đi lại của nhân dân. Công tác phục vụ còn lúng túng gây phiền hà, tốn kém.

Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa vận tải - xếp dỡ và sửa chữa phương tiện. Các công trình thủy chưa được đầu tư đúng mức.

- Mặt đường trong tỉnh còn xấu, nhiều tuyến quá xấu do đầu tư chưa quan tâm đến xây dựng cơ sở hạ tầng. Quan điểm đầu tư chưa cân đối giữa các công trình đường bộ và đường thuỷ.

- Sự phân tán trong khâu kế hoạch và điều hành, trong phân công sản xuất dẫn tới quản lý còn lúng túng. Mối quan hệ giữa ngành và cấp chưa cụ thể, thiếu sự gắn bó.

- Bộ máy quản lý còn cồng kềnh, tỷ lệ gián tiếp cao, năng lực quản lý có nơi còn yếu, hạch toán kinh tế kém dẫn tới làm ăn thua lỗ.

- Các hoạt động khoa học kỹ thuật, văn hoá xã hội, văn nghệ thể thao đôi lúc có tính hình thức chưa mang lại hiệu quả trong phục vụ sản xuất, chưa gắn bó với người lao động.

- Kết quả công tác đấu tranh chống tiêu cực chưa giải quyết hết những tệ nạn do tiêu cực gây ra. Có nơi còn chủ quan, thiếu cảnh giác trước âm mưu phá hoại của kẻ địch, phương châm kinh tế kết hợp với quốc phòng đạt hiệu quả chưa cao.

Tiếp tục thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, đặc biệt là nghị quyết Đại hội lần thứ VI sắp tới, nhiệm vụ kinh tế - xã hội của kế hoạch 5 năm (1986- 1990) có vị trí hết sức quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của chặng đường đầu tiên của thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh đề ra tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV, phát huy những thành quả đã đạt được trong 10 năm qua, đặc biệt 3 năm (1983 - 1985), c¸n bé, c«ng nh©n viªn ngành Giao thông vận tải sÏ quyÕt t©m ®oµn kÕt, phÊn ®Êu hoµn thµnh th¾ng lîi nhiÖm vô trong giai ®o¹n c¸ch m¹ng míi.

153

II- Ngành Giao thông vận tải Hà Nam Ninh bước đầu thực hiện đường lối đổi mới (1986-1991):

1- Ngành Giao thông vận tải Hà Nam Ninh bước đầu đổi mới cơ chế, sắp xếp lại tổ chức.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam là Đại hội mở đầu cho công cuộc đổi mới của đất nước. §ã đánh giá tình hình đất nước, kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ đó xây dựng nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng trong thời kỳ đổi mới, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đề ra nhiệm vụ chung cho cả chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là: " Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng thực hiện hai nhiệm vụ thắng lợi là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, và trong khi không ngừng chăm lo bảo vệ Tổ quốc, Đảng và nhân dân ta tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng chế độ làm chủ tập thể, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa".

Theo tinh thần đổi mới của nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VI, ngành Giao thông vận tải cả nước nói chung và của tỉnh Hà Nam Ninh nói riêng đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị và các văn bản hướng dẫn việc tổ chức thực hiện, sắp xếp lại sản xuất, tăng cường quản lý, mở rộng quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh, xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, chuyển hẳn sang cơ chế hạch toán kinh doanh. Các xí nghiệp quốc doanh phải xem xét lại nhiệm vụ sản xuất, bố trí lại lao động, phân loại lao động. Các đơn vị trong ngành phải giảm bớt các phòng, ban, bộ máy gọn nhẹ và giảm tỷ lệ gián tiếp. Mỗi xí nghiệp giảm từ 1 đến 3 quản lý, sát nhập phòng kế hoạch với phòng kỹ thuật, phòng hành chính với phòng tổ chức…

Căn cứ vào các văn bản của Trung ương, Bộ Giao thông vận tải, và đề nghị của Sở Giao thông vận tải, Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Nam Ninh đã ra Quyết định số 728/QĐUB, ngày 3 - 5- 1987, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Sở Giao thông vận tải. Thực hiện Quyết định 222/HĐBT, ngày 29 - 12- 1987 của Hội đồng Bộ trưởng, Sở Giao thông vận tải đã giảm bớt được một số đầu mối gián tiếp, công việc được phân công hợp lý góp phần giảm bớt sự

154

chồng chéo. Tổng số phòng, ban ở các đơn vị trực thuộc được sắp xếp lại chỉ còn 50 phòng, ban (giảm 19 phòng), văn phòng Sở từ 11 phòng, ban còn 8 phòng, ban (giảm 3 phòng).

Đến năm 1990, ngành Giao thông vận tải Hà Nam Ninh đã thực sự bước ra khỏi cơ chế quản lý quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường. Cơ cấu tổ chức bộ máy Sở giao thông vận tải năm (1986-1991) như sau:

I - Lãnh đạo (gồm 1 Giám đốc và 3 Phó giám đốc)- Giám đốc: Đồng chí Nguyễn Đức Khiêm- Phó Giám đốc: Các đồng chí Hoàng Ngọc Mai, Nguyễn Trọng

Dần, Đinh Công Ruấn.II- Các phòng ban chuyên môn:1- Phòng Kế hoạch, kỹ thuật 2- Phòng Tài vụ3- Phòng Quản lý giao thông4- Phòng Vận tải công nghiệp5- Phòng Hành chính, tổ chức6- Phòng Thu phí giao thông7- Phòng Thanh tra pháp chế Giao thông vận tải8- Ban Điều hành thuỷ9- Đại lý vận tải III- Các đơn vị trực thuộc1- Nhà máy đóng tàu 1-52- Xí nghiệp liên hiệp ô tô 3- XÝ nghiÖp vận tải Sông biển 4- Công ty công trình giao thông 5- Xí nghiệp khảo sát, thiÕt kÕ 6- XÝ nghiÖp vËt kü thuËt giao th«ng vËn t¶i7- XÝ nghiÖp x©y dùng qu¶n lý đường bé I8- XÝ nghiÖp x©y dùng qu¶n lý đường bé II9- C«ng ty xÕp dì10- C¸c Hîp t¸c x· trùc thuéc11- Ban quản lý công trình xây dựng cầu Đò Quan12- Ban quản lý công trình giao thông 2- Tập trung mọi nguồn lực từng bước đưa hoạt động Giao

thông vận tải phát triển theo cơ chế mới.

155

2.1- Vận tảiThực hiện phương hướng và nhiệm vụ mà Đại hội Đảng bộ tỉnh

đã đề ra, ngành Giao thông vận tải Hà Nam Ninh đã nỗ lực vượt qua những khó khăn, thử thách, từng bước đưa hoạt động vận tải lên mét bước mới. Vận tải là nhiệm vụ quan trọng của toàn ngành phục vụ sản xuất, an ninh quốc phòng và đời sống của nhân dân.

Đầu năm 1986 với yêu cầu vận tải hàng hoá khẩn trương, trong cùng một thời điểm vừa phải tổ chức tiếp nhận 4 vạn tấn lương thực, 3 vạn tấn phân bón, đồng thời phải tổ chức vận chuyển 5 vạn tấn đá kè và các mặt hàng khác như than, muối, hàng xuất khẩu… Bên cạnh đó còn phải vận chuyển một số lượng lớn hàng hoá của Trung ương bổ sung cho việc khắc phục hậu của cơn bão số 5 (ngày 6-9-1986) nhằm khôi phục sản xuất và giải quyết đời sống cho nhân dân. Trong quá trình chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ, ngành đã tận dụng và phát huy thế mạnh của mình là vận tải đường sông, trong cả hai khu vực quốc doanh và tập thể. Nên đã chú trọng đầu tư, phát triển, sửa chữa phương tiện vận tải thủy, ®ể đủ sức đảm nhận các nhiệm vụ được giao cả khi bình thường cũng như có nhiệm vụ đột xuất.

Năm 1986, trong tình hình kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, ngành Giao thông vận tải còn nhiều vấn đề chưa được tháo gỡ như: giá cước vận tải, nhiên liệu, xăm lốp, phụ tùng, thiết bị phục vụ cho sửa chữa và đóng mới phương tiện còn thiếu thốn. Song, các đơn vị trong toàn ngành đã hoàn thành kế hoạch được giao với kết quả như sau:

- Vận chuyển hàng hoá đạt: 102,4% về tấn và 102,28% T/kmTrong đó:+ Đường bộ: 100,76% về tấn và 101,2% T/km+ Đường sông : 103,9% về tấn và 102,45% T/km- Các đơn vị trực thuộc đạt:+ Quốc doanh đường sông: 107,14% về tấn và 101,3% T/km+ Quốc doanh ô tô: 101,6% tấn và 104 T/km+ Các hợp tác xã: 104,13% tấn và 108,9% T/km- Vận chuyển hành khách đạt: 104,2% người và 105% người/kmTrong đó:+ Quốc doanh đường sông: 100% người và 100% người/km+ Quốc doanh ô tô: 105% người và 105,8% người/km- Xếp dỡ hàng hoá đạt: 95% kế hoạch

156

- Đại lý vận tải: 102,5% tấn đại lýCác mặt hàng vận chuyển chủ yếu:- Than mỏ: 200.000/218.000- Đạm: 70.000/ 47.000- Lân: 12.000/- Đá kè: 115.000/30.000- Lương thực: 45.000/24.000- Thóc xay: 42.000/50.000- Muối vận xuất: 42.000/40.000- Muối đường dài: 18.000/22.000- Hàng xuất khẩu: 24.000/20.000Chỉ tiêu vận tải hàng hoá năm 1986 được giao cao hơn mức thực

hiện năm 1985 là 62 ngàn tấn, nhưng về tấn vận chuyển thấp hơn 132 ngàn tấn. Trong 6 tháng đầu năm thực hiện đạt 50% khối lượng, cao hơn cùng kỳ năm 1985 là 8,75% về tấn và 6,92% về tấn/km.

Các mặt hàng chính, phần lớn được vận chuyển thông qua phương thức đại lý vận tải, nªn đảm bảo yêu cầu kế hoạch, trật tự an toàn vận tải, chống thất thoát hàng hoá. Hoạt động vận tải nhiÒu lóc diễn ra dồn dập nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu phục vụ cho sản xuất và đời sống của nhân dân. Các yêu cầu về khối lượng, thời gian và chất lượng được đảm bảo. Vận tải quốc doanh tuy mới được đầu tư một tầu 400 tấn (chưa được giao kế hoạch), nhưng đã kịp thời phát huy thế mạnh vận tải cña m×nh, tự khai thác nguồn hàng và vận chuyển hàng hoá trong nội tỉnh. Để có thể hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao trong công tác vận tải, chính là nhờ có sự chỉ đạo nhất quán, tập trung, điều hành dứt điểm, bám sát chân hàng. Có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các ngành, giữa các chủ hàng, thực hiện khoán và quản lý chặt chẽ đã khai thác triệt để được khả năng của các phương tiện vận tải.

Về công tác xếp dỡ, trong thời gian này gặp rất nhiều khó khăn, nhất là trong khu vực quốc doanh. Trong 6 tháng đầu năm chỉ có 30% công việc được hoàn thành, đến 6 tháng cuối năm đã khai thác được việc làm, bảo đảm đời sống cho công nhân. Khối các hợp tác xã tuy có ổn định hơn, nhưng do hàng hoá phân tán và một số nguyên nhân khác nên chỉ tiêu, kế hoạch đạt thấp.

157

Vận tải hành khách ®· hoàn thành vượt chỉ tiêu, nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu đi lại của nhân dân. Nhiệm vụ được giao chưa cân xứng với năng lực vận tải, chưa quan tâm đúng mức đến nhu cầu đi lại, việc tổ chức phục vụ còn nhiều hạn chế, thậm chí còn có những khuyết điểm nên có nhiều ý kiến phê phán. Trước tình hình đó, Sở giao thông vận tải và các đơn vị trực thuộc, nhanh chóng sửa chữa kịp thời những thiếu sót, với quyết tâm cải tiến tinh thần phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân, vµ đầu tư cho các phương tiện. Kết quả đạt được chưa cao, nhưng thực sự đã có bước chuyển biến trong việc khôi phục lại cơ chế quản lý và nền nếp phục vụ của đội ngũ cán bộ, công nhân viên trong công tác vận tải hành khách.

Trong những năm đầu chuyển đổi cơ chế (1986 - 1990), lực lượng vận tải ngoài quốc doanh còn nhiều hạn chế, tuy nhiên do sự tác động của những thay đổi cơ chế quản lý, sản xuất và kinh doanh. Lực lượng vận tải đã có sự thay đổi mạnh mẽ, có nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh vận tải ngoài khu vực quốc doanh và tập thể. Đặc biệt, thành phần kinh tế tư nhân, cá thể đã xuất hiện và từng bước phát triển mạnh mẽ, góp phần làm cho lực lượng vận tải hoạt động có hiệu quả. Năm 1988, trong lĩnh vực vận tải đường bộ thành phần kinh tế tập thể chiếm 40%, kinh tế quốc doanh chiếm 60%. Trong lĩnh vực vận tải đường thuỷ, kinh tế tập thể chiếm 80%, kinh tế quốc doanh chỉ chiếm 20%.

Sự mở rộng và phát triển của lực lượng vận tải ngoài quốc doanh, đã phá vỡ thế độc quyền trong kinh doanh vận tải trước đây, tạo ra sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế tham gia vận tải. §òi hỏi các lực lượng vận tải phải nâng cao khả năng và chất lượng, để đáp ứng nhu cầu vận tải trong xã hội. Từ năm 1990 trở đi, xu hướng lực lượng vận tải quốc doanh và hợp tác xã có phần giảm đi, ngược lại lực lượng vận tải ngoài quốc doanh ngày càng phát triển. Nhiều loại hình phương tiện như tàu sông trên 100 đến 200 tấn, thuyền máy từ 80 đến 100 tấn, xe tải từ 2,5 đến 10 tấn, xe ca từ 4 ghế cho đến 56 ghế và các loại phương tiện vận tải thô sơ, cơ giới khác. Sự phát triển của các đơn vị tham gia kinh doanh vận tải ngoài quốc doanh được thể hiện thông qua bảng số liệu sau:

Số liệu thống kê các đơn vị vận tải ngoài quốc doanh năm 1990

158

Đơn vị

tính

Tổng số

Trong đóĐường bộ Đường sông Đường

biểnVận tải HH

Vận tải HK

Vận tải HH

Vận tải HK

Kinh tế tập thể

ĐVT 53 7 8 38

Kinh tế cá thể

Số hộ

1727 825 168 696 11

C¸c thµnh phÇn kh¸c

ĐVT 15 9 4 2

Như vậy, nếu tính tỷ lệ thì thành phần kinh tế cá thể chiếm 96% trong lực lượng vận tải ngoài quốc doanh, kinh tế tập thể chiếm 2,9%, các thành phần kinh tế khác chiếm không đáng kể.

Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới, ngành Giao thông vận tải Hà Nam Ninh đã dần dần chuyển đổi cơ chế quan liêu, bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh doanh, víi sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong hoạt động kinh doanh vận tải. §iÒu nµy đã đặt ra vấn đề phải thúc đẩy sự phát triển của cơ sở vật chất, hạ tầng cho phù hợp với điều kiện thực tiễn, tạo điều kiện cho phương tiện vận tải hoạt động tốt. Một loạt hệ thống đường giao thông, kho tàng, bến bãi… được cải tạo, nâng cấp và xây dựng. §ặc biệt, hệ thống đường bộ được đầu tư cải tạo, nâng cấp và xây dựng trên hầu hết các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ cho đến huyện lộ và xã lộ, ®ường làng, thôn, xóm cũng được mở rộng đảm bảo cho các loại xe có trọng tải hạng trung từ 5 đến 7 tấn đi lại dễ dàng. Đến năm 1991, toàn tỉnh đã có 7432 km đường bộ các loại. Cùng với sự phát triển của hệ thống đường bộ, hệ thống đường thủy cũng được cải tạo và nâng cấp. Toàn tỉnh có 28 sông với tổng chiều dài 740 km, gồm 1 bến cảng, 79 bến bốc xếp và hơn 100 bến đò ngang.

Bằng những nỗ lực phấn đấu, từng bước khắc phục khó khăn trong giai đoạn đầu của quá trình đổi mới. Sự đầu tư cho việc phát triển cơ sở hạ tầng, sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và sự tăng nhanh về số lượng các phương tiện vận tải ®ã làm cho sản lượng vận tải trong những năm đầu chuyển đổi cơ chế, hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch. Khối lượng hàng hoá được vận chuyển hàng năm từ 1,2 đến 1,4 triệu tấn.Trong ®ã, vËn t¶i đường bé chiÕm 700

159

®Õn 800 ngh×n tÊn, đường biÓn chiÕm 5000 đến 6000 tấn/ năm; vận chuyển hành khách trung bình mỗi năm từ 2 triệu đến 2,4 triệu người. Các mặt hàng được vận chuyển hàng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch. Những mặt hàng chính được vận chuyển trong giai đoạn này là:

Than mỏ từ 250.000 đến 300.000 tấn/ nămPhân bón từ 50.000 đến 60.000 tấn/ nămĐá kè từ 100.000 đến 120.000 tấn/ nămMuối từ 60.000 đến 70.000 tấn/ nămMuối vận chuyển đi các tỉnh từ 130.000 đến 150.000 tấn/ nămTrong 5 năm đầu thời kỳ đổi mới (1986 - 1990), tổng khối lượng

hàng hoá được vận chuyển là 3.911.000 tấn, khối lượng hàng hoá luân chuyển là 662,8 triệu tấn/km. Bình quân, mỗi năm hàng hoá vận chuyển tăng 24,9%. Tổng số lượng hành khách được vận chuyển là 11.647 nghìn người, số lượng luân chuyển là 702 triệu người/km. Bình quân, mỗi năm số lượng hành khách được vận chuyển tăng 11,5%.

Tình hình sản lượng vận tải hàng hoá và hành kháchtrong 5 năm chuyển đổi cơ chế (1986 - 1990)

1986 1987 1988 1989 1990100(t)

Triệutấn/km

1000tấn (kh)

Triệu t.km

1000 tấn (kh)

Triệu t.km

1000 tấn (kh)

Triệu t.km

1000 tấn (kh)

Triệu t.km

Tổng số hàng hoá 1141 132 1148 131.7 1107 121.3 770 91.6 1500 181.2

Đường bộ 469 13.6 454 12.4 453 12.5 27.1 7.1 726 13.7

160

Quốc doanh 145 8 133 7 100 6 41 2 47 3Ngoài QD 271 2.3 261 2 294 2.8 179 2 628 7.5Ngành khác 52 3.3 60 3.4 59 3.7 51 3.3 51 3.2Đường sông 676 116.4 691 115.3 651 103.8 494 75.5 1070 160.5QD 148 37 148 40 136 36 81 25 101 33Ngoài QD 485 76 473 70 449 63 343 48 877 86.5Ngành khác 43 3.4 70 5.3 66 48 70 5.5 92 41Đường biển 1 2 3 4 3 5 5 6 4 7QD 1 2 3 4 3 5 5 6 4 7Tổng hành

khách 2037 108 2460 133 1407 135 1955 138 2785 188

Đường bộ 1737 95 2130 117 2167 124 1811 132 2708 185QD 1737 95 2130 117 2167 124 1811 132 1790 147NQD 918 38Đường sông 300 13 330 16 240 11 145 6 80 3QD 300 13 330 16 240 11 145 6 80 3Doanh thu (triệu đồng) 70.8 275.1 2209.

7 4959.6 7327.9

Doanh thu từ VTHH (triệu đồng)

53.8 1881 1320.7 2012.6 3321.4

Doanh thu từ VTHK (triệu đồng)

17 107 889 2947 4006

Nguồn: Số liệu thống kê Sản lượng vận tải hàng hoá và hành khách

2.2- Xây dựng cơ bản và quản lý giao thông.Trước thời kỳ đổi mới, hệ thống giao thông tỉnh Hà Nam Ninh bị

xuống cấp nghiêm trọng. Bước sang thời kỳ đổi mới (1986 - 1991), ngµnh Giao th«ng vËn t¶i ®· cïng c¸c tÇng líp nhân dân trong tỉnh, từng bước khắc phục khó khăn, quyết tâm tu sửa, nâng cấp và sắp xếp lại toàn bộ hệ thống giao thông trên địa bàn . Bao gồm: 359 km đường tỉnh, 68 km đường nội thành, nội thị; 33 km đường chuyên dùng, 827 km đường huyện; 87 km đường Trung ương uỷ thác. Hệ thống giao thông thủy, bộ về cơ bản đã hình thành tương đối hoàn chỉnh. Số vốn đầu tư xây dựng đường giao thông trong giai đoạn này, trung bình mỗi năm khoảng 5,5 tỷ đồng. Riªng n¨m 1991, sè vèn ®Çu ®¹t 13 tû 170 triÖu ®ång. Ngµnh ®· cã nhiÒu c¸ch lµm s¸ng t¹o, tËp trung đầu tư có trọng điểm, dứt điểm từng công trình, từng tuyến đường. Thực hiện khoán sản phẩm tới từng đội sản xuất, từng người công nhân nên chất lượng của các công trình được nâng lên rõ rệt. Khắc phục được tình trạng xuống cấp trên một số tuyến

161

đường quan trọng như quốc lộ 21, quốc lộ 10… đồng thời phá bá những cầu, cống t¹m, nhá hÑp thay vào đó là những cầu, cống xi măng cốt thép vĩnh cửu.

Thời gian này, tỉnh đã quyết định giao cho ngành Giao thông vận tải xây dựng cầu Đò quan - một cây cầu vĩnh cửu, hiện đại và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị ở địa phương.

CÇu §ß quan b¾c qua s«ng §µo, nèi liÒn thµnh phè Nam §Þnh víi 6 huyÖn phÝa Nam tØnh được khëi c«ng x©y dùng ngµy 19/3/1989, cÇu dµi 435m, c¸c nhÞp dÇm lµ b»ng bª t«ng cèt thÐp vµ bª t«ng cèt thÐp dù øng lùc, dÇm liªn hîp, mÆt cÇu réng 12,5m, t¶i träng thiÕt kÕ H30, XB 80.

Tæng sè vèn ®Çu x©y dùng cÇu lµ 49 tû ®ång. §Ó trùc tiÕp qu¶n lý, ®iÒu hµnh, x©y dùng cÇu, tØnh ®· thµnh lËp Ban qu¶n lý x©y dùng cÇu do ®ång chÝ NguyÔn Träng DÇn - phã Gi¸m ®èc Së giao th«ng vËn t¶i lµm Trëng ban(n¨m 1991 ®æi thµnh XÝ nghiÖp qu¶n lý x©y dùng vµ khai th¸c cÇu §ß Quan). Sau h¬n bèn n¨m dån søc x©y dùng, ngµy 24/7/1994 cÇu §ß Quan ®-îc kh¸nh thµnh, ®a vµo sö dông ®¸p øng ®îc nhu cÇu giao th«ng cña c¸c vïng miÒn vµ khu vùc, t¹o ®iÒu kiÖn ®Ó më réng thµnh phè Nam §Þnh vÒ phÝa Nam s«ng §µo, t¨ng thªm vÎ ®Ñp duyªn d¸ng cho thµnh phè cæ. Vì vËy, hệ thống giao thông toàn tỉnh được đảm bảo thông suốt, an toàn, thuận tiện cho ®i l¹i cña nh©n d©n.

Sau khi sắp xếp lại hệ thống giao thông đường bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, Sở Giao thông vận tải đã uỷ thác cho các huyện, thành, thị quản lý 315 km đường tỉnh, 68 km đường nội thành, nội thị. Các huyện đã có sự phân công, chỉ đạo, giải quyết thêm vốn, ngày công và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn được cấp để quản lý, sửa chữa, nâng cấp hệ thống đường bộ trên địa bàn. Nhờ đó, công tác xây dựng cơ bản trong giai đoạn này luôn hoàn thành đúng chỉ tiêu kế hoạch. ChØ tÝnh riªng trong 3 n¨m(1986-1988) ®· rải mới và sửa chữa đường nhựa lµ: 58,8 km, rải mới và sửa chữa đường ®¸ dăm 84,5 km; xây dựng được một cầu bê tông cốt thép; xây mới 24 cống thoát nước.

162

Trong công tác xây dựng cơ bản và quản lý giao thông, nét nổi bật nhất là hoàn thành việc phân cấp quản lý và bàn giao các cơ sở vật chất cho cấp huyện. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường vai trò của cơ sở. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện cũng gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là tình trạng thiếu vốn, thiếu thiết bị kỹ thuật phục vụ cho công tác xây dựng cơ bản. Năm 1989, mục tiêu xã hội đặt ra rất lớn cả về quy mô công trình, khối lượng công việc cũng như nguồn vốn đầu tư. Trong khi đó, hạn mức trong kế hoạch lại rất hạn chế, một số công trình phải hoãn thi công, các đơn vị, xí nghiệp phải khai thác việc làm cho công nhân. Tình trạng đó dẫn đến số công nhân phải chờ việc cũng rất nhiều, khoảng 1260 cán bộ công nhân (chiếm 25%). Trước tình hình đó, các đơn vị, xí nghiệp đã tổ chức lại lực lượng sản xuất, phân công lao động, thực hiện khoán sản phẩm đến từng người lao động. Đổi mới sự chỉ đạo, đổi mới cách nghĩ, cách làm. Cùng với sự chỉ đạo chuyên ngành cña Bé, Sở Giao thông vận tải đã kết hợp chặt chẽ với các huyện, thành, thị tạo ra được sự đồng tâm hiệp lực, thống nhất quan điểm trong nhiệm vụ xây dựng và phát triển giao thông vận tải.

Một trong những vấn đề hết sức cấp bách mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra trong phương hướng, mục tiêu của 5 năm kế hoạch lần thứ nhất (1986 - 1990) là: "Về giao thông trước mắt chủ yếu là đầu tư khôi phục và bảo dưỡng đường xá, cầu cống, động viên khả năng của Nhà nước và nhân dân mở mang giao thông nông thôn…"33

Đại hội Đảng bộ tØnh Hà Nam Ninh lần thứ IV trong phương hướng nhiệm vụ 5 năm lần thứ nhất cũng đã xác định: "Tăng cường quản lý các tuyến đường, sửa chữa các tuyến đường, tiến hành phân cấp, uỷ thác cho các huyện, thành, thị quản lý, tập trung đầu tư sửa chữa mặt đường, khắc phục bằng được mặt đường xuống cấp, tích cực phát triển giao thông nông thôn phục vụ yêu cầu sản xuất và đi lại của nhân dân". Thùc hiÖn sù chØ ®¹o cña Trung ¬ng vµ cña tØnh, ngµnh Giao th«ng vËn t¶i ®· tËp trung huy ®éng nguån vèn cho x©y dùng c¬ b¶n, u tiªn söa ch÷a, kh«i phôc c¸c c«ng tr×nh giao th«ng vµ ph¸t triÓn giao th«ng n«ng th«n.

33 Phương hướng nhiệm vụ 5 năm lần thứ nhất (1986 - 1990) Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI.

163

Tổng số vốn đầu tư cho công tác xây dựng cơ bản tăng lên theo từng năm, khối lượng đào đắp đất đá, më réng nền đường cũng được tăng lên. Năm 1986, tổng số vốn đầu tư cho công tác giao thông nông thôn là 445.194.000 đ, cùng với 2.930.890 ngày công lao động, đã đào đắp được 891.308 m3 đất, đá các loại; làm mới 828.825 m2 mặt đường và sửa chữa bảo dưỡng 996.657 m2 mặt đường. Đến năm 1990, với tổng số vốn đầu tư cho giao thông nông thôn đã tăng lên từ 1 tỷ 461 triệu đồng, với ngày công lao động là 1.664.163 công, đào đắp được 487.534 m3 đất, đá, vật liệu rải mặt đường (sỏi, đá) là 176.572 m3, rải được 1.173.834 m2 mặt đường, và làm mới là 745.392 m2 mặt đường, sửa chữa là 428.442 m2, làm mới và sửa chữa được 70 cầu cống với tổng chiều dài là 412 m. Như vậy, nếu tính tỷ lệ tổng số vốn đầu tư cho giao thông nông thôn của năm 1990 so với năm 1986 tăng là 228%. Nh×n chung, vèn ®Çu tư vµ tiÕn ®é thi c«ng c¸c c«ng tr×nh giao th«ng trong giai ®o¹n nµy ®¹t kh¸. §Æc biÖt, n¨m 1991 tiÕn ®é thi c«ng c«ng tr×nh cÇu §ß Quan được ®Èy m¹nh, ®¹t khèi lượng 6,2 tû ®ång víi chÊt lượng kü thuËt ®¶m b¶o tèt, c«ng tr×nh bÕn xe Nam §Þnh ®· hoµn thµnh được viÖc gi¶i phãng mÆt b»ng, ®Èy m¹nh tiÕn ®é thi c«ng ®Ó ®i vµo hoµn thiÖn.

Thể hiện sự quyết tâm đưa sự nghiệp giao thông vận tải của tỉnh phát triển theo đường lối đổi mới, cán bộ, công nhân viên của ngành đã có nhiều sáng kiến, sáng tạo trong công tác chuyên môn để thực hiện phương châm "ba chính" (dân làm là chính, vật liệu tại chỗ là chính, kỹ thuật phổ cập là chính) trong c«ng t¸c x©y dùng c¬ b¶n vµ ph¸t triÓn giao th«ng n«ng th«n.

Về công tác quản lý giao thông, trong thời kỳ 5 năm lần thứ nhất (1986 - 1990), thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Nam Ninh, Sở Giao thông vận tải luôn chú trọng tới việc xây dựng và nâng cấp các tuyến đường do Trung ương uỷ thác và các tuyến đường tỉnh quản lý. §ồng thời thường xuyên quan tâm chỉ đạo các đơn vị huyện, huy động mọi nguồn lực của địa phương để cải tạo, nâng cấp các tuyến đường do tỉnh uỷ thác. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn được cấp, cũng như nguồn vốn của địa phương để quản lý và sửa chữa toàn bộ hệ thống giao thông của tỉnh.

164

M¹ng lưới giao th«ng cña tØnh tÝnh ®Õn n¨m 1991 gåm cã:

- Đường Trung ương quản lý là 122 km- Đường bộ do Trung ương uỷ thác cho tỉnh quản lý là 87,4 km- Đường bộ tỉnh là 265 km- Đường thành phố, thị xã là 53,8 km- Đường bộ huyện là 659 km- Đường xã và liên xã là 3.738 km- Đường thôn, xóm, nội đồng là 4.031 km- Cầu, cống: 627 cây cầu với tổng chiều dài 2.244m

335 cống các loại với tổng chiều dài 804 mCùng víi 740 km đường sông của 28 sông, trong đó có 4 sông do

Trung ương quản lý là Sông Hồng, Sông Đáy, Sông Ninh, Sông Đào và 160 bến đò ngang.

Trong đó, đường bộ Trung ương uỷ thác đã rải nhựa 100%, đường tỉnh mới rải nhựa được 10% và rải đá dăm được 40%. Đường huyện tỷ lệ rải nhựa chỉ đạt 0.75%. Đường xã và liên xã đã được cải tạo làm mặt cứng 60%, còn lại đường đất chiếm 40%. Đường thôn, xóm và đường nội đồng làm mặt cứng được 2.030 km còn lại 2.001 km là đường đất.

Trong nh÷ng năm đầu thời kỳ đổi mới (1986 - 1991), bằng những nỗ lực vượt bậc của mình, đội ngũ cán bộ công nhân viên ngành Giao thông vận tải dưới sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp và thường xuyên của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh cùng toàn thể nhân dân đã từng bước khắc phục khó khăn chung để ®Èy m¹nh c«ng t¸c giao th«ng, gãp phÇn phát triển kinh tế- xã hội. Nhờ sự phát triển của hệ thống giao thông từ tỉnh đến cơ sở được thuận tiện nên đã đáp ứng được nhu cầu phục vụ sản xuất và đi lại của nhân dân. Bên cạnh đó góp phần thúc đẩy sự giao lưu, thông thương về kinh tế, văn hoá… giữa các vùng, đặc biệt là phục vụ cho nhiệm vụ chính trị và an ninh quốc phòng của tỉnh.

2.3- S¶n xuÊt c«ng nghiÖp:Để đáp ứng yêu cầu về sản xuất kinh doanh trong thời kỳ chuyển

đổi cơ chế, ngành Giao thông vận tải đã biết phát huy thế mạnh của mình trong sản xuất công nghiệp vận tải. Ngành nhanh chóng đổi mới toàn diện cơ chế quản lý đến chất lượng sản phẩm. Bằng tư duy sáng

165

tạo và bàn tay lao động cần cù của đội ngũ cán bộ công nhân viên ở các đơn vị, xí nghiệp sản xuất công nghiệp nên có nhiều công ty, xí nghiệp đã có khả năng đóng mới, xuất khẩu tàu, thuyền, ca nô, sà lan, phao… có trọng tải từ 25 đến 30 tấn, tiêu biểu như xí nghiệp đóng tàu Quyết Thắng, Nhà máy đóng tàu Sông Đào, Xí nghiệp liên hiệp vận tải ô tô Nam Hà. Thành công mới trong sản xuất công nghiệp là đã đóng mới và đưa vào sử dụng 4 tàu hàng loại 400 tấn ở Nhà máy đóng tàu 1-5, hoàn thành và bàn giao tàu Hải Âu (150 giường) cho cảng Hải Phòng của xí nghiệp Quyết Thắng. Chính những thành công này đã mở ra một hướng mới trong công nghiệp vận tải, đồng thời nâng cao năng lực sản xuất của các cơ sở sản xuất công nghiệp. Mạnh dạn đầu tư vốn và cải tiến kỹ thuật để sửa chữa cải tạo, sản xuất ra các sản phẩm có tính ưu việt, có chất lượng đáp ứng kịp thời các yêu cầu của tình hình thực tiễn. Đặc biệt coi trọng khâu sửa chữa phương tiện vận tải như đại tu xe khách: năm 1990, xí nghiệp ô tô đã cải tạo, sửa chữa được 170 xe tải thành xe khách, cải tạo tàu sông, biển thành tàu đi Đông Nam Á.

Từ năm 1990 trở đi, ngành Giao thông vận tải đã thực sự bước ra khỏi cơ chế bao cấp, chuyển hẳn sang cơ chế thị trường, có sự cạnh tranh đòi hỏi các cơ sở phải đầu tư khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cải tiến mẫu mã và chất lượng sản phẩm, nâng cao công nghệ đóng mới và sửa chữa. Các xí nghiệp quốc doanh đã nghiên cứu sắp xếp lại cơ chế quản lý và tổ chức sản xuất, thực hiện cơ chế khoán sản phẩm. Nhờ vậy, hiệu quả được nâng cao, thực sự lấy lại được niềm tin đối với khách hàng. Kết quả thực hiện năm 1990 về giá trị sản lượng trong sản xuất công nghiệp là 2 tỷ 350 triệu đồng, đạt 97% kế hoạch, trong đó đóng mới các phương tiện vận tải đạt 100%. Điển hình cho phương thức làm ăn có hiệu quả là xí nghiệp Liên hiệp vận tải ô tô Hà Nam Ninh. Từ cuối năm 1990, Xí nghiệp bắt đầu hợp đồng với các tổ thợ ở các tỉnh phía Nam như Đà Nẵng, Quy Nhơn, Thành phố Hồ Chí Minh… để đóng bệ xe ô tô các loại, đồng thời đưa các tổ thợ của xí nghiệp mình vào học tập công nghệ kỹ thuật của các xí nghiệp bạn. Đội ngũ cán bộ công nhân viên của xí nghiệp đã chủ động đóng mới vá xe khách theo các mẫu mã và chủng loại khác nhau, đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Vì thế, sản lượng ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Riêng năm 1991, xí nghiệp đã đóng mới được 40 xe ô tô khách bằng 2.000 ghế. Các đơn vị khác cũng đang từng bước đi vào ổn

166

định và làm ăn có hiệu quả, làm cho tổng sản phẩm được đóng mới và sửa chữa tăng nhanh, cụ thể đóng mới được 14 tầu thuyền các loại, 153 các loại phương tiện được sửa chữa.

Công tác sản xuất công nghiệp trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế tuy gặp nhiều khó khăn, song các đơn vị sản xuất đã có nhiều cố gắng, tự thân vận động, ổn định sản xuất và từng bước vươn lên làm ăn có hiệu quả, cải thiện được đời sống cho cán bộ công nhân viên, thực hiện quản lý triệt để các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật, thực hành tiết kiệm trong đóng mới và sửa chữa phương tiện (có nơi đã tiết kiệm được từ 10 đến 12% chi phí). Chất lượng sản phẩm được đảm bảo hơn, thời gian sản xuất cũng rút ngắn hơn so với trước kia, tạo điều kiện để hạ giá thành sản phẩm và thu hút được nhiều khách hàng.

Song song với việc sản xuất, chức năng quản lý Nhà nước của ngành Giao thông vận tải đối với sản xuất công nghiệp được thực hiện triệt để, toàn diện. Qua làm tốt chức năng quản lý ®· tạo ra hành lang pháp lý để các cơ sở sản xuất, kinh doanh phát huy được tính độc lập, tự chủ trong môi trường cạnh tranh lành mạnh của cơ chế quản lý mới.

2.4- Giao thông vận tải cấp huyện:Giao thông vận tải cấp huyện là một bộ phận quan trọng trong hệ

thống giao thông nói chung, góp phần trực tiếp vào chiến lược phát triển kinh tế văn hoá xã hội và an ninh quốc phòng ở mỗi địa phương. Giao thông vận tải cấp huyện vừa là khâu đầu, vừa là khâu cuối của quá trình phát triển hệ thống giao thông và sản xuất hàng hoá của xã hội. Nhận thức được sâu sắc và đúng đắn về vai trò, vị trí của công tác giao thông cấp huyện, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Nam Ninh đã kiên trì vượt qua khó khăn, đóng góp nhiều sức người, sức của để phấn đấu hoàn thành kế hoạch phát triển hệ thống giao thông vận tải cấp huyện. Trong những năm cuối của giai đoạn thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất của thời kỳ đổi mới (1986 – 1990), mạng lưới đường bộ, đường sông, hệ thống bến bãi từ tỉnh đến huyện, xã, thôn, xóm… về cơ bản đã hình thành thống nhất, liên hoàn đáp ứng được yêu cầu đi lại và phục vụ cho sản xuất phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Công tác giao thông vận tải cấp huyện đã có những chuyển biến rõ rệt từ khi chuyển sang cơ chế quản lý mới. Các huyện, thành, thị đã vận dụng sáng tạo và đúng đắn các nghị quyết của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Giao thông vận tải, Sở Giao

167

thông vận tải tỉnh Hà Nam Ninh vào tình hình thực tiễn của địa phương. Với phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", các huyện, thị đã chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển hệ thống giao thông nông thôn, đầu tư cho söa ch÷a vµ ®ãng míi phương tiện vận tải. Dưới sự chỉ đạo chuyên ngành của Sở Giao thông vận tải, kết hợp chặt chẽ với sự quản lý của chính quyền địa phương đã tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển hệ thống giao thông vận tải cấp huyện. Các phòng giao thông vận tải đã tranh thủ nguồn vốn đầu tư, huy động sức người, sức của trong nhân dân, làm cho nhân dân nhận thức được lợi ích của công tác giao thông là tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội phát triển. Đưa nhiệm vụ phát triển giao thông vận tải vào các nghị quyết của Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã, từ đó phát động nhân dân tự góp công, góp của thi đua lập thành tích góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, phát triển giao thông nông thôn trong thời kỳ đổi mới.

Sau khi tiếp nhận sự bàn giao phân cấp quản lý, các huyện, thành, thị đã bắt tay ngay vào công tác cải tạo, sửa chữa đường tỉnh uỷ thác và đường trục huyện, phát động các xã đầu tư làm đường trục xã và đường liên thôn, xóm. Có thể nói phong trào giao thông vận tải cấp huyện được phát triển đồng đều, toàn diện và vững chắc. Các cấp uỷ Đảng, chính quyền cơ sở đã thực sự quan tâm, đầu tư cho công tác này. Toàn tỉnh đã đầu tư số vốn trị giá 24,82 tỷ đồng, trong đó dân đóng góp 14,64 tỷ đồng (chiếm 60%) và với 5,03 triệu ngày công.

Bằng nhiều biện pháp phong phú, đa dạng với nhiều cách làm sáng tạo đã đúc rút được những kinh nghiệm quý để thực hiện tốt phương châm "ba chính" (dân làm là chính, vật liệu tại chỗ là chính, kỹ thuật phổ cập là chính). Với khẩu hiệu "Đá hoá hệ thống đường trục xã, đường liên thôn, xóm", trong quá trình thực hiện phong trào đã có những gương điển hình như huyện Nghĩa Hưng đã đầu tư cho làm cầu đường trị giá 5,854 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn ngân sách cấp lµ 2 tỷ, (chiếm 34%). Đã rải được 2 km đường nhựa; 374 km đường đá dăm; 111 km đường cấp phối với tổng số ngày công lao động của dân đóng góp là 975.331. Huyện Nghĩa Hưng có tới 95% xã đã hoàn thành được đường trục liên xã, liên thôn, đồng thời cũng quy hoạch xây dựng mốc chỉ giới cho các tuyến đường huyện, đường tỉnh uỷ thác. Trong nhiều năm liền huyện liên tục dẫn đầu về công tác giao thông cấp huyện và giao thông nông thôn. Đặc biệt năm 1991 được Bộ Giao thông vận tải

168

tặng cờ thi đua kèm theo phần thưởng là một xe Lu trị giá 40 triệu đồng.

Các huyện Xuân Thuỷ, Vụ Bản, Ý Yên là những điển hình trong công tác giữ đường tốt. Đối với đường tỉnh các huyện đã góp thêm nhiều ngày công, vật liệu để duy tu, sửa chữa. Nhờ làm tốt khâu quản lý nên hệ thống đường bộ trên địa bàn không bị xuống cấp, sử dụng vốn, ngày công đầu tư cho giao thông vận tải đạt hiệu quả cao.

Những kết quả của phong trào giao thông vận tải cấp huyện trong giai đoạn này đã bổ sung và làm hoàn thiện thêm cho hệ thống giao thông trong toàn tỉnh. Góp phần chứng minh cho Nghị quyết 10/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về việc phân công phân cấp quản lý, đầu tư cho hệ thống đường bộ là đúng đắn, phù hợp với quan điểm đổi mới cơ chế hiện nay. Đồng thời cũng giải quyết được những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp. Khi nông nghiệp được phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, thì vấn đề giao thông nông thôn trở thành nhu cầu bøc thiết nhất để kịp thời đáp ứng những yêu cầu trong sản xuất. Thực tế ở nhiều huyện có phong trào giao thông vận tải tốt, các cấp uỷ, chính quyền quan tâm thì ở đó quần chúng, nhân dân sẽ hưởng ứng. Điều quan trọng là phải biết tổ chức, vận động sự tham gia đóng góp của nh©n dân, quản lý sử dụng thành quả lao động đó vào đúng mục đích, không để lãng phí, tiêu cực làm mất lòng tin của nhân dân.

Đi đôi với việc phát triển hệ thống đường giao thông, các huyện, thành, thị cũng rất chú trọng đến việc phát triển thêm những phương tiện vận tải vừa và nhỏ để chuyên chở hàng hoá, nông sản. Đặc biệt trong tình hình mới, xu thế sản xuất xe khách cỡ nhỏ, xe công nông đang được phát triển mạnh mẽ ở khu vực nông thôn. Vận tải nội đồng xe thồ để thay thế cho xe cải tiến cũng đã mang lại nhiều tiện ích cho sản xuất nông nghiệp. Theo kết quả thống kê bước ®Çu, trong giai ®o¹n nµy toàn tỉnh có khoảng hơn 1 nghìn xe công nông; hơn 200 xe khách loại nhỏ; 2.053 phương tiện vận tải cơ giới; 19.085 tÊn phương tiện vận tải thuỷ. Về cơ bản, công tác vận tải hàng hoá và hành khách đã đáp ứng được nhu cầu đi lại và sản xuất của nhân dân.

Tuy nhiên, bên cạnh những kÕt qu¶ ®· ®¹t ®îc, công tác giao thông vận tải cấp huyện vÉn cã những khó khăn, hạn chế cÇn ph¶i thường xuyên khắc phục, tháo gỡ. Giao thông vận tải cấp huyện tuy đã có phong trào rộng khắp, nhưng vẫn chưa đều, mức độ ở từng

169

nơi còn nhiều chênh lệch, mang tính tự phát chạy theo phong trào mà không chú ý đến chất lượng gây ra tình trạng làm tuỳ tiện, lãng phí. Khâu quản lý, giám sát, thiết kế dự toán kinh phí thi công không chặt chẽ thậm chí có những nơi khi phát động phong trào làm giao thông nhưng quy hoạch chưa có, việc kết hợp giữa giao thông và thủy lợi chưa hợp lý dẫn đến tình trạng làm rồi lại phá đi làm lại gây thiệt hại không nhỏ. Công tác quản lý duy tu sửa chữa đường giao thông cần phải được tiến hành thường xuyên, nhưng có nhiều nơi làm chưa tốt, gây ra tình trạng mặt đường bị xuống cấp ảnh hưởng đến đi lại và sản xuất của nhân dân…. Nguyên nhân của những hạn chế này chủ yếu là do nhận thức của một bộ phận cán bộ và nhân dân chưa đúng trong việc chấp hành các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về vấn đề đầu tư xây dựng cũng như kỷ cương trật tự xã hội về giao thông vận tải.

Phát huy truyền thống tốt đẹp, bằng sự lao động cần cù sáng tạo của cán bộ công nhân viên ngành giao thông vận tải trong những năm đầu chuyển đổi sang cơ chế thị trường đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong lĩnh vực giao thông vận tải cấp huyện. Có thể nói với những kết quả nhất định đó đã góp phần tích cực cho sự nghiệp phát triển giao thông vận tải nói chung và giao thông vận tải cấp huyện nói riêng ở những giai đoạn lịch sử tiếp theo.

2.5- Một số công tác khác: Ngành giao thông vận tải Hà Nam Ninh với chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn của mình đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định trong văn bản số 728/QĐ-UB ngày 3-5-1987 là cơ quan chức năng giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh quản lý ngành giao thông vận tải trên địa bàn toàn tỉnh với 4 mặt công tác cơ bản là: công nghiệp vận tải; xây dựng cơ bản vµ quản lý giao thông; sản xuất công nghiệp vận tải ; giao thông vận tải cấp huyện. Ngoài ra để có được những thành công nhất định trong các mặt công tác nói trên, ngành giao thông vận tải Hà Nam Ninh nói chung và các đơn vị trực thuộc nói riêng ®· thực hiện nhiều mặt công tác khác.

Về công tác tổ chức, sắp xếp lại sản xuất: Theo tinh thần đổi mới của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI và thực hiện nghị quyết của Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ IV đòi hỏi các đơn vị hành chính, sự nghiệp, các công ty, xí nghiệp phải có sự sắp xếp lại cơ cấu tổ chức hoạt động

170

sản xuất, kinh doanh cho phù hợp với tình hình thực tiễn của xã hội. Từ văn phòng Sở đến các đơn vị trực thuộc đã sắp xếp nhiệm vụ sản xuất, bố trí, phân công lực lượng lao động một cách hợp lý. Hầu hết các đơn vị trong ngành đã giảm bớt các phòng, ban, giảm tỷ lệ gián tiếp, phát huy được tính độc lập, tự chủ của các đơn vị trong quá trình sản xuất kinh doanh.

Sở giao thông vận tải đã nghiên cứu và đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh sắp xếp lại hệ thống đường bộ để phù hợp với đặc điểm và khả năng đầu tư của các huyện được tỉnh uỷ thác quản lý 872 km đường bộ. Đồng thời tiến hành phân loại các đơn vị sản xuất kinh doanh theo hiệu quả và khả năng của các đơn vị trực thuộc để từ đó đánh giá được thực chất sự hoạt động sản xuất kinh doanh của từng đơn vị, phát hiện ra những yếu kém để xử lý, khó khăn để tháo gỡ. Thực hiện nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 2 và nghị quyết số 07 của Ban chấp hành, các xí nghiệp quốc doanh trong toàn ngành đã sắp xếp lại tổ chức, giảm gián tiếp, phân cấp quản lý, sắp xếp lại các phân xưởng, tổ đội với cơ cấu lao động hợp lý, thành lập phân xưởng, tổ sản xuất phụ, tạo nguồn thu, tạo việc làm cho cán bộ công nhân viên. Năm 1990, đã tổ chức thanh tra 16 đơn vị trực thuộc ngành để xem xét đánh giá thực trạng về tổ chức sản xuất kinh doanh và chấp hành các chế độ chính sách của Nhà nước, tìm ra những khó khăn để cùng khắc phục như các vấn đề về vốn, kỹ thuật, cùng cơ sở làm việc trực tiếp với khách hàng, chấn chỉnh lại tổ chức sản xuất để ổn định đi vào làm ăn có hiệu quả, từng bước thích nghi với cơ chế thị trường. Các cơ sở đã xây dựng được cơ chế quản lý mới, đảm bảo thời gian sản xuất nhanh và tiết kiệm, tạo điều kiện cho việc hạ giá thành sản phẩm để cạnh tranh trong cơ chế thị trường.

Công tác tài chính: Hoạt động tài chính ở các đơn vị luôn được chú trọng, nhìn chung đã thích ứng được với cơ chế quản lý mới - tự hạch toán kinh doanh. Các đơn vị sản xuất kinh doanh có ý thức trách nhiệm cao trong việc bảo toàn vốn và tiến tới tăng trưởng vốn. Các đơn vị đã khắc phục được khó khăn, chuyển từ thế bị động sang thế chủ động trong sản xuất kinh doanh. Toàn ngành đã có 9/10 đơn vị phấn đấu làm ăn có lãi (mặc dù có những đơn vị đang gặp nhiều khó khăn). Trong thời kỳ đầu mới chuyển đổi cơ chế các đơn vị gặp nhiều khó khăn trong việc bồi dưỡng nghiệp vụ kế toán, thống kê. Đến những

171

năm cuối (1990 - 1991), 100% kế toán trưởng trong toàn ngành được đi học lớp tập huấn kế toán trưởng. Các chính sách về tài chính, tiền lương, tiền thưởng, phân phối đều được thực hiện một cách dân chủ công khai. Có thể nói, công tác kiểm tra kế toán, tài chính giữ vững được nề nếp theo định kỳ hàng tháng, hàng quý và từng năm. Kết quả là cuối năm 1991, toàn ngành giao thông vận tải không có đơn vị nào làm ăn thua lỗ. Việc chấp hành nộp ngân sách nhà nước được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, không có khê đọng. Toàn ngành đã thực hiện nộp ngân sách 837.626.000 đồng đạt 116% chỉ tiêu kế hoạch. Với những cố gắng vượt qua khó khăn từng bước vươn lên làm ăn có lãi, giao nộp thuế đầy đủ nên nhiều năm liền (1988- 1991), ngành Giao thông vận tải được tỉnh và Cục Thuế khen thưởng.

Công tác tổ chức đời sống và thi đua khen thưởng: Trong quá trình thực hiện Quyết định 176 của Uỷ ban nhân dân tỉnh đã giải quyết số lao động dôi ra là 89 người, nâng bậc lương cho 273 người, cấp đất cho 120 gia đình là m nhà với tổng diện tích là 6540 m2, tổ chức tham quan du lịch, nghỉ mát cho 837 lượt người. Bên cạnh đó ngành cũng quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề cho cán bộ và công nhân viên của ngành. Cụ thể năm 1990 sau khi tổng kết việc thực hiện Quyết định 217 đã cử được 6 đồng chí Phó Giám đốc Sở và Giám đốc cơ sở đi học bồi dưỡng ở Liên Xô. Đi học nâng cao trình độ có 7 đồng chí kế toán trưởng, 17 cán bộ vận tải, 15 cán bộ quản lý… tạo việc làm cho 2.347/2780 cán bộ công nhân viên bằng 84,4%. Giữ mức thu nhập bình quân đầu người luôn ở mức ổn định, cụ thể đối với vận tải 75.509 đồng/tháng, sản xuất công nghiệp là 46.136đ/tháng, xây dựng cơ bản 36.023 đồng/tháng.

Về thi đua khen thưởng, được duy trì thường xuyên, các đơn vị đều xác định được công tác thi đua và khen thưởng là nguồn cổ vũ, động viên cán bộ công nhân viên chức, khắc phục khó khăn. Đã có các phong trào thi đua giành năng suất cao trong lao động sản xuất như: thi đua đảm bảo chất lượng, kỹ thuật, thi đua tiết kiệm vật tư trong sản xuất; thi đua giữ phương tiện tốt và sạch đẹp an toàn, thi đua đảm bảo trật tự an toàn trong cơ quan, trong lao động sản xuất. Các phong trào thi đua lập thành tích cao thực sự đã có tác dụng kích thích, thúc đẩy sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

172

Phong trào thi đua lao động xã hội chủ nghĩa, phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật luôn được duy trì tốt trong toàn ngành, kết quả có 115, sáng kiến trị giá 480 triệu đồng. Điển hình cho phong trào phát huy sáng kiến là xí nghiệp Liên hiệp ô tô đã duyệt 74 sáng kiến làm lợi được 76 triệu đồng.

** *

Bám sát đường lối của Đảng, sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, cùng với các ngành, các cấp và toàn thể nhân dân, ngành Giao thông vận tải đã khắc phục những khó khăn gian khổ, nỗ lực phấn đấu để xây dựng và phát triển công tác giao thông trong giai đoạn (1976-1991). Hệ thống giao thông vận tải đã có sự phát triển đồng bộ, khắc phục được tình trạng ban đầu, hình thành một mạng lới giao thông toàn diện từ tỉnh xuống tận thôn, xóm. Đặc biệt từ năm 1986, bớc vào sự nghiệp đổi mới, ngành Giao thông vận tải đã thực sự bớc ra khỏi cơ chế bao cấp, từng bớc xây dựng một hệ thống giao thông đáp ứng được yêu cầu đi lại và phát triển kinh tế của địa phương, đặt nền móng cho các giai đoạn lịch sử tiếp theo.

173

CHƯƠNG VINGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI GIAI ĐOẠN 1992 – 1996

------

Thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ X Quốc hội khoá VIII, tỉnh Hà Nam Ninh được chia tách thành hai tỉnh Nam Hà và Ninh Bình bắt đầu hoạt động theo tỉnh mới từ ngày 1-4-1992.

Tỉnh Nam Hà nằm ở phía tây nam đồng bằng sông Hồng, đất đai chia thành 3 vùng vùng đồi núi, đồng bằng và ven biển. Bờ biển dài 72 km với nguồn lợi lớn khai thác thuỷ hải sản, kết cấu hạ tầng giao thông cơ bản hoàn chỉnh, kết nối liên hoàn trong nước và vươn ra các quốc gia trong khu vực. Vùng đồi núi với nguồn đá vôi có trữ lượng dồi dào để sản xuất vật liệu xây dựng cung cấp cho xây dựng cơ sở hạ tầng trong tỉnh và cả miền Bắc.

Thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ và Nghị quyết của Tỉnh uỷ Hà Nam Ninh số 32 ngày 31-1-1992 về việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khoá VIII, phân vạch địa giới hành chính tỉnh Hà Nam Ninh thành hai tỉnh Nam Hà và Ninh Bình, UBND tỉnh Hà Nam Ninh đã ra Quyết định số 160-QĐ/UB ngày 27-2-1992 về việc chia và chuyển giao bộ máy hành chính sự nghiệp và sản xuất kinh doanh của Sở, cơ quan ngang Sở tỉnh Hà Nam Ninh cho hai tỉnh Nam Hà và Ninh Bình. Chia tách Sở Giao thông vận tải Hà Nam Ninh thành hai Sở: Giao thông vận tải Nam Hà và Giao thông vận tải Ninh Bình.

1- Các đơn vị chia ra cho 2 tỉnh Nam Hà và Ninh Bình bao gồm: Văn phòng Sở, Xí nghiệp Liên hiệp vận tải ô tô, Công ty Vận tải sông biển, Xí nghiệp khảo sát thiết kế giao thông.

2- Các đơn vị chuyển giao cho tỉnh Nam Hà là: Nhà máy đóng tàu 1-5, Xí nghiệp Xây dựng và quản lý đường bộ 1, Công ty Xây dựng cầu, Xí nghiệp Dịch vụ kỹ thuật giao thông vận tải, Xí nghiệp Quản lý xây dựng và khai thác cầu Đò Quan, Ban Quản lý công trình bến xe Nam Định, đại lý vận tải.

3- Các đơn vị chuyển giao cho tỉnh Ninh Bình là: Xí nghiệp sửa chữa phương tiện thuỷ, Xí nghiệp Xây dựng và quản lý đường bộ 2.

174

Sau khi tỉnh Nam Hà và Ninh Bình chính thức hoạt động theo tính mới bắt đầu từ 1-4-1992, Sở Giao thông vận tải Hà Nam Ninh đã thực hiện việc chia tách bộ máy tổ chức và cán bộ theo Quyết định số 160-QĐ/UB. Sở Giao thông vận tải Nam Hà đã được UBND tỉnh Nam Hà quyết định tái lập, đi vào hoạt động theo địa giới hành chính mới.

- Từ bộ máy tổ chức của Sở Giao thông vận tải hiện có: Lãnh đạo Sở: Giám đốc - Đồng chí Trương Tôn Khả.

Phó Giám đốc - Đồng chí Hoàng Ngọc Mai, Nguyễn Trọng Dần, Đinh Công Ruấn.

Phòng Tổ chức hành chính, Phòng Tài vụ, Phòng Thanh tra pháp chế giao thông vận tải, Phòng Thu phí giao thông, tổ vận tải công nghiệp, tổ quản lý giao thông. Ngày 25-6-1992, Sở Giao thông vận tải Nam Hà lập dự án tổ chức lại bộ máy mới bao gồm: Lãnh đạo Sở, Phòng Tổ chức hành chính, Phòng Tài vụ, Phòng Thanh tra pháp chế giao thông vận tải, Phòng Thu phí giao thông, Phòng Vận tải - công nghiệp, Phòng Quản lý giao thông.

Đến ngày 7-7-1992, Sở Giao thông vận tải Nam Hà lại xây dựng đề án tổ chức sắp xếp lại bộ máy Văn phòng Sở và các đơn vị trực thuộc: Từ số cán bộ, công nhân viên hiện có sau khi chia tách bao gồm: Văn phòng Sở có 81 người (hành chính 31: người, sự nghiệp khác: 50 người).

- Khối hành chính sự nghiệp gồm các phòng:Phòng Tổ chức hành chính, Phòng Tài vụ thống kê, Phòng Thanh

tra pháp chế giao thông vận tải, Phòng Thu phí giao thông, tổ Vận tải - công nghiệp, tổ Quản lý giao thông.

- Các bộ phận sự nghiệp khác:Ban Quản lý công trình giao thông, Ban Quản lý bến xe ô tô

khách Nam Định, Ban đăng kiểm, Xí nghiệp Xây dựng quản lý khai thác cầu Đò Quan.

- Các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc Sở quản lý: Xí nghiệp Liên hiệp vận tải ô tô Nam Hà : 469 người.

Công ty Công trình giao thông : 161 người.Đoạn quản lý Cầu đường bộ : 449 người.Công ty Công trình Thanh Bình: 33 người.Công ty Vận tải sông biển Nam Hà : 298 người.Nhà máy đóng tàu 1-5: 286 người.

175

Công ty xây dựng cầu: 150 người.Xí nghiệp khảo sát thiết kế : 20 người.Xí nghiệp Dịch vụ kỹ thuật giao thông vận tải: 25 ngườiPhòng thường vụ Đại lý vận tải (thuộc Văn phòng Sở): 15 người.Phương án ngành tổ chức sắp xếp lại bao gồm: Đối với Văn

phòng Sở, tiếp tục giảm nhẹ biên chế hành chính sự nghiệp theo Quyết định 109/HĐBT ngày 12-4-1991 và Quyết định 11/HĐBT ngày 12-4 năm 1991 của Hội đồng Bộ trưởng. Cơ quan Sở bao gồm: Ban Giám đốc và các phòng hiện có đồng thời chuyển hai tổ chuyên viên thành phòng để phù hợp với công tác quản lý điều hành.

Các đơn vị sản xuất kinh doanh chia làm hai khối:Khối công nghiệp: Nhà máy đóng tàu Nam Hà: 266 người, Công

ty vận tải sông biển Nam Hà: 298 người, Xí nghiệp Liên hiệp ô tô Nam Hà: 496 người, Xí nghiệp Dịch vụ giao thông vận tải Nam Hà: 25 người.

- Khối xây dựng cơ bản: Xí nghiệp khảo sát thiết kế Nam Hà: 20 người, Công ty Xây dựng cầu đường Nam Hà: 250 người.

Trong khối xây dựng cơ bản có Xí nghiệp Xây dựng quản lý đường bộ theo Nghị định 151/HĐBT và Hướng dẫn số 286 -HD/BGTVT-BĐ sẽ tách lực lượng duy tu cầu đường bộ để tổ chức thành Đoạn quản lý cầu đường bộ Nam Hà - là tổ chức sự nghiệp kinh tế, kinh phí do nguồn duy tu của Trung ương và địa phương phân bổ theo kế hoạch hàng năm ngoài ra có thể làm công tác trung, đại tu đường bộ, xây dựng cơ bản nhỏ, phục vụ kịp thời cho sự nghiệp quản lý cầu đường bộ của tỉnh.

Thực hiện Nghị định 388/HĐBT và sự chỉ đạo của UBND tỉnh, Sở đề nghị Hội đồng thẩm định của tỉnh xét công nhận 5 đơn vị của ngành thành lập theo nghị định 388/HĐBT trong đợt bao gồm:

- Xí nghiệp Liên hiệp vận tải ô tô Nam Hà (1)

- Công ty vận tải sông biển Nam Hà- Xí nghiệp khảo sát thiết kế giao thông Nam Hà (2)

1 - Theo Quyết định số 592 -QĐ/UB ngày 2-12-1992 của UBND tỉnh về thành lập doanh nghiệp Nhà nước. Ông Hoàng Ngọc Mai là Giám đốc (1982-1985), ông Nguyễn Mạnh Hùng là Giám đốc (1985-1992), ông Đinh Công Ruấn là Giám đốc (1993-1996). 2 - Thời kỳ 1992-1996 (tỉnh Nam Hà) là Xí nghiệp Khảo sát thiết kế giao thông Nam Hà (1992-03/1995) sau đó là Công ty Tư vấn xây dựng giao thông Nam Hà (4/1995-1996). Ông Phạm Huy Thông là Giám đốc, ông Hoàng Thọ Dung là Giám đốc (1992-2001).

176

- Nhà máy đóng tàu Nam Hà- Công ty Xây dựng cầu đường bộ Nam Hà Còn lại một số đơn vị ngành sẽ đề nghị thẩm định vào đợt II.Khi tái lập tỉnh, thực trạng đường xá của tỉnh như sau:* Đường quốc lộ: Dài 122 km (100% nhựa) trong đó:

1A dài 35 km21A dài 53 km10 dài 34 km

* Đường tỉnh: 206 km (mặt nhựa 55 km; H8 - H13).* Đường huyện: 648,7 km (mặt nhựa 98 km, còn lại là đường đá

dăm; H6 - H8).* Đường xã, liên xã: 2.578 km (100% đường đá dăm; H6)* Đường thôn xóm: 4.717 km (53 km bê tông, 201 km lát gạch

nghiêng, còn lại là đường đá dăm và cấp phối).Về phương tiện vận tải:- Ô tô các loại có 1.693 cái. Trong đó:Xe tải: 845 cái = 4.425 tấnXe khách: 259 cái = 10.990 ghếXe du lịch: 558 cáiXe công nông: 1.825 cái- Phương tiện thuỷ: có 1.983 cái = 45.557 tấn, trong đó:Xà lan tự hành: 191 cái = 16.314 tấnXà lan không gắn máy: 52 cái = 9.900 tấnThuyền không gắn máy: 1.102 cái = 6.536 tấnThuyền gắn máy: 635 cái = 12.807 tấnCa nô khách: 2 cái = 160 ghếTàu đẩy : 16 cái = 2.240 CVDưới sự chỉ đạo của Sở, các đơn vị đều có đề án sắp xếp tổ chức

sản xuất kinh doanh theo tinh thần Nghị định 315/HĐBT của Hội đông Bộ trưởng, việc sắp xếp ổn định tổ chức đều hướng về giải pháp tìm việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm. Sở đã giải quyết nhanh chóng mọi công việc theo yêu cầu của các đơn vị, đồng thời phát huy quyền

177

chủ động sáng tạo của mỗi đơn vị trong việc xử lý những vấn đề kinh tế kỹ thuật và xã hội trong phạm vi quyền hạn của ngành.

Sau khi hoàn thành công tác ổn định tổ chức bộ máy trong toàn tỉnh theo địa giới tỉnh Nam Hà, các ngành các cấp trong tỉnh đã tập trung thực hiện những chủ trương của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh về phát triển kinh tế - xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nam Hà lần thứ VIII, xác định chủ trương và giải pháp thực hiện phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh từ khi tái lập tỉnh Nam Hà tới năm 1995 là “…tập trung khai thác tiềm năng của tỉnh phát huy triệt để mọi năng lực sản xuất …ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân … xây dựng tỉnh Nam Hà thành tỉnh giàu về kinh tế, mạnh về an ninh, quốc phòng, đẹp về lối sống mới XHCN” về mục tiêu cụ thể Đảng bộ quyết định: “Triển khai đồng bộ cơ chế quản lý mới, kiên quyết tổ chức sắp xếp lại sản xuất kinh doanh các ngành kinh tế trong tỉnh, nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất …”.

Đối với ngành Giao thông vận tải, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nam Hà lần thứ VIII chỉ rõ “Hoàn thành xây dựng cầu Đò Quan, cầu Quế, cầu Mai Độ, nâng cấp cầu phao Lạc Quần… và một số tuyến đường giao thông 21B, 21C đường 55, 54, 62…”.

Trong giải pháp thực hiện, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh yêu cầu ngành phải “Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác đầu tư theo hướng vốn ngân sách tập trung cho các công trình kinh tế trọng điểm, cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông”.

Ngành Giao thông vận tải Nam Hà đã nhanh chóng ổn định tổ chức, triển khai chức năng quản lý nhà nước, tổ chức chỉ đạo sản xuất kinh doanh theo Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Nhà nước và của tỉnh. Ngành đã có những văn bản cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước một cách đồng bộ và toàn diện. Trong năm 1992 ngành ra những văn bản hướng dẫn, thông báo chỉ thị cho các xí nghiệp, đơn vị chuyên ngành thực hiện các Quyết định 315/HĐBT, Nghị định 388/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng và Quyết định 595/UBND của Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thông tư số 650/BGTVT của Bộ Giao thông vận tải (về cấp lại bằng tàu sông cho các sĩ quan điều hành phương tiện thuỷ), Chỉ thị 03/UBND của Uỷ ban nhân dân tỉnh Quyết định 244/UBND của Uỷ ban nhân dân tỉnh… ngành Giao thông vận tải Nam Hà đã ra thông báo số 62/TCGTVT về việc phân công phụ trách từng mặt công tác chuyên môn của từng đồng chí lãnh đạo của Sở Giao thông vận tải. Đồng thời chỉ đạo rà soát lại toàn bộ phương án tổ

178

chức sản xuất kinh doanh của các xí nghiệp để sắp xếp lại bộ máy. Toàn ngành đã triển khai tập huấn Nghị định 388/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ) tới các xí nghiệp đồng thời triển khai luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân. Ngành đã thành lập Hội đồng thẩm định doanh nghiệp để phân tích xem xét 7 đơn vị kinh tế quốc doanh, lập phương án phân loại các doanh nghiệp để xử lý theo quy định hướng dẫn của UBND tỉnh.

Trong năm 1992 được tỉnh và Bộ Giao thông vận tải cho phép và quyết định thành lập 7 doanh nghiệp Nhà nước, bao gồm:

- Nhà máy đóng tàu 1-5 gồm: 254 cán bộ, công nhân viên chức.- Xí nghiệp Liên hiệp vận tải ô tô Nam Hà gồm: 481 cán bộ, công

nhân viên chức.- Công ty Công trình giao thông Nam Hà; 161 cán bộ, công nhân

viên chức.- Công ty Vận tải Sông biển: 271 cán bộ, công nhân viên chức.- Công ty vật tư kỹ thuật giao thông: 28 cán bộ, công nhân viên

chức.- Xí nghiệp Khảo sát thiết kế kỹ thuật giao thông Nam Hà gồm:

22 cán bộ, công nhân viên chức. - Công ty Cầu (Nhập về Công ty Công trình giao thông). - Đoạn quản lý đường bộ Nam Hà: 449 cán bộ, công nhân viên

chức.Xí nghiệp Xây dựng và quản lý cầu đường tái lập thành 2 đơn vị

mới là Công ty Công trình giao thông Nam Hà và Đoạn quản lý cầu đường bộ Nam Hà (thực hiện theo Nghị định 151/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng và Hướng dẫn 286 của Bộ Giao thông vận tải - Bưu điện). Tới cuối năm 1992, thực hiện Nghị định 388/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng toàn ngành không có đơn vị thuộc loại phải giải thể.

Từ năm 1992 đến năm 1996, trên cơ sở tổ chức được kiện toàn, toàn ngành Giao thông vận tải Nam Hà từ cơ quan Sở đến các đơn vị quốc doanh, hợp tác xã, các bộ phận giao thông vận tải cấp huyện, thành phố, thị xã tiếp tục phấn đấu hoạt động theo chức năng nhiệm vụ chuyên ngành. Cán bộ, công nhân viên chức ngành Giao thông vận tải thông qua việc quán triệt các chủ trương, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước, của Bộ Giao thông vận tải “đã nắm vững và vận dụng thực hiện đúng đắn chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước đối với công tác giao thông vận tải”. Nhờ vậy những bước đi của ngành đã đúng hướng

179

tạo cho các mặt hoạt động của ngành ngày một trưởng thành, năm nào cũng hoàn thành tốt kế hoạch Nhà nước giao, phục vụ đắc lực cho yêu cầu giao lưu hàng hoá phục vụ sản xuất, xây dựng phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng” (1).

Thực hiện cơ chế đổi mới, hoạt động của ngành Giao thông vận tải Nam Hà đã thực sự thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý Nhà nước chuyên ngành một cách đồng bộ, nghiêm túc, từng bước chấn chỉnh lập lại trật tự xã hội về giao thông vận tải. Quyền tự chủ của các cơ sở được giải quyết, giữ vững được sản xuất, nhiều đơn vị được bảo toàn được vốn, hoàn thành nghĩa vụ dối với nhà nước, đời sống của cán bộ, công nhân viên chức ngày một tốt hơn, chất lượng kỹ thuật trên các mặt sản xuất của ngành được đảm bảo và có nhiều tiến bộ, công tác kiểm tra, thanh tra kiểm soát được duy trì thường xuyên. Chế độ khoán quản, công tác quản lý và chỉ đạo sản xuất ở cơ sở đã chuyển biến rõ rệt. Công tác khoa học kỹ thuật, phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, thi đua lao động xã hội chủ nghĩa được phát động, duy trì có nề nếp tạo ra một khí thế lao động sản xuất hết sức sôi động trong toàn ngành.

Qua 5 năm (1992 - 1996) tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị và hoạt động của ngành trên hai lĩnh vực sản xuất kinh doanh, quản lý chuyên ngành theo chức năng nhiệm vụ và các quy định của Nhà nước, của tỉnh đã giành nhiều thắng lợi: “Từ năm 1994, 1995 toàn ngành đã thực sự vươn lên mạnh mẽ, sôi động, hoạt động đạt kết quả bằng nhiều năm trước” (2).

Về công tác vận tải, những năm đầu lượng hàng hoá bấp bênh, trật tự xã hội chưa được đảm bảo an toàn trong vận tải , hệ thống bến bãi còn thiếu và chưa hợp lý, chưa đáp ứng yêu cầu của nhiều thành phần vận tải cùng hoạt động trên địa bàn. Các thành phần tham gia hoạt động vận tải ngày càng phát triển, 5 năm đầu chuyển đổi cơ chế (1986 - 1990) lực lượng vận tải quốc doanh chiếm ưu thế trong vận tải hành khách, đến năm 1991 trở đi lực lượng vận tải quốc doanh giảm đi chỉ còn 50%, lực lượng vận tải ngoài quốc doanh từ chỗ không có đến năm 1995 đã chiếm 44,98% trong hoạt động vận tải hành khách (3).

Từ năm 1992 - 1996, mạng lưới giao thông cùng các bến bãi được mở rộng, nâng cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho phương tiện đi lại, 1- Báo cáo tổng kết 5 năm (1991-1995) của ngành Giao thông vận tải Nam Hà ngày 20-1-1996 tài liệu lưu tại Văn phòng UBND tỉnh.

2 - Báo cáo tổng kết 5 năm (1991-1995) của Sở Giao thông vận tải Nam Hà.3 - Theo nguồn số liệu thống kê của Trung tâm thống kê Bộ Giao thông vận tải.3

180

đã mở ra nhiều luồng, tuyến đi vùng sâu, vùng xa.Về phương tiện vận tải thuỷ, toàn ngành có 56.557 tấn, tàu vận tải

biển 2 chiếc: 1000 tấn; về phương tiện cơ giới: ô tô các loại có 5.400 phương tiện (trong đó xe công nông 2.600 xe) riêng Xí nghiệp Liên hiệp vận tải ô tô Nam Hà có 138 xe khách và 22 xe tải. Hàng năm vận chuyển trên 2 triệu người, gần 200 triệu người km với 90 tuyến hoạt động ngoại và nội tỉnh. Doanh thu trong vận tải 5 năm 1991 - 1995 là 94 tỷ 893 triệu đồng. Vận tải hàng hoá 244 triệu tấn km; vận tải hành khách được 775 triệu người km; tốc độ tăng trưởng 10% vận tải hàng hoá, 15% vận tải hành khách. “Công tác vận tải đến năm 1995 đảm bảo hoạt động đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu giao lưu hàng hoá phục vụ sản xuất, xây dựng phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh (1).

Năm 1995, khối lượng hành khách vận chuyển trên địa bàn tỉnh đạt khá cao. Về đường bộ 3.381,8 nghìn người (đường ô tô 3.088 nghìn người, đường bộ khác 293 nghìn người) khối lượng hành khách luân chuyển đường bộ: 324.584 nghìn người km. Khói lượng hàng hoá thực hiện trên toàn tỉnh, đường bộ: 899 nghìn tấn, đường thuỷ 1.809,4 nghìn tấn (đường biển pha sông 82,1 nghìn tấn, đường sông 1.727,3 nghìn tấn), khối lượng hàng hoá luân chuyển thực hiện đường bộ: 20.712,3 nghìn tấn km, đường thuỷ: 298.068,6 nghìn tấn km (đường biển 47.760 nghìn tấn km, đường sông 250.308,6 nghìn tấn km). Doanh thu khối vận tải quốc doanh năm 1996 là: 22.718 triệu đồng. Giá trị sản xuất theo giá hiện hành của ngành vận tải tỉnh là: 135.581 triệu đồng (2).

Riêng Xí nghiệp Liên hợp vận tải ô tô Nam Hà năm 1996 có 139 xe khách và 28 xe tải - doanh thu 18.838 triệu đồng (năm 1995 là 18.552.745.000 đồng).

Mặc dù thời tiết năm 1996 diễn biến rất phức tạp ảnh hưởng nhiều đến công việc vận tải hàng hoá và hành khách. Cơn bão số 2 xảy ra đêm ngày 23 - 24 tháng 7 năm 1996 và áp thấp nhiệt đới đổ bộ vào tỉnh gây mưa to gió mạnh đã gây nhiều thiệt hại về tài sản của Nhà nước và nhân dân (toàn tỉnh thiệt hại khoảng 500 tỷ đồng) trong đó có các công trình giao thông: thiệt hại về cầu đường và các trang thiết bị, nhà xưởng thuộc công tác đảm bảo giao thông phải chi phí phục hồi khoảng hơn 2 tỷ 244 triệu đồng. Tuy bị ảnh hưởng lớn nhưng cán bộ, công nhân viên chức toàn ngành vẫn quyết tâm khắc phục mọi khó khăn để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao.

1 - Báo cáo tổng kết 5 năm (1991-1995) của Sở Giao thông vận tải Nam Hà.2 - Niên giám thống kê - Cục Thống kê tỉnh Nam Định 1999.

181

Thực hiện chủ trương “tập trung khai thác mọi tiềm năng của tỉnh, giải phóng triệt để mọi năng lực sản xuất”. Sở Giao thông vận tải Nam Hà đã có nhiều biện pháp chủ động sáng tạo khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vận tải dưới sự quản lý chuyên ngành của Sở. Thực hiện Quyết định 738 -QĐ/UB của UBND tỉnh về công tác quản lý vận tải, ngay từ năm 1991 ngành đã có quyết định phân cấp cho các phòng giao thông huyện, thành phố, thị xã được quyền quản lý các phương tiện thuỷ có trọng tải bằng và dưới 50 tấn, ô tô ngoài quốc doanh, xe công nông, xe mô tô, xe lam, xe thô sơ, gắn với việc thu phí giao thông trên đầu các phương tiện được phân cấp.

Ngành có kế hoạch và cùng với Công đoàn ngành, Hiệp hội Giao thông vận tải tuyên truyền thành lập các nghiệp đoàn vận tải ở các huyện và thành phố sau đó đần đần chuyển thành hợp tác xã vận tải. Ngành cùng với Liên minh hợp tác xã tỉnh Nam Hà, Hiệp hội Giao thông vận tải, tổ chức củng cố hợp tác xã còn tồn tại từ thời kỳ bao cấp trước đây chuyển đổi đăng ký lại hoạt động theo mô hình hợp tác xã cổ phần hoặc hợp tác xã dịch vụ vận tải. Đến năm 1995 đã có 22 hợp tác xã, tổ hợp tác, công ty trách nhiệm hữu hạn, có xí nghiệp tư nhân và 5.216 hộ kinh doanh tập thể về vận tải. Tổng doanh thu vận tải ngoài quốc doanh năm 1995 khoảng 22 tỷ 292.905.000đồng. Trong cơ chế thị trường có nhiều thành phần tham gia vận tải thì Xí nghiệp Liên hiệp vận tải ô tô Nam Hà hoạt động có hiệu quả, năng động nhất. Năm 1992 Xí nghiệp Liên hiệp vận tải ô tô có 479 người đạt doanh thu 10 tỷ 207.648.914 đồng, Xí nghiệp Vận tải sông biển có 271 người đạt doanh thu 1 tỷ 835.763.418 đồng, Xí nghiệp đóng tàu 1-5 có 245 người đạt tổng doanh thu hơn 2 tỷ đồng.

Công tác vận tải trong những năm qua đã có những tiến bộ, số lượng phương tiện phát triển nhanh, kịp thời phục vụ cho nhiệm vụ chính trị của ngành. Phong trào thi đua “Giữ gìn tàu, xe tốt, lái tàu, xe an toàn có năng suất cao” được các đơn vị cơ sở hưởng ứng sôi nổi, đã có nhiều gương tốt về thái độ phục vụ, tận tình chu đáo được khách hàng mến mộ. Doanh thu của khối vận tải quốc doanh năm 1993 đạt 15.131 triệu đồng, năm 1994 đạt 16.565 triệu đồng, năm 1995 đạt 19.981 triệu đồng.

Riêng Xí nghiệp Liên hợp vận tải ô tô Nam Hà, doanh thu năm 1993: 17 tỷ 706.918.000 đồng, năm 1994: 16 tỷ 709.534.000 đồng, năm 1995: 18 tỷ 552.745.000 đồng.

Công tác quản lý phương tiện, lập lại trật tự trong vận tải trên địa bàn toàn tỉnh ngày càng chặt chẽ, nề nếp đúng với những quy định của

182

Nhà nước. Thông qua việc cấp giấy phép vận tải đường bộ, đường sông, ngành đã tổ chức các nghiệp đoàn vận tải để quản lý phương tiện theo luật pháp (bao gồm 8 nghiệp đoàn vận tải hành khách ngoài quốc doanh ở các huyện Xuân Thuỷ, Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Lý Nhân, thành phố Nam Định). theo kế hoạch đến năm 1996 ngành tiếp tục củng cố tăng cường công tác quản lý các phương tiện vận tải cá thể, vận tải tự do trên toàn địa bàn. Với các phương tiện vận tải thuỷ, ngoài các nghiệp đoàn, ngành đang tổ chức cho phương tiện tư nhân vào hợp tác xã với hai dạng: Hợp tác xã cổ phần và hợp tác xã dịch vụ hỗ trợ.

Là tỉnh đi đầu và thực hiện tốt Nghị định 36/CP và Chỉ thị 317/TTg của Chính phủ, tiếp nhận công việc của ngành Công an bàn giao sang ngành Giao thông vận tải theo Thông tư liên Bộ Nội vụ - Giao thông vận tải. Từ tháng 8/1995 đến đầu năm 1996 ngành đã cấp 11.000 bằng A1, A2 và chứng chỉ cho xe mô tô. Cấp 1.200 bằng lái xe ô tô. đã tổ chức kiểm định kỹ thuật cấp giấy phép lưu hành cho gần 1.700 lượt phương tiện đường bộ. Đồng thời thông qua việc cấp giấy phép hành nghề trên sông, ngành đã quản lý tốt hơn các phương tiện thuỷ từ 5 tấn đến 200 tấn. Cấp 220 bằng cho sĩ quan thuyền máy trưởng hạng nhì. Thời gian này toàn tỉnh có 160 bến đò ngang, ngành đã tổ chức cho các chủ phương tiện học tập các quy định về an toàn phương tiện và vận chuyển hành khách qua sông, (mở được 6 lớp cho 201/300 lái đò ngang học tập và cấp chứng chỉ, hành nghề, nhất là những lái đò ngang trên sông lớn của tỉnh). Đồng thời đã chỉ đạo các phòng giao thông cấp huyện tăng cường quản lý đò ngang thật chặt chẽ để tránh xảy ra những vụ đắm đò thật đáng tiếc.

Kết quả đạt được trong công tác vận tải của ngành Giao thông vận tải Nam Hà trong 5 năm (1991-1995) là khả quan, đáng trân trọng. Tuy nhiên trong công tác lãnh đạo chỉ đạo thực hiện, ngành Giao thông vận tải tỉnh vẫn còn những thiếu sót tồn tại: việc thực hiện chính sách thuế với nhà nước chưa đầy đủ, nhất là các đơn vị vận tải thuỷ.

Ngành chưa hoàn thành việc chấn chỉnh, quản lý lực lượng vận tải ngoài quốc doanh, mới thông qua cấp giấy phép để quản lý phương tiện, chưa nắm được sản lượng vận tải, chưa quản lý chặt chẽ xe công nông.

Các chủ phương tiện vận chuyển chưa chấp hành đúng giờ giấc xuất bến, đậu, đỗ, đón, trả khách còn tuỳ tiện, không đúng nơi quy định, vấn đề vi phạm luật lệ an toàn giao thông của người lái xe, lái tàu thuyền đang là tồn tại lớn của ngành cần sớm có giải pháp giải quyết.

183

Đối với sản xuất công nghiệp, những năm đầu của kế hoạch 5 năm (1991-1995) sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn vì thiếu việc làm, do khả năng cung cầu không ổn định. Việc sửa chữa đóng mới phương tiện bị hạn chế, vì thiếu vốn sản xuất nên sản xuất công nghiệp của ngành chậm phát triển. Nhưng những năm từ 1993 đến 1995 toàn ngành đã thoát được tình trạng chao đảo và đã thực sự bước ra khỏi cơ chế bao cấp, chuyển hẳn sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của Nhà nước. để thích ứng với thị trường, việc đóng mới và sửa chữa các phương tiện vận tải đòi hỏi phải cải tiến mẫu mã và chất lượng sản phẩm, nâng cao công nghệ để đảm bảo uy tín với khách hàng. Chính vì thế các đơn vị trong ngành, nhất là các xí nghiệp quốc doanh đã nghiên cứu sắp xếp bộ máy sản xuất, thực hiện cơ chế khoán quản đem lại hiệu quả cao, tạo được lòng tin với khách hàng.

Xí nghiệp Liên hiệp vận tải ô tô từ cuối năm 1990 trở đi đã thay đổi công nghệ đóng mới ô tô, Xí nghiệp tổ chức học tập kinh nghiệm của các tỉnh phía Nam (Đà Nẵng, Quy Nhơn, Thành phố Hồ Chí Minh) đã đóng được các bệ xe khách theo các mẫu khác nhau phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Do đó số lượng xe ra xưởng ngày càng tăng, những năm đầu sản xuất được 40 xe sau đó tăng lên 50 xe, tới năm 1995 Xí nghiệp đã đóng được 100 xe/năm, tăng 2 lần so với năm 1991. Xe khách của Xí nghiệp có nhiều kiểu dáng, đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật (1). Hàng năm Xí nghiệp đóng mới và đại tu các loại xe khách, xe tải được khách hàng chấp nhận.

Ngành Giao thông vận tải Nam Hà đã có 3 đơn vị có khả năng đóng mới tàu, thuyền, ca nô, sà lan thép từ 25 đến 50 tấn, đó là Xí nghiệp đóng tàu Quyết Thắng, Nhà máy đóng tàu sông Đào, Nhà máy đóng tàu 1-5. Các sản phẩm của các đơn vị đạt chất lượng cao, có tiếng vang trong thị trường cả nước. Các huyện trong tỉnh đều có cơ sở sản xuất, sửa chữa phương tiện vận tải, đã đảm nhiệm được các dịch vụ cho công tác vận tải. Toàn ngành Giao thông vận tải đã từng bước chuyển từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, tiến tới trang trải về vốn, các đơn vị đã tự đổi mới cả về cơ chế quản lý đến chất lượng sản phẩm, lấy việc phục vụ khách hàng là mục tiêu hàng đầu trong sản xuất kinh doanh. Từ năm 1995 trở đi các đơn vị của ngành đã có năng lực đóng mới tàu vận tải biển từ 400 tấn đến 600 tấn và sà lan thép 800 tấn.

Cùng các cơ sở sản xuất đóng mới phương tiện vận tải của ngành, các huyện, thị đều có cơ sở sản xuất, sửa chữa phương tiện vận tải thuỷ, 1- Báo cáo quá trình hoạt động của doanh nghiệp sau 10 năm đổi mới 1986 - 1995 của Xí nghiệp Liên hiệp vận tải ô tô Nam Hà (Xí nghiệp đã nhận được hợp đồng đóng xe khách cho một doanh nhân Campuchia).

184

bộ của địa phương, do đó phương tiện vận tải đa dạng, bên cạnh những phương tiện vận tải lớn làm chủ lực lượng vận tải đường dài, do các đơn vị trực thuộc ngành đảm nhiệm sản xuất và sửa chữa thì ở cấp huyện đã hướng vào việc cải tiến các phương tiện để phù hợp với địa hình đặc điểm sông ngòi, đường xá, ở địa phương phục vụ cho việc vận chuyển hàng hoá ở các luông lạch, đường xã, đường thôn tạo thành mạng lưới liên hoàn trong công tác vận tải phục vụ sản xuất nông nghiệp và kiến thiết nông thôn mới, đồng thời phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, giải quyết cho hoạt động vận tải trong toàn tỉnh cơ động thiết thực hơn.

Tốc độ phát triển về sản xuất công nghiệp ngày càng tăng: Giá trị tổng sản lượng thực hiện năm 1991: 5 tỷ 470 triệu đồng, năm 1992: 15 tỷ 216 triệu đồng, năm 1993: 17 tỷ 214 triệu đồng, năm 1994: 21,350 tỷ đồng, năm 1995 sản xuất công nghiệp đóng mới và sản xuất phương tiện bộ đạt 23.000 triệu đồng vượt 15% so với năm 1994. Bình quân các năm vượt 12% về tốc độ tăng trưởng. Năm 1996 giá trị sản lượng công nghiệp đạt 24 tỷ đồng.

Tuy nhiên sản xuất công nghiệp của toàn ngành ở thế không ổn định kể cả diện đóng mới và sửa chữa phương tiện thuỷ. Ngành Giao thông vận tải mới quản lý được lực lượng sản xuất thuộc ngành, về tình hình sản xuất công nghiệp sửa chữa phương tiện bên ngoài thì ngành quản lý chưa chắc. Những tồn tại này ngành Giao thông vận tải Nam Hà cần nghiên cứu đề xuất với tỉnh có giải pháp khắc phục để quản lý tốt hơn trong những năm tiếp theo.

Về mục tiêu, chỉ tiêu đầu tư xây dựng cơ bản của ngành Giao thông vận tải trong kế hoạch 5 năm (1991-1995) và kế hoạch năm 1996, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nam Hà lần thứ VIII và thứ IX đã xác đinh: ngành phải tổ chức xây dựng cơ bản, quản lý các công trình trọng điểm của tỉnh, khẩn trương và hoàn thành việc xây dựng cầu Đò Quan (Nam Định), hoàn thành cầu Quế, nâng cấp cầu phao Lạc Quần và khởi công xây dựng cầu Hồng Phú ở thị xã Phủ Lý (Hà Nam)…đến tháng 5-1996 Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX lại chỉ rõ “Cần tập trung nâng cấp đường giao thông, nhất là Quốc lộ 10, Quốc lộ 21 và các tuyến đường giao thông trục chính, nhựa hoá đường giao thông nội thành, nội thị, đường trục các xã ngoại thành. Đường giao thông nông thôn. Rải nhựa các đường trục xã và mặt cứng hoá các đường mặt thôn xóm. Đẩy mạnh tiến độ xây dựng và đưa vào sử dụng cầu Hồng Phú, triển khai xây dựng cầu Lạc Quần, cầu Thức Hoá, sửa chữa nâng cấp các cầu trên đường tỉnh lộ. Tỉnh Nam Hà cùng với tỉnh Thái Bình đề nghị với Trung ương khảo sát xây dựng cầu Tân Đệ, nâng

185

chất lượng bốc dỡ ở các cảng hiện có. Nhằm phát triển kinh tế hướng ngoại và khai thác lợi thế biển, ngày 19-4-1995 tỉnh đã khởi công xây dựng cảng biển Hải Thịnh, phấn đấu sớm đưa cầu tầu số 1 vào sử dụng và khai thác ở giai đoạn 1 (bước 1); trong năm 1996 ổn định tổ chức sản xuất và khai thác khi hoàn thành cầu tầu 2”. Thực hiện mục tiêu của tỉnh đề ra toàn ngành Giao thông vận tải Nam Hà đã tập trung cho công tác đầu tư xây dựng các công trình trọng điểm của tỉnh, công tác đảm bảo giao thông nông thôn. Năm 1992, tỉnh phát động phong trào làm đường giao thông nông thôn. Tất cả các huyện đều triển khai kế hoạch làm đường giao thông, “có thể nói 5 năm qua (1991-1995) công tác đầu tư xây dựng giao thông và giao thông cấp huyện đã phát triển mạnh mẽ nhất, năm sau đều hơn năm trước và trưởng thành nhiều về năng lực, trình độ xây dựng, đặc biệt là sự nghiệp giao thông nông thôn đã làm thay đổi hẳn bộ mặt đường xá của toàn tỉnh” (1).

Đối với công tác xây dựng cơ bản, đảm bảo giao thông, ngành Giao thông vận tải đã chỉ đạo đảm bảo giao thông thông suốt an toàn trong mọi tình huống, công tác xây dựng cầu đường có bước phát triển nhanh, mạnh mẽ, hoàn thành xây dựng nhiều công trình mới. Về giá trị xây dựng cơ bản, năm 1992 đạt: 11.148 triệu đồng, năm 1993 đạt: 27.358 triệu đồng, năm 1994 đạt: 23.450 triệu đồng, năm 1995 đạt: 71.245 triệu đồng, năm 1996 đạt: 56.290 triệu đồng.

Công trình cầu Đò Quan một công trình lớn nhất từ trước đến nay của tỉnh được khởi công ngày 19-3-1989, công trình được đầu tư 49 tỷ VNĐ. Sau 5 năm khẩn trương xây dựng cầu Đò Quan đã hoàn thành đưa vào sử dụng đảm bảo chất lượng. Tỉnh đã tổ chức lễ thông xe vào ngày 24-7-1994 đây là công trình trọng điểm của tỉnh được đưa vào sử dụng đã tạo cho các phương tiện giao thông có thể dễ dàng đi từ trung tâm thành phố Nam Định đến các huyện phía Nam của tỉnh, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội trong toàn tỉnh. Cây cầu vĩnh cửu còn tô đẹp cho cảnh quan hai bên bờ sông Đào, đánh dấu một mốc son về sự trưởng thành của ngành Giao thông vận tải, về kỹ thuật xây dựng cầu vĩnh cửu.

Cầu Quế, cầu vĩnh cửu vượt qua sông Đáy được khởi công ngày 1-4-1992 đã hoàn thành đưa vào sử dụng ngày 1-1-1996. Cầu phao Lạc Quần được ngành tập trung nâng cấp gần như toàn diện, thay toàn bộ phao xi măng lưới thép bằng phao thép đảm bảo ổn định và có sức chịu tải cao. Cầu phao Lạc Quần được nâng cấp toàn diện đã cùng với cầu Đò Quan thông xe tạo cho việc vận tải hàng hoá, hành khách thuận tiện 1 - Báo cáo tổng kết 5 năm (1991-1995) của ngành Giao thông vận tải Nam Hà.

186

thông suốt trên tuyến đường 21, từ vùng núi Hà Nam về tới miền biển Hải Hậu Nam Định.

Theo sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, sự chỉ đạo của UBND tỉnh, ngành đã chuẩn bị mọi điều kiện cho công tác khởi công xây dựng cầu Hồng Phú là cây cầu vĩnh cửu vượt qua sông Đáy. Công trình cầu Hồng Phú theo kế hoạch sẽ hoàn thành vào cuối năm 1996. Đối với cảng Hải Thịnh, ngành chỉ đạo thực hiện thi công theo kế hoạch, đã hoàn thành bãi chứa, hai cầu dẫn và cầu cảng dài 80 m. Năm 1995 đưa vào sử dụng khai thác thử một phần của cảng đã xây dựng xong năm 1995. Đến cuối năm 1996, ngành phấn đấu hoàn thành cầu cảng số 2.

Kể từ quý 4/1995 hệ thống quốc lộ 21 được kéo dài thêm từ thành phố Nam Định tới Hải Thịnh (trước đây dài 53 km đến nay quốc lộ 21 dài 110 km) đảm bảo thông thương hàng hoá, hành khách trong phạm vi toàn tỉnh, cũng như giữa tỉnh Nam Hà với các tỉnh phía Bắc, phía Nam của cả nước. Có thể nói con đường quốc lộ 21 là huyết mạch giao thông của tỉnh đã được đầu tư nâng cấp xây dựng cả phần mặt đường và các cầu một cách hoàn chỉnh, góp phần cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, cải thiện đời sống nhân dân “đường giao thông đi tới đâu văn minh xuất hiện ở đó”.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII của tỉnh, các Chỉ thị và Quyết định của UBND tỉnh về nâng cấp nhựa hoá các tuyến đường quốc lộ, tỉnh lộ, ngành Giao thông vận tải Nam Hà đã tổ chức thi công xây dựng nâng cấp các tuyến đường 21B, 21C, đường 55,54,62 theo kế hoạch hàng năm và theo đúng Nghị quyết 385/CP của Chính phủ. Qua 5 năm thực hiện mạng lưới đường bộ gồm quốc lộ, tỉnh lộ nhìn chung đã thay đổi hẳn, các tuyến đường được nâng cấp mặt đường nhựa, đá. đặc biệt là quốc lộ 21 đã làm mặt nhựa hoàn toàn; đường 55 đã làm mặt nhựa 15 km, đang thi công làm tiếp đến km 23, đường 62 đã làm mặt nhựa 10 km, đang thi công làm tiếp đến km 15, đường 51, 54 đã mặt nhựa hoá hoàn toàn.

Mặt đường ở các đường, phố thành phố Nam Định và thị xã Hà Nam đã được nhựa hoá toàn bộ các đường phố lớn (làm mới trên 20 km mặt đường nhựa ở thành phố, thị xã).

Ngành chỉ đạo và tạo điều kiện cho các đơn vị tiếp tục thi công nút giao thông Phủ Lý (giữa quốc lộ 21 và quốc lộ 1) sẽ hoàn thành vào cuối năm 1996, cùng với cầu Hồng Phú với tổng kinh phí do Bộ Giao thông vận tải đầu tư là 108 tỷ đồng. Ngành Giao thông vận tải Nam Hà đã phối hợp với ngành Giao thông vận tải tỉnh Hải Hưng thi công bến

187

phà Yên Lệnh trong đó tỉnh Nam Hà đóng góp 1,5 tỷ đồng, ngành đã chỉ đạo thi công xong đường xuống bến phà ở phía địa phận Nam Hà.

Từ năm 1991-1995 ngành Giao thông vận tải Nam Hà đã tổ chức thực hiện nâng cấp đường bộ của tỉnh có độ dài 233,5km/318km, đạt 75% mặt đường nhựa có chất lượng mặt đường tốt, tổng kinh phí đầu tư 100 tỷ đồng trong đó năm 1995 là 52 tỷ, những tuyến đường chính đã được nâng cấp.

Công tác giao thông cấp huyện từ năm 1993 trở đi được quan tâm đầu tư, chỉ đạo thực hiện phát triển mạnh mẽ. Đi đầu trong công tác làm đường giao thông nông thôn là huyện Xuân Thuỷ. Đặc biệt là từ năm 1995 UBND tỉnh đã ra Chỉ thị số 05/CT-UB ngày 11-2-1995 của UBND và HĐND tỉnh đã ra Nghị quyết tại kỳ họp thứ 2 khoá 10 ngày 21-2-1995 về chương trình phát triển giao thông trong 3 năm (1995-1997) Nghị quyết Hội đồng đã nêu rõ:

Vận động thực hiện phong trào toàn dân tham gia làm đường giao thông với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm trên tinh thần: đường thôn xóm do dân đóng góp tự làm; đường xã, liên xã do xã chủ động làm và được huyện hỗ trợ; đường huyện do huyện dứng ra tổ chức, cải tạo, nâng cấp và được tỉnh hỗ trợ. Phấn đấu nỗ lực hoàn thành việc cải tạo, nâng cấp các tuyến đường với các mục tiêu cụ thể:

- Hết năm 1995 phấn đấu hoàn thành cơ bản cải tạo, nâng cấp các tuyến đường xã, liên xã, đường thôn xóm và các tuyến đường có lưu lượng xe qua lại nhiều, đặc biệt đầu tư các tuyến đường thông ra biển từ Nam Định đi Thịnh Long và các công trình giao thông quan trọng khác.

- Hết năm 1996: Hoàn thành cơ bản việc cải tạo, nâng cấp các tuyến đường do huyện quản lý và tiếp tục thi công các tuyến đường của tỉnh.

- Hết năm 1997: Hoàn thành nâng cấp các tuyến đường do tỉnh quản lý.

Thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 2 HĐND tỉnh và Chỉ thị số 05-CT/TU ngày 13-5-1995, tại huyện Xuân Thuỷ, nơi mở đầu phong trào nhựa hoá đường giao thông nông thôn với chất lượng cao, UBND tỉnh đã tổ chức hội nghị phát động toàn tỉnh ra quân thực hiện chương trình 3 năm phát triển giao thông đường bộ (1995-1997). Hưởng ứng phong trào do tỉnh phát động, các huyện, thành thị với quyết tâm cao đã xây dựng các đề án phát triển giao thông của cấp mình trong 3 năm và kế hoạch hàng năm, thực hiện nhựa hoá đường tỉnh, đường xã và đường

188

huyện bắt đầu từ 1995. “Sự nghiệp giao thông cấp huyện những năm qua đã đạt được kết quả thật to lớn, thực sự trở thành phong trào đồng loạt, sôi nổi sâu rộng trong nhân dân, góp phần làm thay đổi bộ mặt của thành thị và nông thôn mới, góp phần tích cực phát triển kinh tế, đời sống, sự đi lại của nhân dân , biến đổi cơ cấu kinh tế, đem lại lợi ích thiết thực cho mỗi địa phương, mỗi gia đình” (1). 5 năm 1991 đến 1995 toàn tỉnh đã đầu tư 342 tỷ đồng đưa vào làm đường giao thông nông thôn. Đường huyện đã làm được 495km/685km đạt 72%, đường xã đã làm được 2.841km/3.431km đạt 83%, đường thôn xóm làm được 3.276km/4.031km đạt 81,2%. Chỉ riêng năm 1995, giao thông nông thôn đã thực hiện được khối lượng công trình gấp 2 lần cả về khối lượng xây dựng và giá trị của 4 năm trước. Các cấp đã đầu tư 184 tỷ đồng trong đó nhân dân đóng góp 106 tỷ đồng, làm mới 1.708 km đường huyện trong đó có 361 km đường nhựa, xây đúc 415 cầu cống.

Đến hết năm 1996 toàn tỉnh đã thực hiện: đường tỉnh làm được 135 km, đường huyện: 176 km, đường xã: 817 km, đường thôn, xóm đạt 1.335 km và triển khai nâng cấp 145 cầu các loại, 679 cống quy ra bằng 4.197 m dài. Nhiều tuyến đường chính huyết mạch giao thông của tỉnh đã được nâng cấp cải tạo như đường 21 từ Nam Định đi cảng Hải Thịnh, đường 54 đi Xuân Thuỷ, đường 55 đến huyện lỵ Nghĩa Hưng… từ những đường trục này đã tạo cơ sở cho phát triển các đường nhánh đến huyện, đến xã. Đường tỉnh tuy vốn của Trung ương cấp cho tỉnh có hạn nhưng ngành đã xác định: đây là những con đường huyết mạch giao lưu nối tỉnh Nam Hà với Thủ đô và các tỉnh bạn nên ngành đã tham mưu cho tỉnh và chủ động phát huy mọi khả năng để nâng cấp cải tạo. Vì vậy quốc lộ 10 từ Ninh Bình đến phà Tân Đệ đã có mặt đường nhựa êm thuận, đường 21 đoạn từ Nam Định - Phủ Lý đã triển khai nâng cấp theo dự án cải tạo, ngành Giao thông vận tải đang khẩn trương triển khai công tác chuẩn bị cho việc khởi công xây dựng cầu Lạc Quần (vào dịp đầu năm 1997). Song song với công tác xây dựng nâng cấp các tuyến đường, toàn ngành đã triển khai thực hiện khối lượng giải phóng mặt bằng, giải toả hành lang bảo vệ giao thông và cắm mốc chỉ giới các tuyến đường theo Quyết định 449 của UBND tỉnh Hà Nam Ninh (ngày 31-7-1990).

Phong trào làm đường giao thông ở các địa phương trong toàn tỉnh đã trở thành phong trào quần chúng sâu rộng có tính đồng khởi, phát triển rộng khắp toàn diện và vững chắc, có nhiều hình thức phong phú và biện pháp tích cực, đạt kết quả khá cao. Huyện nào cũng có những xã điển hình về phong trào làm đường giao thông. Công tác 1- Báo cáo tổng kết 5 năm (1991-1995) của ngành Giao thông vận tải Nam Hà.

189

quản lý chất lượng kỹ thuật công trình giao thông được coi trong theo quy định của các cấp từ Bộ đến tỉnh, kể cả các công trình đường làng xã tới các công trình đường huyện, đường tỉnh. Nhiều địa phương đã tổ chức lực lượng cựu chiến binh, các đoàn thể xã hội tham gia giám sát chất lượng, khối lượng công trình. Các loại đường có kết cấu mặt đường tốt như đường nhựa, đường bê tông xi măng cường độ cao đã được chú trọng trong đầu tư năm sau cao hơn năm trước (mặt đường nhựa năm 1994: 44km, năm 1995: 320km, năm 1996: 380km. Mặt đường bê tông năm 1994: 164km, năm 1995: 210km, năm 1996: 414km). Những năm trước mặt đường chỉ có một lớp, nay đã thực hiện 2 lớp, cường độ chịu lực mặt đường cao hơn, cấp đường được nâng lên đảm bảo cho xe trọng tải nặng đi tới các trung tâm xã.

Việc xây dựng đường giao thông nông thôn cũng như đường đô thị đều được chỉ đạo lập kế hoạch chi tiết trên cơ sở quy hoạch được UBND tỉnh phê duyệt, nên các công trình đều phù hợp, thiết thực phát huy tác dụng. Đồng thời là cơ sở để quản lý chặt chẽ về kinh phí và giá thành công trình, tạo niềm tin trong nhân dân từ đó nhân dân hăng hái tham gia đóng góp thực hiện chương trình giao thông nông thôn của tỉnh đề ra.

Đến năm 1996, 100% số xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh có đường trục cấp 5 cho xe tải chạy về tới trung tâm xã. Trên cơ sở có đường trục của xã nhiều thôn xóm đã xây dựng được đường làng, đường xóm khang trang sạch đẹp, bộ mặt nông thôn thật sự đổi mới.

Trong phong trào làm đường giao thông xuất hiện nhiều đơn vị điển hình cấp huyện: huyện Xuân Thủy năm 1996 đã đầu tư 69.100 triệu đồng đào đắp tạo nền đường 100.000 m 3, làm được 344 km đường các loại (tăng 35% so với năm 1995). Huyện còn làm chủ đầu tư 21 km đường nhựa của tỉnh giao cho huyện quản lý. Xuân Thuỷ là huyện dứng đầu cả nước về làm đường giao thông từ năm 1995, năm 1996 được Bộ Giao thông vận tải tặng cờ thi đua xuất sắc.

Huyện Hải Hậu năm 1996 đầu tư 47.100 triệu đồng làm được 368 km đường các loại, trong đó có 133 km đường nhựa, 211 km đường bê tông. Huyện được Bộ Giao thông vận tải tặng cờ thi đua xuất sắc.

Các huyện Nghĩa Hưng, Vụ Bản, Nam Ninh, Ý Yên, thành phố Nam Định đều đẩy mạnh công tác làm đường giao thông. Tuy nhiên nhiệm vụ còn lại trong chương trình giao thông 3 năm (1995-1997) của các huyện vẫn còn tỷ lệ khá cao như: huyện Vụ Bản còn 74%, huyện Ý Yên còn 73%…

190

Phong trào giao thông nông thôn được phát động rộng khắp trong toàn tỉnh nhưng thực hiện chưa đồng đều, mức độ đạt được của từng địa phương khác nhau, còn có huyện, có xã triển khai chậm, sự chỉ đạo thực hiện chưa thể hiện rõ quyết tâm cao nên hạn chế kết quả. Công tác quản lý chất lượng công trình giao thông còn nhiều vấn đề đáng quan tâm như thời gian bảo hành chua đảm bảo, còn có hiện tượng nứt, gẫy, bôn bật, biến dạng mặt đường, sụt lở mái đường. Công tác giải toả mặt bằng có nơi chưa làm dứt điểm. Việc phân cấp đường tỉnh, đường huyện trước đây nảy sinh những bất hợp lý. Việc xác định cho rõ chỉ giới xây dựng theo Quyết định 499 của UBND tỉnh với Nghị định 203 của Chính phủ quy định hành lang bảo vệ đường chưa được rõ ràng. Hệ thống đường tỉnh nhiều tuyến chính lịch sử để lại rất hẹp (hẹp cả nền và mặt đường, nhiều chỗ chạy song song với mương máng sát chân đường). Những vấn đề này đều ảnh hưởng đến tình hình giao thông và công tác nâng cấp đường theo các quy định mới. Khó khăn nhất là việc đẩy xa mương máng ra khỏi chân đường theo hành lang bảo vệ đường bộ.

Đối với công tác quản lý Nhà nước ngành Giao thông vận tải Nam Hà đã tổ chức thực hiện đúng chức năng đã quy định đối với lĩnh vực giao thông vận tải. Từ năm 1992, ngành đã có những văn bản chỉ đạo hướng dẫn, thông báo cho các đơn vị trực thuộc và phong trào giao thông cấp huyện thực hiện các Quyết định 315/HĐBT, Nghị định 388/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng cũng như Quyết định 595 UBND tỉnh, Thông tư số 650 Bộ Giao thông vận tải về cấp lại bằng tàu sông cho các sĩ quan điều hành phương tiện thuỷ; Chỉ thị 03-UBND tỉnh, Quyết định 244/UBND tỉnh; Chỉ thị 13-UBND tỉnh…ngành đã tổ chức 17 Hội nghị chuyên đề về vận tải, sản xuất công nghiệp, thu phí giao thông, xây dựng cơ bản để triển khai các Nghị định, Nghị quyết, Quyết định và các thông tư, Chỉ thị của Trung ương, của tỉnh để các đơn vị trong ngành và các địa phương tổ chức thực hiện, tiếp tục hoàn chỉnh cơ chế, trong chỉ đạo sản xuất kinh doanh, giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội theo dúng nguyên tắc và các quy định của Nhà nước, của tỉnh.

Năm 1993, ngành đã tham mưu với tỉnh triển khai hướng dẫn 56 văn bản pháp quy trong vận tải hành khách, hàng hoá, xây dựng cơ bản và Chỉ thị 03/LB.TC.GT liên Bộ Tài chính - Giao thông vận tải về quản lý cấp phát vốn sửa chữa lớn cầu đường bộ. Ngành tổ chức triển khai Quyết định 10/QĐ/UBND tỉnh về tiếp tục đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời chủ động mở các hội nghị: các chủ phương tiện ngoài quốc doanh, hội nghị trật tự an toàn giao thông, hội nghị triển khai

191

kiểm kê các công trình giao thông để xây dựng chương trình giao thông. Ngành chỉ đạo triển khai Quyết định 2491/QĐ/PCVT về thủ tục đăng ký tàu sông của Cục đường bộ Việt Nam và quy định cấp giấy phép hoạt động vận tải đường bộ.

Trong năm 1994, ngành đã tham mưu cho tỉnh và Bộ Giao thông vận tải triển khai Hướng dẫn 112 văn bản lập tờ trình, luận chứng kinh tế kỹ thuật cầu Lạc Quần, cảng Hải Thịnh, hướng dẫn kiểm tra đăng kiểm đò ngang, điều tra năng lực vận tải trong toàn tỉnh. Ngành còn xây dựng đề án và tổ chức thực hiện việc tách đoàn quản lý cầu đường bộ ra khỏi Công ty công trình giao thông, tách bến xe khách Nam Định ra khỏi Xí nghiệp liên hiệp vận tải ô tô Nam Hà. Tiến hành thành lập Công ty công trình Thanh Bình có trụ sở tại Bình Lục Hà Nam. Đồng thời tham mưu với tỉnh tổng kết 4 năm công tác giao thông vận tải nông thôn (1990-1993) tổ chức hội nghị vận tải phổ biến các quy định về các thủ tục cấp giấy phép vận tải cho các phương tiện vận tải theo quyết định 2491, 2309, 2418 của Bộ Giao thông vận tải.

Năm 1995, ngành tổ chức thực hiện Nghị định 177/CP của Chính phủ về quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản, quy chế đấu thầu của Bộ Xây dựng và Hướng dẫn số 23 của Bộ Giao thông vận tải; cùng với các ngành chức năng của tỉnh tổ chức sắp xếp, phân cấp lại các lực lượng vận tải để khuyến khích mọi thành phần tham gia vận tải; tổ chức lại lực lượng thanh tra pháp chế giao thông; tích cực triển khai cổ phần hoá doanh nghiệp, từng bước chuyển đổi các hợp tác xã phù hợp với điều lệ doanh nghiệp. Ngành tổ chức hướng dẫn các phòng chức năng của cấp huyện, triển khai công tác kiểm tra, thanh tra giao thông; đề nghị sắp xếp mỗi huyện có một thanh tra giao thông kết hợp với chính quyền xã, phường phát hiện, xử lý những vi phạm về quản lý chuyên ngành đối với người và phương tiện, quản lý chỉ giới xây dựng bảo vệ các công trình giao thông theo Pháp lệnh của Nhà nước quy định.

Từ năm 1991 đến năm 1996, ngành Giao thông vận tải từng bước tổ chức thực hiện sắp xếp tinh giảm bộ máy gọn nhẹ để đảm bảo hoạt động hiệu quả. Thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo Nghị định 388 của Chính phủ và Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8. Các đơn vị trong ngành đều sắp xếp tổ chức lại bộ máy gián tiếp đến tổ đội sản xuất phù hợp thực tiễn đặc điểm của mỗi đơn vị với phương châm “tất cả đều hướng vào việc làm, hợp lý dây chuyền sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm”, đồng thời phát huy quyền chủ động sáng tạo của đơn vị trong việc xử lý những vấn đề kinh tế - xã hội trong phạm vi quyền hạn của từng đơn vị.

192

Đối với công tác tài chính, toàn ngành thực hiện đúng chế độ quy định của Nhà nước, thông qua kiểm tra, các đơn vị đều có ý thức trách nhiệm trong việc bảo toàn vốn, phấn đấu tăng trưởng vốn. Hợp tác xã thực hiện cổ phần hoá huy động sự đóng góp của người lao động để cùng hoạt động kinh doanh đem lại lợi ích cho Xí nghiệp và người công nhân. Các đơn vị trong ngành khắc phục khó khăn về tiền vốn, tìm kiếm khai thác việc làm, tổ chức sản xuất đa dạng các mặt hàng đem lại hiệu quả tốt. Năm 1992 toàn ngành nộp ngân sách 903,7 triệu đồng đạt 116% kế hoạch, năm 1994: 1.533 triệu đồng đạt trên 100% kế hoạch, năm 1995: 1.373 triệu đồng, năm 1996: 1.952 triệu đồng. Ngành đã tổ chức phân cấp quản lý thu phí giao thông cho các đơn vị, địa phương nhờ đó tỷ lệ thất thu giám dần (năm 1992: 1.113 triệu đồng, năm 1993: 1.485,409 triệu đồng, năm 1994: 1.536 triệu đồng). Việc sử dụng ấn chỉ nộp thu phí giao thông được thực hiện chặt chẽ. Việc giao nộp và rút chi đều được thực hiện nghiêm túc đúng nguyên tắc. Tuy vậy trong thu phí giao thông các loại xe công nông, xe máy, thuyền không lắp máy chỉ thu được từ 15% đến 20% so với mức kế hoạch.

Song song với nhiệm vụ lãnh đạo chỉ đạo sản xuất kinh doanh, ngành Giao thông vận tải tỉnh đã quan tâm tới việc chỉ đạo thực hiện các Nghị định, Chỉ thị của Chính phủ về giao thông vận tải và đảm bảo an toàn giao thông.

Khi Chính phủ ban hành Nghị định 36/CP, Chỉ thị 317/TTg về đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ, trật tự an toàn giao thông đô thị, ngành đã tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng kế hoạch (151 và 254/VP5) thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Nghị định 36/CP của Chính phủ.

Theo sự chỉ đạo của Chính phủ, hướng dẫn của Bộ, ngành chức năng ở Trung ương về thực hiện Nghị định 36/CP, Chỉ thị 317/TTg, ngành đã phối hợp với các cấp các ngành trong tỉnh mở 3 đợt ra quan giải quyết an toàn giao thông đường bộ, an toàn giao thông đô thị. Ngành Giao thông vận tải tỉnh cùng với ngành Công an, Kho bạc Nhà nước tỉnh tổ chức tập huấn nghiệp vụ theo tinh thần Nghị định 36/CP và Chỉ thị 317/TTg, Nghị định 49/CP và pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính cho lực lượng cảnh sát giao thông, thanh tra giao thông … Ngành đã tiếp nhận một phần nhiệm vụ quản lý xe, lái xe từ ngành Công an chuyển sang, đảm bảo nhanh gọn đúng pháp luật; tham mưu giúp UBND tỉnh ra Chỉ thị về tăng cường các biện pháp đảm bảo an toàn giao thông đường thuỷ trong tỉnh tạo sự chuyển biến đồng bộ về an toàn giao thông đường trên địa bàn tỉnh Nam Hà. Toàn ngành đã chủ động cùng với các ngành có liên quan tích cực tuyên truyền sâu rộng

193

trong nhân dân về việc thực hiện Nghị định và Chỉ thị của Chính phủ. Do làm tốt công tác tuyên truyền nên chủ trương của Chính phủ về an toàn giao thông đã thấm nhuần tới mọi người. 100% các cơ quan xí nghiệp, trường học và các hộ nhân dân ở mặt phố, dọc hai bên đường giao thông đều tự nguyện cam kết với chính quyền không vị phạm Nghị định 36/CP, Chỉ thị 317/TTg. Ngành đã cùng các cấp, các ngành trong tỉnh triển khai việc bố trí sắp xếp trật tự công cộng như: giải quyết các địa điểm đỗ đậu xe sắp xếp trật tự ở các chợ, giải quyết trật tự vỉa hè. Đồng thời triển khai công tác phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm, nhất là bọn cướp giật, trộm cắp tài sản của công dân trên các phương tiện và trên các tuyến giao thông …

Kết quả bước đầu việc thực hiện Nghị định và Chỉ thị của Chính phủ về an toàn giao thông ở tỉnh Nam Hà là hiệu lực quản lý Nhà nước trên lĩnh vực an toàn giao thông đường bộ và đô thị được tăng cường, nhất là ở cấp cơ sở. Việc chấp hành các quy định về an toàn giao thông đã trở thành phong trào quần chúng rộng khắp. Ý thức tôn trọng pháp luật của mọi đối tượng được nâng cao hơn trước. Luật lệ an toàn giao thông từng bước đi vào cuộc sống, thấm vào mọi người dân. Ngành cũng có những hướng dẫn đồng thời kết hợp chặt chẽ với cấp huyện và thành phố Nam Định, thị xã Phủ Lý theo dõi sát sao việc thực hiện việc lập lại trật tự an toàn giao thông đường bộ và an toàn giao thông đô thị ở các đơn vị cơ sở. Công tác giải toả, đảm bảo chỉ giới xây dựng, bảo vệ hành lang đường bộ được triển khai ở tất cả các tuyến đường. Các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ và hầu hết đường huyện được cắm mốc chỉ giới xây dựng, một số nơi tổ chức cắm mốc lộ giới và bàn giao lại cho các cấp chính quyền, địa phương bảo vệ mốc đã cắm. Toàn tỉnh đã tổ chức giải toả: 32.275 trường hợp vi phạm, cắm 8.600 cọc tiêu, biển báo, mốc chỉ giới. Năm 1996, Ban chỉ đạo của tỉnh tổ chức đợt ra quân thứ tư triển khai tuyên truyền thực hiện Nghị định 36/CP, Chỉ thị 317/TTg kết hợp với tổ chức diễn tập phương án bảo vệ an ninh chính trị, bảo vệ an toàn xã hội theo nội dung Kế hoạch NH 95 của tỉnh. đến hét năm 1995 những vi phạm trên đường giao thông chính cơ bản đã được giải quyết, tai nạn giao thông giảm, chủ phương tiện đường bộ chấp hành luật pháp nghiêm chỉnh hơn trước, người dân đã am hiểu pháp luật về trật tự an toàn giao thông. Kỷ cương phép nước trong giao thông được coi trọng. Công tác giải toả vi phạm hành lang giao thông, trật tự vỉa hè, lòng đường đạt kết quả tốt, trật tự an toàn giao thông đã có tiến bộ rõ rệt, nếp sống văn hoá, kỷ cương phép nước trong giao thông được coi trọng. Việc thực hiện trật tự an toàn giao thông đã góp phần ngăn chặn,

194

đẩy lùi được hoạt động của bọn tội phạm, bảo vệ an toàn tài sản Nhà nước, tính mạng và tài sản của nhân dân.

Nhiều đơn vị có thành tích tốt trong việc triển khai thực hiện công tác an toàn giao thông được tỉnh biểu dương khen ngợi như Sở Giao thông vận tải thành phố Nam Định, huyện Nam Ninh, huyện Xuân Thuỷ, huyện Hải Hậu, huyện Vụ Bản, huyện Ý Yên, thanh tra giao thông. Tuy nhiên công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện Nghị định 36/CP, Chỉ thị 317/TTg ở tỉnh vẫn còn những tồn tại như công tác tuyên truyền giáo dục chưa thường xuyên liên tục. Duy trì phong trào và kết quả đạt được còn ở mức thấp. Sự phối hợp giữa ngành Giao thông vận tải và các cấp, các ngành trong tỉnh chưa thật nhịp nhàng, chưa chặt chẽ do đó kết quả lập lại trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đo thị hạn chế, ý thức chấp hành luật lệ giao thông của một bộ phận nhân dân chưa nghiêm túc, vẫn còn vi phạm trở lại nhất là tình hình trật tự vỉa hè lề đường, trật tự vệ sinh nếp sống văn minh đô thị…

Cùng với sự lớn mạnh của ngành, từ khi tái lập Sở, được sự chỉ đạo trực tiếp của UBND tỉnh, Hội đồng thi đua khen thưởng tỉnh, Liên hiệp Công đoàn tỉnh Nam Hà, hàng năm Sở cùng với Ban Chấp hành Công đoàn ngành Giao thông vận tải chỉ đạo các đơn vị tổ chức hội nghị công nhân viên chức, ký kết hợp đồng trách nhiệm giữa chính quyền và công đoàn, chỉ đạo các phong trào thi đua trong toàn ngành, giải quyết những kiến nghị của công nhân viên chức nhằm phát huy quyền dân chủ của mọi thành viên trong đơn vị, thảo luận và thống nhất các mục tiêu phấn đấu, biện pháp thực hiện hợp đồng tập thể hàng năm. Các phong trào do chính quyền và công đoàn phát động đều tập trung vào chủ đề lấy hiệu quả kinh tế làm gốc, chất lượng sản phẩm và độ tín nhiệm của khách hàng làm mục tiêu thi đua. Toàn ngành từ cơ quan sở đến các đơn vị trực thuộc, đã động viên mọi lực lượng lao động, phát huy tính tích cực của cán bộ, công nhân viên chức mở rộng thị trường, tìm kiếm công trình xây dựng ở ngoài tỉnh, nâng cao chất lượng, tiết kiệm vật tư trang kỹ thuật xây dựng cơ bản. Tập trung thực hiện mục tiêu “nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và an toàn lao động”. Đây là nội dung xuyên suốt trong quá trình tổ chức thi đua hàng năm của các đơn vị, ngoài ra các đơn vị còn phát động từng đợt thi đua phù hợp với nhiệm vụ chính trị của ngành, của từng đơn vị như ‘thi đua năng suất cao trong lao động sản xuất” “thi đua đảm bảo chất lượng kỹ thuật trong làm đường, làm cầu, khảo sát thiết kế” “thi đua tiết kiệm vật tư”; tổ chức các cuộc thi “giữ gìn xe tốt, lái xe an toàn, năng suất cao”. Các phong trào thi đua do ngành và các đơn vị phát động được công

195

nhân viên chức toàn ngành hưởng ứng sôi nổi đã có tác dụng khuyến khích sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống công nhân viên chức, người lao động.

Phong trào thi đua lãnh đạo xã hội chủ nghĩa, dành danh hiệu tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa được lãnh đạo ngành và công đoàn phát động hàng năm nhằm xây dựng một tập thể lao động xuất sắc, gắn bó đem lại lợi ích thiết thực cho đơn vị và cá nhân người lao động. Năm 1992 có 40 tổ lao động XHCN, 60 chiến sĩ thi đua được tôn vinh, Năm 1993 cũng có 40 tổ lao động XHCN, 45 chiến sĩ thi đua, 12 cán bộ, công nhân được đề nghị cấp bằng “lao động sáng tạo”. Năm 1994 ngành tôn vinh 36 tổ lao động XHCN, 54 chiến sĩ thi đua, 13 cán bộ, công nhân được đề nghị cấp bằng “lao động sáng tạo”.

Phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh đã trở thành phong trào quần chúng sôi nổi ở khắp các đơn vị. Năm 1991, toàn ngành có 115 sáng kiến làm lợi 480 triệu đồng, năm 1992, có 4 sáng kiến, 97 cải tiến quy trình công nghệ và hợp lý sản xuất, làm lợi 380 triệu đồng, năm 1993, có 103 sáng kiến làm lợi 200 triệu đồng, năm 1994, có 42 sáng kiến làm lợi hàng trăm triệu đồng….

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là nhiệm vụ được ngành quan tâm thường xuyên. Tới năm 1994 ngành đã đào tạo nâng bậc cho 114 công nhân viên chức, mở 3 lớp bồi dưỡng các uỷ viên giao thông xã gồm 123 người. Ngành cử 10 nhân viên kế toán học lớp kế toàn trưởng, 76 cán bộ đi học lớp cử nhân chính trị, 5 người đi học lớp trung, cao cấp hành chính quốc gia, 3 người dự học lớp Átxo do chuyên gia Mỹ hướng dẫn.

Nhằm khích lệ, động viên tinh thần lao động, sáng tạo của cán bộ, công nhân, lãnh đạo ngành quan tâm giải quyết hợp lý các chế độ, chính sách đối với người lao động, nhất là tiền lương, tiền thưởng, các chế độ quy định đối với nữ công nhân viên chức, kịp thời trợ cấp những gia đình công nhân, cán bộ gặp khó khăn. Từ đó cán bộ, công nhân yên tâm phấn khởi, hăng hái lao động, sản xuất ngày càng gắn bó với ngành Giao thông vận tải.

Công tác bảo vệ trật tự trị an, an toàn cơ quan xí nghiệp được ngành quan tâm chỉ đạo các đơn vị xây dựng màng lưới quần chúng bảo vệ an ninh trật tự. Ở các xí nghiệp, cơ quan đều có phương án phòng cháy chữa cháy đảm bảo an toàn cho người lao động và bảo vệ tài sản Nhà nước. Các đơn vị không để xáy ra vụ cháy nổ nào hoặc để xảy ra tai nạn lao động nghiêm trọng.

196

Không những chăm lo đời sông công nhân viên chức trong ngành, các đơn vị còn quan tâm đến công tác xã hội. Từ tháng 9 năm 1995, Ban Giám đốc Sở Giao thông vận tải và Công đoàn ngành đã giao cho các đơn vị cơ sở tổ chức chăm sóc suốt đời Bà mẹ Việt Nam anh hùng.

Xí nghiệp Liên hợp vận tải ô tô nhận chăm sóc Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Sửu và bà Phạm Thị Nụ ở xã Hải Phương huyện Hải Hậu.

Đoạn bảo dưỡng quản lý đường bộ nhận chăm sóc bà Nguyễn Thị Lan ở xã Hải Phương huyện Hải Hậu.

Công ty Tư vấn xây dựng giao thông nhận chăm sóc bà Phạm Thị Thìn ở xã Hải Phương huyện Hải Hậu.

Công ty Công trình giao thông nhận chăm sóc bà Nguyễn Thị Hồi ở xã Hải Giang huyện Hải Hậu.

Trong 5 năm (1992 - 1996), với tinh thần phấn đấu không ngừng, công tác giao thông vận tải đã đạt nhiều thành tích xuất sắc, nhiều đơn vị, địa phương đã nhận được những phần thưởng xứng đáng và cao quý của Nhà nước, Bộ Giao thông vận tải, UBND tỉnh trao tặng: năm 1991 Xí nghiệp Liên hiệp vận tải ô tô được Nhà nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng Ba, UBND tỉnh tặng cờ thưởng thi đua xuất sắc, Bộ Giao thông vận tải tặng cờ thi đua khá nhất và Hội đồng Bộ trưởng tặng cờ thưởng. Năm 1995 được Nhà nước tặng Huân chương lao động hạng Hai. Năm 1996 được Nhà nước tặng Huân chương chiến công hạng Ba. Bộ Giao thông vận tải và UBND tỉnh tặng cờ thưởng. Đảng bộ Xí nghiệp Liên hiệp vận tải ô tô được Tỉnh uỷ tặng Bằng khen vì đã phấn đấu liên tục 5 năm đạt Đảng bộ vững mạnh xuất sắc (1992-1996).

Huyện Nghĩa Hưng năm 1991, 1992 được Bộ Giao thông vận tải tặng cờ thưởng thi đua và được thưởng 1 xe lu trị giá 55 triệu đồng. Năm 1992 được thưởng 20 tấn nhựa đường. Năm 1996 được Bộ Giao thông vận tải tặng Bằng khen.

Huyện Xuân Thuỷ, năm 1991 được UBND tỉnh tặng Bằng khen, năm 1993 được Bộ Giao thông vận tải tặng Bằng khen được thưởng 30 tấn nhựa đường trị giá 60 triệu đồng, năm 1994 được Chính phủ tặng cờ thưởng; năm 1995 là đơn vị dẫn đầu cả nước về làm đường giao thông cấp huyện; năm 1996 huyện được Bộ Giao thông vận tải tặng cờ thưởng thi đua xuất sắc.

197

Huyện Vụ Bản, năm 1992 được ngành tặng cờ thi đua xuất sắc; năm 1993, được Bộ Giao thông vận tải tặng cờ thưởng thi đua; năm 1994, được Bộ Giao thông vận tải tặng cờ thưởng.

Huyện Hải Hậu, năm 1996 được Bộ Giao thông vận tải tặng cờ thưởng thi đua xuất sắc.

Thành phố Nam Định năm 1991 được UBND tỉnh tặng Bằng khen, Hợp tác xã Mùa Xuân năm 1991 được ngành tặng cờ thưởng thi đua.

Năm 1992, Nhà máy đóng tàu, Xí nghiệp Khảo sát thiết kế giao thông, Xí nghiệp Xây dựng khai thác cầu Đò Quan được UBND tỉnh Nam Hà tặng Bằng khen.

Năm 1993, Nhà máy đóng tàu, Đoạn Quản lý cầu đường, Xí nghiệp Khảo sát thiết kế giao thông được UBND tỉnh Nam Hà tặng Bằng khen. Công ty Công trình giao thông được ngành tặng cờ thưởng thi đua.

Năm 1994, Công ty Công trình giao thông được Liên đoàn lao động tỉnh tặng Cờ Công đoàn cơ sở vững mạnh xuất sắc. Năm 1996 Đoạn Quản lý cầu đường được Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam tặng Bằng khen. Xí nghiệp Liên hiệp vận tải ô tô hai năm liền 1995-1996 là lá cờ đầu của ngành được Liên đoàn lao động tỉnh tặng Cờ Công đoàn cơ sở vững mạnh xuất sắc.

Công đoàn ngành Giao thông vận tải Nam Hà được Công đoàn ngành Giao thông vận tải Việt Nam tặng Cờ thi đua xuất sắc năm 1995. Nhiều tổ đội lao động XHCN, chiến sĩ thi đua cấp ngành, cấp tỉnh được các cấp trên tuyên dương khen thưởng nhiều bằng khen.

Thực tiễn 5 năm qua, ngành Giao thông vận tải Nam Hà đã năng động, vượt qua mọi khó khăn, tự thân vận động, thoát khỏi cơ chế bao cấp, chuyển hẳn sang cơ chế thị trường thực hiện chế độ hạch toán kinh tế, phát huy chủ động trong sản xuất kinh doanh. Với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, tỉnh và huyện cùng đầu tư. Công tác giao thông vận tải đã khẳng định hướng đi đúng, mở ra bước phát triển mới của ngành Giao thông vận tải Nam Hà. Từ năm 1992 đến năm 1996 là một trong 18 ngành của tỉnh có mức sản xuất kinh doanh khá, sản phẩm chủ yếu của ngành tăng cao. Ngành đã chú trọng khai thác các nguồn vốn đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng, phát huy mọi nguồn lực về sức người, sức của tạo thành phong trào quần chúng xây dựng đường giao thông, xây dựng nhiều công trình mới đưa vào phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh như công trình cầu Đò Quan, bến

198

xe Nam Định, cầu Quế (Kim Bảng), giai đoạn 1 cảng Hải Thịnh. Thành phố Nam Định và thị xã Hà Nam được đầu tư đáng kể về xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông nội thành, nội thị đảm bảo an toàn, đường phố khang trang sạch đẹp hơn. Cơ sở vật chất kỹ thuật và cơ sở hạ tầng mới được xây dựng đã thúc đẩy sản xuất phát triển và cải thiện đời sống nhân dân trong tỉnh. Ngành Giao thông vận tải góp phần quan trọng cùng nhân dân toàn tỉnh thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII.

199

CHƯƠNG VIINGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI NAM ĐỊNH

GIAI ĐOẠN 1997 – 2005

I - Ngành Giao thông vận tải Nam Định thực hiện nhiệm vụ chính trị những năm cuối thế kỷ XX (1997-2000)

Thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ X Quốc hội khoá IX, tỉnh Nam Định được tái lập từ ngày 01-01-1997. Đầu quý I/1997, tỉnh tổ chức thực hiện Quyết định của Chính phủ về chia tách điều chỉnh địa giới hành chính một số huyện, thành phố.

Tỉnh Nam Định tái lập là tỉnh đồng bằng ven biển có diện tích tự nhiên 1671,6 km 2, dân số năm 1997: 1.927.000 người, trong đó dân số ở nông thôn chiếm 86,5%, thành phố 13,5%. Tỉnh Nam Định cách Thủ đô Hà Nội 90 km lại ở gần vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ (gồm Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Hải phòng, Quảng Ninh) nên Nam Định có nhiều điều kiện và cơ hội để phát triển. Mạng lưới giao thông có đường sắt Bắc Nam đi qua dài 42 km, tổng chiều dài đường bộ các loại: 6.789km, trong đó đường tỉnh, đường huyện và đường xã quản lý 6.679km. Chất lượng các tuyến đường đã được nâng cấp cải tạo phục vụ tốt hơn việc đi lại của nhân dân và vận chuyển hàng hoá thông thương giữa tỉnh và các địa phương khác trong toàn quốc. Đường sông trên địa bàn tỉnh có 4 sông lớn chiều dài 217 km, cảng sông Nam Định, cảng Hải Thịnh được xây dựng cùng với các công trình cầu trên các tuyến đường bộ đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển và khai thác tiềm năng các vùng kinh tế.

Bờ biển Nam Định dài 72 km thuộc 3 huyện Giao Thuỷ, Hải Hậu, Nghĩa Hưng là tuyến giao thông đường biển và đường sông biển qua 2 cửa sông Hồng và sông Đáy rất thuận lợi đối với việc vận chuyển hàng hoá của vùng sông Hồng thông thương qua các tỉnh ở trong nước và đi ra khu vực.

Ngày 01-01-1997, tỉnh Nam Định chính thức đi vào hoạt động theo địa giới hành chính mới, Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh đã có các quyết định tái lập các ngành trong đó có ngành Giao thông vận tải Nam Định. Thực hiện các Quyết định của tỉnh ngành đã tổ chức sắp xếp bộ máy phù hợp với tình hình mới, đồng thời giúp bộ phận quản lý giao thông vận tải ở cấp huyện (Trực Ninh, Nam Trực, Giao Thuỷ, Xuân Trường, Mỹ Lộc) ổn định tổ chức.

Sau khi chia tách Sở Giao thông vận tải Nam Định được tổ chức:

200

* Ban Giám đốc gồm các đồng chí:

Đồng chí: Đinh Công Ruấn - Giám đốc Sở (tháng 2/1997 đến 2/2003).

Đồng chí: Trần Văn Lợi - Giám đốc Sở (tháng 3/2003).

Đồng chí Trần Xuân Hợi - Phó giám đốc Sở.

Đồng chí Lê Nguyên Khính - Phó Giám đốc Sở (từ tháng 11/2003).

* Cơ cấu tổ chức của Sở Giao thông vận tải bao gồm:

Phòng Kế hoạch

Phòng Quản lý giao thông

Phòng Tổ chức hành chính

Phòng Tài vụ

Phòng Vận tải

Ban Thanh tra giao thông

Ban đăng kiểm thuỷ

Ban dự án giao thông

Ban dự án cầu Lạc Quần

Ban dự án cảng biển Hải Thịnh

Thanh tra nhà nước

Trung tâm kiểm định cơ giới đường bộ.* Bảy đơn vị cơ sở trực thuộc Sở bao gồm:

Xí nghiệp Liên hợp Vận tải ô tô

Công ty vật tư kỹ thuật giao thông vận tải (1998 giải thể)

Công ty Công trình giao thông

Công tư tư vấn Xây dựng giao thông Nam Định

Công ty Vận tải sông biển

Đoạn quản lý Cầu đường bộ Nam Định

Xí nghiệp đóng tàu Quyết Thắng

201

Hợp tác xã Vận tải Mùa Xuân

Hợp tác xã Vận tải Thuỷ bộ Trung Hải

Sau khi tái lập tỉnh, hệ thống đường xã ở Nam Định gồm có:

* Quốc lộ: 109,8 km (100% đường nhựa)

* Tỉnh lộ: 233,4 km (193 km đường nhựa)

Đường đô thị: 88,4 km (60 km đường nhựa)

* Đường huyện: 378 km (187 km đường nhựa)

Đường xã: 1.715 km (466,8 km đường nhựa)

Đường thôn xóm: 4394 km (74 km đường nhựa, 604 km đường bê tông, 142 km gạch nghiêng).

Sau khi ổn định tổ chức, ngành Giao thông vận tải Nam Định cùng với nhân dân trong tỉnh và cả nước tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Qua 10 năm đổi mới đặc biệt là những năm 1995-1996, cán bộ và nhân dân Nam Định đã bước đầu xây dựng được các tiền đề vật chất quan trọng, tạo ra sự chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực kinh tế - văn hoá - xã hội và ổn định chính trị giữ vững an ninh quốc phòng trên địa bàn. Bên cạnh những thuận lợi, tỉnh Nam Định vẫn còn gặp nhiều khó khăn nhất là nền kinh tế thuần nông, công nghiệp phát triển chậm, điểm xuất phát thấp, hiệu quả kinh tế chưa cao.

Khi xác định nhiệm vụ và giải pháp thực hiện phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 đối với công tác giao thông vận tải, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV chỉ rõ “phát triển đồng bộ cả vận tải đường bộ, đường sông và đường biển đảm bảo vận tải thông suốt. Tạo điều kiện khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia dịch vụ vận tải, quản lý chặt chẽ các phương tiện vận tải, vận tải quốc doanh hướng vào phục vụ những tuyến vận tải chính, những mặt hàng khối lượng lớn. Phấn đấu có tốc độ tăng trung bình toàn ngành từ 8% đến 10% năm.

Trong những năm 1997 - 2000, tỉnh uỷ chỉ đạo tập trung mọi nguồn lực cho phát triển cơ sở hạ tầng: Tiếp tục cải tạo nâng cao các tuyến đường, xây dựng và khôi phục các công trình cầu cống bến bãi đã hư hỏng, xuống cấp, xây dựng và quy hoạch các bến xe trung tâm, các bến bãi trên sông và cải tạo luồng lạch…đồng thời có cơ chế thích hợp huy động các nguồn vốn để duy trì, bảo dưỡng các công trình cầu đường đã xây dựng. Toàn ngành tập trung phát triển kết cấu hạ tầng then chốt, cải tạo nâng cấp và hoàn thiện mạng lưới giao thông.

202

Trong giải pháp thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, tỉnh đề nghị Chính phủ và Tổng cục Đường sắt nâng cấp tuyến đường sắt qua Tỉnh Nam Định dài 45 km và nâng cấp các ga đưa đón khách trong tổng thể nâng cấp các tuyến đường sắt cả nước. Đề nghị nâng cấp đường 21 Nam Định - Hải Thịnh, triển khai dự án Quốc lộ 10 đi qua tỉnh trong quy hoạch xây dựng Quốc lộ 10 từ Ninh Bình đi Quảng Ninh. Xây dựng cầu Lạc Quần, phà Sa Cao, phà Thịnh Long, triển khai nạo vét một số cửa sông, lòng sông để góp phần khai thác có hiệu quả cảng biển Hải Thịnh, cảng sông Nam Định và tuyến đường thuỷ Nam Định - Hà Nội (1).

Cầu Lạc Quần qua sông Ninh trước đây là cầu phao nên thường xuyên bị ách tắc nhất là vào mùa lũ. Được sự quan tâm của Chính phủ, các bộ, ngành, đặc biệt là Bộ Giao thông vận tải, cầu Lạc Quần đã được khởi công xây dựng ngày 2-1-1997, là cây cầu được xây dựng theo kết cấu tiên tiến hiện đại. Cầu Lạc Quần dài 503 m, các nhịp dầm là bê tông cốt thép dự ứng lực và dầm bê tông cốt thép đúc hẫng, khổ cầu 7 m (2 X 1,5 m). Tải trọng thiết kế H 30, XB 80T (ô tô 30 tấn, xe xích 80 tấn), chiều cao thông thuyền H = 10 m, chiều rộng thông thuyền B = 80 m. Tổng số vốn đầu tư là 108 tỷ đồng. Sau gần 4 năm khẩn trương xây dựng, ngày 20-10-2002 cầu Lạc Quần đã hoàn thành và làm lễ khánh thành. Cầu Lạc Quần được xây dựng đã đáp ứng nhu cầu giao thông giữa các vùng, miền, củng cố an ninh quốc phòng tuyến biển, đồng thời là một công trình có tính văn hoá cao, cầu có dáng cong thanh mảnh như dải lụa vắt qua sông Ninh Cơ, nối liền 2 vùng thôn quê trù phú, đáp ứng ước mơ bao đời của người dân địa phương.

Nhận thức sâu sắc về vai trò quan trọng của sự nghiệp phát triển giao thông, cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế văn hoá xã hội và an ninh quốc phòng trong tỉnh. Quán triệt, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV về phát triển cơ sở hạ tầng, đường xá giao thông phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, quê hương, ngành Giao thông vận tải được sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh cùng với sự cộng tác của các ngành, cấp uỷ Đảng, Chính quyền các huyện, thành phố, đã nỗ lực phấn đấu tổ chức triển khai nhiệm vụ phát triển giao thông vận tải, đồng thời xây dựng phát triển ngành ngày càng lớn mạnh đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá quê hương.

Thực hiện chủ trương của tỉnh, phát huy nội lực khai thác tối đa những nguồn lực sẵn có của điạ phương cho đầu tư phát triển, cơ cấu đầu tư được tỉnh ưu tiên theo hướng tập trung vào những nhiệm vụ, mục tiêu 1- Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ XV (trang 49-50).

203

phát triển kinh tế - xã hội trọng tâm, sự ưu tiên đó giúp ngành có nhiều thuận lợi tập trung hoàn thành các công trình hạ tầng, công trình đường giao thông.

Từ năm 1997-2000, công tác đầu tư xây dựng cơ bản được tập trung cao, hệ thống giao thông đường bộ bao gồm cả quốc lộ trên địa bàn tỉnh và tỉnh lộ, các trục đường giao thông nông thôn đều được nâng cấp cải tạo với tổng chiều dài gần 6.000 km, trong đó có 1.120 km đường nhựa, 2.031 km đường bê tông, từ năm 1997, 100% xã đã có trục giao thông trải nhựa đến trung tâm xã. Toàn tỉnh đã đầu tư 569.174 triệu đồng cho chương trình làm đường giao thông nông thôn, trong đó nhân dân đóng góp tới 80%, vượt trước 2 năm so với mục tiêu do Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XV và Nghị quyết Hội đồng nhân dân khoá X đề ra (1). Các dự án lớn được quản lý chặt chẽ. Ngày 3/2/1997, ngành khởi công xây dựng cầu Lạc Quần vượt sông Ninh Cơ dài 503,76 m, với kinh phí đầu tư 91 tỷ đồng (2). Đường 10 qua tỉnh, cầu Tân đệ cũng được xây dựng với quy mô và kinh phí đầu tư lớn. Tỉnh Nam Định đã được Chính phủ tặng cờ luân lưu toàn quốc về giao thông nông thôn, trong đó hai huyện Nghĩa Hưng, Xuân Trường là đơn vị dẫn đầu về mô hình giao thông nông thôn cấp huyện. Nhiều tỉnh trong cả nước đã về Nam Định học tập, trao đổi kinh nghiệm làm đường giao thông nông thôn. Đường phố của Thành phố Nam Định, đường trung tâm các thị trấn, thị tứ đều được quy hoạch đầu tư xây dựng khang trang sạch đẹp.

Về giao thông, ngành đã bố trí cơ cấu vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông từ năm 1997 đến năm 1999 một cách hợp lý.

Vốn đầu tư xây dựng đường bộ năm 1997 là: 200.380 triệu đồng, năm 1998 là: 157.640 triệu đồng, năm 1999 là: 211.574 triệu đồng.

Trong đó vốn Trung ương đầu tư xây dựng năm 1997 là: 193.269 triệu đồng, năm 1998 là: 151.035 triệu đồng, năm 1999 là: 204.034 triệu đồng.

Vốn sửa chữa, duy tu đường quốc lộ (được uỷ quyền quản lý) năm 1997: 7.111 triệu đồng, năm 1998 là: 6.005 triệu đồng, năm 1999 là: 7.720 triệu đồng.

Đường tỉnh lộ + thành phố Nam Định, năm 1997 là: 22.250 triệu đồng, năm 1998 là: 16.115 triệu đồng, năm 1999 là: 32.030 triệu đồng.

1- Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ XVI2- Cầu Lạc Quần khởi công xây dựng ngày 3-2-1997. Tháng 10 năm 2000 khánh thành.

204

Đường huyện, năm 1997 là: 700 triệu đồng, năm 1998 là: 2.385 triệu đồng, năm 1999 là: 4.450 triệu đồng.

Đường giao thông nông thôn, năm 1997 là: 163.362 triệu đồng, năm 1998 là: 96.643 triệu đồng, năm 1999 là: 77.208 triệu đồng (3).

Thực hiện công tác giao thông cấp huyện, năm 1997 ngành Giao thông vận tải đã tham mưu với Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo và tổ chức điều tra khảo sát đánh giá lại thực trạng kết quả làm đường giao thông nông thôn trong những năm trước đây. Sau đó tỉnh đã tổ chức sơ kết 2 năm làm đường giao thông (1995-1996), từ đó rút kinh nghiệm đề ra chương trình 3 năm làm đường giao thông (1997-1999).

Được sự chỉ đạo của tỉnh, các huyện, thành phố Nam Định đã xây dựng kế hoạch cụ thể về làm đường giao thông. Các địa phương đều phát động rầm rộ phong trào làm đường với phương châm “Dân làm là chính, vật liệu tại chỗ là chính, kỹ thuật phổ cập là chính”. Chủ trương làm đường giao thông, nhất là đường giao thông nông thôn đã đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân toàn tỉnh, khơi dậy được sức mạnh của toàn dân cùng tham gia đóng góp làm đường, tổ chức những đội làm đường ở từng thôn xóm. Với sự đầu tư của Nhà nước, sự đóng góp của toàn dân, công tác giao thông, phong trào làm đường giao thông đã đạt nhiều thành tích xuất sắc.

Năm 1997, toàn tỉnh huy động được 127,5 tỷ đồng đầu tư cho các công trình giao thông trong đó nhân dân đóng góp là: 94,51 tỷ đồng bằng 74% tổng số huy động. Toàn tỉnh đã làm được 1.259 km đường các loại. trong 3 năm 1995-1997 làm được 3.641 km với tổng giá trị đầu tư là: 472 tỷ đồng. Trong phong trào phát triển giao thông nông thôn đã xuất hiện các điển hình tiên tiến như huyện Hải Hậu làm được 411 km, đầu tư 43 tỷ đồng, huyện Giao Thuỷ làm được 1185 km, đầu tư 23,7 tỷ đồng, huyện Vụ Bản làm được 49 km, đầu tư 6,3 tỷ đồng, huyện Nghĩa Hưng làm được 66 km, đầu tư 9,1 tỷ đồng…

Năm 1998, Hội đồng nhân dân Tỉnh khoá 14 kỳ họp thứ tư (22-7-1998) đã đề ra Nghị quyết về phát triển giao thông đường bộ 3 năm (1998-2000). Chủ trương của tỉnh là phấn đấu làm mới, duy trì nâng cấp số đường còn lại của các cấp tỉnh, huyện, xã, thôn xóm. Thực hiện Nghị quyết của HĐND tỉnh năm 1998, toàn tỉnh đã nâng cấp được 802 km đường các loại, làm mới và nâng cấp 43 chiếc cầu các loại, 359 chiếc cống. Với tổng giá trị đầu tư gồm vật tư ngày công quy ra tiền là: 97.686 triệu đồng, trong đó nhân dân đóng góp 79.125 triệu đồng bằng 81%.

3- Báo cáo đầu tư phát triển giao thông từ năm 1997 - 1999 của Sở Giao thông vận tải Nam Định.

205

Năm 1999, tuy gặp nhiều khó khăn kinh tế nhưng nhân dân trong tỉnh vẫn tích cực tham gia làm đường giao thông nông thôn, các công trình làm đường giao thông có chất lượng tốt hơn. 9 huyện và thành phố Nam Định đã phấn đấu làm được 431 km đường, kinh phí đầu tư 77,208 triệu đồng, trong đó nhân dân đóng góp 50.108 triệu đồng bằng 71,4%. Riêng huy động ngày công là: 310.000 công. toàn tỉnh xây lắp được 38 cầu và 84 cống các loại. Trong 3 năm (1997-1999) toàn tỉnh cải tạo nâng cấp được 5.782 km đường bộ trong tổng số 6.789 km đạt 85%.

Năm 2000, công tác giao thông cấp huyện đã phát huy kết quả và những kinh nghiệm trong những năm trước, toàn ngành phối hợp với các huyện dấy lên phong trào toàn dân thi đua làm đường giao thông nông thôn. Các địa phương đã tổ chức sơ, tổng kết chương trình làm đường giao thông nông thôn, tổ chức khảo sát lại đường xá, cầu cống phương tiện tham gia vận tải để lập lại quy hoạch giao thông vận tải của địa phương. Đến năm 2000 toàn tỉnh đã nâng cấp cải tạo được 85,5% - tổng số km đường các loại, đồng thời triển khai chương trình giao thông nông thôn II (WB2) trên địa bàn nông thôn toàn tỉnh.

Toàn tỉnh đã huy động các nguồn vốn và đầu tư cho làm đường giao thông 68.585,4 triệu đồng, trong đó nhân dân đóng góp 47.268 triệu đồng, xây dựng được 600,47 km, trong đó mặt nhựa: 72,82 km, đá dăm:21,3 km, cấp phối đá hỗn hợp: 128,95 km, bê tông xi măng 369,9 km, gạch nghiêng 7,5 km.

Trong phong trào giao thông cấp huyện, nhiều đơn vị phấn đấu tốt, điển hình là huyện Vụ Bản, huyện Nghĩa Hưng, huyện Nam Trực, huyện Hải Hậu. Huyện Vụ Bản đã được Thủ tướng Chính phủ tặng cờ huyện dẫn đầu phong trào giao thông nông thôn. Huyện Nam Trực được nhận cờ thi đua của Bộ Giao thông vận tải. Các xã Mỹ Thịnh (huyện Mỹ Lộc), xã Nghĩa Sơn (huyện Nghĩa Hưng) được Bộ Giao thông vận tải tặng bằng khen.

Tuy nhiên trình độ phát triển mạng lưới giao thông của tỉnh mới đáp ứng nhiệm vụ trước mắt (1), còn về quy mô và cấp hạng kỹ thuật đường bộ mới ở mức thấp so với yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Công tác khảo sát thiết kế thẩm định dự toán, giám sát thi công, nghiệm thu, thanh quyết toán công trình còn nhiều điều bất cập.

1- Kết quả làm đường giao thông nông thôn từ năm 1997 đến năm 2000 (báo cáo tổng kết làm đường giao thông (1995-1997) và (1998-1999) của Ban chỉ đạo Giao thông nông thôn tỉnh Nam Định.

206

Trong hoạt động vận tải hàng hoá và hành khách, Nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ XV đã chỉ rõ: “Phát triển đường bộ và vận tải đường bộ, đường sông, đường biển, đảm bảo vận tải thông suốt, tạo điều kiện khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia dịch vụ vận tải”. Được sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, ngành Giao thông vận tải đã tổ chức các hoạt động vận tải và tăng cường công tác quản lý chuyên ngành trong mối quan hệ nhiều thành phần kinh tế tham gia vận tải hàng hoá, hành khách, nhất là lực lượng vận tải ngoài quốc doanh đã và đang phát triển với tốc độ nhanh cả về số lượng và chất lượng, các hình thức kinh tế tư nhân tham gia hoạt động vận tải đã phát triển lên hình thức cao hơn theo xu hướng đổi mới, phát triển nhiều nguồn lực, huy động mọi khả năng cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội.

Thực hiện chủ trương của Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải và của UBND tỉnh về việc tăng cường công tác quản lý các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh vận tải, nhất là khu vực ngoài quốc doanh, góp phần thực hiện nghiêm chỉnh các Nghị định 36/CP, 40/CP, 15/CP và 45/CP của Chính phủ về đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ, đường thuỷ nội địa và đường sắt, chuyển đổi các hợp tác xã trong giao thông vận tải. Từ thực tiễn của tỉnh Nam Định, từ khi có chính sách mới phát triển nhiều thành phần kinh tế trong lĩnh vực vận tải thì khối lượng hàng hoá luân chuyển, lượng hành khách đi lại tăng lên không ngừng, phương tiện vận tải tăng về số lượng và chất lượng nhưng công tác tổ chức quản lý vận tải còn bộc lộ nhiều tồn tại. Đến giữa năm 1997, ngành Giao thông vận tải đã xây dựng đề án “Tổ chức lại và quản lý vận tải ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Nam Định”. Đề án của ngành đã nêu bật được tình hình chung về công tác vận tải của tỉnh cùng những yếu kém về công tác quản lý như chưa có cơ chế quản lý các hợp tác xã và tổ hợp tác, chậm chuyển đổi nội dung quản lý. Các nghiệp đoàn vận tải hoạt động còn hình thức, mang tính chất là một số tổ chức đoàn thể và chưa có tư cách pháp nhân. Phương tiện vận tải còn hoạt động tự do, trốn tránh nghĩa vụ nhà nước, ngành khó quản lý. Xe khách chạy sai giờ, sai luồng tuyến, tranh khách dọc đường là phổ biến, gây nên tình trạng mất an toàn giao thông, gây lộn xộn trong kinh doanh vận tải. Hệ thống bến bãi điểm đỗ xe, giữ xe qua đêm còn manh mún, tản mạn, chồng chéo gây nguy hiểm cho công trình giao thông, trật tự an toàn giao thông và trật tự an toàn xã hội.

Đối với vận tải đường bộ, đến giữa năm 1997 có 479 xe ô tô (không kể xe công nông) của tư nhân tham gia kinh doanh vận tải hàng hoá. trong đó đã cấp giấy phép vận tải hàng hoá cho 429 xe thuộc 3 nghiệp đoàn vận tải hàng hoá, 4 nghiệp đoàn vận tải hỗn hợp và 2 tổ hợp tác xã.

207

Về vận tải hành khách, đã cấp giấy phép vận tải hành khách cho 160 xe khách tư nhân/200 xe khách tư nhân trong toàn tỉnh. Số xe khách được cấp giấy phép thuộc: 1 hợp tác xã vận tải và xếp dỡ, 3 nghiệp đoàn vận tải khách, 4 nghiệp đoàn vận tải hỗn hợp, 2 tổ hợp tác xã (riêng xe khách quốc doanh có 110 chiếc - là xe của Xí nghiệp liên hợp vận tải ô tô)

Về tình hình luồng tuyến xe khách, toàn tỉnh có 32 tuyến nội tỉnh, 149 tuyến liên tỉnh do xe quốc doanh và tư nhân hoạt động. Xe tỉnh ngoài chạy đối lưu có 93 xe và 88 tuyến, thường xuyên có 300 xe khách hoạt động trên địa bàn Nam Định, số cung đã vượt quá số cầu do đó thường xảy ra sự va chạm tranh khách, vượt ẩu… trong khi đó tình hình bến xe, điểm giữ gửi xe rất phức tạp, chưa hình thành được một hệ thống quản lý thống nhất bến xe khách từ tỉnh đến các huyện theo như quy định của Bộ Giao thông vận tải. Tại thành phố Nam Định chưa có quy hoạch tổng thể về bến xe khách, bến xe taxi du lịch, nơi đón trả khách, nơi giữ gửi xe…do đó rất khó quản lý về giờ xe chạy và bán vé cho khách. Toàn tỉnh có 2 bến xe nội tỉnh, 7 bến liên tỉnh, 9 bến hỗn hợp cả nội và ngoại tỉnh và có 68 bến xe phụ (điểm đỗ), 5 điểm gửi giữ xe, 3 điểm hỗn hợp (vận tải + hành khách). Năm 2004 lập quy hoạch 14 bến xe liên tỉnh và bến hỗn hợp được UBND tỉnh phê duyệt.

Phương tiện thuỷ vận chuyển hàng hoá có 940 chiếc/74.850 tấn/51.854CV, số ngoài quốc doanh: 895 chiếc/69.509 tấn/48.723CV, số đã đổi biển và đăng ký: 769 chiếc/69.111 tấn/43.579CV, số đã đổi ngoài quốc doanh: 716 chiếc/55.607 tấn/38.978CV, số phương tiện ngoài quốc doanh chủ yếu thuộc danh sách của 17 hợp tác xã (trong đó Sở quản lý 3 hợp tác xã), 8 công ty TNHH, công ty cổ phần, xí nghiệp tư nhân và 2 tổ hợp tác xã, số còn lại tư nhân không vào hợp tác xã (phương tiện đa số có công suất nhỏ). Toàn tỉnh Nam Định có 125 bến đò, đò ngang, trong đó có 121 đò qua sông lớn do Trạm Quản lý đường sông số 5 quản lý. Chất lượng phương tiện và trang thiết bị còn hạn chế, chỉ có 45 bến được công nhận chính thức, 86% chủ đò được cấp chứng chỉ điều khiển đò.

Từ tình hình và tốc độ phát triển của các thành phần kinh tế tham gia vận tải hàng hoá và hành khách, ngành Giao thông vận tải tham mưu cho tỉnh về công tác tổ chức quản lý trên cơ sở: Tất cả các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh làm kinh doanh vận tải phải tuân thủ theo pháp luật (luật công ty, luật hợp tác xã và các Nghị định 221/CP, 222/CP, 16/CP, 45/CP của Chính phủ về thành lập công ty và chuyển đổi hợp tác xã). Đến ngày 30-12-1997, tất cả các nghiệp đoàn, tổ hợp tác xã, hợp tác xã vận tải thuỷ, bộ được chuyển thành hợp tác xã vận tải đổi mới theo 3 hình thức như quy định của Nghị định 45/CP của Chính phủ: Hợp tác xã dịch vụ hỗ

208

trợ không tập trung sản xuất, hợp tác xã vừa tập trung sản xuất vừa dịch vụ hỗ trợ, hợp tác xã tập trung sản xuất, kinh doanh.

Ngành Giao thông vận tải đã xây dựng đề án tổ chức lại luồng tuyến xe khách, tổ chức bến xe, điểm trông coi giữ xe, trình UBND tỉnh phê duyệt.

Theo kế hoạch triển khai Nghị định 16/CP của UBND tỉnh về thực hiện Nghị định 16/CP và Nghị định 45/CP của Chính phủ, ngành Giao thông vận tải Nam Định đã thành lập Ban chỉ đạo, tổ chức phối kết hợp với các ngành, các huyện, thành phố triển khai công tác tuyên truyền, làm điểm rút kinh nghiệm tại thành phố Nam Định và huyện Hải Hậu sau nhân ra diện và kết thúc vào cuối năm 1997. Sau khi chia tách thành Sở Giao thông vận tải Nam Định, nhiều công ty TNHH, công ty cổ phần được thành lập. Đến năm 1999 đã có 4 công ty TNHH vận tải đường thuỷ đó là công ty TNHH vận tải thuỷ Minh Khai, công ty TNHH thuỷ Minh Thanh, công ty TNHH thuỷ Nghĩa Hồng, công ty TNHH thuỷ Bình Minh Nam Hải và công ty Cổ phần Ô tô vận tải Nam Định (1). Ngoài các công ty TNHH, công ty cổ phần còn có 24 hợp tác xã vận tải cả thuỷ lẫn bộ rải khắp các huyện và thành phố. Việc chuyển đổi cơ chế có nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động vận tải đã có tác dụng thực sự trong việc giải phóng năng lực vận tải, giải quyết được mâu thuẫn về mất cân đối trong vận tải giữa năng lực vận tải và yêu cầu vận tải đã tồn tại nhiều năm trước đây.

Cùng với sự phát triển cơ sở hạ tầng giao thông cũng như đường xá, bến bãi ngày càng phát triển. Sự mở rộng quan hệ vận tải thì phương tiện vận tải cũng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đến năm 1999 toàn tỉnh có 4.868 phương tiện thuỷ bộ, trong đó 80% là của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Phương tiện thuỷ 1.275 chiếc bằng 93.530 tấn, phương tiện vận tải bộ có: 3.596 cái, trong đó có 2.872 cái vận tải hàng hoá bằng 6.223 tấn; 711 phương tiện vận tải hành khách bằng 14.996 ghế. So với năm 1997, năm 1999 phương tiện tham gia vận tải tăng 58%. Năm 2000, toàn tỉnh Nam Định có 1.169 xe các loại, trong đó có 419 xe khách chạy trên 157 tuyến luồng, trong đó có 122 luồng liên tỉnh. Phương tiện thuỷ có 1.194 phương tiện có công suất 60.298,5CV, TW: 31 chiếc, 4897 tấn - 1535 CV, địa phương: 1163 chiếc bằng 91.735 tấn - 58.763,5 CV.

Hoạt động vận tải thuỷ bộ ở tỉnh đã phát huy tính chủ động linh hoạt để khai thác mọi nguồn hàng, vận chuyển kịp thời phục vụ cho phát triển công, nông, ngư nghiệp và đảm bảo an ninh quốc phòng. Đặc biệt là 1- Xí nghiệp liên hợp Vận tải ô tô Nam Định chuyển thành Công ty Cổ phần Vận tải ô tô Nam Định (theo Quyết định số 1124- -QĐ/TTg ngày 3-2-1999 của Thủ tướng Chính phủ). Ông Phạm Bá Cường là Giám đốc Công ty, ông Đồng HUy Sơn là Phó Giám đốc công ty.

209

phục vụ hành khách trong những ngày tết, ngày lễ của dân tộc, đất nước. Hoạt động vận tải hàng hoá và hành khách hàng năm đều tăng so với kế hoạch. 1997, vận tải hàng hoá tăng 2,4% về tấn, 5,4% về tấn km; về vận chuyển hành khách tăng 0,75% về người, 2,4% về người km. Năm 1998, vận tải hàng hoá tăng 6% về tấn, 8% về tấn km, vận chuyển hành khách tăng 4% về người, 5,6% về người km. Năm 2000, vận tải hàng hoá tăng 5% về tấn, 8% về tấn km, vận chuyển hành khách tăng 4,5% về người, 7,5% về người km. Riêng về vận tải hành khách liên tỉnh ngành vẫn duy trì việc quản lý chặt chẽ sau khi Chính phủ xoá bỏ các loại giấy phép vận tải. Doanh thu vận tải ngày càng tăng, năm 1998 đạt 23,600 tỷ đồng, năm 1999 đạt 26,60 tỷ đồng, năm 2000 đ 52,6 tỷ đồng.

Về sản xuất công nghiệp, ngành Giao thông vận tải Nam Định đã khắc phục nhiều khó khăn khi chuyển đổi cơ chế quản lý và giảm sút sản xuất công nghiệp của những năm trước đây. Được sự chỉ đạo của UBND tỉnh, ngành đã tập trung cho phát triển sản xuất công nghiệp vận tải phù hợp với nhu cầu của khách hàng như mẫu mã chất lượng, đo đó tình hình sản xuất từ năm 1997 đến năm 2000 được ổn định. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư thiết bị công nghệ mới, mở rộng thị trường như Xí nghiệp Đóng tàu Nam Hà (1), Công ty cổ phần Quyết Thắng, Xí nghiệp Liên hợp Vận tải ô tô nên đã nâng cao năng lực sản xuất.

Năm 1997, Xí nghiệp Liên hợp Vận tải ô tô đóng mới được 68 xe ca (Ka56; Ka50) bảo dưỡng xe các cấp thu 300 triệu đồng. Năm 1998, Xí nghiệp Liên hợp Vận tải ô tô đóng mới được 85 vỏ thùng xe ca, khách các loại, trong đó có 14 vỏ xe khách (K24) và 71 xe (K45); về phương tiện thuỷ năm 1998 đóng mới dược 13 phương tiện (từ 70 - 100 tấn) bằng 780 tấn, hoán cải được 11 chiếc bằng 290 tấn. Năm 1999, Xí nghiệp Liên hợp Vận tải ô tô đóng mới được 66 xe khách, ngành công nghiệp đóng tàu, đóng mới được 19 thuyền gắn máy có trọng tải từ 50 đến 200 tấn và trung đại tu được 4.700 tấn phương tiện các loại. Năm 2000, Xí nghiệp Liên hợp Vận tải ô tô đóng mới được 130 phương tiện đạt 186% kế hoạch, công nghiệp đóng tàu đóng mới 36 phương tiện thuỷ với 3.716 tấn và 2.260 CV, trong đó địa phương đóng được 31 phương tiện bằng 2.701 tấn và 1.575CV.

Có thể khẳng định trong những năm 1997-2000 năng lực sản xuất trong công nghiệp vận tải Nam Định phát triển mạnh, các doanh nghiệp của ngành Giao thông vận tải có khả năng đóng mới các loại xe khách, Công ty cổ phần Quyết Thắng đóng mới nhiều tàu kéo 135CV, tàu lai dắt

1- Tháng 5-1997, chuyển về Tổng công ty công nghiệp đóng tàu Việt Nam.

210

239 CV, phà vượt sông 30 tấn, cầu phao vượt sông, phà lắp ghép 18 tấn đến 25 tấn phục vụ trên địa bàn miền Bắc.

Cho đến năm cuối của thế kỷ XX, các doanh nghiệp thuộc ngành Giao thông vận tải Nam Định đã có những đoàn Sà lan thép từ 600 tấn - 800 tấn, tàu chở hàng 650 tấn đi biển qua các tỉnh ở trong nước và đi các nước Đông Nam Á.

Đối với công tác quản lý nhà nước: Được sự lãnh đạo của Tỉnh, ngành Giao thông vận tải Nam Định rà soát lại chức năng nhiệm vụ của các doanh nghiệp do ngành quản lý, củng cố kiện toàn bộ máy, chuẩn bị điều kiện để thực hiện các Nghị định 28, 44 ,20 của Chính phủ về cổ phân hoá doanh nghiệp cho các đơn vị. Ngành ban hành nhiều văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ thuộc các lĩnh vực quản lý vận tải, xây dựng cơ bản, công tác tổ chức cán bộ, tài chính đất đai, trật tự an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ. Triển khai đề án tổ chức lại và quản lý vận tải ngoài quốc doanh theo Quyết định 1748 của Bộ Giao thông vận tải.

Trong vận tải ngành chỉ đạo việc thực hiện phối hợp các lực lượng vận tải trên địa bàn, tổng kiểm tra sắp xếp lại tuyến vận tải gắn với việc thực hiện văn bản 890 của Bộ Giao thông vận tải; ổn định tuyến vận tải nhất là tuyến vận tải khách liên tỉnh; thực hiện việc phối hợp các cơ quan đảm bảo an toàn cho các phương tiện giao thông vận tải đường bộ, đường sắt và đường thuỷ. Toàn ngành còn phối hợp với các cơ quan chức năng thường xuyên kiểm tra về mục tiêu chương trình đề cương giảng dạy tài liệu học tập, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác đào tạo, qui chế tuyển sinh, tổ chức sát hạch theo Quyết định, Chỉ thị của Bộ Giao thông vận tải. Ngành đã có Quy định số 19-QĐ/GTVT về chấn chỉnh công tác đào tạo. Năm 1997, ngành đã mở 10 lớp đào tạo lái xe các loại với tổng số 1.826 người, 1 lớp đào tạo cán bộ quản lý giao thông xã với 35 học viên. Tổ chức 15 lớp học luật cấp giấy phép lái xe máy hạng A1 và đã cấp được 2.763 bằng, cấp đổi quá hạn được 899 bằng.

Năm 1998, tiếp tục mở lớp bồi dưỡng cho 35 uỷ viên giao thông cấp xã, phường. Tổ chức 1 lớp đào tạo sĩ quan tàu sông cho116 người. Ngành đã đăng cai mở lớp học cho cán bộ thanh tra giao thông trên địa bàn cho 34 cán bộ. Năm 1999, ngành đã chọn cử 15 cán bộ đi học lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về quản lý nhà nước và các chuyên đề thuộc chuyên ngành Giao thông vận tải. Năm 2000, tổ chức đào tạo, bổ túc 3 lớp sĩ quan tàu sông gồm: 142 sĩ quan tàu sông hạng 3 và 115 sĩ quan tàu sông hạng 2, cấp đổi bằng tàu sông hạng 3 được 421 lượt chiếc. Tổ chức đào tạo nâng cấp bậc kỹ thuật cho 169 công nhân đường thuỷ. Về đường bộ, tổ chức đào

211

tạo cấp giấy phép lái xe hạng A1 là 3.666 trường hợp, trong đó cấp mới 3.554 giấy phép lái xe, cấp mới giấy phép lái xe ô tô 695 và đổi cấp 1.773 giấy phép lái xe.

Những năm qua, Ngành đã chỉ đạo, đánh giá, phân loại chất lượng hệ thống cầu đường bộ, các tuyến vận tải thuỷ, cắm cọc mốc giới bảo vệ đường bộ, đường sắt, cắm bổ sung các biển báo hiệu đường bộ để lên biểu đồ phân luồng tuyến giao thông, trên cơ sở đó xem xét cấp phép cho các phương tiện tham gia giao thông vận tải đặc biệt là các xe quá khổ, quá tải.

Trong công tác quản lý, ngành tìm mọi biện pháp giải quyết vướng mắc về vốn sắp xếp lại doanh nghiệp: toàn ngành đã cổ phần hoá được 2 doanh nghiệp nhà nước đó là Công ty cổ phần Vận tải Ô tô Nam Định, Công ty Cổ phần xây dựng công trình giao thông và hạ tầng cơ sở Nam Định. Sau khi cổ phần hoá các doanh nghiệp đã đầu tư thiết bị, công nghệ mới, nâng cao năng lực sản xuất, đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Trong năm 2000, ngành đã sắp xếp lại Phòng Quản lý công trình giao thông được tái lập thành 2 phòng: Phòng Kế hoạch kỹ thuật và phòng Quản lý giao thông, thành lập mới tổ quản lý giao thông nông thôn 2 (WB2).

Đối với nhiệm vụ đảm bảo an toàn giao thông, ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị 718/TTg ngày 01-9-1997 về tăng cường chỉ đạo thực hiện các Nghị định của Chính phủ nhằm đảm bảo an toàn giao thông. Ngày 25-3-1997, UBND tỉnh có Quyết định số 288-QĐ/UB thành lập Ban chỉ đạo an toàn giao thông tỉnh. Ngày 1-8-1998 UBND tỉnh có Quyết định số 1016-QĐ/UB thành lập Ban an toàn giao thông tỉnh Nam Định do đồng chí Trần Trung Am làm trưởng Ban, gồm 11 thành viên, ngành phối hợp với Công an tỉnh mở đợt tổng kiểm tra giải quyết trật tự an toàn giao thông, trật tự công cộng. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, việc đầu tiên là ngành đã phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng tổ chức tuyên truyền phổ biến các chủ trương, quy định về trật tự an toàn giao thông, trật tự công cộng và phát động mạnh mẽ phong trào quần chúng tham gia giải quyết trật tự giao thông, trật tự công cộng. Từ đó nhận thức của các cấp các ngành và nhân dân được nâng cao, ý thức chấp hành pháp luật khi tham gia giao thông tốt hơn. Trong quá trình tổ chức tuyên truyền ngoài các đợt tổ chức ra quân thực hiện các Nghị định của Chính phủ, ngành cùng với Sở Tư pháp, Công an tỉnh, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh liên tục phát động cuộc thi tìm hiểu luật lệ giao thông cho cán bộ nhân dân

212

trong tỉnh, nhất là đối với học sinh các trường học (1). Do làm tốt công tác tuyên truyền 100% cơ quan, doanh nghiệp, trường học, hợp tác xã …và 95% hộ nông dân cam kết không vi phạm các Nghị định của Chính phủ về an toàn giao thông đường bộ, đường thuỷ, đường sắt.

Công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông từ 1997 đến năm 2000 bước đầu đã đạt được kết quả. Việc lấn chiếm hành lang an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, luồng chạy tàu sông đã được giải toả cơ bản, tình hình trật tự an toàn giao thông đã có chuyển biến tích cực, tạo được sự đồng tình nhất trí hưởng ứng và tự giác chấp hành của đại đa số nhân dân, kỷ cương xã hội trên lĩnh vực trật tự giao thông được xiết chặt. Vai trò quản lý nhà nước của các cấp chính quyền nhất là cơ sở được nâng lên, các vụ tai nạn giao thông đã giảm. Tuy nhiên trên địa bàn toàn tỉnh vẫn còn những tồn tại cần được tiếp tục giải quyết như: Công tác tuyên truyền giáo dục luật lệ giao thông, các Nghị Định của Chính phủ về trật tự an toàn giao thông chưa được thường xuyên; chưa có biện pháp kiên quyết để duy trì kết quả đạt được nên vẫn xảy ra hiện tượng vi phạm trở lại, nhất là tái lấn chiếm vỉa hè, lòng đường. Số vụ tai nạn giao thông chưa giảm…, đặc biệt là tỉnh Nam Định chưa có điều kiện tài chính để thu lại phần đất hành lang của đường bộ, đường thuỷ, làm cho kết cấu hạ tầng giao thông vẫn bị cản trở không thông thoáng, an toàn.

Trong công tác duy tu, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng, trên cơ sở chương trình giao thông nông thôn 3 năm (1995-1997), chương trình 3 năm (1998-2000), toàn tỉnh đã huy động nguồn đóng góp của nhân dân cùng với một phần kinh phí của địa phương tập trung nâng cấp đường huyện, đường xã, đường thôn xóm (1), vừa tạo điều kiện cho các phương tiện tham gia giao thông an toàn, vừa làm cho bộ mặt thôn xóm sạch đẹp, văn minh. Cùng với các tuyến đường huyện được nâng cấp, đường tỉnh và quốc lộ cũng được tỉnh và nhà nước đầu tư nâng cấp bảo đảm tốt cho mọi hoạt động giao thông. Song song với việc nâng cấp các tuyến đường ngành giao thông vận tải đã thực hiện việc cắm mốc chỉ giới theo Quyết định 1115 -QĐ/UB của UBND tỉnh và triển khai công tác kiểm định định kỳ an toàn kỹ thuật. Qua công tác kiểm định và phát hiện đã đình chỉ nhiều phương tiện không đảm bảo kỹ thuật an toàn.1- Sau 2 năm thực hiện Nghị định 36/CP, 1 năm thực hiện Nghị định 39/CP, Nghị định 40/CP của Chính phủ đã thu hút 45 vạn bài dự thi đạt chất lượng tốt.1- Số vốn đầu tư cho xây dựng bảo trì đường quốc lộ được uỷ thác từ năm 1997-1999 là 142,333 triệu đồng chiếm 25% tổng số vốn đầu tư - vốn đầu tư cho xây dựng bảo trì đường tỉnh, đường thành phố là 79 tỷ,198 triệu chiếm 13,9% tổng số vốn đầu tư - vốn đầu tư cho xây dựng cải tạo đường huyện là 7 tỷ 485 triệu chiếm 1,56% tổng số vốn đầu tư . Vốn đầu tư cho xây dựng cải tạo đường giao thông nông thôn là 340 tỷ 95 triệu chiếm 59,7% tổng số vốn đầu tư. Tổng số vốn toàn tỉnh đầu tư vào xây dựng bảo trì đường xá trên địa bàn tỉnh là 569 tỷ 474 triệu, trong đó nhân dân đóng góp 80% (báo cáo vốn đầu tư phát triển giao thông (1997-1999) của Sở Giao thông vận tải Nam Định).

213

Công tác an ninh trong những năm qua luôn được ngành quan tam chỉ đạo thực hiện. Tất cả các đơn vị đều xây dựng được màng lưới quần chúng bảo vệ trật tự an ninh. Năm 1998, ngành đã kết hợp với Công an tỉnh mở hội nghị bảo vệ an ninh trong cơ quan, xí nghiệp nhằm giữ gìn trật tự kỷ cương trong sản xuất, kinh doanh. Ngày 20-9-2000, Sở Giao thông vận tải, Đoạn quản lý cầu đường bộ đã phối hợp với Ban chỉ huy Quân sự thành phố Nam Định tổ chức trục vớt và khắc phục hậu quả bom chưa nổ tại khu vực cầu Đò Quan trên sông Đào thành phố Nam Định, đảm bảo an toàn cho cầu và phương tiện giao thông.

Mặc dù còn nhiều khó khăn về ngân sách, vốn, nhưng các đơn vị trong ngành đã cố gắng khắc phục khó khăn về tiền vốn, khai thác việc làm, mở rộng mặt hàng, sản xuất đa dạng các loại sản phẩm. Các đơn vị hoạt động bảo toàn được vốn, phấn đấu tăng trưởng vốn hàng năm. Những đơn vị cổ phần hoá đã chủ động linh hoạt trong sản xuất kinh doanh, tốc độ phát triển khá, hiệu quả cao hơn qua từng năm hoạt động.

Phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong cán bộ công nhân viên chức được phát động rất sâu rộng, toàn ngành đã có hàng trăm sáng kiến, giá trị làm lợi hàng trăm triệu đồng, tiền thưởng hàng chục triệu đồng, tiêu biểu điển hình là cán bộ công nhân Xí nghiệp Liên hợp Vận tải ô tô…

Những năm qua ngành Giao thông vận tải cùng tổ chức Công đoàn đã chủ động xây dựng kế hoạch tuyên truyền, tổ chức các đợt học tập thời sự chính trị quán triệt các Chị thị, Nghị quyết của Đảng, Pháp luật của Nhà nước nhằm nâng cao nhận thức, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, của ngành. Hàng năm ngành chú trọng chỉ đạo công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, nâng cao tay nghề cho công nhân nhằm từng bước nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật và nghiệp vụ chuyên môn đối với đội ngũ công nhân viên chức toàn ngành để thích ứng với tình hình hoạt động của ngành trong cơ chế thị trường.

Với quan điểm phát huy tinh thần dân chủ và sức mạnh nội lực phấn đấu thi đua giành thành tích cao trong lao động, sản xuất kinh doanh, hàng năm các đơn vị trong ngành đều tổ chức hội nghị công nhân viên chức hay hội nghị dân chủ cơ quan, đề ra nhiệm vụ phấn đấu và cam kết giữa chính quyền, công đoàn hoàn thành tốt kế hoạch Nhà nước và không ngừng nâng cao mức sống cho công nhân viên chức.

Trên cơ sở sản xuất kinh doanh có hiệu quả, lãnh đạo ngành luôn chăm lo đảm bảo an toàn lao động và nâng lương, thưởng thành tích lao

214

động tốt cho cán bộ, công nhân. Những gia đình cán bộ, công nhân có hoàn cảnh khó khăn đều được lãnh đạo Sở và công đoàn quan tâm động viên kịp thời về tinh thần và vật chất để cán bộ, công nhân bớt khó khăn yên tâm công tác. Hàng năm, các đơn vị còn tổ chức cho anh em đi thăm quan học tập kinh nghiệm, đi du lịch, nghỉ mát hoặc đi nghỉ dưỡng sức sau những tháng ngày lao động vất vả, tạo sự phấn khởi, tha thiết, gắn bó với ngành trong toàn thể cán bộ, công nhân.

Phong trào xây dựng nếp sống văn hoá trong ngành được lãnh đạo ngành và công đoàn các đơn vị quan tâm chỉ đạo, nhiều hoạt động văn hoá thể thao quần chúng được tổ chức thường xuyên gây không khí phần khởi lao động sản xuất, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của từng đơn vị và toàn ngành.

Phong trào “xanh sạch đẹp” được phát động từ năm 1996, hàng trăm cây xanh được trồng, tạo cảnh quan môi trường vệ sinh, sạch đẹp.

Với tình cảm uống nước nhớ nguồn và hưởng ứng các hoạt động từ thiện, Công đoàn ngành và Lãnh đạo Sở tích cực vận động cán bộ công nhân viên chức tham gia các đợt ủng hộ đồng bào lũ lụt riêng năm 1999-2000 cán bộ, công nhân giao thông vận tải Nam Định ủng hộ 87, 8 triệu đồng; ủng hộ “quĩ về người nghèo”, xây dựng quĩ ủng hộ nạn nhân chất độc màu da cam, quĩ đền ơn đáp nghĩa; tặng sổ tiết kiệm gia đình liệt sỹ, chăm sóc 4 bà mẹ Việt Nam anh hùng tổng số tiền là: 26.275.000 đồng.

Đối với công tác xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức Công đoàn ngành Giao thông vận tải quan tâm vận động cán bộ, công nhân viên chức lao động gương mẫu thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, hưởng ứng và tích cực tham gia cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh. Triển khai công tác bồi dưỡng, giáo dục đoàn viên thanh niên phấn đấu tu dưỡng trở thành đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.

Quá trình phấn đấu thực hiện nhiệm vụ, Công đoàn ngành, tổ chức Đoàn thanh niên luôn luôn đạt đơn vị tiên tiến, đơn vị vững mạnh. Đảng bộ và các chi bộ đều đạt Đảng bộ, chi bộ vững mạnh.

Quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển giao thông vận tải theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (1997-2000) của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ XV, ngành Giao thông vận tải đã nỗ lực phấn đấu có bước tiến vượt bậc, hoàn thành toàn diện và vượt mức kế hoạch tỉnh và Bộ Giao thông vận tải giao cho: về công tác xây dựng cơ bản, vận tải sản xuất công nghiệp đều có mức tăng trưởng khá; việc quản

215

lý các dự án, chương trình phát triển giao thông nông thôn, công tác quản lý theo chuyên ngành đạt nhiều thành tích. Nhiều công trình thế kỷ được hoàn thành đưa vào sử dụng như công trình cầu Đò Quan, cầu Tân Đệ, cầu Lạc Quần, Quốc lộ 10…đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng và sự đi lại của nhân dân trong tỉnh. Trong 4 năm (1997-2000), ngành đã nắm bắt nhanh thời cơ và lường trước được những khó khăn thử thách, chủ động đề xuất và tổ chức thực hiện các công trình giao thông đúng kế hoạch, đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng công trình, được tỉnh và Bộ Giao thông vận tải đánh giá cao và động viên khen thưởng. Những thành tựu đạt được trong thời kỳ 1997-2000 là động lực, là tiền đề để cán bộ công nhân viên chức toàn ngành vững bước vào thế kỷ XXI - đẩy mạnh phát triển giao thông vận tải theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần xây dựng quê hương đất nước trở thành nước công nghiệp trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI.

II- Ngành Giao thông vận tải Nam Định trong những năm đầu thế kỷ XXI (2001-2005).

Bước sang thế kỷ XXI, nhân dân ta đứng trước nhiệm vụ lịch sử là tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".

Kết thúc thế kỷ XX, tỉnh Nam Định đã bước đầu xây dựng được những tiền đề vật chất cơ bản để các cấp các ngành trong tỉnh phấn đấu tiếp tục sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng tỉnh ngày càng giàu mạnh.

Đối với ngành Giao thông vận tải Nam Định, nhiệm vụ những năm tới (2001-2005) là "cần tính toán đầu tư những công trình trọng điểm có hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tranh thủ sự ủng hộ của Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương, tập trung đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng, nhất là các công trình giao thông, kinh tế phúc lợi như: cầu Dây văng qua sông Đào, nâng cấp quốc lộ 21, đoạn thành phố Nam Định - Lạc Quân- Hải Thịnh... nâng cấp hệ thống đường giao thông nội thị..."(34).

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ XVI, ngành xác định: tập trung phát triển đồng bộ và bền vững mạng lưới giao thông vận tải đảm bảo sự đi lại thông suốt an toàn, êm thuận với chất lượng

34 Nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ XVI.

216

phục vụ ngày càng tốt, từng bước thực hiện phát triển công nghiệp chuyên ngành, tăng cường công tác quản lý hệ thống hạ tầng giao thông, quản lý vận tải, đẩy mạnh công tác đào tạo nhân lực, tiếp tục thực hiện chương trình giao thông nông thôn... phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội và góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng trật tự an toàn xã hội trên địa bàn toàn tỉnh.

Để thực hiện nhiệm vụ trong những năm (2001-2005) ngành quan tâm củng cố kiện toàn bộ máy tổ chức cán bộ, bổ sung cán bộ chuyên môn nghiệp vụ cho các phòng ban chức năng của Văn phòng Sở, các ban dự án và các doanh nghiệp. Đến năm 2003, đồng chí Đinh Công Ruấn, Giám đốc Sở được nghỉ hưu, Ban giám đốc được kiện toàn. Đồng chí Trần Văn Lợi được bổ nhiệm giữ chức Giám đốc Sở, đồng chí Trần Xuân Hợi giữ chức Phó giám đốc. Năm 2003 đồng chí Lê Nguyên Khính được bổ nhiệm là Phó giám đốc. Về tổ chức bộ máy và cán bộ, trên cơ sở nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác cán bộ, ngay từ đầu năm 2001, Sở đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chức năng nhiệm vụ của từng phòng ban, từ đó xây dựng chiến lược quy hoạch cán bộ nhằm trẻ hoá và xây dựng đội ngũ cán bộ của ngành "vừa hồng, vừa chuyên" tâm huyết, thiết tha với sự nghiệp giao thông vận tải. Ngày 11-4-2005, thực hiện chủ trương của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, ngành đã tổ chức hội nghị quy hoạch cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý của Sở thời kỳ 2005-2010.

Từ năm 2001 đến năm 2005, Sở đã kiện toàn lại tổ chức bộ máy sắp xếp lại phòng quản lý giao thông, thành lập phòng kế hoạch kỹ thuật, củng cố phòng quản lý vận tải- phương tiện người lái, thành lập Ban quản lý dự án WB2, Trung tâm đào tạo sát hạch lái xe xây dựng Trung tâm tin học quản lý ngành. Cơ quan văn phòng Sở thành lập Chi đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Trên cơ sở tổ chức bộ máy được kiện toàn, cán bộ, công nhân viên toàn ngành đã phát huy mọi nguồn lực, xây dựng phát triển ngành theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng như các quyết định, chỉ thị của Bộ Giao thông vận tải.

Ngay từ những năm đầu của thế kỷ XXI, ngành đi sâu làm tốt chức năng quản lý Nhà nước về Giao thông vận tải. Sở đã tham mưu cho UBND tỉnh về công tác quản lý quy hoạch và phát triển giao thông vận tải trên địa bàn toàn tỉnh, đảm bảo sự thống nhất quản lý theo ngành từ Trung ương đến địa phương. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng ấy, lãnh đạo Sở chỉ đạo các phòng, ban, tập trung trí tuệ, công sức quy hoạch phát triển giao thông

217

vận tải đến 2010, tầm nhìn đến năm 2020. Ngày 18-12-2003, UBND tỉnh đã phê duyệt quy hoạch tại Quyết định số 3500/2003/QĐ-UB.

Quy hoạch vừa mang tính kế thừa, vừa mang tính phát triển toàn diện, cân đối cả 2 lĩnh vực Giao thông và vận tải, trên cơ sở tận dụng tối đa năng lực cơ sở hạ tầng hiện có, chú trọng công tác bảo trì, nâng cấp các công trình giao thông tập trung nguồn lực đầu tư cho các công trình giao thông trọng điểm, các tuyến trục chính, quan trọng và khu kinh tế thương mại du lịch.

Xây dựng quy hoạch các bến xe, các bãi đỗ xe, quy hoạch quỹ đất dành phát triển hạ tầng và giao thông tĩnh trong tương lai quy hoạch các nút giao thông, các điểm nối từ đường tỉnh, đường gom dân sinh với các tuyến quốc lộ trên địa bàn tỉnh Nam Định. Quy hoạch phát triển giao thông vận tải đảm bảo hài hoà với phát triển hạ tầng kỹ thuật của các ngành khác cũng như phù hợp với công cuộc hội nhập kinh tế. Ngành cũng nghiên cứu ban hành các văn bản hướng dẫn chỉ đạo về công tác quản lý giao thông vận tải, đầu tư xây dựng cơ bản, công tác giữ gìn trật tự an toàn giao thông... tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng kế hoạch thực hiện Luật giao thông đường bộ, kiềm chế gia tăng và tiến tới giảm dần tai nạn giao thông, ùn tắc giao thông; triển khai Chỉ thị 21-CT/UB của UBND tỉnh về việc toàn dân tham gia bảo vệ công trình giao thông đường bộ đến các cấp các ngành trong tỉnh. Tổ chức thực hiện Chỉ thị 22-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương, Chỉ thị 09-CT/TU của Tỉnh uỷ Nam Định về tạo sự chuyển biến về ý thức chấp hành luật pháp về trật tự an toàn giao thông. Ngành chỉ đạo sắp xếp luồng tuyến vận tải hành khách, quản lý hệ thống bến bãi, các bến đò, quản lý phương tiện theo Quyết định 890 của Bộ Giao thông vận tải; triển khai Nghị định 40/CP của Chính phủ đến các chủ phương tiện thuỷ trong toàn tỉnh, giao thông đường thuỷ nhất là trong mùa mưa bão. Nắm bắt chủ trương chiến lược phát triển giao thông vận tải năm 2001-2010 của khu vực và cả nước, ngành chỉ đạo triển khai đánh giá mạng lưới giao thông trong toàn tỉnh xây dựng. Từ đó triển khai nghiên cứu và đề xuất phương án quy hoạch tuyến đường ven biển nối quốc lộ 1A tại Thanh Hoá qua Kim Sơn (Ninh Bình) nối với quốc lộ 21 tại Hải Hậu qua Giao Thuỷ (Nam Định) sang Thái Bình đi Hải Phòng, Quảng Ninh tạo thành tuyến đường liên hoàn thuận lợi cho công cuộc khai thác và phát triển kinh tế vùng biển, góp phần bảo vệ vững chắc an ninh quốc phòng của tỉnh và khu vực Đông Bắc của Tổ quốc.

218

Công tác quản lý duy tu bảo dưỡng, quản lý hành lang bảo vệ đường bộ được thực hiện ngày càng tốt hơn. Ngành đã tham mưu cho UBND tỉnh ban hành các văn bản về quản lý hành lang bảo vệ đường bộ theo Nghị định 172/NĐ-CP của Chính phủ, theo Quyết định số 02/2004/QĐ-UB ngày 01-01-2004 của UBND tỉnh. Tham mưu cho UBND tỉnh ban hành Chỉ thị số 21-CT/UB ngày 13-8-2003 của UBND tỉnh về giao thông vận tải phong trào "toàn dân tham gia bảo vệ công trình giao thông đường bộ" cắm mốc lộ giới. Trên các tuyến quốc lộ và tỉnh lộ trong toàn tỉnh được cắm mốc. Ngành tăng cường lãnh đạo công tác kiểm tra phòng chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn, tổ chức ký kết chương trình phối hợp giữa Hội Nông dân tỉnh và ngành Giao thông vận tải về việc duy tu bảo dưỡng, bảo vệ hành lang đường giao thông nông thôn ở cấp tỉnh, huyện và thành phố; tổ chức bồi dưỡng kiến thức chuyên môn cho 224 cán bộ của 224 xã, phường, thị trấn trong tỉnh về công tác duy tu bảo dưỡng đường giao thông. Các xã, thị trấn còn huy động nhân dân quỹ xây dựng bảo trì đường giao thông nông thôn với mức 2 triệu đến 5 triệu đồng/1km/năm.

Tham mưu HĐND tỉnh ra Nghị quyết số 14-NQ/HĐ khoá 16 kỳ họp thứ 2- ban hành quy chế quản lý sử dụng bảo trì đường giao thông.

Về bảo vệ hành lang đường bộ, ngành đã có nhiều biện pháp kiên quyết như: tổ chức rào chắn những đoạn đường, những tuyến đường bị lấn chiếm hoặc bị vi phạm hành lang an toàn giao thông đường bộ. Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải đã đánh giá cao về sự quyết tâm của Sở Giao thông vận tải tỉnh Nam Định. Trong việc bảo vệ hành lang đường bộ. Tận dụng nguồn vốn duy tu ngành đã mở rộng mặt đường quốc lộ 21 đoạn Nam Định- Lạc Quần, nhờ đó tăng được năng lực thông qua của tuyến đường, hạn chế được ách tắc giao thông trong khi chưa có vốn đầu tư nâng cấp. Chỉ tính trong năm 2004 giá trị công tác duy tu bảo dưỡng sửa chữa đường bộ thực hiện đạt 115%, tăng 12% so với thực hiện của năm 2003.

Về công tác quản lý đường đảm bảo trật tự an toàn giao thông, ngành chỉ đạo các phòng ban chuyên môn phối hợp với cấp huyện, thành phố Nam Định, đoạn quản lý cầu đường tập trung xử lý các điểm đen góp phần giảm tai nạn giao thông, giải phóng lòng đường, chống lấn chiếm lòng đường ở các trung tâm huyện lỵ, các cửa ngõ vào thành phố Nam Định.

Trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an toàn giao thông, năm 2004 ngành tổ chức kiểm tra 5128 lượt xe, đã phát hiện 481 lượng phương tiện không đạt tiêu chuẩn để có biện pháp xử lý. Kiểm tra 314 lượt phương tiện thuỷ, qua đó nâng cao ý thức của các chủ phương

219

tiện về an toàn giao thông năm 2003; ngành đầu tư hơn 1 tỷ đồng trong để sơn vạch kẻ đường, bổ sung đèn tín hiệu giao thông, cọc tiêu, biển báo, đèn chiếu sáng và đặt giải phân cách, gờ giảm tốc cưỡng bức ở những đoạn đường có nguy cơ mất an toàn để hướng dẫn điều chỉnh giao thông, bước đầu hình thành những nét "văn hoá trong giao thông vận tải".

Cùng với những nỗ lực trên, các biện pháp tuyên truyền về giao thông được coi trọng tiến hành đồng bộ. Ngành phối hợp với các cơ quan, phương tiện thông tin đại chúng duy trì chuyên mục an toàn giao thông phát trên đài truyền hình địa phương trên báo Nam Định nhằm giáo dục nhân dân giữ an toàn giao thông, đồng thời tuyên truyền vận động nhân dân đội mũ bảo hiểm khi đi xe mô tô, xe máy; kết hợp với ngành Giáo dục tổ chức tuyên truyền cho học sinh, sinh viên hiểu biết về trật tự an toàn giao thông, nâng cao ý thức chấp hành luật giao thông. Ngành cùng với Sở Tư pháp tổ chức tập huấn về luật an toàn giao thông cho các trưởng phòng tư pháp cấp huyện, thành phố và các báo cáo viên pháp luật của các cấp; tổ chức điều tra phương tiện thuỷ tại các huyện Xuân Trường, Hải Hậu, Giao Thuỷ, Trực Ninh để thực hiện tốt các quy định về đảm bảo an toàn giao thông. Cùng với công tác tuyên truyền ngành giao thông vận tải đã chủ trì việc phối hợp giữa Công an, các đơn vị quản lý đường sông, đường bộ, đường sắt (đoạn quản lý đường sông số 5, Hạt quản lý đường sắt Hà Ninh), Phòng Công thương các huyện và thành phố Nam Định tổ chức kiểm tra kiểm soát trên các tuyến đường sắt, đường bộ, đường thuỷ, đồng thời tuyên truyền về cuộc vận động "toàn dân tham gia đảm bảo trật tự an toàn giao thông" và phát động "tháng an toàn giao thông" nhằm ngăn ngừa hạn chế tai nạn giao thông. Ngành đã phối hợp với Cục đường sông xây dựng tuyến điểm giao thông đường thuỷ trên tuyến sông Đào, Nam Định để rút kinh nghiệm nhân ra diện rộng trong tỉnh và các tỉnh trong toàn quốc.

Năm 2002, thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Nghị quyết 13/CP của Chính phủ, Ban chỉ đạo "an toàn giao thông" của tỉnh được kiện toàn, trong đó ngành Giao thông vận tải là cơ quan thường trực của Ban an toàn giao thông tỉnh Nam Định. Theo Quyết định số 559/2003/QĐ-UB của UBND tỉnh, ngày 13-3-2003 về việc kiện toàn Ban an toàn giao thông tỉnh Nam Định gồm 19 thành viên do ông Trần Trung Am làm Trưởng ban. Ngành đã tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng Kế hoạch số 64/VP5, số 178/VP5 và phổ biến đến các cấp , các ngành phối hợp thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương, của Chính phủ và Chỉ thị số 09-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ. Ban an

220

toàn giao thông tỉnh đã chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể: Công an, Sở Giao thông vận tải, Đài Phát thanh truyền hình tỉnh, Báo Nam Định, Sở Tư pháp, Sở Văn hoá thông tin, Sở Giáo dục- đào tạo, các huyện, thành phố, xã, phường, thị trấn trong tỉnh làm tốt công tác tuyên truyền và đề cao tinh thần trách nhiệm trong thực hiện trật tự an toàn giao thông. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Liên Đoàn lao động, Hội Cựu chiến binh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân tỉnh phối hợp với Ban chỉ đạo an toàn giao thông tỉnh triển khai đồng loạt chương trình phối hợp hành động thực hiện các Nghị quyết liên tịch giữa Uỷ ban An toàn giao thông quốc gia với Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận từ tỉnh đến cơ sở. Năm 2003, Ban chỉ đạo an toàn giao thông tỉnh đã tổ chức Hội nghị an toàn giao thông tới các cấp, các ngành phát động "tháng an toàn giao thông". Hàng năm vào tháng 9 tới tận các cơ sở, được nhân dân tích cực hưởng ứng.

Trên các tuyến đường giao thông ngành thực hiện tốt việc cắm các biển báo các đường ngang, biển báo các tuyến đường bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm, các biển pa nô hiện đại kiên cố phục vụ tuyên truyền về trật tự an toàn giao thông. Giải quyết xử lý các "điểm đen" về an toàn giao thông, lắp đặt 3 cụm đèn tín hiệu giao thông tại nút giao giữa quốc lộ 10 với các tuyến tỉnh lộ. Phối hợp với các ban, ngành của tỉnh tuyên truyền phát động và tổ chức cuộc thi, hội thi tìm hiểu pháp luật về an toàn giao thông trong học sinh, sinh viên; hội thi lái xe ô tô giỏi, an toàn cấp tỉnh, qua đó chọn được một đội đi dự thi tìm hiểu pháp luật về an toàn giao thông tại trường quay S9 Đài Truyền hình Việt Nam và Hội thi lái xe giỏi an toàn toàn quốc.

Với quyết tâm thực hiện tốt an toàn giao thông của tỉnh và được sự hưởng ứng chấp hành của toàn dân, công tác an toàn giao thông đã đạt được kết quả bước đầu. Tình hình tai nạn giao thông năm 2004 so với năm 2003 đã giảm 3 chỉ tiêu (số vụ: giảm 9 vụ bằng 6%, số người chết giảm 1,7%, số người bị thương giảm 1,2%). Thông qua kiểm tra, kiểm sát năm 2001 đã xử lý 39.390 trường hợp(35), giải toả được 289 lều quán, thu dọn 367 điểm để vật liệu xây dựng, lập biên bản cảnh cáo 268 trường hợp và ra quyết định xử phạt 44.021 trường hợp.

35 Tổng số vụ vi phạm trên địa bàn tỉnh: 229 vụ tai nạn làm chết 121 người, bị thương 173 người (trong đó xẩy ra trên đường bộ 214 vụ làm chết 111 người tăng 39% so với năm 2000, bị thương 171 người giảm 12 người; đường sắt 8 vụ 5 người chết tăng 150%, giảm so với 2000 là 1 vụ)

221

Song dù đã có nhiều biện pháp đồng bộ để đảm bảo an toàn giao thông nhưng những năm qua số vụ vi phạm an toàn giao thông vẫn có chiều hướng tăng. Trong số các vụ tai nạn giao thông, người điều khiển phương tiện mô tô gây ra chiếm 70% số vụ, tai nạn thường xẩy ra tại các đường giao thông nông thôn và trên 2 tuyến quốc lộ 21 và quốc lộ 10.

Đối với công tác xây dựng cơ bản và quản lý dự án, toàn ngành tập trung thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ, Nghị quyết của HĐND, UBND tỉnh về "tranh thủ mọi nguồn vốn đầu tư phát triển, tập trung cho các ngành, các lĩnh vực trọng điểm..." "tập trung phát triển đồng bộ và bền vững mạng lưới giao thông vận tải...". Từ năm 2001 đến năm 2005 ngành đã triển khai nhiều công trình thuộc nguồn vốn Trung ương và địa phương, đảm bảo chất lượng và tiến độ công trình.

Nguồn vốn Trung ương ngành thực hiện trong năm 2001 là: 12.479 triệu đồng bằng 150%, năm 2002 thực hiện 40.500 triệu đồng bằng 192%, năm 2003 thực hiện 77.956 triệu đồng, năm 2004: 9,1 tỷ đồng bằng 102%.

Nguồn vốn địa phương, ngành thực hiện năm 2001: 3.227 triệu đồng đạt 118% (một phần do các huyện trực tiếp quản lý 16.600 triệu đồng đạt 100%), năm 2002: 64.348 triệu đồng bằng 365% (vốn giải phóng mặt bằng quốc lộ 10 thực hiện 32.966 triệu đồng bằng 100%), năm 2003 ngành thực hiện 16.600 triệu đồng bằng 122%, năm 2004 nguồn vốn địa phương thực hiện 28,5 tỷ đồng đạt 101%.

Đối với quốc lộ 10, ngành thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng để nhà thầu thi công đúng tiến độ. Qua 2 năm tích cực thực hiện công tác đền bù, cuối năm 2002 hoàn thành cơ bản giải phóng mặt bằng quốc lộ 10 với tổng chiều dài 37 km và trên 3000 hộ dân (năm 2001 tổng giá trị đền bù là 49 tỷ đồng; năm 2002 là 32.966 triệu đồng).

Đối với quốc lộ 21, ngành đã hoàn thành 4,3 km thuộc khu vực Hà Nam, hoàn thành hệ thống thoát nước khu vực thành phố Nam Định, thị trấn Bình Mỹ huyện Bình Lục với tổng chiều dài gần 4 km, hoàn thành cơ bản 6 cầu trên quốc lộ 21 gồm: cầu Kích, cầu Khâm, cầu Hải Quang I, Hải Quang II, cầu Hải Tây, cầu Hải Hoà. Các thủ tục về đầu tư nâng cấp cải tạo quốc lộ 21 đoạn Nam Định - Lạc Quần) được hoàn tất. Năm 2004 ngành tập trung chỉ đạo công tác giải phóng mặt bằng các công trình như tuyến nối quốc lộ 10 với quốc lộ 21 (S2)...

222

Đối với các công trình bằng nguồn vốn địa phương, ngành làm chủ đầu tư đều thực hiện vượt tiến độ như cầu phao Ninh Cường, xây dựng mới bến phà Sa Cao - Thái Hạc nối tỉnh lộ 481 đi thị xã Thái Bình, cầu Ba Bà (Hải Hậu) đã đưa vào sử dụng, triển khai phá Thịnh Long, cầu Lộc Hạ và các tuyến đường nội thành của thành phố Nam Định như đường Trần Nhân Tông, Võ Thị Sáu, đường khu công nghiệp phía tây thành phố Nam Định, đường vào khu thương mại-du lịch, đường trung tâm huyện Nam Trực, Giao Thuỷ. Cầu Điền Xá, cầu Phúc Trọng và 13 cầu thuộc chương trình giao thông nông thôn năm thứ 2 và các đoạn đường tỉnh lộ (đường 56, 54, 64). Công tác đầu tư xây dựng cơ bản được thực hiện nghiêm túc theo quy định của Nhà nước, quản lý vốn đúng mục đích, thông qua việc tổ chức đấu thầu 14 công trình đã tiết kiệm được 5.983 triệu đồng bằng 13,4%.

Về công tác quản lý dự án, ngành đã hoàn thành giải phóng mặt bằng những điểm khó khăn tồn tại đã nhiều năm như quốc lộ 21 đoạn Liêm Cần dài 4,2 km quốc lộ 10 đoạn Cát Đằng- Ý Yên dài 2 km và khu cầu Vượt (Nam Định). Công tác chuẩn bị cho xây dựng tuyến nối quốc lộ 10 với quốc lộ 21.

Toàn ngành đã tích cực tranh thủ các nguồn vốn của Trung ương và các nguồn vốn ODA chuẩn bị đầu tư các dự án vốn JBIC khôi phục 6 cầu yếu, vốn WB4 cho quốc lộ 21, tỉnh lộ 55, 54, vốn WB3 đầu tư tiếp cho đường giao thông nông thôn. Thực hiện chương trình WB2 ngành được thưởng một triệu USD. Tổng cộng số tiền thưởng của các công trình dự án, toàn ngành được thưởng khoảng trên 7 triệu USD.

Như vậy, từ năm 2001 đến năm 2005 kể cả vốn ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương, vốn ODA; JBIC, WB2 và vốn do nhân dân đóng góp cho đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông, chi phí cho giải phóng mặt bằng tuyến Quốc lộ 10 và tuyến S2, S3 đạt hơn 350 tỷ đồng (nếu tính cả nguồn vốn thi công của các dự án do Trung ương quản lý trên địa bàn thì đạt tới 1.500 tỷ) góp phần làm thay đổi cơ bản kết cấu hạ tầng giao thông và tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Song do khó khăn về vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho nên từ năm 2003 đến nay, các dự án mới được triển khai không nhiều, nợ đọng các công trình đã hoàn thành từ năm 2003 trở về trước còn kéo dài.

Công tác vận tải của Ngành vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng, các đơn vị làm nhiệm vụ vận tải đã đổi mới về phương tiện, đa dạng hoá sản phẩm, ý thức phục vụ của những người điều khiển phương tiện tốt hơn

223

trước, 100% phương tiện xe khách chạy liên tỉnh đảm bảo theo Quyết định 890 của Bộ Giao thông vận tải lái xe ân cần chu đáo với hành khách. Vận tải thuỷ, bộ vẫn phát huy được tính chủ động tích cực khai thác nguồn hàng đáp ứng yêu cầu vận chuyển cả về hàng hoá và hành khách. Trong tháng 4-2002, ngành đã chỉ đạo triển khai tới các chủ phương tiện về Quyết định 4127/QĐ-BGTVT và Quyết định 4128/QĐ-BGTVT về quy định bến ô tô khách, tuyến vận tải khách và quản lý khai thác tuyến vận tải khách bằng ô tô. Ngành đã tiếp tục chỉ đạo hiệp thương vận tải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát huy hết năng lực đáp ứng yêu cầu giao lưu trao đổi hàng hoá, hành khách thuận lợi, an toàn và văn minh, lịch sự. Đã cải tạo, nâng cấp và đưa bến xe Đò Quan vào khai thác tuyến Nam Định - Hà Nội đồng thời tăng xe tăng chuyến ở tất cả các tuyến vận tải khách liên tỉnh. Trong năm 2003, công ty Cổ phần vận tải ô tô thay biểu đồ chạy xe tuyến Nam Định- Hà Nội và ngược lại với thời gian chạy xe từ 5 giờ sáng đến 21 giờ. Các chuyến khởi hành cách nhau 15 phút đã thoả mãn nhu cầu đi lại của hành khách trên tuyến giao thông quan trọng trong ngày.

Từ năm 2002 đến năm 2004 là thời kỳ gia tăng đột biến về xe cơ giới. Nếu năm 2000, có 88.857 xe cơ giới thì năm 2001 có 113.445 xe cơ giới, đặc biệt là lượng xe máy trong tỉnh khá lớn, trên 100.000 xe. Phương tiện thuỷ cũng tăng hơn. Năm 2002 phương tiện vận tải đường bộ có 1.658 xe ô tô các loại, trong đó xe chở khách 471 xe bằng 17.648 ghế; phương tiện thuỷ 1.071 chiếc bằng 45.973 tấn. công suất 82.414 CV, trong đó vận tải biển: 29 chiếc bằng 24.650 tấn và 10.671 CV. Năm 2003 có 2.321 chiếc, trong đó ô tô khách 473 chiếc bằng 17.769 ghế, tổng số phương tiện vận tải thuỷ: 1.083 chiếc bằng 146.727 tấn với 83.115 CV. Năm 2004 phương tiện vận tải thuỷ toàn tỉnh hiện có 1.831 chiếc bằng 210.083 tấn và 111,123 CV. Trong đó đã đăng ký 1.045 chiếc-113.697 tấn-64.397 CV. Toàn tỉnh có 1.244 chiếc xe tải/6.220 tấn. Tổng số xe công nông hiện có: 2000 chiếc/2000 tấn, xe khách có 653 chiếc, xe chạy liên tỉnh: 400 chiếc, xe nội tỉnh: 22 chiếc, xe chở hợp đồng: 200 chiếc, xe taxi: 31 chiếc. Năm 2004, toàn tỉnh Nam Định có 125 tuyến xe khách. Bình quân từ Nam Định đi các tỉnh có 200 chuyến xe xuất bến trong một ngày, xe tỉnh ngoài chạy đối lưu khoảng 130 chuyến. Riêng xe khách của tỉnh một năm chở khoảng 3.600.000 lượt người bằng 432.000.000 người km.

Nhằm nâng cao chất lượng phương tiện vận tải, Công ty cổ phần vận tải đã chủ động thay đổi chủng loại xe, tăng cường trang thiết bị hiện đại phục vụ tốt nhu cầu đi lại vừa an toàn vừa thoải mái cho hành khách, xe

224

chất lượng cao của Công ty vận tải chạy các tuyến ngoại tỉnh được nhân dân rất khen ngợi. Quý III năm 2004, hội thi lái xe giỏi và an toàn của ngành được tổ chức. Hội thi là dịp để đội ngũ lái xe rèn luyện tay nghề chấp hành nghiêm luật lệ giao thông, đồng thời tôn vinh những người lái xe giỏi, an toàn, từ đó cổ vũ, động viên đội ngũ lái xe phấn đấu học tập noi theo điển hình tiên tiến, đảm bảo "giữ xe tốt", "lái xe an toàn".

Đối với vận tải biển, từ năm 2001 đến năm 2004 phương tiện vận tải biển phát triển nhanh. Chủ yếu chở hàng từ Quảng Ninh, Trung quốc đi các tỉnh phía Nam và ngược lại. Từ chỗ chỉ có 1 chiếc tàu 400 tấn đến năm 2004 tăng lên 30 chiếc với tổng trọng tải 20.000 tấn, một năm chở từ 200.000 tấn đến 336.000 tấn hàng.

Kết quả về vận tải: Năm 2001, vận tải hàng hoá tăng 6% về tấn và 8% về tấn km, vận tải hành khách tăng 5% về người và 7% về người km. Năm 2002, vận tải hàng hoá vượt 12% về tấn và 14% về tấn km, so với năm 2001 vận tải hành khách vượt 13% về người và 14,5% về người km. Năm 2003, vận tải hàng hoá tăng 8% về tấn và 9% về tấn km, vận tải hành khách tăng 11% về người và 11% về người km. Năm 2004, vận tải có bước phát triển vững chắc, hoàn thành vượt mức kế hoạch, về vận tải hàng hoá tăng 9% về tấn 8,7% về tấn km, vạn tải hành khách tăng 9,5% về người và 9,3% về người km.

Toàn ngành triển khai thực hiện tốt Chỉ thị 01/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh hoạt động vận tải khách liên tỉnh. Ngành đã xây dựng kế hoạch và thành lập đoàn kiểm tra các đơn vị vận tải khách, phòng Công thương các huyện và 14 bến xe về việc thực hiện Chỉ thị 10/CT-TTg, văn bản số 535/ĐBVN-VT của Cục đường bộ Việt Nam và chấn chỉnh hoạt động vận tải khách liên tỉnh, nâng cao ý thức chấp hành thể lệ vận tải của các chủ phương tiện.

Lĩnh vực sản xuất công nghiệp của các công ty, doanh nghiệp từ năm 2001 trở đi có bước phát triển khá nổi bật. Các đơn vị vươn lên làm chủ công nghệ không ngừng cải tiến mẫu mã, áp dụng các tiêu chuẩn công nghệ tiên tiến để đáp ứng yêu cầu phát triển, cạnh tranh và đảm bảo an toàn trong vận tải. Công nghệ đóng xe khách mẫu mã ngày càng đẹp hơn.

Năm 2001, đóng mới được 150 ô tô khách các loại từ 25 đến 46 chỗ ngồi, 56 phương tiện vận tải thuỷ bằng 6.720 tấn và 4.080 CV. Năm 2002, đóng mới được 120 xe khách từ 30 đến 50 chỗ ngồi, đóng mới 105 tầu bằng 31.000 tấn, trong đó đóng cho doanh nghiệp địa phương 89 chiếc có

225

trọng tải 19.243 tấn, công suất: 13.500 CV. Công ty Cổ phần Vận tải ô tô là đơn vị duy nhất của tỉnh thực hiện công nghệ đóng xe khách với các thiết bị hiện đại. Năm 2003 Công ty đã đóng được 125 xe chất lượng, tăng 5 xe so với năm 2002. Từ năm 2001 đến năm 2005 sẽ đóng khoảng 650 xe khách. Trên đà phát triển, ngành vận tải ô tô Nam Định xứng đáng là mô hình tiên tiến của cả nước trong lĩnh vực vận tải. Về phương tiện thuỷ, các hợp tác xã đóng mới và sửa chữa được 90 chiếc băng 200% tấn, công suất 13.700 CV. Công ty cổ phần Quyết Thắng đóng mới phà tự hành phun xoay 60 T, 100 J, chế tạo cầu thép giao thông nông thôn L30-H13; chế tạo dầm cầu dây văng, đóng mới tầu vận tải biển 1000T ÷ 2000 T.

Năm 2004 công nghệ đóng mới bệ, lắp ráp xe ô tô thực hiện đạt 115%, so với năm 2003 tăng 20% về giá trị sản lượng. Về công nghiệp đóng mới và sữa chữa phương tiện thuỷ, tỉnh đã tạo được hành lang pháp lý thông thoáng để các doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Nhà máy đóng tầu 1-5, đã đóng được tàu biển đến 3.000 tấn. Các cơ sở đóng lớn đã có quy trình công nghệ ổn định, chiếm lĩnh được lòng tin của khách hàng. Tổng Công ty công nghiệp tầu thuỷ Việt Nam đã triển khai chương trình dự án đầu tư lớn tại Nam Định, mà trọng tâm là 3 khu vực: khu vực thành phố Nam Định (gồm Nhà máy đóng tầu 1-5 và công ty Cổ phần đóng tầu Sông Đào); khu công nghiệp Xuân Châu huyện Xuân Trường và khu công nghiệp Thịnh Long huyện Hải Hậu mở ra một triển vọng rất tốt cho ngành công nghiệp đóng tầu cũng như góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển.

Công tác đào tạo sát hạch lái xe lái tầu vẫn được tổ chức tốt. Năm 2003 ngành đã hoàn thành chỉ tiêu mỗi xe mô tô trên 50 cm có bình quân 1 giấy phép lái xe. Năm 2004 ngành đã đưa việc sát hạch A1 vào hoạt động tại Trung tâm đào tạo sát hạch cấp giấy phép lái xe tỉnh đạt chất lượng cao. Chủ trương mới của ngành là sẽ lắp đặt hệ thống thiết bị chấm điểm tự động hiện đại phục vụ cho thi lý thuyết và thực hành sát hạch lãi xe ô tô tại trung tâm đồng thời đề xuất với UBND tỉnh về lộ trình thay thế xe công nông, dự tính đến năm 2008 không còn xe công nông hoạt động trên đường giao thông công cộng.

Phong trào phát triển đường giao thông nông thôn được sự chỉ đạo của tỉnh vẫn phát triển mạnh. Các huyện và thành phố Nam Định đã huy động mọi nguồn lực để đầu tư làm đường giao thông ở địa phương mình, theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, nhân dân và địa phương cùng làm có sự chỉ đạo của ngành Giao thông vận tải.

226

Trong những năm 2001-2004 được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Bộ Giao thông vận tải, sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp đã tiến hành quy hoạch và từng bước nâng cấp các tuyến đường huyện thành đường cấp 4 đồng bằng, đường xã, liên xã thành đường cấp 5 đồng bằng, đường thôn, xóm đạt cấp 6 đồng bằng và toàn bộ cầu trên tuyến đường huyện, xã đạt tải trọng H8-X60. Hoàn chỉnh hệ thống đường nhựa, đường bê tông và nâng cấp xây mới các cầu, tiếp tục xin đầu tư bằng nguồn vốn WB3 làm các tuyến đường còn lại. Sau khi đã nâng cấp cải tạo được 332 km trên 137 tuyến đường, 33 cầu bằng 527 m trên địa bàn 125 xã thuộc địa bàn 9 huyện và thành phố Nam Định với nguồn kinh phí đầu tư là 89,858 tỷ đồng bằng nguồn vốn WB3 trong 3 năm (2001-2004), năm 2004 ngành triển khai chương trình bổ sung năm thứ 4 vốn giao thông nông thôn (WB2) với 21 cầu 336 m) và 12 tuyến đường 27,05 km đúng quy định.

Quá trình cải tạo nâng cấp đường giao thông nông thôn, các địa phương, cùng với sự đóng góp tích cực của nhân dân các huyện, thành phố đã cải tạo nâng cấp được 5.870 km đường huyện (từ năm 2001đến năm 2003) trong đó nhựa hoá được 110 km đường Trung ương uỷ thác đạt 100%, đường tỉnh đường đô thị: 297 km đạt 99%, đường huyện 89/389 km đạt 75%, đường xã, liên xã: 1.393/1.792 km đạt 78%, đường thôn, xóm bê tông hoá được 3.807/4.200 km đạt 90%. Khôi phục, làm mới được 153 cầu các loại và 8 triệu m3 đất đào đắp mở rộng lòng đường. Tổng kinh phí đầu tư trên 1.500 tỷ đồng, trong đó nhân dân đóng góp làm đường giao thông nông thôn trên 670 tỷ đồng chiếm 67% tổng mức đầu tư. Trong năm 2004, tổng kinh phí đầu tư phát triển giao thông nông thôn của 8/10 huyện, thành phố đạt 144.469,9 triệu đồng, trong đó kinh phí do nhân dân đóng góp là 66.375,4 triệu đồng chiếm 46 tổng kinh phí đầu tư.

Trong phong trào làm đường giao thông nông thôn nhiều đơn vị đã phấn đấu tốt đạt nhiều thành tích. Điển hình trong phong trào làm đường giao thông nông thôn 2001-2005 của tỉnh là các huyện Trực Ninh, Nghĩa Hưng, Vụ Bản, Mỹ Lộc. Năm 2001, huyện Trực Ninh được Bộ Giao thông vận tải tặng cờ thi đua xuất sắc, hai xã Nghĩa Hoà (Nghĩa Hưng), Yên Ninh (Ý Yên) được Bộ Giao thông vận tải tặng Bằng khen. Năm 2002, Bộ Giao thông vận tải tặng cờ thi đua xuất sắc cho hai huyện Trực Ninh và Mỹ Lộc và tặng bằng khen cho 2 xã Nghĩa Hùng (Nghĩa Hưng) và Giao Long (Giao Thuỷ). Năm 2004 các đơn vị được là điển hình về làm đường giao thông là các huyện Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Vụ Bản và các xã Tam Thanh

227

(Vụ Bản), Nghĩa Thành (Nghĩa Hưng), Hải Châu, Hải Phương (Hải Hậu), Giao Yến, thị trấn Quất Lâm (Giao Thuỷ). Huyện Hải Hậu được ngành và UBND tỉnh đề nghị Chính phủ tặng cờ thi đua của Chính phủ, huyện Nghĩa Hưng được đề nghị Bộ Giao thông vận tải tặng cờ thi đua xuất sắc.

Cùng với việc tập trung xây dựng, phát triển ngành lớn mạnh, cán bộ công nhân toàn ngành luôn thực hiện tốt phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, là ngành có nhiều công trình trọng điểm về kinh tế, an ninh, quốc phòng, có tài sản lớn và ở diện rộng như: trạm đăng kiểm cơ giới đường bộ cầu Đò Quan- Nam Định, cầu Lạc Quần, bến phà Sa Cao (huyện Xuân Trường), Thịnh Long (huyện Hải Hậu), cầu phao Ninh Cường (huyện Trực Ninh), trạm thu phí Mỹ Lộc, bến xe khách Nam Định, cảng Hải Thịnh (huyện Hải Hậu) và Trung tâm đào tạo sát hạch cấp giấy phép lái xe. Đường và cầu trên đường quốc lộ, tỉnh lộ cũng như các chương trình phát triển giao thông nông thôn WB2 trong toàn tỉnh... hơn nữa ngành giao thông vận tải có đặc điểm riêng về công tác đảm bảo tính mệnh và tài sản của nhân dân cũng như tài sản của Nhà nước với một khối lượng vận chuyển lớn liên thông trong phạm vi cả nước. Hiểu rõ tầm quan trọng và trách nhiệm của mình, lãnh đạo ngành giao thông vận tải đã tập trung chỉ đạo nghiêm túc việc quán triệt Nghị quyết Trung ương 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về chiến lược bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới đến toàn thể cán bộ công nhân toàn ngành. Các đơn vị luôn gắn việc thực hiện nhiệm vụ chính trị với nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự, chủ động phòng ngừa chống các biểu hiện tiêu cực. Các công ty, xí nghiệp đều bảo vệ tốt bí mật Nhà nước, an toàn lao động, phòng chống cháy nổ, phòng chống bão lũ đảm bảo an toàn cho người và tài sản Nhà nước.

Nhằm phục vụ tốt sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong ngành giao thông vận tải, ngay từ những năm đầu thế kỷ XXI, ngành tiếp tục làm tốt công tác quy hoạch cán bộ giai đoạn 2005-2010, công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị và chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức phục vụ nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Đại bộ phận công chức có trình độ đại học, cao đẳng (70%). Cán bộ nằm trong quy hoạch được cử đi học chương trình cao cấp lý luận chính trị hoặc cử nhân chính trị. Nhiều cán bộ công nhân được cử đi đào tạo ngắn hạn và dài hạn về chuyên môn, về quản lý Nhà nước, tin học.

Các đơn vị trong ngành thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ chuyên môn như tổ chức tập huấn cho cán bộ quản lý giám sát

228

thi công các công trình giao thông, bồi dưỡng uỷ viên giao thông các xã, tổ chức đào tạo lớp thuyền máy trưởng tàu sông các hạng, bồi dưỡng và thi nâng bậc nghề hàng năm cho công nhân, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra giám sát, thông qua kiểm tra giám sát, uốn nắn những tồn tại và hướng dẫn các đơn vị thực hiện tốt các chức năng nghiên cứu chuyên môn, thực hiện các chế độ chính sách theo đúng quy định của Bộ, của tỉnh.

Trong quá trình xây dựng và phát triển được sự lãnh đạo của Đảng bộ ngành lãnh đạo Sở đã phối hợp chặt chẽ với công đoàn, đoàn thanh niên thường xuyên phát động phong trào thi đua lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh. Từ các phong trào hành động cách mạng đó đã tạo được khí thế lao động sôi nổi trong toàn ngành. Tất cả các đơn vị, các cá nhân đều đăng ký thi đua phấn đấu xây dựng đơn vị lao động giỏi xuất sắc, cá nhân lao động giỏi xuất sắc, chiến sĩ thi đua của ngành, của tỉnh. Từ năm 2001 đến 2005 cán bộ, công nhân đã phát huy 269 sáng kiến, 20 sáng tạo làm lợi cho Nhà nước 3.268 triệu đồng. Tiêu biểu là công ty Cổ phần vận tải ô tô và đồng chí Phạm Bá Cường- Chủ tịch HĐQT, Giám đốc Công ty là người đóng góp quan trọng cho phong trào, có nhiều sáng kiến sáng tạo có giá trị. Toàn ngành có 25 công trình tiêu biểu, có giá trị cao hoàn thành và vượt tiến độ, chất lượng đảm bảo, giá thành lợp lý.

Phong trào hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao là một trong những mặt nổi bật của ngành. Đội văn nghệ tổ chức tốt sinh hoạt văn nghệ quần chúng, xây dựng được các tiết mục văn nghệ đặc sắc, dàn dựng được cả một chương trình biểu diễn của ngành để biểu diễn trong các dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn, nhất là trong dịp kỷ niệm ngày truyền thống ngành giao thông vận tải. Năm 2004, tham gia hội diễn văn nghệ quần chúng kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, đội văn nghệ của ngành đã giành Huy chương vàng toàn đoàn. Câu lạc bộ cầu lông, bóng bàn cũng thường xuyên thu hút cán bộ, công nhân viên chức tham gia, rèn luyện thân thể. Qua đó tạo được không khí đoàn kết trong lao động, công tác, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị ngày càng vững mạnh.

Từ năm 2001 đến năm 2005 cùng với sự phát triển lớn mạnh của ngành, trụ sở ngành giao thông vận tải và các đơn vị thành viên được nâng cấp, cải tạo khang trang hiện đại, đời sống của cán bộ công nhân viên chức không ngừng được chăm lo cải thiện. Trong cơ chế thị trường, sản xuất kinh doanh của ngành cũng gặp không ít khó khăn song lãnh đạo ngành tập trung mọi cố gắng tìm tòi, năng động tạo việc làm và thu nhập ổn định cho

229

toàn thể công nhân. Từ việc đầu tư thiết bị, đổi mới công nghệ sản xuất, mở rộng ngành nghề, các đơn vị trong ngành vừa giảm được sức lao động cho cán bộ công nhân, vừa nâng cao được mức lương hàng tháng cho anh em. Đến năm 2004 mức thu nhập bình quân của cán bộ công nhân ở đơn vị có thu đạt 1,5 triệu đồng/tháng. Các doanh nghiệp thuộc sở quản lý đạt 937.000 đồng/tháng, khối quản lý Nhà nước đạt 930.000 đồng/tháng. Các chế độ, chính sách của Nhà nước đối với cán bộ, công nhân đều được thực hiện tốt. Những đồng chí gia đình có khó khăn, gia đình chính sách được các cấp lãnh đạo quan tâm, thường xuyên động viên thăm hỏi tặng quà. Những ngày lễ, đặc biệt là ngày truyền thống của ngành luôn được lãnh đạo quan tâm, tổ chức kỷ niệm, họp mặt các thế hệ. Mỗi dịp kỷ niệm truyền thống, trụ sở ngành trở thành ngôi nhà chung ấm cúng, đoàn kết, gắn bó những đồng chí, đồng đội của ngành, gắn bó quá khứ với hiện tại, tạo nên sức mạnh truyền thống, động viên khích lệ các thế hệ cán bộ, công nhân viên chức hôm nay phấn đấu vượt lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trên từng cương vị công tác.

Năm 2005, năm cuối của kế hoạch 5 năm (2001-2005) gắn với nhiều sự kiện trọng đại của đất nước như: kỷ niệm lần thứ 75 năm ngày thành lập Đảng, 30 năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, kỷ niệm 115 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, kỷ niệm 60 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9. Năm 2005 cũng là năm tiến hành Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. Đối với tỉnh Nam Định thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ương Đảng, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Nam Định ra sức thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII tỉnh Nam Định. Đại hội quyết định phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh thực hiện kế hoạch 5 năm (2006-2010) đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng tỉnh Nam Định mạnh về kinh tế, vững về quốc phòng, có nếp sống văn minh.

Đối với ngành Giao thông vận tải Nam Định, năm 2005 là năm tiếp tục phát triển giao thông vận tải nhanh và bền vững trong 5 năm đầu thế kỷ theo mục tiêu của Bộ Giao thông vận tải đề ra. Căn cứ vào các Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, chiến lược phát triển kinh tế 10 năm (2001-2010), kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001-2005), ngành Giao thông vận tải Nam Định xác định phương hướng nhiệm vụ và giải pháp thực hiện kế hoạch năm 2005 là: tạo bước chuyển nhanh về quản lý các dự án giao thông vận tải, chất lượng xây dựng công trình, chất lượng sản phẩm và

230

hiệu quả kinh tế; về trật tự kỷ cương vận tải, kiềm chế tỷ lệ gia tăng tai nạn giao thông; về phát triển và bảo trì hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông bao gồm cả đường giao thông nông thôn, góp phần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, đảm bảo an ninh quốc phòng, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá quê hương đất nước.

Để thực hiện thắng lợi mục tiêu của ngành, cán bộ, công nhân viên chức toàn ngành tập trung triển khai những nhiệm vụ trọng tâm ngay từ đầu năm bao gồm: đầu tư phát triển hạ tầng mạng lưới giao thông tạo đà cho phát triển kinh tế - xã hội gắn với an ninh quốc phòng, trật tự an toàn giao thông, vệ sinh môi trường; làm tốt công tác quy hoạch bao gồm: quy hoạch mạng lưới giao thông (đảm nhiệm vai trò đi trước đón đầu, hình thành các khu công nghiệp tập trung, chuyên ngành), quy hoạch vận tải đảm bảo tăng bình quân hàng năm từ 1,2 đến 1,3 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh; quy hoạch quản lý Nhà nước ngành giao thông vận tải; quản lý chặt chẽ hành lang bảo vệ đường bộ theo phương châm xã hội hoá công tác bảo vệ hành lang đường bộ, quản lý duy tu bảo dưỡng sửa chữa đường bộ để kéo dài tuổi thọ công trình, nâng cao năng lực khai thác, đảm bảo giao thông thông suốt, an toàn. Tăng cường quản lý vận tải nâng cao chất lượng phương tiện, chất lượng phục vụ; quản lý phương tiện, nâng cao chất lượng đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ, phương tiện thuỷ nội địa, đặc biệt là quản lý xe công nông tự dựng, tự tạo và đò chở khách ngang sông; tăng cường quản lý trật tự an toàn giao thông, thực hiện xã hội hoá công tác giữ gìn trật tự an toàn giao thông. Ngành tập trung quản lý các dự án đầu tư chuyên ngành giao thông vận tải trên địa bàn toàn tỉnh, tăng cường quản lý chất lượng chuyên ngành nhất là chất lượng các công trình xây dựng cơ bản, sản phẩm sản xuất công nghiệp và chất lượng công tác quản lý ngành.

Trong năm 2005, toàn ngành phấn đấu vượt các chỉ tiêu chủ yếu:

- Tổng thu ngân sách Nhà nước: 17.790 triệu đồng.

- Đầu tư xây dựng cơ bản thuộc ngân sách Nhà nước: 108.694 triệu đồng.

- Đầu tư bằng nguồn vốn khác: 12.400 triệu đồng.

- Sắp xếp đổi mới doanh nghiệp: nghiên cứu mô hình tổ chức hoạt động của đoạn quản lý cầu đường bộ Nam Định. Đầu tư xây dựng bến xe

231

phía Nam thành phố Nam Định và nghiên cứu mô hình tổ chức công ty cổ phần quản lý khai thác và dịch vụ bến xe Nam Định.

Trong đầu tư xây dựng ngành tập trung cho những công trình quan trọng như: triển khai tuyến tránh thành phố Nam Định nối quốc lộ 21 với quốc lộ 10 và có thêm 1 cầu Vượt sông Đào (S2), tuyến để giảm áp lực và mật độ giao thông cho quốc lộ 21, đường tỉnh 56 (S3). Tiếp tục nghiên cứu khảo sát nắn chỉnh một số đoạn tuyến đường tỉnh theo quy họch như tuyến đường 56 đoạn qua thị trấn Liễu Đề, Yên Định, tuyến quốc lộ 21 vào thành phố Nam Định qua đường Thương Mại tới đường Trường Chinh, Trần Hưng Đạo, quốc lộ 21 đoạn qua Lạc Quần, tuyến đường 55 qua thị trấn Nam Giang, tuyến quốc lộ ven biển (theo đề án của ngành). Đối với thành phố Nam Định, xây dựng và hoàn thành công trình đường 38A, đường Phù Nghĩa, đường vành đai phía Đông bắc thành phố Nam Định.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết Đại hội đảng bộ lần thứ XVI của tỉnh, trong những năm đầu của thế kỷ XXI, ngành Giao thông vận tải tỉnh Nam Định đã chủ động xây dựng các dự án đầu tư chương trình phát triển giao thông, phát huy mọi nguồn lực, chỉ đạo điều hành khoa học quyết liệt, phối kết hợp chặt chẽ với các ngành của tỉnh, các cấp uỷ, chính quyền cấp huyện, thành phố để tranh thủ sự giúp đỡ và giải quyết có hiệu quả các dự án, chương trình giao thông nông thôn trên địa bàn toàn tỉnh. Cùng với sự nỗ lực phấn đấu của cán bộ, công nhân viên chức toàn ngành, sự nhiệt tình tham gia của nhân dân toàn tỉnh, ngành giao thông vận tải tỉnh Nam Định đã hoàn thành toàn diện, vượt mức kế hoạch hàng năm trên các lĩnh vực vận tải, xây dựng cơ bản, sản xuất công nghiệp, mở rộng dịch vụ, công tác quản lý, công tác tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ và có nhiều cố gắng trong việc đảm bảo an toàn trật tự giao thông.

Hệ thống giao thông toàn tỉnh được đầu tư nâng cấp đã tạo nên một hệ thống giao thông hoàn chỉnh, góp phần đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh. Đường phố sạch đẹp, đường huyện, đường xã, đường thôn xóm khang trang tạo nên nét đẹp văn hoá ở nông thôn và thành thị, là minh chứng về sự đổi mới của quê hương, đất nước trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.

Thành tựu của ngành Giao thông vận tải trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới là to lớn và giữ một vị trí quan trọng trong thế đi lên của cách mạng tiến tới mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,

232

dân chủ, văn minh". Những đóng góp lớn lao, những thành tích quan trọng của cán bộ, công nhân toàn ngành được Đảng, Nhà nước ghi nhạn với nhiều phần thưởng cao quý. Từ năm 2001 đến năm 2005, ngành được tặng thưởng 12 cờ thi đua xuất sắc và 82 Bằng khen của Chính phủ, của Bộ Giao thông vận tải của tỉnh. Năm 2003 vinh dự được Nhà nước tặng Huân chương lao động hạng Ba, 4 đồng chí được tôn vinh là chiến sĩ thi đua cấp tỉnh, 2 chiến sĩ thi đua cấp ngành. Đảng bộ Văn phòng Sở 5 năm liền được công nhận là Đảng bộ trong sạch vững mạnh toàn diện, Công đoàn ngành là đơn vị vững mạnh xuất sắc. Thành tựu đạt được trong phát triển cơ sở hạ tầng của tỉnh Nam Định chính là có chủ trương đúng đắn của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh và các cấp uỷ huyện, thành phố, cùng với ý chí quyết tâm, tinh thần năng động, sáng tạo vượt bậc, vượt qua bao khó khăn, thử thách của cán bộ, công nhân viên chức toàn ngành, thực hiện thắng lợi các dự án đầu tư, các chương trình phát triển giao thông, đẩy mạnh sản xuất công nghiệp vận tải với chất lượng các công trình sản phẩm ngày càng cao, hiệu quả kinh tế ngày càng lớn... đặc biệt là có sự hưởng ứng tham gia tự nguyện của nhân dân toàn tỉnh tạo nên những công trình, những con đường hiện đại mang dáng vóc của một tỉnh đang trên đà phát triển vươn lên trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

KẾT LUẬN

Giao thông là huyết mạch của kinh tế - xã hội. Bác Hồ nói: " Giao thông tốt thì mọi việc đều dễ dàng, giao thông xấu thì mọi việc đều đình trệ"(36). Trình độ phát triển của giao thông phụ thuộc vào sự phát triển của kinh tế - xã hội nhưng cũng phản ánh khá chân thực trình

36(?) Hå ChÝ Minh, toµn tËp, tËp 4, NXB ChÝnh trÞ Quèc gia, HN, Tr: 202.

233

độ phát triển của một nền kinh tế xã hội. Do đó, nhìn vào sự phát triển cơ sở hạ tầng giao thông của một địa phương, đất nước, ta có thể thấy được trình độ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước đó.

Nam Định là một tỉnh đồng bằng, dân số đông, địa hình khá đa dạng, chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiều mưa lũ, bão lụt, đất đai lại luôn bị chia cắt bởi các dòng sông; đặc biệt có 2 sông lớn là sông Hồng, sông Đáy và 72 km bờ biển, rất thuận lợi cho phát triển giao thông đường thuỷ, nhưng cũng có nhiều khó khăn về giao thông đường bộ.

Ngay từ xa xưa, ông cha ta đã biết tận dụng những điều kiện của tự nhiên để phát triển giao thông phục vụ cho cuộc sống, sinh hoạt và bảo vệ Tổ quốc. Dưới thời phong kiến, thực dân, hệ thống giao thông thuỷ bộ của nước ta đã ít nhiều được chú ý, mở mang, song do chủ yếu phục vụ cho nhu cầu của giai cấp thống trị và khai thác thuộc địa nên quy mô nhỏ bé, trình độ kỹ thuật rất lạc hậu. Đầu thế kỷ XX, các chiến sỹ cách mạng (của cả nước nói chung và Nam Định nói riêng) đã khôn khéo tận dụng những điều kiện cụ thể đó để đẩy mạnh giao thông liên lạc, phục vụ nhiệm vụ cách mạng, góp phần tích cực cho cách mạng tháng 8 năm 1945 giành thắng lợi.

Sau khi cách mạng thành công (tháng 8/1945), đất nước lại tiếp tục phải đối mặt với những khó khăn thử thách mới. Giao thông vận tải Nam Định lúc này phải tập trung phục vụ nhiệm vụ chung là củng cố chính quyền, đẩy mạnh sản xuất, diệt "giặc đói", "giặc dốt", ổn định đời sống nhân dân và chuẩn bị các điều kiện về cơ sở, vật chất cho cuộc kháng chiến lâu dài, chống giặc ngoại xâm.

Cuộc kháng chiến " Toàn dân, toàn diện, trường kỳ " chống thực dân Pháp xâm lược diễn ra thành các thời kỳ và trên các vùng khác nhau. Những ngày đầu kháng chiến, lực lượng giao thông vận tải (GTVT) Nam Định phục vụ nhiệm vụ chiến đấu giam chân địch trong thành phố. Nam Định là một trong những địa phương đã chủ động chiến đấu giam chân địch lâu nhất so với toàn quốc. Từ 1947 - 1952, Giao thông vận tải Nam Định phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, chống địch mở rộng càn quét, lấn chiếm. Từ 1949 - 1952 là thời kỳ quân địch thực hiện chiếm đóng trong toàn tỉnh. Giao thông vận tải Nam Định lúc này chủ yếu phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo chủ Tỉnh uỷ, Uỷ Ban kháng chiến hành chính trong việc lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến. Từ 1952 đến 1954 là thời kỳ quân dân cả nước mở các chiến dịch quyết định của cuộc kháng chiến, Giao thông vận tải Nam Định cũng tập trung phục vụ tốt các nhiệm vụ trên.

234

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nhìn chung, hoạt động giao thông vận tải Nam Định đã diễn ra trên 2 vùng khác nhau. Trong vùng địch tạm chiếm, hoạt động giao thông vận tải chủ yếu là phá hoại các cầu cống, đường xá, xây dựng các chiến luỹ, mở các trận đánh tiêu diệt lực lượng, phá huỷ các phương tiện giao thông vận tải của địch, giành quyền kiểm soát về lĩnh vực Giao thông vận tải và ngăn chặn các cuộc hành quân gây tội ác của chúng. ở vùng tự do, ngành Giao thông vận tải Nam Định tích cực tu sửa, mở mang đường xá, cầu cống, nạo vét sông ngòi, vận chuyển lương thực, thực phẩm, khuyến khích, động viên nhân dân và tổ chức các hoạt động Giao thông vận tải nhân dân, phục vụ cho nhu cầu đi lại của nhân dân và nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc.

Qua 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, lực lượng giao thông vận tải Nam Định đã được tôi luyện, thử thách và lớn mạnh về nhiều mặt. Các phòng, ban không ngừng được mở rộng, trình độ khoa học - kỹ thuật ngày càng được nâng lên. Hệ thống giao thông liên lạc đến huyện, xã và liên huyện, liên tỉnh được hình thành và từng bước được củng cố. Hoạt động giao thông vận tải của Nhà nước đã kết hợp chặt chẽ với giao thông vận tải nhân dân. Các chiến sỹ giao thông vận tải và giao thông liên lạc đã không quản ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh, đẩy mạnh việc củng cố, sửa sang đường xá, cầu cống, đê điều, sắm sửa thuyền bè, xe cộ, phục vụ cho kháng chiến, đảm bảo giao thông thông suốt, góp phần tích cực cho cuộc kháng chiến kiến quốc vĩ đại của cả dân tộc (và của tỉnh) sớm giành thắng lợi.

Sau khi miền Bắc được giải phóng, 10 năm đầu (1954 - 1964), hoạt động giao thông vận tải Nam Định phục vụ cho nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của tỉnh. Bộ máy tổ chức của ngành được hình thành, củng cố và phát triển. Các tuyến đường, cầu cống bị tàn phá trong chiến tranh nay được tôn tạo, sửa chữa, nâng cấp. Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh, ngành tiến hành đưa các hoạt động giao thông vận tải tư nhân vào công tư hợp doanh; đưa người làm ăn riêng lẻ vào tổ chức; tiến hành nạo vét sông ngòi, luồng lạch, xây dựng các bến phà, mở thêm các luồng, tuyến xe, đặt các cột tiêu, biển hiệu trên các tuyến đường thuỷ, bộ; đóng mới tầu, thuyền, xà lan, mở rộng bến, bãi... Trong 10 năm, ngành đã tu bổ, nâng cấp được trên 200 km đường giao thông; làm

235

mới gần 200 cầu bê tông, 224 cống các loại; tổ chức 28 đoàn vận tải (gồm 96 tổ). Năng lực vận tải của ngành có 46 xe khách, 383 thuyền vận tải; chuyên chở gần 4 triệu tấn hàng đường bộ; 2,3 triệu tấn hàng đường thuỷ; 4,7 triệu lượt hành khách đường bộ và 500 ngàn lượt hành khách đường thủy. Trong giao thông vận tải nông thôn, tỉnh đã đầu tư 9 triệu ngày công, đào đắp gần 17 triệu m3 đất, đắp hơn 6.000 km đường, xây dựng hơn 1.100 cầu (tổng chiều dài 7.975 m); 1.059 cống (bằng 2.935 m); mua sắm, đóng mới hàng ngàn phương tiện (tổng trọng tải trên 33.400 tấn). Năm 1962, ngành Giao thông vận tải Nam Định được tặng cờ luân lưu của Hồ Chủ Tịch. Năm 1965, tỉnh được nhận cờ luân lưu vĩnh viễn của Hồ Chủ Tịch về phong trào làm đường giao thông nông thôn. Hàng trăm tập thể, cán bộ công nhân viên của ngành được công nhận là lao động tiên tiến, chiến sỹ thi đua và được tặng thưởng nhiều Bằng, Giấy khen, Huân chương các loại.

Từ 1965 - 1975, là thời kỳ Đế quốc Mỹ mở rộng leo thang đánh phá miền Bắc, với quy mô và cường độ ngày càng ác liệt. Đợt I, từ 1965 - 1968, chúng đánh tới 2.084 trận; đợt II, chúng đánh gần 700 trận vào hàng ngàn mục tiêu khác nhau. Trong đó, phần lớn chúng tập trung đánh vào các mục tiêu giao thông. (Đợt I: 1.045 trận; đợt II: 202 trận). Nhiệm vụ của ngành Giao thông vận tải lúc này vừa phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh; vừa phải bằng mọi giá, trong mọi tình huống đảm bảo giao thông thông suốt, đưa hàng hoá phục vụ tiền tuyến. Sau khi hợp nhất, năm 1965, ngành Giao thông vận tải Nam Hà tiếp tục được kiện toàn, củng cố bộ máy tổ chức của tỉnh mới; tiến hành đẩy mạnh các hoạt động xây dựng, sửa chữa, tôn tạo đường xá, cầu cống, đóng mới các phương tiện vận tải, tổ chức vận chuyển hàng hoá. Trong làn mưa bom, bão đạn của quân thù, cán bộ công nhân viên của ngành đã phát huy tinh thần dũng cảm, khắc phục khó khăn, bám đường, bám phà, vừa tiến hành cải tạo, duy tu, san lấp, nâng cấp, đắp mới, vừa đẩy mạnh sản xuất, sửa chữa sáng tạo ra nhiều hình thức, tuyến đường, phương tiện giao thông mới. Các sáng kiến đã được nẩy sinh ngay trong thực tiễn chiến đấu và được áp dụng có hiệu quả như dùng vỏ tên lửa làm cầu phao ngầm, dùng thuyền nan ghép lại làm "cầu phao thuyền nan", rồi "cầu tre sống", "cầu tre bó", thuyền xi măng lưới thép... Với tinh thần: "Địch phá, ta sửa ta đi", "Địch lại phá, ta lại sửa

236

ta đi", rồi "Địch cứ đánh, ta cứ đi". Các chiến sỹ trên mặt trận giao thông vận tải đã cùng với nhân dân đào đắp, mở rộng hàng ngàn km đường giao thông, hàng ngàn cầu cống, với hàng chục triệu m3 đất để làm đường; kết hợp chặt chẽ giữa giao thông với thuỷ lợi, góp phần " giải phóng đôi vai" người lao động. Đặc biệt, lực lượng giao thông vận tải đã tổ chức cho hàng ngàn chuyến hàng vượt bến an toàn, với thời gian dài và khối lượng lớn. Trung bình mỗi đêm khoảng 200 xe chở hàng, có khi là cả một trung đoàn tên lửa và pháo cao xạ đi qua địa bàn an toàn. Có thời gian cao điểm, lực lượng hàng hoá tăng lên từ 700 tấn đến 2.000 tấn/ngày.

Trong điều kiện chiến tranh đánh phá ác liệt, năng lực vận tải và đóng mới của ngành vẫn ngày càng tăng. Ngành đã nghiên cứu, sửa chữa, đóng mới được các loại phương tiện như phà 12 - 18 tấn, xà lan 150 - 250 tấn, ca nô 60 - 90 -135 CV; thuyền xi măng lưới thép, tầu vỏ thép, tầu khách, sửa chữa ô tô... Mỗi năm ngành có thể sản xuất, đóng mới hàng ngàn thuyền nan, hàng ngàn xe cải tiến, phục vụ nhân dân. Số lượng phương tiện vận tải của cả tỉnh từ vài ngàn chiếc trước đó, lên 7.900 chiếc năm 1965 và 26.000 chiếc năm 1968. Năng lực vận tải của ngành cũng ngày càng tăng từ 1 đến 1,7 triệu tấn hàng hoá; 500 ngàn đến 1,1 triệu lượt khách mỗi năm (thời gian 1965 - 1968) tăng lên 2,1 đến 2,6 triệu tấn hàng hoá và 1,7 đến 2,1 triệu hành khách mỗi năm (thời gian 1973 - 1975)(37).

Ngành cũng đã tổ chức hơn 300 HTX và tổ vận chuyển, chuyên và bán chuyên. Nhiều tổ thuyền vận tải của HTX Trần Phú, Kim Thanh... đã dũng cảm vượt tuyến, đưa hàng ngàn tấn hàng hoá nhiều lần vào Thanh Hoá, Nghệ An, với tổng chiều dài hàng chục ngàn km, bảo vệ an toàn phương tiện, hàng hoá. Riêng năm 1972, vận tải ngoài tỉnh đạt 228 ngàn tấn.

Trong suốt những năm chiến tranh, hàng ngàn cán bộ, công nhân viên, thanh niên xung phong và nhân dân trong tỉnh đã bất chấp bom rơi, đạn nổ san lấp hố bom, sửa chữa cầu phà, gan dạ, mưu trí, bám đường, bám trận địa, sáng tạo ra những cách thức mới, hướng dẫn đưa hàng, đưa xe qua địa bàn an toàn, đảm bảo giao thông thông suốt. Tiêu biểu như tập thể cán bộ công nhân viên bến phà Đò Quan, đã liên tục bám trụ, qua 37 trận đánh vẫn bảo toàn người và phương tiện; tập thể công nhân viên Hạt 37(?) Sè liÖu n¨m Ýt nhÊt vµ n¨m nhiÒu nhÊt

237

đường I; tập thể xí nghiệp Xà lan 1/5; tập thể đội cầu Nam Hà... Hoạt động của ngành Giao thông vận tải Nam Hà đã góp phần quan trọng cùng quân dân cả nước đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ ra miền Bắc, chi viện cho chiến trường miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước.

Sau chiến thắng vĩ đại mùa xuân năm 1975, cả nước bước vào giai đoạn mới, xây dựng đất nước trong hoà bình đi lên CNCN. Tỉnh Nam Hà hợp nhất với tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Nhiệm vụ của ngành Giao thông vận tải Hà Nam Ninh lúc này là phải tập trung phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng của đất nước và của tỉnh trong giai đoạn cách mạng mới.

10 năm đầu (1975 - 1985) là thời kỳ ngành đã tiến hành củng cố, ổn định tổ chức, khắc phục tình trạng lạc hậu, áp dụng khoa học kỹ thuật phát triển hệ thống giao thông vận tải, mở rộng năng lực sản xuất; phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo về Tổ quốc. Những năm sau (1986 - 2005) là thời kỳ đổi mới và phát triển đi lên của ngành.

Phương tiện vận tải của tỉnh tăng nhanh từ khoảng 20.000 chiếc năm 1976-1980 (38), lên 89.000 chiếc năm 2000 và 113.000 chiếc năm 2004. Trong đó có 2.321 ô tô; 473 xe chở khách; 1.831 phương tiện thuỷ. Tổng công suất các phương tiện thuỷ từ khoảng 17.000 CV năm 1980 lên 110.000 CV năm 2004.

Về năng lực vận tải, thời kỳ 1976 - 1980, mỗi năm lực lượng vận tải của tỉnh thực hiện chuyên chở từ 3 đến 4 triệu tấn hàng hoá; từ 2 đến 3 triệu lượt hành khách. Thời gian 2001 - 2005, trung bình mỗi năm chở 3 đến 4 triệu lượt khách, vận tải hành khách tăng từ 5 - 9,5%/năm, vận tải hàng hoá tăng từ 6 - 8%/năm. Các tuyến xe khách ngày càng được mở rộng, từ 84 tuyến thời kỳ 1976 - 1980, lên 130 tuyến xe khách hiện nay, đi khắp mọi miền đất nước. Mỗi ngày bình quân 200 chuyến xe xuất bến và 130 xe tỉnh ngoài vào bến. Riêng tuyến Nam Định - Hà Nội hoạt động từ 5 giờ sáng đến 21 giờ đêm, bình quân 15 phút một chuyến.

38(?) N¨m 1976, riªng ph¬ng tiÖn cña ngµnh cã 176 xµ lan (20.900 tÊn); 559 thuyÒn 50 ®Õn 100 tÊn, (24.600 tÊn); 469 tÇu vµ m¸y thuû (16.972 CV); 184 xe « t«; 24 ®Çu kÐo; 152 xe kh¸ch; 5 tÇu ®i s«ng (1.250 ghÕ ngåi), 2 ca n«, 28 xe lam; 772 xe sóc vËt kÐo.

238

Năng lực sản xuất, thời kỳ 1976 - 1985, chủ yếu là sửa chữa ô tô, xà lan, tàu thuyền và đóng mới các phương tiện vận tải hạng nhẹ như thuyền xi măng lưới thép 100 - 300 tấn. Từ 1986 trở đi, ngành đã vươn lên đóng mới ô tô, tầu đi biển 600 - 800 tấn (thời kỳ 1990 - 2000) và tầu biển 1000 - 3000 tấn (thời kỳ 2001 - 2005). Hiện nay, mỗi năm Xí nghiệp sản xuất ô tô có thể đóng mới và xuất xưởng từ 120 - 150 ô tô khách, đảm bảo uy tín, chất lượng, được khách hàng ưa dùng.

Trong xây dựng, ngành đã kết hợp chặt chẽ giữa giao thông với thuỷ lợi, chú ý đẩy mạnh giao thông nông thôn, góp phần "giải phóng đôi vai". Hàng năm, các cầu, cống, đường xã đều được tu sửa, bảo dưỡng, làm mới. Nhiều công trình lớn được triển khai, hoàn thiện như cầu Đò Quan, cầu Lạc Quần, cầu Tân Đệ; các tuyến đường 10, đường 21, đường Trần Nhân Tông, đường vào khu công nghiệp Hoà Xá... Nguồn vốn đầu tư cho xây dựng giao thông ngày càng lớn, từ vài chục tỷ đồng thời kỳ 1976 - 1985, lên hàng trăm tỷ đồng mỗi năm như hiện nay. Năm 1990 là thời kỳ ngành bứt hẳn ra khỏi cơ chế quan liêu bao cấp, đây cũng là thời kỳ phong trào giao thông nông thôn của Nam Định phát triển mạnh mẽ, có sự kết hợp giữa Nhà nước và nhân dân cùng làm. Đến nay, 100% các tuyến đường tỉnh, đường huyện đã được nhựa hoá; hầu hết các tuyến đường thôn xóm đều đã được nhựa hoá hoặc bê tông hoá. 100% các xã đã có đường giao thông thuận tiện và ô tô có thể về đến trung tâm xã. Trong những năm từ 1997 - 2000, ngành Giao thông vận tải Nam Định đã có sự phát triển mạnh mẽ về cả năng lực xây dựng, sản xuất và đóng mới phương tiện. Nhiều tuyến đường đã được mở mang, nâng cấp, lắp đặt các cọc tiêu, giải phân cách, gờ giảm tốc. Ngành đã tổ chức nhiều đợt kiểm tra xe, thi lái xe giỏi, bồi dưỡng kiến thức giao thông cho cán bộ xã phường, mở các lớp học luật và cấp giấy phép lái xe hạng A1, phát động những "Tháng an toàn giao thông" và phong trào "Toàn dân tham gia bảo đảm an toàn giao thông". Đồng thời tiến hành thu dọn, giải toả các lều quán, xử phạt các trường hợp vi phạm an toàn giao thông. Ngành cũng đã tập trung quy hoạch, nâng cấp tuyến đường 21 từ Nam Định đi Lạc Quần, Hải Thịnh và quy hoạch để làm mới tuyến đường vành đai ven biển (39) để phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội của nhân dân vùng duyên hải và cả nước. 39(?) nèi quèc lé I t¹i Thanh Ho¸, qua Ninh B×nh, Nam §Þnh, Th¸i B×nh, ®i H¶i Phßng, Qu¶ng Ninh.

239

60 năm qua, kể từ khi Ty Công chính tỉnh Nam Định được thành lập, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh và Bộ Giao thông vận tải, lãnh đạo Ty (sau này là Sở) đã căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của ngành, động viên cán bộ công nhân viên trong ngành và nhân dân trong tỉnh tổ chức các hoạt động xây dựng đường xá, cầu cống. Sửa chữa và đóng mới phương tiện, đẩy mạnh giao thông vận tải, giao thông nông thôn,... góp phần cùng quân dân cả nước đánh thắng 2 cuộc chiến tranh của Đế quốc Pháp và Mỹ, đồng thời đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng đất nước trong hoà bình, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, công nghiệp hoá - hiện đại hoá hiện nay. Trong quá trình đó, cán bộ, đảng viên, công nhân viên trong ngành đã đoàn kết, nhất trí, phát huy sức mạnh của các tổ chức đoàn thể. (Đảng bộ, Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ...) phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đưa ngành ngày càng lớn mạnh về mọi mặt. Hàng trăm tập thể, cá nhân đã được tặng Huân, Huy chương và Bằng, Giấy khen các loại. Ngành Giao thông vận tải tỉnh được tặng nhiều danh hiệu thi đua như: cờ Luân lưu vĩnh viễn của Hồ Chủ Tịch (1965); cờ thi đua xuất sắc của tỉnh (2002); cờ thi đua xuất sắc của Bộ Giao thông vận tải (2003); Huân chương lao động hạng III; đặc biệt là danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Từ kết quả thực tiễn qua 60 năm hoạt động của ngành, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

1- Luôn quán triệt và vận dụng đúng đắn quan điểm đường lối của Đảng vào hoàn cảnh thực tiễn của ngành; đặt nhiệm vụ chính trị lên vị trí hàng đầu và phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Do năm vững quan điểm đường lối của Đảng, kể cả trong điều kiện chiến tranh và xây dựng trong hoà bình, vận dụng cụ thể trong điều kiện của ngành để tập trung thực hiện nên ngành Giao thông vận tải Nam Định đã luôn cố gắng phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

2- Đoàn kết để có sức mạnh hoàn thành tốt nhiệm vụ:

Đây là yếu tố hết sức quan trọng. Chính nhờ biết đoàn kết chặt chẽ trong nội bộ, đoàn kết trên dưới, đoàn kết trong ngoài nên ngành Giao thông vận tải Nam Định đã luôn gắn bó chặt chẽ, tạo thành sức mạnh to

240

lớn, chiến thắng mọi khó khăn, nguy hiểm, góp phần hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của ngành.

3- Phát huy tính năng động, sáng tạo của cán bộ công nhân viên trong ngành và nhân dân lao động trong thực tiễn sản xuất và chiến đấu.

Trong chiến đấu cũng như trong sản xuất, chính những người lao động sản xuất, chiến đấu trực tiếp là người từng trải thực tiễn, họ luôn sáng tạo ra các hình thức, sáng kiến phù hợp để xử lý, giải quyết các tình huống khó khăn đặt ra, như sáng tạo: "Cầu tre sống"; "Cầu tre bó"; thuyền xi măng lưới thép; "Cầu phao thuyền nan"; Cầu phao ngầm bằng vỏ đạn tên lửa; các loại mặt đường pha cát; mặt đường vôi + đất sét; mặt đường hỗn hợp...

Do phát huy tính năng động, sáng tạo, phát huy sáng kiến kỹ thuật không những đã đóng góp to lớn vào thành tích đã qua, mà còn là một đòi hỏi để phát triển đi lên của ngành.

4- Phát huy và kết hợp chặt chẽ giữa kinh nghiệm truyền thống với khoa học kỹ thuật hiện đại.

Cha ông ta có nhiều kinh nghiệm trong giao thông vận tải, trong sản xuất tầu thuyền, trong làm đường giao thông và trong nhiều lĩnh vực liên quan khác. Do đó, phát huy và kết hợp được kinh nghiệm của cha ông với khoa học kỹ thuật hiện đại không những sẽ giúp ngành phát huy được sức mạnh tiềm tàng sẵn có, mà còn có thể đón bắt, áp dụng được khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại của thế giới giúp cho ngành Giao thông vận tải của tỉnh nhà có sức mạnh to lớn và ngày càng phát triển đi lên.

5- Luôn chú ý nâng cao năng lực lãnh đạo và nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên trong ngành.

Đây là một đòi hỏi tất yếu, khách quan. Hoạt động của ngành Giao thông vận tải luôn yêu cầu trình độ khoa học kỹ thuật cao. Trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, yêu cầu đó càng đòi hỏi hơn bao giờ hết. Do đó, cán bộ công nhân viên trong ngành phải luôn tự tu dưỡng, rèn luyện, học tập, nâng cao trình độ nghiệp vụ, tay nghề để đáp ứng với nhiệm vụ đòi hỏi ngày càng cao của đất nước và của ngành.

*

241

* *60 năm qua, ngành Giao thông vận tải Nam Định đã có sự phát

triển không ngừng, vượt bậc về nhiều mặt và đã đạt được nhiều thành tích đáng ghi nhận. Trong thời gian tới, thực hiện công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, đặc biệt là phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế của tỉnh nhà, nhiệm vụ của ngành Giao thông vận tải Nam Định còn rất nặng nề. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh và của lãnh đạo Ngành, cán bộ công nhân viên của ngành Giao thông vận tải Nam Định cần tiếp tục đoàn kết, nhất trí, phát huy tính năng động, sáng tạo, kết hợp kinh nghiệm truyền thống với khoa học hiện đại, áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới, kiện toàn và không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ công nhân viên trong ngành, tập trung vốn đầu tư các công trình trọng điểm như đường quốc lộ 21 B, đường vành đai ven biển, đường nội thành, đẩy mạnh nâng cấp các cầu, cống, đường xá; sửa chữa, đóng mới các phương tiện vận tải, đảm bảo vai trò huyết mạch của giao thông, nhằm đáp ứng sự giao lưu hàng hoá và nhu cầu đi lại của nhân dân, tích cực góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá quê hương đất nước, đưa kinh tế xã hội của tỉnh ngày càng phát triển đi lên.

CÁC DANH HIỆU KHEN THƯỞNG CỦA NGÀNH5 NĂM (2000-2004)

_______

I- Huân, Huy chương: 33 Huân, Huy chương các loại.1- Tập thể: - Huân chương lao động hạng Ba cho Sở Giao thông vận tải Nam

Định (năm 2003)- Huân chương lao động hạng Nhất cho Công ty Cổ phần Vận tải ô tô

năm 2001.- Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho Ty Giao

thông vận tải Nam Hà, nay là Sở GTVT Nam Định.

242

2- Cá nhân:Huy chương "Vì sự nghiệp giao thông vận tải" cho 31 cá nhân thuộc

ngành Giao thông vận tải Nam Định (năm 2003)II- 6 cờ, Bằng khen của Chính phủ.1- Tập thể: 3 đơn vị.- Cán bộ và nhân dân huyện Vụ Bản (năm 2000)- Công ty Cổ phần Vận tải ô tô Nam Định (năm 2004)- Đoạn quản lý cầu đường bộ Nam Định.2- Cá nhân: 4 Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ.- Ông Đinh Công Ruấn (năm 2000)- Ông Trần Đức Tuyên (năm 2003)- Ông Trần Xuân Hợi (năm 2003)- Ông Trần Văn Lợi (năm 2004)III- Cờ, Bằng khen của Bộ GTVT và của UBND tỉnh: 84 cái.1- Tập thể:a- Cờ của Bộ Giao thông vận tải, của UBND tỉnh Nam Định: 30 cờ,

trong đó:- 25 cờ thi đua xuất sắc hàng năm cho các tập thể- 5 cờ của Bộ GTVT khen thưởng thành tích giao thông nông thônb- Bằng khen của Bộ GTVT và UBND tỉnh: 54 cái.- 44 Bằng khen của Bộ GTVT và UBND tỉnh cho các tập thể.- 10 Bằng khen của Bộ GTVT khen thưởng thành tích giao thông

nông thôn.2- Cá nhân:- 8 Bằng khen của Bộ GTVT cho các cá nhân.3- Ngoài ra còn có hàng chục Bằng khen của các bộ, ngành khác

cho các lĩnh vực hoạt động của ngành: Phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, 15 năm phòng thủ khu vực, phong trào văn hoá văn nghệ...

Hàng chục bằng lao động sáng tạo trao thưởng cho các cá nhân thuộc ngành có sáng kiến cải thiến kỹ thuật trong sản xuất.

IV-Chiến sĩ thi đua các cấp:

243

1- Được UBND tỉnh trao 8 giấy chứng nhận Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh cho các cá nhân từ 2003-2005.

2- 1 cá nhân được tỉnh đề nghị tặng danh hiệu "Chiến sĩ thi đua toàn quốc".

3- 5 cá nhân đề nghị Bộ GTVT tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua Bộ năm 2005.

V- Đã làm xong thủ tục trình Bộ GTVT tặng Kỷ niệm chương "Vì sự nghiệp GTVT" cho 310 cá nhân thuộc ngành GTVT.

TÓM TẮT QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂNMỘT SỐ ĐƠN VỊ CỦA NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI

-----CÔNG TY CỐ PHẦN VẬN TẢI Ô TÔ NAM ĐỊNH

Trụ sở làm việc: km 2 - Đường Điện Biên - thành phố Nam Định Tiền thân là Công ty Hợp doanh ô tô Nam Định được thành lập

cuối của thập liên 1950, trải qua gần nửa thế kỷ thành lập, xây dựng và không ngừng phát triển qua những thời kỳ lịch sử.

1- Thời kỳ trước (1960-1964)

244

Thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, UBND tỉnh Nam Định đã cho thành lập Công ty Hợp doanh ô tô Nam Định, có trụ sở làm việc ở đình chợ Năng Tĩnh, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.

- Chức năng nhiệm vụ: Vận chuyển hành khách và hàng hoá trong tỉnh. Phương tiện vận tải có 29 xe khách và 17 xe tải (gồm nhiều mác xe, hãng xe).

- Tổ chức bộ máy và sản xuất: Có một số phòng, ban nghiệp vụ và 1 Bến xe ô tô Nam Định (nhà tròn) 1 đội xe. Do đồng chí Đào BÌnh làm Giám đốc Công ty.

- Từ năm 1961-1964, Công ty Hợp doanh ô tô Nam Định được chuyển thành Xí nghiệp Quốc doanh lấy tên là “Xí nghiệp Vận tải ô tô Nam Định” tỉnh Nam Định. Với lực lượng có gần 40 xe ô tô các loại, phục vụ cho việc vận chuyển hành khách và hàng hoá trong và ngoại tỉnh.

2- Thời kỳ 1965-1975:1965 tỉnh Nam Định và Hà Nam được sát nhập thành tỉnh Nam

Hà. Xí nghiệp Vận tải ô tô Nam hà do ông Nguyễn Chí Mã Làm Giám đốc được thành lập từ đó: là vận chuyển hàng hoá từ hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa cho tuyền tuyến lớn miền Nam, đồng thời lại phải sơ tán chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, vừa phải vận chuyển hành khách, hàng hoá và bảo vệ cơ sở vật chất.

- Tổ chức sản xuất của Xí nghiệp có: Các phòng, ban nghiệp vụ và các đơn vị sản xuất, Đội xe khách Đò Quan, Đội xe khách thành phố, Đội xe Hà Nam, Đội xe tải số 1,2,3,4 và 01 xưởng bảo dưỡng sủa chữa với tổng số 334 cán bộ công nhân viên.

- Xí nghiệp đã được Bộ Giao thông Vận tải, UBND tỉnh và Ty Giao thông vận tải cấp nhiều Bằng khen, Giấy khen, hầu hết các đồng chí trong Xí nghiệp được tặng thưởng Huân chương kháng chiến, kỷ niệm chương ngành Giao thông vận tải.

3- Thời kỳ 1976-1991:Hai tỉnh Nam Hà và Ninh Bình được sát nhập thành tỉnh Hà Nam

Ninh. Xí nghiệp Liên hiệp vận tải ô tô Hà Nam Ninh được thành lập (trên cơ sở sát nhập 3 Xí nghiệp: Xí nghiệp Vận tải ô tô Nam Hà, Xí nghiệp vận tải ô tô Ninh Bình và Xí nghiệp sửa chữa ô tô 2-9) do đồng chí Nguyễn Chí Mã làm Giám đốc từ năm 1977-1980, 1981 đồng chí Hoàng Mai, 1982 đồng chí Đoàn Trung, 1983-1985 đồng chí Hoàng Mai, 1986-1992 đồng

245

chí Nguyễn Mạnh Hùng. Trụ sở làm việc chính km 2 - Đường Điện Biên – thành phố Nam Định.

Xí nghiệp Liên hiệp có 8 phòng, ban nghiệp vụ và 6 Xí nghiệp thành viên, tổng số phương tiện có 172 xe khách và 35 xe tải, tổng số cán bộ công nhân viên năm 1988 có 880 người đến năm 1991 có 641 người.

Nhiệm vụ chính là: vận chuyển hành khách, hàng hoá phục vụ cho sự đi lại của nhân dân, cho sự phát triển nề kinh tế quốc dân và quốc phòng, sửa chữa bảo dưỡng và cải tạo, hoán cải đóng mới xe K45 mang nhãn hiệu HNN. Có 01 Xí nghiệp xe con phục vụ cho yêu cầu đi lại làm việc của cơ quan, xí nghiệp, công ty trong toàn tỉnh.

Năm 1981 Xí nghiệp Liên hiệp đã ban hành bộ quy chế: “Khoán quyền sử dụng tư liệu sản xuất đến tập thể và người lao động”. Một mô hình cơ chế mới được xây dựng trên cơ sở thực tiễn đầu tiên trong cả nước về vận tải hành khách, vận tải hàng hoá, sửa chữa bảo dưỡng ô tô và các dịch vụ khác…Doanh thu năm 1991 tăng 200% với năm cao nhất của những năm 80.

Năm 1991, Xí nghiệp Liên hiệp vận tải ô tô Hà Nam Ninh đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng Ba và Hội đồng Bộ trưởng tặng cờ luân lưu, Bộ Giao thông vận tải và bưu điện tặng cờ thi đua xuất sắc.

4- Thời kỳ 1992-1996:Năm 1992 tỉnh Hà Nam Ninh được tách thành 2 tỉnh Nam Hà và

Ninh Bình. Xí nghiệp Liên hiệp vận tải ô tô Hà Nam Ninh được tách thành 2 Xí nghiệp, Xí nghiệp Liên hiệp vận tải ô tô Nam Hà do đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng làm Giám đốc năm 1992 và đồng chí Đinh Công Ruấn làm Giám đốc 1993-1996.

Xí nghiệp Liên hiệp vận tải ô tô Nam Hà có 5 phòng, ban nghiệp vụ và 8 đơn vị thành viên, 139 xe ca, 28 xe tải, 481 cán bộ công nhân viên. Nhiệm vụ thời kỳ này đã được mở rộng và phát triển: Vận chuyển hành khách từ trung tâm các huyện, thành phố đi các tỉnh, Bến xe ô tô khách Nam Định đã được chuyển về địa điểm ngã ba đường Giải Phóng và Điện Biên. Công tác đóng mới hoàn cải xe chở khách 45 ghế ngồi với nhãn hiệu Nam Hà (đóng từ Huyndai tải) đã xuất hiện nhiều trên thị trường Việt Nam, doanh thu năm 1992 là 9,8 tỷ đồng đến năm 1996 là 18,8 tỷ đồng.

Năm 1995 được Nhà nước tăng Huân chương lao động hạng Nhì và năm 1996 được tặng Huân chương chiến công hạng Ba, được tỉnh đảng bộ tặng cờ đơn vị vững mạnh xuất sắc 5 năm.

246

5- Thời kỳ 1997 đến nay:Năm 1997 tỉnh Nam Hà tách thành 2 tỉnh Nam Định và Hà Nam.

Xí nghiệp Liên hiệp vận tải ô tô Nam Định được thành lập do đồng chí Phạm Bá Cường làm Giám đốc và Quyết định số 1124/QĐ-TTg ngày 03-12-1999 của Thủ tướng Chính Phủ chuyển Xí nghiệp Liên hiệp vận tải ô tô Nam Định thành Công ty cổ phần Vận tải ô tô Nam Định, qua hai kỳ Đại hội cổ đông (12/1999 – 12/2004) đã bầu ra 9 đồng chí trong Hội đồng quản trị, 3 đồng chí trong Ban Kiểm soát. Đồng chí Phạm Bá Cường là Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc điều hành (cả 2 khoá). Công ty cổ phần Vận tải ô tô Nam Định có các ngành nghề kinh doanh:

- Vận tải hành khách, xe buýt, taxi, vận tải hàng hoá.- Kinh doanh dịch vụ bến bãi, vận tải du lịch lữ hành và kinh

doanh dịch vụ nhà nghỉ.- Bảo dưỡng sửa chữa, đóng mới xe ô tô (K45, K32, K29) phục

vụ bảo dưỡng sửa chữa nội bộ.- Đào tạo nâng bậc thợ sửa chữa và công nhân lái xe.- Nhập khẩu phụ tùng, linh kiện ô tô các loại lắp ráp dạng CKD.- Kinh doanh vật tư, phụ tùng, xăng dầu.Trụ sở làm việc: km 2 - Đường Điện Biên - thành phố Nam Định.Tổ chức bộ máy và tổ chức sản xuất của Công ty:- Ban Giám đốc: (01 đồng chí Giám đốc; 2 Phó Giám đốc).- Phòng Kế hoạch kinh doanh - Phòng Kỹ thuật - Phòng Tài chính

Kế toán - Phòng tổ chức hành chính - Ban dự án xây dựng bến xe mới.Các đơn vị thành viên gồm: Xí nghiệp Vận tải hành khách số 1 -

Xí nghiệp Vận tải hành khách số 2 - Xí nghiệp đóng xe ca - Xí nghiệp vật tư phụ tùng - Xí nghiệp bến xe khách - Trung tâm kiểm tra và bảo hành kỹ thuật ô tô. Có tổng số lao động là 427.

Công ty tiếp tục đổi mới toàn diện về các mặt, là một trong những đơn vị làm thí điểm về công tác cổ phần hoá. Công ty đã nghiên cứu học tập đề ra phương án, soạn thảo điều lệ… và tổ chức thực hiện thành công.

Ngày 01-10-2000, Công ty cổ phần Vận tải ô tô Nam Định đã đi vào hoạt động, đánh dấu bước phát triển lịch sử, dấu ấn quan trọng trong quá trình thành lập, xây dựng và phát triển của Công ty. đồng thời các quy chế của Công ty được sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và phát huy hết khả năng của cán bộ công nhân viên.

247

Hiện nay Công ty có 130 xe hoạt động trên 78 tuyến đường đến tỉnh thành trong cả nước. Công ty là một trong những doanh nghiệp của cả nước đi đầu trong việc đổi mới phương tiện, Công ty đã đầu tư hơn 100 tỷ đồng để mua phương tiện, xây dựng thêm bến xe mới, mở rộng nhà xưởng lắp ráp xe ô tô…

Công ty đã chọn hướng phát triển của công nghiệp là đóng mới và lắp ráp phương tiện. Hàng năm Công ty đã đóng những mẫu xe tuyến hình mới, đặc biệt nhãn hiệu NADIBUS của Công ty đã được Nhà nước cấp bản quyền xuất hiện ngày càng nhiều trên thị trường vận tải của cả nước với các chủng loại K29, K32, K45 (trên cơ sở máy, gầm, sát xi của Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc). Năm 2004 Công ty đã đóng 120 xe, hiện nay Công ty đã và đang lập dự án mở rộng dây truyền sản xuất lắp ráp xe ô tô.

Mức tăng trưởng doanh thu tăng 2,87 lần (trong đó vận tải tăng 1,5 lần, công nghiệp tăng 4,18 lần, lãi 1,18 lần, thu nhập bình quân tăng 1,52 lần).

Đảng bộ Công ty được công nhận là “Tổ chức cơ sở đảng vững mạnh” Công đoàn, Đoàn thanh niên đạt danh hiệu vững mạnh, xuất sắc, năm 2000-2001 Công đoàn công ty được Tổng Liên đoàn tặng cờ.

Trong những năm qua cán bộ, công nhân viên đã đoàn kết thống nhất, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, không ngừng cải tiến công tác quản lý, phát huy tinh thần chủ động sáng tạo, cạnh tranh quyết liệt trong cơ chế nhiều thành phần. Thương hiệu của Công ty không những được giữ vững mà còn được quảng cáo rộng rãi trên khắp toàn quốc, xứng đáng là đơn vị chủ lực của ngành Giao thông vận tải tỉnh Nam Định.

Trong 5 năm qua đã được Nhà nước tặng thưởng:- Huân chương lao động hạng Nhất (2001).- Bộ Giao thông vận tải tặng cờ đơn vị thi đua xuất sắc

(2001,2002,2003).- Uỷ ban nhân dân tỉnh và các ngành tặng nhiều Bằng khen.- Năm 2004 đã được Chính Phủ tặng cờ đơn vị thi đua xuất sắc.Hiện nay UBND tỉnh đang đề nghị Nhà nước tặng thưởng Huân

chương Độc lập hạng Ba cho Công ty.

Công ty cổ phần Vận tải ô tô Nam Định với bề dày truyền thống gần nửa thế kỷ thành lập, xây dựng và phát triển, nhất là trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Với vị thế của Công ty nên

248

cuối năm 2004 đã được Tổng Công ty công nghiệp ô tô Việt Nam (Vinamoto) tiếp nhận Công ty là đơn vị thành viên, cho nên với những kết quả hiện tại và những đề án phát triển cho tương lai, chắc chắn Công ty cổ phần Vận tải ô tô Nam Định sẽ là một Trung tâm để phát triển công nghiệp ô tô vận tải khu vực Nam đồng bằng sông Hồng.

ĐOẠN QUẢN LÝ CẦU ĐƯỜNG BỘ NAM ĐỊNH

-----

1- Giới thiệu tóm tắt:* Tên đơn vị: Đoạn quản lý cầu đường bộ Nam Định * Trụ sở: Số 2 - đường Trần Hưng Đạo – thành phố Nam Định -

tỉnh Nam Định.Số điện thoại: 0350. 848569FAX: 0350. 848103* Chức năng nhiệm vụ chủ yếu của đơn vị qua các thời kỳ:- Đảm bảo giao thông thông suốt an toàn trong mọi tình huống,

quản lý sửa chữa thường xuyên cầu đường trên 2 tuyến Quốc lộ 21A, Quốc lộ 10A và tỉnh lộ 490.

- Làm công tác thu phí ở 2 trạm thu: Trạm thu phí Mỹ Lộc và Trạm thu phí cầu Đò Quan. đảm bảo giao thông vượt sông và thu phí ở 4 bến: cầu Phao Lạc Quần, cầu Phao Ninh Cường, bến phà Sa Cao – Thái Hạc, bến phà Thịnh Long.

- Quản lý và khai thác bến xe khách Đò Quan Nam Định.2- Tổ chức bộ máy của đơn vị, các đồng chí lãnh đạo của đơn

vị qua các thời kỳ:* Tổ chức bộ máy của đơn vị:Đoạn có đảng uỷ cơ sở gồm 128 đảng viên, Công đoàn cơ sở có

473 đoàn viên, Đoàn thanh niên cơ sở có 126 đoàn viên và Hội cựu chiến binh cơ sở gồm 76 hội viên.

a) Văn phòng Đoạn:- Ban Giám đốc: Giám đốc và 2 phó Giám đốc- Có 4 phòng:

249

+ Phòng Tổ chức hành chính+ Phòng kế toán tài vụ+ Phòng kế hoạch kỹ thuật+ Phòng quản lý giao thông b) Các đơn vị trực thuộc:- Trạm thu phí Mỹ Lộc- Hạt 21 Nam Ninh- Hạt 21 Hải Hậu- Hạt tỉnh lộ 490- Đội công trình 2- Đội công trình 3- Bến phà Sa Cao - Thái Hạc- Bế phà Thịnh Long- Cầu phao Ninh Cường- Cầu Lạc Quần- Bế xe khách Đò Quan* Các đồng chí lãnh đạo Đoạn qua các thời kỳ:- Ông Đào Ngũ Toàn - Đoạn trưởng- Ông Trịnh Quang Doanh - Đoạn trưởng- Ông Đinh Công Long - Đoạn trưởng- Ông Nguyễn Văn Trứ - Đoạn trưởng- Ông Đinh Viết Thi - Đoạn trưởng- Ông Nguyễn Trọng Dần - Đoạn trưởng- Ông Nguyễn Văn Thắng - Đoạn trưởng- Ông Vũ Duy Bồng - Giám đốc- Ông Mai Hữu Cương - Giám đốc- Ông Nguyễn Kim Trung - Giám đốc- Ông Trần Xuân Hợi - Giám đốc- Ông Trần Đức Long - Giám đốc

3 - Những thành tích nổi bật của đơn vị qua các thời kỳ:

250

- Đảm bảo giao thông thông suốt, mặt đường êm thuận, đường thông thoáng và hành lang được giữ vững. Các công tình giao thông được bảo vệ an toàn.

- Đảm bảo vượt sông an toàn ở các điểm vượt sông trong mọi tình huống. Thu phí đảm bảo cân đối thu chi ở các bến địa phương.

- Đối với thu phí Trung ương quản lý đảm bảo thu đúng, thu đủ, nộp đúng, nộp đủ, nộp kịp thời. Năm nào thu phí cũng vượt chỉ tiêu kế hoạch trên giao.

- Bến xe đón trả khách an toàn, văn minh, lịch sự đảm bảo an toàn thuận tiện cho nhân dân đi lại.

Được cấp trên khen thưởng qua các năm:

- UBND tỉnh tặng cờ các năm: 1997, 1998, 2000, 2001, 2003.

- Liên đoàn lao động tỉnh tặng cờ các năm: 2000, 2002, 2003, 2004.

- Bộ Giao thông vận tải tặng cờ năm 2004.

- UBND tỉnh tặng Bằng khen các năm: 1997, 1998, 1999, 2000, 2001, 2002.

CÔNG TY CỔ PHẦN QUYẾT THẮNG-----

Tên đơn vị: (2005) Công ty Cổ phần Quyết Thắng.Trụ sở: Xã Nam Dương - Huyện Nam Trực - Tỉnh Nam Định.Chức năng nhiệm vụ chủ yếu của đơn vị qua các thời kỳ:1- Thời kỳ 1965-1975:- Phục vụ đảm bảo giao thông, cung cấp phương tiện vận chuyển

hàng hoá, vũ khí phục vụ sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.- Đóng mới và sửa chữa sà lan, tàu thuyền vỏ thép.- Sản xuất thuyền xi măng lưới thép loại 8 tấn, 10 tấn …50 tấn

phục vụ vận tải và nông nghiệp.

251

- Lắp đặt máy thuỷ, phục vụ đắc lực chủ trương cơ giới hoá đường sông (xoá bỏ thuyền buồm, thuyền vo trong vận tải đường sông miền Bắc).

- Sản xuất ổn định đời sống. Bảo vệ sản xuất, tham gia tự vệ chiến đấu chống máy bay Mỹ.

2- Thời kỳ 1976-1991:- Áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật của ngành vào lĩnh vực vỏ

tàu xi măng lưới thép. Đóng tàu sông pha biển vỏ xi măng lưới thép 100 tấn đến 300 tấn. Lắp máy đến 500 CV . Tàu đánh cá, tàu khách vỏ xi măng lưới thép …

- Cầu phao vượt sông, nhà nổi, bến nổi xi măng lưới thép.- Nhà kho khẩu độ lớn, mái che sân vận động…bằng vật liệu xi

măng lưới thép.- Đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, phà thép phục vụ trong tỉnh

và các tỉnh bạn.3- Thời kỳ 1993-1996:- Tiếp tục đẩy mạnh khoa học kỹ thuật trong cơ giới hoá đường

sông.- Đóng mới vận tải sông xi măng lưới thép cho các tỉnh bạn.- Mở rộng phổ biến, giúp ngành đóng tàu xi măng lưới thép cho

các tỉnh Bến Tre, Minh Hải, Hà Tây, Nghệ An, Thanh Hoá, Hải Hưng…

4- Thời kỳ từ năm 1997 đến nay (2005):- Phục vụ đắc lực công tác đảm bảo giao thông , phòng chống lụt

bão của Bộ Giao thông vận tải.- Các sản phẩm mới mang tính chất tiến bộ khoa học kỹ thuật,

tiến bộ công nghệ như hệ cầu phao vượt sông, phà lắp ghép cơ động đảm bảo giao thông miền núi, ca nô lai dắt chân vịt đạo lưu, phà tự hành phụt xoay 60 tấn, 100 tấn, lắp máy từ 135 CV đến 1000 CV.

- Tàu vận tải sông biển từ 500 tấn đến 2000 tấn lắp máy từ 500 CV đến 1000 CV .

- Chế tạo cầu GTNT – L30 dầm thép lắp ghép.- Chế tạo, tổ hợp dầm thép cầu giây văng khẩu độ lớn.

252

- Đa dạng hoá sản phẩm như: Làm đường bê tông, đường GTNT, xây dựng dân dụng, xây dựng thuỷ lợi, dệt, nhuộm…

- Mở rộng sản xuất kinh doanh tới các địa bàn trong cả nước.- Chuyển đổi và thích ứng nhanh nhạy có hiệu quả từ nền bao cấp

sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.* Tổ chức bộ máy của đơn vị, các đồng chí lãnh đạo của đơn vị

qua các thời kỳ:Qua các thời kỳ: Tổ chức bộ máy quản lý của đơn vị đều theo

đúng mô hình đơn vị nhà máy – Xí nghiệp Nhà nước. Chịu sự lãnh đạo toàn diện của Sở chủ quản. Tổ chức Đảng cơ sở chịu sự lãnh đạo của đảng uỷ ngành và huyện uỷ Nam Trực.

- Thời kỳ 1965 đến 1989 đơn vị do đồng chí Vũ Đình đê làm Chủ nhiệm sau chuyển đổi Xí nghiệp đồng chí là Giám đốc Xí nghiệp.

- Thời kỳ từ 1990 đến nay (2005) sau khi cổ phần hoá. Đồng chí Nguyễn Thượng Dũng hiện là Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc Công ty cổ phần Quyết Thắng.

* Những thành tích nổi bật của đơn vị qua các thời kỳ:- Thời kỳ 1965 - 1975- Thời kỳ 1976 - 1991- Thời kỳ 1992 - 1996- Thời kỳ 1997 - 2005Công ty đã trưởng thành và phát triển thu được các thành tựu như

sau:- Được Nhà nước thưởng Huân chương lao động hạng Ba.- Được UBND tỉnh; Bộ Giao thông vận tải tặng nhiều Bằng khe,

Giấy khen, Danh hiệu CSTĐ cấp tỉnh và cấp ngành.- Cơ sở đảng luôn là tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh.- Đời sống cán bộ, công nhân ngày càng được ổn định củng cố và

nâng cao.- Đứng vững và tạo thế đi lên trong nền khó khăn thị trường.- Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ xã hội khác.

253

- Xây dựng đời sống mới, con người mới, xã hội chủ nghĩa. Duy trì, đẩy mạnh các hoạt động của các tổ chức của Đảng, đoàn thanh niên, phụ nữ…

- Đơn vị đã được nhiều vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước như Tổng Bí thư Đỗ Mười, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chủ tịch nước Trần Đức Lương … thăm và khen ngợi động viên.

CÔNG TY CỔ PHẦN THÀNH CÔNG-----

Công ty cổ phần Thành Công tiền thân là Đội cầu Nam Hà được thành lập năm 1971, có trụ sở đóng tại km 2 đường 12, xã Mỹ Xá, thành phố Nam Định. Đội trưởng đội cầu Nam Hà là ông Bùi Quang Truyện, nhiệm vụ chủ yếu của đội cầu Nam Hà chuyên thi công các công tình cầu, cống đảm bảo giao thông phục vụ cuộc chiến tranh kháng chiến chống Mỹ trong phạm vi toàn tỉnh, sản lượng hàng năm do Uỷ ban Kế hoạch tỉnh Nam Hà giao, từ năm 1971 đến tháng 2 năm 1976, cán bộ công nhân viên Đội cầu Nam Hà luôn luôn phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch các chỉ tiêu kinh tế, tài chính đặt ra. Đặc biệt năm 1974 thực hiện nhiệm vụ chính trị của Uỷ ban nhân dân tỉnh giao Đội cầu Nam Hà đã thành lập Đội cầu B để chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam.

Từ tháng 3 năm 1976 đến tháng 12 năm 1989, sau khi sát nhập hai tỉnh Nam Hà và Ninh Bình thì Công ty có tên gọi là Công ty Cầu Hà Nam Ninh, trụ sở của Công ty đóng trên đất xã Mỹ Xá, km 2 đường 12, thành phố Nam Định, Giám đốc Công ty là ông Trần Thu. Tổ chức của Công ty gồm có Ban Giám đốc 3 người (ông Nguyễn Văn Tua và ông Trịnh Xuân Viên làm Phó giám đốc), các phòng ban gồm cố: Phòng Tổ chức hành chính, Phòng Kỹ thuật, Phòng Kế hoạch, Phòng Tài vụ, Phòng Vật tư. Chức năng nhiệm vụ chủ yếu của Công ty là xây dựng các công trình cầu, cống trong phạm vi toàn tỉnh. Năm 1996 do yêu cầu của UBND tỉnh Hoàng Liên Sơn, Công ty đã cử cán bộ, công nhân viên lên xây dựng giúp tỉnh bạn hai cây cầu là Bản Khoang và Mã Ý Hồ, được tỉnh bạn đánh giá rất cao về chất lượng công trình và tặng công ty cờ thi đua xuất sắc. Trong thời kỳ từ 1976 đến 1989 do hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao nên Công ty được UBND tỉnh tặng nhiều Bằng khen và cờ thi đua xuất sắc, Đảng bộ được công nhận là Đảng bộ trong sạch vững mạnh nhiều năm liền.

Từ tháng 1 năm 1990 đến tháng 12 năm 1992, do sắp xếp lại tổ chức của Công ty, Công ty có tên gọi là Công ty cầu Nam Hà do ông Trần

254

Xuân Đương - Bí thư đảng uỷ kiêm quyền Giám đốc Công ty. Nhiệm vụ chủ yếu của Công ty là xây dựng các công trình cầu, đường trên phạm vi toàn tỉnh.

Từ tháng 12 năm 1992, do yêu cầu của nhiệm vụ sản xuất và theo Quyết định của UBND tỉnh sát nhập một bộ phận cán bộ, công nhân viên của Đoạn Quản lý cầu đường bộ sang Công ty cầu Nam Hà , Công ty có tên gọi là Công ty Công trình giao thông Nam Hà, Giám đốc Công ty là ông Vũ Duy Bồng, Bí thư đảng uỷ kiêm Phó Giám đốc là ông Trần Xuân Đương, Phó Giám đốc điều hành sản xuất là ông Đặng Ngọc Chương. Trụ sở Công ty đóng tại km 2, đường Vụ Bản Nam Định. Nhiệm vụ chủ yếu của Công ty là xây dựng các công trình cầu, đường trên phạm vi toàn tỉnh Nam Hà. Năm 1996 sau khi hai tỉnh Nam Định và Hà Nam được tái lập Công ty có tên gọi là Công ty Công trình giao thông Nam Định, Giám đốc là ông Vũ Duy Bồng.

Năm 1998 khi ông Vũ Duy Bồng được nghỉ hưu, người lên thay Giám đốc Công ty là ông Phạm Quang Dũng, nhiệm vụ chủ yếu của Công ty là xây dựng các công trình cầu, đường trên phạm vi toàn tỉnh. Năm 2000, theo chủ trương của Nhà nước sắp xếp và đổi mới các doanh nghiệp, nên ngày 20-11-2000 UBND tỉnh Nam Định có Quyết định số 2616-QĐ/UB chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước Công ty Công trình giao thông Nam Định thành công ty cổ phần có tên gọi “Công ty cổ phần xây dựng giao thông và cơ sở hạ tầng Nam Định”. Để tiện cho việc giao dịch Công ty đã đổi tên thành Công ty cổ phần xây dựng hạ tầng Thành Công – TASCO. Chủ tịch Hội đồng quản trị là ông Phạm Quang Dũng.

Ngày 11 tháng 11 năm 2003, Công ty sát nhập và trở thành thành viên của Tổng Công ty đầu tư phát triển nhà và đô thị Hà Nội (HUD), Bộ Xây dựng và Công ty có tên gọi là ông ty cổ phần Thành Công HUD – TASCO. Trụ sở chính của Công ty đóng tại số 20 đường Điện Biên, thành phố Nam Định . Hội đồng quản trị gồm 5 thành viên và chủ tịch là ông Phạm Quang Dũng. Vốn điều lệ của Công ty là 16 tỷ đồng. Ngành nghề kinh doanh chủ yếu của Công ty là xây dựng các công trình giao thông, thuỷ lợi, xây dựng dân dụng, thí nghiệm vật liệu xây dựng, kinh doanh du lịch, nhà hàng, khách sạn, bất động sản…Công ty có 6 phòng ban chức năng, ha trạm sản xuất là Trạm bê tông nhựa nóng và Trạm bê tông thương phẩm đóng tại Phú Thọ cùng một Xưởng sản xuất gạch BLOOCK đóng tại xã Kiêu Kị, Gia Lâm Hà Nội. Địa bàn hoạt động của Công ty trên phạm vi cả nước, Công ty đã mở hai chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hà Nội. Do có sự sáng tạo của Ban lãnh đạo Công ty nên sản lượng của Công ty ngày một tăng trưởng, sản lượng năm sau cao hơn năm trước,

255

đời sống của cán bộ, công nhân viên ngày một tăng trưởng, lương bình quân của cán bộ, công nhân viên là 1.100.000 đ/ người/ tháng. Giá trị sản xuất, doanh thu, nộp ngân sách từ năm 2001 đến năm 2004 năm sau cao hơn năm trước, bình quân tăng 119%, cụ thể năm 2004 giá trị sản xuất đạt 93,4 tỷ doanh thu 90,4 tỷ nộp ngân sách 3,4 tỷ. Từ những cố gắng trên của Công ty nên từ năm 2001 - 2004 Công ty liên tục nhận được cờ thi đua xuất sắc của UBND tỉnh Nam Định tặng, Đảng bộ Công ty, Công đoàn cơ sở liên tục được công nhận cơ sở, đảng bộ trong sạch vững mạnh.

CÔNG TY VẬN TẢI SÔNG BIỂN NAM ĐỊNH-----

Tên đơn vị: Công ty Vận tải sông biển Nam Định Trụ sở đơn vị: Số 2, Phố đò Quan, phường Của Nam, thành phố

Nam Định, tỉnh Nam Định.Điện thoại / Fax: 0350. 858463 / 0350. 858462Chức năng nhiệm vụ:- Kinh doanh vận tải hàng hoá và hành khách bằng đường sông,

đường biển trong nước và ngoài nước.- Vận tải đa phương thức và kinh doanh xếp dỡ, kho bãi cảng

đường sông.- Sửa chữa, đóng mới phương tiện thuỷ nội địa và thiết bị bốc

xếp, nâng hạ.- Sản xuất vật liệu xây dựng.- Đại lý xăng dầu và vật tư, phụ tùng thiết bị máy tàu thuỷ…Công ty Vận tải sông biển Nam Định là đơn vị chuyên ngành vận

tải thuỷ nội địa, sự ra đời và phát triển của đơn vị gắn liền với sự phát triển của ngành Giao thông vận tải địa phương và những cuộc biến đổi của tỉnh nhà.

Tháng 8/1959, tỉnh Nam Định tập trung các chủ tàu thuyền trong tỉnh để học tập cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.

1/1/1960, thành lập Xí nghiệp Công tư hợp doanh ca nô Nam Định. Trụ sở tại 55 đường Trần Hưng Đạo - thành phố Nam Định, sau chuyển sang bế Đò Quan - thành phố Nam Định. Phương tiện ban đầu gồm 5 ca nô trọng tải 190 tấn và 8 thuyền buồm trọng tải 265 tấn. Tổng số lao động là: 84 người.

256

Năm 1964 sau khi sát nhập tỉnh Hà Nam - Nam Định thành tỉnh Nam Hà, Xí nghiệp Ca nô hai tỉnh được sát nhập lại lấy tên là Công ty cơ giới đường sông Nam Hà. Đơn vị đã trục với con tàu đắm “Khâm Sai” thành tàu khách “Mỹ Tho” trọng tải 110 ghế chạy tuyến Nam Định - Hà Nội và sửa chữa nâng cấp ca nô “Tứ Hải” thành tàu khách “Sông Đào” trọng tải 150 ghế chạy tuyến Nam Định - Quỹ Nhất. Công ty đã được tỉnh đầu tư phát triển mạnh mẽ. Đội tàu của đơn vị đã lên trên 11.000 tấn phương tiện kéo đẩy, 5 tàu khách với trọng tải là 1000 ghế và cán bộ, công nhân viên gần 400 người. Công ty là đơn vị vận tải quốc doanh lớn của tỉnh, đảm nhận phần lớn khối lượng hàng hoá vận chuyển bằng đường sông phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế của tỉnh như than cho nhà máy Liên hiệp Dệt Nam Định, nhà máy Đường Vĩnh Trụ, đá kè chống lụt, gạo và phân bón nhập khẩu… đồng thời góp phần tích cực vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong chiến tranh đánh phá ác liệt của không quân và hải quân Mỹ, cán bộ công nhân viên Công ty đã mưu trí sáng tạo, kiên cường bám phương tiện, bảo vệ phương tiện, hàng hoá và hành khách, vận tải an toàn hàng triệu tấn hàng hoá các loại và hàng vạn lượt hành khách đi lại an toàn trên khắp các tuyến sông trong và ngoài tỉnh. Kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đơn vị được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Ba.

Năm 1976, hợp nhất hai Công ty thuộc hai tỉnh Nam Hà và Ninh Bình thành Công ty Vận tải đường sông Hà Nam Ninh. Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của đơn vị. Công ty là một trong những đơn vị vận tải sông địa phương lớn nhất toàn quốc. Đảm nhận hầu hết khối lượng hàng hoá chiến lược của tỉnh bằng đường sống như: phân bón, lương thực, vật liệu xây dựng, than cho nhà máy Điện Ninh Bình, nhà máy Dệt Nam Định … Đầu những năm 80 lực lượng phương tiện của Công ty lên tới 24.000 tấn, 5 tàu khách, 1 xưởng cơ khí, 2 xưởng sửa chữa và đóng mới phương tiện thuỷ với tổng số cán bộ công nhân viên là 1.176 người. Năm 1984 đơn vị vinh dự được Hội đồng Nhà nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng Ba, đồng chí Giám đốc Hoàng Tuân Anh cũng được tặng thưởng Huân chương lao động hạng Ba.

Năm 1989, Công ty Vận tải đường sông và Xí nghiệp Vận tải biển hợp nhất thành Công ty Vận tải sông biển Hà Nam Ninh. Từ đây đơn vị thêm chức năng vận tải biển trong nước và ngoài nước. Ngoài lực lượng phương tiện vận tải đường sông đảng viên còn có thêm 2 tàu biển: tàu Hà Nam Ninh 01, tàu Châu Giang.

Năm 1992 Công ty Vận tải sông biển Hà Nam Ninh được tách thành 2 đơn vị thuộc tỉnh Nam Hà và tỉnh Ninh Bình, ngày 2-12-1992 Chủ

257

tịch UBND tỉnh Nam Hà đã ký Quyết định số 589-QĐ/UB thành lập lại doanh nghiệp Nhà nước: Công ty Vận tải sông biển Nam Hà.

Năm 1996, Công ty Vận tải sông biển Nam Hà được chuyển giao từ Sở Giao thông vận tải Nam Hà về Tổng Công ty Đường sông miền Bắc thuộc Bộ Giao thông vận tải. Nay là Công ty Vận tải sông biển Nam Định.

Lãnh đạo qua các thời kỳ của Công ty:- Ông Lê Biểng: 1960 - 1964- Ông Nguyễn Ngọc Sinh: 1964 - 1967- Ông Ngô Lan: 1967 - 1978- Ông Hoàng Tuấn Anh: 1978 - 1988- Ông Dương Biên Thuỳ: 1988 - 1992- Ông Nguyễn Văn Thân - Quyền Giám đốc: 1992 - 1993- Ông Đinh Tất Thắng: 1993 đến nay.

HỢP TÁC XÃ VẬN TẢI CỔ PHẦN MÙA XUÂN-----

Hợp tác xã Vận tải cổ phần Mùa Xuân có lịch sử thành lập và hoạt động đến nay là 45 năm. Tiền thân hợp tác xã do 2 kỳ hợp nhất mà thành.

- Kỳ thứ nhất: Hợp tác xã Vận tải Thống Nhất thành lập tháng 9 năm 1960 do sát nhập 2 hợp tác xã nhỏ số 1 và số 3.

+ Hợp tác xã Vận tải Tháng Tám thành lập tháng 5 năm 1960 do Hợp tác xã số 7 và Hợp tác xã số 8.

- Kỳ thứ 2: Tháng 3 năm 1975 hợp nhất 2 hợp tác xã trên thành Hợp tác xã Vận tải thuỷ Mùa Xuân.

* Phương tiện và tài sản thời kỳ đầu gồm có:- Phương tiện = 160 cái = 2.370 tấn- Lao động = 815 người- Vốn bằng tiền = 296,25 nghìn đông.- Cổ phần xã viên góp = 30.000 đ/xã viên.Phương tiện 100% là thô sơ, trọng tải từ 5 – 10 tấn, lớn nhất = 30

tấn.

258

Năm 1964, cả nước bước vào giai đoạn chống Mỹ cứu nước, Hợp tác xã bước vào thời kỳ vừa sản xuất vừa chiến đấu.

Hợp tác xã thành lập: Tổ thuyền thanh niên xung kích, tổ thuyền phụ nữ 3 đảm đang sẵn sàng làm nhiệm vụ vận chuyển đạn dược, lương thực, xăng dầu đi vào tuyến lửa khu 4, ngoài ra còn nhận nhiệm vụ vận chuyển đá thuỷ lợi, đá làm đường giao thông … Năm nào Hợp tác xã cũng hoàn thành vượt mức kế hoạch năm sau cao hơn năm trước.

- Năm 1972 Hợp tác xã được tặng lá cờ đầu ngành vận tải thuỷ toàn miền Bắc.

- Năm 1973 được thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Ba và được thưởng nhiều bằng khen của Chính Phủ , Bộ Giao thông vận tải, UBND tỉnh.

Về cá nhân được nhiều phần thưởng cao quý trong đợt tổng kết chống Mỹ cứu nước:

+ 1 Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất+ 1 Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhì+ 12 Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Ba+ 153 Huy chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất+ 36 Huy chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhì+ 11 Bằng khen của Thủ tướng Chính Phủ + 104 Huy chương vì sự nghiệp giao thông vận tải (đợt 1 theo

Quyết định 3889 + đợt 2 của Bộ Giao thông vận tải).Để có được những thành tích vẻ vang trong sự nghiệp chống Mỹ

cứu nước, Hợp tác xã cũng tổn thất lớn về người và tài sản:Có 04 người hy sinh được công nhận là liệt sĩ- Nguyễn Thị Nhâm - thành phố Nam Định - Nguyễn Thị Tĩnh - thành phố Nam Định - Bùi Văn Nhiếp - Ý Yên, Nam Định - Vũ Xuân Lộc - Trực Tuấn, Nam Định Có 41 xã viên bị thương, 72 lần chiếc phương tiện vận tải bị chìm

do máy bay ném bom, 62 chiếc bị hư hỏng nặng = 1364 tấn, 41 chiếc bị xoá sổ do bom Mỹ = 943 tấn.

259

Do tổn thất nhiều tài sản trong chiến tranh không được đền bù hoặc cấp vốn, nên đến năm 1969 Hợp tác xã gần bị phá sản. Nhưng do sự đoàn kết một lòng của cán bộ, xã viên quyết tâm khắc phục khó khăn, đưa Hợp tác xã dần dần đi vào ổn định. Năm 1972 nhận thí điểm cho ngành Giao thông vận tải đưa cơ giới hoá từng phần vào các phương tiện nhỏ Hợp tác xã đã thành công. đến năm 1983 đưa phương án Hợp tác xã và xã viên về cùng làm, cải tạo các phương tiện của Hợp tác xã 100% cơ giới hoá, vỏ tàu thép, máy tự hành. đến năm 1986 Hợp tác xã hiện đại hoá các phương tiện, thiết bị từ trọng tải nhỏ, máy nhỏ thành phương tiện trọng tải lớn, công suất máy cao. Nhờ đưa cơ giới hoá vào sản xuất Hợp tác xã có doanh thu cao, đời sống xã viên được cải thiện, có tích luỹ tái sản xuất.

Để Hợp tác xã hoạt động và phát triển theo cơ chế thị trường, từ năm 1990 Hợp tác xã thực hiện khoán sản phẩm đến các tàu thuyền. Năm 1993 đổi mới mô hình quản lý và hoạt động theo dạng hợp tác xã cổ phần trong khi chưa có mô hình mẫu và Luật hợp tác xã. Qua hoạt động theo mô hình hợp tác xã cổ phần rất có hiệu quả, cán bộ xã viên phấn khởi, được các ngành chức năng quan tâm ủng hộ. Năm 1996 là 1/10 hợp tác xã điển hình trong toàn quốc đi báo cáo mô hình hợp tác xã với Tổng Bí thư Trung ương Đảng. Năm 1997 báo cáo điển hình toàn quốc tại Hà Nội.

Từ 1/1/1997 Hợp tác xã hoạt động theo Luật hợp tác xã. Cán bộ xã viên hợp tác xã đã vận dụng và nhạy bén nắm bắt cơ chế thị trường đưa sản xuất kinh doanh của hợp tác xã ngày càng ổn định và phát triển, các phương tiện, máy, trang thiết bị của hợp tác xã ngày càng được hiện đại hoá đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Năm 2000 hợp tác xã mở hướng phát triển vận tải biển, ven biển, congtolo, đến nay đã đầu tư hơn 50 tỷ đồng = vốn hợp tác xã , vốn xã viên, vốn vay đóng 3 tàu vận tải biển = 3.300 tấn, đóng 3 tàu vận tải pha sông biển = 2.700 tấn, cải tạo nâng cấp 5 tàu vừa vận chuyển hàng khô và congtolo. Các tuyến vận tải này hoạt động có hiệu quả kinh tế.

Các phương tiện và tài sản của Hợp tác xã hiện có:- Phương tiện = 67 chiếc = 18.000 tấn, công suất máy = 8.000CV - Vốn cố định = 32 tỷ đồng - Lao động = 500 người- Doanh thu = 23 tỷ đồng / nămTừ năm 1960 đến nay Hợp tác xã luôn hoàn thành vượt mức chỉ

tiêu kế hoạch, hoàn thành nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước, năm nào cũng được công nhận chi bộ trong sạch vững mạnh, Công đoàn vững mạnh,

260

được thưởng nhiều Bằng khen, cờ luân lưu của Trung ương và địa phương. Năm 2002 được Thủ tướng Chính Phủ tặng Bằng khen cho hợp tác xã và đồng chí Chủ nhiệm. Lã cổ phần xã viên luôn đảm bảo 1%/tháng.

* Tên các đồng chí lãnh đạo qua các thời kỳ:- Từ năm 1975 đến 1979:+ Ông Lương Kim Chúc - Chủ nhiệm+ Ông Ngô Ngọc Toàn - Phó chủ nhiệm- Từ năm 1980 đến năm 1986:+ Ông Phạm văn Khiêm - Chủ nhiệm+ Ông Ngô Ngọc Toàn - Phó chủ nhiệm+ Ông Nguyễn Hữu Chí - Phó chủ nhiệm- Từ năm 1987 đến năm 1995:+ Ông Ngô Ngọc Toàn - Chủ nhiệm+ Ông Nguyễn Hữu Chí - Phó chủ nhiệm- Từ năm 1996 đến nay:+ Ông Phạm Đức Thuận - Chủ nhiệm+ Ông Tạ Quang Đạt - Phó chủ nhiệm+ Ông Phạm Bá Thuyên - Phó chủ nhiệm

NHÀ MÁY ĐÓNG TÀU NAM HÀ-----

Nhà máy đóng tàu Nam Hà được thành lập tháng 2/1960 trực thuộc Ty Giao thông vận tải Nam Định với tên gọi xưởng đóng tàu thuyền. Nhiệm vụ được giao: Đóng mới, sửa chữa các phương tiện giao thông vận tải đường thuỷ. Sản phẩm chủ yếu là thuyền gỗ, kéo tay, buồm phục vụ vận chuyển đến mọi nơi trong tỉnh. Với tổng số cán bộ, công nhân viên là trên 50 người.

Năm 1965 đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, nhu cầu vận chuyển yêu cầu cao. Xưởng tầu thuyền được mở rộng đổi tên là xưởng Sà Lan có nhiệm vụ đóng tàu thuyền vỏ gỗ có tải trọng lớn đến 20 tấn và đóng xe cải tiến phục vụ vận tải trong thời kỳ chiến tranh. Năm 1967 do nhu cầu cao về giao thông vận tải và bảo vệ sản xuất. Xưởng Sà Lan được chia tách làm 3 xí nghiệp: Xí nghiệp Sà Lan làm nhiệm vụ đóng sửa chữa các

261

phương tiện giao thông vỏ gỗ các loại. Xí nghiệp 1/5 có nhiệm vụ đóng mới tầu kéo, sà lan vỏ thép và xí nghiệp 19/5 có nhiệm vụ chế tạo xe cải tiến phục vụ giao thông đường bộ.

Năm 1968 do Xí nghiệp Sà Lan và xí nghiệp 1/5 có tính chất công việc giống nhau, lại cùng một Ty giao thông Nam Hà quản nên đã sát nhập Xí nghiệp Sà Lan và xí nghiệp 1/5 thành xí nghiệp Sà Lan 1/5 có trụ sở tại nhà máy đóng tàu Nam Hà hiện nay. Nhiệm vụ của xí nghiệp này là đóng mới, sửa chữa các phương tiện giao thông vận tải đường thuỷ vỏ gỗ và các loại tầu kéo 60, 90, 100 mã lực vỏ thép, đóng, lắp sà lan Ru-Ma-Ni và phục vụ giao thông vận tải đường thuỷ.

Đến năm 1969 đã đóng thành công sà lan Ru-Ma-Ni 100T được tự chế tạo khung xương, tôn vỏ hoàn chỉnh.

Năm 1970-1972 đế quốc Mỹ trở lại đánh phá miền Bắc ác liệt hơn. Xí nghiệp Sà Lan 1/5 được giao nhiệm vụ chế tạo cầu phao LPP do Liên Xô thiết kế. Chỉ trong 4 tháng đã chế tạo hoàn chỉnh 500m cầu phao phục vụ quốc phòng có thể xe 40 T đi qua và phục vụ cho cầu phao Đò Quan của Ty GTVT Nam Hà.

Bên cạnh đó năm 1968 xí nghiệp cử đoàn cán bộ, công nhân gồm 25 đồng chí đi làm nhiệm vụ dân công hoả tuyến chi viện cho chiến trường Lào, Căm-pu-chia.

Năm 1974 cử đoàn cán bộ, công nhân gồm 25 đồng chí đi làm nhiệm vụ đảm bảo giao thông cho chiến trường miền Nam. Ở đoàn này đã có một tấm gương là đảng viên Đảng Cộng sản hy sinh anh dũng khi làm nhiệm vụ.

Ngoài ra nhà máy cử hàng chục cán bộ, công nhân là lực lượng thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước đảm bảo giao thông từ Quảng Bình trở ra đến Thanh Hoá và trong tỉnh.

Cũng giai đoạn này nhà máy còn hàng trăm công nhân hăng hái lên đường làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, có nhiều đồng chí là thương binh, có đồng chí đã hy sinh anh dũng.

Tại nhà máy đã thành lập tiểu đoàn tự vệ trực thuộc Ty GTVT Hà Nam Ninh đã tham gia chiến đấu với máy bay Mỹ. Đế quốc Mỹ đã 2 lần trực tiếp đánh phá vào nhà máy. Một trận vào trưa ngày 12-5-1972 đã thả hàng chục tấn bom vào nhà máy. Kết quả sau trận này Nhà máy không còn

262

một nóc nhà nguyên vẹn. Trận thứ 2 đánh vào chiều ngày 04-6-1972 chủ yếu thả bom bi hòng huỷ diệt con người ở Nhà máy.

Song, do tinh thần chủ động vừa sản xuất vừa chiến đấu với hệ thống giao thông hào, hầm cá nhân đầy đủ do vậy không bị thương vong chỉ vài ba đồng chí bị thương nhẹ chỉ điều trị mươi ngày là có thể trở lại công tác được. Chỉ sau 1 tháng sản xuất của xí nghiệp lại được khôi phục, tài thuyền lại được đóng mới, sửa chữa, xuất xưởng phục vụ cho ngành GTVT của tỉnh.

Từ 1975 giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc xí nghiệp được đầu tư khôi phục đã xây dựng được hệ thống triền đà kéo lên đóng mới sửa chữa được cùng lúc 8 sà lan 200 T.

Năm 1979 xí nghiệp được đổi tên là xí nghiệp đóng tàu 1/5.

Năm 1983 được đầu tư nâng cấp triền đà các vị trí đóng tầu được đóng, sửa trong nhà hăng ga cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao chất lượng sản phẩm. Xí nghiệp được đổi tên thành Nhà máy đóng tàu 1/5 trực thuộc Sở GTVT Hà Nam Ninh. Do nhu cầu xây dựng nhà máy thuỷ điện Hoà Bình nhà máy được giao nhiệm vụ đóng mới phà thép 60 T phục vụ lấp sông Đà. Trong 3 tháng khẩn trương hoàn thành nhà máy đã chế tạo và bàn giao 4 phà thép 60 T được chuyên gia Liên Xô kiểm tra kết luận sản phẩm đạt tiêu chuẩn.

Nhu cầu vận tải Bắc Nam tăng cao nhà máy đã chế tạo, lắp máy thành công tàu thực nghiệm xi măng lưới thép 300T với các chỉ số điều khiển tập trung tại buồng lái tầng 3. Đã tổ chức chạy bàn giao tầu vào thành phố Hồ Chí Minh. Tiếp theo đó nhà máy chế tạo hàng loạt tầu pha sông biển. Đặc biệt đã chế tạo thành công đoàn tầu đẩy biển 270 CV, sà lan biển 700 T cho tổng cục dầu khí.

Năm 1989 nhà máy được đổi tên là nhà máy đóng tầu Nam Hà trực thuộc Sở GTVT Hà Nam Ninh.

Sản phẩm chủ yếu là loại tầu biển 400 T vận tải Bắc Nam. Tiêu biểu là tầu biển 400 T đi Đông Nam Á được trang bị hiện đại thoả mãn công ước quốc tế.

Năm 1996 nhà máy được gia nhập và là thành viên chính thức của Tổng Công ty CNTT Việt Nam. Sản phẩm chủ yếu là đóng tầu đi biển có tải trọng từ 1000 T, 2000T v.v...

263

Năm 2003 được đầu tư nâng cấp, mở rộng nhà máy với quy mô: 2 hệ thống triền đà 1000T, 3000T và công suất cùng một lúc có thể đóng mới, sửa chữa được 13 tầu các loại từ 1000 đến 3500 tấn. Đường nội bộ có chiều rộng 8m dài 850m đường trong nhà máy được đổ bê tông 25cm. Hệ thống điện được cải tạo đi ngầm trong hào công nghệ đảm bảo an toàn hơn. Hệ thống cứu hoả được thiết kế 1 trạm bơm đặt các khu vực sản xuất. Ngoài ra còn trang bị gần 100 bình bọt cứu hoả để xử lý khi cần.

Hệ thống nước sinh hoạt được lắp đặt trong toàn bộ các khu vực sản xuất. Nguồn nước được lấy từ hệ thống nước sinh hoạt của Thành phố.

Năm 2004 đã xây dựng được nhà ăn tập thể phục vụ cho 500 người ăn. Xây các nhà vệ sinh tự hoại đảm bảo vệ sinh môi trường. Xây được nhà để xe cho CBCNV và khách đến làm việc.

Với những thành tích đó nhà máy được Thủ tướng Chính phủ tặng 2 Huân chương Lao động hạng Ba, một Huân chương Lao động hạng Hai, một Huân chương Chiến công. Đã góp phần vào thành tích của ngành giao thông vận tải tỉnh Nam Định.

CÁC ĐỒNG CHÍ LÃNH ĐẠO ĐẢNG, CHÍNH QUYỀN, ĐOÀN THỂ QUA CÁC THỜI KỲ CỦA NHÀ MÁY ĐÓNG TÀU NAM HÀ

-----------------

* Từ 1960 đến 1968:

Bí thư chi bộ: Đ/c Bùi Quang Truyện

Giám đốc: Đ/c Bùi Quang Truyện

* Từ 1968 đến 1973:

Bí thư Đảng uỷ:

Đ/c Nguyễn Văn Hướng (1968-1970)

Đ/c Nguyễn Thị (1970-1976)

Giám đốc: Đ/c Lê Văn Thục (1968-1972)

Phó Giám đốc: Đ/c Bùi Quang Truyện

Đ/c Lại Văn Tước (1969-1971)

264

Đ/c Lê Biểng (1969-1973)

Thư ký công đoàn: Đ/c Nguyễn Văn Tặng (1968-1973)

* Từ 1973 đến 1982:

Bí thư Đảng uỷ:

Đ/c Nguyễn Thị (1970-1976)

Đ/c Nguyễn Duy - nhiệm kỳ VI (1976-1978) Đ/c Nguyễn Văn Tặng - nhiệm kỳ VII, VIII (1978-1982)

Giám đốc: Đ/c Quốc Trung (1973-1982)

Phó Giám đốc: Đ/c Nguyễn Duy (1976-1978)

Đ/c Lại Văn Tước (1969-1977)

Đ/c Trương Tôn Khả (1977-1982)

Chủ tịch Công đoàn: Đ/c Nguyễn Văn Tặng (1973-1978) Đ/c Trần Tiến Ban (1978-1982)

* Từ 1982 đến 1980:

Bí thư Đảng uỷ:

Đ/c Vũ Thế Ứng - nhiệm kỳ IX, X, XI (1982-1990)

Giám đốc: Đ/c Trương Tôn Khả (1982- 1990)

Phó Giám đốc: Đ/c Trần Tiến Ban (1982-1990)

Đ/c Nguyễn Vũ Chư (1984-1990)

Chủ tịch công đoàn: Đ/c Trần Tiến Ban (1982-1990)

* Từ 1990 đến 1998:

Bí thư Đảng uỷ:

Đ/c Trần Tiến Ban -nhiệm kỳ XII, XIII, XIV (1990- 1998)

Giám đốc: Đ/c Trần Tiến Ban (1990- 1998)

Phó Giám đốc: Đ/c Nguyễn Vũ Chư (1990-1998)

Chủ tịch công đoàn: Đ/c Nguyễn Đăng Quý (1990- 1998)

* Từ 1999 đến 2005:

265

Bí thư Đảng uỷ:

Đ/c Trần Văn Hữu - nhiệm kỳ XV (1998-2000)

Đ/c Phạm Hoà Quang - nhiệm kỳ XVI, XVII (2000-2005)

Giám đốc: Đ/c Phạm Hoà Quang (1998-2005)

Phó Giám đốc: Đ/c Trần Văn Hữu (1998-2005)

Đ/c Vũ Tiến Dũng (1998-2005)

Chủ tịch công đoàn: Đ/c Nguyễn Đăng Quý (1998-2001)

Đ/c Vũ Tiến Dũng (2001-2005)

CÔNG TY CP TƯ VẤN THIẾT KẾXÂY DỰNG GIAO THÔNG NAM ĐỊNH

____

Công ty CP tư vấn thiết kế xây dựng giao thông Nam Định là Công ty chuyển đổi từ Doanh nghiệp Nhà nước Công ty tư vấn xây dựng giao thông Nam Định vào 7/2003. Tiền thân của Công ty là phòng Khảo sát thiết kế của Công ty Giao thông Nam Định được tách thành Đội Khảo sát thiết kế giao thông Nam Định vào những năm cuối của thập kỷ 70.

Trải qua gần 30 năm hoạt động, đến nay là một Công ty CP có số vốn điều lệ 1 tỷ đồng với 100% vốn đóng góp của các cổ đông là đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật.

Công ty có đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật là những kỹ sư chuyên ngành có kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn thiết kế xây dựng công trình giao thông, ngày nay đang mở rộng sang nhiều lĩnh vực KHKT khác như xây dựng dân dụng, thuỷ lợi... bước đầu đã thu được những thành tích đáng kể, góp vào thành tích chung của ngành GTVT tỉnh Nam Định.

Quá trình hoạt động của Công ty có thể tóm tắt như sau:

I- Thời kỳ 1965-1975 (tỉnh Nam Hà).

Là phòng khảo sát thiết kế của Ty Giao thông Nam Hà.

Ông là trưởng phòng.

Công trình chính:

266

- Cầu treo Nam Định dài > 100m bắc qua sông Đào do các kỹ sư đầu ngành thiết kế: KS. Phạm Huy Thông, KS. Đỗ Vắc Thức.

- Cầu phao lạc quần dài > 100m bắc qua sông Ninh Cơ.

II- Thời kỳ 1976-1991 (tỉnh Hà Nam Ninh).

1- Đội khảo sát thiết kế giao thông Hà Nam Ninh (1978-1985).

Ông Vũ Duy Bồng đội trưởng từ năm 1978-1982.

Ông Nguyễn Kim Trung đội trưởng, ông Vũ Đình Nam đội phó từ năm 1983-1985.

Số lượng CBCN 60 người

2- Xí nghiệp khảo sát thiết kế giao thông Hà Nam Ninh (1986-1991).

Ông Vũ Đình Nam- Giám đốc, ông Phạm Huy Thông- Phó giám đốc từ năm 1986-1988.

Ông Phạm Huy Thông- Giám đốc, Ông Nguyễn Xuân Bảo- Phó GĐ từ 1989-1991.

Số lượng CBCNV 30 người

Công trình chính:

- Cầu Quế, huyện Kim Bảng, bắc qua sông Đáy (lập dự án (DA) và thiết kế kỹ thuật- thi công (KT-TC): 3 nhịp 33m dầm BTCT dự ứng lực.

- Cầu Hồng Phú, thị xã Phủ Lý, bắc qua sông Đáy (tham gia lập dự án DA 3 nhịp 33m dầm BTCT dự ứng lực và thiết kế KT-TC đường vào cầu).

- Cầu Nam Định, thành phố Nam Định, bắc qua sông Đào: dầm thép liên tục BTCT liên hợp, dầm dự ứng lực 33m (tham gia lập DA và thiết kế KT-TC đường vào cầu, cầu dẫn phía Nam Định).

- Lập DA và thiết kế KT-TC cầu Nho Quan bắc qua sông Hoàng Long, huyện Nho Quan tỉnh Hà Nam Ninh.

Các KS chuyên ngành có nhiều đóng góp cho C.ty thời kỳ này: KS Phạm Huy Thông, KS Đỗ Văn Thức, KS Trịnh Duy Tường (Hiện là PGĐ C.ty tư vấn xây dựng Ninh Bình), Nguyễn Xuân Bảo... (các ông Thông, Thức, Bảo hiện nghỉ hưu tại địa phương).

Phương tiện phục vụ sản xuất chủ yếu là dụng cụ thủ công.

267

Về khảo sát: đi lại bằng xe đạp, ô tô công cộng.

Đo đạc bằng thước thép, thước vải ngắn, máy kinh vỹ theo 20, máy thuỷ chuẩn Ni 030.

Về thiết kế: vẽ bằng bút chì trên giấy rôky, sau đó in bản vẽ theo phương pháp can trên giấy can và in nắng, tính toán bằng thước Logarit, máy tính cá nhân.

Sản lượng: sửa chữa nhỏ, vừa đường giao thông khoảng 10 km/năm, 1-2 cầu trung/năm.

III- Thời kỳ 1992-1996 (tỉnh Nam Hà)

1- Xí nghiệp khảo sát thiết kế giao thông Nam Hà (1992-3/1995).

2- Công ty tư vấn xây dựng giao thông Nam Hà (4/1995-1996).

Ông Phạm Huy Thông- Giám đốc, Ông Hoàng Thọ Dung- Phó GĐ từ 1992-1996.

Số lượng CBCNV 30 người.

Công trình chính:

- Lập DA và thiết kế KT-TC các tuyến đường thuộc dự án ARCD huyện Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình ( 20 km).

- Lập DA và thiết kế KT-TC QL 21 đoạn Phủ Lý- Nam Định (30 km).

- Các KS chuyên ngành có nhiều đóng góp cho C.ty thời kỳ này: KS Phạm Huy Thông, KS Hoàng Thọ Dung, KS Cù Đình Văn...

- Phương tiện phục vụ sản xuất chủ yếu là dụng cụ thủ công kết hợp cơ giới.

- Về khảo sát: đi lại bằng xe đạp, ô tô công cộng, xe máy.

- Đo đạc bằng thước thép, thước vải, máy kinh vỹ Theo 20, Dakta 20, máy thuỷ chuẩn Ni 030.

- Tài liệu khảo sát chuyển dần sang vẽ trên máy vi tính ( 50% khối lượng công việc)

Về thiết kế: vẽ bằng bút chì trên giấy rôky, sau đó in bản vẽ theo phương pháp can trên giấy can và in nắng, tính toán bằng máy tính cá nhân.

268

Từ năm 1995 tính toán và vẽ trên máy vi tính các công trình thiết kế đường (phần mềm thiết kế đường TDN), hồ sơ đóng gói bằng phôtôcoppy bản vẽ.

Sản lượng: sửa chữa nhỏ, vừa, lớn, xây dựng mới đường giao thông khoảng 20 - 50 km/năm, 5-10 cầu trung/năm.

IV- Thời kỳ 1997-2004 (tỉnh Nam Định)

1- Công ty tư vấn xây dựng giao thông Nam Định (1997-6/2003).

Ông Phạm Huy Thông - Giám đốc, Ông Hoàng Thọ Dung - Phó GĐ từ 1997-9/2001.

Ông Trần Đình Hồng - Giám đốc, Ông Hoàng Thọ Dung - Phó GĐ từ 10/2001-6/2003, ông Trần Mạnh Hoà - Phó GĐ từ 3/2002-6/2003

Số lượng CBCNV 30 người.

2- Công ty Cổ phần Tư vấn Thiết kế xây dựng giao thông Nam Định (7/2003-2004).

Ông Trần Đình Hồng- Chủ tịch HĐQT & Giám đốc, ông Trần Mạnh Hoà - Phó GĐĐH, ông Cũ Đình Văn PGĐĐH, từ 7/2003-2004

Số lượng CBCNV 50 người (trong đó KS = 27 người, Trung cấp, CĐ = 15 người)

Công trình chính:

- Lập DA và thiết kế KT-TC các tuyến đường thuộc dự án ARCD huyện Tuyên Hoá - Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình ( 25 km).

- Lập DA và thiết kế KT-TC các tuyến đường thuộc dự án ARCD huyện Bố Trạch, Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình ( 15 km)

- Tham gia Lập DA khả thi đường Hồ Chí Minh (20km đoạn thuộc huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá).

- Lập DA và thiết kế KT-TC các tuyến đường GTNT vốn WB2 năm thứ nhất tỉnh Nam Định. ( 80 km).

- Thiết kế tuyến Quốc lộ 21 Nam Định - Lạc Quần (13km).

- Tham gia Lập DA và thiết kế KT-TC cầu Hà Lạn (3 nhịp BTCT dự ứng lực 27m).

269

- Lập DA và thiết kế KT-TC rải BT nhựa các trục đường chính thành phố Nam Định (10km).

- Thiết kế KT-TC hạ tầng cơ sở các khu tái định cư Quốc lộ 10, Trần Nhân Tông, D2, D3, D4, D6 khu công nghiệp Hoà Xá (10 km), Thành phố Nam Định.

- Các KS chuyên ngành có nhiều đóng góp cho C.ty thời kỳ này: KS Phạm Huy Thông, KS Trần Đình Hồng, KS Cù Đình Văn...

- Phương tiện phục vụ sản xuất chủ yếu là máy móc hiện đại.

Về khảo sát:

- Đi lại bằng ô tô công cộng, xe máy.

- Đo đạc bằng thước thép, thước sợi amiăng, máy kinh vỹ Theo 20, Dakta 20, máy kinh vỹ điện tử DTM, máy thuỷ chuẩn Ni 030, Nikon.

- Đầu tư và khai thác hiệu quả Đội khoan địa chất công trình (ĐCCT) và phòng thí nghiệm ĐCCT.

- Tài liệu khảo sát vẽ hoàn toàn trên máy vi tính.

Về thiết kế: Tính toán và vẽ trên máy vi tính tất cả các công trình thiết kế đường, cống, cầu, hồ sơ được đóng theo phương pháp photcoppy bản vẽ (phần mềm Nova-TDN, TOPO, Auto CAD...) .

Sản lượng: Sửa chữa nhỏ, vừa, lớn, xây dựng mới đường giao thông khoảng 100 - 200 km/năm, > 10 nhà 3-4 tầng/năm.

Về các tổ chức khác trong Công ty.

1- Chi bộ Công ty: Trực thuộc Đảng bộ ngành GTVT tỉnh từ khi thành lập đến nay.

2- Công đoàn Công ty: Trực thuộc Công đoàn ngành GTVT tỉnh từ khi thành lập đến nay.

3- Công đoàn Công ty: Trực thuộc Đoàn Thanh niên khối kinh tế tỉnh Nam Định từ 3/2003 đến nay.

HỢP TÁC XÃ VẬN TẢI TRUNG HẢI

270

--------Hợp tác xã vận tải Trung Hải được thành lập từ năm 1960, tiền thân

là hai hợp tác xã nhỏ Quang Trung và Xuân Hải, năm 1977 Sở Giao thông vận tải chỉ đạo hợp nhất thành hợp tác xã bậc cao lấy tên là Hợp tác xã vận tải Trung Hải trực thuộc ngành Giao thông vận tải Hà Nam Ninh.

- Tên đơn vị: Hợp tác xã vận tải Trung Hải - Thành phố Nam Định- Trụ sở chính: Phường Cửa Nam - Thành phố Nam Định- Điện thoại: 0350.859236 - Fax: 0350.858504- Chức năng nhiệm vụ chủ yếu:+ Vận chuyển hàng hoá bằng đường thuỷ nội địa.+ Đóng mới và sửa chữa phương tiện thuỷ vận tải thuỷ.+ Kinh doanh than mỏ vật tư nông nghiệp.Hợp tác xã được Sở Giao thông vận tải tỉnh Nam Định giao nhiệm

vụ đào tạo, bổ túc thuyền viên thi lấy chứng chỉ chuyên môn và bằng thuyền trưởng, máy trưởng, phương tiên thuỷ nội địa được Sở Lao động thương binh xã hội tỉnh Nam Định cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động dạy nghề.

* Tổ chức bộ máy của Hợp tác xã:- Có một chi bộ Đảng trực thuộc Thành uỷ Nam Định.- Ban Quản trị - Ban Kiểm soát.- Tổ chức công đoàn cơ sở trực thuộc Sở Giao thông vận tải Nam

Định.* Năng lực sản xuất kinh doanh của Hợp tác xã năm 2005:- Tổng số lao động hiện có là 260 người. trong đó xã viên là 83

người.+ Phương tiện trọng tải từ 100 đến 1000 tấn: Có 52 phương tiện,

tổng trọng tải 15.500 tấn; tổng công suất động lực là 7.500CV.+ Kế hoạch vận chuyển của hợp tác xã năm 2005 là 320.000 tấn

hàng bằng 69.200.000 tấn km.+ Tổng doanh thu là: 22.500.000.000đ* Quá trình hình thành và phát triển của Hợp tác xã:- Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1972:

271

Tư liệu sản xuất chủ yếu là phương tiện thô sơ thuyền buồm vỏ gỗ có trọng tải từ 20 tấn đến 40 tấn. Nhiệm vụ chính trị là vận chuyển hàng hoá theo kế hoạch của Sở Giao thông vận tải để xây dựng hậu phương xã hội chủ nghĩa và vận chuyển các mặt hàng chiến lược phục vụ cho tiền tuyền lớn như lương thực, vũ khí, vật liệu xây dựng quốc phòng, an ninh. Trên mặt trận nào, hợp tác xã cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Cán bộ, xã viên hợp tác xã thông minh dũng cảm không quản ngại gian khổ hy sinh, đảm bảo giao thông thông suốt với những đoàn thuyền "thanh niên ba sẵn sàng" và đoàn thuyền "phụ nữ ba đảm đang" đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Trong sự nghiệp giao thông vận tải kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hợp tác xã đã cống hiến xương máu của 39 cán bộ xã viên bị thương trong khi làm nhiệm vụ (trong đó có 19 người chết, được công nhận liệt sĩ 10 người).

- Giai đoạn xây dựng hợp tác xã từ năm 1973 đến năm 1997:Từ năm 1973 kết thúc chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc

Mỹ. Hợp tác xã bắt đầu tổ chức cơ giới hoá, phương tiện thô sơ vở gỗ được thay thế bằng vật liệu vỏ thép và xi măng lưới thép có trọng tải từ 40 đến 100 tấn, công suất động lực từ 12 CV đến 25 CV.

Thời kỳ hợp nhất từ năm 1977 đến năm 1984, hợp tác xã có 3.500 tấn phương tiện và gần 500 cán bộ xã viên. Đảng bộ cơ sở gồm 60 đảng viên, một chi đoàn thanh niên trực thuộc Huyện đoàn Nam Ninh. Thời kỳ này phát triển thịnh vượng nhất của Hợp tác xã Vận tải Trung Hải trong cơ chế kế hoạch hoá, Hợp tác xã luôn là hợp tác xã tiên tiến xuất sắc của khối Liên hiệp hợp tác xã tỉnh Hà Nam Ninh.

- Giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2005:Từ năm 1997, hợp tác xã tiến hành kiểm kê tài sản, tiền vốn tổng kết

quá trình xây dựng Hợp tác xã từ năm 1960 đến năm 1997 của từng cán bộ xã viên và thành lập Ban giải quyết chế độ của hợp tác xã, nhằm định công, xét thưởng cho cán bộ xã viên và lập bảng thanh toán chế độ cho tất cả cán bộ xã viên chấm dứt hoạt động hợp tác xã cũ và chuyển đổi hoạt động theo luật hợp tác xã.

* Tổng hợp thành tích thi đua yêu nước từ năm 1960 đến 2005:- Những thành tích nổi bật qua các thời kỳ:- Hai Huân chương lao động hạng Ba cho hai hợp tác xã nhỏ năm

1968.

272

- Hợp tác xã được phái đoàn thường trực Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam tặng cờ thi đua xuất sắc về thành tích vận chuyển hàng hoá phục vụ tiền phương.

- Tổng hợp thành tích kháng chiến chống Mỹ cứu nước của cán bộ xã viên hợp tác xã được thương, Huân chương, Huy chương là 164 người. Trong đó:

+ Huân chương kháng chiến hạng Nhất là: 02 người+ Huân chương kháng chiến hạng Ba là: 07 người+ Huy chương kháng chiến hạng Nhất là: 135 người+ Huân chương kháng chiến hạng Nhì là: 20 người- Thời kỳ kế hoạch hoá, Hợp tác xã được thưởng nhiều cờ thi đua

xuất sắc của Ban Liên hiệp hợp tác xã và UBND tỉnh, Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải.

- Hợp tác xã có 43 cán bộ, xã viên được thưởng Huy chương vì sự nghiệp Giao thông vận tải và 02 Huy chương vì sự nghiệp phát triển hợp tác xã.

- Hợp tác xã và nhiều cán bộ xã viên được UBND Thành phố Nam Định, Sở Giao thông vận tải, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tặng Bằng khen.

- Năm 1999, năm 2002, năm 2004 Hợp tác xã được UBND tỉnh tặng cờ thi đua đơn vị thi đua xuất sắc ngành Giao thông vận tải.

- Từ ngày chuyển đổi hoạt động theo luật hợp tác xã năm 1997 đến năy Hợp tác xã Vận tải Trung Hải phát triển ổn định, vững chắc, năng suất lao động năm sau cao hơn năm trước, đời sống của cán bộ xã viên không ngừng được cải thiện.

- Trụ sở làm việc và cơ sở dạy nghề đào tạo thuyền viên của hợp tác xã được xây mới khang trang đẹp đẽ ngang tầm với nhiệm vụ chính trị.

- Tổ chức cơ sở Đảng luôn đạt danh hiệu "Tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh".

- Tổ chức công đoàn cơ sở đạt danh hiệu vững mạnh.- Ban quản trị, Ban Kiểm soát năng động sáng tạo, phát huy tinh thần

làm chủ, đoàn kết nội bộ tốt, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đại hội xã viên giao cho.

* Các đồng chí là Chủ nhiệm hợp tác xã từ năm hợp nhất (1977) đến nay:

273

- Đồng chí Nguyễn Văn Cổn- Đồng chí Trần Thế Nam- Đồng chí Nguyễn Thế Bằng (1990-1995)- Đồng chí Phạm Ngọc Miễn (1995-2005)

UBND TỈNH NAM ĐỊNHSƠ GIAO THÔNG VẬN TẢI

*Số 520/GTVT

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc

---------------------Nam Định, ngày 22 tháng 4 năm 2004

QUYẾT ĐỊNHCỦA GIÁM ĐỐC SỞ GIAO THÔNG VẬN TẢI NAM ĐỊNH

về việc thành lập Ban chỉ đạo tổ chức nghiên cứu biên soạn cuốn lịch sử

274

ngành Giao thông vận tải (1945-2005)

--------

- Căn cứ Quyết định số 1178/2000/QĐ-UB ngày 09-6-2000 của UBND tỉnh Nam Định về việc phân công, phân cấp quản lý công tác tổ chức bộ máy cán bộ, công chức.

- Căn cứ Kế hoạch số 519/GTVT ngày 21-4-2004 của Sở Giao thông vận tải Nam Định về tổ chức nghiên cứu biên soạn cuốn lịch sử ngành Giao thông vận tải Nam Định (1945-2005).

Theo đề nghị của ông Trưởng phòng Tổ chức hành chính Sở.

QUYẾT ĐỊNH

Điều 1: Nay thành lập Ban chỉ đạo tổ chức nghiên cứu biên soạn cuốn lịch sử ngành Giao thông vận tải Nam Định (1945-2005) của Sở Giao thông vận tải Nam Định gồm các ông bà có tên sau:

- Trưởng ban: ông Trần Văn Lợi - Tỉnh uỷ viên, Giám đốc Sở Giao thông vận tải Nam Định.

- Phó ban Thường trực: ông Trần Xuân Hợi - Phó Giám đốc Sở Giao thông vận tải Nam Định.

Các phó ban:

Ông Lê Nguyên Khính - Phó Giám đốc Sở Giao thông vận tải Nam Định.

Ông Mai Quang Tam - Chủ tịch Công đoàn ngành Giao thông vận tải Nam Định.

Các Uỷ viên:1- Ông Roãn Công Chuyên - Phó TTNN Sở GTVT Nam Định 2- Ông Mai Hữu Chính - Trưởng phòng TCKT Sở GTVT Nam Định 3- Ông Nguyễn Hữu Mịch - Phó trưởng phòng THKT Sở GTVT NĐịnh 4- Ông Lê Ngọc Lâm - Trưởng ban TTGT Sở GTVT Nam Định 5- Ông Phạm Đinh Lăng - Trưởng phòng QLVT Sở GTVT Nam Định 6- Ông Nguyễn Thành Vượng - Trưởng phòng QLGT Sở GTVT NĐịnh 7- Ông Đinh Xuân Hùng - Phó phòng TCHC Sở GTVT Nam Định 8- Ông Nguyễn Quốc Hùng - Giám đốc Ban QLDAGT Sở GTVT NĐịnh 9- Ông Mai Sinh Thân - Trưởng ban ĐKPTVT thuỷ Sở GTVT NĐịnh 10- Ông Nguyễn Văn Đảng - Trạm trưởng trạm ĐKPTCGĐB Nam Định

275

11- Ông Vũ Duy Dương - Giám đốc ban QLDA cầu Sở GTVT Nam Định 12- Ông Hoàn Đình Tố - Giám đốc TTĐTSH cấp GPLX Nam Định 13- Ông Phạm Bá Cường - Chủ tịch HĐQT, Giám đốc CTCPVT ô tô NĐ14- Ông Trần Đức Long - Giám đốc Đoạn QLCĐB Nam Định 15- Ông Trần Đình Hồng - Chủ tịch HĐQT, Giám đốc CTCPVTKX Xây dựng giao thông Nam Định.

Điều 2: Ban chỉ đạo có nhiệm vụ xây dựng chương trình, kế hoạch chỉ đạo trong suốt toàn bộ quá trình triển khai kế hoạch nghiên cứu biên soạn cuốn lịch sử ngành Giao thông vận tải Nam Định (1945-2005) đáp ứng được mục đích, yêu cầu và thời gian hoàn thành cuốn sách.

Điều 3: Các ông Trưởng phòng TCHC sở, Trưởng phòng TCKT, Trưởng các phòng ban liên quan và các ông có tên ở điều 1 chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

Nơi nhận:- Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ (b/c);- Lãnh đạo sơ (b/c);- Đảng uỷ, CĐ ngành (b/c);- Như điều 3;- Lưu.

SƠ GIAO THÔNG VẬN TAI NAM ĐỊNH

Trần Văn Lợi

276