liluan3 cau1
TRANSCRIPT
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
Khoa CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Môn: Lí Luận Tin 3
Bài tập tuần 1 Họ tên: Huỳnh Thị Thùy Linh
MSSV: K37.103.052
Lớp sư phạm tin4
Câu 1: Trí nhớ và học tập 1. Trí nhớ có vai trò như thế nào trong quá trình học tập của con người?
->
Trí nhớ đóng vai trò quan trọng trong đời sống của con người. Không có bất cứ ai
mà lại không cần có trí nhớ. Trí nhớ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, song có một
yếu tố hết sức quan trọng là “phương pháp nhớ”. Để có được trí nhớ tốt, chúng ta
phải có cách rèn luyện trí nhớ tốt và phù hợp, trong học tập thì việc rèn luyện trí
nhớ càng quan trọng hơn nữa.
Bộ não là một thể hữu cơ phức tạp, trí nhớ là nguồn động lực giúp thể hữu cơ này
hoạt động dồi dào. Do đó tiến hành rèn luyện khả năng ghi nhớ và thao tác, thì bộ
não mới ngày càng linh hoạt , tiềm năng của con người mới được khai thác và tận
dụng. Có thể nói, trí nhớ của một người trực tiếp quyết định chất lượng làm việc và
học tập của người đó.
2. Trí nhớ dài hạn và ngắn hạn được hình thành như thế nào?
Trí nhớ ngắn hạn hoạt động như "một xấp giấy rời" dùng để nhớ lại tạm thời
thông tin đã được xử lý. Nó có khả năng nhớ và xử lý thông tin cùng một lúc. Trí
nhớ ngắn hạn có thể lưu giữ một lượng thông tin nhỏ (từ 5 đến 9 thông tin) Tuy
nhiên, khả năng nhớ thông tin có thể được tăng cường thông qua một quá trình gọi
là chunking (tạm dịch là "tập luyện" trí nhớ.trong tâm trí ở tình trạng hoạt động,
sẵn sàng có thể sử dụng trong một thời gian ngắn (thường khoảng từ 10 đến 15
giây, đôi khi có thể lên đến 1 phút). Ví dụ, để hiểu được một câu, phần mở đầu của
câu cần được lưu giữ trong đầu, và phần còn lại của câu cần được tiếp tục đọc, đây
là việc được thực hiện bởi trí nhớ ngắn hạn.
Một ví dụ khác về hoạt động của trí nhớ ngắn hạn là nó có thể giữ một thông tin
tạm thời để làm việc (ví dụ: thông dịch viên phải vừa nhớ thông tin bằng 1 ngôn
ngữ và dịch nó ra thành một ngôn ngữ khác).
Tuy nhiên, thông tin này sẽ nhanh chóng biến mất trừ khi chúng ta cố gắng lưu giữ
lại một cách có ý thức. Trí nhớ ngắn hạn là bước cần thiết đi đến giai đoạn tiếp
theo, trí nhớ dài hạn. Sự chuyển thông tin đến vùng trí nhớ dài hạn để nhớ được lâu
hơn có thể được kích hoạt và cải thiện bằng cách lặp lại thông tin đó, hoặc hiệu quả
hơn nữa, bằng cách gắn thông tin đó với một ý nghĩa hoặc những kiến thức có sẵn.
Động lực cũng là một điều quan trọng, khi thông tin liên quan đến một điều quan
trọng của chúng ta, nó sẽ dễ được lưu vào bộ nhớ dài hạn hơn.
Thuật ngữ "trí nhớ làm việc" (working memory) thường được dùng như trí nhớ
ngắn hạn, mặc dù về mặt kỹ thuật, trí nhớ làm việc thường ám chỉ toàn bộ cấu trúc
và quá trình được sử dụng cho bộ nhớ tạm thời và xử lý thông tin. Trong đó, trí
nhớ ngắn hạn chỉ là một yếu tố. "Trí nhớ làm việc" (Working memory) được định
nghĩa như sau: Trí nhớ làm việc là một hệ thống chứa đựng giới hạn dành cho việc
lưu trữ tạm thời và điều khiển thông tin dành cho những nhiệm vụ phức tạp như
hiểu, học và lập luận (Baddeley, 2000)
Trí nhớ dài hạn được dùng để lưu trữ thông tin trong thời gian dài. Mặc dù có vẻ
chúng ta quên đi mỗi ngày, dường như trí nhớ dài hạn bị mai một rất ít qua thời
gian và có thể lưu trữ lượng thông tin không giới hạn trong thời gian vô hạn. Có
một số tranh luận về việc chúng ta có thực sự "quên" hoàn toàn hay chúng ta chỉ
ngày càng khó khan để truy cập hoặc lấy lại các thông tin lưu trong bộ nhớ.
Trí nhớ ngắn hạn có thể trở thành trí nhớ dài hạn qua quá trình hợp nhất, gồm việc
nhắc lại nhiều lần và kết hợp với ý nghĩa. Không giống như trí nhớ ngắn hạn (chủ
yếu dựa vào âm thanh, ít hình ảnh để lưu trữ thông tin), trí nhớ dài hạn mã hóa
thông tin để lưu trữ (dựa trên ý nghĩa và sự liên tưởng). Tuy nhiên, có bằng chứng
cho thấy rằng bộ nhớ dài hạn cũng được mã hóa bằng âm thanh.
Trí nhớ dài hạn có hai dạng chính: trí nhớ bạn có thể tường thuật lại (ví dụ: bạn
nhớ được thủ đô của Việt Nam là Hà Nội, hay bạn nhớ được những sự kiện đã từng
xảy ra…) và trí nhớ tiềm ẩn (như khả năng chơi piano, chơi golf…).
Có những cách nào để học sinh nhớ lâu (đưa thông tin vào vùng nhớ dài hạn)?
Sau đây là một số cách rèn luyện trí nhớ:
1. Tập trung chú ý cao độ kh ghi nhớ, có ý chí, nghị lực và tạo niềm say mê
trong công việc học tập
2. Phối hợp nhiều giác quan để ghi nhớ, cần vận dụng sự hiểu biết, vốn kinh
nghiệm vào quá trình ghi nhớ.
3. Sử dụng các nguyên tắc hình dung, lien tưởng làm nổi bật sự việc, tưởng
tượng, màu sắc, âm điệu, đề tạo ra trong đầu óc những hình ảnh sống động
nhiều màu sắc tác động mạnh đến các giác quan nhờ ậy mà không thể quên
được
4. Thời gian học tập làm việc và nghỉ ngơi hợp lí sẽ làm cho tang khả năng trí
nhớ. Các nghiên cứu cho rằng trong bất cứ một khoảng thời gian học tập nào
cũng có 2 đỉnh điểm ghi nhớ thong tin tốt nhất đó là thời gian lúc bắt đầu và
thời gian sắp kết thúc viedcj học tập. Trong khi đó khoảng thời gian giữa 2
điểm này (thời gian giữa lúc học) thì trí nhớ của chúng ta giảm sút một cách
roc rệt. Vì vậy thời gian học tập lí tưởng nhất trong quá trình học tập không
nên kéo dài quá 2 tiếng. Mỗi lần học nên chia làm 4 giai đoạn, mỗi giai đoạn
25p. Giữa các phần nên nghỉ ngơi khoảng 5p, trong lúc ngỉ ngời chúng ta
nên đứng dậy, làm một vài động tác thể dục đơn giản,…sẽ đem lại sức sống
mới cho các tế bào não, qua đó chúng ta có thể đương đầu với những căng
thẳng tiếp theo. Sau 2 tiêng nên nghi ngơi nữa tiếng để học tiếp
5. Việc học tập diễn ra trong một khoảng thời gian cụ thể sau mỗi lần học. Lần
ôn tập đầu tiên nên bắt đầu sau khi học 10p, những lần ôn tiếp theo nên diễn
ra sau 24h
6. Phải ôn tập thường xuyên, rải rác phân tán thành nhiều đợt, không nên ôn
tập trung một loại tài liệu trong một thời gian dài
7. Cần ôn tập một cách tích cực. Khi ôn tập nên tập trung nhớ lại, tư duy, vận
dụng nhiều giác quan vào ôn tập
Trong những cách đó cách nào là khoa học và hiệu quả nhất?
Cách 3, 4, 5, 6, 7
3. Từ kiến thức về trí nhớ, giáo viên cần có những lưu ý gì trong quá trình truyền thụ kiến thức (thông tin) cho học sinh.
Nguyên tắc 1: Liên tục nhấn mạnh những khái niệm then chốt. Hãy lặp lại những khái niệm này
trong các bài giảng và bài tập về nhà trong suốt khóa học. Qua việc đưa ra các câu hỏi liên quan đến các chủ đề chính này trong mỗi kì thi,
giáo viên có thể khuyến khích học sinh học, nhắc lại và có thể ứng dụng những
kiến thức đó vào các trường hợp cụ thể khác nhau. Nguyên tắc 2:
Sử dụng các phương tiện nghe nhìn (visual aids) khi cần thiết để giúp học sinh hiểu được các khái niệm khó và trừu tượng bởi vì một điều rất đáng chú ý là hiện nay
học sinh có xu hướng nghe nhìn rất nhiều.Với những học sinh này thì một giản đồ hoặc sơ đồ sẽ có tác dụng hơn hàng ngàn chữ viết hoặc bài giảng bằng lời.
Nguyên tắc 3:
Sử dụng tư duy logic khi cần thiết. Hãy chỉ rõ cho học sinh thấy rằng thông tin nào là số liệu chính xác (fact) cần ghi nhớ máy móc, thông tin nào có thể được suy luận
nhờ tư duy logic.
Hãy dạy học sinh cách suy luận và cách tiếp nhận kiến thức mới bằng phương pháp
tư duy. Ví dụ như khi dạy học sinh về vị trí của trạng từ trong câu “She is very beautiful”, trạng từ “very” đứng trước tính từ“beautiful”. Đó là fact.
Một khi học sinh đã sử dụng tư duy trong học tập thì chúng có thể mở rộng kiến
thức đến không ngờ. Trở lại ví dụ trên, học sinh có thể suy ra cách sắp xếp trật tự trong câu sau: “She is much more beautiful than her sister” bởi vì theo nguyên tắc trạng ngữ đứng trước tính từ.
Nguyên tắc 4: Sử dụng các hoạt động trên lớp để củng cố kiến thức mới học. Sau khi dạy học
sinh những khái niệm cơ bản, giáo viên nên cho học sinh làm bài tập ngay dựa vào những kiến thức mới.
Những bài tập này có thể ngắn nhưng miễn là làm học sinh hiểu rõ hơn những khái
niệm mới. Học sinh nên được làm việc theo nhóm, làm bài tập dựa vào bài text, có thể hỏi giáo viên khi làm bài.
Cách này có tác dụng rất lớn giúp học sinh hiểu thấu đáo bài mới. Ngoài ra nó sẽ giúp việc có mặt của học sinh có tác dụng tích cực và khuyến khích học sinh đi học
đều đặn. Nguyên tắc 5:
Giúp học sinh tạo đường dẫn giữa kiến thức mới với kiến thức đã học. Nếu học sinh có thể liên hệ những kiến thức cũ thì việc học kiến thức mới sẽ diễn ra dễ
dàng và thuận lợi hơn.
Chẳng hạn, khi dạy học sinh về thì tương lai tiếp diễn ”will be +Ving”, giáo viên
có thể nhắc lại thì hiện tại tiếp diễn mà học sinh đã biết “to be + Ving”. Điều này sẽ giúp học sinh dễ hiểu hơn.
Nguyên tắc 6:
Nhận biết tầm quan trọng của việc học từ vựng. Học sinh thường gặp rất nhiều khó khăn với những bài có nhiều từ mới, đặc biệt là những từ chuyên ngành.
Để học sinh dễ tiếp thu những từ chuyên ngành, giáo viên nên làm cho chúng dễ
hiểu bằng cách gắn chúng với cuộc sống hàng ngày của học sinh. Một cách hiệu quả là học sinh nên tạo cho mình những quyển ghi chú nhỏ chứa những chú thích
của giáo viên về những từ khó. Nguyên tắc 7:
Hãy tôn trọng học sinh. Học sinh nên được tôn trọng ngay từ khi học tiểu học. Giáo viên có thể kích thích tinh thần trách nhiệm của học sinh bằng cách trao cho
họ một số chức vụ. Đây là cách khá hiệu quả với sinh viên các trường đại học, cao đẳng vì họ sẽ gắng hết sức để khẳng định mình. Nguyên tắc 8:
Giữ cho học sinh luôn ở trình độ cao. Nếu học sinh không bị yêu cầu học tập với
mức tiêu chuẩn nhất định, thì chỉ có những học sinh có ý thức rất cao mới tự học hành chăm chỉ mà thôi.
Mặt khác yêu cầu cao trong giảng dạy không chỉ tạo động lực cho học sinh mà nó còn tạo ra được những tinh thần phấn khởi cho học sinh khi đạt được những yêu
cầu đó.
Mỗi nguyên tắc trên đều có những tác dụng rất khác nhau. Tuy nhiên nguyên tắc 7
và 8 là quan trọng hơn cả. Nếu học sinh không được tôn trọng và không được giữ ở trình độ cao thì những nguyên tắc trên sẽ bị giảm tác dụng.
Câu 2: Learning Thoery 1. Có những cách nào để giải thích quá trình học tập của con người? Bạn chấp
nhận cách giải thích nào? Tại sao? 2. Theo thuyết kiến tạo thì quá trình học tập của con người được diễn ra như
thế nào? Cho một ví dụ về dạy học theo kiểu kiến tạo. Dạy học theo quan điểm của thuyết kiến tạo nghĩa là giáo viên (GV) hướng
dẫn để học sinh (HS) tự khám phá ra tri thức, thực hiện những nhiệm vụ học tập, từ
đó kiến tạo tri thức cho bản thân. Vì vậy, các kiểu dạy học như: dạy học khám phá,
dạy học hợp tác, dạy học giải quyết vấn đề… đều được coi là các PPDH vận dụng
quan điểm của lý thuyết kiến tạo. Đã có nhiều tác giả nghiên cứu vận dụng TKT
trong dạy học một số môn học ở trường phổ thông. Nhưng ở Việt Nam vẫn còn ít
tác giả nghiên cứu vận dụng TKT trong dạy học Sinh học.
Trong dạy học, HS được khuyến khích sử dụng các phương pháp riêng của
họ để kiến tạo tri thức chứ không phải chấp nhận lối tư duy của người khác. Như
vậy, tri thức được kiến tạo một cách tích cực bởi chủ thể nhận thức chứ không phải
được tiếp nhận một cách thụ động từ môi trường bên ngoài. Trong môi trường học
tập kiến tạo, HS được học nhiều hơn khi thực sự được cuốn hút vào việc học, thay
vì chỉ lắng nghe thụ động, nghĩa là TKT coi trọng vai trò chủ động và tích cực của
HS trong quá trình học tập để tạo nên tri thức cho bản thân, đặc biệt tư duy của HS
dần trở nên trừu tượng và phát triển hơn, HS được thúc giục để hoạt động trong
tiến trình học tập. Vai trò trung tâm của quá trình dạy học được chuyển từ GV sang
HS, GV đóng vai trò là người cố vấn, dàn xếp, nhắc nhở và giúp HS phát triển,
đánh giá những hiểu biết và việc học của mình. Cả GV và HS không chỉ xem kiến
thức là một thứ để nhớ mà còn xem kiến thức là một cấu trúc động. Quy trình dạy
học theo TKT có cấu trúc như sau:
Theo quy trình này, việc dạy một kiến thức mới không phải bắt đầu từ việc
GV thông báo kiến thức đó mà phải bắt đầu từ việc khám phá của HS về kiến thức
cần lĩnh hội. HS có cơ hội bộc lộ những quan điểm của mình, lắng nghe quan điểm
Khám phá
Câu hỏi của HS
Khảo sát cụ thể
Phản ánh Kiến tạo tri thức mới
của bạn, được tranh luận, thống nhất ý kiến. Qua lắng nghe, theo dõi những quan
điểm của HS, GV sẽ phát hiện ra nhiều yếu tố bất ngờ hoặc khác thường, GV tôn
trọng những ý kiến của HS, khuyến khích HS lựa chọn con đường đi đúng để tiếp
cận được tri thức. Kết quả của hoạt động đó, HS có được một hệ thống kiến thức
phù hợp với yêu cầu, đồng thời các em tìm ra được con đường chiếm lĩnh tri thức.
Dạy học theo mô hình trên đã chứa đựng sự thay đổi quan điểm là dạy học
phải luôn chú ý tới những tri thức và kỹ năng đã có của HS, đó là một trong những
tiền đề để tổ chức dạy học những kiến thức mới.
Kiến thức quá trình là loại kiến thức khái niệm phản ánh một chuỗi các sự
kiện, hiện tượng liên tiếp xảy ra theo một trình tự chặt chẽ, có tính định hướng rõ
rệt. Nói tới một quá trình Sinh học là nói tới các cấu trúc (thành phần), sự vận động
và tương tác của các thành phần theo một trình tự, trong điều kiện xác định. Tính
định hướng, tính tự điều chỉnh, tính thống nhất là những đặc điểm nổi bật của các
quá trình Sinh học. Các bước để dạy một quá trình Sinh học gồm:
Bước 1. Mô tả diễn biến của quá trình
Bước 2. Phân tích cơ chế của quá trình
Bước 3. Nêu ý nghĩa của quá trình
Khi mô tả diễn biến của quá trình, GV cần chú ý trình bày các sự kiện theo
đúng trình tự từ lúc khởi đầu đến lúc kết thúc, trong đó nêu rõ tính định hướng,
tính liên tục, thống nhất của quá trình xảy ra, tập trung sự chú ý của HS vào những
sự kiện cơ bản nhất, tức là những mốc quan trọng. GV nên sử dụng loại mô hình
động (mô hình thể hiện được các thành phần tham gia vào từng khâu trong quá
trình và chúng có thể biến đổi được về vị trí và hình thái) kết hợp với việc mô tả
bằng lời với sự biểu diễn bằng sơ đồ, hoặc thông qua sự biểu diễn rồi cho HS mô tả
lại bằng lời.
Với cách thức như trên, bài học diễn ra như sau: Giới thiệu khái niệm
Giảng giải Áp dụng Khám phá xa hơn.
Khi dạy kiến thức quá trình theo quan điểm kiến tạo, GV tổ chức HS tự vẽ
sơ đồ diễn biến quá trình. Qua hoạt động của HS, GV sẽ phát hiện ra những sai lầm
mà HS gặp phải, từ đó định hướng để HS khắc phục được những sai lầm đó, HS sẽ
tự khám phá được tri thức và biết được con đường để chiếm lĩnh tri thức.
Ví dụ:
4. Dạy học quá trình sinh học ở cấp độ phân tử (SH 12) theo quan điểm kiến
tạo
Trong chương trình Sinh học 12, chương “Cơ chế di truyền và biến dị”
(chương I) có những khái niệm về cấu trúc, hiện tượng di truyền và biến dị ở cấp
độ phân tử và cấp độ tế bào (gen, mã di truyền, điều hoà hoạt động của gen, đột
biến gen, nhiễm sắc thể và đột biến nhiễm sắc thể...); những khái niệm về cơ chế,
quá trình của hiện tượng di truyền và biến dị (cơ chế tự nhân đôi của ADN, cơ chế
phiên mã, cơ chế dịch mã, cơ chế phát sinh đột biến gen, cơ chế phát sinh đột biến
nhiễm sắc thể...).
Khi tìm hiểu các cơ chế tự sao, phiên mã và dịch mã, HS sẽ nắm được cơ
chế của hiện tượng di truyền ở cấp phân tử là sự kết hợp của cả 3 quá trình đó.
ADN tự sao về cơ bản là đúng nguyên mẫu, nhưng do nhiều nguyên nhân, trong
quá trình tự sao cũng có những sai sót, đó là cơ sở phân tử của hiện tượng biến dị.
Bởi vậy, HS nắm được diễn biến của các quá trình trên sẽ có điều kiện để hiểu rõ
được các hiện tượng di truyền, biến dị khác.
Chúng tôi đã nghiên cứu vận dụng thuyết kiến tạo để dạy các quá trình sinh
học ở cấp độ phân tử. Sau đây xin giới thiệu một số ví dụ về quy trình dạy một số
tổ hợp kiến thức quá trình ở cấp độ phân tử trong chương trình sinh học 12.
4.1. Dạy học diễn biến quá trình nhân đôi ADN
- Khám phá: Sau khi GV yêu cầu HS giải thích quá trình nhân đôi ADN xảy
ra ở bộ phận nào của tế bào, vào kì nào của chu kì tế bào, HS sẽ tìm hiểu về các
giai đoạn chủ yếu của quá trình này. GV vẽ một đoạn phân tử ADN (đã tháo xoắn)
lên bảng, HS phải tự hoàn thiện sơ đồ về cơ chế tự nhân đôi của ADN.
- Câu hỏi của HS: Những thành phần nào tham gia vào cơ chế tổng hợp
ADN? Các thành phần đó vận động như thế nào trong quá trình này?
- Khảo sát cụ thể: HS tìm hiểu thông tin, hình vẽ trong SGK, vẽ sơ đồ cơ chế
tự sao.
- Phản ánh: Khi vẽ sơ đồ, ở HS nảy sinh một số vấn đề sau:
+ Không thể hiện chiều đi của enzim.
+ Vẽ đoạn phân tử ADN mẹ tách hẳn 2 mạch rồi mới lắp bổ sung các nuclêôtit
(từ đầu 3' của mạch mẹ).
+ Lắp các nuclêôtit bổ sung nhầm, chẳng hạn A với G hoặc X,…
+ Ở đoạn mạch được tổng hợp từ mạch ADN mẹ có chiều 5' 3', thể hiện sự
tổng hợp mạch là liên tục.
- Kiến tạo tri thức mới: GV tổ chức thảo luận những vấn đề có liên quan tới
những tồn tại trên, HS sẽ đối chiếu với sơ đồ của mình và tự hoàn thiện sơ đồ. Qua
đó, HS không chỉ nắm vững được kiến thức về cơ chế tổng hợp ADN mà còn hình
thành được phương pháp tiếp cận được với kiến thức đó.
3. Thuyết hành vi có thể được áp dụng như thế nào trong dạy học? Đặc điểm chung của cơ chế học tập theo thuyết hành vi:
- Dạy học được định hướng theo các hành vi đặc trung có thể quan sát được
- Các quá trình học tập phức tạp được chia thành một chuỗi các bước học tập
đơn giản, trong đó bao gồm các hành vi cụ thể với trình tự được quy định
sẵn. Những hành vi phức tạp được xây dựng thông qua sự kết hợp các bước
học tập đơn giản
- Giáo viên hỗ trợ và khuyến khích hành vi đúng đắn của người học, tức là sắp
xếp việc học tập sao cho người học đạt được những hành vi mong muốn và
sẽ được phản hồi trực tiếp (khen thưởng và công nhận)
- Giáo viên thường xuyên điều chỉnh và giám sát quá trình học tập để kiểm
soát tiến bộ học tập và điều chỉnh kiệp thời những sai lầm
- Thuyết hành vi được ứng dụng đặc biệt trong dạy học chương trình hóa, dạy
học bằng máy vi tính, trong dạy học thông báo tri thức và huấn luyện thao
tác. Trong đó nguyên tắc quan trọng là phân chia nội dung học tập thành
những đơn vị kiến thức nhỏ, tổ chức cho người học lĩnh hội tri thức, kĩ năng
theo một trình tự và thường xuyên kiểm tra kết quả đầu ra để điều chỉnh quá
trình học tập
Câu 3: Mục tiêu – chuẩn kiến thức – mô hình Bloom 1. Tác dụng của mô hình Bloom là gì? Nó được sử dụng như thế nào trong dạy
học? Lịch sử ra đời và các phiên bản cho đến nay? Mỗi liện hệ giữa mục tiêu – chuẩn kiến thức và mô hình Bloom.
2. Với mỗi mức độ nhận thức trong mô hình Bloom hay giải thích và cho ví dụ cụ thể trong môn tin học?
3. Mô hình Bloom mới (phiên bản do Anderson – 1999) khác như thế nào với mô hình ban đầu? Thế nào là định lượng kiến thức? Thế nào là định lượng quá trình
nhận thức? Hãy định lượng kiến thức và quá trình nhận thức cho 3 mức nhận thức sau:
Hiểu khái niệm mảng một chiều và vai trò của nó trong lập trình Vận dụng cấu trúc rẽ nhánh
Hiểu khái niệm cơ sở dữ liệu
Mô hình Bloom mới khác ở chỗ:
1.Có phân loại cụ thể trong từng mức trong Bloom gồm có những loại nhỏ trong loại
lớn,chẳng hạn như trong mức nhớ thì gồm nhớ và biết
2.Ông có đưa từng vi dụ cụ thể để cho người đọc dễ phân biệt
3. Phiên bản phân loại tưduy phân biệt “biết cái gì” - nội dung của tư duy, và “biết như
thế nào” - tiến trình được sử dụng để giải quyết vấn đề.
Định lượng kiến thức : Định lượng kiến thức được tính bằng “biết điều gì”. Có bốn phạm trù: thực tế, khái
niệm, tiến trình, và siêu nhận thức. Kiến thức thực tế gồm những mảnh kiến thức
riêng biệt, như định nghĩa từ vựng và kiến thức về những chi tiết cụ thể. Kiến thức
thuộc về khái niệm bao hàm hệ thống thông tin, như những sự phân lọai và những
phạm trù.
Định lượng quá trình nhận thức:
Nhớ - Lấy những thông tin chính xác từ bộ nhớ
Hiểu – Tìm ra ý nghĩa từ những tài liệu giảng dạy hoặc kinh nghiệm giáo dục
Vận dụng - Sử dụng tiến trình
Phân tích – Chia khái niệm thành những phần nhỏ và chỉ ra mối liên hệ của chúng tới
tổng thể
Đánh giá – Phán xét dựa trên các tiêu chí và các chuẩn
Sáng tạo – Tạo ra cái mới từ những thông tin cũ, hoặc nhận biết những yếu tố cấu thành
của một cấu trúc mới.