lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/t007.doc · web viewtrong công cuộc...

45
LỜI MỞ ĐẦU Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng. Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn, phương pháp biện chứng... luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ một lập trường triết học đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết phù hợp với các vấn dề do cuộc sống đặt ra. Việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đó sẽ không chỉ đơn thuần là sự chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý giải nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho hoạt động. Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác. Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết học của chủ Trang 1

Upload: others

Post on 28-Dec-2019

1 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

LỜI MỞ ĐẦU

Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành

theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa

ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút

sự quan tâm của nhiều đối tượng.

Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất

cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn,

phương pháp biện chứng... luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động

thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ một lập trường triết học đúng

đắn, con người có thể có được những cách giải quyết phù hợp với các vấn dề do cuộc

sống đặt ra. Việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đó sẽ

không chỉ đơn thuần là sự chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý giải nhất

định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ

đạo cho hoạt động.

Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa

Mác. Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết học của chủ

nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính ưu việt hơn cả. Trên cơ sở

nền tảng triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng

tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn để xây dựng

và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có những khiếm khuyết

không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn, phát

triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước trong khu vực và thế

giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội và qua mười

năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt động nhận thức và cải

tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách quan trong vận hành nền kinh tế ở

nước ta là một vấn ềề còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất là trong quá trình đổi mới

Trang 1

Page 2: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

hiện nay.Vì vậy, em quyết định chọn đề tài “Lý luận nhận thức, vận dụng quan

điểm đó vào nền kinh tế Việt Nam trước và sau mười năm đổi mới đến nay”.

GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI

I, TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản, sự thay thế xã hội tư bản chủ nghĩa bằng xã

hội cộng sản chủ nghĩa trong tiến trình lịch sử của nhân loại là một quy luật khách

quan. Việt Nam hiện nay đang ở vào thời kỳ quá độ, chúng ta đã bỏ qua giai đoạn tư

bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy trong quá trình phát triển, luôn

luôn nảy sinh những mâu thuẫn cần giải quyết. Với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và

Chính phủ, chúng ta đã có những chiến lược và sách lược đúng đắn.

Trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa Mác- Lênin, đặc biệt là lý luận triết học Mác-

Lênin, chúng ta đã vạch rõ được con đường phát triển kinh tế đúng đắn đó là: ”luôn

luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hoạt động theo quy luật khách

quan.’(Trích’Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI”). Từ năm 1986, chúng ta

đã tổng kết được những bài học kinh nghiệm quý báu để đổi mới và cải cách kinh tế.

Xây dựng một nền kinh tế thị trường, một nền kinh tế nhiều thành phần, lành mạnh

chính là sự vận dụng sáng tạo quan điểm chỉ đạo của Đảng vào thực tiễn hoàn cảnh

trong nước và trên thế giới. Những quan điểm đổi mới, tiến bộ đó là sự tôn trọng hoàn

toàn những lý luận nhận thức và thực tiễn chi phối nền kinh tế.

Đứng trên quan điểm triết học Mác- Lênin, ta càng có cơ sở để khẳng định

những khởi sắc trong mười năm đổi mới cho dến nay từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI

là những thành công mang tính tất yếu do chúng ta đã vận dụng đúng đắn các quy luật

khách quan vào cải tạo thực tiễn. Chúng ta đã tôn trọng những bước phát triển có tính

quy luật của lịch sử, không đi ngược lại “guồng quay” của lịch sử.

II, MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI

Luôn luôn gắn lý thuyết với thực hành, nắm vững kiến thức thông qua sự hiểu

biết sâu rộngvấn đề là một phương châm hành động của sinh viên trong thời đại mới.

Trang 2

Page 3: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

Nghiên cứu lý luận nhận thức và thực tiễn là một sự nghiên cứu sâu rộng của triết học

trong mối liên quan với phát triển kinh tế và phát triển xã hội.

Hơn thế nữa, đứng trước ngưỡng cửa thế kỷ 21, khi mà xu thé hội nhập đang

tăng cao, nền kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ thì các hành động đều xuất phát từ

quá trình nhận thức và cải tạo thực tiễn là phương châm chỉ đạo và hoạt động của

Đảng, Nhà nước ta.

Muốn phát triển kinh tế vững mạnh thì phải luôn đặt nó với mối quan hệ với

những khoa học khác, đặc biệt là triết học. Sự thành công hay thất bại, phát triển hay

lạc hậu của bất cứ nền kinh tế nào là do có lập trường triết học đúng đắn. Bởi vì xuất

phát từ một lập trường triết học đúng đắn, con người có thể có được cách giải quyết

phù hợp với những vấn đề do cuộc sống đặt ra. Còn ngược lại, xuất phát từ một lập

trường triết học sai lầm, con ngưòi khó có thể tránh khỏi hành động sai lầm. Trong

hoạt dông kinh tế, một lập trường triết học đúng đắn là tối cần thiết. Chỉ có triết học

Mác - Lênin mới có được những tính ưu việt này.

Đối với một sinh viên ngân hàng nói riêng và những cán bộ kinh tế nói chung,

viếc nắm vững triét học với những quy luật, lý luận, phương pháp của nó là không thể

thiếu được. Vì khi giải quyết những vấn đề phức tạp cụ thể như: các cán bộ làm công

tác thực tiễn này không thể tìm thấy được ở những cán bộ thuộc lĩnh vực chuyên ngành

triết học một câu trả lời cụ thể về vấn đề đó dược, nhưng trong hoạt động thực tiễn,

những vấn đề phức tạp này lại luôn nảy sinh.

III, PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Triết học Mác - Lênin về vật chất, vận động trong không gian, thời gian và về sự

thống nhất vật chất của thế giới đã góp phần xác lập thế giới quan duy vật khoa học và

có ý nghĩa về phương pháp luận to lớn trong nhận thức khoa học và hoạt động thực

tiễn. Triết học không phải là một cái gì quá xa xôi, viển vông, ngược lại nó gắn bó hết

sức chặt chẽ với cuộc sống, thực tiễn, chỉ đạo cho con người hành động. Nắm vững

được mọi nội dung của triết học, đặc biệt là lý luận nhận thức và cải tạo thực tiễn sẽ

Trang 3

Page 4: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

làm cho con người làm chủ thế giới, chinh phục thiên nhiên, cải tạo được xã hội, phát

triển kinh tế mạnh mẽ.

Vấn đề đã nêu trong văn kiện Đại hội Đảng VI có tác dụng tích cực đối với sự

phát triển của nền kinh tế hiện nay. Sau hơn mười năm đổi mới với những thành tựu

nhất định ta càng thấy rõ sự đúng đắn và cần thiết của bài học kinh nghiệm đó. Trong

bài viết này, chỉ tập trung phân tích vấn đề lý luận nhận thức và cải tạo thực tiễn của

nền kinh tế Việt Nam trong quá trình phát triển. Cùng với sự tổng kết của đại hội Đảng

toàn quốc lần thứ VI trong văn kiện đã đánh dấu một mốc son lịch sử của Việt Nam

chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận

hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ

nghĩa. Hoạt động xây dựng kinh tế, đổi mới kinh tế những năm gần đây và mối liên hệ

của nó với thực tiễn và các quy luật triết học là trung tâm của nội dung này.

IV, CƠ SỞ LÝ LUẬN

Đại hội Đảng lần thứ VI đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình

phát triển kinh tế của Việt Nam. Trước văn kiện này, những bài học kinh nghiệm đã

được rút ra trong triết học Mác - Lênin và Đảng ta lấy đó làm “kim chỉ nam’ cho hoạt

động của mình. Triết học là một bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ

rõ; triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật. Nhưng Mác không dừng lại ở chủ

nghĩa duy vật thế kỷ XVIII mà những thiếu sót chủ yếu nhất của nó là máy móc, siêu

hình và duy tâm khi xem xét các hiện tượng xã hội. C.Mác và F.Enghen đã khắc phục

những thiếu sót ấy, đẩy triết học tiến lên hơn nữa bằng cách tiếp thu một cách có phê

phán và có chọn lọc những thành quả của triết hoc cổ điển Đức và nhất là của hệ thống

triết học Hêghen. Trong những thành quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện chứng,

tức là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức toàn diện nhất, sâu sắc nhất và thoát

hẳn được tính phiến diện. Nhưng phép biện chứng của Heeghen là phép biện chứng

duy tâm nên Mác và Enghen đã cải tạo nó. Chính trong quá trình cải tạo này, Mác và

Enghen đã gắn phép biện chứng Hêghen với thực tiễn, phát triển tiếp tục chủ nghĩa duy

vật cũ, đẩy nó lên thành chủ nghĩa duy vật bịên chứng.Vì vậy chính Mác và Enghen đã

Trang 4

Page 5: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

xây dựng một triết học mới với thế giới quan duy vật nhất quán trong việc nhận thức

xã hội. Cơ sở của những lí luận trong học thuyết đó là những quy luật khách quan và

thực tiễn xã hội (“Triết học Mác- Lênin”- Chương trình cao cấp. Tập I;Tập san triết

học).

Vậy trong quá trình xây dựng nên triết học Mác, C.Mác và Enghen đã luôn đi từ

thực tiễn và những quy luật khách quan để định hướng lý luận nghiên cứu. Những lý

luận đó vì thế có cơ sở khoa học vững chắc, không sa vào siêu hình hay nhị nguyên

luận như các nhà triết học đi trước.

Để chỉ đạo hoạt động được đúng đắn, triết học Mác- Lênin chính là nền tảng bền

vững cho mọi mục tiêu, phương hướng phát triển mọi mặt của Đảng và Nhà nước ta.

Trang 5

Page 6: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

CHƯƠNG I

MỘT SỐ KHÁI NIỆM

LIÊN QUAN ĐẾN CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

I. THỰC TIỄN

1. Khái niệm

Hoạt động con người chia làm hai lĩnh vực cơ bản. Một trong hai lĩnh vực quan

trọng đó là: hoạt động thực tiễn.

Thực tiễn: (theo quan điểm triết học Mác xít):

Là những hoạt động vật chất cảm tính, có mục đích, có tính lịch sử - xã hội của

con người nhằm cải tạo, làm biến đổi tự nhiên và xã hội.

2. Tính vật chất trong hoạt động thực tiễn

Đó là hoạt động có mục đích của xã hội, phải sử dụng những phương tiện vật

chất đề tác động tới đối tượng vật chất nhất định của tự nhiên hay xã hội, làm biến đổi

nó, tạo ra sản phẩm vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu của con người.

Chỉ có thực tiễn mới trực tiếp làm thay đổi thế giới hiện thực, mới thực sự mang

tính chất phê phán và cách mạng. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của thực tiễn, là cơ

sở đề phân biệt hoạt động thực tiễn khác với hoạt động lý luận của con người.

3. Tính chất lịch sử xã hội

Ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, hoạt động thực tiễn diễn ra là khác nhau,

thay đổi về phương thức hoạt động.

Thực tiễn là sản phẩm lịch sử toàn thế giới, thể hiện những mối quan hệ muôn

vẻ và vô tận giữa con người với giới tự nhiên và con người với con người trong quá

trình sản xuất vật chất và tinh thần, là phương thúc cơ bản của sự tồn tại xã hội của con

người.

4. Thực tiễn của con người được tiến hành dưới nhiều hình thức

Trang 6

Page 7: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

Trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới, con người tạo ra một hiện thực mới,

một ”thiên nhiên thứ hai”. Đó là thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất, những điều

kiện mới cho sự tồn tại của con người, những điều kiện này không được giới tự nhiên

mang lại dưới dạng có sẵn. Đồng thời với quá trình đó, con người cũng phát triển và

hoàn thiện bản thân mình. Chính sự cải tạo hiện thực thông qua hoạt động thực tiễn là

cơ sở của tất cả những biểu hiện khác có tính tích cực, sáng tạo của con người. Con

người không thích nghi một cách thụ động mà thông qua hoạt động của mình, tác động

một cách tích cực để biến đổi và cải tạo thế giới bên ngoài. Hoạt động đó chính là thực

tiễn.

a,Hoạt động sản xuất vật chất

Là hoạt động thực tiễn quan trọng nhất của xã hội.Thực tiễn sản xuất vật chất là

tiền đề xuất phát để hình thành những mối quan hệ đặc biệt của con người đối với thế

giới, giúp con người vượt ra khỏi khuôn khổ tồn tại của các loài vật.

b.Hoạt động chính trị xã hội

Là hoạt dộng của con người trong các lĩnh vực chính trị xã hội nhằm phát triển

và hoàn thiện các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa bàn rộng rãi cho hoạt

động sản xuất và tạo ra những môi trường xã hội xứng đáng với bản chất con người

bằng cách đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.

c. Hoạt động thực nghiệm khoa học

Là hoạt động thực tiễn đặc biệt vì con người phải tạo ra một thế giới riêng cho

thực nghiệm của khoa học tự nhiên và cả khoa học xã hội.

II, THỰC TIỄN CÓ VAI TRÒ RẤT TO LỚN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC

Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích, là tiêu

chuẩn của nhận thức.

1.Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức

Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan, bắt các

sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính và quy luật

của chúng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn luôn luôn nảy sinh các vấn đề đòi hỏi

Trang 7

Page 8: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

con người phải giải đáp và do đó nhận thức được hình thành. Như vậy, qua hoạt động

thực tiễn mà con người tự hoàn thiện và phát triển thế giới quan( tạo điều kiện cho

nhận thức cao hơn).

Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển hơn, các

giác quan ngày càng hoàn thiện hơn.

Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức.

Chính hoạt động thực tiễn đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo ra các

phương tiện hiện đại giúp con người đi sâu tìm hiểu tự nhiên.

1,Thực tiễn là động lực của nhận thức

Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Mỗi bước

phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận thức, thúc đẩy

nhận thức tiếp tục phát triển. Như vậy thực tiễn trang bị những phương tiện mới, đặt ra

những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà soát sự nhận thức. Thực tiễn lắp đi lắp lại nhiều lần,

các tài liệu thu thập được phong phú, nhiều vẻ, con người mới phân biệt được đâu là

mối quan hệ ngẫu nhiên bề ngoài, đâu là mối liên hệ bản chất, những quy luật vận

động và phát triển của sự vật.

2,Thực tiễn là mục đích của nhận thức

Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào thực tiễn.

Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân các tri thức mà là nhằm cải

tạo hiện thức khách quan, đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần xã hội. Sự hình

thành và phát triển của nhận thức là bắt nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu của thực tiễn.

Nhận thức chỉ trở về hoàn thành chức năng của mình khi nó chỉ đạo hoạt động

thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Chỉ có thông qua hoạt động

thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức mạnh của mình, sự hiểu biết của

con người mới có ý nghĩa.

3,Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức

Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó

phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại.

Trang 8

Page 9: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

4,Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý

a.Chân lý

Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan được thực tiễn khẳng

định ( nội dung khách quan, có ý nghĩa giá trị đối với đời sống con người)

Chân lý mang tính khách quan, nó không phụ thuộc vào số đông (ví dụ: chân lý

tôn giáo).

Chân lý mang tính hai mặt ( tuyệt đối và tương đối ) vì tính hai mặt trong quá

trình nhận thức của nhân loại.

b.Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tiêu chuẩn để kiểm tra chân

lý không phải là ý thức tư tưởng, tư duy mà là thực tiễn. Bởi vì chỉ có thông qua hoạt

động thực tiễn, tri thức mới trở lại tác động vào thế giới vật chất, qua đó nó được ”hiện

thực hoá”, “vật chất hơn” thành các khách thể cảm tính. Từ đó mới có căn cứ để đánh

giá nhận thức của con người đúng hay sai, có đạt tới chân lý hay không.

Thực tiễn có rất nhiều hình thức khác nhau, nên nhận thức của con người cũng được

kiểm tra thông qua rất nhiều hình thức khác nhau.

+Thực tiễn của xã hội luôn luôn vận động và phát triển.

+Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử đều có giới hạn. Nó không thể chứng

minh hay bác bỏ hoàn toàn một tri thức nào đó của con người mà nó được thực tiễn

tiếp theo chứng minh, bổ sung thêm.

Như vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng và như vậy mới có

khả năng kiểm tra một cách chính xác sự phát triển biện chứng của nhận thức.

c.Ý nghĩa:

Thực tiễn lớn nhất ở nước ta hiện nay là thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị

trường mới, nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc và chế độ xã hội mới: công bằng,

bình đẳng, tién bộ.

Trang 9

Page 10: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối, chính sách hay các giải pháp kinh tế cụ thể

muốn biết đúng hay sai đều phải thông qua vận dụng chúng trong sản xuất, kinh doanh

cũng như quản lý các quá trình đó. Đường lối chính sách cũng như các giải pháp kinh

tế chỉ đúng khi chúng mang lại hiệu quả kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao

năng suất lao động, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau những bước tiến và những thành tựu

to lớn mang lại ý nghĩa lịch sử, giờ đây lại đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Những

hoạt động nghiên cứu lý luận chính là nhằm tìm ra lời giải đáp cho những vấn đề của

giai đoạn cách mạng hiện nay. Công cuộc đổi mới ở nước ta vừa là mục tiêu, vừa là

động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động nhận thức nói chung và công tác lý luận nói

riêng, nhất định sẽ đem lại cho chúng ta những hiểu biết mới, phong phú hơn và cụ thể

hơn về mô hình chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

III. MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1. Lý luận

a. Khái niệm

Là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn. Nó phản ánh những

quy luật, của từng lĩnh vực trong hiện thực khách quan.

b. Đặc điểm

Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của xã hội nên

bất kỳ một lý luận nào cũng mang tính mục đích và ứng dụng.

Nó mang tính hệ thống cao, tổ chức có khoa học.

2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn

Được thể hiện bằng mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn. GIữa lý luận và

thực tiễn thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất đó bắt nguồn từ chỗ: chúng

đều là hoạt động của con người, đều nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội

để thoả mãn nhu cầu của con người.

a. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn

Trang 10

Page 11: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của thực tiễn. Thực

tiễn là hoạt động cơ bản nhất của con người, quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội.

Lý luận không có mục đích tự nó mà mục đích cuối cùng là phục vụ thực tiễn. Sức

sống của lý luận chính là luôn luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ cho yêu cầu của

thực tiến.

b. Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn

Ví dụ: lý luận Mác - Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp vô sản.

Sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc vào nó được

hướng dẫn bởi lý luận nào, có khoa học hay không? Sự phát triển của lý luận là do yêu

cầu của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn không tách rời lý luận, không thể thiếu

sự hướng dẫn của lý luận.

Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri thức đúng

đắn về các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan, từ đó mới có cơ sở

để định ra mục tiêu và phương pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.

Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có thể là thống

nhất hoặc mâu thuẫn đối lập.

c. Lý luận và thực tiễn là thống nhất

Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh thần tiến bộ

và còn giữ sứ mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống nhất thì chúng sẽ tăng

cường lẫn nhau và phát huy vai trò của nhau. Sự thống nhất đó là một trong những

nguyên lý căn bản của triết học Mác- Lênin.

d. Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn

Xảy ra khi giai cấp thống trị trở nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi mâu thuẫn

nảy sinh, chúng sẽ làm giảm ảnh hưởng của nhau. Điều đó dẫn đến mọi đường lối,

chính sách xã hội trở nên lạc hậu và phản động.

*Ý nghĩa:

Cần phải tăng cường, phát huy vai trò của lý luận đối với xã hội, đặc biệt là lý

luận xã hội mà quan trọng là lý luận Mác - Lênin và các lý luận về kinh tế.

Trang 11

Page 12: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

Trước chủ nghĩa Mác, trong lý luận nhận thức, phạm trù thực tiễn hầu như

không có chỗ đứng nào. Nhiều người còn hình dung thực tiễn với bộ mặt xấu xí của

con buôn (Phơ-Bách). Trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”,

sau khi phê phán E. Ma Khơ và một số ngươi khác đã ”cố gạt thực tiễn ra khỏi lý luận

nhận thức, coi thực tiễn như một cái gì không đáng nghiên cứu về mặt nhận thức luận,

đã ”đem cái tiêu chuẩn thực tiễn là cái giúp cho mỗi người phân biệt được ảo tưởng với

hiện thực đặt ra ngoài giới hạn của khoa học, của lý luận nhận thức... để dọn chỗ cho

chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri”.

V.I.Lênin đã khẳng định: quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm

thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức. (“V.I.Lênin toàn tập” – 1980)

Chính vì sự quan trọng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn nên đối với

nước ta trong giai đoạn này cần đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và hoạt động. Hiện

nay, nước ta đang tiến hành đổi mới một cách toàn diện các mặt của đời sống xã hội,

mà trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm. Đổi mới từ nền kinh tế tập trung quan liêu

sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một vấn đề hết sức mới mẻ

chưa có lời giải đáp sẵn. Và chúng ta cũng không bao giờ có thể có một lời giải sẵn sau

đó mới đi vào tiến hành đổi mới. Quá trình đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế nói

riêng và việc nhận thức quá trình đổi mới đó không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn

nhau cùng phát triển.

Vậy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ thực tế khách

quan, phải lấy hiện thực khách quan làm cơ sở cho hoạt động của mình. Gắn lý luận

vào thực tiễn để hoạt động trở nên khoa học, có cơ sở vững chắc. Tinh thần ấy chính là

vấn đề cần nghiên cứu trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI.

e. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ

nghĩa Mác- Lênin.

Thực tiễn không có lý luận hướng đẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà

không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Vì vậy cho nên trong khi nhấn mạnh sự

quan trọng của lý luận, đã nhiều lần Lênin nhắc đi nhắc lại rằng lý luận cách mạng

Trang 12

Page 13: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nang cho hành động cách mạng, và lý luận

không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo. Lý luận luôn luôn cần được

bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động. Những người

cộng sản các nước phải cụ thể hoá chủ nghĩa Mác _ Lênin cho thích hợp với điều kiện,

hoàn cảnh từng lúc và từng nơi (“Hồ Chí Minh: toàn tập”-1996)

*Con đường biện chứng của sự nhận thức:

Nhận thức của con người diễn ra trên cơ sở thực tiễn và không ngừng vận động,

phát triển. Sự vận động và phát triển của nhận thức diễn ra một cách biện chứng:

- “Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng và từ tư duy trìu tượng đến thực

tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại

khách quan”.

+Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá trình

nhận thức, được hình thành trong quá trình thực tiễn.Giai đoạn này được hình thành

thông qua các hình thức cơ bản nối tiếp nhau: cảm giác, tri giác, biểu tượng...

+Tư duy trì tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận

thức dựa trên cơ sở những tài liệu do giai đoạn trực quan sinh động mang lại.

- Nhận thức của con người phát triển đến giai đoạn tư duy trìu tượng chưa phải

là chấm dứt, mà nó lại tiếp tục vận động trở về với thực tiễn. Nhận thức phải trở về với

thực tiễn vì:

+ Mục đích của nhận thức là phục vụ hoạt động thực tiễn. Vì vậy nó phải trở về

chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.

+Đến giai đoạn tư duy trìu tượng vẫn có khả năng phản ánh sai lạc hiện thực. Vì

vậy, nhận thức phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra kết quả nhận thức, phân biệt đâu

là nhận thức đúng, đâu là nhận thức sai lầm.

+Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển. Vì vậy nhận thức phải trở về với thực

tiễn để trên cơ sở thực tiễn mới tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức.

- Từ trực quan sinh động dến tư duy trìu tượng, và từ tư duy trìu tượng đến thực

tiễn là một vòng khâu của quá trình nhận thức. Nó cứ lặp đi lặp lại làm cho nhận thức

Trang 13

Page 14: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

của con người phát triển không ngừng, ngày càng phản ánh sâu sắc bản chất, quy luật

của thế giới khách quan.

CHƯƠNG II

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM

I,VỊ TRÍ ĐỊA LÝ

-Việt Nam nằm ở phía đông của bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông

Nam Á, có một vùng biển rộng, giàu tiềm năng.

-Vị trí tiếp giáp trên đất liền và trên biển tạo điều kiện cho nước ta có thể dễ

dàng giao lưu với các nước trên thế giới.

+Trên đất liền, nước ta giáp Trung Quốc, Lào, Campuchia. Thông qua các tuyến

giao thông (đường bộ, đường sắt...) với các cửa khẩu quan trọng, Việt Nam có thể liên

hệ với nhiều nước trên thế giới.

+ Nước ta nằm gần các tuyến đường biển quốc tế. Thông qua đường biển, có thể

quan hệ với nhiều quốc gia.

+Vùng biển rộng lớn, giàu tiềm năng cho phép phát triển kinh tế biển.

-Việt Nam là nơi giao thoa của các nền văn hoá khác nhau. Điều đó góp phần

làm giàu bản sắc văn hoá.

-Việt Nam nằm ở khu vực đang diễn ra những hoạt động kinh tế sôi động của

thế giới. Từ đó cho phép nước ta có thể dễ dàng hội nhập với các nước trong khu vực

và trên thế giới. Ta có thể tiếp thu và chọn lọc những bài học, kinh nghiệm thành công

cũng như thất bại về phát triển kinh tế của các nước và vận dụng vào điều kiện, hoàn

cảnh cụ thể của nước ta.

Trang 14

Page 15: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

II, QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM

1.Tình hình:

- Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước xã

hội chủ nghĩa lúc đó, nước ta bắt đầu xây dựng một mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập

trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức sản xuất và

dịch vụ quốc doanh được phát triển. Cùng với quốc doanh, hợp tác xã được tổ chức

rộng rãi ở nông thôn và thành thị. Với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể, sở hữu

tư nhân bị thu hẹp lại, không còn cơ sở cho tư nhân phát triển. Cùng với quốc doanh,

hợp tác xã được tổ chức rộng rãi vì ta đã học tập được mô hình tổ chức kinh tế của

Liên Xô cũ. Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ tận tình của các

nước xã hội chủ nghĩa lúc đó, mô hình kế hoạch hoá tập trung đã phát huy được những

tính ưu việt đó.

- Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán và manh mún, bằng công cụ

kế hoạch hóa, ta đã tập trung được vào trong tay một lực lượng vật chất quan trọng về

cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng thành thị và nông thôn, đất đai, máy móc, tiền

vốn để ổn định và phát triển kinh tế.

Vào những năm sau của thập niên 60, ở Miền Bắc đã có những chuyền biến về

kinh tế, xã hội. Trong thời kỳ đầu, nền kinh tế tập trung bao cấp đã tỏ ra phù hợp với

nền kinh tế tự cung, tự cấp, phù hợp với điều kiện hai nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu

trong chiến tranh lúc đó.

- Năm 1975, sau ngày giải phóng miền Nam, một bức tranh mới về hiện trạng

kinh tế Việt Nam đã thay đổi. Đó là sự duy trì một nền kinh tế tồn tại cả ba loại hình:

+Kinh tế cổ truyền (tự cung tự cấp)

+Kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp (ở miền Bắc)

+Kinh tế thị trường (đặc trưng ở miền Nam).

Trang 15

Page 16: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

Mặc dù đây là một tồn tại khách quan sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp tục

xây dựng nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trên phạm vi cả nước. Đó là

sự áp đặt rất bất lợi.

2. Hậu quả:

Do chủ quan nóng vội, cứng nhắc, chúng ta đã không quản lý được hiệu quả các

nguồn lực dẫn tới việc sử dụng lãng phí nghiêm trọng các nguồn lực của đất nước.

- Tài nguyên bị phá hoại, sử dụng khai thác không hợp lý, môi trường bị ô

nhiễm.

- Nhà nước bao cấp và tiến hành bù lỗ phổ biến gây hậu quả nghiệm trọng cho

nền kinh tế.

+ Sự tăng trưởng kinh tế chậm lại, tăng trưởng kinh tế trên lý thuyết, giấy tờ.

+Hàng hoá, sản phẩm trở nên khan hiếm, không đáp ứng được nhu cầu trong

nước.

+Ngân sách thâm hụt nặng nề. Vốn nợ đọng nước ngoài ngày càng tăng và

không có khả năng cho chi trả.

+Thu nhập từ nền kinh tế quốc dân không đủ chi dùng, tích luỹ hầu như không

có.

+Vốn đầu tư cho sản xuất và xây dựng chủ yếu là dựa vào vay và viện trợ nước

ngoài.

- Cùng với đó là sự thoái hoá về mặt con người và xã hội.

- Đến năm 1979, nền kinh tế rất suy yếu, sản xuất trì trệ, đời sống nhân dân khó

khăn, nguồn trợ giúp từ bên ngoài giảm mạnh.

- Từ năm 1975 đến năm 1985, các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, cá thể bị

tiêu diệt hoặc không còn điều kiện phát triển dẫn đến thực trạng tiềm năng to lớn của

các thành phần kinh tế này không được khai thác và phục vụ cho mục tiêu chung của

nền kinh tế. Ngược lại, thành phần kinh tế quốc doanh đã phát triển ồ ạt, tràn lan trên

mọi lĩnh vực trở thành địa vị đọc tôn trong hầu hết các ngành công nghiệp, xây dựng,

Trang 16

Page 17: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

dịch vụ (trừ ngành nông nghiệp, thành phần kinh tế tập thể là chủ yếu).Thời điểm cao

nhất, thànhphần kinh tế quốc doanhđã cõ gần 13 nghìn doanh nghiệp với số tài sản cố

định chiếm 70% tổng số tài sản cố định của nền kinh tế. Thời kỳ này, kinh tế nước ta

tuy có đạt được tốc độ tăng trưởng nhất định nhưng sự tăng trưởng đó không có cơ sở

để phát triển vì đã dựa vào điều kiện bao cấp, bội chi ngân sách, lạm phát và vay nợ

nước ngoài.

- Do phát triển tràn lan lại quản lý theo cơ chế bao cấp, kế hoạch hoá tập trung

nên nhà nước gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý, điều hành các doanh nghiệp quốc

doanh, nhiều doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, lực lượng sản xuất không được

giải phóng, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng và tụt hậu.

3.Nguyên nhân

Trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ

cấu kinh tế nhiều thành phần còn tồn tại trong thời gian tương đối dài, chưa nắm vững

và vận dụng đúng lý luận và thực tiễn vào tinh hình nước ta.

Đến năm 1986, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp về căn bản vẫn chưa bị xoá

bỏ. Cơ chế mới chưa được thiết lập đồng bộ, nhiều chính sách, thể chế lỗi thời chưa

được thay đổi. Tình trạng tập trung quan liêu còn nặng, đồng thời những hiện tượng vô

tổ chức, vô kỷ luật còn khá phổ biến.

Việc đổi mới cơ chế và bộ máy quản lý, việc điều hành không nhạy bén, là

những nguyên nhân quan trọng dẫn tới hành động không thống nhất từ trên xuống

dưới.

Chúng ta mới nêu ra được phương hướng chủ yếu của cơ chế mới, hình thức,

bước đi, cách làm cụ thể thì còn nhiều vấn đề chưa giải quyết được thoả đáng cả về lý

luận và thực tiễn.

4. Tư tưởng chỉ đạo

Ta đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận trong thời kỳ quá độ:”Khuynh

hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy,đặc biệt là những chính sách kinh tế là

bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo

Trang 17

Page 18: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

nguyện vọng chủ quan” (Đảng công sản Việt nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VI-1986). Chúng ta đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế,

chưa thừa nhận thật sự những quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan.

Chúng ta đã ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách quá mức mà hiệu quả

kinh tế phát triển chậm. Hơn thế nữa, ta chưa chú ý đúng mức tới sản xuất nông nghiệp

và sản xuất hàng tiêu dùng nên đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.

- Bên cạnh đó, sự tan rã của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa vào những năm

cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 làm cho chúng ta mất đi một thị trường truyền thống,

nguồn viện trợ quan trọng, gây nhiều khó khăn đối với sản xuất và đời sống.

- Chính sách cấm vận của Hoa Kỳ kéo dài, sự thù địch của các thế lực phản động

cũng có tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Tất cả những nguyên nhân trên cộng với thiên tai, mất mùa liên tiếp vào những

năm 1979 - 1980 đã đưa nước ta vào tình trạng khủng hoảng, công nghiệp chỉ tăng

0,6%, nông nghiệp tăng 1,9% trong khi lạm phát ở mức siêu cấp năm 1986 : 74%

Chính vì vậy, bài học kinh nghiệm được rút ra trong “ Văn kiện Đại hội Đại biểu

toàn quốc lần thứ VI về phát triển kinh tế phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hoạt

động theo quy luật khách quan là hoàn toàn đúng đắn. Chính từ những khó khăn trên

đòi hỏi phải đổi mới nền kinh tế, xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh

dấu một mốc phát triển quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước.

III. BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT TÌNH HÌNH ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Để khắc phục khuyết điểm, chuyển biến được tình hình, Đảng ta trước hết phải

thay đổi nhận thức , đổi mới tư duy. Phải nhận thức và hành động đúng đắn, đề ra

những chủ trương, chính sách phù hợp với hệ thống quy luật khách quan, trong đó các

quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội ngày càng chi phối mạnh mẽ phương hướng phát

triển chung của xã hội. Mọi chủ trương, chính sách, biện pháp kinh tế gây tác động

ngược lại đều biểu hiện sự vận dụng không đúng quy luật khách quan, phải được sửa

đổi hoặc huỷ bỏ.

Trang 18

Page 19: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

- Trên cơ sở đó, chúng ta phải vận dụng tổng hợp hệ thống các quy luật đang tác

động lên nền kinh tế. Trong hệ thống các quy luật đó, quy luật kinh tế cơ bản cùng với

các quy luật đặc thù khác của chủ nghĩa xã hội ngày càng phát huy vai trò chủ đạo,

được vận dụng trong một thể thống nhất với các quy luật của sản xuất hàng hoá, đặc

biệt là quy luật giá trị, quy luật cùng cầu, quy luật cạnh tranh... Kế hoạch hoá phải luôn

luôn gắn liền với việc sử dụng các đòn bảy kinh tế.

- Đại hội đảng lần thứ VI có ý nghĩa đặc biệt quan trọng . Những quan điểm,

đường lối do Đại hội VI vạch ra là sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác

Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của đất nước . Công cuộc đổi mới của

Đảng từ sau Đại hội VI đến nay ở nước ta không nằm ngoài những quy luật phổ biến

của phép biện chứng, Đảng ta đã vận dụng phép biện chứng vào nhận thức hiện thực

xã hội, phân tích các mối liên hệ biện chứng của đời sống hiện thực, tìm ra các mâu

thuẫn đó và tạo ra động lực mạnh mẽ cho quá trình đổi mới vững chắc.

Vì trước đây, nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế, xã hội với nhiều khó khăn

phức tạp, gay gắt, lạm phát phi mã do tư duy lý luận bị lạc hậu, giữa lý luận và thực

tiễn có khoảng cách xa. Tư duy cũ về chủ nghĩa xã hội theo mô hình tập trung quan

liêu bao cấp đã cản trở sự phát triển của thực tiễn sản xuất. Bị chi phối bởi quy luật

mâu thuẫn khách quan nên để giải quyết mâu thuẫn đó Đảng ta đã tiến hành đổi mới và

cải cách kinh tế.

- Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất. Để làm đủ

ăn và có tích luỹ, phải ra sức phát triển sản xuất, xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý,

trước hết là cơ cấu các ngành kinh tế phù hợp với tính quy luật về sự phát triển các

ngành sản xuất vật chất, phù hợp với sự phân công lao động và hợp tác quốc tế. Cơ cấu

kinh tế đó đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối với nhịp độ tăng trưởng ổn định.

Phải thông qua việc sắp xếp lại sản xuất, đi đôi với việc xây dựng thêm cơ cấu kinh tế

hợp lý.

- Hướng vào việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu

dùng, xuất khẩu.

Trang 19

Page 20: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

- Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất

và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ

nghĩa bao gồm cả khu vực quốc doanh, tập thể. Bằng các biện pháp thích hợp, sử dụng

mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ

đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. giải pháp đó xuất phát từ thực tế của nước

ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là

một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ

chế kế hoạch hoá theo phương thức hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng

nguyên tắc tập trung dân chủ.

- Tiến hành phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ, chống tập trung

quan liêu, chống tự do vô tổ chức. Bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, tự chủ

tài chính của các đơn vị kinh tế cơ sở, quyền làm chủ của các tập thể lao động.

Trang 20

Page 21: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

CHƯƠNG III

ÁP DỤNG LÝ LUẬN THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI HIỆN

NAY

Việc Đảng ta tổng kết những bài học ở Đại hội VI, lần đầu tiên chỉ rõ sai lầm

chủ quan, duy ý chí, coi thường các quy luật khách quan dẫn tới làm sai, làm hỏng và

phải sửa chữa trong các chính sách xây dựng kinh tế, phát triền văn hoá có ý nghĩa tự

giải phóng và mở đường cho sự phát triển mới rất to lớn.

Trên thực tế, đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo có một sự tương đồng

về hoàn cảnh, nội dung và ý nghĩa như”Chính sách kinh tế mới của Lênin”

(NEP). Với đổi mới, quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã

hội của Đảng ta đã ngày được xác định rõ hơn. Nó thấm nhuần quan điểm lịch sử cụ

thể, quan điểm thực tiễn và quan điểm phát triển.

I. LÝ LUẬN VỀ THỰC TIỄN TRONG SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH

TẾ VÀ ĐỔI MỚI KINH TẾ HIỆN NAY.

Công cuộc đổi mới chính thức bắt đầu từ việc Đảng ta thừa nhận và cho phép

phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là

một tất yếu khách quan khi ở vào thời kỳ quá độ như ở nước ta hiện nay. Phải dung

hoà và tồn tại nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu do lịch sử để lại song đưa chúng

cùng tồn tại và phát triển mới là một vấn đề nan giải, khó khăn. Bên cạnh việc thừa

nhận sự tồn tại của kinh tế tư bản tư nhân, đương nhiên phải thường xuyên đấu tranh

với xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa và những mặt tiêu cực trong các thành phần

kinh tế, giải quyết mâu thuẫn tồn tại trong sản xuất giữa chúng để cùng phát triển.

Sự nghiệp đổi mới ở nước ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức. Đó là bài

học về quán triệt quan điểm thực tiễn - nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,

quan điểm cơ bản và hàng đầu của triết học Mác xít. Sự nghiệp đổi mới với tính chất

mới mẻ và khó khăn của nó đòi hỏi phải có lý luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về

lý luận phải trở thành tiền đề và điều kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt

Trang 21

Page 22: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

động thức tiễn. Tuy nhiên, lý luận không bỗng nhiên mà có và cũng không thể chờ

chuẩn bị xong xuôi về lý luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn nữa, thực tiễn lại là cơ sở

để nhận thức, của lý luận. Phải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm, mới có cơ sở đề

khái quát thành lý luận.

Vì vậy, quá trình đổi mới ở nước ta chính là quá trình vừa học vừa làm, vừa làm

vừa tổng kết lý luận, đúc rút thành quan điểm, thành đường lối để rồi quay trở lại quá

trình đổi mới. Có những điều chúng ta phải mò mẫm trong thực tiễn, phải trải qua thể

nghiệm, phải làm rồi mới biết, thậm chí có nhiều điều phải chờ thực tiễn. Ví dụ như

vấn đè chống lạm phát, vấn đề khoán trong nông nghiệp, vấn đề phân phối sản phẩm...

Trong quá trình đó, tất nhiên sẽ không tránh khỏi việc phải trả giá cho những khuyết

điểm, lệch lạc nhất định.

Ở đây, việc bám sát thực tiễn, phát huy óc sáng tạo của cán bộ và nhân dân là rất

quan trọng. Trên cơ sở, phương hướng chiến lược đúng, hãy làm rồi thực tiễn sẽ cho ta

hiểu rõ sự vật hơn nữa - đó là bài học không chỉ của sự nghiệp kháng chiến chống

ngoại xâm mà còn là bài học của sự nghiệp đổi mới vừa qua và hiện nay.

Trong khi đề cao vai trò của thực tiễn, Đảng ta không hề hạ thấp, không hề coi

nhẹ lý luận. Quá trình đổi mới là quá trình Đảng ta không ngừng nâng cao trình độ lý

luận của mình, cố gắng phát triển lý luận, đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội

và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó được thể hiện qua năm bước

chuyển của đổi mới tư duy phù hợp với sự vận động của thực tiễn cuộc sống trong

những hoàn cảnh và điều kiện mới

1. Bước chuyển thứ nhất:

Từ tư duy, dựa trên mô hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối hoá sở hữu xã hội

(Nhà nước và tập thể) với sự phát triển vượt trước của quan hệ sản xuất đối với sự phát

triền của lực lượng sản xuất dẫn tới hậu quả kìm hãm sự phát triển sản xuất... sang tư

duy mới. Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước

giữ vai trò chủ đạo trong sự thống nhất biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở

Trang 22

Page 23: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

hữu, đa dạng các hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động làm đặc trưng chủ

yếu nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển.

Đây chính là bước chuyển căn bản mà có ý nghĩa sâu xa vì nó là tôn trọng quy

luật khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất; tuỳ thuộc

vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà từng bước thiết lập quan hệ sản xuất

cho phù hợp .

2. Bước chuyển thứ hai:

Từ tư duy quản lý dựa trên mô hình một nền kinh tế chỉ huy tập trung, kế hoạch

hoá tuyệt đối với cơ chế bao cấp và bình quân sang tư duy quản lý mới thích ứng với

nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý

của Nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa

3. Bước chuyển thứ ba:

Đó là tiến hành đổi mới hệ thống chính trị, từ chế độ tập trung quan liêu với

phương thức quản lý hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hoá các lĩnh vực của đời

sống xã hội, thực hiện dân chủ toàn diện.

4. Bước chuyển thứ tư:

Đổi mới quan niệm về sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội ở một

nước phải xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lê nin trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể

của nước đó. Và đây cũng chính là tính khách quan, là cơ sở khách quan quy định nhận

thức và những tìm tòi sáng tạo của chủ thể lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã

hội. Nó cũng đồng thời một lần nữa làm sáng tỏ quan điểm thực tiễn chi phối sự hoạch

định đường lối chính sách.

5. Bước chuyển thứ năm:

Đó là sự hình thành quan niệm mới của Đảng ta về Chủ nghĩa Xã hội những

nhận thức mới về nhân tố con người.

Sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lê nin là ở chỗ trong khi khái quát thực tiễn cách

mạng, lịch sử xã hội, nó vạch rõ quy luật khách quan của sự phát triển, dự kiến những

khuynh hướng cơ bản của sự tiến hoá xã hội. Trong giai đoạn hiện nay của sự nghiệp

Trang 23

Page 24: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

xây dựng kinh tế xã hội đòi hỏi phải nắm vững và vận dụng sáng tạo và góp phần phát

triển chủ nghĩa Mác - Lênin. Để khắc phục những quan niệm lạc hậu trước đây cần

chúng ta phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết có hệ thống sự nghiệp

xây dựng chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới. Có như vậy, lý luận mới thực

hiện vai trò tích cực của mình đối với thực tiễn.

Đổi mới nhận thức lý luận và công tác lý luận là một quá trình phức tạp, đòi hỏi

phải đấu tranh với tính bảo thủ và sức ỳ của những quan niệm lý luận cũ. đồng thời,

đấu tranh với những tư tưởng, quan niệm cực đoan từ bỏ những nguyên tắc cơ bản của

chủ nghĩa Mác - Lê nin, phủ định sạch trơn mọi giá trị, mọi thành tựu của chủ nghĩa xã

hội.

Tóm lại đổi mới tư duy chỉ đạo trong sự nghiệp đổi mới nói chung là một bộ

phận không thể thiếu được của sự phát triển xã hội cũng như sự phát triển kinh tế xã

hội nước ta hiện nay. Điều đó còn cho thấy rằng chỉ có gắn lý luận với thực tiễn mới có

thể hành động đúng đắn và phù hợp với quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay. Sự khám

phá về lý luận phải trở thành tiền đề và làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thực

tiễn. Thực tiễn chính là động lực, là cơ sở của nhận thức, lý luận. Vì vậy cần khắc phục

ngay những khiếm khuyết sai lầm song cũng phải tìm ra giải pháp khắc phục để hạn

chế sự sai sót và thiệt hại.

II. Ý NGHĨA THỰC TIỄN :

Đảng cộng sản Việt Nam, trước sau như một, vẫn khẳng định mục tiêu chủ

nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam . Nhưng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã

hội ở nước ta đã xuất hiện bệnh chủ quan duy ý chí. Đại Hội VII Đảng cộng sản Việt

Nam đã khẳng định: Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng

nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xây dựng mục tiêu và phương hướng xã hội

chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách

quan nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành

phần, duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp... Quán triệt

Trang 24

Page 25: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

nguyên tắc khách quan, khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí là nhiệm vụ của toàn

Đảng, toàn dân.

Bản thân sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ mới mẻ, khó

khăn, phức tạp đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan và tính năng

động chủ quan. Vì thế phải kết hợp chặt chẽ giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa

học bởi tri thức khoa học có được hay không là nhờ ở lòng ham hiểu biết, trí thông

minh, ý chí ngược lại nếu tri thức khoa học phát huy được tác dụng trong thực tiễn thì

nó lại trở thành động lực tăng thêm tri thức, nhận thức. Sự kết hợp xuất phát từ thực tế

khách quan và phát huy nỗ lực chủ quan không những đem lại hiệu quả cao trong sự

phát triển nhận thức mà còn giúp cho lý luận không bao giờ xa rời thực tiễn cuộc sống.

Nắm bắt và vận dụng được có hiệu quả các quy luật tất yếu khách quan để hoạt

động và đem nó vào thực tiễn để kiểm nghiệm là một phương tâm chủ đạo trong công

cuộc đổi mới hiện nay. Chỉ có dám nghĩ, dám làm kết hợp với tri thức khoa học được

trang bị, chúng ta mới thành công được. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, nắm bắt quy

luật kinh tế, quy luật sản xuất lại càng cần thiết để cải tạo thực tiễn, tạo ra phương

hướng`và mục tiêu đúng đắn phát triển đi lên. Chỉ có thế nước ta mới theo kịp được

trình độ phát triển kinh tế chung của khu vực và trên thế giới. Trong xu thế hội nhập

toàn cầu hoá hiện nay, những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước xuất phát từ

thực tiễn tình hình đất nước đáng phát huy mạnh mẽ tính ưu việt của nó.

III, ĐỀ XUẤT NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHO TƯƠNG LAI:

Tương lai đất nước nằm trong tay mỗi sinh viên chúng ta, việc cải tạo nó, biến

đổi nó làm cho nó ngày càng đẹp đẽ hơn là nhiệm vụ của bất cứ người dân nào. Hiện

nay, Việt Nam còn là một nước đứng vào hàng những nước nghèo trên thế giới, việc

đưa nước ta thoát khỏi tình trạng này đòi hỏi sự nỗ lực hết mình của mỗi người đặc

biệt là phát triển kinh tế . Mục tiêu của chúng ta là phát triển kinh tế đi kèm với công

bằng và tiến bộ xã hội. Vì vậy, cần đẩy mạnh hơn nữa công cuộc công nghiệp hoá,

hiện đại hoá, đổi mới một cách toàn diện mọi lĩnh vực. Sự đổi mới này phải đồng bộ,

tuân theo quá trình nhận thức và tình hình thực tiễn đất nước. Phát triển một nền kinh

Trang 25

Page 26: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường nhưng phải dưới sự quản lý của

Nhà nước là theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì những mục tiêu trên đây, cần thiết

phải có một số giải pháp cho phát triển kinh tế tương lai.

- Tập trung phát triển kinh tế về chất và lượng. Đầu tư có trọng điểm cho nông

nghiệp, phát triển hình thức nông trại sản xuất của tư nhân hoặc tổ chức nhỏ. Tạo

nguồn vốn cho công nghiệp nhẹ, hiện đại hoá dây chuyền thiết bị. Phát triển mạnh

công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm đưa công nghệ thông tin vào đời sống sản

xuất.

- Tăng nhanh khả năng và tiềm lực tài chính cho đất nước bằng các đầu tư cho

xuất khẩu thu lợi nhuận cao và nguồn vốn nhanh. Phát triển công tác thu và nộp thuế,

phổ biến bằng mọi phương tiện thông tin đại chúng. Phát hành trái phiếu Nhà nước

theo định kỳ, làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia.

- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, gọi vốn đầu tư nước ngoài

bằng cách mở rộng, nới lỏng chính sách về đầu tư, hệ thống hoá luật đầu tư nước

ngoài, tạo cơ sở kinh tế thuận lợi và những dự án nhiều tiềm năng.

- Giải quyết tốt mọi vấn đề kinh tế xã hội như vấn đề tạo việc làm. Có thể phát

triển nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ ở cả nông thôn và thành thị để thu hút lao động.

Sắp xếp lại các xí nghiệp quốc doanh, tạo cơ hội cạnh tranh lành mạnh trên thị trường

và nhà nước bảo hộ sản xuất trong nước ở một bộ phận nào đó .

- Cần đề ra những mục tiêu cho mười, hai mươi năm tới . Những chính sách,

chủ trương lớn phù hợp với thực tiện hoàn cảnh đất nước và xu thế phát triển của thế

giới. Điều hành đúng, có tổ chức cao và chặt chẽ nền kinh tế thị trường, chống mọi

biểu hiện nhận thức sai lầm, lệch lạc làm đi không đúng con đường đã chọn. Vận dụng

các quy luật khách quan trong việc chỉ đạo, tổ chức đề ra những phương hướng, giải

pháp kinh tế táo bạo, có cơ sở vứng chắc.

- Nhà nước tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển bình đẳng, hỗ

trợ vốn cho người nghèo không lấy lãi.

Trang 26

Page 27: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

- Hạ trần lãi suất tiết kiệm để kích cầu, tiêu thụ trên thị trường mới tăng mạnh,

sản xuất trong nước mới có nhiều điều kiện cạnh tranh, phát triển.

- Tạo nguồn cán bộ kinh tế tương lai với những tri thức khoa học và lý luận

vững chắc. Gắn đào tạo với thực hành, đầu tư thiết bị quản lý kinh tế hiện đại để giảng

dạy và thực hành trong các trường kinh tế, xã hội hoá giáo dục và đào tạo .

Trang 27

Page 28: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

KẾT LUẬN

Những bước phát triển gì nữa sẽ đặt ra cho nền kinh tế Việt Nam trước thềm

thiên niên kỷ mới? Đổi mới kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải chăng vẫn

chưa đáp ứng được nhu cầu thời đại ? Tất nhiên, những câu trả lời cho vấn đề ấy còn

đang nằm ở phía trước. Song chắc chắn, với con đường đi đúng đắn và sự lựa chọn

quyết đoán của Đảng và Nhà nước, chúng ta sẽ gặt hái được rất nhiều thành tựu mới.

Nhà nước sử dụng các đòn bẩy kinh tế trong kế hoạch hoá trực tiếp và kế hoach hóa

gián tiếp để đảm bảo thực hiện những phương hướng, mục tiêu của kế hoạch kinh tế

quốc dân. Trước thực tế của quá trình phát triển kinh tế Việt Nam từ sau cách mạng

Tháng Tám, một lần nữa ta lại càng cần khẳng định vai trò không thể thiếu được của

quá trình lý luận nhận thức và các chính sách, chủ trương xuất phát từ thực tiễn chi

phối nền kinh tế. Khi đi đúng vào tiến trình lịch sử của nhân loại, tất yếu chúng ta sẽ

không bị lạc hậu, tụt lùi mà ngày càng có vị thế, phát triển mạnh mẽ hơn. Hy vọng chỉ

một thời gian không lâu nữa nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển vượt bậc, phát triển có

cơ sở vững chắc, đứng vào vị trí những nước có nền kinh tế tăng trưởng mạnh trên thế

giới.

Trang 28

Page 29: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Giáo trình triết học Mác - Lênin (I,II)

2.Triết học Mác - Lênin - Chương trình cao cấp (I,II,III)

3. Kinh tế chính trị Mác - Lênin ( Phần kinh tế xã hội chủ nghĩa )

4. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức VI của Đảng cộng sản Việt Nam.

5. Tạp chí: nghiên cứu lý luận

6. Tạp chí triết học

7. Địa lý Việt Nam

8. C.Mác - F.Engghen - tuyển tập - 1981

9. Hồ Chí Minh - tuyển tập - 1996

10. V.I.Lênin-toàn tập – 1980

Trang 29

Page 30: lêi më ®Çulinktailieu.com/wp-content/uploads/2019/04/T007.doc · Web viewTrong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo

MỤC LỤC

Trang

LỜI NÓI ĐẦU 1

GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI 2CHƯƠNG I:MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

5

I. Thực tiễn 5II. Thực tiễn có vai trò quan trọng đối với quá trình nhận thức 6III. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn 8CHƯƠNG II: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM

12

I. Vị trí địa lý 12II. Quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam 12III. Biện pháp giải quyết tình hình để phát triển kinh tế 15CHƯƠNG III:ÁP DỤNG LÝ LUẬN THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI HIỆN NAY

18

I.Lý luận thực tiễn trong sự nghiệp phát triển kinh tế và đổi mới hiện nay

18

II.Ý nghĩa thực tiễn 21III. Đề xuất nhiệm vụ và giải pháp cho tương lai 21KẾT LUẬN 24TÀI LIỆU THAM KHẢO 25MỤC LỤC 26

Trang 30