lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh...
TRANSCRIPT
Mở đầu
Tăng trưởng kinh tế và lạm phát là hai vấn đề lớn cơ bản của kinh tế vĩ mô lạm
phát và tăng trưởng kinh tế có một quan hệ chế ước lẫn nhau và lạm phát chỉ có thể ở
một mức nhất định mới phù hợp cho tăng trưởng kinh tế. Có thể nói, trong rất nhiều
các nhân tố ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế thì lạm phát giữ một vai trò rất to
lớn.Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp và ở mọi giai đoạn phát triển kinh tế,
các lý thuyết về lạm phát và tăng trưởng kinh tế đều đúng tuyệt đối. Lạm phát trong
trường hợp cụ thể sẽ có ảnh hưởng ở những mức độ và khía cạnh khác nhau. Do vậy,
việc xem xét kỹ vấn đề lạm phát và sự ảnh hưởng của lạm phát trong điều kiện cụ thể
của quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam được đặt ra bức xúc, từ đó có những biện
pháp kịp thời kiểm soát lạm phát để đảm bảo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong
những chặng đường tiếp theo.
Từ những lý do trên, nhận thấy tầm quan trọng và cấp bách của vấn đề trong
khuôn khổ của bài tập lớn môn học, tôi muốn đi sâu, tìm hiểu một khía cạnh trong vấn
đề lạm phát ở Việt Nam với đề tài:“Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng
trưởng kinh tế.
Phần 1: Lý luận chung về lạm phát.
1. Khái niệm
Lạm phát gần như là một bệnh kinh niên trong nền sản xuất hàng hoá. Có nhiều
nhà kinh tế đã đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ này. Nhưng nói chung chưa
có một sự thống nhất hoàn toàn.
Biểu hiện của sự lạm phát đó là sự tăng giá của các loại hàng hoá (cả tư liệu tiêu
dùng lẫn tư liệu sản xuất, cả hàng hoá sức lao động). Lạm phát xảy ra khi mức chung
của giá cả và các loai chi phí sản xuất tăng lên.
Lạm phát đã tồn tại lâu đời trong nền kinh tế thị trường. Trong thời kỳ lạm phát
giá cả tăng lên mọt cách vững chắc bên cạnh đó tiền lương thực tế cũng có xu hướng
tăng lên (gía cả sức lao động). Tuy nhiên thu nhập thực tế của người lao động nói
chung có lức thì tăng tương ứng với lạm phát, nhưng có lúc suy giảm nghiêm trọng.
Nhưng không phải lúc nào cũng suy giảm.
Đứng về mặt kinh tế mà xét thì lạm phát xảy ra khi khối cung tiền tệ trong lưu
thông tăng nhanh hơn mức tăng của sản xuất.
2. Phân loai lạm phát
2.1. Lạm phát vừa phải
Loai lạm phát này xẩy ra với mức tăng chậm của gía cả được giới hạn ở mức độ
một con số hàng năm (tức là > 10%). Trong điều kiện lạm phát thấp gía cả tương đối
thay đổi chậm và được coi như là ổn định.
2.2. Lạm phát phi mã
Mức độ tăng của gía cả đã ở hai con số trở lên hàng năm trở lên.
Lạm phát phi mã gây tác hại nghiêm trọng trong nền kinh tế. Đồng tiền mất giá
một cách nhanh chóng-lãi suất thực tế giảm xuống dưới 0 (có nơi lãi suất thực tế giảm
xuống tới 50-100/năm), nhân dân tránh giữ tiền mặt. Điều đáng lưu ý ở những nước có
mức lạm phát 200% năm như Brazil và Israel lại có nền kinh tế phát triển nhanh
chóng, mặc dù gía cả tăng rất nhanh.
2.3. Siêu lạm phát
Tiền giấy được phát hành ào ạt, gía cả tăng lên với tốc độ chóng mặt trên 1000
lần/năm. Ví dụ như siêu lạm phát ở Đức. Từ tháng 1/1922 đến tháng 11/1923 chỉ số
gía cả tăng 10 triệu lần. Một tấm phiếu có giá trị 30 triệu USD, hai năm sau nó không
mua nổi một chiếc kẹo cao su (từ 1921-1923 kho tiền của Đức tăng 7 tỉ lần).
3. Sự phát triển của khái niệm lạm phát trong điều kiện hiện đại
Trong điều kiện hiện đại khi mà nền kinh tế của một nước luôn được gắn liền
với nền kinh tế thế giới thì biểu hiện của lạm phát được thể hiện qua một số yếu tố
mới.
Sự mất giá của các loai chứng khoán có giá. Song song với sự tăng giá cả của
các loai hàng hoá, giá trị các loai chứng khoán có giá trị bị sụt giảm nghiêm trọng, Vì
việc mua tín phiếu là nhằm để thu các khoản lợi khi đáo hạn. Nhưng vì giá trị của
đồng tiền sụt giảm nghiêm trọng nên người ta không thích tích luỹ tiền theo
hình thức mua tín phiếu nữa. Người ta tích trữ vàng và ngoại tệ.
Sự giảm giá của đồng tiền so với ngoại tệ và vàng.
Trong điều kiện mở rộng quan hệ quốc tế, vàng và ngoại tệ mạnh được coi như
là tiền chuẩn để đo lường sự mất giá của tiền quốc gia. Đồng tiền càng giảm giá so với
vàng và USD bao nhiêu nó lại tác động nâng giá hàng hoá lên cao bấy nhiêu. ở đâu
người ta bán hàng dựa trên cơ sở “qui đổi” giá vàng hoặc ngoại tệ mạnh để bán mà
không căn cứ vào tiền quốc gia nữa (tiền giấy do Ngân hàng Nhà nước phát hành)
Trong điều kiện hệ thống ngân hàng đựoc mở rộng, lạm phát còn thể hiện ở chỗ
khối lượng tiền ghi sổ tăng vọt nhanh chóng, bên cạnh khối lượng tiền giấy phát ra
trong lưu thông. Nhưng điều cần chú ý là khi khối lượng tiền ghi sổ tăng lên có nghĩa
là khối lượng tín dụng tăng lên, nó có tác động lớn đến sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Như vậy lạm phát trong điều kiện hiện đại còn có nghĩa là sự gia tăng các phương tiện
chi trả trong đó có khối lượng tín dụng ngắn hạn gia tăng nhanh chóng.
Lạm phát trong điều kiện hiên đại còn là chính sách của Nhà nước nhằm kích
thích sản xuất, chống lại nạn thất nghiệp, bù đắp các chi phí thiếu hụt của ngân sách,
lạm phát đôi khi được những kẻ bóc lột lợi dụng để bóc lột nhiều hơn nữa những
người làm công ăn lương. Điều dễ dàng thấy nhất là khi lạm phát gia tăng, gía cả hàng
hoá tăng nhanh hơn gia tăng tiền lương vì vậy mà các tư bản dễ dàng kiếm được lợi
lộc do bán hàng. Đặc biệt để chạy đua vũ trang. Bù đắp chi phí quân sự thì các tổ hợp
công nghiệp sản xuất vũ khí là có lợi nhiều nhất. Tuy nhiên không nhất thiết là lạm
phát phải có lợi duy nhất cho những người bóc lột, và đôi khi nó lại là chính sách kích
thích sự phát triển kinh tế vì nó có tác dụng làm tăng khối lượng tiền trong lưu thông,
cung cấp thêm vốn cho các đơn vị sản xuất, kích thích sự tiêu dùng của Chính phủ và
nhân dân. Vìvậynó kích thích sự phát triển kinh tế của đất nước.
Tuy nhiên việc sử dụng chính sách như vậy là cần phait thận trọng vì nó dẫn
đến sự quá đà đưa lạm phát tiến lên với tốc độ cao
4. Nguyên nhân của lạm phát trong điều kiện hiên đại
Lạm phát có nhiều nguyên nhân không giống nhau, vì vậy khái niệm về lạm
phát cũng khác nhau
4.1. Lạm phát để bù đắp các thiếu hụt của ngân sách
Đây là nguyên nhân thông thường nhất do sự thiếu hụt ngân sách chi tiêu của
Nhà nước (y tế, giáo dục, quốc phòng) và do nhu cầu khuếch trương nền kinh tế. Nhà
nước của một quốc gia chủ trương phát hành thêm tiền vào lưu thông để bù đắp cho
các chi phí nói trên đang thiếu hụt.
ở đây chúng ta thấy vốn đầu tư và chi tiêu của Chính phủ được bù đắp bằng
phát hành, kể cả tăng mức thuế nó sẽ đẩy nền kinh tế đi vào một thế mất cân đối vựợt
quá sản lượng tiềm năng của nó. Và khi tổng mức cần của nền kinh tế vượt quá khả
năng sản xuất của nền kinh tế (vì các yếu tố sản xuất của một nền kinh tế là có giới
hạn) lúc đó cầu của đồng tiền sẽ vượt quá khả năng cung ứng hàng hoá và lạm phát sẽ
xẩy ra, gía cả hàng hoá tăng lên nhanh chóng.
Nguyên nhân của lạm phát ở đây được xác định là lạm phát do cầu hàng hoá
vượt khả năng cung. Hàng hoá bị săn đuổi bởi lượng chi tiêu quá lớn. Lạm phát do
nguyên nhân cầu được thể hiện trên đồ thị của cung và cầu như sau:
Hình 1: Lạm phát do nguyên nhân cầu tăng vượt số lượng tiềm năng đường cầu
DD1 vượt quá khỏi số lượng tiềm năng. Gía cả tăng từ P lên P’. Đường cung SS’ có
độ dốc lớn và cân bằng cung cầu được lập lại ở một thế mới với gía cả là P’ đường cầu
là D’D’1.
Bản chất của lạm phát do nguyên nhân cầu là chi tiêu quá nhiều trong lúc lượng
cung hàng hoá bị hạn chế.
4.2. Lạm phát do nguyên nhân chi phí
Trong điều kiện cơ chế thị trường, không có quốc gia nào lại có thể
duy trì được trong một thời gian dài với công ăn viêc làm đầy đủ cho mọi người, gía cả
ổn định và có một thị trường hoàn toàn tự do.
Trong điều kiện hiện nay, xu hướng tăng gía cả các loại hàng hoá và tiền lương
công nhân luôn luôn diễn ra trước khi nền kinh tế đạt được một khối lượng công ăn
việc làm nhất định. Điều đó có nghĩa là chi phí sản xuất đã đẩy gía cả tăng lên ngay cả
trong các yếu tố sản xuất chưa được sử dụng đầy đủ, lạm phát xẩy ra.
Lạm phát như vậy có nguyên nhân là do sức đẩy của chi phí sản xuất.
P Q’
S D’ D
P’ e‘ D1
P E D1
S’
Sản lượng tiềm năng Q
Vấn đề tại sao chi phí lại tăng lên? nhiều nhà kinh tế cho rằng tăng tiền lương là
một nguyên nhân đẩy chi phí tăng lên. Một số nhà kinh tế tư bản cho rằng việc đẩy chi
phí tiền lương tăng lên là do công đoàn gây sức ép. Tuy nhiên một số nhà kinh tế khác
cho rằng chính công đoàn ở nước tư bản đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm
giảm tốc đoọ tăng của lạm phát và giữ không cho lạm phát giảm xuống quá nhanh khi
nó giảm (A). Vì các hợp đồng lương của các công đoàn thuờng là dài hạn và khó thay
đổi.
Tuy nhiên chúng ta cũng có thể thấy rằng nếu tốc độ tăng tiền lương nhanh hơn
tốc độ tăng của năng suất lao động sẽ đẩy chi phí sản xuất tăng lên có nghĩa là chi phí
tiền công trong một đơn vị sản phẩm tăng lên đã đẩy giá cả hàng hoá tăng lên. Thực
chất ở các nền kinh tế tư bản khi các cuộc đấu tranh của công đoàn dạt được một thoả
thuận về mức lương mới, thì các nhà tư bản lại tìm cách lấy lại khoản mà họ đã mất đi
do tăng tiền lương cho công nhân bằng cách nâng giá bán hàng hoá lên.
Ngoài ra các cuộc khủng hoảng về các loai nguyên liệu cơ bản như dầu mỏ, sắt
thép...đã làm cho giá cả của nó tăng lên (vì hiếm đi) và điều đó đã đẩy chi phí sản xuất
tăng lên. Nói chung việc tăng chi phí sản xuất do nghiều nguyên nhân, ngay cả việc
tăng chi phí quản lý hành chính như tiếp khách hay những chi phí ngoài sản xuất khác
cũng làm cho chi phí sản xuất tăng lên và do vậy nó đẩy gía cả tăng lên.
Có thể nói nguyên nhân ở đây là sản xuất không có hiệu quả, vốn bỏ ra nhiều
hơn nhưng sản phẩm thu lại không tăng lên hoặc tăng rất chậm so với tốc độ tăng của
chi phí, lạm phát do sức đẩy chi phí được thể hiện trên đồ thị 2 như sau:
P s’1
D s1
P’ e ’
S’ P e
D’
S
Số lượng tiềm năng Q
Hình 2. Trên sơ đồ ta thấy là cầu chưa đạt được đến sản phẩm tiềm năng.
Đường cong cung có xu hướng di chuyển đi lên từ SS1 lên S’S’1 làm cho gía cả tăng
lên.
4.3. Lạm phát ỳ
Lạm phát ỳ là một khái niệm của các nhà kinh tế tư bản, là lạm phát chỉ tăng
với một tỷ lệ không đổi hàng năm trong một thời gian dài. ở những nước có lạm phát ỳ
xẩy ra, có nghĩa là nền kinh tế ở nước đó có một sự cân bằng mong đợi, tỷ lệ lạm phát
là tỷ lệ được trông đợi và dược đưa vào các hợp đồng và các thoả thuận không chính
thức. Tỷ lệ lạm phát đó được Ngân hàng Trung ương, chính sách tài chính của Nhà
nước, giới tư bản và cả giới lao động thừa nhận và phê chuẩn nó. Đó là một sự lạm
phát nằm trong kết cấu biểu hiện một sự cân bằng trung hoà và nó chỉ biến đổi khi có
sự chấn động kinh tế xảy ra (tỷ lệ ỳ tăng hoặc giảm). Nếu như không có sự chấn động
nào về cung hoặc cầu thì lạm phát có xu hướng tiếp tục theo tỷ lệ cũ.
P
D“ S”2
D ’ P’ e” s’1
D e ’’’ P’ S” e” s’1
S’ P e d”1
S d’1 D1
Số lượng tiềm năng Q
(Hình 3)
Bằng hình ảnh trên đồ thị, chúng ta giả sử rằng sự tăng trưởng củatỏng sản
phẩm quốc dân là không có. Thì khi lạm phát tăng với tỷ lệ hàng năm là 7% thì chi phí
trung bình cũng tăng lên 7%. Chi phí tăng lên đẩy đến đường cung tăng lên dẫn đến
gía cả và tiền lương tăng lên theo vòng xoáy trôn ốc
Lạm phát ỳ dẫn tới gía cả tăng lên hàng năm với một tốc độ như cũ (0,7%).
Đường cong DD và SS cùng dịch chuyển lên trên với một tốc độ giống nhau hàng năm
và kinh tế vĩ mô nhận những điểm cân bằng mới là E’ rồi EE”, EE’”...
4.4. Lạm phát cầu kéo:
Lạm phát cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh mẽ tại mức sản lượng đã
đạt hoặc vượt quá tiềm năng. Khi xảy ra lạm phát cầu kéo người ta thường nhận thấy
lượng tiền không lưu thông và khối lượng tín dụng tăng đáng kể và vượt quá khả năng
có giới hạn của mức cung hàng hóa. Bản chất của lạm phát cầu kéo là chi tiêu quá
nhiều tiền để mua một lượng cung hạn chế về hàng hóa có thể sản xuất được trong
điều kiện thị trường lao động đã đạt cân bằng.
Chính sách tiền tệ lạm phát có thể xảy ra khi mục tiêu công ăn việc làm cao.
Ngay khi công ăn việc làm đẩy đủ, thất nghiệp lúc nào cũng tồn tại do những xung đột
trên thị trường lao động. Tỷ lệ thất nghiệp khi có công ăn việc làm đẩy đủ (tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên) sẽ lớn hơn 0. Nếu ấn định một chỉ tiêu thất nghiệp thấp dưới tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên sẽ tạo ra một địa bàn cho một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao hơn và lạm
phát phát sinh.
P4 4
AS4 AS3
AS2 AS1
3
Tổng mức
giá cả
Nếu những nhà hoạch định chính sách có chỉ tiêu thất nghiệp (giả sử 4%) thấp
hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (6%) thì họ sẽ cố gắng đạt được một chỉ tiêu sản phẩm
lớn hơn mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm ký hiệu Y1. Giả sử ban đầu ở điểm 1, nền
kinh tế ở mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm nhưng dưới mức chỉ tiêu sản phẩm Y1. Để
đạt chỉ tiêu thất nghiệp 4%, các nhà hoạch định chính sách ban hành các chinh sách để
tăng tổng cầu làm đường tổng cầu di chuyển đến AD2, nền kinh tế chuyển đến điểm
1’, sản phẩm ở tại Y1 và đạt mục tiêu thất nghiệp 4%. Vì tại Y1 tỷ lệ 4% thất nghiệp là
dưới mức tỷ lệ tự nhiên nên lương sẽ tăng lên và đường tổng cung di chuyển vào đến
AS2, đưa nền kinh tế từ điểm 1’ sang điểm 2. Nền kinh tế lại sẽ tỷ lệ thất nghiệp tự
nhiên 6% nhưng ở mức giá cả P2 cao hơn. Do thất nghiệp lại cao hơn mức chỉ tiêu,
các nhà hoạch định chính sách sẽ di chuyển đường tổng cầu đến AD3 để đạt chỉ tiêu
sản phẩm đến điểm 2’, toàn bộ quá trính ẽ tiếp tục đẩy nền kinh tế đến điểm 3 và xa
hơn. Kết quả là mức giá cả tăng đều dần và lạm phát. Các nhà hoạch định chính sách
không thể tiếp tục di chuyển đường tổng cầu thông qua chính sách tài chính do những
giới hạn trong việc chi tiêu của chính phủ và giảm thuế. Do đó họ phải áp dụng chính
sách tiền tệ bành trướng, do đó gây nên tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao.
Như vậy theo đuổi một chỉ tiêu sản phẩm quá cao hay tương đương là một tỷ lệ
thất nghiệp quá thấp là nguồn gốc sinh ra chính sách tiền tệ lạm phát.
4.5. Lạm phát chi phí đẩy:
Ngay cả khi sản lượng chưa đạt mức tiềm năng nhưng vẫn có thể xảy ra lạm
phất ở nhiều nước, kể cả ở những nước phát triển cao. Đó là một đặc điểm của lạm
phát hiện tại. Kiểu lạm phát này gọi là lạm phát chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa suy
giảm sản lượng, tăng thêm thất nghiệp nên cũng gọi là “lạm phát đình trệ”.
Các cơn sốc giá cả của thị trường đầu vào, đặc biệt là các vật tư cơ bản: xăng,
dầu, điện... là nguyên nhân chủ yếu đẩy chi phí lên cao, đường AS dịch chuyển lên
trên. Tuy tổng cầu không thay đổi nhưng giá cả lại tăng lên và sản lượng giảm xuống.
Giá cả sản phẩm trung gian (vật tư) tăng đột biến thường do các nguyên nhân như
thiên tại, chiến tranh, biến động chính trị kinh tế...
Lạm phát chi phí cũng có thể là kết quả của chính sách ổn định năng động
nhằm thúc đẩy một mức công ăn việc làm cao. Nó xảy ra do những cú sốc cung tiêu
cực hoặc do việc các công nhân đòi tăng lương cao hơn gây nên.
Lúc đầu nền kinh tế ở tại điểm 1. Giả định công nhân đòi tăng lương do họ
muốn tăng lương thực tế hoặc do họ dự đoán lạm phát sẽ lên cao nên đòi tăng lương để
khớp với mức lạm phát. ảnh hưởng của việc tăng đó tương tự như một cú sốc cung tiêu
cực làm đường tổng cung di chuyển vào đến AS2. Nếu chính sách tài chính, tiền tệ
không thay đổi thì nền kinh tế chuyển tới điểm 1’ sản phẩm sẽ giảm xuống dưới mức
tỷ lệ tự
P4
P3
P2
P1 1
2 3
4
1’ 2’
3’
AD1 AD2 AD3 AD4
AS4
AS3 AS2 AS1
Tổng sản phẩm
Y’ Yn
Tổng mức
giá cả
Mỹ do có thị trường chứng khoán nhà nước phát triển tốt nên có thể phát hành
nhiều trái khoán để tài trợ thâm hụt. Tuy nhiên không phải thâm hụt tại Mỹ không có
nguy cơ lạm phát bởi Fed có thể có mục tiêu ngăn chặn lãi suất cao. Khi chính phủ
phát hành trái khoán để tài trợ thâm hụt có thể gây nên áp lực với lãi suất. Khi đó Fed
có thể mua trái khoán để nâng giá trái khoán và ngăn chặn lãi suất tăng, kết quả là
cung tiền tăng lên và gây phát sinh lạm phát.
Phần II. Lạm phát với tăng trưởng kinh tế
trong thực tiễn kinh tế ở Việt Nam
1. Lạm phát và tăng trưởng kinh tế trong những năm qua.
1.1. Giai đoạn 1988-1995
Trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã chuyển sang một gian đoạn
mới, đó là nhờ kinh tế tăng trưởng cao trong khi lạm phát bị đẩy lùi, khống chế ở mức
hợp lý. Liên tục từ năm 1988, mọi nỗ lực của chính phủ được tập trung vào kiềm chế,
đẩy lùi lạm phát từ mức 3 chữ số xuống còn 1 chữ số. Đây là kết quả của quá trình đổi
mới và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Trong khi lạm phát được kéo xuống thì kinh tế
vẫn tăng trưởng cao và khá ổn định, bình quân hàng năm tăng 7 – 8%.
Tăng trưởng kinh tế và lạm phát (tỷ lệ %)
Năm 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995
Tăng trưởng 5,1 8,0 5,1 6,0 8,6 8,1 8,8 9,5
Lạm phát 410,9 34,8 67,2 67,4 17,2 5,2 14,4 12,7
Công cuộc chống lạm phát ở Việt Nam tập trung chủ yếu vào những vấn đề:
Nối lỏng cơ chế kiểm soát giá cả, phi tập trung hóa tiến trình ra các quyết định về kinh
tế, thống nhất điều hành tỷ giá theo quan hệ cung cầu ngoại tệ, khuyến khích xuất khẩu
đồng thời thi hành một chính sách lãi suất thực dương, kết hợp thắt chặt đúng mức
việc cung ứng tiền trung ương. Các giải pháp lúc đầu được tiếp nối với sử dụng từng
bước có hiệu quả các công cụ tài chính đã nhanh chóng đem lại nhiều thành quả đáng
khích lệ trong điều kiện kiểm soát được lạm phát. Cụ thể:
- Lòng tin của dân chúng vào đồng tiền Việt Nam đã từng bước được khôi
phục. Tiền tệ ổn định khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài tăng nhanh. Tích
lũy đầu tư của cả nước năm 1993 bằng 17,6% GDP, tăng đáng kể so với tỷ lệ tích lũy
11 – 12% những năm trước.
Năm GDP/người
(Tr đồng)
Tốc độ tăng
GDP (%)
Tốc độ tăng
tiêu dùng
(%)
Tỷ lệ tích
lũy/GDP
(%)
Tỷ lệ để
dành/GDP
(%)
1989
1990
1991
1992
1993
95
98
109
131
163
8,0
5,1
6,0
8,6
8,1
8,1
8,3
3,6
5,4
4,4
11,6
12,6
15,0
17,6
20,5
7,2
-
-
6,9
15,0
Nguồn: Tổng cục thống kê 1994
- Trong tổng số tích lũy năm 1993, tích lũy Nhà nước chiếm 43%, đầu tư trực
tiếp nước ngoài 40%. Tỷ lệ đầu tư nước ngoài này tương đương tỷ lệ đầu tư nước
ngoài vào Singapo một nền kinh tế được coi là mở cửa rộng nhất ở Châu á hiện nay.
- Tỷ lệ tiền để dành của cả nền kinh tế trên GDP năm 1992 là 6,9%, năm 1993
là 15% GDP. Đây là một bước ngoặt lớn về tích lũy so với trước đây.
- Năm 1989, khi các cơ sở sản xuất nông nghiệp được phi tập trung hóa và giá
nông sản được thả nổi, cùng với tác động của các yếu tố khác, chỉ trong vòng 1 năm
Việt Nam đã từ chỗ phải nhập khẩu gạo đã trở thành một nước xuất khẩu gạo, thu nhập
của nông dân tăng lên.
- Công cuộc chống lạm phát và đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế đã được tạo điều
kiện hết sức thuận lợi qua việc môi trường pháp lý đã từng bước được kiện toàn, đầu
tư trong nước và nước ngoài tăng mạnh số doanh nghiệp làm ăn thu lỗ đã giảm hơn, tỷ
trọng GDP của khu vực kinh tế nhà nước không ngừng được nâng cao.
Mức độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong năm qua có được là nhờ kinh
tế tăng trưởng cao trong khi lạm phát bị đẩy lùi và bị khống chế ở mức hợp lý. Điều
này trái ngược hẳn với một số quốc gia khi chống lạm phát thường làm kinh tế suy
thoái.
Bên cạnh những thành tựu đạt được cũng nảy sinh nhiều khó khăn mới:
- Lạm phát giảm trong điều kiện nhập siêu vốn nước ngoài (chủ yếu là vay nợ)
đã làm cho đồng tiền Việt Nam có xu hướng lên giá so với một số đồng tiền khác, ảnh
hưởng bất lợi đến việc khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư trực tiếp
của nước ngoài trong khi đó sản xuất trong nước bị chèn ép, cạnh tranh mảnh bời hàng
nhập đặc biệt là hàng nhập lậu. Năm 1992 tỷ lệ hàng tích lũy phải nhập lên tới 63,7%,
tỷ lệ sản phẩm trung gian dùng trong sản xuất phải nhập lên tới 25%. Cán cân thương
mại do đó tiếp tục thâm hụt trong điều kiện đó việc tăng trưởng kinh tế cao hơn sẽ kích
thích lạm phát gia tăng, gây khó khăn cho việc duy trì thành quả đạt được. Do đó giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế phải được tiếp tục.
Năm 1994, mức lạm phát do quốc hội thông qua là 10% nhưng do một số nguyên nhân
khách quan như giá cả thị trường thế giới tăng ảnh hưởng đến trong nước, thiên tai, bội
chi ngân sách... đã khiến lạm phát vượt mức dự kiến 14,4%. Pphân tích đã chỉ ra rằng
năm 1994 lạm phát tăng chủ yếu thuộc về khâu cung ứng hàng hóa, trong đó lương
thực chiếm phần quan trọng. Trong một thời gian dài giá lương thực đã đứng mở mức
thấp so với giá cả các mặt hàng khác nên gía lương thực tăng lên ở chừng mực nhất
định là hợp lý và phản ánh đúng thực tế.
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi gắn với nhiều bất ổn nên
mức lạm phát có thể vượt quá so với mức dự kiến hàng năm. Mức lạm phát năm 1994
tuy không đạt kế hoạch nhưng có yếu tố có thể chấp nhận được. Nhiều nhà kinh tế cho
rằng cần phải xác lập một tỷ lệ nhất định giữa tăng trưởng và lạm phát. Có ý kiến cho
rằng phải kiềm chế lạm phát thấp, ổn định giá cả để phát triển kinh tế dù ở nhịp độ
thấp nhưng ổn định lâu dài (các nước nhân NICS). Ngược lại có ý kiến lại cho rằng
khuyến khích lạm phát mới tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Tuy
nhiên nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu và xuất phát điểm
rất thấp so với các nước khác nên để tránh khỏi tụt hậu, kinh tế Việt Nam phải đạt tốc
độ tăng trưởng cao trong nhiều năm. Muốn vậy, Việt Nam có thể phải duy trì tỷ lệ lạm
phát vài năm đầu cao hơn mức tăng trưởng trong nước một chút, kéo dần xuống những
năm sau. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là chúng ta thả nổi hoàn toàn lạm
phát. Tỷ lệ lạm phát ở mức dự tính hợp lý và có khả năng kiểm soát được để làm cơ sở
cho việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ hàng năm nhằm giải quyết cùng lúc
2 mục tiêu là ổn định tiền tệ và đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao, liên tục, lâu dài.
1.2. Giai đoạn 1996-1999:
Những thành tựu kinh tế đạt được trong giai đoạn trước đặc biệt là tăng trưởng
và lạm phát đã ghi nhận những kết quả đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Nền kinh tế đã
khắc phục được tình trạng trì trệ suy thoái, đạt mức tăng trưởng cao, liên tục và tương
đối toàn diện. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 1991-1995 là 8,2% và có
khả năng tiếp tục tăng mạnh khi năm 1995 đạt tỷ lệ tăng trưởng 9,5% đã khiến các nhà
hoạch định chính sách nghĩ đến việc phải kiềm chế tốc độ tăng trưởng cao quá đáng và
đề ra những giải pháp cấp bách để kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên từ năm 1996, cụ thể
hơn từ 1997, xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó có ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như mức lạm
phát của Việt Nam đã liên tục giảm. Đáng lưu ý là đã có mầm mống xuất hiện hiện
tượng giảm phát thông qua chỉ số giá âm ở một vài tháng trong các năm 1996, 1997 và
1999. Tuy nhiên xét về chung và dài hạn, tuy tốc độ tăng trưởng có giảm sút song nền
kinh tế nước ta vẫn chủ yếu ở xu hướng lạm phát với mức độ vừa phải, bình quân
6%/năm kể từ 1995-1999.
Năm Tăng trưởng (GDP %) Lạm phát (CPI)(%).
1995 9,5 12,7
1996 9,3 4,5
1997 8,2 3,7
1998 5,8 9,2
1999 4,8 0,1
2. Vấn đề mới nảy sinh: Giảm phát và ảnh hưởng của nó đối với tăng
trưởng kinh tế:
2.1. Thực trạng vấn đề giảm phát:
Một điều có vẻ không bình thường là trong khi đang là giai đoạn phục hồi của
các nền kinh tế bị khủng hoảng nặng ở Châu á thì kinh tế Việt Nam lại đang trên đà đi
xuống. Việc đi xuống này rất khó hãm lại và việc đưa nền kinh tế trở lại mức tăng
trưởng dù chỉ ở mức trên dưới 6% đã rất khó khăn. Tốc độ tăng GDP 6 tháng đầu năm
1999 chỉ đạt 4,3 % trong khi chỉ số giá giảm liên tục. Mức lạm phát 9 tháng chỉ là
0,2% trong 6 tháng đầu năm 1999, trừ 2 tháng 1 và 2 là hai tháng giáp tết, giá cả diễn
biến hợp quy luật, 4 tháng còn lại chỉ số giá tiêu dùng CPI liên tiếp mang dấu âm.
Tháng 1: 1,7% Tháng 4: -0,6%
Tháng 2: 1,9%; Tháng 5: - 0,4%
Tháng 3: - 0,7%; Tháng 6: -0,3%
Mức lạm phát 6 tháng đầu năm 1999 là 1,6% thấp hơn nhiều cùng kỳ năm 1998
(6%). Giảm phát xuất hiện đã gây thêm khó khăn cho nền kinh tế vốn đang trì trệ.
Trong khoảng 7/99, các hoạt động kinh tế chưa có sự chuyển biến tích cực. Chỉ số giá
cả tháng 7 tiếp tục giảm 0,4% làm cho tỷ lệ lạm phát 7 tháng đầu năm 1999 chỉ ở mức
1,2%.
Giảm phát sẽ gây ra nguy hại cho nền kinh tế nếu nguyên nhân do mức cầu
giảm năng lực sản xuất dư thừa và mức cung ứng tiền thu hẹp. Khi ấy giảm phát sẽ
gây ra những tác hại to lớn. Người tiêu dùng sẽ trì hoãn việc mua hàng với hy vọng giá
ngày mai sẽ thấp hơn giá hôm nay. Tâm lý này sẽ làm giảm mức cầu xã hội buộc các
nhà sản xuất phải liên tục giảm giá hàng. Nếu kéo dài, nhiều doanh nghiệp sẽ phải
ngừng sản xuất hoặc sập tiệm. Giá hàng hạ làm tăng mức dư nợ thực tế của các doanh
nghiệp không trả được nợ ngân hàng kéo ngân hàng đến bờ phá sản. Nó còn làm các
khoản thu ngân sách giảm sút, kìm hãm tốc độ trăng trưởng kinh tế. Nguy hại hơn là
giảm phát có thể vô hiệu quá chính sách lãi suất một công cụ quan trọng để điều hành
chính sách tiền tệ quốc gia.
2.2. Nguyên nhân giảm phát.
Giảm phát là hiện tượng thị trường bị chi phối bởi hai yếu tố cung và cầu. Thực
chất của nó trong trường hợp Việt Nam tại thời điểm năm 1999 là tình trạng cung ngày
càng vượt xa cầu.
a.Các nguyên nhân về phía cung:
Trước hết cần khẳng định rẳng không hề có sự dư thừa cung nói chung mà chỉ
là sự dư thừa cung trong cơ cấu. Tình trạng ứ đọng sản phẩm sản xuất cầm chừng
không xảy ra đối với toàn bộ nền kinh tế, với tất cả các ngnàh, tất cả các doanh nghiệp
thuộc mọi khu vực mà chỉ xảy ra cho một số sản phẩm, một số ngành hẹp và tập trung
vào một số doanh nghiệp thuộc một vài khu vực nhất định. Khi bị đẩy tới mức nghiêm
trọng thì hiệu ứng của nó lan tỏa sang toàn bộ nền kinh tế khi đó nó gây ra cảm giác dư
thừa cung toàn bộ. Cụ thể nhiều sản phẩm bị tồn kho nhiều nhât chính là những ngành
được ưu tiên phát triển trong những năm gần đây như xi măng, đường, thép, gạch ốp
lát. Những ngành sản phẩm bắt đầu bị ứ đọng từ năm 1988 thì sang 1999 duy trì mức
tăng trưởng thuộc loaị cao nhất, làm cho cung cầu thị trường đối với chúng trở nên gay
gắt hơn. Hầu hết những doanh nghiệp chịu hậu quả nặng nề nhất thuộc khu vực kinh tế
nhà nước. Hiện tượng “thừa cung” trong lĩnh vực dịch vụ là hậu quả trực tiếp của tình
trạng “thiếu cầu” do mức thu nhập dân cư trong nước giảm và do tác động của khủng
hoảng. Như vậy nguyên nhân ách tắc thị trường năm 1999 là do sự mất cân đối mang
tính cơ cấu, chiến lược đầu tư không phù hợp, phản ứng chính sách chưa kịp thời vẫn
tiếp tục duy trì mức đầu tư, tăng trưởng cao cho những sản phẩm khó tiêu thụ, làm gia
tăng thêm tình trạng mất cân đối cung cầu.
Ngoài ra cũng có những nguyên nhân bên ngoài như xu hướng giảm giá toàn
cầu trong đó có giá các sản phẩm xuất khẩu và thay thế nhập khẩu chủ yếu của Việt
Nam là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng giảm phát của nước
ta trong năm 1999.
b. Các nguyên nhân về phía cầu:
Tổng cầu suy giảm là nguyên nhân làm tăng thêm tình trạng mất cân đối thị
trường. Nó bắt nguồn từ một số lý do.
Thứ nhất: số lao động thất nghiệp, thiếu việc làm tăng nhanh là yếu tố quan
trọng hàng đầu làm giảm thu nhập dân cư đặc biệt là trong ngành than (8 vạn lao động
không đủ việc làm) và ngành mía đường (40 vạn lao động bị ảnh hưởng về việc làm và
thu nhập).
Thứ hai: mức giá nông sản nội địa giảm nhanh hơn mức tăng sản lượng làm chi
phí sản xuất của nông dân tăng nhanh hơn thu nhập. Cả tổng thu nhập và hiệu quả hoạt
động trong nông dân đều giảm.
Thứ ba: sự giảm sút thu nhập làm cho việc chi tiêu của dân cư có xu hướng tăng
tỷ phần chi tiêu vào các mặt hàng tiêu dùng tối thiểu với giá rẻ, chất lượng phải chăng
làm giảm sức mua đối với các sản phẩm cao cấp hoặc mang tính đầu tư, mua hàng
nhập lậu tăng.
Thứ tư: trong điều kiện thu nhập giảm người dân vẫn gửi tiền tiết kiệm vào các
ngân hàng hơn là giữ lại để chi tiêu. Do lòng tin vào triển vọng kinh tế ít sáng sủa
trong thời gian tới thúc đẩy dân cư gửi tiền như các bảo đảm cho tương lai hơn là mua
hàng để tiêu dùng hiện tại.
Ngoài những nguyên nhân kể trên, một nguyên nhân khác không kém phần
quan trọng đó là việc đề ra và thực hiện các giải pháp để đối phó với tình trạng giảm
phát nêu trên thường ít chú ý đến tính hệ thống và phản ứng dây chuyền, dễ triệt tiêu
lẫn nhau. Vì vậy tình hình không được khắc phục mà tiếp diễn trong suốt thời gian khá
dài. Điểm này sẽ được xem xét kỹ hơn trong mục tiếp theo: “Các giải pháp kích cầu và
hiệu quả áp dụng”.
2..3. Các giải pháp "kích cầu" và hiệu quả áp dụng:
Trong năm 1999, nỗ lực chính sách lớn nhất là áp dụng các giải pháp “kích
cầu” nhằm khắc phục tình trạng giảm phát. Những giải pháp được coi là mạnh nhất
trong số đó là 4 lần giảm lãi suất, tăng đầu tư nhà nước, tăng lương cho người lao động
trong khu vực nhà nước bằng cách giảm ngày làm việc. Tuy nhiên thực tế cho thấy
hiệu quả áp dụng các giải pháp này là rất thấp. Thị trtường hầu như không có phản ứng
gì tích cực đối với các giải pháp vốn được coi là hết sức nhạy cảm trong điều kiện bình
thường của kinh tế thị trường.
Năm 1999, ngân hàng nhà nước đã hạ lãi suất trần 4 lần và nới lỏng các điều
kiện tín dụng. Mục đích của hành động này về cơ bản là xuất phát từ động cơ kích cầu
(khuyến khích vay để chi tiêu và đầu tư). Mặt khác hạ lãi suất trước hết là phản ứng
thuần túy thị trường khi mức lạm phát giảm mạnh. Vì vậy việc hạ lãi suất bị động cơ
khách quan (giảm mức lạm phát) triệt tiêu sức kích thích của động cơ chủ quan
(khuyến khích vay). Đây là lý do đầu tiên giải thích tại sao sau những lần hạ lãi suất
khối lượng vay ngân hàng của các doanh nghiệp hầu như không tăng, vốn vẫn ùn đọng
trong hệ thống ngân hàng, dân chúng vẫn tiếp tục gửi tiền vào ngân hàng.
Về phía các doanh nghiệp đa số doanh nghiệp đang thực sự thiếu cơ hội đầu tư
hơn là thiếu vốn. Sự ách tắc thị trường đã đến mức làm triệt tiêu đáng kể cơ hội và
mong muốn gia tăng đầu tư để thoát khỏi tình thế bế tắc trong kinh doanh của các
doanh nghiệp. Như vậy điều cần suy nghĩ là giảm lãi suất có phải là một công cụ mạnh
để tăng cơ hội đầu tư của doanh nghiệp hay không. Việc ngân hàng hạ lãi suất trần 4
lần song kết quả vẫn chưa thu được là bao chứng tỏ nguyên nhân không phải ở lĩnh
vực tiền tệ, do đó công cụ lãi suất hoạt động không có hiệu quả.
Về phía các ngân hàng, một mặt gánh nặng nợ quá hạn đã đạt đến con số khổng
lồ làm các ngân hàng phải chịu rủi ro rất lớn do không thu hồi được vốn (chương trình
mía đường nợ 4500 tỷ đồng, ngành xi măng và cao su mỗi ngành nợ 3000 tỷ đồng,
chương trình nhà ở đồng bằng sông Cửu Long, chương trình khắc phục hậu quả cơn
bão số 5... nợ hơn 4000 tỷ...). Mặt khác dường như các ngân hàng đang lâm vào tình
trạng bội thực về vốn: huy động vốn tiết kiệm nhiều nhưng ngân hàng lại không thể
cho vay (vì nhiều doanh nghiệp không dám) và không dám cho vay (vì rất nhiều doanh
nghiệp muốn vay là doanh nghiệp thua lỗ và có nguy cơ phá sản). Tình hình kinh tế đã
trở nên trì trệ đến mức giảm lãi suất hầu như không có tác dụng kích thích đầu tư. Tuy
nhiên nguyên nhân sâu sa của vấn đề lại là tình trạng cơ cấu bởi đối tượng cho vay
chính của các ngân hàng hiện nay vẫn là các doanh nghiệp nhà nước, nhiều trường hợp
được vay theo chỉ định. Vì vậy hạ lãi suất không chỉ nhằm mục tiêu kích cầu mà còn
chủ yếu nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu
quả.
Việc giảm lãi suất nhằm vào những mục tiêu không hoàn toàn đồng hướng với
nhau vì thế tạo ra xu hướng triệt tiêu tác dụng, làm cho công cụ phát huy được hiệu
quả thậm chí còn tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn định.
Trên thực tế kết quả của công việc này cũng cho thấy tuyệt đại bộ phận vốn huy
động qua phát hành công trái là từ khu vực doanh nghiệp (trong đó đa số là doanh
nghiệp nhà nước) và các tổ chức. Như vậy một mặt huy động công trái lần này thực
chất chỉ là hình thức chuyển vốn từ “túi” này của nhà nước (doanh nghiệp nhà nước)
sang “túi” khác của nhà nước (ngân sách) và nhà nước lại phải trả lãi suất cao cho
chính nguồn vốn của mình. Mặt khác phát hành công trái là để có vốn cho chương
trình đầu tư cho 1000 xã đói nghèo. Tuy nhiên trên độ giải ngân rất chậm làm giảm
hiệu quả của vốn vay. Nhìn chung các giải pháp tài chính trong năm 1999 đã hướng
vào nhiều mục tiêu, nếu xét tách biệt thì chúng đều tích cực nhưng khi đặt trong tổ hợp
thì chúng lại hạn chế, triệt tiêu lẫn nhau, vì vậy đã không đạt được kết quả mong
muốn.
Nhưng nó như vậy không có nghĩa là những nỗ lực trong các giải pháp nhằm
kích cầu của chính phủ hoàn toàn không phát huy hiệu quả, mặc dù còn rất chậm chạp
và khiêm tốn. Bằng chứng là hiện tượng giảm phát của Việt Nam trong năm 1999
được coi là đã chấm dứt với tỷ số giá tiêu dùng liên tiếp tăng trở lại ở mức dương là
0,4% và 0,5% vào tháng 11 và tháng 12 năm 1999 và tính chung cả năm là 0,1%. Tuy
nhiên đó vẫn là nguy cơ tiềm tàng còn có khả năng tái giảm phát trong năm tới. Vấn đề
nhận diện rõ căn nguyên và đo lường đúng đắn trạng thái lạm phát để có giải pháp
thích hợp và can thiệp đúng hướng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc điều hành
kinh tế vĩ mô hiện nay.
Kết luận
Lạm phát và tăng trường kinh tế là hai vấn đề có quan hệ chế ước lẫn nhau rất
chặt chẽ, phức tạp.Vì vậy giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng
kinh tế phải cần được coi là nền tảng trong sự phát triển ổn định, liên tục và lâu dài
củaViệt Nam trong giai đoạn chuyển sang kinh tế thị trường. Nếu xem nhẹ vấn đề này
sẽ dẫn đến tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát chỉ đem lại những kết quả hết
sức hạn chế, thậm chí là nguyên nhân đưa đến khủng hoảng. Bởi vậy bất cứ giải pháp
nào có lợi cho tăng trưởng kinh tế cũng cần phải đi kèm với những giải pháp nhằm
tránh những cú sốc do kích thích mạnh lạm phát thái quá gây bất lợi cho nền kinh tế.
Tuy vậy cũng cần tránh những biện pháp cứng nhắc tuy có thể kiềm chế được lạm phát
nhưng lại làm chậm đà phát triển kinh tế. Hiểu rõ và giải quyết được tốt vấn đề này sẽ
góp phần không nhỏ cho công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế ở nước ta.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình KTVM - DHKTQD
2. Tạp chí tài chính
3. Tạp chí ngân hàng
4. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ
5. Tạp chí Chứng khoán Việt Nam
6. Tạp chí Thông tin tài chính
7. Tạp chí Phát triển kinh tế.
Mục lục
Lời nói đầu ........................................................................................ 1
Phần 1: Lý luận chung về lạm phát. ............................................... 2
1. Khái niệm ................................................................................................ 2
2. Phân loai lạm phát .................................................................................. 2
2.1. Lạm phát vừa phải ....................................................................... 2
2.2. Lạm phát phi mã .......................................................................... 2
2.3. Siêu lạm phát ............................................................................... 3
3. Sự phát triển của khái niệm lạm phát trong điều kiện hiện đại............ 3
4. Nguyên nhân của lạm phát trong điều kiện hiên đại ............................. 4
4.1. Lạm phát để bù đắp các thiếu hụt của ngân sách .......................... 4
4.2. Lạm phát do nguyên nhân chi phí ................................................ 5
4.3. Lạm phát ỳ................................................................................... 7
4.4. Lạm phát cầu kéo: ....................................................................... 8
4.5. Lạm phát chi phí đẩy ................................................................... 10
Phần 2: Lạm phát với tăng trưởng kinh tế trong thực tiễn
kinh tế ở Việt Nam ............................................................. 12
1. Lạm phát với tăng trưởng kinh tế trong những năm qua. .................... 12
1.1.Giai đoạn 1988-1995. ................................................................... 12
1.2.Giai đoạn 1996-1999. ................................................................... 16
2. Vấn đề mới nảy sinh: giảm phát và ảnh hưởng của nó đối
với tăng trưởng kinh tế ........................................................................... 17
2.1- Thực trạng vấn đề giảm phát ...................................................... 17
2.2- Nguyên nhân giảm phát ............................................................... 18
2.3- Các giải pháp kích cầu và hiệu quả áp dụng ................................ 20
Kết luận ............................................................................................. 23
Tài liệu tham khảo ............................................................................ 24