l tiên tri chống tây u · pdf filetay không thểgắn liền. ọa đến...

2
Tiên tri chống Tây U Đức Pht Thầy Tây An ra đời thuyết pháp từ năm Kỷ du 1849, để li bao lời tiên tri ứng nghim nhim mầu. Tiên tri thời Tây Mỹ, đoạn sm Pht Thy cho biết: Nói cho lớn nhghi lòng, Ngày sau mới biết rõ trong sự tình. Gili Thy dạy đinh ninh, Hết Tây ri li thiệt tình ti U.* Lành thời nim Phật công phu,tướng Dthi chu chlao tù hổ ngươi. (Đức Pht Thầy Tây An tr. 165, Vương Kim & Đào Hưng biên khảo, nhà xuất bn Long Hoa n tống năm Quý tị 1953) Đức Pht Thy cho biết hết thời Tây (Pháp) cai tr, sti M{U=USA} ạt đưa hơn 500 ngàn quân qua Việt Nam nra cuc chiến tranh chết chóc vô cùng khốc liệt. Ngài khuyên người đạo hãy giữ bn phn tân, trung quân ái quốc, yêu nước thương nòi chống xâm lăng, tu nhân tích đức, làm lành lánh dữ. Sau này, Đức Pht Thy lại tái thế mượn xác ông Ba Nguyễn văn Thới (1866-1926) viết bsm Kim CKQuan năm 1915, tiếp tục tiên tri thời Tây Mỹ rõ hơn: Khhnguơn bẩm lại cà lì, Coi thân cực sướng nỗi gì cho thân. Tây chưa mãn tới vic U phân, * Ngi bun thy khmuôn dân não nề. Lương kế Thánh nhơn chí kế h, Ngậm ngùi Nam Vit nng nlao thân. (Kim CKQuan 30: 60, ông Ba Thới viết năm 1915) Cm tU phân, chU USA là Mỹ, chphân phân chia đất nước Việt Nam ra làm 2 min Nam Bắc. Sau năm 1954, toàn dân Vit chtng tuyn cthng nht VN theo ni dung hiệp định Giơ-ne-vơ. Nhưng ngày 12-12-1955, đại sTrần văn Chương đại diện chánh phủ Ngô Đình Diệm tuyên bố M: Skhông có tổng tuyn cVN. Hip định Genève không bắt buộc, chánh phủ Mng hlập trường này. Câu sấm tiên tri rất là chính xác: Tây chưa mãn tới việc U phân. Mng hgiải pháp không tổng tuyn cthng nht VN, Mquyết định phân chia VN vĩnh viễn. Muốn có được mt nước VN thng nht, ắt là chỉ có con đường chiến tranh như đã xảy ra…{The VN War}. * Cm tNam Vit ám chỉ tên nước ta vào triều đại Triệu Vũ Vương năm 207 trước tây lịch có biên giới bao gm 2 tnh Quảng Đông Quảng Tây {Lưỡng Qung}, giặc phương bắc ln chiếm mưu đồ Hán hóa, tổ tiên ta phải bđất Lưỡng Qung, di xuống Thăng Long bảo tn ging Hng Lc. Đến năm Kỷ Mão 1939, Đức Pht Thầy tái thế làng Hòa Hảo mượn xác vị thanh niên Huỳnh Phú Sổ, lại tiên tri thời Tây Mỹ bng những câu sấm như sau: Đừng ham làm chc nc nia, Ngày sau như khóa không chìa dân ôi! Tu hành như thể thtrôi, Nay lmai bi chẳng có thiền tâm. Mưu sâu thì họa cũng thâm, Ngày sau sẽ biết thú cầm chỉn ghê. Sydney, 6-12-2017, KVân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) https://kiengxluu.wixsite.com/kinhsambuuson * https://kinhsamthatson.wordpress.com/ Hùm beo tây tượng bn b, Lại thêm ác thú mãng xà rít to. Bá gia ai biết thì lo, Gác tai dèm siểm đôi co ích gì. Hết Tây rồi đến Huê Kỳ,* Sưu cao thuế nng vậy thì thiết tha! Dân nay như thể không cha, Chng ai dy dthiệt là thảm thương! (Khuyên Người Đời Tu Niệm, Đức Thy Huỳnh Giáo Chủ viết tại làng Hòa Hảo năm Kỷ Mão 1939) Ghi chú: Câu sấm: Hết Tây rồi đến Huê K, bchánh quyền Bảo Đại thời Pháp kiểm duyt, bt buc phi sa lại là: Hết Đây rồi đến DK. Sau khi sa chTây thành Đây, và chữ Huê Kỳ thành DK, giáo hội mới được phép ấn hành để phbiến cho đồng đạo. Lut Thiên Điều là: Bôi sửa kinh sấm đáng tội đày địa ngc. Cm tkhóa không chìa ám chỉ năm 1975, người bnhốt vào tù {trại ci tạo} nhưng không biết thi hạn ngày ra tù. Qua năm 1948, Đức Pht Thy chiết hn linh tái thế mượn xác Ngài Thanh Sĩ (21 tui). Khi Tokyo kinh đô Nhựt vào năm 1968, Ngài tiên tri bàn cờ toàn dân Việt phá thế trn U phân, và thống nht Nam Bc: Nước Việt do dân Việt chquyn, Khó ai chi phối ging Rồng Tiên. Chung quy yêu nước hơn tư tưởng, Nam Bc cuối cùng một mái hiên. (trích trong Hiển Đạo, BTát Thanh Sĩ viết Tokyo ngày 30-8- 1968) Trong hoàn cảnh ngoại xâm phân chia đất nước, Ngài Thanh Sĩ khuyên toàn dân Việt đoàn kết một lòng, gác bỏ mi dbit vtư tưởng, cùng chung sức phá thế trn U phân, đánh đuổi quân giặc ngoại xâm ra khi bcõi. Có như thế, nước nhà mới thng nht Nam Bc cùng một mái hiên. Năm 1966, đất nước lâm vào cảnh khói la mịt mù khi Mỹ đổ quân trực tiếp tham chiến, chết chóc thật hãi hùng, lòng dân hoang mang, ông Phan Khắc Sửu nguyên quốc trưởng chánh quyền min Nam nhiu ln viết thơ qua Nhựt hỏi ý kiến, và được Ngài Thanh Sĩ viết thơ phúc đáp; sau đây là mt trong những bài thơ mà Ngài đã phúc đáp cho ông Phan Khắc Su: Yêu nước bao đành để nước vong, Cùng nhau yêu nước phải chung lòng. Rphân khó tránh người chia tr, Đoàn kết mới không bị trói tròng. Độc lp tdo toàn lãnh thổ, Chquyền dân chủ khắp non sông. Nước mình chính phải dân mình định, Gii cu quc gia mt chđồng. (Lá Thơ Đông Kinh Q. 1, tr. 199, Bồ Tát Thanh Sĩ viết ngày 24-4-1966 Tokyo) Cm tRphân ám chỉ U phân; cm ttoàn lãnh thổ, khắp non sông ám chỉ câu: Nam Bc cuối cùng một mái hiên. Bài thơ nhn nhông Phan Khắc Su rng: Hãy đoàn kết dân tộc phá thế trn U phân giành độc lp thng nhứt nước nhà; muốn tránh thảm ha ngoại xâm, toàn dân phải gimt chđồng: Đoàn kết. TĐức Pht Thầy Tây An (1849) tới ông Ba Thới (1915), đến ĐứcThy Huỳnh Giáo Chủ (1939) và Ngài Thanh Sĩ (1968) viết sấm ký với công tâm trung thực ca bậc Tiên Phật, trung quân ái quốc, không chinh nghiêng, không bóp méo sự tht. Vậy chúng sanh không nên nghi ngờ theo phàm tánh, kẻo mang ti với các đấng Thiêng liêng. Cui hnguơn tà ma dày đặc lộng hành, Đức Pht Thầy Tây An chiết hồn linh tái thế nhiu ln, Phật pháp vô biên thần thông quảng đại, thiên biến vạn hóa, mượn xác khi nam khi nkhi già khi trẻ, phương tiện gn người đạo để truyn Phật pháp cứu bá gia. Tiên tri chống giặc Tàu MChâu ơi hỡi MChâu, Mê chi thằng Chệt để su cho cha! (Sm Giảng Thi Văn Giáo Lý của Đức Hunh Giáo Chủ thuyết trên đường khuyến nông từ miền Tây về Sài Gòn tháng 6 năm Ất Du 1945) Thế nay cn, sđã rồi! Mmang dời đổi Lập Đời Thượng Nguơn Chuyển luân thiên địa tun hun, Hội Này thấy lửa tàm lam cháy mày. Ít ai tỏ biết đặng hay, Ví như cầm chén ri tay bri! *(1) (Sm Truyền Đức Pht Thầy Tây An, tr.107, lưu ở đình Tòng Sơn năm Kỷ du 1849, Nguyễn văn Hầu biên khảo n tống năm 1973) Mđấy con! chén kia khi b,(2) Dù khéo tay không thể gn lin. Họa đến ri nim Phật sao yên, Lùi hơn sự tiến lên là khổ!* (Rằm Tháng Mười, BTát Thanh Sĩ viết ngày 15-12-1958 Tokyo) Bây giờ TA mới nói ra, Sắp đây mở Hi Long Hoa bngười. Lọc ai phước đức cao dư, Đặng mà lập lại con người Thượng Nguơn. Nói ra có kẻ bun hn, TA đâu có sợ keo sơn được ri. Nói đi nói đứng nói ngồi, Nói rằng nt np bni rã hai. *(3) Nói rằng cung loạn hăng say, Tđây cháy hết được quay chnào. Bên Tây rồi lại bên Tàu, Bên Anh bên Nhựt cũng nhào tiêu diêu. Không mai ắt cũng đến chiu, MNga cũng vậy Mmiều cũng san !* (Đức Cu Bần Sĩ Vô Danh ứng khu thuyết, kết tập sách Thin Tnh Bửu Sơn tr. 105, Hội Cư Sĩ Thiền Tnh Bửu Sơn Sydney n tống năm 2002)* san là san bằng tiêu tan. *(1,2,3) Cm tbchén, bể ni ám chỉ tên lãnh tụ cường quốc gây chiến Biển Đông chết đúng luật nhân quả, gieo gió gặt bão. Năm 2018, quân đồng minh xóa sổ Bc Kinh. Sau đó, Nga Mỹ giành ngôi bá chủ hoàn cầu, đánh bằng vũ khí nguyên tử, đưa thế gii đến ha dit vong, chết 7 còn 3. Sau cuc biến thiên dời non lp bin, Tri Pht lp li Thượng Nguơn Thánh Đức bng lai ti trn, hòa bình vĩnh cửu, nhà ngủ khỏi đóng cửa, của rơi ngoài đường không ai lượm. Thánh Địa Pht Di Lc Nam VN. A Di Đà Phật. Lun Gii Sm Kinh b+ chén là bể chén ám chkgây ra trn gic Bin Đông chết

Upload: ngoliem

Post on 06-Feb-2018

224 views

Category:

Documents


4 download

TRANSCRIPT

Tiên tri chống Tây U

Đức Phật Thầy Tây An ra đời thuyết pháp từ năm Kỷ dậu 1849, để lại bao lời tiên tri ứng nghiệm nhiệm mầu. Tiên tri thời Tây Mỹ, có đoạn sấm Phật Thầy cho biết:

Nói cho lớn nhỏ ghi lòng, Ngày sau mới biết rõ trong sự tình.

Giữ lời Thầy dạy đinh ninh, Hết Tây rồi lại thiệt tình tới U.*

Lành thời niệm Phật công phu,tướng Dữ thời chịu chữ lao tù hổ ngươi.

(Đức Phật Thầy Tây An tr. 165, Vương Kim & Đào Hưng biên khảo, nhà xuất bản Long Hoa ấn tống năm Quý tị 1953)

Đức Phật Thầy cho biết hết thời Tây (Pháp) cai trị, sẽ tới Mỹ {U=USA} ồ ạt đưa hơn 500 ngàn quân qua Việt Nam nổ ra cuộc chiến tranh chết chóc vô cùng khốc liệt. Ngài khuyên người đạo hãy giữ bổn phận tứ ân, trung quân ái quốc, yêu nước thương nòi chống xâm lăng, tu nhân tích đức, làm lành lánh dữ. Sau này, Đức Phật Thầy lại tái thế mượn xác ông Ba Nguyễn văn Thới (1866-1926) viết bộ sấm Kim Cổ Kỳ Quan năm 1915, tiếp tục tiên tri thời Tây Mỹ rõ hơn:

Khổ hạ nguơn bẩm lại cà lì, Coi thân cực sướng nỗi gì cho thân.

Tây chưa mãn tới việc U phân, * Ngồi buồn thấy khổ muôn dân não nề.

Lương kế Thánh nhơn chí kế hề, Ngậm ngùi Nam Việt nặng nề lao thân. (Kim Cổ Kỳ Quan 30: 60, ông Ba Thới viết năm 1915)

Cụm từ U phân, chữ U là USA là Mỹ, chữ phân là phân chia đất nước Việt Nam ra làm 2 miền Nam Bắc. Sau năm 1954, toàn dân Việt chờ tổng tuyển cử thống nhứt VN theo nội dung hiệp định Giơ-ne-vơ. Nhưng ngày 12-12-1955, đại sứ Trần văn Chương đại diện chánh phủ Ngô Đình Diệm tuyên bố ở Mỹ: Sẽ không có tổng tuyển cử ở VN. Hiệp định Genève không bắt buộc, chánh phủ Mỹ ủng hộ lập trường này. Câu sấm tiên tri rất là chính xác: Tây chưa mãn tới việc U phân. Mỹ ủng hộ giải pháp không tổng tuyển cử thống nhứt VN, Mỹ quyết định phân chia VN vĩnh viễn. Muốn có được một nước VN thống nhứt, ắt là chỉ có con đường chiến tranh như đã xảy ra…{The VN War}. * Cụm từ Nam Việt ám chỉ tên nước ta vào triều đại Triệu Vũ Vương năm 207 trước tây lịch có biên giới bao gồm 2 tỉnh Quảng Đông Quảng Tây {Lưỡng Quảng}, giặc phương bắc lấn chiếm mưu đồ Hán hóa, tổ tiên ta phải bỏ đất Lưỡng Quảng, dời xuống Thăng Long bảo tồn giống Hồng Lạc.

Đến năm Kỷ Mão 1939, Đức Phật Thầy tái thế ở làng Hòa Hảo mượn xác vị thanh niên Huỳnh Phú Sổ, lại tiên tri thời Tây Mỹ bằng những câu sấm như sau:

Đừng ham làm chức nắc nia, Ngày sau như khóa không chìa dân ôi!

Tu hành như thể thả trôi, Nay lở mai bồi chẳng có thiền tâm.

Mưu sâu thì họa cũng thâm, Ngày sau sẽ biết thú cầm chỉn ghê.

Sydney, 6-12-2017, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) https://kiengxluu.wixsite.com/kinhsambuuson * https://kinhsamthatson.wordpress.com/

Hùm beo tây tượng bộn bề, Lại thêm ác thú mãng xà rít to.

Bá gia ai biết thì lo, Gác tai dèm siểm đôi co ích gì.

Hết Tây rồi đến Huê Kỳ,* Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha!

Dân nay như thể không cha, Chẳng ai dạy dỗ thiệt là thảm thương!

(Khuyên Người Đời Tu Niệm, Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ viết tại làng Hòa Hảo năm Kỷ Mão 1939)

Ghi chú: Câu sấm: Hết Tây rồi đến Huê Kỳ, bị chánh quyền Bảo Đại thời Pháp kiểm duyệt, bắt buộc phải sửa lại là: Hết Đây rồi đến Dị Kỳ. Sau khi sửa chữ Tây thành Đây, và chữ Huê Kỳ thành Dị Kỳ, giáo hội mới được phép ấn hành để phổ biến cho đồng đạo. Luật Thiên Điều là: Bôi sửa kinh sấm đáng tội đày địa ngục. Cụm từ khóa không chìa ám chỉ năm 1975, người bị nhốt vào tù {trại cải tạo} nhưng không biết thời hạn ngày ra tù. Qua năm 1948, Đức Phật Thầy chiết hồn linh tái thế mượn xác Ngài Thanh Sĩ (21 tuổi). Khi ở Tokyo kinh đô Nhựt vào năm 1968, Ngài tiên tri bàn cờ toàn dân Việt phá thế trận U phân, và thống nhứt Nam Bắc: Nước Việt do dân Việt chủ quyền, Khó ai chi phối giống Rồng Tiên. Chung quy yêu nước hơn tư tưởng, Nam Bắc cuối cùng một mái hiên. (trích trong Hiển Đạo, Bồ Tát Thanh Sĩ viết ở Tokyo ngày 30-8- 1968)

Trong hoàn cảnh ngoại xâm phân chia đất nước, Ngài Thanh Sĩ khuyên toàn dân Việt đoàn kết một lòng, gác bỏ mọi dị biệt về tư tưởng, cùng chung sức phá thế trận U phân, đánh đuổi quân giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi. Có như thế, nước nhà mới thống nhứt Nam Bắc cùng một mái hiên. Năm 1966, đất nước lâm vào cảnh khói lửa mịt mù khi Mỹ đổ quân trực tiếp tham chiến, chết chóc thật hãi hùng, lòng dân hoang mang, ông Phan Khắc Sửu nguyên quốc trưởng chánh quyền miền Nam nhiều lần viết thơ qua Nhựt hỏi ý kiến, và được Ngài Thanh Sĩ viết thơ phúc đáp; sau đây là một trong những bài thơ mà Ngài đã phúc đáp cho ông Phan Khắc Sửu: Yêu nước bao đành để nước vong, Cùng nhau yêu nước phải chung lòng. Rẽ phân khó tránh người chia trị, Đoàn kết mới không bị trói tròng. Độc lập tự do toàn lãnh thổ, Chủ quyền dân chủ khắp non sông. Nước mình chính phải dân mình định, Giải cứu quốc gia một chữ đồng. (Lá Thơ Đông Kinh Q. 1, tr. 199, Bồ Tát Thanh Sĩ viết ngày 24-4-1966 ở Tokyo)

Cụm từ Rẽ phân ám chỉ U phân; cụm từ toàn lãnh thổ, khắp non sông ám chỉ câu: Nam Bắc cuối cùng một mái hiên. Bài thơ nhắn nhủ ông Phan Khắc Sửu rằng: Hãy đoàn kết dân tộc phá thế trận U phân giành độc lập thống nhứt nước nhà; muốn tránh thảm họa ngoại xâm, toàn dân phải

giữ một chữ đồng: Đoàn kết. Từ Đức Phật Thầy Tây An (1849) tới ông Ba Thới (1915), đến ĐứcThầy Huỳnh Giáo Chủ (1939) và Ngài Thanh Sĩ (1968) viết sấm ký với công tâm trung thực của bậc Tiên Phật, trung quân ái quốc, không chinh nghiêng, không bóp méo sự thật. Vậy chúng sanh không nên nghi ngờ theo phàm tánh, kẻo mang tội với các đấng Thiêng liêng. Cuối hạ nguơn tà ma dày đặc lộng hành, Đức Phật Thầy Tây An chiết hồn linh tái thế nhiều lần, Phật pháp vô biên thần thông quảng đại, thiên biến vạn hóa, mượn xác khi nam khi nữ khi già khi trẻ, phương tiện gần người đạo để truyền Phật pháp cứu bá gia.

Tiên tri chống giặc Tàu

Mị Châu ơi hỡi Mị Châu, Mê chi thằng Chệt để sầu cho cha!

(Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết trên đường khuyến nông từ miền Tây về Sài Gòn tháng 6 năm Ất Dậu 1945)

Thế nay cạn, sự đã rồi! Mở mang dời đổi Lập Đời Thượng Nguơn

Chuyển luân thiên địa tuần huờn, Hội Này thấy lửa tàm lam cháy mày.

Ít ai tỏ biết đặng hay,

Ví như cầm chén rủi tay bể rồi! *(1) (Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An, tr.107, lưu ở đình Tòng Sơn năm Kỷ dậu 1849, Nguyễn văn Hầu biên khảo ấn tống năm 1973)

Mẹ đấy con! chén kia khi bể,(2)

Dù khéo tay không thể gắn liền. Họa đến rồi niệm Phật sao yên, Lùi hơn sự tiến lên là khổ!* (Rằm Tháng Mười, Bồ Tát Thanh Sĩ viết ngày 15-12-1958 ở Tokyo)

Bây giờ TA mới nói ra, Sắp đây mở Hội Long Hoa bớ người.

Lọc ai phước đức cao dư, Đặng mà lập lại con người Thượng Nguơn.

Nói ra có kẻ buồn hờn, TA đâu có sợ keo sơn được rồi.

Nói đi nói đứng nói ngồi,

Nói rằng nứt nắp bể nồi rã hai. *(3)

Nói rằng cuồng loạn hăng say, Từ đây cháy hết được quay chỗ nào.

Bên Tây rồi lại bên Tàu, Bên Anh bên Nhựt cũng nhào tiêu diêu.

Không mai ắt cũng đến chiều, Mỹ Nga cũng vậy Mỹ miều cũng san!*

(Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết, kết tập sách Thiền Tịnh Bửu Sơn tr. 105, Hội Cư Sĩ Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2002)* san là san bằng tiêu tan.

*(1,2,3) Cụm từ bể chén, bể nồi ám chỉ tên lãnh tụ cường quốc gây chiến Biển Đông chết đúng luật nhân quả, gieo gió gặt bão. Năm 2018, quân đồng minh xóa sổ Bắc Kinh. Sau đó, Nga Mỹ giành ngôi bá chủ hoàn cầu, đánh bằng vũ khí nguyên tử, đưa thế giới đến họa diệt vong, chết 7 còn 3. Sau cuộc biến thiên dời non lấp biển, Trời Phật lập lại Thượng Nguơn Thánh Đức bồng lai tại trần, hòa bình vĩnh cửu, nhà ngủ khỏi đóng cửa, của rơi ngoài đường không ai lượm. Thánh

Địa Phật Di Lạc ở Nam VN. A Di Đà Phật. (1)

Luận Giải Sấm Kinh

bể + chén là bể chén ám chỉ kẻ gây ra trận giặc Biển Đông chết

Triều Tiên xương chất đầy đồng,

Thái, Cao, Lèo chuyển cuối Rồng Gà bay* (trích cuối bài pháp Sấm Giảng Trung Giang, do Pháp Chủ Huỳnh Đạo thuyết nhân dịp Xuân Đinh Vị {Đinh Mùi 1967}, Hội Thánh Nhị Giang, Tòa Thánh Bửu Sơn, Cẩm Sơn, Tri Tôn {Châu Đốc} ấn hành).

Cuộc đời càng gắt lại càng gay, Ngặt máy thiên cơ chẳng dám bày. Rắn núp dưới hang coi Ngựa chạy,

Khỉ ngồi trên ngọn ngó Gà bay. * Đông tây chộn rộn trời che xác, Nam bắc ê hề đất chở thây. Nhơn vật mười phần hao bảy tám, Thần Tiên thấy vậy cũng chau mày! (Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An)

Sống để coi nếu ai nói đúng, Mùi Dậu Thân rơi rụng đầy đường.

Con Gà bay chẳng qua mương, * Tí te tiếng gáy vấn vương não sầu ! (Thiên Lan Khảo Bút tr. 27, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh thuyết, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2015)

Trong năm Đinh Dậu 2017 {Gà bay} Bắc Hàn liên tục thử hỏa tiễn bay trên bầu trời Thái Bình Dương, khiêu khích Nhựt và Mỹ. Đáp lại, Mỹ cùng các nước đồng minh rầm rộ thao diễn quân sự trên bán đảo Hàn Quốc hăm dọa tấn công hủy diệt Bắc Hàn. Đây chính là nguyên nhân bùng nổ trận Á Đông Thái Bình Dương vào năm con Chó Mậu Tuất 2018. Triều Tiên xương chất đầy đồng! Trong năm Dậu 2017, cả hai lãnh tụ Mỹ và Bắc Hàn lời qua tiếng lại tố cáo {Gà gáy} khiến tình hình bán đảo Triều Tiên thêm căng thẳng. “Rocket Man”, “Mad Man” “Barking Dog”... Trong năm Dậu 2017 có dấu hiệu báo trước thế giới chắc chắn sẽ đối diện nguy cơ chiến tranh hạt nhân, chết chóc khủng khiếp, câu sấm Đức Cậu Bần Sĩ cảnh báo: “Tí te tiếng gáy vấn vương não sầu”.

Mùi Thân tớ chẳng gặp Thầy,

Dậu về Gà gáy phút giây tận tường. 2017 Năm năm dày dạn gió sương,

Tuất Hợi còn thấy đoạn trường xôn xao.

Năm đó mỗi người cầm dao, Tự quyền mổ xẻ mau mau cho rồi.

(Thiên Lan Khảo Bút tr. 40, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh thuyết, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2015)

Sydney, 22-11-2017, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) https://kiengxluu.wixsite.com/kinhsambuuson * https://kinhsamthatson.wordpress.com/

Gà bay Gà gáy

Chiến tranh Triều Tiên chắc chắn sẽ là

ngòi nổ mặt trận Á Đông Thái Bình

Dương, đưa đến sự cố “bể nồi”.

Nay mai sụp đổ cù lao, Giáp vòng bi lụy máu đào tuôn rơi.

Nói thiệt không phải nói chơi, Ngọ Mùi Thân DẬU lập Đời đó dân.

Lập rồi cái hội Tân Dân, Lập rồi cái đại Phong Thần kỳ ba.

Bây giờ TA mới nói ra, Sắp đây mở Hội Long Hoa bớ người.

Lọc ai phước đức cao dư, Đặng mà lập lại con người Thượng Nguơn

Nói ra có kẻ buồn hờn, TA đâu có sợ keo sơn được rồi.

Nói đi nói đứng nói ngồi,

Nói rằng nứt nắp bể nồi rã hai. * Nói rằng cuồng loạn hăng say,

Từ đây cháy hết được quay chỗ nào. Bên Tây rồi lại bên Tàu,

Bên Anh bên Nhựt cũng nhào tiêu diêu Không mai ắt cũng đến chiều,

Mỹ Nga cũng vậy Mỹ miều cũng san!*

( Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết, kết tập sách Thiền Tịnh Bửu Sơn tr. 105, Hội Cư Sĩ Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2002)

* Câu sấm: “Mỹ Nga cũng vậy Mỹ miều cũng san”, chữ san có lý thiên cơ là san bằng tiêu tan, tất cả đều thua, Tận Thế!

* Cụm từ “bể nồi” ám chỉ tên lãnh tụ cường quốc gây trận giặc Biển Đông chết theo đúng luật nhân quả, gieo gió gặt bão! Sau

sự cố bể nồi, đồng minh xóa sổ Bắc Kinh, Nga Mỹ tranh ngôi bá chủ hoàn cầu, đánh nhau bằng vũ khí nguyên tử, đưa đến cuộc Tận Thế và Hội Long Hoa.

Đờn kêu khổ sở bi ai, Đói đau chi xiết dạn dày hay không?

Đờn kêu biển hải mênh mông, Đờn kêu hãy ráng lập công bồi đường.

Đờn kêu vạn quốc thê lương, Tới đây rồi Thái Bình Dương diệu vời.

Sống đi coi hát người ơi, Đủ đào đủ kép vậy thời đỏ đen.

BÌNH DƯƠNG sóng động nhiều phen, Ráng xem Gánh Hát trúc kèn vang vang.

Đờn kêu nước Việt an bang, Nghe đây Khùng Khiệu trổi vang tiếng đờn.

(Quay Về Nguồn Cội tr. 268, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết thập niên 80, Thiền Tịnh Sơn Sydney ấn tống năm 1997)

Sau cuộc biến thiên, lập đời Thượng

Nguơn, Thánh địa Di Lạc ở Nam VN.