kỷ yếu hội thảo " vai trò của cố vấn học tập trong đào tạo theo tín
TRANSCRIPT
KỶ YẾU HỘI THẢO
VAI TRÒ CỦA CỐ VẤN HỌC TẬP TRONG
ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ
TẠI CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG – ĐẠI HỌC
VIỆT NAM
MỤC LỤC
1 Báo cáo đề dẫn
2 Phần I Những vấn đề chung về đào tạo theo học
chế tín chỉ và vai trò của đội ngũ cố vấn học
tập trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ
………1
3 Võ Xuân Đàn Các giải pháp nâng cao vai trò của cố vấn
học tập trong đào tạo theo học chế tín chỉ
………2
4 Trần Quốc Đạt Giải pháp hoàn thiện và nâng cao chất
lượng công tác cố vấn học tập trong đào
tạo theo tín chỉ
……….8
5 Nguyễn Minh Giang Cố vấn học tập: khó khăn và giải pháp khắc
phục
……...15
6 Nguyễn Duy Mộng Hà Xây dựng công cụ hỗ trợ triển khai công
tác cố vấn học tập và đánh giá hiệu quả
công tác này
………24
7 Phạm Thanh Hải
Hoàng Lê Minh Nhật
Chức năng tư vấn học tập của cố vấn
học tập trong đào tạo đại học, cao đẳng
theo hệ thống tín chỉ.
…….33
8 Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Nguyễn Diệu Thanh
Cố vấn học tập trong đào tạo tín chỉ ở các
trường đại học, cao đẳng VN hiện nay –
yêu cầu, thực trạng và một số giải pháp
……...40
9 Trịnh Thị Phan Lan Cố vấn học tập và thành tích học tập của
sinh viên trong đào tạo tín chỉ
………49
10 Nguyễn Thị Hà Lan
Lê Thị Tuyết
Nguyễn Thị Lệ
Phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ
và những yêu cầu đối với cố vấn học tập
…….58
11 Phạm Anh Nga Nâng cao vai trò của cố vấn học tập trong
đào tạo theo học chế tín chỉ
……...62
12
13
Ngô Minh Oanh Vai trò của đội ngũ cố vấn học tập trong
đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở các trường
đại học, cao đẳng
……...69
14 Nguyễn Thị Phú Năng lực cần có của cố vấn học tập đáp
ứng vai trò tư vấn học tập và hướng nghiệp
cho sinh viên ngành xã hội
…….73
15 Lê Tuấn Sơn Vài giải pháp căn cơ để cải thiện hoạt động
của cố vấn học tập ở các trường đại học,
……...82
cao đẳng tại Việt Nam
16 Nguyễn Ngọc Tài
Trịnh Văn Anh
Thực trạng đội ngũ cố vấn học tập trong
các trường đại học, cao đẳng hiện nay ở
Việt Nam
………88
17 Huỳnh Mộng Tuyền Cố vấn nghề trong nâng cao chất lượng
đào tạo, khẳng định thương hiệu của đại
học
…….94
18 Nguyên Thi Câm Vân
Hướng dẫn sinh viên xây dựng kế hoạch
học tập cá nhân thông qua dạy học tự định
hướng
…...100
19 Phần II Những giải pháp nâng cao vai trò đội ngũ
cố vấn học tập từ thực tiễn các trường cao
đẳng, đại học Việt Nam
……107
20 Trần Thị Hoài Diễm
Đào tạo theo học chế tín chỉ ở khối ngành
mỹ thuật – những nghịch lý và tiến trình
…….108
21 Thiều Thị Hường
Thực trạng sử dụng các biện pháp nâng cao
kết quả học tập cho sinh viên năm thứ nhất
của đội ngũ cố vấn học tập trường Đại học
Sư phạm – Đại học Huế
…...114
22 Võ Thị Ngọc Lan
Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cố
vấn học tập và rèn luyện của đội ngũ cố vấn
học tập ở trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật
TP. HCM
……125
23 Huỳnh Mỹ Linh Hoạt động cố vấn học tập tại trường Đại
học Đồng Tháp
…….139
24 Nguyễn Thị Nhung
Hà Thị Lan Dung
Vai trò của cố vấn học tập trong đào tạo tín
chỉ ở trường Đại học Công nghiệp Quảng
Ninh
…...146
25 Trương Thị Minh Nguyệt Vài nét về công tác cố vấn học tập trong
đào tạo theo học chế tín chỉ tại trường Cao
đẳng Sư phạm Kon Tum
……151
26 Kiều Ngọc Quý Nâng cao vai trò và hiệu quả của ông tác tư
vấn học tập tại trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia –
HCM
…….158
27 Lê Thị Thanh Thảo Hoạt động tư vấn học tập tại trường Đại
học Tiền Giang
…...168
28 Vũ Văn Thái Vai trò và nhiệm vụ của cố vấn học tập
trong đào tạo theo học chế tín chỉ dưới góc
……178
nhìn giáo dục dựa trên đầu ra
29 Nguyễn Thị Thanh Tùng Vai trò của cố vấn học tập theo học chế tín
chỉ thực tế tại khoa Công tác xã hội, trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.
HCM
…….188
30 Nguyễn Hoàng Thiện
Thực trạng và một số biện pháp nâng cao
tính hiệu quả của cố vấn học tập trong việc
giúp sinh viên tự học tại trường Đại học Sư
phạm TP. HCM
…...196
31 Lời cám ơn
BÁO CÁO ĐỂ DẪN HỘI THẢO
“Vai trò cố vấn học tập trong đào tạo theo hoc chê tin chi
tại các trƣờng cao đẳng, đại học Việt Nam”
Ban biên tập Kỷ yếu Hội thảo
Cố vấn học tập (CVHT) là người tư vấn cho sinh viên (SV) về chọn khóa học,
ngành học phù hợp với năng lực và sở thích, tư vấn và xét duyệt kế hoạch học tập của
SV từ khi bắt đầu nhập học, chuẩn bị vào giai đoạn chuyên ngành hay khi sắp kết thúc
chương trình học. CVHT là người định hướng, tư vấn, giám sát hoạt động học tập của
sinh viên, giúp cho sinh viên nhận thức được tầm quan trọng của quy chế đào tạo,
chương trình đào tạo, phương pháp học tập, từ đó, thiết lập chương trình đào tạo phù
hợp với điều kiện về trình độ, vật chất, hoàn cảnh cá nhân và giúp SV tự tìm ra biện
pháp khắc phục các khó khăn đầu tiên khi bước chân vào giảng đường cao đẳng, đại
học cho đến khi kết thúc chương học.
Viên Nghiên cưu Giao duc , Trương Đai hoc Sư pham Thanh phô Hô Chi Minh
tô chưc Hôi thảo “Vai trò cố vấn học tập trong đào tạo theo hoc chê tin chỉ tại các
trƣờng cao đẳng, đại học Việt Nam” nhăm nhin nhân vê thưc tê vai trò của CVHT
theo hoc chê tin chi ơ cac trương cao đẳng, đai hoc hiên nay , trao đôi kinh nghiêm
trong lãnh vực CVHT giưa cac trương đai hoc , cao đẳng trong và ngoài nước và cuối
cung là bàn bạc , thảo luận đưa ra những giải pháp hữu hiệu cho việc nâng cao vai trò
cố vấn học tập trong đào tạo theo hoc chê tin chi tại các trường cao đẳng, đại học Việt
Nam.
Hôi thao đa thu hut hơn 60 bài viêt cua nhưng nha giao ưu tu , nhưng nha quan ly
giáo dục, nhưng giang viên tre ơ cac trương đai hoc , cao đẳng trong toan quôc . Điêu
đo chưng to sư quan tâm sâu săc , sư trăn trơ cua quy vi đôi vơi “Vai trò cố vấn học
tập trong đào tạo theo hoc chê tin chi tại các trường cao đẳng, đại học Việt Nam”.
Nôi dung cua Hôi thao đươc chia lam hai phân lơn:
1. Phần thứ nhất của Hội thảo là những vấn đề chung về đao tao theo hoc chê tin
chỉ và vai trò của đội ngũ CVHT trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ
Ơ phần này , Hôi thao đươc sư quan tâm cua nh iều tác giả. Nôi bât la nhưng nha
giáo như: PGS.TS.Ngô Minh Oanh, TS.Huỳnh Mộng Tuyền, ThS.Trần Thanh Thúy,
TS.Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, ThS.Nguyễn Diệu Thanh, ThS.Phạm Thanh Hải,
ThS.Hoàng Lê Minh Nhật, TS.Nguyễn Thị Hà Lan, ThS.Lê Thị Tuyết, ThS.Nguyễn
Thị Lệ, ThS.Vũ Văn Thái, ThS.Trịnh Thị Phan Lan, TS. Nguyễn Ngọc Tài, ThS.
Trịnh Văn Anh.
Nhiêu tac gia đa đưa ra thực tiễn của đơn vị mình, như: TS. Huỳnh Mộng Tuyền,
ThS. Trần Thanh Thúy, trương Đai hoc Đồng Tháp đa manh dan đưa ra hướng riêng
cho CVHT trong cố vấn nghề Sư phạm là người tư vấn và hỗ trợ sinh viên tối đa khả
năng học tập, rèn luyện nghiệp vụ, thực tập, hành nghề nhằm thực hiện tốt yêu cầu
thực tiễn nghề sư phạm. Hoặc như ThS. Vũ Văn Thái, ĐHKHXH&NV Tp.HCM đã
nêu rõ vai trò của CVHT trong đào tạo theo học chế tín chỉ dưới góc nhìn giáo dục
dựa trên đầu ra. Khác với giáo dục dựa trên nội dung, giáo dục dựa trên đầu ra chú
trọng vai trò chủ động của sinh viên trong suốt qui trình đào tạo và những luận điểm,
nguyên tắc cơ bản trong giáo dục dựa trên đầu ra được sử dụng làm căn cứ cho việc
xác lập vai trò và nhiệm vụ của cả CVHT lẫn sinh viên.
Chúng tôi cũng băt găp nhưng trăn trơ nay ơ bai viêt cua nhiều tác giả và những
nhà giáo khác.
2. Phân thƣ hai cua Hôi thao la nhƣng giải pháp nâng cao vai trò CVHT từ thực
tiễn các trƣờng đai hoc, cao đẳng Viêt Nam
Ơ phần này , chúng tôi nhận được rất nhiều những chia se , nhưng đong gop quy
báu tư nhưng tac gia , như: TS.Võ Thị Ngọc Lan, PGS.TS.Võ Xuân Đàn, NCS.Trần
Thị Hoài Diễm, ThS.Trần Quốc Đạt, ThS.Nguyễn Thị Thanh Tùng, ThS.Nguyễn Thị
Nhung, ThS.Hà Thị Lan Dung, ThS.Nguyễn Thị Cẩm Vân, ThS.Nguyễn Minh Giang,
ThS.Nguyễn Duy Mộng Hà, TS.Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, TS.Lê Tuấn Sơn, ThS. Kiều
Ngọc Quý, ThS.Lê Thị Thanh Thảo, ThS.Huỳnh Mỹ Linh, ThS.Thiều Thị Hường,
ThS.Nguyễn Thị Phú, CN.Nguyễn Hoàn Thiện,...
ThS.Nguyễn Duy Mộng Hà phòng Khảo thí & Đảm bảo chất lượng trường
ĐHKHXH&NV Tp.HCM đã đưa ra phương thức phát triển công tác CVHT một cách
hệ thống: từ việc xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp, phân công và bồi dưỡng năng
lực CVHT đến việc theo dõi, giám sát và đánh giá công tác này một các định kỳ,
thường xuyên để cải tiến liên tục cũng như chia se kinh nghiệm lẫn nhau. Chính vì
thế, việc xây dựng bộ công cụ để đánh giá hiệu quả công tác CVHT là vô cùng cần
thiết.
ThS.Nguyễn Minh Giang đã nêu ra những thuận lợi khó khăn trong vai trò
CVHT và đã đưa ra những giải pháp cụ thể giải quyết những khó khăn trong thực tế
tại trường Đại học Sư phạm Tp.HCM.
ThS. Nguyễn Thị Cẩm Vân, đại học Sài Gòn đã trình bày các giai đoạn cụ thể
của tiến trình hướng dẫn sinh viên xây dựng kế hoạch học tập cá nhân nhằm nâng cao
hiệu quả công tác CVHT hiện nay.
ThS.Thiều Thị Hường đã vạch ra các biện pháp nâng cao kết quả học tập cho
sinh viên năm thứ nhất của đội ngũ CVHT tại trường Đại học Sư phạm – Đại học
Huế.
Bên cạnh đó, TS. Võ Thị Ngọc Lan đã đưa ra rất nhiều giải pháp cho việc nâng
cao công tác CVHT và rèn luyện đội ngũ CVHT tại trường ĐHSP Kỹ thuật Tp.HCM
như ban hành quy định cố vấn học tập mới, thay đổi mô hình CVHT và rèn luyện, bồi
dưỡng năng lực công tác CVHT và rèn luyện cho đội ngũ CVHT, thực hiện đánh giá
công tác cố vấn và rèn luyện của CVHT từng học kỳ, sử dụng phối hợp Email,
Website và Forum của bộ phận CVHT, thực hiện ghi và theo dõi Sổ tay học tập và rèn
luyện của SV...
Chúng tôi cho rằng với nhưng giải pháp mà các tác giả đã đưa ra trong kỷ yếu
hội thảo sẽ giúp cho chúng ta có những kinh nghiệm quý báu trong thực hiện công
tác CVHT tại đơn vị của mình.
Các vấn đề mà tác giả đã đặt ra, đã mang đên cho H ội thảo nhưng y tương mơi
me nhất định , nhưng đê xuât, những giải pháp hữu hiệu , khả thi cho công tác CVHT
hiện nay.
Ban tổ chức Hội thảo xin trân trọng gửi lời cám ơn các nhà quản lý, các nhà
nghiên cứu giáo dục, các cán bộ giảng dạy của các trường cao đẳng, đại học trên toàn
quốc đã gửi bài tham luận, gửi gắm những tâm huyết về giáo dục đại học, cao đẳng về
cho chúng tôi và các quý vị đại biểu về tham dự Hội thảo.
Chúng tôi rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp quý báu từ quý vị đại biểu
qua Hội thảo khoa học này. Những ý kiến đóng góp của quý vị sẽ góp phần quyết
định chất lượng và sự thành công của Hội thảo.
Xin trân trọng cám ơn!
1
PHẦN I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ
ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ
VÀ VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ CỐ VẤN HỌC TẬP TRONG
ĐÀO TẠO THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ
2
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAO TRÒ CỦA CỐ VẤN HỌC TẬP
TRONG ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ
Võ Xuân Đàn1
Đào tạo theo học chế tín chỉ là hình thức đào tạo tiên tiến nhất trên thế giới,
không giới hạn thời gian học tập, sinh viên phải tích lũy khối lượng kiến thức định
sẵn, khi nào tích lũy xong thì ra trường nên cho phép người học chủ động hơn, vẫn
đánh giá kết quả giám sát thực tế và trình độ người học hơn, học chế tín chỉ trong dạy
và học theo lối kinh viện.
Vai trò của người thầy trong đào tạo theo học chế tín chỉ sẽ nặng nề hơn vừa
giảng dạy vừa cố vấn cho quá trình học tập. Vai trò của người thầy trong đào tạo theo
học chế tín chỉ cũng có những thay đổi quan trọng. Người học chuyển từ thụ động
trong lịch trình tiếp cận tri thức sang chủ động trong quá trình học tập, tự sắp xếp lộ
trình học tập cho phù hợp với nhu cầu bản thân, vừa là người chủ động tím kiếm để
chiếm lĩnh tri thức vừa là người đàm phán với cán bộ giảng dạy, đàm phán với nhóm
và với chính mình được phát huy cao độ.
Trong đào tạo theo học chế tín chỉ, số tiết để để giáo viên dạy cả lý thuyết và
thực hành giảm đi khá nhiều so với hệ đào tạo học phần niên chế. Từ đó đặt ra những
vấn đề là làm thế nào truyền đạt được cho sinh viên một khối lượng kiến thức quá lớn
trong khi thời gian lại rút ngắn, liệu chất lượng sinh viên đào tạo theo học chế tín chỉ
có giảm đi so với trước đây hay không? Từ thực tiễn phát triển của các trường đại học
dạy theo tín chỉ không có sự suy giảm chất lượng giáo dục mà ngược lại nó còn là
động lực thúc đẩy giáo dục đại học phát triển. Điều này chỉ có thể lý giải bằng việc
xây dựng, quản lý và tổ chức hoạt động của đội ngũ cố vấn học tập trong đào tạo theo
học chế tín chỉ.
Về chức năng của cố vấn học tập được xác định: Tư vấn, tự giúp sinh viên trong
học tập, nghiên cứu, khoa học, định hướng nghề nghiệp, thực hiện quyền và nghĩa vụ
của sinh viên khi cần tư vấn cho sinh viên giải quyết một số vấn đề về tâm lý, cuộc
sống.
Về nhiệm vụ của cố vấn học tập trong đào tạo theo học chế tín chỉ: tư vấn, trợ
giảng sinh viên trong học tập, nghiên cứu khoa học, định hướng nghề nghiệp như:
- Hướng dẫn sinh viên thực hiện các quy chế, quy định và học chế tín chỉ về
quyền và nghĩa vụ của sinh viên.
1 PGS. TS – Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học
3
- Tư vấn cho sinh viên phương pháp học ở bậc đại học, phương pháp tự học và
kỹ năng nghiên cứu khoa học, kỹ năng thu thập và xử lý thông tin, tài liệu học tập.
- Hướng dẫn cho sinh viên hiểu biết về chương trình đào tạo toàn khóa, chương
trình đào tạo chuyên nghành và cách lựa chọn các học phần đăng ký học ở các học kỳ,
tuân thủ các điều kiện học tập trước, điều kiện kiên quyết của từng học phần.
- Hướng dẫn cho sinh viên quy trình, thủ tục đăng ký học phần, hủy đăng ký học
phần, xây dựng kế hoạch học tập cá nhân cho từng học kỳ.
- Ký chấp nhận hoặc không chấp nhận phiếu đăng ký học phần của sinh viên.
- Thảo luận và trợ giảng sinh viên trong việc lựa chọn nơi thực tập, lựa chọn đề
tài khóa luận, tiểu luận, đề tài nghiên cứu khoa học phù hợp vớ năng lực, nguyện vọng
và định hướng nghề nghiệp của sinh viên.
- Lưu ý sinh viên sự cố gắng học tập khi thấy kết quả học tập của họ giám sát.
- Trả lời các câu hỏi của sinh viên liên quan đến việc học tập trong phạm vi thẩm
quyền của mình.
- Không chỉ dẫn, giải đáp các câu hỏi liên quan đến nội dung kiến thức của môn
học hoặc can thiệp vào nội dung chuyên môn của giảng viên.
- Trung thực, công bằng khi thực hiện hoạt động tư vấn, trợ giảng và hướng dẫn
sinh viên.
- Tham gia các hoạt động tập huấn về công tác cố vấn học tập theo yêu cầu của
trường.
- Cố vấn học tập phải nắm vững mục tiêu. Chương trình đào tạo, các hình thức
đào tạo, quy chế đào tạo, các quy trình liên quan đến công tác đào tạo và quản lý sinh
viên như:
Nắm vững chương trình đào tạo của toàn khóa, chương trình của ngành, chuyên
nghành, nội dung của các khối kiến thức có trong chương trình, nội dung và vị trí của
từng môn học, học phần được trường tổ chức giảng dạy trong từng học kỳ, năm học
có sự hiểu biết về học tập đồng thời hai chương trình, học theo tiến độ nhanh, học
theo tiến độ chậm.
Nắm vững về các học phần, học phí bắt buộc, học phần tự chọn, học phần học
trước, điều kiện học các học phần, cách đăng ký học phần, rút bớt học phần đã đăng
ký học và bổ sung học phần, đăng ký học các học phần chưa đạt, học để nâng điểm
các học phần.
Nắm vững quá trình tổ chức đào tạo theo học chế tín chỉ, lên lớp học lý thuyết,
thực hành hoặc tham luận, thực tập tại cơ sở là bài tập lớn, số tín chỉ tối đa và tối thiểu
phải tích lũy xong trong từng học kỳ, năm học, số tín chỉ tích lũy để được xét học
bổng khuyến khích.
4
Nắm vững quy trình đánh giá kết quả học tập của từng học phần, môn học.
Xây dựng bản kế hoạch hoạt động của giảng viên cố vấn theo năm học.
Xây dựng và công khai lịch tiếp sinh viên, thời gian và địa điểm tổng sinh viên
hàng tuần và định lỳ sinh hoạt lớp trước mỗi học kỳ, cung cấp cho sinh viên số điện
thoại, email và các phương tiện liên lạc khác để sinh viên liên lạc trong trường hợp
cần thiết.
Bàn giao đầy đủ, kịp thời công cụ cố vấn khi chuyển giao nhiệm vụ cố vấn cho
người khác theo phân công của trường.
- Hướng dẫn, khuyến khích, tạo điều kiện cho sinh viên tham gia hoạt động học
thuật, tư vấn tâm lý, động viên sinh viên tham gia các hoạt động văn thể mỹ lành
mạnh, bổ ích.
- Hướng dẫn công tác đánh giá kết quả rèn luyện của sinh viên, nắm tinh hình
chung của lớp, chương trình sinh hoạt lớp định kì và báo cáo tình hình cho trưởng
khoa.
Về quyền của cố vấn học tập trong đào tạo theo học chế tín chỉ:
- Đề nghị hội đồng khen thưởng, kỷ luật của trường biểu dương khen thưởng
những cá nhân, tập thể sinh viên có thành tích xuất sắc trong học tập, kiến nghị xử lý
kỷ luật sinh viên theo quy chế sinh viên.
- Tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cố vấn học tập. Được
cung cấp đầy đủ các tài liệu, phương tiện cho việc tư vấn, hướng dẫn và quản lý sinh
viên cho cố vấn học tập.
- Yêu cầu phòng Đào tạo, Phòng Chính trị - Tổ chức – Công tác sinh viên cung
cấp thông tin về kết quả học tập của sinh viên thuộc lớp mình phụ trách, cung cấp
thông tin cá nhân của sinh viên trong trường hợp cần thiết để phục vụ công tác quản
lý sinh viên.
- Chủ động, sáng tạo trong công tác tư vấn, hướng dẫn và quản lý sinh viên
nhằm tạo điều kiện giúp đỡ sinh viên hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Qua phân tích tại đây, chúng ta thấy nội dung hoạt động của cố vấn học tập
trong đào tạo theo học chế tín chỉ hết sức phong phú và nặng nề, đòi hỏi tính chuyên
sâu, chủ động trong mọi hoạt động của đội ngũ cố vấn học tập. Do đó, để nâng cao vai
trò của cố vấn học tập trong đào tạo theo học chế tín chỉ từ Bộ Giáo dục và Đào tạo
đến các trường Đại học, Cao đẳng phải có sự đầu tư thích đáng để nâng cao vai trò
của cố ván học tập trong đào tạo theo học chế tín chỉ. Đội ngũ cố vấn học tập có vị trí
đặc biệt, góp phần to lớn vào sự nghiệp đào tạo ở các trường đại học và cao đẳng theo
học chế tín chỉ.
5
Để nâng cao vai trò của cố vân học tập trong đào tạo theo học chế tín chỉ chúng
tôi đề xuất những giải pháp sau đây:
1. Phải xác định rõ vai trò, nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của đội ngũ cố vấn
học tập trong đào tạo theo học chế tín chỉ. Phần cứng cần phải thống nhát trong các
hoạt động, phần mềm để đội ngũ cố vấn vận dụng sáng tạo, phát huy được trí tuệ của
người cố vấn học tập trong việc đảm nhiệm nhiện vụ của mình, hòa nhập được với đội
ngũ giảng viên để thực hiện mục tiêu đào tạo theo học chế tín chỉ.
2. Phải tuyên truyền, giáo dục cái tâm cho đội ngũ cán bộ cố vấn học tập để họ
yêu và thích với cái nghề mới là cố vấn học tập để từ đó luôn có sáng tạo và cố gắng
mới để hoàn thành nhiệm cụ của mình trước học sinh, trước Bộ Giáo dục và Đào tạo,
trước nhà trường về phần việc do mình phụ trách.
3. Phải trang bị cho họ và hướng dẫn họ tìm tòi sáng tạo ra bộ công cụ của hoạt
động cố vấn học tập để phục vụ có hiệu quả cho hoạt động theo mục đích của cố vấn
học tập về tuân thủ các yêu cầu sau đây:
- Việc tư vấn, trợ giảng cho sinh viên phải được tiến hành công bằng, công khai
và đặt mục tiêu lợi ích của sinh viên lên hàng đầu.
- Nội dung tưvấn phai chính xác, trung thực, không trái pháp luật và quy chế,
quy định của trường, của Bộ.
- Hoạt động tư vấn phải được ghi chép trong sổ công tác của cố vấn học tập theo
các biểu mẫu quy định.
4. Cố vấn học tập phải được nhà trường trang bị Quy chế đào tạo đại học, cao
đẳng theo hệ thống tín chỉ.
- Chương trình đào tạo của ngành đào tạo, có đầy đủ đề cương chi tiết các học
phần, môn học.
- Biên chế năm học và kế hoạch đào tạo suốt học kỳ.
- Sổ tay cố vấn, sổ tay công tác, sổ tay sinh viên.
- Danh sách sinh viên
- Sổ danh sách sinh viên có dán ảnh và tóm tắt thông tin vì cá nhân của sinh
viên.
- Các biểu mẫu phục vụ công tác cố vấn gồm mẫu đăng ký lý lịch sinh viên, mẫu
kế hoạch hoạt động cá nhân của giảng viên cố vấn, các biểu mẫu cho việc đăng ký học
phần, hủy đăng ký, mẫu biên bản về các cuộc hợp với lớp sinh viên, các biểu mẫu báo
cáo công tác cố vấn khi kết thúc học kỳ và các biểu mẫu cần thiết khác theo quy định
của trường.
- Các tài liệu khác liên quan đến sinh viên trong quá trình học tập tại trường.
6
5. Cần quy định chế độ làm việc của cố vấn học tập, mỗi cố vấn trong một năm
học đảm nhận khối lượng là bao nhiêu sinh viên, phụ trách bao nhiêu lớp là phù hợp
với năng lực làm việc của cố vấn học tập. Làm thế nào để cố vấn học tập đảm bảo
được thời gian làm cố vấn, thời gian làm chuyên môn theo quy định tránh tình trạng vì
phải hoàn thành nhiện vụ cố vấn học tập lại coi nhẹ công tác chuyên môn giảng dạy
của mình hoặc ngược lại. Làm cách nào tạo cho giảng viên đảm nhiệm vai trò cố vấn
học tốt lại đảm bảo được các mặt công tác khác của nhà trường giao phó cùng hoàn
thành tốt với chất lượng và hiệu quả cao.
6. Hàng năm, nhà trường nên tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm trong hoạt động
cố vấn học tập, mặt nào hoàn thành, mặt nào cần phải rút kinh nghiệm. Qua hội nghị
hàng năm phải đúc rút cho được những thành quả của công tác cố vấn học tập để nâng
cao các điển hình tiên tiến về mạt cố vấn học tập trong đào tạo theo học chế tín chỉ,
từng bước nâng cao giá trị khoa học và thực tiễn của công tác cố vấn học tập. Coi cố
vấn học tập là mặt hoạt động thứ hai sau đào tạo về kiến thức văn hóa cho sinh viên
theo học ở đại học và cao đẳng. Đưa hoạt động cố vấn học tập phát triển theo chiều
sâu của giá trị mặt hoạt động này theo đào tạo theo học chế tín chỉ.
7. Cố gắng qua từng năm xây dựng cho được đội ngũ cố vấn học tập tiên tiến với
chất lượng và hiệu quả công tác cao, loại bỏ những khó khăn trở ngại trong công tác
cố vấn học tập trong đào tạo theo học chế tín chỉ, từng bước ổn định mặt hoạt động
này trong đào tạo theo học chế tín chỉ.
8. Các cấp lãnh đạo từ Bộ giáo dục và đào tạo đến các trường đại học, cao đẳng
phaỉ coi hoạt động của cố vấn học tập là một khoa học, hãy đầu tư cho công tác này
để các cố vấn học tập có điều kiện đi sâu, tìm hiểu những giá trị khoa học về con
người – về người học để tiến tới cách tiếp cận, các giải pháp tối ưu nhất trong hoạt
động của cố vấn học tập vì đối tượng của mặt hoạt động này rất phong phú, rất đa
dạng, chúng ta mới đi vào sự chính diện của nó còn các mặt sau của nó đang còn là
một sân chơi vô cung phong phú cho hoạt động nghiên cứu khóa học của phần cố vấn
học tập trong đào tạo theo học chế tín chỉ.
Cố vấn học tập mặt hoạt động thứ hai của quá trình đào tạo cho hệ thống tín chỉ
của các trường đại học và cao đẳng hiện nay. Chúng ta cần nghiên cứu để có các giải
pháp nâng cao vai trò của cố vấn học tập trong đào tạo theo học chế tín chỉ để từng
bước luôn ổn định, nâng cao vai trò và giá trị của công tác cố vấn học tập nhằm góp
phần đưa công tác đào tạo theo hệ thống tín chỉ đi vào quỹ đạo của nó, góp phần
khẳng định đào tạo theo hệ thóng tín chỉ là loại hình đào tạo có giá trị cao, có tầm
nhìn chiến lược trong đào tạo đại học và cao đẳng ở Việt Nam trước mắt cũng như lâu
dài.
7
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sử dụng các phương pháp giảng dạy hiệu quả tại các trường Đại học, Cao đẳng
Việt Nam (2010), Viện nghiên cứu giáo dục – Trường Đại học Sư phạm Tp.
Hồ Chí Minh.
2. Lê Thạc Cán (1989), Một số đặc điểm giáo dục đại học ở Hoa Kỳ, Đại học
giáo dục, Viện khoa học giáo dục số 17.
3. Chiến lược phát triển giáo dục (2001 – 2010), NXB giáo dục Hà Nội
4. Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học Tp.HCM: quy chế giảng viên cố vấn –
Ban hành theo Quyết định QD 270 – ĐNT ngày 20/11/2013.
8
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CÔNG TÁC
CỐ VẤN HỌC TẬP TRONG ĐÀO TẠO THEO TÍN CHỈ
Trần Quốc Đạt1
Tóm tắt
Đào tạo theo tín chỉ đã trở thành quy định bắt buộc của Bộ Giáo dục và Đào tạo
đối với các trường đại học ở Việt Nam. Trong quá trình theo học tại trường, sinh viên
phải chủ động trong việc lựa chọn ngành học, môn học và xây dựng kế hoạch học tập
cá nhân cho từng học kỳ, năm học và cả quá trình đào tạo. Để giúp cho sinh viên có
thể thực hiện quyền tự chủ của mình, có một khâu quan trọng trong quy trình đào tạo
theo hệ thống tín ở các trường đại học là bộ phận Cố vấn học tập (CVHT). Như vậy,
CVHT có vai trò rất quan trọng trong đào tạo tín chỉ, ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành
công trong học tập, rèn luyện của sinh viên. Mỗi CVHT được xem như một “mắt xích”
trong vòng tròn mối liên hệ giữa Sinh viên - Chương trình đào tạo - Nhà trường.
Nhận thấy tầm quan trọng và sự quan tâm sâu sắc của các trường về công tác
CVHT, bài viết dưới đây nhằm tìm hiểu về hoạt động của C VH T trong các trường
đại học hiện nay, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao
chất lượng công tác CVHT trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở các trường đại học.
1. Đặt vấn đề
Cố vấn học tập (CVHT) - cụm từ được nhắc đến khá nhiều kể từ khi hình thức đào
tạo theo tín chỉ được áp dụng tại các trường Đại học ở Việt Nam. Trước tiên phải khẳng
định rằng, CVHT có vai trò rất quan trọng trong đào tạo tín chỉ và ảnh hưởng đến kết quả
học tập, rèn luyện của sinh viên. Với vai trò cố vấn, các CVHT là người định hướng,
tư vấn, giám sát hoạt động học tập của sinh viên, giúp cho sinh viên nhận thức được
tầm quan trọng của quy chế đào tạo, nhận thức chính xác các khái niệm của quy chế,
hiểu được quy chế, chương trình đào tạo, phương pháp học tập, từ đó chọn lựa được
chương trình kế hoạch học tập phu hợp với sức học, hoàn cảnh cá nhân và tự tìm ra
biện pháp khắc phục các khó khăn xuất hiện khi mới từ gia đình vào môi trường xã
hội và trường Đại học. Thông qua hoạt động cố vấn cho các lớp sinh viên, CVHT nắm
bắt được tâm tư, nguyện vọng, tình cảm, năng lực cá nhân, hoàn cảnh gia đình,
nguyện vọng của từng sinh viên để từ đó có những đề xuất kịp thời với nhà trường về
các biện pháp hỗ trợ cho sinh viên cũng như thực hiện tốt công tác quản lý sinh viên.
Thời gian qua, mặc du các trường Đại học đã áp dụng hình thức đào tạo theo tín
chỉ nhưng công tác CVHT vẫn còn khá mới me nên hoạt động thiếu tính đồng bộ,
1 ThS - Giảng viên Bộ môn Cơ sở – Cơ bản, Đại học Ngoại thương Cơ sở II TP. HCM
9
chưa đạt được yêu cầu mong muốn như: chưa tổ chức thường xuyên sinh hoạt định kỳ
đối với các lớp sinh viên, việc sinh hoạt định kỳ chưa có nội dung phong phú, các tiếp
xúc tư vấn nhiều khi mang tính tự phát trực tiếp hoặc qua trao đổi qua điện thoại nên
hiệu quả chưa cao. Do đó, việc tăng cường các giải pháp nhằm kịp thời hoàn thiện và
nâng cao chất lượng công tác CVHT là một yêu cầu có tính cấp thiết và thường xuyên
trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở các trường đại học hiện nay.
2. Khái quát thực trạng hoạt động cố vấn học tập tại các trƣờng đại học hiện nay
Trong những năm vừa qua, chủ trương đổi mới phương pháp giảng dạy theo
quan điểm giáo dục “lấy ngƣời học làm trung tâm” đang thu hút rất nhiều sự quan
tâm của toàn ngành giáo dục, bởi từ trước đến nay người học đã quen với việc thụ
động trong việc tiếp nhận kiến thức từ phía giáo viên. Tuy vậy, điều này không có
nghĩa là Nhà trường và các Thầy cô giáo phó mặc hết cho sinh viên tự biên tự diễn
trong quá trình học tập và rèn luyện, nhất là trong điều kiện đào tạo theo tín chỉ vẫn
còn khá mới me ở nước ta, do vậy sinh viên rất cần có sự hướng dẫn của CVHT.
Ơ các nước có nền giáo dục tiên tiến như Hoa Kỳ, các trường đại học đều rất
quan tâm đầu tư, xây dựng đội ngũ CVHT để hỗ trợ, tư vấn kịp thời, đầy đủ cho từng
sinh viên về đăng ký tín chỉ, thiết kế quy trình, kế hoạch học tập cá nhân…Trong điều
kiện các trường đại học ở nước ta còn khó khăn thì ít nhất mỗi Khoa/Ngành học cũng
cần bố trí được một CVHT tư vấn cho sinh viên. Hiện nay, hầu hết các trường đại học
và một số trường cao đẳng đã ban hành văn bản quy định khá chi tiết về vai trò, nhiệm
vụ, quyền lợi và trách nhiệm của đội ngũ CVHT. Mặc dù, việc triển khai công tác CVHT
cũng như phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ CVHT tại mỗi trường vẫn còn tồn tại nhiều
cách làm khác nhau nhưng chúng ta có thể khẳng định rằng, CVHT đóng vai trò là người
tư vấn và hỗ trợ sinh viên phát huy tối đa khả năng học tập, rèn luyện và nghiên cứu
khoa học, lựa chọn đăng ký học phần phù hợp để đáp ứng mục tiêu tốt nghiệp và khả
năng tìm được việc làm sau khi ra trường, theo dõi quá trình học tập, rèn luyện của
sinh viên nhằm giúp sinh viên điều chỉnh kịp thời hoặc đưa ra một lựa chọn đúng
trong quá trình học tập, đồng thời quản lý, hướng dẫn và chỉ đạo lớp được phân công
phụ trách.
Theo kết quả nghiên cứu do GS, TS Trần Thị Minh Đức chủ trì cùng với các
cộng sự của mình (Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28
(2012) 23-32) đã được tiến hành khảo sát trên 1564 sinh viên của 17 trường đại học
và 244 giảng viên đang là CVHT tại các trường đại học trên cả nước, từ kết quả
nghiên cứu này chúng ta có thể tìm hiểu khái quát tình hình hoạt động của CVHT
trong các trường đại học hiện nay qua một số thông tin sau:
10
Tên gọi/chức danh của CVHT: Mặc dù đang đào tạo theo phương thức tín chỉ
nhưng vẫn còn chức danh giáo viên chủ nhiệm (GVCN), như các trường: Đại học
Khoa học Tự Nhiên, Đại học Công nghệ và Khoa Luật (Đại học Quốc Gia Hà Nội);
Đại học Kinh Tế - Luật TP. HCM, Đại học Bách Khoa (Đại học Quốc gia thành phố
Hồ Chí Minh); Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Bách Khoa Đà Nẵng. Ngoài ra,
có trường còn sử dụng thuật ngữ: Giáo viên hướng dẫn (Trường Đại học Khoa
học Tự nhiên - TP Hồ Chí Minh), CVHT kiêm Giáo viên chủ nhiệm hay Chủ
nhiệm chương trình (Trường Đại học Hoa Sen -TP Hồ Chí Minh)… để chỉ chức danh
cố vấn học tập. Kết quả điều tra trên phiếu dành cho CVHT cũng cho thấy 47.5%
giáo viên cho biết họ làm công việc của cả CVHT và GVCN. Không ít giảng viên
vẫn cho rằng, mặc dù có sự khác biệt về tên gọi, song chức năng và nhiệm vụ của
GVCN và C V H T về cơ bản là không khác nhau. Có thể khẳng định rằng, việc
xác định tên gọi/chức danh và vai trò, trách nhiệm cho CVHT hiện nay chưa rõ ràng,
chưa thống nhất ở các trường đại học, điều này sẽ kéo theo nhiều vấn đề phát sinh
với trách nhiệm của người trợ giúp sinh viên trong môi trường đào tạo theo học chế
tín chỉ.
Các tiêu chí lựa chọn CVHT: Trong các văn bản quy định ở các trường đại học
hiện nay, tiêu chí lựa chọn cố vấn học tập phải là giảng viên có từ 2 đến 3 năm kinh
nghiệm giảng dạy trở lên và đạt tối thiểu trình độ thạc sĩ. Tuy vậy, thực tế điều tra
cho thấy có những tiêu chí không được ghi trong văn bản nhưng rất nhiều trường
thực hiện, đó là lựa chọn những C V H là giảng viên tre, nhiệt tình, thành thạo
sử dụng tin học và có thời gian (CVHT có độ tuổi từ 25-35 chiếm 78.3%). Theo lý
giải của cán bộ đang làm CVHT thì: “Cán bộ trẻ thường có thời gian, mới ra
trường, vừa trải qua thời kỳ sinh viên nên có thể hiểu sinh viên rõ hơn, hiểu phong
cách dạy của các thầy cô mà mình đã được học”, “Đào tạo theo hệ thống tín chỉ cần
phải am hiểu về mạng công nghệ thông tin” hay “giảng viên trẻ thường không để ý
nhiều đến vấn đề thù lao”. Như vậy, kết quả phỏng vấn cho thấy vẫn còn nhiều ý
kiến trái chiều xung quanh việc lựa chọn tiêu chí cho người làm C V H T . Trong
đó, các ý kiến lựa chọn tập trung vào kinh nghiệm về chuyên môn, khả năng định
hướng tốt cho sinh viên trong việc lựa chọn môn học, phát triển chuyên ngành,
những gợi ý về nơi làm việc…Tùy vào quan điểm của mỗi cơ sở đào tạo mà việc lựa
chọn vị trí CVHT có sự khác nhau.
Hệ thống văn bản hướng dẫn công tác CVHT: Kết quả điều tra cho thấy có
83.4% CVHT cho biết là khoa (Viện hay Trường) họ có văn bản quy định và
hướng dẫn vai trò, chức năng của CVHT; 16,6% CVHT không biết rõ cơ sở đào
tạo của mình có văn bản hướng dẫn công tác CVHT hay không (Thực tế trường
11
đại học nào cũng có các văn bản nói về công tác Cố vấn học tập/Giáo viên chủ
nhiệm). Các quy định về thời gian làm việc cùng sinh viên của CVHT ở các trường
đại học là rất khác nhau. Phần lớn các trường đều có quy định CVHT tư vấn cho sinh
viên từ 1-2 tiết/tuần, nhưng có trường chỉ quy định 1-2 tiết/tháng, hoặc tối thiểu là 1-
2 tiết/kỳ. Ơ một số trường lại có quy định CVHT phải trực ở khoa 2 lần/tuần để tiếp
sinh viên. Riêng một số trường đại học có Chuyên viên Phòng Đào tạo làm CVHT
(như Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG TP. HCM) thì trung bình họ phải tư vấn cho
sinh viên trong khoảng thời gian từ 2-3 giờ/ngày.
Hỗ trợ quyền lợi cho C V H T : Quy định về điều kiện hỗ trợ và quyền lợi cho
CVHT được ghi trong văn bản ở hầu hết các trường đã điều tra như sau: CVHT
được giảm số giờ dạy định mức, hưởng phụ cấp theo quy định; được bố trí thời gian
tham gia khóa tập huấn nghiệp vụ cố vấn học tập. Đối chiếu những quy định trên văn
bản với thực tế công việc mà các CVHT phải thực hiện cho thấy, hiện nay các Khoa,
Trường trả phụ cấp cho công việc bằng tiền tính theo tháng, hoặc giảm giờ dạy
hoặc tính theo năm (Dù là cách tính gì thì cuối cùng cũng có thể quy được ra tiền).
Kết quả điều tra cũng cho thấy có tới 34.6% CVHT nhận được thù lao dưới
mức 500 ngàn/ năm. Như vậy tính ra là mỗi tháng họ chỉ nhận được khoảng 50
ngàn đồng hỗ trợ công việc tư vấn học tập cho sinh viên. Có thể nói đây là mức
tương thù lao tương đối thấp, số tiền này có thể chưa đủ để CVHT trả tiền điện
thoại liên hệ với sinh viên. Đáng chú ý hơn, có 16.3% số CVHT không nhận được
phụ cấp trách nhiệm và cũng không biết về khoản tiền này. Chỉ có 6.4% CVHT nhận
được khoản phụ cấp trên 2 triệu/năm. Kết quả khảo sát trong 17 trường đại học cho
thấy: trường ĐH Bách Khoa Hà Nội và trường ĐH Kinh tế Quốc dân Hà Nội là hai
trường có phụ cấp cho CVHT cao nhất (số CVHT nhận được hỗ trợ trên 2 triệu/ năm
chủ yếu rơi vào 2 trường này). Như vậy, việc phụ cấp cho CVHT ở các trường đại
học hiện nay rất khác nhau, điều này phụ thuộc vào điều kiện vật chất của trường,
khối lượng công việc mà CVHT được giao đảm nhiệm.
Từ các thông tin nghiên cứu trên, ta có thể đưa ra nhận định một cách khái quát
rằng, việc triển khai công tác CVHT tại các trường đại học hiện nay vẫn còn tồn tại
nhiều cách thực hiện khác nhau, biểu hiện như: Việc xác định vai trò, trách nhiệm của
CVHT, tiêu chí lựa chọn CVHT, các văn bản quy định, hướng dẫn công tác CVHT,
chế độ hỗ trợ cho đội ngũ làm CVHT… Liệu những cách làm như vậy đã thực sự
đồng bộ và mang lại hiệu quả cao nhất hay chưa? Dưới đây là một số đề xuất nhằm
hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác CVHT trong đào tạo theo tín chỉ hiện nay.
12
3. Một số đề xuất hoàn thiện và nâng cao chất lƣợng công tác cố vấn học tập
3.1. Về phía Bộ Giáo dục và Đào tạo
Nên quy định chặt chẽ tiêu chuẩn, nhiệm vụ của đội ngũ làm công tác CVHT ở
các trường đại học, xem đây như một yêu cầu, nhiệm vụ bắt buộc đối với các trường
trong quá trình đào tạo. Có kế hoạch, văn bản chỉ đạo triển khai nhằm theo dõi, kiểm
tra, đánh giá việc thực hiện của các trường để đảm bảo công tác kiểm định chất lượng
đào tạo thông qua đánh giá hoạt động của công tác CVHT.
3.2. Về phía các trƣờng
Thứ nhất, các trường đại học cần xác định rõ vai trò, nhiệm vụ của đội ngũ làm
công tác CVHT. Trên cơ sở đó, định kỳ các trường cần phải tổ chức, kiểm tra, đánh
giá kết quả thực hiện theo các tiêu chuẩn đã được xác định.
Thứ hai, xây dựng hệ thống văn bản, quy trình hoạt động CVHT, xây dựng đề
cương chi tiết môn học để làm cơ sở hoàn thiện chương trình và kế hoạch đào tạo giúp
cho công tác CVHT được triển khai theo đúng mục tiêu, kế hoạch.
Thứ ba, hoạt động CVHT không thể đạt hiệu quả tốt nếu như các điều kiện về cơ
sở vật chất của nhà trường không được đảm bảo, đặc biệt là các phòng phục vụ cho
công tác thường xuyên của đội ngũ CVHT: tư vấn, chia se, trao đổi, lưu trữ hồ sơ..
Thứ tư, quan tâm đẩy mạnh việc bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ kỹ năng công
tác đội ngũ CVHT, đặc biệt là khả năng sử dụng thành thạo tin học, kỹ năng tư vấn hỗ
trợ, kỹ năng giải quyết vấn đề…để đáp ứng yêu cầu công tác ngày càng cao. Ơ các
nước có nền giáo dục tiên tiến như Hoa Kỳ, các trường đại học rất quan tâm đầu tư,
xây dựng đội ngũ CVHT để hỗ trợ, tư vấn kịp thời, đầy đủ cho từng sinh viên về đăng
ký tín chỉ, thiết kế quy trình, kế hoạch học tập cá nhân…Trong điều kiện các trường
đại học ở nước ta còn khó khăn thì ít nhất mỗi Khoa/Ngành học cũng cần bố trí được
một CVHT tư vấn cho sinh viên.
Thứ năm, tăng cường chăm lo, hỗ trợ các điều kiện vật chất và tinh thần cho các
CVHT thông qua việc ghi nhận, biểu dương kịp thời để đội ngũ CVHT có thêm niềm
say mê, nhiệt huyết làm cho hiệu quả và chất lượng công tác ngày một nâng cao.
Thứ sáu, định kỳ phối hợp với các Phòng/ban và các đơn vị chức năng trong
trường như Phòng CTCT&SV, Đoàn TN-Hội sinh viên tổ chức các buổi Hội thảo
chuyên đề, trao đổi kinh nghiệm về hoạt động giảng dạy, học tập nhằm tổng kết đánh
giá và định hướng công tác tư vấn, CVHT cho sinh viên trong điều kiện học chế tín
chỉ. Chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục giúp cho sinh viên nâng cao ý thức tự
13
giác, tinh thần thái độ học tập nghiêm túc, nắm vững quy trình quy chế để thuận tiện
đăng ký khối lượng học tập hiệu quả nhất.
3.3. Về phía cố vấn học tập
Thường xuyên học tập, nghiên cứu, nắm vững mục tiêu giáo dục, nội dung,
chương trình, phương pháp đào tạo, quy chế của Bộ Giáo dục và Đào tạo, quy định,
nội quy của Trường về học tập, rèn luyện và công tác sinh viên; thường xuyên cập
nhật những thay đổi, bổ sung trong quy chế, quy định, nội quy để có thể tư vấn, hỗ trợ
giúp đỡ sinh viên trong quá trình học tập, rèn luyện tại Trường. Nắm rõ chức năng,
nhiệm vụ các đơn vị liên quan trong công tác sinh viên để hướng dẫn sinh viên cách
tìm hiểu thông tin, liên hệ công việc liên quan đến công tác học tập và rèn luyện.
Căn cứ vào đề cương chi tiết học phần để hướng dẫn cách học cho sinh viên
như: lập kế hoạch học tập, nghe giảng và ghi chép trên lớp, tự học, học nhóm, đọc
sách, nghiên cứu và giải quyết vấn đề…CVHT cần xem đây là một trong những mục
tiêu lâu dài để nâng cao chất lượng dạy và học chứ không chỉ dừng lại ở các giải pháp
tạm thời. Bên cạnh đó, CVHT phải luôn thể hiện tốt tinh thần trách nhiệm, sự tận tụy
với sinh viên và nhất là không ngừng học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ và năng lực công tác CVHT nhằm đáp ứng yêu cầu công việc được
giao.
Trong quá trình làm công tác, CVHT nên dành thời gian thích hợp để hướng dẫn
sinh viên rèn luyện một số kỹ năng tự học. Việc này cần phải được tiến hành ngay từ
những học phần đầu tiên của chương trình đào tạo, nhằm giới thiệu tổng quát về yêu
cầu, nội dung chương trình, giới thiệu về cách học, phương pháp học.. Các phương
pháp giảng dạy trong đào tạo theo tín chỉ đều phải hướng đến mục tiêu lấy người học
làm trung tâm, vì vậy CVHT phải luôn quan tâm, nhắc nhở sinh viên việc tự học, tự
nghiên cứu để có thể chủ động nắm bắt kiến thức hiệu quả hơn.
4. Kết luận
Hiện nay, việc đào tạo theo hệ thống tín chỉ đã trở thành một yêu cầu bắt buộc
đối với quá trình đào tạo của các trường đại học ở Việt Nam, đây là một định hướng
phát triển giáo dục phù hợp với xu thế chung của các nền giáo dục tiên tiến trên thế
giới. Có thể nói, việc chuyển đổi mô hình đào tạo theo tín chỉ đã tạo ra không ít khó
khăn cho việc tổ chức, sắp xếp, đăng ký môn học...đối với sinh viên. Sự thay đổi
này cũng đã tạo ra nhiều áp lực đối với đội ngũ CVHT. Phần lớn CVHT hiện nay
vẫn thường đảm nhiệm nhiều công việc cùng một lúc, họ vừa làm giảng viên, vừa
đi dạy, nghiên cứu khoa học, vừa làm cố vấn học tập, làm trợ lý, đảm nhận các vị
trí khác.
14
Mặc dù trên thực tế còn tồn tại nhiều khó khăn bất cập nhưng công tác CVHT
vẫn giữ tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Kết quả
học tập và rèn luyện của sinh viên trong những năm tháng ở trường sẽ không thể
không nhắc đến vai trò và dấu ấn sâu sắc của đội ngũ làm công tác CVHT. Điều này
không chỉ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, giúp sinh viên khắc sâu và vận dụng
được những kiến thức đã học vào thực tiễn công việc và cuộc sống sau khi ra trường
mà còn là yếu tố đảm bảo chất lượng đào tạo và uy tín, thương hiệu của Nhà trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo (2007), Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính
quy theo hệ thống tín chỉ, Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ban hành ngày
15/08/2007.Link:http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethong
vanban?class_id=1&_page=277&mode=detail&document_id=38739, truy cập
ngày …..
2. Luật Giáo dục sửa đổi (2009),
http://www.moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx
?ItemID=23806,
3. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 23-32
4. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học sinh viên toàn quốc các trường Đại học khối ngành
Kinh tế-Quản trị kinh doanh do trường Đại học Hải Phòng tổ chức, tháng
10/2014
5. http://tapchi.vnu.edu.vn/upload/2014/04/1340/4.pf
15
CỐ VẤN HỌC TẬP: KHÓ KHĂN VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
Nguyễn Minh Giang1
1. Đặt vấn đề
Hình thức đào tạo theo tín chỉ ngày càng phổ biến ở các trường Đại học và
Cao đẳng trong cả nước. Khi thực hiện hình thức đào tạo này thì vai trò của cố
vấn học tập đang ngày một cần thiết hơn và ảnh hưởng trực tiếp hiệu quả học
tập và nghiên cứu của sinh viên. Cần phải khẳng định rằng CVHT có vai trò đặc
biệt quan trọng, không thể thiếu trong đào tạo theo học chế tín chỉ. Mỗi CVHT
là một nhân tố then chốt trong mối quan hệ nhà trường - sinh viên – thị trường
lao động. Đồng thời mỗi CVHT còn là một chuyên gia tư vấn về học tập và việc
làm cho sinh viên, đồng hành cùng sinh viên trong suốt quá trình học tập. Phần
lớn CVHT hiện nay trong các trường đại học được giao cho các giảng viên. Tuy
nhiên, giảng viên đang “quá tải” về công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học và
phải “gánh” thêm nhiệm vụ CVHT để hướng dẫn về thủ tục hành chính,về sinh
hoạt văn - thể- mỹ,…Do đó, chất lượng công tác CVHT còn chưa đạt được hiệu
quả như mong muốn. Làm gì để nâng cao vai trò của CVHT trong đào tạo tín
chỉ? Bài viết này, đề cập đến những khó khăn và đề xuất một số giải pháp khắc
phục giúp nâng cao chất lượng trong công tác cố vấn học tập hiện nay.
2. Vai trò của cố vấn học tập
CVHT phai thưc hiên đươc cac chưc năng cơ ban là : Tư vấn, định hướng
quá trình học tập và lựa chọn hương ngh ề nghiệp giúp sinh viên; Theo doi va
giám sát đươ c quá trình học tập và lựa chọn đinh hương ngh ề nghiệp của sinh
viên; Tham mưu cho lãnh đạo trường, khoa và bộ môn các vấn đề liên quan đến
công tác quản lý đào tạo, NCKH và công tác sinh viên
CVHT phai hoan thanh đươc cac nhiêm vu chính bao g ồm: Cung với các
phòng chức năng quán tri ệt và tận tình hướng dẫn sinh viên nắm vững các quy
chế đào tạo của Bộ GD&ĐT và các quy định cu thê hoa v ề đào tạo của trường;
Tư vấn cho sinh viên về chương trình đào tạo bao gồm mục tiêu, chuân đâu ra ,
nội dung chương trinh , học phân băt buôc , tư chon , học phần thay thế… theo
hương chuyên ngành…; Tư vấn cho sinh viên cách thức xây dựng kế hoạch
học tập cho toàn khóa học đảm bảo sự phù hợp với năng lực và hoàn cảnh của
mỗi sinh viên; Hướng dẫn sinh viên đăng ký học phần ở từng học kỳ (tiến độ)
để hoàn thành kế hoạch học tập đã xây dưng và điêu chinh lai kê hoach hoc tâp
1 ThS – Giảng viên khoa Giáo dục Tiểu học, trường Đại học Sư phạm TP. HCM
16
cho phu hơp vơi điêu kiên th ực tế; Tư vấn cho sinh viên về phương pháp học
tập, nghiên cứu khoa học; Cảnh báo về kết quả học tập và định hướng sự lựa
chọn tiến độ, cách phát huy học lực giỏi và khắc phục học lực yếu, kém; Hướng
dẫn sinh viên tham gia các hoạt động ngoai khoa va cac hoat đông h ọc thuật đê
phát triển các kỹ năng mềm… ; Năm băt đươc xu hương nghê nghiêp va thưc
hiên nhiêm vu tư v ấn hướng nghiệp và việc làm cho sinh viên; Hướng dẫn và
giúp đỡ sinh viên giải quyết những vấn đề khó khăn trong h ọc tập và nghiên
cứu khoa học, thâm chi thâu hiêu gia canh va co thê giúp đ ỡ đươc sinh viên giải
quyết môt sô kho khăn trong đơi sông ; Thường xuyên động viên, khích lệ sinh
viên xác định rõ động cơ rèn luyện phấn đấu và yên tâm học tập, kiên trì rèn
luyện phấn đấu toàn diện để ngày mai lập nghiệp.
Trong quá trình thực hiện, CVHT nên tập trung nhiều vào các vấn đề trọng
tâm như xây dựng kế hoạch học tập toàn khóa cho sinh viên, đối với các học
phần cơ bản trong chương trình, cần giới thiệu nội dung, ý nghĩa của nó trong
chương trình học. Đối với các môn tự chọn thuộc khối kiến thức cơ sở ngành và
khối kiến thức chuyên ngành, sinh viên chưa thật sự hiểu rõ về các môn mình
thật sự yêu thích và phù hợp với khả năng của bản thân, do đó, cần giới thiệu
nội dung và kỹ năng của học phần đó. Bên cạnh đó, CVHT cần giúp các em
chọn lựa những học phần giúp tăng tính “mềm deo” trong việc chọn lựa ngành
nghề trong tương lai. Trong thực tế, một số trường hợp nảy sinh trong việc lập
kế hoạc học tập và thực hiện kế hoạch học tập của sinh viên như: Trong kế
hoạch học tập, sinh viên chọn một số học phần tự chọn chuyên ngành này,
nhưng trong quá trình học tập, các em lại cảm thấy yêu thích một số học phần
khác mà không có trong kế hoạch học tập. Trong hoàn cảnh này, CVHT cần
hướng dẫn, tạo điều kiện để giúp các em có thể học các học phần mình yêu
thích. Trong công tác tư vấn cần quan tâm đảm bảo sĩ số lớp học phần để không
làm ảnh hưởng đến việc học tập của các sinh viên khác.
Các hoạt động văn nghệ, thể thao và hoạt động đoàn thể trong nhà trường
giúp sinh viên rèn luyện thân thể, tăng cường tính cộng đồng, tham gia hoạt
động xã hội,…CVHT cần giúp sinh viên hiểu rõ mục tiêu của các hoạt động rèn
luyện trong nhà trường, giúp sinh viên có ý thức, lòng say mê trong việc tham
gia các hoạt động chính trị- xã hội, văn hóa, văn nghệ, thể thao, các hoạt động
hướng đến lợi ích cộng đồng, phòng chống tệ nạn xã hội,… Điều quan trọng
trong công tác tư vấn là giúp sinh viên ý thức tham gia vì mục đích chính đáng
chứ không vì mục đích là để được điểm số cao khi xét điểm rèn luyện ở cuối
học kỳ.
17
Ngoài công tác tư vấn về học tập, CVHT còn đảm nhiệm vai trò theo dõi,
đôn đốc sinh viên trong hoạt động rèn luyện ở nhà trường; kết hợp với ban cán
sự lớp, chi đoàn, hội sinh viên,… đánh giá thành tích hoạt động, tình hình vi
phạm qui chế của sinh viên, từ đó, đánh giá kết quả rèn luyện của sinh viên.
3. Những vấn đề đang tồn tại của cố vấn học tập
Rất nhiều ý kiến cho rằng hiệu quả của CVHT chưa cao là do chúng ta
không đủ đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất và kinh phí để thực hiện riêng biệt
hai mảng công tác là CVHT và chủ nhiệm lớp, hầu hết giảng viên phải kiêm
nhiệm cả hai nhiệm vụ trên ; hay công tác CVHT còn khá mới me đối với các
trường đại học ở nước ta,… Tuy nhiên, nguyên nhân chính vẫn là do các trường
chưa đánh giá đúng vai trò, chức năng và nhiệm vụ của CVHT.
Trong hoàn cảnh hiện tại, giảng viên vừa tham gia giảng dạy vừa kiêm
nhiệm công tác CVHT. Để hoàn thành yêu cầu của nhà trường và nhu cầu của
SV, nhiều cán bộ làm công tác CVHT cũng gặp không ít khó khăn. Khó khăn
lớn nhất có lẽ là về thời gian và khó khăn thứ hai là những quy định của nhà
trường về chương trình đào tạo, công tác CVHT… vẫn chưa cụ thể, vẫn còn
trong giai đoạn sửa đổi và thay đổi nhiều làm CVHT không nắm bắt kịp để phổ
biến cho SV. Tiêu chuẩn của một CVHT phải là một người có ít nhất ba năm
kinh nghiệm giảng dạy để giúp đỡ sinh viên và phải nắm vững được chương
trình đào tạo, quy trình đào tạo. Ngoài ra các CVHT còn phải có quỹ thời gian
để tham gia hoạt động cùng với sinh viên.
Đào tạo theo tín chỉ, việc triển khai hoạt động của CVHT thiếu tính đồng
bộ, chưa đạt được yêu cầu mong muốn, như chưa tổ chức thường xuyên sinh
hoạt định kỳ đối với các lớp sinh viên, việc sinh hoạt định kỳ chưa có nội dung
phong phú, các tiếp xúc tư vấn nhiều khi mang tính tự phát trực tiếp hoặc qua
trao đổi qua điện thoại nên hiệu quả chưa cao. Bên cạnh những cố vấn học tập
“lăn lộn” với sinh viên, giải quyết rất nhiều việc trong quá trình học tập của sinh
viên, thường xuyên phản ánh lại thực tế để cố vấn lại với nhà trường trong việc
quản lý và điều hành chương trình đào tạo, thì một bộ phận không nhỏ CVHT
đã không làm tốt được vai trò của mình.
Công tác cố vấn học tập là công tác kiêm nhiệm nên hầu hết các cán bộ
đều rất bận rộn và dành thời gian cho sinh viên chủ yếu cho những việc mang
tính bắt buộc nhiều hơn như: hướng dẫn sinh viên lập kế hoạch học tập, duyệt
kế hoạch học tập…. Có những trường hợp cả lớp có những thắc mắc như nhau
mà sinh viên không cử đại diện gặp CVHT để giải quyết vấn đề mà cứ mỗi sinh
18
viên đều tìm CVHT với cùng câu hỏi thì dễ làm cho sự việc nặng nề hơn. Đây
là vấn đề tổ chức lớp chưa được tốt. Mặc dù có các phong trào và hoạt động
ngoại khóa của sinh viên như lao động, văn nghệ, thể thao… giúp CVHT tìm
hiểu về tâm tư tình cảm của sinh viên nhưng rất ít CVHT tham gia.
Vấn đề kế hoạch học tập của sinh viên cũng còn một số vướng mắc như kế
hoạch học tập thường xuyên thay đổi do nhiều học phần sinh viên đã đăng ký
nhưng không mở được hay một lý do nào đó thì chỉ cần thay đổi một học kỳ là
thay đổi kế hoạch toàn khóa. Điều này làm sinh viên rất bị động trong việc lập
kế hoạch và CVHT phải thường xuyên duyệt lại kế hoạch học tập cho sinh viên.
Thời gian duyệt kế hoạch học tập phân cho CVHT thường xác định thời gian cụ
thể, đây là một ưu điểm lớn của quá trình cải tiến nhưng sẽ là nhược điểm cho
những CVHT bận đi công tác hay không kết nối được internet trong thời gian
này.
Hiện tại, CVHT chưa thể kiểm tra được kết quả học tập, phân loại học lực
của từng sinh viên qua mạng, làm hạn chế việc tư vấn cho sinh viên học tập và
điều chỉnh kế hoạch học tập của sinh viên một cách kịp thời và hiệu quả. Về
việc đánh giá điểm rèn luyện thì sinh viên nào có năng khiếu về thể thao văn
nghệ thường có điểm rèn luyện cao hơn các sinh viên khác do có thành tích
trong lĩnh vực này. Một số sinh viên có tâm lý tham gia các hoạt động ngoại
khóa ở cấp Trường, Khoa, Liên Chi Hội do tham gia các hoạt động ở bậc này
điểm số cao hơn tham gia cấp Chi đoàn. Do vậy dẫn đến tình trạng một số sinh
viên ít tham gia các hoạt động của lớp, chi đoàn nhưng điểm rèn luyện rất cao,
tạo tâm lý không tốt cho các sinh viên khác trong lớp.
4. Một số giải pháp nâng cao chất lƣợng cố vấn học tập
4.1. Quy định trong quản lý và điều hành
Để phát huy vai trò, chức năng và nhiệm vụ của CVHT, các cơ sở giáo dục
đại học cần thiết phải xây dựng quy trình công tác CVHT một cách khoa học.
Trang bị cho đội ngũ CVHT những kiến thức, trao đổi kinh nghiệm cần có của
CVHT. Đồng thời phải tổ chức lại công tác chủ nhiệm lớp, tách biệt với công
tác CVHT. Đánh giá kết quả hoạt động của CVHT trong từng học kỳ (năm
học). Dựa vào đánh giá kết quả từng học kỳ (năm học) để kiện toàn, củng cố lại
hệ thống CVHT để hệ thống này hoạt động ngày càng có chất lượng và hiệu
quả.
Về phía cấp lãnh đạo Khoa: Hội đồng CVHT cần xem xét để phân công và
bố trí hợp lý các cán bộ làm CVHT, tránh tình trạng “quá tải” trong công việc
19
của CVHT, chọn những CVHT có kinh nghiệm cũng như kỹ năng làm CVHT,
đặc biệt đối với sinh viên năm nhất còn quá nhiều bỡ ngỡ. Hội đồng CVHT cấp
Khoa cần họp xét để tuyên dương những CVHT có tinh thần, trách nhiệm, hoàn
thành tốt công việc. Bên cạnh đó cần kỷ luật nghiêm khắc những CVHT thiếu
trách nhiệm, gây khó khăn cho sinh viên
Về phía các CVHT, trước hết cần phải tự trao dồi các phẩm chất đạo đức,
có ý thức trách nhiệm cao, phải nắm được vai trò, nhiệm vụ của cố vấn học tập.
Biết lắng nghe ý kiến của sinh viên. Đồng thời, nắm được các nguyên tắc tâm lý
trong công tác tư vấn và luôn giữ tư cách của người thầy giáo, có hành vi cư xử
đúng mức làm gương cho sinh viên. CVHT phải tự mình sắp xếp thời gian thật
hợp lý để tăng cường các buổi gặp gỡ, tiếp xúc với sinh viên để hiểu hơn về
hoàn cảnh, điều kiện của từng sinh viên, cũng như những tâm tư và nguyện
vọng của các em để từ đó có những phương hướng tư vấn đúng đắn cho sinh
viên.
Mỗi CVHT chỉ nên đảm trách một số lượng sinh viên nhất định để theo
dõi toàn bộ quá trình học tập của sinh viên, giúp đỡ các sinh viên hoàn thành
khóa học cách tốt nhất. Đặc biệt, tăng cường vai trò của Phòng Công tác Học
sinh – Sinh viên trong việc tư vấn cho sinh viên về các thủ tục hành chính, các
vấn đề về đời sống học đường, vv… thông qua các hình thức tư vấn trực tiếp, tư
vấn qua e-mail đồng thời công khai hóa một cách đầy đủ các thủ tục liên quan
đến sinh viên và hướng dẫn chi tiết trên website để sinh viên dễ dàng thực hiện.
Song song với các hoạt động chung mỗi một cố vấn học tập sẽ tiếp nhận
sinh viên từ khi các em bắt đầu nhập học năm thứ nhất và theo suốt quá trình
học tập trong trường đại học của các em. Với sinh viên của mỗi năm cố vấn học
tập phải đặt ra những vấn đề trọng tâm ưu tiên hướng dẫn sinh viên thực hiện.
4.2. Những việc làm cụ thể
4.2.1. Đối với sinh viên năm đầu tiên
Sinh viên năm đầu tiên do còn bỡ ngỡ, thụ động và chưa xác định phương
hướng rõ ràng và hình thức học tập khác hẳn với lúc còn học phổ thông, … thì
sự giúp đỡ của CVHT đóng vai trò rất quan trọng vào sự thành công của các em
trong những năm học tiếp theo. Ơ giai đoạn này, CVHT phải nhanh chóng quan
tâm về tư tưởng và hiểu được tâm tư nguyện vọng của các em. Đồng thời hướng
dẫn cho sinh viên tìm hiểu chương trình đào tạo của khoá - ngành và cách lựa
chọn học phần là công việc quan trọng hàng đầu của CVHT.
20
CVHT có thể giới thiệu một vài kế hoạch học tập toàn khóa tiêu biểu.
Huớng dẫn cho SV về cách đăng ký học phần cho từng học kỳ, tư vấn cho SV
nên chọn học phần tự chọn nào là phu hợp với chuyên ngành mình đang học.
CVHT trong thời gian này phải bám sát các SV trong khâu đăng ký học phần
nhất là các SV đến từ các vung nông thôn ít tiếp xúc với máy tính và internet.
Mặc du đã được sinh hoạt rất kỹ về khung chương trình học và kế hoạch học
tập, nhưng trong thực tế, khi các SV trực tiếp đăng ký các học phần vẫn còn
đăng ký chưa đúng. Do đó, nếu CVHT bám sát sinh viên sẽ giúp giải quyết
nhiều vấn đề khó khăn cho các SV.
Trong quá trình ổn định lớp CVHT cần chọn ra ban cán sự lớp cho phu
hợp. Phần lớn CVHT có thể dựa vào kết quả thi tuyển sinh đại học để chọn ra
nguời có điểm cao vào ban cán sự lớp. Tuy nhiên, việc lựa chọn này có thể chọn
ra một ban cán sự không thực sự năng động, vì những SV được chọn chưa hẳn
là các SV yêu thích hay có kinh nghiệm trong công việc mới được giao, điều
này sẽ ảnh hưởng lớn đến các hoạt động phong trào của lớp sau này. Do đó,
việc chọn cán sự lớp nên được thông báo chung cho cả lớp biết và đề nghị các
SV tự nguyện đăng ký khả năng mình có thể tham gia chức vụ nào trong BCS
lớp qua hình thức gửi email cho CVHT.
Mặt khác, cố vấn học tập phải phổ biến chi tiết công tác đánh giá điểm rèn
luyện ngay từ học kỳ đầu tiên, nhấn mạnh những ảnh hưởng của điểm rèn luyện
đến kết quả học tập chung như thế nào, xét chọn học bổng ra sao nhằm góp
phần giúp ban cán sự lớp thuận lợi hơn trong việc phổ biến các phong trào
chung của lớp và vận động SV tham gia.
Ngay khi nhận lớp cần nắm rõ sơ yếu lý lịch của từng SV, đây là điều rất
quan trọng đối với CVHT. Công việc này rất cần thiết vì thông qua sơ yếu lý
lịch để bước đầu CVHT có thể tìm hiểu và đánh giá sơ bộ nhân cách của các
SV, phần lớn mỗi một cách ứng xử của một người đều bắt nguồn từ hoàn cảnh
ấu thơ, môi trường sống. Thí dụ: Một SV sống trong gia đình có cha mẹ đều
làm ruộng , là anh hay chị cả trong gia đình , những SV này thường trưởng thành
sớm hơn, tháo vát hơn. Hoặc một SV nữ có mẹ mất sớm, có thể do thiếu giáo
dưỡng của mẹ sẽ làm ảnh hưởng đến “nữ tính” của SV này..... Nói chung đây
chỉ là đánh giá sơ bộ ban đầu nhưng nhờ vào sơ yếu lịch sẽ giúp cho CVHT linh
hoạt hơn trong cách tiếp xúc với từng thành viên của lớp. Một trong những ưu
điểm khác của việc nắm rõ sơ yếu lý lịch của các SV là CVHT có thể phát hiện
những trường hợp SV có hoàn cảnh khó khăn để tìm ra những biện pháp thích
hợp kịp thời giúp đỡ các SV an tâm học tập như: Giúp các SV tìm các học bổng
21
tài trợ, ngoài ra trong sơ yếu lý lịch, ở mục sức khỏe, nếu biết được tiểu sử bệnh
của SV sẽ giúp CVHT dễ ứng phó hơn trong những trường hợp sơ, cấp cứu.
Buổi gặp gỡ đầu tiên với các SV mới vào trường vô cùng quan trọng.
Trong buổi gặp gỡ này, CVHT và SV phải thống nhất được cách làm việc (quy
định về thời gian gặp gỡ, quy định về cách xử lý công việc…) để có thể làm
việc với nhau tốt nhất. Việc sắp xếp thời gian để định kỳ tiếp xúc với sinh viên,
lắng nghe tâm tư nguyện vọng của sinh viên là rất cần thiết, tuy nhiên đây cũng
là một khó khăn đối với các CVHT đảm nhiệm nhiều công tác chuyên môn.
Hiện tại, mail group là một phương tiện hữu hiệu để giúp CVHT và các sinh
viên trong lớp liên lạc, thông tin khi cần thiết. Việc giữ thông tin liên lạc bằng
email, điện thoại giúp CVHT nắm kịp thời các hoàn cảnh sinh viên cần được
giúp đỡ, hỗ trợ, giúp các em an tâm trong việc học tập. Tuy nhiên, CVHT cần
dành thời gian để gặp gỡ, trao đổi với sinh viên đối với các trường hợp có biểu
hiện sa sút trong học tập, các sinh viên vắng mặt trên lớp thường xuyên.
CVHT phải luôn duy trì các buổi họp lớp và sau các buổi họp nên có
những nhận xét, những đánh giá, những phương hướng giải quyết, phổ biến
những thông báo, quy chế mới hay những kế hoạch cần phải thực hiện trong
thời gian sắp tới. Trong 1 năm học CVHT nên có ít nhất 4 buổi để gặp gỡ với
SV của một lớp và có thể đưa ra những khoảng thời gian rảnh để SV có thể gặp
trao đổi ngoài giờ.
CVHT phải hiểu thật kỹ chương trình đào tạo ngành mà SV đang theo học,
cập nhật kịp thời những thay đổi từ phía nhà trường, kịp thời phổ biến cho SV
khi có những thay đổi đó.
CVHT cần xây dựng và công khai lịch tiếp sinh viên, thời gian và địa điểm
tiếp sinh viên định kỳ; cung cấp cho sinh viên số điện thoại, email và các
phương tiện liên lạc khác để sinh viên liên lạc trong trường hợp cần thiết.
4.2.2. Đối với sinh viên các năm kế tiếp và sinh viên năm cuối
Sau khi xây dựng được cách thức làm việc với sinh viên từ năm thứ nhất
thì những năm học kế tiếp CVHT vẫn sẽ tiếp tục và ưu tiên quan tâm, dành
nhiều thời gian để giải đáp và tư vấn kịp thời cho SV. CVHT thông qua tình
hình học tập, kết quả học tập của SV để tư vấn hướng dẫn cho SV trong việc
đăng kí, điều chỉnh kế hoạch học tập cho phù hợp với năng lực và hoàn cảnh
của từng SV. Tư vấn cho SV về định hướng nghề nghiệp trong tương lai, giúp
SV đề ra mục tiêu cho tương lai, trao đổi, góp ý về đặc tính nghề nghiệp, tình
trạng môi trường làm việc, thị trường việc làm…
22
CVHT cần có những biện pháp hỗ trợ những SV có hoàn cảnh khó khăn,
SV cá biệt, những SV có thời gian học tập ít vì phải đi làm thêm hay mê trò
chơi nào đó. CVHT cần phối hợp với Bộ môn, với khoa và với nhà trường để có
biện pháp giúp đỡ hợp lý. Để thực hiện được điều này không quá khó, chính
ban cán sự lớp, ban chấp hành đoàn, sự theo dõi kết quả học tập và những buổi
gặp gỡ trên lớp sẽ giúp CVHT biết được hoàn cảnh của SV.
Hàng tháng CVHT nên làm việc với ban cán sự lớp, thường xuyên tổ chức
các buổi họp lớp để sinh hoạt với lớp các nội dung theo quy định của nhà
trường, để nhận xét, đánh giá tình hình hoạt động của lớp, đưa ra phương hướng
giải quyết, phổ biến những kế hoạch phải thực hiện trong thời gian sắp tới.
Đồng thời qua đó giúp sinh viên định hướng nghề nghiệp trong tương lai, giúp
sinh viên đề ra mục tiêu cho tương lai, tư vấn cho sinh viên biết hiện tại mình
nên làm gì và cần phải cố gắng đạt được cái gì, định hướng để sinh viên phấn
đấu học tập tốt hơn… Trao đổi và góp ý kiến về các vấn đề nghề nghiệp như
đặc điểm nghề nghiệp, tình trạng môi trường làm việc, thị trường làm việc…
CVHT nên thông qua tình hình, kết quả học tập của sinh viên để tư vấn,
hướng dẫn cho sinh viên trong việc đăng ký, điều chỉnh kế hoạch học tập cho
phù hợp với năng lực và hoàn cảnh, tránh để tình trạng do không nắm rõ thông
tin mà nhiều sinh viên đã đăng ký khối lượng học tập quá nhiều với sức học của
mình.
CVHT cần nắm vững mục tiêu giáo dục, nội dung, chương trình đào tạo,
quy chế của Bộ Giáo dục và Đào tạo, quy định, nội quy của trường về học tập,
rèn luyện và công tác sinh viên của trường; thường xuyên cập nhật những thay
đổi, bổ sung trong quy chế, quy định, nội quy để có thể tư vấn, hỗ trợ giúp đỡ
sinh viên trong quá trình học tập, rèn luyện tại trường.
Hướng dẫn sinh viên tham gia các hoạt động ngoại khoá do các tổ chức
đoàn thể và nhà trường tổ chức nhằm giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, tác
phong, lối sống cho sinh viên.
5. Kết luận
Vai trò cố vấn học tập cực kỳ quan trọng trong hệ thống học tập theo tín
chỉ. Cố vấn không chỉ là người hướng dẫn sinh viên đăng ký các học phần, lập
kế hoạch học tập mà CVHT còn phải hướng dẫn sinh viên về phương pháp học,
kỹ năng nghiên cứu, kỹ năng giải quyết vấn đề và hướng dẫn thêm cho sinh
viên về phương pháp tự học, các kỹ năng sống… Tuy nhiên, trong thực tế hiệu
quả của cố vấn học tập thực sự không cao do nhiều nguyên nhân khác nhau.
23
Từng bước xây dựng và nâng cao chất lượng cố vấn học tập là công việc cần
được quan tâm hàng đầu của các trường triển khai chương trình học tập của
sinh viên theo học chế tín chỉ. Cố vấn học tập sẽ đóng góp không nhỏ vào thành
công trong việc đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính
quy theo hệ thống tín chỉ ban hành theo Quyết định số43/2007/QĐ-
BGDĐT, ngày 15/8/2007.
2. Nghị quyết về về đổi mới cơ bản và toàn diện Giáo dục đại học Việt Nam
giai đoạn 2006-2020, Nghị quyết số14/2005/NQ-CP của Chính phủ ban
hành ngày 2/11/2005.
24
XÂY DỰNG CÔNG CỤ HỖ TRỢ TRIỂN KHAI CÔNG TÁC CỐ VẤN
HỌC TẬP VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC NÀY
Nguyễn Duy Mộng Hà1
Tóm tắt
Từ lúc các trường đại học-cao đẳng trong cả nước chuyển dần sang học chế tín
chỉ, nhiều trường thường chỉ chú ý đến việc xây dựng thời lượng và cấu trúc nội dung
chương trình học cùng với cơ chế đăng ký tín chỉ, tổ chức lớp học nhưng lại phớt lờ
công tác cố vấn học tập vốn lại là một yêu cầu bắt buộc của học chế tín chỉ. Nhiều
trường cũng chưa có kinh nghiệm triển khai vận hành hiệu quả hệ thống cố vấn học
tập và ngày càng có nhiều tranh luận về vai trò và năng lực của cố vấn học tập. Một
trong những giải pháp đặt ra là phân công hợp lý và bồi dưỡng, phát triển năng lực
cố vấn học tập. Tuy nhiên, hiện nay chưa có nhiều chuyên gia về lãnh vực này. Do đó,
bài viết gợi mở phương thức phát triển công tác này một cách hệ thống: từ việc xây
dựng cơ chế, chính sách phù hợp, phân công và bồi dưỡng năng lực cố vấn học tập
đến việc theo dõi, giám sát và đánh giá công tác này một cách định kỳ, thường xuyên
để cải tiến liên tục cũng như học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm lẫn nhau. Như vậy, cần
xây dựng bộ công cụ để thực hiện và đánh giá hiệu quả công tác này.
1. Dẫn nhập
Các trường đại học ở nước ta lần lượt áp dụng học chế tin chỉ (HCTC) trong thời
gian gần đây theo xu hướng hội nhập vì loại hình quản lý đào tạo này có nhiều ưu
điểm, đem lại hiệu quả cao. Công tác cố vấn học tập (CVHT) theo HCTC còn mới me
ở nước ta du đó là một tiêu chí đánh giá chất lượng chương trình đào tạo quan trọng ở
nhiều nước, nhiều khu vực trên thế giới. Cả giảng viên (GV), sinh viên (SV), đội ngũ
trợ lý giáo vụ, CVHT, giảng viên chủ nhiệm (GVCN)… của các đơn vị đào tạo theo
HCTC ở nước ta còn rất nhiều bỡ ngỡ về công tác này. Ngoài việc xây dựng chính
sách cơ chế và phân công hợp lý đội ngũ CVHT, việc xây dựng và hoàn thiện một bộ
công cụ sẽ giúp cho việc bồi dưỡng năng lực CVHT, vận hành và đánh giá hiệu quả
hệ thống CVHT.
2. Những khó khăn thƣờng gặp của công tác cố vấn học tập và nguyên nhân
Tại hội nghị “Nâng cao vai trò cố vấn học tập” ở Trường Đại học Cần Thơ vào
tháng 6 năm 2011, các bài viết có nêu những khó khăn trong công tác này. Những khó
khăn, trở ngại chính có thể được tóm tắt như sau:
1 ThS – Phòng Khảo thí & Đảm bảo chất lượng, trường ĐHKHXH&NV – ĐHQG – HCM
25
- Nhận thức về tầm quan trọng của công tác CVHT nhìn chung là chưa cao và
chưa đồng bộ kể cả ở GV và SV;
- Nhiều GV than phiền thiếu thời gian cho công tác CVHT, do phải đầu tư nhiều
thời gian cho công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học và nâng cao trình độ chuyên
môn, ngoại ngữ, tin học,… vốn có lợi ích thiết thực cho GV hơn, dẫn đến sự thiếu ổn
định về thời gian và đội ngũ CVHT;
- Thiếu phòng và địa điểm tiếp sinh viên, thiếu giờ sinh hoạt lớp cố định, số
lượng SV quá đông, không theo lớp cố định;
- Thiếu rà soát cơ chế, chính sách, quy định về thành phần, quyền lợi và nghĩa
vụ rõ ràng đối với đội ngũ CVHT, BGH thiếu lắng nghe phản hồi từ CVHT để hoàn
thiện cơ chế chính sách cho phù hợp, kể cả cơ chế thi đua khen thưởng;
- Thiếu sự phối hợp hiệu quả trong khoa/bộ môn và phối hợp giữa các bộ phận,
phòng ban, đoàn hội, ký túc xá,… và đội ngũ hỗ trợ khác về các việc như cung cấp
danh sách, hệ thống theo dõi kết quả học tập, thống kê bảo lưu, thông tin các loại…
- Thiếu hệ thống cung cấp thông tin hiệu quả, đôi khi hành chính hóa và hình
thức hóa công tác CVHT;
- Hạn chế về năng lực tư vấn và giao tiếp của đội ngũ CVHT do thiếu kinh
nghiệm và thiếu tập huấn, hỗ trợ, thiếu thông tin, hiểu biết cần thiết về các mặt…
Tổng hợp những khó khăn trên, chúng tôi nhận thấy khó khăn phổ biến nhất là
hạn chế năng lực của đội ngũ CVHT, nhất là đội ngũ CVHT tre là GV kiêm nhiệm.
Đội ngũ GV tre và trợ lý giáo vụ lại thường có những hạn chế về kiến thức và hiểu
biết sau:
1) Thiếu kiến thức, hiểu biết tổng thể về chương trình đào tạo
- Chưa hiểu rõ cấu trúc chương trình, danh mục và nội dung các môn học thuộc
nhóm môn tiên quyết, cơ sở, chuyên ngành, bắt buộc, tự chọn, môn chung, môn đại
cương,….GV tre thường chỉ biết về một vài môn học mình phụ trách mà thiếu liên hệ
với tổng thể CTĐT.
- Chưa hiểu rõ các ngành nghề/định hướng đầu ra khác nhau, chưa cập nhật các
yêu cầu về kỹ năng cần thiết của nhà tuyển dụng, các thành tựu mới nhất trong lãnh
vực ngành nghề…thiếu hiểu biết để tư vấn về thực tập thực tế, liên hệ, tìm hiểu nơi
thức tập, quy trình thực tập,…
- Chưa nắm rõ tổng thể các hình thức và yêu cầu về kiểm tra, đánh giá, làm tiểu
luận/ luận văn, quy định, quy trình về thi cử, làm luận văn, quy định trích dẫn, các thủ
26
tục quy trình đăng ký môn học, các phương pháp nghiên cứu và học tập hiệu quả, hình
thức tổ chức dạy học đa dạng, nhất là phương pháp tự học, tự nghiên cứu, …
- Chưa nắm hết các tài liệu, tài nguyên học tập, các loại thư viện,….các tạp chí
chuyên ngành, các cửa hàng sách chuyên môn, chương trình hỗ trợ sách cho SV,…các
khóa học ngoại khóa, ngoại ngữ, tin học, kỹ năng mềm, … để tư vấn cho SV
2) Thiếu các hiểu biết chung khác
Thiếu hiểu biết về các lãnh vực liên quan đến đời sống SV như:
- Thông tin ở các phòng ban, trung tâm, đơn vị khác trong trường để giới thiệu
cho SV đến liên hệ khi cần thiết (văn, thể, mỹ, đời sống, …, các thông tin về ký túc
xá,…).
- Các tổ chức ngoài trường mà SV có thể liên hệ liên quan đến học tập và về thủ
tục hành chánh khác.
- Các chính sách học bổng, hỗ trợ khác, các nơi giới thiệu việc làm, làm bán
thời gian/làm thêm, trung tâm tuyển dụng, hội đoàn,…các vấn đề liên quan đến quy
định, quy chế, chế độ chính sách, giúp phần nào giải quyết những khó khăn trong đời
sống sinh hoạt hàng ngày, các thắc mắc, khiếu nại phổ biến của SV,…
3) Thiếu kỹ năng tư vấn và giao tiếp
CVHT thiếu kỹ năng giao tiếp thường gặp khó khăn khi thường xuyên tiếp xúc,
gặp gỡ SV đa dạng với các động cơ, năng lực nguyện vọng, sở thích, hoàn cảnh…
khác nhau, chưa có khả năng phán đoán, phân tích nắm bắt vấn đề nhanh, khả năng
giải quyết vấn đề, hiểu biết tâm lý trong giao tiếp ứng xử….
Ít được truyền đạt kinh nghiệm từ đội ngũ GV/CVHT lớn tuổi, các GV trong ban
lãnh đạo khoa, hội đồng khoa học khoa/bộ môn mà có kinh nghiệm hơn về công tác
CVHT và CTĐT, một nguyên nhân nữa của việc hạn chế năng lực tư vấn và hiểu biết
của đội ngũ CVHT tre là do thiếu công cụ để sử dụng, bồi dưỡng và phát triển năng
lực tư vấn. Do đó, cần lưu ý tìm giải pháp giúp khắc phục hạn chế này.
3. Quy định cụ thể về chức danh, thành phần, nhiệm vụ của cố vấn học tập
Đội ngũ tư vấn người học theo học chế tín chỉ ở các trường đại học của một số
nước tiên tiến trên thế giới thường rất phong phú, đa dạng với nhiều chức danh và
nhiệm vụ khác nhau. Ơ nước ngoài thành phần, chức danh của đội ngũ CVHT có thể
bao gồm (Davis, 1993):
- Cố vấn học tập (academic adviser): thường tư vấn cho SV về chọn khóa học,
ngành học phù hợp với năng lực và sở thích, tư vấn và xét duyệt kế hoạch học tập của
27
SV, tư vấn cho SV khi bắt đầu nhập học, chuẩn bị vào giai đoạn chuyên ngành hay
khi sắp kết thúc chương trình học, học sau đại học…
- Người tư vấn hướng nghiệp (career adviser): giúp SV tìm hiểu cơ hội nghề
nghiệp và việc học tập tiếp theo, hướng chuyên ngành hẹp sau đại học, yêu cầu của thị
trường lao động đối với ngành nghề, …
- Cố vấn hoạt động ngoại khóa (extracurricular adviser): thường tư vấn cho
nhóm SV,… đặc biệt cho các tân sinh viên thông qua các buổi giới thiệu hướng dẫn
cho tân SV vào tuần đầu tiên khi SV nhập học (Orientation week), dẫn họ đi tham
quan trường học, các cơ sở vật chất của trường và hướng dẫn cách sử dụng các trang
thiết bị học tập, các nơi tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho SV,…
- Cố vấn có kinh nghiệm (Mentor): có quan hệ một đối một liên tục, thường một
người có nhiều kinh nghiệm hơn tư vấn, giúp đỡ cho người ít kinh nghiệm hơn nhằm
nâng đỡ về mặt tâm lý, giúp đỡ trực tiếp để phát triển chuyên môn, nghề nghiệp và
đóng vai làm mẫu, có thể gặp SV định kỳ trong hoặc ngoài trường
- Trợ giảng (Tutor/ Teaching assistant): Học viên cao học hay nghiên cứu sinh,
những người đang làm phụ tá hay hỗ trợ các giáo sư trong NCKH ở nhiều trường Đại
học các nước tiên tiến cũng thường được tập huấn để kiêm nhiệm công tác làm trợ
giảng (giảng dạy một phần, tổ chức thảo luận, thực hành, làm bài tập, thí nghiệm,…),
giúp họ đóng vai trợ giảng hay cố vấn hiệu quả, đồng thời vẫn hoàn tất tốt luận văn
luận án của mình.
- Người đôn đốc học tập (Promotor): có nhiệm vụ theo dõi quá trình học tập của
SV, đôn đốc SV, học viên cao học đẩy nhanh tiến độ học tập theo kế hoạch định ra và
tư vấn giúp họ tháo gỡ một số vướng măc có thể gặp trong quá trình học tập.
- Trợ lý giáo vụ, trợ lý khoa/bộ môn (Academic assistant, faculty assistant): có
nhiều kinh nghiệm về cách thức tổ chức lớp học, hình thức học tập và kiểm tra đánh
giá ở đại học, danh mục các môn học, các thông tin chung cho SV, biết cách phối hợp
tốt với các phòng ban của trường, …thường có thể tiếp SV vào bất kỳ lúc nào trong
giờ hành chánh.
- GV chủ nhiệm lớp/nhóm (Dozent-in-charge hay teacher-in-charge): được phân
công theo dõi hoạt động học tập của nhóm SV và gặp gỡ định kỳ nhóm SV này, tư
vấn cho họ về việc học chuyên môn cũng như học ngoại ngữ, các vấn đề có liên quan
đến học tập.
Tùy theo hoàn cảnh, điều kiện, đặc thù của mỗi trường mà các trường đại học-
cao đẳng ở nước ta có thể vận dụng để phân công một CVHT phụ trách chung các
28
mảng hoặc có một nhóm/đội ngũ CVHT chia se các mảng công việc cho nhau ở mỗi
khoa, hoặc một CVHT phối hợp các bộ phận phòng ban chuyên trách công tác SV,
phòng ban dịch vụ/hỗ trợ khác mà có thể tham gia tư vấn cho SV khi được CVHT
giới thiệu đến. Tuy nhiên, vẫn cần có quy định cụ thể về chức danh, nhiệm vụ và
quyền lợi của CVHT, như những quyền lợi về phụ cấp hoặc quy thành tiết giảng, xét
thi đua khen thưởng hay tín chỉ học sau đại học,… và thường xuyên rà soát, đánh giá,
điều chỉnh những quy định, chính sách này.
4. Xây dựng công cụ hỗ trợ triển khai và phát triển công tác cố vấn học tập
CVHT lần đầu tiên đảm nhận công tác chắc chắn không tránh khỏi những khó
khăn bỡ ngỡ nên rất cần một bộ công cụ, tài liệu hướng dẫn đầy đủ, cụ thể để có thể tự
học hỏi, bồi dưỡng thêm và thực hiện theo đúng yêu cầu, nhiệm vụ được giao nếu nhà
trường chưa tổ chức được khóa tập huấn bài bản cho đội ngũ này về tư vấn, giao tiếp,
quản lý học vụ,……Bộ công cụ này cần phải bao gồm những tài liệu và phương tiện
sau:
4.1. Sổ tay/cẩm nang cố vấn học tập
Ban CVHT hoặc Hội đồng CVHT của trường cần xây dựng cuốn Cẩm nang/Sổ
tay dành cho CVHT tập hợp những nội dung cơ bản chung hoặc tuy đặc thù của
trường/ngành như sau:
- Các quyết định, văn bản quy định thành phần, nghĩa vụ và quyền lợi của
CVHT do nhà trường ban hành, những văn bản hướng dẫn của trường về công tác
này, những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, thái độ/phẩm chất đạo đức của CVHT;
- Các quy chế, quy định về đào tạo theo học chế tin chỉ các cấp, quy chế rèn
luyện học tập khác và các biểu mẫu cần thiết;
- Thông tin về chương trình đào tạo, ngành nghề đầu ra, các yêu cầu về kiểm tra,
đánh giá, quy trình về thi cử, luận văn, đăng ký môn học, quy trình thực tập, xét tốt
nghiệp, mẫu kế hoạch học tập của SV …;
- Thông tin về tài nguyên học tập, thư viện, các tạp chí chuyên ngành, nhà sách
chuyên môn,…;
- Thông tin cơ bản dành cho SV từ các phòng ban, các trung tâm, đơn vị, tổ chức
trong và ngoài trường mà SV có thể liên hệ liên quan đến học tập như các trung tâm
ngoại ngữ, tin học, viện nghiên cứu, hội SV, thư viện thành phố, các trung tâm tổ
chức các khóa học ngoại khóa, kỹ năng mềm, trung tâm tuyển dụng, nơi giới thiệu
việc làm …;
29
- Văn bản, biểu mẫu về các chính sách học bổng, hỗ trợ khác,…, quy định, quy
chế, chế độ chính sách, …;
- Các bộ tiêu chuẩn đánh giá công tác CVHT và tư vấn SV mà trường đang áp
dụng nếu có (trong nước hoặc của khu vực, quốc tế)
- Phần phụ lục gồm các bài học kinh nghiệm về công tác CVHT được sưu tầm;
- Nên có lưu ý là Sổ tay hay Cẩm nang CVHT phải được sử dụng chung với Sổ
tay Sinh viên và Sổ tay Giảng viên
Sổ tay này cũng có thể chia thành các phần/chương/mục dành cho các nội dung
tư vấn khác nhau như (1) phần tư vấn về học tập, (2) phần tư vấn về nghiên cứu khoa
học, (3) phần tư vấn về hướng nghiệp (4) phần tư vấn về hoạt động ngoại khóa,….
Mỗi phần cũng có thể phân thành các nhóm đối tượng khác nhau như đối tượng SV
theo từng năm học, các nội dung liên quan đến đầu vào, đến quá trình học và đầu
ra,….
4.2. Website, forum, platform dành cho CVHT
Công cụ website rất hữu hiệu cho công tác CVHT, đặc biệt là hệ thống tư vấn
online. Giao diện của website phải thân thiện, rõ ràng giúp SV dễ tìm và trao đổi
thông tin. Website dành cho CVHT nên có các mục sau:
- Thông tin của Ban CVHT trường và khoa/bộ môn và lịch tiếp SV
- Các câu hỏi thường gặp của SV (frequently aksed questions hay FAQs)
- Mục forum để SV nêu những thắc mắc hoặc chia se thông tin cho nhau
- Các biểu mẫu cần thiết cho các loại thông tin khác nhau
- Sổ tay SV bản pdf và các tài liệu điện từ cần thiết khác
- Các đường link quan trọng cần thiết cho SV trong và ngoài trường
- Các khóa học ngoại ngữ, tin học, kỹ năng mềm,
- Thông báo về các buổi nói chuyện chuyên đề
- Link đến các trang thông báo của đoàn hội, phòng công tác SV,…
4.3. Sổ họp của CVHT và sổ biên bản
CVHT thường xuyên tiếp SV bằng nhiều hình thức vào nhiều thời điểm khác
nhau nên luôn cần có sổ tay ghi chép, sổ họp khi tiếp SV, có thể theo mẫu chung hoặc
tuy cá nhân, đơn vị. Tuy nhiên, vấn đề chính là ghi chép cụ thể những phản hồi của
người học cũng như kế hoạch, chương trình, nội dung tiếp SV và thông tin trả lời cho
30
SV, có thể kèm theo các biên bản họp với nhóm hoặc lớp. Công cụ này vừa giúp cho
CVHT theo dõi công việc hiệu quả, vừa giúp tự đánh giá được công việc tư vấn của
mình thường xuyên để cải tiến, đồng thời có thể sử dụng làm minh chứng khi đánh giá
công tác CVHT hay CTĐT theo học chế tín chỉ. CVHT cũng có thể dựa vào những
ghi chép từ sổ sinh hoạt CVHT này để viết các báo cáo tổng kết khi cần thiết gởi cho
đơn vị chủ quản hoặc khi xét thi đua khen thưởng, chia se trong các hội thảo, hội nghị,
tọa đàm về CVHT,…
Lịch tiếp, địa điểm tiếp SV phải được niêm yết và thông báo cho SV một cách
công khai rộng rãi, rõ rang qua nhiều kênh. CVHT cần mang theo sổ họp mỗi khi tiếp
SV.
4.4. Hồ sơ SV hoặc nhóm/lớp do CVHT phụ trách
CVHT phải làm việc với từng nhóm/lớp hoặc cá nhân SV nên cần có bộ hồ sơ
(bản cứng và/hoặc bản mềm) về nhóm SV mà mình phụ trách: từ danh sách lớp, hồ sơ
lý lịch SV (nếu cần), bản kế hoạch học tập của SV đến thống kê thông tin về kết quả
học tập, rèn luyện của SV, kết quả khảo sát ý kiến SV về các mặt, danh sách thông tin
liên lạc với ban cán sự lớp,….
Hồ sơ này rất quan trọng trong việc duy trì giao tiếp với SV qua các năm, thậm
chí cả lúc SV ra trường khi cần hỗ trợ cho Ban liên lạc cựu sinh viên, đồng thời giúp
nắm bắt tâm tư nguyện vọng của SV, đặc điểm, hoàn cảnh của SV nhằm hỗ trợ hiệu
quả. Các phản hồi của SV về công tác tư vấn học tập có thể được gởi vào hộp thư góp
ý hoặc qua phiếu khảo sát cần được lưu giữa và phân tích.
4.5. Các tài liệu tập huấn về công tác CVHT
Cần từng bước xây dựng các tài liệu tập huấn chuyên sâu về công tác CVHT,
tham khảo các tài liệu về công tác CVHT trong và ngoài nước, hoặc mời các chuyên
gia về CVHT ở các nước tiên tiến đến tập huấn, khuyến khích CVHT tham gia tập
huấn trong và ngoài trường. Các tài liệu để phục vụ tập huấn và bồi dưỡng CVHT có
thể theo từng chủ đề như:
- Chủ đề về học chế tín chỉ và CTĐT
- Chủ đề về kỹ năng tư vấn
- Chủ để về kỹ năng giao tiếp, ứng xử
- Chủ đề về tâm lý người học,…
31
5. Gợi mở cho công tác tƣ vấn học tập trong nhà trƣờng đại học Việt Nam
Để phát triển công tác CVHT, chúng tôi có một số đề xuất sau cho việc xây
dựng bộ công cụ hỗ trợ công tác tư vấn học tập và xây dựng quy định, chính sách phù
hợp, tạo điều kiện hỗ trợ cho công tác này:
5.1. Đa dạng hóa các thành phần và hình thức tư vấn học tập. Tùy theo tình hình
thực tế của các đơn vị đào tạo, có thể tổ chức mạng lưới cố vấn học tập ở các khoa/bộ
môn. CVHT là cán bộ giảng dạy có kinh nghiệm về CTĐT và giảng dạy sẽ giúp SV
lựa chọn học phần /môn học phù hợp, vạch kế hoạch hợp lý để đáp ứng mục tiêu tốt
nghiệp và khả năng tìm được việc làm thích hợp. CVHT là cán bộ trẻ có thể đôn đốc,
theo dõi thành tích học tập của SV giúp SV điều chỉnh kịp thời trong quá trình học
tập, tư vấn về phương pháp học tập, NCKH hoặc quản lý, hướng dẫn, chỉ đạo lớp
được phân công phụ trách. CVHT là nhân viên giáo vụ hay trợ lý khoa ngoài công
việc thủ tục hành chánh, hồ sơ SV, phối hợp, liên hệ các đơn vị và GV,… cần được
tập huấn kỹ về CTĐT, nắm được quy định, yêu cầu và hình thức giảng dạy cũng như
thi cử, xếp loại học lực, rèn luyện, tủ sách tham khảo, lịch trực hay lịch hẹn của đội
ngũ lãnh đạo và GV, đăng ký môn học, học phí, học bổng…và cả các lãnh vực khác
(xã hội, rèn luyện nhân cách, kỹ năng mềm, hoạt động ngoại khóa,…) nhằm tư vấn
kịp thời cho SV học theo HCTC. Trên hết nên có Hội đồng cố vấn học tập cấp trường
(gồm lãnh đạo các phòng Đào tạo, Công tác SV, Đoàn thanh niên & Hội SV, phòng
NCKH,…Phó Hiệu trưởng phụ trách đào tạo có thể là Chủ tịch hội đồng)
5.2. Đội ngũ tư vấn cần tổ chức buổi tiếp SV ngoài giờ học tại văn phòng
khoa/bộ môn hoặc ở nơi có thể tiếp được trong khuôn viên trường ít nhất 1 giờ/tuần
đối với SV tất cả các khóa. Có thể sắp xếp lịch trực ở văn phòng để tiếp SV. Trường
học nên mở rộng hoặc bổ sung thêm phòng cho các khoa để CVHT có chỗ tiếp xúc
gặp gỡ SV ngoài giờ lên lớp một cách thoải mái dễ dàng, nhằm giúp đỡ, giải đáp thắc
mắc và tìm hiểu nguyện vọng của SV. Có thể sắp xếp cuộc gặp gỡ định kỳ với SV
hàng tháng, rà soát tình hình chấp hành quy định học tập,…mở cửa phòng học có
đăng ký trước để CVHT làm việc với lớp. Tận dụng thế mạnh của CNTT-viễn thông
nhằm tăng cường các cơ hội giao tiếp với SV ngoài giờ trên lớp như qua mạng, diễn
đàn,..Khuyến khích SV xây dựng thói quen trao đổi với GV bằng nhiều hình thức như
theo lịch tiếp, trao đổi qua mạng,…chuẩn bị câu hỏi trao đổi rõ ràng, cụ thể và chủ
động hơn trong việc gặp gỡ CVHT.
5.3. Cung cấp tài liệu, công cụ, phương tiện hỗ trợ cần thiết cho công tác CVHT
(Cẩm nang/Sổ tay CVHT, Sổ tay SV, Sổ tay GV, Sổ tay CTĐT, quy chế, biểu mẫu,
tài liệu hướng dẫn các loại dịch vụ, hướng nghiệp,…) như đã trình bày ở phần 3. Cần
32
tập huấn thường xuyên trau dồi chuyên môn (về CTĐT, đề cương môn học) và nghiệp
vụ tư vấn cho đội ngũ GV tre, giáo vụ khoa, cần thường xuyên họp rút kinh nghiệm
và trau đồi hiểu biết thêm về các lãnh vực tư vấn đa dạng và cấp thiết hiện nay như
việc học ngoại ngữ, tham gia các chương trình ngoại khóa giao lưu khác, cập nhật
thông tin về thị trường lao động, …. GV lớn tuổi có kinh nghiệm nên có kế hoạch
từng bước dẫn dắt GV tre, trợ giảng để từng bước phát triển chuyên môn, năng lực sư
phạm và đặc biệt là năng lực tư vấn. Đồng thời, CVHT cần nắm bắt thông tin về sự
phối hợp với các doanh nghiệp, cơ quan bên ngoài nhằm tạo cơ hội thực tập, thực tế
cho SV.
5.4. Công việc của CVHT cần được định kỳ xem xét, đánh giá bởi ban chủ
nhiệm khoa, nhà trường, và tổ chức họp giao ban đội ngũ CVHT để chia se và rút
kinh nghiệm giữa các đơn vị trong toàn trường…, kiểm tra, giám sát và đánh giá công
tác CVHT vào cuối học kỳ/cuối năm học để xét danh hiệu thi đua, xét khen thưởng và
kỷ luật dựa theo các tiêu chuẩn đánh giá công tác CVHT; tham mưu cho lãnh đạo
trường, khoa và bộ môn các vấn đề liên quan đến công tác quản lý đào tạo, nghiên
cứu khoa học và đào tạo theo nhu cầu xã hội; có thể khảo sát ý kiến của SV về công
tác CVHT bằng phiếu khảo sát. Nhà trường nên có trợ cấp, phụ cấp tương xứng để
khuyến khích họ trong công tác CVHT vì đa số kiêm nhiệm.
6. Kết luận
Mặc dù còn rất nhiều khó khăn trong công tác CVHT nhưng hy vọng các trường
đại học-cao đẳng Việt Nam sẽ từng bước khắc phục các khó khăn, trở ngại, từng bước
nâng cao hiệu quả của công tác tư vấn học tập, công tác giao tiếp với SV trong thế kỷ
21, thế kỷ toàn cầu hóa, hội nhập và kinh tế tri thức này, giúp SV phát triển toàn diện,
góp phần vào việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ quá trình hiện đại
hóa đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Davis, B.Gross: 1993.Tools for Teaching. Jossey-Bass; San Francisco.
2. Hội nghị “Nâng cao vai trò cố vấn học tập”, trường Đại học Cần thơ, tháng 6-
2011.
3. Nguyễn Duy Mộng Hà 2012, Đẩy mạnh công tác cố vấn học tập và tư vấn sinh
viên góp phần nâng cao chất lượng dạy và học trong trường đại học theo học
chế tín chỉ, Tạp chí Giáo dục, số 291, Kỳ 1, 2012: 32-35.
4. Nguyễn Duy Mộng Hà (2012), Công tác cố vấn học tập trong trường đại học,
Tập san KHXH&NV, số 54, 2012: 68-74
5. http://teaching.berkeley.edu/bgd/motivate.html
33
CHỨC NĂNG TƢ VẤN HỌC TẬP CỦA CỐ VẤN HỌC TẬP TRONG
ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ
Phạm Thanh Hải1
Hoàng Lê Minh Nhật2
1. Dẫn nhập
Đào tạo đại học, cao đẳng theo hệ thống tín chỉ ở Việt Nam xuất hiện một
chức danh công tác được quy định trong Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng
hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ ban hành kèm theo Quyết định số
43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo, đó là cố vấn học tập.
Về ngữ nghĩa, cố vấn là người am tường về một lĩnh vực nào đó và thường
xuyên được cá nhân hoặc tổ chức hỏi ý kiến để tham khảo khi giải quyết công
việc. Cố vấn học tập (CVHT) là chức danh quy định trong quá trình đào tạo
theo hệ thống tín chỉ, là người tư vấn, hỗ trợ sinh viên (SV) tự nhận thức về
mình, phát huy tối đa khả năng học tập, lựa chọn đăng ký học phần, xây dựng
kế hoạch học tập phù hợp để đáp ứng mục tiêu tốt nghiệp, tìm việc làm thích
hợp; theo dõi thành tích học tập của SV nhằm giúp SV điều chỉnh kịp thời hoặc
đưa ra một lựa chọn phù hợp trong quá trình học tập. Thực tiễn đào tạo theo hệ
thống tín chỉ cho thấy tuy theo quy định của từng cơ sở giáo dục đại học, CVHT
có thể có những chức năng khác nhau. Ơ đây, chúng tôi bàn về chức năng tư
vấn học tập của CVHT. Nhìn từ góc độ quá trình học tập của SV, có thể thấy
chức năng tư vấn học tập của CVHT thể hiện ở mọi khâu của quá trình học tập,
tích lũy tín chỉ của SV theo sơ đồ dưới đây:
1 ThS. GVC – Trưởng phòng Đào tạo – Quản lý Khoa học, trường Cao đẳng Sư phạm Thừa Thiên Huế
2 ThS. GVC – Phó Trưởng phòng Đào tạo – Quản lý Khoa học, Cao đẳng Sư phạm Thừa Thiên Huế
SV lựa
chọn,
đăng ký,
rút bớt học
phần...
SV học tại lớp, tại cơ
sở thực hành, thực tập;
tự học cá nhân/nhóm;
làm BT lớn, tiểu luận,
khóa luận, đồ án...
SV thi; báo cáo
thực hành, thực
tập; bảo vệ đồ
án, khóa luận...
SV đăng ký học
lại, cải thiện điểm;
học thêm các kiến
thức, kỹ năng,
chứng chỉ khác
CVHT tư vấn
34
Từ khái niệm, chức năng của CVHT và thực tế quản lý đào tạo, chúng tôi
trao đổi một số vấn đề cần chú ý đối với CVHT khi thực hiện chức năng tư vấn
học tập cho SV trong từng nhóm công việc của SV.
2. Tƣ vấn cho SV lựa chọn, đăng ký học tập, rút bớt học phần
Về việc này CVHT cần giúp SV nhận thức sự khác biệt cốt lõi của đào tạo
tín chỉ và đào tạo niên chế là ở chỗ: chương trình đào tạo (CTĐT) linh hoạt,
mềm deo và SV học theo khả năng, nhu cầu, kế hoạch cá nhân. Vì vậy, việc lựa
chọn, đăng ký, rút bớt HP… chính là lối đi riêng của từng SV. Thực tế cho thấy
SV thường va vấp ở một số điểm:
- Tự đánh giá về khả năng bản thân không chính xác nên đặt ra những mục
tiêu tích lũy số tín chỉ của một học kỳ nào đó quá cao hoặc quá thấp.
- Bị tâm lý a dua khi đăng ký học tập nên thấy bạn bè đăng ký thế nào thì
mình cũng đăng ký như vậy, chưa biết “giật mình” vì số lượng đăng ký tương
đương như bạn thì có thể biến mình thành “con nợ” vì sức học của mình thua
sức học của bạn.
- Chưa dứt ra khỏi tư duy học và tốt nghiệp theo khóa của đào tạo niên chế
nên đặt ra mục tiêu phải tốt nghiệp cùng thời điểm với bạn cùng lớp là mục tiêu
tối thượng, trong khi thực tế là bản thân có thể tốt nghiệp sớm hơn do sức học
của mình tốt hơn, cũng có thể tốt nghiệp muộn hơn do sức học của mình yếu
hơn hoặc vì lý do sức khỏe, gia cảnh, vì học cung lúc hai chương trình, tham gia
lực lượng vũ trang, học cải thiện HP để cải thiện hạng tốt nghiệp hoặc vì để tích
lũy thêm các chứng chỉ ngoài CTĐT...
Từ những khó khăn trên của SV, ngay từ học kỳ 1 của khóa đào tạo,
CVHT cần giúp từng SV viết ra được “chân dung” của mình theo các câu hỏi
sau:
- Sức khỏe, trí tuệ, thái độ học tập của tôi cho tôi lợi thế hoặc gây cho tôi
khó khăn gì đối với CTĐT ngành tôi đang học?
- Tôi có nhất thiết phải tốt nghiệp cùng thời điểm với các bạn cùng lớp
không? Tôi có thể rút ngắn/kéo dài thời gian học tập không? Vì sao?
- Kế hoạch học tập của tôi (kể cả theo CTĐT và kiến thức, kỹ năng ngoài
chương trình) có điểm gì riêng, khác với các bạn khác?
35
Khi tự trả lời được các câu hỏi trên, từng SV sẽ có nhận thức đúng và có
kế hoạch phù hợp với tư cách một chủ thể học tập – rèn luyện.
Trình bày trên cũng cho thấy đào tạo tín chỉ hiện nay ở nhiều cơ sở giáo
dục đại học vẫn còn lỗ hổng về trang bị cho SV kỹ năng lập kế hoạch học tập
và rèn luyện của bản thân. SV học tín chỉ nhưng không có kế hoạch cá nhân nên
quá trình tổ chức đào tạo – tự đào tạo chưa có khác biệt căn bản với đào tạo
theo niên chế.
Do gắn bó trực tiếp với SV, CVHT cần tổ chức cho SV hội thảo về vấn đề
này để SV có khả năng tự xây dựng kế hoạch học tập – rèn luyện. Việc thực thi
kế hoạch nếu có trục trặc thì cũng chính CVHT giúp SV điều chỉnh để đạt mục
tiêu phù hợp. Xây dựng kế hoạch học tập – rèn luyện còn có ý nghĩa SV giúp
hình thành năng lực xây dựng kế hoạch của bản thân – một năng lực cần thiết
thường xuyên khi thực tập và hành nghề sau tốt nghiệp.
3. Tƣ vấn cho SV học tại lớp, tại cơ sở thực hành, thực tập; tự học cá
nhân/nhóm; làm bài tập lớn, tiểu luận, khóa luận, đồ án...
- Đối với việc học tập trên lớp (lý thuyết, thảo luận hoặc thực hành), tự
học cá nhân hay học theo nhóm sau giờ lên lớp của SV, CVHT cần phối hợp
với giảng viên phụ trách HP tư vấn cho SV các vấn đề sau:
+ Bám sát đề cương chi tiết của từng HP và thời khóa biểu để xây dựng kế
hoạch học tập của bản thân và nhóm; đôn đốc, kiểm tra, góp phần đảm bảo SV
đi học đầy đủ, nghiêm túc ngay từ tiết học đầu tiên của HP. Thực tế là SV
thường có thái độ coi tiết học đầu tiên của HP là “chưa có gì”... Tuy vậy, đó lại
là tiết học đầu tiên quan trọng trong việc định hướng toàn bộ giai đoạn học tập
tiếp theo của HP.
+ Với những HP đặc thù, bố trí dạy học muộn hơn so với các HP khác
hoặc bố trí dạy học “cuốn chiếu”, CVHT giúp SV nắm vững kế hoạch dạy học
và thi của từng HP để hướng dẫn SV ứng xử với từng HP khác nhau. Thực tế
cho thấy do thiếu sự hỗ trợ của CVHT, nhiều SV đã phải chấp nhận những thiệt
hại, tiếc nuối vì không có sự phù hợp giữa kế hoạch cá nhân với tổ chức dạy
học HP.
+ Với các HP có những phần tự học của SV, CVHT tư vấn để SV tự học,
tự rèn có hiệu quả. Ví dụ, trong HP Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, SV phải
nghiên cứu văn bản Hướng dẫn về Thực tập sư phạm với thời lượng 20 giờ
36
chuẩn bị cá nhân (không lên lớp theo thời khóa biểu); nội dung này CVHT phải
yêu cầu SV tự thực hiện chuẩn bị cho thực tập. Nếu CVHT không sâu sát thì
trước khi đi thực tập, SV sẽ có lỗ hổng về sự chuẩn bị này. Việc này cũng cho
thấy CVHT cần phải là giảng viên chuyên ngành để hỗ trợ SV.
- Việc tư vấn cho SV tập dượt nghiên cứu khoa học (NCKH) như làm bài
tập lớn, tiểu luận, khóa luận, đồ án, CVHT cần giúp cho SV tự trả lời các câu
hỏi: Kiến thức cơ sở, chuyên môn của tôi có vững chắc và giúp tôi thuận lợi
trong NCKH không? Vốn kinh nghiệm thực tế của tôi về vấn đề nghiên cứu như
thế nào? Kiến thức, kỹ năng về phương pháp NCKH của tôi ở mức độ nào?
Năng lực Tiếng Việt, vi tính giúp tôi thể hiện công trình khoa học có thuận lợi,
khó khăn gì?... Khi trả lời được các câu hỏi này, SV sẽ định ra kế hoạch vừa
làm đề tài vừa bổ khuyết các kiến thức, kỹ năng cần thiết.
Có thực tế là các SV đủ điều kiện làm đồ án tốt nghiệp nhưng có thể chưa
kinh qua làm tiểu luận chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn vì làm đồ án khác với
trả bài ở kỳ thi. CVHT cần tách đối tượng SV này để hỗ trợ thêm qua các hình
thức sinh hoạt lớp gắn với chuyên môn.
4. Tƣ vấn cho SV về thi kết thúc học phần; viết báo cáo thực hành, thực
tập; bảo vệ đồ án, khóa luận
- Về thi kết thúc HP, CVHT cần tư vấn giúp SV tránh các hiện tượng:
+ Chuẩn bị thi bằng hình thức tự luận, trắc nghiệm khách quan theo kiểu
đối phó, vi phạm quy chế thi. Khi vào thi, nhận đề xong là làm bài ngay, không
phân tích đề, không lập phương án làm bài; làm bài thi xong không kiểm tra,
soát lỗi; ghi thiếu hoặc không chính xác thông tin trên tờ giấy thi...
+ Chuẩn bị thi vấn đápchỉ chú trọng ôn kỹ về kiến thức mà không rèn
luyện kỹ năng giữ bình tĩnh và trình bày bằng ngôn ngữ nói.
+ Khi thi trắc nghiệm trên máy tính, không tiến hành các thao tác sao lưu
dữ liệu nên có khi làm xong bài sớm mất dữ liệu do máy tính đột ngột trục
trặc...
- Về viết báo cáo thực hành, thực tập; bảo vệ đồ án, khóa luận... CVHT
cần tư vấn để SV tránh một số hiện tượng:
+ Không đọc văn bản hướng dẫn nên bị lạc yêu cầu. Ví dụ: nhiệm vụ là
viết báo cáo thực tập thì SV lại diễn đạt dưới dạng một đề tài hoặc trình bày
37
khóa luận với tư cách là một công trình khoa học lại sử dụng văn phong giàu
hình ảnh, chỉ hợp với tự sự, tùy bút.
+ Tìm kiếm, xử lý, kiểm tra thông tin thiếu trách nhiệm, sao chép báo cáo
của SV khóa trước nên thông tin thực tế về cơ sở thực hành, thực tập đã thay
đổi nhưng không cập nhật.
+ Không chọn lọc tài liệu khoa học chính thống để đọc và tham khảo dẫn
đến sử dụng những thông tin sai lệch vào báo cáo, đề tài.
+ Chỉ tập trung làm văn bản để nộp, không dự kiến và tập trả lời các câu
hỏi của giảng viên chấm khóa luận hoặc của hội đồng chấm đồ án hỏi nên gặp
khó khăn trong việc thuyết phục giảng viên chấm và hội đồng.
5. Tƣ vấn cho SV đăng ký học lại, cải thiện điểm; học thêm các kiến thức,
kỹ năng, chứng chỉ khác
- Về đăng ký học lại HP bị điểm F, trước khi ký xác nhận cho SV đăng ký
học lại, CVHT cần phải hỗ trợ SV ở các điểm sau:
+ Yêu cầu SV xem xét khối lượng học tập của cá nhân ở học kỳ (mà mình
sẽ đăng ký học lại HP bị điểm F) có phù hợp không, có quá nặng không, đăng
ký học lại vào học kỳ đó có tạo ra nguy cơ “F hóa” thêm các HP khác hay
không.
+ Đăng ký học lại đúng thời điểm để không chỉ đáp ứng quy định, quy chế
mà quan trọng là có đủ thời gian học trên lớp, theo kịp mục tiêu của HP khi đã
học một lần không vượt qua được. SV cần được giúp đỡ để hiểu rằng, học lại
HP thì sự công phu phải tăng lên, nếu vẫn đầu tư như cũ thì kết quả xem như đã
được định đoạt trước.
+ Trường hợp SV phải học lại HP mà HP đó không có trong CTĐT của các
khóa học sau, CVHT cần phối hợp với tổ bộ môn để hỗ trợ SV chọn HP thay thế,
có mục tiêu, khối lượng tương tự như HP mà SV phải học lại theo quy định của
Hiệu trưởng.
- Về đăng ký học cải thiện điểm D, CVHT cần tư vấn để SV hiểu và cân
nhắc kỹ bởi về nguyên tắc học cải thiện điểm sẽ có 3 trường hợp xảy ra:
+ Từ đã tích lũy (điểm D) xuống chưa tích lũy do thi không đạt, điểm HP
bị từ D xuống F, trường hợp này xem như “cải lui”;
38
+ Giữ nguyên kết quả, không thay đổi được điểm D lên điểm khác;
+ Cải thiện được điểm từ điểm D lên các điểm C, B, A - trường hợp này
mới thực sự là cải thiện.
Do không ý thức đầy đầy đủ về các trường hợp trên nên SV đăng ký học
cải thiện điểm không phù hợp, chọn HP khó (mà mình đã đạt điểm D là phù
hợp) để đăng ký học cải thiện, dẫn đến tốn kém thời gian, tiền bạc, tăng rủi ro
khi có thể bị tụt xuống điểm F.
- Về đăng ký học thêm kiến thức, kỹ năng, chứng chỉ khác, CVHT cần tư
vấn cho SV:
+ Hướng tới những kiến thức, kỹ năng, chứng chỉ thiết thực, tránh ôm đồm,
thiếu chọn lọc. Trên cơ sở ý thức rõ về bản thân và yêu cầu nghề nghiệp, xã hội,
cần ưu tiên chọn học hoặc chọn rèn phù hợp. Ví dụ: khi bản thân đang có vấn đề
về sức khỏe thì nên đăng ký học các tín chỉ văn hóa ở mức độ bình thường, còn lại,
cần dành thời gian học một môn thể thao để củng cố sức khỏe và hình thành thói
quen rèn luyện thân thể thường xuyên, hướng tới trở thành người lao động khỏe
mạnh trong tương lai, thích ứng với áp lực công việc.
+ Chọn học các kiến thức, kỹ năng, chứng chỉ ở những địa chỉ đào tạo có
uy tín. Trước khi đăng ký học cần dành thời gian tìm hiểu về chất lượng cơ sở
đào tạo mình sẽ đăng ký học để biết những phản hồi của người học về chất
lượng của cơ sở đó, tránh bị rơi vào tình trạng bị lừa phỉnh.
Quá trình vận động từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo tín chỉ ở
Việt Nam hiện nay với nhiều cơ sở giáo dục đại học vẫn đang là giai đoạn đầu,
quá độ. Vì vậy, từng CVHT cần phải nắm và thực hiện tốt chức năng tư vấn học
tập để giúp SV từng bước thích ứng với đào tạo theo tín chỉ.
39
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ
chính quy theo hệ thống tín chỉ ban hành kèm theo Quyết định số
43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư số 57/2012/TT-BGDĐT ngày 27
tháng 12 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo sửa đổi, bổ
sung một số điều của Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy
theo hệ thống tín chỉ ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-
BGDĐT ngày 15 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo.
3. Lê Viết Khuyến (2012), Quá trình chuyển đổi quy trình đào tạo
qua hệ tín chỉ trong các trường đại học và cao đẳng Việt Nam. Kỷ
yếu Hội thảo khoa học toàn quốc “Đổi mới công tác giảng dạy,
nghiên cứu khoa học và quản lý giáo dục ở các trường cao đẳng”,
Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, 5/2012.
4. Phạm Thanh Hải (2014), Nhận thức và áp dụng các khái niệm đơn
vị học trình, tín chỉ trong đào tạo ĐH, CĐ. Kỷ yếu Hội thảo khoa
học “Đổi mới hình thức tổ chức và phương pháp dạy học trong đào
tạo theo hệ thống tín chỉ” Trường Đại học Quảng Nam, 16/5/2014.
40
CỐ VẤN HỌC TẬP TRONG ĐÀO TẠO TÍN CHỈ Ở CÁC TRƢỜNG
ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG VIỆT NAM HIỆN NAY – YÊU CẦU,
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh1
Nguyễn Diệu Thanh2
1. Dẫn nhập
Nhằm đưa nền giáo dục Việt Nam sớm hội nhập với khu vực và thế giới, trong
suốt những năm qua, các trường đại học trong cả nước đã tích cực thực hiện lộ trình
chuyển đổi từ việc thực hiện chương trình đào tạo theo nhóm sinh viên được chia
thành lớp theo kiểu Đông Âu thành việc thực hiện đào tạo theo hệ thống tín chỉ kiểu
Hoa Kỳ và bước đầu, một số ít trường đã tạo ra được những thay đổi có tính chất cơ
bản. Tuy nhiên, nhìn chung các trường đại học, cao đẳng trên phạm vi toàn quốc chỉ
đang thực hiện những thay đổi bề mặt theo hệ thống mới chứ chưa thực sự đưa
phương thức đào tạo theo tín chỉ vận hành đúng với thực chất, đặc trưng của nó. Một
trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này chính là chưa nhận thức hết tầm
quan trọng và vai trò của cố vấn học tập trong quy trình đào tạo. Từ đó, mà chưa thực
thi được những giải pháp thích hợp, thiết thực nhằm phát huy tối đa chức năng của họ
trong vai trò “cố vấn”. Bằng cái nhìn khách quan, chân thực, chúng tôi – những giảng
viên tre tâm huyết với nghề một lần nữa mong muốn nhận chân lại vai trò của cố vấn
học tập trong đào tạo tín chỉ hiện nay, đánh giá đúng và sát thực trạng, đồng thời bước
đầu đề ra một số giải pháp khả thi với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng của
việc đạy học theo hệ thống tín chỉ, đưa nó sớm vận hành đúng với bản chất vốn có.
2. Nội dung
2. 1. Bản chất của học chế tín chỉ và yêu cầu đặt ra đối với cố vấn học tập
Khác với hình thức đào tạo theo niên chế trước đây, đặc trưng nổi bật nhất của
học chế tín chỉ - một hình thức đào tạo được xem là tiên tiến trên thế giới hiện nay
chính là mục tiêu đào tạo của nó hướng vào sinh viên, xem người học là trung tâm
trong cả quá trình dạy - học. Theo đó, người học chủ động hơn trong việc tiếp thu
kiến thức và quản lý thời gian (chủ động lựa chọn môn học, lựa chọn giáo viên, lựa
chọn giờ học...), đồng thời phát huy được khả năng tự học, tự nghiên cứu của chính
các em. Chính vì xem người học là trung tâm nên việc đào tạo hoàn toàn dựa vào yêu
cầu của chính người học. Có lẽ không sai khi chúng ta xem người học như khách hàng
của nhà trường và mối quan hệ giữa Trường với người học chính là mối quan hệ giữa
1 TS – Giảng viên khoa Việt Nam học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2 Giảng viên trường Đại học Quảng Bình
41
Nhà cung ứng với Khách hàng – một mối quan hệ hoàn toàn bình đẳng, minh bạch
theo quy luật cung – cầu của thị trường giáo dục trong bối cảnh đầy cạnh tranh như
hiện nay. Do đó, sự xuất hiện của các cố vấn học tập trong quy trình đào tạo này cũng
có thể hình dung như những “nhân viên chăm sóc khách hàng” vậy. Vấn đề ở đây là
số lượng, chất lượng của các cố vấn học tập ấy có “đủ” đáp ứng nhu cầu thường
xuyên của người học hay không, có thực sự là cố vấn đắc lực cho người học trong quá
trình chọn lựa, tự học và tự nghiên cứu của mình không? Từ bản chất của quá quá
trình đào tạo theo học chế tín chỉ, chúng tôi tạm đề ra những yêu cầu “cần” và “đủ”
đối với các cố vấn học tập như sau:
Thứ nhất, cố vấn học tập phải là người nắm rõ nhất bản chất của quá trình dạy
học và quy trình đào tạo của đơn vị công tác, từ số lượng, nội dung các môn học trong
mỗi kì, việc đăng ký các môn học ra sao cho đến số lượng tín chỉ người học phải tích
lũy được, nội dung và hình thức thực hành, thực tế…
Thứ hai, cố vấn học tập phải làm sao hiểu được người học và giúp người học
hiểu được chính mình: hiểu được những gì người học cần trong quá trình học tập và
những gì người học có thể tự làm được để từ đó tư vấn, hướng dẫn, giúp các em nhận
ra đúng thiên hướng và trình độ học lực của mình, đăng ký vào đúng lớp mình có thể
học và cần phải học.
Thứ ba, cố vấn học tập phải thực sự là những người có đạo đức, tâm huyết với
nghề. Có như vậy thì họ mới có đủ sự kiên trì, nhẫn nại để theo sát tâm tư, nguyện
vọng của từng sinh viên, cung với các em tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc trong
quá trình học tập và nghiên cứu.
Thứ tư, cố vấn học tập phải được trau dồi kỹ năng ngoại ngữ, vi tính và kĩ năng
giao tiếp, làm việc với sinh viên. Không chỉ cần có Tâm, bản thân các cố vấn học tập
cũng phải thực sự là những người bạn thực sự với chính người học. Họ phải nắm được
tâm – sinh lý của các em, có phương pháp và nghệ thuật giao tiếp cởi mở, thân thiện.
Có thế, họ mới thực sự “hòa” nhập vào thế giới sinh viên, giúp sinh viên tin tưởng và
từ đó có thể se chia mọi khó khăn, giải đáp những thắc mắc (thậm chí là những trăn
trở rất khó nói) mà các em gặp phải trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Thứ 5, để cố vấn học tập phát huy tốt nhất vai trò của mình, bên cạnh chú trọng
chất lượng đội ngũ này, chúng ta cần phải đảm bảo đủ về mặt số lượng để có thể phục
vụ tốt nhu cầu của tất cả sinh viên, khắc phục tình trạng chỉ tập trung chú ý vào hai
loại đối tượng sinh viên như nhiều trường hiện nay: sinh viên học tập xuất sắc cần bồi
dưỡng tài năng và sinh viên gặp nhiều khó khăn.
42
Qua đây, chúng ta có thể phác dựng mô hình về những yêu cầu đặt ra đối với các
cố vấn học tập như sau:
Sơ đồ: Yêu cầu đối với cố vấn học tập trong đào tạo theo học chế tín chỉ ở các
trƣờng đại học Việt Nam hiện nay
43
2.2. Thực trạng công tác cố vấn học tập tại các trƣờng đại học, cao đẳng
Việt Nam hiện nay
Trong đào tạo theo tín chỉ, cố vấn học tập có vai trò đặc biệt quan trọng và ảnh
hưởng rất lớn đến sự thành công trong học tập và rèn luyện của sinh viên. Tuy nhiên,
thực tế triển khai tại các trường đại học, cao đẳng hiện nay cho thấy công tác cố vấn
học tập vẫn còn nhiều vấn đề bất cập.
Trước hết, nhiều trường vẫn chưa phân biệt một cách rõ ràng hai khái niệm
giáo viên chủ nhiệm và cố vấn học tập. Nếu trong mô hình đào tạo theo niên chế, giáo
viên chủ nhiệm đóng vai trò là cầu nối giữa nhà trường và sinh viên, là người đại diện
của nhà trường quản lý sinh viên, thì trong mô hình đao tạo theo tín chỉ, người cố vấn
học tập có vai trò tư vấn, định hướng quá trình học tập và lựa chọn nghề nghiệp của
sinh viên, giám sát quá trình học tập của các em, qua đó tham mưu cho lãnh đạo
trường, khoa và bộ môn các vấn đề liên quan đến công tác quản lý đào tạo, nghiên
cứu khoa học và đào tạo theo nhu cầu xã hội. Những năm gần đây, khi chuyển sang
mô hình đào tạo theo tín chỉ, tại các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, khái niệm cố
vấn học tập dần thay thế cho khái niệm giáo viên chủ nhiệm trước đây. Tuy nhiên, khi
quy định trách nhiệm và quyền hạn cho giảng viên kiêm nhiệm cố vấn học tập, các
trường lại mặc định cố vấn học tập chính là giáo viên chủ nhiệm, chỉ khác nhau về tên
gọi, còn vai trò và nhiệm vụ thì không đổi, thậm chí còn nặng nề hơn. cố vấn học tập
vừa là giáo viên chủ nhiệm trước đây, đồng thời đảm nhận vai trò là người tư vấn, trợ
giúp sinh viên trong học tập và nghiên cứu khoa học. Đây là một trong những nguyên
nhân khiến cả giảng viên và sinh viên đều chưa thực sự hiểu đúng về vai trò của một
người cố vấn học tập thực sự.
Kinh nghiệm triển khai học chế tín chỉ tại các quốc gia phát triển cho thấy, cố
vấn học tập là một công việc đòi hỏi kiến thức và thời gian. Nhiệm vụ của giảng viên
– cố vấn học tập là tư vấn về học tập, nghiên cứu khoa học và việc làm cho sinh viên.
Tuy nhiên, ở hầu hết các cơ sở giáo dục đại học ở nước ta, giảng viên – cố vấn học
tập lại đang “quá tải” về nhiệm vụ. Bên cạnh các hoạt động giảng dạy, công tác
chuyên môn, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, họ phải “gánh” thêm nhiệm vụ giáo viên
chủ nhiệm lớp như hướng dẫn về thủ tục hành chính, và trong học chế tín chỉ, họ lại
phải kiêm nhiệm cố vấn học tập. Áp lực phải hoàn thành một khối lượng công việc
quá lớn trong năm khiến đội ngũ giảng viên gặp nhiều khó khăn trong việc phân bổ
thời gian hợp lý để thực hiện tốt tất cả các nhiệm vụ nói trên. Vì nhiều nguyên nhân
khách quan lẫn chủ quan, vai trò cố vấn học tập của giảng viên rất ít được chú trọng.
Hầu như các giảng viên không thu xếp được thời gian để gặp sinh viên do thời gian
biểu, lịch công tác dày đặc. Điều này trái ngược hoàn toàn với bản chất của vị trí cố
44
vấn học tập mà các nước phát triển đã thực hiện. Tại các quốc gia này, sinh viên hoàn
toàn có thể mang đến những yêu cầu chính trong bài tập, một bài viết mẫu hoặc phản
hồi cụ thể mà bạn nhận được từ hệ thống hoặc từ giáo sư phụ trách môn học của mình,
đồng thời có thế đưa ra hay mang theo bất cứ tài liệu nào liên quan đến bài tập cá
nhân và nhờ cố vấn học tập hướng dẫn. Nguyên nhân của thực trạng này ở Việt Nam,
như đã nói, có thể xuất phát từ cách nhìn nhận vai trò của cố vấn học tập từ phía
người thầy và từ phía sinh viên, bởi cả hai chưa thực sự hiểu hết vai trò của cố vấn
học tập trong học chế đào tạo tín chỉ, đồng thời cũng do quỹ thời gian hạn hẹp khiến
giảng viên khó có nhiều cơ hội tiếp cận và trao đổi với sinh viên. Hiệu quả của hoạt
động tư vấn, cố vấn trong học tập của giảng viên vì thế mà không thu được hiệu quả
cao.
Trong học chế đào tạo tín chỉ, công việc cụ thể của các cố vấn học tập là hướng
dẫn sinh viên tìm hiểu chương trình đào tạo, tư vấn xây dựng kế hoạch học tập và
đăng ký các môn học phù hợp; hướng dẫn sinh viên về phương pháp học tập, sử dụng
thời gian hiệu quả; tư vấn giúp sinh viên tháo gỡ những vướng mắc… Việc này đòi
hỏi người cố vấn học tập phải am hiểu chương trình, đặc thù của ngành học, hiểu khả
năng và hoàn cảnh của đối tượng được tư vấn, có nhiệt tình cao. Thế nhưng, rất ít
giảng viên đáp ứng được những yêu cầu đó. Một thực tế mà rất nhiều trường đại học,
cao đẳng gặp phải hiện nay là đội ngũ cố vấn học tập quá trẻ và thiếu kinh nghiệm.
Mặc du sự nhiệt tình, năng động, của các giảng viên tre, cung với khoảng cách tuổi
tác, thế hệ không lớn là yếu tố thuận lợi giúp họ tiếp cận sinh viên dễ dàng hơn,
nhưng các giảng viên tre lại thường có những điểm yếu như: thiếu kinh nghiệm thực
tế, chưa chủ động trong công việc. Rất nhiều cố vấn học tập là những giảng viên tre
mới được giữ lại trường chưa lâu, chưa nắm bắt hết các quy định có liên quan đến
công tác đào tạo, công tác sinh viên cũng như rất nhiều những quy định khác có liên
quan. Mặt khác, áp lực trong thời gian đầu của quá trình làm việc tại trường khiến các
giảng viên tre không có đủ thời gian phân chia cho giảng dạy, nghiên cứu cũng như
học tập nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học…Kết quả là, họ sẽ dành ít
thời gian cho công việc cố vấn học tập, vì đây được coi là công việc ít mang lại lợi ích
thiết thân cho họ. Nhiều giảng viên tre chưa có nhiều kinh nghiệm trong xử lý các tính
huống sư phạm “ngoài lớp học” nên gặp khá nhiều khó khăn trong khi làm việc với
sinh viên. Điều này dẫn những sai sót, những hiểu lầm không đáng có… Đa số các
giảng viên tre tự tìm tòi, học hỏi, tích lũy kinh nghiệm dần trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ của mình mà chưa trải qua một buổi tập huấn hay phổ biến quy chế từ
phòng đào tạo. Vì tâm lý “sợ sai”, một số giảng viên tre hạn chế tiếp xúc với sinh
viên, né tránh đề nghị tư vấn của sinh viên. Do đó, khi gặp rắc rối liên quan đến quy
45
chế học vụ, học phí, các chế độ chính sách…, sinh viên thường không tìm đến cố vấn
học tập mà lên thẳng phòng đào tạo hoặc phòng công tác sinh viên, gây ra tình trạng
quá tải ở các phòng, ban. Thực trạng này cho thấy đội ngũ giảng viên tre - cố vấn học
tập hiện nay rất thiếu thông tin, kĩ năng và chuyên môn dẫn đến thiếu khả năng giải
quyết những vấn đề do sinh viên đặt ra. Vì thế, kết quả tư vấn chưa cao, chất lượng
công tác cố vấn học tập còn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.
Cần phải khẳng định rằng, cố vấn học tập có vai trò đặc biệt quan trọng, không
thể thiếu trong đào tạo theo học chế tín chỉ. Mỗi cố vấn học tập là một nhân tố then
chốt trong mối quan hệ nhà trường - sinh viên – thị trường lao động; là một chuyên
gia tư vấn về học tập và việc làm cho sinh viên, đồng hành cùng sinh viên trong suốt
quá trình học tập. Nếu coi sinh viên là khách hàng thì cố vấn học tập được ví như
những người nhân viên bán hàng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy đội ngũ nhân viên bán
hàng này vẫn chưa thực sự nhiệt tình với thượng đế của mình. Bên cạnh những cố vấn
học tập am hiểu các quy chế, tận tình hướng dẫn sinh viên trong suốt quá trình học
tập, rèn luyện, giúp sinh viên đạt kết quả cao, cũng còn một số cố vấn học tập chưa
thật sự làm hết chức năng, nhiệm vụ của mình. Vẫn còn tình trạng cố vấn học tập chỉ
ký xác nhận vào phiếu đăng ký học phần mà không hề tư vấn cho sinh viên, thậm chí
không quan tâm nội dung đăng ký trên phiếu. Việc duy trì đội ngũ cố vấn học tập ở
nhiều nơi còn mang tính hình thức bởi trên thực tế, lực lượng giảng viên ở nhiều
trường đại học và cao đẳng còn mỏng, chưa am hiểu kỹ về chương trình, quy chế đào
tạo tín chỉ, chưa nắm vững tinh thần học tập cụ thể của sinh viên… Một số cố vấn học
tập còn hời hợt, ít bố trí thời gian tiếp xúc với sinh viên, không tổ chức thường xuyên
sinh hoạt định kỳ đối với các lớp sinh viên (thường chỉ 2-3 buổi/ học kỳ), việc sinh
hoạt định kỳ chưa có nội dung phong phú, các tiếp xúc tư vấn nhiều khi mang tính tự
phát trực tiếp hoặc qua trao đổi qua điện thoại, email nên hiệu quả chưa cao, chưa đáp
ứng và giải đáp những thắc mắc của sinh viên một cách đầy đủ.
Đào tạo tín chỉ là lấy sinh viên làm trung tâm - sinh viên chủ động trong việc
học tập, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc cố vấn học tập có thể phó mặc cho
sinh viên trong tất cả mọi việc. Thái độ thờ ơ, thiếu trách nhiệm của cố vấn học tập
trong công việc là một trong những nguyên nhân dẫn đến những hậu quả nghiêm
trọng, như bị khiển trách, kỷ luật, thậm chí là bị đuổi học, mà người gánh chịu không
phải ai hết ngoài sinh viên. Tiến sĩ Lê Văn Khuyến – nguyên phó vụ trưởng Vụ Đại
học và sau Đại học – Bộ Giáo dục & Đào tạo cho biết: “Nguyên nhân chính dẫn đến
việc nhiều sinh viên bị thôi học khi đào tạo tín chỉ do sự thiếu trách nhiệm của cố vấn
học tập. Hệ thống này phải có trách nhiệm hỗ trợ cho sinh viên trong việc lựa chọn kế
hoạch học tập phù hợp. Nếu hết học kì I, sinh viên có kết quả học tập không tốt thì cố
46
vấn học tập phải tác động và hướng dẫn để sinh viên rút bớt môn học trong kì tiếp
theo để vừa với sức học – vì vậy muốn thành công trong đào tạo tín chỉ các trường
phải chú trọng xây dựng đội ngũ này” (Theo nguồn tin ghi lại của phóng viên Vũ Thơ
báo Thanh Niên cung cấp).
2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác cố vấn học tập
trong học chế tín chỉ
Đào tạo theo học chế tín chỉ là một hình thức đào tạo linh hoạt, lấy người học
làm trung tâm. Để nâng cao chất lượng đào tạo, ngoài yếu tố người học, đội ngũ giảng
viên, cơ sở vật chất, chương trình đào tạo thì cố vấn học tập đóng vai trò hết sức quan
trọng. Như đã đề cập ở phần trên, có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng hiệu quả
công tác cố vấn học tập tại các trường đại học, cao đẳng hiện nay không cao, như
không đủ đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất và kinh phí để thực hiện riêng biệt hai
mảng công tác là cố vấn học tập và chủ nhiệm lớp, công tác cố vấn học tập còn khá
mới me đối với các cơ sở giáo dục đại học ở nước ta, vv… Nhưng nguyên nhân chính
vẫn là do các cơ sở giáo dục đại học chưa đánh giá đúng vai trò, chức năng và nhiệm
vụ của cố vấn học tập. Để nâng cao hiệu quả của công tác cố vấn học tập, sự thay đổi
trong cơ chế quản lý và tổ chức của nhà trường, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cố
vấn học tập là thực sự cần thiết. Dưới đây là một số giải pháp mà nhóm tác giả đưa ra:
2.3.1. Về phía nhà trường
Để phát huy vai trò, chức năng và nhiệm vụ của cố vấn học tập, các trường đại
học, cao đẳng cần thiết phải xây dựng quy trình công tác cố vấn học tập một cách
khoa học, đồng thời phải tổ chức lại công tác chủ nhiệm lớp, tách biệt với công tác cố
vấn học tập. Nhà trường nên quy định rõ vai trò và thời gian làm việc của cố vấn học
tập; Giới hạn những lĩnh vực cố vấn học tập có trách nhiệm giải quyết giúp sinh viên,
tránh tình trạng sinh viên xem cố vấn học tập như người “đa năng”, đặt những câu hỏi
ngoài kiến thức và năng lực chuyên môn của cố vấn học tập.
Bên cạnh đó, nhà trường có thể tổ chức mạng lưới cố vấn học tập chuyên trách ở
mỗi khoa, hoặc bộ môn quản lý ngành học, tăng cường vai trò của Phòng công tác
sinh viên trong việc tư vấn cho sinh viên về các thủ tục hành chính, các vấn đề về đời
sống học đường, vv… thông qua các hình thức tư vấn trực tiếp, tư vấn qua e-mail.
Đồng thời, nhà trường nên công khai hóa một cách đầy đủ các thủ tục liên quan đến
sinh viên và hướng dẫn chi tiết trên website để sinh viên dễ dàng thực hiện nhằm giảm
bớt nhiệm vụ cho cố vấn học tập.
Định kỳ hằng năm, các trường cần mở các lớp tập huấn, đào tạo bồi dưỡng
nghiệp vụ cố vấn học tập cho các giảng viên như hướng dẫn sinh viên giải quyết các
47
vấn đề về đào tạo: đăng ký môn học, đăng ký học cải thiện, học lại, học tiến độ riêng,
bảo lưu kết quả học tập… để các giảng viên, đặc biệt là giảng viên tre tiếp cận một
cách nhanh nhất các quy chế, quy định mới, tích lũy kinh nghiệm, kiến thức để thực
hiện tốt hơn vai trò cố vấn học tập của mình.
Để thuận tiện cho cố vấn học tập trong việc cập nhật thông tin liên quan đến sinh
viên, các trường nên xây dựng và đưa vào sử dụng phần mềm quản lý sinh viên. Phần
mềm này tích hợp thông tin giữa các phòng ban, giúp cố vấn học tập không những dễ
dàng tìm hiểu thông tin cá nhân của sinh viên mà còn nhanh chóng nắm bắt tình hình
học tập và rèn luyện của sinh viên qua các kỳ học. Nhờ vậy, các giảng viên kịp thời cố
vấn các em trong việc xây dựng kế hoạch học tập phù hợp và hòa nhập trong môi
trường tập thể.
Nhà trường, đặc biệt là tổ chức Đoàn thanh niên, hội sinh viên cần có các hoạt
động hiệu quả, hấp dẫn hơn, đồng thời nâng cao kỹ năng tuyền truyền, vận động của
đội ngũ cán bộ Đoàn, hội để thu hút sinh viên tham gia vào các hoạt động của tổ chức
này. Sau khi tham gia vào các hoạt động của Đoàn, hội làm cho sinh viên nâng cao
được tính chủ động của mình hơn thì công tác cố vấn học tập cũng sẽ nhẹ nhàng hơn.
Bởi lẽ tính chủ động chưa cao của sinh viên hiện nay là nguyên nhân cơ bản nhất
khiến các em không nắm rõ các quy chế, các văn bản quy định liên quan đến chính
bản thân mình, và phụ thuộc nhiều vào thông tin nhận được qua sự tư vấn của cố vấn
học tập.
2.3.2. Về phía đội ngũ cố vấn học tập
Để phát huy tốt vai trò cố vấn học tập, các cố vấn học tập cần am tường về
chuyên môn, nắm vững mục tiêu giáo dục, nội dung, chương trình đào tạo, quy chế
của Bộ Giáo dục và Đào tạo, quy định, nội quy của trường về học tập, rèn luyện và
công tác sinh viên của trường; cố vấn học tập cũng phải nắm rõ chức năng, nhiệm vụ
của từng phòng ban chức năng để hướng dẫn sinh viên liên hệ đúng người, đúng việc,
đúng thời gian, thường xuyên cập nhật những thay đổi, bổ sung trong quy chế, quy
định, nội quy để có thể tư vấn, hỗ trợ giúp đỡ sinh viên trong quá trình học tập, rèn
luyện tại trường.
Cố vấn học tập cần xây dựng và công khai lịch tiếp sinh viên, thời gian và địa
điểm tiếp sinh viên; cung cấp cho sinh viên số điện thoại, email và các phương tiện
liên lạc khác để sinh viên liên lạc trong trường hợp cần thiết. Định kỳ theo tháng, cố
vấn học tập nên làm việc với Ban cán sự lớp, thường xuyên tổ chức các buổi họp lớp
để sinh hoạt với lớp các nội dung theo quy định của nhà trường, để nhận xét, đánh giá
tình hình hoạt động của lớp, đưa ra phương hướng giải quyết, phổ biến những kế
48
hoạch phải thực hiện trong thời gian sắp tới, tư vấn, định hướng cho sinh viên biết
những việc phải làm trong hiện tại và tương lai, để sinh viên yên tâm cố gắng học tập
và nghiên cứu. Đồng thời qua đó giúp sinh viên định hướng tốt nghề nghiệp trong
tương lai.
Ngoài những biện pháp nêu trên, thiết nghĩ muốn công tác cố vấn học tập đạt
hiệu quả cao vẫn rất cần “cái tâm” của người giáo viên làm công tác này. Để làm tròn
vai trò một cố vấn học tập, chính bản thân các giảng viên phải luôn lắng nghe ý kiến
của sinh viên, đồng thời gần gũi hơn với sinh viên để chia se. Khi cố vấn học tập thực
sự quan tâm đến sinh viên, phát huy hết vai trò trách nhiệm của mình đối với sinh
viên thì các em sẽ mạnh dạn, chủ động hơn trong việc trao đổi với cố vấn học tập của
lớp.
Trong vai trò giảng viên kiêm nhiệm cố vấn học tập, mỗi thầy giáo, cô giáo có
thể rèn luyện tính tự lập cho sinh viên qua nhiều cách khác nhau như: hướng dẫn sinh
viên phương pháp tự học, tìm kiếm thông tin trên mạng, qua đó giúp sinh viên nhận
thức rõ cố vấn học tập chỉ là người tư vấn cho các sinh viên chọn hướng đúng đắn chứ
không phải là người “dắt tay chỉ việc”. Muốn vậy cố vấn học tập phải nhạy bén trong
cách trả lời những thắc mắc của sinh viên, không phải bất cứ câu hỏi nào của sinh
viên đều bắt buộc cố vấn học tập trả lời rõ ràng, đôi khi nguời cố vấn học tập thay vì
phải trả lời câu hỏi của sinh viên thì sẽ đặt ra những câu hỏi gợi ý cho các sinh viên
giúp các em bỏ di những thói quen thụ động, ít chịu tìm tòi suy nghĩ. Tuy nhiên,
người cố vấn học tập phải biết cách đặt ra câu hỏi để giúp các sinh viên không cảm
thấy thất vọng khi có thắc mắc mà không giải quyết được gì. Muốn vậy, bản thân các
cố vấn học tập nên chủ động phát triển kỹ năng mềm, tham gia đầy đủ các đợt tập
huấn công tác cố vấn học tập do nhà trường tổ chức.
3. Kết luận
Từ chỗ hiểu được bản chất, đặc thù của cách thức đào tạo theo tín chỉ và yêu
cầu đối với cố vấn học tập trong quy trình đào tạo này, trên cơ sở thực tiễn giảng dạy
ở các trường đại học trong những năm qua, chúng tôi mạnh dạn phác dựng lại thực
trạng và đề xuất một số giải pháp cụ thể, sát thực với mong muốn góp phần nâng cao
chất lượng thực sự của đội ngũ cố vấn học tập trong các trường đại học, cao đẳng Việt
Nam hiện nay, hy vọng đưa đào tạo theo tín chỉ của Việt Nam bắt kịp với nền giáo
dục của khu vực và trên thế giới.
49
CỐ VẤN HỌC TẬP VÀ THÀNH TÍCH HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
TRONG ĐÀO TẠO TÍN CHỈ
Trịnh Thị Phan Lan1
1. Dẫn nhập
Mô hình đào tạo theo tín chỉ được áp dụng lần đầu tiên vào năm 1872 tại Trường
Đại học Harvard danh tiếng của Hoa Kì. Từ đó đến nay, mô hình này phát triển rộng
khắp trên thế giới và được coi là mô hình đào tạo tiên tiến nhất cho đến thời điểm này.
Tại Châu Á, học chế tín chỉ cũng đã được áp dụng và mang lại rất nhiều thành công
cho các nước phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và các nước đang phát
triển như Trung Quốc, Indonésia, Thái Lan, Malaisia… Tại Châu Ân, hầu hết các
nước vẫn áp dụng học chế niên chế. Tuy nhiên, nhằm tạo sự linh hoạt trong giáo dục
đại học, 29 nước Châu Âu đã nhóm họp vào năm 1999 và kí Tuyên bố Bologna nhằm
xây dựng Không Gian Đại Học Chung Châu Âu và tiến tới áp dụng học chế tín chỉ bắt
đầu từ năm 2010. [1].
Trong đào tạo theo học chế tín chỉ thì vai trò của Cố vấn học tập rất quan trọng
và ảnh hưởng không nhỏ đến sự thành công trong học tập, rèn luyện của sinh viên.
Mỗi cố vấn học tập sẽ là cầu nối giữa sinh viên - chương trình đào tạo và nhà trường.
Phần lớn các trường đại học và một số trường cao đẳng hiện nay đã có những văn bản
quy định ghi rõ nhiệm vụ, vai trò, quyền lợi và trách nhiệm của cố vấn học tập. Tuy
nhiên, kết quả thực hiện theo các văn bản cũng như nhiệm vụ và vai trò của cố vấn
học tập ở mỗi trường lại rất khác nhau.
2. Ý nghĩa của cố vấn học tập đối với đào tạo theo học chế tín chỉ trong các
trƣờng cao đẳng, đại học Việt Nam hiện nay
Phương thức đào tạo tín chỉ khác biệt với đào tạo theo niên chế ở chỗ: đặt sinh
viên vào trung tâm ; do đó, cũng đò hỏi tính chủ động rất cao ở sinh viên. Sinh viên
phải tự thiết kế cho mình kế hoạch học tập, tự xây dựng thời khóa biểu của riêng mình
dựa vào chương trình đào tạo của nhà trường. Sinh viên phải dành nhiều thời gian để
tự học, đọc thêm những tài liệu giảng viên yêu cầu để có thể nắm bắt toàn bộ nội dung
học phần. Ngoài ra, còn phải thực hiện các bài tập nhóm được phân công mà hầu như
học phần nào cũng có. Thời gian dành cho tự học nhiều hơn, (theo qui định mỗi tiết
lên lớp sinh viên phải dành 2 tiết tự học).
Nếu chủ động, sinh viên có thể sắp xếp chương trình học phù hợp với hoàn cảnh,
năng lực và điều kiện của mình để có thể hoàn thành khóa học một cách tốt nhất. Tuy
nhiên, điều này hoàn toàn mới me đối với các em, đặc biệt là sinh viên mới bước chân
vào ngưỡng cửa đại học. Trong bối cảnh đó, cố vấn học tập là người có ảnh hưởng
1ThS – Trường Đại học Kinh tế – Đại học Quốc gia Hà Nội
50
trực tiếp đến sự thành công trong học tập và rèn luyện của sinh viên. Một cách cơ bản
nhất, cố vấn học tập là người:
1) Tư vấn và định hướng quá trình học tập và lựa chọn nghề nghiệp của
sinh viên.
2) Giám sát quá trình học tập và lựa chọn nghề nghiệp của sinh viên.
3) Tham mưu cho lãnh đạo trường, khoa và bộ môn các vấn đề liên quan
đến công tác quản lý đào tạo, nghiên cứu khoa học và đào tạo theo nhu
cầu xã hội.
Trong đào tạo niên chế, hệ thống giáo dục Việt nam đã tồn tại chức danh „giáo
viên chủ nhiệm‟. Thực chất, vai trò của Giáo viên chủ nhiệm và Cố vấn học tập khá
giống nhau. Một là, cả cố vấn học tập và giáo viên chủ nhiệm đều là cầu nối giữa sinh
viên và nhà trường. Hai là, họ đều là người đồng hành cùng sinh viên trong suốt bốn
năm học đại học. Và cuối cùng, họ là trợ thủ đắc lực giúp lãnh đạo các cấp trong nhà
trường ra quyết định quản lý phù hợp.
Vậy thì tại sao phải đổi từ « giáo viên chủ nhiệm » sang « cố vấn học tập »?
Trong cuộc thi nghiệp vụ cố vấn học tập của Trường ĐHKHXH & NV, thuộc Đại học
Quốc gia Hà Nội (tháng 5/2011), PGS.TS Nguyễn Kim Sơn (nguyên Phó hiệu trưởng
trường) đã làm rõ lý do gọi chức danh Giáo viên chủ nhiệm ở bậc Đại học là cố vấn
học tập: “Khi chuyển đổi sang phương thức đào tạo tín chỉ tức là đã có sự chuyển đổi
về “chất” trong đào tạo sinh viên, sinh viên có được sự chủ động và đặc biệt là chủ
động thể hiện hoạt động học tập của mình. Cố vấn học tập là người định hướng, tư
vấn, giám sát hoạt động học tập của sinh viên. Khi sinh viên muốn học vượt, học sớm
thì chính vai trò của cố vấn học tập lúc đó là phải giúp sinh viên được hiện thực hóa
nhu cầu này của họ” [2]
3. Giải pháp nâng cao vai trò của cố vấn học tập đối với thành tích học tập và rèn
luyện của sinh viên trong đào tạo tín chỉ
Các trường hiện đã có văn bản ghi rõ vai trò, trách nhiệm, quyền lợi của cố vấn
học tập, tuy nhiên, chưa có trường nào có được một tài liệu (hoặc gọi là cẩm nang cố
vấn học tập) hướng dẫn quy trình hoạt động cố vấn học tập. Ví dụ: Quy trình và nội
dung tư vấn của cố vấn học tập; cố vấn học tập sẽ làm gì sau khi tư vấn cho sinh viên
mới nhập học, họ sẽ làm gì tiếp theo trong tiến trình giúp đỡ sinh viên và họ sẽ tư vấn
gì cho sinh viên năm cuối... Để thuận tiện, tác giả xin đề xuất các công việc mà cố vấn
học tập nên thực hiện theo trình tự các năm như sau
3.1. Đối với sinh viên năm thứ nhất
Với năm đầu tiên, các sinh viên còn rất bỡ ngỡ với hình thức học tập khác hẳn
với lúc còn học phổ thông, bạn bè mới, thầy cô mới....Phần lớn các sinh viên vẫn còn
rụt rè, thụ động và chưa xác định rõ ràng phương hướng học tập. Đặc biệt là hoàn toàn
51
xa lạ với cách thức đào tạo tín chỉ. Trong năm học này, một số công việc trọng tâm
của cố vấn học tập như sau:
3.1.1.Giới thiệu khung chương trình đào tạo
Đây là công việc quan trọng hàng đầu của cố vấn học tập hướng dẫn cho sinh
viên tìm hiểu chương trình đào tạo của khoá - ngành và cách lựa chọn học phần.
Kế hoạch thực hiện:
- Giới thiệu kế hoạch học tập toàn khóa theo một vài kịch bản khác nhau để các
sinh viên làm mẫu. Đặc biệt là cách sắp xếp môn học trong các kỳ sao cho hợp lý giữa
các kỳ.
- Hướng dẫn sinh viên về cách đăng ký học phần cho từng học kỳ, tư vấn chọn
học phần tự chọn phù hợp với chuyên ngành đang học.
3.1.2. Tư vấn định hướng lựa chọn nghề nghiệp bước đầu
Không phải sinh viên nào cũng hiểu rõ ngành mình học vì đôi khi các em đăng
ký chọn ngành học theo phong trào, theo ý kiến bố mẹ hay đơn giản vì không đủ điểm
học ngành khác. Thậm chí, sau khi học xong 4 năm, nhiều sinh viên không rõ mình có
thể đảm nhiệm những vị trí nào, trong các cơ quan tổ chức nào. Do đó, nếu được tư
vấn từ cố vấn học tập ngay từ năm thứ nhất, sinh viên sẽ có ý thức hơn về lựa chọn
nghề nghiệp liên quan đến ngành đào tạo, cũng như sẽ có ý thức tìm hiểu về các cơ
hội nghề nghiệp đến với mình ngay từ năm thứ nhất để có thể chuẩn tốt khi ra trường.
Kế hoạch thực hiện: Yêu cầu sinh viên truy cập internet, tìm tất cả các nghề
nghiệp có liên quan đến ngành học, yêu cầu của nhà tuyển dụng để từ đó định hướng
ra một vài công việc phù hợp với bản thân.
3.1.3. Thành lập ban cán sự lớp
- Cách 1: Dựa vào kết quả thi tuyển sinh ĐH để chọn ra người có điểm cao vào
ban cán sự lớp. Tuy nhiên, sinh viên được chọn chưa hẳn là người yêu thích hay có
kinh nghiệm trong công việc mới được giao, điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến các hoạt
động phong trào của lớp sau này.
- Cách 2: Thông báo chung cho cả lớp biết việc lựa chọn ban cán sự lớp và đề
nghị các sinh viên tự nguyện đăng ký khả năng có thể tham gia chức vụ nào trong ban
cán sự lớp qua hình thức gửi email cho cố vấn học tập. Hạn chế của cách này là có
thể có rất nhiều sinh viên gửi email, việc này cũng gây lúng túng cho cố vấn học tập;
hoặc các em quá rụt rè, không có em nào gửi email thì việc tập hợp lại sinh viên để
thống nhất ban cán sự lớp rất khó khăn.
- Kế hoạch thực hiện:
+ Nên phổ biến chi tiết của công tác đánh giá điểm rèn luyện ngay từ học kỳ đầu
tiên, nhấn mạnh những ảnh hưởng của điểm rèn luyện đến kết quả học tập chung như
thế nào, xét chọn học bổng ra sao.
52
+ Lấy ý kiến xung phong của sinh viên ngay trên lớp hoặc nhờ sự hỗ trợ của các
thành viên khác trong lớp thông qua đề cử. Trong lớp sẽ có các nhóm sinh viên đã
quen biết nhau từ trước nên việc đề cử tương đối chính xác.
3.1.4. Nắm rõ sơ yếu lý lịch của từng sinh viên
Nắm rõ sơ yếu lý lịch của từng sinh viên là điều rất quan trọng đối với cố vấn
học tập. Thông qua sơ yếu lý lịch để bước đầu cố vấn học tập có thể tìm hiểu và đánh
giá sơ bộ nhân cách của các sinh viên. Nói chung đây chỉ là đánh giá sơ bộ ban đầu
nhưng nhờ vào sơ yếu lý lịch sẽ giúp cho cố vấn học tập linh hoạt hơn trong cách tiếp
xúc với từng thành viên của lớp và liên hệ với gia đình khi cần thiết.
Kế hoạch thực hiện: Xây dựng một mẫu sơ yếu lý lịch ngắn gọn, thông tin phù
hợp.
MẪU SƠ YẾU LÝ LỊCH SINH VIÊN
Họ tên
sinh
viên
Ngày
tháng
năm
sinh
Sức
khỏe
Nơi
thường
trú
Nơi
tạm trú
Số ĐT
liên lạc
ĐT
người
thân
Năng
khiếu
Lê Văn A
Trần Thị C
Nguồn: [3]
3.1.5. Lắng nghe và dự họp thường xuyên
Sinh viên hoặc rụt rè không dám hỏi cố vấn học tập hoặc cứ gặp vấn đề cũng hỏi
mà không đọc các văn bản tài liệu có liên quan. Điều này có thể gây khó khăn cho cố
vấn học tập do không nắm được tâm tư nguyện vọng của sinh viên (trong trường hợp
sinh viên không dám hỏi) hoặc phải trả lời quá nhiều câu hỏi của sinh viên vào những
thời điểm không thích hợp.
Tuy nhiên, mọi lúc, mọi nơi, cố vấn học tập cần tỏ thái độ lắng nghe và thấu
hiểu nguyện vọng của sinh viên.
Kế hoạch thực hiện: Nên trao đổi và thống nhất những vấn đề sau với sinh
viên:
- Thời gian có thể gặp sinh viên trong tuần.
- Thời gian có thể nhận và nghe điện thoại.
- Công việc và trách nhiệm của ban cán sự, ban chấp hành chi đoàn.
53
- Thời gian họp lớp định kì: dự lớp định kỳ, sự xuất hiện của cố vấn học tập sẽ
là nguồn khích lệ rất lớn với ban cán sự lớp và tạo sự gần gũi với các sinh viên.
3.2. Đối với sinh viên năm thứ hai và năm thứ ba
Bước sang năm thứ hai & ba sinh viên đã quen thuộc với các hoạt động của
trường, lớp, cách đăng ký các học phần....Trong 2 năm này, phần lớn các vấn đề phát
sinh có thể xảy ra đối với sinh viên liên quan đến việc chọn lựa các học phần phù hợp,
định hướng làm luận văn tốt nghiệp, định hướng tương lai... Nhiệm vụ của cố vấn học
tập cụ thể như sau:
3.2.1. Tư vấn học tập và nghiên cứu khoa học
Sinh viên vẫn còn chưa xác định rõ phương pháp học tập đúng đắn nhất là các
sinh viên bị điểm yếu kém trong năm học thứ nhất thường cảm thấy mất tự tin. Mặt
khác sinh viên thường có xu hướng đăng ký tối đa số tín chỉ cho phép của một học kỳ
(20TC) mà không nghĩ đến năng lực của mình và quan trọng hơn sinh viên thường có
xu hướng chạy theo số tín chỉ đạt được chứ không quan tâm kiến thức mình học được
bao nhiêu. Trên thực tế, với 137 tín chỉ phải trả trong 4 năm, thì mỗi năm sinh viên
chỉ cần đăng ký 35 tín chỉ.
Kế hoạch thực hiện:
- Dựa vào kết quả học tập của năm trước đó để đánh giá sơ bộ năng lực học tập
của từng sinh viên từ đó giúp họ lập ra kế hoạch học tập phù hợp.
- Giúp sinh viên nhận thức rõ cố vấn học tập chỉ là người tư vấn cho các sinh
viên chọn hướng đúng đắn chứ không phải là người “dắt tay chỉ việc”, nên đặt ra
những câu hỏi gợi ý để giúp sinh viên bỏ đi những thói quen thụ động ít chịu tìm tòi
suy nghĩ.
- Tư vấn sinh viên tự nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học gợi ý cho sinh viên
thấy rõ trình độ ngoại ngữ và tin học cũng là một trong những tiêu chuẩn để xét chọn
việc làm.
- Khuyến khích sinh viên học tập theo nhóm và có hình thức thưởng điểm rèn
luyện cho nhóm nào có sự tiến bộ tốt.
- Khuyến khích sinh viên nghiên cứu khoa học và chỉ rõ các lợi ích của sinh viên
khi tham gia hoạt động này.
2.1.2. Tư vấn kỹ năng giao tiếp
- Các sinh viên vẫn chưa tỏ ra có ý thức cao về hành vi, nhân cách của mình,
chẳng hạn như thường gây mất trật tự nơi công cộng, vào lớp không chú ý nghe giảng
54
làm ảnh hưởng đến sự tiếp thu của người khác. Tinh thần giữ gìn vệ sinh nơi công
cộng kém, vi phạm luật an toàn giao thông.
- Một bộ phận sinh viên khi giao tiếp với giảng viên hay cố vấn học tập bằng
email chưa tốt, thể hiện ở cách xưng hô hay cách hành xử chưa đúng mực khi viết
email.
Kế hoạch thực hiện:
+ Nhắc nhở sinh viên về ý thức bảo vệ môi trường và ý thức nơi công cộng. Nên
thông qua các câu chuyện hài hước để việc nhắc nhỏ trở nên nhẹ nhàng.
+ Khuyến khích cấc em tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường vì cộng đồng
Đoàn thanh niên tổ chức.
3.1.3. Tư vấn làm luận văn tốt nghiệp
Luận văn tốt nghiệp là một học phần khá quan trọng đối với sinh viên năm cuối.
Tuy nhiên, thời gian dành cho thực hiện luận văn tốt nghiệp không nhiều, trong khi đó
sinh viên do không chuẩn bị từ trước nên thay đổi đề tài, đề cương liên tục ảnh hưởng
đến chất lượng luận văn.
Kế hoạch thực hiện:
Cố vấn học tập cần tư vấn trước với sinh viên học phần này, tư vấn kỹ tầm quan
trọng của học phần đồng thời hướng dẫn sinh viên chuẩn bị những đề tài yêu thích
để có thể viết luận văn.
3.3. Đối với sinh viên năm cuối
Mặc dù có sự gợi ý, định hướng từ năm thứ nhất, nhưng không phải sinh viên
nào cúng có sự chuẩn bị tốt về nghề nghiệp cho mình trong 3 năm ở đại học. Hầu hết
sinh viên vẫn chưa định hướng nghề nghiệp, rất hoang mang lo lắng khi nghĩ về tương
lai.
Thời gian này, cố vấn học tập cần:
+ Tư vấn cho sinh viên thấy được tính đa dạng của những công việc có thể tìm
được ở bối cảnh hiện tại và các điều kiện làm việc mà có thể gặp phải.
+ Giáo dục sinh viên thấy rõ giá trị quan trọng của một người làm việc có tinh
thần trách nhiệm, kỷ luật cao có đạo đức trong công việc.
+Tư vấn cho sinh viên hoàn thiện các kỹ năng mềm cần có, tác phong, trang
phục khi đi phỏng vấn.
55
4. Điều kiện thực hiện
4.1. Có cố vấn học tập chuyên trách
Phần lớn cố vấn học tập hiện nay vẫn thường đảm nhiệm nhiều công việc một
lúc, họ vừa làm giảng viên, vừa đi dạy, nghiên cứu khoa học, vừa làm cố vấn học tập,
làm trợ lý, đảm nhận các vị trí khác…Việc gánh vác cùng lúc nhiều vai trò sẽ không
tạo ra được hiệu suất cao nhất cho các công việc mà họ tham gia.
Tốt nhất các trường nên có cố vấn học tập chuyên trách trực thuộc phòng đào
tạo. Nếu không thể đủ nhân lực thì cũng nên có một vài cán bộ chuyên trách cùng với
các cố vấn kiêm nhiệm.
Trên website nhà trường nên có một góc dành cho HỎI – ĐÁP – TƯ VẤN.
Danh sách các lớp đều được đưa lên, các câu hỏi, đáp, tư vấn sẽ trả lời theo lớp. Tuy
nhiên, sinh viên lớp khác có thể vào xem mà không cần mã. Điều này sẽ giúp sinh
viên tham khảo được các câu hỏi tương tự đã có sẵn của các bạn khác và cố vấn học
tập cũng không mất công trả lời một câu hỏi cho nhiều em. Các câu hỏi khó có thể
chuyển trực tiếp cho cố vấn học tập chuyên trách.
Việc này sẽ giảm thiểu được rất nhiều thời gian gặp mặt sinh viên định kỳ. Vì
sinh viên chỉ có thắc mắc khi gặp phải tình huống nên nhiều khi trong buổi gặp mặt
thì sinh viên không hỏi gì mà sau đó thì lại email tới tấp cho thầy cô. Các cố vấn học
tập cũng tránh được tình huống khó xử khi các em hỏi vấn đề mình chưa rõ, trên
website cố vấn học tập có thể chuyển câu hỏi cho cố vấn học tập chuyên trách hỗ trợ.
4.2. Giảm tải số lƣợng sinh viên quản lý trên một cố vấn học tập
Theo một nghiên cứu gần đây của GS.TS Trần thị Minh Đức và cộng sự [2]
được tiến hành trên 1564 sinh viên của 17 trường đại học trong cả nước và 244 giảng
viên đang là Cố vấn học tập tại các trường đại học trên thì mức độ “không thuận lợi”
điển hình nhất đối với công tác cố vấn học tập chính là chính là: Quản lý một lượng
sinh viên quá lớn.
56
Biểu đồ: Đánh giá mức độ không thuận lợi trong hoạt động cố vấn học tập
Làm kiêm nhiệm, số lượng sinh viên lớn khiến cố vấn học tập quá tải và không
theo sát được sinh viên trong quá trình học. Tác giả đề xuất, trong điều kiện hiện nay,
một cố vấn học tập không quản lý quá 100 sinh viên, trong tương lai nên giảm xuống
còn 50 sinh viên.
4.3. Phụ cấp xứng đáng cho cố vấn học tập
Việc phụ cấp cho cố vấn học tập ở các trường đại học hiện nay rất khác nhau,
điều này phụ thuộc vào điều kiện vật chất của trường, lượng công việc mà cố vấn học
tập được yêu cầu. Theo GS.Đức [2] thì có tới 34.6% cố vấn học tập nhận được thù lao
dưới mức 500 ngàn/ năm. Như vậy tính ra là mỗi tháng họ chỉ nhận được khoảng 50
ngàn đồng hỗ trợ công việc tư vấn học tập cho sinh viên. Có thể nói đây là mức tương
thu lao tương đối thấp, số tiền này có thể chưa đủ để cố vấn học tập trả tiền điện thoại
liên hệ với sinh viên.
Đáng chú ý hơn, có 16.3% số cố vấn học tập không nhận được phụ cấp trách
nhiệm và cũng không biết về khoản tiền này. Chỉ có 6.4% cố vấn học tập nhận được
khoản phụ cấp trên 2 triệu/năm.
57
Nguồn : [2]
Như vậy, ngoài biện pháp có cố vấn học tập chuyên trách và nhận mức lương
theo chế độ cho công việc này thì các trường đại học đang duy trì cố vấn học tập kiêm
nhiệm cần xây dựng mức phụ cấp tương xứng với thời gian và công sức mà cố vấn
học bỏ ra nếu muốn việc tư vấn học tập cho sinh viên thực sự có chất lượng.
4.4. Hỗ trợ khác từ các phòng ban của trƣờng
Cố vấn học tập cần nắm bắt rất nhiều thông tin từ các phòng ban như Bộ phận
quản lý sinh viên, Đoàn trường, Phòng đào tạo, Khoa chuyên trách… Do đó, mỗi sự
thay đổi liên quan cần có email thông báo tới các cố vấn học tập để họ có được thông
tin cần thiết từ phía nhà trường cho hoạt động tư vấn. Nhà trường cũng nên có các hỗ
trợ về cơ sở vật chất kịp thời cho cố vấn học tập và sinh viên: như phòng họp định kỳ,
hỗ trợ điện thoại…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS. Lâm Quang Thiệp, Về việc áp dụng học chế tín chỉ trên thế giới và ở Viêt
Nam, Kỉ yếu HT: "Xây dựng chương trình đào tạo theo tín chỉ có sử dụng
Internet" ngày 26/05/2006 do Viện Nghiên cứu Giáo dục tổ chức.
2. Trần Thị Minh Đức, Kiều Anh Tuấn, Cố vấn học tập trong các trường đại
học, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012)
23‐32.
3. Trần Thị Xuân Mai, Vai trò và trách nhiệm của cố vấn học tập ảnh hưởng tới
sự thành công của sinh viên, Tập san cố vấn học tập của Trường Đại học Cần
Thơ.
58
PHƢƠNG THỨC ĐÀO TẠO THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ
VÀ NHỮNG YÊU CẦU ĐỐI VỚI CỐ VẤN HỌC TẬP
Nguyễn Thị Hà Lan1
Lê Thị Tuyết2
Nguyễn Thị Lệ3
Tóm tắt
Phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ (HTTC) với những ưu thế vượt trội
của nó đã và đang là yêu cầu tất yếu của giáo dục đại học trên thế giới cũng như ở
Việt Nam. Phương thức đào tạo này yêu cầu người học phải phát huy tối đa vai trò
chủ thể, độc lập, sáng tạo trong học tập. Để thực hiện tốt mô hình này, phải khẳng
định rằng cố vấn học tập (CVHT) có vai trò đặc biệt quan trọng, không thể thiếu
trong đào tạo theo học chế tín chỉ. Mỗi CVHT là một nhân tố then chốt trong mối
quan hệ nhà trường - sinh viên; là một chuyên gia tư vấn về học tập, nghiên cứu khoa
học, rèn luyện, định hướng nghề nghiệp và cả tâm tư tình cảm cho sinh viên trong
suốt quá trình học tập tại trường. Bài viết đề cập đến những yêu cầu đối với cố vấn
học tập trong trường ĐH đang áp dụng phương thức đào tạo theo HTTC.
1. Đặt vấn đề
Đào tạo theo học chế tín chỉ đã trở thành xu thế tất yếu trong thời kỳ hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay. Tính đến nay, việc áp dụng phương thức đào tạo
theo HTTC đã mang lại những thành công nhất định đối với chất lượng đào tạo của
các trường ĐH. Bên cạnh việc cải biến đồng bộ các thành tố của quá trình giáo dục
như: Mục tiêu, nội dung, phương pháp, người dạy, người học... phương thức đào tạo
theo HTTC còn đặt ra những yêu cầu quan trọng đối với cố vấn học tập – người có vai
trò và ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình và kết quả học tập của sinh viên. Bài viết
này, chúng tôi đề cập đến những yêu cầu đối với cố vấn học tập trong các trường đại
học Việt Nam đang áp dụng đào tạo theo học chế tín chỉ hiện nay.
2. Yêu cầu đối với cố vấn học tập trong phƣơng thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ
Trong đào tạo theo học chế tín chỉ, CVHT là người có ảnh hưởng trực tiếp đến
sự thành công trong học tập và lựa chọn nghề nghiệp của người sinh viên. Đã có
nhiều hội thảo, hội thi với qui mô khác nhau đề cập đến “cố vấn học tập” trong
phương thức đào tạo theo HTTC. Cụ thể trường Đại học Cần Thơ tổ chức “Hội nghị
1 TS – Giảng viên trường Đại học Hồng Đức
2 ThS – Giảng viên trường Đại học Hồng Đức
3 ThS – Giảng viên trường Đại học Hồng Đức
59
nâng cao vai trò cố vấn học tập”, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn -
ĐHQGHN Tổ chức cuộc thi “Nghiệp vụ cố vấn học tập”, Trường Đại học Ngoại ngữ
- ĐHQGHN Tổ chức Hội thảo “Những vấn đề sinh viên cần trong quá trình học tập
tại trường và vai trò của cố vấn học tập ” v.v…Tất cả các hội thảo, hội thi này đều
nhằm mục đích làm rõ vai trò, trách nhiệm của đội ngũ CVHT để từ đó xác định
những yêu cầu đối với CVHT trong phương thức đào tạo theo HCTC.
2.1. Cố vấn học tập phải là ngƣời am hiểu về chƣơng trình đào tạo thuộc
chuyên ngành mình phụ trách
Nắm vững mục tiêu, chương trình đào tạo của ngành học có lớp sinh viên do
mình làm CVHT, các quy trình đào tạo và công tác quản lý sinh viên. Cụ thể là nắm
vững các học phần bắt buộc, các học phần tự chọn, các học phần tiên quyết trong
chương trình đào tạo; nắm vững quy định về tín chỉ; nắm vững quy trình đánh giá kết
quả điểm học tập của từng học phần, từng học kỳ, từng năm học và cả khóa học cũng
như đánh giá kết quả điểm rèn luyện của sinh viên. Tư vấn cho sinh viên đăng ký các
học phần của từng học kỳ phù hợp ngành (chuyên ngành) đào tạo; tư vấn cho sinh
viên phấn đấu để hoàn thành khối lượng học tập đã đăng ký. Phối hợp và hỗ trợ
Phòng đào tạo-NCKH, Phòng Công tác chính trị và Quản lý sinh viên, Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các khoa, bộ môn trong việc tổ chức phong trào, các
hoạt động ngoại khoá và tham gia các hoạt động đoàn thể, hoạt động xã hội khác của
sinh viên.
Thông thường, chương trình đào tạo các chuyên ngành ở trường ĐH được thể
hiện đầy đủ, chi tiết trong niên lịch đào tạo của nhà trường, phát cho SV vào đầu các
khóa học, năm học. Chương trình đào tạo thể hiện trình độ đào tạo; đối tượng đào tạo,
điều kiện nhập học và điều kiện tốt nghiệp; mục tiêu đào tạo, chuẩn kiến thức, kỹ
năng của người học khi tốt nghiệp; khối lượng kiến thức lý thuyết, thực hành, thực
tập; kế hoạch đào tạo theo thời gian thiết kế; phương pháp và hình thức đào tạo; cách
thức đánh giá kết quả học tập; các điều kiện thực hiện chương trình. Chương trình đào
tạo được cấu trúc từ các học phần thuộc hai khối kiến thức: giáo dục đại cương và
giáo dục chuyên nghiệp. Việc nắm vững chương trình đào tạo thuộc chuyên ngành
mình phụ trách sẽ giúp cho CVHT giải thích, tư vấn cho SV hiểu đầy đủ và sâu sắc
mục tiêu, nội dung và ý nghĩa của các môn học trong chương trình đào tạo, chuẩn bị
tâm thế và xây dựng kế hoạch học tập hợp lý dựa trên chương trình đào tạo.
2.2. Cố vấn học tập là ngƣời nắm vững các quy chế đào tạo của Bộ GD&ĐT
và các quy định về đào tạo của trƣờng
Nắm vững Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo học chế tín
chỉ (Quyết định số 43/2007/QĐ-BDGDT ngày 15/08/2007 của Bộ Giáo dục và Đào
60
tạo ; Văn bản hợp nhất Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT và Thông tư số
57/2012/TT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT . Mặt khác nghiên cứu các Quy chế
của BGD&ĐT và của Hiệu trường nhà trường về đào tạo theo hệ thống tín chỉ và
chương trình đào tạo của ngành học có lớp sinh viên do mình làm CVHT. Việc nắm
vững qui chế đào tạo của BGD và qui chế đào tạo của nhà trường sẽ giúp cho CVHT
thực hiên tốt chức năng tư vấn, trợ giúp cho SV về các vấn đề liên quan đến qui chế
đào tạo, qui định của nhà trường đối với hoạt động học tập, nghiên cứu của SV. Từ
việc nắm bắt đầy đủ, sâu sắc các qui chế của BGD, các qui định của nhà trường sẽ
giúp SV chủ động trong thực hiên qui chế đào tạo, chủ động và tự tin trong việc tiếp
cận với phương thức học tập ở trường ĐH nói chung, phương thức đào tạo theo
HTTC nói riêng.
2.3. Cố vấn học tập là ngƣời nắm vững các phƣơng pháp học tập ở trƣờng
ĐH nói chung, các phƣơng pháp học tập phù hợp với HTTC nói riêng để
hƣớng dẫn SV phƣơng pháp học tập ở trƣờng ĐH
Một trong những sự khác biệt cơ bản của hình thức đào tạo theo niên chế và theo
học chế tín chỉ là vai trò tự học của SV. Trong số các yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng đào tạo như chất lượng sinh viên đầu vào, cấu trúc chương trình đào tạo, nội
dung học phần, cơ sở vật chất, chất lượng giảng viên và đội ngũ cán bộ quản lý,
phương pháp giảng dạy, tài liệu học tập,…thì phương pháp học tập của sinh viên là
yếu tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến kết quả học tập của SV trong quá trình
đào tạo.
Vì vậy, yêu cầu CVHT cần nắm vững và hướng dẫn cho SV các phương pháp
học tập trên lớp, các phương pháp tự học hiệu quả, phương pháp nghiên cứu tài liệu,
giáo trình…; cách phân bổ thời gian và phương pháp dành cho các môn học; cách tìm
kiếm, tra cứu các nguồn tài liệu giáo trình, tài liệu tham khảo; Phương pháp thuyết
trình, hùng biện và làm bài tập nhóm; “Cách thức ôn tập, tổng hợp kiến thức trước kì
thi”. Bên cạnh đó, CVHT cần trang bị cho SV thái độ, ý thức và kỹ năng tự học để
tiếp thu các kiến thức theo cách của mình.
2.4. Cố vấn học tập phải nắm vững các hoạt động của SV trong phƣơng
thức đào tạo HTTC
CVHT phải hiểu đầy đủ các hoạt động mà SV phải tham gia trong phương thức
học tập theo HTTC từ đó hướng dẫn SV chuẩn bị điều kiện để thực hiên tốt các hoạt
động đó.
Dưới đây là công việc chủ yếu của SV trong học tập ở phương thức đào tạo tín
chỉ, có ảnh hưởng và vai trò quan trọng đối với quá trình học tập. Đó là:
61
1. Nghiên cứu kỹ đề cương chi tiết, mục tiêu, nội ung của từng tuần, từng bài
học
2. Đọc, nghiên cứu, phân tích và tổng hợp giáo trình, tài liệu tham khảo
3. Truy cập, tìm kiếm lưu trữ thêm những thông tin liên quan đến nội dung học
tập trên Internet và chọn lọc, sắp xếp, tích luỹ theo từng nội dung.
4. Tự học, tự nghiên cứu tài liệu độc lập
5. Làm việc nhóm, trao đổi với các bạn vàê nội dung học tập
6. Làm bài tập, chuyên đề theo yêu cầu của GV.
7. Làm việc trong phòng thí nghiệm
8. Đi thực tế
9. Trao đổi, tham khảo ý kiến của GV thông qua: Email, điện thoại, gặp gỡ tại
VPhòng khoa.
Phần việc trên lớp của SV gồm
1. Nghe giảng
2. Thảo luận trên lớp
3. Tự học, tự nghiên cứu trên lớp có hướng dẫn của GV
4. Giải quyết các vấn đề mà GV yêu cầu
5. Làm các bài kiểm tra tuỳ theo yêu cầu và hình thức đánh giá của GV
Sau khi cung cấp cho SV các hoạt động mà các em phải tham gia trong quá trình
học tập, CVHT hướng dẫn, tư vấn cho SV con đường, cách thức thực hiện các hoạt
động đó một cách hiệu quả.
3. Kết luận
Để phương thức đào tạo theo HTTC thực sự có hiệu quả, đòi hỏi chúng ta cần
phải chú trọng, cải biến toàn bộ các yếu tố trong cấu trúc quá trình dạy học. Theo đó,
cần phải quan tâm hơn nữa đến đội ngũ CVHT – người có vai trò quan trọng và ảnh
hưởng mạnh mẽ tới chất lượng, hiệu quả học tập của SV. Các nhà quản lý lãnh đạo
nên quan tâm bồi dưỡng và giúp đỡ bằng nhiều con đường, hình thức nhằm nâng cao
hơn nữa vị trí, vai trò của CVHT trong trường ĐH, nâng cao chất lượng rèn luyện,
học tập, NCKH của SV trong các trường ĐH hiện nay
62
NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA CỐ VẤN HỌC TẬP TRONG ĐÀO TẠO
THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ
Phạm Anh Nga1
1. Đặt vấn đề
Cùng với hình thức đào tạo theo tín chỉ ngày càng phổ biến ở các trường đại học
và cao đẳng trong cả nước thì vai trò người giáo viên làm công tác cố vấn học tập
(CVHT) đã hình thành đang ngày một cần thiết hơn. CVHT là người tư vấn và hỗ trợ
học sinh sinh viên (HSSV) phát huy tối đa khả năng học tập, lựa chọn học phần phù
hợp để đáp ứng mục tiêu tốt nghiệp và khả năng tìm được việc làm thích hợp; theo dõi
thành tích học tập của HSSV nhằm giúp HSSV điều chỉnh kịp thời hoặc đưa ra một
lựa chọn đúng trong quá trình học tập. Có thể nói rằng CVHT có vai trò then chốt
trong mối quan hệ nhà trường với HSSV giúp HSSV thành công trong học tập.
Cố vấn học tập - Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) là một nhiệm vụ quan trọng
nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo - quản lý học sinh sinh viên trong đào tạo tín chỉ.
Với vai trò cố vấn, các CVHT là người định hướng, tư vấn, giám sát hoạt động học
tập của HSSV, giúp cho HSSV nhận thức được tầm quan trọng của quy chế đào tạo,
nhận thức chính xác các khái niệm của quy chế, hiểu được quy chế, chương trình đào
tạo, phương pháp học tập từ đó chọn lựa được chương trình kế hoạch học tập phù hợp
với sức học và hoàn cảnh cá nhân, tự tìm ra các biện pháp khắc phục các khó khăn
xuất hiện khi mới bước vào các trường cao đẳng, đại học...
2. Thực trạng công tác cố vấn học tập ở trƣờng Đại học Phạm Văn Đồng
2.1. Vai trò của CVHT đối với HSSV
Trước tiên cần phải khẳng định rằng giáo viên CVHT có vai trò đặc biệt quan
trọng, không thể thiếu trong đào tạo theo học chế tín chỉ. Mỗi giáo viên CVHT là một
nhân tố then chốt trong mối quan hệ nhà trường và HSSV; là một chuyên gia tư vấn
về học tập và việc làm cho HSSV, đồng hành cung sinh viên trong suốt quá trình học
tập. Trong quá trình học tập tại trường của HSSV, CVHT có vai trò là cầu nối giữa
nhà trường và HSSV; là người đại diện của nhà trường thực hiện công tác quản lý
HSSV, đảm nhận vai trò là người tư vấn, trợ giúp HSSV trong học tập, rèn luyện và
nghiên cứu khoa học; là người giúp học sinh đề đạt yêu cầu, bày tỏ tâm tư nguyện
vọng với Nhà trường
CVHT giup HSSV căn cứ vào khả năng của bản thân sinh viên , điều kiện kinh tế
của gia đình để có một kế hoạch học tập và mục đích cụ thể và lâu dài ngay từ đầu
1 GV - khoa Kỹ thuật Công nghệ, trường Đại học Phạm Văn Đồng
63
năm thứ nhất: Xác định học trong thời gian mấy năm, tập trung vào thời gian nào?
Khắc phục những khó khăn của bản thân: mạnh dạn gặp gỡ giáo viên cố vấn học tập,
người thân, bạn bè để nhận được sự giúp đỡ. Mặt khác, CVHT là người tư vấn và hỗ
trợ HSSV phát huy tối đa khả năng học tập, lựa chọn học phần phu hợp để đáp ứng
mục tiêu tốt nghiệp và khả năng tìm được việc làm thích hợp; theo dõi thành tích học
tập của HSSV nhằm giúp HSSV điều chỉnh kịp thời hoặc đưa ra một lựa chọn đúng
trong quá trình học tập; Quản lý, hướng dẫn chỉ đạo lớp được phân công phụ trách
đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của HSSV. Qua đó, vai trò của CVHT được thể hiện
rõ hơn, kiểm soát được tiến độ học tập của lớp mình quản lý và góp phần không nhỏ
vào việc quản lý của Khoa ngành đào tạo và Nhà trường.
2.2. Chức năng của CVHT đối với HSSV
- Tư vấn và định hướng quá trình học tập và lựa chọn nghề nghiệp của HSSV.
- Giám sát quá trình học tập và lựa chọn nghề nghiệp của HSSV.
- Tham mưu cho lãnh đạo trường, khoa và bộ môn các vấn đề liên quan đến
công tác quản lý đào tạo, nghiên cứu khoa học và đào tạo theo nhu cầu xã hội.
* Xác định đúng vai trò, chức năng của giáo viên CVHT sẽ giúp xây dựng hệ
thống các nhiệm vụ của người giáo viên CVHT phù hợp với bản chất của đào tạo theo
học chế tín chỉ. Theo đó, giáo viên CVHT có những nhiệm vụ sau:
- Hướng dẫn HSSV nắm vững các quy chế đào tạo của Bộ GD&ĐT và các quy
định về đào tạo của trường;
- Tư vấn cho HSSV về chương trình đào tạo: mục tiêu, nội dung,…; đồng thời,
tư vấn cho sinh viên chọn ngành nghề phụ;
- Tư vấn cho HSSV cách thức xây dựng kế hoạch học tập cho toàn khóa học
đảm bảo sự phu hợp với năng lực và hoàn cảnh của từng HSSV;
- Hướng dẫn HSSV đăng ký học phần ở từng học kỳ để hoàn thành kế hoạch học
tập đã lập;
- Tư vấn cho HSSV về phương pháp học tập và nghiên cứu khoa học;
- Hướng dẫn cho HSSV tham gia các hoạt động học thuật, nghiên cứu khoa học;
- Tư vấn hướng nghiệp và việc làm cho HSSV;
- Giúp đỡ HSSV giải quyết những khó khăn trong học tập và nghiên cứu khoa
học.
64
2.3. Thực trạng công tác cố vấn học tập ở trƣờng Đại học Phạm Văn Đồng
Từ năm học 2012-2013, Trường Đại học Phạm Văn Đồng bắt đầu chuyển đổi từ
hình thức đào tạo niên chế sang hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ. Hơn hai năm
qua, hoạt động của CVHT đã thu nhận được một số kết quả đáng kể tuy nhiên vẫn còn
thiếu tính đồng bộ, chưa đạt được yêu cầu mong muốn.
Trước đây, GVCN chỉ làm công tác quản lý HSSV, phổ biến các quy chế, quy
định, thông báo của nhà trường, quan tâm đến đời sống tinh thần của HSSV... Khi
chuyển sang hình thức đào tạo theo tín chỉ, ngoài các chức năng trên CVHT có trách
nhiệm nặng nề hơn rất nhiều, có liên quan mật thiết đến quá trình và kết quả học tập
của từng HSSV. Trong quy định về công tác GVCN - CVHT (Quyết định số 241/QĐ-
ĐHPVĐ ngày 01/4/2013 của Hiệu trưởng Trường ĐH Phạm Văn Đồng, điều 7,
chương III đã quy định hai nhiệm vụ chính của giáo viên chủ nhiệm - cố vấn học tập).
Thứ nhất: nhiệm vụ của GVCN - CVHT trong công tác quản lý HSSV. Thứ hai:
nhiệm vụ của GVCN - CVHT trong công tác tư vấn, trợ giúp HSSV trong học tập,
NCKH, định hướng nghề nghiệp.
Ơ nhiệm vụ thứ nhất, lâu nay chúng ta đã làm và làm rất quen thuộc, thuần thục
và ai cũng có thể đảm nhận; nhưng ở nhiệm vụ thứ hai không phải giáo viên nào cũng
có thể đảm nhận và hoàn thành tốt. Mặc khác, vì lý do khách quan, một số giáo viên
làm công tác CVHT không cùng chuyên ngành với lớp chủ nhiệm nên chắc chắn rằng
sẽ gặp những khó khăn nhất định trong việc thực hiện nhiệm vụ thứ hai. Thực tế, tại
trường, công việc CVHT chưa được coi trọng. Nhiều giáo viên được phân công làm
CVHT đang quá tải về nhiệm vụ (số giờ dạy quá nhiều, không còn đủ thời gian để làm
công tác CVHT cho HSSV); thiếu kinh nghiệm, kỹ năng và sự nhiệt tình trong công
tác CVHT; ít quan tâm đến HSSV. Một số giáo viên được phân công nhiệm vụ CVHT
là những giáo viên tre mới tham gia giảng dạy, chưa nắm bắt hết nhiệm vụ của CVHT
và các quy định có liên quan đến hình thức đào tạo theo tín chỉ để cố vấn cho HSSV
một cách tốt nhất.
Bên cạnh đó, HSSV chưa quen với phương pháp học tập mới, còn quá thụ động,
không chủ động trao đổi với CVHT để được tư vấn. Vì vậy, cần quan tâm nhiều đến
công tác CVHT vì CVHT là người có ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công trong
học tập và rèn luyện của HSSV.
3. Giải pháp nâng cao vai trò của CVHT trong đào tạo theo học chế tín chỉ
Với vai trò đặc biệt quan trọng không thể thiếu trong đào tạo theo học chế tín
chỉ, CVHT là người có ảnh hưởng trực tiếp quyết định chất lượng và sự thành công
65
của HSSV. Do đó cần chú trọng quan tâm, cải tiến hoạt động của CVHT nhằm nâng
cao chất lượng hỗ trợ tư vấn HSSV trong quá trình học tập, sinh hoạt tại trường.
3.1. Về phía nhà trƣờng
Nhà trường cần phải tổ chức các lớp tập huấn, cung cấp đầy đủ những tài liệu
cần thiết cho công tác CVHT của giáo viên, tổ chức các buổi chia se kinh nghiệm
trong công tác CVHT... Có như vậy thì chất lượng của GVCN - CVHT sẽ được nâng
cao.
Khi phân công công tác CVHT nhà trường nên chọn những giáo viên là người
có kinh nghiệm trong công tác giảng dạy, nắm bắt được tổng thể chương trình đào tạo
để có thể tư vấn cho HSSV.
Hạn chế thay đổi CVHT sau mỗi năm học vì việc theo HSSV suốt khóa học sẽ
tạo điều kiện cho CVHT nắm vững tình hình, thực trạng học tập của lớp, điều kiện,
sức học và tâm lý của HSSV.
Trường cần tổ chức kiểm tra, đánh giá công tác CVHT để rút ra kinh nghiệm và
tăng cường trách nhiệm của công tác CVHT. Trong công tác đánh giá cần lưu ý đến ý
kiến từ HSSV để kết quả đánh giá được thuyết phục. Sau kiểm tra đánh giá cần có phê
bình và khen thưởng hợp lý.
Phần lớn HSSV hiện nay không nắm được quy chế đào tạo, mặc du nhà trường
đã phổ biến trong tuần sinh hoạt công dân. Vì vậy, nhà trường cần tổ chức ban hành,
cấp cho HSSV sổ tay trong đó có các thông tin liên quan đến chương trình, quy chế
đào tạo, quy định nhiệm vụ của CVHT... giúp HSSV tra cứu các thông tin khi cần và
có thể khai thác được sự hỗ trợ của CVHT. Cần đưa các câu hỏi có nội dung về
CVHT để HSSV viết bài thu hoạch trong tuần sinh hoạt công dân.
Quy định rõ thời gian tối thiểu bắt buộc người làm công tác CVHT để trao đổi
với HSSV của lớp mình làm cố vấn.
Chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất khi CVHT có nhu cầu, vì có những vấn đề mà
CVHT cần phải sử dụng đến phòng học, phòng thực hành, thí nghiệm, xưởng thực
hành để giải quyết các thắc mắc của HSSV.
Để phát huy vai trò, chức năng và nhiệm vụ của GVCVHT, nhà trường cần thiết
phải xây dựng quy trình công tác CVHT một cách khoa học, đồng thời, phải tổ chức
lại công tác chủ nhiệm lớp, tách biệt với công tác CVHT. Đặc biệt, tăng cường vai trò
của Phòng Công tác Học sinh – Sinh viên trong việc tư vấn cho HSSV về các thủ tục
hành chính, các vấn đề về đời sống học đường… thông qua các hình thức tư vấn trực
tiếp, tư vấn qua e-mail đồng thời công khai hóa một cách đầy đủ các thủ tục liên quan
66
đến sinh viên và hướng dẫn chi tiết trên website để sinh viên dễ dàng thực hiện nhằm
giảm bớt nhiệm vụ cho GVCN lớp.
Trách nhiệm của CVHT là rất lớn trong đào tạo theo học chế tín chỉ, vì vậy nhà
trường cũng cần phải quan tâm hơn đến quyền lợi của người làm công tác CVHT.
3.2. Về phía giáo viên làm công tác CVHT
Mỗi người làm công tác CVHT cần có sự nhiệt tình, có trách nhiệm và phải yêu
thích công tác CVHT.
Cần nắm rõ chức năng nhiệm vụ của người làm công tác CVHT và không ngừng
học hỏi để nâng cao kỹ năng CVHT.
Cần quan tâm, theo dõi để nắm rõ năng lực học tập, cũng như tâm tư nguyện
vọng, hoàn cảnh gia đình của mỗi HSSV để có đủ thông tin về mỗi HSSV mới có thể
chia se, động viên, khuyến khích, tư vấn cho HSSV để HSSV phát triển trong học tập,
nghiên cứu cũng như phát triển kỹ năng mềm. Mỗi CVHT nên có sổ tay HSSV để lưu
trữ sơ yếu lý lịch (thông tin quê quán, gia đình, địa chỉ, điện thoại liên lạc) cùng các
chi tiết đặc biệt của mỗi cá nhân HSSV. Chẳng hạn, CVHT ngay từ ngày gặp lớp có
thể yêu cầu HSSV "tự bạch" về tính cách bản thân, thành tích, sức học, ước mơ, định
hướng nghề nghiệp trong tương lai để tạo sự hiểu biết cho những quan hệ lâu dài.
Thường xuyên cập nhật từ ban cán sự lớp tâm tư, nguyện vọng, tình cảm, năng
lực cá nhân, hoàn cảnh gia đình, khó khăn, ước vọng của từng sinh viên để từ đó có
những đề xuất với nhà trường các biện pháp hỗ trợ cho những HSSV khó khăn cũng
như biện pháp quản lý đối với HSSV bị chi phối bởi các vấn đề phức tạp của xã hội
Hướng dẫn HSSV tìm hiểu về qui chế đào tạo, khung chương trình đào tạo, tư
vấn, hướng dẫn HSSV xây dựng kế hoạch học tập toàn khóa phù hợp với năng lực
học tập và hoàn cảnh của từng HSSV.
Cần phối hợp với các giảng viên bộ môn để nhờ họ giải quyết các vấn đề mà
HSSV cần được giải đáp mà vượt ra khỏi chuyên môn, hiểu biết của mình.
Mỗi CVHT nên tạo ra cho mình trang web cá nhân thuận tiện trong việc CVHT
cũng như chia sẽ kinh nghiệm của mình. Khuyến khích HSSV trao đổi với CVHT qua
email, trang web cá nhân.
Bắt buộc HSSV phải tự đọc các văn bản, qui định có liên quan đến HSSV vì một
CVHT không thể hiểu và nhớ hết các qui định. Phải hướng dẫn các HSSV nên tìm
kiếm thông tin ở đâu, hỏi ai. Rất nhiều HSSV không có thói quen đọc văn bản mà chỉ
67
biết hỏi để được nghe trả lời. Trong vấn đề này, nhiều việc nếu những HSSV chịu đọc
kỹ các văn bản, các qui định thì mọi thứ đã rõ ràng, không cần hỏi nữa.
Nhanh chóng phản hồi các vấn đề liên quan đến công tác CVHT nằm ngoài khả
năng giải quyết của mình đến các cấp có thẩm quyền giải quyết,....
3.3. Về phía học sinh sinh viên
Bản thân mỗi HSSV phải có ý thức, ý chí phấn đấu vươn lên trong học tập. Hợp
tác tích cực với CVHT.
Chủ động tìm hiểu và nắm rõ các văn bản, qui định có liên quan đến HSSV:
Khung chương trình đào tạo; Qui chế đào tạo; Chức năng, nhiệm vụ của CVHT,... để
tránh trường hợp vấn đề gì cũng nhờ đến sự trợ giúp của CVHT, làm cho CVHT quá
tải trong công tác CVHT.
Chủ động trao đổi, xin ý kiến của CVHT khi có những vấn đề cần được giải đáp
tư vấn.
Ban cán sự lớp phải trợ giúp cố vấn học tập, giúp đỡ HSSV trong lớp hoàn thành
tốt nhiệm vụ học tập, sinh hoạt và rèn luyện. phản ánh kịp thời các thông tin cần thiết
đến CVHT để CVHT sớm có hướng giải quyết.
HSSV cần tin tưởng, xem CVHT như một người thân trong gia đình, để có thể
chia sẽ mọi tâm tư nguyện vọng của mình để từ đó CVHT có cơ sở lựa chọn hướng
giải quyết hợp lý hơn từng cá nhân HSSV.
4. Kết luận
Nâng cao vai trò của người làm công tác CVHT là rất cần thiết trong đào tạo
theo học chế tín chỉ. Qua hoạt động cố vấn cho HSSV, CVHT nắm bắt được tâm tư,
nguyện vọng, tình cảm, năng lực cá nhân, hoàn cảnh gia đình, khó khăn, hạn chế, ước
vọng của HSSV để từ đó có những đề xuất với nhà trường các biện pháp hỗ trợ cho
HSSV cũng như biện pháp quản lý đối với HSSV bị chi phối bởi các vấn đề phức tạp
của xã hội. Tuy nhiên, để người làm công tác CVHT phát huy được vai trò của mình
và người học khai thác được CVHT để giúp đỡ mình trong suốt thời gian học tại
trường đòi hỏi phải có sự thay đổi, cố gắng và phát huy từ tất cả các phía như nhà
trường, CVHT và HSSV nhằm nâng cao chất lượng bậc Cao đẳng, Đại học, đáp ứng
nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước, bắt kịp với trình độ phát triển
của Thế giới.
68
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Đức Ngọc, Nguyễn Văn Nhã, TL tập huấn Chuyển đổi hình thức đào tạo
từ niên chế sang tín chỉ, Quảng Ngãi, tháng 5/2012.
2. Quy chế Đào tạo đại học và cao đẳng Hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ kèm
theo Quyết định số 43/2007/BGD&ĐT.
3. Trần Kim Định, Vai trò của cố vấn học tập, Khoa Khoa học Tự nhiên,
Trường Đại học Cần Thơ.
4. ThS. Nguyễn Ngọc Dung, Đào tạo theo học chế tín chỉ, Nhìn từ góc độ đổi
mới cách dạy..., Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội.
5. Lại Ngọc Khánh, Một số ý kiến đóng góp xung quanh hoạt động của cố vấn
học tập, giáo viên chủ nhiệm.
69
VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ CỐ VẤN HỌC TẬP TRONG ĐÀO TẠO THEO
HỆ THỐNG TÍN CHỈ Ở CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG
Ngô Minh Oanh1
Đào tạo đại học theo hệ thống tín chỉ đã có từ lâu trên thế giới. Ngay từ thế kỷ
XIX, trường Đại học Harvar ở Mỹ đã thực hiện và sau đó lan ra các nước Âu Mỹ và
cả châu Á. Với những kết quả của nó cho thấy những ưu việt của nó cả trong phương
thức và mục tiêu đào tạo. Năm 1993, Trường Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí
Minh là trường đại học đầu tiên từ sau ngày giải phóng đã tiến hành đào tạo theo hệ
thống tín chỉ. Từ năm 2007, Bộ Giáo dục – Đào tạo đã có Quyết định số 43/2007/QĐ-
BGDĐT ngày 15/8/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục – Đào tạo về việc ban hành Quy
chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ. Tuy hơi muộn
nhưng đến năm 2010, tất cả các trường đại học trong cả nước cũng đã triển khai đào
tạo theo học chế tín chỉ.
Bản chất của đào tạo theo hệ thống tín chỉ là nhằm tăng cường khả năng tự học,
tự nghiên cứu của sinh viên, tính chủ động trong kế hoạch học tập của sinh viên tùy
theo khả năng và kế hoạch của bản thân. Hay nói cách khác, quá trình tổ chức đào tạo
theo hệ thống tín chỉ là quá trình nhằm tới mục tiêu cá thể hóa việc học tập của sinh
viên. Hệ thống tín chỉ dựa trên sự tích lũy kiến thức của sinh viên để khi đạt đến
những yêu cầu về kiến thức theo quy chế đào tạo thì sinh viên có thể lên lớp hay tốt
nghiệp. Sinh viên có thể tốt nghiệp sớm hoặc có thể kéo dài thời gian học tập theo quy
chế tùy theo số lượng tín chỉ đã tích lũy được. Theo Quy chế 43 quy định thì tương
ứng với một giờ lên lớp sinh viên phải có hai giờ chuẩn bị ở nhà do đó quá trình quản
lý và giảng dạy của nhà trường và giáo viên làm sao vừa có thể giúp cho sinh viên và
kiểm tra được quá trình tự học của sinh viên một cách có hiệu quả, trong đó hướng
dẫn lập kế hoạch lộ trình học tập của học sinh; những điệu kiện lựa chọn, đăng ký học
phần; lựa chọn và sử dụng phương tiện, tài liệu học tập; lựa chọn phương pháp học
tập nói chung và tự học nói riêng là vô cùng quan trọng. Cùng với yêu cầu đào tạo
trong thời buổi bùng nổ thông tin, đào tạo theo hệ thống tín chỉ với thời lượng cho tự
học gấp đôi thời gian học tập ở trên lớp, việc giảng viên trang bị phương pháp học tập
cho sinh viên cũng có ý nghĩa sống còn trong quá trình đào tạo. Vì vậy vai trò đội ngũ
giảng viên nói chung và đội ngũ cố vấn học tập nói riêng trong chừng mực nào đó có
vai trò quyết định chất lượng đào tạo.
Có một thực trạng hiện nay trong hầu hết các trường đại học, cao đẳng là khả
năng chủ động của sinh viên trong kế hoạch và phương pháp học tập còn nhiều hạn
1 PGS. TS – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Giáo dục, trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh
70
chế. Sinh viên chúng ta từ học sinh từ phổ thông lên do đó hầu hết đã quen lối học bị
động, thuộc lòng từ trước, do đó khi bước chân vào giảng đường đại học rất khó để có
thể thay đổi ngay cách học ở đại học. Mặt khác, phần lớn sinh viên có hoàn cảnh khó
khăn, hầu hết sinh viên đều đi làm thêm do đó đầu tư thời gian, công sức cho tự học
là rất khó khăn. Hơn nữa, dư âm của đào tạo theo niên chế vẫn còn tồn tại, nghĩa là
sinh viên cứu vào được trường, sau đó kế hoạch, lộ trình đào tạo đã có khoa, trường
lo, sinh viên chỉ việc theo lộ trình đó, không bị nợ môn học là có thể nghiễm nhiên kết
thúc khóa học và ra trường. Một bộ phận không nhỏ sinh viên thì ỷ lại, gặp chăng hay
chớ, lười biếng, thụ động… nên chắc chắn việc học tập sẽ không thể đạt kết quả cao
như kỳ vọng của thầy cô giáo và nhà trường trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Đứng
trước thực trạng đó, vai trò của giảng viên và đội ngũ cố vấn học tập càng trở nên vô
cùng quan trọng.
Có người đặt vấn đề so sánh đội ngũ cố vấn học tập với đội ngũ giáo viên chủ
nhiệm lớp trong đào tạo theo niên chế trước đây và đôi khi lại đánh đồng vai trò của
hai vị trí này. Tuy nhiên nếu chúng ta đã trải qua hai phương thức đào tạo theo niên
chế và đào tạo theo tín chỉ thì chúng ta thấy rõ sự khác biệt căn bản của hai chức danh
này. Người giáo viên chủ nhiệm chỉ là người tổ chức và quản lý sinh viên trong lớp
học mình chủ nhiệm là chủ yếu. Vào đầu năm học, hay khóa học, giáo viên chủ nhiệm
tổ chức gặp gỡ sinh viên, tổ chức bầu ban cán sự lớp, định hướng về mặt tư tưởng, tổ
chức và sau đó giao cho ban cán sự lớp tự quản, giáo viên là người tư vấn và giải
quyết những vấn đề vượt ngoài khả năng của ban cán sự. Lịch trình giảng dạy, học
môn nào trước, môn nào sau, khi nào thì thực hành, thực tế đều đã có kế hoạch của
trường và khoa. Người cố vần học tập, về hình thức thì cũng có ve giống như giáo
viên chủ nhiệm, tức là cũng được giao phụ trách một nhóm hay một lớp để quản lý,
nhưng về yêu cầu nội dung công việc thì có những điểm rất khác so với giáo viên chủ
nhiệm.
Trước hết, người cố vấn học tập là người giúp sinh viên hiểu rõ hơn ngành học
mà sinh viên đã lựa chọn, giúp sinh viên khẳng định lại quyết định lựa chọn ngành
nghề mà trước đây do thiếu thông tin có thể họ chưa thật hiểu hết những ngành nghề
mà họ đã chọn. Cố vấn học tập làm cho sinh viên hiểu rõ hơn ngành nghề tương lai
của mình, những đặc thù nghề nghiệp, cơ hội việc làm trong tương lai và cả những
phẩm chất cần có để hành nghề được thuận lợi nhất. cố vấn học tập giúp sinh viên ổn
định tâm lý, chuẩn bị tâm thế cho một chương trình học tập của sinh viên trong trường
đại học.
Thứ hai, cố vấn học tập giúp sinh viên xây dựng định hướng và kế hoạch học
tập, trong đó cố vấn học tập phải giúp sinh viên hiểu rõ mục tiêu, nội dung, chương
71
trình môn học, lộ trình học tập của các giai đoạn, các năm học. Cố vấn học tập tư vấn
giúp sinh viên hiểu rõ mục tiêu của từng môn học, những điều kiện tiên quyết khi lựa
chọn môn học và xác định môn nào học trước, môn nào học sau và những nội dung
cần giải quyết để hoàn thành tốt nhất môn học. Nếu cố vấn học tập là giáo viên trực
tiếp giảng dạy các môn học cụ thể của nhóm hay lớp mình làm cố vấn thì có thể tư
vấn cho học sinh những vấn đề cụ thể hơn, như xác định những vấn đề nào cần giải
quyết ở trên lớp, vấn đề nào làm việc theo nhóm, vấn đề nào sinh viên tự học ở nhà và
hướng dẫn những hoạt động tự học cho sinh viên…
Thứ ba, cố vấn học tập là người hướng dẫn sinh viên lựa chọn và tìm kiếm các
phương tiện học tập, các nguồn tài liệu tham khảo phục vụ cho học tập một cách có
hiệu quả. Hơn ai hết cố vấn học tập cũng là các giảng viên nắm rõ tình hình trang thiết
bị, phòng thí nghiệm và các nguồn tài liệu phục vụ học tập của cơ sở đào tạo rõ nhất,
vì vậy họ sẽ là người tư vấn, hướng dẫn tốt nhất cho sinh viên trong quá trình học tập
ở trên lớp và tự học ở nhà. Có vấn học tập giúp sinh viên rút ngắn quá trình tìm kiếm
tài liệu và lựa chọn những tài liệu đáng tin cậy nhất để học tập và tham khảo. Cố vấn
học tập cũng có thể là người trọng tài phân xử những tranh luận của sinh viên trong
việc lựa chọn tài liệu, phương tiện học tập.
Thứ tư, đội ngũ cố vấn học tập là người theo dõi sự tiến bộ trong quá trình học
tập của sinh viên và kế hoạch, tiến độ học tập của sinh viên. Cố vấn học tập không chỉ
kiểm tra quá trình học tập ở trên lớp mà còn kiểm tra quá trình tự học của sinh viên,
kịp thời uốn nắn những lệch lạc trong học tập và thực hiện kế hoạch, tiến độ học tập
của sinh viên, kịp thời đưa ra những lời khuyên bổ ích, giúp học sinh tự điều chỉnh
những lệc lạc có thể xảy ra.
Thứ năm, với sự gần gủi với sinh viên, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của họ, cố
vần học tập có thể là người mà sinh viên tin cậy để tư vấn cho họ những vấn đề trong
cuộc sống, là tấm gương để thực hiện nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho sinh viên, thực
hiện nhiệm vụ giáo dục toàn diện trong đào tạo của nhà trường đại học.
Như vậy, vai trò của đội ngũ cố vấn học tập trong đào tạo theo học chế tín chỉ
đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đào tạo của các
trường đại học, cao đẳng. Tuy nhiên hiện nay qua thực tế đào tạo theo học chế tín chỉ
ở các trường, nổi lên một số những hạn chế, bất cập như cơ sở phòng ốc, thiết bị,
phòng thí nghiệm còn thiếu; đội ngũ giảng viên còn chưa đủ để có nhiều phương án
cho sinh viên lựa chọn giảng viên; đội ngũ cố vấn học tập còn thiếu và chưa có nhiều
kinh nghiệm phải đảm nhận việc tư vấn cho nhiều sinh viên dẫn đến quá tải, hạn chế
đến chất lượng tư vấn.
72
Để nâng cao chất lượng đào tạo theo học chế tín chỉ, các trường đại học, cao
đẳng cần có những giải pháp quyết liệt hơn nữa nâng cao số lượng và chất lượng đội
ngũ cố vấn học tập. Phải lựa chọn từ trong số giảng viên những người có kinh nghiệm
và tâm huyết đảm nhận nhiệm vụ cố vấn học tập. Phát triển thêm số lượng để mỗi cố
học tập chỉ có thể đảm nhận từ 15 đến 20 sinh viên để đảm bảo không quá tải cho mỗi
cố vấn học tập. Tổ chức tập huấn, nâng cao trình độ nghiệp vụ, nhất là cập nhật những
quy định mới về đào tạo và khả năng nắm bắt tâm lý, nhu cầu của sinh viên mới có
thể tư vấn, hướng dẫn chính xác, đáp ứng nhu cầu của sinh viên. Song song với trang
bị kiến thức, kinh nghiệm cho đội ngũ này, các trường cũng cần phải chú trọng tới
những đãi ngộ về mặt vật chất để họ toàn tâm toàn ý, hết mình cho công việc. Nếu
làm tốt những giải pháp trên chắc chắn đội ngũ cố vấn học tập thực sự là lực lượng
đòn bẩy nâng cao hiệu quả giáo dục, đảm bảo sự thành công việc đào tạo theo hệ
thống tín chỉ ở các trường đại học và cao đẳng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục – Đào tạo (2007), Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày
15/8/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục – Đào tạo về việc ban hành Quy chế đào
tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ.
2. Ban liên lạc các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam (2007), Đổi mới phương
pháp dạy - học trong đào tạo theo học chế tín chỉ… Kỷ yếu Hội thảo Khoa học
lần 2, tại Thành phố Hải Phòng.
3. Trường Đại học Sài Gòn (2010), Đổi mới phương pháp giảng dạy đại học theo
hệ thống tín chỉ, Kỷ yếu Hội thảo toàn quốc, Đại học Sài gòn, tháng 5 – 2010.
4. Lâm Quang Thiệp và các tác giả (2008), Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ tổ chức
đào tạo theo học chế tín chỉ ở các học viện, trường đại học, cao đẳng, Học viện
Quản lý Giáo dục, Hà Nội.
73
NĂNG LỰC CẦN CÓ CỦA CỐ VẤN HỌC TẬP ĐÁP ỨNG VAI TRÕ TƢ VẤN
HỌC TẬP VÀ HƢỚNG NGHIỆP CHO SINH VIÊN NGÀNH XÃ HỘI
Nguyễn Thị Phú1
1. Đặt vấn đề
Quyết định số 43/2007/QBGDT do Thứ trưởng Bành Tiến Long ký ngày
15/08/2007 về việc Ban hành Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo
hệ thống tín chỉ đã bắt buộc các trường chuyển dần sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
Cùng với sự theo đổi của hệ thống đào tạo, vai trò của cán bộ, giảng viên và những
nhiệm vụ mới xuất hiện, cố vấn học tập (CVHT) là một trong những chức danh mới
gắn liền với hệ thống đào tạo theo tín chỉ ở trường đại học, cao đẳng.
Cố vấn học tập là người tư vấn và hỗ trợ sinh viên phát huy tối đa khả năng học
tập, rèn luyện và nghiên cứu khoa học, lựa chọn đăng ký học phần phù hợp để đáp
ứng mục tiêu tốt nghiệp và khả năng tìm được việc làm sau khi ra trường, theo dõi
quá trình học tập, rèn luyện của sinh viên nhằm giúp sinh viên điều chỉnh kịp thời
hoặc đưa ra một lựa chọn đúng trong quá trình học tập, đồng thời quản lý, hướng dẫn
và chỉ đạo lớp được phân công phụ trách.
Với định nghĩa trên, CVHT không chỉ tư vấn về việc học tập, sinh hoạt ở trường
mà còn bao hàm rất nhiều mặt trong hoạt động học tập, đời sống tâm lý và cả việc lựa
chọn nghề nghiệp trong tương lai của sinh viên.
Ơ các trường, phân công công tác CVHT có thể là chuyên viên, giáo vụ khoa, có
thể là giáo viên chủ nhiệm kiêm nhiệm CVHT, có trường gọi người làm công tác
CVHT là giáo viên chủ nhiệm nhau lớp học truyền thống trước khi chuyển sang đào
tạo theo tín chỉ. Dù với tên gọi nào, vai trò của CVHT là như nhau và rất ảnh hưởng
đến quá trình học tập và lựa chọn nghề nghiệp của sinh viên.
Nhiệm vụ của CVHT theo liệt kê ở trên có rất nhiều công việc và khá nặng nề. Ơ
bài viết này, chúng tôi khai thác khía cạnh tư vấn học tập và tư vấn hướng nghiệp cho
sinh viên, hai lĩnh vực gắn kết chặt chẽ với nhau. Khi bắt đầu quá trình học tập, sinh
viên cần phải có định hướng nghề nghiệp gì cho mình và khi đã có định hướng nghề
nghiệp, sinh viên cần hoạch định chiến lược học tập như thế nào để đạt được mục
tiêu?
1 ThS – Viện Nghiên cứu Giáo dục, trường Đại học Sư phạm TP. HCM
74
2. Vai trò của cố vấn học tập trong tƣ vấn học tập và hƣớng nghiệp
Hiện nay, đa số các trường đại học, cao đẳng đều đã ban hành những quy chế
quy định chức năng, nhiệm vụ, công việc chính của CVHT, tiêu chuẩn cần có và
những chính sách phúc lợi, khen thưởng đối với CVHT. Trong đó, nhiệm vụ chính
của CVHT mà đa số các trường đều quy định là:
- Học tập, nghiên cứu, nắm vững mục tiêu giáo dục, nội dung, chương trình,
phương pháp đào tạo, quy chế của Bộ Giáo dục và Đào tạo, quy định, nội quy của
trường về học tập, rèn luyện và công tác sinh viên của trường; thường xuyên cập nhật
những thay đổi, bổ sung trong quy chế, quy định, nội quy để có thể tư vấn, hỗ trợ giúp
đỡ sinh viên trong quá trình học tập, rèn luyện tại trường;
- Nắm rõ chức năng, nhiệm vụ các đơn vị liên quan trong công tác sinh viên để
hướng dẫn sinh viên cách tìm hiểu thông tin, liên hệ công việc đúng kênh, đúng việc,
đúng đối tượng;
- Tư vấn cho sinh viên cách thức xây dựng kế hoạch học tập cho toàn khóa học;
hướng dẫn sinh viên đăng ký học phần ở từng học kỳ để hoàn thành kế hoạch học tập;
tư vấn lựa chọn nghề nghiệp;
- Nắm danh sách lớp, thông tin cá nhân sinh viên; đề cử Ban cán sự lớp thông
qua bầu cử tại lớp để trường phê duyệt;
- Thông qua tình hình, kết quả học tập của sinh viên để tư vấn, hướng dẫn sinh
viên trong việc đăng ký, điều chỉnh kế hoạch học tập cho phù hợp với năng lực và
hoàn cảnh;
- Thực hiện công tác đánh giá kết quả rèn luyện sinh viên (phổ biến quy định
đánh giá, hướng dẫn thực hiện, chủ trì họp lớp đánh giá), hướng dẫn sinh viên thực
hiện khiếu nại, điều chỉnh, đánh giá bổ sung theo đúng quy định, tiến độ;
- Hướng dẫn, khuyến khích, tạo điều kiện cho sinh viên tham gia các hoạt động
học thuật, nghiên cứu khoa học; các hoạt động văn, thể, mỹ lành mạnh, bổ ích;
- Nắm tình hình chung của lớp phụ trách (về các mặt học tập, đời sống, sinh
hoạt) thông qua báo cáo của Ban cán sự lớp; hướng dẫn, tư vấn cho sinh viên trong
quá trình học tập, rèn luyện tại trường và các vấn đề khác có liên quan;
- Chủ trì họp lớp xét khen thưởng, kỷ luật sinh viên thuộc lớp phụ trách; đề nghị
khen thưởng, kỷ luật sinh viên thuộc lớp phụ trách gửi khoa;
75
- Tham dự họp Hội đồng xét khen thưởng – kỷ luật sinh viên đối với sinh viên
thuộc lớp phụ trách để phát biểu ý kiến, đề xuất hình thức khen thưởng, kỷ luật nhưng
không được quyền biểu quyết;
- Thực hiện chế độ báo cáo theo yêu cầu của ban chủ nhiệm khoa.
Theo phỏng vấn một số giảng viên các chuyên ngành xã hội, họ là giảng viên
được phân công công tác chủ nhiệm kiêm CVHT. Công việc của họ là tư vấn cho sinh
viên tất cả những vấn đề mà sinh viên thắc mắc. Tuy nhiên, thông thường không có
nhiều trường hợp sinh viên cần tư vấn từ CVHT, có trường hợp giảng viên nói chẳng
thấy hỏi gì. Những vấn đề liên quan đến việc học tập như đăng ký học phần, điểm số,
hoạt động, rèn luyện… các em đều hỏi giáo vụ khoa. Các em ít khi hỏi về phương
pháp học tập, nghiên cứu khoa học, em nào có đăng ký nghiên cứu khoa học làm đề
tài sẽ làm việc trực tiếp với giảng viên hướng dẫn.
Về tư vấn hướng nghiệp, mỗi năm khoa tổ chức một lần gặp sinh viên vào lúc
các em bắt đầu lựa chọn chuyên ngành, lúc đó các em có thắc mắc sẽ được Ban chủ
nhiệm khoa và các giảng viên trả lời trực tiếp. Tuy nhiên, theo trao đổi của giảng viên,
với số lượng sinh viên mấy trăm/khóa học thì những câu hỏi giải đáp trong một buổi
không thể giúp các em hướng nghiệp tốt được. Đặc biệt là sở trường, năng lực của
từng em rất khác biệt nhau nên những buổi tư vấn như vậy chủ yếu để lựa chọn ngành
học và những công việc chung chung của từng ngành học các em lựa chọn.
2.1. Tƣ vấn học tập
Với các nhiệm vụ nêu trên, những công việc chính ảnh hưởng đến hoạt động học
tập của sinh viên CVHT cần phải làm:
- Trước tiên phải giúp sinh viên hiểu rõ những quy chế, quy định của nhà trường,
thủ tục đăng ký học phần, theo dõi kết quả học tập, các hình thức kiểm tra đánh giá
sinh viên trong học tập, rèn luyện…
- Tiếp theo, CVHT cần tư vấn cho sinh viên xác định động cơ học tập một cách
đúng đắn, tư vấn phương pháp học tập ở đại học như thế nào là hiệu quả, cách tìm và
khai thác tài liệu, hướng dẫn phương pháp nghiên cứu khoa học. Đặc biệt hình thành
phương pháp tự học. Tự học được thực hiện cả trên lớp và ngoài giờ lên lớp. Quá
trình tự học được tiến hành bằng nhiều phương tiện khác nhau, đặc biệt là các phương
tiện công nghệ thông tin sẽ tạo điều kiện cho quá trình tự học và tạo nên chất lượng tự
học cao. Khi đã có năng lực tự học, sinh viên sẽ chủ động, tích cực với kế hoạch học
tập của mình.
76
- CVHT theo dõi sát sao quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên, cảnh báo
những biến động, sa sút trong quá trình học, hỗ trợ sinh viên cải thiện. Rèn luyện cho
sinh viên thói quen viết nhật ký học tập cho mỗi môn học, mỗi học kỳ để theo dõi tiến
trình học tập nhằm kịp thời khắc phục khi việc học chậm tiến, thiếu tín chỉ… ảnh
hưởng đến kết quả tốt nghiệp.
Theo chúng tôi, nhiệm vụ quan trọng nhất khi tư vấn học tập cho sinh viên là tư
vấn cho sinh viên biết cách lập kế hoạch học tập trong suốt các năm học đến khi tốt
nghiệp, xây dựng kế hoạch cho từng học kỳ như thế nào để đáp ứng mục tiêu đạt được
suốt khóa học đại học. Muốn xây dựng được kế hoạch học tập phù hợp với năng lực
và định hướng nghề nghiệp của sinh viên cần phải giúp sinh viên có cái nhìn tổng
quan về định hướng nghề mình chọn, tư vấn định hướng nghề đó có phu hợp với tính
cách của sinh viên không. Khi đã có định hướng đúng, việc sinh viên cần làm là xây
dựng các bước tiếp thu kiến thức và kỹ năng. Năm nhất, năm hai, năm ba, năm tư
những kiến thức cụ thể cần học là gì, lập một biểu đồ kiến thức tăng dần theo kiến
thức nền, kể cả ngoại ngữ, tin học và những kỹ năng cần có để đáp ứng việc học tập
và việc làm sau này.
Khi xây dựng được kế hoạch học tập, sinh viên tự chủ được thời gian học tập,
điều chỉnh kịp thời những kiến thức, kỹ năng thiếu hụt để việc học tập không bị gián
đoạn và đạt được những kết quả tốt nhất.
2.2. Tƣ vấn hƣớng nghiệp
Hội thảo khoa học "Giải pháp gắn kết giữa đào tạo với thị trường lao động ở
Việt Nam" do Trường ĐH KHXH&NV - ĐHQGHN tổ chức công bố một số kết quả
về nghề nghiệp của sinh viên mới ra trường: sinh viên thất nghiệp do thiếu định
hướng nghề; có tới 58,2% SV tốt nghiệp không biết xin việc ở đâu, 42% không đáp
ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng, 27% không xin được việc vì lý do ngành học
không phu hợp với thị trường, thậm chí có 18% SV không tìm được việc vì nhà tuyển
dụng không biết đến ngành đào tạo.
Nghề nghiệp là tương lai của cả đời người, những thực tế là nhiều em ở nhà
trường phổ thông không được tư vấn hướng nghiệp kỹ càng nên các em lựa chọn
ngành thi theo truyền thống gia đình, theo bạn bè, hoặc từ điểm số môn này trội hơn
môn kia. Khi vào đại học, sinh viên khi lựa chọn ngành học và quá trình học không
được tư vấn, nhiều em còn không hình dung được sau này mình sẽ xin việc gì, không
có một định hướng cụ thể nào cho nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp.
Trên thực tế, việc hướng nghiệp cho sinh viên, nhất là những sinh viên ngành xã
hội rất quan trọng. Ví dụ, khi học ngành Ngữ văn có thể nhiều em vẫn nghĩ là học
77
xong ngành này thì có thể viết văn, làm thơ, đi dạy, làm báo chí, truyền hình… nhưng
thực tế học Văn các em có thể làm được những ngành nghề rất đa dạng: làm văn hóa ở
các phòng ban văn hóa thông tin, làm truyền thông cho các công ty, bệnh viện, làm
quảng cáo, làm công an văn hóa, làm nhân sự… Có thể nói một ngành học tùy vào
tính cách, sở trường của mỗi người có thể đáp ứng được rất nhiều lĩnh vực khác nhau.
Một vấn đề nữa trong hướng nghiệp mà sinh viên chưa được tư vấn, hoặc nhiều
khi không biết hỏi CVHT, đó là cần phải trang bị cho mình những kiến thức, kỹ năng
cần thiết nào để phu hợp với ngành nghề các em lựa chọn. Nhiều em không được
tuyển dụng do yếu kém ngoại ngữ, tin học, thiếu những kỹ năng làm việc như hợp tác
nhóm, thậm chí có em không biết những kỹ năng tối thiếu về máy móc như in ấn,
photo… những nội dung không có trong chương trình dạy nhưng các em cần phải tự
học, tự trang bị cho mình.
Có thể thấy, du CVHT hiện nay ở các trường, các khoa đều có người làm công
tác này, độc lập hoặc kiêm nhiệm đều có, nhưng việc phát huy vai trò tối đa của
CVHT thì chưa đạt hiệu quả như mong muốn, nhất là những vấn đề cốt lõi cần thiết
cho học tập và nghề nghiệp của sinh viên.
3. Những nội dung cần đẩy mạnh tƣ vấn và năng lực cố vấn học tập cần có để
thực hiện tƣ vấn học tập và hƣớng nghiệp cho sinh viên ngành xã hội
Trong bối cảnh các ngành xã hội ngày càng ít có người lựa chọn học, ra trường
không xin được công việc theo định hướng lựa chọn tỉ lệ ngày càng cao, nhà trường,
đặc biệt là các CVHT cần phải phát huy vai trò hỗ trợ sinh viên. Không khó để nhận
thấy, tỉ lệ sinh viên phổ thông khá giỏi thi vào các ngành xã hội khá khiêm tốn, điểm
chuẩn các ngành xã hội luôn thấp hơn các môn tự nhiên, mặt bằng trình độ càng thấp
sinh viên càng cần được định hướng và tư vấn kịp thời để việc học tập và hướng
nghiệp đạt hiệu quả.
3.1. Những nội dung cần đẩy mạnh tự vấn cho sinh viên
- Đẩy mạnh tư vấn các kỹ năng: kỹ năng lập kế hoạch; kỹ năng xây dựng mục
tiêu; kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, kỹ năng giải quyết vấn đề; phương pháp học tập,
nghiên cứu khoa học… những kỹ năng giúp sinh viên tự chủ trong việc học tập, biết
cách học thế nào để tiết kiệm thời gian và hiệu quả. Với ngành xã hội, đòi hỏi phải có
kỹ năng tự học, tự nghiên cứu để chọn lọc những nội dung và kiến thức cần thiết; kỹ
năng phân tích và giải quyết vấn đề giúp sinh viên nắm bắt và hiểu bài học nhanh hơn,
sâu hơn. Hơn nữa, đối với sinh viên năm nhất càng phải được tư vấn kỹ để tránh
trường hợp các em học kiến thức theo kiểu thuộc lòng, cách học này hiện nay vẫn còn
rất nhiều sinh viên đang áp dụng mỗi ngày.
78
- Cần tư vấn nghề nghiệp chi tiết, cụ thể cho sinh viên. Ngành nghề các em đang
học có thể làm ở môi trường nào, cùng một ngành học nhưng mỗi môi trường nghề
nghiệp lại yêu cầu những kỹ năng khác nhau, kỹ năng nào cần cho ngành nghề nào.
Ví dụ làm nhân sự, bên cạnh kiến thức các em cần phải có những kỹ năng: nắm bắt
tâm lý, đánh giá con người, phân tích và định hướng… những kỹ năng không được
dạy trong nhà trường nhưng các em phải tự trang bị thông qua sách vở về tâm lý, về
con người, học từ thầy cô, bạn bè cách đánh giá, định hướng nghề nghiệp…
- Với sinh viên sắp ra trường, cần tổ chức trang bị ngay cho các em những kỹ
năng mềm cần thiết: kỹ năng phỏng vấn xin việc, kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng
định vị bản thân.... Ngoài các kiến thức chuyên môn, chuyên ngành thì SV cần được
trang bị thêm những kiến thức và kỹ năng xã hội để có thể hòa nhập dễ dàng với thị
trường lao động ngay sau khi tốt nghiệp.
Các chương trình tập huấn kỹ năng nên được tổ chức thường xuyên, có chất
lượng ngay từ năm thứ nhất đến năm thứ tư với các nội dung tập huấn được sắp xếp
phù hợp với tính chất của từng năm học. Ví dụ năm thứ nhất, SV cần được trang bị
kiến thức và kỹ năng định vị bản thân và xây dựng mục tiêu nghề nghiệp, năm thứ tư
SV lại cần được rèn các kỹ năng tìm kiếm việc làm và phỏng vấn xin việc… Chương
trình tập huấn kỹ năng cần được bổ sung vào chương trình học tập chính khóa nhưng
vì đây là một môn học mang tính thực hành cao do đó cần được các giảng viên
chuyên nghiệp trong giảng dạy kỹ năng đảm nhiệm.
3.2. Những năng lực cố vấn học tập cần có
Trong phân công nhiệm vụ của CVHT ở các trường liệt kê ở phần 2 cho thấy
nhiệm vụ của CVHT rất nhiều và cũng rất nặng nề, phải theo sát sinh viên suốt quá
trình học để hỗ trợ, điều chỉnh… để làm tốt được vai trò của mình, CVHT cần phải có
những kỹ năng sau:
3.2.1. Kỹ năng lắng nghe
Kỹ năng đầu tiên và quan trọng là CVHT phải biết lắng nghe. CVHT cần biết
lắng nghe chăm chú, lắng nghe một cách tôn trọng, tạo cho sinh viên sự gần gũi và tin
tưởng để thổ lộ hết những điều mình cần được tư vấn. Thực tế cho thấy, hiện nay
CVHT tư vấn cho sinh viên chủ yếu qua phương tiện điện thoại, email, còn việc gặp
trực tiếp rất hạn chế. Vì thế, việc nói chuyện qua điện thoại do hạn chế về thời gian,
hoàn cảnh nên không thể tư vấn dài và triệt để vấn đề sinh viên cần. Email là gaiir
pháp hữu hiệu hơn, nhưng khi không tiếp xúc với sinh viên, CVHT không đánh giá
được tâm sinh lý, tính cách của sinh viên để có thể đưa ra những giải pháp hợp lý.
Cho nên, để CVHT làm tốt vai trò, nhà trường, các khoa, bộ môn cần có quy định cụ
79
thể về cách làm việc của CVHT, thời gian gặp trực tiếp mỗi tuần, tháng, học kỳ…
Bên cạnh đó, yêu cầu sinh viên hãy mạnh dạn và thường xuyên làm việc với CVHT,
điều này cũng giúp ích các em rèn luyện kỹ năng giao tiếp.
3.2.2. Kỹ năng phân tích và giải quyết vấn đề
CVHT cần phải biết:
- Xác định được những vấn đề sinh viên cần tư vấn, vấn đề nào là trọng tâm,
quan trọng, tập trung giải quyết vấn đề cốt lõi trước.
- Kiểm tra thông tin cần tư vấn cho sinh viên, những thông tin mới, thiết thực,
đảm bảo rằng thông tin đáng tin cậy để đưa ra giải đáp cho sinh viên.
- Tập trung vào việc đưa ra giải pháp phù hợp: những vấn đề giải quyết đã phu
hợp với nhu cầu của sinh viên chưa, sinh viên cần phải làm gì để thực hiện được
những giải pháp CVHT đưa ra.
Phân tích và giải quyết vấn đề giúp CVHT xác định được mục tiêu và nội dung
cần tư vấn, xác định được nội dung trọng tâm và cách giải quyết vấn đề sinh viên đưa
ra sao cho hợp lý, đáp ứng được nhu cầu của sinh viên. Tư vấn đòi hỏi CVHT phải
nhanh nhạy, tinh tế, vấn đề xác định không đúng có thể đưa ra kết quả sai lệch, cách
giải quyết vấn đề không đúng không phu hợp có thể khiến sinh viên đạt kết quả không
tốt trong học tập, hướng nghiệp.
3.2.3. Năng lực chuyên môn
Người tư vấn học tập và tư vấn nghề nghiệp cần năng lực chuyên môn vững,
sâu. Có hiểu hết các môn học cần thiết cho ngành học, hiểu những kỹ năng quan trọng
hỗ trợ sinh viên trong học tập, hướng nghiệp mới giúp học thành công được.
Những vấn đề về kỹ thuật như đăng ký học phần, thời gian đăng ký, thông tin về
học phần… sinh viên có thể hỏi giáo vụ khoa, nhưng những môn học cần thiết cho
chuyên ngành để xây dựng kế hoạch học tập, những kỹ năng cần có để học tập hiệu
quả cần phải được tư vấn trực tiếp từ người có chuyên môn.
Trước đây, khi đào tạo theo niên chế, sinh viên được sắp xếp theo lịch học có
sẵn, học kỳ nào học môn gì khi khoa ra thời khóa biểu sinh viên đến giờ lên lớp học,
đến ngày đi thi, thi hỏng thì thi lại không cần phải có kế hoạch, phải suy nghĩ mình
cần học môn gì. Khi đào tạo theo tín chỉ, mọi thứ sinh viên phải tự chủ, nếu học kỳ
nào không đăng ký, đăng ký không đủ chỉ có thể được thông báo học kỳ đó nghỉ học
không lý do… Thế nên sinh viên càng cần được tư vấn bởi người am hiểu chuyên
80
môn, hỗ trợ họ xây dựng kế hoạch học tập và thực hiện quá trình học tập một cách tốt
nhất.
3.2.4. Am hiểu nghề nghiệp
Có thể nói, tư vấn hướng nghiệp trong trường đại học hiện nay là một mảng yếu,
sinh viên chưa được tiếp cận nhiều với các chương trình tư vấn tổ chức nhỏ nhưng
chuyên sâu. Những buổi gặp gỡ, tư vấn đại trà hàng trăm sinh viên không thể hiệu
quả. Đội ngũ CVHT cần phải phát huy vai trò hướng nghiệp cho sinh viên tốt hơn.
Không những CVHT cần phải biết ngành sinh viên học có thể làm được những nghề
gì mà nghề đó cần được trang bị những kỹ năng gì để thành công trong sự nghiệp.
Trong khảo sát của đề tài “Đánh giá thái độ của học sinh đối với việc học tập
môn Ngữ văn ở một số trường THPT tại Tp.HCM”, hơn 90% học sinh cho rằng các
em không lựa chọn nghề nghiệp theo ngành Văn và cũng tỉ lệ gần bằng (85,7%) cho
biết các em không biết học Văn ra để làm gì trong khi đó là ngành học mà người học
có thể làm nghề rất đa dạng: làm từ lĩnh vực kinh tế, chính trị đến văn hóa, nghệ thuật,
truyền thông đều được. Điều đó chứng tỏ việc hiểu biết đối với các ngành xã hội, đặc
biệt là ngành Văn của học sinh rất hạn chế. Tuy chưa thực hiện cuộc khảo sát về lựa
chọn ngành nghề ở trường đại học đối với sinh viên ngành Văn nhưng với kết quả từ
hội thảo của trường ĐHKHXH&NV – ĐHQGHN và với công tác hướng nghiệp như
hiện tại chúng ta cũng có thể phỏng đoán được kết quả.
Từ đó, có thể nói vai trò của CVHT tư vấn rất quan trọng. Định hướng nghề
nghiệp tốt hay không phụ thuộc vào mức độ am hiểu của CVHT. Muốn như vậy,
CVHT không những phải tìm hiểu chi tiết về ngành nghề, còn phải tìm hiểu những kỹ
năng cần thiết phục vụ công việc đó và làm thế nào để thành công với công việc để tư
vấn cho sinh viên.
Một CVHT muốn làm tốt nhiệm vụ cần phải có thời gian đầu tư cho công việc,
cần có sự đãi ngộ xứng đáng cho công tác. Thực tế đa số CVHT từ các trường là
giang viên kiêm nhiệm. Ngoài việc giảng dạy, nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ
kiêm nhiệm thêm CVHT kéo theo các công việc hành chính như báo cáo định kỳ, theo
dõi sinh viên… tiêu tốn rất nhiều thời gian, công sức của giảng viên nên việc tư vấn,
hỗ trợ sinh viên sẽ kém hiệu quả.
4. Kết luận
Chất lượng đào tạo không chỉ thể hiện qua kết quả học tập của sinh viên mà còn
ở kết quả sinh viên ra trường được tuyển dụng như thế nào. Chất lượng đào tạo của
nhà trường cằng được đánh giá tốt khi có càng ít sinh viên thất nghiệp. Vì thế, nhà
81
trường cần phát huy tốt vai trò của CVHT trong tư vấn học tập và hướng nghiệp là
nhiệm vụ cấp thiết cần phải thực hiện để nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu
cầu xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồng Hạnh (2011), sinh viên thất nghiệp do thiếu định hướng nghề,
www.dantri.com.vn
2. Kỷ yếu hội thảo "Giải pháp gắn kết giữa đào tạo với thị trường lao động ở
Việt Nam" do Trường ĐH KHXH&NV – ĐHQGHN tổ chức ngày 9/12/2011.
3. Nguyễn Thị Phú, Đề tài NCKH cấp cơ sở “Đánh giá thái độ của học sinh đối
với việc học tập môn Ngữ văn ở một số trường THPT tại Tp.HCM”, đề tài đang
thực hiện.
82
VÀI GIẢI PHÁP CĂN CƠ ĐỂ CẢI THIỆN HOẠT ĐỘNG CỦA CỐ VẤN
HỌC TẬP Ở CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG TẠI VIỆT NAM
Lê Tuấn Sơn1
1. Thực trạng
Theo lộ trình bắt buộc của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Bộ GD&ĐT), kể từ sau năm
2010, các trường Đại học-Cao đẳng trong cả nước đã đồng loạt chuyển đổi sang học
chế tín chỉ (HCTC). Gần 5 năm qua, chỉ một số ít trường (phần lớn trong số trường
này đã áp dụng HCTC trước đó vài năm) gọi là đã đạt được một số kết quả khả quan
theo những điểm ưu việt (trên lý thuyết) của học chế này mang lại như: sinh viên (SV)
chủ động và chất lượng hơn trong hoạt động học tập của mình, giảng viên (GV) năng
động hơn trong vai trò chủ đạo - hướng dẫn SV, các cấp quản lý và khối hành chính
trong trường thì buộc phải nâng tính chuyên nghiệp hơn lên để “phục vụ khách hàng”
SV. Còn lại, phần đông các trường đều lúng túng và gặp nhiều khó khăn, do đó vẫn
còn loay hoay với bao nhiêu thứ bất cập cần cải thiện mà một trong những thứ đó là
công tác cố vấn học tập (CTCVHT).
Nhìn chung, các trường đều chỉ ít nhiều dừng lại mức dễ thấy được tầm quan
trọng của CTCVHT (bởi nó là một mắc xích quan trọng giữa nhà trường – SV - xã hội
trong quá trình đào tạo theo tín chỉ) mà chưa thấy được hậu quả rõ ràng khi không làm
tốt CTCVHT. Nên tùy vào tình hình cụ thể mà các trường đều đã sớm hoặc muộn chỉ
trang bị tối thiểu (chứ không đầu tư bỏ công sức vào) một số cơ sở làm nền tảng cho
CTCVHT được hoạt động, chẳng hạn như: Ban hành quy định- quy chế CVHT, xây
dựng đội ngũ CVHT các cấp, phát hành sổ tay CVHT… Do đó, theo chúng tôi, việc
trang bị này chưa thực chất, chưa tương xứng với vai trò vốn có của CTCVHT nên
chưa mang lại kết quả như mong đợi.
Qua tìm hiểu và quan sát thực tế “vừa làm vừa rút kinh nghiệm” ở nhiều trường,
chúng tôi thấy được một số vấn đề chung như sau:
Thứ nhất, Bộ GD&ĐT đã dung cụm từ “cố vấn học tập” trong Quy chế đào tạo
đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ (trang 5, 6). Và tên gọi này đã
được không ít trường “tiếp thu linh hoạt” theo cách riêng và tự quy định chức năng,
nhiệm vụ cũng theo cách riêng.
Về tên gọi, ngoài “CVHT”, một số trường đã dung “giảng viên cố vấn
(GVCV)”, “giảng viên CVHT”, “giáo viên cố vấn”, có trường trước dung “CVHT”
1 TS – Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học TP. HCM
83
sau lại đổi thành “GVCV”, có trường dùng cùng lúc cả hai tên gọi này… những tên
gọi khác nhau như trên xuất phát từ đối tượng được bổ nhiệm làm CVHT khác nhau:
có trường chọn GV, có trường chọn chuyên viên hành chính, có trường chọn cả hai
đối tượng này.
Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nói chung, có trường xem công tác CVHT
như công tác giáo viên chủ nhiệm (GVCN) trước đây, có trường kết hợp công tác cố
vấn/tư vấn với công tác GVCN.
Với tình hình trên, nếu nhìn từ góc độ vĩ mô, một mặt nó thể hiện “tính địa
phương”, tính nội bộ của từng trường; một mặt nó cho thấy sự thiếu chuẩn mực, thiếu
tính nhất quán-liên thông trong một công tác quan trọng cần sự chuyên nghiệp như
CVHT. Bộ GD&ĐT cần phải quan tâm đến hiện trạng này.
Thứ hai, CVHT tại các trường đều là công tác kiêm nhiệm. Mặt khác, có sự bất
hợp lý giữa quy định với hoạt động thực tế của CVHT. CVHT theo quy định tại các
trường thì có quá nhiều đầu việc mà nếu thực hiện đầy đủ thì họ sẽ bị quá tải và bất
khả thi(do vượt quá khả năng, năng lực, kiến thức của người được giao làm CVTH)
trong khi những nhiệm vụ đó lại bị trùng lắp với công việc của cán bộ, chuyên viên
hành chính ở các phòng ban chức năng, văn phòng các khoa trong trường. Điều đó
dẫn đến một thực tế là: nhiều thắc mắc của SV thay vì gặp CVHT (muốn gặp CVHT
phải hẹn trước) để được hướng dẫn chuyên nghiệp hơn thì SV chọn liên hệ với
chuyên viên khoa, phòng, ban để được giải đáp cho nhanh. Từ đó, cộng với nhiều vấn
đề bất cập khác, hình ảnh và vai trò của CVHT dần dần mờ nhạt đi trong suy nghĩ của
SV, trong mắt đồng nghiệp cung lãnh đạo và trong ngay cả chính họ. Đây là một thực
trạng nội tại nan giải ở hầu hết các trường.
Theo chúng tôi, hai hiện trạng trên rất phổ biến, đồng thời cũng chính là nguyên
nhân cơ bản dẫn đến sự bất cập cần được cải thiện trong CTCVHT hiện nay.
2. Giải pháp
Chúng tôi đưa ra một số giải pháp có thể xem như những gợi ý để các đơn vị
liên quan tham khảo.
Đối với Bộ GD&ĐT, nên nghiên cứu, ban hành văn bản nhằm thống nhất tên
gọi, chức năng, nhiệm vụ cơ bản cho CTCVHT, tiêu chuẩn-quyền lợi-quyền hạn tối
thiểu cho người được giao nhiệm vụ CVHT.
Về tên gọi, theo chúng tôi, nếu không có tên gọi nào hay hơn, phu hợp với tình
hình Việt Nam hiện tại thì nên thống nhất dùng một thuật ngữ “cố vấn học tập”. Bởi
cụm từ này vừa bao hàm được chức năng cố vấn/tư vấn/hướng dẫn đặc trưng của công
84
tác này vừa để ngỏ được đối tượng (có thể là GV, cán bộ quản lý, chuyên viên,
chuyên gia…) làm CTCVHT do các trường, các đơn vị chọn phù hợp với tình hình
nhân lực, vật lực, tài lực của mình miễn sao đáp ứng được yêu cầu công việc hiệu quả.
Về chức năng, nhiệm vụ, nên quy định rõ chức năng chính và quan trọng nhất là
tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn, gợi mở cho SV trong quá trình học tập và rèn luyện chứ
không phải làm thay, áp đặt, quyết định thay SV. (đây là điểm khác với vai trò GVCN
trước đây).
Về tiêu chuẩn, tối thiểu phải tốt nghiệp đại học, nhất thiết phải trải qua khóa
huấn luyện CTCVHT.
Về quyền lợi, quyền hạn, phải tương xứng với công sức CVHT, tạo động lực,
tạo điều kiện tốt nhất để CVHT thoải mái làm việc đạt hiệu quả như mong đợi.
Có thống nhất được những thứ cơ bản trên mới mong có được sự đồng loạt-đồng
thời, đồng bộ-đồng lòng một cách có hệ thống mang tính xuyên suốt, liên thông xâu
chuỗi được từ trên Bộ xuống dưới các trường, từ trường này đến trường kia.
Đối với các trƣờng, phải tuân thủ theo quy định của Bộ, vì đó là những vấn đề
căn bản tối thiểu bắt buộc. Còn lại, tuy vào đặc thù tình hình thực tế của mình, các
trường hoàn toàn có thể tự thêm vào những nội dung phù hợp sao cho CTCVHT ngày
càng thực chất góp phần xứng đáng vào kết quả đào tạo tốt đẹp cho trường mình.
Nhân đây, chúng tôi cũng muốn gợi mở ba phương hướng sau để những trường
có quan tâm, cân nhắc.
1) CVHT theo thế mạnh công việc: là CTCVHT mà nội dung các nhiệm vụ
được chia theo mảng công việc phù hợp với sở trường chuyên môn của người được
giao nhiệm vụ. Ví dụ: giao mảng công việc tư vấn SV thực hiện quy chế, quy định về
học vụ của Bộ, trường cho chuyên viên phòng đào tạo; giao mảng công việc áp dụng
chương trình đào tạo, đề cương môn học, đăng ký môn học/học phần, thi cử… cho
chuyên viên khoa, tổ trưởng bộ môn…; giao nhiệm vụ hướng dẫn, định hướng cho SV
phương pháp tự học, kỹ năng thu thập và xử lý tài liệu, thông tin…cho GV đứng lớp ở
từng môn học/ học phần; …
Với hướng này chúng tôi cho rằng:
YÊU CẦU ĐIỂM MẠNH ĐIỂM YẾU
- Trường phải ban hành quy
chế, quy định CTCVHT thật
cụ thể- rõ ràng, nhất là trách
- Thế mạnh từng CVHT được
phát huy > hiệu quả thấy rõ.
Nhiệm vụ CVHT
bị phân tán > khó
85
nhiệm của từng đơn vị liên
quan trong trường.
- Khoa, phòng, ban, bộ môn
phải phân công và giám sát
thường xuyên CTCVHT cho
từng GV, chuyên viên cụ
thể.
- Tập huấn định kỳ nhằm
cập nhật tình hình mới, trao
đổi kỹ năng, kinh nghiệm ở
từng mảng công việc.
- Phụ cấp trách nhiệm phải
tương xứng.
- CVHT chủ động được thời
gian, địa điểm, nội dung > dễ
làm hài lòng SV.
- Chi phí đào tạo- tập huấn
CTCVHT ít đi do tận dụng
được chuyên môn, sở trường
thế mạnh của từng CVHT.
- Khắc phục được tình trạng
bất hợp lý, bất khả thi, công
việc quá tải, nhiệm vụ trùng
lắp kể trên như hiện nay tại
các trường.
đánh giá.
2) CVHT tập trung theo chức danh: là hình thức đang áp dụng hiện nay của các
trường, trong đó mọi nhiệm vụ CTCVHT đều tập trung vào một GV hay một chuyên
viên được bổ nhiệm.
Với hướng này chúng tôi thấy:
YÊU CẦU ĐIỂM MẠNH ĐIỂM YẾU
- Trường phải ban hành quy chế-
quy định CTCVHT thật cụ thể-
rõ ràng, nhất là tiêu chí- tiêu
chuẩn CVHT và phải có quyết
định kèm danh sách CVHT toàn
trường.
- Khoa, phòng, ban, bộ môn phải
hỗ trợ và kiểm tra thường xuyên
CTCVHT thuộc đơn vị mình.
- Tập huấn định kỳ nhằm cập
nhật tình hình mới, trao đổi kỹ
năng, kinh nghiệm ở từng đơn vị
hoặc toàn trường.
- Nhiệm vụ tập trung
vào một đối tượng > dễ
đánh giá, dễ quản lý.
- CVHT theo dõi được
tình hình học tập của SV
một cách toàn diện.
- Nhiệm vụ CVHT
bị phân tán > khó
đánh giá.
- Chi phí đào tạo-
tập huấn CTCVHT
nhiều lên.
- Dễ gây tình trạng
công việc CVHT
quá tải và nhiệm vụ
trùng lắp giữa
CTCVHT và nhiệm
vụ các đơn vị liên
quan.
86
- Phụ cấp trách nhiệm phải
tương xứng.
- SV phải tìm hiểu trước mọi
quy định, quy chế, quy trình liên
quan trước khi liên hệ với
CVHT.
3) CVHT chuyên trách, độc lập: là mô hình mà CTCVHT được chuyên môn
hóa thành một đơn vị hành chính (có thể là phòng hoặc ban) trong đó có trưởng đơn vị
và các chuyên viên phụ trách từng mảng nhiệm vụ được quy định.
Với hướng này chúng tôi nghĩ:
YÊU CẦU ĐIỂM MẠNH ĐIỂM
YẾU
- Trường phải đạt chuẩn Đảm
bảo chất lượng giáo dục do cơ
quan kiểm định độc lập chứng
nhận.
- Trường phải có hệ thống quản
lý chất lượng đạt chuẩn và liên
tục được cải tiến do cơ quan độc
lập chứng nhận.
- SV toàn trường phải tự giác
thực hiện mọi trách nhiệm,
nghĩa vụ SV và ứng dụng thành
thạo công nghệ thông tin vào
quá trình học tập.
- Tin học hóa, số hóa, hệ thống
hóa toàn trường, trong đó,
Website trường là nơi có đầy đủ
mọi hệ thống trao đổi thông tin-
liên lạc.
- CVHT phải chuyên nghiệp, có
trình độ chuyên môn cao, kỹ
năng điêu luyện.
- Nhiệm vụ tập trung vào một
một đơn vị chuyên nghiệp > dễ
đánh giá, dễ quản lý, hiệu quả.
- Nhiệm vụ chính yếu là tư
vấn/hướng dẫn được phát huy
tối đa do chất lượng trong quá
trình học tập của SV cao
(CVHT chỉ hướng dẫn/ hỗ trợ
khi SV thật sự cần đến.)
- Khắc phục được tình trạng bất
hợp lý, bất khả thi, công việc
quá tải, nhiệm vụ trùng lắp kể
trên như hiện nay tại các trường.
Gần như
không có
điểm yếu.
87
3. Kết luận
Theo chúng tôi, trước khi muốn “nâng cao vai trò” của CVHT trong tình hình
hiện nay, trước tiên, chúng ta phải quyết tâm bằng mọi giá cải thiện tình hình, đầu tư
nhân lực, vật lực, tài lực nhằm đưa CTCVHT vào hoạt động thực chất, có tác động rõ
rệt vào chất lượng SV được thể hiện ở từng học kỳ, năm học và toàn khóa học. Trong
quá trình cải thiện này, rất cần sự quan tâm điều tiết của Bộ; sự liên thông, trao đổi
kinh nghiệm giữa các trường (như cuộc hội thảo này); sự đồng bộ hợp tác giữa các
đơn vị liên quan trong nội bộ từng trường; và quan trọng hơn cả là sự chuyên nghiệp,
chuyên tâm của từng cán bộ CVHT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ GD&ĐT (2007), Quy chế học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng
và trung cấp chuyên nghiệp hệ chính quy.
2. Bộ GD&ĐT (2007), Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ
thống tín chỉ.
3. Trường đại học Cần Thơ (2011), Tập kỷ yếu Hội nghị Nâng cao vai trò Cố vấn
học tập.
4. Trường Đại học Ngoại ngữ-Tin học TP.HCM, 2014, Tập bài tham luận Tọa
đàm “Nâng cao vai trò của Giảng viên cố vấn trong đào tạo tín chỉ.
5. Trần Thị Minh Đức, Kiều Anh Tuấn (2012), Cố vấn học tập trong các trường
đại học, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012)
23-32.
6. Trường Đại học Kinh tế (ĐHQGHN) (2011), Quy định Công tác Cố vấn học
tập tại Trường Đại học Kinh tế-ĐHQGHN.
88
THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CỐ VẤN HỌC TẬP TRONG CÁC TRƢỜNG
ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
Nguyễn Ngọc Tài1
Trịnh Văn Anh2
1. Đặt vấn đề
Những năm gần đây, khi các trường đại học chuyển từ đào tạo theo niên chế
sang tín chỉ thì vấn đề người CVHT cho sinh viên trở thành đề tài nóng hổi bởi nó ảnh
hưởng trực tiếp đến sự thành công trong học tập, lựa chọn nghề nghiệp và cả tâm tư
tình cảm cho sinh viên (SV) trong suốt quá trình học tập tại trường. CVHT là một
nhân tố then chốt trong mối quan hệ nhà trường – sinh viên – thị trường lao động. Tuy
nhiên, để nâng cao vị thế, vai trò của người CVHT cần phải đánh giá đúng thực trạng
và đề xuất các giải pháp khả thi cho công tác này, trong đó, việc xác định đúng chức
năng, vai trò CVHT là cần thiết. Bài viết này, chúng tôi xin được chia se một số vấn
đề cần quan tâm, tháo gỡ đưa đội ngũ CVHT xứng tầm với vị trí và vai trò của nó.
2. Vai trò, nhiệm vụ của đội ngũ cố vấn học tập
Cùng với việc áp dụng đào tạo theo học chế tín chỉ trong các trường đại học Việt
Nam vào năm 2010 thì cũng là ngần ấy năm xuất hiện một khái niệm mới ở nước ta
đó là CVHT. Để hiểu rõ về CVHT, trước hết chúng ta cần hiểu khái niệm cố vấn.
Theo Từ điển tiếng Việt của GS. Hoàng Phê (chủ biên, 1998) thì “Cố vấn là người
thường xuyên được hỏi ý kiến để tham khảo công việc”. Như vậy, cố vấn chính là
người định hướng, dẫn đường, tư vấn để người được hỏi nên theo đó mà hành động.
Trong giáo dục và đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng, cho đến nay có nhiều
quan niệm về CVHT, nhưng định nghĩa được nhiều người thừa nhận thì “CVHT là
người tư vấn cho SV về chọn khóa học, ngành học phù hợp với năng lực và sở thích,
tư vấn và xét duyệt kế hoạch học tập của SV từ khi bắt đầu nhập học, chuẩn bị vào
giai đoạn chuyên ngành hay khi sắp kết thúc chương trình học”. Có thể nói, CVHT là
người định hướng, tư vấn, giám sát hoạt động học tập của SV, giúp cho SV nhận thức
được tầm quan trọng của quy chế đào tạo, chương trình đào tạo, phương pháp học tập,
từ đó, thiết lập chương trình đào tạo phù hợp với điều kiện về trình độ, vật chất, hoàn
cảnh cá nhân và tự tìm ra biện pháp khắc phục các khó khăn đầu tiên khi bước chân
vào giảng đường đại học đến kết thúc chương trình đại học.
1 TS – Viện Nghiên cứu Giáo dục, trường Đại học Sư phạm TP. HCM
2 ThS – Viện Nghiên cứu Giáo dục, trường Đại học Sư phạm TP. HCM
89
Nếu như, hình thức đào tạo theo niên chế, giáo viên chủ nhiệm đóng vai trò là
cầu nối giữa SV, nhà trường, gia đình nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn trở ngại trong
học tập, cuộc sống SV thì trong đào tạo theo tín chỉ, người cố vấn có trách nhiệm, vai
trò, chức năng nặng nề hơn nhiều lần. Ơ cương vị mới này, bên cạnh những cái cần có
của người giáo viên chủ nhiệm thì họ phải là một chuyên gia giỏi về lĩnh vực đào tạo
tư vấn, đưa ra lời khuyên và trách nhiệm với lời khuyên của mình.
Chúng ta cần phải khẳng định rằng, CVHT có vai trò đặc biệt quan trọng, không
thể thiếu trong đào tạo theo học chế tín chỉ. Mỗi CVHT là một nhân tố then chốt trong
mối quan hệ nhà trường – sinh viên – thị trường lao động, là một chuyên gia tư vấn về
học tập và việc làm cho SV, đồng hành cùng SV trong suốt quá trình học tập. CVHT
có nhiều vai trò, nhưng có thể thu gọn vào 4 vai trò chính là: 1) Tư vấn, định hướng
quá trình học tập của SV; 2) Giám sát quá trình học tập của SV; 3) Tham gia công tác
chủ nhiệm lớp; 4) Đóng góp ý kiến đề xuất với nhà trường về các vấn đề tổ chức,
quản lý đào tạo và quản lý SV.
Từ vai trò của CVHT có thể xác định năm nhiệm vụ chính của CVHT là:
1) Hướng dẫn SV quy chế đào tạo tín chỉ và các quy định của Nhà trường;
2) Tư vấn cho SV về chương trình - kế hoạch đào tạo;
3) Tư vấn cho SV về xây dựng kế hoạch học tập toàn khoá và từng học kỳ phù
hợp với năng lực và hoàn cảnh cá nhân của từng SV;
4) Tư vấn cho SV về phương pháp học tập tích cực và NCKH;
5) Làm công tác chủ nhiệm như đánh giá kết quả rèn luyện, khen thưởng, kỷ
luật, làm các chế độ báo cáo, giúp SV tìm ra biện pháp khắc phục các khó khăn
trong học tập và trong cuộc sống.
Hiện nay CVHT –giáo viên chủ nhiệm có hai mảng công tác khác nhau là cố vấn
học tập và giáo viên chủ nhiệm tuy vậy hai nhiệm vụ này sẽ bổ sung cho nhau làm
cho người CVHT nắm vững SV hơn. Một công việc đặc thu trong trường đại học, cho
nên nhiều người đã xem đó là một nghề chứ không phải nhiệm vụ kiêm môn. Ơ nghề
tư vấn, định hướng và chia se này, không phải giảng viên nào cũng phu hợp, đâu phải
giảng viên nào SV cũng trải lòng, cũng cần một lời khuyên, động viên, tư vấn. Điều
được nhiều người thừa nhận rằng, trong nghề chia se tư vấn thì lắng nghe quan trọng
hơn nói, đây cũng là một trong những nhân tố của người thành công. Trong một cuốn
sách gần đây của tác giả Mark Goulston (Mỹ) có tựa đề rằng “Ke thành công phải biết
lắng nghe”, ở đây, ta bắt gặp quan điểm giao tiếp là “nói là bạc, im lặng là vàng, lắng
nghe là kim cương”. Khi SV cần đến mình, cần sự tư vấn thì có nghĩa là họ đặt trọn
90
niềm tin để mong có hướng giải quyết tốt nhất. Muốn tham vấn chính xác, cần càng
nhiều thông tin từ SV càng tốt, do vậy, CVHT cần có kĩ năng lắng nghe.
Nhiệm vụ mới, cần có tư duy mới, nhưng hiện nay vai trò của giáo viên chủ
nhiệm và CVHT vẫn tồn tại trong một con người giảng viên, để phát huy vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của nó, các cơ sở giáo dục đại học nhất thiết phải xây dựng quy trình
công tác CVHT một cách khoa học, đồng thời, cần tổ chức lại công tác chủ nhiệm
tách bạch với CVHT. Đặc biệt, tăng cường vai trò của Phòng Công tác Học sinh –
Sinh viên trong việc tư vấn SV về các thủ tục hành chính, các vấn đề đời sống học
đường,… thông qua các hình thức tư vấn trực tiếp, gián tiếp nhằm giảm bớt nhiệm vụ
cho giảng viên chủ nhiệm lớp.
3. Những vấn đề cần quan tâm trong công tác cố vấn học tập cho sinh viên
Nhiều CVHT cho rằng, khó khăn lớn nhất là đối tượng tư vấn SV năm học
thứ nhất. Từ việc chuyển từ cách học phổ thông sang cách học đại học những tân SV
đã gặp nhiều khó khăn, trong khi đó đã có bao nhiêu thế hệ SV đã trải qua nếp học cũ
và với cách thức điều hành cũ của chương trình đào tạo theo niên chế, mọi thứ đều đã
thành thói quen trong cách nghĩ và cách làm của người học, người dạy và người quản
lý giáo dục. Vì thế, vơi SV năm thư nhât , cần được tư vấn kĩ nhằm phát huy năng lực
bản thân để có m ột thói quen trong sinh hoạt và học tập, có kế hoạch và nỗ lực để
thực hiện thành công kế hoạch đó theo phương thưc đao tao theo hê thông tín chỉ .
Quan trọng hơn là giup SV làm quen được với môi trường học tập mới càng sớm càng
tốt để thành công trong những giai đoạn tiếp theo. Bản chất của quá trình dạy học đại
học là quá trình nhận thức có tính chất nghiên cứu của SV dưới sự điều khiển của
giảng viên. Điều này, có nghĩa rằng, lên đại học các em phải tự nghiên cứu, tự học
hơn thời phổ thông rất nhiều, ý thức học tập cao hơn, đào tạo theo tín chỉ thì lại càng
cao hơn một bậc. Nói như thế, để thấy được công tác định hướng SV năm nhất cực kì
quan trọng.
Nhiệm vụ của người cố vấn là cần giup SV căn cứ vào khả năng của bản thân
SV, điều kiện kinh tế của gia đình để có một kế hoạch học tập và mục đích cụ thể và
lâu dài ngay từ đầu năm thứ nhất: Xác định học trong thời gian mấy năm, tập trung
vào thời gian nào? Ưu điểm, hạn chế của bản thân là gì? Cần phải làm gì để hát huy
thế mạnh và khắc phục thế yếu của bản thân? Chẳng hạn như: mạnh dạn gặp gỡ giáo
viên CVHT, người thân, bạn bè để nhận được sự giúp đỡ. Đối với SV năm thứ nhất,
chúng ta khuyên nên tập trung làm quen với môi trường đại học hơn là lập kế hoạch
cho việc học vượt thời gian, dành sức tăng tốc những năm tiếp theo.
91
Vơi SV năm thư 2, CVHT luôn nhăc nhơ cac em thời gian học tập có thể kéo dài
hoặc rút ngắn tùy theo năng lực của cac em. Trên cơ sở kết quả học tập của năm thứ
nhất, chúng ta nên phân tích, định hướng, vạch kế hoạch cho năm học thứ 2 tùy thuộc
vào từng SV nhằm phát huy tối đa năng lực của từng người. Với SV có học lực khá
giỏi, thì hương dân cac em đăng ky hoc vư ợt, đăng ky hoc chương trinh hai . Đăng ký
đúng với năng lực của bản thân dẫn đến kết quả học tập tốt, làm cho SV phấn khởi
trong học tập. Đăng ký vượt quá năng lực có thể dẫn đến kết quả học tập kém làm SV
hoang mang, bối rối, ảnh hưởng trực tiếp đến học tập trong học kỳ sau và có những
quyết định sai lầm tiếp trong đăng ký các học phần tiếp theo. Tất nhiên, những điều
này được dựa trên căn cứ kế hoạch đào tạo của nhà trường trong năm học như đầu
mỗi năm học, trường sẽ thông báo lịch trình học dự kiến cho từng chương trình trong
từng học kỳ, danh sách các học phần bắt buộc và tự chọn dự kiến sẽ dạy, đề cương chi
tiết, điều kiện tiên quyết để được đăng ký học cho từng học phần, lịch kiểm tra và thi,
hình thức kiểm tra và thi đối với các học phần.
Ơ SV năm thứ 3, 4 chúng ta nên tư vấn cho SV một số vấn đề năng lực bản thân,
vấn đề đào tạo của nhà trường và xu hướng thị trường lao động. Điều này, có nghĩa là
SV ngoài học trong nhà trường thì còn cần trang bị thêm những gì để đáp ứng yêu cầu
công việc sau này. Làm được điều này, CVHT luôn phải cập nhật thông tin và không
ngừng trao dồi kĩ năng, kinh nghiệm của mình mới đưa ra quyết định chính xác được.
Để nâng cao hiệu quả công tác CVHT trong các trường đại học cao đẳng hiện
nay, với vai trò của người nghiên cứu về giáo dục, chúng tôi xin đề xuất những vấn đề
sau:
- Về phía nhà trường
Về phía nhà trường, đầu mỗi năm học, trường phải thông báo lịch trình học dự
kiến cho từng chương trình trong từng học kỳ, danh sách các học phần bắt buộc và tự
chọn dự kiến sẽ dạy, đề cương chi tiết, điều kiện tiên quyết để được đăng ký học cho
từng học phần, lịch kiểm tra và thi, hình thức kiểm tra và thi đối với các học phần.
Nên xây dựng “học bạ” cho SV, học bạ đó bao gồm chương trình chi tiết các môn
trong 4 năm đại học và phát cho SV khi mới nhập học. Trong một môn có những
phần, chương, mục lục lớn, nhỏ, chi tiết cụ thể, tên những giảng viên phụ trách, thời
gian học, tài liệu tham khảo, môn nào bắt buộc và không bắt buộc, ý nghĩa thực tế của
từng môn học để người học hình dung ra tổng quan chương trình được đào tạo, từ đó
xây dựng kế hoạch học tập cho riêng mình. “Học bạ” cũng nên ghi hạnh kiểm, số
điểm thi lần 1, 2 từng môn học, từng kì thi, hội đồng thi và chữ kí của người chấm thi.
92
Đó là hồ sơ để giảng viên theo dõi sát sao và điều chỉnh kịp thời quá trình học tập của
SV cũng như làm cơ sở để cơ quan, doanh nghiệp, công ty tuyển chọn lao động.
Nhà trường và các Khoa cân tăng cương cơ sơ vât chât , để nếu phải tiết kiệm chi
phí buộc phải ghép lớp đông , thì phòng học, ánh sáng, giáo trình, tài liệu tham khảo ,
thư viên, phương tiên day hoc, v.v, phải tương xứng với đào tạo tín chỉ . Khi cơ sơ vât
chât cua Trương chưa thê đap ưng cho viêc day theo hê thông tin chi : Tât ca ca c
phòng học hầu hết không có máy chiếu , trang thiêt bi sư dung may tinh xach tay , máy
tính cố định ; Hê thông chiêu sang va quat hoăc thiêu hoăc luôn bi hong ,… gây kho
khăn rât lơn cho viêc day hoc tin chi . Lơp qua đôn g, SV ngôi qua chât , tài liệu phục
vụ học tập quá thiếu , học đã khó , tô chưc cho SV thảo luận nhóm càng khó , thì làm
sao SV học có hiệu quả được . Hơn nữa, nếu thiếu thốn những điều này thì việc cho
SV cơ hội chọn lựa và thực hiện kế hoạch của họ là điều không thể.
Nhà trường cần nghiên cứu giảm bớt các nhiệm vụ có tính chất sự vụ đối với
CVHT. Ví dụ, CVHT chỉ cần duyệt kế hoạch học tập của SV trên mạng lần đầu trong
mỗi học kỳ, còn những lần điều chỉnh bổ sung để SV tự thực hiện và chịu trách
nhiệm.
Nhà trường phải tạo điều kiện hơn nữa cho việc tiếp xúc giữa giảng viên và SV.
Ngoài cung cấp địa chỉ email của CVHT cho SV, giảng viên còn phải thường xuyên
tham gia trên diễn đàn của trường vì đây là nơi SV tham gia giao lưu, chia se kiến
thức và thông báo các tình hình chung của lớp. Việc tham gia diễn đàn sẽ gắn bó thêm
mối quan hệ giữa CVHT với SV, đồng thời diễn đàn là nơi để giảng viên trao đổi
thông tin với lớp và là công cụ để thực hiện vai trò CVHT của mình. Bên cạnh đó,
theo định kì, Ban Giám hiệu nên tổ chức gặp gỡ CVHT để nghe thông tin phản hồi
cũng như những khó khăn cần giải quyết và giải đáp thắc mắc cho giảng viên.
- Về phía các phòng, ban
Phòng Đào tạo cần tăng cường thông tin về việc đăng ký học phần để CVHT và
SV biết, nhằm chủ động hơn khi điều chỉnh kế hoạch học tập. Tránh tình trạng đến
thời gian đăng ký học phần, SV mới biết được học phần A hay học phần B bị xóa do
không đủ số lượng tối thiểu, đẩy SV vào tình trạng bị động, phải điều chỉnh kế hoạch
học tập một cách chấp vá, thiếu cơ sở khoa học.
Các bộ môn, các khoa xây dựng khung học phần cho từng học kỳ với một số
kịch bản khác nhau, để SV tham khảo nhằm xây dựng kế hoạch học tập phù hợp cho
bản thân. Việc lập kế hoạch học tập này, vừa phát huy ưu điểm của học chế tín chỉ,
vừa hạn chế đến mức thấp nhất yếu tố “tuy hứng” của SV, giúp cho công tác đào tạo
93
có tính định hướng và ổn định. Đồng thời, các khoa phải bố trí giảng viên có nhiều
kinh nghiệm CVHT thực hiện cố vấn cho SV năm nhất.
Cần có một số biện pháp hỗ trợ đối với những SV có hoàn cảnh khó khăn phải đi
làm thêm không có thời gian tự học nhiều: như tư vấn việc đăng ký khối lượng học
tập cho phù hợp, đề xuất nhà trường có biện pháp giúp đỡ, hỗ trợ cho những SV có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
- Về phía CVHT
CVHT nên thông qua tình hình, kết quả học tập của SV để tư vấn, hướng dẫn
cho SV trong việc đăng ký, điều chỉnh kế hoạch học tập cho phù hợp với năng lực và
hoàn cảnh, tránh để tình trạng do không nắm rõ thông tin mà nhiều SV đã đăng ký
khối lượng học tập quá nhiều với sức học của mình đến khi không đảm bảo yêu cầu
kết quả học tập bị buộc thôi học lúc đó thì đã quá muộn.
CVHT có thể đưa ra những khoảng thời gian trống để SV có thể gặp ngoài giờ
khi có những thắc mắc hay việc cần hỏi ý kiến mà CVHT không có thời gian gặp trực
tiếp trên lớp.
CVHT cần xây dựng và công khai lịch tiếp SV, thời gian và địa điểm tiếp SV
định kỳ; cung cấp cho SV số điện thoại, email và các phương tiện liên lạc khác để SV
liên lạc trong trường hợp cần thiết.
Cân co quy đinh cu thê vê chê đô , chính sách đối với đội ngũ giáo viên CVHT
(du chỉ là động viên ) để tăng cường vai trò của đội ngũ giáo viên CVHT giúp SV học
tâp tôt theo hê thông đao tao tin chi.
4. Kết luận
Để nâng cao hiệu quả vai trò của CVHT thì cần xem CVHT là một “nghề”.
Giảng viên vốn dĩ hiện nay đang “quá tải” về công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa
học nay phải “gánh” thêm nhiệm vụ CVHT thì quả là một gánh nặng ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng dạy học. Muốn đạt được hiệu quả tốt trong công tác CVHT
cần phải có sự hợp tác và nỗ lực từ cả 3 phía: nhà trường, CVHT và sinh viên, đặc
biệt là mối quan hệ giữa sinh viên và CVHT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần văn Hùng (2012), “ Vai trò của giáo viên cố vấn học tập trong đào tạo
theo học chế tín chỉ”, Báo Giáo dục và thời đại online.
2. Nguyễn Thị Trang (2010), “Sử dụng kỹ năng tư vấn của cố vấn học tập”, Cố
vấn học tập trong các trường Đại học, Đại học Quốc Gia Hà Nội, HN.
94
CỐ VẤN NGHỀ TRONG NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO,
KHẲNG ĐỊNH THƢƠNG HIỆU CỦA TRƢỜNG ĐẠI HỌC
Huỳnh Mộng Tuyền1
Trần Thanh Thúy2
1. Cố vấn nghề sƣ phạm
Cố vấn nghề sư phạm là người tư vấn và hỗ trợ sinh viên phát huy tối đa khả
năng học tập, rèn luyện nghiệp vụ, thực tập, hành nghề nhằm thực hiện tốt yêu cầu
thực tiễn nghề sư phạm.
Ơ trường đại học, người thực hiện cố vấn nghề sư phạm hiệu quả nhất là giảng
viên. Bởi vì họ là người trải qua quá trình đào tạo, hành nghề cung chuyên ngành đào
tạo với sinh viên. Chính họ mới có tầm nhìn, chiến lược, chiến thuật, xác định logich
học tập, tư vấn quá trình học tập của sinh viên hiệu quả nhất. Hơn nữa, họ còn là
người trực tiếp hướng dẫn sinh viên lĩnh hội kiến thức, rèn luyện hệ thống kỹ năng
nghề, giáo dục những phẩm chất nghề cho sinh viên. Để thực hiện được sứ mệnh và
thành công trong cố vấn nghề, người giảng viên cần có hệ thống năng lực và phẩm
chất nghề.
2. Những yêu cầu về phẩm chất và năng lực của giảng viên làm cố vấn
2.1. Những yêu cầu về năng lực
2.1.1. Năng lực học tập
- Giảng viên cần có hệ thống kiến thức vững chắc về quá trình học tập của nghề
mình cố vấn: Mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức, cách đánh giá kết quả...
- Có hệ thống phương pháp, kỹ năng tốt trong thu thập, xử lý thông tin; lập kế
hoạch học tập, thực hiện kế hoạch học tập; kiểm tra, đánh giá kết quả quá trình học
tập.
- Thường xuyên đọc, học phương pháp, kỹ năng học từ sách, từ thực tiễn kinh
nghiệm học tập của thầy cô, bạn bè, từ những tấm gương học tốt để nắm chắc lý luận,
thu thập nhiều kinh nghiệm thực tiễn và thường xuyên áp dụng nâng cao hiệu quả học
tập suốt đời của bản thân.
2.1.2. Năng lực dạy học
- Giảng viên nắm chắc hệ thống kiến thức về quá trình dạy học của nghề mà
giảng viên sẽ tư vấn cho sinh viên.
1 TS – Trưởng khoa QLGD&TLGD trường Đại học Đồng Tháp
2 Giảng viên trường Đại học Đồng Tháp
95
- Có hệ thống phương pháp và kỹ năng phát huy tối đa các thành tố của quá trình
dạy học: Mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức, cách đánh giá kết quả...trong
tạo nên chất lượng đào tạo.
- Tích cực tiếp thu thành tựu lý luận hiện đại về quá trình dạy học, tăng cường
học hỏi kinh nghiệm dạy học qua băng đĩa, dự giờ đồng nghiệp, giáo viên phổ thông,
nghiên cứu ứng dụng những thành tựu khoa học hiện đại vào đổi mới quá trình dạy
học của bản thân.
2.1.3. Năng lực nghiên cứu khoa học
- Giảng viên làm chủ hệ thống kiến thức về quá trình nghiên cứu khoa học, hệ
thống phương pháp nghiên cứu khoa học.
- Có hệ thống kỹ năng nắm bắt những mâu thuẫn, bất cập bức xúc trong lý luận
và thực tiễn nghề, xác định đề tài, xây dựng đề cương, tổ chức nghiên cứu, báo cáo
kết quả nghiên cứu.
- Cập nhật thành tựu nghiên cứu khoa học giáo dục hiện đại, đẩy mạnh nghiên
cứu những đề tài về đổi mới quá trình dạy học, giáo dục sinh viên và học sinh phổ
thông.
Trên đây là những năng lực cơ bản nhất. Người giảng viên làm cố vấn nghề cần
nhiều năng lực khác như: Năng lực thực hiện các hoạt động tập thể, hoạt động xã hội,
năng lực tổ chức, quản lý, giao tiếp, ứng xử trong thiết lập tốt các quan hệ xã hội...
2.2. Yêu cầu về phẩm chất
2.2.1. Lòng yêu nghề
Giảng viên nhận thức được tầm quan trọng của nghề sư phạm. Đó là nghề cao
quý, sáng tạo nhất. Vận mệnh, tương lai sự phát triển của đất nước phụ thuộc vào sự
phát triển của con người. Sự phát triển của con người phụ thuộc vào lao động sư phạm
của người giáo viên. Có thể nói, lao động sư phạm của người giảng viên quyết định sự
phát triển của con người và xã hội. Họ cảm thấy rất tự hào về nghề sư phạm - Thầy
của những người thầy.
rên cơ sở nhận thức đó, người giảng viên dốc hết tâm trí, nhiệt huyết, tận tụy,
say mê trong học tập, lao động sư phạm, nghiên cứu khoa học... để góp phần giải
quyết những mâu thuẫn, bất cập vì sự phát triển tốt nhất nghề nghiệp.
2.2.2. Lòng yêu người
Giảng viên nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của học tập, rèn luyện trong nhà
trường với tương lai, hạnh phúc cuộc đời mỗi con người và luôn có khát vọng là tất cả
96
học trò của mình phải được hạnh phúc, có tương lai tốt đẹp. Giảng viên phải thể hiện
sự tôn trọng, niềm lạc quan tin tưởng vào khả năng, tiềm năng của sinh viên. Từ đó,
họ đề ra được cho sinh viên những yêu cầu phù hợp và tổ chức, hướng dẫn, kích thích,
phát huy để sinh viên đạt được thành quả phát triển cao nhất, thành công, thật sự có
niềm vui và hạnh phúc trong học tập, rèn luyện. Sinh viên cần được kế thừa thành quả
lý luận, thực tiễn nghề cả một đời của giảng viên đã gian khổ học tập, lao động,
nghiên cứu. Giảng viên chẳng những cho sinh viên kế thừa thành quả của mình mà
còn chỉ ra cho cho họ cách thức, con đường đi đến thành công cao hơn nhưng do hoàn
cảnh, thời gian, năng lực... mà mình chưa thực hiện được. Giảng viên xem sinh viên là
những người thân (em, con, cháu...) của mình để trợ giúp được tốt nhất.
2.2.3. Có mục đích, lý tưởng sống cao đẹp
Giảng viên cần có lập trường vững vàng dựa trên hệ tư tưởng tiên tiến, có hiểu
biết về đường lối, chủ trưởng của Đảng, pháp luật của nhà nước, có tình cảm với giá
trị chân, thiện, mỹ, tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của con người, xã hội. Giảng viên
cần quán triệt sâu sắc mục đích, lý tưởng, những định hướng chiến lược phát triển
kinh tế xã hội của đất nước... Từ đó, họ nỗ lực tối đa trong học tập, lao động, nghiên
cứu khoa học... nhằm đào tạo được đội ngũ giáo viên đáp ứng được yêu cầu của chiến
lược “trồng người”, chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
2.2.4. Ngoài những phẩm chất cơ bản trên đây, người giảng viên còn cần nhiều
phẩm chất khác như: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, khiêm tốn, giản dị....
Giữa các phẩm chất và năng lực trên của người giảng viên cố vấn nghề có mối
quan hệ biện chứng. Sự thành công trong cố vấn nghề của giảng viên tỷ lệ thuận với
số và chất lượng các năng lực và phẩm chất trên ở họ.
3. Vai trò của giảng viên cố vấn nghề trong nâng cao chất lƣợng, khẳng định
thƣơng hiệu trƣờng Đại học Đồng Tháp
3.1. Giảng viên sư phạm là người tư vấn tốt cho quá trình học tập nghề sư
phạm của sinh viên
Qua trải nghiệm trong học tập, giảng viên hiểu sâu sắc mục tiêu, yêu cầu, công
việc nghề sư phạm mà người giáo viên cần thực hiện; Hiểu quá trình đào tạo sư phạm
(mục tiêu, chương trình, giảng viên, phương tiện,...), đặc biệt là, vị trí các môn học ở
trường đại học đối với công việc nghề sư phạm.
Trên cơ sở đó, giảng viên sẽ giúp sinh viên biết cách thu thập, xử lý thông tin
(quy chế, các yếu tố của quá trình đào tạo...) để xây dựng được kế hoạch học tập phù
hợp (chọn các môn học, đăng ký môn học...). Đặc biệt, với những thành công, thất bại
97
của mình, giảng viên là người tư vấn tốt các phương pháp học tập, rèn luyện nghiệp
vụ sư phạm, thực tập sư phạm cho sinh viên.
Nếu được tư vấn tốt, sinh viên sẽ biết cách khai thác ngoại lực, thể hiện tối đa
tính tích cực, độc lập, sáng tạo chiếm lĩnh kiến thức, rèn kỹ năng, trau dồi phẩm chất
nhân cách trong quá trình học đại học nhằm đáp ứng tốt nhất cho yêu cầu thực tiễn
nghề.
3.2. Giảng viên sư phạm là người tư vấn tốt cho quá trình dạy học, giáo dục
nghề sư phạm của sinh viên
Với bề dầy trải nghiệm học tập, giảng dạy, nghiên cứu, giảng viên sẽ có vốn
hiểu sâu sắc về lý luận, có nhiều kinh nghiệm trong vận dụng phương pháp, các kỹ
thuật dạy học để trợ giúp cho sinh viên. Ngay cả những thất bại của họ cũng là hành
trang quý giá mà sinh viên cần biết và tránh trong nghề nghiệp. Giảng viên thường
xuyên trợ giúp sinh viên thiết kế các hoạt động dạy học, giáo dục trong rèn luyện
nghiệp vụ, thực tập sư phạm...Giảng viên sẽ cố vấn, tư vấn thiết kế, tổ chức những tiết
dạy học, giáo dục cho sinh viên khi sinh viên mới bước vào nghề, được tập thể sư
phạm nhà trường dự giờ đánh giá chuyên môn và khi thi giáo viên giỏi... Công việc
này chẳng những giúp sinh viên đạt kết tốt hơn trong nghề mà kỹ năng nghiệp vụ của
giảng viên sẽ không ngừng được nâng cao và quá trình đào tạo ở trường sư phạm sẽ
đáp ứng được yêu cầu xã hội.
3.3. Giảng viên sư phạm là người tư vấn cho sinh viên thực hiện tốt hoạt động
nghiên cứu khoa học giáo dục
Chính giảng viên là người nắm vững thành tựu lý luận, trải nghiệm thực tiễn
nghiên cứu khoa học nên họ sẽ dẫn dắt tốt sinh viên thực hiện hoạt động nghiên cứu
khoa học. Có nhiều hình thức giảng viên cố vấn cho sinh viên như giúp sinh viên viết
bài cho các hội thảo khoa học, thông tin khoa học, các tạp chí khoa học. Sinh viên
cùng tham gia nghiên cứu các đề tài khoa học với giảng viên. Giảng viên hướng dẫn
sinh viên nghiên cứu khoa học. Bằng khả năng, uy tín khoa học, nếu giảng viên giúp
sinh viên vượt qua được ngưỡng cửa khó khăn, bỡ ngỡ ban đầu, họ sẽ vững bước tiến
vào con đường khoa học để giải quyết bất cập trong thực tiễn nghề, nâng cao chất
lượng lao động nghề, thành công, hạnh phúc với nghề. Đây là con đường tự đào tạo
hiệu quả nhất của giáo viên, con đường quan trọng nhất để đổi mới, nâng cao hiệu quả
công việc nghề sư phạm, nâng cao chất lượng giáo dục.
Ngoài ra, với những thành công, thất bại trong giao tiếp, ứng xử để thiết lập các
mối quan hệ xã hội, cuộc sống, tình yêu, gia đình... và cộng thêm ý thức đầu tư để
truyền kinh nghiệm, giảng viên sẽ tư vấn, cố vấn tốt các các vấn đề này cho sinh viên.
98
Dựa vào các mối quan hệ xã hội, giảng viên tư vấn giới thiệu việc làm, tham gia các
hoạt khác để sinh viên phát huy bản thân...
Thông qua mối quan hệ với sinh viên trong học tập, giảng dạy, nghiên cứu...
giảng viên cố vấn, truyền lòng yêu người, yêu nghề, thắp sáng niềm tin, tình cảm, mục
đích, lý tưởng nghề nghiệp cao đẹp cho họ. Đây là nền tảng quan trọng để bẩy năng
lực nghề, tỏa sáng tài năng sư phạm ở sinh viên.
Thành công trong học tập, giảng dạy, nghiên cứu... của giảng viên là thuyết phục
hùng hồn nhất trong cố vấn nghề cho sinh viên. Muốn làm thầy sinh viên, trước tiên
giảng viên hãy làm thầy chính mình thật tốt trong các lĩnh vực hoạt động chuyên môn.
Người giảng viên không những phấn đấu để bản thân thành công trong học tập, giảng
dạy, nghiên cứu khoa học... mà phải luôn có ý thức cố vấn, tư vấn, truyền kinh
nghiệm, kích thích, phát huy để học trò thành công như mình và hơn mình trong nghề
nghiệp.
4. Đánh giá lao động của cố vấn nghề sƣ phạm
Lao động của giảng viên cố vấn cần đầu tư và đánh giá xứng đáng:
- Một năm, mỗi giảng viên cố vấn 15 đến 20 sinh viên. Mỗi sinh viên được tính
khoảng 5 giờ lao động. 3 giờ tổ chức các buổi tọa đàm báo cáo chuyên đề về tìm hiểu
quy chế, bồi dưỡng phương pháp học, nghiên cứu khoa học... Thời gian còn lại, giảng
viên sẽ gặp gỡ riêng, tháo gỡ vướng mắc trong học tập, nghiên cứu... cho từng sinh
viên.
- Mỗi giảng viên cố vấn có hồ sơ theo dõi và báo cáo kết quả học tập, hành nghề
của sinh viên mình cố vấn. Thanh tra có thanh tra kết quả báo cáo cố vấn nghề của
giảng viên.
- Đánh giá kết quả lao động, xét khen thưởng của giảng viên phải dựa trên kết
quả giảng dạy, nghiên cứu khoa học, cố vấn nghề... Hoạt động cố vấn nghề phải có hệ
số cao hơn so với các hoạt động khác trong kết quả đánh giá. Trừ Ban giám hiệu, các
phòng ban, cán bộ quan lý, giảng viên không tham gia cố vấn nghề hoặc tham gia
không có hiệu quả không xét chiến sĩ thi đua.
- Ngoài lương cơ bản mọi giảng viên được hưởng như nhau, tiền phụ cấp tăng
thêm của giảng viên được tính theo quý dựa trên kết quả của hoạt động dạy học,
nghiên cứu và cố vấn nghề của họ. Giảng viên thực hiện tốt được hưởng nhiều và
ngược lại (sự chênh lệch A, B,C cao).
- Hàng năm trung tâm kiểm định chất lượng nên khảo sát lấy ý kiến đánh giá của
sinh viên đã tốt nghiệp về giảng viên ở trường Đại học. Cơ sở quan trọng nhất cần
đánh giá là quá trình giảng dạy của giảng viên ở trường Đại học đã giúp ích như thế
99
nào cho sự thành công nghề nghiệp của họ trong thực tiễn. Giá trị ứng dụng, hiệu quả
làm việc của người học càng cao sau quá trình đào tạo thì giá trị lao động của người
dạy càng lớn - giá trị cao nhất mà quá trình đào tạo đạt được. Nếu đánh giá như thế,
những giảng viên hàng ngày chỉ biết giảng lý luận suông theo giáo trình, tài liệu nếu
không cố gắng sẽ bị đào thải. Sự tồn tại của giảng viên, chất lượng đào tạo nhà trường
phải dựa trên năng lực thực tiễn nghề của giảng viên. Từ đó, giảng viên sẽ có động cơ
học tập, rèn luyện, nghiên cứu trau dồi năng lực thực tiễn nghề của bản thân. Bởi vì,
sản phẩm đào tạo của trường Đại học không chỉ thể hiện ở điểm, bằng cấp mà ở năng
lực, hiệu quả hoạt động dạy học, giáo dục, nghiên cứu khoa học trong thực tiễn của
giáo viên khi họ hành nghề. Mỗi năm, sinh viên của trường Đại học vào nghề đạt bao
nhiêu danh hiệu chiến sĩ thi đua, giáo viên giỏi các cấp, giải thưởng khác... so với sinh
viên tốt nghiệp ở các trường khác đó là lợi thế cạnh tranh tạo nên thương hiệu của
Trường thật sự.
Muốn nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng yêu cầu xã hội, khẳng định được
thương hiệu của trường Đại học Đồng Tháp, giảng viên cố vấn nghề giữ vai trò vô
cùng quan trọng. Để thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ cố vấn, giảng viên cần có hệ
thống phẩm chất, năng lực. Thành công của giảng viên cố vấn nghề phụ thuộc vào các
phẩm chất và năng lực nghề của họ.Với những thành quả trong học tập, giảng dạy,
nghiên cứu khoa học, giao tiếng ứng xử...là cơ sở quan trọng nhất để giảng viên tư
vấn, cố vấn giúp sinh viên thành công trong nghề. Để tạo động lực cho giảng viên
thực hiện tốt cố vấn nghề, trường Đại học cần tính công lao động phù hợp. Đó là cơ
sở quan trọng để giảng viên hưởng phụ cấp tăng thêm, khen thưởng các cấp.
5. Kết luận
Chất lượng, thương hiệu của trường Đại học phụ thuộc vào chất lượng, thương
hiệu của giảng viên. Vì vậy Nhà trường cần có cơ chế lãnh đạo, quản lý, tạo điều kiện
để mỗi giảng viên không ngừng phấn đấu khẳng định nhân hiệu của trường đại học
phát triển bền vững trong lòng xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS.TS.Trần Thị Minh Đức, Nghiên cứu một số mô hình Cố vấn học tập trên
thế giới và đề xuất mô hình hoạt động của Cố vấn học tập trong đào tạo tín chỉ
ở trường đại học Việt Nam, theo http://www.gdtd
2. Kỉ yếu hội thảo quốc tế (1995), Nghiên cứu con người, giáo dục, phát triển và
thế kỉ XXI, Hà Nội.
3. Lawrence K. Jones (2000), Những kĩ năng nghề nghiệp bước vào thế kỉ XXI,
Nxb TP. HCM.
4. Theo mindtools.com, Cố vấn nghề nghiệp – Kỹ năng thiết yếu của người lãnh
đạo.
5. Viện nghiên cứu phát triển giáo dục (2002), Chiến lược phát triển giáo dục
trong thế kỷ 21, Hà Nội.
100
HƢỚNG DẪN SINH VIÊN XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HỌC TẬP
CÁ NHÂN THÔNG QUA DẠY HỌC TỰ ĐỊNH HƢỚNG
Nguyên Thi Câm Vân1
Tóm tắt
Hoạt động tư vấn học tập trong phương thức đào tạo theo tín chỉ giúp sinh viên
tự lập kế hoạch học tập cá nhân, xây dựng lộ trình học tập hợp lý cho bản thân. Còn
dạy học tự định hướng là hoạt động dạy học dựa trên sự tự chủ của người học trong
việc xác định mục tiêu học tập, thiết lập kế hoạch học tập và thực hiện kế hoạch học
tập. Do đó hoạt động này rất phù hợp để vận dụng trong việc tư vấn giúp sinh viên
xây dựng kế hoạch học tập cá nhân. Trên cơ sở nhiệm vụ của giảng viên cố vấn học
tập, bài báo trình bày các giai đoạn cụ thể của tiến trình hướng dẫn sinh viên xây
dựng kế hoạch học tập cá nhân nhằm nâng cao hiệu quả công tác CVHT, nâng cao
kết quả học tập của sinh viên và góp phần nâng cao hiệu quả đào tạo.
1. Mở đầu
Phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ đã được chính thức áp dụng vào Việt
Nam từ sau khi có Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ban hành Quy chế đào tạo đại
học và cao đẳng hệ chính quy theo chủ trương của Chính phủ về đổi mới cơ bản và
toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020. Theo phương thức đào
tạo này, kế hoạch đao tao hay thơi khoa biêu không quy đinh hay săp xêp đông loat
cho toan thê sinh viên. Môi sinh viên đươc quyền tích lũy dầ n cac môđun kiên thưc
theo năng lưc , theo hoan canh cua bản thân để hoàn tất khóa học, đat đươc văn băng .
Sinh viên đươc lưa chon môn học, giảng viên , giơ hoc, sô lương tín chỉ cân tich luy
trong hoc ky đê hoc theo kê hoach riêng , thơi khoa biêu riêng phu hơp vơi bản thân.
Như vây môi sinh viên phải xây dựng một kế hoạch học tập riêng cho mình. Đây la
điêu không dễ đôi vơi sinh viên, nhât la sinh viên năm thư nhât chưa quen với việc
học tập theo học chế tín chỉ. Chính vì thế , lực lượng giảng viên cố vấn học tập
(CVHT) có nhiệm vụ tư vân, giúp đỡ cho sinh viên trong qua trinh hoc tâp tai trương
đại học. Mà quan trọng nhất là giúp đỡ sinh viên xây dựng và thực hiện kế hoạch học
tập cá nhân (KHHTCN) hợp lý. Tuy nhiên, thực tế đào tạo theo tín chỉ trong thời gian
qua cho thấy nhiều sinh viên mắc sai lầm khi xây dựng KHHTCN dẫn đến kết quả
học tập kém. Bên cạnh nguyên nhân do sinh viên chưa nắm được quy trình học vụ
trong đăng ký môn học, chưa nắm được quy chế đào tạo; còn có nguyên nhân do công
tác CVHT chưa hiệu quả. Giảng viên CVHT chưa tư vấn đúng mức để sinh viên có
1 ThS – Trường Đại học Sài Gòn
101
thể lựa chọn lộ trình học tập hợp lý dẫn đến KHHTCN chưa đúng với sức học và điều
kiện của sinh viên.
Dạy học tự định hướng (DHTĐH) là hoạt động dạy học dựa trên sự chủ động
của người học trong việc xác định mục tiêu học tập, thiết lập kế hoạch học tập và thực
hiện kế hoạch học tập. Do đó hoạt động này rất phù hợp để vận dụng vào quá trình
hướng dẫn sinh viên xây dựng và thực hiện KHHTCN.
2. Nội dung
2. 1. Nhiệm vụ cố vấn học tập và kế hoạch học tập cá nhân của sinh viên
Hiện nay mỗi trường đại học đều có quy định khác nhau về nhiệm vụ của giảng
viên CVHT. Nhìn chung các trường đều quy định giảng viên CVHT có 2 chức năng
cơ bản:
- Tư vân, trơ giup sinh viên trong qua trinh hoc tâp , nghiên cưu khoa hoc , đinh
hương nghê nghiêp;
- Quản lý sinh viên trong quá trình học tập và rèn luyện tại trường;
Cụ thể, vơi chưc năng tư vân, trợ giúp sinh viên học tập thì trường Đại học Sài gòn
quy định nhiêm vu cua giảng viên CVHT bao gôm:
- Tổ chức, triển khai các quy chê, quy đinh vê hoc chê tín chỉ, quyên va nghia vu
của sinh viên.
- Tư vân cho sinh viên phương phap hoc ơ bâc đại học, phương phap nghiên cứu
khoa học, kỹ năng thu thập, xư ly thông tin, tài liệu học tập.
- Hương dân cho sinh viên hiêu biêt vê chương trình đào tạo toàn khóa, chương trình
đào tạo chuyên nganh và cách lựa chọn các học phần đăng ký ở các học kỳ;
- Tư vấn và hỗ trợ sinh viên xây dưng kê hoach hoc tâp ca nhân, ra các quyết định
học tập hợp lý.
Trong đó nhiệm vụ quan trọng nhất của giảng viên CVHT là tư vấn, trợ giúp cho
sinh viên xây dựng kế hoạch học tập (lộ trình học tập) hợp lý trong từng học kỳ, từng
năm học hay cả quá trình đào tạo. KHHTCN là bảng liệt kê các môn học mà sinh viên dự
kiến sẽ học trong từng học kỳ hay trong năm học. Việc lập KHHTCN nhằm mục đích:
- Giúp sinh viên tự theo dõi và quản lý được tiến độ học tập của bản thân.
- Giúp khoa, ngành, giảng viên CVHT theo dõi và giám sát tiến độ học tập của sinh
viên nhằm chuẩn bị bố trí giảng viên và cơ sở vật chất học tập.
- Giúp bộ phận học vụ có cơ sở để lập kế hoạch mở nhóm môn học.
Việc lập KHHTCN của sinh viên phải phù hợp với:
- Nguyên lý dân chủ hóa của phương thức đào tạo theo tín chỉ và quan điểm dạy
học lấy người học làm trung tâm: phù hợp với năng lực, điều kiện, nhu cầu và sở thích
của sinh viên…
102
- Quy chế đào tạo theo tín chỉ, chương trình đào tạo và quy định của nhà trường:
trong đó quy định những môn học có thể học trước (học vượt); những môn học cần học
trước (điều kiện tiên quyết); những môn đại cương hay môn chung có thể học trong các
học kỳ phụ mà không ảnh hưởng đến tiến độ học tập các môn chuyên ngành.v.v…
- Kết quả học tập của cá nhân: lưu ý môn học nào có kết quả yếu nên học lại để cải
thiện điểm, môn học nào chưa đạt bắt buộc phải học lại…
2.2. Hoạt động dạy học tự định hƣớng
Hoạt động DHTĐH, xuất phát từ phương pháp học tập tự định hướng (HTTĐH)
đươc cac nha nghiên cưu giao duc đưa ra va xây dưng cơ sơ ly luân tư khoang 50 năm
trươc. Theo tổng lược lịch sử phát triển HTTĐH ở Mỹ của Guglielmino L.M., Long
H.B., Hiemstra R. (2004), các tác giả như: Cyril Houle nghiên cứu động cơ học tập
của những người trưởng thành (1961), Allen Tough công bố những dự án học tập
dành cho người trương thanh (1971), Malcolm Knowles xuất bản tác phẩm Học tập
tự định hướng (1975); đã góp phần xây dựng nên tang lý luận ban đầu cho HTTĐH.
Cho đến nay HTTĐH đa đươc quan tâm nghiên cưu va ưng dung rông rai trên thê
giơi, đăc biêt la tai My.
Có thể hiểu HTTĐH là quá trình học tập theo phương hướng do người học tự
xác định từ nhu cầu học tập của chính mình. Theo đo , từ nhu cầu, hứng thú và điều
kiện học tập của bản thân; ngươi hoc chu đông xác đ ịnh phương hướng, chiến lược
học tập; xây dựng kê hoach h ọc tập; thưc hiên kế hoạch va đanh gia k ết quả học tập
với sự trợ giúp của giáo viên . Nói cach khac , quá trình HTTĐH là quá trình học tập
chủ động ở mức độ cao cua ngươi hoc ngay tư giai đoan đ ầu khi xac đinh phương
hương, chiên lươc cho viêc hoc tâp.
Thuật ngữ Dạy học tự định hướng được sử dụng để phân biệt với hoạt động dạy
học theo sự định hướng của giáo viên. Bản chất của hoạt động DHTĐH là tổ chức cho
người học thực hiện quá trình HTTĐH. Trong DHTĐH, người học được thiết kế
chương trình học tập nhằm đạt mục tiêu học tập của chính mình và đạt mục tiêu đào
tạo của nhà trường. Theo Gibbons M. (2002), có sự khác nhau về hoạt động của giáo
viên trong dạy học do giáo viên định hướng và dạy học tự định hướng:
Trong dạy học do giáo viên định hƣớng,
giáo viên: Trong dạy học tự định hƣớng, giáo viên:
- Quyết định mục tiêu và nội dung bài
học sẽ giảng dạy.
- Quyết định mục tiêu dạy học
- Yêu cầu người học lập mục tiêu học
tập. Thỏa thuận với người học để lựa
chọn nội dung học tập nhằm đạt mục
tiêu học tập của người học và đạt mục
tiêu dạy học của giáo viên.
- Trình bày nội dung từng bài học. - Dạy người học những kỹ năng và quy
trình lập kế hoạch, thực hiện nhiệm
103
vụ học tập để lĩnh hội kiến thức
- Thiết lập các bài tập và các dự án học
tập
- Thỏa thuận với người học để đề xuất
các bài tập và dự án học tập.
- Giám sát quá trình thực hiện nhiệm
vụ học tập của người học
- Hướng dẫn người học thực hiện các
nhiệm vụ học tập, tự giám sát và tự
quản lý quá trình học tập của chính
mình
- Kiểm tra và đánh giá kết quả thực
hiện của người học
- Nhận xét sự tự đánh giá của ngưởi
học về kết quả thực hiện của họ.
- Đánh giá quá trình và kết quả của
người học
Tiến trình chung của DHTĐH diễn ra qua các giai đoạn sau:
104
2.3. Hƣớng dẫn lập kế hoạch học tập cá nhân thông qua dạy học tự định
hƣớng
Hoạt động tư vấn học tập được thực hiện vào đầu khóa học hoặc đầu học kỳ, đầu
năm hoc. Giảng viên CVHT co thê vân dung DHTĐH trong viêc tư vân sinh viên l ập
kế hoạch học tập và đăng ky môn hoc.
Nôi dung cu thê tiên trinh DHTĐH trong việc hướng dẫn sinh viên lập
KHHTCN được tiến hành như sau:
2.3.1. Chuẩn bị
- Chuẩn bị các văn bản, tài liệu cần thiết: thông báo cho sinh viên những thông
tin cần thiết để sinh viên có thể lập KHHTCN. Tùy theo hoạt động tư vấn đầu khoá học
hay tư vấn đầu học kỳ, các thông tin này bao gồm:
+ Chuân đâu ra của chương trình đào tạo : chuân đâu ra la cam kêt cua nha
trương đôi vơi xa hôi vê chât lương đao tao . Trong chuân đâu ra chưa đưng cac muc
tiêu cua chương trinh đao tao môt cach cu thê va chi tiêt . Do đo SV cân năm rõ chuẩn
đâu ra cua nganh hoc đê co hương phân đâu phu hơp.
+ Chương trình đào tạo của ngành: nội dung các khối kiến thức trong chương
trình đào tạo, các môn học tiên quyết, môn học trước, môn học song hành…
+ Kế hoạch đào tạo (lộ trình mẫu) cho từng học kỳ và cho cả khoá học.
+ Sơ đô cây chương trinh đao tao (sơ đồ học thuật) thể hiện mối liên quan giữa
các môn học trong chương trình đào tạo.
+ Quy chế đào tạo về điều kiện tốt nghiệp, điều kiện học vượt, học chậm tiến độ.
+ Quy định của trường về đăng ký môn học, huỷ môn học, đăng ký bổ
sung.v.v...
+ Quy định của trường về số tín chỉ phải tích luỹ, số điểm trung bình sinh viên
phải đạt trong mỗi học kỳ.
- Hướng dẫn sinh viên tự đánh giá kha năng, điều kiện và nhu cầu học tập. Dựa
vào mục tiêu đào tạo của ngành hay chuyên ngành cùng với tiến độ học tập của bản
thân, sinh viên tự đánh giá kha năng và đi ều kiện cua ban thân co thê đáp ứng mục
tiêu học tập cho từng giai đoạn, từng học kỳ. Đồng thời xác định nhu cầu học tập
trong học kỳ đáp ứng theo quy định về số tín chỉ tích luỹ và số điểm tích luỹ.
2.3.2. Tìm hiểu phương hướng học tập
- Tìm hiểu phương hướng học tập của sinh viên: giảng viên tìm hiểu nhu cầu,
năng lực, điều kiện học tập của sinh viên để có cơ sở trao đổi với sinh viên tìm
phương hướng học tập phù hợp.
- Hướng dẫn xác định mục tiêu học tập: giảng viên hướng dẫn sinh viên xác
định mục tiêu học tập (mục tiêu phấn đấu) của bản thân bao gồm: mục tiêu gần, mục
105
tiêu xa. Việc yêu cầu sinh viên xác định mục tiêu phấn đấu một cách cụ thể cũng
nhằm khơi dậy động cơ học tập, kích thích tính tự giác, chủ động trong học tập của
sinh viên. Cụ thể ở giai đoạn này, sinh viên cần xác định sô tín chỉ cân đat đươc , xác
đinh sô lương cac môn hoc sẽ học trong học kỳ.
2.3.3. Lập phương án dạy học
Giảng viên lập kế hoạch tư vân: giảng viên lập kế hoạch làm việc với sinh viên,
thu thập những thông tin cần thiết như điều kiện học tập, tiến độ học tập của sinh viên
để có kế hoạch tư vấn thích hợp. Giảng viên cũng thông báo cho sinh viên biết lịch
làm việc hoặc lịch tư vấn cụ thể để sinh viên dễ dàng tìm đến khi gặp vấn đề cần
giảng viên hỗ trợ.
2.3.4. Thưc hiên phương án dạy học
- Sinh viên xây dưng kê hoach hoc tâp cho học kỳ hoặc năm học: yêu cầu sinh
viên tự xác định lộ trình học tập riêng cho bản thân trong học kỳ , cho năm hoc . Sinh
viên dưa vao lô trinh mâu ma nha trương đa công bô , dưa vao hoan canh , khả năng
cũng như nhu cầu của mình để lập KHHTCN hơp ly.
- Giảng viên tư vấn và thống nhất với sinh viên lộ trình học tập tối ưu. Viêc xác
đinh các môn học cụ thể sẽ đăng ký học phải phu hợp với năng lưc va đi ều kiện học
tập cua mỗi cá nhân sinh viên: không ít qua dân đên không kip tiên đô , nhưng cung
không qua nhi ều dẫn đến quá tải đối với sinh viên. Cân lưu y viêc l ựa chọn các môn
học phai đáp ứng điều kiện tiên quyết cho những môn học xa hơn , phải phân bố đều
trong cac khôi kiên thưc đa đươc quy đinh trong chương trinh đao tao . Tránh việc quá
chú trọng vào các môn học chuyên ngành mà bỏ quên các khối kiến thức đại cương ,
kiên thưc ngoai ngư, kiên thưc tin hoc.v.v...
- Hỗ trợ sinh viên đăng ký học phần theo kế hoạch học tập (lộ trình học tập) đã
thống nhất với giảng viên CVHT. Khi việc đăng ký học phần gặp trở ngại: lớp học
phần đã đủ sỉ số, lớp học phần có sỉ số quá it không thể mở, lớp học phần bị trùng giờ
với các học phần khác.v.v... giảng viên giúp sinh viên điều chỉnh KHHTCN và đăng
ký bổ sung. Đây là bước quan trọng sinh viên rât cân sư tư vân cua giảng viên CVHT
để điêu chinh KHHTCN môt cach hiêu qua nhât . Viêc điêu chinh KHHTCN của một
học kỳ sẽ dẫn đến thay đổi cả KHHTCN của năm học và KHHTCN toàn khóa của
từng sinh viên. Do đo, KHHTCN cần được điều chỉnh thât hơp ly.
- Giám sát quá trình sinh viên thưc hiên theo kê hoach học tập cá nhân: theo
dõi và tư vấn, hỗ trợ giải quyết những khó khăn hoặc trở ngại trong quá trình sinh
viên thực hiện kế hoạch học tập theo thời khóa biểu của cá nhân. Ơ giai đoạn này,
giảng viên cũng hướng dẫn sinh viên tự giám sát và quản lý quá trình học tập của bản
thân.
106
Sau khi sinh viên đăng ký học phần thành công thì giảng viên xác nhận kết quả
và cập nhật kết quả này để theo dõi quá trình thực hiện KHHTCN của sinh viên.
Trong quá trình học tập giảng viên CVHT thương xuyên theo doi đê co thê đanh gia
chính xác việc thực hiện KHHTCN của sinh viên.
2.3.5. Đánh giá
- Đanh gia và hướng dẫn sinh viên tự đánh giá quá trình xây dựng KHHTCN.
- Đánh giá và hướng dẫn tự đánh giá kêt qua xây dựng KHHTCN và so sánh với
mục tiêu đăt ra ban đâu.
3. Kết luận
Hoạt động CVHT là hoạt động đặc thu trong phương thức đào tạo theo học chế
tín chỉ. Để có thể tư vấn cho sinh viên xây dựng kế hoạch học tập phù hợp với bản
thân sinh viên và phù hợp với mục tiêu của chương trình đào tạo, giảng viên CVHT
phải là người hiểu rõ chương trình đào tạo, có kinh nghiệm giảng dạy trong học chế
tín chỉ, nắm vững các quy chế, quy định của nhà trường về các vấn đề trong học tập.
Giảng viên CVHT cần hoạt động tích cực, năng động, gần gũi với sinh viên để nắm
bắt được nhu cầu, điều kiện, năng lực thực tế của từng sinh viên. Từ đó mới có thể tư
vấn cho sinh viên có những quyết định học tập hợp lý, lập KHHTCN phù hợp. Vì vậy,
để có thể thực hiện nhiệm vụ CVHT một cách hiệu quả thì mỗi giảng viên không thể
quản lý quá nhiều sinh viên.
Bản chất của DHTĐH là dạy học hướng vào người học, tôn trọng nhu cầu, sự
khác biệt trong tư duy và điều kiện của người học chứ không phải áp đặt một khuôn
mẫu nhất định cho số đông. Đặc điểm này rất phù hợp với nguyên lý của phương thức
đào tạo theo tín chỉ. Do đó có thể vận dụng DHTĐH vào những hoạt động của giảng
viên mà cụ thể là hoạt động hướng dẫn sinh viên lập KHHTCN. Điều này sẽ giúp
nâng cao kết quả học tập của sinh viên, nâng cao hiệu quả của công tác CVHT, đồng
thời góp phần nâng cao hiệu quả đào tạo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bô Giao duc va đao tao , (2007), Quy chê đao tao đai hoc , cao đăng hê chinh
quy theo hê thông tin chi , ban hanh kem theo Quyêt đinh sô 43/2007/QĐ-
BGDĐT ngay 15/8/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2. Đại học Sài gòn, (2009), Quy chế Cố vấn học tập. (Ban hành kèm theo Quyết
định số 1799/QĐ-ĐHSG-ĐT ngày 01/09/2009 của Hiệu trưởng trường Đại học
Sài Gòn).
3. Gibbons, M. (2002). The self-directed learning handbook: Challenging
adolescent student to excel. San Francisco, Jossey-Bass Publishers. (p.2)
4. Guglielmino, L.M., Long, H.B. & Hiemstra, R. (2004). Historical Perspectives
Series: Self-Direction in Learning in the United States. International Journal of
Self-directed Learning, volume 1, number 1 (p.1).
107
PHẦN II
NHỮNG GIẢI PHÁP
NÂNG CAO VAI TRÒ
ĐỘI NGŨ CỐ VẤN HỌC TẬP
TỪ THỰC TIỄN CÁC TRƢỜNG
CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC VIỆT NAM
108
ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ Ở KHỐI NGÀNH MỸ THUẬT
- NHỮNG NGHỊCH LÝ VÀ TIẾN TRÌNH
Trần Thị Hoài Diễm1
1. Đặt vấn đề
Trong thời gian qua, việc triển khai đào tạo theo Học chế tín chỉ (HCTC) được
thực hiện sôi động ở các trường đại học, nhưng với khối các trường Đại học mỹ thuật
thì mọi việc dường như mới bắt đầu với những băn khoăn, nghịch lý nảy sinh trong
tiến trình chuyển đổi đầy chông gai từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo tín chỉ.
Sự chậm triển khai đào tạo theo HCTC ở các trường mỹ thuật có nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan, nhưng cơ bản vẫn là những băn khoăn xuất phát từ đặc thù
đào tạo mỹ thuật với tính chuyên môn chuyên biệt, như vậy vấn đề đặt ra việc triển
khai nhiệm vụ này trong lộ trình đào tạo theo HCTC phải thế nào ? Bài viết này,
chúng tôi xin phân tích những bất cập hiện nay đang diễn ra trong đào tạo theo học
chế tín chỉ ở khối ngành mĩ thuật, từ đó, đề xuất một số giải pháp khắc phục nhằm
nâng cao hiệu quả mô hình đào tạo này.
2. Đào tạo theo học chế tín chỉ ở khối ngành mĩ thuật – những nghịch lý và tiến
trình
Nhìn chung ở khối các trường Đại học nghệ thuật nói chung và mỹ thuật nói
riêng, việc thực hiện đào tạo theo HCTC các môn lý thuyết ngành không khó thực
hiện, vì chuyển đổi theo phương pháp chung như các môn đại cương khác mà hiện
nay các trường đang phối hợp giảng dạy,đó là các môn Lịch sử Mỹ thuật thế giới,
Lịch sử Mỹ thuật Việt Nam, Mỹ thuật học, Mỹ học tạo hình, Nghiên cứu mỹ thuật cổ
Việt Nam... Nhưng với các môn chuyên ngành sâu như Hình họa, Trang trí, ký họa
thực tế, chuyên khoa chất liệu Sơn mài, Sơn dầu, Lụa, Đồ họa, Tượng tròn, Phu điêu,
Thiết kế Đồ hoạ, Thiết kế Thời trang, Thiết kế Nội thất... thì không phải dễ dàng
chuyển đổi như các môn xã hội hay tự nhiên khác. Việc chỉ áp dụng chuyển đổi phiên
ngang có ve cơ học cứ 15 tiết hoặc 30 tiết là 01 tín chỉ thì rất thiếu tính khoa học đối
với đào tạo Mỹ thuật.
Để thực hiện đào tạo tín chỉ trong khối trường nghệ thuật, dù muốn hay không
thì những bước đi trên tiến trình đào tạo theo HCTC của các trường nghệ thuật khác
nhau cũng là cơ sở, là yếu tố tham khảo của các trường, đặc biệt là khi có những triển
khai sâu rộng hơn về đào tạo theo HCTC và đến lúc cần bàn về những vấn đề cụ thể
1 NCS – Trường Đại học Nghệ thuật – Đại học Huế
109
sống còn của đào tạo mỹ thuật bằng những quy chế đào tạo mới, vì nó buộc phải từ bỏ
truyền thống đào tạo theo niên chế quá quen thuộc lâu nay.
Từ cái nhìn chung nhất về tiến trình đào tạo theo HCTC, chúng tôi thấy những
vấn đề nổi cộm:
1. Trong đào tạo theo HCTC, người học có quyền lựa chọn nhiều nội dung và
đối tượng học khác nhau. Tuy nhiên đối với nghệ thuật, nếu quá thả lỏng quyền này
thì rất dễ dẫn đến tình trạng người học sẽ tập trung vào một số học phần, lựa chọn
được học với một số giảng viên giỏi, có uy tín chuyên môn, làm mất cân đối sự hài
hòa chung trong điều phối quản lý đào tạo. Quy chế đào tạo theo HCTC cho phép,
nhưng với ngành Mỹ thuật là khó bởi vì giảng viên nghệ thuật giỏi là rất ít và hiếm
chứ không nhiều như các ngành khác. Đã xảy ra hiện tượng sinh viên khi được tự do
đăng ký giảng viên hướng dẫn tốt nghiệp chuyên môn và luận văn - tiểu luận đã tập
trung vào một số ít giảng viên – nghệ sĩ có uy tín. Du vậy, đây là một điều rất lý thú,
phản ánh người học nghĩ gì? cần gì? Họ chỉ tin tưởng vào những giảng viên nói đi đôi
với làm. Những người giảng viên dạy tốt và vẽ tốt, có cá tính sáng tạo và tâm huyết
với nghề. Thực tế cho thấy sinh viên Mỹ thuật không dễ bị áp đặt kiến thức trong học
chuyên ngành. Một giảng viên vẽ yếu hoặc không sáng tác thì không làm sao thuyết
phục sinh viên là phải vẽ như thế nào cho tốt. Đã có hiện tượng sinh viên bỏ hoặc học
cầm chừng với giảng viên được phần công đứng lớp để qua lớp khác học thầy có tài
và uy tín hơn. Điều này dẫn đến việc giảng viên Mỹ thuật cũng phải tự nhìn lại chính
mình, tiến trình đào tạo theo HCTC sẽ làm bật tung những thói quen xấu được bỏ qua
lâu nay như dạy không đúng giờ, đi muộn về sớm, lười NCKH, giảng dạy không có
giáo án, tuỳ hứng truyền khẩu...và buộc giáo viên cần phải nghiên cứu, sáng tác, bộc
lộ năng lực thẩm mỹ, khả năng sáng tạo của mình, có như vậy mới tự tin để dạy và lôi
cuốn được sinh viên học.
2. Việc đánh giá kết quả môn học, đánh giá thường xuyên theo quy chế đào tạo
tín chỉ (QC 43) là phù hợp với số đông của giáo dục đại học, tuy nhiên với đào tạo Mỹ
thuật việc đánh giá quá trình cũng khó thực hiện một cách mỹ mãn do tính chất rất
riêng của việc học đặc thu quy định. Tư chất bài học chuyên ngành Mỹ thuật là rất
khác với các ngành khác, vì vậy thuộc tính đánh giá cũng cần phải được xây dựng và
quy định cụ thể. Ví dụ bài Hình họa bán thân nam bằng chất liệu chì của năm 1, Sư
phạm Mỹ thuật kéo dài 20- 30 tiết, nếu bài này là một điểm đánh giá thì thời gian của
nó là quá dài cho sự đánh giá chính xác.
3. Từ trước đến nay, việc chấm thi tốt nghiệp của các trường đại học mỹ thuật là
chấm theo Hội đồng trường hoặc Hội đồng ủy nhiệm tại các khoa, Hội đồng có lúc
110
đến 15 người (trong khi các ngành khác Hội đồng chỉ từ 3-7 người). Nay theo QC 43,
việc chấm thi cần 02-03 GV đảm nhiệm là đủ và không bảo vệ trước Hội đồng. Điều
này tuy đổi mới và táo bạo nhưng với đào tạo Mỹ thuật thì cũng có thể thực hiện
được. Tuy nhiên trách nhiệm và sự công bằng, nhân tâm của giảng viên chấm thi là rất
quan trọng, cần phải lựa chọn giáo viên chấm thi thật tốt. QC 43 quy định rõ chấm
theo thang điểm chữ A-B-C-F, điều này rất phù hợp với tác nghiệp truyền thống trong
chấm thi tốt nghiệp của nghệ thuật, khác chăng là phiên ra bậc + và - trong mỗi thang
điểm phân loại bài học và không có phân loại điểm chữ bậc F. Ví dụ có bài đạt A, A+,
A-, B, B+, B-, C và D.
4. Trong xu hướng liên thông, module hóa các khối lượng học, tạo được nhiều
cơ hội cho sinh viên lựa chọn thời gian, môn học... thì với đào tạo mỹ thuật sự liên
thông này chỉ mang tính tương đối và giới hạn trong các Khoa có giảng dạy những
môn học giống nhau như hình họa, trang trí, ký họa và một số chất liệu chuyên khoa
sơn dầu, sơn mài… Điều này thật khác với các trường khác khi sinh viên trường này
có thể đến trường khác để học những học phần mà họ lựa chọn. Sinh viên có quyền
đăng ký, lựa chọn các học phần phù hợp với yêu cầu của chương trình đào tạo và
thuận tiện cho việc học tập của họ. Nhưng đối với ngành đào tạo mỹ thuật thì điều này
dường như không thể, do tính đặc thù của các môn học chuyên ngành. Chẳng hạn, học
phần vẽ mẫu đôi và chất liệu sơn dầu của năm 3 (khoa Hội họa), học phần này cần hai
người mẫu khỏa thân ngồi trên bục kéo dài gần một tháng với chi phí cho người mẫu
khá cao, không gian quy định lớp vẽ dưới 25 sinh viên.
Điều kiện tối thiểu một giảng viên hướng dẫn cùng một trợ giảng do vậy không
thể tổ chức những lớp học đông đến 40 - 50 sinh viên (theo quy định đào tạo tín chỉ).
Đối với các ngành khác cũng không thể phụ thuộc hoàn toàn vào việc đăng ký
của người học, nếu lớp chỉ 3 - 4 người thì chi phí đào tạo tính cho mỗi sinh viên quá
lớn. Mặt khác, sinh viên có quyền chọn những bài học phù hợp với thời gian hoạt
động học tập của riêng họ, độ khó của từng bài học và tín nhiệm của họ đối với giảng
viên mà họ lựa chọn. Nếu tập hợp được tất cả các điều kiện của lớp này với 20 – 25
sinh viên trong không gian xưởng thực hành khoảng 80m2 trong việc định vị ánh sáng
một chiều thích hợp với hình họa và phải đúng với chất lượng đào tạo mà họ đã đăng
ký là điều quá khó đối với các trường đào tạo mỹ thuật hiện nay.
Đó là chưa nói đến hàng loạt các mối liên hệ khác nhau trong tương tác với học
phần này phải thống nhất như điều kiện thời tiết. Sức khỏe và sự ổn định tâm lý của
người mẫu, thái độ học tập của sinh viên, sự khơi dậy cảm hứng sáng tạo cho sinh
viên…Ví dụ như ở trường ĐHNT Huế chúng tôi vào mua đông rất lạnh, mẫu khỏa
111
thân cần các điều kiện như: có lò sưởi để đảm bảo sức khỏe, độ tuổi và giới tính người
mẫu phù hợp với yêu cầu của bài học, và không ít người mẫu đã phải bỏ nghề vì
những điều kiện khác tác động. Các điều kiện về học phần sinh viên chuẩn bị, các tài
liệu trực quan để sinh viên tham khảo trước, trong và sau khi thực hành, các tài liệu
nước ngoài, các bài mẫu tốt của các năm trước lưu lại và bên cạnh đó một loạt vấn đề
tâm lý trong nghiên cứu sáng tác khác, … đều là những vấn đề cần quan tâm. Việc
theo học học chế tín chỉ ngành mỹ thuật cũng cần phải nói thêm rằng đối với các
ngành khoa học xã hội nhân văn có thể học trước hoặc sau khoảng thời gian cho phép,
chẳng hạn như ở khoa Văn ở Đại học Sư phạm, trong học phần Lịch Văn học Việt
Nam thế kỷ XX, trong phần Thơ mới có thể học về Xuân Diệu trước Vũ Hoàng
Chương, Huy Cận trước Thế Lữ …vẫn không ảnh hưởng nhiều đến sự đánh giá
chung. Nhưng ở Đại học Mỹ thuật, trong chương trình Hình họa, ví dụ bài mẫu đôi thì
điều kiện tiên quyết là phải được học mẫu đơn toàn thân trước, rồi đến chất liệu than,
sau đó mới đến sơn dầu trước khi vào học học phần mẫu đôi với thời lượng khoảng từ
120 – 150 tiết.
Trong rất nhiều học phần khác như ký họa ngoài trời, như học phần thực tế lại
phải có những quy định rất riêng để đảm bảo quá trình đào tạo và gần như hướng dẫn
một thầy một trò, nên việc thực hiện đào tạo tín chỉ cho những học phần tương tự như
vậy gặp rất nhiều khó khăn. Điều này liên quan đến nhiều năm học và học phần khác
trên cùng một bình diện học tập và giáo viên hướng dẫn. Do vậy cần quan tâm đến
việc xây dựng các tín chỉ cho các môn chuyên ngành chung của các Khoa sao cho
người học có thể tìm thấy được những lợi ích thật sự khi chọn đúng học phần phù hợp
nhất với điều kiện học của mình.
5. Đào tạo tín chỉ nói chung là tạo cho người học tính chủ động tự học cao, điều
này cũng rất phù hợp với đào tạo theo HCTC của ngành Mỹ thuật. Các môn chuyên
ngành mỹ thuật có phần thực hành rất lớn, trong đó có nhiều môn học, bài học chỉ có
thể thực hiện phần thực hành tại lớp học như môn hình họa, bài hình họa chì, than, bột
màu, sơn dầu... nhưng cũng có nhiều bài học nếu xây dựng một cách khoa học giữa
học ở trường và tự học thì sẽ là những học phần có tính linh hoạt cao như trang trí
(trang trí khăn quàng, thiết kế tem thư), phân tích tranh (Sư phạm Mỹ thuật). Những
học phần này sinh viên học phương pháp, cách thức phân tích ở lớp, còn đánh giá, tìm
hiểu thêm về tác phẩm ở các góc độ tác giả, lịch sử tác phẩm, phong cách thời đại…
thì có thể tự học và truy cập tài liệu từ Internet.
112
3. Một số đề xuất, kiến nghị
Trong lộ trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc thực hiện đào tạo theo tín chỉ,
đối với các trường nghệ thuật nói chung và mỹ thuật nói tiêng có rất nhiều vấn đề cần
khắc phục, điều chỉnh và tạo sự thống nhất chúng mới có thể tham gia vào lộ trình đào
tạo theo HCTC, vì một trong những điều cơ bản của đào tạo theo HCTC là phải tạo
điều kiện học tập tốt nhất cho người học. Từ những điều như đã trình bày ở trên,
chúng tôi có một số kiến nghị như sau:
- Cần có một sự thống nhất trong quan điểm tổ chức đào tạo theo HCTC khối ngành
các trường mỹ thuật nói chung và từng trường mỹ thuật nói riêng để việc xác định tiến độ, kỹ
năng tổ chức triển khai chặt chẽ khoa học, phân chia nhiều giai đoạn một cách hợp lý cho
việc thực hiện đào tạo theo HCTC.
- Cần tổ chức các buổi tọa đàm, hội thảo để lấy ý kiến của các chuyên gia đầu
ngành và từ đó lấy ý kiến về việc thực hiện quy trình và tiến độ đào tạo mỹ thuật, qua
đó thấy được những khó khăn thuận lợi và tính khả thi nhất định trong quá trình thực
hiện đào tạo tín chỉ mỹ thuật. Nếu không lường trước được những khó khăn và những
khả năng có thể thực hiện đào tạo được thì không nên vội vàng thực hiện ồ ạt việc đào
tạo theo tín chỉ cho các học phần chuyên ngành mỹ thuật, bởi vì nếu không cẩn thận
trong tác nghiệp này thì việc thực hiện tín chỉ cho khối ngành mỹ thuật sẽ rất dễ có
nhiều lỗi và có thể bị “sa lầy” mà khó lòng cứu vãn nổi. Không nên thực hiện lộ trình
học tín chỉ cho khối các ngành mỹ thuật một cách đồng loạt và gượng ép mà phải có
một thời kỳ quá độ điều chỉnh dần, thay đổi chuyển đổi trong từng giai đoạn để tiến
tới mở rộng hơn các học phần tín chỉ cho chuyên ngành mỹ thuật đến khi hoàn thiện
quy định này.
- Cần phải xây dựng một đội ngũ cố vấn nghệ thuật có tâm huyết, là những nhà giáo
có uy tín, tận tâm, tâm huyết với sự nghiệp đào tạo nghệ thuật. Đối với sinh viên các ngành
mỹ thuật nói chung thì tài năng đức độ và uy tín của người thầy là vô cùng quan trọng, để
sinh viên học tập và noi theo, và từ đó thẩm thấu tốt những bài học, bài giảng nghệ thuật
mà người thầy mang lại cho họ.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ VHTTDL cũng cần xem xét điều chỉnh lại một
số phần của nội dung, chương trình đào tạo khối ngành mỹ thuật để phù hợp hơn với
việc đào tạo theo HCTC. Nếu làm được điều này chúng ta sẽ giải quyết được một việc
quan trọng là giúp người học nhìn thấy được khối lượng, dung lượng tri thức mỹ thuật
mà việc học tập theo tín chỉ là cần phải có, qua đó giúp cho họ đạt được những kiến
thức chuyên môn để nhận bằng tốt nghiệp đại học.
113
- Tăng cường cơ sở vật chất phòng học, không gian phù hợp, cải tạo môi trường
hoạt động trong các phòng học theo nguyên tắc xanh – sạch – đẹp, tiện nghi để tạo
cảm hứng cho dạy và học, và đảm bảo những yêu cầu cơ bản nhất trong thực hiện đào
tạo theo HCTC mỹ thuật.
4. Thay lời kết
Chúng tôi thiết nghĩ không chỉ có khối các trường Đại học Nghệ thuật đòi hỏi
phải vận dụng mềm deo hơn Quy chế đào tạo theo HCTC mà cả các Đại học cũng cần
luôn sáng tạo trong tiến trình thực hiện đào tạo theo HCTC, cần vận dụng linh hoạt
trong từng ngành đào tạo cụ thể, không nên áp dụng cứng nhắc, rập khuôn và bám sát
đến máy móc các Quy chế của Bộ. Mặt khác, Bộ cũng nắm bắt thực tiễn để sớm nhìn
ra những bất cập, nhìn thấy những yêu cầu không thể khác của các trường để kịp thời
điều chỉnh chính sách và hoàn thiện Quy chế.
114
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO KẾT QUẢ HỌC
TẬP CHO SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT CỦA ĐỘI NGŨ CỐ VẤN HỌC TẬP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ
Thiều Thị Hƣờng1
Tóm tắt
Đội ngũ cố vấn học tập (CVHT) có vai trò rất quan trọng trong việc tư vấn cho
sinh viên (SV) các vấn đề có liên quan đến việc học ở trường đại học như: Đăng kí
môn học trực tuyến, lựa chọn chương trình học tập, học vượt chương trình, hướng
dẫn nghiên cứu khoa học (NCKH), tư vấn về phương pháp học tập (PPHT)… Đặc
biệt là SV năm thứ nhất, các em còn rất bỡ ngỡ với những cách học mới, môi trường
học tập (MTHT) mới lạ. Bài viết nhằm khảo sát, đánh giá thực trạng sử dụng các biện
pháp để nâng cao kết quả học tập (KQHT) cho SV năm thứ nhất của đội ngũ CVHT
trường Đại học sư phạm- Đại học Huế ( ĐHSP- ĐH Huế), làm căn cứ cho việc đề
xuất các biện pháp hữu hiệu nhằm góp phần nâng cao kết quả học tập cho SV.
1. Đặt vấn đề
Từ năm học 2008 – 2009 các trường Đại học thuộc Đại học Huế bắt đầu triển
khai phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ. Để đáp ứng yêu cầu của phương thức
đào tạo mới, các Trường Đại học đã cử đội ngũ CVHT thay cho đội ngũ giáo viên
hướng dẫn. Đội ngũ CVHT cung một lúc phải thực hiện nhiều vai trò, chức năng. Họ
vừa là người quản lí, giáo dục sinh viên, tư vấn cho sinh viên về chương trình đào tạo,
cách thức xây dựng kế hoạch học tập, hướng dẫn sinh viên đăng kí các học phần ở
từng học kì để hoàn thành khóa học, tư vấn cho sinh viên phương pháp học tập và
nghiên cứu khoa học… Vì vậy, CVHT có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng đào tạo của nhà trường nói chung, kết quả học tập của SV nói riêng, đặc
biệt là SV năm thứ nhất.
Thực tế cho thấy, SV năm thứ nhất trường ĐHSP Huế đang thực hiện bước
chuyển tiếp từ môi trường học tập ở phổ thông sang môi trường học tập ở bậc đại
học với nhiều khác biệt về nội dung, khối lượng tri thức, phương pháp dạy học, hình
thức học tập… Chính vì sự bỡ ngỡ đó nên trong quá trình học tập, các em gặp rất
nhiều khó khăn, dẫn đến kết quả học tập trong năm đầu thường rất thấp. Do đó, để
nâng cao kết quả học tập cho SV năm thứ nhất, cần có sự quan tâm, giúp đỡ từ khoa,
nhà trường, đặc biệt là các CVHT. CVHT là người đại diện cho khoa, nhà trường
trong việc đề xuất và thực hiện các biện pháp nhằm hình thành cho SV thái độ, động
1 ThS. GVC – Khoa Tâm lý – Giáo dục, trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
115
cơ đúng đắn, các kĩ năng học tập, kích thích SV tự tìm được PPHT phù hợp với bản
thân để đạt kết quả học tập tốt nhất.
2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi đã sử dụng phối hợp các phương pháp NCKH.
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết xây dựng cơ sở lý luận, các phương pháp:
Điều tra bằng Bảng hỏi; Phỏng vấn; Nghiên cứu sản phẩm hoạt động học tập; Toán
thống kê… được sử dụng để tìm hiểu thực trạng và xử lý kết quả điều tra.
Để tìm hiểu thực trạng của vấn đề, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu trên 21
CVHT và 200 SV năm thứ nhất của trường ĐHSP- ĐH Huế.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Nhận thức của SV và CVHT về vai trò của đội ngũ CVHT trong việc
nâng cao KQHT cho SV năm thứ nhất
Bảng 1. Nhận thức của GV và SV về vai trò của CVHT trong việc nâng cao
kết quả học tập cho SV
Mức độ quan trọng Số lƣợng
SV
Tỉ lệ ( % )
SV
Số lƣợng
CVHT
Tỉ lệ ( % )
CVHT
Rất quan trọng 97 48.5 5 23.8
Quan trọng 103 51.5 16 76.2
Không quan trọng 0 0 0 0
Số liệu ở bảng 1 cho thấy, có tới 51.5% SV cho rằng, CVHT có vai trò quan
trọng và 48.5% SV đã khẳng định, các CVHT có vai trò rất quan trọng. Như vậy,
100% SV đều đã nhận thức được tầm quan trọng của các CVHT trong đào tạo theo
học chế tín chỉ.
Đối với SV năm thứ nhất, khi bước vào môi trường học tập ở trường đại học, các
tân SV thường gặp khó khăn về nhiều mặt, đặc biệt là trong học tập. Các em chưa
thích nghi với phương thức học tập theo học chế tín chỉ nên kết quả học tập trong năm
đầu thường không cao. Vì vậy, CVHT có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao
kết quả học tập cho các em. Các biện pháp, các hoạt động CVHT tổ chức cho sinh
viên sẽ giúp các em vượt qua trở ngại. Đó là lý do 76.2% CVHT cho rằng, họ có vai
trò “Quan trọng” và 23.8% CVHT khẳng định, họ có vai trò “ Rất quan trọng” trong
việc nâng cao kết quả học tập cho SV năm thứ nhất.
116
Như vậy, từ kết quả điều tra cho thấy, SV và GV đều khẳng định, CVHT có vai
trò rất quan trọng trong việc nâng cao kết quả học tập cho SV. Tuy nhiên, SV đánh
giá về vai trò của CVHT ở mức độ “Rất quan trọng” chiếm tỉ lệ cao hơn so với
CVHT.
3.2. Thực trạng sử dụng các biện pháp để nâng cao kết quả học tập cho SV
năm thứ nhất của đội ngũ CVHT trƣờng Đại học Sƣ phạm Huế
Qua kết quả điều tra thực tế, các biện pháp và mức độ sử dụng được CVHT
thực hiện theo đánh giá của SV như sau:
Bảng 2. Đánh gía của SV về các biện pháp CVHT đã sử dụng để nâng cao kết
quả học tập cho SV
TT Các biện pháp tác động
Mức độ
ĐTB
Rất
thƣờng
xuyên
Thƣờng
xuyên
Thỉnh
thoảng
Chƣa
bao giờ
1 Đề ra yêu cầu cụ thể, phù hợp
đối với mỗi SV và tập thể lớp 10.5% 49.0% 34.0% 6.5% 2.37
2 Xây dựng truyền thống học tập
cho tập thể SV 5.5% 40.0% 42.5% 12.0% 2.61
3 Quan tâm, giúp đỡ SV yếu, kém 10.0% 31.5% 40.5% 18.0% 2.67
4 Phát động phong trào học tập sôi
nổi trong tập thể SV 5.5% 45.0% 36.5% 13.0% 2.57
5 Phối hợp với các tổ chức, đoàn
thể trong nhà trường giúp đỡ SV 8.5% 35.5% 43.0% 13.0% 2.61
6 Chia nhóm, phân tổ học tập, đôi
bạn cùng tiến 11.5% 39.0% 33.0% 16.5% 2.55
7 CVHT thường xuyên gặp gỡ, trao
đổi với các giảng viên bộ môn 5.0% 31.5% 49.0% 14.5% 2.73
8 Giáo dục cho SV thái độ, động
cơ học tập đúng đắn 15.5% 44.5% 32.5% 7.5% 2.32
9
Giúp SV lựa chọn phương pháp
và cách thức học tập phù hợp 10.0% 45.5% 37.5% 7.0% 2.42
10 Nêu gương và khen thưởng đối
với những SV hoàn thành tốt 7.0% 41.0% 39.0% 13.0% 2.58
117
nhiệm vụ học tập
11
Tổ chức các buổi giao lưu, gặp
mặt trao đổi kinh nghiệm học
tập giữa các lớp trong khoa
6.0% 32.5% 42.0% 19.5% 2.75
12 Định hướng, giúp đỡ SV trong
việc tìm kiếm tài liệu học tập… 10.0% 40.0% 41.5% 8.5% 2.49
Trung bình chung 2.56
Từ kết quả thu được cho thấy, ĐTBC = 2.56 là kết quả khá cao, có ý nghĩa tích
cực. Nhìn chung, đa số SV đều thừa nhận, các CVHT đã sử dụng đa dạng các biện
pháp để tác động nhằm giúp SV nâng cao kết quả học tập.
Trong các biện pháp trên, biện pháp “Tổ chức các buổi giao lưu, gặp mặt để
trao đổi kinh nghiệm học tập giữa các lớp trong khoa” được sử dụng nhiều nhất,
ĐTB = 2.75, với mức độ “Thường xuyên” chiếm 32.5% và “Thỉnh thoảng” chiếm
41%.Tuy nhiên, mức độ “Chưa bao giờ sử dụng” còn chiếm tỉ lệ khá cao, tới 19.5%.
Sở dĩ đây là biện pháp được CVHT sử dụng nhiều nhất là do biện pháp này mang lại
hiệu quả cao, thiết thực, áp dụng được với nhiều SV.
Tiếp đến là các biện pháp “CVHT thường xuyên gặp gỡ, trao đổi với các giảng
viên bộ môn” với ĐTB = 2.73 nhưng vẫn còn 49% CVHT “Thỉnh thoảng” mới sử
dụng. Thậm chí có 14.5 % SV trong diện điều tra khẳng định, các CVHT “Chưa bao
giờ” sử dụng biện pháp này.
Đứng ở vị trí thứ 3 là biện pháp “Quan tâm, giúp đỡ SV yếu, kém” ĐTB = 2.67
với mức độ sử dụng “Thường xuyên” 31.5% và “ Thỉnh thoảng” 40.5%. Điều đáng
ngạc nhiên là hai biện pháp này được CVHT sử dụng nhiều nhưng mức độ sử dụng lại
rất hạn chế. Thực tế cho thấy, hai biện pháp trên chỉ đem lại hiệu quả cao nếu chúng
được áp dụng một cách thường xuyên và có hệ thống.
Nhìn chung, các biện pháp mà CVHT đã sử dụng theo đánh giá của SV là khá
đa dạng nhưng tần suất sử dụng còn thấp.
Những biện pháp CVHT ít sử dụng nhất là “Giáo dục cho SV thái độ và động cơ
học tập đúng đắn” với ĐTB = 2.32 ; tiếp đến là “Giúp SV lựa chọn phương pháp và
cách thức học tập phù hợp”, ĐTB = 2.42. Đáng tiếc đây là những biện pháp rất quan
trọng, có vai trò quyết định đối với việc nâng cao kết quả học tập cho SV nhưng lại ít
được các CVHT chú trọng. Bởi hoạt động học tập ở trường đại học đòi hỏi ở SV tính
tích cực, chủ động rất cao. Với phương thức học tập theo học chế tín chỉ, thời gian
học tập trên lớp bị rút ngắn nếu không có thái độ, động cơ học tập đúng đắn, không
118
chịu khó tìm tòi, tự học, không có phương pháp học tập phù hợp, SV rất khó đạt được
kết quả như mong muốn.
Biện pháp “Đề ra yêu cầu hợp lý đối với tập thể lớp và mỗi SV” cũng ít được các
CVHT sử dụng, ĐTB = 2.37. Thông thường biện pháp này phải được hầu hết CVHT sử
dụng nhưng kết quả điều tra lại cho thấy điều hoàn toàn ngược lại. Qua phỏng vấn các
CVHT chúng tôi được biết, biện pháp này họ thường áp dụng đầu năm học, khi tập thể
SV đã ổn định tổ chức nhưng có nhiều SV nhập học sau (Nguyện vọng 2) hoặc không
chú ý hoặc không phải là cán bộ lớp nên các em không nắm được.
Trực tiếp phỏng vấn và điều tra bằng Ạket các CVHT cho SV năm thứ nhất,
chúng tôi được biết, những biện pháp CVHT đã sử dụng để giúp SV nâng cao kết quả
học tập được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 3. Các biện pháp CVHT đã sử dụng để nâng cao kết quả học tập cho SV
năm thứ nhất
TT Các biện pháp CVHT đã sử
dụng
Mức độ sử dụng
ĐTB
Rất
thƣờng
xuyên
Thƣờng
xuyên
Thỉnh
thoảng
Chƣa
bao giờ
1
Thông qua ban cán sự và tập thể
lớp để đề ra yêu cầu hợp lý đối
với lớp và từng SV
71.4% 19.0% 4.8% 4.8% 2.57
2 Xây dựng truyền thống học tập
cho tập thể SV 4.8% 71.4% 23.8% 0% 1.81
3 Quan tâm, giúp đỡ SV yếu,
kém 9.5% 28.6% 61.9% 0% 1.48
4 Phát động phong trào học tập sôi
nổi trong tập thể SV 4.8% 47.6% 47.6% 0% 1.57
5
Phối hợp với các tổ chức, đoàn
thể trong nhà trường giúp đỡ
SV
14.3% 23.8% 61.9% 0% 1.52
6 Chia nhóm, phân tổ học tập;
Đôi bạn cùng tiến 9.5% 38.1% 524% 0% 157
7
Thường xuyên gặp gỡ, trao đổi
với giảng viên bộ môn về tình
hình học tập của SV
9.5% 38.1% 47.6% 4.8% 152
119
8 Giáo dục SV có thái độ, động cơ
học tập đúng đắn 4.7% 47.7% 47.6% 0% 1.57
9
Giúp SV tìm ra phương pháp và
cách thức học tập phù hợp 4.9% 38% 57.1% 0% 1.48
10
Nêu gương và khen thưởng đối
với những SV hoàn thành tốt
nhiệm vụ học tập
48.0% 47.6% 47.6% 0% 1.57
11
Tổ chức các buổi giao lưu, gặp
mặt để trao đổi kinh nghiệm
học tập giữa các lớp trong khoa
14.3% 47.5% 33.4% 4.8% 1.71
12 Định hướng, giúp đỡ SV trong
việc tìm kiếm tài liệu học tập… 14.3% 38.1% 47.6% 0% 1.67
Trung bình chung 1.67
Kết quả ở bảng trên cho thấy, các biện pháp được CVHT sử dụng nhiều nhất là
“Thông qua ban cán sự và tập thể lớp để đề ra yêu cầu hợp lý đối với lớp và từng SV”
ĐTB = 2.57;với mức độ sử dụng“ Rất thường xuyên” là 71.4%. Theo đánh giá của
SV, biện pháp này ít được CVHT sử dụng (ĐTB = 2.37) nhưng các CVHT đã khẳng
định, biện pháp này họ sử dụng nhiều nhất. Như vậy đã có sự khác biệt lớn trong cách
đánh giá của SV và CVHT. Qua trao đổi với các CVHT chúng tôi được biết, phần lớn
CVHT sử dụng biện pháp này bởi vì họ tin tưởng vào năng lực và uy tín của BCS lớp
cũng như tin tưởng vào tính tích cực, chủ động học tập của SV. BCS lớp là những
người phụ tá đắc lực của CVHT và là thành viên tích cực, thường xuyên nắm vững
tình hình của lớp. Sở dĩ giữa CVHT và SV không thống nhất với nhau trong cách
đánh giá là do cách thức sử dụng. Biện pháp này thường được CVHT sử dụng đầu
năm học khi SV mới nhập học nên nhiều SV không hiểu hoặc không để ý.
Tiếp đến là các biện pháp “Xây dựng truyền thống học tập cho tâp thê SV”, ĐTB
= 1.8 với mức độ sử dụng “Thường xuyên” 71.4% . Đây là biện pháp mà các CVHT
luôn dành sự quan tâm vì hơn ai hết họ hiểu rằng, tập thể lớp vừa là môi trường vừa là
điều kiện để mỗi SV học tập và hoàn thiện bản thân. Truyền thống học tập và thành
tích cao trong học tập là những chỉ tiêu mà tập thể SV phấn đấu để đạt được. Xây
dựng truyền thống học tập sẽ góp phần tạo nên động lực giúp SV thực hiện tốt hoạt
động học tập của bản thân nói riêng và thành tích của lớp nói chung.
“Tổ chức các buổi giao lưu, gặp mặt để trao đổi kinh nghiệm học tập giữa các
lớp trong khoa”. Biện pháp này được cả SV và CVHT đánh giá là một trong những
biện pháp được sử dụng nhiều nhất. Vào đầu năm học, các khoa thường tổ chức cho
120
SV năm thứ nhất giao lưu với các anh chị lớp trên để giúp các em có cơ hội học hỏi,
trao đổi kinh nghiệm học tập. SV khóa trên là những người đã học qua chương trình
của SV năm thứ nhất nên họ có thể truyền lại cho các tân SV những kinh nghiệm cần
thiết trong học tập và rèn luyện. Đây là một trong những biện pháp mang lại hiệu quả
thiết thực nên thường được các CVHT sử dụng.
Qua đây, có thể thấy, các CVHT trường ĐHSP Huế đã lựa chọn và sử dụng
nhiều biện pháp khác nhau nhằm nâng cao kết quả học tập cho SV lớp mình phụ
trách.
Theo số liệu đã được thu thập, bên cạnh những biện pháp luôn được CVHT ưu
tiên sử dụng thì cũng có những biện pháp ít được sử dụng hơn như “Quan tâm, giúp
đỡ SV yếu, kém” ĐTB = 1.48; “Phối hợp với các tổ chức, đoàn thể trong nhà trường
giúp đỡ SV” ĐTB = 1.52. Sở dĩ CVHT ít sử dụng các biện pháp này là do tính hiệu
quả mà nó đem lại không cao và khả năng áp dụng rất hạn chế.
Như vậy, nhìn chung cách đánh giá của SV và CVHT trong việc sử dụng các
biện pháp để nâng cao kết quả học tập cho SV năm thứ nhất khá tương đồng . Điều
này cho thấy đã có sự thống nhất trong hoạt động của SV và CVHT.
Tuy nhiên, qua phỏng vấn SV và CVHT, chúng tôi được biết, vẫn còn tồn tại
tình trạng một số CVHT ít dành thời gian tổ chức sinh hoạt lớp, chủ yếu do SV tự sinh
hoạt. Một bộ phận nhỏ CVHT chưa quan tâm nhiều đến việc sử dụng các biện pháp
để nâng cao CLHT cho SV. Đó là lý do giải thích cho sự mâu thuẫn trong cách đánh
giá của SV và CVHT. Bởi kết quả điều tra ở 2 bảng cho thấy, biện pháp “Tổ chức cho
SV các buổi giao lưu để trao đổi kinh nghiệm học tập” có 19.5% SV cho rằng, các
CVHT “Chưa bao giờ tổ chức” nhưng chỉ có 4.8% CVHT thừa nhận. 18% SV khẳng
định, CVHT chưa bao giờ quan tâm, giúp đỡ SV yếu kém nhưng không có CVHT nào
đồng ý. 16.5% SV cho biết, CVHT chưa bao giờ chia nhóm học tập cho SV nhưng
các CVHT đều phủ nhận… Sở dĩ như vậy là do SV năm thứ nhất không hiểu rõ vai
trò định hướng, chỉ đạo của CVHT.
3.3. Hiệu quả sử dụng các biện pháp để nâng cao kết quả học tập cho SV
năm thứ nhất của đội ngũ CVHT
Để đánh giá hiệu quả sử dụng các biện pháp nâng cao kết quả học tập cho SV
năm thứ nhất của đội ngũ CVHT, chúng tôi đã tiến hành điều tra 200 SV năm thứ
nhất. Với câu hỏi: “Sau khi CVHT thực hiện các biện pháp tác động, bạn thấy kết quả
học tập của mình như thế nào?” và “Những biện pháp CVHT sử dụng đã đem lại hiệu
quả như thế nào trong việc nâng cao kết quả học tập cho lớp bạn?”, kết quả thu được
như sau:
121
Bảng 4. Đánh giá của SV và GV về hiệu quả của việc sử dụng các biện pháp
Mức độ đạt hiệu quả Tỷ lệ % SV Tỷ lệ % GV
Đạt hiệu quả cao 47.0 23.8
Bình thường 47.5 76.2
Không đạt hiệu quả 5.5 0
Bảng trên cho thấy, 47% SV khẳng định, những biện pháp CVHT đã sử dụng đạt
hiệu quả cao. Trong khi đó chỉ có 23.8% GV thừa nhận. Điều này chứng tỏ CVHT rất
khiêm tốn khi đánh giá những đóng góp của bản thân đối với kết quả học tập của SV.
48.5% SV cho rằng, họ tiến bộ đáng kể trong học tập. Đúng vậy, khi xem xét vở ghi
bài, bài tập, bài kiểm tra… của SV, chúng tôi nhận thấy các em có sự tiến bộ đáng kể.
Các em đã được CVHT bày vẽ cách giải bài tập, ghi chép bài giảng ở đại học. 51.5%
SV thừa nhận, họ có tiến bộ nhưng không đáng kể. Một phần do CVHT ít quan tâm,
phần nữa do bản thân các em chậm thích nghi với môi trường học tập mới.
Khi tìm hiểu thái độ của SV đối với các hoạt động CVHT đã tổ chức, có 59.5%
tổng số SV được điều tra cho rằng, SV tích cực, nhiệt tình tham gia; tinh thần hợp tác,
đoàn kết của SV được nâng cao và sinh viên có động cơ, thái độ học tập tích cực (
51.5%).
Song vẫn còn 11% SV thừa nhận “Đa số SV không hứng thú với các hoạt động
do CVHT tổ chức” và 10% SV khẳng định, kết quả học tập của SV chưa được nâng
cao.
Phần lớn (76.2%) CVHT thừa nhận, chưa đạt kết quả như mong muốn. Lý giải
cho vấn đề này có nhiều nguyên nhân khác nhau, trước hết là do còn nhiều SV chưa
tích cực, chủ động trong học tập, chậm thích nghi với môi trường học tập mới. Đây
chính là nguyên nhân cơ bản nhất bởi lẽ SV chính là chủ thể của hoạt động học, kết quả
học tập phụ thuộc rất lớn vào sự nỗ lực của các em. Tiếp đến là do một số CVHT chưa
thật sự quan tâm tới SV, các biện pháp và hoạt động CVHT tổ chức chưa đáp ứng được
nhu cầu, nguyện vọng của tất cả SV… Cho nên hiệu quả đem lại chưa cao. Tuy nhiên,
các CVHT vẫn ghi nhận sự tiến bộ của SV, kết quả thể hiện ở bảng sau:
122
Bảng 5. Đánh giá của CVHT về thái độ của SV sau tác động của các biện pháp
Biểu hiện của SV đối với các biện pháp tác động Tỉ lệ(%)
SV tích cực, tự giác tham gia các hoạt động của lớp, khoa và
trường 81.0
Kết quả học tập của SV được nâng cao 61.9
SV hứng thú hơn trong các hoạt động của lớp, Đoàn, Hội 90.5
Tinh thần hợp tác, đoàn kết của SV được nâng cao 62.0
Xây dựng được phong trào thi đua học tập trong tập thể SV 55.0
SVcó động cơ và thái độ học tập tích cực 60.0
SV không hứng thú với các hoạt động do CVHT tổ chức 19.0
Kết quả học tập của SV chưa được nâng cao 20.0
Từ bảng 5 cho thấy, 81% CVHT cho rằng, SV tích cực, nhiệt tình tham gia các
hoạt động do CVHT tổ chức, đã xây dựng được phong trào thi đua học tập trong lớp và
kết quả học tập của SV được nâng cao… 20% CVHT thừa nhận, kết quả học tập của
SV lớp mình phụ trách không được như mong muốn. Sau khi trò chuyện với họ chúng
tôi được biết, một bộ phận không nhỏ CVHT không trực tiếp dạy SV năm thứ nhất, vả
lại ngoài việc đảm nhận vai trò CVHT, họ còn phải thực hiện giảng dạy bộ môn, nghiên
cứu khoa học, nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học và tham gia các công
tác đoàn thể…Hơn nữa sự đãi ngộ của nhà trường đối với đội ngũ CVHT không nhiều,
không có sự đánh giá, tổng kết thi đua giữa các CVHT. Tất cả những việc họ làm phần
lớn là do trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp nên hiệu quả chưa được như mong
muốn.
4. Kết luận và kiến nghị
Qua quá trình nghiên cứu lí luận và thực trạng của việc sử dụng các biện pháp
nâng cao kết quả học tập cho SV năm thứ nhất, chúng tôi nhận thấy: Đội ngũ CVHT
của trường ĐHSP- ĐH Huế đã sử dụng khá đa dạng các biện pháp để góp phần giúp
SV năm thứ nhất nâng cao kết quả học tập và ở mức độ khá thường xuyên. Tuy nhiên,
vẫn còn tồn tại một bộ phận nhỏ CVHT chưa thật sự quan tâm đến vấn đề này, họ chỉ
thỉnh thoảng mới sử dụng các biện pháp và tổ chức các hoạt động để nâng cao kết quả
học tập cho SV.
Các biện pháp được đa số CVHT sử dụng như: Đề ra các yêu cầu cụ thể cho tập
thể SV; Tổ chức trao đổi kinh nghiệm học tập cho SV; Xây dựng truyền thống học tập
cho tập thể SV. Đây là những biện pháp truyền thống được phần lớn CVHT sử dụng
123
bởi lẽ nó phù hợp với đặc điểm của SV năm thứ nhất và phương thức học tập theo học
chế tín chỉ. Bên cạnh đó cũng có nhiều biện pháp mang tính hiệu quả cao như: Nêu
gương, khen thưởng; Phát động phong trào thi đua học tập trong lớp; Tổ chức câu lạc
bộ học tập; Tổ chức học tập theo nhóm… nhưng do các điều kiện chủ quan và khách
quan nên các CVHT ít sử dụng.
Nhìn chung, các CVHT đã có sự đa dạng và khá linh hoạt trong việc sử dụng các
biện pháp tác động nhằm giúp SV nâng cao kết quả học tập. Tuy nhiên hiệu quả đem
lại chưa thật sự như mong muốn, có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan
nhưng nguyên nhân chủ yếu là do hạn chế về mặt thời gian nên một số CVHT chưa
phát huy hết vai trò của mình. Để thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm của bản thân đối
với công việc, các CVHT không chỉ cần phải có thời gian mà còn phải có năng lực tổ
chức, năng lực quản lý, sự nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm cao, thực sự thương yêu
học trò, coi SV năm thứ nhất như con, em mình, sẵn sàng chỉ bảo, giúp đỡ các em tận
tình.
Để giúp SV năm thứ nhất nâng cao kết quả học tập, chúng tôi xin đề xuất
mấy ý kiến sau:
+ “Giáo dục cho SV thái độ và động cơ học tập đúng đắn”. Đây là biện pháp
đầu tiên có vai trò rất quan trọng bởi nếu SV có động cơ học tập, họ sẽ phát huy hết
nội lực của bản thân, vượt qua mọi khó khăn để vươn lên học tốt.
+ “Đề ra các chỉ tiêu cụ thể cho tập thể SV và cho từng cá nhân” để các em
phấn đấu.
+ “Phát động phong trào thi đua trong học tập” nhưng phải có tổng kết, đánh
giá, thưởng- phạt công minh.
+“Tăng cường tổ chức các hoạt động học tập như: Đố vui để học; Hội vui học
tập; Trò chơi học tập; Rung chuông vàng…để tạo sự gắn kết giữa các SV, góp phần
nâng cao, mở rộng sự hiểu biết, kích thích tính tích cực học tập của SV.
+ “Thường xuyên trao đổi với các GV bộ môn, Ban cán sự lớp” để kịp thời nắm
bắt tình hình học tập cũng như tư tưởng, thái độ của SV.
+ “Chia nhóm học tập để SV kèm cặp, giúp đỡ lẫn nhau” nhưng phải có kiểm
tra, đánh giá để kích thích sự thi đua giữa các nhóm.
+ “Cử cán sự môn học” để các SV giỏi có điều kiện phát huy năng lực của bản
thân trong việc chữa bài tập, giải đáp thắc mắc cho lớp.
+ “Gây qũy khuyến học”để giúp đỡ SV nghèo vượt khó và SV đạt thành tích
124
trong việc giúp đỡ bạn.
+“ Biểu dương, nêu gương những SV có nhiều nỗ lực trong học tập” để kích
thích sự thi đua trong tập thể SV…
Mỗi biện pháp đều có thế mạnh và chức năng riêng, các CVHT nên căn cứ vào
tình hình cụ thể của tập thể SV để sử dụng phối kết hợp, linh hoạt và sáng tạo các biện
pháp nhằm giúp SV nâng cao kết quả học tập.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
3. Đặng Vũ Hoạt (1999), “Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp trong nhà trường
THCS”, Nxb Giáo dục.
4. Trần văn Hùng (2012), “ Vai trò của giáo viên cố vấn học tập trong đào tạo
theo học chế tín chỉ”, Báo Giáo dục và thời đại online.
5. Phí Công Mạnh (2011), “Ứng phó với những khó khăn trong học tập của sinh
viên năm thứ nhất trường ĐHSP- ĐH Huế”, Luận văn Thạc sỹ Tâm lý học.
6. Văn Thị Thanh Nhung (2012), “ Vai trò của Cố vấn học tập trong đào tạo theo
học chế tín chỉ”, Kỉ yếu Trường ĐHSP Huế.
7. Hồ Văn Liên (Chủ biên) (2001), Đề cương bài giảng “Tổ chức hoạt động giáo
dục ở nhà trường PTTH”, ĐHSP Huế.
8. Trƣờng ĐH Bách khoa Hà Nội (2008), “Qui định công tác cố vấn học tập” và
“ Hướng dẫn công tác cố vấn học tập cho SV đào tạo theo học chế tín chỉ”.
125
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC CỐ VẤN HỌC TẬP VÀ
RÈN LUYỆN CỦA ĐỘI NGŨ CỐ VẤN HỌC TẬP Ở
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Võ Thị Ngọc Lan1
Tóm tắt
Công tác cố vấn học tập và rèn luyện của cố vấn học tập là một hoạt động
không thể thiếu vắng ở các trường đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Ý nghĩa và kết quả
của công tác này là sinh viên nhận được tư vấn và hỗ trợ cần thiết kịp thời mỗi khi
gặp những khó khăn hay vướng mắc trong các lãnh vực tâm lý và đời sống, học tập và
nghiên cứu, đào tạo, công tác học sinh sinh viên và chủ trương chính sách. Nhằm
thực hiện có hiệu quả công tác này chúng tôi xác định thực trạng, tìm hiểu nguyên
nhân và trên cơ sở đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cố vấn học tập và
rèn luyện của đội ngũ cố vấn học tập ở Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí
Minh. Bài viết này trình bày 6 giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cố vấn học tập
và rèn luyện của đội ngũ cố vấn học tập về mục đích, nội dung và cách thực hiện.
1. Mở đầu
Khái niệm “cố vấn học tập” được khởi xướng trong Quy chế hệ thống tín chỉ số
43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15 tháng 08 năm 2007 ở “Điều 7: Đăng ký nhập học -
Khoản 2. c. Phiếu nhận cố vấn học tập.” [1, 4] Đồng thời, học theo tín chỉ là hình thức
đào tạo không giới hạn thời gian học tập, sinh viên phải tích lũy khối lượng kiến thức
định sẵn, khi nào tích lũy đủ thì ra trường. Chương trình đào tạo được cấu trúc theo
học phần, vào đầu mỗi học kỳ, sinh viên được chủ động đăng ký các học phần phù
hợp với năng lực và điều kiện học tập. Nhờ đó, sinh viên được hoàn toàn chủ động lựa
chọn trong việc tích lũy nhóm kiến thức phù hợp với định hướng nghề nghiệp, với
năng lực, với sở thích và với kế hoạch cá nhân. Bên cạnh đó, học theo tín chỉ cũng
mang đến những khó khăn cho sinh viên như: sinh viên phải tự lập kế hoạch học tập,
tự xây dựng thời khóa biểu riêng cho mình dựa trên chương trình đào tạo… Do đó, đa
số các Trường Đại học, Cao đẳng đào tạo theo phương thức hệ thống tín chỉ đã và
đang quan tâm đến hoạt động cố vấn học tập của cố vấn học tập. Tuy nhiên, sau gần
10 năm thực hiện công tác cố vấn học tập này những không ít trường còn gặp khó
khăn và dẫn đến hiệu quả của công tác này chưa cao. Vì thế, chúng tôi đã tiến hành
khảo sát thực trạng công tác cố vấn học tập và rèn luyện của cố vấn học tập (CVHT)
1 TS – Viện Sư phạm Kỹ thuật, trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. HCM
126
ở Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh và sau khi phân tích các số liệu
thu được, đưa ra kết luận rằng:
“- Một số CVHT đã hoàn thành tốt chức năng tư vấn cho SV về nội dung và
chương trình đào tạo (40.9%), hướng dẫn SV đăng ký môn học (40%), tuy nhiên,
CVHT còn ngộ nhận về việc hoàn thành các chức năng và nhiệm vụ của mình.
- CVHT còn yếu trong việc thực hiện chức năng có liên quan đến tư vấn cho
sinh viên về nội dung, chương trình đào tạo; quy chế rèn luyện và chế độ chính sách
của sinh viên; cho sinh viên lời khuyên khi gặp khó khăn trong học tập.
- CVHT chưa thông báo các quy định, chủ trương, chính sách kịp thời cho sinh
viên; chưa hướng dẫn sinh viên đăng ký môn học; chưa khuyến khích tạo điều kiện
cho sinh viên tham gia hoạt động sinh hoạt học thuật và nghiên cứu khoa học.
- CVHT chưa giải đáp ghi nhận những tâm tư nguyện vọng, góp ý của sinh viên
đối với nhà trường.
- CVHT chỉ sinh hoạt lớp/nhóm 1 lần trong 1 học kỳ.
- Hình thức liên lạc với SV bằng điện thoại di động được CVHT sử dụng nhiều
nhất.
- Thái độ trong khi thực hiện công việc của CVHT được CVHT và SV đánh giá
cao ở mức thường xuyên và rất thường xuyên ở các tiêu chí “Sẵn sàng trả lời SV”,
“Nhiệt tình với sinh viên” và “Quan tâm đến sinh viên kịp thời”. Số liệu này đã chỉ ra
tinh thần trách nhiệm của CVHT trong việc triển khai công tác CVHT mà mình đảm
nhiệm, luôn sẵn sàng trước các vấn đề cần giải đáp của SV.
- Nhu cầu về sinh hoạt 2 tiết/tuần của SV cao 53,1% trong khi ý kiến của CVHT
chỉ có 34,5% và CVHT chỉ sắp xếp 1 tiết/tuần để tiếp xúc với sinh viên. Đồng thời, số
lần họp lớp trong 1 tháng cũng tập trung ý kiến của CVHT và SV là 1 lần nhưng lại
bất đồng về thời điểm họp lớp. Điều này cho thấy, cần phải thay đổi tổ chức hệ thống
cố vấn học tập để những giảng viên hay cán bộ quản lý đảm nhiệm chuyên trách
CVHT sẽ dành nhiều thời gian cho việc gặp gỡ, trao đổi với SV.
- CVHT còn xem nhẹ hoạt động “Hướng dẫn SV quy trình đăng ký môn học”,
có đến 65,5% CVHT không chọn hoạt động này. Phải chăng CVHT cho rằng hoạt
động này đã được nhà trường thực hiện vào đầu năm học cho toàn thể SV. Điều này
cần xem xét lại.
- Với hoạt động “Thực hiện chế độ báo cáo theo yêu cầu của lãnh đạo
Khoa/Viện” cũng có đến 54.5% CVHT không cho là hoạt động góp phần nâng cao
hiệu quả công tác CVHT.
- Còn lại 11 hoạt động được trên 50% CVHT đồng ý là hoạt động để nâng cao
hiệu quả công tác CVHT.
127
- CVHT mong muốn được tư vấn và hỗ trợ cho khoảng 31 đến 50 sinh viên.
- CVHT mong muốn được trả thù lao theo số tiết quy đổi là 30 tiết trong 1 học
kỳ.
- Hai nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả công tác CVHT và rèn luyện về Đổi
mới hoạt động CVHT & rèn luyện theo mô hình hiện nay và Thay đổi mô hình CVHT
& rèn luyện được CVHT và SV đồng ý là:
+ Thực hiện đánh giá CVHT từ sinh viên;
+ Phối hợp giữa đơn vị chức năng trong công tác CVHT;
+ Xác định rõ quyền và lợi của CVHT;
+ Bồi dưỡng năng lực công tác CVHT và rèn luyện cho đội ngũ CVHT;
+ Thay đổi quy chế CVHT & rèn luyện chi tiết và cụ thể;
+ Đánh giá điểm rèn luyện qua mạng từ các sinh viên khác trong nhóm;
+ CVHT chuyên trách là giảng viên;
+ CVHT chuyên trách là giảng viên được lựa chọn từ các khoa.
Công tác CVHT và rèn luyện cần được đánh giá qua các tiêu chí cụ thể, đo
lường được chính xác kết quả công tác CVHT & rèn luyện.” [2, 40 - 42]
“- Thực hiện công tác cố vấn học tập và rèn luyện chỉ dựa theo sổ tay cố vấn học
tập tháng 9/2005, trong sổ tay này quy định về chức năng, nhiệm vụ của cố vấn học
tập và rèn luyện; tiêu chuẩn tổ chức và quyền lợi chưa được cụ thể và rõ ràng. Mô
hình cố vấn học tập theo Khoa.
- Số sinh viên và số nhóm phân công cho một cố vấn học tập quá chênh lệch.
- CVHT chưa hoàn thành chức năng và nhiệm vụ như trong quy định của một số
trường mà nhóm đã phân tích.
- Một số CVHT đã hoàn thành tốt chức năng tư vấn cho SV về nội dung và
chương trình đào tạo (40.9%) và hướng dẫn SV đăng ký môn học (40%).
- Trong 7 tiêu chí của nhóm tiêu chí về tư vấn và hỗ trợ sinh viên của CVHT tập
đạt hiệu quả còn thấp.
- Nhóm tiêu chí về chấm điểm rèn luyện của CVHT đạt hiệu quả còn thấp.
- Nhóm tiêu chí về “Thái độ của CVHT khi tiếp xúc, làm việc với SV” là có hiệu
quả.” [2, 55]
Sau khi phân tích kết luận của thực trạng này, những nguyên nhân cơ bản dẫn
đến thực trạng công tác CVHT & rèn luyện chưa hiệu quả được khẳng định là do:
- Quy định về công tác CVHT chưa cụ thể và rõ ràng.
- Mô hình CVHT theo Khoa không còn phù hợp.
- Năng lực CVHT còn hạn chế.
- Chưa có sự phối hợp giữa các đơn vị chức năng trong công tác cố vấn học tập.
128
- SV chưa ý thức được tầm quan trọng và chưa thực hiện tốt công tác HSSV &
rèn luyện.
- Sử dụng email, trang web trong SV và CVHT còn hạn chế.
Dựa trên 6 nguyên nhân này, 6 giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cố vấn học
tập và rèn luyện của cố vấn học tập ở Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí
Minh được đề xuất.
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cố vấn học tập và rèn luyện của cố vấn
học tập ở trƣờng Đại học Sƣ phạm Kỹ thuật TP. HCM
2.1. Giải pháp 1: Ban hành quy định cố vấn học tập mới
Ban hành quy định cố vấn học tập thay cho quy định về chức năng, nhiệm vụ
của cố vấn học tập rèn luyện theo quyết định số 164/QĐ /CTCT-QLSV ngày 20 tháng
05 năm 2005 của Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh.
2.1.1. Mục đích
- Tạo cơ sở pháp lý cho các bên liên quan tham gia trong công tác cố vấn học tập
và rèn luyện, nhằm tăng cường sự hỗ trợ và thống nhất trong công tác cố vấn học tập
và rèn luyện giữa các phòng và trung tâm có tham gia làm cố vấn học tập. Đồng thời
làm cơ sở khoa học để khoa, phòng, trung tâm và trường thực hiện quản lý, giáo dục
sinh viên theo đúng quy chế nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng với nhu cầu
của xã hội.
- Định hướng thay mô hình cố vấn học tập hiện đang áp dụng bằng mô hình cố
vấn học tập trong đó, học sinh, sinh viên nhận được tư vấn, hỗ trợ kịp thời và đầy đủ
các mặt tâm lý, học tập, đào tạo và chủ chương chính sách giúp họ thực hiện tốt
nhiệm vụ học tập, rèn luyện.
- Giúp cố vấn học tập nhận thức rõ chức năng nhiệm vụ, quyền hạn, trách niệm
và quyền lợi của mình để xác định và thực hiện tốt công tác CVHT cho sinh viên về
học tập và rèn luyện trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
- Hỗ trợ giúp đỡ sinh viên thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện trong quá trình
học tập tại Trường.
2.1.2. Nội dung
Quy định cố vấn học tập và rèn luyện xác định rõ và cụ thể các nội dung cơ bản:
- Phạm vi, đối tượng áp dụng và mục đích;
- Tổ chức hệ thống CVHT;
- Tiêu chuẩn và quy trình bổ nhiệm cố vấn học tập chuyên trách và kiêm nhiệm ;
- Chức năng và nhiệm vụ của cố vấn học tập;
- Quyền hạn và trách nhiệm của cố vấn học tập;
129
- Nhiệm vụ các khoa, phòng và trung tâm có tham gia công tác cố vấn học tập;
- Đánh giá hoạt động của cố vấn học tập;
- Quyền lợi, khen thưởng và kỷ luật của cố vấn học tập.
2.1.3. Cách thực hiện
- Trước tiên phòng công tác học sinh, sinh viên biên soạn quy chế cố vấn học tập
và rèn luyện. Trong quy chế này cần phải có các quy định về:
+ Phạm vi, đối tượng áp dụng và mục đích;
+ Tổ chức hệ thống CVHT;
+ Tiêu chuẩn và quy trình bổ nhiệm cố vấn học tập chuyên trách và kiêm nhiệm;
+ Quyền và trách nhiệm của SV;
+ Chức năng và nhiệm vụ của cố vấn học tập;
+ Thời gian và nội dung làm việc với lớp sinh viên;
+ Chế độ báo cáo;
+ Quyền hạn và trách nhiệm của cố vấn học tập;
+ Nhiệm vụ các khoa, phòng và trung tâm có tham gia công tác cố vấn học tập;
+ Đánh giá hoạt động của cố vấn học tập;
+ Quyền lợi, khen thưởng và kỷ luật của cố vấn học tập;
+ Điều khoản thi hành;
+ Phần hướng dẫn một số công việc cụ thể của cố vấn học tập; biểu mẫu và hồ
sơ cần thiết cho công tác cố vấn học tập – rèn luyện.
- Sau khi áp dụng quy chế này, ít nhất là một học kỳ, các phòng: Công tác học
sinh, sinh viên, phòng đào tạo; các khoa quản lý sinh viên và trung tâm dịch vụ sinh
viên của trường cùng phối hợp để điều chỉnh hợp lý lại về chức năng và nhiệm vụ của
cố vấn học tập về lĩnh vực tư vấn đã được giao dưới sự chủ trì của phòng công tác học
sinh, sinh viên.
- Quy chế chỉ được hoàn chỉnh sau khi được áp dụng và điều chỉnh tối thiểu sau
2 lần. [2, 59 - 60]
2.2. Giải pháp 2: Thay đổi mô hình cố vấn học tập và rèn luyện
Thay mô hình công tác cố vấn học tập và rèn luyện theo khoa bằng mô hình
công tác cố vấn học tập theo lĩnh vực tư vấn và hỗ trợ với cố vấn học tập chuyên trách
và kiêm nhiệm. Khái niệm về cố vấn học tập, cố vấn học tập chuyên trách và cố vấn
học tập kiêm nhiệm được xác định:
130
2.2.1. Cố vấn học tập
Cố vấn học tập là “Người tư vấn và hỗ trợ sinh viên phát huy tối đa khả năng
học tập, lựa chọn học phần phù hợp để đáp ứng mục tiêu tốt nghiệp và khả năng tìm
được việc làm thích hợp; theo dõi thành tích học tập của sinh viên nhằm giúp sinh
viên điều chỉnh kịp thời hoặc đưa ra một lựa chọn đúng trong quá trình học tập; quản
lý, hướng dẫn, chỉ đạo lớp được phân công phụ trách đảm bảo các quyền và nghĩa vụ
của sinh viên.” [3, 1].
2.2.2. Cố vấn học tập chuyên trách
Cố vấn học tập chuyên trách là cố vấn học tập và được lựa chọn từ cán bộ quản
lý hay giảng viên có kinh nghiệm ở các khoa/ trung tâm làm nhiệm vụ chính là công
tác cố vấn học tập và rèn luyện.
2.2.3. Cố vấn học tập kiêm nhiệm
Cố vấn học tập kiêm nhiệm là cố vấn học tập và được lựa chọn từ những giảng
viên hay học viên cao học hoặc sinh viên với kết quả học lực khá giỏi, có kinh nghiệm
ở các hay một trong các lĩnh vực tâm lý và đời sống; học tập và đào tạo làm nhiệm vụ
kiêm nhiệm với 20% hay 30% làm công tác cố vấn học tập và rèn luyện và là người
hỗ trợ cố vấn học tập chuyên trách.
2.2.4. Mục đích
- Có sự phối hợp đồng bộ của các phòng, trung tâm nhằm giải quyết kịp thời
những vấn đề về tâm lý và đời sống, học tập và nghiên cứu khoa học, đào tạo, công
tác HSSV và chủ trương chính sách cho sinh viên.
- Giúp sinh viên nhận được tư vấn, hỗ trợ đầy đủ, chính xác trong các lĩnh vực
tâm lý và đời sống, học tập và nghiên cứu khoa học, đào tạo, công tác HSSV và chủ
trương chính sách.
- Giảm số lượng cố vấn học tập và chọn được những cố vấn học tập có tâm
huyết và năng lực tư vấn, hỗ trợ tâm lý và đời sống, học tập và nghiên cứu khoa học,
đào tạo, công tác HSSV và chủ trương chính sách.
2.2.5. Nội dung
- Mô hình công tác cố vấn học tập và rèn luyện nhằm thực hiện tốt các quy chế:
+ Quy chế tổ chức đào tạo, kiểm tra thi và công nhận tốt nghiệp đại học, cao
đẳng hệ chính quy theo học chế tín chỉ ban hành kèm theo Quyết định số
43/2007/QĐ– BGDĐT ngày 15 tháng 08 năm 2007 của của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo.
+ Quy chế đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh, sinh viên các cơ sở giáo dục
đại học và trường trung cấp chuyên nghiệp hệ chính quy ban hành kèm theo Quyết
131
định số 60 /2007/QĐ-BGDĐT ngày 16 tháng 10 năm 2007. Đồng thời, phù hợp với
điều kiện thực hiện ở Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh.
- Sơ đồ vị trí và phối hợp của CVHT trong mô tả mô hình công tác CVHT & rèn
luyện theo lĩnh vực tư vấn và hỗ trợ.
Hình 3.1. Sơ đồ vị trí và phối hợp của CVHT
- Mô tả về chức năng, nhiệm vụ chung và riêng của CVHT trực thuộc các
phòng, khoa, trung tâm.
2.2.6. Chức năng của CVHT
- Theo dõi, tư vấn, hỗ trợ thông tin về học tập và định hướng trong quá trình học
tập, rèn luyện, thực hiện quyền và trách nhiệm của sinh viên.
- Phối hợp các CVHT khoa, Phòng và Trung tâm trong công tác SV và gia đình
SV về CVHT & rèn luyện của SV.
- Đề xuất phương án giải quyết đối với các tình huống xảy ra trong quá trình đào
tạo.
- Ban cán sự lớp
- Lớp/Nhóm SV
CVHT khoa:
CVHT chuyên trách và
CVHT kiêm nhiệm tư vấn và
hỗ trợ về học tập và nghiên
cứu CVHT TTDVSV:
CVHT chuyên trách
và CVHT kiêm
nhiệm tư vấn và hỗ
trợ về tâm lý và đời
sống
CVHT Phòng CTHSSV:
CVHT chuyên trách tư vấn và
hỗ trợ về công tác HSSV và
chủ trương, chính sách
CVHT Phòng ĐT:
CVHT chuyên trách
tư vấn và hỗ trợ về
đào tạo
HIỆU TRƢỞNG
132
2.2.7. Nhiệm vụ của CVHT
- Hướng dẫn sinh viên nắm vững các quy chế về đào tạo của Bộ GD & ĐT và
các quy định của Nhà trường.
- Phối hợp chặt chẽ với các CVHT ở 3 bộ phận có tham gia công tác cố vấn học
tập và rèn luyện khác trong trường.
- Thực hiện nhiệm vụ được giao từ Hiệu trưởng và trực tiếp là từ Trưởng nhóm
CVHT.
- Tư vấn và hỗ trợ sinh viên trong các lĩnh vực học tập và nghiên cứu, đào tạo,
công tác học sinh sinh viên và chủ trương chính sách, tâm lý và đời sống.
2.2.8. Cách thực hiện
- Hiệu trưởng:
+ Quyết định áp dụng mô hình công tác CVHT theo phân nhiệm, trên cơ sở chịu
trách nhiệm tư vấn và hỗ trợ SV ở từng lĩnh vực: tâm lý và đời sống, học tập và
nghiên cứu khoa học, đào tạo và công tác HSSV và chủ trương chính sách.
+ Ban hành quy định về công tác CVHT & rèn luyện, trong đó quy định rõ các
nội dung như đã nêu ở giải pháp 1.
+ Chỉ đạo trực tiếp các trưởng nhóm CVHT trong công tác CVHT & rèn luyện
và đánh giá hoạt động CVHT & rèn luyện của họ.
- Các Khoa, Phòng, Trung tâm dịch vụ sinh viên :
+ Chọn và bổ nhiệm cố vấn học tập chuyên trách và cố vấn học tập kiêm nhiệm
theo đúng tiêu chuẩn của cố vấn học tập.
+ Trưởng Khoa, Phòng và Trung tâm này đề cử trưởng nhóm CVHT.
+ Thống nhất và phối hợp tốt trong công tác CVHT & rèn luyện.
- Cố vấn học tập :
+ Thực hiện theo đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình.
+ Tạo mối quan hệ và phối hợp với các cố vấn học tập trong các lĩnh vực khác.
CVHT chuyên trách và CVHT kiêm nhiệm trong cùng Khoa hay Trung tâm có sự hỗ
trợ cùng nhau hoàn thành tốt chức năng và nhiệm vụ của CVHT.
+ Trưởng nhóm CVHT thực hiện việc đánh giá công tác CVHT của CVHT do
mình phụ trách.
- Sinh viên : Thực hiện theo đúng quyền và trách nhiệm của SV. [2, 61- 66]
133
2.3. Giải pháp 3: Bồi dưỡng năng lực công tác cố vấn học tập và rèn luyện
cho đội ngũ cố vấn học tập
2.3.1. Mục đích
Nâng cao năng lực tư vấn và hỗ trợ về các lĩnh vực tâm lý học đường và đời
sống, học tập - nghiên cứu khoa học, đào tạo và công tác HSSV - chủ trương chính
sách.
2.3.2. Nội dung
- Công tác HSSV và chủ trương chính sách;
- Đào tạo;
- Học tập và nghiên cứu khoa học;
- Tâm lý học đường và đời sống.
2.3.4. Cách thực hiện
Cố vấn học tập tự trang bị và có kỹ năng giao tiếp ứng xử tốt với sinh viên và
đồng nghiệp. Đồng thời, mỗi cố vấn học tập trực thuộc các bên liên quan tham gia
công tác cố vấn học tập có vai trò riêng và nhiệm vụ khác nhau. Vì vậy, để nâng cao
năng lực công tác cố vấn học tập và rèn luyện cho đội ngũ cố vấn này thì cách thực
hiện cho mỗi lĩnh vực tư vấn, hỗ trợ cụ thể như sau:
2.3.4.1. Về công tác HSSV và chủ trương chính sách
Cố vấn học tập:
+ Tìm và thống kê các quy định, quy chế về công tác SV; quy chế đánh giá điểm
rèn luyện; quy chế nội trú; quy chế ngoại trú; quy định tổ chức thực hiện chương trình
công tác xã hội; quy chế tuyển sinh liên thông; quy chế dừng học tập có thời hạn, học
lại, thôi học, chuyển trường.
+ Thu thập các biểu mẫu, hồ sơ về chế độ miễn, giảm học phí; hưởng trợ cấp xã
hội; trợ cấp ưu đãi; trợ cấp khó khăn.
+ Tổng hợp danh sách các thông báo liên quan đến tài trợ, học bổng.
+ Đăng tải kịp thời các thông tin liên quan đến công tác HSSV và chủ trương,
chính sách đã cập nhật lên Website của bộ phận CVHT.
2.3.4.2. Về đào tạo :
Cố vấn học tập:
+ Tìm và thống kê các quy chế đào tạo của Bộ Giáo dục & Đào tạo và các quy
định về đào tạo của Nhà trường;
+ Cập nhật thông tin về chương trình, kế hoạch đào tạo của từng ngành;
134
+ Cập nhật thông tin về quy trình đăng ký môn học, xét nợ học phần, xét tốt
nghiệp, cấp văn bằng chứng chỉ;
+ Đăng tải kịp thời các thông tin liên quan đến đào tạo đã cập nhật lên Website
của bộ phận CVHT.
2.3.4.3. Về học tập và nghiên cứu khoa học:
Cố vấn học tập:
+ Cập nhật thông tin liên quan đến công tác HSSV - chủ trương chính sách và
đào tạo đã được đăng tải từ CVHT của Phòng công tác HSSV và Phòng đào tạo trên
Website của bộ phận CVHT.
+ Tìm hiểu cách sử dụng phần mềm quản lý việc học.
+ Tìm hiểu về phương pháp dạy học đại học, phương pháp học đại học, công tác
nghiên cứu khoa học trong SV.
+ Tìm hiểu cách lập kế hoạch và quản lý thời gian học tập.
+ Thống kê các công trình nghiên cứu đã được SV trong ngành mình đảm trách
nghiên cứu và cập nhật thông báo liên quan đến nghiên cứu khoa học của sinh viên.
+ Chia se kinh nghiệm với các CVHT có kinh nghiệm trong và ngoài trường về
công tác CVHT & rèn luyện.
2.3.4.4. Về tâm lý học đường và đời sống:
Cố vấn học tập:
+ Tự tìm hiểu về quan hệ tình bạn, tình yêu, hôn nhân, gia đình ở lứa tuổi thanh
niên trong lý luận hay trong thực tiễn;
+ Tìm hiểu về kỹ năng sống;
+ Tham gia các khóa hội thảo hay tư vấn về tâm lý học đường, thanh niên;
+ Thu thập, thống kê về những công việc phù hợp và có thu nhập cho sinh viên;
+ Thu thập thông tin về triển vọng của các ngành nghề trong tương lai;
+ Tìm hiểu thông tin về cách thu và chi tiêu trong sinh hoạt đời thường;
Ngoài những cách thực hiện nhằm nâng cao năng lực cố vấn học tập và rèn
luyện riêng cho từng lĩnh vực tư vấn và hỗ trợ riêng như trên. Tất cả các cố vấn học
tập cần nhận được sự hỗ trợ của nhà trường qua các hoạt động:
- Báo cáo công tác cố vấn học tập hay gửi báo cáo qua mạng trường của các cố
vấn học tập có kinh nghiệm, tâm huyết và làm tốt công tác này.
135
- Tổ chức hội nghị công tác cố vấn học tập.
- Cố vấn học tập được tham gia các cuộc hội thảo hay hội nghị cố vấn học tập ở
các trường.
- Cố vấn học tập chuyên trách được học các khóa nghiệp vụ về công tác cố vấn
học tập và rèn luyện. [2, 66 -68]
2.4. Giải pháp 4: Thực hiện đánh giá công tác cố vấn và rèn luyện của cố vấn
học tập từng học kỳ
2.4.1. Mục đích:
- Nhằm thúc đẩy hoạt động công tác cố vấn học tập và rèn luyện đạt hiệu quả
cao.
- Kịp thời biểu dương, khen thưởng những cố vấn học tập hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ của mình.
- Làm cơ sở để điều chỉnh quy chế cố vấn học tập và rèn luyện tạo điều kiện cho
sinh viên nhận được sự giúp đỡ từ các cố vấn học tập ngày một nhiều và thiết thực
hơn.
2.4.2. Nội dung:
- Bộ tiêu chí đánh giá
- Hoạt động đánh giá công tác cố vấn học tập.
2.4.3. Cách thực hiện:
- Xây dựng tiêu chí đánh giá công tác cố vấn học tập và rèn luyện về đội ngũ cố
vấn học tập theo trình tự:
+ Tìm hiểu quy chế công tác cố vấn học tập và rèn luyện mới;
+ Tham khảo tiêu chí đánh giá công tác cố vấn học tập và rèn luyện về đội ngũ
cố vấn học tập của các Trường đại học.
+ Biên soạn tiêu chí đánh giá hoạt động CVHT do phòng quản lý học sinh - sinh
viên thực hiện. Do trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi qua tham khảo quy định, quy
chế về công tác cố vấn học tập hay tương đương của 10 Trường đại học trong nước,
đã xây dựng các tiêu chí đánh giá này qua hai phiếu: Phiếu đánh giá hoạt động của
CVHT và Phiếu đánh giá hoạt động của CVHT từ SV. Nên để thực hiện công việc
này, Phòng CTHSSV tiếp tục in phiếu từ bảng 2.1 và 2.2 và trưng cầu ý kiến từ
CVHT.
+ Lấy ý kiến từ các cố vấn học tập
+ Điều chỉnh và trình ban giám hiệu.
136
- Phát phiếu đánh giá hoạt động của đội ngũ cố vấn học tập cho học sinh - sinh
viên sau mỗi học kỳ
- Trưởng nhóm CVHT tổng hợp và cho thông báo kết quả cho phòng, khoa,
trung tâm có cố vấn học tập và cố vấn học tập trên mạng trước khi bình bầu xét duyệt
cuối học kỳ. [2, 68 – 70]
2.5. Giải pháp 5: Sử dụng phối hợp Email, Website và Forum của bộ phận
CVHT
2.5.1. Mục đích:
- Giúp SV đưa và nhận thông tin nhanh, kịp thời, chính xác mỗi khi có những
vướng mắc hay khó khăn về tâm lý, đời sống; học tập và nghiên cứu; đào tạo; công
tác HSSV và chủ trương chính sách.
- CVHT thực tốt chức năng và nhiệm vụ cũng như trách nhiệm của mình.
- Làm cơ sở giúp trưởng nhóm đánh giá chính xác và công bằng hoạt động của
CVHT do mình phụ trách.
2.5.2. Cách thực hiện:
- Trung tâm thông tin trường tạo hộp thư Email, Website và Forum của bộ phận
CVHT và sau khi đã chọn và bổ nhiệm CVHT Trung tâm cung cấp tài khoản cho
CVHT.
- CVHT chuyên trách và kiêm nhiệm hướng dẫn cho SV mở tài khoản vào
Email, Website và Forum của bộ phận CVHT để nhận được tư vấn về 4 lĩnh vực như
trên khi có nhu cầu.
- CVHT chuyên trách thuộc khoa mở Email, vào Website và Forum mỗi ngày,
tùy theo thông tin cần được tư vấn, có thể trả lời ngay hay chuyển CVHT chuyên
trách ở 3 phòng và trung tâm khác, hay chuyển cho CVHT kiêm nhiệm trực thuộc
Khoa. CVHT kiêm nhiệm ở mỗi khoa ngoài việc tư vấn những thông tin được chuyển
từ CVHT chuyên trách ở khoa còn trả lời Email, Website và Forum cho các SV do
mình quản lý.
- CVHT chuyên trách thuộc khoa/trung tâm cập nhật các thông báo, quy chế,
quy định liên quan đến SV trên Website bộ phận CVHT.
- SV mở Email, vào Website và Forum mỗi ngày.
- Trưởng nhóm phân công theo dõi việc nhận và tư vấn của CVHT. [2, 71- 72]
137
2.6. Giải pháp 6: Thực hiện ghi và theo dõi Sổ tay học tập và rèn luyện của
sinh viên
2.6.1. Mục đích
- Giúp SV theo dõi, thực hiện và điều chỉnh kịp thời theo kế hoạch học tập và
quản lý thời gian đã lập từ đầu mỗi học kỳ.
- Giúp SV thay đổi phương pháp học tập nhằm nâng cao kết quả học tập trong
từng học kỳ.
- Giúp CVHT đánh giá chính xác và công bằng kết quả rèn luyện của SV sau
mỗi học kỳ.
2.6.2. Thực hiện
- Phòng CTHSSV soạn Sổ tay học tập và rèn luyện của sinh viên. Trong Sổ tay
này gồm 3 phần: Phần I: Những quy định chung ; Phần II: Kế hoạch học tập của SV ;
Phần III: Đánh giá kết quả rèn luyện.
- CVHT chuyên trách khoa phát Sổ tay học tập và rèn luyện của sinh viên và
hướng dẫn cách lập kế hoạch và ghi Phiếu, tự theo dõi kết quả rèn luyện của sinh viên
ngay từ tuần sinh hoạt đầu khóa và học kỳ.
- CVHT chuyên trách và kiêm nhiệm khoa thực hiện việc xác nhận vào Phiếu
lập kế hoạch học tập của sinh viên ngay sau tuần học mà sinh viên không được điều
chỉnh đăng ký môn học.
- CVHT chuyên trách và kiêm nhiệm khoa theo dõi kế hoạch học tập và thực
hiện rèn luyện của sinh viên theo quy định CVHT.
- SV gặp CVHT chuyên trách và kiêm nhiệm khoa vào những thời điểm đúng
theo Quy định đã thông báo để được xác nhận của CVHT.
- SV tự giác thực hiện việc ghi trong Phiếu tự theo dõi kết quả rèn luyện của sinh
viên. [2, 76 -78]
Trong đó, giải pháp 1 là giải pháp có ý nghĩa quyết định, vì chỉ khi có quy định
với các điều được xác định rõ ràng, chi tiết và phù hợp thì mới có điều kiện để thay
đổi mô hình công tác cố vấn học tập và rèn luyện hiện hành. Do vậy, giải pháp 1 và 2
là 2 giải pháp quan trọng nhất có ý nghĩa chi phối để thực hiện được 4 giải pháp còn
lại. Đồng thời, khi thực hiện được 4 giải pháp 3,4,5, và 6 tác động nhằm hoàn chỉnh 2
giải pháp 1 và 2. Ưu tiên thực hiện 2 giải pháp đầu và sau đó thực hiện đồng bộ 4 giải
pháp còn lại.
138
3. Kết luận
Công tác cố vấn học tập và rèn luyện của cố vấn học tập là một trong những hoạt
động nhằm thực hiện Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15/08/2007 của Bộ
Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Quy chế đào tạo đại học và cao
đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ; Thông tư số 57/2012/TT-BGDĐT ngày
27/12/2012 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về sửa đổi, bổ sung một số điều
của Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy. Vì thế, công việc này cần
được duy trì trong các trường đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Trường Đại học Sư phạm
Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh là một trong các trường đầu tiên đào tạo theo hệ thống tín
chỉ ở Việt Nam, càng cần đẩy mạnh công tác cố vấn học tập và rèn luyện của cố vấn
học tập và nâng cao hiệu quả công tác cố vấn học tập và rèn luyện của cố vấn học tập
theo 6 giải pháp do nhóm nghiên cứu đề xuất. Trong đó, giải pháp 1 và 2 phải được
ưu tiên thực hiện ngay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục & Đào tạo (2007), Quy chế Đào tạo đại học và cao đẳng theo hệ
thống tín chỉ ban hành theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15 tháng
8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2. Võ Thị Ngọc Lan, Hoàng Thị Thu Hiền, Nguyễn Thanh Thủy (2014), Đề xuất
giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cố vấn học tập và rèn luyện của đội ngũ
cố vấn học tập ở Trường Đại học Tp. Hồ Chí Minh. Đề tài cấp trường trọng
điểm.
3. Nguyễn Văn Vân (2014), Báo cáo một số nội dung về công tác cố vấn học tập
theo học chế tín chỉ. www.hcmulaw.edu.vn/…/baocaovecovanhoctapvaquy.
Download 2.2014
139
HOẠT ĐỘNG CỐ VẤN HỌC TẬP TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
Huỳnh Mỹ Linh1
Tóm tắt
Công tác cố vấn học tập đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc giúp
đỡ sinh viên thích nghi và phát huy khả năng ở môi trường học tập mới. Mô hình cố
vấn học tập tại trường ĐHĐT hoạt động hiệu quả nhờ có sự phối hợp đan xen của các
đơn vị trong hệ thống cố vấn học tập. Mặc dù còn vài vấn đề cần quan tâm nhưng
nhìn chung mô hình làm việc này đạt được kết quả nhất định. Những khó khăn đang
dần được chú ý cải thiện để phát huy hơn nữa hiệu quả hoạt động tư vấn.
1. Đặt vấn đề
Tiếp cận với chương trình đào tạo tiên tiến của thế giới, các trường đại học trong
cả nước ở Việt Nam đã chuyển sang hình thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã ban hành Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo
hệ thống tín chỉ theo quyết định số 43/2007/QĐ-BGD&ĐT. Theo xu hướng chung đó,
trường Đại học Đồng Tháp triển khai đào tạo theo học chế tín chỉ từ năm 2008. Hình
thức đào tạo này cũng kèm theo một số thay đổi về công tác quản lí, giúp đỡ sinh viên
trong học tập và chức danh cố vấn học tập xuất hiện. Tuy nhiên, nhiệm vụ cố vấn và
cách thức hoạt động ở mỗi trường không hoàn toàn giống nhau. Bài viết này chia se
những thành công, khó khăn và đề xuất về mô hình hệ thống cố vấn học tập đang hoạt
động đạt hiệu quả nhất định tại trường Đại học Đồng Tháp.
2. Các đơn vị và cấp độ của hệ thống cố vấn học tập tại trƣờng Đại học Đồng Tháp
2.1. Cấp độ tƣ vấn chung toàn trƣờng
Để thực hiện hoạt động tư vấn chung cho toàn thể sinh viên, nhà trường thành
lập Ban tư vấn sinh viên để thực hiện chức năng cố vấn cho sinh viên trong học tập
và rèn luyện. Ban tư vấn sinh viên sẽ thay thế chức danh cố vấn học tập trước đây.
Thường trực tư vấn sinh viên là bộ phận đại diện cho Ban tư vấn sinh viên, tiếp và
giải quyết những vướng mắc của sinh viên hàng ngày. Thường trực ban tư vấn sinh
viên bao gồm các giảng viên chuyên trách, chuyên viên phòng đào tạo và phòng công
tác sinh viên, cán bộ Đoàn - Hội thực hiện hoạt động tư vấn cho sinh viên về học tập
và các quyền lợi, nghĩa vụ, qui chế sinh viên. Chuyên gia tư vấn cũng thực hiện
nhiệm vụ tư vấn chung, bao gồm các nhà nghiên cứu chuyên sâu về các lĩnh vực đào
1 ThS – Giảng viên trường Đại học Đồng Tháp
140
tạo, quản lý sinh viên, tâm lí, kĩ năng sống,.... được giới thiệu từ cấp Khoa hoặc Ban
thường trực tư vấn và được Hiệu trưởng phê duyệt.
2.2. Cấp độ tƣ vấn riêng theo ngành học
Qui chế hoạt động tư vấn nêu rõ đối tượng tư vấn là toàn thể công chức, viên
chức và sinh viên của trường có trách nhiệm tư vấn khi được yêu cầu tư vấn hoặc chỉ
dẫn tới Ban tư vấn sinh viên [3]. Ban tư vấn cấp Khoa chính là Ban chủ nhiệm Khoa,
cán bộ quản lí sinh viên và giảng viên giảng dạy tại các tổ bộ môn. Sinh viên tư vấn
tình nguyện là mắt xích khá quan trọng trong chuỗi hệ thống tư vấn học tập trong đào
tạo tín chỉ tại trường, được tuyển chọn từ sinh viên năm thứ hai, ba thuộc các ngành
đào tạo trình độ đại học tình nguyện, qua tập huấn và được Hiệu trưởng phê duyệt, ra
quyết định. Chu kỳ tư vấn tình nguyện một lớp là 3 học kỳ, tính từ học kỳ mùa thu
năm thứ nhất. Các em thường tư vấn cho những sinh viên thuộc khóa liền sau các em.
3. Mô hình cố vấn học tập hoạt động hiệu quả dựa vào sự phối hợp đan xen của
các đơn vị trong hệ thống cố vấn học tập tại trƣờng ĐHĐT
3.1. Ban tƣ vấn sinh viên
Theo Qui định tổ chức và quản lý hoạt động tư vấn sinh viên trường Đại học
Đồng Tháp, Ban tư vấn sinh viên trực thuộc phòng Công tác sinh viên. Với chức năng
đầu mối và điều dẫn các luồng thông tin tư vấn, Ban tư vấn sinh viên xây dựng nội
quy, quy định về hoạt động tư vấn, duy trì, quản lý các luồng thông tin tư vấn và đảm
bảo chất lượng tư vấn và tham mưu Hiệu trưởng về quản lý và tổ chức hoạt động tự
vấn. Ban tư vấn sẽ lập kế hoạch triển khai nhiệm vụ hàng tháng. Các hoạt động tư vấn
chủ yếu về:
- Pháp luật, qui chế HS-SV về nội qui nhà trường
- Học tập (đăng kí môn học, lựa chọn môn học, học song song hai chương trình,
...) và nghiên cứu khoa học
- Nghề nghiệp, việc làm thêm
- Y tế, sức khỏe, giới tính, tâm lí lứa tuổi
- Nghiệp vụ công tác xã hội, hoạt động ngoại khóa, sinh hoạt tập thể
- Đơn từ, khiếu nại
- Quản lí sinh viên [1]
141
3.2. Thƣờng trực Ban tƣ vấn sinh viên
Các thành viên thường trực của Ban tư vấn sinh viên được phân công nhiệm vụ
hỗ trợ và giải đáp các thắc mắc về học tập chung cho sinh viên toàn trường, chủ yếu là
các vấn đề trong đào tạo và công tác sinh viên. Thường trực ban tư vấn giải quyết các
vấn đề trong thẩm quyền và đưa ra các chỉ dẫn để sinh viên tìm gặp người tư vấn phù
hợp đối với các nội dung thuộc chuyên ngành. Cán cán bộ thường trực tư vấn sinh
viên tổ chức và phối hợp với cán bộ quản lí sinh viên các Khoa quản lí quản lý đội
ngũ sinh viên tư vấn tình nguyện, điều phối các luồng thông tin, cụ thể bao gồm:
- Xây dựng đội ngũ sinh viên tình nguyện và phân công nhiệm vụ;
- Theo dõi, giám sát, đánh giá định kỳ các hoạt động của sinh viên tình
nguyện;
- Bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ cho sinh viên tư vấn tình nguyện.
- Nhận các đơn từ về học tập, về chế độ, chính sách của sinh viên chuyển đến
các đơn vị chức năng giải quyết và trả về trong thời gian quy định;
- Tư vấn trực tiếp hoặc qua điện thoại;
- Chuyển vấn đề tư vấn tới các chuyên gia, nhóm chuyên gia hoặc trả lời qua
mạng;
- Ghi lại các vấn đề cần tư vấn vào nhật ký tư vấn. [2]
Hoạt động chủ yếu của hệ thống tư vấn sinh viên trường là hoạt động hỗ trợ giải
quyết đơn theo hình thức một cửa (đơn xin học lại, nghỉ học, học ngành thứ hai, nhận
điểm I, bảo lưu kết quả, ..), hoạt động tư vấn (chọn ngành, pháp luật, qui chế, chính
sách, học tập, rèn luyện, đời sống, sinh hoạt,...), hoạt động tham vấn (tâm lí, sức khỏe
tâm thần, tình yêu, kĩ năng sống,...) và cung cấp thông tin trong và ngoài trường (hỗ
trợ máy tính đọc báo, tra cứu,...).
3.3. Tƣ vấn tình nguyện
Nhiệm vụ chủ yếu là tư vấn, giúp đỡ về việc đăng kí học phần, theo dõi tiến độ
học tập, giải đáp các thắc mắc đơn giản về chương trình đào tạo, kế hoạch đào tạo mỗi
học kỳ, các qui chế, qui định về học tập, rèn luyện, nhắc nhở việc chấp hành pháp
luật, qui định, qui chế. Đồng thời, tư vấn viên cũng ghi nhận và phản ánh kịp thời tới
cấp có thẩm quyền những thắc mắc và khó khăn của tân sinh viên. Sinh viên tình
nguyên tư vấn cũng tư vấn cho Ban cán sự lớp phụ trách tổ chức sinh hoạt lớp hiệu
quả hơn và tham gia sinh hoạt lớp, tham gia các cuộc họp định kỳ về triển khai công
việc cho các lớp do khoa quản lý lớp tổ chức. Đặc biệt, sinh viên tình nguyện tư vấn
142
được tham gia các khóa bồi dưỡng về năng lực tư vấn. Sinh viên tư vấn chịu sự quản
lý, kiểm tra của đại diện Ban chủ nhiệm Khoa và cán bộ quản lí sinh viên.
4.3. Ban tƣ vấn cấp Khoa, cấp Tổ bộ môn
Ban chủ nhiệm Khoa, các Trưởng bộ môn sẽ tư vấn chuyên môn sâu cho sinh
viên về từng chuyên ngành như: môn học tự chọn, môn học bắt buộc, các môn học
tiên quyết, nghiên cứu khoa học và phương pháp học tập, kĩ năng học tập, phương
pháp học tập các môn học chuyên ngành, tài liệu học tập, tham khảo, các vấn đề thực
tập, rèn luyện nghiệp vụ, ... Bên cạnh đó, tiếp cận với cách làm việc của nhiều trường
học ở nước ngoài, ban tư vấn sinh viên cấp Khoa đã làm tốt công tác giới thiệu về
trường, khoa, ngành, môn học cho sinh viên các khóa mới qua môn học Nhập môn
ngành và giới thiệu các vị trí của khuôn viên trường, văn phòng, thư viện, khu học
tập, làm việc và khu giải trí, sinh hoạt, luyện tập thể thao,....
3.5. Quản lí sinh viên
Cán bộ quản lý sinh viên các Khoa theo dõi hoạt động của nhóm sinh viên tư
vấn tình nguyện, giúp đỡ và phối hợp với nhóm hiện tốt kế hoạch hoạt động hàng
tháng với các lớp đồng thời tổ chức cho lớp đánh giá hoạt động tư vấn của nhóm tư
vấn tình nguyện định kỳ và gửi Phiếu đánh giá về Ban tư vấn sinh viên.
3.6. Giảng viên giảng dạy
Giảng viên với vai trò hợp tác và hỗ trợ công tác cố vấn học tập trong đào tạo
theo học chế tín chỉ, có thể giải đáp thắc mắc và tư vấn cho sinh viên chuyên sâu về
ngành, về từng môn học như:
- Hỗ trợ kĩ năng học tập, phương pháp học tập;
- Rèn phẩm chất ngành nghề;
- Nhắc nhở thực hiện môn học theo tiến độ, chương trình, kế hoạch;
- Thực hiện các qui chế (thi cử), qui định (nề nếp, trang phục…);
- Giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, tư vấn lối sống cho sinh viên;
- Theo dõi và nắm rõ được tư tưởng, tâm lý và nguyện vọng của sinh viên để
định hướng uốn nắn kịp thời.
Giảng viên cũng sẽ giải đáp các vấn đề thắc mắc của sinh viên phát sinh trước,
trong và sau môn học.
143
4. Đề xuất
Hiện nay, hệ thống cố vấn học tập như trên đang hoạt động hiệu quả, đạt những
thành công nhất định và tạo được niềm tin ở sinh viên. Nhiều điểm mạnh và mới trong
công tác này những năm gần đây đang được phát huy. Song, vẫn còn nhiều tình
nguyện tư vấn là sinh viên chỉ mới thực hiện công việc cố vấn ở góc độ hẹp của cố
vấn học tập. Các em đã tư vấn học môn dễ lấy điểm cao, ít thi rớt chứ không phải là
do môn học có kiến thức và kĩ năng phu hợp với nghề hay rất cần thiết cho sau này.
Việc tư vấn chỉ mới đảm bảo nhu cầu trước mắt, chưa chú ý lợi ích lâu dài.
Một số điểm hạn chế khác của công tác cố vấn học tập:
- Số sinh viên tình nguyện tư vấn học tập cần thiết cho số lượng sinh viên ít hơn
mức cần có. Một vài tình nguyện viên là sinh viên khác ngành đào tạo, chưa nắm
vững chuyên ngành mà mình cần tư vấn, chưa có sự liên lạc chặt chẽ (do lịch học
khác nhau, tạm thời chưa khắc phục được).
- Một số sinh viên tình nguyện tư vấn vắng họp định kì nên có nhiều lỗ hổng
trong việc nắm được những quy định cơ bản của chương trình đào tạo do đó còn gặp
nhiều khó khăn trong quá trình hướng dẫn và giải đáp những thắc mắc của sinh viên.
- Bản thân sinh viên cần được tư vấn chưa chủ động, kỹ năng làm việc độc lập
yếu, vẫn còn lệ thuộc vào cán sự lớp và cố vấn học tập. Nhiều sinh viên khi nghe phổ
biến thông tin thì lơ là, đến lúc gặp vấn đề thì mới tìm hỏi lại, làm mất thời gian công
sức của cố vấn. Cũng có sinh viên không chủ động cầu cứu và cũng không biết cách
tìm người giúp đỡ dẫn đến hậu quả nặng nề khi được phát hiện ra.
Do vậy, công tác cố vấn cần được quan tâm đến vấn đề sau:
4.1. Về quản lí và phân nội dung cố vấn
Ban tư vấn cần phân mảng nội dung và chuyên viên phụ trách để hỗ trợ, tư vấn
đạt hiệu quả cao. Đối tượng được tư vấn cũng nên được phân ra thành các nhóm để tư
vấn theo chuyên đề, chủ điểm:
- Nhóm sinh viên năm nhất: là nhóm cần được tư vấn về qui chế, nề nếp, chương
trình đào tạo, môn học, ngành học, đăng kí học phần, hòa nhập cuộc sống ở đại học,
môi trường học tập, chế độ học bổng, ....
- Nhóm sinh viên năm hai: là nhóm bắt đầu có những vấn đề về cải thiện điểm,
học lại, tích lũy tín chỉ, lựa chọn môn học tự chọn, bắt buộc, nghiên cứu khoa học, rèn
luyện nghiệp vụ, chế độ học bổng, ....
144
- Nhóm sinh viên năm thứ ba và thứ tư: là nhóm cần hỗ trợ các vấn đề về cải
thiện điểm, lựa chọn chuyên đề, đăng kí, qui trình thực tập, nghiên cứu khoa học,
khóa luận, hồ sơ thực tập, hồ sơ xét tốt nghiệp, định hướng việc làm,...
Cần phân loại hoặc cần quan tâm đến những sinh viên có thành tích trung bình
và diện cảnh báo về học tập vì thông thường các em này ý thức cũng không tốt, thụ
động ít chịu tìm hiểu, học hỏi. Nên quan tâm đặc biệt thường xuyên nhóm đối tượng
này để phát hiện kịp thời những chậm trễ, sai sót của các em giúp các em điều chỉnh
kịp thời, nhất là trong đăng kí môn học.
Ngoài tư vấn về cách học tập, tinh thần thái độ học tập, cũng cần quan tâm hơn
đến việc truyền nhiệt huyết và lòng yêu nghề, sự am hiểu chuyên môn đang đào tạo
của người tư vấn để giúp sinh viên đam mê trong học tập.
4.2. Về hình thức, cách thức cố vấn
Những việc làm cần thiết hiện tại có thể là:
- Dự đoán những khó khăn chung của sinh viên ở một vài thời điểm và tổ chức
cung cấp thông tin bằng phương tiện thông tin rộng rãi của trường (bảng thông báo,
website, chương trình phát thanh học đường;
- Cập nhật mới, hấp dẫn trang web của ban tư vấn với những thông tin nhằm
hướng dẫn, trao đổi giải đáp thắc mắc của sinh viên.
- Tận dụng xu hướng sử dụng các trang mạng xã hội của giới tre để cung cấp
thông tin tư vấn.
- Cần linh hoạt hình thức cố vấn (gặp trực tiếp, điện thoại, mạng xã hội,
email,….).
- Khuyến khích giảng viên dạy lồng ghép tư vấn trong và ngoài bài dạy, giờ ra
chơi.
4.3. Hồ sơ và bồi dƣỡng định kì kĩ năng, kiến thức cho tƣ vấn tình nguyện
Ban tư vấn sinh viên, quản lí sinh viên, Đoàn thanh niên thường xuyên kiểm tra
việc cập nhật thông tin từ phía sinh viên tình nguyện cố vấn học tập để nắm bắt tình
hình công tác này và theo dõi thông tin để lắng nghe ý kiến, góp ý. Tổ chức thi cố vấn
học tập trong sinh viên để khơi dậy tinh thần tự nguyện, sự ham thích của các em và
nâng cao kiến thức, kĩ năng tư vấn. Tổ chức bình xét cố vấn, tư vấn viên học tập giỏi
để tăng ý thức trách nhiệm và để khuyến khích cố vấn học tập làm việc.
145
5. Kết luận
Các trường đại học Việt Nam đã chuyển dần sang đào tạo theo học chế tín chỉ.
Công tác cố vấn học tập đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc giúp đỡ sinh
viên. Mặc dù còn vài vấn đề cần quan tâm nhưng nhìn chung mô hình làm việc với sự
phối hợp chặt chẽ về hình thức, nội dung của các bộ phận trong hệ thống đã hoạt động
hiệu quả và đạt được kết quả nhất định. Tuy nhiên, mô hình này cũng cần được chú ý
phát huy và cải thiện một số mặt để hoạt động tư vấn càng hiệu quả, giải quyết những
khó khăn của sinh viên trong học tập tín chỉ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thông báo về việc thành lập Ban tư vấn sinh viên, Trường Đại học Đồng Tháp,
số 250/TB-ĐHĐT, ngày 16/9/2013.
2. Thông báo qui định tạm thời về hoạt động của cố vấn học tập, số 280/TB-
ĐHĐT, ngày 1/10/2013.
3. Qui định tổ chức và quản lý hoạt động tư vấn sinh viên trường Đại học Đồng
Tháp, 10/2013.
4. Thông báo triển khai hoạt động hỗ trợ sinh viên của Phòng thường trực ban tư
vấn sinh viên, Trường Đại học Đồng Tháp, số 402/TB-ĐHĐT, ngày 2/12/2013.
5. Phan Quang Thế, Đào tạo theo hệ thống tín chỉ tạo động lực cho sự phát triển
năng lực cá nhân của người học, Tham luận tại Hội thảo khoa học “Đào tạo
liên thông trong Hệ thống tín chỉ”, Trường ĐH Kĩ thuật Công nghiệp Thái
Nguyên.
146
VAI TRÒ CỦA CỐ VẤN HỌC TẬP TRONG ĐÀO TẠO TÍN CHỈ Ở
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH
Nguyễn Thị Nhung1
Hà Thị Lan Dung2
1. Đặt vấn đề
Trường Đại học công nghiệp Quảng Ninh đã tổ chức đào tạo theo học chế tín
chỉ từ năm học 2010-2011. Việc chuyển đổi từ hình thức đào tạo niên chế sang hình
thức đào tạo tín chỉ đã tạo một bước ngoặt lớn đối với cả người dạy và người học. Một
trong những công tác quan trọng của nhà trường là việc thành lập đội ngũ cố vấn học
tập nhằm đáp ứng được nhu cầu thông tin của sinh viên và tạo điều kiện thuận lợi cho
sinh viên trong suốt quá trình học tập ở bậc Đại học. Cố vấn học tập là người tư vấn
và hỗ trợ sinh viên phát huy tối đa khả năng học tập, lựa chọn học phần phu hợp để
đáp ứng mục tiêu tốt nghiệp và khả năng tìm được việc làm thích hợp; theo dõi thành
tích học tập của sinh viên nhằm giúp sinh viên điều chỉnh kịp thời hoặc đưa ra một lựa
chọn đúng trong quá trình học tập. Ngoài ra, cố vấn học tập còn giám sát hoạt động
học tập của sinh viên, giúp sinh viên nhận thức được tầm quan trọng của quy chế đào
tạo, nắm được chương trình đào tạo và phương pháp học tập mới ở bậc Đại học. Vì
vậy, có thể nói rằng cố vấn học tập có vai trò then chốt trong mối quan hệ nhà trường
với sinh viên giúp sinh viên thành công trong học tập.
2. Nhiệm vụ cơ bản của cố vấn học tập
Sinh viên trong hệ thống đào tạo theo học chế tín chỉ đòi hỏi phải biết tự chủ và
tự chịu trách nhiệm trong việc học tập của mình. Để làm tốt việc này cần có một bộ
phận phụ trách tư vấn học tập cho các em, đó là những cố vấn học tập. Công tác cố
vấn học tập tại trường Đại học Công nghiệp Quảng Ninh được quy định rõ ràng trong
Quy chế Công tác cố vấn học tập cho sinh viên đại học và cao đẳng hệ chính quy theo
học chế tín chỉ ban hành kèm theo Quyết định số 332 /2011/QĐ-ĐT ngày 08 tháng
07 năm 2011 của Hiệu trưởng Trường đại học Công nghiệp Quảng Ninh. Quy chế này
quy định rõ 03 vấn đề chủ đạo đối với công tác làm cố vấn học tập bao gồm:
- Tiêu chuẩn và quy trình bổ nhiệm cố vấn học tập
- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cố vấn học tập
- Hoạt động của cố vấn học tập
1 ThS – Giảng viên bộ môn Lý luận Chính trị, trường Đại học Công nghiệp Quảng Ninh
2 ThS – Giảng viên bộ môn Lý luận Chính trị, trường Đại học Công nghiệp Quảng Ninh
147
Ơ đây, tác giả chỉ xin làm rõ những nhiệm vụ cơ bản của cố vấn học tập, thực tế
đã và đang được triển khai thực hiện tại trường Đại học Công nghiệp Quảng Ninh. Cố
vấn học tập có nhiệm vụ sau:
Hướng dẫn sinh viên nắm vững các quy chế đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào
tạo và các quy định của nhà trường liên quan đến quyền và nghĩa vụ của sinh viên;
Tư vấn cho sinh viên phương pháp học đại học, phương pháp tự học và kỹ
năng nghiên cứu khoa học, kỹ năng thu thập, xử lý thông tin, tài liệu học tập;
Thảo luận và hướng dẫn cho sinh viên chương trình đào tạo toàn khóa và cách
lựa chọn học phần, tuân thủ các điều kiện tiên quyết của từng học phần;
Hướng dẫn quy trình, thủ tục cho sinh viên đăng ký học phần, hủy đăng ký học
phần, xây dựng kế hoạch học tập cá nhân cho từng học kỳ;
Ký chấp nhận hoặc từ chối vào phiếu đăng ký học phần cho sinh viên;
Thảo luận và trợ giúp sinh viên trong việc lựa chọn nơi thực tập, lựa chọn đề
tài khóa luận, tiểu luận, đề tài nghiên cứu khoa học phù hợp với năng lực, nguyện
vọng và định hướng nghề nghiệp của sinh viên;
Nhắc nhở động viên sinh viên khi thấy kết quả học tập của họ giảm sút hoặc có
nguy cơ giảm sút.
Ngoài những nhiệm vụ chính trên, cố vấn học tập còn tham gia công tác quản
lý sinh viên và làm tốt các công việc khác như sau:
Tham gia các cuộc họp, tập huấn về công tác cố vấn học tập theo yêu cầu của
nhà trường. Kết thúc khóa tập huấn, phải nắm vững mục tiêu, chương trình đào tạo,
tiến trình đào tạo, các học phần bắt buộc, tự chọn các hình thức đào tạo cũng như các
quy trình liên quan đến công tác đào tạo và quản lý sinh viên;
Xây dựng bản kế hoạch hoạt động của cố vấn học tập theo năm học;
Xây dựng và công khai lịch tiếp sinh viên, thời gian và địa điểm tiếp sinh viên
định kỳ, cung cấp cho sinh viên số điện thoại, email và các phương tiện liên lạc khác
để sinh viên liên lạc trong trường hợp cần thiết;
Bàn giao đầy đủ, kịp thời khi chuyển giao nhiệm vụ cố vấn học tập cho người
khác theo sự phân công của nhà trường.
Như vậy, có thể nói rằng cố vấn học tập có vai trò đặc biệt quan trọng là một
nhân tố then chốt trong mối liên hệ giữa nhà trường- sinh viên – thị trường lao động.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, cố vấn học tập phải là người vừa có “ Tâm”
vừa có “ Tài”, là một chuyên gia tư vấn về học tập và việc làm cho sinh viên, đồng
hành cùng sinh viên trong quá trình học tập.
148
3. Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lƣợng công tác cố vấn
Trong những năm qua thực hiện quy trình đào tạo theo học chế tín chỉ, trường
Đại học Công nghiệp Quảng Ninh đã thu được những kết quả như: Xây dựng, cấu trúc
lại 09 chương trình giáo dục ngành và chuyên ngành trình độ đại học, 17 chương trình
giáo dục ngành và chuyên ngành trình độ cao đẳng; tổ chức biên soạn và ban hành
248 chương trình chi tiết học phần trình độ đại học, 444 chương trình chi tiết trình độ
cao đẳng; Quy trình đánh giá, cho điểm; Quy trình quản lý điểm; Chuẩn đầu vào; Quy
trình đăng ký môn học, xét tốt nghiệp; Ban hành Quy chế đào tạo theo học chế tín chỉ
của trường đại học Công nghiệp Quảng Ninh....Có được sự thành công đó phải kể tới
sự đóng góp to lớn của đội ngũ cố vấn học tập.
Nhà trường đã thành lập được Hội đồng cố vấn cấp trường, hình thành một đội
ngũ cố vấn học tập thường xuyên hoạt động tư vấn cho sinh viên trong quá trình học
tập tại trường (cụ thể nhà trường đã sắp xếp thời gian, địa điểm yêu cầu các giảng viên
cố vấn học tập chủ thông báo cho sinh viên biết để tiếp xúc 1 giờ/tuần ).
Nhà trường đã xây dựng được hệ thống văn bản hướng dẫn hoạt động cho cố
vấn học tập và sinh viên như: Sổ tay cố vấn học tập, sổ tay sinh viên, những điều sinh
viên cần biết, hệ thống mẫu biểu, đơn giúp sinh viên thuận tiện trong quá trình đăng
ký học phần môn học và giải quyết các nguyện vọng của cá nhân.
Sinh viên nhà trường bước đầu thích ứng với yêu cầu, đòi hỏi của quá trình đào
tạo theo học chế tín chỉ.
Cho đến thời điểm hiện tại, công tác cố vấn học tập của nhà trường đã tương đối
đi vào nề nếp, phần lớn giảng viên được phân công làm nhiệm vụ cố vấn học tập đã
quen dần với việc thực hiện những nhiệm vụ theo quy định và sinh viên cũng ý thức
rõ hơn về vai trò của cố vấn học tập ngay từ khi vào trường cho đến lúc tốt nghiệp ra
trường. Vì vậy, những vấn đề vướng mắc nảy sinh trong quá trình học tập của sinh
viên đã được giải quyết kịp thời thông qua sự phối hợp của cố vấn học tập với các đơn
vị phòng ban chức năng.
Bên cạnh những kết quả đạt được trên, công tác cố vấn học tập ở trường Đại học
Công nghiệp Quảng Ninh vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế.
Hầu hết cố vấn học tập của trường đều là giảng viên nên phần lớn không có đủ
thời gian để thực hiện các công việc liên quan đến cố vấn học tập. Thời gian làm việc
chủ yếu của giảng viên là giảng dạy trong đó đa số giảng viên đều giảng dạy vượt giờ
chuẩn theo quy định (có một số giảng viên vượt tới 300% số tiết giảng theo quy định)
đồng thời còn tham gia công việc của bộ môn, khoa, trường, lại vừa làm cố vấn học
149
tập cho hàng trăm sinh viên. Vì vậy, đôi khi cố vấn học tập không thể hoàn thành tốt
nhiệm vụ cố vấn của mình.
Thời gian làm việc chủ yếu của giảng viên là giảng dạy và tham gia nghiên cứu
khoa học. Công tác cố vấn học tập đôi khi chỉ được coi như là một nhiệm vụ thứ yếu,
bị bắt buộc phải làm.
Một số cố vấn học tập là những giảng viên tre mới chuyển đến công tác tại
trường chưa lâu nên chưa nắm bắt hết các quy định có liên quan đến công tác đào tạo,
công tác sinh viên cũng như nhiều những quy định khác có liên quan. Họ gặp khá
nhiều khó khăn trong khi làm việc với sinh viên, dẫn những sai sót, những hiểu lầm
không đáng có… Thường thì, cố vấn học tập mới chỉ dừng lại ở việc hướng dẫn sinh
viên cách thức đăng ký thời khóa biểu ở đầu mỗi học kỳ mà chưa đủ kiến thức, kinh
nghiệm để giúp sinh viên bố trí, sắp xếp kế hoạch học tập cho toàn khóa cho phù hợp
với điều kiện và hoàn cảnh thực tế của sinh viên.
Chế độ đãi ngộ đối với cố vấn học tập hiện nay cũng chưa thỏa đáng, điều đó, ít
nhiều ảnh hưởng tới tinh thần làm việc họ.
Từ những thành công và hạn chế trong quá trình triển khai thực hiện công tác cố
vấn học tập tại trường Đại học Công nghiệp Quảng Ninh, nhằm góp phần nâng cao
chất lượng công tác cố vấn học tập đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đào tạo theo học chế tín
chỉ, cần tiếp tục tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
- Về phía nhà trường
Để phát huy vai trò, chức năng và nhiệm vụ của cố vấn học tập trong đào tạo
theo học chế tín chỉ, nhà trường cần thiết phải xây dựng quy trình công tác cố vấn học
tập một cách khoa học, đồng thời phải tổ chức các buổi hội thảo bồi dưỡng kỹ năng cố
vấn, giải quyết vấn đề liên quan đến công tác cố vấn học tập cho lực lượng giảng viên
tre. Thù lao cho công tác cố vấn học tập đã được tính vào giờ chuẩn nhưng cần phải
có chính sách khen, thưởng đối với các cố vấn học tập hoàn thành tốt nhiệm vụ. Nhà
trường thực hiện tốt việc này sẽ kích thích cố vấn học tập hoàn thành tốt hơn nhiệm
vụ được giao.
Bên cạnh đó, nhà trường cần tăng cường hơn nữa vai trò của phòng Công tác
học sinh sinh viên trong việc tư vấn cho sinh viên về các thủ tục hành chính, các vấn
đề về đời sống học đường, vv… thông qua các hình thức tư vấn trực tiếp, tư vấn qua
e-mail, đặc biệt, cần công khai hóa một cách đầy đủ các thủ tục liên quan đến sinh
viên và hướng dẫn chi tiết trên website của trường để sinh viên dễ dàng thực hiện
nhằm giảm bớt nhiệm vụ cho cố vấn học tập.
150
- Về phía cấp khoa, bộ môn
Mỗi khoa nên cử một chuyên viên chịu trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ của
cố vấn học tập cho tất cả các lớp trong khoa và có sự phối hợp với các phòng ban
chức năng trong trường để đảm bảo được tính tập trung, chuyên nghiệp của công tác
cố vấn. Có như vậy, những vấn đề vướng mắc liên quan đến sinh viên sẽ được giải
quyết một cách nhanh chóng và hiệu quả.
- Về phía các cố vấn học tập
Cố vấn học tập phải nắm chắc chương trình đào tạo mà sinh viên đang theo học,
cập nhật kịp thời những thông tin mới từ phía bộ môn, khoa, nhà trường để kịp thời
phổ biến cho sinh viên. Cố vấn học tập cần thường xuyên liên lạc, tiếp xúc với ban
cán sự lớp và cả lớp thông qua các buổi họp lớp để kịp thời giải quyết các vấn đề mà
sinh viên đang thắc mắc.
4. Kết luận
Công tác cố vấn học tập cho sinh viên trong quá trình học tập tại các trường Cao
đẳng Đại học hiện nay nói chung và tại trường Đại học Công nghiệp Quảng Ninh nói
riêng là khâu vô cùng quan trọng và cần thiết không thể thiếu được trong quy trình
đào tạo theo học chế tín chỉ. Công việc này chỉ có thể thực hiện tốt khi đội ngũ cố vấn
học tập thực sự nỗ lực, đề cao trách nhiệm coi sinh viên như con em mình, luôn nghĩ
sinh viên không hoàn thành nhiệm vụ học tập là công tác cố vấn học tập chưa đạt yêu
cầu. Vì vậy, để đạt được hiệu quả tốt trong công tác cố vấn học tập cần phải có sự hợp
tác giữa các đơn vị phòng khoa và đội ngũ cố vấn học tập, đặc biệt là mối quan hệ
giữa sinh viên với cố vấn học tập, có như vậy mới tạo nên sự thành công trong việc tổ
chức đào tạo theo học chế tín chỉ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ThS. Nguyễn Thị Thúy Hạnh, ThS. Nguyễn Thị Thủy Chung , Nâng cao vai
trò của cố vấn học tập trong đào tạo theo học chế tín chỉ, trường Đại học
Thương Mại.
2. Quy chế Công tác cố vấn học tập cho sinh viên đại học và cao đẳng hệ chính
quy theo học chế tín chỉ ban hành kèm theo Quyết định số 332 /2011/QĐ-ĐT
ngày 08 tháng 07 năm 2011 của Hiệu trưởng Trường đại học Công nghiệp
Quảng Ninh.
3. ThS. Vũ Kim Tường, Thực trạng và giải pháp về công tác cố vấn học tập ở
trường Đại học Hùng Vương, trường Đại học Hùng Vương.
151
VÀI NÉT VỀ CÔNG TÁC CỐ VẤN HỌC TẬP TRONG ĐÀO TẠO THEO
HỌC CHẾ TÍN CHỈ TẠI TRƢỜNG CAO ĐẲNG SƢ PHẠM KON TUM
Trƣơng Thị Minh Nguyệt1
1. Đặt vấn đề
Cố vấn học tập (CVHT) có vai trò đặc biệt quan trọng, không thể thiếu trong đào
tạo theo học chế tín chỉ. Mỗi cố vấn học tập là nhân tố then chốt trong mối quan hệ
nhà trường – sinh viên (SV), là chuyên gia tư vấn về học tập, quản lí sinh viên trong
suốt quá trình học tập.
Tại trường CĐSP Kon Tum, sinh viên người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ khá lớn
(554/1104 SV) chiếm 50,18%. Đặc điểm của SV người dân tộc thiểu số thường nhút
nhát, phần lớn ít giao tiếp, ít trao đổi với bạn. Đối với giáo viên, những SV này càng
rụt rè hơn. Trong học tập, tính tự học, hợp tác và khả năng tư duy của HS dân tộc
thiểu số thường kém hơn SV người kinh. Vì vậy, nhiều SV không biết lập kế hoạch
học tập, đối với nghiên cứu khoa học lại càng khó khăn…. Bằng chứng là năm học
2012-2013, 2013-2014, có không ít SV bị điểm D, không đủ điểm tích lũy. Tuy nhiên,
các em lại có năng khiếu về hoạt động bề nổi như văn nghệ, thể thao. Vì vậy, CVHT
cần phải có biện pháp để tư vấn, giúp đỡ đối tượng SV này nhằm phát huy mặt mạnh
cũng như giúp SV manh dạn hơn, chủ động hơn trong học tập, nghiên cứu khoa học
cũng như tìm việc làm.
2. Thực trạng công tác cố vấn học tập của giảng viên trƣờng CĐSP Kon Tum
Năm học 2014-2015, trường CĐSP Kon Tum có 33 lớp với tổng số sinh viên là
1104. Đội ngũ giảng viên được giao nhiệm vụ làm CVHT có trình độ như sau (xem
bảng)
Bảng: Trình độ đội ngũ giảng viên đƣợc giao nhiệm vụ cố vấn học tập
Số lớp Số
CVHT
Tiến sỹ Thạc sỹ Đại học
33 21 0 9 12
Từ số liệu trên cho thấy không phải mỗi giảng viên làm CVHT cho một lớp mà
có giảng viên phải thực hiện công việc CVHT đến 2 hoặc 3 lớp, điều này cũng khó
khăn cho GV khi thực hiện đúng nhiệm vụ của một CVHT vì GV còn phải đứng lớp,
1 ThS – Giảng viên trường Cao đẳng Sư phạm Kon Tum
152
nghiên cứu khoa học và công tác đoàn thể. Mặt khác, từ số liệu trên cũng cho thấy đội
ngũ giảng viên làm công tác CVHT chủ yếu có trình độ đại học (chiếm 57,14%), thạc
sỹ chiếm 42,86%, không có CVHT nào có trình độ tiến sỹ. Do vậy các GV này có nhu
cầu đi học để nâng cao trình độ nên việc duy trì cùng một CVHT cho một lớp trong
suốt khóa học rất khó thực hiện. Vì vậy nhiều lớp phải liên tục thay đổi CVHT không
chỉ trong năm mà cả trong từng kì. Điều này gây khó khăn cho cả lớp và CVHT vì lại
phải mất một thời gian làm quen, tìm hiểu SV. Hơn nữa, số giảng viên tre mới tốt
nghiệp đại học nên kinh nghiệm về công tác hướng dẫn SV nghiên cứu khoa học, làm
bài tập lớn còn hạn chế. Đa số giảng viên chưa thực hiện đúng nhiệm vụ của một
CVHT mà chỉ thực hiện vai trò là một giáo viên chủ nhiệm lớp. Bởi ở trường CĐSP
Kon Tum, CVHT và giáo viên chủ nhiệm là một. Các giảng viên mới chỉ thực hiện
được nhiệm vụ quản lí SV thực hiện những nội quy của nhà trường, xử lí SV vi phạm,
nắm diễn biến tư tưởng, tình cảm của SV, là cầu nối giữa khoa – nhà trường và SV.
Đa số CVHT cho rằng nhiệm vụ cơ bản của mình là giúp cho lớp ngoan, không vi
phạm các nội quy, quy chế, tham gia sôi nổi các hoạt động của trường; nhắc nhở SV
không bỏ tiết … Vì thế các CVHT du quan tâm đến SV nhưng công tác cố vấn cho
SV về việc sắp xếp kế hoạch học tập, về nghiên cứu khoa học vẫn gặp nhiều khó
khăn, chưa thực hiện hiệu quả.
Mặt khác, như đã nêu ở trên: vừa làm CVHT vừa làm GVCN, công việc rất
nhiều, họ lại đều là giảng viên, không ít người phải dạy vượt số tiết quy định, mặt
khác nhiều người cho rằng ở trường CĐSP Kon Tum du đã chuyển sang đào tạo theo
học chế tín chỉ nhưng các học phần cho một lớp chuyên ngành là cố định, không thay
đổi nên không lập kế hoạch học tập cho các đối tượng SV khác nhau. Thêm vào đó
một số SV thụ động, nếu không được hỏi đến thì không có ý kiến gì, không biết tự
xây dựng kế hoạch học tập cho mình. Cá biệt có những SV không thường xuyên quan
tâm đến điểm học tập của mình hiện tại có ảnh hưởng đến việc tốt nghiệp hay không,
có cần cải thiện hay không. Do đó, với một số học phần bắt buộc, kiến thức hàn lâm
như toán cao cấp, giải tích, lí luận chính trị... việc giúp SV lên kế hoạch học lại, thi lại
rất cần được CVHT hướng dẫn, tư vấn kế hoạch học và thi.
Đặc biệt đối với công tác nghiên cứu khoa học, cụ thể là việc hướng dẫn làm
bài tập lớn, đề án tốt nghiệp thì hầu như CVHT cho rằng đã có giảng viên hướng dẫn
và SV đã lớn, có thể tự tìm hiểu trên mạng hoặc các anh chị lớp trên.
Nhưng nhiệm vụ chủ yếu của một CVHT là tư vấn và giúp đỡ về phương pháp
học tập và nghiên cứu khoa học; hướng dẫn tham gia các hoạt động học thuật; tư vấn
hướng nghiệp và việc làm cho sinh viên thì nhiều GV còn lúng túng và thực hiện qua
loa. Điều này ảnh hưởng đến niềm tin của SV vào GV và các em khó khăn trong hoạt
153
động học tập và nghiên cứu khoa học, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo của nhà
trường. Năng lực đầu vào của SV trường CĐSP Kon Tum thấp hơn so với các trường
khác, đặc biệt là SV người dân tộc thiểu số tính chủ động trong học tập rất hạn chế,
đòi hỏi các CVHT phải phát huy vai trò, nhiệm vụ của mình, phải gần gũi, nhiệt tình
hướng dẫn và phải có năng lực nhất định thì mới giúp SV hiệu quả trong học tập và
nghiên cứu khoa học.
Hơn nữa, một số CVHT có trình độ chuyên môn không đúng chuyên ngành với
lớp được giao làm CVHT nên việc tổ chức một số hoạt động về tư vấn học tập, nghiên
cứu khoa học và việc làm gặp không ít khó khăn . Việc quản lí SV trên cương vị
CVHT có một số điểm mới so với GVCN mà một số CVHT chưa nắm bắt kịp.
Đối với vấn đề rèn luyện nghiệp vụ chuyên môn hầu hết các CVHT rất quan
tâm. Nhưng để làm tốt được điều này cần chú ý rất nhiều vấn đề từ nội dung, hình
thức tổ chức, bố trí thời gian của cả CVHT cũng như của SV. Việc hướng dẫn, kiểm
tra, nhất là khi công việc cũng mới me không thể thiếu sự điều hành, quản lý, chỉ dẫn
của CVHT hoặc giảng viên có trình độ chuyên môn. Tuy nhiên một CBGD có thể
phải làm CVHT cho hai, ba lớp, ngoài ra còn phải làm CVHT các lớp không đúng
chuyên ngành đào tạo của mình nên việc thực hiện kế hoạch, kiểm tra, giám sát, giúp
đỡ, tư vấn cho SV rất khó.
Về vấn đề tư vấn việc làm cho SV, hầu hết CVHT chưa thực hiện được và là
một vấn đề khó khăn. Mọi người cho rằng đương nhiên học nghề gì thì phải làm đúng
nghề đó. Chưa có một nghiên cứu quy định, hướng dẫn cụ thể về việc tạo điều kiện
cho SV làm thêm. Thiết nghĩ quy định này rất cần thiết vì chỉ như vậy các CVHT mới
có cơ sở để tư vấn cho SV không làm ảnh hưởng đến các tiêu chí thi đua khác. Một
số trường khi tổ chức chiêu sinh, họ có đưa ra vấn đề giới thiệu việc làm thêm, quy
định giờ được làm thêm đối với từng loại đối tượng...
Về mặt tổ chức các buổi họp với lớp SV thì hầu hết các CVHT đều làm đúng
theo quy định của nhà trường, tức là một tuần một buổi trên một lớp. Hồ sơ sổ sách
của các CVHT cũng thực hiện đúng các yêu cầu của trường, tuy nhiên để có thể nâng
cao hiệu quả hoạt động của CVHT cần phải bổ sung, chỉnh sửa bảng biểu, hồ sơ quản
lý đối với công tác này cụ thể và chi tiết hơn nữa. Hơn nữa hiện nay việc ghi chép, tạo
lập hồ sơ của CVHT mất nhiều thời gian mà chưa có tính cập nhật thông tin, lí do
CVHT chưa biết cách phối hợp với các phòng ban khoa tổ tiếp cận thông tin, trích lục
thông tin, việc mày mò làm thủ công sẽ không tiết kiệm thời gian và công sức…
154
Việc phối hợp giải quyết công việc của các CVHT và hội đồng CVHT chưa cao.
Thông thường nếu gặp khó khăn thì CVHT tự giải quyết hoặc tìm sự giúp đỡ từ các
khoa.
Hiện nay là năm thứ năm nhà trường triển khai phương thức đào tạo theo học
chế tín chỉ, nhưng một số CVHT cũng mới chỉ bắt tay vào công việc này lần đầu tiên
do đó vẫn còn rất lúng túng trong công việc, ví dụ chưa tư vấn tốt việc lập kế hoạch
học tập, đăng kí học lại, học vượt cho SV, tham mưu về tổ chức cho SV học các học
phần chung, cũng như tổ chức cho SV đăng ký trước các học phần tự chọn, tư vấn
việc làm...
3. Một số biện pháp nâng cao vai trò của CVHT tại trƣờng CĐSP Kon Tum
3.1. Nghiên cứu các văn bản liên quan đến công tác CVHT
Chỉ khi các CVHT nghiên cứu kĩ các văn bản này mới có thể có hướng tư vấn,
giáo dục tốt cho SV. Những quy định liên quan trực tiếp đến quá trình học tập của SV
cần lưu ý những điều sau:
- Điều 10 (Đăng kí khối lượng học tập) và điều 12 (Đăng kí học lại, miễn giảm
học phần Giáo dục quốc phòng, Giáo dục thể chất, Tiếng Anh, Tin học cơ bản) cần
được phổ biến, nhắc nhở thực hiện vào đầu mỗi học kì.
- Điều 21, 22 (Cách tính điểm đánh giá bộ phận, điểm học phần; cách tính điểm
trung bình chung) cần triển khai cho SV, đặc biệt là SV năm thứ nhất để SV biết cách
đọc bảng điểm, tự tính điểm. Cũng cần lưu ý cho SV rằng 5.5 trong thang điểm 10
tương ứng với điểm C (điểm trung bình) trong thang điểm 4 nhưng điểm trung bình
chung trong thang điểm 10 là 5.5 chưa chắc đó tương ứng với 2.0 trong thang điểm 4.
- Điều 14, 15 (Xếp hạng năm đào tạo và học lực; Bị buộc thôi học) cần phải
được thường xuyên nhắc nhở. Theo đó nếu SV nào có điểm xếp hạng năm học dưới
mức quy định, thời gian học vượt quá thời gian cho phép hoặc bị kỉ luật do thi hộ, nhờ
người thi hộ sẽ bị buộc thôi học. Đặc biệt nếu hai lần thi hộ hoặc nhờ người thi hộ còn
bị xúa tên khỏi danh sách SV của trường mà không được chuyển sang chương trình
đào tạo khác. Việc xếp hạng năm đào tạo phụ thuộc vào số tín chỉ mà SV tích lũy
được chứ không phụ thuộc vào khóa mà SV đang theo học.
3.2. CVHT cần tƣ vấn cho SV cách tìm hiểu thông tin, liên hệ công việc liên
quan đến công tác học tập và rèn luyện
Đồng thời với việc phổ biến các văn bản liên quan đến quá trình học tập và rèn
luyện của SV thì CVHT cần giới thiệu cho SV, đặc biệt là những SV năm đầu cách
tìm hiểu thông tin như cách đăng kí học phần, các loại đơn từ, cách kiểm tra kết quả
155
học tập, rèn luyện ở các phòng ban nào, vị trí ở đâu hoặc trong tài liệu nào, trang
thông tin điện tử nào?
3.3. CVHT cần xây dựng đội ngũ cán bộ lớp, cán bộ Đoàn có chất lƣợng.
Phát huy vai trò của cán bộ lớp, cán bộ Đoàn
Đối với các trường chuyên nghiệp BCS, BCH đóng vai trò rất quan trọng. Hầu
hết các hoạt động của lớp CVHT chỉ đóng vai trò chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra đôn
đốc còn việc lên kế hoạch, triển khai hoạt động thì BCS, BCH thực hiện.
Đối với các lớp học năm thứ nhất việc xác định một số SV có năng lực lãnh
đạo là khó khăn, vì vậy CVHT có thể cho SV trong lớp tự bình chọn hoặc đề cử các
SV có điểm đầu vào cao. Điều quan trọng là sau khi được bầu chọn thì CVHT có
trách nhiệm đào tạo họ trở thành những người làm việc hiệu quả. Để thực hiện được
điều đó CVHT trước tiên phải hướng mỗi SV ở các chức vụ khác nhau nhiệm vụ của
mình, ngoài ra cần giới thiệu cho họ một số cán bộ lớp, cán bộ Đoàn ở các lớp trên để
họ có thể tự học hỏi thêm.
Đối với các lớp năm thứ hai hoặc ba, CVHT trên cơ sở đó tìm hiểu về tư cách
SV, sự tư vấn của các CVHT năm trước tư vấn, hướng cho SV lựa chọn những SV
xứng đáng để bầu chọn vào BCS, BCH.
Sau khi đó được bầu chọn CVHT phải thường xuyên kiểm tra, theo dõi việc thực
hiện nhiệm vụ của BCS, BCH, phải làm thế nào để họ trở thành những người luôn chủ
động trong trong công việc, tự giác nhận kế hoạch từ khoa hoặc BCH liên chi, lên kế
hoạch, phân công nhiệm vụ và theo dõi thực hiện. Tất nhiên đồng thời với việc đó
BCH, BCS cần báo cáo với CVHT để được theo dõi, uốn nắn và tư vấn thêm.
CVHT nên phát huy vai trò của BCS, BCH trong quá trình theo dõi diễn biến tư
tưởng của SV, nhất là diễn biến tư tưởng trong giai đoạn chính trị có nhiều vấn đề vì
họ là những người gần gũi với toàn thể SV trong lớp hơn CVHT, mọi SV đều dễ dàng
bộc lộ quan điểm của mình trong cả quá trình học tập, hoạt động cùng với lớp.
3.4. Xây dựng kế hoạch giúp đỡ SV cá biệt
Trong một lớp học có thể xuất hiện một số các SV cá biệt như những SV lười
học, không tham gia các hoạt động tập thể…Để có thể cải tạo được số SV này trước
hết CVHT cần biết các nguyên nhân dẫn đến thái độ học tập, sinh hoạt đó. Thông
thường SV đó lớn (trên 18 tuổi) và muốn được tôn trọng, thể hiện cái tôi của mình nên
CVHT nên tìm cách tâm sự, khuyên bảo, kịp thời cảnh báo về kết quả học tập, rèn
luyện hơn là việc quát nạt. Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết CVHT có thể liên hệ
với phụ huynh để kết hợp các biện pháp giáo dục phu hợp.
156
Trong các lớp học hiện nay có một phần không nhỏ các SV là người dân tộc
thiểu số. Như đã phân tích ở trên, những SV này đa phần ít muốn giao tiếp với các
bạn người kinh, không trao đổi chính kiến của mình trong hoạt động nhóm, lớp, nhút
nhát…vì vậy CVHT cần chủ động gần gũi, trò chuyện để giúp các en bộc lộ mình,
tháo gỡ những khó khăn trong học tập. CVHT cũng cần tổ chức các hoạt động nhóm
và phân công các SV này vào các nhóm có các SV mạnh dạn, sôi nổi. Điều này sẽ dễ
dàng thực hiện hơn khi CVHT phối hợp với vai trò là giảng viên (tức là trực tiếp
giảng dạy).
3.5. Phát huy những điểm mạnh của SV dân tộc thiểu số
Phát huy điểm mạnh của các SV là người dân tộc thiểu số cũng chính là giúp các
em nhanh chóng hòa nhập với môi trường cao đẳng sư phạm, tự tin vào bản thân và
làm cho các hoạt động bề nổi của lớp đạt hiệu quả cao. Các CVHT phải tìm ra thế
mạnh của từng SV, khuyến khích, động viên các em tham gia phong trào. Nếu được
có thể đề cử cho các em giữ một chức vụ nào đó trong BCS, BCH để các em thấy
được sự tôn trọng của CVHT với người dân tộc thiểu số. Tuy nhiên cũng cần lưu ý
rằng các em cũng rất dễ bỏ cuộc nếu không đạt được thành tích như mong đợi vì vậy
phải có sự kiểm tra, theo dõi, hướng dẫn, động viên một cách thường xuyên.
3.6. Hƣớng dẫn SV NCKH, tìm việc làm
Tư vấn về nghiên cứu khoa học là một trong những nhiệm vụ của CVHT. Chính
vì vậy từ đầu học kì II các CVHT đó phải xây dựng kế hoạch để phổ biến về tiêu
chuẩn, các bước thực hiện, các mẫu những vấn đề thường gặp tham gia làm bài tập
lớn hay một đề án tốt nghiệp. Bài tập lớn giúp các em từng bước tiếp cận, làm quen
với phương pháp nghiên cứu khoa học, rèn luyện kĩ năng tự học, tổng hợp vấn đề từ
tài liệu là một yêu cầu cấp thiết cho công việc trong tương lai nhưng kèm theo đó là
việc đòi hỏi sự đầu tư thích đáng về thời gian, công sức và cả tài chính.
Tuy theo điều kiện cụ thể của các đối tượng SV mà CVHT có thể tư vấn cho họ
các công việc làm thêm ngoài giờ học nhằm cải thiện điều kiện tài chính, rèn luyện kĩ
năng sống.
Trong thực tế cuộc sống hiện nay, không phải SV nào khi ra trường đều được
nhận các công việc phu hợp với ngành học của mình. Vì vậy CVHT có thể tư vấn cho
các em việc lựa chọn các công việc liên quan gần đến chuyên ngành học hoặc thích
hợp với trình độ học vấn.
3.7. Xây dựng kế hoạch tổ chức cho SV RLNVSPTX
Vấn đề RLNVSP rất quan trọng đối với SV. Mỗi CVHT cần phân tích để SV
157
thấy rõ điều đó để chủ động thực hiện. Ngay từ đầu học kì thứ II các CVHT tư vấn
cho BCS lớp xây dựng một kế hoạch cụ thể cho từng SV.
Việc RLNVSPTX được thực hiện tại lớp như rèn chữ viết, tập giảng. Để công
việc có hiệu quả hơn CVHT nên tham mưu với khoa để phân công các CBGD có
chuyên môn tham gia dự giờ, góp ý ít nhất một tiết trên một SV trong một năm học
đối với SV thứ II, riêng với SV năm ba thì ít nhất một tiết trên một SV trong kì V.
Các CVHT cần đi dự giờ ở trường phổ thông để nắm thực tiễn dạy học ở phổ thông
nhằm giúp SV RLNVSP hiệu quả, phục vụ tốt cho quá trình thực tập sư phạm cũng
như sau khi ra trường.
Ngoài ra hướng dẫn SV tập làm đồ dung dạy học cũng là một vấn đề cần lưu ý
vì đây cũng là một yêu cầu trong quá trình thực tập, đồng thời thôi thúc các em cố
gắng tự tìm tòi, học hỏi, hiểu sâu thêm kiến thức. Nếu được sự phối hợp của các khoa
tổ chức thi RLNVSP hàng năm thì hiệu quả công việc sẽ cao hơn bởi vì SV sẽ có
mục tiêu hướng tới rõ ràng và gần hơn. Để mọi SV đều được tham gia vào việc luyện
tập làm đồ dung dạy học thì CVHT nên hướng dẫn cho các em chia thành nhiều
nhóm nhỏ, mỗi nhóm thực hiện làm một bộ đồ dung.
Đối với các lớp ngoài sư phạm, CVHT có thể phối hợp với phòng tổ chức,
phòng đào tạo xin giấy giới thiệu, khuyến khích các em có thể tiếp cận công việc từ
năm thứ hai nếu bản thân các em có thể tự liên hệ.
4. Kết luận
Trong đào tạo theo học chế tín chỉ, CVHT rất quan trọng. Để phát huy vai trò,
chức năng và nhiệm vụ của GVCVHT, nhà trường cũng cần phải xây dựng quy trình
công tác CVHT một cách khoa học, đồng thời phải tổ chức lại công tác chủ nhiệm
lớp, tách biệt với công tác CVHT. Đặc biệt tăng cường vai trò của Phòng Công tác
Học sinh – Sinh viên trong việc tư vấn cho sinh viên về các thủ tục hành chính, các
vấn đề về đời sống học đường, vv… thông qua các hình thức tư vấn trực tiếp, tư vấn
qua e-mail đồng thời công khai hóa một cách đầy đủ các thủ tục liên quan đến sinh
viên và hướng dẫn chi tiết trên website để sinh viên dễ dàng thực hiện nhằm giảm bớt
nhiệm vụ cho giảng viên chủ nhiệm lớp. Mặt khác nên để một giảng viên làm công tác
CVHT một lớp để họ có thời gian làm tốt việc cố vấn học tập cho sinh viên của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị Minh Đức, Kiều Anh Tuấn (2012), “Cố vấn học tập trong các trường
đại học”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, khoa học xã hội và nhân văn 28.
2. Hội thảo khoa học “Đổi mới phương pháp dạy học trong đào tạo theo học chế
tín chỉ ở trường CĐSP Kon Tum” (5/2011).
3. Sổ tay sinh viên - Trường CĐSP Kon Tum.
158
NÂNG CAO VAI TRÒ VÀ HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC TƢ VẤN HỌC
TẬP TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN,
ĐHQG - HCM
Kiều Ngọc Quý1
Tóm tắt
Tư vấn học tập (TVHT) là một khái niệm mới xuất hiện trong đào tạo theo học
chế tín chỉ (HCTC). Công tác tư vấn học tập có vai trò đáng được ghi nhận trong việc
nâng cao chất lượng dạy và học nói riêng, chất lượng giáo dục nói chung: thông qua
công tác tư vấn, người cố vấn học tập (CVHT) vừa hướng dẫn và cung cấp thông tin
vừa đồng hành, hỗ trợ sinh viên (SV) trong học tập và rèn luyện. Sự kém hiệu quả
trong công tác tư vấn học tập đang là vấn đề của không ít trường đại học Việt Nam.
Bài viết này đưa ra một số nhận định về những khó khăn trong việc triển khai công
tác tư vấn học tập và nêu một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả công tác tư vấn học
tập tại Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG-HCM.
1. Đặt vấn đề
Tư vấn học tập (TVHT) là một khái niệm mới xuất hiện trong đào tạo theo học
chế tín chỉ (HCTC). Công tác tư vấn học tập có vai trò đáng được ghi nhận trong việc
nâng cao chất lượng dạy và học nói riêng, chất lượng giáo dục nói chung: thông qua
công tác tư vấn, người cố vấn học tập (CVHT) vừa hướng dẫn và cung cấp thông tin
vừa đồng hành, hỗ trợ sinh viên (SV) trong học tập và rèn luyện. Sự kém hiệu quả
trong công tác tư vấn học tập đang là vấn đề của không ít trường đại học Việt Nam.
Bài viết này đưa ra một số nhận định về những khó khăn trong việc triển khai công tác
tư vấn học tập và nêu một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả công tác tư vấn học tập
tại Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG-HCM.
2. Vai trò và nhiệm vụ của cố vấn học tập trong đào tạo theo học chế tín chỉ
2.1. Vai trò của công tác tƣ vấn học tập trong đào tạo theo học chế tín chỉ
Trong những năm qua vền giáo dục đại học Việt Nam đã có một số đổi thay
mạnh mẽ, trong đó có việc tín chỉ hóa các chương trình giáo dục (CTGD). Đây là một
bước đi tất yếu bởi tính ưu việt của nó so với đào tạo theo niên chế. Đào tạo theo
HCTC đòi hỏi sự tự giác và chủ động của người học. Thực hiện điều này là rất không
dễ; do vậy, vai trò của người cố vấn học tập trong đào tạo theo HCTC là thật sự quan
trọng.
1 Phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG-HCM
159
Xuất hiện cùng với sự du nhập của đào tạo theo HCTC vào Việt Nam, TVHT là
một khái niệm khá mới, có liên quan đến nhiệm vụ đào tạo-quản lý SV. CVHT là
người định hướng, tư vấn, giám sát hoạt động học tập, rèn luyện của SV; giúp cho SV
nắm bắt các quy chế, quy định, chương trình học, phương pháp học tập,…; từ đó
người học chọn lựa chương trình, xây dựng kế hoạch học tập phù hợp với năng lực và
điều kiện cá nhân. Thông qua hoạt động của CVHT, SV sẽ nắm bắt tốt hơn về các bộ
phận chức năng của nhà trường, các thủ tục hành chính, các hoạt động phong trào-xã
hội, chính sách-quyền lợi và nhiệm vụ của SV. Không chỉ cung cấp thông tin, CVHT
phải là người khích lệ, giúp đỡ SV phát huy năng lực bản thân để có thể tự giải quyết
các vấn đề cá nhân trong quá trình theo học tại trường.
Nhận thức được vai trò to lớn và tích cực của công tác TVHT trong đảm bảo
chất lượng (ĐBCL) đào tạo, trong những năm gần đây, các trường đại học, cao đẳng
ngày càng quan tâm nhiều hơn đến công tác này. Rất nhiều hội thảo, hội nghị nhằm
triển khai nâng cao hiệu quả của công tác TVHT đã được các trường chủ động tổ
chức. Không nằm ngoài xu thế ấy, Hội nghị tập huấn công tác TVHT được tổ chức tại
Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG-HCM vào tháng 8/2011 và Quy định về công tác
TVHT được ban hành vào tháng 11/2011 đã phần nào phản ánh nỗ lực của trường
trong việc đẩy mạnh và nâng cao vai trò của công tác này.
Cho đến nay công tác TVHT tại trường ĐH KHXH&NV chưa đạt hiệu quả như
mong đợi. Làm thế nào để nâng cao vai trò của CVHT cũng như phát huy hiệu quả
của công tác TVHT trong đào tạo theo HCTC vẫn đang là bài toán chưa có lời giải tối
ưu. Bài viết này nhằm góp thêm một cách nhìn nữa trong việc phát huy vai trò và
nâng cao hiệu quả công tác TVHT tại Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG-HCM.
2.2. Nhiệm vụ của cố vấn học tập trong đào tạo theo học chế tín chỉ
2.2.1. Tƣ vấn, hƣớng dẫn sinh viên học tập và rèn luyện
- Nắm vững mục tiêu, CTGD, các hình thức đào tạo, các quy trình liên quan đến
công tác đào tạo và quản lý SV; nắm rõ chức năng, nhiệm vụ của khoa/bộ môn và các
đơn vị có liên quan để tư vấn, hướng dẫn SV.
- Tư vấn cho SV xây dựng, điều chỉnh kế hoạch học tập tại trường và kế hoạch
tự học phù hợp với năng lực và điều kiện của SV; hướng dẫn SV cách đăng ký môn
học cho từng học kỳ; theo dõi việc đăng ký môn học của SV, tư vấn cho SV lựa chọn
lại môn học nếu chưa hợp lý;
- Thực hiện công tác đánh giá kết quả rèn luyện SV như: phổ biến quy định đánh
giá, hướng dẫn thực hiện, chủ trì họp lớp đánh giá rèn luyện;
160
- Hướng dẫn, khuyến khích, tạo điều kiện cho SV tham gia các hoạt động học
thuật, nghiên cứu khoa học, bồi dưỡng kỹ năng, các hoạt động vì cộng đồng các hoạt
động văn-thể-mỹ; phát hiện năng khiếu, sở trường của SV để định hướng nghề
nghiệp, hỗ trợ điều kiện để phát triển năng khiếu, sở trường đó;
- Hướng dẫn SV các thủ tục liên quan đến học vụ như: đăng ký học phần, huỷ
đăng ký học phần, thi cải thiện, khiếu nại, phúc tra bài thi, chuyển ngành, học bằng
thứ hai,…
- Giải đáp thắc mắc của SV về các vấn đề liên quan đến học tập, rèn luyện gồm
quá trình tổ chức đào tạo (lên lớp học lý thuyết, thực hành hoặc thảo luận; thực tập tại
cơ sở, làm bài tập lớn); số tín chỉ tối đa và tối thiểu phải tích lũy trong từng học kỳ,
năm học; số tín chỉ tích lũy để được cấp học bổng, để được xét học tiếp, bảo lưu, buộc
thôi học,…
- Trao đổi, góp ý cho SV các vấn đề về sức khỏe, tinh thần, rèn luyện bản thân, hòa
nhập cộng đồng; hướng dẫn và khích lệ SV tham gia các hoạt động ngoại khóa.
2.2.2. Quản lý lớp sinh viên2
- Thống nhất phương pháp làm việc chung giữa SV và CVHT, hình thức và kênh
liên hệ; giải thích cho SV rõ về vai trò, nhiệm vụ của SV và Ban Cán sự của lớp đối
với CVHT;
- Lập danh sách của lớp phụ trách tối thiểu gồm các thông tin như họ tên SV,
lớp/ngành, khóa học, kênh liên hệ với SV, cha mẹ hoặc người đỡ đầu của SV và kênh
liên hệ; CVHT chủ động liên hệ với gia đình SV khi cần thiết;
- Lập sổ tư vấn để theo dõi và tiếp tục có biện pháp tác động đối với các trường
hợp cá biệt, phức tạp;
- Giới thiệu nhân sự để bầu Ban Cán sự, thông qua kết quả bầu cử và đề nghị
Trưởng khoa phê duyệt; chủ trì họp lớp về việc xét khen thưởng, kỷ luật và gửi kết
2Theo Quy chế đào tạo cao đẳng, đại học theo HCTC (ban hành kèm theo Quyết định số
43/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 15/8/2007 của Bộ GD&ĐT), lớp học được tổ chức theo từng
học phần dựa vào đăng ký của SV (tạm gọi là lớp học phần). Tuy nhiên, trong giai đoạn
chuyển giao từ đào tạo theo niên chế sang HCTC tại Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG-
HCM, đặc biệt đối với các ngành có ít SV theo học, khả năng tổ chức linh động nhiều lớp
học phần để SV lựa chọn là không khả thi; vì vậy, việc tổ chức và quản lý lớp học theo
chuyên ngành và khoá học (tạm gọi là lớp sinh viên) vẫn cần tiếp tục được duy trì vì nó. vẫn
phát huy giá trị trong việc triển khai một số hoạt động tư tưởng-chính trị và văn hóa-xã hội
của SV ngoài giờ lên lớp theo lớp học phần, như: xét khen thưởng, kỷ luật, bình xét điểm
rèn luyện, sinh hoạt ngoại khoá, phong trào văn-thể-mỹ,… Trong bài này, khái niệm “lớp
học” được hiểu là lớp sinh viên.
161
quả lên lãnh đạo khoa/bộ môn;
- Nắm tình hình chung của lớp phụ trách thông qua Ban Cán sự; thường xuyên
theo dõi kết quả học tập của SV để có biện pháp tác động cần thiết khi kết quả học tập
của SV sa sút; giúp đỡ SV giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong học tập;
- Tổ chức sinh hoạt lớp định kỳ: họp với toàn lớp ít nhất 2 lần mỗi học kỳ (đầu
học kỳ và cuối học kỳ); họp với Ban Cán sự ít nhất 1 lần mỗi tháng.
+ Sinh hoạt lớp đầu học kỳ
Thông báo cách thức, thời gian và địa điểm làm việc với SV định kỳ;
cung cấp cho SV số điện thoại, email và các phương tiện liên lạc khác để
SV liên lạc trong trường hợp cần thiết;
Bầu chọn hoặc chỉ định Ban Cán sự; phân công nhiệm vụ cụ thể cho Ban
Cán sự, làm rõ mối quan hệ công tác giữa CVHT với lớp và Ban cán sự,
những điều cần lưu ý về phương pháp học tập, phương pháp nghiên cứu
khoa học của SV ở trường đại học (đối với học kỳ đầu tiên của năm thứ
nhất);
Hướng dẫn SV tìm hiểu, truy cập thông tin về các quy chế, quy định,
thông báo liên quan đến SV;
Phổ biến một số hoạt động do nhà trường, Đoàn Thanh niên và Hội SV tổ
chức phù hợp với SV;
Hướng dẫn phương pháp học, tự học ở bậc đại học trong học kỳ đầu tiên;
phổ biến một số nội dung cơ bản liên quan đến SV như đăng ký học phần,
học bổng, học phí, nghiên cứu khoa học; giới thiệu chức năng các phòng
ban liên quan để SV liên hệ khi cần thiết.
+ Sinh hoạt lớp cuối học kỳ
Sơ kết, đánh giá các nội dung đã thực hiện trong học kỳ;
Tổ chức đánh giá kết quả rèn luyện của SV theo đúng thời gian và đúng
quy định của trường;
Phổ biến những nội dung mới điều chỉnh trong các quy định hiện hành;
Xét thi đua, khen thưởng SV theo quy định;
Tư vấn cho SV lựa chọn chuyên ngành trong học kỳ 4;
Hướng dẫn SV viết và trình bày báo cáo tiểu luận.
162
+ Họp Ban Cán sự hàng tháng
Trao đổi với Ban Cán sự về tình hình học tập của lớp: số lượng SV dự
lớp, việc thực hiện quy chế thi, kiểm tra,…;
Trao đổi với Ban Cán sự về tình hình chấp hành nội quy và các quy định
khác của trường, khoa/bộ môn;
Trao đổi với Ban Cán sự về tình hình tham gia hoạt động cộng đồng, phong
trào của SV;
Rà soát các công việc đang thực hiện của lớp (nếu có);
Xét điểm rèn luyện của SV trong cuộc họp Ban Cán sự vào cuối mỗi học
kỳ;
Đề xuất khen thưởng, kỷ luật, hỗ trợ đột xuất (nếu có).
- Tổ chức sinh hoạt lớp đột xuất: tuy trường hợp cụ thể, CVHT có thể tổ chức
sinh hoạt lớp hoặc họp Ban Cán sự để phổ biến/giải quyết các công việc đột xuất theo
yêu cầu của trường, khoa/bộ môn và lớp.
2.2.3. Thực hiện các chế độ báo cáo
- Lập kế hoạch công tác cá nhân (vào đầu mỗi học kỳ), trình Trưởng Ban CVHT
phê duyệt;
- Báo cáo định kỳ:
+ Báo cáo bằng văn bản kết quả cuộc họp đầu học kỳ với lớp SV cho Trưởng Ban
CVHT (kèm theo biên bản sinh hoạt lớp đầu học kỳ);
+ Báo cáo bằng văn bản công tác TVHT hàng tháng cho Trưởng Ban CVHT (kèm
theo biên bản họp với Ban Cán sự hàng tháng);
+ Báo cáo sơ kết công tác TVHT sau mỗi học kỳ cho Trưởng Ban CVHT (kèm
theo biên bản sinh hoạt lớp cuối học kỳ).
- Báo cáo đột xuất: theo yêu cầu của Ban CVHT hoặc trong trường hợp cần thiết
(kèm theo biên bản họp đột xuất, nếu có).
2.2.4. Tham gia họp chuyên môn, tập huấn nghiệp vụ
- Tham dự họp về khen thưởng-kỷ luật ở cấp khoa/bộ môn để tham gia đề xuất
hình thức khen thưởng, kỷ luật SV.
- Tham gia đầy đủ các buổi họp Ban CVHT của đơn vị, các chương trình tập huấn
nghiệp vụ do Hội đồng CVHT và Ban CVHT tổ chức.
163
2.2.5. Bộ công cụ của CVHT
- CTGD của chuyên ngành, các chuyên ngành có liên quan;
- Kế hoạch đào tạo mỗi học kỳ;
- Quy chế trường đại học và cao đẳng;
- Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng theo tín chỉ;
- Quy định về công tác quản lý sinh viên;
- Sổ tay sinh viên, sổ tay CVHT, bộ FAQ của khoa/bộ môn;
- Danh sách SV của lớp.
3. Thực trạng và giải pháp công tác tƣ vấn học tập tại trƣờng Đại học Khoa học và
Xã hội Nhân văn – Đại học Quốc gia – Hồ Chí Minh
Hội nghị “Tập huấn công tác tư vấn học tập và quản lý học vụ” (tháng 8/2011)
đã chỉ ra một số nguyên nhân khiến công tác TVHT tại trường chưa đạt hiệu quả như
mong đợi. Xin được nêu thêm qua bài viết này một số nhận định khác về những khó
khăn trong việc triển khai công tác TVHT tại trường, qua đó đề xuất một số biện pháp
khắc phục.
3.1. Chưa có quy trình, hướng dẫn cụ thể việc triển khai công tác TVHT tại các
khoa/bộ môn; chưa có nhiều chương trình tập huấn nghiệp vụ cho CVHT. Do đó, các
khoa/bộ môn phải tự mò mẫm triển khai công tác TVHT trong hoàn cảnh mà CVHT
không có đủ tài liệu và thiếu chuyên môn nghiệp vụ trong công tác này.
Giải pháp 1:
- Xây dựng quy trình, hướng dẫn: triển khai, giám sát và đánh giá công tác
TVHT; xây dựng hệ thống biểu mẫu, bộ công cụ (tài liệu) cho CVHT.
- Tổ chức các buổi tập huấn cấp trường cho CVHT về nghiệp vụ tư vấn, quy chế
đào tạo, quy chế SV, các quy định/văn bản liên quan khác, thủ tục hành chính liên
quan đến học tập và rèn luyện của SV, các bộ phận chức năng trong trường,…
- Khoa/Bộ môn chủ động tổ chức tập huấn cho CVHT về CTGD, nội dung tư
vấn,…; xây dựng bộ FAQ3 và các tài liệu cần thiết khác cho CVHT.
3.2 Việc duy trì đồng thời CVHT và giảng viên chủ nhiệm (GVCN) khiến công
tác TVHT bị chồng chéo, kém hiệu quả: Do đã có GVCN ở mỗi lớp nên CVHT
thường không đi sâu vào công tác tư vấn, quản lý lớp SV; trái lại, GVCN là người
3viết tắt của Frequently Asked Questions, nghĩa là “các câu hỏi, thắc mắc thường gặp ở SV”
164
trực tiếp quản lý lớp lại không có nghiệp vụ và cũng không mang đủ chức năng của
một CVHT. Mặt khác, CVHT phải có trình độ thạc sỹ, theo quy định của trường, vì
thế hầu hết CVHT không phải là giáo vụ khoa trong khi công tác TVHT gắn bó mật
thiết với công tác giáo vụ và công tác SV, chưa kể phần lớn SV có thói quen nêu thắc
mắc và/hoặc trao đổi các vấn đề về học vụ, rèn ruyện,…với giáo vụ khoa. Vì vậy,
công tác này trên thực tế là do giáo vụ khoa đảm nhiệm. Từ đó dẫn đến bất cập trong
vấn đề chế độ bồi dưỡng và hệ quả là người thực hiện công tác TVHT không có đủ
chuyên môn nghiệp vụ (do chưa được tham gia tập huấn) và cũng không đủ nhiệt tình
trong công tác (do không có chế độ bồi dưỡng thỏa đáng).
Giải pháp 2:
- Nên hợp nhất chức danh GVCN với CVHT (bỏ hẳn chế độ GVCN); theo đó,
mỗi khoa/bộ môn sẽ có Trưởng Ban CVHT, Thư ký và các ủy viên là các CVHT
(GVCN trước đây).
- Vị trí thư ký ban CVHT nên phân công cho giáo vụ, thư ký khoa hoặc cán bộ
phụ trách công tác SV của khoa; vì thế, không nên yêu cầu trình độ thạc sỹ đối với vị
trí này.
3.3. Chưa có quy định chặt chẽ về việc kiểm tra, giám sát và đánh giá hiệu quả
công tác TVHT; vì thế hiệu quả, chất lượng công tác TVHT ở các khoa/bộ môn hầu
như bị “thả nổi.” Các khoa/bộ môn chủ yếu hoạt động theo nhu cầu phát sinh, chưa có
sự chủ động triển khai một cách có hệ thống và hiệu quả công tác này.
Giải pháp 3:
- Thực hiện nghiêm túc các chế độ báo cáo liên quan đến công tác TVHT.
- Định kỳ đánh giá hiệu quả và chất lượng công việc của Ban CVHT ở các
khoa/bộ môn nói chung, của các CVHT nói riêng.
3.4. Vai trò, nhiệm vụ của CVHT là không nhỏ, nhưng chế độ, chính sách đãi
ngộ dành cho công tác TVHT là chưa phu hợp, chưa khuyến khích CVHT làm việc
hết mình, đảm bảo hoàn thành đầy đủ và có chất lượng các công việc được giao.
Giải pháp 4:
- Nâng cao chế độ bồi dưỡng đối với cán bộ, GV (gồm cán bộ lãnh đạo, tập huấn
viên và CVHT) tham gia công tác TVHT.
- Có cơ chế khen thưởng, kỷ luật rõ ràng đối với CVHT.
4. Một số đề xuất nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả công tác tƣ vấn học tập tại
trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia – Hồ Chí Minh
165
4.1. Đề xuất mô hình quản lý công tác tƣ vấn học tập
4.1.1. Hội đồng Cố vấn học tập
4.1.1.1. Thành lập Hội đồng CVHT ở cấp trường bao gồm lãnh đạo của các
khoa/bộ môn, các phòng/ban, đơn vị liên quan đến công tác SV, đào tạo và ĐBCL; do
Phó Hiệu trưởng phụ trách đào tạo làm Chủ tịch.
4.1.1.2. Hội đồng CVHT có các chức năng-nhiệm vụ sau đây:
- Báo cáo hàng năm cho Hiệu trưởng về công tác TVHT của trường, đề xuất
khen thưởng hoặc kỷ luật các CVHT lên Hội đồng thi đua và khen thưởng của trường;
- Tham mưu cho Hiệu trưởng về công tác tổ chức và quản lý hoạt động CVHT,
chịu trách nhiệm trước Hiệu trưởng về hiệu quả của công tác này;
BAN CÁN SỰ
LỚP SINH VIÊN
BAN CÁN SỰ
CVHT
BAN CVHT
KHOA/BỘ
MÔN
HỘI ĐỒNG
CVHT
TRƢỜNG
HIỆU TRƢỞNG
P. KẾ HOẠCH
TÀI CHÍNH
PHÕNG ĐÀO TẠO
PHÒNG CÔNG
TÁC SINH VIÊN
PHÒNG KT &
ĐBCL
Trao đổi thông tin, phối hợp thực hiện
Tham mưu, báo cáo, đề xuất
Quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn, ra quyết định
Quyết định thành lập
PHÒNG QLKH &
DỰ ÁN
ĐOÀN THANH
NIÊN – HỘI SV
166
- Xây dựng và ban hành các quy định, quy trình, hướng dẫn, biểu mẫu liên quan
đến công tác TVHT;
- Biên soạn, tổng hợp, sửa đổi, bổ sung Sổ tay CVHT (phần chung cho tất cả các
khoa);
- Tổ chức các khóa tập huấn nghiệp vụ cho CVHT;
- Tổ chức Hội nghị để thảo luận, đánh giá, tổng kết công tác TVHT hàng năm;
- Phê duyệt Kế hoạch hoạt động hàng năm của Ban CVHT các đơn vị.
4.1.2. Ban Cố vấn học tập
4.1.2.1. Trưởng khoa/bộ môn thành lập Ban CVHT ở cấp khoa/bộ môn gồm
Trưởng Ban, Thư ký và các ủy viên là các CVHT. Trưởng Ban CVHT phải là thành
viên của Hội đồng CVHT ở cấp trường và có quyền phân công các CVHT quản lý
lớp.
4.1.2.2. Ban CVHT có các chức năng-nhiệm vụ sau đây:
- Báo cáo hàng năm cho Hội đồng CVHT về công tác TVHT tại các đơn vị, đề
xuất khen thưởng hoặc kỷ luật các CVHT lên Hội đồng CVHT;
- Chịu trách nhiệm trước Hội đồng CVHT về các hoạt động và hiệu quả của công
tác TVHT tại đơn vị;
- Xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động CVHT hàng năm của đơn vị trình
Hội đồng CVHT trường;
- Biên soạn, tổng hợp, sửa đổi, bổ sung Sổ tay CVHT (phần đặc thù từng khoa);
- Liên tục cập nhật bộ FAQ (gồm những câu hỏi, vấn đề phức tạp và/hoặc
thường gặp, phát sinh trong quá trình triển khai công tác TVHT) làm bộ công cụ cho
CVHT và đăng trên website của đơn vị;
- Phân công CVHT quản lý lớp một cách phù hợp. Phê duyệt Kế hoạch công tác
cá nhân của CVHT, theo dõi, đánh giá kết quả thực hiện theo kế hoạch này;
- Khảo sát ý kiến SV về công tác TVHT.
4.1.3. Nhiệm vụ của SV và Ban Cán sự đối với CVHT
- SV phải tham dự đầy đủ các buổi sinh hoạt lớp do CVHT tổ chức; thường
xuyên theo dõi các thông báo của trường, khoa/bộ môn và CVHT; chủ động liên hệ
với CVHT để được tư vấn, hướng dẫn về hoạt động học tập, rèn luyện và các hoạt
động phong trào khác;
167
- Ban Cán sự có nhiệm vụ họp với CVHT khi được triệu tập; theo dõi tình hình
hoạt động của lớp; có ý kiến đề xuất về việc khen thưởng, kỷ luật, hỗ trợ đối với các
thành viên trong lớp.
4.2. Đề xuất một số biểu mẫu dành cho cố vấn học tập
- Mẫu biên bản họp lớp gồm Mẫu biên bản sinh hoạt lớp (CVHT-01a) và Mẫu
biên bản họp Ban Cán sự (CVHT-01b);
- Mẫu báo cáo định kỳ công tác TVHT (CVHT-02);
- Mẫu phiếu đánh giá CVHT (dành cho SV) (CVHT-03).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại học Bách Khoa Hà Nội (2008), Hướng dẫn công tác cố vấn học tập cho
sinh viên đào tạo đại học theo học chế tín chỉ (kèm theo công văn số: 675/CV-
ĐHBK-ĐTĐH ngày 28/8/2008).
2. Đại học Cần Thơ (2011), Kỷ yếu Hội nghị Nâng cao vai trò cố vấn học tập.
3. Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế (2010), Sổ tay Cố vấn học tập.
4. Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG-HCM (2011), Tài liệu tập huấn công tác
tư vấn học tập và quản lý học vụ.
5. Nguyễn Văn Vân, Báo cáo một số nội dung về công tác cố vấn học tập theo
học chế tín chỉ, ĐH Luật
TP.HCM.(http://www.hcmulaw.edu.vn/hcmulaw/images/stories/dhluat/tieudie
m/baocaovecovanhoctapvaquychevecvht_tsnvvan.doc).
168
HOẠT ĐỘNG TƢ VẤN HỌC TẬP TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC TIỀN GIANG
Lê Thị Thanh Thảo1
1. Đặt vấn đề
Thực hiện chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trường Đại học Tiền Giang
thực hiện triển khai đào tạo theo học chế tín chỉ từ năm 2008. Đồng thời trong giai
đoạn này, hoạt động tư vấn học tập cho sinh viên tại Trường đã ra đời. Để hoạt động
này đạt hiệu quả tốt, Trường Đại học Tiền Giang đã có những qui định cụ thể, rõ ràng
về vai trò, quyền lợi và trách nhiệm của đội ngũ tư vấn học tập. Cho đến nay, hoạt
động tư vấn học tập tại Trường đã đáp ứng phần nào nhu cầu tư vấn của sinh viên.Tuy
nhiên, trên thực tế hoạt động tư vấn học tập tại Trường Đại học Tiền Giang vẫn còn
nhiều vấn đề cần quan tâm. Vì vậy việc tiến hành đánh giá chất lượng hoạt động tư
vấn học tập nhằm phát hiện những gì được và chưa được để tiếp tục cải tiến, hoàn
thiện góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động tư vấn học tập tại Trường là
việc làm cần thiết.
Bài viết này đề cập đến việc đánh giá chất lượng hoạt động tư vấn học tập tại
Trường Đại học Tiền Giang thông qua nhìn nhận của đội ngũ tư vấn và sinh viên. Số
liệu bài viết được rút ra từ cuộc khảo sát 362 sinh viên và 117 giảng viên, chuyên viên
đang đảm nhiệm công tác tư vấn học tập tại trường; phỏng vấn sâu 12 người trực tiếp
đảm nhiệm công tác tư vấn ở các khoa, phòng, ban và các đại diện lãnh đạo khoa,
phòng ban, trường.
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Đánh giá từ phía đội ngũ tƣ vấn học tập về chất lƣợng hoạt động tƣ vấn học tập
2.1.1. Mức độ hài lòng về hoạt động tư vấn học tập
Tác giả đã tiến hành khảo sát mức độ hài lòng của đội ngũ tư vấn về hoạt động tư vấn
học tập. Kết quả ở biểu 1 cho thấy hơn 33% đội ngũ tư vấn hoàn toàn hài lòng và hài lòng
về hoạt động tư vấn học tập, trong khi đó có đến 59.8% chỉ tạm hài lòng và 6.8% đội ngũ
tư vấn được điều tra không hài lòng với hoạt động tư vấn học tập.
Một giảng viên đảm nhiệm công tác tư vấn học tập cho biết: “Người đảm nhiệm tư
vấn học tập phải thực hiện quá nhiều việc, mất nhiều thời gian nhưng chế độ thù lao không
tương xứng, đa phần những người đảm nhiệm công tác tư vấn cho sinh viên là do bị phân
công chứ thực lòng họ không muốn đảm nhiệm công việc này.”
1 ThS – Trường Đại học Tiền Giang
169
Biểu đồ 1: Mức độ hài lòng về hoạt động tư vấn học tập
2.1.2. Chất lượng đội ngũ tư vấn học tập
Một yếu tố quan trọng nữa để đánh giá chất lượng hoạt động tư vấn học tập là
chất lượng đội ngũ tư vấn. Ngoài 32.5% cho rằng chất lượng đội ngũ tư vấn ở mức
khá và trên 18% cho rằng ở mức tốt thì có đến 48.7% những người làm công tác tư
vấn học tập cho rằng chất lượng đội ngũ tư vấn chỉ ở mức trung bình.
Biểu đồ 2: Chất lƣợng đội ngũ tƣ vấn học tập
Cho đến thời điểm hiện tại, hoạt động tư vấn học tập ở Trường Đại học Tiền
Giang đã tương đối đi vào nề nếp góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Có được
thành quả này là nhờ sự đóng góp đáng kể của những người làm công tác tư vấn học
tập. Tuy vậy, theo kết quả khảo sát thì chất lượng đội ngũ tư vấn học tập vẫn chưa
được chính những người trong cuộc đánh giá cao. Qua phỏng vấn sâu chúng tôi được
biết: “Rất nhiều thầy cô làm công tác tư vấn là những giảng viên, chuyên viên trẻ mới
được giữ lại trường chưa lâu, chưa nắm bắt hết các qui định có liên quan đến công
tác đào tạo, công tác sinh viên cũng như rất nhiều những qui định khác có liên quan.
Mặt khác nhiều giảng viên trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm nên gặp khá nhiều khó khăn
trong khi làm việc với sinh viên, điều này dẫn những sai sót, những hiểu lầm không
đáng có”.
Trong số 117 người làm công tác tư vấn tham gia trả lời bảng hỏi, có 27.4%
người mới đảm nhiệm công tác tư vấn học tập dưới 1 năm, 43.6% đã làm công tác tư
vấn học tập từ 1 - <3 năm, 17.1 % đã làm công tác tư vấn học tập từ 3 - <5 năm, 12%
đã làm công tác tư vấn học tập trên 5 năm. Như vậy trên 60% những người làm công
tác tư vấn học tập tại Trường Đại học Tiền Giang là những người còn ít kinh nghiệm
tư vấn.
170
Theo ý kiến của những người đảm nhiệm công tác tư vấn học tập, vào đầu năm
học, toàn thể những người tham gia tư vấn được tập huấn một ngày từ Ban Giám hiệu,
các phòng ban trong trường như Phòng Đào tạo nói về quy trình, thủ tục đào tạo theo
học chế tín chỉ, Phòng Công tác chính trị - Sinh viên nói về cách thức chấm điểm rèn
luyện, xét học bổng, nội quy sinh viên, Phòng Hành chính - Tổ chức phổ biến một số
biểu mẫu liên quan đến sinh viên, … Chính những điều này đã giúp cho đội ngũ tư
vấn học tập có thêm nhiều thông tin để hỗ trợ sinh viên tốt hơn.
Tuy nhiên, kết quả phỏng vấn sâu cũng cho thấy: “Chúng tôi những người làm
công tác tư vấn học tập không được trang bị những kỹ năng làm việc với sinh viên
như kỹ năng lắng nghe, kỹ năng trò chuyện, kỹ năng cung cấp thông tin, kỹ năng
khuyến khích động viên, kỹ năng thấu cảm, kỹ năng xác định vấn đề, kỹ năng xây
dựng mục tiêu... Tôi nghĩ nếu được tập huấn những kỹ năng này chúng tôi sẽ làm tốt
công việc hơn” (Nam, cố vấn học tập khoa Sư phạm)
2.1.3. Cơ sở vật chất
Kết quả điều tra trên đội ngũ tư vấn học tập cho thấy có đến 44.4% không hài
lòng và hoàn toàn không hài lòng về cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động tư vấn học
tập, 32.3% ít hài lòng, trong khi đó chỉ có 33.1% hài lòng và rất hài lòng. Chúng ta
cũng thấy kết quả này khá thống nhất với kết quả thu được nơi sinh viên về mức độ
hài lòng đối với cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động tư vấn học tập tại Trường Đại
học Tiền Giang.
Khi tiến hành phỏng vấn một số thầy/cô đảm nhiệm công tác tư vấn học tập,
chúng tôi được biết mặc du nhà trường đã mua phần mềm UIS để đáp ứng yêu cầu
của hoạt động tín chỉ tuy nhiên phần mềm nầy thường bị lỗi, hệ thống đăng ký học
phần hiện nay thường gặp trục trặc và thiếu ổn định; hệ thống mạng được sử dụng ở
trường còn yếu khiến sinh viên gặp khó khăn trong việc đăng ký học phần và cả giảng
viên cũng gặp khó khăn khi phải liên tục giải đáp thắc mắc cho sinh viên mỗi khi hệ
thống gặp sự cố.
2.1.4. Thông tin cung cấp từ phòng ban
Có đến 50.4% ít hài lòng và 15.4 % không hài lòng về nguồn thông tin cung cấp
từ các khoa, phòng ban. Một cố vấn học tập cho biết: “Ngày mai hết hạn nộp đơn xin
học bổng đồng hành cùng sinh viên thì hôm nay tôi mới được Khoa thông báo là
thông báo với sinh viên nộp đơn xin học bổng để khoa xét, thử hỏi dù có điện thoại
thông báo liền với sinh viên đi nữa cũng không đủ thời gian để các em chuẩn bị hồ sơ
như giấy xác nhận hộ nghèo, bảng điểm…”. Ngoài ra, khi có những điểm mới hay
những thay đổi trong quy chế đào tạo, chế độ chính sách chúng tôi cũng nhận thông
171
tin rất chậm. Điều này cho thấy nguồn thông tin cung cấp từ các khoa, phòng ban đến
đội ngũ tư vấn mà điển hình là cố vấn học tập không nhanh chóng, kịp thời.
Biểu đồ 3: Thông tin cung cấp từ phòng ban
2.1.5. Thái độ sinh viên
Về phía sinh viên, thái độ của các em đối với hoạt động tư vấn phần nào cũng
ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động này. Ngoài 48.7% những người làm công tác
tư vấn cho rằng sinh viên có thái độ tích cực và 44.4% cho rằng sinh viên tương đối
tích cực đối với hoạt động tư vấn học tập. Các em chủ động tìm đến đội ngũ tư vấn
học tập trong những trường hợp cần thiết. Đa số các em đều mong muốn nhận được
sự giúp đỡ của những người làm công tác tư vấn không những trong lĩnh vực học tập
mà còn trong lĩnh vực đời sống tình cảm, trong cuộc sống riêng tư.
Tuy nhiên, qua phỏng vấn sâu không ít những người làm công tác tư vấn học tập
cho rằng: Học tập và sinh hoạt trong môi trường đại học đòi hỏi SV phải có tính tự lập
cao. Các em phải ý thức được rằng mình đã lớn và mình phải chịu trách nhiệm đối với
bản thân mình. Người làm công tác tư vấn học tập không phải là người cầm tay chỉ
việc mà chỉ là người định hướng. Khi gặp phải bất cứ vấn đề nào, SV cần phải tự
mình nghiên cứu, tìm hiểu và giải quyết, chỉ khi thật sự cần thiết mới nhờ đến đội ngũ
tư vấn. Sinh viên phải xem môi trường đại học là môi trường học tập và rèn luyện để
hoàn thiện bản thân.
2.1.6. Đánh giá của đội ngũ tư vấn về mức độ đạt mục tiêu tư vấn học tập
Mức độ đạt mục tiêu tư vấn học tập cũng được xem như một trong những tiêu
chí đánh giá chất lượng hoạt động tư vấn học tập tại Trường Đại học Tiền Giang.
Theo số liệu điều tra mà chúng tôi thu thập được có 47% những người làm công tác tư
vấn cho rằng hoạt động tư vấn ở trường đạt mục tiêu, 49.6% cho rằng chỉ đạt một
phần mục tiêu. Thực tế cho thấy nếu hoạt động tư vấn học tập đạt mục tiêu hỗ trợ tốt
cho sinh viên trong quá trình học tập góp phần nâng cao chất lượng đào tạo có như thế
thì mới xem đây là hoạt động có chất lượng. Tuy nhiên hoạt động tư vấn học tập tại
Trường Đại học Tiền Giang chưa hoàn toàn đạt mục tiêu, đây cũng là vấn đề mà
những người làm công tác tư vấn cũng như lãnh đạo trường cần phải quan tâm.
172
Biểu đồ 4: Mức độ đạt mục tiêu tƣ vấn học tập
2.1.7. Chất lượng hoạt động tư vấn học tập
Nhằm tìm hiểu chất lượng của hoạt động tư vấn học tập tại trường ĐHTG tác giả
đặt ra câu hỏi đề nghị đội ngũ tư vấn học tập đánh giá với 5 mức độ (5: rất tốt, 4: tốt,
3: khá, 2: Trung bình, 1: Dưới trung bình,). Kết quả thu được thể hiện ở biểu 5.
Biểu đồ 5: Chất lƣợng hoạt động tƣ vấn học tập
Kết quả trên cho thấy có 41% giảng viên đánh giá chất lượng của HĐ TVHT ở
mức rất tốt và tốt, có đến 51.3 % đánh giá chất lượng của HĐ TVHT mức khá, trong
khi đó có chỉ có 7.7 % giảng viên đánh giá ở mức trung bình và dưới trung bình.
2.2. Đánh giá từ phía sinh viên về chất lƣợng hoạt động tƣ vấn học tập
2.2.1. Mức độ hài lòng của sinh viên đối với hoạt động tư vấn học tập
Kết quả phiếu điều tra trên sinh viên chỉ ra rằng chỉ có 2.5 % sinh viên rất hài
lòng và hài lòng về hoạt động tư vấn học tập, có 53% sinh viên tạm hài lòng về HĐ
TVHT, trong khi đó có trên 45% sinh viên không hài lòng và hoàn toàn không hài
lòng về HĐ TVHT tại Trường ĐH Tiền Giang.
Có rất nhiều lý do được đưa ra để lý giải cho những mặt được và hạn chế của
hoạt động tư vấn học tập tại Trường Đại học Tiền Giang như sau:
2.2.2. Mức độ đáp ứng nhu cầu tư vấn của sinh viên
Khi trả lời câu hỏi về mức độ đáp ứng nhu cầu tư vấn học tập thì có đến 79.6%
sinh viên cho rằng hoạt động tư vấn học tập tại trường chỉ đáp ứng một phần mong
173
đợi của họ, đáng quan tâm hơn nữa là có hơn 18% cho biết hoạt động tư vấn học tập
không đáp ứng và hoàn toàn không đáp ứng mong đợi của sinh viên.
Biểu đồ 6: Mức độ đáp ứng nhu cầu tƣ vấn của sinh viên
2.2.3. Đánh giá của SV về cách thức tổ chức hoạt động tư vấn học tập
Cách thức tổ chức hoạt động tư vấn học tập chưa thuận lợi cho sinh viên cũng lý
giải phần nào cho việc sinh viên đánh giá chưa cao chất lượng của hoạt động này. Có
đến 43.4% sinh viên cho rằng hoạt động tư vấn học tập tại trường tổ chức chưa tạo
điều kiện thuận tiện cho họ.
Kết quả điều tra cũng cho thấy có 47.8% sinh viên cho biết thời gian tổ chức tư
vấn học tập chưa phu hợp, 52.2% cho rằng thời gian tổ chức tư vấn học tập là phù hợp
với sinh viên. Trao đổi với những sinh viên cho rằng thời gian tổ chức hoạt động tư
vấn chưa phu hợp chúng tôi được biết: “Thay vì đầu học kỳ, trước khi đăng ký học
phần cố vấn học tập gặp gỡ để tư vấn cho sinh viên nhưng cố vấn học tập để đến khi
sinh viên đăng ký xong học phần gặp trục trặc thì lúc đó mới chịu gặp lớp” (sinh viên
khoa Công nghệ Thông tin).
Về phía đội ngũ tư vấn lý giải việc thời gian tổ chức tư vấn học tập chưa như
mong muốn của sinh viên như sau: “Vì học theo tín chỉ rất khó tập hợp sinh viên đông
đủ nên chúng tôi thường chọn thời gian sau khi học xong tiết cuối của buổi sáng để tổ
chức họp lớp để tập hợp các em đông đủ hơn”.
Biểu đồ 7: Thời gian tổ chức tƣ vấn học tập phù hợp
Bên cạnh đó, cố vấn học tập không chịu trách nhiệm tư vấn cho sinh viên suốt
khóa học cũng phần nào ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động tư vấn học tập.
Như nhận xét của một lãnh đạo khoa Khoa học cơ bản (KHCB): “Tất cả sinh
viên năm nhất là do Khoa KHCB quản lý vì vậy đội ngũ tư vấn cũng do khoa này lựa
174
chọn những người trong khoa đảm nhiệm, tuy nhiên qua đến năm 2 các sinh viên này
sẽ do các khoa chuyên ngành quản lý vì vậy đội ngũ tư vấn sẽ do từng khoa chuyên
ngành phân công. Điều này dẫn đến tình trạng những người làm công tác tư vấn học
tập không thể nắm rõ tình hình lớp mình tư vấn mặc du khoa đã tổ chức bàn giao các
lớp về cho các khoa chuyên ngành nhưng chủ yếu chỉ là thủ tục hành chính”.
Như vậy việc thay đổi cố vấn học tập theo từng năm sẽ khiến cố vấn học tập mới
phải bắt đầu lại công việc làm quen, thu thập ý kiến và thông tin mà mình tư vấn và
rất khó cho cố vấn trong việc bao quát suyên suốt.
Ngoài ra, chuyên ngành của đội ngũ cố vấn học tập phu hợp với chuyên ngành của
lớp mà mình đảm nhiệm tư vấn cũng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động tư
vấn. Tuy nhiên, tại Trường Đại học Tiền Giang ngoài 60% những người làm công tác tư
vấn học tập có chuyên ngành phu hợp thì vẫn còn 40% có chuyên ngành không phu hợp
với lớp sinh viên mà họ đảm nhiệm tư vấn. Điều này dẫn đến cố vấn học tập không am
hiểu sâu về chuyên môn, không nắm rõ nội dung chính của các học phần trong chương
trình đào tạo, về ngành nghề vì vậy không thể tư vấn tốt cho sinh viên trong việc lựa chọn
học phần cũng như lập kế hoạch toàn khóa.
2.2.4. Mức độ hài lòng về đội ngũ tư vấn học tập
Có thể xem mức độ hài lòng của sinh viên đối với đội ngũ tư vấn học tập như là
một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động tư vấn học tập. Theo số liệu
điều tra mà tác giả thu được, ngoài 50% sinh viên cho biết tương đối hài lòng về đội
ngũ tư vấn học tập thì còn đến 45% sinh viên không hài lòng và hoàn toàn không hài
lòng.
Biểu đồ 8: Mức độ hài lòng về đội ngũ tƣ vấn học tập
Một bạn sinh viên cảm thấy không hài lòng về đội ngũ tư vấn học tập cho rằng:
“Có những vấn đề khi cần đến sự tư vấn của cố vấn nhưng cố vấn cũng không nắm rõ
và cũng không nhiệt tình hỗ trợ cho sinh viên, mọi điều sinh viên cần hỏi cố vấn đều
kêu lớp trưởng lên gặp giáo vụ khoa rồi về trả lời cho lớp.”
175
Bên cạnh đó, kết quả khảo sát cũng cho thấy có 35.4% sinh viên cảm thấy không
hài lòng về lời khuyên của đội ngũ tư vấn. Trên thực tế nếu đội ngũ tư vấn nhận thức
rõ trách nhiệm và ý thức được vai trò của mình thì họ thực hiện công việc tư vấn mới
có chất lượng.
Biểu đồ 9: Mức độ hài lòng về lời khuyên của đội ngũ TVHT
Tuy nhiên, không ít những người làm công tác tư vấn học tập chưa thông tin, giải
đáp và tư vấn kịp thời những nhu cầu, thắc mắc và những khó khăn về vấn đề học tập
cho sinh viên: “Em đã học thừa số tín chỉ tích lũy, tuy nhiên đến khi xét tốt nghiệp em
không được ra trường vì em học thừa học phần tự chọn nhưng thiếu học phần bắt
buộc vì vậy em phải chờ đến khóa sau để học học phần bắt buộc còn lại mới được làm
đơn xin xét tốt nghiệp”.
Thái độ của đội ngũ tư vấn khi sinh viên cần tiếp xúc hay có nhu cầu liên hệ
cũng được sinh viên quan tâm: “Khi thật sự cần giải quyết khó khăn mà không biết
hỏi ai em mới tìm đến cố vấn. Tuy nhiên thầy cô không mấy nhiệt tình khi nghe tụi em
trình bày cũng như tìm cách hỗ trợ tụi em, thậm chí chưa nghe xong em nói thầy cô
kêu em lên gặp giáo vụ khoa. Cuối cùng đi lòng vòng cả ngày nhưng vấn đề của em
vẫn chưa được giải quyết. Em đã rất thất vọng và mất niềm tin.” (Sinh viên khoa Kỹ
thuật)
Như nhận xét của Thầy phó Hiệu trưởng trong Hội nghị triển khai những nội
dung mới của sổ tay cố vấn: “Nhiều người đảm nhiệm công tác tư vấn học tập tại
trường chưa gắn kết chặt chẽ với sinh viên, không liên hệ thường xuyên, còn quan
cách, xa rời sinh viên, thậm chí còn có nhiều CVHT còn chưa nắm vững hết quy chế
đào tạo của nhà trường dẫn đến sinh viên chưa đặt lòng tin vào sự hướng dẫn của đội
ngũ tư vấn. Nhiều sinh viên khi gặp vấn đề khó khăn trong học tập đã gặp trực tiếp
hiệu phó, hiệu trưởng để xin được giải quyết.”
2.2.5. Cơ sở vật chất phục vụ hoạt động tư vấn học tập
Cơ sở vật chất và điều kiện phục vụ cho hoạt động tư vấn học tập cũng chưa
được sinh viên đánh giá cao, có đến 44,5% sinh viên đánh giá chất lượng CSVC phục
vụ cho hoạt động tư vấn học tập trung bình và dưới trung bình. Hầu hết sinh viên khi
176
được phỏng vấn đều cho rằng các khoa, phòng ban không có phòng riêng dành cho
hoạt động tư vấn.
3. Kết luận
Nhìn chung chất lượng hoạt động tư vấn học tập tại Trường Đại học Tiền Giang
chưa được đội ngũ tư vấn học tập và sinh viên đánh giá cao. Mặc dù hoạt động này đã
đáp ứng phần nào nhu cầu tư vấn của một bộ phận sinh viên. Tuy nhiên vẫn còn
những bất cập trong hoạt động tư vấn học tập tại Trường Đại học Tiền Giang như: đội
ngũ tư vấn còn non tre về kinh nghiệm và chưa được trang bị kỹ năng làm việc với
sinh viên; cơ sở vật chất và điều kiện làm việc chưa đáp ứng yêu cầu của hoạt động
này; cách thức tổ chức hoạt động tư vấn học tập chưa tạo điều kiện thận lợi nhất cho
sinh viên; sự phối hợp giữa các phòng, khoa chưa kịp thời chặt chẽ; về phía sinh viên
tính chủ động giải quyết công việc trong hoạt động học tập của mình chưa cao còn
trong chờ vào sự trợ giúp của đội ngũ tư vấn.
Với những bất cập trong hoạt động tư vấn học tập tại trường Đại học Tiền Giang
được trình bày ở trên, nhà trường cần trang bị thêm kỹ năng tư vấn cho đội ngũ tư vấn
học tập, đồng thời có chế độ khuyến khích hợp lý để đội ngũ này làm việc hiệu quả
hơn. Bên cạnh đó cũng cần phải tiến hành đánh giá định kỳ chất lượng hoạt động tư
vấn học tập nhằm đưa hoạt động này vào hệ thống. Ngoài ra, nhà trường cần nhanh
chóng đảm bảo tính ổn định của hệ thống mạng và phần mềm đăng ký học phần. Các
phòng ban và khoa cần phối hợp chặt chẽ nhịp nhàng trong việc hỗ trợ sinh viên. Từ
những cách thức giải quyết này, chúng tôi tin chắc rằng trong tương lai không xa, hoạt
động tư vấn học tập tại trường Đại học Tiền Giang sẽ đạt hiệu quả cao hơn, góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị Minh Đức, Lê Thị Thanh Thủy (2010), “Thực trạng hoạt động cố
vấn học tập ở các trường đại học” Cố vấn học tập trong các trường Đại học,
Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.
2. Huỳnh Xuân Nhựt (2011), “Hướng dẫn xây dựng tư vấn học tập theo học chế
tín chỉ”, Trung tâm Đánh giá và Kiểm định Chất lượng Giáo dục Viện Nghiên
cứu Giáo dục.
3. Nguyễn Thị Hằng Phƣơng (2010), “Hoạt động cố vấn học tập ở trường Đại
học Bách Khoa Hà Nội và Đại học Bách Khoa Đà Nẵng” Cố vấn học tập trong
các trường Đại học, Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.
177
4. Hoàng Thị Nam Phƣơng (2010), “Hoạt động cố vấn học tập tại một số
trường đại học trực thuộc Đại học Huế” Cố vấn học tập trong các trường Đại
học, Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.
5. Kiều Anh Tuấn (2010), “Tăng cường năng lực cho cố vấn học tập” Cố vấn
học tập trong các trường Đại học, Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.
6. Nguyễn Thị Trang (2010), “Sử dụng kỹ năng tư vấn của cố vấn học tập” Cố
vấn học tập trong các trường Đại học, Đại học Quốc Gia Hà Nội, HN.
7. Carlson, Laurie A, Portman, Tarrell Awe Agahe; Bartlett, Jan R (2006)
Professional School Counselors' Approaches to Technology, American School
Counselor Association.
8. Constantine, Madonna G (2001), Theoretical Orientation, Empathy, and
Multicultural Counseling Competence in School Counselor, Professional School
Counseling.
178
VAI TRÕ VÀ NHIỆM VỤ CỦA CỐ VẤN HỌC TẬP TRONG ĐÀO TẠO
THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ DƢỚI GÓC NHÌN
GIÁO DỤC DỰA TRÊN ĐẦU RA
Vũ Văn Thái1
Dẫn nhập
Là một phương thức đào tạo khoa học và hiệu quả nên học chế tín chỉ đã và
đang được áp dụng tại các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới. Đây là một phương
thức đào tạo linh hoạt, lấy người học làm trung tâm, nhắm đến nhu cầu và lợi ích của
người họci, và chú trọng đến việc phát triển của từng cá nhân.
Ngày 02/11/2005 chính Phủ ra Nghị quyết 14/2005/NQ-CP về “đổi mới cơ bản
và toàn diện Giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020”. Trong đó thể hiện chủ
trương sau: “Xây dựng và thực hiện lộ trình chuyển sang chế độ đào tạo theo hệ thống
tín chỉ”ii. Thực hiện chủ trương này, đến nay hầu hết các trường đại học Việt Nam đã
chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ và đang dần hoàn thiện phương thức đào tạo
này tại đơn vị của mình.
Trong phương thức đào tạo này, cố vấn học tập là mảng công tác không thể
thiếu. Mỗi CVHT không chỉ đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của sinh
viên mà còn góp phần giúp nhà trường hoàn thành sứ mạng đào tạo. Ngoài ra, CVHT
còn được xem như “bộ mặt của trường” khi thay mặt trường trực tiếp làm việc với
sinh viên.
Ơ Hoa Kỳ, CVHT được xem là một nghề, với những yêu cầu nhất định về trình
độ, kinh nghiệm, kỹ năng, và tâm huyết với công việc. Trang web Cổng Thông tin
Giáo dục Hoa Kỳ (Education Portal)iii
trích dẫn dự báo của Cục Thống kê Lao động
Hoa Kỳ rằng trong giai đoạn 2012-2022, nhu cầu nhân lực cho công tác cố vấn học
tập trong các trường ở nước này tăng thêm 12%. Thu nhập bình quân của một CVHT
là 39.290 USD một năm (tính theo thời điểm tháng 9/2014)iv.
Do việc đào tạo theo học chế tín chỉ ở hầu hết các trường đại học – cao đẳng tại
Việt Nam đang ở gian đoạn hoàn thiện nên công tác tư vấn học tập chưa được đầu tư
đúng mức. Bài viết này xác lập một góc nhìn về vị trí, vai trò, và trách nhiệm của
CVHT bằng cách hệ thống hóa một số tài liệu và tư liệu trong và ngoài nước liên quan
đến công tác cố vấn học tập.
1 Giảng viên Khoa Ngữ Văn Anh, ĐH KHXH&NV, ĐHQG-HCM
179
1. Giáo dục đào tạo đầu ra
Giáo dục đào tạo đầu ra GD DTĐR (Outcome-based Education hoặc Outcomes-
based Education) là một cách tiếp cận trong giáo dục lấy người học làm trung tâm và
chú trọng đến kết quả đầu ra (KQĐR), với luận điểm rằng mọi người đều có thể học
và thành công.v GD DTĐR bao hàm hai đặc điểm cốt lõi: sự chú ý đến kết quả cuối
cùng của quá trình đào tạo, và sự nhấn mạnh vai trò của việc đo lường để đưa ra nhận
định về mức độ đạt kết quả.vi
GD DTĐR đã được áp dụng cho việc nâng cao chất lượng dạy và học cũng như
quản lý chất lượng giáo dục.vii
Theo Adam (2004)viii
, ở bậc đại học, GD DTĐR xuất
phát từ Mỹ, Úc, New Zealand và Anh, và sau đó là các nước phát triển khác.
Theo định nghĩa của Biggs và Tang (2007, tr.55), “KQĐR là những phát biểu,
được xác lập từ góc nhìn của người học, chỉ ra mức độ nhận thức và khả năng áp dụng
mà người học được kỳ vọng sẽ đạt sau khi tham gia vào quá trình dạy và học.”
Trong Hướng dẫn số 2196/BGDĐT-GDĐH, Bộ Giáo dục và Đào tạo xác định
nội hàm của kết quả đầu ra, gồm yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, thái độ, vị trí làm việc
mà người học có để đảm trách sau khi tốt nghiệp, và khả năng học tập và nâng cao
trình độ sau khi ra trường.
Theo tiếp cận GD DTĐR, qui trình đào tạo bắt đầu bằng việc xây dựng bộ kết
quả đầu ra dự kiến (KQĐRDK) ở các cấp độ chương trình chuyên ngành, môn học, và
đơn vị bài học. Tiếp theo đó, cần đảm bảo sự tương thích giữa KQĐRDK và việc thiết
kế chương trình đào tạo (CTĐT), dạy và học, và kiểm tra đánh giá. Theo đó, công tác
tư vấn học tập cũng phải xoay quanh bộ KQĐRDK này.
1.1. Các luận điểm cơ bản của giáo dục đầu ra
Spady (1994) trình bày 3 luận điểm cơ bản của GD DTĐR như sau:
- Mọi sinh viên đều có thể học và thành công, nhưng với những phương cách và
thời lượng khác nhau.
- Thành công trong học tập sẽ kéo theo thành công khác trong học tập.
- Các đơn vị đào tạo kiểm soát các điều kiện ảnh hưởng trực tiếp đến thành công
trong học tập của sinh viên.
1.2. Nhiệm vụ của đơn vị đào tạo
Theo quan điểm của GD DTĐR, trách nhiệm của các cơ sở đào tạo là tối ưu hóa
những điều kiện cần thiết cho sự thành công của sinh viên.ix Spady (1994) xác định 4
nguyên tắc trong việc triển khai Giáo dục dựa trên đầu ra. Cơ hội thành công của sinh
180
viên sẽ được nâng cao đáng kể nếu những nguyên tắc này được tuân thủ một cách
nhất quán và hệ thống.
- Đặt mục tiêu rõ ràng: Tất cả những hoạt động dạy và học phải liên hệ một
cách hệ thống với các KQĐRDK của CTĐT và các KQĐRDK này phải được thông
báo rõ ràng đến sinh viên. Có nhiều cách khác nhau để đạt được các KQĐRDK này.
- “Thiết kế ngƣợc” (designing back): Theo cách thiết kế CTĐT truyền thống
thì CĐR được xác định ở bước cuối cung. Trong GD DTĐR thì KQĐR được xác định
ở bước đầu tiên trong qui trình xây dựng chương trình đào tạo.x
- Đƣa ra yêu cầu cao đối với tất cả sinh viên: Tất cả sinh viên đều phải trải qua
thử thách và phải đạt được mức độ thành công cao trong học tập. Cần tăng dần mức
độ thử thách đối với sinh viên và tăng dần tiêu chuẩn đánh giá sự thành công của sinh
viên.
- Mở rộng cơ hội để sinh viên đạt đƣợc KQĐRDK: Những sinh viên khác
nhau cần những lộ trình, thời lượng và nỗ lực khác nhau trong việc đạt được cùng một
KQĐRDK.
1.3. Vai trò của ngƣời học
Jager và Nieuwenhuis (2005) xác định vai trò của người học dưới góc nhìn của
GD DTĐR như sau:
- Người học đóng vai trò chủ động.
- Người học đóng vai trò trung tâm trong qui trình đào tạo.
- Người học tự chịu trách nhiệm về việc học của mình.
- Người học quyết định tiến độ học tập của mình.
- Người học góp phần kiến tạo kiến thức thông qua các hoạt động học tập của
mình.
2. Cố vấn học tập
Cộng đồng Tư vấn học tập Toàn cầu (The Global Community for Academic
Advising) mô tả công tác tư vấn học tập như sau: “ Căn cứ vào sứ mạng đào tạo đại
học thì công tác cố vấn học tập bao gồm một chuỗi các tương tác có chủ đích với
chương trình đào tạo, giáo pháp, và các KQĐR của sinh viên. Công tác này tổng hợp
và gắn kết những trải nghiệm học tập của sinh viên với sở thích, năng lực, và hoàn
cảnh của mình nhằm giúp sinh viên vượt qua những khuôn khổ về thời gian và mở
rộng việc học ra ngoài giới hạn của trường học.”xi
181
2.1 Các yêu cầu đối với cố vấn học tập
Để đáp ứng các nội dung công việc nêu trên thì CVHT cần hội đủ những điều
kiện sau: Yêu cầu về học vấn và kinh nghiệmxii
- Phải được đào tạo chính qui.
- Bằng thạc sĩ chuyên ngành liên quan đến giáo dục
- Bằng cử nhân chuyên ngành liên quan đến Giáo dục học và phải học tiếp
chương trình cao học thuộc lĩnh vực tư vấn giáo dục
- Giấy phép và/hoặc giấy chứng nhận do tiểu bang cấp (tùy từng tiểu bang)
- 2-5 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục
Dưới đây là các yêu cầu mà đại học Saint Louis đặt ra đối với CVHTxiii
:
- Nắm vững các chính sách và thủ tục của trường, các yêu cầu học thuật, các tài
nguyên của trường, đời sống sinh viên, và các dịch vụ hỗ trợ.
- Nhạy bén trong việc nắm bắt nhu cầu đa dạng của sinh viên, gồm cả sinh viên
quốc tế và sinh viên là người dân tộc thiểu số.
- Kỹ năng giao tiếp tốt.
- Có khả năng động viên và giúp sinh viên tự đưa ra quyết định.
- Biết bảo vệ quyền lợi của sinh viên lẫn trường.
- Có khả năng nắm bắt nhu cầu của sinh viên và kết nối sinh viên với các bộ
phận hỗ trợ sinh viên trong trường.
- Có khả năng bảo mật thông tin.
- Biết sử dụng máy tính và các phần mềm thông dụng.
- Có khả năng đáp ứng lịch làm việc linh hoạt.
2.2 Vai trò của cố vấn học tập
Thông thường, sinh viên cần đến sự định hướng và tư vấn của CVHT trong
những tình huống sau:
- Chọn ngành học phù hợp sở thích và sở trường.
- Chọn các học phần.
- Lập kế hoạch học tập phù hợp với năng lực và hoàn cảnh.
- Học vượt.
182
- Bảo lưu học phần.
- Gặp khó khăn trong học tập vì một lý do nào đó.
CVHT giữ vai trò quan trọng trong việc tối ưu hóa những điều kiện cần thiết cho
sự thành công của sinh viên cả về mặt học thuật lẫn nghề nghiệp tương lai. CVHT là
cầu nối giữa sinh viên và nhà trường (Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, Khoa và các
phòng ban liên quan). Ngoài ra, CVHT còn là cầu nối giữa sinh viên với thị trường
lao động. Hai sơ đồ dưới đây minh họa hai vai trò này của CVHT dưới góc độ GD
DTĐR:
CVHT
Sinh
viên
Trƣờng
(1)
(2)(3)
(2) & (3)
Sơ đồ 1
CVHT
Sinh
viên
Thị trƣờng
lao động
(1)
(2)(3)
(2) & (3)
Sơ đồ 2
Trong cả hai sơ đồ trên, vai trò chủ động của sinh viên được thể hiện qua mối
tương quan ba chiều. Ơ sơ đồ 1, sinh viên chủ động trong tương tác với CVHT và
trường. Tương tự, trong sơ đồ 2, sinh viên giữ vai trò chủ động trong việc tiếp cận các
nguồn thông tin về thị trường lao động trước khi tìm đến CVHT để được tư vấn.
2.3. Nhiệm vụ của cố vấn học tập
Xét từ góc độ GD DTĐR thì CVHT có hai nhiệm vụ chính: (1) giúp sinh viên
xác định mục tiêu học tập, và (2) giúp sinh viên đạt được mục tiêu học tập của mình.
Hai nhiệm vụ này bao gồm những hoạt động cụ thể sauxiv
:
1) Giúp sinh viên nắm vững các chính sách của trường, các qui định, chương trình
đào tạo, và các thủ tục.
2) Sắp xếp thời gian gặp sinh viên.
3) Duy trì lịch tư vấn và dành đủ thời gian để tư vấn cho sinh viên.
4) Tư vấn sinh viên chọn các học phần và lên kế hoạch học tập đáp ứng các yêu
cầu của chuyên ngành.
183
5) Lắng nghe, hỗ trợ, và kết nối sinh viên với những bộ phận khác trong trường
khi cần.
6) Thảo luận với sinh viên về kết quả học tập và ý nghĩa của kết quả này đối với
các chương trình đại học , các chương trình sau đại học, và các hướng nghề
nghiệp mà sinh viên muốn theo đuổi.
7) Giúp sinh viên khám phá sở thích, khả năng, và mục tiêu của mình để chọn lựa
ngành học phù hợp.
8) Nắm vững các thông tin về việc làm và giới thiệu sinh viên đến các dịch vụ
giới thiệu việc làm khi cần.
9) Tạo cơ hội để sinh viên tham gia chương trình “mentoring relationship”, giúp
sinh viên gia tăng sự độc lập và tự định hướng .
“Mentoring relationship” là chương trình hỗ trợ sự phát triển của từng cá nhân.
Trong đó, một sinh viên nhiều kinh nghiệm hoặc kiến thức hơn (thường là sinh viên
các khóa trước) sẽ tư vấn một hoặc vài sinh viên kém hơn mình (khóa sau) theo một
kế hoạch cụ thể.xv
2.4. Nhiệm vụ của sinh viênxvi
CVHT giúp sinh viên nắm vững những lựa chọn và tránh những sai sót không
đáng có, nhưng chỉ khi sinh viên chủ động tìm kiếm sự tư vấn của CVHT.
Trang web của trường Concordia University Wiscosinxvii
nhấn mạnh tầm quan
trọng của sự cộng tác từ phía sinh viên để đạt được hiệu quả cao cho công tác cố vấn
học tập. Trong quan hệ sinh viên - CVHT, sinh viên cần chia se trách nhiệm với
CVHT, bao gồm:
1) Chủ động liên hệ với CVHT của mình. Sinh viên cần nhận thức được tầm quan
trọng của việc trao đổi với CVHT. Ngoài lịch hẹn đã được báo trước, sinh viên
cần chủ động hẹn gặp CVHT khi cần.
2) Chuẩn bị một danh sách các câu hỏi hoặc những vấn đề mình quan tâm trước
mỗi cuộc họp với CVHT của mình. Nếu sắp đăng ký các học phần thì sinh viên
cần chuẩn bị lịch học dự kiến trước khi gặp CVHT.
3) Thu thập tất cả các thông tin cần thiết cho việc đưa ra quyết định.
4) Tìm kiếm các nguồn thông tin giúp đưa ra các quyết định về học tập hoặc
nghề nghiệp.
184
5) Nếu không hiểu một chính sách hay thủ tục, sinh viên cần đặt câu hỏi đến khi
nào hiểu tường tận vấn đề. Sinh viên cần nắm vững các chính sách, thủ tục, và
yêu cầu.
6) Nắm vững các yêu cầu của chuyên ngành mình đang theo học, và lên lịch học
các học phần trong từng học kỳ theo các yêu cầu đó.
7) Nắm vững các điều kiện tiên quyết đối với từng học phần mà sinh viên định
học trong mỗi học kỳ và thảo luận với CVHT sự ảnh hưởng của những điều
kiện tiên quyết đó đối với việc sắp xếp trình tự của các học phần liên tiếp nhau.
8) Tuân thủ các thủ tục đăng ký các học phần và điều chỉnh lịch học.
9) Theo dõi thời hạn đăng ký các học phần. Không được trễ hạn. Cần nắm vững
thời điểm đăng ký, hủy hoặc thêm học phần. Cần sớm hẹp gặp CVHT trước khi
hết hạn những hoạt động kể trên.
10) Báo cho CVHT về những thay đổi trong tiến độ học tập, thay đổi việc chọn
lựa các học phần, và các mục tiêu học tập cũng như nghề nghiệp.
11) Lưu giữ hồ sơ cá nhân liên quan đến tiến độ học tập. Sắp xếp các tài liệu chính
thức của trường (cataloge, lịch học, bảng biểu...) để tiện dụng khi cần.
12) Tham gia đầy đủ các học phần đã đăng ký và làm bài tập đúng hạn.
13) Nắm vững các tiêu chí đánh giá, cảnh báo học tập, buộc thôi học, và các thang
điểm.
14) Nếu có thay đổi địa chỉ hoặc số điện thoại thì phải báo cho trường và thường
xuyên kiểm tra email.
15) Báo ngay cho CVHT hoặc văn phòng trưởng khoa khi gặp sự cố nghiêm trọng
(sức khỏe, tài chính, cá nhân) khiến sinh viên không thể dự lớp hoặc tập trung
vào việc học.
Theo tiếp cận GD DTĐR thì sinh viên cần đóng vai trò chủ động trong suốt qui
trình đào tạo và tự chịu trách nhiệm về kết quả học tập của mình. Do đó, trong tiếp
cận này, không thể đề cập đến vai trò và nhiệm vụ của CVHT tách rời với vai trò và
nhiệm vụ của sinh viên.
3. Vài nhận xét về công tác cố vấn học tập tại các trƣờng đại học, cao đẳng ở VN
Nhìn chung, hiệu quả của công tác cố vấn học tập tại các trường đai học – cao
đẳng Việt Nam còn nhiều hạn chế, chẳng hạn:
185
1) Vai trò của CVHT tại các trường đại học – cao đẳng Việt Nam chưa được đặt
đúng tầm, theo đúng yêu cầu của đào tạo theo học chế tín chỉ.
2) Tại các trường hầu như chưa có CVHT chuyên trách, mà chỉ có các giảng viên
kiêm nhiệm CVHT.
3) Đối với giảng viên thì đây chỉ là nhiệm vụ thứ yếu nên về mặt chủ quan, nhiều
giảng viên chưa chú tâm lắm cho nhiệm vụ này. Về mặt khách quan, giảng
viên phải tập trung cho nhiều nhiệm vụ quan trọng khác nên không còn nhiều
tâm trí cho công tác này.
4) Mỗi giảng viên thường được phân công phụ trách số lượng sinh viên lớn, cộng
với hạn chế về thời gian nên khó có thể làm việc sâu sát với sinh viên được
5) Công tác cố vấn học tập đòi hỏi nhiều thời gian và công sức vì CVHT phải tiếp
xúc với sinh viên (trực tiếp, điện thoại, email, ...) bất kỳ lúc nào sinh viên có
việc gấp cần trợ giúp, và khó có thể lượng hóa được công sức bỏ ra. Tuy nhiên,
khi thực hiện nhiệm vụ này, giảng viên chưa nhận được trợ cấp tương xứng.
6) Do việc tư vấn từng cá nhân đòi hỏi phải bảo mật nên cần phải có không gian
riêng để CVHT tiếp xúc với sinh viên. Tuy nhiên, rất ít trường nào có phòng
riêng dành cho CVHT trong những buổi trực văn phòng để tiếp sinh viên.
7) Ngoài ra, do thiếu sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban liên quan
(phòng đào tạo, phòng công tác sinh viên, phòng phát triển nguồn nhân lực,
khoa,...), nên công tác cố vấn học tập chưa được thực hiện một cách nhất quán
và hệ thống.
Trên đây là những khó khăn chung. Nếu nhìn từ góc độ GD DTĐR thì để hoàn
thành vai trò (1) giúp sinh viên xác định mục tiêu học tập, và (2) giúp sinh viên đạt
được mục tiêu học tập của mình thì CVHT cần được trang bị bị kiến thức và kỹ năng
cần thiết cho công tác này. Tuy nhiên, rất ít trường đầu tư thích đáng cho việc tập
huấn cho CVHT, giúp họ hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Từ những khó khăn trên, có thể kết luận rằng các CVHT tại các trường công ở
Việt Nam chưa được tạo điều kiện thuận lợi để hoàn thành nhiệm vụ của mình.
4. Một số đề xuất nâng cao hiệu quả cố vấn học tập theo tiếp cận giáo dục đào tạo
đầu ra
Đã có nhiều hội thảo và bài viết đề nghị những giải pháp nâng cao chất lượng
của công tác này. Trong điều kiện hiện nay, các trường chưa thể có được các CVHT
chuyên trách và được đào tạo bài bản để góp phần nâng cao chất lượng đầu ra. Những
186
đề xuất dưới đây được xây dựng trên những luận điểm và nguyên tắc cơ bản của GD
DTĐR và nhắm đến tính khả thi trong điều kiện cho phép.
4.1 Đối với các đơn vị đào tạo
- Cần có qui định thành văn và những hướng dẫn cụ thể để các khoa/bộ môn xây
dựng một cách khoa học và công bố các CĐRDK cho chương trình của từng chuyên
ngành và các học phần, giúp định hướng sinh viên và CVHT trong suốt qui trình đào
tạo. Ngoài các KQĐRDK liên quan đến chuyên ngành đào tạo, cần có qui định trang
bị cho sinh viên những kỹ năng cần cần thiết cho việc tự học và công việc tương lai.
- Cần có những qui định cụ thể về việc phối hợp giữa các phòng ban và cá nhân
liên quan trong việc triển khai công tác cố vấn học tập và những hoạt động khác, với
mục tiêu cao nhất là tạo điều kiện thuận lợi để sinh viên đạt được
- Lập hội đồng CVHT để điều phối công tác cố vấn học tập ở cấp độ trường,
nhắm đến việc đảm bảo tính hệ thống trong việc triển khai công tác này.
4.2 Đối với các CVHT
- Giúp sinh viên xác định mục tiêu học tập ngay từ đầu khóa. Sau đó, chuyển các
mục tiêu này thành các KQĐRDK để định hướng hoạt động cho sinh viên.
- Theo dõi tiến độ học tập của sinh viên và hỗ trợ khi cần, giúp sinh viên đạt
được các KQĐRDK đã xác định, thông qua các hoạt động cần thiết.
- Chú trọng trau dồi cho sinh viên kỹ năng tư duy độc lập-phê phán-sáng tạo, kỹ
năng tự học, và tính tự quyết.
4.3 Đối với sinh viên
- Xác định rõ mục tiêu học tập cho toàn khóa, từng học kỳ, và từng buổi học để
tự định hướng và lập kế hoạch học tập phù hợp trước khi tìm đến sự trợ giúp của
CVHT.
- Cần phát huy tính chủ động và tự chủ trong các hoạt động được nêu trong mục
2.4 nhằm đạt được các KQĐRDK.
- Trau dồi kỹ năng tư duy độc lập để giảm bớt sự lệ thuộc vào CVHT khi đưa ra
những quyết định quan trọng.
187
5. Thay lời kết
Với phương châm luôn hướng về sinh viên, thỏa mãn nhu cầu của sinh viên,
đảm bảo quyền lợi của sinh viên, và xem sinh viên như khách hàng thực thụ, hình
thức đào tạo theo học chế tín chỉ đòi hỏi rất nhiều nguồn lực.
Trong thực tế, nhiều trường đại học – cao đẳng Việt Nam còn đang trong quá
trình chuyển đổi từ phương thức niên chế sang tín chỉ nên nhu cầu và yêu cầu đối với
công tác cố vấn học tập chưa cao.
Một khi phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ đã tương đối hoàn thiện tại các
trường thì nhu cầu và yêu cầu đối với công tác này sẽ tăng vọt. Do đó, trong tiến trình
hoàn thiện phương thức đào tạo này tại đơn vị mình, các trường cần chú trọng đẩy
mạnh tổ chức và triển khai công tác cố vấn học tập.
Những luận điểm và nguyên tắc cơ bản của GD DTĐR phu hợp với phương
châm của hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ. Đó là, nhắm đến việc thỏa mãn nhu
cầu của sinh viên. Tương tự công tác đào tạo theo tiếp cận DG DTĐR, các hoạt động
cố vấn học tập được định hướng bởi KQĐRDK và nhắm đến việc tạo mọi điều kiện
thuận lợi để sinh viên đạt được các KQĐRDK đã xác lập.
188
VAI TRÒ CỦA CỐ VẤN HỌC TẬP THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ THỰC
TẾ TẠI KHOA CÔNG TÁC XÃ HỘI, TRƢỜNG ĐẠI HỌC
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Thanh Tùng1
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ đã phổ biến tại các trường Đại
học, Cao đẳng, các cơ sở đào tạo trong cả nước. Đi kèm với hình thức đào tạo này là
sự xuất hiện của thuật ngữ “cố vấn học tập” (CVHT). Theo quy chế, CVHT đóng một
vai trò rất quan trọng trong việc hỗ trợ, tư vấn, định hướng sinh viên từ học tập đến
đời sống và cả nghề nghiệp sau này. Khoa Công tác xã hội, Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh (ĐH KHXH&NV TP.HCM) từ khi thành
lập năm 2006, ngay từ đầu đã áp dụng đào tạo học chế tín chỉ, vì vậy Khoa nhận thức
rất rõ tầm quan trọng của CVHT. Bài viết trình bày về vai trò của CVHT, đồng thời
cũng đề cập đến sự đóng góp của GVCN với tư cách như là CVHT trong thực tiễn
hoạt động tại Khoa.
2. Nội dung
2.1. Định nghĩa cố vấn học tập
Đào tạo theo học chế tín chỉ là một hình thức đào tạo linh hoạt, lấy người học
làm trung tâm. Để nâng cao chất lượng đào tạo, ngoài yếu tố người học, đội ngũ giảng
viên, cơ sở vật chất, chương trình đào tạo thì CVHT đóng vai trò hết sức quan trọng.
CVHT là một chức danh có trong quá trình đào tạo theo học chế tín chỉ. CVHT
là người tư vấn và hỗ trợ sinh viên phát huy tối đa khả năng học tập, lựa chọn môn
học phù hợp để đáp ứng mục tiêu học tập trong suốt 4 năm học và tìm được việc làm
phù hợp với ngành nghề được đào tạo sau khi ra trường.
Những định nghĩa và quy định về cố vấn học tập được ban hành bằng văn bản
kèm theo các quyết định được ghi rõ trong các quy chế đào tạo đại học cũng như sổ
tay sinh viên của các trường. Tùy theo từng trường, tên gọi của người trợ giúp sinh
viên trong quá trình sinh viên xây dựng chương trình học tập của mình có thể là
CVHT, CVHT kiêm giáo viên chủ nhiệm, giáo viên hướng dẫn, cố vấn chương
trình,…4
1 ThS - Khoa Công tác xã hội, Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM
4 Trần Thị Minh Đức, Kiều Anh Tuấn, Cố vấn học tập trong các trường đại học, Tạp chí khoa học ĐHQGHN,
Khoa học Xã hội Nhân văn 28 (2012) 23-32, trang 24
189
Tại trường ĐH KHXH&NV TP.HCM, CVHT được quy định là giảng viên có
trình độ từ thạc sĩ trở lên, có ít nhất 2 năm trực tiếp giảng dạy, am hiểu chương trình
đào tạo và được Trưởng khoa/bộ môn phân công vào đầu khoá học. CVHT có trách
nhiệm giúp sinh viên hiểu rõ quy chế và những quy định của trường, hướng dẫn sinh
viên lựa chọn chuyên ngành, định hướng nghề nghiệp5.
2.2. Phân biệt giữa hai thuật ngữ “cố vấn học tập” và “giáo viên chủ nhiệm”
Qua tìm hiểu, tham khảo của tác giả về một số quy chế, nghị quyết về CVHT và
giáo viên chủ nhiệm (GVCN) ở các cơ sở đào tạo đại học và cao đẳng hiện nay, đa số
các trường sử dụng thuật ngữ “cố vấn học tập”, một số trường khác sử dụng thuật ngữ
“giáo viên chủ nhiệm”. Về mặt lý thuyết, hai tên gọi khác nhau nên trên thực tế chức
năng và nhiệm vụ của những người làm công tác này cũng khác nhau. Tuy nhiên, ở
một số trường, công việc của CVHT được xem như là của GVCN – nghĩa là GVCN
sẽ kiêm nhiệm luôn công tác của CVHT.
Có thể nói, tất cả những người làm nghề giáo và quản lý đào tạo đều dễ nhận
thấy khi nói tới CVHT và nay là GVCN đều là những người rất có ý thức và trách
nhiệm với thế hệ tre, với nhà trường và xã hội vì tương lai của các em cũng như của
đất nước. Vì vậy, họ rất cố gắng trong hỗ trợ, giúp đỡ, tư vấn sinh viên, phát huy tối
đa khả năng của các em trong học tập, định hướng lựa chọn ngành nghề phù hợp để
các em trở thành một người “hoàn thiện”.
Tuy nhiên, để công tác hỗ trợ sinh viên thiết thực và hiệu quả, thiết nghĩ cần
phải phân biệt rõ hai thuật ngữ này để thấy được trách nhiệm của CVHT và GVCN.
Vì vậy, giữa CVHT và GVCN có nhiều điểm tương đồng và cũng có nhiều điểm khác
biệt sau:
Tương đồng (giống nhau):
- Đều là cầu nối trung gian giữa Nhà trường và sinh viên; sinh viên với thị
trường lao động;
- Là người đ ồng hành cùng sinh viên trong suốt quá trình học tập và cũng là
người có ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công trong học tập và lựa chọn nghề
nghiệp của sinh viên;
- Là trợ thủ đắc lực giúp lãnh đạo các cấp trong nhà trường ra quyết định quản lý
phù hợp.
5 Quyết định về việc ban hành quy định công tác cố vấn học tập tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn
190
Khác biệt:
- GVCN khi thực hiện nhiệm vụ mang năng tính chất của quá trình quản lý hành
chính theo kiểu dạy bảo, chăm sóc, thậm chí đôi khi mệnh lệnh đơn phương với sinh
viên;
- Điểm khác biệt của CVHT có mà GVCN không có đó là một chuyên gia tư
vấn, hỗ trợ về học tập, rèn luyện và việc làm cho sinh viên;
Có thể nhận thấy, CVHT bao gồm toàn bộ chức năng, nhiệm vụ của GVCN,
song quá trình thực thi phải thay đổi hẳn phong cách, lề lối làm việc theo tinh thần
“thân thiện và tận tình” với sinh viên hơn; để nổi hơn với vai trò của một chuyên gia
tư vấn, hỗ trợ về học tập, rèn luyện và việc làm cho sinh viên6.
2.3. Nhiệm vụ của cố vấn học tập
Theo quyết định số 532 /XHNV/QĐ-ĐT của Hiệu trưởng trường Đại học
KHXH&NV TP.HCM ký ngày 11 tháng 11 năm 2011, thì cố vấn học tập phải đảm
nhận các công việc sau:
1. Nắm vững mục tiêu giáo dục, nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo,
các Quy chế, Quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí
Minh và Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn liên quan đến đào tạo, học
tập, rèn luyện và công tác sinh viên; thường xuyên cập nhật, bổ sung các văn bản có
liên quan để có thể tư vấn, giúp đỡ sinh viên trong quá trình học tập, rèn luyện tại
Trường.
2. Nắm rõ chức năng, nhiệm vụ của khoa/bộ môn, Phòng Đào tạo, Phòng Công
tác sinh viên và các đơn vị có liên quan để hướng dẫn sinh viên cách tìm kiếm thông
tin, liên hệ công việc liên quan đến hoạt động học tập và rèn luyện.
3. Hướng dẫn sinh viên các thủ tục liên quan đến học vụ như: đăng ký học phần,
huỷ đăng ký học phần, thi cải thiện, khiếu nại, phúc tra bài thi, chuyển ngành, học
bằng thứ hai,…
4. Tư vấn cho sinh viên xây dựng, điều chỉnh kế hoạch học tập tại trường và kế
hoạch tự học cho toàn khoá học hoặc cho từng học kỳ phù hợp với năng lực và hoàn
cảnh của sinh viên.
5. Quản lý lớp khoá học, thông tin cá nhân sinh viên; giới thiệu nhân sự để bầu
Ban Cán sự lớp, thông qua kết quả bầu cử và đề nghị Trưởng khoa phê duyệt; nắm
6 Phan Thanh Liêm, Tọa đàm về cố vấn học tập
191
tình hình chung của lớp phụ trách thông qua Ban Cán sự lớp; họp lớp thường kỳ ít
nhất 2 lần/1 học kỳ.
6. Thực hiện công tác đánh giá kết quả rèn luyện sinh viên như: phổ biến quy
định đánh giá, hướng dẫn thực hiện, chủ trì họp lớp đánh giá.
7. Hướng dẫn, khuyến khích, tạo điều kiện cho sinh viên tham gia các hoạt động
học thuật, nghiên cứu khoa học, bồi dưỡng kỹ năng; các hoạt động vì cộng đồng; các
hoạt động văn, thể, mỹ lành mạnh, bổ ích; tham gia phát hiện năng lực, sở trường của
sinh viên để định hướng nghề nghiệp, hỗ trợ điều kiện để phát triển năng lực, sở
trường đó.
8. Chủ trì họp lớp khoá học về việc xét khen thưởng, kỷ luật và gửi kết quả lên
lãnh đạo khoa/bộ môn.
9. Tham dự họp Hội đồng khen thưởng – kỷ luật sinh viên cấp khoa để đề xuất
hình thức khen thưởng, kỷ luật sinh viên.
10. Thực hiện chế độ báo cáo theo yêu cầu của Trưởng khoa.
2.4. Thực tế vai trò của cố vấn học tập tại khoa Công tác xã hội – Trƣờng
ĐH KHXH&NV TP. HCM
Với đặc trưng của một ngành nghề mang tính thực tiễn xã hội cao, có nhiều tín
chỉ chuyên về thực hành thực tập, vì vậy mối quan hệ giữa giảng viên và sinh viên
trong khoa Công tác xã hội rất chặt chẽ. Giữa giảng viên và sinh viên ngoài việc tiếp
xúc trong các giờ học lý thuyết trên lớp thì còn gặp nhau khá thường xuyên trong các
cuộc họp định kỳ về lượng giá thực tập, các buổi sinh hoạt kỹ năng hay tại các cơ sở
xã hội. Ngoài ra, Thầy/Cô là những người đã được đào tạo kiến thức về tư vấn tâm lý,
tham vấn tâm lý, công tác xã hội học đường – hoặc những Thầy/Cô được đào tạo và
giảng dạy về các chuyên ngành này nên có sự hiểu biết và cảm thông nhất định đối
với các vấn đề tâm lý tình cảm, đời sống của sinh viên. Đặc biệt, GVCN – ngoài công
tác quản lý chung về mặt hành chính và các công việc có liên quan được giao thì còn
là giảng viên đứng lớp. Có thể nói, đây là điều kiện thuận lợi để GVCN tiếp xúc nhiều
hơn với sinh viên và có thể hiểu được từng sinh viên mà mình phụ trách.
Do những điều kiện khách quan như vậy nên trên thực tế, mặc dù Khoa có danh
sách riêng về CVHT, nhưng hầu như những công tác và trách nhiệm của CVHT đều
do GVCN đảm trách. GVCN ngoài việc thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của mình
còn kiêm nhiệm luôn các công tác khác trên phạm vi của CVHT. Có thể nói rằng,
GVCN chính là CVHT.
192
Thông thường, việc bổ nhiệm GVCN sẽ được tiến hành vào đầu năm học mới,
trước khi sinh viên nhập học và do Ban chủ nhiệm Khoa quyết định. Mỗi một GVCN
sẽ theo sát sinh viên trong suốt 4 năm học của các em. GVCN được lựa chọn đáp ứng
theo tiêu chí của Nhà trường đưa ra là có trình độ thạc sỹ, có kinh nghiệm làm việc từ
2 năm trở lên. Bên cạnh, Khoa cũng có những tiêu chí riêng như ưu tiên những
Thầy/Cô lớn tuổi có kinh nghiệm làm việc nhiều với sinh viên, dễ dàng nắm bắt tâm
tư tình cảm, định hướng học tập và cuộc sống cho các em; ngoài ra có những giảng
viên tre đã có kinh nghiệm trong công tác quản lý sinh viên, sinh hoạt Đoàn, Hội để
có thể đủ sức khỏe và thời gian tham gia các hoạt động phong trào do sinh viên phát
động.
Trách nhiệm của GVCN kiêm CVHT sẽ bắt đầu từ công việc đầu tiên là đón tân
sinh viên nhập học. Theo lệ, nhà trường sẽ dành ra 2 ngày cho mỗi Khoa để sinh viên
nộp hồ sơ. GVCN cung với QLSV của Khoa tiếp cận với sinh viên ngay từ bước đầu
này để tư vấn các thắc mắc (nếu có) của các em và phụ huynh về thông tin ngành học,
nộp học phí, chỗ ở,… Có thể nói, đây là một trong những bước đầu tiên để GVCN
phần nào nắm bắt được số lượng sinh viên trên thực tế nhập học để báo Ban chủ
nhiệm Khoa, những khó khăn và vướng mắc của các em khi lần đầu học xa nhà.
Tiếp theo, Khoa và các sinh viên khóa trên sẽ tổ chức một buổi đón tiếp tân sinh
viên. Trong buổi đón tân sinh viên này, Trưởng Khoa giới thiệu tổng quát về Khoa và
ngành học; Các giảng viên và sinh viên năm trên giải đáp các thắc mắc cho tân sinh
viên; Sinh hoạt giao lưu để các em cảm nhận được tình cảm ấm áp của Thầy/Cô và
anh/chị về một “gia đình” công tác xã hội; giới thiệu GVCN. GVCN tiến hành phát
bảng hỏi khảo sát điều tra xã hội học về các nội dung như thông tin cơ bản (quê quán,
gia đình, nghề nghiệp bố mẹ, chỗ ở hiện nay, mối quan hệ họ hàng tại nơi học, bạn
bè,…), địa chỉ, số điện thoại liên lạc và tâm tư tình cảm, nguyện vọng của các em.
Các phiếu khảo sát này sau khi được các em điền thông tin, GVCN xử lý SPSS để có
số liệu, viết thành một báo cáo hoàn chỉnh lưu giữ ở Khoa. GVCN cũng sẽ dựa trên
báo cáo này để có sự hỗ trợ cần thiết và kịp thời khi sinh viên có nhu cầu.
Cuối buổi gặp mặt, GVCN ở lại với lớp để tư vấn bầu Ban cán sự lớp, Ban chấp
hành Đoàn, Hội tạm thời để quản lý và sinh hoạt lớp. Sau 1 tháng nhập học, sẽ bầu lại
theo yêu cầu của sinh viên. Bắt đầu từ giai đoạn này, GVCN thực hiện trách nhiệm
của mình trong suốt tiến trình học của các em.
Thông thường, đầu năm học, Ban chấp hành Đoàn, Hội của Khoa có rất nhiều
hoạt động cho sinh viên năm nhất để tăng cường sự hiểu biết về ngành học và về
nhau. GVCN là người duyệt chương trình, chỉnh sửa, góp ý và tham gia cùng với các
193
em. Các hoạt động bao gồm: thăm quan trung tâm thành phố, thăm quan bảo tàng
thành phố, sinh hoạt dã ngoại tại công viên hoặc tổ chức hội trại ở một số địa điểm
trong hoặc gân thành phố như Đồng Nai, Bình Dương,... GVCN theo sát các em để
quản lý và đề phòng những bất trắc có thể xảy ra.
GVCN sẽ cùng với lớp lên định kỳ thời gian họp lớp – có thể là 2 tuần/lần. Nội
dung các cuộc họp là báo cáo tình hình lớp, thăm hỏi vấn đề học tập và sinh hoạt của
các em, tư vấn về các môn học,… Những năm đầu khi sinh viên học đại cương,
GVCN không có cơ hội gặp lớp thường xuyên nhưng đến khi sinh viên bước vào môn
học chuyên ngành, lớp có thể gặp GVCN hằng tuần khi GVCN cũng chính là giảng
viên giảng dạy và hướng dẫn thực tập. Ngoài ra, GVCN cũng liên lạc thường xuyên
với Ban cán sự lớp, Ban chấp hành Đoàn, Hội qua điện thoại khi có việc cần thông
báo hoặc lớp xảy ra bất kỳ vấn đề khi cần sự can thiệp, tư vấn của GVCN. Các sinh
viên trong lớp có những vấn đề cần giãi bày có thể liên lạc với GVCN qua điện thoại
hoặc hộp thư điện tử. Kinh nghiệm thực tế khi làm GVCN của tác giả cho thấy, nếu
GVCN thường xuyên quan tâm tới lớp, có những chia se động viên, hỗ trợ các em thì
sinh viên thật sự rất tin tưởng vào GVCN. Các em dù gặp bất kỳ những khó khăn gì
trong cuộc sống thì người đầu tiên các em tư vấn chính là GVCN của mình, từ chuyện
học tập, đến gia đình, bạn bè, tình yêu,… Ngay cả Ban cán sự lớp, Ban chấp hành
Đoàn, Hội khi phát hiện hoặc có sự nghi ngờ về một thành viên bất kỳ trong lớp gặp
phải vấn đề nhưng không dám hỏi thì cũng gọi điện cho GVCN nhờ tư vấn.
Sau khi nhập học 2 tuần, GVCN tiến hành tổ chức “Hội nghị học tốt” để giảng
viên và sinh viên khóa trên chia se kinh nghiệm học tập cho tân sinh viên. Đây là việc
làm thiết thực nhằm giúp các em khỏi bỡ ngỡ với môi trường học và chương trình học
mới, tránh khỏi những áp lực và căng thẳng trong học tập đại học. GVCN cũng theo
từng năm học có những hướng dẫn tư vấn nghiên cứu khoa học để các em tham gia
đăng ký đề tài nghiên cứu khoa học cấp Khoa và cấp Trường.
Trong năm đầu tiên của ngành học, Khoa có một đợt thực tập thực tế theo
chương trình thực tập của Khoa. GVCN được phân công phụ trách học phần này, đó
là “Giao lưu học hỏi mô hình công tác xã hội” tại các cơ sở xã hội trên địa bàn thành
phố. GVCN sẽ chịu trách nhiệm tìm cơ sở, phân nhóm sinh viên, đưa sinh viên đi, tổ
chức sinh hoạt, viết bài thu hoạch. Ngoài chương trình chính thống của Khoa, GVCN
có thể kết hợp với lớp tổ chức các buổi sinh hoạt tại các cơ sở xã hội khác nhau với
nhiều đối tượng xã hội như tre em, người cao tuổi, người khuyết tật,… vào các dịp
như Quốc tế thiếu nhi, Noel, Tết dương lịch, Ngày người Khuyết tật,… để các em làm
quen với ngành học của mình.
194
Bên cạnh các cuộc họp định kỳ với lớp, GVCN cũng tham gia trong các đại hội
Đoàn,… để tư vấn, hỗ trợ thêm cho các em. GVCN là người chấm điểm rèn luyện vào
mỗi cuối học kỳ vì họ là người nắm rõ nhất từng sinh viên của mình, từ việc học tập
đến tham gia hoạt động xã hội, các mối quan hệ bạn bè,…
Để gắn kết mối quan hệ chặt chẽ giữa Thầy và trò, GVCN luôn thường xuyên
tham gia các sinh hoạt tinh thần của sinh viên như ngày 8-3 cho các sinh viên nữ,
ngày lễ Noel, Tết dương lịch,… được lớp tổ chức. Các hoạt động phòng trào như văn
nghệ, đá bóng,.. GVCN cung với quản lý sinh viên cổ vũ, hỗ trợ vật chất và tinh thần
cho các em. GVCN sẽ tới thăm, động viên sinh viên khi các em tham gia học quân sự
1 tháng tại trung tâm giáo dục quốc phòng. Ngoài ra, khi sinh viên ốm đau nằm tại
bệnh viện, GVCN tiến hành họp lớp để chia nhóm sinh viên tới ở cùng với bạn, cùng
lớp thăm nom, giúp đỡ,… Sinh viên gặp khó khăn về tài chính, GVCN tìm cách hỗ trợ
như thông tin và đề xuất học bổng, thành lập quỹ để hỗ trợ các thành viên trong lớp
khi cần,…
Một công việc cũng được xem là quan trong và GVCN phải phối hợp với giáo
vụ Khoa và phòng Đào tạo là vấn đề tư vấn cho sinh viên đăng ký tín chỉ học phần.
Với một giảng viên không chuyên về công tác đào tạo, GVCN cố gắng rất nhiều trong
tiếp cận thông tin để tư vấn cho sinh viên của mình. Ngoài ra, trong những năm sau
này, GVCN cũng chính là giảng viên dạy chuyên ngành và hướng dẫn thực tập, vì vậy
sinh viên có nhiều cơ hội trong việc nhờ GVCN tư vấn kiến thức môn học và những
khó khăn, thắc mắc nảy sinh trong quá trình thực tập thực tế. GVCN căn cứ trên sở
trường, khả năng và sở thích của sinh viên để hướng các em chọn lựa nghề nghiệp
phù hợp sau khi ra trường và có thể giới thiệu việc làm nếu có.
Bên cạnh, GVCN kết hợp với Thầy/Cô trong Khoa mở các lớp tập huấn kỹ
năng, tập huấn viết hồ sơ xin việc,… khi các em bước vào năm học thứ 4 để các em
có những tiền đề cơ bản về phỏng vấn xin việc sau khi ra trường.
Ngoài ra, sau khi quá trình học của các em kết thúc, 1 năm sau, GVCN sẽ kết
hợp với bộ phận Quản lý sinh viên của Khoa tiến hành công tác khảo sát việc làm của
các em. Đây là công việc được xem là thường xuyên, tất yếu của công tác đảm bảo
chất lượng để tiến tới tổ chức các hội nghị nhà tuyển dụng,…
Có thể nói, công việc của GVCN thật sự rất nhiều, đòi hỏi bản thân Thầy/Cô
phải bỏ ra nhiều thời gian và công sức. Tuy nhiên, chế độ đãi ngộ cho GVCN chưa
thật sự phù hợp. Theo quy chế, GVCN sẽ được trừ 10% giờ chuẩn và không có bất kỳ
một khoản phụ cấp nào khác. Tuy nhiên, hầu hết GVCN là người dạy các môn chuyên
ngành, nên việc dạy vượt giờ chuẩn là không cao. Bên cạnh, nếu có trợ cấp (1
195
năm/lần) là cho CVHT, nhưng thường danh sách CVHT lại không trùng với GVCN.
Ngoài ra, GVCN cũng thường xuyên hỗ trợ về tài chính cho sinh viên của mình khi
các em gặp khó khăn hoặc tổ chức các phòng trào. Vì vậy, hầu hết GVCN làm việc
xuất phát từ cái “tâm” và trách nhiệm của một người làm nghề giáo. Thiết nghĩa,
Khoa và Nhà trường cần phải có sự hỗ trợ thích đáng, tạo điều kiện cho các Thầy/Cô
hoàn thành và làm tốt vai trò cao cả này.
3. Kết luận
Từ những phân tích trên cho chúng ta thấy, sau khi chuyển từ chương trình đào
tạo niên chế sang học chế tín chỉ, khái niệm “cố vấn học tập” ra đời và được phổ biến
rộng rãi. Có thể nói, đối với sinh viên, trong suốt quá trình học trên ghế giảng đường
của mình, CVHT đóng một vai trò rất quan trọng trong hỗ trợ, tư vấn và định hướng
các em từ học tập đến cuộc sống và công việc trong tương lai sau này. Tuy nhiên, để
công tác GVCN và CVHT đạt kết quả, thiết nghĩ cần có những chính sách phù hợp để
hỗ trợ xứng đáng với thời gian, công sức và cả vật chất mà Thầy/Cô đã bỏ ra. Đây
cũng chính là động viên về tinh thần cho Thầy/Cô trong công tác này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quyết định Ban hành về quy chế đào tạo theo hệ thống tín chỉ trường ĐH
KHXH&NV, 2009.
2. Quyết định về việc ban hành quy định công tác cố vấn học tập tại trường ĐH
KHXH&NV TP.HCM, 2011.
3. Trần Thị Minh Đức, Kiều Anh Tuấn (2012), Cố vấn học tập trong các trường
đại học, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội Nhân văn 28 (2012)
23-32, trang 24.
196
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO TÍNH HIỆU QUẢ
CỦA CỐ VẤN HỌC TẬP TRONG VIỆC GIÚP SINH VIÊN TỰ HỌC
TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Hoàng Thiện1
1. Đặt vấn đề
Ơ đại học, một trong những vấn đề then chốt quyết định kết quả học tập của sinh
viên chính là tự học. Có thể nói rằng “tự học giúp sinh viên nắm vững tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo về nghề nghiệp tương lai”7 và “du có được học trường nào, thầy nào nổi
tiếng đến đâu đi chăng nữa, thì nhân tố quan trọng nhất quyết định kết quả mĩ mãn
của quá trình đào tạo thì vẫn là công tự học của người học trò”8. Tự học có một vai trò
to lớn vì nó giúp sinh viên có hứng thú hơn với việc học do có điều kiện tìm hiểu
thêm những vấn đề mà mình quan tâm. Bài viết này, chúng tôi muốn chia se thực
trạng về tự học của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM qua việc khảo sát
khảo sát 379 sinh viên năm 2 và năm 3 của Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí
Minh hệ sư phạm chính quy khoa Toán, Văn, Anh, và Giáo dục Tiểu học trong năm
học 2013 – 2014 về những khó khăn mà họ gặp phải, trong đó có yếu tố liên quan đến
giảng viên - cố vấn học tập. Trên cơ sở dữ liệu thực tiễn và lý luận, chúng tôi đề xuất
một số biện pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả của cố vấn học tập trong việc giúp
dinh viên tự học.
2. Khái niệm về cố vấn học tập
Công tác cố vấn học tập được xem như là tiến trình “trợ giúp sinh viên nhận ra
những lợi ích cao nhất của giáo dục đối với họ bằng cách giúp họ hiểu bản thân họ
hơn và biết sử dụng những nguồn tài nguyên của trường để đáp ứng những nhu cầu
giáo dục riêng biệt và khát vọng học tập của họ” (Crockett, 1978). Sindabi (2007) lập
luận rằng mục đích của chương trình cố vấn học tập là nhằm giúp sinh viên trong việc
phát triển những mục tiêu nghề nghiệp và giáo dục có ý nghĩa.
Việc cố vấn học tập là một bộ phận độc lập trong việc tư vấn nói chung ở trường
dựa trên sự thật là sinh viên có những nhu cầu đặc biệt mà không thể nào được giải
quyết một cách trọn vẹn theo những hướng dẫn và chương trình tư vấn thông thường.
Cũng giống như việc cần có những chương trình tư vấn đặc biệt về tình yêu, gia
đình,… thì chúng ta cần có chương trình tư vấn học tập trong trường đại học.
1 Viện Nghiên cứu Giáo dục, trường Đại học Sư phạm TP. HCM
7 Hoàng Anh, Đỗ Thị Châu (2008), Tự học của sinh viên, NXB Giáo dục, trang 128. 8 Dạy tự học, số 22 (tháng 4 năm 2002), trang 11.
197
Tùy theo từng trường, văn bản ghi chức danh - tên gọi của người trợ giúp sinh
viên trong quá trình sinh viên xây dựng chương trình học tập của mình có thể là cố
vấn học tập, cố vấn học tập kiêm Giáo viên chủ nhiệm; Giáo viên chủ nhiệm, Giáo
viên hướng dẫn, cố vấn chương trình9. Tuy nhiên, để phù hợp với văn với Qui chế 43
của Bộ Giáo dục và đào tạo10
thì đa số các trường sử dụng tên gọi cố vấn học tập.
Theo định nghĩa của Joe Cuseo thì cố vấn học tập là một người “giúp sinh viên
trở nên tự ý thức về những mối quan tâm đặc trưng của mình, những tài năng, giá trị,
và những ưu tiên riêng của sinh viên; người giúp sinh viên có thể nhìn thấy được sự
liên kết giữa kinh nghiệm học tập hiện tại và kế hoạch cuộc sống tương lai của họ;
người giúp sinh viên khám phá ra tiềm năng, mục địch và đam mê; người mở rộng
quan điểm của sinh viên mà vẫn tôn trọng những lựa chọn trong cuộc sống riêng tư
của họ và mài dũa những kỹ năng nhận thức của họ trong việc đưa ra những lựa chọn
như kỹ năng giải quyết vấn đề hiệu quả, tư duy phản biện, ra quyết định”.11
Và “cố
vấn học tập là một chức danh trong hệ thống các chức danh của cơ sở đào tạo theo
học chế tín chỉ”12
.
3. Nhiệm vụ của cố vấn học tập
Những cố vấn học tập cung cấp thông tin về tiến bộ trong học tập cũng như
những đòi hỏi của chương trình và xem xét cẩn thận những nhu cầu, kết quả, và khó
khăn trong học tập của sinh viên.
Theo Love (2003), Schreiner và Anderson (2005) thì nhiệm vụ của cố vấn học
tập là hỗ trợ sinh viên trong việc đưa ra những quyết định học thuật, khám phá phong
cách học tập, thực hiện những mục tiêu được thiết lập và kỹ năng giải quyết vấn đề
cũng như tiếp cận được những dịch vụ hỗ trợ cần thiết được cung cấp bởi nhà trường.
Sindabi (2007) thì liệt kê ra một số những nhiệm vụ mà cố vấn học tập phải thực
hiện. Đó là:
- Trả lời tất cả những câu hỏi liên quan đến việc học.
9 Trần Thị Minh Đức, Kiều Anh Tuấn, Cố vấn học tập trong các trường đại học, Tạp chí Khoa học Đại học
Quốc gia Hà Nội, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012), trang 24. 10 Bộ Giáo dục và đào tạo, Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ, (Ban hành
kèm theo Quyết định số 43/2007/ QĐ - BGDĐT), 8/2007. 11 Cuseo, J. (n.d.). Academic advisement and student retention: Empirical connections & systemic interventions,
trang 15.
http://www.uwc.edu/administration/academic-
affairs/esfy/cuseo/Academic%20Advisement%20and%20Student%20Retention.doc 12 TS. Nguyễn Văn Lân, Báo cáo một số nội dung về công tác cố vấn học tập theo học chế tín chỉ, Trường Đại
học Luật Tp. Hồ Chí Minh,
http://www.hcmulaw.edu.vn/
198
- Giới thiệu sinh viên đến những ai có thể trả lời những câu hỏi của họ.
- Cung cấp thông tin và chỉ dẫn về những vấn đề học thuật và chương trình học.
- Giới thiệu sinh viên đến trưởng khoa và trưởng bộ môn để trả lời những câu
hỏi về chương trình học những vấn đề học thuật khác.
- Tìm hiểu những mục tiêu nghề nghiệp và học tập của sinh viên và đưa ra
những chỉ dẫn khi cần.
- Duy trì kết quả học tập – điều có thể xem như nền tảng của việc chỉ dẫn.
- Khuyên và tạo điều kiện cho sinh viên được tiếp cận những nguồn tham khảo
phong phú – điều này nhìn chung sẽ góp phần vào sự phát triển tri thức của họ.
- Cung cấp những thông tin về nghề nghiệp hoặc những chương trình học bổ trợ
cho việc học chính khóa của sinh viên.
- Giải quyết những vấn đề phát sinh trong học tập.
- Giới thiệu sinh viên đến những bộn phận tư vấn chuyên môn trong và ngoài
nhà trường.
- Tìm hiểu xem sinh viên có nhận được những kết quả tốt từ những mối liên lạc
và địa chỉ mà cố vấn học tập giới thiệu.
Ơ các trường đại học Việt Nam, nhiệm vụ của cố vấn học tập được quy định cụ
thể trong những văn bản của nhà trường. Như theo “Quy định Công tác Cố vấn học
tập” của Trường Đại học Cần Thơ (ban hành kèm theo Quyết định số 2067/QĐ-
ĐHCT, ngày 04 tháng 12 năm 2007 của Hiệu trưởng) thì cố vấn học tập có 7 nhiệm
vụ chính. Còn theo “Quy định Công tác Cố vấn học tập” của Trường Đại học Kinh tế
Tp. Hồ Chí Minh (ban hành kèm theo Quyết định số 1409/ QĐ-ĐHKT-TCHC ngày
03 tháng 9 năm 2009 của Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh) thì
cố vấn học tập có 11 nhiệm vụ chính.
Dù những quy định của các trường đại học có sự khác nhau về số lượng nhiệm
vụ và cách diễn đạt nhưng nhìn chung có thể thấy những nhiệm vụ đó chính là “tư
vấn, định hướng cho sinh viên trong học tập, nghiên cứu khoa học, nghề nghiệp tương
lai; thực hiện công tác quản lý sinh viên và tư vấn, định hướng cho sinh viên những
vấn đề cá nhân, xã hội, cuộc sống”13
. Như vậy, việc giúp sinh viên đạt được kết quả
học tập tốt là một nhiệm vụ của người cố vấn học tập. Với việc đào tạo theo học chế
tín chỉ, việc học tập của sinh viên được gắn liền với tự học. Do đó, hướng dẫn sinh
13 ThS. Nguyễn Thanh Sơn, Đổi mới công tác quản lý cố vấn học tập tại các trường đại học ngoài công lập, Bản
tin Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Yersin Đà Lạt, 2014, trang 10-11.
199
viên học tập đại học cũng gắn liền và có thể nói là phần lớn liên quan đến việc hướng
dẫn sinh viên tự học.
4. Thực trạng cố vấn học tập và việc giúp sinh viên trong việc tự học tại Trƣờng
Đại học Sƣ phạm Tp. Hồ Chí Minh
Đối với Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, đơn vị mà nhóm nghiên
cứu tiến hành khảo sát thì Công tác Cố vấn học tập tại Trƣờng Đại học Sƣ phạm
Tp. Hồ Chí Minh (Ban hành kèm theo Quyết định số 1464/QĐ-ĐHSP ngày 27 tháng
9 năm 2010 của Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh) thì cố vấn
học tập có 11 nhiệm vụ chính.
Trong “Quy định Công tác Cố vấn học tập” của Trường Đại học Sư phạm Tp.
Hồ Chí Minh, ở phần nhiệm vụ thì mục 1,3,5,7,8 đã đề cập đến trực tiếp hoặc gián
tiếp đến vấn đề giúp sinh viên tự học như “1) Học tập, nghiên cứu, nắm vững mục tiêu
giáo dục, nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo, Quy chế của Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Quy định, Nội quy của Trường về học tập, rèn luyện và công tác sinh viên
của Trường; thường xuyên cập nhật những thay đổi, bổ sung trong Quy chế, Quy
định, Nội quy để có thể tư vấn, hỗ trợ giúp đỡ sinh viên trong quá trình học tập, rèn
luyện tại Trường;2) Hướng dẫn sinh viên đăng kí học phần từng học và tư vấn cho
sinh viên cách thức xây dựng kế hoạch học tập cho toàn khóa học;….”
Qua khảo sát 379 sinh viên Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh về tự
học ngoài giờ lên lớp thì trong những nguyên nhân làm ảnh đến việc tự học của sinh
viên (bảng 1), yếu tố liên quan đến việc hướng dẫn của giảng viên cùng những vấn đề
khác có liên quan đến người dạy chiếm một tỷ lệ khá cao. Cụ thể là “Nội dung bài
học, môn học” có 50,1% cho là ảnh hưởng nhiều. Đây là con số cao nhất trong tất cả
các yếu tố khảo sát. Ngoài ra những yếu tố khác cũng chiếm tỷ lệ khá cao như: “Việc
khuyến khích, hướng dẫn tự học của giảng viên” (35,9% cho là ảnh hưởng “Nhiều”),
“Yêu cầu của giảng viên trong tự học” (34,3% cho là ảnh hưởng “Nhiều”), “Cách
kiểm tra, đánh giá của giảng viên” (38% cho là ảnh hưởng “Nhiều”), “Phương pháp
giảng dạy của giảng viên” (38,3% cho là ảnh hưởng “Nhiều”).
5. Một số biện pháp giúp cố vấn học tập nâng cao hiệu quả trong việc hỗ trợ sinh
viên tự học
Để giúp cố vấn học tập phát huy hết khả năng của mình cần sự phối hợp của yếu
tố bên trong chính bản thân người cố vấn và những yếu tố bên ngoài như khoa,
Trường, sinh viên,… Trong bài viết này, nhóm nghiên cứu chỉ đề xuất một số biện
pháp mà bản thân cố vấn có thể chủ động thực hiện với vai trò là một người giảng dạy
200
và người tư vấn cho sinh viên. Đề xuất này dựa trên nhiều nghiên cứu cũng như từ kết
quả của cuộc khảo sát 379 sinh viên Trường Đại học Sư Phạm Tp. Hồ Chí Minh.
5.1. Nâng cao nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của tự học
Không phải sinh viên nào cũng hiểu được rằng học đại học không phải là việc
chỉ ghi chép và học thuộc những gì thầy cô giảng dạy. Môi trường đại học đòi hỏi sự
chủ động của người học và tự học là một yếu tố then chốt quyết định thành công của
người học. Do đó, sinh viên cần nhận thức được tầm quan trong của tự học vì “học tập
với nhận thức ở mức độ cao bao giờ cũng đem lại hiệu quả cao nhất”14
. Và quá trình
hình thành nhận thức không chỉ là quá trính khép kín của cá nhân người học mà các
thầy cô, nhất là những người có thêm vai trò là cố học tập chính là người có nhiệm vụ,
điều kiện khai mở và nâng cao nhận thức của sinh viên.
Vì nhận thức gồm có kiến thức, biểu hiện và sự xử lý khả thi để biến đổi hai
thành phần trên nên cố vấn học tập cần nắm được những yếu tố này ở sinh viên để
đánh giá xem nhận thức của sinh về tự học đang ở mức nào để từ đó có những cách
giúp sinh viên hình thành, nâng cao nó.
Cố vấn học tập có thể thực hiện việc này thông qua những buổi sinh hoạt với tập
thể sinh viên hoặc tốt hơn nếu có điều kiện nên gặp gỡ từng nhóm sinh viên hoặc từng
cá nhân sinh viên để có những tư vấn, chỉ dẫn sâu sắc về tầm quan trọng của tự học
cho sinh viên.
5.2. Hướng dẫn sinh viên những kỹ năng tự học cần thiết
Theo kết quả của cuộc khảo sát, với mục “Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt
động tự học của sinh viên” (bảng 1) thì có 16,4% sinh viên cho rằng “Những kỹ năng
học tập cơ bản như đọc sách, ghi chú” có ảnh hưởng rất nhiều đến việc tự học và có
đến 54,6% sinh viên cho rằng yếu tố này ảnh hưởng nhiều đến việc tự học của mình.
Như vậy, có thể thấy rằng đa số sinh viên vẫn còn chưa có đủ kỹ năng cần thiết
cho tự học. Kỹ năng học tập của học sinh, sinh viên được hình thành chủ yếu qua con
đường rèn luyện và giáo dục. Như vậy, bên cạnh việc sinh viên tự mình rèn luyện
những kỹ năng này khi ý thức được ý nghĩa của nó thì vai trò của người thầy trong
việc tác động vào sinh viên là không kém phần quan trọng. Bên cạnh đó, kết quả của
cuộc khảo sát cũng cho thấy được vai trò của giảng viên trong việc giúp sinh viên
hình thành và nâng cao kỹ năng tự học. Với mục “Những biện pháp có thể nâng cao
hiệu quả của hoạt động tự học của sinh viên và mức độ cần thiết của chúng” (bảng 2)
có 18,2% sinh viên cho rằng rất cần có biện pháp “Giảng viên hướng dẫn sinh viên
14 Hoàng Anh, Đỗ Thị Châu (2008), Tự học của sinh viên, NXB Giáo dục, trang 133.
201
những vấn đề liên quan đến tự học” và đến 50,4% sinh viên cho rằng cần có biện pháp
này.
Vừa là người giảng dạy, vừa là người theo sát nhiều hoạt động của sinh viên, cố
vấn học tập cần nắm rõ những kỹ năng nào sinh viên chưa có hoặc còn yếu để kịp thời
bồi dưỡng.
Có rất nhiều kỹ năng liên quan đến tự học mà sinh viên cần nắm vững nên cố
vấn học tập cần “cung cấp cho sinh viên một cách có hệ thống các tri thức cần thiết về
cách tiến hành hoạt động học tập và các hành động tự học”15
. Việc cung cấp này có
thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Cố vấn học tập có thể tổ chức các lớp
học theo chuyên đề giúp sinh viên lĩnh hội tri thức về kỹ năng tự học một cách nhanh
chóng có hệ thống. Với lớp học này, cố vấn học tập có thể là người hướng dẫn hoặc
có thể mời các thầy cô đúng chuyên môn cung với những sinh viên tự học tốt, có kết
quả học tập cao để chia se. Bên cạnh đó, với cương vị là người trực tiếp giảng dạy thì
cố vấn học tập có thể lồng ghép vào việc giảng dạy trên lớp hoặc đề xuất với những
giảng viên bộ môn khác dành thời gian để giúp sinh viên phát triển thêm kỹ năng tự
học cho môn học đó. Hình thức này phù hợp với việc lĩnh hội tri thức về các kỹ năng
chuyên biệt gắn với đặc trưng môn học. Ngoài ra, cố vấn học tập cần hướng dẫn sinh
viên tìm những nguồn tài liệu liên quan, tin cậy để tự nghiên cứu. Và việc tư vấn riêng
cho từng nhóm hoặc cá nhân cũng là một điều cần thiết.
5.3. Đối mới phương pháp đánh giá, giảng dạy
Theo kết quả của cuộc khảo sát thì có đến 50% sinh viên cho rằng “Giảng viên
thay đổi phương pháp giảng dạy theo hướng khuyến khích, tăng cường tự học cho
sinh viên” là biện pháp cần có để giúp sinh viên tự học hiệu quả (bảng 2). Điều này có
thể xuất phát từ thực tế là một số thầy cô vẫn sử dụng phương pháp truyền thống mà ít
có sự kết hợp những phương pháp hiện đại khác. Phương pháp giảng dạy truyền thống
là phương pháp mà trong đó chủ yếu là thầy nói – trò nghe. Ngay tận thập niên 1990,
phương pháp này vẫn đang chi phối mạnh ở các trường cao đẳng và đại học, kể cả ở
Hoa Kỳ. Với phương pháp này, sinh viên thường phải ngồi nghe liên tục trong một
khoảng thời gian dài và Chickering và Gamson (1987) cho rằng để học tốt thì người
học cần phải làm nhiều việc hơn là chỉ nghe một cách thụ động, cụ thể là phải đọc,
viết, thảo luận, hoặc tham gia giải quyết vấn đề. Victor Weisskop thì cho rằng con
người không thể học được bằng cách mang thông tin dồn nén vào não họ, do đó chúng
ta chỉ có thể dạy bằng cách duy nhất là tạo ra động lực hiểu biết. Việc đổi mới phương
15 Huỳnh Thị Thu Hằng, Nguyễn Văn Hoàn, Tìm hiểu việc bồi dưỡng kỹ năng tự học cho sinh viên sư phạm.
http://www.kh-sdh.udn.vn/zipfiles/Baiso_9_htthang.DOC
202
pháp giảng dạy theo hướng tích cực sẽ giúp sinh viên trở thành trung tâm của quá
trình dạy học. Phương pháp mới cũng yêu cầu sinh viên phải chủ động tìm hiểu thêm
những vấn đề liên quan để có thể đáp ứng được những đòi hỏi khác nhau của việc dạy
học tích cực vì chỉ trên cơ sở tham gia, trải nghiệm, họ mới có thể thực sự thấu hiểu
và tạo dựng nhận thức cho chính mình. Có lẽ vì vậy mà Howard Hendricks đã khẳng
định rằng tối đa hóa việc học tập luôn luôn là kết quả của việc tối đa hóa sự lôi cuốn16
.
Và chắc chắn phương pháp dạy học tích chỉ thật sự tích cực khi người dạy hiểu rõ và
thuần thục trong từng bước đi. Đây là kết quả của quá trình không ngừng đầu tư cho
nghề của giảng viên.
Đổi mới phương pháp phải đi liền với đổi mới cách đánh giá. Qua cuộc khảo sát,
tiêu chí “Giảng viên thay đổi cách đánh giá theo hướng khuyến khích tự học” đã nhận
được phần trăm lớn nhất (52,2%) cho mức độ “cần” có (bảng 2). Như vậy, bên cạnh
phương pháp giảng dạy thì việc đánh giá sinh viên là vô cùng quan trọng trong việc
thúc đẩy hoạt động tự học của người học. Không nên chỉ công nhận những cố gắng,
thành tích của người học qua bài thi giữa kỳ và cuối kỳ mà cần đánh giá họ trong một
quá trình với nhiều hoạt động khác nhau. Điều này sẽ giúp người học chủ động tìm
tòi, đào sâu thêm những kiến thức mà thầy cô truyền đạt và không ngừng cố gắng.
Cố vấn học tập cần phải là người đi đầu trong vấn đề này. Bên cạnh đó, cố vấn
học tập có thể đề xuất với trưởng khoa, trưởng bộ môn hoặc các đơn vị có liên quan
việc bồi dưỡng, đào tạo những giảng viên khác những phương pháp này.
6. Kết luận
Cố vấn học tập giống như một thiên sứ được giao những trọng trách, quyền hạn
và trách nhiệm quan trọng trong việc giúp sinh viên phát triển việc học của mình. Để
hoàn thành sứ mệnh ấy, đòi hỏi cố vấn học tập phải nắm rõ tình hình sinh viên và đầu
tư nhiều hơn vào những điểm then chốt, quyết định lớn lao đến thành công trong học
thuật của sinh viên. Tự học chính chiếc chìa khóa mở cửa trung tâm mà nếu có được
thì người học sẽ tiến thẳng vào lâu đài tri thức và làm chủ nhân của nó. Khi đầu tư và
phát huy hết quyền hạn của mình, cố vấn học tập chính là người truyền trau chiếc chìa
khóa vạn năng ấy.
16 Trường Đại học Kinh tế - Tài chính, Đổi mới phương pháp giảng dạy – Giải pháp cấp thiết để nâng cao chất
lượng đào tạo đại học.
http://www.uef.edu.vn/tin-uef/doi-moi-phuong-phap-giang-day-giai-phap-cap-thiet-de-nang-cao-chat-luong-
dao-tao-dh-348
203
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Anh, Đỗ Thị Châu (2008), Tự học của sinh viên, NXB Giáo dục
2. Bộ Giáo dục và đào tạo, Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy
theo hệ thống tín chỉ, (Ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/ QĐ -
BGDĐT), 8/2007.
3. Dạy tự học, số 22 (tháng 4 năm 2002), trang 11.
4. Trần Thị Minh Đức, Kiều Anh Tuấn (2012), Cố vấn học tập trong các trường
đại học, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa học Xã hội và
Nhân văn 28.
5. Huỳnh Thị Thu Hằng, Nguyễn Văn Hoàn, Tìm hiểu việc bồi dưỡng kỹ năng tự
học cho sinh viên sư phạm. http://www.kh-
sdh.udn.vn/zipfiles/Baiso_9_htthang.DOC
6. Trường Đại học Kinh tế - Tài chính, Đổi mới phương pháp giảng dạy – Giải
pháp cấp thiết để nâng cao chất lượng đào tạo đại
học.http://www.uef.edu.vn/tin-uef/doi-moi-phuong-phap-giang-day-giai-phap-
cap-thiet-de-nang-cao-chat-luong-dao-tao-dh-348
7. TS. Nguyễn Văn Lân, Báo cáo một số nội dung về công tác cố vấn học tập
theo học chế tín chỉ, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh,
http://www.hcmulaw.edu.vn/
8. ThS. Nguyễn Thanh Sơn, Đổi mới công tác quản lý cố vấn học tập tại các
trường đại học ngoài công lập, Bản tin Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học
Yersin Đà Lạt, 2014, trang 10-11.
204
TÀI LIỆU THAM KHẢO
i Duong Phuc Ty. Xây dựng mục tiêu và chuẩn đầu ra của các ngành đào tạo bậc đại
học, cao đẳng theo hệ thống tín chỉ. Tạp chí đại học Công Nghiệp, 50-55. Truy cập từ
http://dspace.hui.edu.vn:8080/dspace/handle/123456789/11520
ii Nghị quyết 14/2005/NQ-CP, ngày 02/11/2005, về “đổi mới cơ bản và toàn diện Giáo
dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020”.
iii http://education-portal.com/articles/Academic_Advisor_Job_Description_
Duties_and_Requirements.html
iv Theo PayScale.com
205
v Jager, H. J. D, & Nieuwenhuis, F. J. (2005). Linkages Between Total Quality
Management and the Outcomes-based Approach in an Education Environment.
Quality in Higher Education, 11, 251-260. Retrieved from
https://www.ied.edu.hk/obl/files/18908562.pdf
vi Vu Thi Phuong Anh (2011a). “Chuẩn đầu ra” và một số ngộ nhận phổ biến tại Việt
Nam. Truy cập từ http://ncgdvn.blogspot.com/2011/11/chuan-au-ra-va-mot-so-ngo-
nhan-pho-bien.html
vii Biggs, J. and Tang, C. (2007). Teaching for Quality Learning at University (3rd
Edition). England: Open University Press.
viii Vu Thi Phuong Anh (2011a). “Chuẩn đầu ra” và một số ngộ nhận phổ biến tại Việt
Nam. Truy cập từ http://ncgdvn.blogspot.com/2011/11/chuan-au-ra-va-mot-so-ngo-
nhan-pho-bien.html
ix Dreyer (2001), trích theo Jager và Nieuwenhuis (2005)
x http://www.nwlincs.org/fmlt/f-design.htm#traditional
xi National: The Global Community for Academic Advising (2006). NACADA
concept of academic advising. Retrieved
from http://www.nacada.ksu.edu/Resources/Clearinghouse/View-Articles/Concept-of-
Academic-Advising-a598.aspx
xii http://education-portal.com/articles/Academic_Advisor_Job_Description_
Duties_and_Requirements.html
xiii http://www.slu.edu/jobs/job_description.php?d=288jd
xiv https://www.cuw.edu/Departments/advising/responsibilities.html
xv http://en.wikipedia.org/wiki/Mentorship
xvi http://en.wikipedia.org/wiki/Mentorship
xvii https://www.cuw.edu/Departments/advising/responsibilities.html
206
LỜI CÁM ƠN
Ban Tổ chức Hội thảo khoa học: “Vai trò của cố vấn học tập trong đào tạo
theo học chế tín chỉ tại các trƣờng cao đẳng – đại học Việt Nam” xin trân trọng
cám ơn quý thầy/cô:
TS.Phạm Văn Boong, Trần Thị Huệ, Phan Thanh Hùng, ThS. Lê Thị Lệ Hoa,
Nguyễn Thu Hà, Nguyễn Thị Huệ, ThS. Phung Thị Loan, ThS. Huỳnh Lê Uyên Minh,
Bùi Hoàng Phúc, ThS. Phạm Thị Tâm, ThS. Tạ Thị Thanh Thủy, TS Trần Đình
Thành, ThS. Nguyễn Thị Ngọc Xuân, Lê Thị Thanh Yến, Lê Thị Vân, ThS.Trần Thị
Mỹ Hồng, ThS.Nguyễn Thị Anh Khuyên, ThS.Nguyễn Thị Diễm My,CNKH. Nguyễn
Như Bình, ThS.Trần Văn Phúc, ThS.Nguyễn Kim Chuyên, ThS.Phan Minh Thuấn,
ThS.Phan Thị Kim Loan, ThS.Trần Kim Nên, ThS.Trần Thị Mỹ Hồng TS.Nguyễn
Hồng Hải, ThS.Đặng Chung Kiên, ThS.Nguyễn Hoàng Minh Trí, ThS.Huỳnh Thị
Ngọc Linh...
Do khuôn khổ kỷ yếu Hội thảo có hạn, Ban tổ chức Hội thảo xin được sử dụng
bài của quý thầy cô vào dịp hội thảo khác.
Xin chân thành tri ân!
Thay mặt Ban Tổ chức Hội thảo
Viện trƣởng Viện NCGD
PGS. TS. Ngô Minh Oanh