kinh te vi mo nang cao
TRANSCRIPT
MỤC LỤC
PHẦN I: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM...................................................3GIAI ĐOẠN 1998 -2012.................................................................................................3
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT......................................................................31.1. Khái niệm lạm phát...................................................................................31.2. Đo lường lạm phát....................................................................................31.3. Phân loại lạm phát....................................................................................41.4. Nguyên nhân lạm phát..............................................................................41.5. Tác động của lạm phát..............................................................................8
II. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1998-2012...............112.1. Giai đoạn từ năm 1998 đến 2001:...........................................................112.2. Giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2008....................................................142.3. Giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2012:...................................................16
PHẦN II: MỐI LIÊN HỆ CƠ HỮU GIỮA CHỈ TIÊU THẤT NGHIỆP VỚI CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ VĨ MÔ KHÁC.............................................................................21
I. TỔNG QUAN CHUNG VỀ THẤT NGHIỆP........................................................211.1. Khái niệm về thất nghiệp:.......................................................................211.2. Phân loại thất nghiệp..............................................................................211.3. Tác hại của thất nghiệp...........................................................................221.4. Nguyên nhân của thất nghiệp.................................................................23
II . PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA TỶ LỆ THẤT NGHIỆP VÀ TỶ LỆ LẠM PHÁT................................................................................................................23
2.1. Đường Phillips ban đầu..........................................................................242.2. Đường Phillips mở rộng.........................................................................252.3. Đường Phillips dài hạn (LPC)................................................................272.4. Mối quan hệ giữa tỷ lệ thất nghiệp với tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1998-2012..................................................................27
III. QUAN HỆ GIỮA TỶ LỆ THẤT NGHIỆP VỚI TỶ LỆ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ....................................................................................................................30
PHẦN 3: SỰ ĐỘC LẬP CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG..................................32I . TÌM HIỂU VỀ TÍNH ĐỘC LẬP CỦA NHTƯ.....................................................33
1.1. Thế nào là một NHTƯ độc lập...............................................................331.2. Mối quan hệ giữa sự độc lập của NHTƯ và các biến số kinh tế vĩ mô chính..............................................................................................................35
II. KINH NGHIỆM CỦA NHTƯ MỘT SỐ NƯỚC..................................................372.1. NHTƯ Nhật Bản (BOJ)..........................................................................372.2. Kinh nghiệm của NHDT New Zealand..................................................39
III. VỀ TÍNH ĐỘC LẬP CỦA NHNN VIỆT NAM..................................................41
3.1. Những điểm mới trong Luật NHNN sửa đổi năm 2010.........................413.2. Về sự độc lập tự chủ của NHNN Việt Nam...........................................43
IV. MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM...........................................454.1. Quan điểm...............................................................................................454.2. Các biện pháp.........................................................................................47
2
PHẦN I: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1998 -2012
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT
1.1. Khái niệm lạm phátLạm phát được định nghĩa là sự gia tăng liên tục trong mức giá chung.
Điều này không nhất thiết là giá cả của mọi hàng hóa và dịch vụ đồng thời
phải tăng lên theo cùng một tỷ lệ, thậm chí giá của một số hàng hóa có thể
giảm nhưng giá cả của các hàng hóa và dịch vụ khác phải tăng đủ mạnh để
mức giá trung bình tăng lên. Một điều quan trọng cần nhấn mạnh là lạm phát
không chỉ đơn thuần là sự gia tăng của mức giá mà đó phải là sự gia tăng liên
tục trong mức giá. Nếu như chỉ có một cú sốc xuất hiện làm mức giá chỉ đột
ngột bùng lên rồi lại giảm trở lại mức ban đầu ngay sau đó thì hiện tượng này
không được gọi là lạm phát.
Lạm phát cũng có thể định nghĩa là sự suy giảm sức mua trong nước
của đồng nội tệ. Trong bối cảnh lạm phát thì một đơn vị tiền tệ chỉ có thể mua
được ngày càng ít hàng hóa và dịch vụ hơn. Hay nói một cách khác chúng ta
sẽ phải chi ngày càng nhiều đồng nội tệ hơn để mua một giỏ hàng hóa và dịch
vụ cố định khi có lạm phát xảy ra.
1.2. Đo lường lạm phátCác nhà kinh tế thường đo lường lạm phát bằng hai chỉ tiêu thông dụng
là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số điều chỉnh GDP (DGDP).
Để tính tốc độ lạm phát theo CPI, người ta sẽ dựa vào một rổ hàng hóa
tiêu dùng và giá cả của những hàng hóa trong rổ tại hai thời điểm khác nhau.
Còn cách tính thứ hai, DGDP được tính bằng tỷ số tổng sản phẩm quốc dân
(GDP) danh nghĩa và GDP thực tế phản ánh mức giá hiện hành so với mức
giá của năm cơ sở đo lường mức giá trung bình của tất cả mọi hàng hóa dịch
vụ được tính vào GDP.
3
Tỷ lệ lạm phát được tính bằng phần trăm thay đổi của mức giá chung
theo công thức sau:
Với Pt là mức giá thời kỳ t, Pt-1 là mức giá của thời kỳ trước đó.
1.3. Phân loại lạm phátLạm phát thường được phân loại theo tính chất hoặc theo mức độ của
tỷ lệ lạm phát. Theo tiêu thức này các nhà kinh tế thường phân biệt ba loại
lạm phát: lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát.
Lạm phát vừa phải: lạm phát vừa phải được đặc trưng bởi mức giá tăng
chậm và nhìn chung có thể dự đoán trước được vì tương đối ổn định. Đó là
mức lạm phát mà bình thường nền kinh tế phải trải qua và ít gây tác động tiêu
cực đến nền kinh tế. Đối với các nước đang phát triển lạm phát ở mức một
con số thường được coi là vừa phải.
Lạm phát phi mã: lạm phát trong phạm vi hai hoặc ba con số một năm
thường được gọi là lạm phát phi mã.
Siêu lạm phát: siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", một tình
trạng giá cả tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Không có định nghĩa
chính xác về siêu lạm phát được chấp nhận phổ quát. Một định nghĩa cổ điển
về siêu lạm phát do nhà kinh tế ngưười Mỹ Phillip Cagan đưa ra là mức lạm
phát hàng tháng từ 50% trở lên (nghĩa là cứ 31 ngày thì giá cả lại tăng gấp
đôi).
1.4. Nguyên nhân lạm phát1.4.1. Lạm phát do cầu kéo
Đây chính là sự mất cân đối trong quan hệ cung – cầu. Nguyên nhân
chính là do tổng cầu tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng hoặc
tăng không kịp. Lạm phát có thể hình thành khi xuất hiện sự gia tăng đột biến
trong nhu cầu về tiêu dùng và đầu tư. Chẳng hạn, khi có những làn sóng mua
sắm mới làm tăng mạnh tiêu dùng, giá cả của những mặt hàng này sẽ tăng,
làm cho lạm phát dâng lên và ngược lại. Tương tự, lạm phát cũng phụ thuộc
4
vào sự biến động trong nhu cầu đầu tư: sự lạc quan của các nhà đầu tư làm
tăng nhu cầu đầu tư và do đó đẩy mức giá tăng lên.
Trong nhiều trường hợp, lạm phát thường bắt nguồn từ sự gia tăng quá
mức trong các chương trình chi tiêu của chính phủ. Khi chính phủ quyết định
tăng chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng, thì mức giá
sẽ tăng.
Biểu đồ 1.1: Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát cũng có nguyên nhân từ nhu cầu xuất khẩu. Khi nhu cầu xuất
khẩu tăng, lượng còn lại để cung ứng trong nước giảm và do vậy làm tăng
mức giá trong nước. Ngoài ra, nhu cầu xuất khẩu và luồng vốn chảy vào cũng
có thể gây ra lạm phát, đặc biệt trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định, vì điều
này có thể là nguyên nhân dẫn tới sự gia tăng lượng tiền cung ứng M2.
Trong đồ thị tổng cung - tổng cầu, lạm phát do cầu kéo xuất hiện khi có
sự dịch chuyển sang bên phải của đường tổng cầu. Như minh họa, sự gia tăng
của một thành tố nào đó của tổng cầu sẽ làm dịch chuyển đường tổng cầu
sang bên phải. Do đường tổng cung dốc lên trong ngắn hạn, nền kinh tế sẽ có
tốc độ tăng trưởng cao hơn và thất nghiệp thấp hơn, nhưng đồng thời lại phải
đối mặt với lạm phát. Rõ ràng lạm phát do cầu kéo sẽ không phải là vấn đề
mà thực ra còn cần thiết và có lợi cho nền kinh tế nếu như nền kinh tế còn
nhiều nguồn lực chưa sử dụng như trong trường hợp đường tổng cầu dịch
5
chuyển từ AD0 đến AD1: lạm phát sẽ khá thấp trong khi sản lượng và việc
làm sẽ tăng đáng kể. Ngược lại, lạm phát do cầu kéo sẽ trở thành vấn đề thực
sự nếu như toàn bộ nguồn lực đã sử dụng hết và đường tổng cung trở nên rất
dốc như trong trường hợp đường tổng cầu dịch chuyển từ AD1 đến AD2. Khi
đó, sự gia tăng tổng cầu chủ yếu đẩy lạm phát dâng cao trong khi sản lượng
và việc làm tăng lên rất ít.
1.4.2. Lạm phát do chi phí đẩy Lạm phát cũng có thể xảy ra khi một số loại chi phí đồng loạt tăng lên
trong toàn bộ nền kinh tế. Ba loại chi phí thường gây ra lạm phát là: tiền
lương, thuế gián thu và giá nguyên liệu nhập khẩu. Khi công đoàn thành công
trong việc đẩy tiền lương lên cao, các doanh nghiệp sẽ tìm cách tăng giá và
kết quả là lạm phát xuất hiện. Vòng xoáy đi lên của tiền lương và giá cả sẽ
tiếp diễn và trở nên nghiêm trọng nếu chính phủ tìm cách tránh suy thoái bằng
cách mở rộng tiền tệ. Việc chính phủ tăng những loại thuế tác động đồng thời
đến tất cả các nhà sản xuất cũng có thể gây ra lạm phát. Ở đây, thuế gián thu
(kể cả thuế nhập khẩu, các loại lệ phí bắt buộc) đóng một vai trò đặc biệt quan
trọng, vì chúng tác động trực tiếp tới giá cả hàng hoá. Đối với các nền kinh tế
nhập khẩu nhiều loại nguyên, nhiên, vật liệu thiết yếu mà nền công nghiệp
trong nước chưa sản xuất được, thì sự thay đổi giá của chúng sẽ có ảnh hưởng
quan trọng đến tình hình lạm phát trong nước. Nếu giá của chúng tăng mạnh
trên thị trường thế giới hay đồng nội tệ giảm giá mạnh trên thị trường tài
chính quốc tế, thì chi phí sản xuất trong nước sẽ tăng mạnh và lạm phát sẽ
bùng nổ.
6
Biều đồ 1.2: Lạm phát do chi phí đẩy
Những yếu tố nêu trên có thể tác động riêng rẽ, nhưng cũng có thể gây
ra tác động tổng hợp, làm cho lạm phát có thể tăng tốc. Nếu chính phủ phản
ứng quá mạnh thông qua các chính sách thích ứng thì lạm phát có thể trở nên
không kiểm soát được.
1.4.3. Cung tiền tăng quá mức gây ra lạm phátTheo quan điểm của các nhà kinh tế thuộc trường phái tiền tệ cung tiền
tệ (MS) tăng lên kéo dài sẽ làm cho mức giá cả tăng kéo dài và gây ra lạm
phát. Ban đầu nền kinh tế ở điểm 1, với sản lượng đạt ở mức sản lượng tiềm
năng Yn và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, tương ứng với mức giá cả P1 - điểm
giao nhau của đường tổng cung AS1 và đường tổng cầu AD1.
Biểu đồ 1.3: Lạm phát do cung tiền tăng
Khi cung tiền tệ tăng lên thì đường tổng cầu di chuyển sang phải đến
AD2. Trong một thời gian rất ngắn, nền kinh tế sẽ chuyển động đến điểm 1’
7
và sản phẩm tăng lên trên mức tiềm năng, tức là đạt tới Y’ (Y’ > Yn).Điều đó
đã làm giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, tiền
lương tăng lên và làm giảm tổng cung - đường tổng cung dịch chuyển vào đến
AS2.Tại đây, nền kinh tế quay trở lại mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm trên
đường tổng cung dài hạn.ở điểm cân bằng mới (điểm 2), mức giá đã tăng từ
P1 đến P2. Nếu cung tiền tệ vẫn tiếp tục tăng thì sự dịch chuyển của đường
tổng cầu và tổng cung như trên lại tiếp tục diễn ra và nền kinh tế đạt tới mức
giá cả ngày càng cao hơn, lạm phát tăng cao.
1.4.4. Lạm phát ỳTrong các nền kinh tế hiện đại trừ siêu lạm phát và lạm phát phi mã.
Lạm phát vừa phải có xu hướng ổn định theo thời gian. Hàng năm mức giá
tăng lên theo một tỷ lệ khá ổn định. Đây được gọi là tỷ lệ lạm phát ỳ. Có thể
coi đó là tỷ lệ lạm phát cân bằng trong ngắn hạn và sẽ được duy trì cho đến
khi có các cú sốc tác động đến nền kinh tế. Đây là loại lạm phát hoàn toàn
được dự tính từ trước. Mọi người đã biết trước và tính đến khi thỏa thuận về
các biến danh nghĩa được thanh toán trong tương lai.
1.5. Tác động của lạm phát Ngoài trường hợp lạm phát nhỏ, lạm phát vừa phải có tác dụng tích
cực được ví như "dầu bôi trơn" đến sự phát triển của nền kinh tế xã hội như
theo nhận định của Nobel James Tobin, còn lại nói chung lạm phát đều gây
ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển đi lên của nền kinh tế xã hội.
1.5.1. Lạm phát và thu nhập thực tếTrong trường hợp thu nhập danh nghĩa không đổi, lạm phát xảy ra sẽ
làm giảm thu nhập thực tế của người lao động. Lạm phát không chỉ làm giảm
giá trị thực của những tài sản không có lãi (tức tiền mặt) mà nó còn làm hao
mòn giá trị của những tài sản có lãi, tức là làm giảm thu nhập thực từ các
khoản lãi, các khoản lợi tức. Điều đó xảy ra là do chính sách thuế của nhà
nước được tính trên cơ sở của thu nhập danh nghĩa. Khi lạm phát tăng cao,
những người đi vay tăng lãi suất danh nghĩa để bù vào tỷ lệ lạm phát tăng cao,
điều đó làm cho số tiền thuế thu nhập mà người có tiền cho vay phải nộp tăng
8
cao (mặc dù thuế suất vẫn không tăng). Kết quả cuối cùng là thu nhập ròng
(thu nhập sau thuế), thực (sau khi đã loại trừ tác động của lạm phát) mà người
cho vay nhận được bị giảm đi.
Suy thoái kinh tế, thất nghiệp gia tăng, đời sống của người lao động trở
nên khó khăn hơn sẽ làm giảm lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ và
những hậu quả về chính trị, xã hội có thể xảy ra.
1.5.2. Lạm phát và lãi suấtĐể duy trì và ổn định sự hoạt động của mình hệ thống ngân hàng phải
luôn luôn cố gắng duy trì tính hiệu quả cả cả tài sản nợ và tài sản có của
mình , tức là luôn luôn phải giữ cho lãi suất thực ổn định. Do đó, khi tỷ lệ
lạm phát tăng cao, nếu muốn cho lãi suất ổn định, lãi suất danh nghĩa phải
tăng lên cùng với tỷ lệ lạm phát. Việc tăng lãi suất danh nghĩa sẽ dẫn đến hậu
quả mà nền kinh tế phải gánh chịu là suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng.
1.5.3. Lạm phát và sự phân phối lại thu nhậpTrong quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, khi lạm
phát tăng cao, người cho vay sẽ là người chịu thiệt và người đi vay sẽ là
người được lợi. Điều này đã tạo nên sự phân phối thu nhập không bình đẳng
giữa người đi vay và người cho vay. Hơn thế nữa, nó còn thúc đẩy những
người kinh doanh tăng cường thu hút tiền vay để đầu cơ kiếm lợi. Do vậy
càng tăng thêm nhu cầu tiền vay trong nền kinh tế, đẩy lãi suất lên cao.
Lạm phát tăng cao còn khiến những người thừa tiền và giàu có, dùng
tiền của mình vơ vét và thu gom hàng hóa, tài sản, nạn đầu cơ xuất hiện, tình
trạng này càng làm mất cân đối nghiêm trọng quan hệ cung - cầu hàng hóa
trên thị trường, giá cả hàng hóa cũng lên cơn sốt cao hơn. Cuối cùng, những
người dân nghèo vốn đã nghèo càng trở nên khốn khó hơn. Họ thậm chí
không mua nổi những hàng hóa tiêu dùng thiết yếu, trong khi đó, những kẻ
đầu cơ đã vơ vét sạch hàng hóa và trở nên càng giàu có hơn. Tình trạng lạm
phát như vậy sẽ có thể gây ra những rối loại trong nền kinh tế và tạo ra
khoảng cách lớn về thu nhập, về mức sống giữa người giàu và người nghèo.
9
1.5.4. Những tác động khác Đối với lĩnh vực sản xuất
Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra
biến động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự
mất giá của đồng tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu
quả kinh doanh - sản xuất ở một vài danh nghiệp có thể thay đổi, gây ra
những xáo động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận
thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.
Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu
hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống
ngân hàng, do lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu
cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều
chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người hiện đang có lượng tiền
mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn
nhờ sự mất giá đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ
thống ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền bị
hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát
thì chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt.
Đối với chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá,
khi lạm phát xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động
của giá cả làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những
doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời lạm phát làm cho Nhà nước thiếu
vốn, do đó Nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành
cho phúc lợi xã hội bị cắt giảm v.v... các ngành, các lĩnh vực dự định đựơc
Chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có gì. Một khi
Ngân sách Nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời
sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện được.
10
II. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1998-
2012
2.1. Giai đoạn từ năm 1998 đến 2001:2.1.1. Thực trạng
Giai đoạn 1996- 1997 do chịu ảnh hưởng lớn của khủng hoảng tài
chính tiền tệ trong khu vực nên tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như lạm phát
ở các nước đều giảm sút và Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng quay đó.
Thu nhập trong lĩnh vực nông nghiệp giảm mạnh do không tiêu thụ được
hàng, sức cạnh tranh tổng thể của nền kinh tế thấp nên hàng hoá vừa không
xuất khẩu được vừa bị chèn ép bởi hàng ngoại nhập. Thu nhập giảm còn do
thất nghiệp tăng lên do thực hiện cổ phần hoá và sắp xếp lại các doanh nghiệp
Nhà nước, lao động dôi thừa trong các khu chế xuất, các công ty liên doanh
với nước ngoài v.v... Thu nhập giảm làm cho sức mua chung của xã hội giảm
nên hai năm 1996, 1997 lạm phát ở mức thấp. Tuy nhiên, lạm phát lại có xu
hướng tăng lên từ những tháng cuối năm 1997, và đạt 9,0% vào năm 1998 là
do đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội tăng. Đồng thời, việc Mỹ đã bãi bỏ
lệnh cấm vận đối với Việt Nam ngày 3/2/1994 làm cho đầu tư nước ngoài
cũng tăng mạnh qua các năm (trong khi năm 1995 tổng đầu tư nước ngoài là
72.447 tỷ đồng thì đến năm 1998 con số này đã là 117.134 tỷ đồng), kèm theo
là tình hình xuất nhập khẩu cũng được cải thiện.
Bảng 2.1: Tỷ lệ lạm phát giai đoạn 1998- 2001
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12 CN1998 1.6 2.2 -
0.91.6 1.4 0 -
0.51.1 1.0 0.3 0.1 0.8 9.0
1999 1,7 1,9 -0,7
-0,6
-0,4
-0,3
-0,4
-0,4
-0,6
-1,0 0,4 0,5 0,1
2000 0,4 1,6 -1,1
-0,7
-0,6
-0,6
-0,6
0,1 -0,2
0,1 0,9 0,1 -0,6
2001 0,3 0,4 -0,7
-0,5
-0,2
0 -0,2
0 0,5 0 0,2 1,0 0,8
Nguồn: Báo cáo thường niên NHNN
Sang đến năm 1999 chỉ số lạm phát giảm mạnh từ 9% xuống còn 0,1%
11
,chỉ số giá CPI liên tục giảm xuống trong 8 tháng liền. Năm 2000, CPI cũng
giảm liên tục trong 5 tháng; năm 2001 chỉ số giá dù đã có những biểu hiện
tích cực hơn nhưng vẫn tăng rất thấp. Tóm lại, đây là thời kỳ tăng trưởng
thấp kèm theo giảm phát (năm 1999 GDP tăng 4,77%; năm 2000 GDP tăng
6,79%; năm 2001 GDP tăng 6,84%).
2.1.2. Nguyên nhân của lạm phátVề mặt lý thuyết, lạm phát xảy ra khi tổng cầu vượt quá tổng cung, còn
giảm phát rơi vào tình trạng ngược lại khi tổng cung vượt quá tổng cầu.
* Nguyên nhân về phía cung
Sau 10 năm mở cửa nền kinh tế, chúng ta đã thực hiện được nhiều dự
án lớn, đóng góp đối với sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, do xuất
phát điểm thấp kém, đồng thời sự hiểu biết về kinh tế thị trường còn chưa cao,
tâm lý “chuộng thành tích” vẫn còn tồn tại, nên một số dự án được thực hiện
một cách ồ ạt, thiếu cân nhắc tính toán cả về ngành hàng lẫn quy mô dự án
đầu tư. Cụ thể như ngành xi măng, mía đường v.v... Năm 1998, có 35 công ty
mía đường. Trước vụ mía đường năm 1998-1999, có thêm 7 dự án đi vào hoạt
động. Ngành sản xuất vật liệu xây dựng, đặc biệt là ngành xi măng sau khi
trải qua cơn sốt giá năm 1994 - 1995, hàng loạt nhà máy sản xuất xi măng ra
đời với công nghệ Trung Quốc. Điều đáng nói ở đây là những ngành có hàng
tồn kho, ứ đọng thì vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng cao. Đó là một trong lý do
dẫn đến tình hình tồn tại quá nhiều hàng tồn kho hay nói cách khác có sự
khủng hoảng sản xuất thừa trong một số lĩnh vực. Đối với một số ngành kinh
tế non trẻ thì việc giá tăng cao trong một số loại sản phẩm là không thể tránh
khỏi bởi vì sự kém phát triển của thị trường. Điều đó dẫn đến việc mất cân
bằng giữa cung và cầu.
Như vậy, nguyên nhân của sự đình trệ trong tổng cung là do sự mất cân
đối mang tính cơ cấu, chiến lược đầu tư không hợp lý.
* Nguyên nhân thuộc về phía cầu
Thứ nhất, tiêu dùng phụ thuộc vào thu nhập có thể tiêu dùng và khả năng
12
kỳ vọng của họ. Trong năm 1997-1998, một số nước Châu Á đã chịu ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, triển vọng phục hồi kinh tế trong giai
đoạn ấy là rất mờ mịt. Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Tỷ lệ tăng
trưởng qua các năm từ 1998-2001 thấp, đầu tư nước ngoài vốn là động lực của
sự tăng trưởng giảm mạnh từ 8497,3 triệu USD năm 1996 chỉ còn 1568 triệu
USD năm 1999; 2012,4 triệu USD năm 2000 và 2503 triệu USD năm 2001. Khả
năng thất nghiệp có chiều hướng gia tăng gây sức ép tâm lý về một triển vọng
kinh tế không mấy sáng sủa. Kết quả là các hộ gia đình trở nên cân nhắc trong
việc tiết kiệm để đảm bảo tương lai cũng như để phòng ngừa những khó khăn
bất thường. Điều này khiến cho tiêu dùng giảm sút.
Thứ hai, đầu tư của Việt Nam gồm ba thành phần chủ yếu: đầu tư của
chính phủ, đầu tư của tư nhân trong nước và đầu tư của nước ngoài. Theo số
liệu thống kê thì tổng số vốn đầu tư về giá trị tuyệt đối vẫn tăng đều hàng
năm, nhưng tỷ trọng đầu tư trong GDP lại giảm xuống và cơ cấu đầu tư lại có
sự thay đổi. Tỷ trọng vốn đầu tư của Chính phủ tăng lên nhanh, trong khi vốn
đầu tư của khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm xuống.
Trong khi khoản đầu tư lớn nhất là của Chính phủ lại chủ yếu dành cho các
hàng hoá không thương mại hoặc cho các dự án đầu tư hiệu quả thấp hoặc là
hỗ trợ cho các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ cho nên hiệu quả của vốn đầu tư
từ nguồn này trong ngắn hạn là hạn chế, vai trò quyết định lại thuộc về đầu tư
tư nhân và đầu tư của nước ngoài. Điều này chứng tỏ sự kém hấp dẫn của môi
trường đầu tư và những bất cập, thiếu thuận lợi trong chính sách đầu tư cũng
như hệ thống luật pháp kinh tế ở nước ta. Sự suy giảm đầu tư là do tình trạng
giảm phát gây lên, và một khi sự thoái lui đầu tư xuất hiện thì tình trạng giảm
phát lại càng trở nên nghiêm trọng.
Thứ ba là chi tiêu của Chính phủ. Chi tiêu của chính phủ là việc tiêu
dùng hàng hoá cuối cùng chứ không phải chi cho đầu tư. Năm 1999, chi tiêu
của chính phủ giảm cả về giá trị tuyệt đối cũng như tương đối trong GDP so
với năm 1998. Việc giảm chi tiêu của chính phủ trong ngắn hạn có thể làm
13
giảm trong tổng cầu nhưng về mặt dài hạn nó có thể mang ý nghĩa tích cực
bởi vì chính phủ có thể sử dụng nguồn lực cho tiết kiệm và đầu tư. Theo
chương trình kích cầu của chính phủ thì tổng chi tiêu là khoảng 94.000 tỷ
đồng tăng 17,5% so với 4,1% năm 1998; 8,9% năm 1997. Việc áp dụng thuế
giá trị gia tăng cũng gây ra một số khó khăn. Tỷ suất thuế VAT trên một số
mặt hàng không hợp lý đã gây ra không ít khó khăn cho sản xuất của doanh
nghiệp. Đi cùng với thuế VAT là thuế thu nhập, việc chính phủ vẫn không
quản lý được thu nhập cá nhân và doanh nghiệp dẫn đến sự không công bằng
trong chính sách thuế - một công cụ của chính sách tài chính.
2.2. Giai đoạn từ năm 2004 đến năm 20082.2.1. Thực trạng
Nhìn chung trong giai đoạn 2004-2008 lạm phát tăng qua các năm.
Năm 2004: CPI năm là 7.7%. Năm 2005, CPI cuối kỳ giảm so với năm 2004
nhưng tính chung cả năm CPI bình quân ở mức 8.3% cao hơn mức 7.7% của
năm 2004. Lạm phát năm 2006 có xu hướng giảm, lạm phát cuối kỳ giảm từ
mức 8.4% năm 2005 xuống 6.6% năm 2006; lạm phát bình quân giảm từ
8.3% xuống 7.4% do tác động của các nhân tố làm giảm lạm phát mạnh hơn
các nhân tố làm tăng lạm phát. CPI năm 2006 tăng ở cả 10 nhóm hàng hoá,
trong đó nhóm có mức tăng cao nhất vẫn là nhóm lương thực thực phẩm tăng
7,9%; thứ hai là nhóm hàng hoá dịch vụ khác tăng 6.5%, tiếp đó là nhóm thiết
bị đồ dùng gia đình tăng 6.2%, và cuối cùng là nhóm văn hoá thể thao giải trí
có mức tăng thấp nhất là 3,5%. Lạm phát năm 2007 có mức tăng đột biến,
tăng 12,63%, cao hơn mức 6.6% của năm 2006, đồng thời lạm phát bình quân
cũng tăng từ mức 7,45% lên mức 8,3%. Điều đặc biệt là nếu như năm 2006
lạm phát CPI và lạm phát lương thực thực phẩm giảm còn lạm phát phi lương
thực thực phẩm lại tăng thì năm nay cả ba chỉ tiêu là lạm phát CPI, lạm phát
14
lương thực thực phẩm và lạm phát phi lương thực thực phẩm đều có mức tăng
cao hơn cùng kỳ. Bên cạnh đó, khác với các năm trước, nếu như CPI tăng
mạnh nhất chủ yếu tập trung vào tháng 1 và tháng 2 là các tháng trong dịp Tết
Nguyên đán thì năm 2007 lạm phát lại tăng cao nhất vào tháng 11 (1,23%)
và tháng 12 (2,91%), cao hơn cả mức 1,05% của tháng 1/2007 và mức 2,17%
của tháng 2/2007.
2.2.2. Nguyên nhânLạm phát ở Việt Nam là do sự tác động tổ hợp của cả ba dạng thức lạm
phát: lạm phát tiền tệ (đây là dạng thức chủ yếu) lạm phát cầu kéo và lạm phát
chi phí đẩy.
Lạm phát tiền tệ: đây là dạng thức lạm phát lộ diện khá rõ. Năm 2007,
với việc tung một khối lượng lớn tiền đông để mua ngoại tệ từ các nguồn đổ
vào nước ta đã làm tăng lượng tiền trong lưu thông với mức tăng trên 30%,
hạn mức tín dụng cũng tăng cao, mức tăng 38%. Đó là chưa kể sự tăng tín
dụng trong các năm trước đã tạo nên hiện tượng tích phát tác động đến năm
2007 và có thể cả những năm sau.
Lạm phát cầu kéo: do đầu tư bao gồm đầu tư công và đầu tư của các
doanh nghiệp tăng, làm nhu cầu về nguyên liệu, nhiên liệu và thiết bị công
nghệ tăng; thu nhập dân cư, kể cả thu nhập do xuất khẩu lao động và người
thân từ nước ngoài gửi về không được tính vào tổng sản phẩm quốc nội cũng
tăng, làm xuất hiện trong một bộ phận dân cư những nhu cầu mới cao hơn.
Biểu hiện rõ nhất của lạm phát cầu kéo là nhu cầu nhập khẩu lương thực trên
thị trường thế giới tăng, làm giá xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo bình quân
của nước ta năm 2007 tăng trên 15% so với năm 2006) kéo theo cầu về lương
15
thực trong nước cho xuất khẩu tăng. Trong khi đó, nguồn cung trong nước do
tác động của thiên tai, dịch bệnh không thể tăng kịp. Tất cả các yếu tố nói trên
gây ra lạm phát cầu kéo, đẩy giá một số hàng hoá và dịch vụ, nhất là lương
thực thực phẩm tăng theo.
Lạm phát chi phí đẩy: giá nguyên liệu, nhiên liệu (đặc biệt là xăng dầu,
các sản phẩm hoá dầu, thép và phôi thép v.v…) trên thế giới trong những năm
gần đây tăng mạnh. Trong điều kiện kinh tế nước ta phụ thuộc rất lớn vào
nhập khẩu (nhập khẩu chiếm đến 90% GDP) giá nguyên liệu nhập tăng làm
tăng giá thị trường trong nước.
2.3. Giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2012:2.3.1. Thực trạng
Năm 2008 là một năm đáng nhớ đối với kinh vĩ mô cũng như tình hình
lạm phát ở Việt Nam. Chỉ số CPI đã liên tục tăng cao từ đầu năm. Nỗi lo lạm
phát thực sự đã xuất hiện vào thời điểm Tổng cục Thống kê công bố CPI
tháng 2/2008 đạt mức tăng 3,56% so với tháng trước. Trong đó, mặt hàng gạo
có ảnh hưởng khá lớn, giá của loại lương thực này tăng liên tục trên thị trường
thế giới. Ở mức tăng cao nhất, tháng 5/2008 đạt đỉnh tăng với 3,91%. Trong
khi đó, tháng sáu chỉ số CPI đã tăng chậm lại do các biện pháp chống lạm
phát của Chính phủ (tăng 2,14%) và tháng 7/2008 còn 1,13%. Lạm phát năm
2008 là 17,18%. Đến năm 2009 thì lạm phát nhỏ hơn 2 con số 9.17%
Năm 2010, vẫn đúng với quy luật tăng cao trong các tháng đầu năm và
cuối năm, hai điểm cơ bản khác biệt của diễn biến CPI năm nay là mức tăng
có độ vênh lớn, tháng cao nhất so với tháng thấp nhất lệch nhau đến hơn
1,5%. Trong khi đó xu hướng diễn biến chỉ số giá khá liền mạch với các bước
chuyển chỉ trong khoảng thời gian ngắn. Ba tháng đầu năm CPI tăng cao
nhưng ngay sau đó có liền 5 tháng tăng thấp về gần mức 0%, để rồi lại vượt
lên trên 1% trong bốn tháng còn lại của năm.
16
Năm 2011, tỉ lệ lạm phát thực tế 18,13% trong khi tỉ lệ lạm phát dự
kiến đầu năm < 7%. Mục tiêu của Chính phủ là ưu tiên lạm phát, tuy nhiên
quý I năm 2011 lạm phát tăng cao. Ba tháng đầu năm, riêng tháng một mức
lạm phát thấp dưới 2% còn lạm phát tháng hai và tháng ba đều đạt trên 2%
với mức tăng cụ thể là 2,09% và 2,17%. Lạm phát tăng cao trong bốn tháng
đầu năm do sức ép từ tỷ giá, giá cả hàng hóa năng lượng và cung tiền, sau đó
giảm tốc từ tháng năm và tháng sáu nhờ những nỗ lực ổn định hóa quyết liệt
của Chính phủ.
Sang đến năm 2012, tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức 5,03%, thấp hơn
nhiều so với mức dự báo. Trong khi lạm phát ở mức 6,81%, thấp hơn so với
ngưỡng kế hoạch là 10%. CPI tháng hai năm 2012 tăng 0,27% so với tháng
11 và tăng 6,81% so với tháng 12/2011. CPI bình quân năm 2012 tăng 9,21%
so với bình quân năm 2011, CPI tăng không quá cao vào hai tháng đầu năm
(tăng 1,0% vào tháng một và tăng 1,37% vào tháng hai) nhưng tăng cao nhất
vào tháng 9 với mức tăng 2,20%. Đây là tháng chịu tác động chủ yếu của
nhóm thuốc và dịch vụ y tế và nhóm giáo dục. Sau đó, mức tăng CPI đã chậm
dần trong những tháng cuối năm.
2.3.2. Nguyên nhân của lạm phát* Lạm phát do chi phí đẩy
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã góp phần làm giảm lạm phát ở
Việt Nam đầu năm 2009 do giá quốc tế giảm đã giúp Việt Nam đảo ngược xu
thế gia tăng đáng ngại của lạm phát. Trong đó có thể kể đến việc giá dầu mỏ
trên thế giới liên tục giảm từ cuối năm 2008 tới đầu 2009, giúp giá dầu trong
nước được điều chỉnh giảm vào tháng 3 năm 2009.
Cuối năm 2009, giá cả hàng hoá thế giới tiếp tục tăng ở mức cao đã tác
động tới nhiều loại hàng hoá nhập khẩu, hoặc phụ thuộc nguyên liệu nhập
khẩu. Trong khi đó, tác động của tăng giá xăng dầu cuối tháng 11 cũng làm
"đội giá" cước vận tải, vận chuyển và các hàng hoá khác. Ngoài ra, giá gạo,
đường, thịt tươi sống, thủy sản, hàng may mặc, vật liệu xây dựng v.v… vẫn
17
trong xu hướng tăng, cũng là nguyên nhân đẩy chỉ số giá tăng ở nhiều tỉnh,
thành phố trên cả nước.
* Lạm phát do cầu kéo
Sau một khoảng thời gian lạm phát cao quá dài, sức mua của một bộ
phận không nhỏ dân cư đã bị suy kiệt và khi nền kinh tế bước vào giai đoạn
phát triển khó khăn, công ăn việc làm của bộ phận dân cư này trở nên khó
khăn hơn, thu nhập giảm sẽ khiến sức mua giảm.
Trong điều kiện xu thế giá cả giảm ngày càng mạnh và kéo dài, tâm lý
“thắt lưng buộc bụng” của một bộ phận rất lớn dân cư sẽ mạnh hơn và điều
này cũng khiến sức mua xã hội giảm.
Đầu tư, tiêu dùng tăng do tác động của gói kích cầu của Chính phủ vào
quý II năm 2009 hay điều chỉnh tăng lương tối thiểu từ tháng 5/2009 đối với
khu vực hưởng lương và trợ cấp từ ngân sách làm cho sức mua phục hồi và
lạm phát có gia tăng vào những tháng cuối năm.
* Nguyên nhân tiền tệ
Nhờ các gói kích cầu của Chính phủ gia tăng từ quý II năm 2009, cung
tiền bắt đầu tăng mạnh. Do CSTT được mở rộng, lãi suất và tỷ lệ DTBB được
ấn định ở mức thấp, tín dụng tăng trưởng mạnh lên đến 37.74%, và là mức
khá cao so với trung bình những năm vừa qua. Tăng trưởng cung tiền M2 lên
mức 28.7%, mức tăng này thấp hơn so với năm 2006 và 2007, nhưng vẫn khá
cao so với năm 2008 và những năm còn lại trước đó. Tăng trưởng tín dụng
khiến các ngân hàng thiếu hụt thanh khoản, lãi suất cho vay bị đẩy lên cao
đưa lạm phát có xu hướng tăng trở lại.
Từ tháng 7 đến tháng 11, các ngân hàng thương mại (NHTM) liên tục
tăng lãi suất huy động VND, tập trung từ các kỳ hạn dài và dồn ép các kỳ hạn
ngắn. Mức lãi suất cao nhất lần lượt tạo các “đỉnh” 9%, 10% và đỉnh điểm lên
đến 10,5%/năm. Khái niệm “đường cong lãi suất” bị xóa nhòa khi nhiều thành
viên áp thống nhất một mức cao cho hầu hết các kỳ hạn. Ngay sau quyết định
tăng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8% có hiệu lực từ 1/12, các NHTM đồng loạt
18
đẩy lãi suất huy động lên mức cao, một số thành viên có tới 10,5%/năm (chưa
tính các hình thức khuyến mại, cộng thưởng gián tiếp).
* Yếu tố mùa vụ
Theo đánh giá của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, lạm phát trong
những tháng dầu năm 2013, đặc biệt là trong 2 tháng, tháng 8 (tăng 0,83% so
với tháng 7 và tăng 7,5% so với cùng kỳ) và tháng 9 (tăng 1,06% so với tháng
8 và tăng 6,3% so với cùng kỳ) tăng chủ yếu là do tác động của việc điều
chỉnh giá hàng hóa cơ bản, và dịch vụ công (y tế, giáo dục) và một phần do
yếu tố mùa vụ (chỉ số mùa vụ của CPI thường có xu hướng tăng cao trong 2
đợt, từ tháng 9 cho đến cuối năm và trong dịp tết nguyên đán) mà không chịu
nhiều tác động của những yếu tố cơ bản (như mở rộng CSTT hay chính sách
tài khóa).
Kết luận:
Như vậy, lạm phát là biểu hiện của vấn đề mất cân đối vĩ mô rất phức
tạp. Mỗi lần xuất hiện ở mỗi hoàn cảnh và điều kiện khác nhau, mang màu
sắc muôn hình, muôn vẻ. Để nhận dạng đúng và bắt mạch đúng nguyên nhân
gây ra lạm phát là rất khó khăn. Có thể nói lạm phát mỗi khi diễn ra đã hàm
chứa đủ các yếu tố như lạm phát cơ cấu, lạm phát tiền tệ, lạm phát cầu kéo và
lạm phát chi phí đẩy.
Qua tìm hiểu nêu trên cho phép chúng ta nhận thức rằng quá trình đấu
tranh chống lạm phát không phải đơn giản ngày một ngày hai. Nó là căn bệnh
kinh niên, nhưng xoá bỏ hoàn toàn lạm phát thì cái giá phải trả không tương
xứng với lợi ích mang lại. Tình hình diễn biến và khắc phục lạm phát ở Việt
Nam là rất nan giải. Lạm phát đã hoành hành công khai khi Việt Nam cải
cách kinh tế, xoá bỏ bao cấp, quan liêu. Sự cải cách không đồng bộ giữa giá
cả và quản lý kinh tế đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Các biện
pháp chống lạm phát, đổi mới nhận thức của Đảng và Nhà nước trong quản lý
kinh tế để vực dậy nền kinh tế Việt Nam tế là bức thiết, đó là cở sở, là chìa
19
khoá cho sự thành công của các khoa học khác như giáo dục, y tế, văn hoá,
chính trị...
20
PHẦN II: MỐI LIÊN HỆ CƠ HỮU GIỮA CHỈ TIÊU
THẤT NGHIỆP VỚI CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ VĨ MÔ
KHÁC
Thất nghiệp luôn là mối quan tâm của toàn xã hội. Hầu hết các quốc gia
đều cố gắng xây dựng các chính sách kinh tế vĩ mô để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, ổn định giá cả, cải thiện việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp. Tỷ lệ thất
nghiệp là một trong những chỉ số quan trọng trong kinh tế vĩ mô. Khi được đo
lường chính xác, tỷ lệ thất nghiệp cho chúng ta một thông số về tình hình của
nền kinh tế.
Vậy thất nghiệp là gì?
I. TỔNG QUAN CHUNG VỀ THẤT NGHIỆP
1.1. Khái niệm về thất nghiệp: - Một người được coi là thất nghiệp khi :
+ Trong độ tuổi lao động
+ Có khả năng, có nhu cầu lao động
+ Không tìm được việc làm, việc làm không ổn định
1.2. Phân loại thất nghiệp1.2.1. Thất nghiệp tạm thời
Loại này chủ yếu bao gồm những người đang đi tìm việc, xuất thân từ
thành phần bỏ việc cũ tìm việc mới, hoặc từ thành phần mới gia nhập hay tái
nhập lực lượng lao động.
1.2.2. Thất nghiệp cơ cấu (gọi là thất nghiệp bất tương xứng) Xảy ra khi có sự mất cân đối về mặt cơ cấu giữa cung và cầu về lao
động. Đây là loại thất nghiệp gắn với sự biến động cơ cấu kinh tế và khả năng
điều chỉnh cung trên thị trường lao động.Sự mất cân đối này có thể xảy ra do
2 nguyên nhân: thiếu kĩ năng và khác biệt về nơi cư trú….
1.2.3. Thất nghiệp chu kỳ (còn gọi là thất nghiệp do thiếu cầu, thất nghiệp theo thuyết Keynes)
21
Là loại thất nghiệp được tạo ra bởi tình trạng suy thoái nền kinh tế, sản
lượng tụt xuống thấp hơn số lượng thất nghiệp.
Do tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ sụt giảm, buộc các doanh nghiệp phải sản
xuất ít hơn, thậm chí có khi phải đóng cửa. Vì vậy, doanh nghiệp sẽ phải sa
thải công nhân, tạo nên thất nghiệp hàng loạt. Đặc điểm cơ bản để phần biệt
thất nghiệp chu kỳ với các loại thất nghiệp khác là mức thất nghiệp gần như ở
khắpmọi nơi.
1.2.4. Thất nghiệp theo lí thuyết cổ điển :Xảy ra khi các yếu tố ngoài thị trường gây ra, khi tiền công được ấn
định cao hơn mức tiền công cân bằng.Do sự không linh hoạt của tiền lương
chủ yếu do việc quy định mức lương tối thiểu của người lao động.
1.3. Tác hại của thất nghiệp 1.3.1. Thất nghiệp tác động đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát.
Thất nghiệp tăng có nghĩa lực lượng lao động xã hội không được huy
động vào hoạt động sản xuất kinh doanh tăng lên; là sự lãng phí lao động xã
hội- nhân tố cơ bản để phát triển kinh tế- xã hội. Thất nghiệp tăng lên cũng có
nghĩa nền kinh tế đang suy thoái- suy thoái do tổng thu nhập quốc gia thực tế
thấp hơn tiềm năng; suy thoái do thiếu vốn đầu tư (vì vốn ngân sách bị thu
hẹp do thất thu thuế, do phải hỗ trợ người lao động mất việc làm…) Thất
nghiệp tăng lên cũng là nguyên nhân đẩy nền kinh tế đến (bờ vực) của lạm
phát.
Mối quan hệ nghịch lý 3 chiều giữa tăng trưởng kinh tế- thất nghiệp và
lạm phát luôn luôn tồn tại trong nền kinh tế thị trường- Tốc độ tăng trưởng
kinh tế (GDP) mà giảm thì tỷ lệ thất nghiệp tăng và lạm phát tăng theo; ngược
lại, tốc độ tăng trưởng (GDP) tăng thất nghiệp sẽ giảm, kéo theo tỷ lệ lạm
phát cũng giảm. Mối quan hệ này cần được quan tâm khi tác động vào các
nhân tố kính thích phát triển- xã hội.
1.3.2 Thất nghiệp ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của người lao động.Người lao động bị thất nghiệp, tức mất việc làm, sẽ mất nguồn thu
nhập. Do đó, đời sống bản thân người lao động và gia đình họ sẽ khó khăn.
22
Điều đó ảnh hưởng đến khả năng tự đào tạo lại để chuyển đổi nghề nghiệp,
trở lại thị trường lao động; con cái họ sẽ khó khăn khi đến trường; sức khoẻ
họ sẽ giảm sút do thiếu kinh tế để bồi dưỡng, để chăm sóc y tế…
1.3.3. Thất nghiệp ảnh hưởng đến trật tự xã hội…Thất nghiệp gia tăng làm trật tự xã hội không ổn định; hiện tượng bãi
công, biểu tình đòi quyền làm việc, quyền sống… tăng lên; hiện tượng tiêu
cực xã hội cũng phát sinh nhiều lêm như trộm cắp, cờ bạc, nghiện hút, mại
dâm…Sự ủng hộ của người lao động đối với nhà cầm quyền cũng bị suy
giảm… Từ đó, có thể có những xáo trộn về xã hội, thậm chí dẫn đên biến
động về chính trị.
1.4. Nguyên nhân của thất nghiệp 1.4.1. Theo quan điểm của trường phái cổ điển (lí thuyết về tiền công linh hoạt):
Theo quan điểm này, thất nghiệp xảy ra do tiền lương không được ấn
định bởi các lực lượng thị trường mà chịu sự ấn định của các quy định nhà
nước, chính phủ, các tổ chức công đoàn,…làm cho mức lương trong nền kinh
tế cao hơn mức lương cân bằng thực tế của thị trường lao động.
4.2. Theo quan điểm của trường phái Keynes (lí thuyết về tiền công cứng
nhắc)
Thất nghiệp xảy ra khi nền kinh tế bị suy thoái dẫn đến sự suy giảm của tổng
cầu làm cho mức cầu chung về lao động giảm xuống. Đường cầu lao động
dịch chuyển sang trái trong khi giá cả và tiền lương cứng nhắc dẫn đến toàn
bộ thị trường lao động bị mất cân bằng.
II . PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA TỶ LỆ THẤT NGHIỆP
VÀ TỶ LỆ LẠM PHÁT
Trong các chỉ số kinh tế vĩ mô, tỷ lệ thất nghiệp thường được theo dõi
chắt chẽ cùng với tỉ lệ lạm phát. Theo quan điểm tân cổ điển, trong dài hạn, tỷ
lệ thất nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố của thị trường lao động, ví dụ như
tính linh hoạt của lương, luật tiền lương tối thiểu, sự đấu tranh đòi tang lương
của công đoàn. Còn tỷ lệ lạm phát trong dài hạn phụ thuộc vào mức gia tang
23
cung tiền. Vì thế trong dài hạn, thất nghiệp và lạm phát không có quan hệ chặt
chẽ với nhau.
Trong ngắn hạn, mối quan hệ giữa thất nghiệp và lạm phát là tỷ lệ
nghịch: khi lạm phát cao, tỷ lệ thất nghiệp là thấp và ngược lại, khi thất
nghiệp ở mức thấp đi cùng với nó là làm phát ở mức cao. Tuy nhiên cũng có
những trường hợp ngoại lệ, đó là khi lạm phát ở mức quá cao thì tỷ lệ thất
nghiệp cũng ở mức cao, bởi vì lạm phát quá cao gây nên sự bất ổn trong nền
kinh tế, tác động tiêu cực đến đầu tư, tiêu dùng và do đó sẽ làm giảm sản
lượng và gia tăng thất nghiệp.
Các nhà kinh tế biểu diễn mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp
bằng đường cong Phillips. Vào những năm 1958 nhà kinh tế học người Anh
A.W. Phillips cho đăng bài báo “ Mối quan hệ giữa thất nghiệp và tỉ lệ thay
đổi tiền lương danh nghĩa ở Anh, 1861 – 1957” trên tờ tạp chí kinh tế học của
Anh. Trong bài báo này nhà kinh tế học Phillip đã trình bày mối tương quan
nghịch giữa tỷ lệ thất nghiệp và tỉ lệ lạm phát. Nghĩa là, những năm nước Anh
có thất nghiệp thấp thường có lạm phát cao và người lại. Mặc dù phát hiện
của Phillips dựa vào số liệu thực nghiệm của nước Anh, nhưng các nhà
nghiên cứu đã nhanh chóng mở rộng phát hiện của ông sang các nước khác.
Hai năm sau khi Phillips công bố công trình nghiên cứu của mình, các nhà
kinh tế Paul Samuelson và Robert Solow cho đăng bài báo trong tờ “ Điểm
báo kinh tế Mỹ” dưới tiêu đề “ Các phân tích về chính sách chống lạm phát”,
trong đó họ đã chỉ ra mối quan hệ tỉ lệ nghịch tương tự giữa lạm phát và thất
nghiệp dựa trên số liệu của Mỹ. Họ lập luận rặng mối tương quan này nảy
sinh là vì thất nghiệp thấp gắn với tổng cầu cao, đồng thời tổng cầu cao lại tạo
áp lực đẩy tiền lương và giá cả tăng lên trong toàn bộ nền kinh tế. Hai ông đã
gọi mối quan hệ nghịch giữa lạm phát và thất nghiệp là đường Phillips.
2.1. Đường Phillips ban đầu Đường Phillips được xây dựng hoàn chỉnh và có dạng như sau:
gp = - ε (u - u* ) (*)
24
Trong đó: gp - tỷ lệ lạm phát.
u - tỷ lệ thất nghiệp thực tế.
u*- tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
ε - độ dốc đường Phillips.
Đường này cho thấy những đặc điểm sau đây (hình a):
- Lạm phát bằng không khi thất nghiệp thực tế bằng tỷ lệ tự nhiên.
- Khi thất nghiệp thực tế thấp hơn thất nghiệp tự nhiên thì lạm phát xảy ra.
- Độ dốc ε càng lớn thì một sự tăng, giảm nhỏ của thất nghiệp sẽ gây ra sự
tăng, giảm đáng kể về lạm phát. Độ lớn của ε phản ánh sự phản ứng của tiền
lương. Nếu tiền lương có độ phản ứng mạnh thì ε lớn, nếu có tính ì cao thì ε
nhỏ (đường Phillips sẽ xoay ngang). Nếu đường Phillips gần như nằm ngang
thì lạm phát phản ứng rất kém với thất nghiệp.
N kln;
Tỷ lệ gp
lạm phát
PC
u* B u
Đường Phillips cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách một thực
đơn về các kết cục kinh tế có thể xảy ra. Bằng cách thay đổi chính sách tiền tệ
và tài khóa để tác động vào tổng cầu, các nhà hoạch định chính sách có thể
chọn một điểm bất kỳ trên đường Phillips, tại điểm B có thất nghiệp cao và
lạm phát thấp. Giả sử nền kinh tế đang ở tại B trên hình b (suy thoái thất
nghiệp). Chính phủ có thể mở rộng cung tiền nhằm hạ lãi suất, thúc đẩy đầu
tư, mở rộng tổng cầu, điều này sẽ tạo ra việc làm, thất nghiệp giảm. Điểm B
sẽ di chuyển theo đường Phillips lên trên.
2.2. Đường Phillips mở rộng Thực tế ngày nay giá cả đã không hạ xuống theo thời gian do có lạm
phát
25
dự kiến, vì thế đường Phillips đã được mở rộng thêm bằng việc bao gồm cả tỷ
lệ
lạm phát dự kiến và có dạng như sau:
gp = gpe - ε (u-u*) (**)
gpe là tỷ lệ lạm phát dự kiến.
Đường này cho thấy khi thất nghiệp thực tế bằng thất nghiệp tự nhiên thì
lạm phát bằng tỉ lệ dự kiến. Nếu thất nghiệp thực tế cao hơn thất nghiệp tự
nhiên thì tỷ lệ lạm phát thấp hơn tỷ lệ dự kiến. Đường này gọi là đường
Phillips ngắn hạn ứng với thời kỳ mà tỷ lệ lạm phát dự kiến chưa thay đổi.
Trong thời kỳ này nếu có những cú sốc cầu, giả sử tổng cầu tăng lên nhanh,
nền kinh tế đi dọc đường Phillips lên phía trên, lạm phát tăng và thất nghiệp
giảm.
Nếu không có sự tác động của các chính sách thì vì giá tăng lên thì MSr⇓
(do MSr =MSn/P), lãi suất tăng lên và AD dần dần được điều chỉnh trở lại
mức ban đầu ⇒ lạm phát và thất nghiệp sẽ quay trở về trạng thái ban đầu.
Nhưng khi lạm phát đã được dự kiến, tiền lương và các chi phí khác cũng
được điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát nên giá cả dừng lại ở tỷ lệ dự kiến và thất
nghiệp trở lại mức tự nhiên,đường Phillips sẽ dịch chuyển từ PC1 ⇒ PC2. Tại
E, gp ≠0 do gp =gpe. Riêng các cơn sốt cung (như tăng giá dầu lên) sẽ đẩy chi
phí sản xuất và giá cả lên, sản lượng và việc làm giảm xuống. Như vậy, cả
thất nghiệp và lạm phát tăng lên - không có sự đánh đổi giữa thất nghiệp và
lạm phát trong ngắn hạn - đó là thời kỳ đình trệ.
26
gp
Pc1
U* pc2
Đường Phillip mở rộng
Khi chính phủ tăng MS liên tục để giữ cho AD không giảm và mức thất
nghiệp không tăng, nền kinh tế vẫn đạt sản lượng như cũ, nhưng giá cả đã
tăng lên theo tỷ lệ tăng tiền.Như vậy sự điều tiết bằng chính sách tiền tệ và tài
khóa giữ cho nền kinh tế ổn định sản lượng, khi gặp cơn sốt cũng phải trả giá
bằng lạm phát cao hơn.
2.3. Đường Phillips dài hạn (LPC)Trong ngắn hạn, tỷ lệ thất nghiệp thực tế có thể không bằng tỷ lệ thất
nghiệp dự kiến, nhưng trong dài hạn chũng sẽ bằng nhau bởi sự tác động của
các chính sách tài khóa và tiền tệ. Đóa là cơ sở đế xây dựng đường Phillips
dài hạn
0= - ε (u-u*) hay: u = u *
Như vậy, tỷ lệ thất nghiệp thực tế luôn bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
( xét trong dài hạn) cho dù tỷ lệ lạm phát thay đổi như thế nào. Vậy trong dài
hạn lạm phát và thất nghiệp không có mối quan hệ với nhau
2.4. Mối quan hệ giữa tỷ lệ thất nghiệp với tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1998-2012
27
Bảng 3: Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát của Việt nam giai đoạn 1998-2012
Năm Tỷ lệ lạm phát(%) Tỷ lệ thất nghiệp(%)
1998 9.2 6,8
1999 0.1. 6,7
2000 -0.6 6,6
2001 0.8 6.5
2002 4.0 6,3
2003 3.0 5,9
2004 9.5 5,5
2005 8.4 5,3
2006 6.6 4.82
2007 12.6 4.64
2008 19.8 4.65
2009 6.52 4.66
2010 11.75 4.43
2011 18.58 3.60
2012 6.81 3.25
Nguồn: Tổng cục thống kê
Việt Nam tiếp tục thực hiện chính sách mở cửa với các nền kinh tế
trong khu vực trên thế giới với việc tham gia và Asean ngày 28/07/1995 và
thực hiện AFTA từ 1996 -2006. Đang trên đà phát triển cao đến năm 1998,
dưới tác động của khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực bắt đầu từ Thái Lan
đã làm cho tốc độ tăng trưởng giảm xuống, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng cao
trung bình cả giai đoạn là 6.5%/năm. Lạm phát cũng tăng cao nhưng vẫn nằm
trong mức kiểm soát, ở mức dưới 10%/năm.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này Việt Nam hội nhập chưa sâu, và đã có
điểm sáng về xuất nhập khẩu lại có sự chủ động trong nước nên đã nhanh
28
chóng vượt qua khủng hoảng tiếp tục duy trì tốc độ phát triển cao. Giai đoạn
2000 - 2006, Việt Nam tiếp tục duy trì chính sách tăng trưởng kinh tế, tập
trung mục tiêu tăng trưởng kinh tế, hội nhập ngày càng cao vào nền kinh tế
khu vực và toàn cầu. Chính phủ thực hiện nhiều chính sách như kích cầu tăng
trưởng, thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng tạo thêm nguồn vốn cho phát
triển kinh tế cà nhiều công cụ cùng chính sách vĩ mô khác. Kết quả đó là sự
tăng trưởng cao, tạo ra nhiều công ăn việc làm, tăng trưởng tiêu dùng, xuất
nhập khẩu. Lạm phát ở mức âm năm 2000, năm 2001 đã dần tăng lên và ở
mức 7.48%, trung bình cả giai đoạn là 6.1%.
Hậu quả của những chính sách tăng trưởng kinh tế trong suốt những
năm trước cùng với ảnh hưởng to lớn của cuộc khủng hoảng kinh tế bùng
phát trong nửa cuối năm 2007 và đầu năm 2008, nền kinh tế nước ta cũng
chịu ảnh hưởng không kém. Lạm phát chuyển biến xấu, lần đầu tiên lạm phát
vượt mức một con số ở mức 12,6% và lên đỉnh điểm ở năm 2008 ở mức
19,8%, ngược lại tỷ lệ thất nghiệp lại chỉ tăng ở mức rất thấp 0,01%/năm.
Trong năm 2009, những chính sách vĩ mô của Nhà nước thực hiện từ năm
2007 đã bắt đầu có hiệu lực cùng với những tác động tích cực về giá cả cả các
mặt hàng trên thị trường thế giới lạm phát đã được kiểm soát về mức một con
số. Tuy nhiên, tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế vẫn còn, đi kèm với với
năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước còn nhiều bất cập và hiệu quả chưa cao,
vì thế mà lạm phát của năm 2010 và 2011 tiếp tục tăng mạnh và quay trở lại
mức trên 11%/năm. Tỷ lệ thất nghiệp trong 2 năm 2010 và 2011 giảm mạnh,
tỷ lệ thất nghiệp từ 4,43%/năm năm 2009 giảm xuống còn 3.36%/năm năm
2010.
Như vậy, mối quan hệ giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp ở Việt
Nam trong giai đoạn 1997-2007 không tương thích với đường cong Phillips
chuẩn nghĩa là khi tỷ lệ lạm phát tăng thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm. Mối quan
hệ giữa 2 đại lượng này chỉ có thể biểu diễn tương đối phù hợp với đường
cong Phillips khi tính đến yếu tố lạm phát kỳ vọng. Như đã phân tích số liệu ở
29
trên, vào giai đoạn 1998-2003, Chính phủ đã có những biện pháp kích cầu
như thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng và chính sách tài khóa nới lỏng,
những chính sách này có tác động tích cực từ từ lên nền kinh tế, làm cho
khoảng cách giữa tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Kể từ năm
2003-2007, tỷ lệ thất nghiệp luôn thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và đi liền
với nó là tỷ lệ lạm phát bắt đầu ở mức cao. Từ năm 1999-2002, tỷ lệ lạm phát
trung bình là 1.1%, tuy nhiên trong giai đoạn 2004 -2007 tỷ lệ lạm phát trung
bình là 9,3%. Như vậy chính sách tài khóa nới lỏng và tiền tệ mở rộng chỉ có
tác động đến các biến thực như lãi suất, GDP thực ( tăng lên trong giai đoạn
này) trong ngắn hạn, nhưng trong dài hạn các chính sách này sẽ gây ra lạm
phát tăng. Vì thế trong dài hạn không có sự đánh đổi giữa lạm phát và thất
nghiệp.
III. QUAN HỆ GIỮA TỶ LỆ THẤT NGHIỆP VỚI TỶ LỆ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những
nguyên nhân quan trọng là đã sử dụng tốt nguồn lực lượng lao động. Như vậy
tăng trưởng nhanh thì thất ngiệp có xu hướng giảm đi.
Mối quan hệ này được lượng hóa theo quy luật OKUN: Quy luật này
nói lên nếu GDP thực tế tăng 2,5% trong vòng một năm so với GDP tiềm
năng của năm đó thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm đúng 1%.
Ut=Un+¿
Trong đó: Ut là tỷ lệ thất nghiệp năm t
Un là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
Y là sản lượng thực tế
Y* là sản lượng tiềm năng
Mối quan hệ này được lượng hóa theo quy luật OKUN :Khi tốc độ của
Y tăng nhanh hơn tốc độ của y* là 2.5% thì u giảm bớt 1% so với thời kì gốc.
Ký hiệu : ∆u là tỷ lệ thất nghiệp giảm đi
y*là tốc độ tăng trưởng của sản lượng tiềm năng
30
y là tốc độ tăng trưởng của sản lượng thực tế
thì nội dung của quy luật OKUN được biểu diễn như sau :
khi a lớn hơn a* một lượng (y – y* ) thì thất nghiệp thực tế sẽ giảm đi một
lượng là ∆u = (y - y*) 2.5 = -0.4 (y – y*)
tỷ lệ thất nghiệp thực tế sẽ được tính theo công thức :
u1 = uo – 0.4 (y –y*)
Trong đó : uo là tỷ lệ thất nghiệp thực tế đầu kỳ nghiên cứu.
Quy luật OKUN đưa ra mối quan hệ sống còn giữa thị trường đầu ra và thị
trường lao động nó mô tả mối quan hệ giữa vận động ngắn hạn của GDP thực
tế và những thay đổi của thất nghiệp.Mối quan hệ này giúp ta xác định cái giá
phải trả cho thất nghiệp kiểu Keynes (thất nghiệp thiếu cầu ).
31
PHẦN 3: SỰ ĐỘC LẬP CỦA NGÂN HÀNG TRUNG
ƯƠNG
Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển lành mạnh khi có một NHTƯ thực
hiện tốt chức năng điều tiết hệ thống tiền tệ. Ngược lại, những trục trặc trong
hoạt động của NHTƯ cũng có thể gây ra những cú “đột quỵ” đối với cả nền
kinh tế.
Các bằng chứng thực nghiệm cũng như những lý thuyết kinh tế đã chỉ
ra rằng, trong nền kinh tế thị trường, để NHTƯ điều hành chính sách tiền tệ
(CSTT) một cách hiệu quả, tính độc lập của NHTƯ là yếu tố then chốt.
Ở nước ta, từ khi thành lập cho đến nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
là cơ quan của Chính phủ, chịu sự can thiệp hành chính của Chính phủ. Do
vậy, thẩm quyền của NHNN trong xây dựng và điều hành CSTT còn hạn chế,
mức độ độc lập của NHNN còn tương đối thấp. Tính độc lập này trong thời
gian qua đã phần nào được cải thiện, song vẫn chưa cao, khiến việc điều hành
CSTT nhiều khi còn lúng túng, hiệu quả của CSTT chưa được như mong đợi.
Uy tín của một NHTƯ vì thế vẫn chưa cao.
Chính bởi vậy, để tăng cường hiệu quả hoạt động của NHNN, việc
nâng cao tính độc lập của NHNN là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, tính độc lập
của NHTƯ không thể một sớm một chiều có thể có được. Tùy vào điều kiện,
hoàn cảnh và trình độ phát triển kinh tế - chính trị - xã hội của mỗi nước mà
NHTƯ có thể có mức độ độc lập tự chủ khác nhau. Vấn đề đặt ra là, cấp độ
độc lập nào là phù hợp với NHNN trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.
32
I . TÌM HIỂU VỀ TÍNH ĐỘC LẬP CỦA NHTƯ
1.1. Thế nào là một NHTƯ độc lậpĐến nay, trên thế giới đã biết đến 3 mô hình NHTƯ: (1) NHTƯ độc lập
với chính phủ; (2) NHTƯ là một cơ quan thuộc chính phủ; và (3) NHTƯ
thuộc Bộ Tài chính. Trong đó, hai mô hình đầu tiên là phổ biến hơn cả.
Trong suốt những năm 90 của thế kỷ XX, tính độc lập của NHTƯ được
xem như nền tảng của những cải cách về mặt thể chế để giảm sự can thiệp bất
hợp lý của chính trị đến quá trình xây dựng và thực thi CSTT nhằm đạt được
mục tiêu ổn định giá cả. Lý do dẫn đến cuộc cải tổ này đó là việc xây dựng và
điều hành CSTT mà có sự can thiệp chính trị thường chỉ đạt được những mục
tiêu ngắn hạn. Điều này sẽ làm gia tăng tính tạm thời và không bền vững của
kinh tế vĩ mô, đặt biệt là nguy cơ bùng nổ lạm phát và theo đó hạn chế tăng
trưởng kinh tế và làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp.
Tính độc lập của NHTƯ được thể hiện thông qua việc xác định rõ cơ
chế hoạch định CSTT là như thế nào, NHTƯ có được toàn quyền quyết định
việc sử dụng các công cụ để thực thi CSTT hay không cũng như nêu rõ trách
nhiệm của NHTƯ nói chung và Thống đốc nói riêng trong trường hợp mục
tiêu không đạt được như đã đặt ra[2].
Thực tế, NHTƯ các nước trên thế giới hiện nay đều có sự độc lập nhất
định trong hoạt động ở 3 lĩnh vực: Điều hành CSTT, giám sát các tổ chức tín
dụng và quản trị điều hành nội bộ, tuy nhiên, mức độ độc lập là không giống
nhau. Theo một nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF, 12/2004), về cơ
bản, mức độ độc lập của các NHTƯ trên thế giới được phân thành 4 cấp độ,
bao gồm:
- Thứ nhất, độc lập tự chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động: Với mô
hình này, NHTƯ có trách nhiệm quyết định CSTT, chế độ tỷ giá (nếu không
theo chế độ thả nổi tỷ giá) và có quyền quyết định mục tiêu hoạt động chủ yếu
trong số các mục tiêu đã được pháp luật quy định. Đây là cấp độ độc lập tự
chủ cao nhất mà một NHTƯ có thể đạt được mà ví dụ điển hình là Cục Dự trữ
33
Liên bang Mỹ - FED. Tuy nhiên, đây cũng chính là cấp độ độc lập tự chủ khó
vận dụng nhất, vì nó đòi hỏi NHTƯ phải có uy tín cao và năng lực thực thi rất
tốt thì mới có thể biến mục tiêu thành hiện thực, nhất là trong giai đoạn thực
thi CSTT thắt chặt. Bên cạnh đó, cấp độ độc lập tự chủ này cũng đòi hỏi
NHTƯ có khả năng dự báo chuẩn xác trên cơ sở các thống kê kinh tế - tài
chính.
- Thứ hai, độc lập tự chủ trong thiết lập chỉ tiêu hoạt động: Ở cấp độ
này này, NHTƯ cũng được trao trách nhiệm quyết định CSTT và chế độ tỷ
giá. Tuy nhiên, khác với cấp độ độc lập về mục tiêu, trong cấp độ độc lập về
xây dựng chỉ tiêu hoạt động, luật quy định cụ thể một mục tiêu hoạt động chủ
yếu của NHTƯ. Ví dụ, trong Điều lệ tổ chức và hoạt động của NHTƯ Châu
Âu (ECB) quy định, mục tiêu hoạt động hàng đầu của ngân hàng này là “duy
trì sự ổn định giá cả” và ECB được quyết định chỉ tiêu hoạt động. Với cấp độ
độc lập tự chủ này, việc thay đổi mục tiêu duy nhất đòi hỏi phải sửa đổi Luật
NHTƯ.
- Thứ ba, độc lập tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành: Với mô
hình này, chính phủ hoặc quốc hội quyết định chỉ tiêu CSTT sau khi thảo luận
và thỏa thuận với NHTƯ. Khi quyết định được thông qua, NHTƯ có trách
nhiệm hoàn thành chỉ tiêu trên cơ sở được trao đủ thẩm quyền cần thiết để có
thể toàn quyền lựa chọn những công cụ điều hành CSTT phù hợp nhất. Tiêu
biểu cho cấp độ độc lập tự chủ này là Ngân hàng Dự trữ (NHDT) New
Zealand và Ngân hàng Canada. Nói cách khác, NHTƯ được trao đủ thẩm
quyền để lựa chọn các công cụ điều hành một cách linh hoạt và phù hợp nhất
nhằm đạt được các chỉ tiêu đã được thoả thuận giữa chính phủ/quốc hội với
NHTƯ.
- Thứ tư, độc lập tự chủ hạn chế: Là cấp độ độc lập tự chủ thấp nhất,
theo đó chính phủ là nơi quyết định chính sách (cả về mục tiêu lẫn chỉ tiêu
hoạt động) cũng như can thiệp vào quá trình triển khai thực thi CSTT. Đây là
một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHTƯ,
34
nhất là trong việc thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền. Đây chính là
trường hợp của NHNN Việt Nam hiện nay và trên thực tế thì mức độ độc lập
tự chủ này đã từ lâu bộc lộ những mặt hạn chế, bất cập.
Nói chung, các nghiên cứu về NHTƯ thường nghiêng về ý kiến cho
rằng nên giao việc xây dựng, quyết định và thực thi CSTT cho một NHTƯ
chuyên sâu, độc lập và kiên định với mục tiêu hàng đầu là duy trì sự ổn định
giá cả. Điều đó sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của các tác động về mặt chính
sách cũng như uy tín của các nhà hoạch định chính sách. Tất nhiên, tính độc
lập của NHTƯ cần được xây dựng trên cơ sở các quy định pháp lý liên quan.
Việc thiếu tôn trọng pháp luật ở một số nước là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
tình trạng NHTƯ độc lập về mặt hình thức không có khả năng kiểm soát lạm
phát và thực thi các chức năng một cách có hiệu quả
1.2. Mối quan hệ giữa sự độc lập của NHTƯ và các biến số kinh tế vĩ mô chính
Thập niên 1990 đã chứng kiến nhiều nước, trong đó có cả những nước
đã và đang phát triển, thực hiện quá trình chuyển đổi mô hình NHTƯ sang
hướng làm tăng tính độc lập hơn cho tổ chức này. Khuynh hướng này phần
nào chịu ảnh hưởng của các bằng chứng thực nghiệm của các phân tích về
mối quan hệ giữa sự độc lập của NHTƯ với các biến số kinh tế vĩ mô chính.
1.2.1. Quan hệ với lạm phátNghiên cứu của Charles và Timothy (2006)[4] tiến hành đối với các
nước Công nghiệp dựa trên các quan sát giai đoạn 1955 - 1988 và 1988 -
2000 đã cho thấy có mối quan hệ nghịch biến giữa tính độc lập của NHTƯ
với lạm phát bình quân và với sự biến thiên của chỉ số lạm phát. Nghĩa là, hệ
số độc lập của NHTƯ càng cao thì lạm phát bình quân càng thấp đồng thời
chỉ số lạm phát biến thiên càng ít và ngược lại. Đơn giản hơn, những nước mà
NHTƯ có mức độ độc lập tự chủ cao thường có tỷ lệ lạm phát thấp. Hơn nữa,
tác động của tính độc lập của NHTƯ lên tỷ lệ lạm phát là xuyên suốt theo thời
gian.
35
Kết quả này cũng phù hợp với những kết quả nghiên cứu khác của
Cukierman, Webb và Neyapti (1992), Alesina và Summers (1993), Debelle và
Fischer (1994)[5], Eijffinger & De Haan (1996).
Điều này mang lại nhiều ý nghĩa cho Việt Nam bởi kiềm chế lạm phát
đã từng là một ưu tiên chính sách của Chính phủ và trong tương lai lạm phát
vẫn luôn là một nguy cơ lớn tiềm ẩn đối với nền kinh tế Việt Nam.
1.2.2. Quan hệ với thâm hụt ngân sáchNghiên cứu của Pollard (1993) về mối quan hệ giữa tính độc lập của
NHTƯ với cán cân ngân sách trong giai đoạn từ năm 1973 - 1989 đã chỉ ra
rằng ở những nước có NHTƯ độc lập cao thì tỷ lệ thâm hụt ngân sách càng
giảm.
Theo Pollard, khi các quan hệ cho vay theo chỉ định hay ứng vốn cho ngân
sách không còn chịu sự chi phối của chính phủ thì sẽ tạo ra một kỷ luật trong
chi tiêu tốt hơn, qua đó góp phần làm tăng tính minh bạch và tạo ra một cán
cân ngân sách bền vững hơn.
Cùng với lạm phát, thâm hụt ngân sách ở Việt Nam cũng là một thách
thức lớn cho các nhà hoạch định chính sách. Tình trạng thâm hụt ngân sách
hàng năm trên dưới 5% GDP và luôn kéo dài trong nhiều năm đã không
những làm xói mòn tính kỷ luật trong chi tiêu ngân sách mà còn làm tăng
gánh nặng nợ quốc gia (kể cả nợ trong và ngoài nước).
1.2.3. Quan hệ với tăng trưởng kinh tếCác phân tích thực nghiệm tuy chỉ ra rằng không có bằng chứng rõ ràng
về mối quan hệ giữa tính độc lập của NHTƯ với tăng trưởng kinh tế, tuy
nhiên, trên thực tế, giữa hai yếu tố này vẫn tồn tại một mối quan hệ gián tiếp
rất chặt chẽ thông qua tỷ lệ lạm phát và cán cân ngân sách. Cụ thể, duy trì lạm
phát thấp và một cán cân ngân sách cân bằng là những mục tiêu quan trọng vì
nó không những tạo điều kiện cho việc phân bổ có hiệu quả hơn các nguồn
lực của nền kinh tế mà còn giúp duy trì tính ổn định của hệ thống tài chính và
nền kinh tế, góp phần vào tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.
36
Tóm lại, các bằng chứng thực nghiệm cho thấy một mô hình NHTƯ
độc lập hơn sẽ giúp kiểm soát tốt lạm phát và làm giảm thâm hụt ngân sách.
Bên cạnh đó, mặc dù không có mối quan hệ có ý nghĩa về mặt thống kê giữa
mức độ độc lập của NHTƯ với tăng trưởng kinh tế nhưng thực tế cho thấy
một CSTT có hiệu lực và hiệu quả sẽ góp phần vào tăng trưởng kinh tế ổn
định hơn
II. KINH NGHIỆM CỦA NHTƯ MỘT SỐ NƯỚC
2.1. NHTƯ Nhật Bản (BOJ)Hiện tại, hệ số độc lập của BOJ được đánh giá ở mức 2,5 (thấp hơn
nhiều so với Thụy Sỹ, Đức (4) và Mỹ (3,5). Điều này khẳng định BOJ không
phải là một ngân hàng có được sự độc lập tuyệt đối.
Bên cạnh đó, về mặt cấu trúc, BOJ áp dụng mô hình ít phổ biến nhất đó
là BOJ “trực thuộc” Bộ Tài chính Nhật Bản. Do đó, đây không phải là mô
hình phù hợp để chúng ta đi theo. Tuy nhiên, quá trình cải cách, mà đặc biệt
là việc sửa đổi Luật BOJ năm 1997 đã đưa lại cho ngân hàng này một số đặc
điểm quan trọng như tính độc lập và sự minh bạch mà Việt Nam có thể tham
khảo trong quá trình xây dựng một NHNN hiện đại và hiệu quả.
(i) Về tính độc lập
Về mục tiêu: Từ bỏ mục tiêu không rõ ràng trong luật cũ là “tối đa hóa
tiềm năng của nền kinh tế”, luật mới khẳng định: “BOJ có quyền tự chủ về
tiền tệ và kiểm soát tiền tệ” và mục tiêu tối cao là ổn định giá cả (price
stability). Đây cũng chính là mục tiêu phổ biến nhất mà các NHTƯ trên thế
giới đang hướng theo. Việc luật hóa mục tiêu một cách rõ ràng, nhất quán này
nhằm hạn chế việc chính phủ can thiệp.
Về công cụ và ra quyết định thực thi CSTT: Để ra các quyết định liên
quan đến thực thi CSTT, luật cho phép BOJ thiết lập một hội đồng chính sách
với 9 thành viên bao gồm Thống đốc, hai Phó Thống đốc và sáu thành viên
khác (không nhất thiết là người của NHTƯ và điểm quan trọng nhất ở đây là
không cho phép đại diện của chính phủ trong hội đồng này). Các thành viên
37
trong hội đồng sẽ bầu ra một người làm chủ tịch. Hội đồng họp khi được chủ
tịch triệu tập và ra quyết định theo phương thức bỏ phiếu. Chủ tịch có trách
nhiệm thông qua quyết định này để triển khai thực hiện.
Với hội đồng này, kết hợp với mục tiêu được ấn định, BOJ không bị chi
phối và đi lệch hướng trong quyết định thực thi CSTT.
Về vấn đề tài chính: BOJ vẫn chịu rất nhiều sự chi phối của Chính phủ,
ví như quy định về việc hỗ trợ thâm hụt ngắn hạn thông qua các khoản vay
không thế chấp. Tuy nhiên, BOJ được cho cơ chế tài chính riêng trong việc
thiết lập chế độ tiền lương nhằm thu hút nhân sự giỏi.
Về nhân sự: Vị trí Thống đốc được đề xuất bởi Thủ tướng và phải được
Quốc hội thông qua. Các thành viên trong Hội đồng Chính sách do Thủ tướng
bổ nhiệm và phục vụ với thời hạn 5 năm. Đây là một điểm yếu của Luật BOJ
do nhiệm kỳ quá ngắn của Thống đốc và các thành viên khác có thể chi phối
tới việc ra quyết định (trong khi đó, nhìn sang Mỹ, nhiệm kỳ của Thống đốc
lên tới 14 năm). Tuy nhiên, điểm đáng chú ý trong vấn đề nhân sự BOJ là Thủ
tướng không có quyền sa thải Thống đốc và các thành viên hội đồng do bất
đồng quan điểm về CSTT, ngoại trừ các trường hợp vi phạm pháp luật khác.
Nội dung này được thể hiện như một cam kết mạnh mẽ của chính phủ trong
việc duy trì tính độc lập của BOJ quy định tại điều 25 của Luật BOJ.
(ii) Về tính minh bạch
Các nội dung thảo luận chính và các quyết định về CSTT của Hội đồng
Chính sách phải được công khai cho công chúng biết. Ngoài ra, việc báo cáo
định kỳ cho Bộ Tài chính, Quốc hội và trách nhiệm giải trình về điều hành
CSTT cũng được quy định rất rõ ràng, chặt chẽ trong Luật BOJ.
Tuy nhiên, mặc dù BOJ có sự độc lập nhất định trong mục tiêu, công
cụ, nhân sự và tài chính, nhưng Luật BOJ vẫn có một số điểm hạn chế như: (i)
phụ thuộc tương đối với Bộ Tài chính về mặt tổ chức bộ máy; (ii) phải duy trì
quan hệ thường xuyên với chính phủ nhằm “trao đổi” và “chia sẻ” quan điểm
về chính sách; (iii) nhiệm kỳ thống đốc quá ngắn (5 năm); (iv) tài trợ ngân
38
sách (thông qua tín dụng). Tất cả những điều này đã làm cho một số nhà kinh
tế và nhà quan sát vẫn còn nghi ngờ về sự “độc lập hoàn hảo” của BOJ.
2.2. Kinh nghiệm của NHDT New ZealandHầu hết những quốc gia công nghiệp đều đã đạt được thành công trong
việc giảm tỷ lệ lạm phát trong giai đoạn 1955-2000. Một trong những quốc
gia thành công nhất có thể kể đến là New Zealand, với tỷ lệ lạm phát bình
quân giảm từ 7,6% xuống còn 2,7%. Có được thành công này, theo các
chuyên gia, không chỉ đơn thuần do chính sách lạm phát mục tiêu rõ ràng mà
New Zealand thực hiện vào năm 1989, mà chính sự độc lập cao hơn của
NHDT New Zealand là chìa khóa cho thành công trong quản lý lạm phát ở
quốc gia này.
Trước năm 1989, NHDT New Zealand là một “đại lý” của Chính phủ
và được trao rất ít sự độc lập. NHTƯ này chỉ hoạt động với tư cách là cố vấn
cho Chính phủ New Zealand, vì vậy, CSTT của nó chỉ là một công cụ hoạt
động theo ý muốn của Bộ Tài chính. Khi đó, New Zealand là một trong số
những quốc gia có điểm số độc lập của NHTƯ thấp nhất và tỷ lệ lạm phát của
nó đứng vào hàng cao nhất trong các nước công nghiệp. Suốt thập niên 70,
chỉ số lạm phát của New Zealand luôn ở ngưỡng 2 con số, có lúc lên đến
18%.
Năm 1989, hoạt động của NHDT New Zealand đã có bước đột phá với
2 cải cách lớn: (i) thứ nhất, NHDT được độc lập nhiều hơn với Chính phủ; (ii)
thứ hai, đã thiết lập được một chính sách lạm phát mục tiêu rõ ràng mà sau
này nhiều quốc gia đã lần lượt áp dụng.
Cụ thể, để ổn định giá cả, từ năm 1989, NHDT New Zealand đã có một
sự chuyển mình mạnh mẽ trong điều hành. Điều này thể hiện qua việc Quốc
hội New Zealand đã nhanh chóng sửa đổi các đạo luật có liên quan, xây dựng
và hoàn thiện các đạo luật mới trong đó khẳng định “Chức năng chủ yếu của
NHDT New Zealand là trực tiếp xây dựng và hoàn thiện CSTT hướng vào
việc đạt được các mục tiêu kinh tế và duy trì sự ổn định giá cả...”[9]
39
Bên cạnh đó, có thể kể ra một số những thay đổi căn bản trong hoạt
động điều hành CSTT của NHDT New Zealand như:
- Để ổn định giá cả, Quốc hội New Zealand đã đưa chính sách lạm phát
mục tiêu vào trong hiến pháp. Việc lượng hóa mục tiêu lạm phát là kết quả
của sự trao đổi “công bằng, nghiêm túc” giữa Chính phủ và NHDT New
Zealand.
- NHDT New Zealand được phép xem xét tác động và đề xuất những
kiến nghị để giải quyết những tình huống có thể ảnh hưởng đến sự ổn định
giá, như sự biến động của kim ngạch xuất nhập khẩu, các loại thuế,...
- NHDT New Zealand được thực sự độc lập trong việc theo đuổi mục
tiêu CSTT mà không bị hạn chế về mặt kỹ thuật, ngoại trừ trường hợp là việc
thực hiện CSTT phải cân nhắc đến tính hiệu quả và sự ổn định của hệ thống
tài chính. Đặc biệt, ngân hàng này được toàn quyền quyết định các điều kiện
tiền tệ (như các khối tiền M1, M2, M3, lãi suất, tỷ giá,...) trên cơ sở một thỏa
ước với Bộ Tài chính và sự cân nhắc các ý kiến đóng góp của các cơ quan
chức năng khác.
- Trong quá trình quản lý ổn định giá, NHDT New Zealand đã rút ra
một số kết luận sau đây:
+ Việc làm giảm lạm phát và duy trì mức lạm phát kỳ vọng thấp là tương đối
dễ dàng so với việc kiểm soát chặt chẽ mức lạm phát trong phạm vi khung
lạm phát.
+ Việc theo đuổi quá nhiều mục tiêu sẽ hạn chế năng lực và tính chủ động của
một NHTW.
Những chủ trương mới này đã cho phép NHDT New Zealand đề ra
được chính sách lạm phát mục tiêu tương ứng với từng thời kỳ và có được địa
vị pháp lý cũng như tính chủ động cao hơn trong giải quyết các mục tiêu ở
trên. Ngoài ra, nó cũng đưa ra giới hạn chặt chẽ về những tình huống, những
hoàn cảnh mà một Thống đốc có thể bị sa thải. Nói cách khác, việc thay đổi
40
nhiệm kỳ của nội các Chính phủ không ảnh hưởng đến hoạt động của ban
lãnh đạo NHTW.
Điểm số độc lập của NHDT New Zealand đã có sự tăng tốc mạnh mẽ,
từ 25 điểm giai đoạn 1955 - 1988 lên đến 89 ở giai đoạn 1989 - 2000 và được
xem như là một bước ngoặt lớn. Tỷ lệ lạm phát của New Zealand cũng được
ghi nhận đã giảm từ 7,6% (cao hơn mức trung bình của các quốc gia công
nghiệp) trong giai đoạn thứ nhất xuống còn 2,7% (dưới mức trung bình) trong
thời kỳ sau. Một câu hỏi được đặt ra là bao nhiêu sự thành công trong kết quả
này là do sự tăng lên trong mức độ độc lập của NHDT New Zealand?
Các bằng chứng thực nghiệm đã cho thấy có một mối quan hệ thống kê
hết sức rõ ràng giữa tính độc lập của một NHTW và mức độ lạm phát trong
dài hạn. Cụ thể, các kết quả phân tích thực nghiệm đã cho thấy sự giảm xuống
trong tỷ lệ lạm phát ở New Zealand trong giai đoạn nghiên cứu chủ yếu nhờ
vào sự tăng lên mạnh mẽ tính độc lập của NHDT New Zealand. Và người ta
tính toán rằng nếu như New Zealand trong giai đoạn thứ nhất có điểm số độc
lập của NHDT cao như hiện nay thì mức lạm phát sẽ chỉ là 3,4% thay vì 7,6%
như đã tồn tại. Như vậy, một NHTƯ độc lập là cách thức hữu hiệu nhất để
đảm bảo duy trì một mức lạm phát thấp và hợp lý.[10]
III. VỀ TÍNH ĐỘC LẬP CỦA NHNN VIỆT NAM
3.1. Những điểm mới trong Luật NHNN sửa đổi năm 2010Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII vừa thông qua Luật NHNN Việt
Nam (sửa đổi) và Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi). So với Luật NHNN
Việt Nam năm 1997 và Luật NHNN được sửa đổi, bổ sung năm 2003, Luật
NHNN Việt Nam năm 2010 có những điểm mới, tiến bộ sau đây:
Về địa vị pháp lý, NHNN Việt Nam vẫn giữ nguyên như thể hiện trong
Luật NHNN Việt Nam 1997 để phù hợp với thể chế chính trị và Hiến pháp
1992. Tuy nhiên, cách thiết kế trong Luật NHNN 2010 đã thể hiện rõ hơn vị
trí của NHNN là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, đồng thời xác định rõ các
chức năng, nhiệm vụ của NHNN với tư cách là NHTƯ của nước Cộng hòa xã
41
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện các chức năng về quản lý nhà nước trên
lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, qua đó, khẳng định mối quan hệ chặt
chẽ giữa hai chức năng quan trọng của một NHTƯ: Thực thi CSTT và giám
sát an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng. Đây là nội dung quan
trọng đã được thực tiễn chứng minh qua cuộc khủng hoảng tài chính ở các
nước vừa qua. Theo đó, cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ và cơ chế vận hành
được thiết kế, xây dựng theo hướng đảm bảo thực hiện được đồng thời cả hai
chức năng nói trên.
Bên cạnh đó, Luật NHNN Việt Nam năm 2010 có nhiều nội dung thay
đổi so với Luật NHNN Việt Nam 2003 và 1997, đó là:
(i) Cụ thể hóa được vai trò, vị trí của các cơ quan nhà nước trong việc
quyết định và thực thi CSTT quốc gia trên cơ sở phù hợp Hiến pháp, Luật Tổ
chức Chính phủ, trong đó thẩm quyền và tính tự chủ của NHNN trong việc
chủ động, linh hoạt sử dụng các công cụ CSTT đã được xác định rõ ràng.
(ii) Xác định rõ được thẩm quyền của NHNN trong việc giám sát an
toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng thông qua hai hoạt động giám sát và
thanh tra, cùng với việc thành lập Cơ quan Thanh tra, giám sát Ngân hàng
thuộc NHNN để đảm bảo sự quản lý chặt chẽ hơn đối với hệ thống tổ chức tín
dụng.
(iii) Quy định rõ trách nhiệm giải trình, báo cáo của NHNN trước Quốc
hội, Chính phủ và công chúng. Đây là nội dung mới, quan trọng trong hoạt
động của NHTƯ nhằm minh bạch hóa, công khai hóa các quyết định trong
điều hành của mình không những với cơ quan cấp trên mà còn với công
chúng, thị trường.
Ngoài ra, Luật NHNN năm 2010 còn có những nội dung quan trọng
khác đã được điều chỉnh, sửa đổi so với Luật hiện hành trên nhiều lĩnh vực
hoạt động của NHNN, như: lãi suất, kế toán, quan hệ với Kho bạc Nhà nước,
dự trữ ngoại hối, kiểm toán nội bộ, quản lý nhà nước đối với Bảo hiểm tiền
gửi
42
Bên cạnh đó, Luật NHNN Việt Nam 2010 đã đưa ra được nội hàm của
CSTT quốc gia để làm cơ sở phân định thẩm quyền quyết định CSTT quốc
gia của Quốc hội, Chính phủ, cụ thể: “CSTT quốc gia là các quyết định về
tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bao gồm: quyết
định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát; quyết
định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra”. Theo đó,
Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hàng năm được thể hiện thông qua chỉ
số giá tiêu dùng; Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc NHNN quyết định việc sử
dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu CSTT quốc
gia.
3.2. Về sự độc lập tự chủ của NHNN Việt NamVào thời điểm đầu 2008, khi mà tình hình lạm phát đang ở mức rất cao,
thì dường như lúc này tính tự chủ của NHNN Việt Nam được nâng cao.
NHNN đã đưa ra các quyết định một cách nhanh chóng như tăng lãi suất cơ
bản giúp các ngân hàng thương mại (NHTM) có thể nâng lãi suất, đảm bảo
khả năng thanh toán... Nhờ đó, lạm phát đã được kiềm chế phần nào. Tuy
nhiên, không vì thế mà điều này có thể thay đổi được tính độc lập vốn thấp
của NHNN Việt Nam.
Từ khi thành lập cho đến nay, NHNN Việt Nam luôn là một cơ quan
thuộc Chính phủ, là một đơn vị ngang Bộ. Thống đốc NHNN là thành viên
của Chính phủ, có hàm tương đương với Bộ trưởng, được Chính phủ bổ
nhiệm và chịu trách nhiệm trước Chính phủ và Quốc hội.
Chính vì vậy, hoạt động của NHNN chịu sự điều chỉnh rất lớn của
Chính phủ. NHNN chỉ là cơ quan xây dựng dự án CSTT quốc gia để Chính
phủ trình Quốc hội quyết định, trên cơ sở đó, NHNN tổ chức thực hiện và có
trách nhiệm điều hành trong phạm vi đã được Quốc hội và Chính phủ duyệt.
Tương tự, NHNN Việt Nam không được độc lập thiết lập mục tiêu hay xây
dựng chỉ tiêu hoạt động.
43
Xét trong bốn cấp độ độc lập của IMF (2004) thì NHNN Việt Nam nằm ở cấp
độ độc lập thứ tư “độc lập tự chủ hạn chế”. Đây là cấp độ độc lập thấp nhất
của NHTƯ đối với Chính phủ. Điều đó phần nào làm giảm tính linh hoạt
trong việc điều hành thực hiện CSTT quốc gia, thậm chí đôi khi gây ra sự
chậm trễ trong phản ứng chính sách trước các diễn biến khó lường trên thị
trường tài chính - tiền tệ ảnh hưởng đến sự ổn định của đồng tiền. Gần như
mọi hoạt động của NHNN đều phải được sự cho phép của Chính phủ (phát
hành tiền, thực hiện CSTT quốc gia, cho vay ngân sách trung ương, bảo lãnh
cho các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài, cho vay các tổ chức tín dụng trong
trường hợp đặc biệt). Ở đây, NHNN Việt Nam chỉ được coi như là cơ quan
quản lý hành chính nhà nước, giống như các Bộ khác, chứ không phải là một
thiết chế đặc biệt dù tổ chức, hoạt động của NHNN ảnh hưởng rất lớn đến
tính an toàn của hệ thống ngân hàng, sự ổn định của giá trị đồng tiền, an ninh
tiền tệ của một quốc gia.
Bên cạnh đó, do là cơ quan của Chính phủ nên có trường hợp NHNN
phải thực hiện những nhiệm vụ không phù hợp với mục tiêu của CSTT, chẳng
hạn như tái cấp vốn cho các NHTM để khoanh, xoá nợ các khoản vay của các
tập đoàn nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Đây cũng là một trong những
nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHNN, nhất là trong việc
thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền.[12]
Tuy có nhiều điểm đổi mới, song Luật NHNN Việt Nam năm 2010
không có nhiều điểm đột phá về tính độc lập của NHNN trong việc hoạch
định và thực thi CSTT quốc gia. Mặc dù định hướng chiến lược của NHNN
vẫn là NHTƯ độc lập trong điều hành chính sách và độc lập trong việc lựa
chọn mục tiêu tiền tệ. Tuy nhiên, NHNN hiện tại vẫn chưa thực sự đạt được
mức độ độc lập theo cả hai tiêu chuẩn này. Về mặt chính sách, Chính phủ
hàng năm quy định khá cụ thể, chi tiết cho NHNN, từ tổng phương tiện thanh
toán đến tăng trưởng tín dụng và xu hướng tỷ giá. Còn về lựa chọn mục tiêu
tiền tệ thì theo quy định của Hiến pháp Quốc hội hàng năm sẽ giao chỉ tiêu
44
cho NHNN. Do chưa đạt được tính dẫn dắt thị trường nên doanh nghiệp và
người dân thường nhìn vào quan điểm của Chính phủ và của Quốc hội về lạm
phát và tăng trưởng để điều chỉnh hành vi của mình hơn là nhìn vào NHNN.
Tuy nhiên, cũng phải nhấn mạnh rằng, tính độc lập của NHNN Việt
Nam đang dần được cải thiện. Như trên đã đề cập, Khoản 4, Điều 3 Luật
NHNN Việt Nam số 46/2010/QH12 ngày 29/06/2010 của Quốc hội quy định
“Thống đốc NHNN quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều
hành để thực hiện mục tiêu CSTT quốc gia theo quy định của Chính phủ”.
Điều 10 trong Luật NHNN Việt Nam năm 2010 cũng nêu rõ: “Thống đốc
NHNN quyết định việc sử dụng công cụ thực hiện CSTT quốc gia, bao gồm
tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở
và các công cụ, biện pháp khác theo quy định của Chính phủ”.
Đây là điểm mới nhất trong Luật NHNN 2010 xét trên khía cạnh độc
lập tự chủ của NHNN. Ở một mức độ nào đó, có thể nói, NHNN Việt Nam
đang tiến dần từ cấp độ độc lập tự chủ thứ tư “độc lập tự chủ hạn chế” lên cấp
độ độc lập tự chủ thứ ba “độc lập tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành”.
Với sự đổi mới này, NHNN sẽ có được sự linh hoạt và độc lập nhất định trong
khâu thực hiện các mục tiêu đề ra của CSTT. Nhờ đó, thị trường tiền tệ và giá
trị đồng tiền được kỳ vọng ổn định hơn, vai trò của một NHTƯ cũng được thể
hiện rõ nét hơn và uy tín của NHNN cũng được nâng cao hơn.
IV. MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM
Hiện nay, NHNN là một cơ quan hành chính nhà nước với tất cả các
ràng buộc, quy định của hành chính. Với cơ cấu như vậy, khó có thể độc lập
và có chính sách kiên quyết và đủ sức nặng. Do đó, tăng cường tính độc lập
cho NHNN là mục tiêu cần hướng tới nhằm đạt được hiệu quả trong thực thi
CSTT và ổn định thị trường tài chính tiền tệ nói chung. Vấn đề đặt ra là
NHNN cần độc lập như thế nào, mức độ ra sao cho phù hợp với điều kiện
thực tiễn về thể chế chính trị - kinh tế - xã hội của Việt Nam.
4.1. Quan điểm
45
Thứ nhất, cần phải nhấn mạnh rằng, sự độc lập này không thể đến từ
một quyết định thuần tuý, từ văn bản giấy tờ mà phải đến từ việc thiết kế hệ
thống, thể chế, nội dung của NHNN, cấu trúc lại bộ máy của NHNN.
Thứ hai, sự độc lập này chỉ có tính chất tương đối. Nói “tương đối” là
bởi có những cái cho NHNN độc lập họ cũng không dám độc lập vì nó phải
nằm trong một hệ thống, nhất là trong hệ thống quản lý kinh tế của chúng ta
những chỉ tiêu kinh tế đan xen nhau, những chỉ tiêu kinh tế của NHNN còn
phụ thuộc vào cả nền kinh tế. Cho nên điều quan trọng là tạo điều kiện cho
NHNN độc lập để họ điều hành tốt, thực hiện đúng chức năng của họ, còn cái
gì đòi hỏi có sự phối hợp thì cũng không nên quá đòi hỏi sự độc lập ở đây.
Thứ ba, vấn đề của NHNN Việt Nam không nằm ở chỗ lựa chọn mô
hình NHTƯ nào mà lựa chọn cấp độ độc lập tự chủ nào cho phù hợp với
NHNN trong bối cảnh hiện nay.
Với cấp độ độc lập thứ nhất, “độc lập chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt
động”, ngoài các lý do về trình độ phát kinh tế, tính đặc thù về thể chế chính
trị và hệ thống pháp luật, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nói chung và
hệ thống tài chính nói riêng đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ, việc
dự báo dựa trên các biến số kinh tế - tài chính là rất khó khăn. Bên cạnh đó,
năng lực thống kê và dự báo của chúng ta hiện vẫn còn rất hạn chế. Vì vậy,
mức độ độc lập này không phù hợp với NHNN Việt Nam ít nhất là trong thời
gian trung hạn.
Với cấp độ độc lập thứ hai, “độc lập tự chủ trong thiết lập chỉ tiêu hoạt
động”, tương tự như lý do vừa nêu ở trên, cấp độ độc lập tự chủ này cũng tỏ
ra không phù hợp với NHNN Việt Nam trong giai đoạn trước mắt. Tuy nhiên,
trong tương lai, cấp độ độc lập này có thể được cân nhắc, xem xét khi điều
kiện cho phép (các biến số kinh tế - tài chính đã trở nên ổn định hơn; năng lực
thống kê, dự báo được cải thiện).
Theo ý kiến của các chuyên gia, tại thời điểm hiện nay, cấp độ “Độc
lập tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành” tỏ ra phù hợp với NHNN Việt
46
Nam hơn cả, đặc biệt trong bối cảnh việc điều hành CSTT ở nước ta đã từng
bước được đổi mới theo nguyên tắc thị trường, dần loại bỏ các công cụ trực
tiếp và sử dụng các cụng cụ gián tiếp. Hơn nữa, mức độ độc lập tự chủ này
cho phép dung hoà giữa mục tiêu của CSTT với các mục tiêu của chính sách
kinh tế trong một giai đoạn nhất định.[14]
4.2. Các biện pháp4.2.1. Trong ngắn hạn
Trong thời gian trước mắt, nhằm tăng tính độc lập của NHNN trong
khuôn khổ các quy định của Luật NHNN 2010, cần tập trung vào các vấn đề
sau:
Một là, xác định rõ mục tiêu hoạt động cho NHNN. Điều 4, Luật NHNN 2010
có nêu rõ: “Hoạt động của NHNN nhằm ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm an
toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm sự an
toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Có thể nói, các mục tiêu
hoạt động của NHNN được quy định trong Luật có phần “ôm đồm”. Bởi lẽ,
mục tiêu tối cao của NHTƯ là bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống ngân
hàng và ổn định giá trị đồng tiền, những mục tiêu còn lại là hệ quả của việc
đạt được các mục tiêu nêu trên. Chính bởi vậy, chỉ nên xác định mục tiêu của
NHNN đó là “bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng và ổn định
giá trị đồng tiền trong nền kinh tế”.[15] Điều này đặc biệt có ý nghĩa vì mục
tiêu có rõ ràng thì NHTƯ mới có thể kiểm soát được rủi ro trong lĩnh vực
quản lý của mình. Hơn nữa, như trên đã đề cập, việc theo đuổi quá nhiều mục
tiêu sẽ hạn chế năng lực và tính chủ động của một NHTƯ.
Hai là, NHNN phải thực sự được độc lập trong quyết định thực thi
chính sách và việc lựa chọn công cụ điều hành. Thống đốc phải được trao
quyền quyết định trong việc thực thi các CSTT và tự chịu trách nhiệm về các
quyết định đó mà không cần phải thông qua Chính phủ. Đồng thời, NHNN
phải được trao đầy đủ thẩm quyền trong việc lựa chọn các công cụ điều hành
47
CSTT một cách linh hoạt và phù hợp nhất cũng như kiểm soát tất cả các công
cụ có ảnh hưởng tới các mục tiêu của CSTT, nhất là về vấn đề chống lạm
phát, để có thể đạt được các mục tiêu CSTT mà Chính phủ hay Quốc hội đã
đề ra. Điều này không những góp phần làm tăng tính chủ động cho NHNN mà
còn làm giảm độ trễ ngoài của CSTT - một yếu tố quan trọng làm giảm tính
hiệu lực của chính sách. Tất nhiên, song song với các thẩm quyền được trao,
NHNN phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội về kết quả điều hành CSTT và
thực hiện các chức năng của NHTƯ.
Ba là, NHNN cần độc lập hơn trong quan hệ với ngân sách. Để đảm
bảo hiệu quả của CSTT, những nhiệm vụ khác như tạm ứng chi ngân sách hay
tài trợ trực tiếp cho thâm hụt ngân sách của Chính phủ cũng nên được quy
định lại để Thống đốc có quyền từ chối theo đúng mục tiêu thâm hụt ngân
sách được Quốc hội phê duyệt hàng năm và chủ động trong việc điều hành
cung, cầu tiền trên thị trường. Hơn nữa, cần có qui định cụ thể về chức năng
“Là ngân hàng của Chính phủ” của NHNN theo hướng NHNN sẽ không cho
ngân sách vay trực tiếp. NHNN chỉ cấp tín dụng gián tiếp cho Chính phủ
thông qua việc cho ngân sách vay trên thị trường thứ cấp có hạn mức và lấy
trái phiếu Chính phủ làm tài sản đảm bảo khi cho các NHTM vay.[16]
Bốn là, trao cho NHNN quyền chủ động quyết định về tài chính và độc
lập tương đối về mặt nhân sự (bổ nhiệm và miễn nhiệm). Để thực thi tốt
CSTT, NHNN cần phải thu hút được một đội ngũ đông đảo những chuyên gia
đầu ngành về tài chính, ngân hàng. Muốn vậy, NHNN phải cạnh tranh được
với các NHTM về môi trường làm việc và chế độ lương thưởng. Do đó,
Thống đốc cần được trao quyền trong việc quy định sử dụng những khoản
thặng dư trong hoạt động ngân quỹ, chuyển tiền điện tử hay quản lý quỹ dự
trữ ngoại hối quốc gia, để có thể có cơ chế tiền lương phù hợp hơn. Hơn nữa,
các khoản thu chi sẽ hợp lý hơn khi NHNN được quyền tự chủ trong thu chi
đặc biệt là trong việc quản lý biên chế các chi nhánh, cục, vụ, viện trực thuộc.
Có như vậy thì NHNN mới có đủ nguồn lực để thu hút đội ngũ cán bộ, công
48
chức có đủ năng lực, trình độ để đảm bảo thực thi chức năng, nhiệm vụ một
cách có hiệu quả nhất.
Ngoài ra, để nâng cao vai trò và chất lượng của sự phản biện trong việc
thi hành chính sách, Thống đốc cần được trao quyền chủ động trong việc
thành lập Ban tư vấn CSTT, trong đó quy tụ những chuyên gia đầu ngành có
kinh nghiệm quản lý và tư vấn tại các NHTƯ của các nước phát triển am hiểu
về điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam.
Năm là, về trách nhiệm giải trình: Nâng cao tính độc lập và tự chủ của
NHNN đối với các mục tiêu và quyết định chính sách phải đi kèm với trách
nhiệm giải trình đầy đủ và minh bạch. Thống đốc NHNN theo định kỳ hoặc
theo đề nghị của Quốc hội phải có trách nhiệm giải trình trước Quốc hội về
các quyết định chính sách trong giới hạn chức năng và thẩm quyền được giao.
Sáu là, cần thiết lập các quy định pháp lý về mối quan hệ giữa NHNN với
Chính phủ nhằm bảo đảm hoạt động của NHNN hỗ trợ tốt cho các chương
trình kinh tế của Chính phủ, cụ thể:
+ NHNN tham gia vào việc soạn thảo các chương trình, chính sách kinh tế
của Chính phủ và đề đạt ý kiến của mình về các quyết định của Chính phủ; tư
vấn cho Chính phủ về những vấn đề quan trọng liên quan đến nhiệm vụ và
thẩm quyền của NHNN.
+ NHNN và các Bộ, ngành thuộc Chính phủ duy trì cơ chế trao đổi, cung cấp
thông tin để theo dõi, nắm bắt kịp thời các diễn biến vĩ mô của nền kinh tế.
Bảy là, tách bạch chức năng điều hành và quản trị. Điều hành NHNN được
thực hiện bởi Ban điều hành, còn quản trị nên được thực hiện bởi Hội đồng
quản trị (hoặc Hội đồng quản lý) NHNN. Hội đồng quản trị là cơ quan hoạch
định chính sách trong lĩnh vực tiền tệ, làm việc theo nguyên tắc tập thể, còn
Ban điều hành có trách nhiệm đưa các chính sách đó vào cuộc sống. Nếu
NHNN được thiết kế theo mô hình quản trị này sẽ tạo ra được phương thức
quản trị ngân hàng mang tính tổng thể, định hướng chiến lược lâu dài, tránh
được hiện tượng thụ động, mang nặng tính hành chính và mệnh lệnh trong
49
điều hành. Bên cạnh đó, hoạt động của Ban điều hành cũng phải bảo đảm tính
minh bạch thông qua các hoạt động kiểm toán, kiểm soát nội bộ của NHNN.
4.2.2. Trong dài hạnTrong tương lai dài hơn, có thể hướng tới:
Một là, thực hiện “Chính sách lạm phát mục tiêu”. Lạm phát mục tiêu
là một trong những khuôn khổ CSTT mà theo đó, NHTƯ hoặc Chính phủ
thông báo một số mục tiêu trung và dài hạn về lạm phát và NHTƯ cam kết
đạt được những mục tiêu này. Để làm được điều này, NHNN phải có quyền
đặc biệt để theo đuổi mục tiêu lạm phát và tự mình đặt ra các công cụ của
CSTT. Ngoài ra, người dân cũng phải được thông báo về khuôn khổ CSTT và
việc thực hiện CSTT.
Hai là, tăng cường tính độc lập về mặt tổ chức nhân sự của NHNN.
Theo đó, nhiệm kỳ của ban lãnh đạo NHTƯ có thể dài hơn nhiệm kỳ của
Chính phủ và Quốc hội, hoặc xen kẽ giữa các nhiệm kỳ của Chính phủ. Như
vậy, quá trình ra quyết định của NHNN sẽ không bị ảnh hưởng bởi chu kỳ
thành lập Chính phủ, chu kỳ lập kế hoạch kinh tế. Thống đốc sẽ không bị ảnh
hưởng một khi Chính phủ thay đổi nhân sự do hết nhiệm kỳ.
50